Upload
lyhanh
View
222
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
1
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ
VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
************
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC
VĂN HÓA - XÃ HỘI XÃ
(Khu vực Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc)
QUYỂN II: KỸ NĂNG TÁC NGHIỆP
Hà Nội, năm 2012
2
MỤC LỤC
TT TÊN BÀI TRANG
Bài 1 Quy trình xây dựng kế hoạch quản lý, tổ chức các hoạt động
văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã khu vực
Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc.
1
Bài 2 Kỹ năng giao tiếp và phối hợp của công chức văn hóa - xã hội
xã với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên địa bàn xã. 16
Bài 3 Kỹ năng xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng
(bản, buôn, phum sóc...) văn hóa trên địa bàn xã khu vực Trung
du, Miền núi, vùng Dân tộc.
35
Bài 4 Kỹ năng quản lý, hướng dẫn việc cưới, việc tang và lễ hội trên
địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc.
64
Bài 5 Kỹ năng quản lý và hướng dẫn tổ chức các hoạt động trong các
thiết chế văn hóa trên địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi,
vùng Dân tộc.
93
Bài 6 Kỹ năng quản lý và hướng dẫn tổ chức các hoạt động thông tin,
tuyên truyền, cổ động, trang trí khánh tiết trên địa bàn xã khu
vực Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc.
110
Bài 7 Kỹ năng quản lý, hướng dẫn tổ chức phong trào văn hóa, văn
nghệ quần chúng trên địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi,
vùng Dân tộc.
135
Bài 8 Kỹ năng quản lý, hướng dẫn tổ chức phong trào thể dục thể thao
quần chúng trên địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi, vùng
Dân tộc.
157
Bài 9 Kỹ năng quản lý, hướng dẫn khai thác giá trị các di sản văn
hóa phục vụ hoạt động du lịch trên địa bàn xã khu vực Trung
du, Miền núi, vùng Dân tộc.
176
Bài 10 Kỹ năng quản lý, hướng dẫn và tổ chức công tác gia đình trên
địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc.
188
Bài 11 Kỹ năng xây dựng kịch bản Chương tình hội nghị, kịch bản
Chương trình các sự kiện văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch
trên địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi, vùng Dân tộc.
204
Bài 12 Kỹ năng quản lý và hướng dẫn các dịch vụ văn hóa, gia đình,
thể thao và du lịch trên địa bàn xã khu vực Trung du, Miền núi,
vùng Dân tộc.
234
3
Bài 13 Kỹ năng kiểm tra phát hiện các hành vi vi phạm hành chính về
hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống bao lực
gia đình trên địa bàn xã.
256
Bài 14 Kỹ năng thống kê, phân tích, tổng hợp số liệu, viết báo cáo về
hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã.
274
Bài 15 Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin đối với công chức văn
hóa - xã hội xã.
289
Bài 16 Kỹ năng soạn thảo văn bản hành chính cho công chức văn hóa
- xã hội xã.
317
1
QUY TRÌNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH QUẢN LÝ, TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, GIA ĐÌNH, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
TS. NSƯT. NGUYỄN VĂN KHÁNH
Ths. HOÀNG THỊ BÌNH
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về quy trình xây dựng Kế hoạch
quản lý, Kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa
bàn xã
Nâng cao kỹ năng quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và
du lịch trên địa bàn xã cho công chức văn hóa-xã hội xã
2. Yêu cầu:
Học viên nắm vững Quy trình xây dựng Kế hoạch quản lý, Kế hoạch tổ chức các
hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã
B. NỘI DUNG
1.Khái quát thực trạng quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch trên địa bàn xã hiện nay.
1.1. Ưu điểm:
Trong những năm qua công tác quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, thể
thao, gia đình và du lịch ở các vùng nông thôn rộng lớn của tổ quốc ngày càng đi vào
nề nếp và có hướng phát triển tốt đẹp. Nổi bật là công tác quản lý, gìn giữ, kế thừa và
phát triển các giá trị truyến thống, các di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Nhiều hoạt
động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch mang tính truyền thống đã được phục hồi
và phát triển. Các hoạt động mới phát sinh cũng có sức hút mạnh mẽ đối với công
chúng, nhờ các hoạt động hữu ích này mà năng lực sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, thể
dục, thể thao, gia đình và du lịch của quần chúng nhân dân ở các địa phương cũng
được phát huy một cách tối đa. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc được đông đảo
quần chúng nhân dân coi trọng, các hoạt động thể dục, thể thao, gia đình và du lịch
luôn gắn kết với nhau phục vụ đắc lực nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo các sản phẩm
văn hóa-nghệ thuật, văn hóa-thể thao, văn hóa-gia đình, văn hóa-du lịch của các tầng
lớp nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội của từng địa phương phát triển, làm
phong phú thêm đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân.
Việc tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch của các cấp
chính quyền địa phương, nhất là cấp xã vào những năm gần đây cũng gặt hái được
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
2
nhiều thành quả rất đáng khích lệ. Các hoạt động ấy đã và đang có sức mạnh thu hút
đông đảo quần chúng nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia. Nhiều hoạt động văn
hóa, thể thao, gia đình và du lịch mang tính truyền thống: Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo,
dân ca, dân vũ, thơ ca, hò, vè, trò diễn dân gian, mỹ thuật, âm nhạc, ẩm thực, văn hóa-
văn nghệ, thể dục-thể thao quần chúng... của các dân tộc không những được phục hồi
mà còn phát triển mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần yêu nước, yêu quê hương, phát huy tính
gắn kết cộng đồng, dân chủ làng xã, truyền thống đoàn kết các dân tộc, tưởng nhớ và
tôn vinh những người có công với nước, có nghĩa với dân, năng lực sáng tạo văn hóa
của nhân dân được chú trọng, làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng ổn
định và diện mạo văn hóa của từng địa phương thêm khởi sắc.
1.2. Nhược điểm:
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa,
thể thao, gia đình và du lịch tại các địa phương trong thời gian qua cũng đã bộc lộ
nhiều vấn đề bất cập. Đáng lưu ý là khuynh hướng thương mại hóa lễ hội, bệnh thành
tích, cá độ trong các hoạt động thể dục, thể thao… các hoạt động liên quan đến lĩnh
vực gia đình chưa được quan tâm đúng mức, các hoạt động văn hóa-du lịch khi tổ chức
đã coi nhẹ các yếu tố văn hóa tinh thần, mà nghiêng về các hoạt động dịch vụ, đặt
trọng tâm vào mục tiêu kinh tế. Do đó vấn nạn ăn xin, cướp giật, mất an ninh trật tự, tệ
nạn xã hội, mê tín dị đoan, và vệ sinh môi trường tại nơi diễn ra các hoạt động văn
hóa, thể thao, gia đình và du lịch ở các địa phương chưa được quan tâm, giải quyết
triệt để gây phản cảm đối với nhân dân và bức xúc dư luận xã hội.
Nguyên nhân có nhiều nhưng tựu trung lại là do đội ngũ cán bộ công chức văn
hóa-xã hội xã chưa có khả năng tham mưu với Cấp uỷ, UBND xã về việc xây dựng Kế
hoạch Quản lý và Kế hoạch Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du
lịch, nên có lúc, có nơi không tránh khỏi sự lúng túng bị động và kém hiệu quả. Nhìn
chung trình độ và năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ công chức văn hóa - xã hội xã
hiện nay rất ít người có trình độ, năng lực để có thể chủ động, tích cực trong công tác
xây dựng Kế hoạch Quản lý và Kế hoạch Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch, nên chưa tìm ra được những phương án, giải pháp xử lý tình huống kịp
thời, nhằm đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống các tệ nạn xã hội
và vệ sinh môi trường nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch
trên địa bàn xã.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, không có con đường nào khác là Nhà nước và
các cấp chính quyền địa phương cần phải nhanh chóng có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã, giúp họ có kiến thức và kỹ năng xây dựng Kế
hoạch Quản lý và Kế hoạch Tổ chức các hoạt động động văn hóa, thể thao, gia đình và
du lịch để tham mưu cho cấp ủy và UBND xã quản lý và tổ chức tốt các hoạt động văn
hóa, thể thao, gia đình và du lịch trên địa bàn xã.
Chuyên đề bài giảng“Kỹ năng xây dựng Kế hoạch Quản lý, Kế hoạch Tổ chức
các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã” được xây dựng
nhằm mục đích giúp cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã có những kiến thức và kỹ năng
cơ bản trong việc xây dựng Kế hoạch Quản lý, Kế hoạch Tổ chức, phát huy thế mạnh
3
của các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch của từng địa phương, góp phần
nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân, giúp cho nhân dân biết gạn đục
khơi trong, biết trân trọng giữ gìn những giá trị đạo đức truyền thống cao quí của gia
đình, dòng tộc, nói rộng ra là của xứ sở quê hương đúng với cốt cách, tâm hồn và tinh
thần yêu nước nồng nàn của cả dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước, làm cho đời sống văn hoá, thể thao, gia đình và du lịch của mỗi
địa phương thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn và ngày càng phát triển.
2. Những khái niệm cơ bản.
2.1. Khái niệm về Kế hoạch:
Kế hoạch được hiểu là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình,
có nội dung chương trình, thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể, xác
định phương án triển khai và định hướng phát triển các hoạt động văn hoá, thể thao,
gia đình và du lịch của từng địa phương, nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu đã đề ra.
Kế hoạch hay, có chất lượng là kế hoạch sát với nhu cầu thực tế khách quan, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết của cấp Uỷ, Hội đồng nhân dân và UBND xã đối với
các hoạt động này.
2.1.1 Nội dung của kế hoạch bao gồm các yếu tố sau:
- Xác định mục tiêu, yêu cầu công việc (Vì mục đích gì phải làm công việc này?
Công việc này mang lại lợi ích gì?)
- Xác định nội dung công việc ( Nội dung công việc đó là gì?)
- Xác định mức độ công việc ( Quan trọng, không quan trọng, khẩn cấp )
- Xác định cách thức thực hiện công việc (Làm bằng cách nào?)
- Xác định phương pháp kiểm soát, kiểm tra ( Ai kiểm tra, kiểm tra tổng thể hay
kiểm tra từng bộ phận trọng yếu của công việc?)
- Xác định nguồn lực thực hiện ( Nhân lực, vật lực và tài lực?)
- Xác định thời gian, thời hạn công việc (Khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc?)
- Xác định địa điểm (Làm ở đâu ?)
2.1.2 Phân loại Kế hoạch:
a) Kế hoạch ngắn hạn
Kế hoạch ngắn hạn thường được giới hạn từ 3 tháng đến 6 tháng hoặc 1 năm và
chia nhỏ kế hoạch ra theo ngày, tuần, tháng, quý, 6 tháng, cả năm. Kế hoạch ngắn hạn
thường có mối quan hệ hữu cơ với kế hoạch trung hạn và dài hạn. Đây là dạng kế hoạch
mang tính thực tế và có những nhiệm vụ cụ thể.
b) Kế hoạch trung hạn và dài hạn
Kế hoạch trung hạn và dài hạn là dạng kế hoạch có mục tiêu và thời gian thực hiện
từ 3 đến 5 năm, mang tính tổng hợp, cần phải huy động và sử dụng các nguồn lực để
tham gia thực hiện.
4
2.2. Khái niệm về Quản lý
Quản lý là thuật ngữ chỉ “Hoạt động có ý thức của con người nhằm sắp xếp tổ
chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra… các quá trình phát triển xã hội và hoạt
động của con người để hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội, đạt được
mục tiêu xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất”.
Có thể nói quản lý vừa là một nghệ thuật, vừa là một khoa học. Đó là nghệ thuật
mà người lãnh đạo quản lý khiến cho cấp dưới của mình làm việc hăng say hơn, hiệu
quả cao hơn. Còn khoa học chính là cách mà người lãnh đạo quản lý thực hiện được
nghệ thuật quản lý ấy. Có thể nói xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, giám sát là bốn
yếu tố căn bản của công tác quản lý.
2.3. Khái niệm về Tổ chức
Tổ chức là một hệ thống hoạt động có ý thức của con người nhằm đưa một tập
hợp các nhân tố đang từ trạng thái tự do, rời rạc hoặc chưa hoàn chỉnh trở thành một
chỉnh thể mang một cấu trúc và những chức năng chung, nhằm thực hiện mục đích và
mục tiêu công việc đặt ra có hiệu quả cao.
Từ khái niệm nêu trên ta có thể hiểu tổ chức là một hoạt động có ý thức của các
cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong việc tập hợp các thành tố nhỏ lẻ, rời rạc
của các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch thành một hoạt động lớn hoàn
chỉnh về nội dung, và được sắp xếp theo một trình tự thời gian nhất định nhằm mục
đích tối cao là truyền tải những giá trị nhân văn sâu sắc và giá trị thẩm mỹ cao đẹp của
những hoạt động hữu ích ấy đến với nhân dân, làm thỏa mãn đời sống tinh thần của
nhân dân đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bổn phận của người dân đối
với việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa cơ sở của địa phương trong tình hình
hiện nay.
2.4. Kế hoạch quản lý và kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch trên địa bàn xã.
Xây dựng Kế hoạch quản lý và Kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao,
gia đình và du lịch có cơ sở khoa học, đạt chất lượng cao bao giờ cũng mang lại hiệu quả
thiết thực cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Đó là một trong những nhiệm vụ
quan trọng đối với cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã.
Thông thường cứ mỗi khi người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã làm tốt công
tác quản lý thì bao giờ cũng khởi đầu bằng việc xây dựng được kế hoạch hay, có chất
lượng, sát với thực tế. Mối quan hệ giữa kế hoạch và quản lý là mối quan hệ biện chứng,
hữu cơ, khắng khít với nhau không thể tách rời. Do đó, để công tác quản lý có hiệu quả,
đòi hỏi người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã phải có kỹ năng xây dựng kế hoạch
quản lý và kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch trên địa
bàn xã.
Kế hoạch Quản lý và Kế hoạch Tổ chức có vai trò và tầm quan trọng như một
kim chỉ nam hướng các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch ở mỗi địa
phương đi đúng quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật
của Nhà nước; Đồng thời còn là động lực thúc đẩy các hoạt động này phát triển đi lên
5
trong hiện tại cũng như tương lai. Với vai trò là người “giúp Ủy ban nhân dân xã trong
việc quản lý và tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, văn hóa văn nghệ quần chúng,
các câu lạc bộ, lễ hội truyền thống, bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh ở địa phương, điểm vui chơi giải trí và xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa, ngăn chặn việc truyền bá tư tưởng phản động, đồi trụy dưới hình thức văn hóa,
nghệ thuật và các tệ nạn xã hội khác ở địa phương” người cán bộ công chức văn hóa-văn
hội xã cần phải nắm vững và sử dụng thành thạo các quy trình về việc xây dựng Kế
hoạch Quản lý, Kế hoạch Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch.
3. Quy trình xây dựng Kế hoạch Quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao,
gia đình và du lịch trên địa bàn xã.
Quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch trên địa bàn xã là
hoạt động có ý thức của UBND xã, cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã và các thành
viên có liên quan nhằm sắp xếp, tổ chức, chỉ huy, điều hành, hướng dẫn thực hiện,
kiểm tra quá trình diễn ra các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch trên địa
bàn xã sao cho đúng với quan điểm đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, định hướng phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, phù hợp
với đời sống văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh
thần cho nhân dân.
3.1. Quy trình xây dựng Kế hoạch Quản lý ngắn hạn (hằng năm).
Hàng năm, cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã cần lập một bảng Kế hoạch Quản
lý các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch trên địa bàn xã có nội dung cụ thể
để tham mưu cho UBND xã quản lý tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du
lịch trên địa bàn xã. Trong bảng Kế hoạch Quản lý cần nắm vững các hoạt động mang
tính truyền thống, thường niên hoặc mới phát sinh, trên cơ sở đó lên phương án quản lý
nhằm tổ chức thực hiện các hoạt động ấy đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Bước 1: Lập bảng kế hoạch quản lý
Để lập bảng kế hoạch quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch
tại địa phương một cách bài bản và khoa học, người cán bộ công chức-văn hóa, xã hội
xã cần phải tiến hành khảo sát, thống kê số lượng các hoạt động văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch mang tính truyền thống, thường niên hoặc mới phát sinh trong những
năm gần đây theo trình tự thời gian cụ thể trong năm, mỗi hoạt động đều phải có đầy
đủ các thông tin thiết yếu sau đây:
1. Tên hoạt động; Chủ thể tổ chức hoạt động
2. Thời gian tổ chức hoạt động: Ghi rõ ngày, tháng, năm, đến ngày, tháng, năm.
3. Chủ thể tổ chức: (Ai là người tổ chức, cá nhân, tập thể, Ban quản lý)
(Ví dụ; Lễ Hội Tháp Bà PONAGA Nha Trang diễn ra từ ngày, tháng năm, đến
ngày, tháng, năm… do Ban quản lý Tháp Bà tổ chức)
4. Địa điểm hoạt động: Ghi địa điểm cụ thể (xã, thôn, đội, ấp, làng…)
5. Ý nghĩa, mục đích, nội dung, hình thức và quy mô hoạt động
6
6. Các loại hình hoạt động:
- Lễ hội truyền thống; Lễ hội dân gian; Lễ hội Tôn giáo
- Hội thi, hội diễn văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng
- Các giải thể thao quần chúng: Bóng đá, bóng bàn, cầu lông, vật, kéo co, đá gà…
- Các giải văn hóa, văn nghệ quần chúng (ca hát, múa, vẽ, kể chuyện, ngâm thơ,
diễn kịch gia đình, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu
thảo hiền.
- Lịch mời đoàn văn nghệ chuyên nghiệp, đội chiếu bóng lưu động.
- Các hội nghị tôn vinh những người tốt, việc tốt, những người có mô hình làm
nông nghiệp giỏi, những người có nhiều đóng góp xây dựng đời sống văn hóa - xã hội
ở địa phương…
- Các diễn đàn quảng bá tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, sức khỏe giới tính,
phòng chống HIV/AIDS, phòng chóng ma túy, mại dâm, bạo lực gia đình và các tệ nạn
xã hội khác.
- Các sự kiện quảng bá tuyên truyền về việc lập Quỹ khuyến học. Phát động
phong trào thi đua khen thưởng, tôn vinh các em học sinh, sinh viên ở xã có nhiều
thành tích trong học tập và trao học bổng cho các em.
- Phối hợp với Ban Văn hóa xã, Ban chỉ đạo toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, tổ chức Hội nghị quán triệt và động viên quần chúng nhân dân thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
- Các hoạt động dịch vụ văn hóa, dịch vụ du lịch phục vụ đời sống văn hóa - xã
hội tại địa phương.
-Các hoạt động thông tin tuyên truyền quan điểm đường lối của Đảng và Chính
sách Pháp luật của Nhà nước tại địa phương
- Phát động phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, gia đình,
thôn, xóm, ấp, bản, làng, xã văn hóa.
- Các hoạt động khác thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao gia đình và du lịch mới
phát sinh tại địa phương vào những năm gần đây…
Bước 2: Lập báo cáo tổng thể trình UBND xã xem xét phê duyệt
Sau khi hoàn thiện bảng kế hoạch quản lý, cán bộ công chức văn hóa - xã hội xã
có trách nhiệm lập bản báo cáo tổng thể Kế hoạch quản lý các hoạt động trong năm
trình UBND xã xem xét phê duyệt, trên cơ sở đó triển khai thực hiện.
Bước 3: Xây dựng phương án quản lý
Căn cứ vào mục đích, ý nghĩa, nội dung, hình thức, quy mô tổ chức và tầm quan
trọng của mỗi hoạt động mà xây dựng phương án quản lý sao cho phù hợp, nhằm đảm
bảo an toàn cho các hoạt động. Trên cơ sở Bảng Kế hoạch quản lý các hoạt động văn
hóa, thể thao, gia đình và du lịch trong năm đã được UBND xã phê duyệt, người công
chức văn hóa-xã hội xã phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan đoàn thể có chức
7
năng xây dựng phương án quản lý cho từng hoạt động trình UBND xã phê duyệt để
triển khai thực hiện. Làm được điều đó mới có thể chủ động xử lý và giải quyết kịp
thời mọi tình huống phức tạp nảy sinh ở những nơi đông người mà chúng ta thường
gặp như: Mất an ninh trật tự, say xỉn, đánh lộn, cướp giật, và các tệ nạn xã hội khác…
Đồng thời tích cực tham mưu đề xuất các phương án quản lý tối ưu nhằm hạn chế
tiêu cực, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ vệ sinh môi trường, giữ gìn an ninh trật tự,
giúp cho các chủ thể tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu của kế hoạch hoạt động đề ra.
2. Quy trình xây dựng Kế hoạch quản lý trung hạn và dài hạn (3 đến 5 năm).
Đối với các địa phương, đây là dạng kế hoạch trung hạn và dài hạn cần phải có
phân kỳ, phân hạn, xác định tiến độ thực hiện cụ thể theo từng năm và tổng thể 3 hoặc
5 năm; Đòi hỏi người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã phải có trình độ xây dựng
kế hoạch 3 năm hoặc 5 năm cụ thể, rõ ràng nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản đã đề
ra. Nội dung kế hoạch tổng thể 3 năm hoặc 5 năm cần quan tâm đến những hoạt động
tiêu biểu của từng năm. Thông thường là những sự kiện tổ chức trọng điểm phục vụ
nhiệm vụ chính trị theo năm chẵn, nhằm phát huy sức mạnh của toàn đảng, toàn quân
và toàn dân cùng nhau chung sức chung lòng, phát huy truyền thống cách mạng xây
dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Hoặc tổ chức các Lễ hội dân gian, Lễ hội truyền
thống có tác động to lớn và ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm và tư tưởng của nhân dân
trong thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước. Mặt khác cũng có thể xây dựng kế hoạch
3 năm hoặc 5 năm trên tinh thần định hướng cho sự phát triển, vận động mọi nguồn
lực xã hội cùng tham gia …
Từ kết quả của việc khảo sát, nắm vững số lượng và chất lượng các hoạt động văn
hóa, thể thao, gia đình, du lịch được tổ chức thường niên hoặc mới phát sinh vào những
năm gần đây trên địa bàn xã, căn cứ trình tự thời gian các hoạt động diễn ra hàng năm,
căn cứ vào chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội 5 năm của địa phương, khi
xây dựng kế hoạch quản lý 3 năm hoặc 5 năm đối với các hoạt động văn hóa, thể thao,
gia đình và du lịch, yêu cầu người cán bộ công chức xã hội xã phải có trình độ nhận
định, phân tích, đánh giá hoạt động nào gắn liền với các sự kiện chính trị, kỷ niệm các
ngày lễ lớn của đất nước, dân tộc, hoạt động nào hướng tới mục đích quảng bá tuyên
truyền các thế mạnh của địa phương, để chủ động xây dựng phương án quản lý. Để việc xây
dựng kế hoạch quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch từ 3 năm đến 5
năm đạt kết quả tốt, người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã cần phải nắm vững quy trình
xây dựng kế hoạch quản lý tổng thể có thời hạn từ 3 đến 5 năm theo các bước sau:
Bước 1: Xây dựng bảng kế hoạch quản lý trung hạn và dài hạn
Nhận định, phân tích, đánh giá, chọn lựa và xác định những hoạt động văn hóa,
thể thao, gia đình và du lịch trọng tâm của từng năm, trên cơ sở đó xây dựng bảng kế
hoạch quản lý tổng thể từ 3 năm đến 5 năm để tham mưu cho UBND xã. Các yếu tố để
nhận xét, đánh giá, chọn lựa và xác định các hoạt động trọng tâm:
1.1. Mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của hoạt động,
1.2. Chủ thể quản lý
1.3. Hoạt động thuộc lĩnh vực gì?
8
1.4. Tên của hoạt động.
1.5. Nội dung, hình thức, quy mô.
1.6. Mục tiêu đề ra:
1.7. Khó khăn, thuận lợi, nguồn nhân lực, nguồn kinh phí.
1.8. Kế hoạch và tiến độ triển khai thực hiện theo từng năm.
Bước 2: Phân loại các loại hình hoạt động tiêu biểu từng năm, và bất cứ loại
hình nào cũng lần lượt theo các trình tự sau đây mà xây dựng kế hoạch tổng thể 3 năm
hoặc 5 năm.
a) Các hoạt động văn hóa
Ví dụ:
- Năm 2011: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động văn hóa tiêu biểu gì?
Những hoạt động văn hóa tiêu biểu ấy có giá trị gì về việc quảng bá tuyên truyền và
phát huy các thế mạnh của địa phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các
phương án quản lý.
- Năm 2012: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động văn hóa trọng tâm gì?
Những hoạt động ấy có giá trị thúc đẩy đời sống tinh thần và vật chất của người dân
trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các
phương án quản lý.
- Năm 2013: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động văn hóa quan trọng gì?
Những hoạt động ấy hướng tới việc huy động mọi nguồn lực xã hội để xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2014: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động văn hóa tiêu biểu gì?
Những hoạt động tiêu biểu ấy có giá trị gì cho sự phát triển kinh tế văn hóa- xã hội ở địa
phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2015: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động văn hóa trọng tâm gì?
Những hoạt động trọng tâm ấy có tác dụng gì đến niềm tự hào của xứ sở quê hương?
Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
b) Các hoạt động thể dục, thể thao:
Ví dụ:
- Năm 2011: Về lĩnh vực Thể dục, Thể thao dự kiến tập trung tổ chức những hoạt
động tiêu biểu gì? Những hoạt động tiêu biểu ấy có giá trị gì về việc quảng bá tuyên
truyền và phát huy các thế mạnh của địa phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo
các phương án quản lý.
- Năm 2012: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Thể dục, Thể thao trọng
tâm gì? Những hoạt động ấy có giá trị thúc đẩy đời sống tinh thần và vật chất của
người dân trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo
các phương án quản lý.
9
- Năm 2013: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Thể dục, Thể thao quan
trọng gì? Những hoạt động ấy hướng tới việc huy động mọi nguồn lực xã hội để xây
dựng quê hương ngày càng giàu đẹp? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương
án quản lý.
- Năm 2014: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Thể dục, Thể thao tiêu
biểu gì? Những hoạt động tiêu biểu ấy có giá trị gì cho sự phát triển kinh tế văn hóa-
xã hội ở địa phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2015: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Thể dục, Thể thao trọng
tâm gì? Những hoạt động trọng tâm ấy có tác dụng gì đến niềm tự hào của xứ sở quê
hương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
c) Các hoạt động gia đình:
Ví dụ:
- Năm 2011: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động lĩnh vực gia đình tiêu
biểu gì? Những hoạt động gia đình tiêu biểu ấy có giá trị gì về việc phòng chống bạo
lực gia đình, xây dựng gia đình văn hóa? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các
phương án quản lý.
- Năm 2012: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Gia đình trọng tâm gì?
Những hoạt động ấy có giá trị thúc đẩy đời sống tinh thần và vật chất của người dân
trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các
phương án quản lý.
- Năm 2013: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Gia đình quan trọng gì?
Những hoạt động ấy hướng tới việc huy động mọi nguồn lực xã hội để xây dựng quê
hương ngày càng giàu đẹp? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2014: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Gia đình tiêu biểu gì?
Những hoạt động tiêu biểu ấy có giá trị gì cho sự phát triển tình làng, nghĩa xóm và
đời sống kinh tế văn hóa- xã hội ở địa phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo
các phương án quản lý.
- Năm 2015: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Gia đình trọng tâm gì?
Những hoạt động trọng tâm ấy có tác dụng gì đến niềm tự hào của dòng tộc, xứ sở quê
hương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
d) Các hoạt động du lịch:
Ví dụ:
- Năm 2011: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Du lịch tiêu biểu gì?
Những hoạt động Du lịch tiêu biểu ấy có giá trị gì về việc quảng bá tuyên truyền và
phát huy các thế mạnh của địa phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các
phương án quản lý.
- Năm 2012: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Du lịch trọng tâm gì?
Những hoạt động ấy có giá trị thúc đẩy đời sống kinh tế của người dân trong thời kỳ
xây dựng nông thôn mới? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
10
- Năm 2013: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Du lịch quan trọng gì?
Những hoạt động ấy hướng tới việc huy động mọi nguồn lực xã hội phát triển các dịch
vụ văn hóa, du lịch để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp? Dự kiến kế hoạch
quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2014: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Du lịch tiêu biểu gì?
Những hoạt động tiêu biểu ấy có giá trị gì cho sự phát triển kinh tế văn hóa- xã hội ở địa
phương? Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
- Năm 2015: Dự kiến tập trung tổ chức những hoạt động Du lịch trọng tâm gì?
Những hoạt động trọng tâm ấy có tác dụng gì đến niềm tự hào của xứ sở quê hương?
Dự kiến kế hoạch quản lý, kèm theo các phương án quản lý.
Bước 3: Xây dựng phương án quản lý
Xây dựng Phương án quản lý các hoạt động trọng tâm trong bảng kế hoạch quản lý
trung hạn và dài hạn đã được UBND xã phê duyệt nhằm mục đích:
- Đảm bảo số lượng, chất lượng nội dung, chương trình, mục tiêu của các hoạt
động đã có trong bảng kế hoạch.
- Đưa ra phương án quản lý tối ưu nhằm hạn chế tiêu cực, phòng chống các tệ
nạn xã hội, bảo vệ vệ sinh môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, giúp cho các chủ thể tổ
chức thực hiện thắng lợi mục tiêu của kế hoạch hoạt động đề ra.
- Tổ chức lực lượng quản lý: Công an, dân quân tự vệ. thanh niên tình nguyện,
các tổ chức chính trị, đoàn thể…đảm bảo an toàn.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các hoạt động diễn ra theo kế hoạch.
- Xây dựng các phương án quản lý dự phòng, để kịp thời giải quyết các sự cố bất
ngờ có thể xảy ra như hỏa hoạn, mất điện đột xuất, hư hỏng trang thiết bị, tình trạng
cấp cứu, mất an ninh trật tự, tai nạn nghề nghiệp …..
Quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch tại địa phương là trách
nhiệm của Cấp ủy, chính quyền và toàn thể cộng đồng dân cư sinh sống tại địa phương.
Người cán bộ công chức văn hóa, xã hội xã không thể một mình mà có thể quán xuyến
hết các hoạt động cần phải quản lý. Nhưng cán bộ, công chức xã hội xã có một vị trí và
vai trò rất quan trọng là tham mưu đề xuất cho cấp ủy và chính quyền địa phương cách
thức quản lý các hoạt này sao cho ngày càng đi vào nề nếp, văn minh, tiến bộ, trên cơ sở
kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp, phát triển đi lên, góp phần thúc đẩy các hoạt
động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch ở địa phương phát triển ngày càng phong
phú, sinh động và hấp dẫn, phục vụ đắc lực đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân
trong thời kỳ xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Muốn làm được điều đó người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã phải tự trang
bị cho mình những kiến thức hiểu biết cần thiết để có thể phận loại các loại hình hoạt
động nêu trên một cách chính xác, rõ ràng. Trên cơ sở đó căn cứ vào nội dung, hình
thức và quy mô hoạt động tham mưu cho Cấp ủy và chính quyền địa phương loại hình
nào Chính quyền địa phương trực tiếp quản lý, loại hình hoạt động nào UBND xã giao
cho các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội quản lý, Loại hình nào giao cho các tổ chức
11
xã hội nghề nghiệp quản lý; Loại hình hoạt động nào giao cho các doanh nghiệp quản
lý; Loại hình hoạt động nào do chính bản thân người cán bộ công chức văn hóa-xã hội
xã trực tiếp theo dõi và quản lý. Kèm theo kế hoạch quản lý các hoạt động này người
cán bộ công chức văn hóa- xã hội xã có trách nhiệm cung cấp và hướng dẫn cho các
chủ thể quản lý sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước thực hiện
nhiệm vụ quản lý các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch ở địa phương ngày càng
đạt hiệu quả cao.
3. Quy trình xây dựng Kế hoạch Tổ chức các hoạt động văn hóa, gia đình,
thể thao và du lịch trên địa bàn xã.
Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch là một trong những hoạt động
nhằm bảo vệ, gìn giữ, khai thác và phát triển các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình
và du lịch trên địa bàn xã, trên cơ sở đó quảng bá, giới thiệu, tuyên truyền các giá trị
thẩm mĩ, nhân văn của các hoạt động ấy đến với nhân dân, làm thỏa mãn đời sống tinh
thần của nhân dân. Để thực hiện được điều đó người cán bộ công chức văn hóa - xã
hội xã cần phải có kỹ năng xây dựng Kế hoạch Tổ chức các hoạt động hữu ích này một
cách bài bản, khoa học.
Để xây dựng Kế hoạch Tổ chức đạt hiệu quả cao cần phải xác định được mục
tiêu, mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tổ chức, trên cơ sở đó đề ra những
quyết định đúng đắn về việc chọn lựa các phương án và các giải pháp tổ chức triển
khai thực hiện mang tính khả thi cao. Xây dựng Kế hoạch Tổ chức cần nắm vững các
bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung hoạt động
Tìm hiểu, nghiên cứu và xác định nội dung hoạt động sắp tổ chức? Thuộc lĩnh
vực nào? Nhằm mục đích ý nghĩa gì? Đối tượng hoạt động là ai? Hoạt động được tổ
chức thường niên hay hoạt động mới? Ai là chủ thể đứng ra tổ chức: Chính quyền địa
phương, doanh nghiệp, đoàn thể hay cá nhân tổ chức? Nội dung, quy mô, hình thức tổ
chức? Mục tiêu tổ chức?
- Đối với hoạt động được tổ chức thường niên
Cần nghiên cứu ưu khuyết điểm và những bài học kinh nghiệm của việc tổ chức
hoạt động này được rút ra từ năm trước, căn cứ vào đời sống kinh tế xã hội và tình
hình thực tiễn của địa phương, xác định phương án xây dựng Kế hoạch Tổ chức sát với
nhu cầu thực tế. Tham mưu, đề xuất, xin ý kiến chỉ đạo của ủy Ban Nhân Dân xã, trên
cơ sở đó hướng dẫn chủ thể tổ chức hoặc trực tiếp đứng ra tổ chức hoạt động sao cho
chất lượng, hiệu quả của hoạt động của năm nay tiến bộ hơn năm trước.
- Đối với hoạt động mới
Cần xem xét nghiên cứu toàn bộ kế hoạch, nội dung chương trình, kịch bản tổ chức
các hoạt động mới do Chủ thể tổ chức xây dựng có ảnh hưởng gì đến phong tục tập
quán, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương hay không? Nếu là hoạt động
có tài trợ thì cần xác định xem đối tượng tài trợ là ai? Quyền lợi Nhà tài trợ như thế nào?
Hoạt động được tổ chức có làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc hay
12
không? Mang lại lợi ích tinh thần và vật chất như thế nào cho quần chúng nhân dân ở
địa phương?
Nhận xét, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của kế hoạch, kịch bản, nội dung chương
trình tổ chức do chủ thể tổ chức xây dựng. Nếu thấy có điều gì bất cập, trực tiếp góp ý và
hướng dẫn chủ thể tổ chức chỉnh sửa bổ sung hoàn thiện Kế hoạch Tổ chức. Báo cáo xin ý
kiến chỉ đạo và quyết định của UBND xã.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch tổng thể
Từ mục đích, ý nghĩa, nội dung hoạt động chuẩn bị tổ chức xác định mục tiêu của
hoạt động đó, tiến hành xây dựng kế hoạch tổng thể, có sự sắp xếp, bố trí hợp lý và
khoa học cho từng loại công việc. Cần phải xác định rõ chủ đề của từng loại hình hoạt
động mà trọng tâm là nội dung, hình thức và quy mô của kế hoạch tổ chức: Phong trào
văn hóa văn nghệ quần chúng, Lễ hội dân gian hay giải đua thuyền truyền thống… Đối
với hoạt động được tổ chức mới cần phải được quan tâm đến quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm của Nhà tổ chức đối với chính quyền địa phương.
Bước 3: Xây dựng kế hoạch chi tiết, phân chia tiến độ triển khai thực hiện
hoạt động từ đầu cho đến khi kết thúc
Đây là công cụ giúp cho việc kiểm tra, giám sát tiến độ triển khai thực hiện các
công việc có hiệu quả nhất. Đảm bảo cho những người thực hiện các công việc trong
cùng một kế hoạch tổng thể không để bất cứ một giai đoạn nào của công việc bị trễ hạn,
hoặc kém chất lượng, từ đó gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng các
công việc khác trong cùng một Kế hoạch tổng thể.
Bảng kế hoạch về tiến độ triển khai thực hiện sự kiện không chỉ là một bảng danh
sách thật dài với những công việc cần phải làm mà nó còn là một thời khóa biểu liệt kê
những công việc chủ yếu, thời gian thực hiện được miêu tả phân tích một cách cụ thể, để
các thành viên tham gia thực hiện dễ dàng.
Bước 4: Tổ chức hoạt động
- Thành lập Ban Tổ chức (cân nhắc các thành viên tham gia sao cho chính xác và
đầy đủ).
- Lên kế hoạch tiến độ thời gian cho hoạt động và thực hiện kế hoạch tiến độ thời
gian của hoạt động ấy một cách chính xác.
Hãy cân nhắc cách sắp xếp các công việc sao cho hợp lý, khoa học. Thông thường
có những công việc bắt buộc cần phải có thời gian, cũng có những công việc khẩn cấp,
những công việc tịnh tiến theo lộ trình, những công việc cần phải làm ngay mà không
cần có quỹ thời gian để thực hiện. Vấn đề quan trọng là Ban tổ chức phải xác định được
công việc nào cần phải làm trước, công việc nào giải quyết sau. Việc giải quyết các công
việc có khoa học sẽ tiết kiệm được thời gian và nâng cao chất lượng các công việc.
Ngược lại sẽ làm hạn chế hiệu quả của công việc.
- Phân chia thời hạn cho mỗi công việc trong kế hoạch tổng thể.
Có những việc cần phải làm trước, nếu không sẽ gây đình trệ đến những công
việc khác. Trong khi thời gian và nguồn lực có hạn Ban tổ chức cần phải sắp xếp công
13
việc theo thứ tự ưu tiên để giải quyết trước. Ví dụ cần phải lên kế hoạch cụ thể, chi tiết
cho nội dung chương trình, gửi giấy mời tới đại biểu trước một tuần, thông báo trên
phương tiện truyền thông của xã, hoặc làm áp-phích quảng cáo hay pa-nô treo tại
những địa điểm dễ thu hút sự chú ý của công chúng trước một tuần, hay nửa tháng
diễn ra hoạt động…
- Xây dựng kịch bản chương trình, nội dung cụ thể cho hoạt động.
Các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch được tổ chức thường mang các màu
sắc riêng biệt khác nhau đôi khi hòa nhập với nhau tạo thành một hoạt động lớn mang
màu sắc phong phú, đa dạng.
Để phân biệt trong việc tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du
lịch tại mỗi địa phương, tạo ra sự phong phú, sinh động, hấp dẫn cuốn hút người dân
trong việc tổ chức, cán bộ công chức văn hóa - xã hội xã căn cứ mục tiêu chương trình,
thời gian tổ chức chương trình, quy mô chương trình để xây dựng kịch bản nội dung
chương trình.
Xây dựng kịch bản chương trình cho mỗi hoạt động phải súc tích, diễn đạt ngắn
gọn, hàm chứa nhiều ý nghĩa văn hóa, nhân văn nhưng phải mang sắc thái riêng, đặc
trưng của hoạt động đó…
- Phân công, phân nhiệm cho các thành viên trong Ban Tổ chức sao cho phù hợp
với trình độ, năng lực của từng người.
Vì quỹ thời gian có hạn, Ban tổ chức sẽ không cùng một lúc làm được tất cả mọi
công việc cần làm. Vì vậy điều cần thiết là phải biết phân chia công việc cho các thành
viên trong Ban tổ chức rành mạch, rõ ràng, tránh sự chồng chéo, ảnh hưởng đến công việc
chung. Cũng có những thành viên năng lực hạn chế, thực hiện công việc không đạt yêu
cầu… Nhưng sẽ thật lãng phí và sai lầm nếu Trưởng Ban tổ chức ôm đồm quá nhiều việc,
thậm chí phải ngồi xếp từng gói quà hay ghi từng tờ giấy mời trong khi việc của Trưởng
ban cần làm là theo dõi, quản lý, giám sát, đôn đốc tiến độ thực hiện kế hoạch của các
thành viên để không có hạng mục nào, nhân sự nào đi chệch hướng ra khỏi kế hoạch đã
xác định.
- Lập phương án dự phòng và phương án giải quyết các sự cố bất ngờ có thể xảy ra.
Các vấn đề hỏa hoạn, mất điện đột xuất, hư hỏng trang thiết bị, tình trạng cấp
cứu, mất an ninh trật tự, tai nạn nghề nghiệp… Đó là những vấn đề thường hay gặp
phải trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các sự kiện. Người cán bộ công chức
văn hóa-xã hội xã khi tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn
xã cần phải lưu ý tính đến các phương án dự phòng, để kịp thời giải quyết các sự cố
bất ngờ có thể xảy ra.
- Dự kiến về tài chính cho hoạt động chuẩn bị tổ chức.
Cần phải dự kiến về tài chính và lên dự toán cho các hoạt động chuẩn bị được tổ
chức tại địa phương. Đặt câu hỏi về tài chính lấy từ nguồn nào? Có cá nhân, đơn vị, tập
thể nào hỗ trợ, tài trợ hay không? Dự kiến về tài chính là một khâu vô cùng quan trọng
trong quá trình tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch tại địa
14
phương, nếu không dự kiến được nguồn tài chính dù có kế hoạch tốt, kịch bản hay các
hoạt động cũng không thể tổ chức được.
- Lên danh sách khách mời.
Cần lên danh sách khách mời ngay từ khi dự định tổ chức hoạt động, hoạt động
chuẩn bị được tổ chức phù hợp với đối tượng khách mời nào, với giới nào? Độ tuổi
nào? Lên danh sách khách mời được coi là khâu khá quan trọng trong quá trình tổ
chức, nếu các hoạt động được tổ chức mà không có khách mời tham dự thì tổ chức cho
ai? Tổ chức để làm gì?
- Dự kiến số người tham dự.
Căn cứ vào mục tiêu, mục đích, ý nghĩa, nguồn tài chính, danh sách khách mời
của hoạt động dự định tổ chức, người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã cần phải
hình dung và dự kiến được số người tham dự, ví dụ: Dự định tổ chức hoạt động A sẽ
thu hút trên 1.000 người tham dự, thì địa điểm tổ chức không thể là nhà văn hóa xã,
thôn hoặc nếu chỉ có 100 người quan tâm thì việc tổ chức hoạt động tại một sân vận
động có sức chứa 10.0000 người là một sự lãng phí cực độ… càng dự đoán chính xác
số lượng người tham dự bao nhiêu thì việc tổ chức các hoạt động càng có cơ hội để
thành công bấy nhiêu.
- Đốc thúc, kiểm tra lại toàn bộ các công việc đã được phân công cho các thành
viên trong Ban Tổ chức, tiến hành lắp ráp các chương trình theo Bảng tiến độ công
việc đã lập.
Trong các thành viên của Ban Tổ chức cũng có người có đặc tính chần chừ, do dự
chờ đến gần hết thời gian mới thực hiện công việc được phân công, làm cho Ban tổ
chức phải lo lắng. Ví dụ thứ 4 này họ được giao phải hoàn thành Maket trang trí hội
trường phục vụ hội nghị Hội Phụ nữ trước ngày thứ 2 tuần sau, thì họ không làm ngay
mà đợi đến sát ngày đó mới làm. Vì vậy kết quả là họ làm ẩu, Ma két trang trí kém
chất lượng, có nhiều lỗi, cần phải chỉnh sửa, mất quá nhiều thời gian, công sức… Việc
này có nhiều nguyên nhân, có thể do họ bận rộn quá nhiều công việc gia đình, hoặc do
họ tự tin vào năng lực của chính họ, hay đơn giản hơn là họ có cá tính thích chần chừ.
Bất luận như thế nào thì đó là một cá tính và thói quen xấu. Hãy kiểm tra giám sát và
có biện pháp khắc phục những cá tính và thói quen xấu ấy của các thành viên cùng
tham gia trong Ban tổ chức (nếu có) để công việc được thuận lợi.
- Tiến hành tổ chức hoạt động.
- Kết thúc hoạt động.
Bước 5. Kết thúc hoạt động
Ban Tổ chức họp để nhận xét đánh giá ưu khuyết điểm và mức độ thành công hay
thất bại của hoạt động đó. Rút ra những bài học kinh nghiệm từ những việc làm được đến
những việc chưa làm được. Lập Báo cáo gửi UBND xã kết quả của hoạt động. Báo cáo
cần nêu rõ ưu điểm nổi bật và những hạn chế cần phải khắc phục, kèm theo là những kiến
nghị, đề xuất (nếu có).
***************
15
Câu hỏi thảo luận
1. Kế hoạch là gì? Nội dung của Kế hoạch, phân loại kế hoạch (Liên hệ trong
việc xây dựng kế hoạch các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch thực tế tại
địa phương)?
2. Quản lý là gì? Tổ chức là gì? Việc xây dựng Kế hoạch quản lý, Kế hoạch tổ
chức các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch trên địa bàn xã có tầm quan trọng như
thế nào?
3. Trình bày Quy trình xây dựng kế hoạch quản lý các hoạt động văn hóa, thể
thao và du lịch trên địa bàn xã (Liên hệ thực tế tại địa phương).
4. Trình bày Quy trình xây dựng kế hoạch Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể
thao và du lịch trên địa bàn xã (Liên hệ thực tế tại địa phương).
Tài liệu tham khảo
1. TS. Nguyễn Hữu Thức: Khắc phục những lệch chuẩn trong tổ chức và quản lý
lễ hội Tạp chí Tuyên giáo, số 3, Trang điện tử Tuyên giáo ngày 26 tháng 05 năm 2011
2. Nhật Anh: Quản lý lễ hội: “Nước chảy đá… chưa mòn”, Theo www. ktdt.com, vn
3. Thế Phương: Vấn nạn núp bóng lễ hội. Trang điện tử Hà nội mới online, ngày
27 tháng 7 năm 2010.
4. Song Chi: Thấy gì qua các Lễ hội ở Việt Nam. Caulacbonhabaotu do. Word
press. com
5. TS. Nguyễn Hữu Thức: Một số vấn đề đặt ra trong quản lý và tổ chức lễ hội
hiện nay. Bản tin Quản lý Văn hóa. Thể thao và Du lịch, số 20 (2011)
16
KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ PHỐI HỢP CỦA CÔNG CHỨC
VĂN HÓA - XÃ HỘI XÃ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC
VÀ CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
Ths. LẠI THỊ LAN PHƯƠNG
Ths. HOÀNG THỊ BÌNH
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về Kỹ năng giao tiếp và phối
hợp công tác.
- Vận dụng kiến thức cơ bản về Kỹ năng giao tiếp và phối hợp công tác vào hoạt
động quản lý và tổ chức ở địa phương mình .
2. Yêu cầu:
Học viên nắm được kiến thức cơ bản về Kỹ năng giao tiếp và phối hợp công tác,
đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
I. Giao tiếp hành chính
1. Những vấn đề chung về giao tiếp hành chính
1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình dựa trên sự trao đổi giữa hai hay nhiều người sử dụng
một mã cử chỉ, từ ngữ để có thể hiểu được thông tin được chuyển từ người phát tin đến
người nhận tin.
1.2. Đặc điểm của giao tiếp hành chính
Quá trình xác lập mối quan hệ và sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều người với nhau
nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định của quản lý hành chính. Trên cơ sở thu nhận thông
tin, hai bên sẽ xây dựng, điều chỉnh mục tiêu, hành vi qua sự tác động lẫn nhau nhằm
đem lại lợi ích nhiều nhất.
Các loại giao tiếp: Nghe, nói, đọc, viết
Hoạt động giao tiếp trong hành chính diễn ra qua hai mối quan hệ hành chính cơ bản:
Thứ nhất, giao tiếp trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước: gồm giao tiếp giữa
cấp trên với cấp dưới và giao tiếp giữa cán bộ, công chức với nhau.
Thứ hai, giao tiếp giữa cán bộ, công chức đại diện cho cơ quan hành chính nhà
nước với tổ chức và công dân.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
17
Giao tiếp hành chính cần đảm bảo về hình thức và cách thức giao tiếp: Không ba
hoa, luộm thuộm, ăn nói tuỳ tiện, xuê xoa, gia đình chủ nghĩa, cũng như thói hách
dịch, cửa quyền, nạt nộ nhân dân... mà phải luôn tuân theo những chuẩn mực xác định,
hướng tới những hành vi giao tiếp chuẩn mực, văn hoá, văn minh, lịch sự, luôn phải có
thái độ vui vẻ, hoà nhã, “kính trọng nhân dân, hoà nhã và thân ái với đồng sự”, giải
quyết công việc cho dân một cách khách quan, minh bạch vẫn là những chuẩn mực
giao tiếp của một nền hành chính hiện đại.
Giao tiếp trong quản lý hành chính nhà nước luôn cần được cân nhắc, tính toán,
chọn lọc thông điệp ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, đồng thời luôn phải chọn những loại
hình giao tiếp thích hợp nhằm đem lại hiệu quả tối ưu trong quản lý.
1.3. Vai trò của giao tiếp hành chính
Giao tiếp giữ vai trò là công cụ, phương tiện để đạt mục đích của hoạt động. Chất
lượng và hiệu quả hoạt động tùy thuộc vào mức độ chất lượng của quá trình giao tiếp
được tiến hành. Khi giao tiếp chia sẻ lợi ích cho cả hai bên tham gia thì cả hai đều cảm
thấy tốt hơn, đều muốn cùng nhau làm việc, xây dựng được giải pháp tốt nhất để giải
quyết vấn đề cùng quan tâm.
1.4. Các hình thức giao tiếp hành chính
Để thực hiện tốt hoạt động giao tiếp trong quản lý hành chính nhà nước, cần hiểu
rõ tính chất của từng loại hình giao tiếp khác nhau. Chính vì vậy cần phân loại giao
tiếp theo những tiêu chí khác nhau.
Theo tính chính thức của cuộc giao tiếp: Có giao tiếp chính thức và giao tiếp
không chính thức.
Theo số lượng các chủ thể tham gia giao tiếp: Có giao tiếp giữa các cá nhân và
giao tiếp tập thể.
Theo tính chất của tiếp xúc: Có giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp (như qua
văn bản, thư từ, sách báo, điện thoại, mạng internet...
Theo phương tiện giao tiếp: Có giao tiếp bằng ngôn từ (bằng hình thức âm thanh
nói hoặc viết với kết quả cuối cùng là tạo ra những ngôn bản) hoặc giao tiếp phi ngôn
từ (biểu tượng, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, trang phục v.v) hoặc kết hợp phi ngôn từ với
ngôn từ (vừa nói vừa thể hiện qua thái độ, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt...)
Các công cụ giao tiếp phi ngôn từ được sử dụng thường xuyên trong hoạt động giao
tiếp hành chính, có vai trò đặc biệt trong hoạt động đó. Tuy nhiên, nó chỉ mang tính bổ trợ
và trong mọi trường hợp cần được “dịch” sang ngôn bản một cách nhất quán nhằm tạo
dựng những mối quan hệ quản lý đồng nhất về nội dung giữa các chủ thể giao tiếp. Mọi tuỳ
tiện trong việc sử dụng những công cụ này có thể đem lại những hậu quả không lường, làm
suy giảm hiệu quả của hoạt động hành chính công vụ.
1.5. Các nguyên tắc giao tiếp trong hành chính
a) Đảm bảo sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các bên tham gia giao tiếp
18
Những người đến giao tiếp với cơ quan hành chính Nhà nước thường ít chuẩn bị
tâm lý cho những yêu cầu, đề nghị của họ. Khi không đạt được những điều như đã dự
định, người dân thường có những phản ứng ở những mức độ khác nhau (có thể bực tức,
buồn bã, chán nản, mất lòng tin, tỏ thái độ bất hợp tác thậm chí lăng nhục, chửi bới cán
bộ, công chức). Chính vì vậy, một nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp là phải cố gắng
đảm bảo sự hài hòa về lợi ích của hai bên tham gia giao tiếp. Nguyên tắc này đòi hỏi
phải chú ý những điểm cơ bản như sau:
- Người cán bộ, công chức phải hiểu tâm lý của người dân khi đến giao tiếp, dành
thời gian để tìm hiểu mục đích của đối tượng giao tiếp, đồng thời trong hoạt động giao
tiếp này, cơ quan đơn vị mình cần đạt được mục đích gì.
- Nếu là giao tiếp gián tiếp, công chức cần dành thời gian giúp cơ quan và thủ trưởng
thu thập những thông tin về phía đối tác và những lợi ích mà họ hướng tới.
- Trong quá trình giao tiếp, công chức phải hướng tới việc sao cho mục đích của
cơ quan mình đạt và lợi ích của đối tượng tham gia giao tiếp (người dân) cũng được
thỏa mãn một phần hay toàn bộ. Ngược lại, nếu trong giao tiếp chỉ chú trọng tới lợi ích
của cơ quan mình mà không chú ý tới hoặc gạt bỏ hoàn toàn lợi ích của người dân thì
hoạt động giao tiếp này chưa hẳn đã là thành công (ngay cả khi kết quả được phía bên
kia chấp thuận).
- Trong trường hợp lợi ích của đối tượng giao tiếp không được thỏa mãn thì công chức
cần phải tỏ thái độ cảm thông, chia sẻ, không có thái độ hiếu thắng hoặc thờ ơ.
b) Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong giao tiếp
Cần đảm bảo rằng mọi đối tượng giao tiếp đều phải được tôn trọng và đối xử tốt.
Trong hoạt động giao tiếp, công chức có khi gặp tình huống khó xử: một bên là công
việc, một bên là những quan hệ có ảnh hưởng đến cơ quan hoặc bản thân mình. Nguyên
tắc này giúp cho công chức tránh được những sai lầm trong giao tiếp khi họ có quan
niệm “người này không quan trọng”, không có ảnh hưởng gì đến bản thân mình, cơ quan
mình thì thờ ơ, thậm chí coi thường.
Tránh trường hợp có hai người dân liên hệ làm việc, người công chức đon đả giải
quyết cho người dân quen biết, còn người kia thì nhận được câu trả lời một cách ngắn
gọn đến mức vô cảm “hết giờ, hẹn đến chiều”. Cách xử sự như vậy sẽ làm mất uy tín
của cơ quan và cả uy tín của bản thân.
c) Nguyên tắc hướng tới giải pháp tối ưu
Vận dụng nguyên tắc này cần chú ý một số điểm sau:
- Công chức phải lắng nghe yêu cầu của đối tượng giao tiếp và yêu cầu đó không
thể đáp ứng được toàn bộ thì cán bộ, công chức cần đưa ra một số giải pháp (trong
phạm vi quyền hạn của mình) để họ có thể lựa chọn.
- Đưa ra một phương án để giải quyết vấn đề, sau đó đề nghị mọi người thảo
luận, cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong các phương án đó.
19
- Nếu phía đối tượng giao tiếp vẫn không chấp thuận thì có thể đề nghị họ đưa ra đề
nghị của họ để xem xét. Nếu vấn đề vượt quá thẩm quyền quyết định, công chức có thể
ghi nhận các giải pháp của đối tượng giao tiếp và hứa trao đổi lại với thủ trưởng cơ quan.
d) Tôn trọng các giá trị văn hóa
Giá trị văn hóa là một phạm trù rộng lớn với những biểu hiện đa dạng của nó. Có
giá trị văn hóa trong nước, có giá trị văn hóa của nước ngoài. Trong một nước đa dân
tộc và trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay cần đảm bảo tôn trọng truyền thống,
văn hoá giao tiếp ứng xử của các dân tộc thuộc các nền văn hoá khác nhau.
2. Các kỹ năng giao tiếp
2.1. Kỹ năng nghe
Lắng nghe có thể đem lại những lợi ích cơ bản sau:
- Thực hiện tốt những gì được hướng dẫn và đưa ra lời khuyên một cách nhanh
chóng và chính xác.
- Lấy được ý kiến từ người khác
- Hiểu được nhu cầu, tình trạng của đối tượng giao tiếp
- Hiểu được khó khăn của đối tượng cần giúp đỡ.
2.1.1. Các kiểu nghe
Căn cứ vào mục tiêu của hoạt động nghe, người ta có thể chia “nghe” thành 5
kiểu như sau:
Kiểu nghe Tính chất Môi trường
sử dụng
1. Giao tiếp xã
hội: nghe để
giao kết
Người ta giao tiếp với nhau đơn giản là
giao kết xã hội, không nhằm mục tiêu trao
đổi thông tin chuyên biệt nào đó
Giữa bạn bè, gia
đình... Thí dụ: lời
chào xã giao...
2. Giải trí: nghe
để thưởng thức
Chủ yếu nhằm giải trí, thưởng thức, không
nhằm đánh giá hay phân tích
Nghe ca nhạc
3. Nhận thông
tin: nghe để
học
Trao đổi thông tin nhằm mục tiêu để hiểu
người khác nuốn nói gì, chứ không để phê
phán hay phán quyết gì
Trong nhiều hoàn
cảnh
4. Thuyết phục:
nghe để quyết
định
Nhằm thuyết phục người khác làm gì đó,
do đó cần nghe có phân tích, đánh giá
Quản lý; thương
mại,...
5. Đồng cảm:
nghe để thấu
hiểu
Cảm nhận độ biểu cảm của thông điệp để
hiểu và thông cảm nhau hơn; có thể là để
tiếp nhận thông tin hoặc giao kết đơn
Trong nhiều hoàn cảnh
20
thuần; và từ đó làm cho người nói thể hiện
hết những cảm xúc của mình
Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, bởi trong những trường
hợp nhất định nó không tồn tại một cách biệt lập mà chúng hòa quyện với nhau, mỗi
kiểu nghe có những mục đích khác nhau. Để đạt được mục đích hiệu quả của hoạt
động nghe cần có kỹ năng nghe (cách thức nghe) tương ứng phù hợp, trong đó nghe
đồng cảm là loại nghe ở mức độ cao nhất.
2.1.2. Kỹ năng nghe có hiệu quả
Để nghe có hiệu quả cần chú ý một số rào cản sau:
Thứ nhất: Thái độ thiếu thân thiện của 2 bên hoặc thiếu tin cậy lẫn nhau thì khó
mà có cuộc giao tiếp hiệu quả, nó tạo ra khoảng cách tâm lý giữa hai bên với biểu hiện
của nó là sự vụng về, thiếu tế nhị trong giao tiếp. Ngược lại, nếu trong quá trình giao
tiếp có thái độ tôn trọng lẫn nhau thì sẽ tạo ra được một bầu không khí thân mật, cởi
mở, thân thiện, thoải mái thì dễ cảm thông, chia sẻ với nhau, cùng nhau giải quyết vấn
đề và cùng nhau đạt được mục đích tối đa trong giao tiếp.
Thứ hai: Yếu tố môi trường cũng tác động rất mạnh đến mức độ của người nghe đối
với thông điệp của người nói. Ví như một căn phòng quá ồn, quá tối, quá lạnh, khoảng
cách quá xa hoặc quá gần, một chiếc bàn quá lớn, một đống tài liệu chất cao ngăn cách
giữa hai bên giao tiếp… sẽ tạo ra một cảm giác thiếu thoải mái cho người nghe khiến cho
người nghe khó khăn trong tiếp nhận thông tin. Vì vậy, cần bố trí nơi làm việc hoặc nơi
giao tiếp yên tĩnh, tốt nhất không sử dụng điện thoại và không để người khác làm phiền…
Thứ ba: Thiếu tập trung trong lắng nghe với những biểu hiện như:
- Người nghe chỉ chăm chú đến việc phát hiện ra những điểm gây mất tập trung ở
người nói hơn là tập trung vào nội dung của thông điệp. Ví như người nghe sao nhãng
bởi một đặc điểm về hình dáng, khuôn mặt, hoặc một phong cách riêng.
- Người nghe để cho các yếu tố tác động từ bên ngoài khiến cho họ thiếu tập
trung như: nhìn theo ai đó đi ngang qua, hướng về phía tiếng chuông điện thoại reo
hoặc cách ứng xử của những người khác trong phòng.
- Người nghe không quan sát người nói nên không thấy hết được cách diễn đạt bằng điệu
bộ, cử chỉ hay các tín hiệu khác nhằm giúp người nghe hiểu thêm về thông tin.
- Người nghe có thể làm nhiều việc cùng một lúc, chẳng hạn như vừa soạn thảo
một văn bản vừa lắng nghe người khác trình bày, vừa suy nghĩ tiếp về một điều gì đó.
Thứ tư: Nguyên nhân sinh lí. Do tuổi tác, người nghe có vấn đề về thính giác,
người nghe có thói quen nghe nhanh hơn nói…
Vấn đề quan trọng trong hoạt động giao tiếp là biết nhận ra sự thiếu tập trung thì
cũng có nghĩa là đã định hướng được cách khắc phục tình trạng này. Đó cũng chính là
một biểu hiện dẫn đến thành công trong giao tiếp.
Khi người khác nói, chúng ta thường nghe ở bốn cấp độ:
21
- Làm ngơ: Không nghe
- Giả vờ: Không thực sự nghe
- Nghe một phần: Chỉ nghe một số nội dung nhất định
- Chú ý: Nghe từng từ
- Nghe thấu cảm: là nghe với mục đích để hiểu sâu tri thức và tình cảm, để nhìn
nhận thế giới theo cách của người nói. Các chuyên gia giao tiếp cho rằng người ta chỉ
giao tiếp 10% bằng lời. 30% thông qua các tiếng động, và 60% do ngôn ngữ cơ thể.
Người ta không chỉ nghe bằng tai mà còn nghe bằng mắt và cả trái tim. Cần cảm thấy,
có linh cảm về vấn đề; nghe để cảm, để hiểu ý nghĩa, để có hành vi, ngoài nội dung
được truyền tải từ người nói thì người nghe phải quan sát cả thái độ người nói cộng với
phán đoán, sự trải nghiệm trong cuộc sống, hoặc cần có sự đồng cảm giao thoa giữa
người nói với người nghe thì mới có thể thấu hiểu được “ý tại ngôn ngoại” của thông tin
người nói phát ra.
2.1.3 Rèn luyện kỹ năng nghe hiệu quả
Khi rèn luyện kỹ năng nghe để đảm bảo giao tiếp có hiệu quả, chúng ta nên chú ý
những kỹ năng cơ bản sau:
a) Tập trung chú ý vào người nói
Thứ nhất: Thể hiện cho người nói biết đến sự chú ý của mình bằng cách:
- Bắt đầu tiếp xúc bằng một thái độ tích cực và nhiệt tình (chào hỏi, mời ngồi...)
sẵn sàng về mặt tinh thần, tình cảm và thể chất để lắng nghe.
- Duy trì việc giao tiếp bằng ánh mắt với người nói một cách thân thiện (tuyệt đối
không liếc xéo, liếc trộm) làm tăng thêm sự tự tin cho người nói, và thể hiện sự chú ý
lắng nghe và quan tâm đến những gì họ đang nói. Tránh nhìn chằm chằm liên tục vào
mắt người nói có thể làm cho họ không thấy thoải mái.
- Chọn cách diễn đạt bằng điệu bộ cử chỉ “mở”: Người nghe chỉ cần một cử chỉ rất
nhỏ và nhẹ nhàng là hãy nghiêng người về phía người nói hoặc ngồi gần lại với người
nói hoặc ngồi đối diện với người nói và tập trung hoàn toàn vào người nói với tư thế
thoải mái, không sử dụng quá nhiều cách diễn đạt bằng điệu bộ có thể làm cho mọi sự
việc thêm phần căng thẳng, đôi khi còn gây ra sự hiểu nhầm.
Thứ hai: Tạo môi trường giao tiếp phù hợp
Tạo môi trường giao tiếp không bị các tác động làm phân tán hoặc ngắt quãng
người nghe, đặc biệt là phải loại bỏ yếu tố tâm lý bất lợi đan xen như vui buồn bất chợt
và người nghe luôn luôn phải tìm mọi cách để chứng tỏ cho người nói biết rằng : “Tôi
đang chú ý ông (bà) nói đây”. Đây là thành công ban đầu của giao tiếp.
b) Khuyến khích người nói
Để khuyến khích người nói, người nghe có thể sử dụng các thủ thuật như sau :
22
- Tạo cơ hội cho người nói được trình bày: Không ngắt lời người nói khi chưa cần;
Không vội vàng tranh cãi hay phán quyết; Hãy để cho người nói tự bộc lộ hết cảm xúc và
suy nghĩ hay một quyết định nào đó.
Có thể bằng những câu hỏi nhẹ nhàng như: “Ông, bà có muốn nói về điều này
không?” “Ông, bà dường như đang có sự lo lắng/ bức xúc?”…
- Khuyến khích không bằng lời: Sử dụng các cử chỉ tích cực và có tính hỗ trợ: gật
đầu để chứng tỏ sự đồng tình của người nghe với người nói, ghi chép của người nghe
thể hiện với người nói rằng: “Tôi đang chú ý một cách nghiêm túc với những gì mà
anh đang nói”.
- Khuyến khích bằng lời: Khi muốn họ tiếp tục nói: Vâng; xin ông (bà) cứ tiếp tục nói;
Thế à! Tôi biết; Tôi hiểu; Ông (bà) hãy nói cho tôi biết thêm về điều này…Khi người nói tỏ
ra khó bắt đầu cuộc giao tiếp hoặc đang ngập ngừng, lưỡng lự, người nghe có thể hỏi: “Bây
giờ ông (bà) muốn nói điều gì?; “Tại sao ông (bà) lại lưỡng lự khi nói điều này?”.
Khi muốn hiểu phạm vi rộng hơn: “Ông (bà) có thể nói rõ hơn về vấn đề…”
“Thế còn vấn đề này…”
Khi muốn biết về các vấn đề, ý tưởng hay cảm tưởng của người nói:“Ông (bà) có thể cho
biết cảm tưởng của mình về…”;”Ông (bà) gặp vấn đề gì khi giải quyết việc…”
Khi muốn người nói tự khám phá một điều gì đó ở chính họ: “Ông (bà) nghĩ thế
nào về vụ việc?”;“Ông (bà) thấy tình hình này thế nào?…”
Khi muốn làm rõ một điều gì đó: “Ông (bà) nói… có ý nghĩa gì”; "Ông (bà) có
thể cho biết thêm về?…”
Khi muốn kiểm soát cuộc nói chuyện hoặc chuyển sang một chủ đề cụ thể nào đó.
“Xin ông (bà) quay trở lại vấn đề…”;“Xin ông (bà) cho biết thêm thông tin chi tiết về…”;
Khi thời gian của người nghe hạn chế: “Ông (bà) có câu hỏi nào nữa về vấn đề này ?”
Khi muốn biết tình hình, số liệu, thông tin mà người nghe đang cần:“Ông (bà) có
chấp nhận đề nghị của chúng tôi không?”
Khi Người nói tỏ ra lan man hoặc lạc chủ đề “Xin ông (bà) nên nói thẳng vào vấn
đề này…”
Khi người nghe cần tìm ra vấn đề hay mối lo ngại chính:“Tại sao ông (bà) lại nói
với chúng tôi như vậy?”
Khi người nghe muốn tìm hiểu kỹ hơn về những cảm nghĩ sâu xa đằng sau những
gì được nói ra: “Tôi có cảm giác rằng: ông (bà) thật sự không hài lòng việc này nhưng
ông (bà) lại tỏ ra bình thường. Tại sao vậy?” đây là loại câu hỏi này mang tính phòng
thủ và đôi khi còn coi là ”đe dọa”, cho nên tốt nhất là ít dùng nó mà điều cơ bản phải
tạo ra được môi trường thân thiết, gần gũi tạo nên sự tự tin cho người nói.
c) Ghi lại ý chính trong khi nghe: vừa nghe vừa ghi lại những ý chính để khi trao
đổi lại không bị quên và bỏ sót ý của người trình bày.
23
d) Phản hồi lại sau khi nghe
Phản hồi là chứng tỏ rằng đã nhận được thông điệp và hiểu nó ở mức độ nào
đó.Một số phương pháp sử dụng để đưa ra phản hồi:
- Nói lại ý chính đã nghe được một cách ngắn gọn bằng một vài từ hoặc một câu
làm rõ ý chính mà người nói muốn trao đổi
- Tóm tắt, thu gọn lại thành ý chính (thường dùng ở cuối cuộc giao tiếp)
- Thông cảm, nghĩa là người nghe nhận diện ra tình cảm đằng sau lời người nói,
người nghe phải tìm cách ghi nhận.
2.2. Kỹ năng nói.
Kỹ năng nói hiệu quả là khả năng biểu đạt bằng lời nói, là một loại năng lực thể
hiện qua khẩu ngữ để truyền đạt thông tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính
xác, sinh động, có sức thuyết phục.
Có kỹ năng nói tốt không những làm cho giải quyết công việc đạt hiệu quả hơn, mà
còn giúp tự khẳng định bản thân trước tập thể, tự nâng cao uy tín của mình.
Các kiểu nói:
- Nói trực tiếp: Tiếp dân, trình bày tại hội nghị, hội thảo, cuộc họp...
- Nói gián tiếp: Qua điện thoại...
2.2.1. Một số điều cần chú ý khi nói.
a) Sử dụng ngôn ngữ nói (lời nói)
Khi sử dụng ngôn ngữ nói cần đảm bảo các yêu cầu sau:
* Chính xác, rõ ràng dễ hiểu, có sức thuyết phục
- Trước hết cần lắng nghe nhằm tiếp nhận, phân tích thông tin để trả lời (nói, phản hồi),
trao đổi có hiệu quả.
- Hỏi lại, chốt lại vấn đề để chắc chắn là đã hiểu được yêu cầu hay nội dung trình
bày của người dân.
- Diễn đạt từ tốn, có ngữ điệu để người nghe có thể hiểu một cách rõ ràng và
đúng như nội dung người nói muốn truyền đạt.
- Sử dụng các câu hỏi để người nghe nhắc lại thông điệp một cách chính xác, qua
đó biết được họ đã hiểu đúng hay chưa.
- Sử dụng từ ngữ phổ thông, gần gũi với cuộc sống của người dân, phù hợp với
từng đối tượng. Tránh dùng thuật ngữ chuyên môn phức tạp. Nếu sử dụng những thuật
ngữ mới cần giải thích rõ.
- Nói ngắn gọn, cô đọng, kết cấu câu đơn giản diễn đạt theo trật tự logic.
- Sử dụng hình ảnh, ví dụ quen thuộc với người dân, gần sát với nội dung trao đổi.
24
- Trong các trường hợp giải thích, hướng dẫn, để lời nói có sức thuyết phục và
người nghe luôn sẵn sàng hưởng ứng một cách tích cực cần luôn giải thích tại sao
người dân cần phải làm như vậy.
Không nên:
- Dùng những từ ngữ và cách nói có thể gây ra hiểu lầm.
- Phản hồi sớm khi chưa suy nghĩ và phân tích kỹ càng nội dung thông điệp và ý
tưởng, mục đích của người chuyển tải thông điệp.
- Quán tính luôn luôn phản ứng, chống đối lại ý kiến của người khác.
- Không kết luận hoặc kết luận không rõ ràng khiến người nghe không nắm bắt được
nội dung chủ chốt mà người nói muốn truyền đạt.
- Trình bày dài dòng.
- Nội dung nói không mạch lạc (ậm ừ, ngắc ngứ...)
*) Cần khách quan, lịch sự
Lời nói của cán bộ, công chức trong giao tiếp với công dân và tổ chức là tiếng
nói của quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước chứ không phải là của riêng cá nhân
nào, vì vậy phải thể hiện tính khách quan, trang trọng nhưng gần gũi.
Lời nói trang trọng, lịch sử thể hiện sự tôn trọng nhân dân, tăng uy tín của bản
thân cán bộ, công chức và cơ quan tiếp dân, phản ánh trình độ giao tiếp, văn hoá, văn
minh trong hành chính.
- Chú ý khi sử dụng cách xưng hô.
- Sử dụng ngôn từ và cách diễn đạt nhã nhặn, lịch thiệp.
- Không dùng lời lẽ thiếu thiếu nghiêm túc, có tính mỉa mai, châm trọc, xúc phạm
người nghe.
- Không dùng tiếng lóng, từ thông tục.
- Tránh thói quen ngắt lời người khác để trình bày ý kiến của mình, đôi khi đơn
thuần chỉ nhằm mục đích “thể hiện”.
b)Yếu tố phi ngôn từ
Các yếu tố phi ngôn từ là các yếu tố đi kèm theo ngôn từ trong khi nói như giọng
nói, cách đi đứng, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, vẻ mặt, tư thế, trang phục, khoảng cách, vị
trí... Trên thực tế, những điều không nói ra đôi khi lại quan trọng hơn những điều nói ra.
Chính yếu tố này góp phần tạo ra nghĩa cho ngôn ngữ. Hầu như mọi người tin "nói như
thế nào" nhiều hơn "nói cái gì".
Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giao tiếp, cần nắm được những thói
quen, những quy tắc trong việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn từ để không
chỉ hiểu được ý đồ của người khác, mà còn có thể diễn đạt được ý đồ của mình một cách
đa dạng, phong phú. Người giao tiếp giỏi chính là người biết kết hợp khéo léo, nhuần
nhuyễn ngôn ngữ có âm thanh với ngôn ngữ không có âm thanh trong giao tiếp.
25
* Giọng nói: Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ nói, cần sử dụng giọng nói nhẹ
nhàng, ấm áp để giải thích, thuyết phục, hoà giải làm cho người nghe cảm thấy thoải
mái, dễ chịu. Giọng nói rõ ràng, dứt khoát, quyết đoán khi cần thể hiện uy lực, mệnh
lệnh phải tuân thủ. Nói về những tin vui thì nên nói với giọng vui vẻ.
Luôn phải nói rõ ràng, không lẩm bẩm hay liến thoắng. Nói nhanh quá sẽ làm
người nghe khó theo dõi, còn nói chậm quá dễ làm người nghe buồn chán. Cũng cần
phải chú ý đến cả nhịp điệu, ngữ điệu nói, nên nói lúc trầm, lúc bổng, lúc lên giọng,
xuống giọng thì lời nói mới nổi bật lên, mới hấp dẫn người nghe. Tránh lạm dụng vì lơ
đãng những từ lấp lỗ trống bằng những từ không có nghĩa gì cả như "à", "ờ"...
* Ánh mắt: Trong khi nói, ánh mắt giúp đem tạo mối liên hệ gần gũi, thân thiện
với người nghe, tạo sự sinh động khi nói, nhấn mạnh những điểm quan trọng, giúp lời
nói dễ hiểu hơn, bao quát được người nghe. Vì vậy, trong giao tiếp nhất thiết phải biết
sử dụng mắt, biết giao tiếp bằng mắt. Có cái nhìn làm người nghe cảm thấy tự tin,
thoải mái, gần gũi, nhưng cũng có cái nhìn gây lo lắng, phân vân. Để sử dụng mắt có
hiệu quả, cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Nhìn thẳng vào người đối thoại:
- Không nhìn người khác với ánh mắt coi thường, giễu cợt
- Không đảo mắt hoặc đưa mắt liếc nhìn một các vụng trộm- Không nheo mắt
hoặc nhắm mắt cả hai mắt trước mặt người khác.
Trong các cách nhìn, nheo mắt (nhắm một mắt) hoặc nhắm cả hai mắt là một
cách nhìn có nhiều ý nghĩa. Trước mặt những người không thật quen biết, bạn không
nên làm như thế. Trong một cuộc chuyện trò, hãy duy trì sự tiếp xúc bằng mắt từ 50
đến 60% thời gian khi nói, và từ 75 đến 85% thời gian khi nghe.
* Nét mặt: Nét mặt biểu hiện thái độ, cảm xúc của con người. Trong giao tiếp, nét
mặt là yếu tố thường được người khác chú ý quan sát, nó góp phần quan trọng vào việc
tạo nên hình ảnh trong con mắt người khác.
* Nụ cười: Nụ cười là một phương tiện giao tiếp quan trọng chứa đựng nhiều nội
dung phong phú. Nụ cười không những đem lại cho người khác cảm giác thoải mái, tự
tin, mà còn làm cho họ cảm thấy đây là tín hiệu của sự tốt lành, của tình hữu hảo và
lòng chân thành. Khi chúng ta tươi cười với người khác, đó là chúng ta "nói" với họ
rằng: Tôi rất mừng vì được gặp anh, tôi sẵn sàng tiếp chuyện anh, anh là người được
hoan nghênh…
Như vậy, nụ cười biểu hiện thái độ tích cực, là "lời" chào hữu hiệu nhất, nó có
thể giải toả cả những ý tưởng đối địch ở người khác. Trong giao tiếp, có lẽ không có gì
dở bằng một bộ mặt cau có, lầm lì, lạnh lùng, không biết mỉm cười. Tuy nhiên, có
nhiều nụ cười khác nhau và không phải nụ cười nào cũng tốt. Nụ cười phải tự nhiên,
chân thành, phù hợp hoàn cảnh thì mới có hiệu quả.
*Động tác: Động tác cũng là một loại ngôn ngữ không có âm thanh trong giao
tiếp. Nó bao gồm các cử chỉ bằng đầu, như gật đầu, lắc đầu; các cử chỉ bằng tay, cử chỉ
này làm cho câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Sử dụng động tác
26
nên tự nhiên để minh hoạ cho ngôn từ để làm tăng hiệu quả truyền đạt thông tin. Tránh
lạm dụng động tác: Vung tay, lắc lư cơ thể thể quá nhiều...
*Tư thế: Tư thế có vai trò quan trọng trong giao tiếp, có ba tư thế chủ yếu: Đi,
đứng và ngồi. Người xưa đã cho rằng, đã là người quân tử thì phải: "Đi như gió, đứng
như cây thông và ngồi như chuông". Đó chính là sự khái quát vẻ đẹp của tư thế trong
giao tiếp.
Tư thế đi: Đi nhanh và nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao, ngực hơi ưỡn ra phía trước.
Tư thế đứng: Đứng thẳng người, ngẩng cao đầu, vai không nhô ra phía trước, hai
cánh tay buông xuôi tự nhiên, lòng bàn tay hướng vào trong.
Tư thế ngồi: Ngồi phải có tư thế đứng đắn, thoải mái, tự nhiên, thanh thản.
Trong những quan hệ giao tiếp chính thức không nên ngồi choán hết chỗ, không
nghiêng về một bên, lưng và đầu phải thẳng. Nếu ngồi lâu, cảm thấy mệt, có thể tựa
lưng, nhưng không được duỗi chân ra theo kiểu nửa nằm, nửa ngồi. Khi ngồi, tay đặt
lên tay vịn của ghế hoặc lên đùi, hoặc lên bàn, hai chân nên khép lại, nam giới có thể
bắt chéo chân nhưng không ngếch chân quá cao, không rung chân, nữ giới có thể gác
bàn chân lên nhau nhưng không được duỗi thẳng ra phía trước.
*Khoảng cách: Trong giao tiếp, khoảng cách giữa người nói và người đối thoại
cũng có những ý nghĩa nhất định. Theo nhiều nhà giao tiếp học (Erdward Hall, Allan
Pease...) sự tiếp xúc giữa con người diễn ra trong bốn vùng khoảng cách sau đây:
- Khoảng cách công cộng (khoảng trên 3,5m): Khoảng cách này thích hợp với
các cuộc tiếp xúc với đám đông tụ tập lại thành từng nhóm. Ví dụ: Khi bạn nói chuyện
tại cuộc mít tinh, diễn thuyết trước công chúng thì khoảng cách với người nghe nên là
trên 3,5m.
- Khoảng cách xã hội (khoảng 1,2m - 3,5m). Đây là vùng khoảng cách thường
được chúng ta duy trì khi tiếp xúc với những người xa lạ. Ví dụ, khi chúng ta hỏi giờ,
hỏi đường...
- Khoảng cách cá nhân (khoảng 0,45m - 1,2m). Chúng ta thường đứng cách người
khác ở khoảng cách này khi cùng họ tham dự các bữa tiệc, khi giao tiếp ở cơ quan hay
khi gặp mặt bạn bè
- Khoảng cách riêng tư (từ 0m - 0,45m). Đây là vùng khoảng cách khi tiếp xúc
với những người có quan hệ thâm mật, thân thiết như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh
em, bạn bè thân, người yêu, bà con gần.
Tuỳ theo mục đích giao tiếp có thể thay đổi khoảng cách cho phù hợp để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đạt mục đích.
Việc sử dụng khoảng cách như một phương tiện giao tiếp không đơn giản. Nó đòi
hỏi sự nhạy cảm, tinh tế, linh hoạt và nghệ thuật trong giao tiếp.
* Vị trí: Một số vị trí phổ biến trong giao tiếp 2 người.
27
- Vị trí tư vấn: Cách ngồi này phù hợp với những cuộc gặp riêng
để tư vấn, khuyên bảo hay thuyết phục.
- Vị trí hợp tác : Vị trí hợp tác có hai cách ngồi:
Cách ngồi thứ nhất: Hai người ngồi bên cạnh nhau và cùng quay về
một hướng. Cách ngồi này cho thấy, họ đã đặt niềm tin vào nhau, ý kiến họ
đã tương đối thống nhất. Đây là vị trí thường gặp khi đại diện của hai phái
đoàn họp báo sau đàm phán thành công.
Cách ngồi thứ hai: Hai người ngồi đối diện nhau, bàn chỉ có tác
dụng như chỗ để giấy tờ. Cách ngồi này cho thấy ý kiến giữa hai người,
về cơ bản là thống nhất và họ rất thẳng thắn với nhau.
- Vị trí cạnh tranh: Hai người ngồi đối diện nhau, giữa họ có cái bàn
có tác dụng như một chướng ngại phòng thủ. Vị trí này thường gặp khi
hai người có vấn đề cần tranh luận, khi nói chuyện thẳng thắn với nhau.
- Vị trí độc lập: Cách sắp xếp này không phải để đối thoại, nó nghĩa là
người đó không muốn bắt chuyện, không muốn bị quấy rầy. Cách bố trí chỗ
ngồi như thế này thường rất thấy trong thư viện, hay trong cửa hàng ăn
uống giữa những người không quen biết. Vậy khi muốn nói chuyện cởi mở
với một ai đó thì không nên chọn vị trí này.
Để giao tiếp hành chính đạt hiệu quả, ngoài kỹ năng nghe và nói, cán bộ công
chức cũng cần phải rèn luyện kỹ năng thuyết trình, nghe điện thoại, đọc, viết và tìm
hiểu các nghi thức giao tiếp trong hành chính như: Chào hỏi (Ai chào trước? Chào thế
nào?...) bắt tay ra sao? Giới thiệu về mình, giới thiệu người cùng giao tiếp như thế nào
(ai giới thiệu, ai được giới thiệu trước, cần phải xưng hô ra sao?...) Trang phục thế nào
là phù hợp? Khi có khách là cấp trên hay khách nước ngoài phải đón tiếp như thế nào?
Bố trí chỗ ngồi cho khách theo những nguyên tắc nào? Trao danh thiếp? (Trao lúc
nào? Trao, nhận danh thiếp như thế nào?...)
II. Kỹ năng phối hợp trong hoạt động quản lý hành chính của công chức văn
hóa - xã hội xã
1. Kiến thức chung về phối hợp trong quản lý hành chính
1.1. Khái niệm phối hợp trong quản lý hành chính
Phối hợp trong quản lý hành chính nhà nước là quá trình liên kết các hoạt động
hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau của các cán bộ, công chức, các cơ quan hành chính nhằm tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý nhà nước.
Sự phối hợp diến ra trong suốt quá trình quản lý, từ hoạch định chính sách, xây
dựng thể chế, đến việc tổ chức thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật. Ở đâu có quản lý
thì ở đó có nhu cầu phối hợp. Mục tiêu cuối cùng của phối hợp là tạo ra sự thống nhất,
đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong quản lý. Nói khác đi, phối hợp là
phương thức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể trong quản
lý nhà nước.
28
1.2. Vai trò của phối hợp trong cơ quan hành chính nhà nước
a) Phối hợp là hình thức gắn chức năng, nhiệm vụ của các cơ cấu của một cơ
quan thành một chỉnh thể thống nhất.
Thông qua phối hợp, các cơ cấu tổ chức bên trong của một cơ quan trao đổi hoạt
động và thông tin với nhau, hỗ trợ cho nhau trong việc thực hiện tốt các chức năng,
thẩm quyền của từng yếu tố của cơ quan. Bên trong một cơ cấu, nếu sự phối hợp có
chất lượng, hiệu quả giữa các lãnh đạo, giữa các chuyên viên với nhau thông qua
những hình thức và cách thức thích hợp thì không chỉ tạo dựng sự đoàn kết, đồng
thuận, hỗ trợ nhau giữa các chuyên viên cùng hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, mà
còn có thể phát huy dân chủ, khai thác năng lực, sở trường của từng chuyên viên trong
công tác để cùng hướng vào thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác của đơn vị mình.
Thông qua việc phối hợp với bên ngoài, tức là với các cơ cấu khác, có thể cho
phép một cơ cấu tổ chức khắc phục được những phiến diện trong hoạt động chuyên
môn do sự chia tách các chức năng, nhiệm vụ chung của cơ quan thành những nhóm
chức năng, nhiệm vụ nhỏ để giao cho từng cơ cấu đảm nhiệm.
b) Phối hợp cách thức huy động, phát huy các nguồn lực để tập trung và xử lý có
hiệu quả những vấn đề khó khăn, phức tạp mà đối với một người, một cơ cấu không
thể giải quyết được.
c) Phối hợp là một công cụ quan trọng trong công tác quản lý, điều hành của thủ
trưởng cơ quan.
Điều hoà, phối hợp là một nội dung thuộc chức năng lãnh đạo, điều hành của thủ
trưởng cơ quan hành chính. Do vậy, cho dù phân cấp thẩm quyền đến mức độ nào cho cấp
dưới, cho dù có quy định cụ thể đến mức nào đi nữa về nội dung phối hợp giữa các cơ cấu
trực thuộc, thì không vì thế mà thủ trưởng cơ quan mất đi vai trò điều phối hoạt động giữa
các cơ cấu trực thuộc trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan.
d) Phối hợp là hình thức biểu hiện và là công cụ thực hiện dân chủ trong hoạt
động nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước.
Có nhiều hình thức, nhiều cấp độ phối hợp công tác và các chủ thể thực sự có
được sự phối hợp có trách nhiệm, trên tinh thần hỗ trợ nhau trong việc thực hiện nhiệm
vụ được phân công là biểu hiện cụ thể của dân chủ trong nội bộ cơ quan. Vấn đề đặt ra
là mức độ, phạm vi phối hợp đến đâu là hợp lý? Tất nhiên là không phải bất cứ vấn đề nào,
bất cứ khi nào và ở đâu cũng phối hợp, thậm chí phối hợp tràn lan. Phối hợp cần được đặt
trong mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đề ra yêu cầu
phối hợp trong công tác phải đồng thời với khuyến khích tư duy độc lập và đề cao trách
nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trực thuộc trong xử lý công việc thuộc phạm vi chức năng,
thẩm quyền được phân công.
1.3. Lợi ích của việc phối hợp
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính phù hợp với môi
trường trên cơ sở đó thiết kế hoàn thiện các tổ chức hành chính nhà nước.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý hành chính nhà nước
29
1.4. Các nguyên tắc phối hợp
- Nguyên tắc lãnh đạo thống nhất
- Nguyên tắc chia sẻ thông tin
- Nguyên tắc chuyên môn hóa, hợp tác hóa
- Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan
2. Kỹ năng phối hợp trong hoạt động quản lý hành chính của công chức văn
hóa xã hội xã.
Trong phạm vi chuyên đề này, xin giới thiệu 4 kỹ năng phối hợp cơ bản đối với
các tổ chức và đối với các cán bộ công chức.
2.1. Kỹ năng xây dựng kế hoạch phối hợp
a)Khái niệm về kế hoạch phối hợp: Kế hoạch phối hợp trong là hệ thống những
công việc dự định cần phải làm, trong đó thể hiện sự phân công rõ ràng về người chủ
trì, người phối hợp cũng như mục tiêu, cách thức, nguồn lực, thời hạn tiến hành nhằm
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ cụ thể trong quản lý hành chính.
b) Bản chất của việc lập kế hoạch phối hợp:
- Giúp cho việc thực hiện mục tiêu của tổ chức hành chính được thuận lợi
- Là cơ sở cơ bản để kiểm tra các hoạt động trong quản lý hành chính.
- Tính phổ biến của kế hoạch phối hợp trong quản lý hành chính
- Tính hiệu quả của việc lập kế hoạch
c)Muốn lập một kế hoạch phối hợp tốt, cần trả lời những câu hỏi sau:
- Chúng ta đang ở đâu? Nhiệm vụ, môi trường và nguồn lực hiện có.
- Chúng ta muốn đi đến đâu? Kết quả đầu ra và các mục tiêu thực hiện.
- Làm thế nào để chúng ta đến được đó? Cách thức thực hiện để đạt được mục
tiêu, kết quả đầu ra.
- Chúng ta đã làm điều đó như thế nào? Đánh giá, đo lường những công việc đã
từng làm.
d)Kỹ năng lập kế hoạch:
- Xác định công việc cần phối hợp
- Phân tích công việc
- Thiết lập các mục tiêu
- Phát triển các tiền đề lập kế hoạch
- Phân công công việc cho các đơn vị, các nhân tham gia phối hợp và xác định
các phương án lựa chọn.
- Thỏa thuận, điều chỉnh sự phân công cho các đơn vị, cá nhân và phân bổ nguồn lực.
30
- Quyết đinh phương án lựa chọn
- Giao cho các đơn vị chủ trì giữ vai trò đầu mối theo dõi, kiểm tra tiến trình kế hoạch
2.2. Kỹ năng giải quyết vấn đề
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, có những công việc thuộc chức
năng giải quyết của một tổ chức, song cũng có rất nhiều công việc cần có sự phối hợp
của nhiều tổ chức. Giải quyết các vấn đề phối hợp này cũng có thể làm cho các tổ chức
trong cơ quan liên kết chặt chẽ với nhau hoặc cũng có thể gây nên những rạn nứt trong
quan hệ. Mức độ sẽ tồi tệ hơn nếu có sự nghi ngờ việc đùn đẩy công việc cho nhau và
giành giật những công việc mang lại lợi ích cho tổ chức của mình.
Sự thành công trong hoạt động phối hợp của các cơ quan hành chính nhà nước
nói chung, của các công chức nói riêng có phần đóng góp không nhỏ của việc giải
quyết hợp lý các vấn đề. Đó chính là lý do cần phải cung cấp cho công chức kỹ năng
giải quyết vấn đề.
a) Khái niệm "vấn đề"
Vấn đề được hiểu là những điều cần được xem xét đánh giá, nghiên cứu giải quyết.
Ví dụ: Vấn đề của cá nhân: Xây nhà, học tập, gia đình…
Vấn đề trong đời sống xã hội: Toàn cầu hóa, Hội nhập…
b) Các bước giải quyết vấn đề
Bước 1- Đặt vấn đề: xác định vấn đề cần dược giải quyết. Đây là bước có ý nghĩa
quan trọng
Bước 2- Phân tích vấn đề: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của cả quy trình giải
quyết vấn đề. Để giải quyết cần phải trả lời được những câu hỏi sau:
- Vấn đề liên quan đến ai?
- Vấn đề nói về cái gì?
- Vấn đề xảy ra khi nào? (Thời gian xảy ra vấn đề cần giải quyết).
- Ở đâu?
- Xảy ra ở những vị trí nào? Tại sao?...
Trả lời các câu hỏi này tức là tìm nguyên nhân của vấn đề, các nguyên nhân đó liên
quan đến con người, phương tiện, phương pháp, cơ chế hay môi trường như thế nào? Như
vậy người ta có thể nhận dạng hay chuẩn đoán được tình hình.
Ví dụ: Phân tích vấn đề bạo lực gia đình tại địa phương?
Bước 3- Tìm kiếm giải pháp: Liệt kê các giải pháp giải quyết vấn đề rồi lựa chọn, tuy
nhiên không nên áp đặt một giải pháp. Nên có các giải pháp mở, linh hoạt.
Bước 4- Lựa chọn giải pháp: Lựa chọn giải pháp, tuy nhiên không nên áp đặt một
giải pháp. Nên có các giải pháp mở, linh hoạt.
31
Bước 5- Thực thi quyết định: Khâu đầu tiên của giai đoạn thực thi quyết định là
phổ biến thông tin. Người ta quay trở lại câu hỏi của giai đoạn 2 (ai? cái gì? khi nào? ở
đâu? tại sao? như thế nào?), nhưng lần này hướng tới tương lai.
Bước 6- Kiểm tra, đánh giá: Đây là giai đoạn có tính chu kỳ, vừa phát triển không
ngừng vừa lặp đi lặp lại.
2.3. Kỹ năng chia sẻ thông tin
a) Khái niệm"Thông tin"
- Dữ liệu là những số liệu và dữ kiện thô chưa qua xử lý
- Thông tin là những dữ liệu đã qua xử lý, sắp xếp và diễn giải theo một cấu trúc
hợp lý.
- Giá trị của thông tin được xác định thông qua: chất lượng, sự phù hợp, khối
lượng và tính kịp thời của thông tin.
b) Những trở ngại trong chia sẻ thông tin:
- Trở ngại thuộc về tổ chức hành chính nhà nước.
- Trở ngại thuộc về con người.
- Trở ngại thuộc về kỹ thuật, công nghệ
c) Một số kỹ năng chia sẻ thông tin:
- Thông tin được truyền đi một cách có hiệu quả
- Lắng nghe có hiệu quả
- Viết một cách hiệu quả
- Tổ chức hiệu quả các cuộc họp
- Lựa chọn các kênh thông tin phù hợp
2.4. Kỹ năng làm việc nhóm
Các tổ chức luôn làm việc trong môi trường đa dạng, đầy biến động với sự phát
triển nhanh của công nghệ làm thay đổi tổ chức lao động. Trước kia người ta thường
xem xét công việc một cách biệt lập. Ngày nay, khi đưa ra một vấn đề, người ta nhận
thấy chúng liên quan đến nhiều vấn đề khác. Vì vậy, làm việc theo nhóm sẽ giúp
chúng ta giải quyết được các vấn đề mang tính tổng thể.
Làm việc theo nhóm tạo ra một môi trường thuận lợi để tất cả mọi người tham gia
vào quá trình ra quyết định, chia sẻ thông tin, phối hợp trong hoạt động, thiết lập lòng
tin và củng cố các mối quan hệ cá nhân. Chính sức mạnh tổng hợp này mà làm việc
nhóm trở nên hấp dẫn và cũng là lý do tại sao người ta ngày càng phải làm việc theo
nhóm nhiều hơn.
a) Khái niệm nhóm
Nhóm là một đơn vị xã hội gồm nhiều cá nhân cùng chia sẻ các giá trị, mục tiêu
hoặc các nhu cầu chung và cùng tác động lẫn nhau, ảnh hưởng đến hành vi của nhau.
32
Có thể chia thành các loại nhóm: Các nhóm chức năng; Các nhóm lợi ích; Các
nhóm dự án; Nhóm phi chính thức.
b) Lợi ích của làm việc theo nhóm:
- Mở rộng kết quả
- Thúc đẩy sự sáng tạo, đổi mới
- Tạo bầu không khí thân thiện
- Chia sẻ trách nhiệm
- Quan hệ xã hội mở rộng và thích ứng nhanh hơn với sự thay đổi
Tuy nhiên khi làm việc nhóm cũng gặp một số những khó khăn, hạn chế như:
- Có thể tạo nên sự triệt tiêu động lực
- Tăng sự phụ thuộc
- Đôi khi không thống nhất được mục tiêu
- Thiếu sự tin tưởng
- Tốn nhiều thời gian, chậm trễ khi ra quyết định
- Không thật sự có sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau
c) Một số kỹ năng làm việc theo nhóm:
- Tiến trình phát triển của nhóm bao gồm những giai đoạn: Giai đoạn hình thành;
Giai đoạn sóng gió (phức tạp); Giai đoạn hình thành quy tắc (gắn bó); Giai đoạn thực
hiện công việc (áp dụng); Giai đoạn chấm dứt hoạt động.
- Các bước xây dựng nhóm hiệu quả:
Bước 1. Tìm hiểu nhóm
Bước 2. Phân tích hiện trạng của nhóm
Bước 3. Xác định mục tiêu
Bước 4. Xác định phương pháp, cách thức đạt được mục tiêu
Bước 5. Đánh giá
Bước 6. Kết quả
3. Công tác phối hợp trong cơ quan hành chính nhà nước hiện nay
Trên thực tế, đã có những văn bản quy phạm pháp luật đề cập đến công tác phối
hợp của các cơ quan hành chính nhà nước trên các lĩnh vực: Kinh tế, Chính trị, Văn
hóa, Xã hội… Nhiều địa phương đã ban hành các quy chế phối hợp trong tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, vẫn thiếu vắng những quy định cụ thể,
đồng bộ về việc phối hợp của các cơ quan hành chính nhà nước. Các hoạt động văn
hóa, gia đình, thể thao và du lịch - là những hoạt động yêu cầu cần có sự phối hợp cao,
hiện nay, nhiều địa phương còn lúng túng trong việc xây dựng các quy chế, quy định
phối hợp hiệu quả. Trong khi đó nguyên tắc tập trung dân chủ cũng chưa được cụ thể
33
hoá vào hoạt động lãnh đạo, điều hành của thủ trưởng cơ quan hành chính. Không
những thế, ngay trong các quy chế làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước ở
các cấp, các ngành (trừ Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất) cũng chỉ
có những quy định mang tính nguyên tắc, một số vấn đề kỹ thuật như thời gian cho ý
kiến phối hợp... Nói cách khác, khuôn khổ thể chế cả tầm vĩ mô và vi mô còn thiếu
nhiều quy định. Nhiều nội dung, hình thức, cách thức phối hợp chưa được quy định và
được thực hiện theo thông lệ, theo kinh nghiệm. Chính vì vậy, việc phối hợp còn chủ
quan, tuỳ tiện và không đồng bộ dẫn đến việc triển khai nhiệm vụ còn chưa hiệu quả.
Một số cách thức phối hợp hiện đại chưa được thực hiện hoặc chưa được phát huy
tác dụng tích cực. Đó là việc thành lập và hoạt động của tổ công tác đặc nhiệm và phối
hợp làm việc theo nhóm chuyên viên trong các cơ quan hành chính còn rất hiếm và ít
phát huy tác dụng tích cực. Việc thành lập các tổ công tác đặc nhiệm còn rất hình thức
và hiệu quả rất thấp, nguyên nhân chủ yếu là các thành viên tham gia chỉ hoạt động
kiêm nhiệm, mặt khác không được bảo đảm kinh phí và những yêu cầu về thông tin.
Phối hợp giữa các cơ cấu trực thuộc còn mang nặng tính hình thức, đối phó, kỷ luật,
kỷ cương trong quan hệ phối hợp còn lỏng lẻo, trách nhiệm trong phối hợp chưa cao, phạm
vi công việc phối hợp còn tuỳ tiện, chất lượng phối hợp không cao.
Các công cụ, phương tiện thực hiện và phương pháp phối hợp còn thô sơ, chậm
ứng dụng công nghệ hiện đại.
Phối hợp còn có biểu hiện quá nhiều, còn bị lạm dụng để chia sẻ trách nhiệm, làm hạn chế
việc phân công rành mạch, đề cao trách nhiệm cá nhân trong công tác.
Thủ trưởng cơ quan có trình độ chuyên môn yếu kém, sợ trách nhiệm thì thường
chú trọng quá mức phối hợp trong chỉ đạo, điều hành, việc gì cũng họp với các cấp
dưới để phối hợp trao đổi, bàn bạc giữa họ với nhau trước khi quyết định làm cho công
việc chậm được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để.
*****************
Câu hỏi thảo luận
Phần giao tiếp:
1. Thế nào là giao tiếp hành chính? Phân biệt giao tiếp thông thường và giao tiếp
hành chính?
2. Nêu các nguyên tắc trong giao tiếp?
3. Để rèn luyện kỹ năng nghe hiệu quả cần chú ý rèn luyện điểm nào?
4. Để rèn luyện kỹ năng nói cần rèn luyện diểm nào?
5. Trong giao tiếp hành chính, theo anh (chị), công chức Văn hóa - Xã hội xã hiện
nay đang yếu về kiến thức, kỹ năng gì? Hãy đề xuất cách khắc phục những điểm yếu
đã nêu.
6. Gia đình bà A cư trú hơn một năm tại địa bàn xã. Bà gặp công chức Văn hóa-
Xã hội và thắc mắc về việc gia đình bà không mắc sai phạm gì mà không được cấp
34
Giấy công nhận Danh hiệu "Gia đình Văn hóa". Hãy thiết kế nội dung và hệ thống các
câu hỏi, trả lời và thực hành đóng vai cuộc giao tiếp này
Phần phối hợp:
1. Thế nào là phối hợp trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước?
2. Phối hợp mang lại lợi ích gì? Tại sao trong giải quyết công việc lại cần sự phối hợp (liên
hệ thực tiễn hoạt động tại địa phương)?
3. Phân tích các kỹ năng phối hợp cơ bản?
Tài liệu tham khảo chính
1. Cẩm nang giảng viên của Học viện hành chính quốc gia do Dự án DANIDA-
NAPA (Đan Mạch) hỗ trợ.
2. Nghệ thuật giao tiếp để thành công - NXB Lao động-Xã hội, năm 2011.
3. Nghệ thuật nói hay - NXB Mũi Cà Mau, năm 2004.
4. Tài liệu Kỹ năng giao tiếp hiệu quả trong hành chính - Dự án DANIDA-NAPA
2004 - 2006 của Chính phủ Đan mạch hỗ trợ Học viện Hành chính Quốc gia .
5. ABC phép lịch sự - NXB Trẻ, 2004
6. Allan-Pease. Thuật xét người qua điệu bộ - NXB Trẻ, 1998.
7. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 149-tháng-6-2009 ngày 20/06/2009 (Bài của ThS
Nguyễn Phước Thọ, Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ).
35
KỸ NĂNG XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN HÓA, GIA ĐÌNH VĂN HÓA,
LÀNG (THÔN, ẤP, BẢN) VĂN HOÁ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
KHU VỰC TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
Ths. TRẦN THỊ TUYẾT MAI
Ths. NGUYỄN THANH THỦY
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Thông qua bài giảng, cung cấp cho học viên nắm được những kiến thức cơ bản về
Nếp sống văn hóa, nội dung, mục tiêu và phương pháp Xây dựng Nếp sống văn hóa;
- Quá trình hình thành và phát triển của Phong trào Xây dựng Gia đình văn hoá,
Làng văn hóa (thôn, ấp, bản) và Kỹ năng phương pháp xây dựng Gia đình văn hóa,
làng (thôn, ấp, bản) văn hóa;
2.Yêu cầu:
Học viên vận dụng kiến thức đã học, tham mưu cấp ủy Đảng và Chính quyền xã
tổ chức thực hiện việc xây dựng Nếp sống văn hóa, Gia đình văn hóa, Làng (thôn, ấp,
bản) văn hóa, góp phần tích cực vào Xây dựng nông thôn mới và xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh từ địa bàn đơn vị mình; Xây dựng đạo đức, lối sống cho nhân dân
nhằm bảo lưu những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, hình thành những giá trị
văn hóa mới phù hợp với sự phát triển.
B. NỘI DUNG
1. Công tác xây dựng nếp sống văn hóa
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Lối sống
Là toàn bộ hoạt động sinh sống của con người trên mọi phương diện, bao gồm
mọi quan hệ về giao tiếp, hành vi, nếp nghĩ trong tất cả các lĩnh vực: Lao động, sinh
hoạt, các hoạt động chính trị-xã hội, hoạt động văn hóa, giáo dục, thể thao, giới tính...
Về bản chất, lối sống gắn liền với giá trị văn hoá tinh thần của con người, chịu sự tác
động của phương thức sản xuất, ý thức xã hội, trở thành những quy tắc mang ước tính
xã hội.
Như vậy: Lối sống là một khái niệm có tính tổng hợp và đồng bộ, bao gồm các
mối quan hệ kinh tế, xã hội, tư tưởng, tâm lý, đạo đức, văn hoá và các mối quan hệ
khác của con người được hình thành từ một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Nói một
cách khác, lối sống là tổng hoà những đặc trưng hoạt động của con người trong điều
kiện của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
36
Ví dụ: Lối sống đẹp: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần", "Lá lành đùm lá
rách", "Bầu ơi thương lấy bí cùng...", "Mình vì mọi người, mọi người vì mình"...
Lối sống chưa đẹp: "Đèn nhà ai, rạng nhà ấy", "Ngồi mát ăn bát vàng", "Tham
vàng bỏ ngãi", "Tiền hậu bất nhất"...
1.1.2. Nếp sống
Có ý nghĩa hẹp hơn lối sống, nếp sống bao gồm những cách thức, hành động và
suy nghĩ, những quy ước được lặp đi lặp lại hằng ngày thành thói quen như: Tập quán
sản xuất, sinh hoạt, trong phong tục, lễ nghi, trong hành vi đạo đức, pháp luật. Nói một
cách khác, nếp sống là cách thức sống, sinh hoạt, ứng xử... của con người, của cộng
đồng, được lặp đi lặp lại nhiều lần, được chọn lọc và lắng đọng và tồn tại trong tiềm
thức nhân dân.
Ví dụ: Nếp sống tốt: Ngăn nắp, trật tự vệ sinh, đi làm đi họp đúng giờ, ăn trông
nồi, ngồi trông hướng... Nếp sống chưa tốt: Chen lấn xô đẩy, nói tục, chửi thề...
1.1.3. Phong tục, tập quán
Tập quán: Tập quán là một hành vi, một công việc được lặp đi lặp lại nhiều lần
thành thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường
ngày, được mọi người công nhận và làm theo.
Tập quán xã hội: Bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các
phong tục khác.
Phong tục tập quán: Phong là phong nhã, là vẻ đẹp; Tục là những quy ước do
cộng đồng thỏa thuận và mọi người trong cộng đồng phải có trách nhiệm tuân thủ.
Phong tục là những nét tốt đẹp của đời sống xã hội, là lề lối và thói quen lâu đời
của một địa phương, của một dân tộc, hay một quốc gia như một luật bất thành văn,
nhưng có sức mạnh và sức sống lâu bền. Ví dụ: Phong tục thờ cúng tổ tiên, phong tục
làm (gói) bánh chưng ngày Tết của nhân dân ta.
Mỗi quốc gia, dân tộc có phong tục tập quán riêng. Trong một quốc gia ngoài
những phong tục chung của toàn quốc cũng có những phong tục riêng và trong một địa
phương, mỗi nhóm người lại có những phong tục riêng. Bất cứ một phong tục nào ra
đời cũng đều xuất phát từ lợi ích chung của cộng đồng, cố kết cộng đồng ngày càng
chặt chẽ nhằm đảm bảo sức mạnh và sự trường tồn của toàn thể cộng đồng.
Phong tục tập quán là một phạm trù rộng lớn, nó bao hàm mọi khía cạnh trong
đời sống của con người. Là sản phẩm của xã hội, phong tục tập quán có mặt ở hầu
khắp các lĩnh vực của đời sống con người. Từ các tập tục, lễ tiết vòng đời của mỗi cá
nhân. Từ sinh nhật, việc cưới, việc tang, từ lễ hội cổ truyền đến ngày hội văn hoá, từ
hội làng, hội vùng đến lễ hội có phạm vi cả nước; từ những nghi lễ thờ cúng thành
hoàng làng, các nhân vật lịch sử, thờ Mẫu cho đến thờ cúng tổ tiên... Phong tục tập
quán chính là đặc trưng văn hóa của cộng đồng, là tính cách và trình độ văn minh của
cộng đồng đó.
37
1.1.4. Đạo đức
Đạo đức là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá-lối sống. Khi nói đến lối
sống, không thể nào không nói tới đạo đức. Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, đạo
đức gồm những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích của mình và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ
giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Tiến bộ đạo đức trở thành tiêu
chí quan trọng nhất của tiến bộ văn hoá, vì tiến bộ đạo đức là tiêu chuẩn căn bản của
sự phát triển toàn diện của nhân cách, của tiến bộ xã hội.
1.1.5. Phong hóa
Phong hoá: Là Phong tục, tập quán và nếp sống của một xã hội (nói tổng quát).
Trong đó phong là phong tục và hoá là giáo hoá.
Phong tục: Thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và
làm theo. Trong đó phong là cốt lõi, là nếp hình thành có thể kéo dài theo thời gian, tỏa rộng
trong không gian. Nó là tổng thể mang những đặc trưng tiêu biểu của một cộng đồng nhất
định (nhà có gia phong, làng có hương phong, nước có quốc phong...).
Tục là thói quen được tôn trọng, được tuân theo và được giữ gìn chung trong
cuộc sống của mỗi cộng đồng nhất định (tục lệ, tập tục); Hoá trong phong hoá, cũng
như trong giáo hoá, trong văn hoá, vừa có ý nghĩa giáo dục, vừa có nghĩa đồng hoá.
Thực chất phong hoá là giáo hoá phong tục.
Khi nghiên cứu đời sống sinh hoạt, sự phát triển xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc,
người ta thường căn cứ vào nếp sống, phong tục và tập quán của nhân dân của quốc gia đó
bởi vì phong tục tập quán cũng phản ánh trung thực tinh thần dân tộc của một nước.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nếp sống văn hóa
Đảng và Nhà nước ta đặt vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng con người
mới Việt Nam trong cả quá trình tiến hành cách mạng: Từ cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), Bác Hồ kêu gọi nhân dân
diệt giặc đói, diệt giặc dốt, đồng thời Bác quan tâm đề cập ngay đến vấn đề Xây dựng
“Đời sống mới” cho nhân dân. Trong tác phẩm “Đời sống mới” của Hồ Chí Minh,
dưới bút danh Tân Sinh được viết vào tháng 3/1947, Người viết: “Người là gốc của
làng, nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới, thì nhất định dân tộc sẽ phú
cường”. Người khẳng định: “Cái mới không tự nhiên xuất hiện mà nó được kế thừa từ
cái nền truyền thống”. “Đời sống mới không phải cái gỡ cũ cũng bỏ hết. Không phải
cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ ta phải bỏ hết tính lười
biếng và tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi
cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì ta phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân
tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân khi trước. Cái gì mới mà hay, thì phải
làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp. Làm sao cho đời sống
của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích
đời sống mới”.
38
Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ phải gắn chặt xây dựng nếp sống mới với xây dựng
con người mới. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã chỉ ra: “Hoàn
cảnh nước ta đòi hỏi và cho phép xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới,
không phải chờ đến sau khi phát triển cao của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
“Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là điều cần và có thể thực hiện được
từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường trước mắt này, có những
điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta bước đầu tạo ra một xã hội đẹp
về lối sống, về quan hệ giữa người và người, một xã hội trong đó nhân dân lao động
cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức sống vật chất còn chưa cao”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã
xác định nhiệm vụ cụ thể xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới với những đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết
với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,
tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng xuất
cao vi lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực.
- “… đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời
sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết trong các tổ chức Đảng và Nhà nước,
trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình... xây dựng nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm,
bạo lực, gây rối trật tự công cộng”.
Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng định hướng chăm lo phát
triển văn hóa: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phong
phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu
dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi
mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của
cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với sản phẩm độc hại. Tiếp tục
đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống
văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây
rối trật tự công cộng, mại dâm ma túy cờ bạc… góp phần giữ gìn và phát triển những
giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam…”. Trong Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2011-2020 với định hướng “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn
39
hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế,… phát huy những giá trị tốt đẹp của các
dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại; Tập trung xây dựng đời sống,
lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, coi trọng văn hóa trong lãnh đạo quản lý,
văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách
con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống… Nâng cao chất lượng
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng xã, phường, khu
phố, thôn, bản đoàn kết dân chủ kỷ cương, văn minh, lành mạnh.”
1.3.Nội dung chủ yếu của công tác xây dựng nếp sống văn hóa cơ sở
1.3.1. Phạm vi
Nội dung của công tác xây dựng nếp sống văn hoá ở cơ sở tập trung vào 3 vấn đề
sau đây:
- Nếp sống cá nhân
- Nếp sống gia đình
- Nếp sống xã hội: Phong tục tập quán…; Nếp sống văn minh nơi công cộng
Ba vấn đề trên liên quan chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng qua lại trong một thể
thống nhất. Lối sống của từng thành viên tác động đến lối sống của gia đình và ảnh
hưởng trực tiếp đến lối sống của xã hội. Mặt khác gia đình biến chuyển lại có tác động
trực tiếp đến sự phát triển của xã hội.
Bác Hồ nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa"1 (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
tr.10, tr.310). và Người cho rằng “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình
cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình...”
Gia đình là đơn vị xã hội nhỏ nhất của xã hội, mặc dù có những biến động lớn
nhỏ, mặc dù tan rã có khi cả một tập thể cộng đồng rộng lớn, gia đình vẫn tồn tại.
Xây dựng nếp sống gia đình, nếp sống xã hội cũng chính là xây dựng con người
mới. Con người mới là sản phẩm của xã hội, vừa là chủ thể có ý thức của xã hội.
Nhưng con người mới không thể hình thành một cách tự phát, mà phải trải qua quá
trình xây dựng một cách tích cực và chủ động. Con người mới cũng phải được tu
dưỡng trong môi trường gia đình và môi trường xã hội.
- Nếp sống văn hoá của mỗi con người, ngoài biểu hiện trong lao động sáng tạo,
trong làm ăn sinh sống, trong học tập và rèn luyện, trong đạo đức và nhân cách, trong
giao tiếp và ứng xử; còn được biểu hiện trong phong tục.
- Nếp sống gia đình, thực chất là xây dựng gia đình có nếp sống văn hoá- gọi
tắt là gia đình văn hoá.
- Nếp sống xã hội bao gồm nếp sống cộng đồng-đó là nếp sống ở làng, bản, ấp,
nếp sống ở trường học, cơ quan, bệnh viện, xí nghiệp, khu phố, tổ dân phố...
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.10, tr.310.
40
Trong nếp sống xã hội, phải đặc biệt chú ý đến nếp sống nơi công cộng. Nếp
sống văn minh nơi công cộng chính là bộ mặt của xã hội. Xây dựng cho mỗi người có
hiểu biết và tôn trọng luật pháp, các quy tắc trật tự, vệ sinh, an toàn giao thông...
1.3.2. Nội dung cụ thể
Công tác xây dựng Nếp sống văn hóa bao gồm 3 nội dung chủ yếu là:
- Xây dựng Nếp sống cá nhân
- Xây dựng Gia đình có nếp sống văn hóa-gọi tắt là Gia đình văn hóa.
- Xây dựng Nếp sống xã hội: Xây dựng Phong tục tập quán tốt đẹp phù hợp với
truyền thống dân tộc; Xây dựng nếp sống văn minh nơi công cộng.
Trong từng nội dung cũng cần xác định mặt chủ yếu cần phải đi sâu và coi đó là
công tác trọng tâm. Cần phải đầu tư, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, tập trung chỉ
đạo để tạo ra hiệu quả thiết thực.
a. Nội dung thứ nhất: Xây dựng Nếp sống cá nhân
Nếp sống cá nhân là thái độ, hành vi, cách ăn mặc, nói năng, phép ứng xử với
mọi người, kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức đối với cộng đồng và
đối với các thành viên gia đình (chăm sóc giáo dục con cái, nuôi dưỡng cha mẹ, chăm
sóc người cao tuổi), bạn bè hàng xóm…
b. Nội dung thứ hai: Xây dựng Gia đình có nếp sống văn hóa-gọi tắt là Gia đình
văn hóa
Phải khai thác những yếu tố tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam, đề cao trách
nhiệm của từng thành viên trong gia đình, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.
Để thực sự là Gia đình có nếp sống văn hóa, nội dung của cuộc vận động cần tập
trung vào ba tiêu chuẩn sau đây:
1. Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tích cực tham gia vào các phong trào thi đua của địa phương;
2. Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong
cộng đồng;
3. Tổ chức lao động, sản xuất kinh doanh, công tác học tập đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả.
Tùy điều kiện, nhu cầu, hoàn cảnh của từng nơi, từng lúc mà vận dụng tiêu chuẩn (cho
sát hợp, nhưng cần lưu ý: Tiêu chuẩn phải ngắn gọn, dễ nhớ, dễ làm. Nhân dân phải được
bàn bạc, trao đổi, cùng nhau thực hiện (tránh áp đặt, mệnh lệnh hành chính hóa…).
c. Nội dung thứ ba: Xây dựng phong tục tập quán tốt đẹp phù hợp với truyền
thống dân tộc
Xây dựng phong tục quán tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc và bản sắc
dân tộc. Phải sưu tầm, khai thác các phong tục, tập quán tốt đẹp của từng địa phương,
từng dân tộc, đưa các phong tục tập quán truyền thống hòa nhập với cuộc sống hiện
đại. Cải tạo những tập quán lạc hậu, xây dựng tập quán mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc
41
sống hiện đại, văn minh, tiến bộ. Nội dung này được tập trung vào: việc cưới, việc
tang, ngày giỗ, ngày hội, mừng thọ, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội…
d. Nội dung thứ tư: Xây dựng nếp sống văn minh nơi công cộng
Những nơi công cộng là bộ mặt xã hội như: đường làng, ngõ xóm, nhà văn hóa, chợ,
di tích, danh thắng… cần xây dựng cho mỗi người có hiểu biết và tôn trọng luật pháp, các
quy tắc trật tự, vệ sinh, an toàn giao thông... Tổ chức tốt các dịch vụ vệ sinh ở những nơi
công cộng. Sử dụng những quy tắc, quy định, tín hiệu… để hướng dẫn nếp sống nơi công
cộng. Cần phải chú ý đến cảnh quan chung, ngoài sạch sẽ còn phải chú ý đến đẹp-phù hợp
với thẩm mỹ-từ kiến trúc nhà cửa, khuôn viên gia đình, đường làng, ngõ xóm theo quy
hoạch, đến ăn, mặc, ở, đi lại và giao tiếp giữa người với người.
1.4. Phương châm, phương pháp chỉ đạo
Công tác xây dựng nếp sống văn hóa phải được tiến hành kiên trì, lâu dài nhưng rất
khẩn trương, đồng bộ, phải luôn luôn được củng cố, hoàn thiện và phát triển không ngừng.
Xây dựng nếp sống văn hóa thực chất là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên là công
việc xây dựng con người, xây dựng xã hội, là cuộc cách mạng rộng lớn, toàn diện, lâu
dài đòi hỏi việc xây và chống phải có thái độ chủ động và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, lấy biện pháp vận động, thuyết phục giáo dục là chủ yếu, lấy xây là chính, xây
là lâu dài, chống là trước mắt; xây kết hợp với chống.
1.4.1. Tham mưu Ban Chỉ đạo Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
cấp xã thực hiện xây dựng nếp sống văn hóa thông qua công tác xây dựng gia đình
văn hóa, làng (bản, buôn, plây, phum sóc…) văn hóa, tổ chức việc cưới, việc tang và
lễ hội.
1.4.2. Nhận thức đầy đủ về lối sống, nếp sống
Nói đến lối sống, nếp sống là nói đến thuần phong mỹ tục. Chúng ta cũng cần
nhận thức rõ thuần phong, mỹ tục còn liên quan đến tính bản địa và tính giao lưu; tính
truyền thống và tính tiếp biến đổi mới.
Việc hình thành một lối sống hay một nếp sống tất yếu phải có những quy luật
của nó đó là khoa học. Việc xây dựng lối sống luôn nằm trong quá trình kế thừa liên
tục, mỗi người có trách nhiệm phải nhận thức cho rõ nội dung của sự kế thừa này, nội
dung bản sắc của gia đình mình, cộng đồng mình và dân tộc mình. Nhưng quá trình kế
thừa, không phải là quá trình lập lại, quá trình kế thừa lại chính là quá trình phát triển.
Phải nắm vững bản sắc dân tộc để định hướng cho sự phát triển. Sự lãnh đạo và hướng
dẫn về nếp sống văn hóa có thể thực hiện ở các cấp độ hình thức can thiệp sau đây:
- Can thiệp (cưỡng chế): Bằng luật pháp; pháp lệnh; quy chế, quy định…bắt buộc
mọi người phải tuân theo. Ví dụ: Đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, chấp hành các quy
định về an toàn giao thông, không lấn chiếm vỉa hè dành cho người đi bộ… Không
khóc mướn, lăn đường, đội mũ rơm trong đám tang.
- Can thiệp bằng sự giáo dục rèn luyện: Nhà trường, tác phẩm, các hoạt động văn
học nghệ thuật…
42
- Can thiệp bằng sức ép dư luận xã hội: Thông tin đại chúng, sinh hoạt chính trị
xã hội, quy ước…
- Can thiệp bằng tổ chức đời sống cho nhân dân chu đáo trong điều kiện sống
sinh hoạt: Tổ chức ăn, ở, vệ sinh, đi lại… đây là biện pháp cực kỳ quan trọng.
Chú ý: Trong đời sống có những hành vi sống thuộc về lĩnh vực thị hiếu, cá tính
chúng ta không can thiệp sâu, có những phong tục riêng biệt của từng địa phương,
hoặc từng dân tộc nhỏ mà nó không có hại thì ta không nên can thiệp và thậm chí cần
khuyến khích để tạo cho sự phong phú, đa dạng trong văn hóa, tạo nên sự kết hợp hài
hòa. Ví dụ: Tôn trọng sở thích cá nhân, thị hiếu, thẩm mỹ nhưng không trái với thuần
phong mỹ tục dân tộc…
Lối sống được hình thành trong cuộc sống. Có những cái chúng ta không muốn
có, nó vẫn hình thành. Sự hình thành của nó có những quy luật nhất định. Muốn xây
dựng nó, cán bộ văn hóa cơ sở phải hiểu cuộc sống, hiểu các loại quy luật của cuộc
sống và quy luật hình thành lối sống. Phải có tư duy khoa học, không thể dùng ý chí
chủ quan và duy tâm.
1.4.3. Xây dựng các quy ước nếp sống trong ngành, giới, địa phương
Quy ước là công cụ chỉ đạo từng mặt của cuộc vận động xây dựng nếp sống. Ví
dụ: Quy ước về việc cưới, quy ước về tang, quy ước về mở hội truyền thống, quy ước
về gia đình văn hóa, quy ước về xây dựng làng văn hóa, quy ước về mừng thọ, khuyến
học, khuyến tài…
1.4.4. Thực hiện phương châm: tích cực, thận trọng, khẩn trương, kiên trì, liên tục
Những thói quen đã hình thành từ xã hội cũ, đã trở thành “nếp” trong mỗi người.
Xóa nếp cũ, tạo nếp mới không phải là việc làm đơn giản, chỉ nói và làm một hai lần,
mà phải kiên trì, không thể nóng vội, nhưng phải rất khẩn trương. Nền văn hóa mới,
phong tục tập quán tốt đẹp có thể chưa thể hình thành ngay trong một thời gian ngắn.
Trong khi đó “nếp sống cũ”, hủ tục cũ lạc hậu vẫn còn tồn tại và mâu thuẫn với nền
văn hóa tiên tiến nên mọi việc làm của chúng ta phải hết sức tích cực, thận trọng, kiên
trì và liên tục.
1.4.5. Tạo dư luận xã hội
Dư luận xã hội có tác động rất mạnh trong việc giáo dục nếp sống. Phải dùng dư
luận xã hội để điều chỉnh hành vi cá nhân-dùng dư luận để ca ngợi cái hay, cái đẹp, cái
cao thượng trong nếp sống hàng ngày và lên án những hành vi sai trái, tiêu cực. (Báo chí,
tác phẩm nghệ thuật như: Âm nhạc, điện ảnh, kịch nói, sân khấu… phản ánh cái hay, phê
phán nhắc nhở những hành vi tiêu cực thể hiện trong lối sống, nếp sống hàng ngày…).
1.5. Phương pháp công tác
Xây dựng lối sống, nếp sống, phong tục tập quán là công việc liên quan đến nhiều
người, nhiều gia đình, nhiều ngành, nhiều cấp-Là mối quan tâm của toàn xã hội. Vì
vậy cấp uỷ Đảng và các cấp phải trực tiếp chỉ đạo, chính quyền các cấp là người tổ
chức thực hiện, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu tổ chức thực hiện và có
sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể và sự hưởng ứng thực hiện của các tầng lớp nhân
43
dân. Công tác xây dựng lối sống văn hóa, nếp sống, xây dựng phong tục tập quán tốt
đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc là mối quan tâm của mọi người, mọi nhà, mọi
ngành, mọi cấp. Nhận thức đầy đủ, có kế hoạch sát hợp với từng cơ sở, cuộc vận động
này nhất định sẽ thu được kết quả.
1.5.1. Phương châm
- Phải kiên trì, lâu dài (không thể một sớm một chiều) nhưng phải rất khẩn
trương, đồng bộ.
- Đòi hỏi việc xây và chống, lấy biện pháp vận động giáo dục là chủ yếu, lấy xây
là chính, xây là lâu dài, xây là kết hợp chống.
1.5.2. Công tác đào tạo cán bộ
Công tác xây dựng nếp sống văn hóa, phải được tiến hành kiên trì, lâu dài nhưng
rất tích cực và khẩn trương, đồng bộ, phải luôn luôn được củng cố, hoàn thiện và phát
triển không ngừng. Công tác xây dựng nếp sống văn hóa phải có những cán bộ văn
hóa có trình độ nghiên cứu và am hiểu công tác chỉ đạo cơ sở. Cán bộ trực tiếp làm
công tác này phải được trang bị những kiến thức cơ bản các vấn đề về bản sắc văn hóa
dân tộc, về lối sống, nếp sống, phong tục tập quán, các vấn đề tôn giáo, về tín ngưỡng,
về văn hóa dân gian, về văn hóa nghệ thuật, về phương thức điều tra, khảo sát và
phương pháp chỉ đạo, công tác quần chúng... để thực hiện.
1.5.3. Tổ chức thực hiện
Từng bước tìm hiểu, nghiên cứu, phân loại các vấn đề trong nếp sống và con
người, đặc biệt là lý luận và thực tiễn của Việt Nam để có phương hướng, nội dung,
biện pháp tổ chức và chỉ đạo cho sát hợp với từng lúc, từng nơi, từng vùng.
Sử dụng các lực lượng tích cực và có uy tín trong xã hội làm nòng cốt, làm hạt
nhân của cuộc vận động (lực lượng trí thức ở nông thôn, lực lượng cán bộ có uy tín,
lực lượng hưu trí, hội Cựu chiến binh…).
Có kế hoạch tuyên truyền, động viên gây dư luận rộng rãi hỗ trợ cho cuộc vận
động. Dùng dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi cá nhân, ca ngợi, tôn vinh người tốt
việc tốt, phê phán những hành vi tiêu cực của xã hội.
2. Gia đình và công tác xây dựng gia đình văn hóa
2.1. Khái niệm, vai trò, vị trí, chức năng của gia đình
2.1.1. Khái niệm
Gia đình là vấn đề lịch sử xã hội, có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống con
người. Các học giả xưa nay, phương Đông hay phương Tây dù có khác nhau nhưng
đều quan niệm chung rằng: Gia đình là một nhóm người ràng buộc với nhau bởi quan
hệ huyết thống, đạo đức và pháp lý.
Tập thể các nhà khoa học do GS, TS Trần Văn Bính chủ biên đưa ra định nghĩa:
Gia đình là một hình thức cộng đồng người chủ yếu xây dựng trên quan hệ hôn nhân
và huyết thống, gia đình là một thiết chế xã hội, văn hoá.
44
Tuyên bố về tiến bộ xã hội trong phát triển của Liên hiệp quốc: “Gia đình là đơn
vị cơ bản của xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mỗi
thành viên”.
Theo điều 8-Luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam: Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định Luật này;
“Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
Chỉ thị 49 CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX):
“Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá
truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.”
Người ta thường chia ra loại gia đình truyền thống là gia đình có nhiều thế hệ
cùng chung sống và gia đình hạt nhân là gia đình chưa có vợ, chồng hoặc một, hai thế
hệ. Các học giả còn có quan niệm gia đình theo nghĩa hẹp giới hạn trong cái “nhà” và
cái “sân” và nghĩa rộng liên quan đến tộc họ, gia tiên, hoặc nhiều hơn nữa....
2.1.2. Vai trò vị trí, chức năng của gia đình
a) Vai trò, vị trí của gia đình
- Lịch sử đã chứng minh: Cá nhân-gia đình-làng xã-tổ quốc là mối quan hệ hữu
cơ không thể tách rời, yếu tố tích cực hay tiêu cực của mỗi nhân tố này đều ảnh hưởng
không nhỏ đến sự hưng thịnh của mỗi quốc gia trong đó gia đình là một thiết chế xã
hội quan trọng, là nền tảng của xã hội và quốc gia. Gia đình là một xã hội thu nhỏ, là
tổng hợp các quan hệ giá trị nhân cách, tình cảm, đạo đức, danh dự, nghĩa vụ và trách
nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Khi nói về vai trò của gia đình, từ ngày xưa cụ Phan
Bội Châu đã khẳng định “Nước là một cái nhà lớn, nhà là một cái nước nhỏ”. Trong
bài nói chuyện tại Hội nghị thảo luận dự thảo luật hôn nhân gia đình tháng 1-1959,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình.”
- Gia đình là tế bào của xã hội do đó văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng trong
vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Qua nhiều thời kỳ phát
triển của đất nước, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng
những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam, như: Lòng yêu nước, yêu quê
hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù, sáng tạo
trong lao động, bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách… vẫn được giữ
gìn, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. “… Gia đình
đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội…” (Chỉ thị
49/CT/TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng).
45
Vai trò của gia đình đối với các thành viên:
1. Chăm sóc và giáo dục trẻ em
2. Chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi
3. Thực hiện an sinh xã hội, chăm sóc người ốm, người tàn tật, khuyết tật
4. Phát triển kinh tế
5. Chăm sóc sức khoẻ, luyện tập thể dục thể thao
Vai trò của gia đình đối với cộng đồng và xã hội:
1. Giáo dục các thành viên thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước
2. Giữ gìn, kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, hương ước, quy
ước của địa phương
3. Giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội
4. Thực hiện bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình
5. Phối hợp với nhà trường, các tổ chức xã hội trong giáo dục con người
6. Giáo dục đạo đức và hướng nghiệp
Vai trò của gia đình quan trọng như vậy; năm 1983 tổ chức UNESCO của Liên hợp
quốc đã ra Nghị quyết và “Thập kỷ phát triển văn hoá thế giới” (1988- 1997), phát động
lấy năm 1994 là “Năm quốc tế gia đình” với biểu tượng mái nhà và trái tim bên trong.
Nước ta từ năm 2001 đã chọn ngày 28 tháng 6 hàng năm là “Ngày gia đình Việt Nam”.
b) Chức năng của gia đình
Gia đình gồm có các chức năng như sau:
- Chức năng sinh sản, tái sản xuất con người
- Chức năng kinh tế
- Chức năng giáo dục, xã hội hoá cá nhân
- Chức năng thoả mãn nhu cầu tinh thần, tâm lý tình cảm
Từ các chức năng cơ bản đó mà gia đình có các vai trò rất quan trọng đối với con người
và xã hội. Gia đình là đơn vị kinh tế nhỏ nhất, vừa là đơn vị văn hóa nhỏ nhất của xã hội, là tế
bào của xã hội và là môi trường đầu tiên cho việc giáo dục và hình thành nhân cách con người.
2. Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa, nội quan trọng trong
công tác dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
2.1. Văn hoá gia đình - một bộ phận của văn hoá dân tộc
Gia đình là tế bào của xã hội do đó văn hóa gia đình đóng vai trò quan trọng
trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Quá trình hình
thành văn hoá dân tộc cũng là quá trình hình thành văn hoá gia đình. Con người là chủ
thể của văn hoá, con người chỉ thực sự có văn hoá khi sinh ra trong gia đình có văn
hoá, được nuôi dưỡng, chăm sóc dạy dỗ và bảo vệ. Tất cả những giá trị về kinh tế, văn
46
hoá, khoa học kỹ thuật, chủ nghĩa nhân văn cao cả… đều khởi nguồn từ gia đình.
Chính gia đình là một thiết chế văn hoá góp phần tạo dựng nên một xã hội có văn hoá,
văn hoá gia đình được hình thành trên cơ sở nền tảng của văn hoá dân tộc, là thước đo
giá trị văn hoá dân tộc. Xã hội càng phát triển, càng phản ánh sự đa dạng phong phú
trong cuộc sống gia đình, mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội phần nhiều được hình thành
từ gia đình. Gia đình càng hoàn thiện, càng ổn định và có văn hoá sẽ góp phần xây
dựng lối sống, nếp sống tốt đẹp cho xã hội. Khi gia đình và xã hội không gắn kết, đồng
phát triển sẽ tạo nên sự trì trệ, xáo trộn và mất ổn định xã hội…
Hiện nay, Văn hoá gia đình Việt Nam đang đứng trước sự lựa chọn các giá trị
như sau:
1. Giữ nếp văn hoá gia đình truyền thống nguyên dạng với kiểu gia đình tam tứ
đại đồng đường, trong đó các thế hệ trong gia đình sống theo đạo lý “kính trên,
nhường dưới”, “chị ngã, em nâng”… Người già quyết định tối cao và được chăm sóc
chu đáo. Cá nhân không được quyền quyết định, ít được quyền dân chủ, có tính bảo
thủ, có khi cản trở sự phát triển.
2. Xây dựng gia đình hiện đại chỉ có 2 thế hệ, đề cao tự do cá nhân một cách
tuyệt đối, cắt rời ít liên hệ với quá khứ, cội nguồn. Do đó xảy ra tình trạng nhiều người
già lâm vào tình trạng cô đơn ít được chăm sóc chu đáo.
3. Xây dựng gia đình hiện đại, giàu có, ít con, hạnh phúc trên cơ sở văn hóa gia đình
truyền thống, có sự giúp đỡ, hỗ trợ giữa các thế hệ, bảo lưu có chọn lọc giá trị văn hoá gia
đình truyền thống. Đây là xu thế phù hợp nhất tạo nên gia đình tiên tiến, vừa hiện đại, giàu
bản sắc dân tộc, đây chính là mô hình gia đình văn hoá chúng ta cần xây dựng.
2.2. Nội dung công tác xây dựng gia đình văn hoá
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của phong trào xây dựng gia đình
văn hoá
Cuộc vận động có tiền thân ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày
20-3-1947 dưới bút danh Tân Sinh, Bác Hồ đã viết tác phẩm “Đời sống mới” Người viết:
“Mỗi người làm đúng theo đời sống mới thì đời trong một nhà cũng dễ thôi.
Cũng như mỗi viên đá trơn tru vững chắc, thì chỉ cần một ít vôi là đắp thành một bức
tường tốt.
Về tinh thần thì phải trên thuận, dưới hoà, không thiên tư ai. Bỏ thói hành hạ mẹ
chồng nàng dâu, gì ghẻ ghét bỏ con chồng.
Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm phải ăn đều, tiêu sài có kế hoạch, có ngăn nắp.
Cưới hỏi, giỗ, tết, nên giản đơn, tiết kiệm.
Trong nhà, ngoài vườn phải luôn sạch sẽ, gọn gàng.
Đối với xóm giềng phải thân mật và sẵn lòng giúp đỡ.
Đối với việc làng, việc nước phải hăng hái làm gương.
Người trong nhà, ai cũng biết chữ.
47
Luôn luôn cố gắng làm cho nhà mình thành một nhà kiểu mẫu trong làng, một
nhà như thế nhất định sẽ phát đạt”
Năm 1960, 6 gia đình ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long, huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên (gồm gia đình ông Luyện Văn Để, Đinh Văn Để, Đinh Văn Khắc, Luyện
Văn Ân, Nguyễn Văn Tục, Đỗ Văn Thức) đã thống nhất bàn bạc, giúp nhau trong sản
xuất, dạy bảo con cái chăm ngoan học tập, giúp đỡ láng giềng lúc khó khăn. Đây được
coi là mô hình gia đình văn hoá đầu tiên, Bộ Văn hoá (Nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch) có chủ trương nhân rộng mô hình này.
Năm 1962, tại Hội nghị phổ biến nhân rộng mô hình xây dựng Gia đình văn hoá
tại Hải Phòng, Bộ Văn hoá đã công nhận 6 gia đình văn hoá này và tặng cho thôn
Ngọc Tình (tỉnh Hưng Yên) bức trướng, đề tặng chiếc nôi của phong trào xây dựng gia
đình văn hoá, đồng thời phát động phong trào xây dựng gia đình văn hoá trên phạm vi
cả nước. Mục đích của phong trào nhằm đoàn kết giúp đỡ để gia đình hoà thuận, bình
đẳng, dân chủ, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 15-3-1975, Bộ Văn hoá Thông tin và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã
ban hành Thông tư liên tịch về việc đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Gia đình văn
hoá mới (Nay là Gia đình văn hoá), tiêu chuẩn gia đình văn hoá mới thời kỳ này là:
- Xây dựng gia đình hoà thuận, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
- Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch: Sản xuất, tiêu dùng tiết kiệm; đoàn kết xóm
giềng tốt.
- Thực hiện đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Từ năm 1975-1985: Phong trào phát triển rộng khắp trong toàn quốc, năm 1980,
Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập trực tiếp chỉ đạo phong trào.
Về kinh phí được nhà nước bao cấp nên việc tuyên truyền, vận động có nhiều thuận
lợi, phong trào phát triển đồng đều và rộng khắp.
Từ 1986 đến 1990: Thời kỳ đổi mới, thay đổi cơ chế từ bao cấp sang hạch toán,
khiến cho nguồn chi cho phong trào giảm sút, ngành Văn hoá, Thông tin, cơ quan
thường trực của Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương vẫn cố gắng duy trì phong
trào nhưng kết quả có hạn chế.
Từ 1990-2000: Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương đã đề ra nội dung tiêu
chuẩn gia đình văn hoá như sau:
Xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc
Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình
Đoàn kết xóm giềng
Thực hiện nghĩa vụ công dân
Ngày 16-7-1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vấn đề gia đình và xây dựng gia đình văn
48
hoá đã được đề cập một cách cấp thiết: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của
gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây
dựng gia đình văn hoá. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa Gia đình- Nhà trường-
Xã hội”
Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) với 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ
thể và 4 nhóm giải pháp, trong đó: Cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn
với thi đua yêu nước và Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” là
một trong 4 nhóm giải pháp thực hiện nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về Xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Phong trào này bao gồm 7 phong trào cụ thể, trong đó có Phong trào Xây dựng gia
đình văn hoá do Bộ Văn hoá-Thông tin (Nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) chủ
trì. Bộ Văn hoá-Thông tin đã ban hành Quyết định số 01/2002/QĐ-BVHTT ngày 2-1-
2002 Quy chế công nhận danh hiệu “gia đình văn hoá”, “làng văn hoá”, “khu phố văn
hoá”, tiêu chuẩn Gia đình văn hoá gồm:
Gia đình ấm no, hoà thuận, tiến bộ, khoẻ mạnh và hạnh phúc
Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân
Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình
Đoàn kết tương trợ cộng đồng dân cư
Năm 2006, Bộ Văn hoá, Thông tin (Nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) sửa
đổi, bổ sung Quy chế công nhận “gia đình văn hoá”, “Làng văn hoá”, “Tổ dân phố văn
hoá” ban hành kèm theo Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23-6-2006, Các
tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá hiện nay vẫn được kế thừa có chọn lọc với những
yếu tố của gia đình truyền thống Việt Nam.
2.2.2. Tiêu chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa hiện nay
Thực hiện theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua, khen thưởng với những nội
dung cụ thể (áp dụng theo điều 8- Quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá,”,
“Làng văn hoá”, “Tổ dân phố văn hoá” ban hành kèm theo Quyết định số
62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23-6-2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin): Gồm
các tiêu chuẩn như sau:
- Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương.
- Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ giúp đỡ mọi người trong
cộng đồng.
- Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất
lượng và hiệu quả.
2.2.3. Điều kiện, thủ tục công nhận Danh hiệu Gia đình văn hóa
Danh hiệu “Gia đình văn hóa” do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
công nhận.
1. Điều kiện công nhận:
49
a) Đạt các tiêu chuẩn quy định như trên
b) Thời gian đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hóa” là 01 năm.
2. Hồ sơ đề nghị gồm có:
a) Bản đăng ký xây dựng danh hiệu “Gia đình văn hóa”;
b) Biên bản họp bình xét ở khu dân cư kèm theo danh sách những gia đình được
đề nghị công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá” (có từ 50% trở lên số người tham gia
dự họp nhất trí đề nghị).
3. Căn cứ vào biên bản họp bình xét ở khu dân cư, Ban vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn ra quyết định công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” hàng năm.
4. Khu dân cư tổ chức công bố Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” vào dịp “Ngày hội Đại đoàn
kết toàn dân tộc” ở khu dân cư hàng năm (ngày 18/11) và ghi “Sổ vàng Gia đình văn
hóa” ở khu dân cư.
5. Đối với gia đình được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” 3 năm liên tục,
được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trao Giấy chứng nhận 03 năm đạt danh
hiệu “Gia đình văn hóa”
2.2.4. Một số nội dung về công tác chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng gia đình
văn hoá trong giai đoạn hiện nay
- Xây dựng Gia đình văn hóa là một trong những phong trào xây dựng đời sống
văn hóa đầu tiên, có quá trình phát triển thường xuyên, liên tục, ngày càng sâu rộng.
Nội dung, tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa được kế thừa và phát triển
cả về lý luận và thực tiễn. Từ phong trào của quần chúng, danh hiệu Gia đình văn hóa
cùng với danh hiệu Làng văn hóa đã trở thành danh hiệu thi đua Nhà nước, được Luật
Thi đua khen thưởng ghi nhận. Tiêu chuẩn công nhận Gia đình văn hóa theo Điều 29
Luật Thi đua khen thưởng được Bộ Văn hóa-Thông tin cụ thể hóa trong Quy chế 62,
đề cao vai trò của Gia đình văn hóa trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; gắn việc xây dựng gia đình hòa thuận, tiến bộ, hạnh
phúc với đoàn kết, tương trợ xóm giềng; đề cao yếu tố văn hóa phát triển trong việc tổ
chức xây dựng gia đình trở thành Gia đình văn hóa, đáp ứng yêu cầu về sự phát triển
của gia đình trong thời đại hiện nay. Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện phong trào
xây dựng Gia đình văn hóa tập trung vào một số nội dung như sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, củng cố và nâng cao nhận thức của
cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn
cấp xã về ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung của công tác gia đình nói chung, xây
dựng Gia đình văn hóa nói riêng.
- Ban Chỉ đạo Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp xã
và các Ban Vận động cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, cần
tổ chức điều tra, khảo sát, phân loại gia đình trên địa bàn, xây dựng kế hoạch cụ thể để
triển khai thực hiện phong trào phù hợp.
50
- Tổ chức việc học tập, nắm vững nội dung, tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia
đình văn hóa đến từng hộ, từng thành viên của các hộ gia đình, đồng thời, tuyên
truyền, cổ vũ phong trào xây dựng Gia đình văn hóa trên hệ thống truyền thanh công
cộng, các hình thức tuyên truyền cổ động trực quan trên địa bàn.
- Tổ chức đăng ký xây dựng Gia đình văn hóa, trên cơ sở tự giác, tự nguyện của
các gia đình, sự tuyên truyền, vận động của các đoàn thể quần chúng.
- Phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc, các ngành, đoàn thể quần chúng, sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, các đoàn viên, hội viên, tạo thành lực lượng nòng
cốt trong phong trào xây dựng Gia đình văn hóa.
- Tăng cường các hoạt động tự quản cộng đồng, các hoạt động tuyên truyền, vận
động, thuyết phục, đôn đốc, nhắc nhở các gia đình đã đăng ký xây dựng Gia đình văn
hóa, phấn đấu thực hiện tốt các tiêu chuẩn công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa.
- Gắn phong trào xây dựng Gia đình văn hóa với các phong trào thi đua yêu nước,
với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, đặc biệt là thực hiện các nhiệm vụ,
mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa hiện nay ở địa phương cơ sở.
- Xây dựng, biểu dương, tôn vinh và nhân rộng các gia đình văn hóa tiêu biểu,
tạo nên mũi nhọn cho phong trào xây dựng Gia đình văn hóa.
- Tổ chức cho các gia đình tự đánh giá (hoặc chấm điểm) về kết quả thực hiện các
tiêu chuẩn công nhận Gia đình văn hóa, trước khi đưa ra các cuộc họp ở khu dân cư,
lấy ý kiến của nhân dân để bình bầu Gia đình văn hóa hàng năm.
- Ban Vận động ở khu dân cư tổng hợp báo cáo Ban Chỉ đạo Phong trào Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cấp xã trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã
ra quyết định công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa hàng năm. Khu dân cư tổ chức
công bố quyết định công nhận Gia đình văn hóa và ghi Sổ vàng Gia đình văn hóa vào
dịp Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, 18/11 hàng năm.
- Các tiêu chí xây dựng gia đình văn hoá phải phù hợp và có ý nghĩa thiết thực
với đời sống của người dân, đáp ứng được nguyện vọng tâm tư tình cảm mới tạo được
sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân. Đây chính là yếu tố quyết định sự thành công
cúa phong trào xây dựng gia đình văn hoá.
2.2.5. Về yêu cầu của công tác xây dựng gia đình văn hóa
- Được triển khai thường xuyên, liên tục trở thành nhiệm vụ quan trọng được các
cấp các ngành quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện để thực hiện tốt.
- Phải có nội dung, tiêu chí phù hợp với đặc điểm bản sắc, phong tục, tập quán
của mỗi dân tộc, của từng thời kỳ, giai đoạn phát triển xã hội của mỗi địa phương.
- Việc xây dựng gia đình văn hóa thuộc ý thức tự nguyện của mỗi gia đình, từng
người dân do đó phải có phương pháp tuyên truyền vận động để nhân dân tự nguyện
tham gia, tránh gò ép, cứng nhắc.
- Việc xây dựng gia đình văn hóa cần được phát triển rộng nhưng phải chú ý đến
chiều sâu, chú trọng chất lượng thực chất của phong trào, chất lượng của mỗi gia đình
51
văn hóa, không chạy theo hình thức, bệnh thành tích chủ nghĩa, làm giảm giá trị danh
hiệu gia đình văn hóa, giảm ý nghĩa giáo dục và hiệu quả tích cực của phong trào.
2.2.6. Về nội dung, phương pháp tổ chức, triển khai việc xây dựng gia đình
văn hóa
* Trong công tác chỉ đạo hướng dẫn:
- Đây là nhiệm vụ của các cấp lãnh đạo đảng, Nhà nước, chính quyền, các cấp,
các ngành, đoàn thể và cán bộ nhân dân.
- Các cấp lãnh đạo Đảng phải có Nghị quyết về việc xây dựng gia đình văn hóa
(trong các kỳ Đại hội Đảng), phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị của
Đảng, phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị của Đảng trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của địa phương.
- Các cấp lãnh đạo chính quyền phải xây dựng được kế hoạch cụ thể để tổ chức
triển khai. Kế hoạch phải xác định rõ bước đi, cách làm, chỉ tiêu, tiến độ thực hiện cụ
thể. Tạo điều kiện về kinh phí, lực lượng, cơ sở vật chất để tiến hành, huy động được
lực lượng phối hợp của toàn hệ thống chính trị, toàn dân tham gia thực hiện việc xây
dựng gia đình văn hóa
- Thường xuyên có biện pháp kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm, động viên khen
thưởng, uốn nắn những lệch lạc để phong trào ngày càng phát triển vững chắc.
- Xây dựng dự toán kinh phí hoạt động hàng năm, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Chỉ đạo, thí điểm, tiến tới phổ biến nhân rộng mô hình, khai thác các nguồn lực,
hỗ trợ phong trào.
- Tổ chức bình xét, công nhận chặt chẽ, đảm bảo nguyên tắc, đúng tiêu chuẩn, thủ
tục, kỳ hạn.
- Tổ chức kiểm tra việc công nhận và không công nhận lại danh hiệu gia đình văn
hoá ở địa phương.
* Trong việc tổ chức triển khai thực hiện:
- Căn cứ vào tiêu chuẩn tại Tiêu chuẩn danh hiệu Gia đình văn hóa thực hiện
theo quy định tại Điều 29 Luật Thi đua, khen thưởng với những nội dung cụ thể (áp
dụng theo điều 8- Quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình văn hoá,”, “Làng văn hoá”,
“Tổ dân phố văn hoá” ban hành kèm theo Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày
23-6-2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin), vận dụng xây dựng tiêu chuẩn cho
phù hợp với địa phương.
Nguyên tắc của quá trình vận dụng:
- Bám thật sát chỉ tiêu chung, không tùy tiện đặt ra những tiêu chí, tiêu chuẩn
không phù hợp với tinh thần, nội dung của tiêu chí theo kiểu “Phép vua thua lệ làng”.
- Tránh hữu khuynh hoặc tả khuynh trong xây dựng tiêu chuẩn. Đảm bảo chát
lượng thực sự của danh hiệu gia đình văn hóa xong cần tạo điều kiện thuận lợi để các
52
gia đình phấn đấu thực hiện. Từng bước có điều chỉnh theo hướng nâng cao tiêu chuẩn
để đảm bảo chất lượng gia đình văn hóa ngày càng cao.
3. Công tác xây dựng làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) văn hóa
3.1. Khái niệm làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) văn hóa và mối quan hệ
của Làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) văn hóa với văn hóa làng (bản, buôn,
plây, phum sóc...)
3.1.1. Khái niệm làng(bản, buôn, play, phum sóc...)
Nói đất nước ta có mấy ngàn năm văn hiến, không thể bỏ qua vấn đề làng, xã -
một kiến trúc xã hội ở cấp cơ sở.
Làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) xã là mội vùng lãnh thổ tương đối nhỏ, với
một cộng đồng dân cư bền vững (như một quốc gia thu nhỏ có sức sống vật chất và
tinh thần bền vững trường tồn).
Làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) là đặc thù của xã hội Việt Nam, làng là đơn
vị tụ cư truyền thống, có hình thể, cơ cấu tổ chức lệ tục, tâm lý, tính cách… trở thành
đơn vị cơ sở của nước. Trong thực tế làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) là nơi cuối
cùng triển khai thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ở nông thôn.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, cấp xã có thể tách, nhập song làng (bản, buôn,
plây, phum sóc...) rất ít biến động và giải thể. Mặt khác mỗi làng (bản, buôn, plây,
phum sóc...) là một cộng đồng về lãnh thổ tín ngưỡng, tôn giáo, cảnh quan… do đó
mỗi làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) đều có tính cố kết cộng đồng rất cao, đã và
đang phát huy tác dụng cả về lĩnh vực kinh tế và văn hóa trong yêu cầu xây dựng nông
thôn mới hiện nay.
Việc làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) là việc của nước, việc nước cũng là việc
của làng(bản, buôn, plây, phum sóc...). Các giá trị văn hóa làng (bản, buôn, play, phum
sóc...) là cơ sở và những yếu tố thuận lợi cho việc tổ chức xây dựng làng văn hóa.
3.1.2. Khái niệm Làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) văn hóa
Làng (bản, buôn, plây, phum sóc...) được chọn làm cơ sở để xây dựng đời sống
văn hóa vì trong lịch sử trước đây nó vốn là đơn vị hành chính cấp cơ sở của Chính
quyền Nhà nước phong kiến. Các thiết chế vật chất và thiết chế tổ chức chặt chẽ của
Làng truyền thống đến nay vẫn còn nhiều giá trị có thể khai thác, phát huy.
Làng lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống bền vững qua nhiều giai đoạn lịch
sử và là địa bàn cơ sở phù hợp với điều kiện tổ chức xây dựng đời sống văn hóa trong
mối quan hệ ràng buộc giữ con người-nhà-làng-nước. Xây dựng làng văn hóa không
quá phụ thuộc vào tổ chức hành chính (có thể là đơn vị tương ứng như thôn, ấp, bản,
buôn, sóc…).
Xây dựng làng văn hóa là xây dựng một cộng đồng dân cư có đời sống kinh tế ổn
định và từng bước phát triển, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phong phú, có môi
trường cảnh quan sạch đẹp, chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước, có tinh thần đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng.
Xây dựng Làng văn hóa là một trong những yếu tố góp phần đưa nông thôn Việt Nam
53
phát triển đúng hướng theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì nó liên quan
đến yếu tố con người qua xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa chứ không
phải chỉ đầu tư vốn, phát triển khoa học kỹ thuật mà thực hiện được công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn.
3.1.3. Khái niệm Văn hóa làng
Văn hóa làng là bản sắc riêng của làng, là toàn bộ cuộc sống của làng; Văn hóa
làng bao gồm toàn bộ các yếu tố văn hóa truyền thống của mỗi làng: Cách ăn, ở, ứng
xử, giao tiếp, kỹ năng lao động sản xuất, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, văn
hóa dân gian, lễ hội… các thiết chế vật chất và thiết chế tổ chức và tâm lý thành viên
trong làng với những đặc trưng riêng của nó không có sự trùng lặp, giống hệt nhau
giữa các làng.
Văn hóa làng là những giá trị văn hóa mang tính truyền thống, đã được thử thách
qua thời gian, là chuẩn mực của toàn thể cộng đồng đã lựa chọn, bảo lưu, giữ gìn và
phát triển. Văn hóa làng là nền tảng để vận dụng xây dựng Làng văn hóa.
3.1.4. Mối quan hệ giữa Văn hóa làng và xây dựng Làng văn hóa
Xây dựng Làng văn hóa là khai thác, phát huy các giá trị văn hóa làng truyền
thống, đổi mới chất lượng văn hóa làng qua việc chọn lọc, phát huy các giá trị văn hóa,
thuần phong mỹ tục vào đời sống hiện đại; gạt bỏ các hủ tục trong cưới, tang, lễ hội;
gạt bỏ tư tưởng cục bộ, ngôi thứ, bỏ lối sống “phép Vua thua lệ làng”, coi thường pháp
luật chung…tạo điều kiện để cá nhân hoàn thiện và phát triển nhân cách.
3.2. Mục đích, ý nghĩa của công tác xây dựng Làng (bản, buôn, phum sóc…)
văn hóa
Mục đích:
- Xây dựng làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa là triển khai các nghị quyết
Đại hội và các Hội nghị của Đảng về xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, xây dựng con
người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức và lối sống ngang tầm với yêu cầu phát triển của
thời đại.
- Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát huy tính chủ động sáng tạo của mỗi người
dân, mỗi gia đình trong các hoạt động văn hóa, phù hợp với sự đổi mới về cơ chế tổ
chức và quản lý kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn.
- Bảo vệ, giữ gìn và phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp, loại bỏ các hiện
tượng mê tín dị đoan, phòng chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội; ma túy mại dâm, cờ
bạc… phòng chống và đẩy lùi sự xâm nhập của văn hóa độc hại.
- Xây dựng làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa là xây dựng mô hình tổ chức,
quản lý và hoạt động văn hóa cơ sở trên địa bàn nông thôn, phù hợp với sự chuyển
biến về chính sách, pháp luật, tổ chức, quản lý trong sản xuất nông nghiệp theo chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
- Xây dựng làng văn hóa chính là tổ chức lại đơn vị xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
cấp xã về đơn vị xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cấp làng (bản, buôn, phum sóc…).
54
Ý nghĩa:
- Nhằm xây dựng một cộng đồng làng hoàn thiện và phát triển nhiều mặt, củng cố
và phát huy các giá trị đạo đức và lối sống gia đình truyền thống, tạo sức đề kháng
trước những ảnh hưởng của lối sống thực dụng, coi nhẹ các giá trị tinh thần và các mặt
trái kinh tế thị trường.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với việc thực hiện nghĩa vụ công dân,
chấp hành các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; Góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân, xây dựng
môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh góp phần xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Xây dựng làng văn hóa là gắn xây dựng và phát triển văn hóa với thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương cơ sở; khai thác, giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi vùng quê, mỗi dân tộc.
3.3. Quá trình hình thành và phát triển của phong trào xây dựng làng văn hóa
- Năm 1987, tỉnh Hà Bắc (cũ) đã chỉ đạo thể nghiệm thôn Trung Liệt (xã Đồng
Quang, huyện Từ Sơn) chuyển các hoạt động văn hóa thông tin cơ sở từ cấp xã về các
đơn vị làng, thôn và thực hiện xã hội hóa một số hoạt động văn hóa thông tin trong mô
hình “làng văn hóa mới”. Đến năm 1989, Hà Bắc tổng kết mô hình làng văn hóa Trung
Liệt và nhân rộng trên địa bàn tỉnh.
- Tiếp sau Hà Bắc, phong trào xây dựng làng văn hóa bắt đầu được một số tỉnh
triển khai, như: Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Phú Thọ,
Hà Tây… tháng 12-1991, Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) tổ chức hội nghị, hội thảo về đổi mới công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở
Bắc Giang. Sau hội nghị, các Sở Văn hóa-Thông tin (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch) đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đưa việc xây dựng làng
văn hóa vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm ở địa phương.
- Tháng 11-1993, Bộ Văn hóa, Thông tin tổ chức hội nghị, hội thảo xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở tại Quy Nhơn (Bình Định). Sau hội nghị, hội thảo, các tỉnh khu
vực miền Trung và Tây Nguyên, các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận đã nghiên cứu
kinh nghiệm và triển khai phong trào ở địa phương.
- Năm 2002, Bộ Văn hóa, Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
ban hành Quyết định số 01/2002/ QĐ-BVHTT ngày 02 tháng 01 năm 2002 kèm theo
Quy chế công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa, Làng văn hóa, Khu dân cư văn hóa;
Tháng 6 năm 2006, Bộ Văn hóa-Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
tiếp tục ban hành Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23 tháng 6 năm 2006 kèm
theo Quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố
văn hóa” thay thế Quy chế số 01/2002/ QĐ-BVHTT. Đến nay, Làng văn hóa đã trở
thành danh hiệu thi đua Nhà nước, được Luật Thi đua - Khen thưởng ghi nhận (tại
Điều 30).
55
Tiêu chuẩn công nhận làng văn hóa (theo Quy chế số 62/2006/QĐ-BVHTT)
- Làng văn hóa trước hết phải là làng có đời sống kinh tế ổn định và từng bước
phát triển. Tiêu chuẩn này thể hiện sự gắn kết giữa kinh tế và văn hóa, trong đó kinh tế
(văn hóa vật chất) vừa là nền tảng, vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển văn hóa.
- Làng văn hóa phải có đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú, thể
hiện thông qua việc: Xây dựng các thiết chế và thực hiện các chỉ tiêu về phát triển sự
nghiệp văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế, đáp ứng nhu cầu văn hóa xã hội của người
dân; đồng thời xây dựng nếp sống văn minh, phòng chống các tệ nạn xã hội và các sản
phẩm văn hóa độc hại.
- Môi trường cảnh quan sạch đẹp, thể hiện qua các tiêu chí về gìn giữ vệ sinh (gia
đình và cộng đồng); bảo vệ và phát huy các di tích lịch sử-văn hóa, cảnh quan thiên
nhiên, tạo bộ mặt văn hóa ở các cộng đồng dân cư.
- Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy
ước cộng đồng, không để xảy ra trọng án hình sự, là thể hiện yếu tố văn hóa pháp luật
trong xây dựng làng văn hóa, đồng thời gắn xây dựng làng văn hóa với việc thực hiện
dân chủ và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở và chăm lo các đối tượng chính sách ở
các cộng đồng nông thôn.
- Xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân
cư, thể hiện thông qua việc hòa giải cộng đồng, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, đền ơn
đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện; thực chất là khai thác và phát huy các giá trị văn hóa, đạo
lý truyền thống của dân tộc, làm cho các yếu tố đó trở thành nguồn lực vật chất, tinh
thần trong quá trình xây dựng làng văn hóa.
3.4. Công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện phong trào xây dựng làng văn hóa
- Tổ chức cho nhân dân trong làng học tập, nắm vững nội dung, tiêu chuẩn công
nhận danh hiệu làng văn hóa; thảo luận chương trình, kế hoạch xây dựng làng văn hóa
(do trưởng thôn hoặc trưởng ban vận động cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” chuẩn bị) thảo luận quy ước, (hương ước) làng
(do ban soạn thảo quy ước chuẩn bị).
- Tuyên truyền, vận động nhân dân quyết tâm xây dựng làng văn hóa; khơi dậy và
phát huy tinh thần cố kết cộng đồng, trách nhiệm xây dựng và ý thức tự quản cộng
đồng, vốn là tập quán tốt đẹp, là truyền thống bền vững và nét độc đáo của văn hóa
làng, trở thành động lực thúc đẩy quá trình xây dựng làng văn hóa.
- Thành lập Ban vận động xây dựng làng văn hóa, trên cơ sở Ban vận động cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, do Ban công
tác Mặt trận chủ trì; phân công, phân nhiệm các thành viên rõ ràng, định kỳ kiểm
điểm, đánh giá kết quả thực hiện.
- Tổ chức, tập hợp tất cả các tầng lớp nhân dân trong làng tham gia xây dựng làng
văn hóa với những nội dung, hình thức phù hợp; xây dựng lực lượng nòng cốt, làm hạt
nhân tích cực của phong trào; đặc biệt là thực hiện và phát huy vai trò gương mẫu của
cán bộ, đang viên, đoàn viên, hội viên.
56
- Bám sát chương trình, kế hoạch xây dựng làng văn hóa đề ra, tập trung chỉ đạo,
tổ chức triển khai thực hiện thắng lợi từng nhiệm vụ, mục tiêu, từng việc, tiến tới thực
hiện đầy đỷ tiêu chuẩn công nhận làng văn hóa.
- Gắn xây dựng làng văn hóa với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, với
các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, cơ sở.
- Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc trong việc thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
- Xây dựng Nhà văn hóa làng thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa- thể
thao cộng đồng.
- Tự đánh giá, đối chiếu kết quả thực hiện các tiêu chuẩn công nhận làng văn hóa;
nếu thấy đủ tiêu chuẩn, báo cáo, đề nghị Ban Chỉ đạo phong trào Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa cấp xã kiểm tra, đề nghị công nhận.
- Tổ chức lễ đón Bằng công nhận làng văn hóa trang trọng, tiết kiệm, hiệu quả;
tiếp tục xây dựng kế hoạch giữ vững và phát huy danh hiệu làng văn hóa, đưa ra nhân
dân thảo luận, nhất trí triển khai thực hiện.
4. Xây dựng quy ước nếp sống văn hóa, làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa
Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa bao
gồm những điều khoản do nhân dân ở một số địa phương, một số cơ sở - căn cứ vào
nhu cầu của cuộc sống chung mà đặt ra để cùng nhau thực hiện.
Nội dung bản quy ước có thể đề ra một cách toàn diện mọi vấn đề xã hội, hoặc
chỉ nên đi vào một số vấn đề cấp bách cần ngăn chặn kịp thời và dứt điểm, sau đó có
kế hoạch đi dần từng bước thanh toán các vấn đề còn tồn tại của từng địa phương.
Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa thực
chất là những thỏa thuận của cộng đồng có nguồn gốc từ việc kế thừa truyền thống lập
hương ước của cha ông. Theo đó nhân dân sẽ tự giác tuân thủ những thỏa thuận nhằm
xây dựng cho làng (bản, buôn, phum sóc…) một cuộc sống ổn định và phát triển cả về
vật chất và tinh thần. Do vậy nếu Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước làng (bản, buôn,
phum sóc…) văn hóa được biên soạn và có nội dung tiến bộ và được triển khai thực
hiện tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, nâng cao nhận
thức của mỗi người dân, xây dựng nếp sống văn hóa, hình thành những phong tục tập
quán mới tốt đẹp tác động đến phong trào xây dựng làng văn hóa; ngược lại quy ước
sẽ phản tác dụng nếu việc biên soạn nội dung không phù hợp với đời sống thực tiễn và
tổ chức thực hiện thiếu khoa học, không tiến bộ. Quy ước nếp sống văn hóa, quy ước
làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa phải đạt các mục đích, yêu cầu sau đây:
Quy ước nhằm tạo môi trường văn hóa lành mạnh, xã hội có trật tự, kỷ cương
góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Quy ước không được mâu thuẫn, đối lập với hiến pháp, pháp luật và phải phù hợp
với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
57
Quy ước phải phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể và thực tiễn của mỗi địa
phương, được nhân dân chủ động đóng góp xây dựng và tự nguyện thực hiện.
Nội dung của Quy ước dựa trên cơ sở bảo đảm, giữ gìn và kế thừa, phát huy những
thuần phong mỹ tục của dân tộc, truyền thống lịch sử văn hóa, truyền thống cách mạng
của địa phương đồng thời bổ sung những nội dung mới, tiến bộ phù hợp với tình hình hiện
nay của địa phương. Quy ước đảm bảo các nguyên tắc chung như sau:
- Nêu khái quát tình hình lịch sử, quá trình hình thành và phát triển, những truyền
thống tốt đẹp của làng, thôn, ấp, bản;
- Nêu những đặc điểm cụ thể hiện nay, những thuận lợi khó khăn trong xây dựng
nông thôn mới và xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa;
- Nêu khái quát một số nguyên tắc chung khi biên soạn và thực hiện, giá trị pháp
lý, phạm vi hiệu lực của văn bản.
Những quy định cụ thế của Quy ước:
- Quy định về xây dựng gia đình văn hóa: Dựa trên các tiêu chí công nhận gia
đình đạt chuẩn văn hóa, cần chi tiết hóa, cụ thể hóa hoặc phát triển thêm những nội
dung phù hợp với thực tiễn của địa phương đảm bảo nguyên tắc lành mạnh, tiến bộ,
không trái với những quy định của Nhà nước.
- Quy định về Nếp sống văn hóa trong sinh hoạt hàng ngày, sinh hoạt cộng đồng,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
- Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn, ở, đi lại, xóa
bỏ hủ tục, phát triển các hoạt động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng,
nghĩa xóm, đoàn kết tương thân tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong cộng đồng dân cư,
thực hiện tốt các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.
- Quy định những nội dung vận động giáo dục mọi người bảo vệ thuần phong mỹ
tục, loại bỏ những hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội.
- Quy định về cưới, tang, lễ hội, thờ phụng ở địa phương, khuyến khích tổ chức
cưới, tang, lễ hội văn minh, tiến bộ, tiết kiệm phù hợp với hoàn cảnh của từng địa
phương và từng gia đình.
- Quy định về dự sinh nhật, mừng thọ, mừng tân gia… theo nguyên tắc văn minh
tiết kiệm trọng về tinh thần, ý nghĩa văn hóa, không nặng về lợi ích vật chất.
- Quy định về bảo vệ tài sản của cộng đồng và tài sản của công dân, bảo vệ môi
trường sống, bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, cơ sở thờ tự,
công trình phúc lợi an sinh như: Đê, kè cống, kênh mương, đường làng, ngõ xóm, bảo
vệ và trồng cây xanh…
- Quy định về khuyến nông, khuyến học, động viên lao động sáng tạo, trật tự an
ninh và thực hiện pháp luật.
- Các quy định khác: Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi địa phương có
thể có những quy định chi tiết và nội dung cụ thể để thực hiện.
58
Điều khoản thi hành của Quy ước:
Quy ước nên giao cho Trưởng làng (bản, buôn, phum sóc…) chịu trách nhiệm
theo dõi thi hành, phối hợp với các đoàn thể khác như: Mặt trận Tổ quốc, Phụ nữ,
Thanh niên. Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh… đặt dưới sự Lãnh đạo của các Cấp
ủy Đảng địa phương và sự theo dõi, quản lý của Ủy ban nhân dân, sự giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp xã.
Việc thi hành Quy ước lấy phương châm vận động, giáo dục nhân dân tự giác
tham gia thực hiện là chính. Tạo dư luận quần chúng trong làng (thôn, ấp, bản) ủng hộ
cái mới, tiến bộ, phê phán những tiêu cực, lạc hậu…
Do cấp làng (thôn, ấp, bản) không phải là cấp hành chính nên các hành vi vi
phạm pháp luật phải được lập biên bản đề nghị Ủy ban nhân dân xã hoặc cấp trên tùy
thuộc vào mức độ vi phạm ra quyết đinh sử phạt theo quy định của Pháp luật. Những
cá nhân có thành tích cần được biểu dương khen thưởng kịp thời.
Việc soạn thảo, sửa đổi, bổ sung quy ước nên giao cho những người am hiểu lịch
sử, thực tế tình hình ở địa phương và được nhân dân tín nhiệm.
Khi soạn thảo Quy ước cần được tổ chức thảo luận, bàn bạc góp ý và biểu quyết dân
chủ của nhân dân trong cả làng (thôn, ấp, bản) hoặc đại biểu nhân dân các dòng họ.
Quy ước được thông qua nhất trí của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp xã. Không
một tổ chức hoặc một cá nhân nào được phép tự tùy tiện sửa đổi hương ước.
Các bước tiến hành xây dựng Quy ước:
Quy ước phải được xây dựng một cách thật sự dân chủ công khai, phù hợp với các quy
định của pháp luật, được thực hiện theo các bước cụ thể như sau:
Thứ nhất: Mỗi làng (bản, buôn, phum sóc…) lập một ban dự thảo quy ước Nếp
sống văn hóa, làng văn hóa do đại diện Lãnh đạo làng (thôn, ấp, bản) làm trưởng ban,
thành phần tham gia cần có đại biểu của một số ngành, tổ chức đoàn thể như Mặt trận
Tổ quốc, Phụ nữ, Thanh niên. Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh… (có thể có đại diện
các chức sắc tôn giáo ở địa phương). Những người tham gia Ban soạn thảo phải bảo
đảm các yêu cầu sau:
Được nhân dân tín nhiệm, tôn trọng.
Có trình độ văn hóa, hiểu biết xã hội, hiểu biết về phong tục tập quán địa phương,
có khả năng biên soạn văn bản.
Thứ hai: Ban biên soạn Quy ước tổ chức sưu tầm, nghiên cứu hương ước cũ của
làng (bản, buôn, phum sóc…) để chọn lọc kế thừa và phát triển những nội dung tích
cực; đưa thêm những nội dung mới phù hợp thực tế địa phương, đất nước (có thể
nghiên cứu, sưu tầm những hương ước, quy ước của các làng quê khác có những đặc
điểm, điều kiện tương đồng).
Thứ ba: Trong quá trình xây dựng quy ước nhất thiết phải có sự tham gia đóng
góp dân chủ, bàn bạc công khai của đông đảo quần chúng nhân dân. Tổ chức phát
59
thanh tuyên truyền thường xuyên, liên tục những nội dung của quy ước trên hệ thống
truyền thanh địa phương trước và sau khi quy ước đã được phê duyệt.
Thứ tư: Quy ước làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa trước khi được Ủy ban
nhân dân huyện công nhận chính thức cần có sự thông qua, kiểm định của các ngành,
đoàn thể hữu quan cấp huyện như Tư pháp, Văn hóa, Thông tin, Hội Nông dân, Mặt
trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh…
Thứ năm: Tổ chức thực hiện
Quy ước làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa sau khi được phê duyệt cần được
tuyên truyền, phổ biến tới từng gia đình, từng người dân, nên nhân bản và trưng bày
công khai ở nơi công cộng của làng. Cuối năm việc thực hiện quy ước được đưa vào
nội dung bình xét công nhận gia đình đạt chuẩn văn hóa.
Ban chỉ đạo xây dựng làng (bản, buôn, phum sóc…) văn hóa thường xuyên tiến
hành kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện với phương châm lấy dân làm gốc (dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra). Trong trường hợp cần sửa đổi bổ sung thì do Hội nghị đại
biểu hộ gia đình thảo luận. Việc sửa đổi, bổ sung quy ước phải tuân theo trình tự, thủ
tục như khi soạn thảo hương ước mới.
Ban chỉ đạo cấp xã, huyện/thành phố cũng thường xuyên giám sát, kiểm tra các
cơ sở để kịp thời uốn nắn điều chỉnh những lệch lạc.
5. Kết luận
Khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc là địa bàn chiến lược quan trọng trong
chiến tranh giữ nước và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực này đã góp phần hình thành bản
sắc văn hóa, cốt cách của từng dân tộc. Việc giữ gìn bảo tồn truyền thống bản sắc tinh hoa
văn hóa riêng của mỗi dân tộc đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa dân tộc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công tác văn hóa khu vực trung du, miền
núi, vùng dân tộc đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức và công tác quản lý,
chỉ đạo tổ chức thực hiện. Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được coi trọng và
khơi dậy, bản sắc văn hóa của các dân tộc được giữ gìn và phát huy. Mức hưởng thụ
về văn hóa của đồng bào từng bước được nâng lên. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc được từng bước nâng cao về chất lượng và
hướng về phục vụ cơ sở nhiều hơn. Công tác sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu được
thường xuyên tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hóa xã hội đã được quan tâm chú ý. Cơ sở vật chất và trang bị
phương tiện hoạt động văn hóa được tăng cường hơn. Nếp sống văn hóa đã và đang
được chú ý chỉ đạo xây dựng, nhiều nhân tố mới, mô hình mới có tác động tích cực
trong đời sống văn hóa, xã hội của đồng bào các dân tộc xuất hiện. Một số truyền
thống văn hóa tốt đẹp của đồng bào các dân tộc được phát huy làm phong phú và lành
mạnh đời sống tinh thần của nhân dân. Song khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc
đang bộc lộ một số thách thức:
Di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được kiểm kê đầy đủ
và đánh giá đúng mức. Bản sắc văn hóa các dân tộc, nhất là những dân tộc ít người,
những dân tộc ở gần vùng đô thị đã và đang có nguy cơ bị xói mòn, mai một dần. Nạn
chảy máu cổ vật, thất thoát các cổ vật quý hiếm đã xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi
60
đặc biệt là khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc. Nhiều công trình văn hóa nghệ
thuật truyền thống bị hư hỏng, biến dạng, xuống cấp nghiêm trọng, thiếu sự bảo tồn
trùng tu, quản lý và phát huy đúng mức.
Trang phục, nếp sống văn hóa, văn nghệ dân gian, phong tục tập quán… trong
quá trình hội nhập nhiều nơi đã bị pha tạp, lai căng, biến dạng, mất dần bản sắc các
dân tộc thiểu số. Một bộ phận đồng bào các dân tộc có biểu hiện coi nhẹ tiếng nói, chữ
viết, trang phục truyền thống của dân tộc mình.
Cấu trúc gia đình, giá trị đạo đức gia đình và đạo đức cá nhân trong gia đình khu
vực này cũng đang có sự thay đổi, dạn nứt: nhiều phụ nữ vùng biên lấy chồng nước
ngoài ở lại nước ngoài sau hôn nhân, vẫn còn nạn tảo hôn, thách cưới theo tập tục cũ,
tình trạng buôn bán phụ nữ qua biên giới còn tồn tại.
Mức hưởng thụ về văn hóa còn quá thấp, vẫn còn tình trạng “đói văn hóa, thiếu
thông tin”. Những tập tục lạc hậu trong cưới, tang, lễ hội, lối sống, nếp sống… vẫn còn
tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống văn hóa của nhân dân. Bên cạnh
đó là sự tác động mạnh của văn hóa ngoài luồng, sự thâm nhập và phát triển của các
loại hình tôn giáo như đạo tin lành bị kẻ xấu lợi dụng, tác động và ảnh hưởng không
tốt đến các mặt trong cuộc sống cộng đồng của các dân tộc.
Thực tế còn tồn tại là một số vùng đồng bào dân tộc vẫn ở trong tình trạng đói
văn hoá, thông tin, thiếu đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ; văn hoá dân tộc
đang đứng trước thách thức bị mai một bản sắc truyền thống; việc thực hiện xã hội hoá
hoạt động văn hoá thật sự khó khăn. Vấn đề đặt ra là xây dựng đời sống văn hoá ở cơ
sở khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc nhằm bảo tồn, phát triển văn hoá các dân
tộc thiểu số trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất cần thiết.
Trong quá trình thực hiện, chúng ta phải xác định cụ thể hiện tại khu vực này đang
thiếu gì, cần gì? Nơi nào thực sự đói văn hoá, nghèo thông tin, đặc biệt là vùng lõm,
vùng sâu, vùng xa… Coi việc xây dựng Nếp sống văn hóa, gia đình văn hoá. làng
(thôn, ấp, bản) văn hóa là nhiệm vụ quan trọng tối cần thiết trong công tác xây dựng
đời sống văn hoá cơ sở. Đối với khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc nhà nước
cần xây dựng hệ thống cơ chế chính sách ưu tiên đầu tư phát triển sự nghiệp xây dựng
đời sống văn hoá cơ sở. Việc ban hành chính sách phải đảm bảo sự thống nhất đại
đoàn kết các dân tộc; chính sách phải góp phần thúc đẩy sự phát triển chung; bên cạnh
cái chung có chú ý đến những đặc điểm riêng biệt, đặc thù vùng, miền, theo tinh thần
thống nhất trong đa dạng. Việc ban hành cơ chế chính sách phải chú ý đến sự phát
triển toàn diện cả kinh tế, văn hoá, ổn định tư tưởng chính trị xã hội. Trong công tác
hướng dẫn xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hoá. làng (thôn, ấp, bản) văn hóa,
Công chức văn hóa xã hội cần tập trung một số nội dung như sau:
Thứ nhất: Coi trọng và làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc
(cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể). Phát huy truyền thống văn hoá và bản sắc
dân tộc thông qua việc sưu tầm nghiên cứu, tổ chức các lễ hội và bảo tồn các bản, làng
truyền thống tiêu biểu gắn với du lịch. Gắn công tác xây dựng đời sống văn hoá với
việc phát huy văn hoá tộc người, chú ý bảo tồn phong tục tập quán, lối sống nếp sống
của từng dân tộc, tham gia giữ gìn, giới thiệu sử dụng tiếng nói, chữ viết, trang phục
dân tộc trong giao lưu văn hóa cộng đồng. Chú trọng điều tra, sưu tầm, nghiên cứu phổ
biến các giá trị văn hóa nghệ thuật, các nghề thủ công, trang phục truyền thống của các
dân tộc thiểu số miền núi. Khôi phục và nâng cao chất lượng các lễ hội truyền thống,
những phong tục tập quán lành mạnh của các dân tộc trong cưới, tang, lễ hội…
61
Thứ hai: Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh
hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn
truyền thống văn hoá trong gia đình, trong làng, thôn, bản, ấp, tạo điều kiện cho quần
chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thực hiện quyền làm
chủ của mình.
Thứ ba: Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa. Tuyên truyền cho đồng bào các
dân tộc biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của
mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống mới. Xây dựng
và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền thống tốt đẹp. Giữ
gìn, bảo vệ môi trường văn hóa, môi trường thiên nhiên, tránh những tác động xấu như
chặt phá rừng, di dân tự do. Trong quá trình xây dựng nếp sống mới, tránh áp đặt một
cách cứng nhắc dẫn đến hiệu quả thấp. Tổ chức hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh
để thu hút nhân dân tham gia thông qua hoạt động này nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và vô
hiệu hoá các hoạt động tôn giáo trái phép, Đồng thời chống lại các hủ tục, mê tín, dị
đoan, lạc hậu trong việc cưới, việc tang, lễ hội và các tệ nạn xã hội khác.
Thứ tư: Đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân
chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho
nhân dân. Chọn một số làng bản tiêu biểu ở vùng có truyền đạo trái phép để chỉ đạo
xây dựng thành một đơn vị văn hóa. Từng địa phương cần nghiên cứu các mô hình tốt,
rút kinh nghiệm kịp thời, tổ chức các hình thức liên hoan gia đình văn hóa và làng, bản
văn hóa, tham quan, giới thiệu kinh nghiệm những gia đình và làng bản tốt, biểu
dương khen thưởng kịp thời để mở rộng phong trào.
Thứ năm: Khôi phục và tích cực quảng bá các lễ hội truyền thống, tu bổ tôn tạo
các di tích, địa danh lịch sử văn hóa. Những tỉnh có điều kiện, cần mạnh dạn xây dựng
làng (thôn, ấp, bản) văn hóa gắn với du lịch ở những địa điểm thích hợp nhằm thu hút
khách tham quan du lịch, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Thứ sáu: Về chính sách đào tạo cán bộ công chức xã
Vấn đề cơ bản của công tác dân tộc là vấn đề văn hoá và cán bộ. Thực tế hoạt
động cho thấy, dù điều kiện cơ sở vật chất có tốt nhưng tác dụng và hiệu quả của hoạt
động văn hoá thông tin cơ sở lại phụ thuộc vào sự điều hành và tổ chức nội dung hoạt
động của cán bộ văn hoá. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày
10-10-2003 đã xác định chức danh cán bộ văn hoá xã hội. Nhưng hiện nay trong mặt
bằng chung của cả nước, cán bộ công chức văn hoá xã hội vừa thiếu, vừa yếu về trình
độ chuyên môn lại không ổn định về nhân sự, đặc biệt vùng sâu, vùng xa cán bộ lại
càng thiếu. Do đó việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức văn hoá xã hội khu vực
trung du, miền núi, vùng dân tộc là hết sức cần thiết trong cả hiện tại và tương lai.
Trước tiên, cần chú trọng đào tạo cán bộ tại chỗ, đề nghị Nhà nước tăng chỉ tiêu biên
chế cử tuyển con em đồng bào dân tộc vì trên thực tế nguồn cán bộ tại chỗ có ưu thế
biết sử dụng tiếng dân tộc để tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc. Đồng thời có
chính sách đãi ngộ nhằm thu hút cán bộ vùng xuôi về công tác tại vùng đồng bào các
dân tộc, tạo điều kiện về mọi mặt để cán bộ gắn bó với địa bàn công tác của mình.
Xây dựng Nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa khu
vực trung du, miền núi, vùng dân tộc là thiết thực bảo tồn, phát triển văn hoá các dân
tộc thiểu số trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại. Trong quá trình thực
hiện phải chú trọng phát triển kinh tế xã hội gắn liền với phát triển văn hoá; tích cực
xoá đói giảm nghèo được tiến hành đồng thời với việc xoá đói thông tin, xoá vùng
trắng, xã trắng về văn hoá, tăng cường đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá”. Đó chính là yếu tố tích cực đưa văn hoá trở thành
62
động lực, mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực trung du, miền núi,
vùng dân tộc thiểu số nói riêng và của cả nước nói chung.
*****************
Câu hỏi thảo luận
1. Anh (chị) cho biết những khái niệm cơ bản về lối sống, nếp sống, phong tục,
tập quán, đạo đức và phong hóa.
2. Anh (chị) cho biết xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa gồm những tiêu
chí nào, nội dung cụ thể của từng tiêu chí.
3. Để tham mưu Chính quyền xã triển khai thực hiện xây dựng gia đình văn hóa,
làng văn hóa, nhiệm vụ của công chức văn hóa xã hội xã phải làm gì?
Bài tập tình huống:
1. Địa phương anh (chị) đang sống và công tác, một bộ phận nhân dân không xây
dựng nhà vệ sinh, anh (chị) suy nghĩ và thuyết phục như thế nào để nhân dân đồng tình
thực hiện xây nhà vệ sinh.
2. Có một nhóm người đến địa phương anh (chị) đang sống và công tác để truyền
đạo trái phép, anh chị phải làm gì để thuyết phục bà con không đi theo họ.
Tài liệu tham khảo:
- Bắt buộc đối với học viên:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa: Văn bản chỉ đạo hướng dẫn phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa, Hà Nội, 2006.
2. Ban Chỉ đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn: Hỏi-Đáp về Xây dựng Nếp
sống văn minh-Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010 (tái bản năm 2011).
3. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch - Cục Văn hóa cơ sở: Văn bản của Đảng và
Nhà nước về Nếp sống văn hóa, Hà Nội, 2008.
- Tham khảo mở rộng:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương: Hỏi và đáp Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, Hà Nội, 2001.
2. Bộ Văn hóa - Thông tin - Cục Văn hóa Thông tin cơ sở: Trần Hữu Tòng, Trương
Thìn (Chủ biên): Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, Hà Nội, 1997;
3. Bộ Văn hóa Thông tin - Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở: Hà Văn Tăng (Chủ
biên): Tài liệu Nghiệp vụ Văn hóa -Thông tin cơ sở, Hà Nội, 2004;
4. Bộ Văn hóa Thông tin - Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở: Sổ tay Công tác Văn
hóa Thông tin-Bộ Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2005;
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998;
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001;
63
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006;
8. Đời sống mới-Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007;
9. Luật Hôn nhân và gia đình-Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004;
10. Luật Thi đua Khen thưởng-Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005;
11.Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội nghị Lần thứ mười Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Khóa IX-Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004;
12. Văn bản chỉ đạo hướng dẫn phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa-Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa, Hà Nội, 2006;
13. Văn bản của Đảng và Nhà nước về Nếp sống văn hóa-Bộ Văn hóa, Thể Thao
và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), Hà Nội, 2008;
64
KỸ NĂNG QUẢN LÝ, HƯỚNG DẪN, TỔ CHỨC VIỆC CƯỚI,
VIỆC TANG VÀ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC TRUNG DU,
MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
Th.s. TRẦN THỊ TUYẾT MAI
Th.s. NGUYỄN THANH THỦY
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
- Cung cấp cho học viên các văn bản của Đảng và Chính phủ về vấn đề cưới, tang
và lễ hội và nội dung cụ thể của một số văn bản cần thiết trong quá trình triển khai
thực hiện ở cơ sở; một số vấn đề chung và định hướng thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn khu vực trung du miền núi, vùng dân
tộc; cung cấp cho học viên nắm được quy trình, các bước cần thực hiện để tổ chức việc
cưới, việc tang và lễ hội trong việc thực hiện nhiệm vụ của Công chức Văn hóa, Xã
hội xã.
2. Yêu cầu
Học viên cần nắm được chủ trương của Đảng, đường lối chính sách của Nhà nước
về việc cưới, việc tang và lễ hội; nắm được quy trình, các bước thực hiện để vận dụng
trong tham mưu cho chính quyền xã chỉ đạo và hướng dẫn cho nhân dân thực hiện tổ chức
đám cưới, đám tang và lễ hội trên địa bàn khu vực trung du miền núi, vùng dân tộc;
B. NỘI DUNG
1. Văn bản của Đảng và Chính phủ về việc cưới, việc tang và lễ hội
Từ nhiều năm qua, cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh-gia đình văn hoá
đã được thực hiện trong cả nước. Nhiều tỉnh, thành phố đã có những việc làm thiết
thực đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, thôn ấp văn hoá; bước đầu hình
thành một số nghi thức mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội, cải tạo phong tục tập
quán lạc hậu, phát huy truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, hiếu thảo, thuỷ
chung của dân tộc.
Những năm gần đây, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường, chúng ta đã có phần buông lỏng chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực văn hoá -
xã hội, xem nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống, thiếu sự hướng dẫn kịp thời về
phong tục, thiếu những quy định cụ thể của Nhà nước đối với việc cưới, việc tang, lễ
hội nên đã để phát sinh nhiều hiện tượng không lành mạnh trong xã hội. Đã có hiện
tượng do hiếu danh, vụ lợi, tổ chức đám cưới, đám tang linh đình, phô trương, có
những trường hợp cưới thực chất là “Bán cỗ thu tiền”. Mê tín dị đoan cùng nhiểu hủ
tục, kể cả một số hủ tục mới hình thành do thói đua đòi và do cách học theo nước
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
65
ngoài thiếu sự phê phán, chọn lọc, đang có khuynh hướng phục hồi và phát triển khá
phổ biến ở nhiều nơi…
Những hiện tượng trên trở thành những vấn đề xã hội nhức nhối, làm xói mòn các
giá trị đạo đức truyền thống, lối sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, phá hoại thuần
phong mỹ tục, ảnh hưởng xấu tới đời sống tinh thần vật chất của nhân dân, ngày càng
bị những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên án, không đồng tình.
Trước tình hình đó đòi hỏi Đảng có phương hướng chiến lược cùng các nhiệm vụ
và giải pháp để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn
hoá nước ta theo đúng cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ
chức, ban hành Chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của
ngành văn hoá, hướng tới xây dựng đời sống văn hoá văn hoá lành mạnh từ mỗi gia
đình và cộng đồng vì một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1. Chỉ thị của Đảng và Chính phủ
1.1.1. Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-01-1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) Về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
a) Nội dung Chỉ thị: Bộ Chính trị quyết định mở cuộc vận động sâu rộng trong
toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hoá, trong
đó có việc thiết lập nếp sống lành mạnh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo những
định hướng:
- Bảo tồn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của
dân tộc; loại bỏ dần trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây
dựng và hình thành dần những hình thức vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản
sấc văn hoá dân tộc trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
- Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu.
- Chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi.
- Xoá bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan.
b) Chỉ đạo thực hiện:
- Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải thực sự quan tâm, có kế hoạch cụ thể
chỉ đạo xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, coi đó là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của địa phương để đảm bảo thực hiện thắng lợi cuộc
vận động.
- Ngành Văn hoá, Thông tin (nay là Văn hoá, Thể thao và Du lịch) có trách
nhiệm xây dựng và hướng dẫn những nghi thức phù hợp trong việc cưới, việc tang, lễ
hội; kiến nghị Nhà nước bổ sung luật lệ và quy định về lĩnh vực này theo các định
hướng đã nêu ở trên; các địa phương dựa vào các quy định này mà cụ thể hoá và vận
dụng thích hợp với điều kiện của từng vùng, giữ gìn thuần phong mỹ tục; hình thành
những tập quán mới tiến bộ, khắc phục các tập quán lạc hậu.
66
1.1.2. Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg ngày 28-3-1998 của Thủ tướng Chính phủ
Về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
Để thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị, Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu các ngành, các cấp có kế hoạch cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả
cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội với các
nội dung chủ yếu như sau:
- Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể và các tổ chức xã hội các cấp, theo chức trách và thẩm quyền của
mình, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với thực tế của địa phương và
triển khai thực hiện tới tận cơ sở; coi đây là công tác trọng tâm trong nhiều năm nhằm
xây dựng nếp sống văn minh, tiến bộ, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
- Kiện toàn Ban Chỉ đạo nếp sống văn hóa ở các địa phương, Trưởng ban chỉ đạo
do một Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm, Phó trưởng ban là Thủ trưởng cơ
quan Văn hóa - Thông tin và mời đại diện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tham gia, thành
viên là đại diện một số ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Văn phòng Ban Chỉ đạo đặt tại
cơ quan Văn hóa-Thông tin (nay là Văn hoá, Thể thao và Du lịch).
1.1.3. Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg ngày 19-6-1998 của Thủ tướng Chính phủ
Về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư
a)Nội dung: Nội dung của hương ước, quy ước cần tập trung vào một số vấn đề
cơ bản sau đây.
- Bảo đảm giữ gìn và phát huy thuần phong, mỹ tục, thực hiện các hành vi ứng xử
văn minh trong giao tiếp, ăn, ở, đi lại…xoá bỏ hủ tục. Phát triển các hình thức hoạt
động văn hoá lành mạnh, phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái,
hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư.
- Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản công cộng và tài sản của công dân,
bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng, biển, sông, hồ, danh lam thắng cảnh, đều chùa,
miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh mương, kè cống. Xây dựng và
phát triển đường làng, ngõ xóm, trồng cây xanh, chống ô nhiễm các nguồn nước… ở
địa phương;
- Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong mỹ tục, bài trừ các hủ tục trong ma
chay, cưới hỏi, thờ phụng, lễ hội… ở địa phương;
- Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, đề ra những tiêu
chuẩn gia đình văn hoá, các quy tắc đạo đức mới, giúp đỡ nhau tìm ra các biện pháp
xử lý tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình;
- Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng, vận động các
thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn kết nhau để xoá đói giảm nghèo, phát
triển sản xuất, nâng cao mức sống, khuyến học, khuyến nghề… ở địa phương;
- Đề ra các biện pháp thích hợp góp phần bảo vệ trật tự, trị an trên địa bàn.
67
b)Nguyên tắc: Dự thảo hương ước, quy ước phải được nhân dân trên địa bàn thảo
luận, được hội nghị cử tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư thông qua và được Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm
bảo đảm nội dung của hương ước, quy ước không trái với các quy định của pháp luật hiện
hành, không chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoản phí và lệ phí có thể gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
c) Tổ chức thực hiện: Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm chỉ đạo, hỗ trợ các
làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư xây dựng hương ước, quy ước có nội dung phong phú,
thiết thực phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, và trình Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt. Uỷ ban nhân dân
cấp xã thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn.
1.2. Văn bản của Chính phủ
1.2.1. Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ (Ban hành kèm theo Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn
hóa công cộng)
Nghị định gồm 10 chương và 38 điều với quy định chung: Các hoạt động văn hóa
và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng phải nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; giáo dục nếp sống lành mạnh và phong cách ứng xử có văn
hóa cho mọi người; kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong
mỹ tục; nâng cao hiểu biết và trình độ thẩm mỹ, làm phong phú đời sống tinh thần của
nhân dân; ngăn chặn sự xâm nhập và bài trừ những sản phẩm văn hóa có nội dung độc
hại; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị định quy định các hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công
cộng gồm: Lưu hành kinh doanh phim nhựa, băng đĩa phim, băng đĩa ca nhạc, sân
khấu, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức lễ hội, viết đặt biển hiệu, hoạt động vũ trường, ka
raoke, trò chơi điện tử, các dịch vụ văn hoá và các hình thức vui chơi giải trí khác.
Trong Chương V (từ điều 17 đến điều 21) quy định về tổ chức lễ hội, trong đó có
các điều khoản quy định lễ hội khi tổ chức phải được phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương gồm:
a) Lễ hội được tổ chức lần đầu;
b) Lễ hội được khôi phục lại sau nhiều năm gián đoạn;
c) Lễ hội đã được tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa
điểm so với truyền thống;
d) Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài do tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức Việt
Nam tổ chức.
1.2.2. Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá
Nghị định gồm 4 chương với 52 điều quy định mức xử phạt cụ thể đối với các
hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá.
68
1.2.3. Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25-11-2005 của Thủ tướng Chính
phủ Ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Quy chế quy định việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội:
- Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
công ty của nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề
nghiệp; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong các đơn vị thuộc
lực lượng vũ trang (quân đội nhân dân và công an nhân dân) phải gương mẫu thực
hiện và có trách nhiệm vận động gia đình, cộng đồng dân cư thực hiện Quy chế này.
- Mọi gia đình công dân có trách nhiệm thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội.
Tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội phải đảm bảo:
- Không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không được thực hiện các hoạt
động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, xóc thẻ, yểm bùa, trừ tà và các hình thức
mê tín dị đoan khác.
- Không gây mất trật tự, an ninh xã hội; không lợi dụng để truyền đạo trái phép
và có các hoạt động chia rẽ đoàn kết dân tộc.
- Không làm cản trở giao thông và các hoạt động công cộng.
- Không tổ chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức.
- Giữ gìn sự yên tĩnh, hạn chế gây tiếng ồn vào ban đêm.
- Các đối tượng quy định trên không mời, không dự tiệc cưới trong giờ làm việc;
không sử dụng thời gian làm việc, công quỹ và phương tiện của cơ quan, đơn vị, tổ
chức để đi dự lễ hội khi không có nhiệm vụ.
- Không lợi dụng việc cưới, việc tang để nhận quà biếu nhằm trục lợi cá nhân; sử
dụng công quỹ của cơ quan, đơn vị, tổ chức để làm quà mừng cưới, viếng đám tang
phục vụ cho mục đích cá nhân.
Quyết định quy định cụ thể về việc cưới, việc tang, lễ hội và xử phạt vi phạm
hành chính đối với đối tượng vi phạm:
- Việc cưới cần được tổ chức trang trọng, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong
tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.
- Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về hộ tịch,
môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; việc tang cần được tổ chức chu đáo, trang
nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm; thực hiện những quy định trong hương ước, quy ước của
địa phương về việc tang.
- Khi tổ chức lễ hội, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân
phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ
hội do Bộ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin ban hành. Chính quyền địa phương, cơ quan,
đơn vị, tổ chức phải có biện pháp quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời những
69
hành vi vi phạm di tích, danh lam thắng cảnh; lừa đảo, trộm cắp của du khách; thương
mại hoá và các hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội theo phạm vi và thẩm quyền của
mình khi tổ chức lễ hội.
- Tổ chức, cá nhân có thành tích thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội sẽ được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Các đối tượng quy định tại Quy chế này có hành vi vi phạm hoặc lợi dụng chức
vụ, quyền hạn làm trái các quy định trong Quy chế này thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật.
- Ủy ban nhân dân các cấp có kế hoạch phát huy các nguồn lực để xây dựng Nhà
Văn hoá, Nhà Tang lễ, trang bị xe tang của địa phương, góp phần thực hiện tốt việc
cưới, việc tang cho nhân dân.
1.2.4. Quyết định số 74/2007/QĐ-TTg ngày 25-5-2007 của Thủ tướng
Chính phủ Về việc tổ chức bắn pháo hoa nhân dịp Tết Nguyên đán, một số ngày kỷ
niệm của đất nước, của địa phương và các ngày lễ văn hoá, du lịch, thể thao
Quyết định gồm 6 điều quy định cụ thể các ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm được bắn
pháo hoa và địa điểm, thời gian, thời lượng, thời điểm được bắn pháo hoa đối với từng
ngày lễ, tết…
1.2.5. Công điện số 162/CĐ-TTg ngày 09 tháng 02 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ Về Công tác quản lý và tổ chức lễ hội.
1. 3. Văn bản của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1.3.1. Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21 tháng 01 năm 2011 Quy
định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội
Thông tư gồm 3 chương 14 điều quy định cụ thể về thực hiện nếp sống văn minh
trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
- Về nguyên tắc trong tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội, thông tư quy định cụ
thể: Tổ chức, cá nhân khi tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội phải tuân thủ các
nguyên tắc:
1. Không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không để xảy ra các hoạt động
mê tín dị đoan.
2. Không lợi dụng việc cưới, việc tang và lễ hội để hoạt động nhằm chia rẽ đoàn
kết dân tộc, gây mất đoàn kết trong cộng đồng, dòng họ và gia đình.
3. Không làm ảnh hưởng đến an toàn giao thông và trật tự, an toàn công cộng.
4. Không tổ chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Không được sử dụng thời gian làm việc và phương tiện của cơ quan đi đám
cưới, lễ hội (trừ cơ quan làm nhiệm vụ); không sử dụng công quỹ của cơ quan làm quà
mừng, quà tặng trong đám cưới và viếng đám tang.
- Một số Quy định về Nếp sống văn minh trong việc cưới, tang và lễ hội
70
a) Tổ chức việc cưới
- Việc cưới phải được tổ chức theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch và các quy định pháp luật khác có liên quan.
- Đôi nam nữ để trở thành vợ chồng phải đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai người theo quy định của pháp luật. Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tổ chức trao giấy chứng nhận kết hôn
cho đôi nam nữ đã hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn, thể hiện sự thừa nhận kết hôn
hợp pháp của Nhà nước và pháp luật.
Việc tổ chức lễ cưới tại gia đình hoặc tại địa điểm cưới phải thực hiện các quy định:
- Đảm bảo trang trọng, tiết kiệm, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong tục, tập
quán, truyền thống văn hoá của từng địa phương, dân tộc, tôn giáo và phù hợp với
hoàn cảnh của hai gia đình;
- Các thủ tục chạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu cần được tổ chức theo phong tục, tập
quán; không phô trương hình thức, rườm rà; không nặng về đòi hỏi lễ vật;
- Tổ chức tiệc cưới phù hợp với hoàn cảnh gia đình, tránh phô trương, lãng phí;
- Âm nhạc trong đám cưới phải lành mạnh, vui tươi; không mở nhạc trước 06 giờ
sáng và sau 22 giờ đêm.
b) Tổ chức việc tang
Việc tang phải được tổ chức theo quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý
hộ tịch, pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về y tế và các quy định pháp luật
khác có liên quan. Lễ tang được tổ chức tại nhà hoặc tại địa điểm công cộng phải thực
hiện các quy định sau:
- Lễ tang phải được tổ chức chu đáo, trang nghiêm, tiết kiệm, phù hợp với tập
quán, truyền thống văn hoá dân tộc và hoàn cảnh gia đình người qua đời;
- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tổ chức lễ tang chu đáo; vận động gia đình có người từ trần xoá bỏ các hủ tục lạc
hậu, các hành vi mê tín dị đoan trong lễ tang;
- Cấm rải tiền Việt Nam và các loại tiền của nước ngoài trên đường đưa tang;
- Nghiêm cấm lợi dụng việc tang để hành nghề mê tín dị đoan dưới mọi hình
thức; nghiêm cấm lợi dụng việc tang để cản trở việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
công dân trước pháp luật.
c) Tổ chức lễ hội
Tổ chức, cá nhân, khi tổ chức hoặc tham gia lễ hội, phải thực hiện các quy định sau:
- Nghi thức lễ hội phải được tiến hành trang trọng, phù hợp với truyền thống văn
hoá dân tộc;
- Trong khu vực lễ hội, cờ Tổ quốc phải được treo nơi trang trọng, cao hơn cờ
hội, cờ tôn giáo; chỉ treo cờ hội, cờ tôn giáo tại địa điểm lễ hội và trong thời gian tổ
chức lễ hội;
71
- Thực hiện đúng nội quy, quy định của Ban tổ chức lễ hội;
- Trang phục đẹp, lịch sự, phù hợp với thuần phong mỹ tục;
- Không nói tục, xúc phạm tâm linh và ảnh hưởng xấu tới không khí trang
nghiêm của lễ hội;
- Bảo đảm trật tự, an ninh khi dự lễ hội; không đốt pháo, đốt và thả đèn trời;
- Ứng xử có văn hoá trong hoạt động lễ hội;
- Không bán vé vào dự lễ hội;
- Nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan như xem số, xem bói,
gọi hồn, cầu cơ, sấm truyền, yểm bùa, trừ tà, phù phép chữa bệnh;
- Không đốt đồ mã trong khu vực lễ hội.
- Thắp hương theo quy định của Ban tổ chức lễ hội.
d) Trách nhiệm tổ chức thực hiện
Các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch đặc biệt chú trọng hướng dẫn xây dựng
các quy ước về việc cưới, việc tang và lễ hội phù hợp với phong tục, tập quán từng
vùng, từng dân tộc; tập trung chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm từ những cơ sở tốt
nhân ra diện rộng; gắn việc thực hiện quy ước về việc cưới, việc tang và lễ hội với
xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, cơ quan, xí nghiệp, trường học văn hoá
trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
1.3.2. Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23-8-2001 của Bộ trưởng
Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quy
chế tổ chức lễ hội
Quy chế gồm 3 chương 19 điều trong đó quy định cụ thể về công tác quản lý và
tổ chức lễ hội của 4 loại hình lễ hội gồm:
1. Lễ hội dân gian
2. Lễ hội lịch sử Cách mạng
3. Lễ hội tôn giáo
4. Lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam
Quy định chung:
- Tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, danh nhan văn hoá, các
bậc tiền bối đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Bảo tồn và phát huy các gía trị văn hoá tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
- Đáp ứng nhu cầu văn hoá, tín ngưỡng, tham quan các di tích lịch sử - văn hoá,
danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quanh thiên nhiên và các
nhu cầu chính đáng của nhân dân.
- Nghi thức của các lễ hội phải được tiến hành trang trọng theo truyền thống có
sự hưóng dẫn của ngành Văn hoá, Thông tin (Nay là Văn hoá, Thể thao và Du lịch).
72
- Việc tổ chức những trò chơi dân gian, hoạt động văn nghệ, thể thao trong khu
vực lễ hội phải có nội dung bổ ích, lành mạnh, phù hợp với quy mô, tính chất, đặc
điểm của lễ hội.
- Tất cả các lễ hội khi tổ chức đều phải thành lập Ban tổ chức lễ hội.
- Người đến dự hội phải thực hiện nếp sống văn minh và những quy định của Ban
tổ chức lễ hội.
- Tổ chức dịch vụ trong khuôn viên di tích phải theo quy định của Ban tổ chức.
- Nguồn thu từ công đức, từ thiện phải được quản lý và sử dụng theo đúng quy
định của pháp luật.
1.3.3. Quyết định số 1502/QĐ-BVHTTDL ngày 29 tháng 4 năm 2010 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc ban hành Kế hoạch của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện Kết luận số 51-KL/TW ngày 22 tháng 7 năm 2009
của Bộ Chính trị (khóa X)
Nội dung quyết định:
Các tỉnh, thành phố tiến hành rà soát, thống kê lại toàn bộ các hoạt động cưới, tang, lễ
hội. Tập trung chỉ đạo hướng dẫn các hoạt động cưới, tang, lễ hội tập trung vào thực hiện
Kết luận số 51-KL/TW ngày 22 tháng 7 năm 2009 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực
hiện Chỉ thị 27-CT/TW ngày 12 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội:
- Về việc cưới: Tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức và nhân dân tổ chức
việc cưới trang trọng, văn minh, tiết kiệm phù hợp với truyền thống dân tộc và bản sắc
văn hóa từng vùng, miền. Khuyến khích dùng hình thức tiệc trà, báo hỷ thay cho tiệc
mặn, tổ chức đám cưới tại nhà văn hóa, câu lạc bộ của cơ quan doanh nghiệp hoặc
cộng đồng dân cư. Tổ chức tiệc cưới chỉ mời họ hàng, bạn bè thân thiết, hạn chế mời
khách. Không sử dụng tiền công quỹ để làm quà mừng cưới dưới mọi hình thức.
- Về việc tang: Thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước trong tổ chức
tang lể. Mọi nghi thức tang lễ phải được thực hiện gọn gàng, vệ sinh, văn minh tiết
kiệm. Kiên quyết xóa bỏ các tệ nạn mê tín dị đoan trong tang lễ. Không tổ chức cỗ
bàn mời khách trong ngày tang lễ. Sử dụng nhạc tang phải phù hợp và giữ gìn bản
sắc văn hóa vùng miền. Nghiêm cấm lợi dụng việc tang để hành nghề mê tín dị
đoan dưới mọi hình thức.
- Về lễ hội: Cần tạo sự chuyển biến về nhận thức của các ban ngành đoàn thể các
cấp, về nội dung và ý nghĩa hoạt động lễ hội, chú trọng công tác tuyên truyền các giá
trị lịch sử văn hoá và tôn vinh công trạng của danh nhân được thờ để nhân dân hiểu
biết gía trị của di tích cũng như những quy định của pháp luật có liên quan, kịp thời chỉ
đạo và uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện nếp sống
văn hoá trong lễ hội, cần quản lý chặt chẽ việc đặt hòm công đức, khay đĩa để tiền giọt
dầu và việc sử dụng nguồn thu này; quy hoạch sắp xếp các hàng quán dịch vụ, hoạt
động vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân dân địa phương có thêm thu nhập
nhưng vẫn đảm bảo tính văn hoá trong các hoạt động dịch vụ, không tạo kẽ hở nảy
73
sinh các hiện tượng tiêu cực, mất đi bản sắc văn hoá và ý nghĩa mục đích tốt đẹp của lễ
hội, gắn kết khai thác tiềm năng kinh tế văn hoá du lịch và hoạt động lễ hội của địa
phương nhằm khơi dậy và tạo ra những tiềm năng kinh tế mới.
Bảo tồn có chọn lọc các gía trị văn hoá truyền thống đặc sắc trong lễ hội, loại bỏ
dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các yếu tố văn hoá mới phù hợp đặc biệt coi
trọng tính đặc thù, tính độc đáo riêng của mỗi loại hình lễ hội, tránh cào bằng đồng
loạt dẫn đến sự nhàm chán trong hoạt động và sinh hoạt lễ hội. Phải bằng mọi cách
khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống của mỗi vùng, miền
khu vực. Các địa phương cần tiến hành rà soát quy hoạch lễ hội, tăng cường công tác
quản lý, nghiên cứu để việc tổ chức lễ hội ngày càng khoa học góp phần bảo vệ công
trình di tích lịch sử văn hoá và giữ gìn vệ sinh môi trường.
- Tùy vào đặc điểm và phong tục tập quán của từng địa phương, kịp thời bổ sung
hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội phù hợp với
phong tục tập quán nhưng đảm bảo văn minh, tiến bộ.
1.4. Các văn bản liên quan
1.4.1. Nghị định số 35/2008/NĐ-CP ngày 25-3-2008 của Chính phủ về xây
dựng quản lý và sử dụng nghĩa trang;
1.4.2. Thông tư số 02/2009/TT-BYT ngày 26-5-2009 của Bộ Y tế hướng dẫn vệ
sinh trong hoạt động mai táng và hoả táng.
2. Tình hình tổ chức việc cưới, việc tang và lễ hội hiện nay
Xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh trong đời sống xã hội là góp phần tạo nên
động lực quan trọng, đẩy nhanh quá trình đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm
tới nhiệm vụ xây dựng và phát triển đời sống văn hoá, xã hội bên cạnh các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh quốc phòng của đất nước. Cuộc vận động xây
dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá được thực hiện trong cả nước từ nhiều thập kỷ
qua, đã thu được những kết quả tốt. Nhiều hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang, lễ hội
và các sinh hoạt xã hội khác được đẩy lùi và loại bỏ. Một số nghi thức mới tiến bộ đã
được hình thành, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nét đẹp của phong tục tập quán truyền
thống, phù hợp với đời sống xã hội ngày càng phát triển. Tuy nhiên trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, mở cửa giao lưu hội nhập, do những tác
động từ bên ngoài cũng như có phần buông lỏng quản lý chỉ đạo trên một số lĩnh vực văn
hoá xã hội, về việc cưới, việc tang, lễ hội nên đã dẫn đến phát sinh một số hiện tượng tiêu
cực như việc tổ chức đám cưới, đám tang linh đình phô trương, mang tính trục lợi. Hiện
tượng tổ chức lễ hội tràn lan cùng với tệ nạn mê tín, dị đoan, hủ tục cũ và mới trỗi dậy, trở
thành vấn đề xã hội nhức nhối, làm xói mòn giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ
tục và lối sống cần kiệm, giản dị của dân tộc gây bất bình trong dư luận nhân dân, là nguy
cơ kìm hãm sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
2.1.Về việc cưới:
Việc cưới là việc lớn và quan trọng cuộc đời của mỗi con người được Nhà nước
và xã hội coi trọng, được pháp luật bảo hộ. Tổ chức việc cưới phù hợp với điều kiện
74
kinh tế xã hội sẽ góp phần hoàn thiện nếp sống, phong tục của dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Quy trình hôn lễ ngày nay bao gồm 4 lễ thức cơ bản như sau:
a) Lễ chạm ngõ: Lễ chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên giữa hai gia đình nhà trai và
nhà gái sau khi đôi nam, nữ đã tìm hiểu và báo với gia đình và quyết định đi tới hôn
nhân. Trong lễ chạm ngõ, ngoài việc thăm hỏi, tìm hiểu để có cách ứng xử phù hợp;
hai gia đình còn bàn đến các bước tiếp theo của hôn nhân; lễ vật trong lễ chạm ngõ
thường rất đơn giản chỉ là trầu và cau.
b) Lễ ăn hỏi: Lễ ăn hỏi tổ chức sau lễ chạm ngõ, vật phẩm của lễ ăn hỏi thường
là: chè, mứt sen, bánh phu thê (xu xê), bánh cốm, trầu, cau... (thuốc lá rất có hại cho
sức khỏe con người, ngày nay chúng ta vận động nhân dân không nên dùng). Thông
thường lễ ăn hỏi phải có 3 lễ: lễ bên nội, lễ bên ngoại và lễ tại gia.
c) Lễ trao giấy chứng nhận kết hôn: Trước khi tổ chức lễ cưới, đôi nam nữ phải
tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi
cư trú (của một trong hai người). Đây cũng là thủ tục bắt buộc có tính pháp lý, thể hiện
ý thức "sống và làm việc theo pháp luật của công dân", biểu hiện của một xã hội phát
triển văn minh. Ngày giờ tổ chức lễ trao giấy chứng nhận kết hôn tuỳ thuộc vào sự
thống nhất giữa chính quyền cơ sở và đôi nam, nữ. Địa điểm tổ chức trao giấy chứng
nhận phải được tổ chức tại nơi trang trọng và có sự chứng kiến của chính quyền và đại
diện hai gia đình (nếu có).
d) Lễ cưới: Lễ cưới thường có những phần chính là:
- Lễ xin dâu,
- Lễ đón và đưa dâu,
- Tổ chức liên hoan tiệc cưới.
Tiệc cưới là dịp vui họp mặt của cô dâu, chú rể cùng gia đình, bè bạn đôi bên
mừng hạnh phúc. Tuỳ vào điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình, mà tổ chức lễ cưới
cho phù hợp, tránh xa hoa, lãng phí không cần thiết.
Đám cưới hiện nay còn có một số phụ trợ trong tổ chức cưới như: Về biểu trưng,
trang phục cô dâu và chú rể, âm nhạc trong đám cưới, phương tiện đi lại, chụp hình
và ghi hình lưu niệm trong đám cưới…
Nghi thức cưói gọn nhẹ tiết kiệm như dùng tiệc trà thay cho tiệc mặn, hình
thức báo hỷ được nhiều gia đình cán bộ công chức và nhân dân hưởng ứng. Dịch
vụ tổ chức đám cưới trọn gói ngày càng phát triển phù hợp với thu nhập, nhanh
gọn, giá cả hợp lý, linh hoạt đáp ứng được nhu cầu của thanh niên rất đồng tình
hưởng ứng.
Cuộc vận động tổ chức việc cưới theo nếp sống văn minh được đồng bào các dân
tộc hưởng ứng thực hiện, tệ nạn ép hôn, tảo hôn, nối dây, thách cưới bằng bạc trắng và
thuốc phiện đã giảm, nhiều nơi loại bỏ hẳn. Tệ nạn ăn uống theo lối “trả nợ miệng” và
nhiều phong tục tập quán rườm rà, hủ tục trong việc cưới cũng từng bước được khắc
phục. Khu vực đồng bào Khơ Me, Chăm, một số dân tộc ở Tây Nguyên, Tây Bắc vẫn
75
bảo tồn và phát huy tốt các yếu tố văn hoá trong đám cưới nhất là về lễ thức trang
phục, ẩm thực truyền thống âm nhạc.
Đã hình thành những phong tục mới trong việc cưới tại nhiều địa phương, như
gặp mặt tư vấn cho đôi vợ chồng trẻ về kinh nghiệm tổ chức gia đình trước ngày cưới.
Đôi vợ chồng trẻ tặng sách cho phòng đọc của thôn, xã làm quà lưu niệm hoặc trồng
cây ở vườn hạnh phúc, dâng hương tại đình làng, đặt hoa tại đài tưởng niệm danh
nhân, đài tưởng niệm liệt sĩ, góp gạch lát đường làng... nhân ngày cưới. Cô dâu, chú rể
mặc trang phục trang phục truyền thống trong lễ cưới. Hầu hết các đám cưới trước đây
thường tổ chức từ 2-3 ngày nay rút lại còn trong 1 ngày hoặc 1/2 ngày. Các lễ thức tiến
hành từ 4 đến 6 bước trước đây, nay cơ bản chỉ còn thực hiện ở 2 lễ là lễ hỏi và lễ
cưới. Nhiều hoạt động văn hoá, văn nghệ vui tươi được tổ chức trong ngày cưới. Hiện
đang xuất hiện mô hình cưới văn minh, lành mạnh, tiết kiệm như tổ chức đám cưới
theo nếp sống mới; Tổ chức dám cưới tập thể tại nhà văn hoá, câu lạc bộ của cơ quan
doanh nghiệp có sự hỗ trợ về vật chất của đơn vị, các đoàn thể. Tiết kiệm được tiền
bạc, thời gian, đảm bảo dúng luật hôn nhân và gia đình, hạn chế được nhiều hủ tục
rườm rà, tốn kém.
Tồn tại: Tổ chức cưới đang có biểu hiện đi ngược lại với phong tục, truyền thống
tốt đẹp của dân tộc.Hiện tượng tổ chức lễ cưới mang tính phô trương, lãng phí, vụ lợi
vẫn còn diễn ra khá phổ biến. Nhiều cán bộ, công chức, Đảng viên và gia đình khá giả
tổ chức cưới cho con linh đình, đặt tiệc cưới tại các nhà hàng khách sạn lớn, sử dụng
các mối quan hệ để mời lượng khách quá đông.
Một số đám cưới tuy đã chuyển từ tiệc mặn sang tiệc ngọt nhưng lại dùng rượu,
bánh, kẹo ngoại đắt tiền. Nhiều đám cưới của công chức, viên chức vẫn tổ chức trong
giờ làm việc, ảnh hưởng đến hoạt động chung của cơ quan… Điều đáng báo động là
nghi thức cưới truyền thống đã bị pha trộn biến dạng. Quà cưới, trang phục cưới, hoa
cưới…đã bị phong cách ngoại hoá lấn át làm mất đi vẻ đẹp truyền thống của văn hoá
Việt Nam. Hiếm thấy cô dâu mặc tà áo dài truyền thống trong lễ cưới hiện nay. Lễ
thức nhiều đám cưới, đám hỏi cầu kỳ tốn kém làm phát sinh các dịch vụ ăn theo mang
tính phô trương hình thức.
Vai trò chủ động của Đoàn thanh niên, Phụ nữ…trong việc xây dựng đám cưới
lành mạnh, tiết kiệm, trang trọng còn mờ nhạt.
2.2. Về việc tang:
Nhiều tỉnh, Thành phố đã lồng ghép cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh
trong việc tang vào phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hóa, lấy kết
quả thực hiện làm một trong những tiêu chí quan trọng trong việc xét và công nhận
danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa.
Về cơ bản, việc tang hiện nay gồm những lễ thức sau:
a) Những công việc chuẩn bị cho người sắp từ trần bao gồm các công việc:
- Lập di chúc: Đây là lời dặn dò, giao cho con cháu thực hiện những việc, nguyện
vọng mà khi còn sống họ chưa thực hiện được. Cũng có thể là việc phân chia tài sản
được viết thành văn bản và có sự chứng kiến của một người khác, nếu người qua đời
76
chưa làm di chúc thì gia đình, con cháu phải thực hiện ghi chép cẩn thận những lời
trăng trối. Việc ghi lại lời trăng trối có nhiều hình thức như viết, ghi âm.
- Đáp ứng những nguyện vọng của người sắp từ trần: Những người sắp qua đời
thường đều có những nguyện vọng, chính vì vậy việc đáp ứng nguyện vọng này là một
trong những điều cần thiết phải thực hiện; đây cũng là sự thể hiện đạo hiếu của người
Việt Nam "nghĩa tử là nghĩa tận".
- Khi người bệnh sắp tắt thở: Sau khi đó hết lòng cứu chữa nhưng người bệnh
khụng qua khỏi: Nếu ở bệnh viện thì đã có bệnh viện lo liệu; Còn ở gia đình cần phải
làm các thủ tục cần thiết như sau: Chuyển người bệnh lên nhà chính; Chuẩn bị lau rửa
cho người bệnh bằng nước thơm (ngũ vị); Thay quần áo mới.
- Khi người bệnh tắt thở:
Thử nghiệm để xác định người bệnh đó thật sự tắt thở chưa: Để sợi bông nhẹ
(hay lông gà) trước mũi. Khi xác định đúng là người bệnh đã tắt thở thì lần lượt làm
các việc như sau: Vuốt mi mắt kín lại; Nắn vuốt miệng kín lại, không để méo mó;
Dùng bông nhét vào lỗ mũi, lỗ tai và hậu môn để tà khí không xông ra ngoài; Giữ chân
tay, thi thể ngay ngắn (có thể dùng vải làm dây to bản buộc ngang bắp tay ở phía dưới
bả vai để hai nách khép lại, dùng một dây khác buộc ngang đùi để thi thể thẳng).
- Báo tử tại Ủy ban nhân dân xã, phường để vào sổ khai tử
- Chuẩn bị áo quan (hay quan tài) và các thứ cần thiết cho việc khâm liệm, nhập
quan: Tuỳ theo điều kiện gia đình mà có thể sử dụng loại áo quan cho phù hợp.
b) Những việc chuẩn bị cho người đã từ trần
- Khâm liệm: Trong tang lễ việc tổ chức khâm liệm được các gia đình tang chủ
hết sức coi trọng, nên thường bố trí những người thân trong gia đình trực tiếp làm.
Nhân dân ta luôn có quan niệm rằng, khâm thì đặt trên giường, liệm thì đặt dưới đất.
Khâm thì để vải dọc mà liệm thì để vải ngang.
- Nhập quan: Khi đặt thi hài vào quan tài, cần dự phòng một số vật liệu để kê, đệm, lót
cho ngay ngắn, phòng khi vận chuyển bị xê lệch. Đặc biệt là kê lót phía đầu quan tài. Sau
khi nhập quan thì đậy nắp và chuyển linh cữu vào gian giữa của nhà chính.
- Lễ phát tang (Báo tang): Sau khi khâm liệm, mọi người thân quyến trong gia
đình tập trung lại chung quanh thi hài để làm lễ phát tang. Người có thẩm quyền trong
gia đình thực hiện nghi lễ phát tang, đồng thời phân phát khăn tang cho con cháu chịu
tang, từ thời gian này trong nhà mới được cất tiếng khóc. Cũng theo tập quán dân tộc,
chỉ sau lễ phát tang mới chính thức báo tang, các thông báo, tin buồn…mới được đưa
ra dán ở nơi cổng nhà, trường, ngõ… Và từ đây mọi người mới đến phúng viếng và có
tiếng kèn trống. Cũng từ lúc này con cháu mới mặc tang phục và chít khăn tang theo
thứ bậc.
- Lập Ban tang lễ: Trong trường hợp cần thiết phải lập Ban tang lễ. Ban tang lễ
gồm đại diện gia đình, chính quyền, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, đại diện cơ quan chủ
quản, Hội người Cao tuổi... Ban tang lễ có nhiệm vụ điều hành từ đầu đến cuối để tổ
chức tang cho chu đáo.
77
c) Quan linh cữu và đặt ban thờ
Việc quàn linh cữu (quan tài) phải thực hiện đầy đủ, đây cũng là quan niệm và
nét văn hoá truyền thống của dân tộc ta. Ngay từ sau khi khâm liệm, quan tài được
định vị nơi quàn thì trên nắp quan tài liên tục được thắp hương, nến để tránh sự lạnh
lẽo. Đồng thời, cũng trên nắp quan tài, nhân dân ta thường cúng bát cơm quả trứng.
Đây là lễ thức có từ ngày xưa. Bát cơm đơm đầy (có mũ lên) tượng trưng cho âm, đôi
đũa vót có lua tua (gọi là đũa bông) tượng trưng cho dương, quả trứng tượng trưng
cho sự sống. Hình tượng bát cơm, quả trứng, đôi đũa bông có ý nghĩa: Có âm, có
dương mới tạo ra sự sống,
Việc đặt ban thờ tưởng niệm tạm thời được đặt ở ngay bên linh cữu (quan tài) cao
hơn quan tài từ 10 đến 25cm. Trên ban thờ đặt ảnh chân dung, Huân chương, huy
chương hoặc kỷ vật tiêu biểu của người quá cố, phía trước là bát hương, hai bên là hoa
quả (không đặt cỗ mặn).
d) Sử dụng nhạc tang và tang phục
- Nhạc tang: Ở nhiều dân tộc khác nhau với những quan niệm khác nhau, do
đó việc sử dụng nhạc tang cũng khác nhau. Sử dụng nhạc tang là một nhu cầu
không thể thiếu, đây còn là nét đẹp phong tục tập quán của từng dân tộc. Việc sử
dụng âm nhạc trong tang lễ làm cho không gian bớt trống trải và u sầu, có thể sử
dụng phường bát âm hoặc băng đĩa nhạc phát qua đài quay băng. Nhạc tang dùng
trong lễ viếng chủ yếu dùng lâm khốc, xuân lữ, nam ai, an thư… Nhạc lúc đưa đám thì
đúng hành vân, lưu thuỷ, bình bản…
Điều cần lưu ý: Không phải đám tang nào cũng có kèn trống, mà cái nào chết hợp
quy luật (chết già) thì có kèn trống. Ngược lại, cái chết nào không hợp quy luật (chết
trẻ), chết do tai nạn, chết “bất đắc kỳ tử” thì không dùng kèn trống.
- Về tang phục: Tang phục biểu hiện sự đa dạng văn hoá của mỗi dân tộc, và
thường sử dụng hai màu đen và trắng; ở nước ta thường sử dụng tang phục màu trắng
(đây là màu truyền thống) để phân biệt người trong gia đình với khách đến phúng
viếng. - Con trai, con gái, con dâu có thể dùng khăn trắng thắt hở múi ra đằng sau (để
phân biệt với hàng cháu chắt và người viếng tang). Con rể và các con cháu khác cũng
dùng khăn trắng nhưng không thắt kiểu bỏ múi, mà gấp vào. Dân ta có tập quán đội
khăn vàng, khăn đỏ, khăn xanh… tuỳ theo người để tang là chắt, chút, chít…(đời thứ
tư và thứ 5), nhằm biểu lộ lòng tự hào của con cháu đã nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ
sống lâu. Đây cũng là tập quán cần phát huy. Với cách thức sử dụng tang phục như
vậy, khi nhìn đám tang qua đường, chúng ta có thể biết được là người quá cố có mấy
con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu, chắt… Đây là một thể chế văn hoá khá hoàn
chỉnh về việc tang của nhân dân ta. Đối với khách đưa tang có thể mặc đồ đen hoặc cài
miếng vải băng đen phía trên ngực áo.
đ) Phúng viếng và đưa tang
Tổ chức phúng viếng: Ban Tang lễ thống nhất với tang chủ về thời gian phúng
viếng và giờ đưa tang và thông báo nội dung sau:
- Họ tên người mới qua đời
78
- Ngày tháng năm sinh và quê quán.
- Ngày giờ mất
- Thọ bao nhiêu tuổi.
- Ngày giờ đưa tang.
- Địa điểm chôn cất.
Thông báo này được treo ở chỗ quan trọng (phòng khách đợi, Phòng viếng tang,
sân chờ…) để mọi người có thể xem dễ dàng mà không cần phải hỏi tang chủ. Vừa
đảm bảo khoa học, vừa thể hiện trang nghiêm.
Ban tổ chức cùng gia đình có thể gửi thông báo qua cơ quan thông tin đại chúng
(phát thanh, truyền hình). Nếu người qua đời là cán bộ quản lý ngành, cơ quan, xí
nghiệp… cần đưa tin buồn lên báo địa phương.
Đúng giờ viếng, Ban tang lễ mời người thân của gia đình vào viếng trước và sau
đó là thứ tự các đoàn đại biểu theo đăng ký. Ban tang lễ cần lưu ý điều tiết nhịp độ
phúng viếng cho hợp lý và khoa học (tránh tình trạng ùn tắc, hoặc khách viếng phải
chờ lâu, lại không đủ chỗ ngồi, ảnh hưởng đến sự trang nghiêm khi viếng tang).
Khách đến viếng trao vòng hoa, hương, nến, trướng… cho tang chủ, đến trước
bàn thờ và linh cữu bỏ mũ nón, cúi đầu mặc niệm một phút. Lúc này khách viếng tang
có thể thắp hương, nến. Tuỳ theo tập quán của từng vùng, từng gia đình, từng lứa tuổi
mà có thể chắp tay vái trước linh cữu để tỏ lòng thành kính của mình.
Gia đình tang chủ vái đáp cảm ơn khách. Khi phúng viếng xong, khách đi vòng
quanh linh cữu để nhìn mặt người quá cố lần cuối và bày tỏ chia buồn với tang chủ,
ghi sổ tang nếu có (có thể là bè bạn thân thiết, đại diện đoàn), rồi theo lối cửa ra, dành
chỗ cho khách vào viếng tiếp.
Hiện nay, việc phúng viếng chủ yếu bằng tiền mặt (với ý nghĩa giúp đỡ tang chủ lúc
khó khăn) hay phúng viếng bằng đối, trướng với dòng chữ ngắn gọn xúc tích như: "Nghĩa
trọng tình thâm", "Thiên thu vĩnh biệt". Tuyệt đối không dùng thức ăn chín như: Thịt lợn,
gà... để phúng viếng và không bày mâm cúng trước linh cữu (quan tài) hay ăn uống cạnh
linh cữu. (Cần thuyết phục, vận động để nhân dân thực hiện, không nên dùng mệnh lệnh
hành chính cứng nhắc, tạo nên sự phản ứng không có lợi).
Có thể viếng bằng vòng hoa với cơ quan, đoàn thể, dòng họ, nhưng không nên
quá nhiều, gây lãng phí-bằng phương pháp tổ chức và vận động sáng tạo ở từng nơi
mà có cách hạn chế cho phù hợp.
Đưa tang: Đúng giờ quy định, Ban tang lễ mời thân nhân và khách tập trung
trước linh cữu để làm thủ tục truy điệu và đưa tang. Đoàn đưa tang là những người
thân thiết trong gia đình, bè bạn thân hữu, cơ quan, đoàn thể.
e) Điếu văn
Ban tang lễ đề nghị thân nhân và khách viếng tang ngừng khóc (im lặng) để đọc
điếu văn (hoặc lời điếu). Nội dung điếu văn hoặc lời điếu phải nói lên được tình cảm
thương tiếc của những người đang sống đối với người quá cố. Tuỳ theo công trạng và
79
đóng góp của người quá cố đối với đất nước, đối với dân tộc, đối với bà con…mà soạn
điếu văn cho sát hợp. Điếu văn hoặc lời điếu chỉ nêu những nét chủ yếu trong đời
người quá cố, để con cháu tự hào và mọi người lấy đó làm tấm gương cho cuộc sống
hàng ngày (không nêu khuyết điểm).
Trình tự điếu văn như sau: Họ tên (Bí danh) người quá cố - Ngày, tháng, năm
sinh - Quê quán - Quá khứ trưởng thành và cống hiến cho Quê hương, đất nước - Tình
cảm và uy tín của người quá cố với gia đình, họ hàng, bà con làng xóm, cơ quan, đồng
đội…- Tình trạng lâm bệnh và đã hết lòng cứu chữa - Ngày, giờ từ trần, thọ bao nhiêu
tuổi - Đối với những người đang sống - Vô cùng thương tiếc - Sự tổn thất lớn lao - Lời
hứa của những người đang sống trước anh linh của người quá cố, trước giờ vĩnh biệt.
Người thay mặt Ban tang lễ đọc điếu văn, mọi người bỏ mũ, nón và nghiêm trang
đứng nghe. Dứt lời điếu, mọi người mặc niệm một phút trước giờ vĩnh biệt và nhạc
tang và tiếp tục cử hành.
f) Đưa linh cữu xe tang hoặc đòn khiêng
Chọn những người khoẻ mạnh trong số con cháu trừ trưởng nam (là người chủ
tang) không trực tiếp khiêng, đồng sự, đồng nghiệp, đại biểu địa phương… dùng tay
khiêng quan tài ra xe tang theo sự điều khiển của một thành viên trong Ban tang lễ.
Khi khiêng linh cữu, phải giữ thật thăng bằng. Người điều khiển nên dùng hiệu
lệnh để chỉ huy mọi người (mõ, hoặc thanh tre). (Tránh tình trạng không có người chỉ
huy, gây ồn ào lộn xộn, làm giảm sự trang nghiêm). Khi ra tới xe tang, hoặc đòn
khiêng thì nhẹ nhàng đặt linh cữu vào một cách cẩn trọng.
g) Thứ tự đưa tang
Đi đầu là cờ tang chung - Trướng, đối…của Hội Thọ, Ban tang lễ, bà con…- Bàn
để ảnh, hương hoa (nếu đơn giản là có người mang chân dung người quá cố) - Các vòng
hoa - Linh cữu - Các con, cháu, thân nhân - Khách đưa tang.
Ở nông thôn thường dùng xe tang kéo tay (vì nghĩa trang không xa khu cư trú).
h) Hạ huyệt và đắp mộ
Khi chuyển linh cữu ra tới huyệt, Ban tang lễ chờ mọi người đến đông đủ, ổn
định vị trí và cúi đầu vĩnh biệt người quá cố. Các thủ tục, thao tác phải được thực
hiện theo chỉ dẫn của người điều hành. Khi đặt linh cữu xuống huyệt, phải kê cho thật
bằng phẳng. Người đại diện Ban tang lễ và những người thân thiết nhất của người mới
qua đời tung những viên đất đầu tiên xuống huyệt. Khi lấp đất, đắp mộ, cần lưu ý làm
cho đất thật chặt, kết dính với nhau tránh tình trạng xụt lở. Đối với đám tang theo
nghi lễ Phật giáo thì các Phật tử chờ khi lấp đất xong, mỗi người cầm một nén nhang
tụng kinh, niệm Phật, đi vòng xung quanh ngôi mộ. Việc đặt bia được thực hiện sau
khi đã hoàn tất đắp mộ và được đặt ở phía chân mộ và sau cùng là trang trí, xếp đặt
vòng hoa viếng cho ngôi mộ sao cho thật gọn gàng và đẹp. Các bức trướng (nếu có)
mang về treo ở bàn thờ người mới qua đời. Khi đã hoàn tất, Ban tang lễ (hoặc tang
chủ) nói lời cảm ơn cuối cùng.
i) Về ứng xử của người sống với người chết
80
Khi gia đình có người thân qua đời, con cháu, họ hàng, xóm giềng phải tỏ lòng
thương tiếc, hiếu thảo và chu tất đối với người đã khuất. Đối với bè bạn, đồng nghiệp...
nên sắp xếp thời gian để chia sẻ, phúng viếng và đưa tang. Khi đến viếng đám tang
phải có thái độ nghiêm túc, ăn mặc gọn gàng, tránh tình trạng ăn nói bỗ bã và thái độ
khiếm nhã như cười, đùa không nghiêm túc.
Về cơ bản quy trình tổ chức các đám tang diễn ra gọn nhẹ, trang trọng, tiết kiệm,
chu đáo, thực hiện tốt theo hướng dẫn của Bộ Y tế về vệ sinh, đa số các đám tang đều
thực hiện chôn cất trước 48 giờ kể từ khi chết.
Về nghi thức tổ chức việc tang ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch ở nhiều địa
phương đã có những hướng dẫn vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh của nhân dân
vừa đảm bảo tính lành mạnh, tiến bộ. Nhiều hủ tục như khóc mướn, lăn đường, chống
gậy, đội mũ rơm, đốt đồ mã lãng phí dần dần được loại bỏ. Việc tổ chức ăn uống trong
các lễ cúng: 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày, ngày giỗ được nhân dân nhiều nơi thực hiện
trong phạm vi gia đình, hạn chế đến mức tối thiểu việc ăn uống, cỗ bàn. Trong tang lễ
nhiều nơi không mời rượu, mời thuốc lá, không phúng viếng bằng thức ăn chín, hạn chế
phúng viếng vòng hoa, đối trướng
Tồn tại: Do chưa nắm vững pháp luật, nhiều nơi người dân chưa thực hiện báo tử
theo đúng quy định, chưa thực hiện đúng những quy định của Bộ Y tế về giữ gìn vệ
sinh trong việc quàn giữ thi hài và chôn cất người chết. Vẫn còn tình trạng để người
chết quá 48 giờ, còn kiêng kỵ ngày giờ, chọn ngày tốt, giờ tốt, chờ đón thân nhân ở xa
về để đưa tang dẫn đến tình trạng vi phạm hương ước ở thôn, làng, ấp, bản, khu dân
cư, khu phố, ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng, đời sống xã hội.
Việc phúng viếng bằng vòng hoa, đối trướng đắt tiền vẫn còn tồn tại khá phổ biến
đối với những gia đình tang chủ là cán bộ, công chức có chức, có quyền và người dân
thuộc diện khá giả, gây lãng phí lớn. Vẫn còn hiện tượng rắc vàng mã, tiền giấy trên
đường đưa tang. Hiện tượng thuê khóc mước, dùng loa phóng thanh gây ồn ào khu dân
cư vẫn tồn tại ở một số địa phương.
Hình thức sử dụng nhạc tang chưa có quy định và sự hướng dẫn cụ thể còn hỗn
tạp, chưa có sự thống nhất đang là một vấn đề gây bức xúc trong nhân dân.
Vẫn còn tình trạng mạnh ai người ấy làm trong việc xây cất mồ mả, xây dựng mộ
phần với diện tích quá lớn khá phổ biến gây sự ganh đua thiếu lành mạnh. Vẫn chưa
chấm dứt tình trạng chôn người chết trong khuôn viên vườn, lô bãi gần nhà, gây mất
vệ sinh, ảnh hưởng đến môi trường sống và tâm lý, sức khoẻ của người dân, dễ phát
sinh bệnh dịch.
2. 3. Về lễ hội
Công tác quản lý và tổ chức lễ hội cơ bản đã đảm bảo các quy định của nhà nước
theo Quy chế tổ chức lễ hội và Nghị định số 103/NĐ-CP của Chính phủ, theo đúng
quan điểm chỉ đạo của Đảng về mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hoạt động lễ hội đã thực sự trở thành hoạt động văn
hoá du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con nguời Việt Nam và các sản phẩm kinh
tế, văn hóa, du lịch, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
81
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng phổ biến và đậm đà bản sắc
dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá phi vật thể của dân tộc, làm
giàu và phát huy giá trị nền văn hoá dân tộc. Lễ hội là hoạt động tập trung biểu thị các
giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của cộng đồng hướng vào việc tưởng
niệm, tôn vinh các nhân vật được sùng bái.
Lễ là các nghi lễ liên quan đến tôn giáo, lễ là hành vi cúng tế thần tổ tông, cầu
phúc, lễ bao quát mọi nghi thức ứng xử của một xã hội.
Lễ là một quan hệ xã hội đã được thiêng hoá rồi quay trở lại xã hội. Lễ và hội là
một thể thống nhất không thể chia tách trong sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Lễ là một
ứng xử giữa con người với thần linh, hội là một phần không thể thiếu được của lễ. Lễ
linh thiêng thành kính bao nhiêu thì hội vui tươi thoải mái bấy nhiêu. Lễ bao hàm niềm
tin thiêng liêng và các nghi thức đặc thù của từng tôn giáo cụ thể. Còn hội là phần tiếp
theo của lễ, gồm các trò chơi, trò diễn các cuộc đua tài mang tính cộng đồng, thế tục
và có ý nghĩa giáo dục nhiều mặt.
Hội “là đám vui đông người” được tổ chức nhân dịp kỷ niệm, một sự kiên liên
quan mật thiết đến một cộng đồng xã hội, nhỏ nhất cũng là làng. Hội được tổ chức
nhằm lợi ích tinh thần của mọi thành viên cộng đồng, tức là nó mang tính cộng đồng
cả về tư cách tổ chức cũng như mục đích.
Lễ hội mang dấu ấn văn hoá xã hội của một thời và nhiều thời đã qua, có ảnh
hưởng to lớn tới nhiều mặt của đời sống xã hội. Lễ hội phản ánh những sinh hoạt,
những khát vọng cùng tài năng của nhân dân về nhiều mặt của đời sống, đồng thời
thông qua lễ hội, trí tuệ, lẽ sống, đạo lý, tình cảm, khuynh hướng thẩm mỹ của nhân
dân được toả sáng.
a) Quy trình tổ chức lễ hội
- Khi tổ chức Lễ hội nhất thiết phải thành lập Ban Tổ chức lễ hội để tập hợp sức
mạnh ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Chỉ có Ban tổ chức lễ hội mới có quyền điều hành
lễ hội thông qua sự phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thế chứ không phải là các đoàn
thể hay tổ chức khác (Hội Người cao tuổi, Ban công tác mặt trận…).
- Tạo ra sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, Cán bộ Văn hóa là thành viên trung
tâm tham mưu cho Chính quyền công tác quản lý và tổ chức lễ hội.
- Chú trọng nội dung hoạt động của lễ hội:
Nội dung lễ hội có 2 phần rõ rệt: Phần lễ và phần hội
Phần Lễ: Phần lễ là phần tâm linh với các hình thức đã được thánh hóa nên có
yếu tố thiêng, là các yếu tố tỏa sáng tại cuộc sống, trong đó mọi thứ cần được thăng
hoa trong ý thức của mỗi người và cộng đồng. Chính yếu tố này trở lên quan trọng bảo
đảm sự bền vững trường tồn của hội.
Lễ có sau nhưng Phần lễ có sức mạnh vô hình để cố kết cộng đồng trong một thời
điểm (thời điểm mạnh), thậm chí trong cả một giai đoạn lịch sử khá dài. Vì vậy mặc
dù ra đời sau, nhưng lễ bao giờ cũng là linh hồn của hội. Không có Lễ, Hội không thể
tồn tại lâu dài: nếu chỉ có yếu tố Hội, tức là phần vui và các trò chơi thì coi như Hội đã
82
mất, bởi trò chơi thường “cả thèm và chóng chán”, con người có thể dễ chấp nhận trò
chơi nhưng cũng dễ tìm đến các trò chơi khác mới hơn, hấp dẫn hơn. Do đó, nếu bỏ đi
phần Lễ của hội, dần dần chúng ta sẽ mất hội.
Ngược lại, nếu quá thiên trọng về phần Lễ, mà không chú ý đến sự phát triển của
phần Hội, hội sẽ trở nên tẻ nhạt, bởi cuộc lễ chỉ thuần có phần thiêng mà không có phần
thế tục (tức đời thường). Do đó trong lễ hội, vẫn phải coi trọng các trò vui chơi giải trí…
đây cũng là phương tiện bộc lộ tình cảm của cộng đồng, tăng yếu tố cộng cảm.
Phần Hội: Đây là phần vui chơi cộng cảm của cộng đồng, với đầy đủ các trò vui
mà khả năng dân làng có được. Các trò văn nghệ như hát chèo, hát cửa đình, hát đúm,
hát xoan, hát quan họ… Các trò mang tính thượng võ như chọi trâu, đấu vật, đấu võ,
đánh quay đất, kéo co, bơi chải, đánh đu… Các trò khéo léo như dệt vải, thổi cơm thi,
làm bánh, thả chim, chọi gà, chọi chim, đánh cờ người, chơi cờ tướng…
Phần hội tức là phần vui chơi cộng cảm sẽ làm tăng giá trị của phần lễ, hai phần bổ
sung cho nhau và không thể thiếu phần nào. Nếu như phần lễ làm cho mọi người cố kết
tâm linh thì phần hội làm cho cuộc sống cộng đồng thêm phần thăng hoa. Chính vì vậy nó
đi vào ký ức mọi người và luôn luôn được củng cố bằng những kỳ lễ hội năm sau.
b) Một số yêu cầu về tổ chức lễ hội truyền thống:
Phần lễ: Các nghi thức tế lễ cần được thực hành theo khuôn mẫu vốn có hoặc
kịch bản thành văn đã lưu truyền trong cộng đồng. Không nên viết kịch bản cho toàn
bộ lễ hội truyền thống.
Cách tân nâng cấp để lễ hội vừa dân tộc, vừa hiện đại, phù hợp với xu thế phát
triển, nhưng phải thận trọng không nóng vội, lạm dụng làm sai lệch bản chất của lễ
hội. Nếu cần chỉ viết kịch bản từng phần nào cần bổ sung tái tạo cách tân nhưng phải
trên cơ sở đã hiểu được ý nghĩa của nội dung này. Không áp đặt pha tạp cải biên biến
tướng vay mượn làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc của lễ hội.
Phần hội: Sưu tầm nghiên cứu, phát hiện đầy đủ các tích, các trò diễn và cổ tục
đặc sắc của từng lễ hội. Bổ sung thêm những nội dung mới, trò chơi mới vào lễ hội.
Tôn trọng những sự tích, truyền thuyết mới có sức sống trong tiềm thức tâm linh của
nhân dân, có điều kiện hòa nhập vào lễ hội truyền thống.
Lễ dâng hương: Phải được tổ chức nghiêm túc do đại diện chính quyền làm chủ
lễ (Dàn nhạc, dàn chiêng trống, bài văn ghi công đức phải có sự chuẩn bị chu đáo
trong hành lễ).
Lễ hội phản ánh bản sắc dân tộc, nhưng tổ chức lễ hội lại thể hiện trình độ văn
minh của dân tộc do đó trong quá trình tổ chức lễ hội cần tránh không để dịch vụ lấn át
lễ hội về nội dung và hình thức. Tổ chức lễ hội chú trọng thực hiện Luật di sản, chú
trọng bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh bởi di tích là
một bộ phận cấu thành lễ hội, do đó cần chú ý mối liên hệ chặt chẽ giữa di tích và lễ
hội, nghiên cứa về các giá trị vật chất của di tích (vật thể) gắn liền với lễ hội.
Để quảng bá tiềm năng, giao lưu hợp tác, tiếp thị sản phẩm du lịch, nhiều địa
phương đã khai thác tổ chức lễ hội, đặc biệt là các tỉnh có di sản văn hoá thế giới.
83
Lễ hội đã góp phần tạo nên sự phong phú cho lễ hội Việt Nam, với nhiều hoạt động
như biểu diễn nghệ thuật quần chúng, hội chợ, thể thao truyền thống và hiện đại, tái
hiện hoặc tổ chức lễ hội dân gian, thi trang phục, ẩm thực, giao lưu, triển lãm, tham
quan di tích lịch sử văn hoá, cơ sở du lịch.
Các di tích lịch sử văn hoá danh thắng được quan tâm giữ gìn và tôn tạo, nhiều lễ hội
thể hiện được phần lễ trọng thể và phần hội vui tươi khơi dậy và phát huy các hoạt động văn
hoá thể thao dân gian truyền thống… Nhiều lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số
được tổ chức nghi thức theo truyền thống và khôi phục các trò chơi dân gian truyền
thống các dân tộc được chính quyền địa phương và ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch
quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức trang trọng, vui tươi, lành mạnh.
Nhiều tỉnh, thành phố đã thực sự đưa hoạt động lễ hội trở thành một hình thức
sinh hoạt văn hoá cộng đồng lành mạnh, tiến bộ có tác động tích cực đến đời sống
chính trị-kinh tế-xã hội trong điều kiện giao lưu hội nhập quốc tế. Nhìn chung từ lễ hội
quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều diễn ra đảm bảo an ninh trật
tự. Nhiều lễ hội có chuyển biến tích cực, khắc phục được nhiều hạn chế, tồn tại từ
những năm trước như mê tín dị đoan, cờ bạc, lưu hành ấn phẩm trái quy định. Do kết
hợp các biện pháp xây và chống, phát huy vai trò chủ thể của người dân đã làm cho lễ
hội được xã hội hoá rộng rãi, nguồn tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua
công đức, lệ phí, tài trợ, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho tôn tạo di tích, tổ chức
lễ hội và phúc lợi công cộng.
Lễ hội lịch sử cách mạng do các cấp chính quyền tổ chức ngày càng hài hoà với
các hoạt động văn hoá thể thao, có sức lan toả rộng rãi, tạo không khí phấn khởi, động
viên toàn Đảng toàn dân tích cực hưởng ứng Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ chí Minh và các phong trào thi đua yêu nước. Nhiều lễ hội lịch sử
cách mạng đã thực sự đi vào đời sống tâm linh của nhân dân. Công tác tuyên truyền
ngày càng đa dạng như tổ chức tập huấn, triển lãm, quảng cáo, tuyên truyền thực hiện
nếp sống văn minh gắn với quảng bá tiềm năng du lịch, quản lý dịch vụ và sinh hoạt
tín ngưỡng, bảo vệ di tích, môi trường.
Cơ sở vật chất tại các lễ hội ngày càng được đầu tư nâng cấp, quy hoạch tổ chức
dịch vụ có tiến bộ. Trình độ tổ chức và quản lý lễ hội tại một số địa phương đang từng
bước được nâng lên. Những lễ hội lớn và nhiều lễ hội quy mô làng xã được nâng tầm
hơn so với những năm trước, góp phần chấn hưng văn hoá dân tộc và phù hợp với
thuần phong mỹ tục và điều kiện kinh tế của mỗi địa phương.
Tồn tại: Vấn đề bức xúc nhất trong lễ hội hiện nay là nhu cầu tổ chức lễ hội ngày
càng gia tăng ở nhiều địa phương. Nhu cầu tham gia lễ hội của người dân ngày càng
cao khiến cho số lượng du khách gia tăng đột biến ở nhiều lễ hội lớn. Trong khi đó
không gian lễ hội có giới hạn nhất định bởi khuôn viên di tích và địa giới hành chính
của danh lam thắng cảnh dẫn đến sự quá tải lớn cung không đáp ứng nổi cầu gây lên
sự lộn xộn, chen lấn, ùn tắc giao thông... Các dịch vụ phục vụ được cơ hội chặt chém,
nâng giá tuỳ tiện, bắt chẹt du khách dẫn đến dư luận phản cảm xấu về hình ảnh hoạt
động lễ hội.
84
Nhiều nơi tu sửa, xây cất tự phát, đưa đồ cúng tiến vào di tích khi chưa có sự
đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền. Một số địa phương tổ chức lễ hội bằng ngân
sách nhà nước nhưng lễ hội thiếu hiệu quả gây lãng phí tiền của của nhà nước và nhân
dân. Cùng với sự lãng phí là ganh đua, phô trương thanh thế dòng họ, làng xã trong tổ
chức lễ hội.
Nhiều lễ hội quy mô làng xã và lễ hội lịch sử cách mạng ở một số địa phương
phần hội nghèo nàn, chưa hấp dẫn, việc khai thác và phát huy các diễn xướng, các trò
chơi, các hoạt động thể thao dân gian còn hạn chế, thời gian mở lễ hội dân gian kéo dài
quá thời gian quy định, tổ chức thiếu căn cứ khoa học làm cho nội dung nhiều lễ hội
trùng lặp, không thể hiện được bản chất đặc trưng.
Bên cạnh những nghi thức đã định hình, có biểu hiện pha tạp, vay mượn hoặc cải
biên làm biến dạng nghi thức lễ hội dân gian.
Việc cung tiến công đức cho tu bổ di tích và tổ chức lễ hội ngày một tăng lên,
nhưng hiện tượng tuỳ tiện tu sửa, tôn tạo không xin phép cơ quan quản lý đã làm phá
vỡ yếu tố gốc của di tích gây lãng phí và phản cảm.
Cán bộ, công chức, Đảng viên một số nơi thiếu gương mẫu, tham dự lễ hội với mục
đích cầu lộc, cầu danh, vụ lợi, nêu gương xấu cho quần chúng và làm biến dạng ý nghĩa nội
dung lễ hội, sao nhãng gìờ làm việc để đi lễ hội vì nhu cầu lợi ích cá nhân.
Một số lễ hội quy mô lớn và các lễ hội văn hoá du lịch chưa đem lại lợi ích kinh
tế so với tiền của được đầu tư để tổ chức, tuy lễ hội thu hút khách du lịch nhưng hạ
tầng du lịch và sản phẩm du lịch yếu, vốn văn hoá dân gian và vai trò của quần chúng
nhân dân trong lễ hội chưa được quan tâm.
3. Một số giải pháp cơ bản xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tàng và lễ hội
3.1. Định hướng chung
3.1.1. Về việc cưới:
- Tổ chức cưới theo Luật pháp của Việt Nam: Thực hiện đúng những quy định tại
luật hôn nhân và gia đình;
- Chính quyền xã (phường, thị trấn) tổ chức lễ trao giấy chứng nhận kết hôn
nghiêm túc, trang trọng, tạo được không khí hân hoan, gây ấn tượng đẹp trong ngày
vui hạnh phúc của đôi vợ chồng; Lễ trao giấy chứng nhận kết hôn là nghi thức bắt
buộc thể hiện sự thừa nhận của Nhà nước và pháp luật công nhận đôi nam nữ trở thành
vợ, chồng;
- Tổ chức lễ cưới ở gia đình và cộng đồng phù hợp với điều kiện kinh tế và hoàn
cảnh của hai gia đình. Chú trọng bảo tồn những nét đẹp trong phong tục, tập quán, tạo
không khí vui tươi, trang trọng, lành mạnh, để lại những ấn tượng tốt đẹp cho đôi nam
nữ và người tham dự lễ cưới;
- Khuyến khích tôn vinh và xây dựng những lễ thức cưới mới văn minh tiến bộ
như: dùng hình thức báo hỷ, dùng tiệc trà thay tiệc mặn, đặt hoa tại đài tưởng niệm,
nghĩa trang liệt sỹ, trồng cây lưu niệm ở vườn cây hạnh phúc;
85
- Việc cưới là vấn đề quan trọng thuộc về văn hoá cộng đồng, cần tạo điều kiện và
định hướng dư luận để nhân dân tự nguyện thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới
theo hướng trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, tránh phô trương hình thức;
3.1.2. Về việc tang:
- Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng mọi quy định của Pháp luật về hộ
tịch, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; việc tang cần được tổ chức chu đáo, trang
nghiêm, tiết kiệm, khi đưa tang phải tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn
giao thông và trật tự an toàn giao thông công cộng;
- Xoá bỏ các hủ tục lạc hậu trong tang lễ, tổ chức việc tang trang trọng, tiết kiệm,
chu đáo, khoa học. Vận động nhân dân hạn chế dùng vòng hoa, đối trưóng, không rắc
vàng mã và tiền Việt Nam đồng và các loại tiền Quốc tế trên đường đưa tang;
- Sử dụng nhạc tang và tang phục phù hợp với tang cảnh;
- Các tuần tiết trong tang lễ chỉ tổ chức gọn nhẹ trong nội bộ gia đình;
- Tuyên truyền, khuyến khích vận động các hình thức mai táng văn minh như
điện táng, hoả táng để giữ quỹ đất canh tác và chống ô nhiễm môi trường;
- Có quy hoạch xây dựng nghĩa trang nghĩa địa và tiến tới xây dựng nghĩa trang
nghĩa địa thành những công trình văn hoá tưởng niệm tại địa phương;
- Nghiêm cấm lợi dụng việc tang để hành nghề mê tín dị đoan dưới mọi hình thức;
- Đưa việc tang vào quy ước nếp sống văn hoá của cộng đồng dể nhân dân tự điều
chỉnh và thực hiện.
3.1.3. Về lễ hội:
- Tổ chức lễ hội phải thực hiện theo Luật Di sản văn hoá, Nghị định số 103/NĐ-
CP của Chính phủ, Thông tư số 04/2011/TT.BVHTTDL theo đúng quan điểm chỉ đạo
của Đảng về mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc;
- Khôi phục bảo tồn có chọn lọc những nghi thức truyền thống, các trò chơi trò
diễn dân gian trong hoạt động lễ hội; Chú trọng khôi phục và tổ chức các lễ hội giàu
bản sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số, tránh thất truyền và mai một;
- Tổ chức lễ hội phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Hướng dẫn ý nghĩa tốt đẹp của ngày lễ, ngày kỷ niệm.
- Giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc về lịch sử văn hoá, nghệ thuật, bồi
dưỡng lòng yêu nước và tình cảm cộng đồng,
- Tưởng nhớ công đức của ông cha, ghi nhận công lao của các bậc tiền bối trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
- Tìm hiểu, giới thiệu các di tích lịch sử, danh thắng, các công trình văn hoá, nghệ
thuật; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
86
- Vui chơi, giải trí lành mạnh, giữ gìn an ninh trật tự, không xâm hại di tích và
phá vỡ môi trưởng cảnh quan khuôn viên di tích.
- Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá lễ hội, tuyên truyền vận động thực hiện
phép ứng sử văn hoá lễ hội cho người tham dự lễ hội. Bài trừ hoạt động mê tín dị đoan
và các hủ tục lạc hậu không phù hợp với xu thế phát triển hiện nay.
3.2. Giải pháp
Việc cưới, việc tang và lễ hội là hoạt động đã thành truyền thống đáp ứng đời
sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Do hệ thống tín ngưỡng, phong
tục tập quán, trình độ nhận thức, tư tưởng của cá nhân và xã hội cho nên trong quá
trình tổ chức cưới, tang và lễ hội có diễn biến hết sức đa dạng và phức tạp, đan xen
nhiều yếu tố: Cũ - mới, tiên tiến - lạc hậu, tâm linh - mê tín, dị đoan, riêng - chung, cá
nhân - cộng đồng… cho nên thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội muốn đạt hiệu quả cần tiếp tục thực hiện một số giải pháp:
- Tiếp tục quán triệt tuyên truyền sâu rộng về nội dung Chỉ thị 27-CT/TW của Bộ
Chính trị và Chỉ thị 14/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Thông tư số
04/2010/TT-BVHTTDL ngày 21 tháng 01 năm 2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội
- Đưa tiêu chí thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội là
tiêu chí đánh giá bình xét các danh hiệu thi đua của Đảng viên cán bộ công chức và
nhân dân tại các khu dân cư. Ban hành quy định mang tính bắt buộc đối với cán bộ, công
chức nhà nước và nhân dân về thực hiện việc cưới, việc tang, lễ hội văn minh tiết kiệm, có
biện pháp xử lý cụ thể đối với những trường hợp vi phạm.
- Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá“: Tập trung vào
củng cố chất lượng và hiệu quả gia đình văn hoá, làng văn hoá, khu phố văn hoá, cơ quan,
doanh nghiệp, đơn vị văn hoá. Trong đó lấy việc thực hiện tốt Chỉ thị 27-CT/TW và Chỉ thị
14/1998/CT-TTg của Đảng và Chính phủ là tiêu chuẩn để xét các danh hiệu này.
- Các địa phương cần có quy hoạch và đầu tư kinh phí cho việc xây dựng cơ sở
vật chất hạ tầng phục vụ cưới tang lễ như: Phòng đăng ký kết hôn, đường xá, nhà tang
lễ, nhà quản tang, xe tang, khu vực mai táng, cải táng. Chú trọng xây dựng cảnh quan
môi trường như trồng cây xanh, bố trí địa điểm hợp lý bảo đảm vệ sinh môi trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức tang lễ và thăm viếng của người thân, gia đình
tang chủ sau khi mai táng, an táng. Quy hoạch xây dựng các nhà tang lễ ở các khu
dân cư, tránh tình trạng quá tải ở các thành phố lớn. Xây dựng thêm các cơ sở hoả
táng, điện táng ở các thành phố, thị xã góp phần làm lành mạnh môi trường văn hoá
xã hội.
- Cơ sở cần nghiên cứu những mô hình mẫu, những điển hình mới tiến bộ phù hợp,
đặc biệt là xây dựng những lễ thức mới trong cưới, tang, lễ hội văn minh, tiết kiệm mà vẫn
giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội phù hợp với điều kiện của địa phương và bảo tồn
được các giá trị văn hoá truyền thống trong cưới, tang và lễ hội.
4. Yêu cầu, nhiệm vụ cảu công chức văn hóa xã
87
- Một là, công chức văn hóa xã hội phải có kiến thức về cưới, tang và lễ hội và
tôn giáo tín ngưỡng đang tồn tại trong địa phương mình quản lý. Nắm bắt kịp thời các
Văn bản chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về hoạt động Văn
hoá cơ sở nói chung, về việc cưới, việc tang và lễ hội nói riêng để tuyên truyện vận
động nhân dân thực hiện;
- Hai là, phải tìm hiểu kỹ các di tích, các danh thắng trong địa bàn mình quản lý,
thông qua các thần phả và truyền thuyết; Tìm hiểu về các di tích thần tích gắn liền với
hoạt động lễ hội; Sưu tầm, khảo sát nghiên cứu về phong tục, tập quán và các giá trị
văn hoá truyền thống của địa phương; Về tính chất và các lễ thức, nghi thức trong
cưới, tang và lễ hội. Nắm bắt kịp thời những diễn biến trong đời sống tâm linh, tín
ngưỡng, lối sống nếp sống của nhân dân tại địa phương mình;
- Ba là, phải phối hợp với các ngành tăng cường thực hiện xây dựng đạo đức, nếp
sống, lối sống lành mạnh, thuần phong mỹ tục có ảnh hưởng tốt đến đời sống cộng đồng.
- Bốn là, nghiên cứu luật pháp và các văn bản dưới luật về lĩnh vực cưới, tang và
lễ hội. Kịp thời tham mưu, đề xuất với Lãnh đạo soạn thảo văn bản quản lý đồng thời
cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào công tác
xây dựng nếp sống văn hoá của địa phương để triển khai thực hiện có hiệu quả; Việc
cưới, việc tang và lễ hội vốn tồn tại những tập tục từ lâu đời đã ăn sâu bén rễ trong đời
sống nhân dân do vậy sự chuyển biến về nhận thức và tâm lý của một bộ phận nhân
dân vẫn còn chậm, chưa tiến kịp với xu thế tiến bộ của thời đại. Hơn nữa, tập tục này
gắn với phong tục tập quán, truyền thống tâm lý của con người, để khắc phục những
phong tục tập quán lạc hậu và loại bỏ các hủ tục cần phải có thời gian. Do đó cán bộ
văn hoá cơ sở cần có năng lực trình độ chuyên môn đồng thời cần phải có kinh
nghiệm, bản lĩnh, kiên trì, tâm huyết với công việc mới có khả năng vận động và
thuyết phục nhân dân thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ.
Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội là một cuộc vận
động lớn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành thường xuyên,
kiên trì, tích cực; là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn thể
nhân dân. Trách nhiệm này đòi hỏi phải được thấm sâu vào ý thức của từng công dân,
từng gia đình và toàn thể cộng đồng xã hội, đặc biệt là sự gương mẫu của các cán bộ, đảng
viên, được biểu hiện bằng hành động cụ thể để góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng và
phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thực hiện tốt cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
5. Kết luận
Việt Nam là một Quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Vấn đề
dân tộc và công tác dân tộc có ý nghĩa quan trọng và to lớn trong chiến lược đại đoàn
kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác
dân tộc đã nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của Cách mạng Việt Nam”.
88
Khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc là địa bàn chiến lược quan trọng trong
chiến tranh giữ nước và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực này đã góp phần hình thành bản
sắc văn hóa, cốt cách của từng dân tộc. Việc giữ gìn bảo tồn truyền thống bản sắc tinh
hoa văn hóa riêng của mỗi dân tộc đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa dân tộc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, công tác văn hóa khu vực trung du, miền
núi, vùng dân tộc đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức và công tác quản lý,
chỉ đạo tổ chức thực hiện. Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được coi trọng và
khơi dậy, bản sắc văn hóa của các dân tộc được giữ gìn và phát huy. Mức hưởng thụ
về văn hóa của đồng bào từng bước được nâng lên. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc được từng bước nâng cao về chất lượng và
hướng về phục vụ cơ sở nhiều hơn. Công tác sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu được
thường xuyên tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ làm công tác văn hóa xã hội đã được quan tâm chú ý. Cơ sở vật chất và trang bị
phương tiện hoạt động văn hóa được tăng cường hơn. Nếp sống văn hóa đã và đang
được chú ý chỉ đạo xây dựng, nhiều nhân tố mới, mô hình mới có tác động tích cực
trong đời sống văn hóa, xã hội của đồng bào các dân tộc xuất hiện. Song vấn đề thực
hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội khu vực trung du, miền
núi, vùng dân tộc đang bộc lộ một số thách thức:
- Trang phục, nếp sống văn hóa, văn nghệ dân gian, phong tục tập quán… trong
quá trình hội nhập nhiều nơi đã bị pha tạp, lai căng, biến dạng, mất dần bản sắc các
dân tộc thiểu số. Một bộ phận các đồng bào các dân tộc có biểu hiện coi nhẹ tiếng nói,
chữ viết, trang phục truyền thống của dân tộc mình.
- Mức hưởng thụ về văn hóa còn quá thấp, vẫn còn tình trạng “đói văn hóa, thiếu
thông tin”. Những tập tục lạc hậu trong cưới, tang, lễ hội, lối sống, nếp sống… vẫn còn
tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống văn hóa của nhân dân. Bên cạnh đó là
sự tác động mạnh của văn hóa ngoài luồng, sự thâm nhập và phát triển của các loại hình
tôn giáo như đạo tin lành bị kẻ xấu lợi dụng, tác động và ảnh hưởng không tốt đến các mặt
trong cuộc sống cộng đồng của các dân tộc.
- Văn hóa khu vực trung du, miền núi và vùng dân tộc đang bị đe dọa nghiêm trọng
bởi sự xâm nhập của văn hóa ngoại nhập như văn hóa phẩm, thông tin. Trình độ dân trí
còn thấp, đời sống của đồng bào các dân tộc còn gặp khó khăn do cấu tạo địa hình phức
tạp, cơ sở hạ tầng yếu dẫn đến hạn chế trong lưu thông, các nghề thủ công truyền thống
đang mai một có nguy cơ thất truyền, phong tục tập quán tốt đẹp các giá trị văn hóa
truyền thống trong cưới, tang, lễ hội bị mai một.
- Sự xâm nhập của các tà đạo là nguy cơ đe dọa sự sống còn của nền văn hóa
truyền thống các dân tộc, gây ảnh hưởng về tâm lý, đễ bị lợi dụng, dụ dỗ lôi kéo đồng
bào gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa các dân tộc.
89
- Ý thức về văn hóa truyền thống của dân tộc khu vực này còn yếu, do đó năng
lực tự bảo vệ văn hóa của chính mình còn yếu, dễ bị ảnh hưởng tác động xấu.
Về việc cưới: Xu hướng cưới theo nghi lễ truyền thống ít được chú trọng, các
phong tục lễ thức cưới truyền thống của các dân tộc có nguy cơ mai một. Lễ thức cưới
hiện nay đang có sự pha trộn giữa truyền thống và ngoại hóa làm biến dạng và đánh
mất bản sắc dân tộc.
Về việc tang: Tập tục lạc hậu trong tang ma vẫn còn tồn tại dai dẳng trong vùng
đồng bào dân tộc, vẫn còn tình trạng chia của cho người chết, ăn uống trong đám tang…
Lễ hội truyền thống các dân tộc có nguy cơ thất truyền, các di tích danh thắng bị
xâm hại, nạn khai thác rừng đã làm biến dạng cảnh quan thiên nhiên.
Từ tình trạng trên đặt ra yêu cầu:
Xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội
trong đồng bào các dân tộc trước hết là làm cho nhân dân tự hào, trân trọng những giá
trị tinh thần, đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của mình, phát huy các
giá trị truyền thống trong cuộc sống mới, tiếp thu các thành tựu mới của nền văn hóa
tiên tiến; tăng cường trao đổi văn hóa giữa các dân tộc. kiên quyết và kiên trì đấu tranh
xóa bỏ các tệ nạn cũ, hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đặt ra phương hướng: “Bảo tồn và phát huy
những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi
con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh… vun đắp nên những giá trị
mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng
cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa
bình”. Coi việc xây dựng Nếp sống văn hóa, gia đình văn hoá. làng (thôn, ấp, bản),
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội văn hóa là nhiệm vụ
quan trọng tối cần thiết trong công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. Đối với khu
vực trung du, miền núi, vùng dân tộc bên cạnh cái chung cần chú ý đến những đặc
điểm riêng biệt, đặc thù vùng, miền, theo tinh thần thống nhất trong đa dạng. Trong
công tác hướng dẫn xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hoá làng (thôn, ấp, bản)
văn hóa, Công chức văn hóa xã hội cần tập trung một số nội dung như sau:
Thứ nhất: Coi trọng và làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc
(cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể). Phát huy truyền thống văn hoá và bản sắc
dân tộc thông qua việc sưu tầm nghiên cứu, tổ chức các lễ hội, chú ý bảo tồn phong tục
tập quán, lối sống nếp sống của từng dân tộc. Khôi phục và nâng cao chất lượng các lễ
hội truyền thống, những phong tục tập quán lành mạnh của các dân tộc trong cưới,
tang, lễ hội…
90
Thứ hai: Tham mưu đẩy mạnh xây dựng các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở,
tăng cường tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước thông qua hệ thống thiết chế này. Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân
dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa
trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hoá trong gia đình, trong làng, thôn, bản,
ấp, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã
hội và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Thứ ba: Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Tuyên truyền cho
đồng bào các dân tộc biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong
tục tốt đẹp của mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống
mới. Xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền
thống tốt đẹp. Kiên quyết và kiên trì đấu tranh xoá bỏ các tệ nạn cũ, các tập tục lạc hậu,
mê tín, dị đoan, lạc hậu trong việc cưới, việc tang, lễ hội và các tệ nạn xã hội khác.
Thứ tư: Khôi phục và tích cực quảng bá các lễ hội truyền thống, tu bổ tôn tạo các
di tích, địa danh lịch sử văn hóa. Những tỉnh có điều kiện, cần mạnh dạn xây dựng
làng (thôn, ấp, bản) văn hóa gắn với du lịch ở những địa điểm thích hợp nhằm thu hút
khách tham quan du lịch, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
Thứ năm: Về chính sách đào tạo cán bộ công chức xã
Vấn đề cơ bản của công tác dân tộc là vấn đề văn hoá và cán bộ. Thực tế hoạt
động cho thấy, dù điều kiện cơ sở vật chất có tốt nhưng tác dụng và hiệu quả của hoạt
động văn hoá thông tin cơ sở lại phụ thuộc vào sự điều hành và tổ chức nội dung hoạt
động của cán bộ văn hoá. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày
10-10-2003 đã xác định chức danh cán bộ văn hoá xã hội. Nhưng hiện nay trong mặt
bằng chung của cả nước, cán bộ công chức văn hoá xã hội vừa thiếu, vừa yếu về trình
độ chuyên môn lại không ổn định về nhân sự, đặc biệt vùng sâu, vùng xa cán bộ lại
càng thiếu. Do đó việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức văn hoá xã hội khu vực
trung du, miền núi, vùng dân tộc là hết sức cần thiết trong cả hiện tại và tương lai.
Trước tiên, cần chú trọng đào tạo cán bộ tại chỗ, đề nghị Nhà nước tăng chỉ tiêu biên
chế cử tuyển con em đồng bào dân tộc vì trên thực tế nguồn cán bộ tại chỗ có ưu thế
biết sử dụng tiếng dân tộc để tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc. Đồng thời có
chính sách đãi ngộ nhằm thu hút cán bộ vùng xuôi về công tác tại vùng đồng bào các
dân tộc, tạo điều kiện về mọi mặt để cán bộ gắn bó với địa bàn công tác của mình.
Xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội khu
vực trung du, miền núi, vùng dân tộc là thiết thực bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc
thiểu số trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại. Trong quá trình thực hiện phải
chú trọng phát triển kinh tế xã hội gắn liền với phát triển văn hoá; tích cực xoá đói giảm
nghèo được tiến hành đồng thời với việc xoá đói thông tin, xoá vùng trắng, xã trắng về
văn hoá, tăng cường đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá”. Đó chính là yếu tố tích cực đưa văn hoá trở thành động lực, mục tiêu của
91
sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc thiểu số nói
riêng và của cả nước nói chung.
****************
Câu hỏi thảo luận
1. Anh (chị) cho biết những nét cơ bản về cưới, tang, lễ hội trong tình hình hiện nay.
2. Anh (chị) cho biết Quy trình cụ thể tổ chức đám cưới, tổ chức việc tang và lễ
hội gồm những bước như thế nào?
3. Để tham mưu Chính quyền xã thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội, nhiệm vụ của công chức văn hóa xã hội xã phải làm gì?
Bài tập tình huống
Địa phương anh (chị) đang sống và công tác, nhân dân đang còn tồn tại tư duy
xây cất mồ mả to sinh phần, giữ chỗ, chính quyền xã giao cho anh (chị) tư vấn giải
pháp ngăn chặn tình trạng trên, nhưng chính trong gia đình anh (chị) cũng có người
phản đối, vậy anh chị phải làm như thế nào để được cả gia đình và nhân dân đồng
thuận thực hiện.
Tài liệu tham khảo
- Bắt buộc đối với học viên:
1. Ban Chỉ đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn: Hỏi-Đáp về Xây dựng Nếp
sống văn minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010 (tái bản năm 2011).
2. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch - Cục Văn hóa cơ sở: Văn bản của Đảng và
Nhà nước về Nếp sống văn hóa, Hà Nội, 2008;
- Tham khảo mở rộng:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương: Hỏi và đáp Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, Hà Nội, 2001.
2. Ban Chỉ đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn: Hỏi - Đáp về Xây dựng Nếp
sống văn minh, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010 (tái bản năm 2011).
3. Bộ Văn hóa Thông tin - Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở (Chủ biên: Hà Văn
Tăng): Tài liệu Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin cơ sở Hà Nội, 2004;
4. Bộ Văn hóa-Thông tin - Cục Văn hóa Thông tin cơ sở: Sổ tay Công tác Văn
hóa Thông tin, Hà Nội, 2005;
5. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch - Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở: Một số vấn
đề vê công tác Quản lý lễ hội giai đoạn 2001-2006, Hà Nội, 2007;
6. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch - Cục Văn hóa cơ sở: Thống kê Lễ hội Việt
Nam (Tập 1, Tập 2), Hà Nội, 2008;
7. Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch - Cục Văn hóa cơ sở: Văn bản của Đảng và
Nhà nước về Nếp sống văn hóa, Hà Nội, 2008;
92
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998;
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001;
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006;
11. Đời sống mới, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007;
12. Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội nghị Lần thứ mười Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Khóa IX, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004;
93
KỸ NĂNG QUẢN LÝ VÀ HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TRONG CÁC THIẾT CHẾ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC
TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
PHẠM VĂN AN
Th.s. HOÀNG THỊ LÂM
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý và hướng
dẫn tổ chức hoạt động trong các thiết chế văn hóa trên địa bàn xã khu vực trung du,
miền núi vùng dân tộc; Biết vận dụng kiến thức cơ bản về về kỹ năng quản lý và
hướng dẫn tổ chức hoạt động trong các thiết chế văn hóa trên địa bàn vào hoạt động
quản lý và tổ chức ở địa phương mình .
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý và hướng
dẫn tổ chức hoạt động trong các thiết chế văn hóa trên địa bàn xã khu vực khu vực
trung du, miền núi và vùng dân tộc, đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt động
thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Đặt vấn đề
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã là thiết chế văn hóa cơ bản, đơn vị cơ sở của hệ
thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở trong cả nước, có vai trò quan trọng trong việc
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước và tổ chức các hoạt
động văn hóa, thể thao đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân ở
nông thôn; đồng thời là trung tâm chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ các thiết chế văn hóa,
thể thao trên địa bàn xã.
Xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở vùng nông thôn nói
chung, Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã nói riêng, luôn là nội dung trọng yếu của công
tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành,
đoàn thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Đặc biệt, Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04
tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình Mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới đã xác định: Nhà nước đầu tư 100% kinh phí xây dựng Trung
tâm Văn hóa-Thể thao xã, hỗ trợ một phần xây dựng Nhà Văn hóa - Khu thể thao thôn.
Xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã, thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ văn
hóa, Thể thao và Du lịch là 3/19 tiêu chí công nhận xã đạt nông thôn mới.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 12/2010/TT-
BVHTTDL ngày 22 tháng 12 năm 2010 “Quy mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã”. Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL ngày 08 tháng 3
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
94
năm 2011 “Quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của Nhà Văn hóa- Khu thể
thao thôn”. Đây là 02 văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về nhà văn hóa, khu thể thao
xã, thôn, được áp dụng thực hiện trong phạm vi cả nước.
Xây dựng định hướng quy hoạch và từng bước xây dựng Trung tâm Văn hóa-
Thể thao xã theo quy định tại Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL ngày 22 tháng 12
năm 2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với quy mô: “Trung tâm Văn hóa-
Thể thao xã do ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập trên cơ sở hợp nhất các cơ sở
hiện có như: Nhà văn hóa, sân vận động, nhà tập luyện thể thao, câu lạc bộ văn hóa,
câu lạc bộ thể dục thể thao hoặc đài truyền thanh, trung tâm học tập cộng đồng xã”
(Khoản 1, Điều 3).
Quy trình xây dựng, quản lý và kỹ năng tổ chức các hoạt động của Trung tâm
Văn hóa-Thể thao xã là cụ thể hóa thực hiện các quy định về tổ chức và hoạt động của
trung tâm văn hóa- thể thao xã thông qua các tác nghiệp cụ thể về quy trình tiến hành
xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy và cán bộ, quy trình tổ chức thực hiện nghiệp
vụ quản lý và kỹ năng tổ chức nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức các dạng hoạt động của
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
Tại khoản (a), mục (3), Điều 3 của Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL, quy
định: Chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã là công chức xã phụ trách về văn
hóa-xã hội, chịu trách nhiệm trước Chủ tịch UBND xã về toàn bộ hoạt động của Trung
tâm Văn hóa-Thể thao xã”.
Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ với vai trò chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã, công chức văn hóa-xã hội xã cần nắm vững các quy định pháp luật về quy
trình quản lý và kỹ năng tổ chức hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã; của
Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn, đơn vị cấu thành của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
2. Quy trình xây dựng và quản lý Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã
2.1. Xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã
2.1.1.Xây dựng cơ sở vật chất
a) Hình thành chủ trương xây dựng
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, ch ính sách, pháp luật của Nhà
nước; thực hiện sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền cấp trên về xây dựng Trung tâm
Văn hóa-Thể thao xã; xuất phát từ nhu cầu phát triển sự nghiệp văn hóa; khả năng
ngân sách của xã và các nguồn xã hội hóa, Đảng ủy xã ra Nghị quyết về xây dựng
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã, giao cho Ủy ban nhân dân xã tổ chức xây dựng.
b) Quyết định và tổ chức thực hiện:
Ủy ban nhân dân xã ra Quyết định về việc xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
Các bước tiến hành thực hiện Quyết định của Ủy ban nhân dân xã về xây dựng
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã, bao gồm:
- Bố trí đất sử dụng xây dựng.
- Thực hiện các công việc về giải phóng mặt bằng.
95
- Thiết kế công trình, phê duyệt thiết kế.
- Lập dự toán, phê duyệt dự toán.
- Tổ chức thi công xây dựng và quản lý công trình xây dựng.
- Tổ chức nghiệm thu, khánh thành công trình đưa vào sử dụng.
2.1.2. Tiêu chí mẫu về cơ sở vật chất và cán bộ
Theo quy định tại Thông tư số 12/2010/TT-BVHTTDL:
a) Diện tích đất được sử dụng:
- Đô thị, đồng bằng: Tối thiểu 2.500m2.
- Miền núi, hải đảo: Tối thiểu 1.500m2
.
b) Quy mô xây dựng hội trường đa năng:
- Đô thị, đồng bằng: Tối thiểu 250 chỗ ngồi; 5 phòng chức năng.
- Miền núi, hải đảo: Tối thiểu 200 chỗ ngồi; 4 phòng chức năng.
c) Quy mô xây dựng sân bóng đá: Tối thiểu 90m x 120m.
d) Trang thiết bị:
- Hội trường văn hóa đa năng: Bàn, ghế, giá, tủ, tăng âm, ánh sáng, thông gió, đài
truyền thanh.
- Dụng cụ thể thao: Theo các môn thể thao phù hợp ở địa phương.
đ) Cán bộ:
- Cán bộ quản lý có trình độ trung cấp về văn hóa, thể thao trở lên, được hưởng
phụ cấp bán chuyên trách.
- Cán bộ nghiệp vụ chuyên môn được hưởng chế độ theo hợp đồng (dài hạn hoặc
công việc).
2.2. Quản lý Trung tâm Văn hóa -Thể thao xã
2.2.1. Cơ quan quản lý
Ủy ban nhân dân xã thực hiện quyền quản lý toàn diện về tổ chức hoạt động của
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
Phòng Văn hóa-Thông tin và Thể thao cấp huyện thực hiện quyền quản lý nhà
nước (quản lý pháp luật) đối với Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
Trung tâm Văn hóa-Thể thao cấp huyện thực hiện quyền quản lý về chuyên môn
nghiệp vụ đối với Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
2.2.2. Mục đích của việc quản lý
- Đưa việc xây dựng, quản lý và hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã
phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
các quy định của địa phương.
96
- Tạo điều kiện để Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã phát huy tính tích cực, nâng
cao trách nhiệm và vai trò tự chủ trong việc tổ chức các hoạt động thu chức năng,
nhiệm vụ được giao.
- Ngày càng mở rộng nội dung, quy mô và chất lượng, hiệu quả các hoạt động,
thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã tham gia vào các hoạt động
văn hóa, thể thao.
2.2.3. Nội dung quản lý
a) Quản lý theo chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở kế hoạch được giao
- Tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; các quy định của địa phương; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền xã.
- Phổ biến các kiến thức khoa học và kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao và vui chơi giải trí
trên địa bàn xã, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ về văn hóa và nâng cao thể chất của các
tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã.
- Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn và các
thiết chế văn hóa, thể thao khác trên địa bàn toàn xã.
b) Quản lý bằng pháp luật
Đối với các hoạt động về xây dựng, bảo quản cơ sở vật chất; sử dụng kinh phí
hoạt động thường xuyên do ngân sách nhà nước cấp và các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ văn hóa trên địa bàn theo các quy định pháp luật hiện hành.
2.2.4. Phương thức quản lý
a. Xây dựng và phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm:
Căn cứ xây dựng kế hoạch: Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch
công tác năm trước; yêu cầu phục vụ các nhiêm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa -xã
hội của xã; các nguồn lực thực hiện phong trào và sự phát triển nhu cầu sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và vui chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân
ở xã.
Nội dung của kế hoạch: Đề ra các hoạt động cụ thể cần thực hiện trong năm, bao gồm:
- Cuộc tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị.
- Cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn văn nghệ.
- Cuộc thi đấu các môn thể thao.
- Duy trì hoạt động của các câu lạc bộ sở thích.
- Các hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho các thiết chế văn hóa, thể thao
trên địa bàn.
- Các hoạt động: Thư viện, tủ sách, phong trào đọc sách báo; hoạt động giáo dục
truyền thống; xây dựng gia đình văn hóa, thôn, làng, ấp, bản văn hóa; thực hiện nếp
sống văn hóa; bảo tồn văn hóa dân tộc…
97
- Hoạt động của Đài truyền thanh xã; Trung tâm giáo dục cộng đồng xã.
Phương thức xây dựng và phê duyệt kế hoạch:
- Ban chủ nhiệm Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã xây dựng dự thảo kế hoạch.
- Thảo luận trong cán bộ, cộng tác viên của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
- Lấy ý kiến các ngành, đoàn thể, tổ chức có liên quan ở xã.
- Hoàn thiện dự thảo kế hoạch; trình Ủy ban nhân dân xã phê duyệt kèm theo dự
toán kinh phí thực hiện.
b) Chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động
Xây dựng chương trình, kế hoạch chi tiết tổ chức thực hiện từng nội dung trong
kế hoạch công tác được phê duyệt.
Biên soạn các tài liệu nghiệp vụ, thực hiện các nội dung kế hoạch hoạt động như:
- Tài liệu thông tin, tuyên truyền trên đài truyền thanh xã.
- Kịch bản tổ chức các sự kiện, các hoạt động cụ thể.
- Chương trình biểu diễn văn nghệ quần chúng và thi đấu các môn thể thao.
- Chương trình học tập cộng đồng (theo nội dung, cấp học, phương thức học và
đối tượng học).
- Chương trình tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ văn hóa, thể thao.
- Chương trình sinh hoạt các câu lạc bộ theo chủ đề.
c) Thực hiện chế độ báo cáo và kiểm tra
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã định kỳ 6 tháng, một năm báo cáo kết quả hoạt
động cho Ủy ban nhân dân xã; Phòng Văn hóa-Thông tin và Thể thao cấp huyện,
Trung tâm Văn hóa-Thể thao cấp huyện.
Báo cáo đầy đủ, cụ thể, có số liệu thống kê chi tiết về kết quả hoạt động.
Ủy ban nhân dân xã, Phòng Văn hóa-Thông tin và Thể thao, Trung tâm Văn hóa -
Thể thao cấp huyện hàng năm có các cuộc kiểm tra, làm việc, nghe báo cáo và kiến
nghị của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã hàng quý có cuộc kiểm tra, làm việc, nghe báo
cáo và kiến nghị của Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn.
2.3. Đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã:
a) Ý nghĩa:
Đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã chính
là đánh giá theo chiều sâu thực trạng về tổ chức và hoạt động của trung tâm; khẳng
định những kết quả đạt được, chỉ ra những yếu kém tồn tại và xác định rõ những
nguyên nhân khách quan và chủ quan.
98
Trên cơ sở đánh giá tác động, hiệu quả hoạt động của trung tâm rà soát lại, sửa
đổi, bổ sung và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nâng cao chất lượng các
hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
b) Nội dung đánh giá:
- Kết quả hoàn thành kế hoạch hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã
theo kế hoạch được duyệt.
- Hiệu quả tuyên truyền, giáo dục về văn hóa, nâng cao nhận thức về văn hóa,
trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa.
- Quản lý, khai thác và phát huy cơ sở vật chất, kinh phí, cán bộ của
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
- Tác động hiệu quả phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội của xã.
- Mức độ thu hút và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, thể thao của các tầng lớp
nhân dân trong xã.
c) Các kênh thông tin:
- Tự đánh giá của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã và các thiết chế văn hóa,
thể thao trên địa bàn xã.
- Đánh giá của các ban, ngành, đoàn thể trong xã có liên quan.
- Kết quả điều tra xã hội học phản ánh của nhân dân (phiếu hỏi, phiếu thăm dò,
trao đổi…).
- Ý kiến đánh giá của các cơ quan quản lý cấp trên (chủ yếu là cơ quan nghiệp vụ).
3. Kỹ năng tổ chức các hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã
3. 1. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động
a) Nắm vững nguyên tắc:
- Đúng định hướng công tác tuyên truyền của Đảng.
- Nhanh nhạy, hệ thống và thường xuyên.
- Khách quan, sát hợp và thiết thực.
- Rõ ràng, dễ hiểu, sinh động và phù hợp với đối tương quần chúng.
b) Phương pháp:
- Tuyên truyền miệng: Mời diễn giả, báo cáo viên nói chuyện chuyên đề,
nói chuyện thời sự; giới thiệu đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; diễn giảng khoa học, kỹ thuật; diễn thuyết sự kiện,
tình huống, vấn đề.
- Tuyên truyền trực quan: Tổ chức các cuộc trưng bày, triển lãm; xây dựng bảng
tin; cụm tuyên truyền, in tranh cổ động; băng rôn khẩu hiệu.
- Tuyên truyền văn nghệ: Xây dựng các chương trình biểu diễn văn nghệ quần
chúng chào mừng kỷ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc; tổ chức các hoạt
99
động văn nghệ, chương trình văn nghệ theo chủ đề, tuyên truyền các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế - xã hội của địa phương.
- Xây dựng chương trình truyền thanh: Phát trên đài truyền thanh của xã theo các
chuyên mục.
c) Tổ chức thực hiện:
Xác định đối tượng, địa bàn:
- Đối tượng khác nhau, mức độ thông tin và phương pháp truyền tải thông tin
khác nhau.
- Danh nghĩa cá nhân, đơn vị tổ chức thực hiện.
- Xác định quy mô tổ chức, địa bàn thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch (kịch bản) để thực hiện:
- Dự thảo kế hoạch, góp ý xây dựng dự thảo.
- Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Chuẩn bị tiến hành:
- Dàn dựng ( kịch bản) chương trình.
- Chuẩn bị tập luyện.
- Sơ duyệt, tổng duyệt chương trình.
- Tổ chức hoạt động:
- Lễ khai mạc, cắt băng.
- Duy trì hoạt động.
- Tổng kết hoạt động; khen thưởng, biểu dương các cá nhân, tổ chức
tham gia
- Phản hồi dư luận về chất lượng hoạt động; tác động hiệu quả của hoạt động.
3.2. Tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng trong Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã
a) Văn nghệ tuyên truyền cổ động:
- Khái niệm: Văn nghệ tuyên truyền cổ động là sử dụng các loại hình văn học,
nghệ thuật để chuyển tải nội dung chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các nhiệm vụ chính trị, các biện pháp chỉ đạo của chính quyền…tạo sự
hấp dẫn, thu hút mọi người tập trung theo dõi, tiếp thu nhẹ nhàng, thoải mái.
Để đạt được hiệu quả tuyên truyền cổ động bằng văn nghệ phải:
- Hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật truyền thống, dân gian, ca, múa, nhạc.
- Vận dụng thành thạo các hình thức văn nghệ vào công tác tuyên truyền cổ động
thích hợp về nội dung cần truyền tải.
- Huy động được các lực lượng yêu thích, có năng khiếu tham gia biểu diễn.
100
- Vận dụng sáng tạo kỹ thuật ước lệ trong nghệ thuật truyền thống để tạo nên hiệu
quả truyền đạt cao.
- Không lệ thuộc vào hình thức nghệ thuật mà xa rời nội dung cần tuyên truyền
cổ động.
Tổ chức thực hiện:
- Nghiên cứu, nắm vững nội dung cần tuyên truyền cổ động.
- Lựa chọn loại hình văn nghệ quần chúng phù hợp.
- Biên tập, sáng tác, dàn dựng.
- Tập luyện chương trình nhuần nhuyễn.
- Sơ duyệt, tổng duyệt chương trình.
b) Hoạt động ca, múa, nhạc, mỹ thuật:
Loại hình sử dụng:
- Hát: Hát dân ca, hát ru, vè, hát giao duyên, hát nói.
- Nhạc: Sử dụng nhạc cụ độc lập, chơi dàn nhạc, dàn cồng chiêng, trống.
- Múa: Múa tập thể, múa đơn, múa đôi, tốp múa, múa minh họa.
- Sân khấu: Tấu, hài, múa rối, trích đoạn, kịch ngắn, kịch thông tin.
- Văn thơ: Làm thơ, ngâm thơ, bình thơ; thi kể chuyện.
- Mỹ thuật: Vẽ tranh, chụp ảnh, video clip.
Tổ chức thực hiện:
- Thu hút các cộng tác viên tham gia.
- Tự tập luyện (tiết mục cá nhân), tổ chức tập luyện (tiết mục tập thể).
- Xây dựng chương trình biểu diễn.
- Tổ chức biểu diễn: Sinh hoạt trong trung tâm văn hóa-thể thao xã; phục vụ các
hội nghị; tổ chức công diễn phục vụ nhân dân trên địa bàn; tổ chức giao lưu; tham gia
liên hoan, hội diễn.
c) Hoạt động khai thác, bảo tồn văn nghệ cổ truyền:
- Sưu tầm, học hỏi, ghi chép lại các làn điệu dân ca, ca dao, hò, vè, các vũ điệu
dân gian.
- Tổ chức các hoạt động văn nghệ cổ truyền.
- Sưu tầm, lưu giữ, sao chép các hoa văn, họa tiết, màu sắc, hình khối trang trí nội
thất ở các công trình kiến trúc cổ; các trang phục dân tộc.
- Dàn dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc độc đáo, đặc trưng của
địa phương.
101
d) Xây dựng và duy trì các loại hình hoạt động văn nghệ trong Trung tâm Văn
hóa - Thể thao xã:
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã cần nắm các loại hình hoạt động văn nghệ quần
chúng, để duy trì, củng cố và phát triển các hoạt động văn nghệ quần chúng, bao gồm:
Hoạt động thường xuyên: Các hoạt động thường nhật theo nhu cầu của quần
chúng; Hoạt động đơn lẻ, độc lập của cá nhân, gia đình, tổ, nhóm; Hoạt động thường
xuyên ở các tụ điểm văn hóa văn nghệ quần chúng (karaoke, câu lạc bộ, lớp tập huấn,
nhóm diễn giả, điều chỉnh video, phòng tranh, phòng truyền thống.
Hoạt đông định kỳ: Là các hoạt động theo kế hoạch của Trung tâm Văn hóa-Thể
thao xã trong năm, hàng năm; Hoạt động định kỳ thường không nhiều, nhưng có quy
mô tổ chức lớn hơn, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và đầu tư.
- Hoạt động đột xuất: Hoạt động không có trong kế hoạch, nảy sinh để đáp ứng
nhu cầu, nhiệm vụ khách quan; Kết quả hoạt động phần lớn phụ thuộc vào vốn văn
nghệ quần chúng hiện có của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
- Hoạt động tự thân: Là những sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của mỗi cá nhân,
theo nhu cầu riêng thường xuyên hoặc tự phát ngẫu hứng; Hoạt động tự thân là cơ sở,
là gốc và tiềm năng của phong trào văn nghệ quần chúng; nếu được thu hút, tập hợp sẽ
có đóng góp hiệu quả trong phong trào văn nghệ quần chúng ở địa phương.
- Hoạt động có tổ chức: Hoạt động của các tổ, nhóm, các đội văn nghệ quần
chúng, được tổ chức thành lập hoặc tự nguyện thành lập; Hoạt động có tổ chức thường
phong phú về nội dung, phương thức hoạt động; có chuyên môn nghệ thuật cao; có
khả năng xây dựng các chương trình văn nghệ quy mô lớn, chất lượng cao; Tuy nhiên,
hoạt động văn nghệ có tổ chức dễ biến động thăng trầm do sự thay đổi về nhu cầu, sở
thích của các thành viên trong nhóm tổ chức.
3.3. Hoạt động Câu lạc bộ
3.3.1. Vai trò của hoạt động câu lạc bộ trong hoạt động của Trung tâm Văn
hóa - Thể thao xã
Hoạt động câu lạc bộ nói chung là loại hình hoạt động văn hóa cơ sở có tính chất
phổ biến, có hiệu quả trong việc thu hút các tầng lớp nhân dân ở cơ sở tham gia vào
các hoạt động văn hóa-thể thao.
Hoạt động câu lạc bộ trên địa bàn xã gắn với Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã sẽ
có nhiều điều kiện thuận lợi: Địa điểm ổn định; có sự bảo trợ, khuyến khích, hướng
dẫn và tạo điều kiện của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã nên thường ổn định về tổ
chức và hoạt động.
Đối với Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã, hoạt động câu lạc bộ là nội dung,
phương thức cơ bản để tập hợp nhóm những người có cùng sở thích về lĩnh vực văn
hóa, thể thao trên địa bàn xã; vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của họ;
vừa phục vụ các nhu cầu văn hóa, thể thao của các tầng lớp nhân dân trong xã.
102
3.3.2. Mục đích, yêu cầu của hoạt động câu lạc bộ
- Góp phần vào công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động phục vụ các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế-xã hội của xã.
- Thực hành giáo dục ngoài nhà trường, giáo dục góp phần nâng cao dân trí
- Đáp ứng nhu cầu về tinh thần, nhu cầu sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao của
các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã.
- Góp phần gìn giữ, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
- Bồi dưỡng, phát triển năng khiếu, tài năng nghệ thuật, thể thao quần chúng.
- Hình thành các nhóm chuyên môn, ổn định về tổ chức và định hình về hoạt
động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
3.3.3. Nội dung sinh hoạt câu lạc bộ
- Về lĩnh vực gia đình: Nâng cao hiểu biết về truyền thống, đạo lý gia đình Việt
Nam; pháp luật về gia đình; tâm lý lứa tuổi, giới tính; nuôi dưỡng và giáo dục con cái,
kỹ năng sống trong gia đình; ứng xử và giao tiếp trong gia đình; kiến thức khoa học và
đời sống trong sinh hoạt gia đình; sinh đẻ có kế hoạch; phát triển kinh tế hộ gia đình;
xây dựng và giữ vững danh hiệu gia đình văn hóa…
- Về lĩnh vực nghệ thuật quần chúng: Thưởng thức và sáng tác âm nhạc,
sân khấu, điện ảnh, hội họa, nhiếp ảnh; biểu diễn ca-múa-nhạc, dân ca, hò vè,
tấu hài…
- Về lĩnh vực thể thao: Luyện tập nâng cao thể chất và tập luyện các môn thể thao
quần chúng: Dưỡng sinh, thể dục nhịp điệu, vũ quốc tế, võ, vật, bóng đá, bóng chuyền,
bóng bàn, cầu lông và các trò chơi dân gian truyền thống.
- Về lĩnh vực nghề nghiệp: Khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, cây cảnh,
nghề truyền thống, khoa học-kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất.
- Về thời sự, chính sách: Thông tin thời sự, chính sách; trao đổi, tọa đàm về tình
hình chính trị, kinh tế-xã hội.
3.3.4. Tổ chức công tác câu lạc bộ
Trên cơ sở điều tra thực trạng tình hình hoạt động câu lạc bộ trên địa bàn xã, khả
năng và điều kiện cụ thể, xây dựng kế hoạch tổ chức công tác câu lạc bộ của Trung
tâm Văn hóa-Thể thao xã hàng năm.
Ra quyết định thành lập các câu lạc bộ sở thích trực thuộc Trung tâm Văn hóa -
Thể thao xã, kèm theo quy chế tổ chức và hoạt động; cử cán bộ của Trung tâm Văn
hóa - Thể thao xã tham gia ban chủ nhiệm các câu lạc bộ.
Có chế độ hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các
câu lạc bộ hoạt động. Xây dựng lịch hoạt động của các câu lạc bộ trong tháng, trong
tuần tại Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã và các địa điểm khác.
Định kỳ hay giao ban với ban chủ nhiệm của các câu lạc bộ, đánh giá tình hình,
kịp thời có biện pháp cụ thể giải quyết những kiến nghị, khó khăn vướng mắc của các
103
câu lạc bộ; sơ kết, tổng kết và khen thưởng, đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng
các câu lạc bộ.
Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế
trên địa bàn, tăng cường chỉ đạo, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các câu lạc bộ.
3.4.Hoạt động Thể dục Thể thao quần chúng
3.4.1.Nội dung hoạt động
Xây dựng các Câu lạc bộ Thể dục thể thao thuộc Trung tâm Văn hóa- Thể
thao xã; tạo điều kiện về cơ sở vật chất, sân bãi, trang thiết bị, dụng cụ thể thao cho
các Câu lạc bộ hoạt động.
Cử cán bộ nghiệp vụ, cộng tác viên của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã tham gia
Ban chủ nhiệm của các Câu lạc bộ thể dục thể thao.
Định kỳ tổ chức các giải thi đấu các môn thể thao quần chúng hoặc tổ chức giải
vào dịp các ngày lễ kỷ niệm của dân tộc.
Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại”, gắn với thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa
và phong trào của các ngành, đoàn thể ở xã.
Tuyên truyền, vận động nhân dân và các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn
xã đóng góp kinh phí xây dựng và phát triển cơ sở vật chất hoạt động thể dục thể thao.
3.4.2. Quy trình quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong trào thể dục thể thao quần chúng
a) Kiểm tra, báo cáo
- Kiểm tra tỷ lệ người và gia đình tập thể dục thể thao thường xuyên theo quý.
- Báo cáo thống kê hàng năm tỷ lệ người, gia đình luyện tập thể dục thể
thao thường xuyên, làm căn cứ thực tiễn đánh giá và xây dựng kế hoạch phát
triển sự nghiệp thể dục thể thao.
b) Quản lý Câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở
- Điều kiện thành lập: Có cán bộ, nhân viên thể thao; có cơ sở vậ t chất,
trang thiết bị phù hợp; có phương án hoạt động được phê duyệt.
- Phương thức hoạt động: Tự quản, tự nguyện, tự trang trải, chịu sự quản
lý của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã.
- Chủ nhiệm Trung tâm ra quyết định thành lập các Câu lạc bộ trực thuộc Trung
tâm Văn hóa-Thể thao xã.
c) Quản lý cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã
- Là những người có chuyên môn, nghiệp vụ về thể dục thể thao, có bằng cấp về
chuyên ngành hoặc đã qua các lớp tập huấn về thể dục thể thao.
- Cộng tác viên thể dục thể thao có nhiệm vụ vận động, tổ chức, hướng dẫn quần
chúng nhân dân tập luyện thể dục thể thao, tham gia các hoạt động phát triển phong
trào thể dục thể thao ở xã.
104
d) Tổ chức thi đấu thể thao quần chúng
- Xây dựng Điều lệ giải và tổ chức thi đấu theo Điều lệ.
- Phương án tổ chức giải: Đấu vòng tròn, đấu loại trực tiếp, thi đấu hỗn hợp.
e) Xây dựng công trình thể dục thể thao xã : Căn cứ vào các quy định hiện
hành, phê duyệt quy hoạch xây dựng, xây dựng tổng hạng mục, hướng tới đạt
chuẩn quy định của ngành.
3.5.Hoạt động xã hội hóa văn hóa và dịch vụ văn hóa, thể thao và
du lịch
3.5.1. Ý nghĩa của hoạt động
Xã hội hóa văn hóa là một chủ trương, chính sách, giải pháp lớn của Đảng, Nhà
nước để phát triển văn hóa, làm cho sự nghiệp văn hóa thực sự là của toàn dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của nhà nước.
Cụ thể hóa và thực hiện tốt xã hội hóa văn hóa trong hoạt động của Trung tâm
Văn hóa - Thể thao xã, chính là thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân
trong xã tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao trên địa bàn xã. Đồng thời, huy
động được các nguồn lực để đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể thao, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo về văn hóa của chính các tầng lớp nhân
dân trên địa bàn xã.
Xã hội hóa văn hóa gắn với việc tổ chức các hoạt động, dịch vụ văn hóa theo quy
định của pháp luật. Hoạt đông dịch vụ văn hóa của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã là
dịch vụ công, cung ứng cho người dân trên địa bàn xã những sản phẩm văn hóa, vật tư,
văn hóa phẩm được hình thành từ nguồn xã hội hóa văn hóa do Trung tâm Văn hóa-
Thể thao xã đảm nhiệm; hoặc liên kết, phối hợp với các tổ chức, cá nhân tổ chức
doanh nghiệp thực hiện.
3.5.2. Nội dung hoạt động
Đăng cai tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, có bán vé.
Hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp cho các chương trình biểu diễn
nghệ thuật hoặc các giải thi đấu thể thao.
Hỗ trợ ngân sách nhà nước cho các hoạt động tuyên truyền, cổ động phục vụ các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội (chế độ đặt hàng).
Sự đóng góp tự nguyện của thành viên các câu lạc bộ, nhằm duy trì hoạt động của
các câu lạc bộ.
Quản lý và sử dụng các cơ sở vật chất, cơ sở sản xuất do địa phương giao, nhằm
tạo nguồn thu cho các hoạt động văn hóa, thể thao.
Hợp đồng tổ chức các sự kiện, các hoạt động văn hóa, thể thao với các ngành,
đoàn thể trên địa bàn xã.
105
Mở các cửa hàng, cơ sở kinh doanh, dịch vụ về văn hóa, thể thao tại khuôn viên
Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã; tổ chức các hoạt động dịch vụ đám cưới, đám tang và
tổ chức lễ hội.
Tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng năng khiếu, dàn dựng
chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng, tập luyện và hướng dẫn thể dục
thể thao.
Tổ chức các Tour du lịch (nếu có điều kiện).
3.5.3. Tổ chức hoạt động
Các hoạt động xã hội hóa văn hóa, dịch vụ văn hóa phải phù hợp với chủ trương,
chính sách pháp luật; sự chỉ đạo quản lý của chính quyền địa phương; kế hoạch hoạt động
hàng năm được giao và điều kiện khả năng của Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã.
Xây dựng kế hoạch thực hiện hoạt động cụ thể, báo cáo Ủy ban nhân dân xã
trước và sau khi thực hiện.
Tổ chức thực hiện các hoạt động chặt chẽ, thường xuyên, đảm bảo hiệu quả kinh
tế và xã hội, tránh chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần.
Sau mỗi hoạt động cần đánh giá, rút kinh nghiệm, sử dụng kinh phí đúng mục
đích, công khai, dân chủ.
3.6. Hoạt động quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với Nhà văn hóa – Khu
thể thao thôn
3.6.1. Nội dung, phương thức hoạt động
Tham mưu cho Ủy ban nhân dân xã xây dựng quy hoạch phát triển Nhà Văn hóa
- Khu thể thao thôn trên địa bàn xã. Quyết định việc xây dựng và thành lập Nhà Văn
hóa - Khu thể thao thôn.
Phối hợp với trưởng thôn xây dựng kế hoạch hoạt động của Nhà Văn hóa- Khu
thể thao thôn, trình Ủy ban nhân dân xã phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch được
phê duyệt.
Tập huấn, hướng dẫn quy trình thực hiện nghiệp vụ quản lý và kỹ năng tổ chức
nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn.
Trực tiếp giúp đỡ Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn, tổ chức các hoạt động văn
hóa, thể thao.
Tổ chức các hoạt động của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã với sự tham gia của
Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn (giao lưu, liên hoan, hội diễn, hội thi…).
3.6.2. Tiêu chí của Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn
Theo quy định tại Điều 6, Thông tư số 06/2011/TT-BVHTTDL ngày 08 tháng 3
năm 2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
a. Diện tích đất quy hoạch
- Nhà Văn hóa: Đồng bằng 500m2
trở lên, miền núi 300m2
trở lên.
106
- Khu thể thao: Đồng bằng 2000m2
trở lên, miền núi 1500m2
trở lên.
b. Quy mô xây dựng
- Hội trường Nhà Văn hóa: đồng bằng 100 chỗ ngồi trở lên, miền núi 80 chỗ ngồi
trở lên.
3.6.3. Định hướng tổ chức, quản lý
Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn là cơ sở hoạt động văn hóa, thể thao
xã hội hóa tự trang trải, được nhà nước hỗ trợ một phần; hoạt động theo cơ
chế tự quản, có sự hướng dẫn về nghiệp vụ của Trung tâm Văn hóa-Thể
thao xã, huyện.
Diện tích đất sử dụng cho Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn thuộc quỹ đất công, dành
xây dựng các công trình phúc lợi về văn hóa-xã hội ở thôn; nằm trong quy hoạch xây
dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở của cả nước, theo Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg
và Quyết định số 100/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hoạt động của Nhà Văn hóa-Khu thể thao thôn là hoạt động của các câu lạc bộ
văn hóa, câu lạc bộ thể thao được thành lập trên cơ sở các nhóm sở thích.
Khai thác hội trường nhà văn hóa thôn đa năng, vừa là nơi hoạt động văn hóa,
sinh hoạt cộng đồng, trụ sở làm việc của thôn.
3.7. Các hoạt động khác
3.7.1. Tham gia thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, cổ vũ, góp phần nâng cao nhận thức của các
ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong xã về phong trào.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng gia đình văn hóa,
nếp sống văn hóa, làng văn hóa, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa.
Tổ chức và tham gia tổ chức các hội thảo, hội nghị, lớp tập huấn nghiệp vụ về
phong trào.
Tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ, thể thao các làng văn hóa; tham gia các cuộc
liên hoan hội diễn văn nghệ và thi đấu thể thao các làng văn hóa do huyện, tỉnh tổ chức.
3.7.2. Hoạt động của Đài Truyền thanh xã
Ngoài các nội dung phản ánh về tình hình thời sự chung của địa phương, đài
truyên thanh xã xây dựng chương trình, chuyên mục phản ánh về xây dựng đời sống
văn hóa trên địa bàn xã, bao gồm các nội dung:
- Phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy
định của địa phương về lĩnh vực xây dựng văn hóa cơ sở.
- Tuyên truyền, giới thiệu gương người tốt, việc tốt; các điển hình tiên tiến, các cách
làm hay, có hiệu quả trong công tác xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn xã.
107
- Phổ biến văn học-nghệ thuật, giới thiệu các chương trình văn nghệ
quần chúng của Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã và các Nhà Văn hóa-Khu
thể thao thôn và các câu lạc bộ; giới thiệu các sáng tác mới về văn học -nghệ
thuật quần chúng.
- Thông tin trao đổi về những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đời sống văn hóa của
xã, định hướng phát triển văn hóa, văn nghệ và thể thao quần chúng của xã.
3.7.3. Hoạt động giáo dục cộng đồng
Tổ chức thực hiện các chương trình giáo dục cộng đồng được phê duyệt
Tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền đường lối, chủ trương, của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương; các kiến thức khoa học, kỹ
thuật về sản xuất và đời sống, góp phần nâng cao dân trí cho nhân dân trên địa bàn xã.
3.7.4. Hoạt động Thư viện
Tổ chức phòng đọc sách, báo, tại Trung tâm Văn hóa-Thể thao xã. Nếu có
điều kiện tổ chức phòng mượn sách về nhà hoặc phòng phục vụ sách lưu động.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, đọc và làm theo sách báo, các cuộc giới thiệu sách,
thi kể chuyện… góp phần phát triển phong trào đọc sách, báo…
Hướng dẫn, giúp đỡ xây dựng và duy trì hoạt động của các tủ sách, phòng đọc
sách báo ở thôn, làng, ấp bản…
4. Thực trạng hoạt động của Trung tâm Văn hóa- Thể thao xã
4.1. Một vài nhận xét, đánh giá
4.1.1. Kết quả
Đến nay, toàn quốc đã có 4.703/11.198 xã, phường, thị trấn có Nhà Văn hóa- Sân
thể thao xã, đạt tỷ lệ 42%; trên 70% số xã đã phê duyệt quy hoạch sử dụng đất xây
dựng Nhà Văn hóa - Sân thể thao xã. Trên 50% số Nhà Văn hóa-Sân thể thao xã ở các
tỉnh đồng bằng, ven đô đã xây dựng hội trường đa năng Nhà Văn hóa trên 200 chỗ
ngồi; sân thể thao xã với với diện tích 90m x 120m trở lên.
Tại 30 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 3.880 cán bộ Nhà Văn hóa,
thể thao xã hoạt động chuyên trách và bán chuyên trách; trong đó: 617 người có
trình độ đại học (đạt tỷ lệ 16%), 2.761 người có trình độ trung cấp (đạt tỷ lệ 71%).
Bình quân các hoạt động của Nhà Văn hóa- Sân thể thao xã, trong đó: Hoạt động tại
chỗ 64 buổi/năm; hoạt động lưu động 46 buổi/năm; hoạt động phối hợp 20 buổi/năm;
thu hút hơn 50.000 người tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao/năm.
4.1.2. Hạn chế
Còn 30% số xã chưa có quy hoạch sử dụng đất sử dụng xây dựng Nhà Văn hóa -
Sân thể thao xã. Trên 60% số Nhà văn hóa hiện có đang bị xuống cấp về cơ sở vật
chất, thiếu thốn về trang thiết bị, phương tiện hoạt động.
Tổ chức ổn định, cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ của Nhà Văn hóa,
thao xã vừa thiếu, vừa yếu; chế độ thù lao chưa đảm bảo; kinh phí hoạt động chưa đảm
108
bảo. Hoạt động còn nghèo nàn, thiếu thường xuyên, hiệu quả chưa cao; tỷ lệ người dân
tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao trên địa bàn xã còn thấp.
4.1.3. Định hướng xây dựng, phát triển
Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt: “Xây dựng, hoàn thiện, củng cố hệ thống thiết bị văn hóa từ Trung ương đến
địa phương. Chú trọng đổi mới nội dung hoạt động của hệ thống Nhà Văn hóa, phục vụ
tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động theo
nguyên tắc chuyên nghiệp hóa tất cả các bộ phận trong cơ cấu của một thiết chế”.
Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm
2020” đã nêu: “Đối với vùng đồng bằng có 70% có Nhà Văn hóa-Sân thể thao xã, 70%
Nhà Văn hóa-Sân thể thao thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch”. “Đối với vùng miền núi, biên giới, hải đảo có 50% Nhà Văn hóa- Sân thể
thao xã và 50% Nhà Văn hóa-Sân thể thao thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch”.
4.2.Vấn đề xây dựng và phát triển Nhà văn hóa - Thể thao khu vực trung du,
miền núi, vùng dân tộc
a) Thuận lợi
Được ưu tiên ngân sách đầu tư xây dựng; Có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa,
thể thao truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
b) Khó khăn
Dân cư sống thưa thớt, không gần nhau, giao thông đi lại không thuận tiện; Đời
sống sinh hoạt của nhân dân còn khó khăn; trình độ dân trí còn thấp; nhu cầu sinh hoạt văn
hóa, thể thao còn thấp; tiếp cận với các hoạt động văn hóa mới còn chậm.
c) Định hướng phát triển
- Quy hoạch xây dựng, phát triển Nhà Văn hóa-Sân thể thao xã phải gắn với quy
hoạch dân cư, ở vị trí trung tâm, thuận tiện cho việc đi lại của người dân.
- Xây dựng với quy mô phù hợp với điều kiện kinh tế, phong tục tập quán, nhu cầu, sở
thích của người dân và thế mạnh trong tiềm năng văn hóa, thể thao của xã.
- Hoạt động thiết thực, hiệu quả, chú trọng các hoạt động văn hóa, thể thao lưu
động; các hoạt động có đông người tham gia và các hoạt động tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tóm lại, quản lý và hướng dẫn tổ chức hoạt động trong các thiết chế văn hóa trên
địa bàn xã khu vực trung du, miền núi và vùng dân tộc vừa ó những yêu cầu chung vừa
có những đặc điểm riêng. Các thiết chế văn hóa trong khu vực này không đồng đều
giữa các vùng, các địa phương cũng như chưa đồng bộ về thiết bị, cơ sở vật chất và
các điẻu kiện xã hội khác liên quan. Tình hình đó đói hỏi công chức văn hóa xã hội-xã
phải năng động, sáng tạo và tranh thủ sự giúp đỡ của chính quyền các cấp, cơ quan
109
chức năng đi đối với quá trình vận động, tuyên truyền để công chúng có nhận thức
đddungss à đến với các thiết chế văn hóa ngày càng đông. Những vấn đề nêu ra trong
bài học là chỗ dựa cơ bản và từ đó công chức văn hóa- xã hội xã,chính quyền địa
phương nghiên cứu, vận dụng cho phù hợp với thực tiễn địa phương, nhằm thực hiện
tốt các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã đề ra.
****************
Câu hỏi thảo luận
1. Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã có những loại hình hoạt động cơ ban nào?
2. Hãy nêu những nội dung hoạt động cơ bản của các loại hình hoạt động tại
Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã?
3. Hãy nêu nội dung, phương thức hoạt động xã hội hóa và dịch vụ văn hóa, thể
thao và du lịch trên địa bàn xã?
110
KỸ NĂNG QUẢN LÝ VÀ HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG
THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN, CỔ ĐỘNG, TRANG TRÍ KHÁNH TIẾT
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
HÀ VĂN TĂNG
MA KIỀU LY
Thời lượng: 8 tiết(*)
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về khái niệm và kỹ năng quản lý
và hướng dẫn tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động, trang trí khánh
tiết trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc;
- Biết vận dụng kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý và hướng dẫn tổ chức các
hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động, trang trí khánh tiết vào hoạt động quản lý
và tổ chức ở địa phương mình .
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý và hướng
dẫn tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động, trang trí khánh tiết, đồng
thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
II. NỘI DUNG
Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động và trang trí khánh tiết là một công việc
đòi hỏi người thực hành phải có những kiến thức và kỹ năng cơ bản cần thiết để hiểu,
thao tác thành thục và tìm ra những cách thức truyền tải thông tin, tuyên truyền, cổ
động cho đồng bào hiểu, tin và làm theo. Đặc biệt với khu vực trung du, miền núi,
vùng dân tộc nơi địa bàn chia cắt, đi lại khó khăn, đồng bào sinh sống rải rác không
tập trung, thiếu các phương tiện truyền thông hiện đại, ít thông tin, trong khi đó các thế
lực thù địch coi đây là địa bàn lợi thế cho hoạt động tuyên truyền, kích động chống
phá Đảng, Nhà nước ta, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, thông tin, tuyên
truyền, cổ động, trang trí khánh tiết ở khu vực này vô cùng quan trọng đối với các cấp
chính quyền và người làm công tác văn hóa-thông tin cấp cơ sở.
Chúng ta đang sống trong một xã hội thông tin, hàng giờ, hàng phút đều có trao
đổi thông tin một cách vô tình hay hữu ý. Khó có một khái niệm đầy đủ nào về thông
tin nhưng nó lại có rất nhiều cách biểu hiện khác nhau, do đó có rất nhiều quan niệm
khác nhau và nhận thức về thông tin ngày càng phát triển, mở rộng.
Tất cả các sự vật đều phát ra những thông tin và con người đều có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp nhận biết được các thông tin đó. Thông tin là hình thức phổ biến để biểu
thị đặc trưng của sự vật và nó là phương diện quan trọng của thế giới vật chất.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
111
Chúng ta thường xuyên phải tiếp xúc với thông tin, ở ngành nào, làm công việc gì
con người cũng phải có thông tin mới tồn tại và phát triển được. Nếu thông tin không
nhạy bén, không kịp thời, không chính xác thì công việc bị cản trở có khi nguy hiểm
gây tổn hại bởi không biết không xử lý được thông điệp, thông báo, thông tin. Có
thông tin giá trị và thông tin không giá trị. Giá trị của thông tin được tính bằng hiệu
quả cụ thể nhờ sử dụng thông tin đó mà đạt được, thông tin có giá trị, có ích là thông
tin mới, thông tin hướng tới sự phát triển.
Nhu cầu thông tin ngày càng to lớn trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của con
người. Người ta đã phát minh ra các phương tiện thông tin cực kỳ hiện đại và tiện ích
như: Truyền hình, băng đĩa, internet, vệ tinh…để chuyển tải thông tin hay thông điệp
nhanh, nhiều, rẻ nhằm phục vụ mọi nhu cầu giao tiếp và ý muốn của con người. Cũng
chính vì vậy mà thông tin có sức mạnh vật chất. Ngày nay, thông tin trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn, là tài nguyên tri thức và là ngành khoa học rất quan trọng phục vụ sự
tồn tại, phát triển của con người và nhân loại. Người ta có lý khi nói rằng ai nắm thông
tin là nắm quyền điều khiển. Người tài lãnh đạo hay quản lý bất cứ việc gì, ở đâu,
trước hết phải nắm thông tin, điều hành các phương tiện chuyển tải thông tin.
Loài người đã trải qua 5 cuộc cách mạng thông tin và mỗi lần lại phát minh ra vật
thể chuyển tải riêng. (*)
- Sự hình thành ngôn ngữ giúp con người có thể truyền đạt thông tin một cách
cặn kẽ, hữu hiệu.
- Sự sáng tạo ra chữ viết giúp con người truyền đạt và trao đổi thông tin xuyên
thời gian, lãnh thổ.
- Sự phát minh ra giấy viết và nghề in giúp con người bước vào thời đại mới,
dùng sản phẩm in làm phương tiện chuyển tải cơ bản tri thức thông tin.
- Sự ứng dụng điện báo, điện thoại và vô tuyến truyền hình đã mở rộng hơn phạm
vi và nội dung truyền tin.
- Việc ứng dụng máy tính và kỹ thuật số đã khiến cho tốc độ cũng như sự tin cậy
của thông tin và ghi nhớ thông tin tăng lên rất nhiều, tạo nên sự bùng nổ thông tin.
Internet đã giúp cho nhận thức của nhân loại phát triển và việc ứng dụng thông tin
ngày càng rộng lớn trong cuộc sống số, trong thời đại tin học.
Khái niệm “thông tin” (information) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là tạo ra
một hình thái dùng để chỉ những yếu tố có thể giúp cho sự hiểu biết của con người về
thế giới xung quanh đang tồn tại dưới một hình thức nhất định.
Giới hạn bài này chúng ta không nghiên cứu tất cả những vấn đề về thông tin mà
chỉ bàn chuyên về thông tin tuyên truyền, cổ động, một bộ phận quan trọng của cuộc
sống hiện tại. Bài này cũng không đi sâu tất cả lĩnh vực thông tin tuyên truyền, cổ
(*) - Tôn Kiến Trung, (2004), 10 vạn câu hỏi vì sao về truyền thông và tin học (trang 25), NXB
Đà Nẵng
112
động mà chỉ cung cấp kiến thức sơ giản, cơ bản, chung nhất để ứng dụng vào hoạt
động thực tiễn hàng ngày rất cần thiết ở xã, phường, trị trấn.
1. Những vấn đề chung về hoạt động thông tin, tuyên tryền, cổ động
1.1. Thông tin là gì?
Như chúng ta đã biết thông tin là sự truyền đạt tri thức mới. Theo nghĩa thông
thường: Thông là nối liền mạch, là hiểu rõ, nắm thành thạo. Tin là điều được truyền đi,
là báo cho biết về sự việc, tình hình xảy ra. Tin cũng là đơn vị cơ bản của thông tin
báo chí, mang lượng tin cơ bản về một sự kiện mới xảy ra được mọi người hoặc một
người quan tâm.
Vì vậy, thông tin là báo cho biết rộng rãi, chủ yếu những gì đã xảy ra rõ ràng,
trong thông tin đã có sự tuyên truyền, do nhu cầu thông tin của con người đã sáng tạo
ra các hình thức, phương tiện truyền đạt thông tin.
1.2. Tuyên truyền là gì?
Tuyên là bày tỏ ra cho mọi người biết hoặc đọc to lên. Truyền là chuyển đi, trao
cho. Vậy, tuyên truyền là sự truyền đạt nhận thức của con người về thiên nhiên, xã hội,
sự hiểu biết kiến thức từ đối tượng này sang đối tượng khác, sự truyền đạt đó làm tăng
sự hiểu biết, dẫn tới hành động cho sự phát triển của con người. Thực chất của tuyên
truyền là sự thông tin, muốn truyền phải có tin. Nhưng tuyên truyền mà chúng ta muốn
nói ở đây là thông tin chính thống, thông tin có tính giai cấp, thông tin của nhà nước
đó là thông tin chính trị, có tính Đảng do Đảng lãnh đạo và cầm quyền nhằm:
- Tập hợp lực lượng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.
- Cổ vũ động viên quần chúng thi đua yêu nước, hành động cụ thể, tham gia sự
nghiệp đổi mới.
Tuyên truyền là thông tin có tính định hướng, nhằm tác động đến nhận thức của
con người.
1.3. Cổ động là gì?
Cổ là cái trống. Tiếng trống có tác động đến tình cảm, tư tưởng, có tác dụng
hướng dẫn hành động. Động là hoạt động. Vì vậy, cổ động là dùng các phương tiện,
cách thức như: Lời nói, sách báo, tranh ảnh…tác động đến tư tưởng, tình cảm của số
đông nhằm lôi cuốn họ tham gia vào những hoạt động chính trị xã hội nhất định.
Trong Đại từ điển Bách khoa Việt Nam (trang 570) cho rằng: “Cổ động là truyền
bá một tư tưởng bằng hình thức kêu gọi, cổ vũ hoặc đưa ra một hình mẫu bằng những
hình ảnh, những tấm gương cụ thể về người thật, việc thật cho nhiều người nhằm động
viên, hướng dẫn, thúc đẩy hành động theo những mục tiêu nhất định.”
Trong thực tiễn thông tin tuyên truyền có thể có nhiều hướng, nhiều nội dung,
còn thông tin cổ động có tính cụ thể, rõ rệt thường có một nội dung, một hướng cụ thể,
nhưng cho số đông người.
113
Do vậy, cổ động là thông tin tuyên truyền, nhưng có chủ định rõ ràng hướng con
người tới hành động cụ thể.
Sơ đồ : Mối quan hệ giữa thông tin, tuyên truyền và cổ động
Sơ đồ đơn giản giới thiệu mối quan hệ tương đối giữa thông tin, tuyên truyền, cổ
động và thông tin với truyền thông, quảng cáo.
Sơ đồ cho thấy cổ động nằm trong tuyên truyền và tuyên truyền nằm trong thông
tin. Thông tin có tuyên truyền, cổ động mà chúng ta quen gọi thông tin chính trị.
1.4. Phân loại thông tin
1.4.1. Loại hình và cấp độ thông tin
Theo nội dung có thông tin thời sự, thông tin chính trị, thông tin xã hội, thông tin
kinh tế, thông tin khoa học kỹ thuật, tin tức…
Theo cấp độ, thông tin chia thành 3 cấp:
- Cấp 1: Là thông báo sự việc, hiện tượng, sự kiện cụ thể.
- Cấp 2: Là thông tin giải thích, bình luận, đồng thời thể hiện thái độ trước sự kiện đó.
- Cấp 3: Là thông tin không chỉ có thông báo mà còn tuyên truyền, cổ động đến
đông đảo quần chúng.
1.4.2. Tin tức và thông tin, tuyên truyền, cổ động bằng tin tức
Tin tức là phản ánh một sự kiện, một sự việc, hiện tượng mới xảy ra, được thuật
lại một cách ngắn gọn, dễ hiểu nhằm đem lại cho người nghe, người đọc, người xem
114
nhận thức mới khiến họ suy nghĩ và hành động theo một phương hướng nhất định. Tin
tức là đơn vị cơ bản của thông tin được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Ở đây
giới thiệu tin tức dạng văn bản báo chí.
- Yêu cầu:
+ Chính xác, đúng sự thật khách quan.
+ Có tác dụng tuyên truyền, giáo dục phù hợp đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước.
+ Phản ánh sự việc, con người, vấn đề điển hình được mọi người quan tâm.
+ Có tác dụng lôi cuốn, tổ chức quần chúng hành động cách mạng.
+ Ngắn gọn, dễ hiểu, kịp thời, gây ấn tượng mạnh.
Những điều này đòi hỏi người viết tin phải có chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp
và trách nhiệm.
- Hình thức của tin:
+ Đầu đề tin thường gọi là tít, đầu đề chính, đầu đề chi tiết.
+ Thân tin: Mào đầu (có khi không có), nội dung chính.
(Hình tháp lộn ngược của Line Ross)
- Thân tin phải đảm bảo trả lời các câu hỏi chính:
+ Thời gian sự việc, hiện tượng, sự kiện xảy ra?
+ Địa điểm xảy ra sự việc, hiện tượng, sự kiện?
+ Sự việc, hiện tượng, sự kiện chính và quan trọng nhất?
+ Ai là người gây ra, người liên quan, ảnh hưởng?
+ Sự việc, hiện tượng, sự kiện xảy ra như thế nào?
Tin cần để bản thân sự việc, sự kiện khách quan nói lên điều mà người đưa tin
muốn truyền đạt tới đối tượng.
Có các loại tin: Tin vắn, tin ngắn, tin sâu, tin tường thuật, tin tổng hợp, chùm tin,
tin người tốt, việc tốt...
115
Khái niệm truyền thông thường gắn với thông tin tuyên truyền bằng phương tiện
kỹ thuật, có khi còn gọi là truyền thông đại chúng bởi truyền thông đi với số đông.
Theo đó sự tác động của thông tin đến con người cũng có 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Con người tiếp nhận kiến thức mới. Giai đoạn phản ánh thế giới
xung quanh.
Giai đoạn 2: Biến kiến thức thành niềm tin, thành động lực để hành động (ở dạng
khả năng).
Giai đoạn 3: Biến lòng tin thành hành động, việc làm cụ thể.
Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, thông tin được sử dụng để bảo vệ
lợi ích giai cấp thống trị. Những thông tin nhằm định hướng suy nghĩ, hành động của
quần chúng vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc, của quốc gia là thông tin chính trị.
Thông tin chính trị là bộ phận quan trọng nhất trong thông tin xã hội, bao hàm
các chủ trương, chính sách, mọi sự kiện diễn ra trong lĩnh vực chính trị đời sống xã
hội, quan hệ giai cấp, quốc gia và quốc tế và là cơ sở của công tác cổ động chính trị.
Các thông tin chính trị là vũ khí sắc bén của giai cấp thống trị để tuyên truyền,
định hướng cho mọi hoạt động của quần chúng và xã hội cho phù hợp với quan điểm,
mục tiêu, lợi ích của giai cấp quản lý, thống trị xã hội.
Việc sử dụng thông tin nhằm phản ánh các hoạt động chính trị xã hội của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là nhằm định hướng tư tưởng, hướng dẫn toàn xã hội ta
đoàn kết, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ mục tiêu, lý tưởng xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, đổi mới và hội nhập theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Toàn bộ các hoạt động thông tin mọi lúc, mọi nơi tuyên truyền, vận động quần
chúng rộng khắp, cổ vũ rầm rộ số đông có tác động thi đua mạnh mẽ để cả hệ thống
chính trị, toàn xã hội hoàn thành nhiệm vụ cách mạng gọi là công tác thông tin, tuyên
truyền, cổ động.
1.5. Nhiệm vụ, yêu cầu của công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động
1.5.1. Nhiệm vụ chủ yếu của công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động
- Trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền, cổ động bằng hệ
thống hoạt động của ngành với các phương pháp, nghiệp vụ và các hình thức sinh
động phù hợp điều kiện, đặc thù của địa phương góp phần hướng dẫn tư tưởng, hành
động của quần chúng thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
Nước phục vụ nhiệm vụ chính trị của trung ương và địa phương.
- Phản ảnh các hoạt động của quần chúng, các điển hình tiêu biểu trong phong
trào thi đua trên các lĩnh vực hoạt động xã hội trên địa bàn. Phản ánh tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng đến các cơ quan quản lý giúp Đảng và Nhà nước đề ra hoặc điều
chỉnh các chủ trương, chính sách phù hợp lợi ích của đất nước, của tập thể, của nhân
dân lao động.
116
- Kịp thời làm sáng tỏ quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước thích hợp với điều kiện địa phương, phổ biến các biện pháp quản lý chỉ đạo
thực hiện của chính quyền địa phương.
- Ở khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc nhiệm vụ của công tác thông tin,
tuyên truyền, cổ động nhằm chống mọi âm mưu "diễn biến hoà bình", xuyên tạc của
kẻ thù, của các thế lực phản động và các hành động chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo
gây mất lòng tin của dân với Đảng và Nhà nước, phá hoại sự nghiệp cách mạng.
- Biểu dương các điển hình trong phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất,
bảo vệ an ninh tổ quốc, tạo sự phấn khích cách mạng trên mọi lĩnh vực đời sống. Phê
phán các biểu hiện tiêu cực, nếp làm, nếp nghĩ lạc hậu, mê tín dị đoan...
- Góp phần xây dựng đức tính tốt đẹp của con người, xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Đảm bảo giữ gìn bí mật quốc gia, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phát
huy sức mạnh quần chúng, nêu cao tinh thần sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân, của
cộng đồng nhằm xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Hướng dẫn các đơn vị, tập thể, cá nhân sử dụng có hiệu quả các phương tiện
thông tin đại chúng góp phần mở rộng phạm vi tác động của công tác thông tin, tuyên
truyền, cổ động rộng rãi và hiệu quả.
1.5.2. Yêu cầu đối với công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động
Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động phải đảm bảo và đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tính Đảng, tính tư tưởng.
- Tính chân thật, chính xác.
- Tính thiết thực, cụ thể.
- Tính rõ ràng, dễ hiểu.
- Tính nhanh nhạy, kịp thời, thường xuyên liên tục.
Các yêu cầu này cũng là tính chất của công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động,
bất kỳ phương thức thông tin nào cũng phải vận dụng.
1.5.3. Thông tin, tuyên truyền, cổ động bằng tin tức
Các phương thức phổ biến, truyền tải tin tức như: Đài phát thanh, truyền thanh;
các trạm, bảng tin; các phương tiện thông tin đại chúng; các chương trình hoạt động
của đội thông tin lưu động, sinh hoạt cộng đồng…
Thông tin, tuyên truyền, cổ động là quá trình nắm bắt thông tin, sản xuất tin và
truyền tin đến đối tượng và công chúng.
117
Sơ đồ: Hệ thống công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động
Cơ quan Đảng Chính Phủ Mặt trận Tổ quốc,
đoàn thể và các hội
Cấp TW
- Ban tuyên giáo TW.
- Báo Nhân dân.
- Tạp chí Cộng sản.
- Các Học viện chính trị
Quốc gia và Học viện
Báo chí- Tuyên truyền.
- Các vụ, cục chức năng.
- Viện nghiên cứu Khoa
học.
- Nhà xuất bản Chính
trị-Sự thật Quốc gia.
- Bộ Văn hóa-Thể thao-Du
lịch; Bộ Thông tin - Truyền
thông.
- Các cơ quan thông tấn và
báo chí của TW và chính
phủ.
- Tạp chí của các Bộ và cơ
quan ngang Bộ.
- Đài truyền hình VN, Đài
tiếng nói Việt Nam.
- Các vụ-cục chức năng (Cục
tư tưởng văn hóa, Cục văn
hóa, Cục báo chí, Cục xuất
bản…).
- Các nhà hát, Đoàn nghệ
thuậ, Bưu chính- Viễn thông.
- Nhà xuất bản, Thư viện
quốc gia và các thư viện
chuyên ngành.
- Nhà triển lãm, các Hãng
phim (hãng phim thời sự, tài
liệu, khoa học…).
- Vụ tư tưởng, văn hóa.
- Báo, tạp chí.
- Trưởng nghiệp vụ ngành.
Cấp Tỉnh,
Thành phố
- Báo, Đài phát thanh -
truyền hình.
- Trường Chính trị.
- Các Sở Văn hóa-Thể thao-
Du lịch, Sở Thông tin-Truyền
thông.
- Trung tâm/Nhà văn hóa,
Nhà thông tin… Thư viện,
cửa hàng sách báo.
- Các đoàn nghệ thuật, Đội
Thông tin Lưu động.
- Cụm cổ động; rạp chiếu
phim.
- Đội Chiếu bóng Lưu động
và Băng hình…
Cơ quan Tư tưởng-Văn
hóa (Nội bộ ngành).
118
Cấp
Huyện,
Quận và
tương
đương
- Đài phát thanh và tháp
hình (FM).
- Bản tin.
- Báo cáo viên.
- Phòng Văn hóa, Phòng
Thông tin Thư viện, cửa hàng
sách báo.
- Trung tâm văn hóa, Đội
Thông tin Lưu động.
- Cụm cổ động, pano, rạp-bãi
chiếu phim.
Xã
Phường
Thị trấn
- Ban tuyên giáo.
- Đài truyền thanh.
- Ban văn hóa-xã hội.
- Trung tâm/Nhà văn hóa,
Đội Thông tin, Thư viện,
Quầy sách báo.
- Đội văn nghệ không
chuyên, Các cơ sở Trường
học, Đồn Biên phòng, cơ
quan đơn vị trên địa bàn.
- Trạm bảng tin, cụm pano,
Bưu điện và Điểm Bưu điện
Văn hóa xã, Điểm internet.
- Sân bãi sinh hoạt văn hóa,
thể thao.
Thôn Bản
- Ấp Khu
phố
Tuyên truyền viên - Tổ nhóm văn nghệ-ca khúc,
câu lạc bộ, tủ sách, Internet...
- Gia đình nghệ thuật, điểm
karaoke.
- Cộng tác viên-hạt nhân văn
nghệ.
-
Vai trò, vị trí công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động rất quan trọng, rất rõ ràng.
Vì vậy, Chính phủ đã có Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 nằm trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010. Quyết định của Thủ tướng chính
phủ số 219/2005/QĐTTg ngày 9/5/2005 đã chỉ rõ: Phát triển và hiện đại hoá mạng
lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền
hình, báo trí, xuất bản. Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện
phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hoá kết hợp hệ thống
bưu cục khắp các xã trong nước. Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có
chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân tộc... Theo tinh
thần này Nhà nước sẽ phát triển các loại thông tin sau:
119
- Thông tin qua báo chí in, thông tin qua sách, thông tin qua phát thanh, thông tin
truyền miệng, thông tin qua truyền hình, thông tin qua điện ảnh.
- Mức hưởng thụ bình quân đầu người 10 bản báo/người/năm; sách là 5
bản/người/năm; tỷ lệ phim truyện Việt Nam chiếu trên truyền hình 60%; 100% gia
đình ở đồng bằng có phương tiện nghe nhìn; 100% gia đình miền núi có phương tiện
nghe hoặc nhìn.
2. Cổ động trực quan và vị trí, tác dụng của nó trong công tác tuyên truyền,
cổ động
2.1. Khái niệm
Cổ động trực quan là những phương pháp, hình thức tác động trực tiếp vào giác
quan, chủ yếu vào mắt con người, tạo nên ấn tượng về một vấn đề nhất định theo mục
đích mà người tuyên truyền, cổ động muốn truyền đạt tới làm cho họ hiểu và làm theo.
Chỉ thị 118CT/TW ngày 23-12-1965 của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về
công tác thông tin, cổ động đã nhấn mạnh tới việc cải tiến và làm tốt một số hình thức
cổ động trực quan như:
- Bảo đảm phổ biến những khẩu hiệu về nhiệm vụ chính của Đảng và Nhà nước
bằng nhiều hình thức trong quần chúng.
- Nâng cao và phát triển các loại tranh cổ động, ảnh tuyên truyền, tổ chức triển
lãm để kịp thời phổ biến các nhiệm vụ chính của Đảng và Nhà nước.
- Phát triển đèn chiếu, phổ biến rộng rãi những phim thời sự và tài liệu ở cơ sở.
Nhờ tính chất cụ thể, sinh động của nó thông tin, cổ động trực quan có sức
thuyết phục lôi cuốn mạnh mẽ quần chúng, nhất là đối với nông dân. Nó có tác dụng
trực tiếp hướng dẫn người ta làm theo, thúc giục người ta hành động, nó gắn công tác
tuyên truyền, cổ động với công tác tổ chức hành động.
Chỉ thị 07/CT-TW ngày 19-3-1977 của Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam nhấn mạnh: "Phải đưa các hình thức cổ động trực quan, đặc biệt là triển
lãm lên vị trí rất quan trọng. Đi đôi với những hoạt động nhỏ, nhẹ, lưu động hình
thành dần hệ thống nhà thông tin, nhà triển lãm, hệ thống khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh
tượng cổ động... gắn liền với việc xây dựng những trung tâm và công trình văn hoá.
Tổ chức những cuộc tham quan ở những nơi có kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, những
di tích lịch sử và cách mạng. Đẩy mạnh hoạt động đèn chiếu, phổ biến rộng rãi ảnh
tuyên truyền, phim thời sự và phim tài liệu khoa học kỹ thuật. Từng đợt tổ chức các
đợt thi đua, thi sản phẩm, giới thiệu kinh nghiệm sản xuất, quản lý, các buổi mừng
công, lập công....có ý nghĩa cổ động mạnh mẽ và giải trí lành mạnh".
2.2. Một số loại hình cổ động trực quan chủ yếu 1
2.2.1. Khẩu hiệu
1 - Nguyễn Phan Ngọc - Cục văn hoá thông tin cơ sở: Công tác thông tin cổ động Triển
lãm- Nxb Hà Nội 1997
120
Khẩu hiệu là hình thức phát biểu rất cô đúc, ngắn gọn, rõ ràng và dễ nhớ về một
mục đích trong từng giai đoạn hoặc từng thời gian nhất định.
Điều quan trọng nhất của khẩu hiệu là phải có tính thời sự nóng hổi. Một khẩu
hiệu khi không còn ý nghĩa thời sự thì không còn tác dụng tuyên truyền, cổ động, có
khi tác dụng ngược lại (phản tác dụng).
Chỉ có Trung ương Đảng, Đảng uỷ các cấp mới có quyền đề ra khẩu hiệu trong
phạm vi lãnh đạo của Cấp uỷ Đảng. Các ngành, các đoàn thể đề ra khẩu hiệu cho
ngành, đoàn thể mình nhưng phải được Trung ương Đảng và Cấp uỷ Đảng (nếu là địa
phương) thông qua.
Trong quá trình hành động cách mạng, quần chúng tích cực thường nêu ra những
khẩu hiệu để động viên cổ vũ lẫn nhau. Vì thế, cơ quan thông tin-cổ động phải giúp
(tham mưu) Cấp uỷ Đảng kịp thời nắm bắt, uốn nắn và chỉ đạo. Ví dụ: trong chiến
dịch Điện Biên Phủ, anh chị em dân công có câu hò: "Đèo cao thì mặc đèo cao, tinh
thần tiếp vận còn cao hơn đèo". Đảng uỷ Vận tải Tiền phương đã nhanh chóng nắm
bắt, phổ biến thành khẩu hiệu cổ động trên toàn tuyến đường vận tải.
a. Phân loại khẩu hiệu
- Khẩu hiệu kêu gọi: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân!
- Khẩu hiệu có tính chất khẳng định, khẩu hiệu có tính chất câu hỏi, khẩu hiệu
khêu gợi nhẹ nhàng cổ động cho một việc, khẩu hiệu có tính chất chỉ đạo…
- Khẩu hiệu chào mừng: Tinh thần ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-
9 muôn năm!
Nhưng nói chung, căn cứ vào thực tiễn, chỉ nên phân thành 2 loại khẩu hiệu:
- Loại khẩu hiệu chiến lược để lâu dài, nêu vấn đề chung trong cả giai đoạn cách
mạng (mục tiêu cơ bản và thường là khẩu hiệu tuyên truyền nhưng cũng có cả khẩu
hiệu hành động) như:
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
- Loại khẩu hiệu chiến thuật thường là khẩu hiệu cổ vũ hành động một vấn đề cụ
thể, chỉ đưa ra trong một thời kỳ ngắn, rồi phải thay đổi kịp thời (mục tiêu trước mắt).
Nhưng đôi khi cũng có cả khẩu hiệu tuyên truyền. Khẩu hiệu cổ động phải thật ngắn,
thật rõ ràng, thật dễ nhớ, nên cô đúc một mục tiêu, một công việc cụ thể thiết thực.
Khẩu hiệu cổ động: Ra sức hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 2011.
Khẩu hiệu tuyên truyền (thường là khẩu hiệu chào mừng các ngày kỷ niệm lớn,
chào mừng khách nước ngoài đến): Nhiệt liệt chào mừng Ngày Quốc khánh 2-9-2011.
b. Cách viết, kẻ, treo và hô khẩu hiệu
Với khái niệm khẩu hiệu như đã nêu ở trên không phải khẩu hiệu nào cũng có thể
dùng để hô khi mít tinh, khi diễu hành. Có khẩu hiệu để kẻ trên pa-nô, trên tường, có
121
khẩu hiệu để hô hoặc vừa để kẻ vừa để hô, có khẩu hiệu lại chỉ để in trên báo hoặc
truyền đơn, áp phích... Không phải khẩu hiệu nào cũng cần kẻ và nhiều khẩu hiệu không
dùng để hô được. Khẩu hiệu được chọn để kẻ cần viết đủ và viết đúng, không được sai
sót. Phải nghiên cứu cách trình bày, sắp xếp để nhấn mạnh được ý chính quan trọng.
- Về kỹ thuật: Chữ thẳng hàng trên một dòng kẻ, chữ kiểu đứng thì vuông góc với
dòng kẻ, chữ kiểu nghiêng thì đều trên dòng kẻ. Khẩu hiệu có chữ số thì chữ số cùng
kiểu kiểu chữ, đặt dấu đúng trọng tâm. Cần có khoảng cách chung nhất định giữa các
chữ trong một từ, giữa từ này với các từ khác và giữa các chữ trong khẩu hiểu.
- Về bố cục chữ: Phần chữ nằm gọn trong phần nền và chiếm một tỷ lệ thích hợp,
cân đối, hài hoà với phần nền. Ví dụ:
- Dấu đặt đúng trọng âm: THANH HÓA
- Dấu đặt không đúng trọng âm: THANH HOÁ
- Một số kiểu chữ số đơn giản, dễ đọc:
A B C D E F G H I K L M N O P Q R S T U
V W X Y Z - 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
A B C D E F G H I K L M N O P Q R S T U
V W X Y Z - 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
+ Kiểu chữ đứng và chữ số theo kiểu chữ:
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U
V W X Y Z - 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
+ Kiểu chữ nghiêng và chữ số theo kiểu chữ:
A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U
V W X Y Z - 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
+ Phần chữ cân đối, hài hoà với phần nền, ngắt câu đủ ý, khoảng cách giữa các
chữ trong một từ, giữa các từ hợp lý.
TOÀN DÂN ĐOÀN KẾT
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ
+ Phần chữ không cân đối (nhỏ quá) với phần nền, ngắt câu không hợp lý,
khoảng cách giữa các chữ trong một từ, giữa các từ không thống nhất.
TOÀN DÂ N ĐOÀN KẾT XÂY D
ỰNG ĐỜI SỐNG VĂ N H ÓA
122
- Màu sắc khẩu hiệu: Dùng màu sắc tươi tắn, rực rỡ có tính tương phản cao để
tăng sự tập trung và làm nổi bật màu chữ với màu nền (ví dụ: nền màu đỏ chữ màu
trắng và ngược lại, nền màu xanh chữ màu trắng và ngược lại....), tuỳ theo nội dung
tuyên truyền để chọn màu cho thích hợp, không nhất thiết khẩu hiệu nào cũng kẻ, cắt
dán chữ màu vàng nền đỏ.
Kẻ khẩu hiệu cần trình bày rõ ràng, giản dị và đẹp để người mới biết chữ đứng ở
nơi xa cũng có thể đọc rõ, đọc đủ khẩu hiệu. Khẩu hiệu thấp khiến người đi đường
không thể xem được. Khẩu hiệu chi chít, hoặc nối sát nhau liên tiếp vừa ít hiệu quả
vừa làm xấu đường phố, cảnh quan. Kiểu chữ để kẻ khẩu hiệu trên tường, hay tranh cổ
động, triển lãm... cần giản dị, dễ đọc, thích hợp với tâm lý dân tộc nhất là đồng bào các
dân tộc thiểu số. Cho nên người làm công tác thông tin cổ động phải biết chọn kiểu
chữ thích hợp với nội dung và với những đối tượng nhất định.
Khẩu hiệu cần được treo đúng chỗ, cất đúng lúc
Những khẩu hiệu chiến lược để lâu dài nhất là khẩu hiệu về Đảng, Nhà nước và
Bác Hồ phải được kẻ to ở những nơi trang trọng, trên các công trình cổ động bền chắc
như: bảng tường lớn, tường cao, trên sườn núi hoặc ở tầm cao những công trình kiến
trúc công cộng. Khẩu hiệu về Đảng, Bác Hồ viết, treo, dán trong nhà thì phải viết, dán,
treo ở trên cao, nơi trang trọng. Những khẩu hiệu có giá trị một thời gian ngắn thì chỉ
nên kẻ ở mảng tường nhỏ, tốt nhất là kẻ, dán chữ trên pa-nô, trên cót hoặc vải để xoá
ngay, cất đi ngay sau khi hết tác dụng.
Khẩu hiệu chọn khi mít tinh, diễu hành phải ngắn gọn. Chọn khẩu hiệu để hô cần
xem xét kỹ, dễ hô và không bị hiểu lệch lạc.
2.2.2. Biểu ngữ
Biểu ngữ là một đoạn trích ngắn gọn trong các văn kiện tài liệu của Đảng và Nhà
nước, trong lời nói của lãnh tụ, ở các tác phẩm kinh điển của các bậc thầy chủ nghĩa
Mác-Lênin và các danh nhân, anh hùng có nội dung phù hợp nhằm tuyên truyền, cổ
động cho một nhiệm vụ nhất định.
Biểu ngữ có tầm quan trọng như khẩu hiệu. Chỉ có Cấp uỷ Đảng chọn cơ quan
giúp việc là Ban tuyên giáo mới có quyền hạn cho phép trích biểu ngữ. Cơ quan thông
tin ở địa phương giúp Uỷ ban Nhân dân và Cấp uỷ Đảng làm những biểu ngữ tuyên
truyền, cổ động cho nhiệm vụ của địa phương kiểm soát việc viết, treo, dán biểu ngữ
và khẩu hiệu ở nơi công cộng.
2.2.3. Tranh cổ động
Tranh cổ động thường gọi là tranh áp phích là một thể loại đặc biệt của nghệ
thuật đồ hoạ trong nghệ thuật tạo hình, dùng hình vẽ là chính kết hợp với khẩu hiệu
làm phương tiện diễn đạt chủ đề tư tưởng, có thể in ra hoặc sao chép thành nhiều bản
mà giá trị vẫn gần như nguyên bản. Trên thế giới, tranh áp phích đã có từ lâu nhằm
tuyên truyền, cổ động, quảng cáo cho các hoạt động chính trị, văn hoá, thương mại....
Ở nước ta, tranh cổ động được gắn liền với cách mạng ở Việt Nam, đã có vai trò to
lớn, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị và cuộc sống của nhân dân. Bức vẽ đầu
tiên thuộc thể loại này là tác phẩm "Việt Nam độc lập thổi kèn loa" đăng trên báo Độc
123
Lập năm 1941-1946 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Trong suốt quá trình phát triển của
Cách mạng tranh cổ động luôn là vũ khí sắc bén, kịp thời trên mặt trận chính trị tư
tưởng của Đảng. Bằng sự rung cảm chính trị sâu sắc, nét bút tài hoa, các hoạ sỹ đã thể
hiện lịch sử vẻ vang của dân tộc, cổ vũ toàn dân, toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam lập nên những chiến công huy hoàng trong sự nghiệp đấu tranh
dành độc lập thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tranh cổ động là một loại hình đã phát triển rộng khắp, đi vào cuộc sống, làm tốt
chức năng tuyên truyền, cổ động và góp phần thoả mãn một phần nhu cầu trang trí,
góp phần từng bước nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân.
Nguyên tắc chung về ngôn ngữ của tất cả các loại tranh là: Màu sắc, đường nét.
Tranh cổ động khác các loại tranh khác (sơn dầu, sơn mài, lụa...) ở chức năng của nó
nhằm thực hiện đạt nhất chức năng cổ vũ hành động.
Hai loại áp-phích cổ động:
Loại áp-phích cổ động dùng hình vẽ là chính kết hợp với khẩu hiệu có tác dụng
làm cho người xem tiếp thu được ngay nội dung chính một cách nhanh nhạy mà ta gọi
là tranh cổ động hiện được dùng rất phổ biến trong công tác tuyên truyền ở nước ta.
Loại áp-phích tuyên truyền và giới thiệu tỉ mỉ có tác dụng làm cho người xem
hiểu cụ thể của một vấn đề. Loại áp-phích này thường dán ở trong nhà, trạm thông tin
hoặc trong các hội trường, câu lạc bộ, lớp học.
Công trình cổ động ngoài trời hay Cụm cổ động là những tranh hay tượng cổ
động hoặc khẩu hiệu được phóng to trên panô, trên tường... Tốt nhất là nên làm từng
panô cổ động, một hoặc hai panô (một panô tranh, một panô khẩu hiệu) ở những nơi
đông người qua lại như bến xe, nhà ga hoặc đầu vào hay đầu ra của khu vực địa phận
sở tại. Cũng có thể làm thành giàn panô cổ động gồm nhiều tranh cổ động, nhưng tập
trung vào một vấn đề.
2.2.4. Tranh châm biếm
Tranh châm biếm là một thể loại của ngành đồ hoạ trong nghệ thuật tạo hình,
dùng hình vẽ là chính với đường nét, màu sắc rất đơn giản và cường điệu một cách
khái quát những đặc điểm nào đó trong tính cách của con người để gây cười.
Tranh châm biếm được dùng phổ biến trong báo chí, bản tin nhằm phê bình một
cách nhẹ nhàng và thân ái một việc làm sai trái nào đó trong cuộc sống.
Tranh đả kích cũng là một hình thức trong thể loại tranh châm biếm, dùng
phương pháp cường điệu những tính cách của con người, của một hiện tượng trong
cuộc sống để chế diễu sâu sắc hay phê phán mạnh mẽ không chút thương xót những
tính cách xấu, những việc làm xấu, những hiện tượng xấu.
2.2.5. Triển lãm
Triển lãm là một hình thức trưng bày có tính nghệ thuật tổng hợp và có hệ thống
theo một nội dung, chủ đề nhất định bằng phương pháp trực quan nhằm tuyên truyền, cổ
động, giáo dục quần chúng. Triển lãm thoả mãn nhiều đối tượng người xem. Nội dung
124
tuyên truyền, cổ động thâm nhập vào người xem nhẹ nhàng, gây ấn tượng sâu sắc đọng
lại được lâu trong trí óc của họ. Triển lãm có thể thay thế một báo cáo tổng kết rất sinh
động (vì người xem thấy tận mắt, sờ tận tay) và có thể biểu lộ xúc cảm trực tiếp.
Hình thức triển lãm phổ biến ở cơ sở và có tác dụng tốt là trưng bày chuyên đề
gọi là triển lãm nhỏ.
Triển lãm nhỏ là trình bày một bộ gồm nhiều tờ tranh và ảnh, hoặc một bộ toàn là
tranh hoặc là ảnh được sắp xếp một cách có hệ thống với sự thuyết minh đầy đủ, rõ
ràng nhằm tuyên truyền, cổ động cho một chủ đề nhất định. Hình thức gọn, nhẹ, rất
thích hợp với hoạt động thông tin, cổ động ở cơ sở.
Bộ triển lãm nhỏ có thể gồm các thể loại: Loại phổ biến khoa học kỹ thuật; Loại
kể chuyện về người tốt, việc tốt và phê bình người làm sai, việc làm sai; Loại Thời sự
tài liệu.
Triển lãm nhỏ chủ yếu tuyên truyền, cổ động cho cái đang làm, sẽ làm, tập trung
chủ đề mới tạo được ấn tượng sâu. Mỗi bộ triển lãm chỉ nên có từ 5-7 tờ tranh vẽ và ảnh
nhiều nhất là 15 tờ để người thuyết minh cũng dễ thuộc, dễ nắm sâu chủ đề triển lãm.
2.2.6. Đoàn cổ động
Đoàn cổ động là dùng một số đông người cùng diễu hành, có thể kèm theo cả
việc hô vang các khẩu hiệu nhằm tuyên truyền, cổ động cho một hoạt động nào đó có
tính chất động viên quần chúng sâu rộng nhằm mục đích động viên, cổ vũ mọi người
hưởng ứng làm theo. Tuỳ mức độ yêu cầu của công tác tuyên truyền mà chọn phương
thức cụ thể tổ chức đoàn cổ động linh hoạt nhất, tác động tâm lý nhiều nhất và đạt hiệu
quả cao nhất.
Đoàn cổ động thường diễn ra sau cuộc mít tinh ngắn, rồi tiến hành diễu hành theo
một lộ trình xác định.
Về phương tiện: Có thể dùng ô tô, mô tô, xe máy, xe đạp, xích lô thường được
trang bị hệ thống tăng âm, micro, loa có công suất lớn, trang trí tranh (hoặc Pa-nô, áp
phích). Cổ động: Khẩu hiệu, hoặc bộ triển lãm nhỏ, tài liệu tuyên truyền như truyền
đơn, tờ rơi...
Về phương thức hoạt động: Để gây không khí sôi động thu hút quần chúng nhân
dân tham gia đông đảo thì việc bài trí mỹ thuật rất quan trọng, đoàn cổ động vừa đi
vừa hoà nhạc, đánh trống, thanh la, múa kỳ lân, sư tử. Nếu phát thanh tuyên truyền thì
phải ngắn gọn, rõ ràng, cho xe dừng ở một điểm nhất định để có hiệu quả cao. Đây là
một dạng xen kẽ giữa tuyên truyền miệng, trực quan, văn nghệ, cổ động nên khi trang
trí cần phải tôn trọng luật lệ giao thông, không để cao quá hoặc chờm ra rộng quá làm
cản trở giao thông. Khi hành tiến các xe phải giữ đúng cự ly giãn cách để đảm bảo an
toàn trong khi làm nhiệm vụ, cần thiết phải có xe cảnh sát giao thông hỗ trợ.
2.2.7. Mít tinh
Là cuộc tụ tâp quần chúng đông đảo để biểu thị thái độ chính trị đối với những
vấn đề quan trọng...
125
Ở chế độ xã hội của chúng ta thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tổ chức mít tinh
để tuyên truyền, cổ động cho một chủ trương, chính sách mới của Đảng và Chính phủ
hay một sự kiện lịch sử, chính trị, văn hoá-xã hội... nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước,
biểu dương thành tích, động viên quần chúng thi đua sản xuất, công tác, hăng hái hoàn
thành nhiệm vụ của xã hội và cộng đồng.
Các cuộc mít tinh đều do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện theo quy định
của pháp luật. Cho nên ở nước ta có mít tinh và có đoàn cổ động hoặc diễu hành,
nhưng không có biểu tình hoặc tuần hành như ở các nước dân chủ tư sản.
2.2.8. Nhà thông tin
Nhà thông tin là nơi để phát tin, truyền thông tin, vì vậy, cần có vị trí thuận lợi,
dễ nhìn, thuận tiện cho người xem.
Nhà thông tin được xây dựng riêng biệt hoặc gắn liền với công trình kiến trúc
như: Một phòng, một gian trong tổng thể công trình hoặc ở tiền sảnh hội trường, nhà
hát... Tuỳ theo diện tích của nhà thông tin mà bố trí các hình thức tuyên truyền như:
Nơi đọc báo, bản tin, xem tranh, ảnh, chiếu phim, truyền hình... Xác định những nội
dung tuyên truyền, phân chia hợp lý theo trình tự các mảng nội dung một cách rõ ràng
nhất (chú ý phần trưng bày). Thiết kế trưng bày nhà thông tin giống như thiết kế trưng
bày triển lãm (có cờ Tổ quốc, ảnh hoặc tượng Bác Hồ, khẩu hiệu...cần đặt ở vị trí trung
tâm, trang trọng).
Nhà thông tin mở cửa hoạt động hàng ngày cho nên cần tạo điều kiện để hoạt
động được thường xuyên, thông báo quy định giờ mở cửa, đóng cửa. Là trụ sở của
những người làm thông tin, tuyên truyền, cổ động, nhà thông tin không chỉ phát tin,
cung cấp tin mà cần giao lưu, trao đổi kinh nghiệm nâng cao trình độ công tác thông
tin, cổ động.
2.2.9. Trạm bảng tin
Trạm bảng tin là thiết bị thông tin cổ động tại một vị trí thuận lợi để nhiều người
được nhận tin mà ở đó thường xuyên đưa tin bằng cách viết, vẽ hoặc dán các bản tin,
bản thông báo hay báo, tranh, ảnh....nhằm tuyên truyền cổ động.
Trạm bảng tin thường có ở trụ sở Uỷ ban Nhân dân cấp xã, gắn trên một mảng
tường, hoặc xây gạch, hoặc làm bằng thiết bị chuyên dùng có mái che để làm điểm
thông tin công cộng ổn định, đưa những tin, việc công khai rộng rãi cho nhân dân,
giúp định hướng dư luận, góp phần tuyên truyền, vận động mọi người hưởng ứng làm
theo. Ngày nay ở các thành phố lớn, trạm bảng tin ở cấp phường đang được áp dụng xã
hội hoá để vừa đáp ứng nhu cầu thông tin xã hội và giải quyết nhu cầu quảng cáo rao
vặt miễn phí.
3. Đội thông tin lưu động chuyên nghiệp tỉnh và huyện
3.1. Vị trí và nhiệm vụ của đội thông tin lưu động chuyên nghiệp
Đội thông tin lưu động tỉnh và huyện, quận, thị xã là một tổ chức tuyên truyền, cổ
động tổng hợp, có tính xung kích, nhằm thông tin một cách nhanh nhạy những vấn đề
thời sự, chính sách quan trọng và cổ vũ mọi người hành động cách mạng, là một tổ
126
chức rất thích hợp và rất cần thiết nhất là ở những nơi dân cư ở rải rác, cơ sở chính
quyền và đoàn thể còn yếu, tổ chức thông tin cơ sở chưa có hoặc yếu.
Chỉ thị số 07 ngày 17-3-1977 của Ban bí thư Trung ương Đảng lại chỉ rõ: "Cấp
huyện cần xây dựng đội thông tin lưu động với quy mô gọn nhẹ để tuyên truyền trên các
đồng ruộng, công trường, làm nòng cốt thúc đẩy hoạt động thông tin, cổ động cơ sở".
Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng về công tác văn hoá-thông tin trong thời gian
trước mắt số 159/HĐBT ngày 19 tháng 12 năm 1983 đã nhấn mạnh cần "củng cố các
đội thông tin lưu động huyện và xã”. Đội thông tin lưu động chuyên nghiệp có vai trò
rất quan trọng đối với công tác thông tin, tuyên truyền ở cơ sở, đó là: Nòng cốt về tổ
chức; Nòng cốt về hoạt động; Nòng cốt về nghiệp vụ.
Nhiệm vụ của đội thông tin lưu động
- Tuyên truyền rộng rãi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Nghị quyết
và biện pháp chủ yếu của cấp uỷ, chính quyền địa phương, kịp thời vạch trần những
luận điệu chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền của kẻ địch và những phần tử xấu,
động viên quần chúng ra sức thi đua thực hiện các nhiệm vụ cách mạng ở cơ sở.
- Hoạt động xung kích ở những nơi phong trào đang khó khăn, đang có nhiệm vụ
đột xuất cần tăng cường nhằm làm cho mọi người dân hiểu được tình hình và nhiệm
vụ để họ tích cực phấn khởi chấp hành.
- Tuyên truyền, giới thiệu các điển hình tiên tiến, những kinh nghiệm ứng dụng
khoa học kỹ thuật, những kinh nghiệm quản lý tốt, những gương người tốt, việc tốt để
hướng dẫn và cổ vũ mọi người làm theo, đẩy mạnh tuyên truyền xây dựng nông thôn
mới xã hội chủ nghĩa.
- Phối hợp các hoạt động hướng dẫn, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho các đội thông
tin ở cơ sở.
Bốn nhiệm vụ trên đây của đội thông tin lưu động có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trước hết phải lấy việc truyền tin làm công tác hàng đầu, mà cái đích cao nhất,
và đích cuối cùng của công tác tuyên truyền nói chung là nhằm cổ vũ quần chúng thi
đua yêu nước, bảo vệ thành quả cách mạng, tích cực xây dựng quê hương giàu đẹp, đất
nước phồn vinh.
Cách tốt nhất là tuyên truyền giới thiệu các điển hình tiến tiến, các gương người
tốt việc tốt. Đối với thông tin lưu động phải lấy những nơi xung yếu làm địa bàn hoạt
động chủ yếu của mình.
Ngày 13-9-2005 Bộ Văn hoá-Thông tin có quyết định số 49/2005/QĐ-BVHTT về
Quy chế mẫu tổ chức và hoạt động của Trung tâm văn hoá-thông tin cấp huyện, xác
định 4 chức năng, 10 nhiệm vụ, khẳng định việc tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội theo đưòng lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước.
Ngày 10-11-2005 Bộ Tài chính và Bộ Văn hoá-Thông tin đã ký thông tư liên tịch
Hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với Đội thông tin lưu động cấp tỉnh, thành
127
phố, quận, huyện, thị xã. Các tuyên truyền viên trong hay ngoài biên chế đều được
hưởng chế độ thù lao trong phục vụ thông tin lưu động.
3.2. Ba phương thức hoạt động chính trị của Đội thông tin lưu động
3.2.1. Cổ động bằng tiếng nói
Là tuyên truyền, cổ động bằng miệng để truyền tin, nói chuyện thời sự, chính
sách, kể chuyện, đọc báo, phát thanh lưu động... Hoạt động thông tin cổ động là hoạt
động trực tiếp với quần chúng tuyên truyền một cách kịp thời và thiết thực, cụ thể, giải
đáp được trúng những vấn đề mà cuộc sống đặt ra, nhất là những vấn đề ở ngay địa
phương một cách sắc bén và tính chiến đấu cao, tốt nhất vẫn là sử dụng tiếng nói.
Cổ động bằng miệng có thể đưa thêm luận cứ, lý lẽ, nhất là càng đưa nhiều sự
việc của địa phương để chứng minh cho mỗi luận đề sẽ có sức thuyết phục cao nhất.
Cổ động bằng tiếng nói là phương thức hoạt động chủ yếu của các đội thông tin
lưu động chuyên nghiệp và cơ sở nhằm góp phần làm cho mỗi người dân ở bất cứ lúc
nào đều biết phải làm gì, và tự giác, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của
Trung ương và địa phương đề ra....
3.2.2. Cổ động bằng hình thức trực quan
Là Cổ động bằng các hình thức dùng: Cờ, băng khẩu hiệu, tranh cổ động, ảnh
thời sự, triển lãm, chiếu phim đèn chiếu, chiếu phim thời sự-tài liệu hoặc phim khoa
học để tuyên truyền theo nội dung mục tiêu xác định...
Cổ động bằng hình thức trực quan có tác dụng thuyết phục người xem rất mạnh.
Đặc biệt là trong tuyên truyền, cổ động kinh tế, thực hành khoa học kỹ thuật. Phương
pháp cổ động bằng các hình thức trực quan làm cho người xem tiếp thu một cách
nhanh chóng cái mới, phân biệt được dễ dàng giữa đúng, sai, tốt, xấu.
Người cổ động bằng tiếng nói nếu biết kết hợp chặt chẽ và hợp lý, sinh động,
nhuần nhuyễn với các hình thức trực quan như khi nói chuyện biết dùng tranh ảnh và
hiện vật... để chứng minh sẽ làm cho nội dung tuyên truyền, cổ động bằng lời nói thêm
hấp dẫn, người nghe đồng tình, thoải mái, sẵn sàng hưởng ứng làm theo.
Cổ động trực quan có các hình thức sau:
- Cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ, tranh cổ động, bảng thi đua...
- Triển lãm bằng ảnh, tranh, sơ đồ, biểu đồ, mô hình, hộp hình, sa bàn, hiện vật...
- Chiếu phim thời sự tài liệu, băng, đĩa.....
- Tổ chức tham quan, khảo sát.
- Hội thao diễn kỹ thuật, các loại hội thi, hội chợ...
3.2.3. Cổ động bằng hình thức văn nghệ
Là phương pháp sử dụng các hình thức văn nghệ nhất là các hình thức văn nghệ
nhỏ nhẹ như: Tấu, hài kịch ngắn, tạp kỹ, ngâm thơ... vào công tác tuyên truyền, cổ
động để chuyền tải nội dung đường lối, chính sách, nhiệm vụ chính trị mà lại có sức
hấp dẫn quần chúng, gây không khí sôi động trong quần chúng.
128
Văn nghệ và thông tin cổ động là những hình thức hoạt động trong công tác chính
trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều có chức năng giáo dục tư tưởng chính
trị. Những tiết mục văn nghệ nào có nội dung thể hiện đường lối, nhiệm vụ cách mạng
đều có giá trị tuyên truyền, cổ động.
Dùng hình thức văn nghệ để tuyên truyền, cổ động thì dùng thể loại văn nghệ nào
(tấu, cải lương, chèo, kịch, dân ca, hát mới, ngâm thơ, hò....) cũng đều phải có nội dung
tuyên truyền, cổ động trực tiếp, kịp thời, cụ thể và chính xác về đường lối, chính sách
của Đảng và nhiệm vụ cụ thể của địa phương một cách kịp thời, nhanh nhất, cải biên lời
mới trên nền nhạc cũ chẳng hạn. Do đó, cần sử dụng tất cả các phương thức cổ động bổ
sung cho nhau nhằm đạt tới mục đích truyền đạt, phổ biến nội dung đường lối, nhiệm
vụ, chính sách của Đảng và Nhà nước, hướng dẫn, cổ vũ thuyết phục quần chúng.
Ba phương thức hoạt động chính của các đội thông tin lưu động chuyên nghiệp
trên đây có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ, tác động lẫn nhau. Sử dụng thành thạo
các phương thức này phải có một trình độ điêu luyện đòi hỏi các đội viên thông tin lưu
động và đội thông tin cơ sở phải học tập nâng cao không ngừng trình độ chính trị, văn
hoá và nghiệp vụ.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy đội thông tin lưu động phải thực hiện ba gọn:
Gọn tổ chức biên chế, gọn trang bị, gọn về chương trình, tiết mục để hoàn thành nhiệm
vụ tuyên truyền, cổ động nhất là về cơ sở.
Mặc dù phương tiện truyền thông phát triển, nhưng cổ động trực quan vẫn rất cần
với cơ sở, đội thông tin lưu động vẫn còn phải phục vụ vùng núi, vùng sâu, vùng xa
ngay cả ở nông thôn, đồng bằng bởi tác dụng thiết thực và hiệu quả của nó trong thông
tin, tuyên truyền, cổ động.
4. Trang trí khánh tiết
4.1. Khái niệm
Trang trí: Là trình bày vật có hình khối, đường nét, mầu sắc khác nhau tạo ra
một sự hài hoà làm đẹp mắt một không gian nào đó(1)
. Cho nên trang trí-khánh tiết
thường đi liền với nhau, có khi chỉ cần nói khánh tiết là nghĩ đến vấn đề trang trí.
Khánh tiết: Theo nghĩa thông thường “khánh” là mừng, là lễ tiết lớn, nên “khánh
tiết” là lễ mừng, vì thế chúng ta có Ngày Quốc khánh.
Công tác thông tin, cổ động có quan hệ mật thiết với trang trí khánh tiết, bởi vì
khi có lễ tiết lớn là cần có trang trí mà việc trang trí phải phục vụ đắc lực cho các mục
tiêu cần thông tin, tuyên truyền của sự kiện nào đó.
Bản thân các hoạt động thông tin cổ động đã có nhu cầu trang trí rồi. Một cuộc
nói chuyện thời sự, một cuộc triển lãm nhỏ, một chương trình biểu diễn thông tin lưu
động, một cuộc mít tinh.... đều đòi hỏi đến công tác chuẩn bị hội trường, sân khấu,
trang âm, ánh sáng đặc biệt là trang trí, thiết kế, tổ chức sao cho phù hợp với công việc
và đạt hiệu quả công việc đòi hỏi. Rất nhiều trường hợp, sự kiện cần có thông tin,
tuyên truyền từ trước, trong, sau khi kết thúc.
1 Từ Điển Tiếng Việt - Viện ngôn ngữ- NXB Đà Nẵng - năm 2004 (trang 1023).
129
Có thể nói, trong một năm có bao nhiêu sự kiện thì có bấy nhiêu việc khánh tiết.
4.2. Trang trí khánh tiết
Trang trí rất cần cả trong gia đình và xã hội, từ trong phòng họp, hội trường,
phòng khách đến ngoài ngõ, ngoài đường, sân vận động, quảng trường, những nơi
công cộng... rất cần có sự sắp đặt, trang trí cho đẹp mắt hài hoà, phù hợp với cảnh
quan môi trường cụ thể.
Khánh tiết của các sự kiện, nhất là các đại lễ có tầm quốc gia, quốc tế là những sự kiện
lớn quan trọng yêu cầu trang trí cực kỳ chu đáo và tuyên truyền, cổ động cũng rất cao.
Nhà văn hóa xã là nơi sinh hoạt cộng đồng thường xuyên, là nơi tổ chức các hoạt
động chuyên môn, việc trang trí cũng không “cứng nhắc” như ở trụ sở cơ quan quản
lý, ở đó cũng là trung tâm thông tin cổ động nên đòi hỏi phải nghiêm túc, kiểu mẫu, có
tính chất hướng dẫn phong trào. Khi có các hoạt động lễ hội, sự kiện quan trọng của
xã, kể cả của thôn, bản cần sử dụng sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật, trang trí
mỹ thuật (tranh, ảnh, cờ, loa đài…) nên ở nhà văn hoá (thông tin) phải được đầu tư, bổ
sung thường xuyên bằng nhiều cách khác nhau, nhất là thực hiện xã hội hóa.
Kinh nghiệm thực tế nên theo cơ chế đặt hàng, các cơ quan, tổ chức, các thôn, ấp,
tổ dân phố có thể đặt hàng cho nhà văn hóa cấp xã tổ chức các sự kiện như: tổ chức
trang trí khánh tiết cho các Đại hội, các cuộc mít tinh, các lễ hội mới ở cấp xã hoặc ở
các thôn, ấp, bản....
Khi cần thiết phải thuê, mượn đơn vị bạn hay các tổ chức trên địa bàn, hoặc lên
cơ quan cấp huyện, cấp trên, đặc biệt là tài liệu, tranh (hay mẫu) tranh cổ động. Các
hoạt động thông tin cổ động, trang trí khánh tiết không phải ở đâu, lúc nào cơ sở cũng
có đầy đủ và hoàn chỉnh, nhiều trường hợp cũng phải tìm cách phối hợp, chi viện
thông qua hình thức giao lưu như hoạt động văn hóa, thể thao… Các phương tiện nhạc
cụ, nhạc công, diễn viên, ca sỹ, họa sỹ kẻ vẽ, cầu thủ, người dẫn chương trình… không
phải khóm ấp, thôn làng nào cũng có sẵn, có đủ lực lượng nên lãnh đạo công tác văn
hóa-thông tin cơ sở hay công tác thông tin cổ động trong các dịp lễ, tết, hội rất cần
quan tâm đến vấn đề này. Ngoài việc kiểm tra, cần phải sâu sát để giúp đỡ các cơ quan
chức năng, các đơn vị được giao nhiệm vụ hoàn thành công việc.
5. Các văn bản về hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động và trang trí
khánh tiết
- Các Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết Hội nghị Trung ương liên quan.
- Các văn bản đã dẫn trong "Sổ tay công tác văn hoá thông tin vùng dân tộc thiểu
số và miền núi" Bộ VH- TT năm 2003.
- Các tài liệu đã dẫn trong Danh mục Tài liệu tham khảo.
Tóm lại: Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động ở cơ sở đảm bảo thắng lợi
cần thực hiện các nội dung sau:
- Củng cố và phát triển đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin đồng bộ cả
về cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật chuyên dùng, tổ chức lực lượng chuyên môn trên
130
địa bàn để tổ chức mọi hình thức, biện pháp cả truyền thống và hiện đại trong triển
khai nhiệm vụ.
- Hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động gắn chặt với xây dựng cơ sở vững
mạnh toàn diện, đặc biệt nội dung xây dựng nông thôn mới cần thiết thực, cụ thể trên
cơ sở phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện đầy đủ, nghiêm minh các chính sách, chế độ,
pháp luật ban hành.
- Phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng trên địa bàn đảm bảo thông
suốt thông tin nhanh, nhạy, kịp thời, tính chiến đấu cao, thực hiện nói đi đôi với làm,
trong đó vai trò gương mẫu mà cán bộ, đảng viên có sức cổ vũ, thuyết phục mạnh mẽ.
6. Quản lý văn hóa thông tin ở khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc
6.1. Những nhiệm vụ cơ bản của công tác văn hoá-thông tin cấp cơ sở
Giúp chính quyền cấp cơ sở quản lý nhà nước về văn hoá-thông tin, tổ chức
hướng dẫn, triển khai chủ trương, đường lối, chế độ, chính sách của cấp trên về văn
hoá-thông tin. Kiểm tra, thanh tra các hoạt động văn hoá-thông tin diễn ra trên địa bàn,
đưa các dịch vụ văn hoá hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp. Đấu tranh chống lại
sản phẩm văn hoá độc hại, bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục, tệ nạn xã hội. Xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ, hương ước, quy ước văn hoá. Tổ chức các hội nghị sơ kết,
tổng kết, thi đua khen thưởng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của khu vực trung du,
miền núi, vùng dân tộc.
Tổ chức xây dựng nếp sống văn hoá trên địa bàn nhằm xây dựng môi trường văn
hoá sạch-đẹp-an toàn, xây dựng con người có tư tưởng chính trị lành mạnh, nếp sống
văn minh, kỷ cương xã hội, sống làm việc theo pháp luật, tương thân tương ái, giúp
nhau phát triển kinh tế làm giàu chính đáng xây dựng nông thôn mới, xoá đói, giảm
nghèo, lao động sáng tạo. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hoá, làng, thôn,
tổ dân phố văn hoá trong phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ở
khu dân cư.
Tổ chức đảm bảo thông tin đến với dân, nhất là các thông tin về chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và các Đoàn thể, trong đó chú trọng các chính sách về
đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế-
xã hội, phát triển văn hoá-thông tin trong tình hình mới.
Tổ chức xây dựng và duy trì thường xuyên hoạt động của các thiết chế văn hoá-
thông tin, thể thao, thực hiện mạnh mẽ xã hội hoá hoạt động văn hoá-thông tin, thể
thao, thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ văn hoá,
đặc biệt quan tâm tới bộ phận dân cư ở vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo.
Bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trên địa bàn, tăng cường giáo
dục truyền thống yêu nước, cách mạng trong nhân dân ở địa phương. Chú trọng việc bảo
tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc và xây dựng đội ngũ cán bộ văn hoá-thông tin.
Nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá-thông tin, thể thao đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân lao động. Có kế hoạch trang bị mới hoặc
bổ sung các phương tiện thông tin, thể thao theo hướng kết hợp dân tộc và hiện đại.
131
Chủ động đề xuất, xây dựng kế hoạch, chương trình công tác theo hướng dẫn của
trên và tình hình thực tiễn của cơ sở đảm bảo chủ động phát huy sức mạnh tổng hợp
trong thực hiện nhiệm vụ và điều hành công tác ở cơ sở.
6.2. Nhiệm vụ cụ thể của công tác văn hoá-thông tin cấp cơ sở
6.2.1. Tổ chức hoạt động đài, trạm truyền thanh, truyền hình
- Thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và
địa phương trong xây dựng đài truyền thanh, trạm truyền thanh, trạm chuyển tiếp
truyền hình cấp cơ sở.
- Thông tin tình hình chính trị, thời sự, kinh tế-xã hội của địa phương. Sử dụng
nguồn tư liệu từ văn phòng cấp uỷ, uỷ ban, từ các tổ chức sản xuất kinh doanh, các
ngành, đoàn thể, mặt trận, an ninh, y tế, trường học để viết tin, bài phản ánh. Kịp thời
phổ biến các kinh nghiệm hay, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, phê phán hiện
tượng sai trái lạc hậu.
- Tổ chức cộng tác viên gồm các đối tượng là giáo viên, cán bộ hưu trí, cựu chiến
binh, công an, cán bộ cộng tác ở các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương.
- Tổ chức đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình. Những nơi có đài, có truyền
hình, sách báo thì thành lập các tổ, phòng đọc sách báo, tổ nghe đài, tổ xem truyền
hình ở các cụm dân cư. Thông qua loại hình: đọc, nghe, xem, các tổ bàn bạc những nội
dung có liên quan đến tình hình kinh tế-xã hội ở địa phương, bàn biện pháp tổ chức
học tập và áp dụng. Nếu có vấn đề chưa rõ, mời cán bộ chuyên ngành cấp trên về phổ
biến hướng dẫn cụ thể, đồng thời thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Mặt
trận, Thanh niên, Phụ nữ, Trường học...làm nòng cốt trong việc đọc-nghe-xem và làm
theo sách, báo đài của Đảng và Nhà nước.
- Tổ chức hoạt động thông tin, cổ động qua các hình thức treo, dán, kẻ vẽ khẩu
hiệu, tranh cổ động, pa-nô, áp phích, bảng tin... phân phát tới dân các tài liệu tuyên
truyền do các cơ quan Đảng, đoàn thể và chính quyền biên soạn.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt theo chủ đề, báo cáo chuyên đề thời sự, chính trị,
kinh tế, khoa học kỹ thuật... cho các đối tượng thích hợp.
6.2.2.Công tác quản lý văn hoá-thông tin
- Quản lý các hoạt động văn hoá-thông tin, dịch vụ văn hoá thông tin của các cơ
quan đoàn thể, của các tổ chức xã hội và mọi công dân trên địa bàn. Thường xuyên
kiểm tra các cơ sở in sang băng, photocopy, karaoke, điểm cho thuê băng, các cửa
hàng sách, báo, văn hoá phẩm về việc thực hiện các quy định của nhà nước và của
ngành, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của
pháp luật, đặc biệt là khu vực có đường biên giới, gần cửa khẩu.
- Quản lý công tác bảo tồn phát huy, phát triển văn hoá nghệ thuật các dân tộc
trên địa bàn xã và cơ sở, bảo tồn phát huy các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của
địa phương, của dân tộc.
- Xây dựng phát triển sự nghiệp văn hoá, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá-thông
tin cho đồng bào các dân tộc ở địa phương, cơ sở.
132
- Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền và chỉ đạo về phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá", đặc biệt là ở khu dân cư thực hiện nếp sống văn hoá
trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Đảm bảo việc thi đua có chất lượng chống phô
trương, hình thức, chạy theo thành tích nhất thời.
- Xây dựng mạng lưới thông tin 2 chiều, kịp thời nắm bắt thông tin từ cơ sở dư
luận, từ dân phản ánh, báo cáo lên để có biện pháp xử lý nhanh, linh hoạt, hiệu quả,
vô hiệu hoá những thông tin nhiễu, giải quyết dứt điểm các luận điệu phản tuyên
truyền của kẻ xấu.
6.3. Nắm vững tình hình, thực trạng cơ sở và củng cố, kiện toàn tổ chức chỉ
đạo nâng cao chất lượng, năng lực quản lý
Bất kỳ hoạt động gì cũng phải biết tổ chức và quản lý mới thành công. Hoạt động
văn hóa-thông tin (thể thao, du lịch) nói chung và thông tin, cổ động ở cơ sở nói riêng
rất cần có sự tổ chức hợp lý và quản lý chặt chẽ, khoa học. Hoạt động văn hóa-thông tin
vốn rất phức tạp, có tính chuyên ngành, chuyên môn sâu, phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn
của các Bộ từ trên xuống. Hoạt động thông tin, cổ động ở cơ sở cũng vậy, thuộc cấp xã
do xã chịu trách nhiệm nhưng đều có sự chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành ở trên
thông qua các tổ chức tương ứng ở địa phương và tập trung vào sự lãnh đạo chặt chẽ,
sáng tạo của Cấp ủy Đảng, sự điều hành thuần thục của chính quyền cơ sở và cần có sự
tham gia hưởng ứng, tự giác, tích cực của nhân dân mới đảm bảo thắng lợi.
Cán bộ cấp xã cần hiểu rõ cơ cấu tổ chức đơn vị mình và mối quan hệ của chúng.
(Xem sơ đồ).
Sơ đồ đơn giản thực trạng hệ thống các tổ chức ở cấp xã
Tổ chức
lãnh đạo
(1)
Chính
quyền
(2)
Đoàn thể
chính trị
(3)
Tổ chức xã hội,
xã hội nghề nghiệp
(4)
Các tôn giáo,
tín ngưỡng
(5)
Các đơn vị,
tổ chức
khác
(6)
Đảng ủy
cấp xã
- HĐND
- UBND
-Công an.
- Bộ đội.
- Các ban
ngành.
- Mặt trận tổ
quốc.
- Đoàn thanh
niên.
- Hội Phụ nữ.
- Công đoàn.
- Hội cựu
chiến binh.
- Hội nông
dân.
- Hội người cao
tuổi.
- Hội khuyến học.
- Hội chữ thập
đỏ.
- Hội bảo thọ.
- Các hội nghề
nghiệp.
- Các câu lạc bộ
sở thích.
- Các dòng họ.
- Phật giáo.
-Thiên chúa.
- Tin lành.
- Hồi giáo.
- Hòa Hảo.
- Cao Đài.
- Các tín
ngưỡng: Thờ
thành hoàng,
thờ Mẫu…
- Tổ chức
kinh tế.
- Các cơ sở
dịch vụ du
lịch, vui
chơi giải trí,
TDTT…
- Lực lượng
vũ trang.
- Các cơ
quan hành
chính sự
133
nghiệp.
- Chi bộ
cấp Tổ dân
phố,
thôn/làng
bản
-Đảng
viên
- Trưởng
thôn, bản,
làng.
-Tổ trưởng
dân phố.
-Các thành
viên.
- Các tổ chức
tương ứng và
Hội viên.
- Các tổ chức
tương ứng và
hội viên.
- Các già làng,
Trưởng họ,
Trưởng bản.
- Các tổ chức
tương ứng, các
chức sắc và tín
đồ.
-Người lao
động, các
thành viên.
Chú ý: Các hệ thống 1,2,3,4 ở đâu cũng có, hệ thống 4,5 có nơi có nơi không,
mức độ, nội dung có thể khác nhau, nhất là ở cấp thôn, bản, ấp.
Cần sử dụng hệ thống mạng lưới thông tin, tuyên truyền có hiệu quả nhanh nhạy,
đúng và trúng vấn đề ở cơ sở và nắm thông tin phản hồi kịp thời.
Như vậy, công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động ở cơ sở nói chung và ở khu
vực trung du, miền núi, vùng dân tộc nói riêng luôn giữ vị trí quan trọng trong công
tác tư tưởng, bởi lẽ nó là công cụ chỉ đạo, thông tin, tuyên truyền, vận động trực tiếp
của Đảng, chính quyền địa phương tới nhân dân dưới nhiều hình thức khác nhau phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi, tâm lý, tính cách, tập quán, phong tục, tôn giáo…và khả
năng tiếp nhận, xử lý thông tin. Từ thông tin tác động đến nhận thức và trở thành hành
động cụ thể của quần chúng nhân dân góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của cả nước nói chung và của khu vực trung du, miền
núi, vùng dân tộc nói riêng.
****************
Câu hỏi thảo luận
1. Công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động là gì? Phân tích mối quan hệ giữa
thông tin với tuyên truyền, cổ động?
2. Thế nào là cổ động trực quan? Giới thiệu khái quát về thông tin lưu động và
các phương thức hoạt động của nó.
3. Hiểu về công tác trang trí khánh tiết như thế nào? Mối quan hệ của nó với công
tác thông tin cổ động, nêu ví dụ, phân tích.
4. Những quy định cơ bản về trang trí khánh tiết ở công sở, trong tổ chức một số
lễ kỷ niệm và đón nhận danh hiệu. Liên hệ việc trang trí khánh tiết trong việc cưới,
việc tang và lễ hội ở địa phương.
Tài liệu tham khảo
1. Quang Anh (2008), 360 câu hỏi lý thú khám phá công nghệ thông tin, Nhà xuất
bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
2. Bách khoa tri thức phổ thông (2005), Nxb Lao động, Hà Nội.
134
3. Bách khoa tri thức phổ thông (2005), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Bộ Văn hóa-Thông tin : Sổ tay công tác VH-TT vùng dân tộc thiểu số và miền
núi, Hà Nội.
5. Carmine Gallo (2009), 10 bí quyết thành công của diễn gia MC tài năng nhất
thế giới, Nxb Trẻ, Hà Nội.
6. Cục Văn hóa Thông tin cơ sở (2005), 60 năm công tác văn hóa-thông tin cơ sở Hà Nội,
Hà Nội.
7. Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở (1998),Công tác thông tin cổ động triển lãm,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
8. Cục Văn hóa-Thông tin cơ sở (2004), Tài liệu nghiệp vụ Văn hóa-Thông
tin cơ sở, Hà Nội.
9. Claudia Mast (2004), Truyền thông đại chúng-những kiến thức cơ bản, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII
11. Hỏi đáp về công nghệ thông tin và truyền thông (2007), Nxb Bưu điện, Hà Nội.
12. Jacque locquis (2004), Từ thông tin đến quảng cáo, NxbThông tấn, Hà Nội.
13. Luật Báo chí,
14. Luật xuất bản,
15. Luật Thương mại,
16. Luật Công nghệ thông tin
17. G.V.Ladutina, Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nhà báo (2004), Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
18. Line Ross, Nghệ thuật thông tin (2004), NxbThông tấn, Hà Nội.
19. Marketing truyền thông (2008), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
20. Nghệ thuật thông tin (2004), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
21. E.P.Prokhorop (2004), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
22. PGS, TS Đào Duy Quát (chủ biên) quản lý hoạt động tư tưởng-văn hoá Nxb
Chính trị Quốc gia 2010, Hà Nội.
23. PGS, TS Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
135
KỸ NĂNG QUẢN LÝ, HƯỚNG DẪN, TỔ CHỨC PHONG TRÀO
VĂN HÓA VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
KHU VỰC TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
BÙI QUỐC BẢO
MA KIỀU LY
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn,
tổ chức phong trào văn nghệ quần chúng trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi,
vùng dân tộc.
- Biết vận dụng kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong
trào văn nghệ quần chúng trên địa bàn xã khu vực khu vực trung du, miền núi, vùng
dân tộc vào hoạt động quản lý và tổ chức ở địa phương mình .
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn,
tổ chức phong trào văn nghệ quần chúng trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi,
vùng dân tộc, đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
Phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng luôn có một sức mạnh to lớn đối với đời
sống cộng đồng dân cư bởi nó chính là sản phẩm tinh thần do chính quần chúng nhân
dân sáng tạo và thể hiện. Những sản phẩm đó phản ánh đời sống tinh thần phong phú,
tâm hồn vô tư, trong sáng, mộc mạc, bình dị, lạc quan yêu đời của nhân dân lao động.
Văn nghệ quần chúng là tinh hoa văn hóa của mỗi dân tộc. Mỗi vùng văn hóa, mỗi
dân tộc sinh sống trên đất nước ta đều có một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian
truyền thống góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất.
Đối với quần chúng nhân dân ở khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc văn
hóa, văn nghệ quần chúng là món ăn tinh thần không thể thiếu, những điệu sli, lượn,
hát then, hát ru, tiếng khèn,... hàng ngày vẫn được cất lên trên nương, trên rẫy làm vơi
đi những vất vả của cuộc sống mưu sinh. Hiện nay, các làn điệu dân ca của các đồng
bào dân tộc sống ở khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc không chỉ bó hẹp trong
không gian làng, bản, buôn, phum, sóc mà đã được các nghệ sỹ phát triển trên nền giai
điệu thành những bài hát hay, biểu diễn trên nhiều sân khấu lớn và được nhiều người
yêu thích. Do đó, để vừa bản tồn vừa phát huy được văn hóa truyền thống của các dân
tộc phục vụ nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của quần chúng nhân dân lao động
rất cần những người cán bộ văn hóa am hiểu văn hóa của dân tộc sinh sống trên địa
bàn mình quản lý, nắm được các kỹ năng tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ quần
chúng nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần cho quần chúng nhân dân trên
địa bàn xã.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
136
1. Những vấn đề chung về phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng
1.1. Bản chất và quy mô của văn hóa văn nghệ quần chúng
1.1.1. Bản chất
Văn hóa văn nghệ quần chúng bao gồm tất cả các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi
vật thể, kể cả các loại hình nghệ thuật được lưu truyền và sáng tạo mới nhằm phục vụ
cho đời sống văn hóa của nhân dân. Đó là sản phẩm do trí tuệ, năng lực của quần
chúng nhân dân cùng với cộng đồng xã hội làm ra, gìn giữ phát triển.
Sản phẩm văn hóa nghệ thuật chứa đựng những tâm tư tình cảm hồn nhiên mộc
mạc, lạc quan, yêu đời và vô cùng mãnh liệt, khao khát vươn tới chân, thiện, mỹ của
quần chúng nhân dân.
Văn hóa văn nghệ quần chúng là tâm hồn, là tinh hoa của dân tộc, chính vì vậy
mà nó giàu bản sắc, trong sáng, lành mạnh, giản đi, chắt lọc. Mỗi một dân tộc lại có
bản sắc văn hóa riêng của mình. Nó được tồn tại thông qua những hoạt động văn hóa
văn nghệ thường nhật của quần chúng, đồng thời theo thời gian nó lưu truyền và hoàn
thiện để đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân.
1.1.2. Quy mô
Văn hóa văn nghệ quần chúng (cả vật thể và phi vật thể) hiện hữu trên 2 bình diện là
kho tàng văn hóa văn nghệ truyền thống quen gọi là văn nghệ dân gian và những sản
phẩm của các cá nhân, tập thể làm ra mang hơi thở, vóc dáng thời đại quen gọi là văn hóa
văn nghệ chuyên hoặc không chuyên, đó là những sản phẩm văn hóa mới.
Kho tàng văn hóa văn nghệ truyền thống của các dân tộc bao gồm:
- Về văn hóa như: Lễ hội, phong tục, tập quán, ẩm thực, trang phục, kiến trúc nhà
ở, cô BHGT6ng trình tín ngưỡng, tôn giáo (đình, đền, chùa….).
- Về nghệ thuật như: Dân ca, dân vũ, nhạc cụ, âm nhạc, thơ ca, hò vè, hát ru,
tranh, tượng…đa phần là truyền miệng, khuyết danh.
Sản phẩm văn hóa văn nghệ mới bao gồm:
- Bài hát, vở kịch, bản nhạc, điệu múa, bức tranh, tượng, thơ, tấu…được sáng tác
và dàn dựng của tác giả chuyên và không chuyên.
- Những công trình kiến trúc văn hóa xã hội như: Cung văn hóa, nhà văn hóa,
công viên, quảng trường…các công trình kiến trúc mang yếu tố tâm linh như: Đài liệt
sỹ, Đài tưởng niệm, Lăng, miếu…
- Các hoạt động văn hóa như: Ẩm thực, thời trang, hội, lễ đương đại mang dấu ấn
xã hội mới, hiện đại…
- Kho tàng văn hóa truyền thống và hiện tại vô cùng phong phú, đa dạng , giàu
bản sắc của các dân tộc Việt Nam, trong đó mảng văn nghệ quần chúng giữ một vị trí,
vai trò to lớn và quan trọng.
- Văn nghệ quần chúng sinh ra và tồn tại cùng đời sống hàng ngày của quần chúng. Là
nhu cầu, là món ăn tinh thần không thể thiếu của quần chúng từ đời này qua đời khác.
137
1.2. Chức năng của văn nghệ quần chúng
Văn nghệ quần chúng gồm 3 chức năng:
- Văn nghệ quần chúng thể hiện, phản ánh tâm tư, tình cảm, của quần chúng.
- Văn nghệ quần chúng đáp ứng nguyện vọng được sáng tạo, hoạt động và hưởng
thụ những giá trị về mặt tinh thần của quần chúng.
- Văn nghệ quần chúng góp phần xây dựng con người mới, cuộc sống mới của
quần chúng.
Trong cuộc sống mỗi con người ai cũng có những tâm tư, tình cảm, ước mơ hoài
bão, ai cũng có những cảm xúc trước thiên nhiên hay giữa người với người.
Những loại hình nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu và có thể nói là thuận lợi
nhất để con người gửi gắm, bộc lộ cảm xúc, tâm tư, tình cảm, hoài bão của mình. Có
người sử dụng thơ ca để bộc lộ tâm tư, người thì gửi gấm lòng mình vào những dòng
nhạc. Người thì say mê thiên nhiên tươi đẹp và thể hiện nó qua những mảng màu, nét
vẽ. Hay không trực tiếp sáng tạo ra những tác phẩm thơ ca, nhạc họa thì họ thể hiện
ước mơ, tình yêu của mình bằng những phím đàn, những bài hát, vũ điệu…
Cũng từ những lời ca, điệu múa, bài thơ hay bức tranh, bản nhạc ấy đã sưởi ấm
tâm hồn mỗi người, chắp cánh cho những phút giây lãng mạn của con tim bay bổng.
Chính từ những hoạt động một cách bình dị, hồn nhiên xuất phát từ đáy lòng mình,
những giá trị tinh thần tuyệt vời ấy thúc đẩy con người hướng tới chân, thiện, mỹ trong
cuộc sống lao động và đấu tranh đầy gian khó.
Như vậy, ba chức năng cơ bản của văn nghệ quần chúng đã tạo sức mạnh đưa văn
nghệ quần chúng tới mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi bản làng xa xôi, mỗi dân tộc,
vùng miền và tồn tại, lưu truyền, phát sinh phát triển từ thế hệ này tới thế hệ khác. Đó
chính là văn nghệ quần chúng.
1. 3. Những đặc tính nổi bật của văn nghệ quần chúng
- Văn nghệ quần chúng từ xưa đến nay đều đã nổi bật những đặc tính sau:
a) Đặc tính về xã hội học
- Tính địa phương, dân tộc.
- Tính ngành nghề.
- Tính tự thân vận động.
- Tính phô trương và ganh đua.
- Tính hòa nhập cộng đồng.
Trong các đặc tính trên trước hết phải nhấn mạnh đặc tính địa phương. Bởi đó chính là cái
tôi của văn nghệ quần chúng. Tính địa phương ở đây cũng là tính dân tộc, vùng miền.
Ví dụ: Nhắc đến quan họ là nhớ tới Bắc Ninh với các liền anh, liền chị duyên
dáng, mặn mà. Nói đến đàn tính và lượn cọi là nhớ ngay tới các cô gái Tày Cao Bằng,
Bắc Cạn. Một vùng Tây Nguyên đầy nắng gió nhắc ta nhớ tới những mái nhà rông của
138
dân tộc Ba Na với những đêm kể khan của già làng. Nghe tiếng cồng chiêng vang dội
lúc khoan nhặt như suối chảy, lúc rào rào như mưa rừng là nhớ tới các chàng trai dân
tộc Ê Đê trong nhà dài Đắk Lắk… Điệu ru ở Tây Bắc cùng điệu hò điệu lý ở Miền Tây
Nam Bộ, ở miền Trung nắng lửa hay các làn điệu chèo, tuồng nó đều có quê hương
riêng, có dáng vẻ riêng. Những cái riêng của mỗi địa phương, vùng miền, dân tộc
chính là cái làm nên bản sắc.
Cũng như tính địa phương, dân tộc, vùng miền. Trong các cuộc liên hoan, hội
diễn văn nghệ do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức, mỗi đơn vị ngành nghề
lại có một chương trình biểu diễn với các tiết mục nghệ thuật mang nét riêng của
ngành mình. Và cũng chính vì thế mà các hoạt động văn nghệ quần chúng có tính phô
trương, ganh đua và hòa nhập cộng đồng.
b) Đặc tính về văn hóa học
- Tính truyền thống, kế thừa.
- Tính bình dân giản dị.
- Tính tự sự, tâm trạng.
- Tính giao lưu.
- Tính ngợi ca, khích lệ.
Nhờ có những đặc tính trên mà văn nghệ quần chúng là món ăn tinh thần vô giá
không thể thiếu của quần chúng nhân dân. Những giá trị tinh thần ấy truyền từ thế hệ
cha ông cho thế hệ con cháu và cứ thế nó được chọn lọc, tồn tại, truyền bá và tiếp
nhận một cách tự giác trở thành một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú đa dạng, đặc
sắc. Từ những giá trị tinh thần cao đẹp ấy tạo nên sức mạnh lấp biển, dời non và tình
yêu con người, quê hương, dân tộc của các thế hệ người Việt Nam ta.
1.4. Phương thức hoạt động của văn nghệ quần chúng
Gồm 2 phương thức: Hoạt động tự thân và Hoạt động có tổ chức
a) Hoạt động tự thân
Là những sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật của mỗi cá nhân, hoạt động bước đầu đều
mang tính tự phát theo nhu cầu chủ quan. Hoạt động nhằm mục đích bộc lộ tâm trạng
(buồn vui, hờn giận, tỏ tình…) cũng có khi chỉ là ngẫu hứng (vừa làm một việc gì đó
vừa cất lên tiếng hát, ngâm một câu thơ…). Hoạt động tự thân cũng là nét nổi bật của
các cá nhân có năng khiếu, hay cao hơn nữa là tài năng trong công việc sáng tạo ra
những tác phẩm, ra những giá trị về văn hóa nghệ thuật.
Hoạt động tự thân có các đặc điểm:
- Hoạt động không phụ thuộc vào thời gian, không gian, môi trường, hoàn cảnh.
Có những chiến sỹ cách mạng ngồi trong lao tù vẫn làm ra những bài thơ đầy trí
khí bất khuất mà dạt dào niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Có những bản nhạc, bài ca
được hoàn thành trong lúc nửa đêm khi mọi người xung quanh đang ngon giấc, chỉ có
tác giả và ngọn nến lung linh với âm nhạc là còn thức.
139
- Hoạt động tự thân không phụ thuộc nhiều vào điều kiện cơ sở vật chất cũng như
yếu tố của chủ thể hoạt động như: Thành phần dân tộc, tôn giáo, giới tính, nghề
nghiệp, hay tuổi tác.
Đúng là như vậy, dù giàu, nghèo, ở đâu, làm nghề gì, trẻ trung hay đã già vẫn có
thể cất lên tiếng hát, ngân lên những dòng thơ hay vẽ một bức tranh, nặn một pho
tượng để bộc lộ tâm tư, tình cảm mình, thể hiện sự đam mê sáng tạo hay ngưỡng mộ
một vẻ đẹp của khách thể.
Hoạt động tự thân là hoạt động đời thường, tự nguyện, mà đỉnh cao của nó là tên
tuổi của các nghệ nhân, các tác giả với giá trị to lớn, vô giá của sản phẩm tinh thần.
b) Hoạt động có tổ chức
Là hoạt động theo phương thức tổ chức ban, nhóm đội, đoàn thường do chính
quyền hoặc đoàn thể đứng ra sáng lập, quản lý. Hiện nay cũng hình thành nhiều đội,
nhóm, ban văn nghệ bán chuyên do một gia đình thành lập và hoạt động. Nội dung
hoạt động của ban, nhóm theo phương thức gia đình cũng khá phong phú, có khả năng
xây dựng được chương trình chuyên môn quy mô lớn, chất lượng cao.
Tổ chức đội, nhóm có khả năng đáp ứng những chức năng, nhiệm vụ của văn
nghệ ở cơ sở, là nơi đào tạo, bồi dưỡng nên những hạt nhân nòng cốt “ngôi sao” trong
phong trào văn nghệ ở cơ sở.
Hoạt động này cũng dễ thăng trầm bởi nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Bởi vì đây là hoạt động của một hoặc nhiều tập thể, do đó không thể tránh khỏi
những phát sinh phức tạp nếu như trong tập thể ấy thiếu sự đồng tâm hiệp lực và thiếu
năng lực, tài chính cho hoạt động.
Nhà nước đã có chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Chủ
trương này tạo thêm được nguồn lực dồi dào cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật,
nhất là trong các hoạt động có tầm vĩ mô khu vực, quốc gia và các hoạt động mang
tính đặc thù như hoạt động tâm linh, từ thiện, quảng bá do địa phương hoặc đơn vị
đứng ra tổ chức thực hiện.
Nếu hoạt động tư nhân là hoạt động mang tính tự phát, tự nguyện đầy cảm hứng,
không phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như thời gian, không gian, môi trường,
hoàn cảnh hay cơ sở vật chất thì hoạt động có tổ chức lại cần nhiều đến các yếu tố
khách quan đó. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng nhiều đến mức độ thành bại của mỗi
chương trình hoạt động tập thể.
Cần thiết đối với cán bộ quản lý và hoạt động văn hóa văn nghệ ở cơ sở là phải
nắm vững và xác định rõ đặc điểm của các phương thức hoạt động để có kế hoạch và
biện pháp tốt. Cũng cần biết khai thác thế mạnh của từng phương pháp, biết kết hợp
các phương pháp hoạt động trong một điều kiện nhất định nào đó để hoạt động của
quần chúng đạt kết quả cao nhất.
2.Những loại hình cơ bản của phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng
2.1. Loại hình hoạt động văn hóa-nghệ thuật ở cơ sở
a) Hoạt động về ca nhạc và múa
140
Hát dân ca gồm các điệu hò, điệu lý, hát tín ngưỡng, vè giao duyên, hát đố, hát
đối đáp, truyền thống…
Hát mới gồm các bài hát được sáng tác qua các thời kỳ từ trước cách mạng tháng
tám đến nay của nhạc sỹ chuyên nghiệp và không chuyên.
Chơi các nhạc cụ truyền thống như: nhạc cụ bộ gõ (cồng chiêng, T’rưng, trống
phách…), nhạc cụ bộ dây (đàn tranh, nhị, bầu, tính...), nhạc cụ bộ hơi (sáo, kèn, khèn…).
Chơi các nhạc cụ phương tây như: Ghi ta, violon, măngđôlin, trống, kèn, sáo…
Về múa có múa truyền thống dân gian, múa tín ngưỡng và múa mới sáng tác về
các đề tài tình yêu, lao động sản xuất, múa kèm theo bài hát của tác giả chuyên nghiệp
và không chuyên ở cơ sở. Múa tập thể mới, múa xòe (dân tộc Tày, Thái), múa xoang
(các dân tộc Tây nguyên). Đặc biệt hiện nay múa thiếu nhi ở các trường phổ thông cơ
sở, ở các cung thiếu nhi, nhà văn hóa thiếu nhi là một hoạt động văn nghệ thiếu nhi có
chất lượng và phong phú.
b) Hoạt động sân khấu quần chúng-sân khấu không chuyên
Gồm có các loại hình nghệ thuật như:
- Kịch nói ngắn, dài.
- Tuồng, chèo, cải lương, kịch dân ca.
- Múa rối các loại (cạn, nước, tay, que…).
- Tấu hài, tấu vui và các trích đoạn sân khấu truyền thống.
- Ảo thuật, xiếc.
Trong loại hình sân khấu có nhiều hoạt động do một gia đình hai ba thế hệ ông
bà, con, cháu cùng tham gia. Trong dân gian quen gọi là gánh hát, có thể trình diễn cả
một vở chèo, tuồng hoặc cải lương trọn một đêm. Những gia đình nghệ thuật như thế
này đã có ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên, cũng không ít “đoàn nghệ thuật
sân khấu gia đình” không tồn tại được vì nghệ thuật không nuôi nổi cả gia đình.
Hiện tại nhiều trung tâm văn hóa ở địa phương có thành lập câu lạc bộ sân khấu
dựa trên phương thức xã hội hóa.
c) Về thơ văn và hoạt động thư viện, tủ sách
Gồm có:
- Làm thơ, bình thơ, ngâm thơ.
- Tìm hiểu sách báo, thi kể chuyện.
Những loại hình hoạt động này gắn với các tủ sách, thư viện, bưu điện văn hóa
xã, các trường phổ thông cơ sở, nhà thiếu nhi ở xã, phường. Ngoài ra còn có hoạt động
của một số câu lạc bộ như người cao tuổi hoặc cựu chiến binh. Nhiều gia đình cũng
gom góp lập thành tủ sách cho các thành viên trong nhà tìm hiểu, đọc trong lúc rỗi rãi.
Ở các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc hoạt động sách, báo còn thưa
vắng. Đa số chỉ có tủ sách ở nhà văn hóa huyện, ít gia đình có tủ sách riêng. Để khắc
141
phục tình trạng trên, điều cần thiết đối với cán bộ văn hóa và chính quyền cơ sở ở các
vùng miền này là cần đẩy mạnh đầu tư cho phòng đọc ở nhà văn hóa, ở trường phổ
thông cơ sở. Luôn chú ý tới việc tuyên truyền, cổ vũ tạo thành phong trào, thành thói
quen đọc sách, báo, làm thơ, bình thơ cho các tầng lớp, các lứa tuổi trong quần chúng
nhân dân ở cơ sở.
d) Về mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm
Bao gồm các hoạt động như:
- Vẽ tranh, nặn tượng (đẽo tượng gỗ, đá, thạch cao…).
- Chụp ảnh, quay camera.
- Chiếu phim, video.
- Trưng bày, triển lãm trong nhà truyền thống.
Các hoạt động của loại hình này cũng được tiến hành ở nhiều địa điểm khác
nhau: Trong nhà, trong phòng rộng, trong các sảnh, lối đi hoặc trong vườn, trong công
viên, quảng trường đều đáp ứng được hoạt động loại hình này. Ở Tây nguyên còn có
nhiều tượng nhà mồ. Ở nhiều địa phương có truyền thống nặn tò he, phục vụ cho đối
tượng trẻ em.
Hiện nay nhiều địa phương phát triển nghề làm tượng phật và các loại tượng khác
với nhiều kích cỡ, kiểu dáng vô cùng phong phú bằng các vật liệu như: Gỗ, đá, thạch
cao, đá quý…phục vụ trong nước và khách du lịch.
đ) Về khai thác bảo tồn văn hóa văn nghệ cổ truyền
Với các hoạt động như:
- Sưu tầm, học hỏi, ghi chép lại các làn điệu dân ca, ca dao, hò vè. Quay phim
chụp ảnh các vũ điệu dân gian của các già làng, trưởng bản, các nghệ nhân cao tuổi
thuộc các vùng miền, dân tộc.
- Sưu tầm, sao chép các hoa văn, họa tiết, màu sắc, hình khối trong trang trí nội
thất ở các công trình công cộng và tư nhân như đền chùa, lăng tẩm, nhà cổ...hoặc trên
các sản phẩm, đồ dùng có giá trị truyền thống như áo, váy, khăn, chăn gối, trang sức
của các dân tộc.
Những hoạt động trên thường do các nhà chuyên môn, nhà nghiên cứu lịch sử
văn hóa hay các họa sỹ, nghệ sỹ thực hiện. Các đội văn nghệ ở cơ sở thì thường học
hỏi, tiếp thu và trình diễn lại các bài hát, điệu múa, ngón đàn, điệu nhạc cổ truyền của
cha ông, của dân tộc mình do các nghệ nhân cao tuổi trong vùng truyền dạy.
g) Hoạt động lễ hội, tham quan du lịch
Trên tất cả các địa phương trong cả nước ở đâu cũng có hoạt động lễ hội. Đây là
một loại hình sinh hoạt văn hóa quần chúng có cội nguồn, truyền thống và yếu tố tâm
linh. Hoạt động này mang tính cố kết cộng đồng cao.
142
Lễ hội bao gồm các loại hình lễ hội: Lễ hội dân gian, Lễ hội tôn giáo tín ngưỡng,
Lễ hội lịch sử Cách mạng, Lễ hội du nhập từ nước ngoài vào, Lễ hội Văn hóa, Thể
thao và Du lịch.
Lễ hội cổ truyền có từ lâu đời gắn liền với sự tích lịch sử các anh hùng dân tộc,
các nhân thần được thờ tự, lưu truyền trong nhân dân các dân tộc, các địa phương. Có
lễ hội của một làng, một xã,…một vùng, cũng có lễ hội của cả nước.
Lễ gắn liền với hội. Tuy vậy cũng có những hoạt động lễ mà không có hội (lễ
thánh thuộc Ki tô giáo…) và ngược lại hoạt động hội mà không có lễ (Hội hát đám,
Hội lồng tồng hay Hội hát quan họ…).
Lễ hội cách mạng còn gọi là lễ hội mới được tổ chức để kỷ niệm các ngày lịch sử
của đất nước, của quê hương như ngày giải phóng, ngày độc lập, ngày chiến thắng,
ngày thành lập, ngày sinh nhật danh nhân, lãnh tụ.
Dù là lễ hội mới hay lễ hội truyền thống thì cũng luôn có hai phần là phần lễ và
phần hội (có thể phần lễ là chính, hội là phụ hoặc không có và ngược lại).
Phần lễ: Là nghi thức với việc nhấn mạnh vai trò, giá trị của đối tượng được tôn
vinh hành lễ.
Phần hội: Là cuộc vui hưởng ứng lễ, ghi dấu ấn cho các thành phần quần chúng
tham gia lễ thông qua các trò chơi truyền thống như đu tiên, nấu cơm, ném còn, bắn
cung, bơi chải…cuộc vui chơi dưới hình thức là cuộc thi để khích lệ cho người tham
gia trò chơi và tạo không khí cho lễ hội.
Một loại hình văn hóa quần chúng đã hình thành và phát triển nhanh, mạnh trên
phạm vi cả nước trong hơn một thập kỷ qua tới nay đó là hoạt động du lịch. Du lịch
không chỉ dành cho khách quốc tế mà còn là một nhu cầu của đông đảo người Việt
Nam hôm nay. Du lịch không chỉ ở đồng bằng, thành phố, bãi biển mà du lịch lên tới
núi cao, vào tới rừng sâu, đến với từng nhà đồng bào dân tộc. Đáp ứng nhu cầu khám
phá tìm hiểu, thưởng ngoạn phong cảnh của khách du lịch, còn kèm theo đó là mang
tới các giá trị văn hóa khác như ẩm thực, văn nghệ, sản vật đặc sắc của dân tộc, quê
hương cho khách du lịch.
Quần chúng nhân dân ở nhiều vùng, nhiều địa phương ngày nay không chỉ ưa
chuộng du lịch mà còn biết đầu tư làm du lịch với các hình thức như du lịch sinh thái,
du lịch tâm linh, du lịch hội lễ, du lịch biển, rừng, làng quê…
Trên đây là một số loại hình văn hóa nghệ thuật đang được quần chúng quan tâm
và hưởng ứng mạnh mẽ, mang lại hiệu quả rõ rệt trong đời sống văn hóa và kinh tế của
xã hội, góp phần tạo nên bộ mặt tươi sáng của xã hội nhất là từ khi đất nước bước vào
thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển với cơ chế kinh tế thị trường.
2.2. Hoạt động văn hóa nghệ thuật quần chúng trong cơ chế kinh tế thị trường
2.2.1. Phân loại hoạt động
a) Hoạt động thường xuyên
143
Là các hoạt động theo nhu cầu thường nhật của quần chúng. Đó là hoạt động có
tổ chức thành từng nhóm sở thích trong các câu lạc bộ của hội (phụ nữ, cựu chiến
binh, người cao tuổi…). Hoạt động đơn lẻ của cá nhân, của gia đình hay của một nhóm
tự lập gồm năm bảy cá nhân biết hát, biết đàn phục vụ góp vui cho một tập thể, một
gia đình có nhu cầu. Còn có các hoạt động khác như hát Karaoke, quốc tế vũ… Như
vậy, hoạt động thường xuyên không phụ thuộc vào kế hoạch định sẵn từ trước, nó có
thể phát sinh theo nhu cầu. Đặc điểm nổi bật của loại hoạt động này là tính linh hoạt,
linh động. Linh hoạt về thời lượng hoạt động, linh hoạt về số lượng người tham gia,
linh hoạt về cơ sở vật chất, điều kiện triển khai, yếu tố phụ trợ, yếu tố kỹ thuật.
b) Hoạt động định kỳ
Là hoạt động theo kế hoạch, dự án đã định sẵn từ đầu năm hoặc từ trước đó một
thời gian cho cả một năm có khi từ năm trước.
Hoạt động định kỳ có trong một năm thường không nhiều nhưng lớn về quy mô.
Có hoạt động vài tuần, vài tháng mới lặp lại. Có hoạt động một năm hoặc vài năm mới
lặp lại một lần
Ví dụ: Như hoạt động văn hóa tâm linh thì định kỳ vào ngày mồng một và ngày
rằm (âm lịch). Hay là vào dịp cúng lễ, lễ hội hàng năm ở đình, chùa.
Hoạt động lễ hội truyền thống hay lễ hội mới thì diễn ra mỗi năm một lần như lễ hội
Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ kỷ niệm Ngày Lao động Quốc tế hay Quốc khánh.
Có những định kỳ 2 năm hoặc 3 năm mới tổ chức một lần, như các cuộc hội diễn
văn nghệ quần chúng, cuộc thi người đẹp, hoa hậu… hay thi chuyên ngành nghệ thuật.
Các hoạt động định kỳ này thường do Nhà nước hoặc các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể các cấp tổ chức quần chúng nhân dân hưởng ứng tham gia.
Ngày nay cũng có những hoạt động định kỳ do một đơn vị, một công ty tư nhân
đứng ra tổ chức. Đã có nhiều hoạt động định kỳ quy mô lớn được xã hội hóa để giảm
bớt việc đầu tư kinh phí của Nhà nước.
Đặc điểm của hoạt động định kỳ là phải được chuẩn bị kỹ mọi khâu, đòi hỏi đầu tư
nhiều về sức lực, kinh phí, kể cả phương tiện kỹ thuật và số lượng thành phần tham gia.
c) Hoạt động đột xuất
Trước hết đó là hoạt động không nằm trong kế hoạch hoặc dự kiến từ trước. Nó
nảy sinh ra để dáp ứng nhu cầu và hoàn cảnh khách quan như phục vụ một nhiệm vụ
chính trị đột xuất của địa phương, đơn vị hoặc đón tiếp một đoàn khách quan trọng từ
cấp trên về thăm địa phương cơ sở.
Đặc điểm của hoạt động đột xuất là tính bị động, vì thế để đảm bảo cho hoạt động
đột xuất có kết quả tốt đòi hỏi người cán bộ phụ trách phải có tinh thần trách nhiệm và
quyết đoán cao. Phải linh hoạt vận dụng những khả năng của quần chúng để tạo nên
một sức mạnh thực hiện hoàn thành nhiệm vụ.
Các hoạt động dù thường xuyên, định kỳ hay đột xuất cũng đều có giá trị tinh
thần như nhau, đều đòi hỏi đạt được kết quả nhất định. Chính vì thế cán bộ văn hóa xã
144
cần quán triệt tư tưởng chỉ đạo để chủ động tìm ra những phương pháp, biện pháp
đúng, có hiệu quả nhất.
Trong những năm gần đây, đời sống xã hội đã chuyển biến tích cực, biểu hiện ở
mặt bằng kinh tế và văn hóa ở mỗi vùng miền đều đã được nâng lên rõ rệt. Cơ chế
kinh tế thị trường hoà nhập ở mọi nơi, từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng đến
miền núi. Nó len lỏi vào tất cả các lĩnh vực, mọi quan hệ xã hội kể cả những mối quan
hệ trong gia đình, bè bạn, những lĩnh vực tâm linh, đời sống văn hóa tinh thần.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, văn hóa nghệ thuật cũng trở thành hàng hóa mà
người ta có thể mua bán và sở hữu. Một cán bộ chính quyền hay cán bộ văn hóa cơ sở,
thậm chí chỉ với cương vị là một công dân chúng ta cũng cần nhận thức những mặt
tích cực và hạn chế của văn hóa trong cơ chế thị trường.
2.2.2. Nhận xét
- Những mặt tích cực:
Nhờ có chính sách kinh tế mới sức lao động được giải phóng, năng lực được phát
huy, đời sống nhân dân lao động ở nhiều địa phương, vùng miền đã giàu lên nhanh
chóng, có “bát ăn bát để” nên việc mua sắm các phương tiện, trang thiết bị sản phẩm
văn hóa như đầu máy, băng đĩa, tivi, sách báo, loa đài…để thưởng thức văn hóa văn
nghệ, nắm bắt thông tin, mở mang kiến thức, tầm nhìn ngày một bùng phát mạnh mẽ.
Ở nhiều làng quê, vùng miền đã mọc lên các công trình văn hóa khang trang, bộ
mặt nông thôn cũng đổi mới với nhiều nhà cao, phố xá tấp nập. Trong nhiều công trình
văn hóa, tín ngưỡng được sửa sang nâng cấp hoặc xây mới đã có sự đóng góp công sức
cống hiến tiền bạc không nhỏ của nhiều người dân và doanh nghiệp tư nhân.
Kinh tế phát triển là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của văn hóa nghệ thuật.
Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ như: Liên hoan, hội thi, hội diễn, kỷ
niệm, hội hè, gặp mặt, giao lưu, tham quan, du lịch, thăm viếng…liên tục và rầm rộ
mở ra. Nhiều lễ hội truyền thống lớn, nhỏ được khôi phục nhanh chóng. Nhiều vật
phẩm văn hóa, công trình văn hóa được quần chúng nhân dân làm mới hoặc phục hồi
nguyên trạng trở thành hàng hóa, điểm đến để phục vụ cho nhu cầu đời sống nhân dân
trong nước và khách du lịch. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể cổ truyền có dịp
được phát huy, gắn kết với đời sống thường nhật của nhân dân. Phong trào văn hóa
văn nghệ dân gian truyền thống phát triển bằng nhiều tác phẩm, sản phẩm văn hóa, văn
nghệ mới ra đời mang giá trị văn hoá truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nghệ thuật thế giới bổ sung và thúc đẩy nhau phát triển.
Các hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển mạnh cả về bề rộng (số
lượng) và chiều sâu (chất lượng) với sự nhiệt tình hưởng ứng, tham gia của đông đảo
quần chúng nhân dân.
Quần chúng nhân dân làm ra văn hóa, văn nghệ. Quần chúng nhân dân hưởng thụ
văn hóa, văn nghệ là lẽ thường tình đã thành truyền thống. Nhưng nó thực sự khởi sắc
mạnh mẽ khi có đòn bẩy kinh tế tác động. Tuy vậy, đòn bẩy kinh tế ấy cũng có khi tạo
nên những bất cập cho xã hội.
145
- Những mặt tiêu cực:
Sự cạnh tranh trong hoạt động kinh tế thị trường, tự do thương mại làm giàu đã
nảy sinh những tiêu cực trong môi trường và đời sống xã, hội làm ảnh hưởng không
nhỏ đến nền tảng và bộ mặt văn hóa của xã hội.
Sự phân hóa giàu nghèo trong mọi giai tầng xã hội, thậm chí ngay trong anh em
một gia đình, dẫn tới việc hình thành những lối sống không lành mạnh, làm trỗi dậy
những hủ tục, tư tưởng lạc hậu, cục bộ địa phương…và xuất hiện những hành vi phạm
pháp: Tham ô, tham nhũng, móc ngoặc, hối lộ, chạy chức, chạy án, buôn lậu, buôn
hàng quốc cấm, lợi dụng chức quyền…
Những lối sống, tư tưởng, hành động ấy ăn mòn và làm băng hoại các giá trị văn
hóa, cản trở không nhỏ bước phát triển của phong trào quần chúng, làm nhụt ý chí của
không ít cán bộ phong trào văn hóa.
Trước tình hình thực tế của xã hội, nhiều người đã có những nhận thức lệch lạc về
vai trò, vị trí của hoạt động văn hóa cơ sở. Chùn bước trước những khó khăn về sự thiếu
hụt kinh phí cho hoạt động văn hóa, xếp văn hóa xuống hạng cuối cùng nhất là khi thấy
lợi ích kinh tế trước mắt bị hao tổn. Trong những người có nhận thức lệch lạc đó không
ít là cán bộ cơ sở. Những cán bộ cơ sở này thường chỉ tập trung chỉ đạo và đầu tư làm
kinh tế, làm giàu mà sao nhãng việc tìm biện pháp, phương án xây dựng đời sống văn
hóa cho quần chúng với quan điểm “chưa có văn hóa văn nghệ chưa chết ai”
Với những người thường trực tiếp tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ ở cơ sở
cũng nảy sinh những suy tính thiệt hơn. Nổi bật nhất là tư tưởng vụ lợi, đặt lợi ích kinh
tế cá nhân lên trên tất cả.
Hàng năm ở nhiều ngành, nhiều địa phương tổ chức hội thi, hội diễn văn nghệ thể
thao quần chúng, tư tưởng ăn thua bộc lộ khá rõ, biểu hiện ở việc thuê mướn diễn viên
ngôi sao, thuê mướn cá nhân xuất sắc ở nơi khác vào thi diễn, thi đấu cho đơn vị mình.
Cốt sao giành được nhiều huy chương để lấy thành tích, về nhận được khen thưởng.
Cũng có những đơn vị, địa phương mải lo làm kinh tế mà từ chối tham gia các hoạt
động phong trào văn hóa văn nghệ.
3. Xây dựng đội văn nghệ ở cơ sở (xã, ấp, thôn, bản, cơ quan, đơn vị…)
3.1.Tình hình chung
Nhân dân ta trải qua bao năm tháng, bao thời kỳ lịch sử, từ Bắc tới Nam, ai ai
cũng yêu thích được thưởng thức, nếu có điều kiện được làm văn nghệ. Từ những năm
trước cách mạng, trong xã hội chưa có hoạt động đội, đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp
của Nhà nước nhưng đã có những “gánh hát”, những đội, đoàn nghệ thuật của một gia
đình, của những nghệ nhân tập hợp lại với nhau để tập luyện và trình diễn những trích
đoạn, những vở diễn phục vụ đồng bào ở nhiều nơi.
Từ sau cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến do nhu cầu đòi hỏi của công tác
vận động, tuyên truyền cách mạng và nguyện vọng của đời sống tinh thần quân chủng,
nhiều đội đoàn nghệ thuật bán chuyên nghiệp và chuyên nghiệp được thành lập.
146
Từ đó đã hình thành và tồn tại nhiều đội nghệ thuật truyền thống: Tuồng, chèo,
cải lương, kịch nói trình diễn các vở dài, ngắn với nội dung phục vụ sản xuất, đánh
giặc giữ làng và các tích truyện lịch sử, anh hùng dân tộc. Có đội sống được dăm ba
chục năm, diễn hàng trăm buổi như: Đội tuồng Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Đội chèo Năm
Dân (Ninh Bình)… Từ đó tiếp tục ra đời nhiều đội nghệ thuật tổng hợp cả sân khấu và
ca nhạc múa mới ở những xí nghiệp, nhà máy, trường học, cơ quan, đơn vị. Phong trào
văn nghệ quần chúng phát triển nhanh chóng như phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”,
“Hát cho đồng bào tôi nghe”…là những đợt sóng dâng trào trong biển cả văn nghệ
những năm cả nước ra trận.
Các vùng đồng bào dân tộc Tây Nguyên, Tây Bắc, Việt Bắc vẫn âm vang những
đêm nhạc truyền thống với tiếng cồng chiêng, T’rưng, tính tẩu, khèn bè, kèn, sáo.
Nhưng phong trào thì lúc lên lúc xuống, nhiều đội nghệ thuật, nhiều địa phương không
duy trì được phong trào văn nghệ, nhiều đội nghệ thuật sân khấu tuồng, chèo, cải
lương ngừng hoạt động. Nguyên nhân một phần không nhỏ là do hoàn cảnh kinh tế
gặp nhiều khó khăn, nhất là những năm đầu sau ngày Miền Nam được hoàn toàn giải
phóng. Mọi cá nhân, mọi đơn vị tập thể hướng mạnh vào làm kinh tế, tháo gỡ khó
khăn cho kinh tế lên hàng đầu, văn hóa văn nghệ rơi xuống hàng cuối cùng.
Đời sống văn hóa văn nghệ của quần chúng có những thăng trầm nhưng nhiệm vụ
tuyên truyền, xây dựng lại đất nước sau chiến tranh thì cấp bách và quan trọng. Nhà
nước đã kịp thời có nhiều chủ trương, chính sách khôi phục và phát triển các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, chú ý nhất là khu vực đơn vị cơ sở xã, phường, thôn, bản. Từ đó
công tác văn hóa văn nghệ, thông tin tuyên truyền được khơi thông với việc thành lập
nhiều đội văn nghệ như đội văn nghệ thông tin, đội tuyên truyền văn hóa, đội nghệ
thuật bán chuyên ở khắp các vùng miền, địa phương, đơn vị.
3.2 . Vai trò, vị trí của tổ chức đội văn nghệ-thông tin cơ sở
Cùng với các đội nhạc truyền thống như cồng chiêng ở Tây Nguyên, các lớp nghệ
nhân hát những làn điệu dân ca Sli, lượn, cọi với đàn tính, quả nhạc ở Việt Bắc, hay dàn
cồng Mường Hòa Bình, ở mỗi xã trong cả nước đã xuất hiện đội văn nghệ-thông tin.
Đội văn nghệ-thông tin là tên gọi do chức năng hoạt động, được thành lập bởi
chính quyền và ban văn hóa cấp cơ sở. Đội có nhiều thành phần lứa tuổi, đa số là
thanh niên, do đoàn thanh niên cơ sở trực tiếp phụ trách.
Đội văn nghệ-thông tin là nòng cốt, là đầu tàu của phong trào văn hóa văn nghệ
quần chúng. Đồng thời là bộ mặt văn hóa của xã mỗi khi tiếp đón quan khách, lãnh
đạo cấp trên về làm việc với cơ sở. Là đại diện của xã đi giao lưu thi thố với các địa
phương bạn.
Đội văn nghệ-thông tin xã là lực lượng chủ chốt giúp cơ quan Đảng, chính quyền,
đoàn thể xã hoàn thành mọi nhiệm vụ tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện
các nghĩa vụ công dân và xây dựng đời sống văn hóa cũng như công cuộc xây dựng
quê hương.
Hai vấn đề mấu chốt của tổ chức đội văn nghệ-thông tin ở cơ sở (xã, ấp, thôn,
bản, đơn vị…) là Nội dung hoạt động và Biện pháp để tồn tại
147
* Nội dung hoạt động:
Xây dựng các tiết mục, chương trình văn nghệ, biểu diễn phục vụ định kỳ hoặc
đột xuất tại địa bàn cơ sở hoặc giao lưu hội thi hội diễn.
Hoạt động thông tin như kẻ vẽ pa-nô, áp phích, khẩu hiệu, trang trí khánh tiết
trong hội trường, nhà văn hóa, phòng truyền thống hay trụ sở chính quyền, đoàn thể.
Biên tập bản tin và đọc tin truyền thanh trong địa bàn.
Thực hiện các nhiệm vụ công tác văn hóa-xã hội khác trong địa bàn như:
- Tổ chức và vận động quần chúng thực hiện nếp sống văn hóa trong bảo vệ môi
trường, ma chay, cưới xin, lễ hội và các sinh hoạt cộng đồng khác như sinh đẻ có kế
hoạch, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt.
- Thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước tới từng người dân thông qua các hoạt động văn hóa thông tin của đội.
- Tìm hiểu cội nguồn, ghi chép lưu giữ, học tập truyền thống lịch sử văn hóa, đấu
tranh cách mạng, các tấm gương anh hùng liệt sĩ, gia đình có công với bản làng, với
quê hương đất nước trong địa bàn xã. Khai thác và tìm cách phát huy, phát triển những
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống của quê hương như phong tục tập
quán, nghề truyền thống, đặc sản và ẩm thực gia truyền. Điều cốt yếu là đưa được
những giá trị văn hóa đặc sắc và truyền thống của quê hương trở về trong đời sống
thường nhật của nhân dân trong thôn, xã.
- Tham mưu cho lãnh đạo địa phương giữ gìn và phát huy những thành quả đã đạt
được, trong đó có cả các cơ sở vật chất, các công trình văn hóa xã hội của thôn, xã.
Góp phần làm giàu mạnh và ổn định đời sống nhân dân trong xã.
* Biện pháp để tồn tại:
Trong cuộc sống lĩnh vực nào cũng vậy, xây dựng nên thì dễ, nhưng giữ gìn cho
nó tồn tại và phát triển mới là khó. Hoạt động văn hóa văn nghệ ở cơ sở xã, thôn, ấp
bản lại càng khó hơn. Xin nhấn mạnh 3 yếu tố cơ bản để làm tồn tại và phát triển hoạt
động văn hóa, văn nghệ ở cơ sở của tổ chức đội văn nghệ-thông tin, đó là:
- Nhân lực để hoạt động: Đội văn nghệ-thông tin là nòng cốt của phong trào văn
hóa, văn nghệ ở cơ sở bao gồm số lượng nhất định vừa đủ để thực hiện các nhiệm vụ. Số
lượng khoảng 20 đến 30 thành viên. Thành phần đa dạng: Cán bộ, bộ đội về hưu, giải
ngũ, giáo viên phổ thông cơ sở, nghệ nhân, nam nữ thanh thiếu niên. Chất lượng: Có
năng lực, năng khiếu ít nhiều về các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền,
thể dục, thể thao. Có sức khỏe và nhiệt tình hoạt động văn nghệ-thông tin. Có trình độ
học vấn ít nhất từ cấp 2 (loại trừ các cháu thiếu nhi tiểu học) và là công dân tốt.
- Nội dung hoạt động: Khi đã có đội ngũ với những thành viên như yêu cầu đã đề
ra, cần thiết tiến hành các thủ tục hành chính như quyết định thành lập và công nhận
các thành viên trong đội của lãnh đạo chính quyền xã. Làm các văn bản chế độ và cam
kết, thỏa thuận cần thiết. Xác định những người phụ trách đội, các tổ nhóm chuyên
môn trong đội. Sau đó là các nội dung hoạt động khác cần được tiến hành đồng bộ
148
hoặc lần lượt như: Lập kế hoạch, chương trình cụ thể cho từng việc, từng mảng việc,
từng lĩnh vực theo yêu cầu phục vụ của cơ sở trong một quý, trong cả năm.
Ví dụ: Chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm ngày lễ trong năm (ngày mồng 3/2,
ngày 30/4, ngày 1/5, ngày 19/5, ngày 2/9...và Tết dương lịch, âm lịch) và các nhiệm vụ
thường niên khác như ngày tuyển quân nhập ngũ, ngày khai giảng năm học mới, ngày
hội xuống đồng, vào vụ thu hoạch …
Lập kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ: hát, múa, đàn, vẽ tranh, biên tập tuyên
truyền… cho thành viên trong đội.
Lên lịch tập luyện, sinh hoạt của đội.
Lên lịch thực hiện các nhiệm vụ, có thể từng tháng hoặc từng quý của đội và
từng thành viên đều được nhất trí.
Để đạt được những mục tiêu, chương trình kế hoạch chuyên môn của đội. Điều
cần thiết cả tập thể đội phải quan tâm là:
Đội có chế độ khen thưởng, khuyến khích động viên kịp thời và rõ ràng cho từng
trường hợp, từng đối tượng đạt được kết quả, thành tích tốt.
Gắn bó với phong trào quần chúng. Học hỏi kế thừa vốn văn nghệ quý báu của
các nghệ nhân, nghệ sĩ. Trao đổi và rút kinh nghiệm công tác trong nội bộ và với các
đơn vị bạn. Lắng nghe ý kiến của lãnh đạo và quần chúng.
Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ hoạt động của đội. Đề cao tinh thần đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau trong tập thể đội.
- Kinh phí để hoạt động: “Có thực mới vực được đạo” “mạnh vì gan, bạo vì
tiền”, rõ ràng kinh tế là điều kiện không thể thiếu để tổ chức mọi hoạt động dù lớn hay
nhỏ. Để đội văn nghệ-thông tin xã, bản tồn tại và hoạt động phải lo nguồn kinh phí.
Đây cũng là một khâu then chốt của đội phải lo liệu, là một biện pháp để tồn tại và
phát triển.
Đối với các đợt nghệ thuật hay các hoạt động thể thao, văn nghệ ở các cơ quan,
ban ngành, đoàn thể, nhà máy, xí nghiệp, đơn vị, trường học thường là hoạt động định
kỳ hoặc đột xuất nhiều hơn. Kinh phí hoạt động nhiều khi được bao cấp hết. Nội dung
hoạt động cũng chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực hội thi, hội diễn liên hoan. Với
các đội ở khu vực này kinh phí hoạt động và tồn tại không phải là điều đáng lo ngại,
mà chuyên môn mới là chính yếu.
Đối với các độ văn nghệ-thông tin ở cơ sở xã, thôn, ấp, bản thì tiên quyết vẫn là
kinh phí. Với đội này nội dung công việc hoạt động đa dạng và nhiều. Địa bàn hoạt
động rộng khắp cả xã. Vùng đồng bào miền núi đi từ đầu xã đến cuối xã phải mất cả
ngày cả buổi, vì bản làng cách trở rừng núi, hoạt động càng khó khăn hơn. Tuyên
truyền một chủ trương chính sách mới với đồng bào cũng nhiều trở ngại hơn vì có nơi
dân còn mù chữ, chưa thông thạo tiếng phổ thông, nhận thức của đồng bào còn chậm.
Các cấp chính quyền, đoàn thể ở cơ sở không thể có đủ kinh phí cấp cho đội văn
nghệ-thông tin hoạt động. Vì vậy, điều cần thiết là đội phải tự tìm nguồn kinh phí. Có
hai nguồn kinh phí để khai thác: Xã hội hóa và tự xây dựng. Nguồn kinh phí xã hội
149
hóa là nguồn kinh phí trong nhân dân, cụ thể là các cá nhân và các đơn vị doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất đóng góp. Nguồn kinh phí này dồi dào nhưng có thể nói nó
không dễ dàng “chảy” vào túi của đội văn nghệ-thông tin cơ sở nếu như nó không
được vận động, được kêu gọi tài trợ một cách tích cực, khéo léo, mang lại lợi ích cho
cả hai bên. Do vậy, ở nhiều địa phương, nhiều vùng miền các đội văn nghệ-thông tin
đã chủ động tìm biện pháp “tự cứu mình” bằng cách đề xuất với chính quyền cơ sở cho
nhận khoán ruộng, khoán đồi, rừng, ao, hồ để sản xuất chăn nuôi, trồng trọt gieo cấy.
Có nơi còn thành lập các tổ dịch vụ các loại hay tổ chức các lớp năng khiếu nghệ
thuật, lớp học nghề, nhóm sản xuất đan lát mây tre, dệt, thêu, đẽo tượng…phục vụ cho
nhân dân trong vùng, trong xã. Biện pháp này được coi là hữu hiệu nhất. Mỗi thành
viên trong đội văn nghệ-thông tin đều có thể phát huy các “tài lẻ” của mình như quay
camera, chụp ảnh, tổ chức góp vui đám cưới, mừng nhà mới hay sửa xe, kẻ vẽ, trang
trí, dạy nghề…để thu về những đồng tiền cho tập thể đội và trong đó có cá nhân mình.
Việc tiến hành nhận khoán đất, khoán rừng, khoán ao hồ và thành lập các tổ dịch vụ
của đội văn nghệ-thông tin là một biện pháp tích cực nhất và mang lại hiệu quả cao
nhất cần được sự đồng thuận và hỗ trợ đầy tâm huyết của lãnh đạo Đảng chính quyền,
đoàn thể ở cơ sở nhằm làm cho hoạt động văn hóa văn nghệ-thông tin, thể thao ở cơ sở
xã, thôn, bản ấp ngày càng khởi sắc, vững bền và phát triển, mang lại đời sống văn hóa
tốt đẹp cho quê hương.
Kinh phí của đội văn nghệ-thông tin cơ sở được chi cho việc bù đắp công sức
hoạt động của mỗi thành viên trong đội là chính, thông qua thù lao và khen thưởng.
Một phần để dành làm quỹ của đội, một phần hỗ trợ bổ sung cho nghiệp vụ như màu
hóa trang, bút lông…Kinh phí mua sắm trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho các hoạt
động như âm thanh, ánh sáng, “đinh, dây, hồ, giấy” vẫn phải là nguồn bao cấp của
chính quyền.
4. Quy trình quản lý, hướng dẫn tổ chức phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng
4.1. Nhận thức chung về vai trò, vị trí của công tác quản lý văn hóa, văn
nghệ quần chúng.
4.1.1.Tình hình chung
Hiến pháp năm 1992 nhấn mạnh trách nhiệm của Nhà nước trong việc “thống
nhất quản lý sự nghiệp văn hóa”. Cùng với việc kế thừa bảo tồn di sản văn hóa dân
tộc, Nhà nước cho phép phát triển đa dạng văn hóa nghệ thuật dưới các hình thức Nhà
nước, tập thể, tư nhân trong đó khuyến khích hoạt động văn hóa nghệ thuật quần
chúng, nhằm góp phần tạo ra một đời sống văn hóa tinh thần trong sáng lành mạnh,
phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ.
Từ sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhất là từ sau Đại hội Đảng Toàn
quốc lần thứ VI, hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng đã trở thành một phong trào
rộng rãi và mạnh mẽ. Hoạt động này tập trung chủ yếu vào một số mảng như sau: Xây
dựng nếp sống văn hóa, đọc và làm theo sách, xây dựng nhà truyền thống, nhà văn hóa
giáo dục cộng đồng, văn nghệ không chuyên, câu lạc bộ sở thích, lễ hội, vui chơi, du
lịch, thể thao quần chúng…
150
Nhà nước bao cấp 100% các hoạt động văn hóa, nghệ thuật nói chung, văn hóa
văn nghệ quần chúng nói riêng. Từ việc cấp phát kinh phí để xây dựng phong trào, xây
dựng các thiết chế văn hóa như cung văn hóa, nhà văn hóa, sân khấu ngoài trời, rạp bãi
chiếu phim đến các trang bị kỹ thuật từ nhỏ đến lớn, từ thô sơ, truyền thống đến điện
tử, hiện đại… Một kinh phí không nhỏ nữa cho đào tạo, bồi dưỡng, hội thi, hội diễn,
hoạt động kỳ, cuộc trong tháng, trong quý và nuôi bộ máy cán bộ, nhân viên, khen
thưởng, thù lao.
Với đầu tư triệt để của nhà nước, chúng ta đã gặt hái được những giá trị văn hóa,
văn nghệ không nhỏ đó là các phong trào khắp nơi ca hát, phong trào “tiếng hát át
tiếng bom” trong kháng chiến chống thực dân đế quốc, phong trào nếp sống văn minh,
gia đình văn hóa, phong trào người tốt, việc tốt, “nói lời hay làm việc tốt”…cùng với
đó còn là việc ra đời những thiết chế, công trình văn hóa với những trang thiết bị hiện
đại dưới sự điều hành của một đội ngũ cán bộ văn hóa các cấp, thực hiện thường
xuyên và liên tục các nghiệp vụ chiến lược về văn hóa-thông tin, tuyên truyền, vận
động của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trong cơ chế kinh tế cũ ấy, hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng
đã là một gánh nặng trên đôi vai Nhà nước. Nhất là vào giai đoạn cả đất nước vừa
bước ra khỏi cuộc chiến tranh dài và khốc liệt. Tất thảy mọi chi phí cho xây dựng, hoạt
động, duy trì và phát triển phong trào quần chúng rộng lớn và đa dạng này đều từ túi
Nhà nước bỏ ra.
Chính vì thế, để bớt gánh nặng và phù hợp với xu thế phát triển của xã hội Nhà
nước đã kịp thời có chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng tất yếu
phải chịu những ảnh hưởng và phải tự tìm những biện pháp cho phù hợp để từng bước
thích nghi với đặc điểm của cơ chế kinh tế mới.
Với chức năng, nhiệm vụ quản lý văn hóa đã được thực hiện, lúc này hoạt động
quản lý văn hóa càng có vai trò, vị trí quan trọng và lớn lao hơn.
4.1.2. Vai trò, vị trí
Quan điểm cơ bản để xác định chức năng, nhiệm vụ quản lý văn hóa, văn nghệ
quần chúng của Nhà nước ta đó là:
- Nắm vững định hướng, tổ chức và quản lý thống nhất các hoạt động của phong
trào quần chúng. Động viên, khuyến khích các phương thức hoạt động của phong trào
quần chúng đó là hoạt động cá nhân, gia đình, tập thể đội, đoàn…với phong cách chủ
động, sáng tạo trong khuôn khổ luật pháp quy định. Nhà nước tôn trọng và tạo điều
kiện thuận lợi cho mỗi công dân phát huy hết khả năng và nhiệt tình của mình trong
hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng.
- Quản lý văn hóa thúc đẩy con người nói riêng và xã hội nói chung phát triển với
mục tiêu chân-thiện-mỹ, công bằng, dân chủ, văn minh. Tất cả những giá trị của quản
lý văn hóa đều lấy mục tiêu chiến lược là của dân, do dân, vì dân. Mỗi công dân đều
có quyền được sáng tạo ra giá trị văn hóa vật thể và tinh thần. Được hưởng thụ và
truyền đạt những giá trị văn hóa do chính mình làm ra và của cả cộng đồng.
151
- Quản lý là làm cho tốt đẹp hơn sự nghiệp văn hóa, văn nghệ quần chúng nhất là
trong giai đoạn cả nước trong cơ chế kinh tế thị trường nhiều tiềm năng, thuận lợi,
thành công và cũng lắm khó khăn, rủi ro, mất mát.
- Quản lý văn hóa, văn nghệ quần chúng góp phần vào sự nghiệp xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng con người mới, xây dựng một xã hội con người được
giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, ra sức học tập và lao động, sáng tạo
dựng xây đất nước. Tiến tới một đất nước phát triển, giàu mạnh, nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
công bằng, dân chủ, đoàn kết, bình đẳng và hữu nghị quốc tế.
4. 2. Những rào cản của công tác quản lý văn hóa, văn nghệ quần chúng.
Hai rào cản lớn đó là:
a) Những tiêu cực trong đời sống xã hội
Trung tâm của sự phát triển rầm rộ và ganh đua trong nền kinh tế thị trường là
vòng xoáy của trào lưu làm giàu. Có nhiều cách làm giàu nhưng không phải ai cũng
giàu bằng trí tuệ, sức lực, tài năng của mình.
- Khắp nơi trong cả nước đang đẩy mạnh phong trào tu sửa, khôi phục lại các
công trình tín ngưỡng: nhà thờ, đình, chùa, đền miếu với các hoạt động cúng lễ hội hè.
Nhờ có nhiều điều kiện thuận lợi trong cuộc sống hơn vài chục năm trước đây,
cho nên vào mùa hội lễ hay những ngày lễ trong tháng, nhân dân nô nức mua sắm lễ
vật trảy hội và dâng lễ vào cửa thánh, cửa phật. Có không ít những người đến cửa phật
không phải vì tín ngưỡng mà để lợi dụng tín ngưỡng làm điều bất chính, để lừa lọc, để
cờ bạc đỏ đen, buôn thần bán thánh, lôi kéo người hành lễ vào con đường mê tín dị
đoan, bói toán nhảm nhí…
Cùng với những tiêu cực trên, trong xã hội còn biết bao nhiêu tiêu cực khác nữa.
Nhiều nam nữ, thanh thiếu niên lao vào lối sống thác loạn. Gia đình bố mẹ giàu lên thì
mải mê ăn chơi. Gia đình bố mẹ nghèo khó thì phẫn trí làm liều. Bao gia đình lâm vào
cảnh đau thương, tan cửa nát nhà, cha bỏ con, vợ giết chồng, con cái hư hỏng. Bên
cạnh đó nhiều cơ sở dịch vụ văn hóa có hoạt động thiếu lành mạnh như truyền bá băng
hình kích động bạo lực, đồi trụy. Nhiều quán karaoke trá hình mại dâm, nhiều quán
internet, vũ trường sàn nhảy có hoạt động bất hợp pháp…
Những sự thực đau lòng trên là mặt trái của xã hội. Từ khi đất nước bước sang
kinh tế thị trường, nó đã thực sự trở thành mảng đen tối trên bộ mặt văn hóa của đất
nước, nó trở thành hiểm họa, thành nỗi lo của mỗi người dân, thành vật cản của đời
sống văn hóa và sự nghiệp xây dựng đất nước, gia đình ấm no, giàu mạnh.
b) Những khó khăn, hạn chế về hoàn cảnh khách quan và dân trí
Song song với những tiêu cực xã hội còn có những khó khăn về hoàn cảnh khách
quan và những hạn chế về nhận thức, về dân trí ở các vùng miền góp phần làm vật cản
cho công tác quản lý văn hóa, văn nghệ quần chúng.
152
- Về những khó khăn:
Trước hết phải nêu ra những khó khăn khách quan như điều kiện địa lý, điều
kiện thiên nhiên, môi trường, điều kiện lịch sử với phong tục tập quán, tín ngưỡng
Ở mỗi vùng quê, mặc dù đã có nhiều sự đầu tư của nhà nước, song nhiều nơi
điện, đường, trường, trạm vẫn còn thiếu hoặc chưa đồng bộ, dân cư thưa thớt, núi cao,
suối sâu cách trở, các hoạt động văn hóa, văn nghệ của nhà nước ít đến được thường
xuyên, đều đặn. Có nơi thiếu thốn hoàn toàn những hoạt động này. Hoạt động tự thân
cũng không có
Việc phát rừng làm rẫy bừa bãi gây ra thảm cảnh lũ quét mỗi khi mưa bão, nhà
cửa lợn, gà có khi cả con người bị cuốn theo dòng nước. Không những thế còn mất
theo các công trình văn hóa xã hội công cộng hoặc đường xá cầu cống cũng bị mất
theo, gây nhiều trở ngại khó khăn cho đời sống. Các trang thiết bị của nhà văn hóa
xuống cấp, hư hỏng do điều kiện bảo quản kém, khí hậu ẩm ướt mà lại ít được quan
tâm, sử dụng. Các khó khăn trở ngại liên tiếp, làm cho con người không kịp khắc phục.
- Về những hạn chế
Ở những thành phố, những vùng kinh tế phát triển, tư tưởng “tiền là tất cả”, “tiền
là trên hết” vẫn ngự trị trong đầu của nhiều người. Tư tưởng ganh đua, ”thị phú khinh
bần” lan rộng tới từng làng quê. Dòng họ này ganh đua với dòng họ kia, xây dựng lăng
bia, cúng giỗ sao to, đẹp, hoành tráng hơn. Từ đó, nhiều hủ tục cũ sống lại trong đời
sống xóm thôn mỗi khi ma chay, cưới hỏi…
Ở nhiều nơi vẫn tồn tại cách nghĩ, cách làm xưa cũ, lạc hậu. Nhiều người ngây
thơ, nhẹ dạ, dễ dàng nghe theo kẻ xấu xúi bẩy, lôi kéo gây ra chia rẽ, mất đoàn kết
giữa vùng xuôi với miền núi, giữa dân tộc này với dân tộc kia. Nhiều người tái mù
chữ, nhiều con em vùng sâu, vùng xa không đến trường…tạo nhiều phức tạp cho chính
quyền cơ sở trong quá trình lãnh đạo, quản lý nhằm nâng cao dân trí, nâng cao dần đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào.
4. 3. Tăng cường hiệu lực quản lý văn hóa, văn nghệ quần chúng
Trong cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế đầy tiềm năng và cũng đầy
những thách thức, để hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển vững bền và
đúng hướng cần tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước.
Trong mấy năm qua Bộ Văn hóa-Thông tin và tiếp nay là Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch-cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa, văn nghệ đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý mang nội dung và tính quản lý Nhà nước về các hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Những văn bản pháp quy kịp thời là kim chỉ nam cho những hoạt động văn hóa, văn
nghệ ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ văn hóa, văn nghệ từ trung ương đến cơ sở đã có chỗ
dựa vững chắc để triển khai các hoạt động văn hóa, văn nghệ, mang lại lợi ích cho
quần chúng. Nhân dân được trực tiếp tham gia hoạt động và hưởng thụ giá trị của văn
hóa, văn nghệ ở cơ sở. Nhiều hoạt động phát triển tốt.
153
a) Những bất cập
Tuy nhiên, cũng nhận thấy rằng hiệu lực quản lý Nhà nước về công tác văn hóa,
văn nghệ quần chúng bằng pháp luật nói chung còn thấp. Một số văn bản pháp quy
dưới luật ban hành hoặc điều chỉnh, sửa đổi còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời với thực
tế hoạt động và diễn biến tình hình của xã hội.
Mặt khác, công tác điều hành, tổ chức thực hiện nội dung văn bản pháp quy có
nơi, có lúc đã chậm lại thiếu và yếu, thiếu kiểm tra giám sát nên hiệu quả của việc thực
hiện nội dung văn bản pháp quy của cơ sở thấp.
Nhiều cán bộ quản lý văn hóa từ trung ương đến cơ sở có trình độ và năng lực
công tác hạn chế, lại thiếu nhiệt tình, tận tụy, sáng tạo nên chưa đáp ứng được những
đòi hỏi của công tác quản lý phong trào trong điều kiện phức tạp của hiện thực cuộc
sống. Những bất cập trên làm giảm hiệu quả của quản lý.
b) Những giải pháp cần thiết
* Đối với ngành văn hóa
- Trước tiên cần nâng cao nhận thức chính trị, lập trường, quan điểm cho cán bộ, viên
chức làm công tác quản lý văn hóa từ trung ương tới cơ sở qua các lớp bồi dưỡng lý luận
chính trị, các lớp tập huấn nâng cao kiến thức về hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy
của Nhà nước đã ban hành.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng hoặc đào tạo lại chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, sử dụng vi tính, tin học phù hợp với yêu cầu, chức trách, vị trí công tác của từng
loại đối tượng của ngành, tiến tới tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thực hiện những kế hoạch, nhiệm vụ công
tác. Trao đổi, luân chuyển và giám sát cán bộ. Tạo sự gắn kết và học hỏi giữa các cán
bộ địa phương và giữa địa phương với trung ương trong công tác quản lý văn hóa, văn
nghệ quần chúng. Chú trọng nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất, tư cách đạo đức
và hiệu quả công tác của cán bộ quản lý các cấp. Thực hiện chính sách đòn bẩy kinh
tế, khen thưởng kịp thời, công minh, nghiêm túc đối với mỗi cá nhân và tập thể cán bộ.
- Xây dựng chiến lược, sách lược quản lý phù hợp với cơ chế kinh tế và thực tế
xã hội. Coi trọng song song cả lý luận và thực tiễn, coi trọng cả triển khai thực hiện và
kiểm tra giám sát, cũng như khen thưởng và xử phạt. Đề cao lợi ích phát triển lâu dài
và bền vững sự nghiệp văn hóa, văn nghệ quần chúng với phương châm chỉ đạo: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Nghị quyết Đại hội
Đảng đã đề ra.
- Định hướng các hoạt động văn hóa, văn nghệ cho quần chúng một cách kịp thời
và phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
- Đặt lợi ích của nhân dân lao động là mục tiêu của hoạt động quản lý văn hóa, văn
nghệ. Kịp thời điều chỉnh, sửa đổi những nội dung hoặc văn bản pháp quy nào không còn
phù hợp với thực tế khách quan của xã hội và quyền lợi của nhân dân.
154
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện quyền được hoạt động sáng tạo
và quyền được hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật do bản thân và cộng đồng xã hội làm ra.
- Kịp thời có biện pháp hữu hiệu để uốn nắn, chấn chỉnh những lệch lạc, khuyết
điểm, sai lầm nảy sinh trong các hoạt động văn hóa. Ngăn chặn kịp thời và kiên quyết
xử lý hoặc loại bỏ cấp phép đối với những cá nhân hoặc tập thể vi phạm luật pháp, quy
chế và những kẻ lợi dụng văn hóa, nghệ thuật để tuyên truyền, vận động, kích động
chia rẽ dân tộc, vùng miền, làm tổn hại đến lợi ích và an ninh quốc gia.
- Nhà nước cũng cần khuyến khích, tài trợ, khen thưởng đúng mức cho các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật quần chúng. Hằng năm hoặc định kỳ tổ chức xét tặng, truy
tặng danh hiệu nghệ nhân, nghệ sỹ và các hình thức ghi nhận công lao khác cho các cá
nhân có đóng góp tài năng, sức lực, tiền của cho phong trào văn hóa, văn nghệ quần
chúng. Coi đây cũng là một biện pháp để tăng cường hiệu lực quản lý.
* Đối với quần chúng nhân dân
- Coi trọng và thực hiện nghiêm túc các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ
hội”, “Xây dựng gia đình văn hóa, làng (thôn, ấp, bản), tổ dân phố văn hoá… Tự giác
chấp hành các chính sách luật pháp của Nhà nước. Đồng thời nêu cao tinh thần xây
dựng góp ý, bảo vệ luật pháp và các văn bản pháp quy của ngành. Nêu cao ý thức trách
nhiệm và nghĩa vụ công dân trong việc giữ gìn, bảo vệ, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tích cực hưởng ứng tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng ở
địa bàn cơ sở với ý thức hoạt động cộng đồng cũng là lợi ích cho chính bản thân và gia
đình của mình.
- Ở nhiều địa phương hiện nay đã thành lập được những hội, những câu lạc bộ có
sinh hoạt đều hàng quý hoặc hàng năm vài ba lần. Những nội dung sinh hoạt hội, câu
lạc bộ cũng mang đậm dấu ấn văn hóa cộng đồng như các hội đồng hương, hội đồng
môn, hội đồng tuế, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi, hội phụ nữ hay hội cờ
tướng, hội thơ văn, hội sinh vật cảnh…
- Hoạt động thường xuyên và sôi nổi nhất vẫn là hoạt động văn nghệ quần chúng
với những đêm tập luyện của đội chèo, đội tuồng, đội kịch hay ca hát mới của thanh
niên trong thôn, xã. Nhiều xã đã có tụ điểm vui chơi ca hát, nhảy quốc tế, Karaoke thu
hút đông đảo thanh thiếu niên và cả người trung niên. Nhiều sinh hoạt giao lưu, hội thi,
hội diễn văn nghệ, thể thao quần chúng diễn ra với đông đảo người tham gia.
Rõ ràng văn hóa, văn nghệ quần chúng luôn là nguồn sinh khí, là bộ mặt của xã
hội, đặc biệt thấy rõ điều này ở các vùng nông thôn cả đồng bằng và miền núi. Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng ngày càng vô cùng phong phú và sinh động,
là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống nhân dân lao động. Để món ăn tinh
thần ấy luôn tươi mới, trong sạch, ngon lành và bổ ích không chỉ đòi hỏi Nhà nước,
trực tiếp là ngành văn hóa có nhiều biện pháp tổ chức hoạt động, đầu tư thiết chế và
phương tiện kĩ thuật, chế độ chính sách, văn bản pháp quy, luật lệ quản lý và định
155
hướng tới phong trào quần chúng, mà còn đòi hỏi quần chúng nhân dân cũng phải
chung tay, chung sức cùng ngành văn hóa, cùng Nhà nước.
Trong quá trình hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng nhân dân chủ động
sáng tạo và cũng chủ động thưởng thức. Những cái hay cái đẹp của văn hóa văn nghệ
quần chúng được quần chúng vui vẻ và say mê tiếp nhận, sự tiếp nhận tự giác và giản
dị ấy mang đến một giá trị giáo dục, cảm hóa con tim, khối óc của quần chúng một
cách tự nhiên, không khiên cưỡng.
Cùng với sự cảm nhận và tiếp thu cái hay, cái đẹp thông qua những hoạt động
văn hóa, văn nghệ cũng nhận ra cái không hay, cái xấu, cái lạc hậu của đời sống xã hội
và của hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng. Từ đó, quần chúng tự biết lựa chọn
và điều chỉnh cho chính mình và cho cộng đồng bằng những hoạt động cụ thể để nhằm
làm phát triển những mặt tốt đẹp và loại bỏ những tiêu cực, không phù hợp ảnh hưởng
xấu đến đời sống tinh thần của nhân dân. Hành vi này mang tính quản lý rõ rệt.
Vì vậy, chúng ta có thể nói quần chúng nhân dân đã góp sức với Nhà nước cùng
quản lý văn hóa, văn nghệ quần chúng. Và như vậy thì Nhà nước có quản lý Nhà nước
và nhân dân cũng có vai trò quản lý nhân dân các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần
chúng. Đây cũng có thể coi là hai phạm trù trong lý thuyết quản lý văn hóa, văn nghệ
quần chúng nói riêng hay văn hóa xã hội nói chung. Đúng với chủ trương xã hội hóa
văn hóa văn nghệ của Đảng. Và như vậy cùng với Quản lý Nhà nước, Quản lý Nhân
dân có vai trò vô cùng quan trọng.
5. Kết luận.
Sự nghiệp văn hóa, văn nghệ là của quần chúng vì quần chúng, Đảng lãnh đạo,
Nhà nước và nhân dân cùng làm. Văn hóa, văn nghệ là động lực thúc đẩy xã hội.
Trong chiến tranh cũng như trong hòa bình dựng xây đất nước, văn hóa, văn nghệ đã
đóng góp công sức, giá trị to lớn để chiến thắng kẻ thù và xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta có thể tự hào nói rằng từ ngày có Đảng lãnh đạo sự nghiệp văn hóa, văn nghệ
đã tiến lên từng bước vững chắc. Ngành văn hóa đã cùng cả nước làm nên những chiến
thắng, trong đó văn hóa cũng là một mặt trận, anh chị em cán bộ nhân viên trong
ngành cũng là chiến sỹ.
Khi nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ và đất nước hòa nhập trong một thế giới
đầy biến động thì văn hóa sẽ là mục tiêu để hướng tới. Vì đó là danh dự và lẽ sống còn
của mỗi quốc gia, dân tộc là nhờ sức mạnh của bản sắc văn hóa. Và trong biển cả
mênh mông chung của văn hóa, đội ngũ cán bộ văn hóa văn, nghệ quần chúng là một
lực lượng hùng hậu nhất với vai trò quan trọng của công tác quản lý, hướng dẫn và tổ
chức nhằm làm phát triển tốt đẹp các hoạt động của phong trào văn hóa, văn nghệ
quần chúng.
Thực hiện tốt nhiệm vụ này, vai trò của con người cụ thể ở đây là những cán bộ
văn hóa cơ sở giữ vai trò quan trọng. Thực tiễn hoạt động cho thấy “Nơi nào có cán bộ
tốt, ở đó có phong trào quần chúng tốt”. Do đó phải thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ
không để tình trạng cán bộ thiếu năng lực, không làm được việc ở nơi này, nơi kia thì
chuyển về phụ trách công tác văn hóa, văn nghệ ở cơ sở.
156
Một cán bộ văn hóa, văn nghệ cơ sở chân chính phải thực sự là:
- Người thầy kiên nhẫn (Về năng lực, trình độ hiểu biết mọi mặt nói chung, văn
hóa, nghệ thuật nói riêng).
- Người bạn thủy chung (Về ý thức trách nhiệm, lòng say mê công việc).
- Người đầy tớ tận tụy (Về tinh thần công tác, đức hy sinh mình vì mọi người).
Đảm bảo những yếu tố như vậy, nhất định phong trào văn hóa văn nghệ cơ sở nói
chung và khu vực trung du, miền núi, vùng dân tộc nói riêng sẽ phát triển bền vững.
***************
Câu hỏi thảo luận
1.Văn hóa, văn nghệ quần chúng có vai trò, vị trí và chức năng gì?
2. Công tác văn hóa, văn nghệ quần chúng ở xã (phong trào, cán bộ) có những
mặt mạnh và hạn chế gì?
3. Quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng cần thực
hiện theo quy trình như thế nào?
157
KỸ NĂNG QUẢN LÝ, HƯỚNG DẪN, TỔ CHỨC PHONG TRÀO
THỂ DỤC THỂ THAO QUẦN CHÚNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC
TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
TS. LÊ ANH THƠ
Th.s. NGUYỄN QUANG HÙNG
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn,
tổ chức phong trào thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn trên địa bàn xã khu vực
trung du miền núi, vùng dân tộc.
- Biết vận dụng kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong
trào thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn xã.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn,
tổ chức phong trào thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn xã, đồng thời ứng dụng có
hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về Thể dục thể thao quần chúng
1.1. Quan điểm, mục tiêu, nội dung, hình thức của Thể dục thể thao quần chúng
Theo quy định của Luật Thể dục, thể thao, thể dục thể thao quần chúng là một bộ
phận quan trọng của thể dục thể thao cho mọi người; là hoạt động tập luyện, biểu diễn,
thi đấu các bài tập thể dục và các môn thể thao của tất cả mọi người trong cộng đồng
54 dân tộc anh em.
Đối tượng của thể thao là toàn dân, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, tôn giáo, chính trị, tình trạng sức khoẻ và nơi cư trú. Hễ là người Việt Nam (ở
trong nước hoặc ở nước ngoài) đều được Chính phủ bảo trợ cho hoạt động về thể dục
thể thao.
Mục tiêu của thể thao quần chúng là củng cố, nâng cao sức khoẻ, phát triển thể
chất, kéo dài tuổi thọ, chất lượng cuộc sống; đáp ứng nhu cầu vận động, vui chơi, giải
trí, giao lưu văn hoá của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, góp phần đào tạo nguồn
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với phương châm
“Dân cường thì quốc thịnh” và với khẩu hiệu “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với thể dục thể thao quần chúng là:
Xây dựng nền thể dục thể thao có tính dân tộc, khoa học, nhân dân; Phát triển mạnh
phong trào tập luyện thi đấu của mọi người dân trong cả nước đồng thời tích cực hội
nhập, giao lưu quốc tế theo tinh thần hiến chương Olympic; bảo tồn và phát huy bản
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
158
sắc thể thao dân tộc Việt Nam đồng thời tiếp thu tinh hoa thể thao của các dân tộc khác
trên thế giới.
Chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với thể thao quần chúng bao gồm: Tăng
dần đầu tư ngân sách nhà nước cho các hoạt động, ưu tiên cho cơ sở vùng sâu, vùng
xa, người nghèo, gia đình chính sách, xã hội; đào tạo cộng tác viên thể dục thể thao;
khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư dành quỹ đất, xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho thể dục thể thao; Kết hợp quản lý nhà nước và quản lý xã hội về thể dục
thể thao.
Cấu trúc của thể dục thể thao quần chúng bao gồm: Thể dục thể thao thực dụng,
nghề nghiệp cho người lao động; thể dục thể thao cho các đối tượng đặc biệt; thể dục
phòng chữa bệnh; thể thao dân tộc; thể thao giải trí; thể thao quốc phòng. Thể dục thể
thao thực dụng nghề nghiệp bao gồm những bài tập đối với người lao động trong khối
hành chính sự nghiệp và khối sản xuất kinh doanh. Thể dục thể thao cho các đối tượng
đặc biệt bao gồm những bài tập đối với người cao tuổi, người khuyết tập và những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt.
Nội dung hoạt động thể dục thể thao quần chúng tại địa phương bao gồm: hoạt
động rèn luyện thân thể, luyện tập, thi đấu thể thao của các đối tượng nhân dân trong
mỗi gia đình, trên các địa bàn, trong từng cơ quan đơn vị; hoạt động vui chơi giải trí
bằng các trò chơi vận động dân gian, thể thao dân tộc trong các lễ hội, tại các điểm sinh
hoạt văn hoá dân, các điểm, tuyến du lịch; các bài tập thể dục phòng bệnh, chữa bệnh
trong các cơ sở y tế, điều dưỡng; các hoạt động thể thao quốc phòng trong nhân dân.
Hình thức tổ chức hoạt động thể dục thể thao quần chúng tại địa phương bao gồm:
tập luyện tự giác của cá nhân tại gia đình, nơi sinh sống, nơi làm việc; luỵện tập có tổ
chức của quần chúng trong các câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở, các điểm vui chơi giải
trí, các liên đoàn, hội thể thao quần chúng; tổ chức các giải thể thao, ngày hội văn hoá
thể thao, đại hội thể dục thể thao; tổ chức các đội tuyển thể thao của đơn vị, địa phương
để tham gia thi đấu giải thể thao quần chúng do cấp xã, huyện, tỉnh tổ chức.
Biện pháp tổ chức các hoạt động thể dục thể thao quần chúng tại địa phương bao
gồm: Tuyên truyền, phổ biến lợi ích, tác dụng của thể dục thể thao; vận động toàn dân
rèn luyện thân thể, nâng cao sức khoẻ; xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, tổ dân
phố văn hoá; hướng dẫn người tạp tại các cơ sở thể thao công lập và ngoài công lập;
thành lập các câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở, hội thể dục thể thao quần chúng tại
làng, bản, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, trường học; khuyến khích các hoạt động phối
hợp, liên kết giữa văn hoá thể thao, du lịch và gia đình theo chủ trương xã hội hoá.
Từ năm 2000, được Đảng và Chính phủ chấp thuận, ngành thể dục thể thao đã
phát động trong cả nước phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
đại” nhằm vận động toàn thể nhân dân ở khắp mọi miền đất nước tự chọn môn thể thao
yêu thích hoặc một hình thức rèn luyện phù hợp để tập luyện nâng cao sức khoẻ, sảng
khoái tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống và hiệu quả công việc. Phong trào này
đã nhanh chóng lan rộng trong các đối tượng, thu hút hàng chục triệu người tham gia.
159
Hệ thống quản lý nhà nước về hể dục thể thao quần chúng ở Việt Nam hiện nay
gồm có: Ở Trung ương là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (Tổng cục thể dục thể thao
là cơ quan chuyên môn), Bộ Giáo dục và Đào tạo (Vụ Công tác học sinh, sinh viên),
Bộ Quốc phòng (Phòng thể dục thể thao Quân đội); Bộ Công an (Phòng thể dục thể
thao Công an nhân dân). Ở địa phương là Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch (cấp tỉnh),
Phòng Văn hoá và Thông tin (cấp huyện), Ban Văn hoá xã hội (cấp xã). Đó là các cơ
quan tham mưu quản lý nhà nước về thể dục thể thao cho mọi người; đồng thời với các
cơ quan tham mưu là các đơn vị sự nghiệp cùng cấp, thực thi nhiệm vụ quản lý nhà
nước về thể dục thể thao.
Hệ thống quản lý xã hội về thể dục thể thao cho mọi người ở Việt Nam hiện nay
gồm có: Ở Trung ương là Uỷ ban Olympic Quốc gia (Tiểu ban Thể thao cho mọi
người là bộ phận tư vấn); Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam, Liên đoàn
Vovinam Việt Nam, Hiệp hội ParaLympic Việt Nam, Hội Thể thao Đại học và chuyên
nghiệp Việt Nam, Hội Thể thao học sinh phổ thông Việt Nam, Hội Thể thao giải trí và
thể thao điện tử Việt Nam. Hội đồng thể dục thể thao hoặc Ban phong trào thuộc
Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội cựu
chiến binh Việt Nam, Hội người cao tuổi Việt Nam…
Các tổ chức xã hội về thể dục thể thao cho mọi người ở địa phương gồm có: Liên
đoàn, Hội thể thao, Câu lạc bộ thể thao quần chúng cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; Hội
đồng thể dục thể thao câu lạc bộ thể thao trong cơ quan, đơn vị cơ sở thuộc ngành,
đoàn thể chính trị xã hội trong cả nước. Nhiệm vụ của các tổ chức này là tuyên truyền,
vận động và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao của các tổ chức và cá nhân thuộc
phạm vi quản lý của mình theo chủ trương xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá thể thao
của Đảng và Chính phủ Việt Nam.
1.2. Khái quát về thực trạng phong trào thể dục thể thao quần chúng những
năm qua.
Ngay từ năm 1946, sau ngày Bác Hồ hô hào đồng bào tập thể dục, một phong trào
“Khỏe vì nước” để kiến thiết quốc gia đã được Nha thanh niên và thể dục thuộc Bộ quốc
gia giáo dục phát động rầm rộ trong cả nước, thu hút hàng vạn người, nhất là thanh niên
tham gia tập thể dục, chạy, bóng đá, bóng bàn, xe đạp, đấm bốc, võ cổ truyền...
Trong xuốt 9 năm trường kỳ kháng chiến, tại chiến khu Việt bắc, bộ đội, cán bộ,
dân công, dân quân, du kích...đều có thói quen tập thể dục, chơi thể thao; tại vùng tự do
kháng chiến nhiều môn võ thuật, bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, xe đạp...được các võ
sư, hướng dẫn viên phổ biến, huấn luyện nên có rất nhiều người, thuộc mọi đối tượng
tham gia, phong trào phát triển mạnh, góp phần phục vụ cho kháng chiến thành công.
Trong giai đoạn 1954-1975, các phong trào “Thể dục vệ sinh” trong trường học;
“Chạy nối liền Bắc Nam”, “Luyện vai trăm cân, luyện chân ngàn dặm” trong thanh
thiếu niên; “Chạy, nhảy, bơi, bắn, võ” trong công nhân viên chức, dân quân tự vệ, lực
lượng vũ trang; “Rèn luyện thân thể theo tiêu chuẩn”, “Toàn xã biết bơi”, “Câu lạc
bộ sức khỏe ngoài trời”, “Xây dựng các điển hình tiên tiến về thể dục thể thao” trong
mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương được phát triển rất mạnh với các môn chạy, đi bộ, bơi
160
lội, thể dục sản xuất, thể dục quân sự, thể thao quốc phòng, thể thao dân tộc, bóng đá,
bóng chuyền, bóng bàn... Nhiều giải thể thao, ngày hội văn hóa thể thao được tổ chức
định kỳ trong mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương, công nông lâm trường, hợp tác xã, xí
nghiệp, nhà máy...cùng với phong trào “Thanh niên 3 sẵn sàng, Phụ nữ 3 đảm đang”
đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng XHCN ở miền Bắc và chi viện cho
miền Nam chống Mỹ cứu nước.
Sau chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, non sông về một mối, cả nước cùng
đi lên CNXH, nhất là từ khi Đảng ta chủ trương đường lối đổi mới thì công tác thể dục
thể thao nói chung và phong trào thể dục thể thao quần chúng nói riêng được phát
triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tạo được những thành tựu hết sức quan trọng trong
việc nâng cao sức khỏe, thể lực của toàn dân, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Phong trào “Xây dựng các điển hình tiên tiến về thể dục thể thao” nhanh chóng
lan rộng trong các tỉnh phía nam sau giải phóng và đến năm 1980 thì trở thành cuộc
vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" gắn với phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” diễn ra trong cả nước với mục tiêu:
Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi người chọn cho mình một môn thể thao
hoặc một hình thức rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống.
Năm 1994, Ban bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị 36/CT-TW; năm 2002 ban
hành Chỉ thị 17/CT-TW về công tác thể dục thể thao; năm 2006 Quốc hội thông qua
Luật thể dục, thể thao. Đó là những cơ sở về tư tưởng, chính trị, pháp lý hết sức quan
trọng thể hiện quan điểm của Đảng, đường lối, chính sách của nhà nước đối với công
tác thể dục thể thao. Trên cơ sở đó, năm 2005 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình phát triển thể dục thể thao ở xã phường thị trấn; năm 2010 phê duyệt Chiến lược
phát triển thể dục thể thao đến năm 2020; năm 2011 phê duyệt Đề án tổng thể phát
triển thể lực, tầm vóc người Việt nam đến năm 2030. Đây là những chương trình, đề
án hết sức thiết thực đối với ngành thể dục thể thao trong việc nâng cao chất lượng
phong trào thể dục thể thao quần chúng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
Dân cường thì Quốc thịnh.
Hiện trạng phong trào thể dục thể thao quần chúng những năm qua có thể khái
quát đánh giá như sau: "Phong trào thể dục thể thao quần chúng tiếp tục phát triển
sâu, rộng trên địa bàn cả nước, thể hiện ở sự tăng trưởng về số lượng người tập thể
dục thể thao thường xuyên"(*)
, sự phát triển đa dạng của các loại hình tập luyện, các
câu lạc bộ thể dục thể thao và chất lượng hoạt động thể dục thể thao ở từng đối
tượng. Cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" được
triển khai liên tục trong những năm qua, đã phát huy hiệu quả thực tiễn và là động lực
thúc đẩy phong trào thể dục thể thao ở cơ sở phát triển mạnh trong tất cả các đối
tượng, đặc biệt là trong công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, người cao tuổi, thanh
thiếu niên, nông dân. Các hình thức tập luyện thể dục thể thao đơn giản, không cần
đầu tư nhiều về sân bãi, trang thiết bị, như: Chạy, đi bộ, thể dục dưỡng sinh, cầu lông,
(*) -Năm 2002 là 13,6% và 6,5%; năm 2009 là 25,2% và 18,9%.
161
cờ tướng, võ thuật, bóng đá mini, bóng chuyền... phát triển mạnh ở hầu hết các địa
phương trong cả nước.
Từ năm 2005, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai chương trình phát triển thể dục
thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010, giao cho ngành thể dục thể thao cùng
các bộ, ngành ở Trung ương và Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện 4 nhiệm vụ đối với
thể dục thể thao cấp xã. Đến nay, về cơ bản các nhiệm vụ: Phát triển phong trào; xây
dựng cơ chế quản lý, điều hành; bồi dưỡng cán bộ, cộng tác viên; quy hoạch đất và
xây dựng cơ sở vật chất đã được các cấp uỷ Đảng và chính quyền chỉ đạo triển khai có
kết quả.
Mỗi năm trong cả nước tổ chức hàng chục ngàn giải và Hội thi thể thao quần
chúng ở cơ sở, điển hình là các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian, thể thao dân tộc
gắn với Lễ hội truyền thống ở mỗi làng quê; Hội thi thể thao gia đình, Hội thi thể thao
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giải thể thao trong Ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du
lịch các vùng miền, giải Văn nghệ - Thể thao người khuyết tật…
Các mô hình câu lạc bộ thể dục thể thao, câu lạc bộ Văn hoá - Thể thao, Hội
đồng thể dục thể thao, Trung tâm Văn hoá - Thể thao, Nhà Văn hoá - Thể thao, Cụm
Văn hoá - Thể thao, các điểm vui chơi của trẻ em được thành lập ở cấp thôn, cấp xóm
và trong các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn đã tạo thành một hệ thống các thiết chế
thể thao gắn với văn hoá hoạt động có hiệu quả, dưới sự chỉ đạo của cấp uỷ và sự điều
hành của chính quyền địa phương, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và đảm bảo
nguyên tắc của cải cách hành chính nhà nước. Hiện nay, cả nước có khoảng 35.000
câu lạc bộ thể dục thể thao các loại.
Cộng tác viên, hướng dẫn viên thể dục thể thao ở cơ sở được hình thành và được
tập huấn nghiệp vụ hàng năm. Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý, giao nhiệm vụ và vận
dụng chế độ chính sách hỗ trợ để họ thực hiện nhiệm vụ truyên truyền vận động và tổ
chức các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn.
Tuy vậy, thể dục thể thao quần chúng phát triển mạnh nhưng chưa đều. Phong
trào thể dục thể thao được duy trì khá nền nếp trong lực lượng vũ trang, người cao
tuổi và công chức, viên chức; song, do nhiều nguyên nhân khách quan, có dấu hiệu
giảm sút về chất lượng hoạt động trong thanh, thiếu niên học sinh và công nhân, người
lao động tại các khu công nghiệp, khu đô thị lớn. Điều kiện về sân bãi, trang thiết bị
phục vụ tập luyện thể dục thể thao của người dân tại khu vực nông thôn, miền núi, hải
đảo còn gặp nhiều khó khăn. Các công trình thể thao chủ yếu tập trung ở thành phố, thị
xã; điều kiện tập luyện và mức độ hưởng thụ các giá trị của thể dục thể thao ngày
càng có sự cách biệt giữa các vùng, miền và các đối tượng nhân dân. Do thiếu kinh
phí, thiếu cơ sở vật chất và chưa có chính sách rõ ràng về cán bộ nghiệp vụ, hướng dẫn
viên thể dục thể thao ở cấp xã, phường, thị trấn nên chất lượng hoạt động thể dục thể
thao ở cơ sở chưa cao.(theo báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Chỉ thị 17/CT-TW năm
2010 của Ban tuyên giáo TW và Bộ VH,TT&DL).
Những yếu kém tồn tại nói trên rất cần được nghiêm túc khắc phục, sửa chữa
trong những năm tới.
162
1.3. Một số dự báo định hướng phát triển thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở
những năm tới.
Theo dự báo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước, đến năm 2020
nước ta về cơ bản thành một nước công nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân sẽ được cải thiện rõ rệt, thời gian nhàn rỗi sẽ nhiều hơn, nhu cầu vận động,
vui chơi giải trí sẽ tăng cao. Sự gắn kết các hoạt động thể thao giải trí và du lịch, văn
hoá, lễ hội, văn hoá tâm linh sẽ càng phát triển mạnh. Do vậy các hoạt động thể dục
thể thao quần chúng sẽ phát triển mạnh nhất là các trò chơi dân gian, thể thao dân tộc,
thể thao giải trí.
Nhu cầu giao lưu văn hoá phát triển, thể thao và du lịch giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới ngày càng tăng mạnh khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, nhu
cầu đào tạo vệ sỹ cho các doanh nghiệp tăng lên rất mạnh. Do vậy sẽ thúc đẩy nhanh
các hoạt động thể thao quần chúng trong nước và quốc tế. Các hoạt động thể dục thể
thao nói chung và võ thuật nói riêng sẽ phát triển mạnh.
Nhu cầu làm đẹp của phụ nữ, nhu cầu có cơ thể cường tráng của thanh niên, nhu cầu
tự chăm sóc, theo dõi sức khoẻ của mỗi người dân tăng nhanh. Do vậy các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ, vẻ đẹp (kể cả dịch vụ tư vấn trên mạng Internet) sẽ phát triển mạnh.
Người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên sẽ chiếm khoảng 12,4 % dân số Việt Nam vào
năm 2020. Do vậy phát triển các dịch vụ thể dục thể thao đối với người cao tuổi là
một vấn đề xã hội, nhân văn rộng lớn và sâu sắc.
Người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay khoảng 5,3 triệu người, chiếm gần 6,3 %
dân số. Do vậy nhu cầu chăm sóc, phục hồi sức khoẻ bằng thể dục thể thao sẽ lớn, đòi
hỏi phải có nhiều hoạt động thể dục thể thao phù hợp cho họ rèn luyện.
Xu thế xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá trong các tổ chức và hoạt động của thể
dục thể thao cho mọi người ngày càng được khẳng định. Do vậy các loại hình tổ chức
thể dục thể thao ở cơ sở như Câu lạc bộ thể dục thể thao, Hội thể thao, Liên đoàn thể
thao, Cơ sở thể thao tư nhân ngoài công lập sẽ phát triển rất mạnh.
2. Những loại hình cơ bản của Thể dục thể thao quần chúng
2.1. Hệ thống thi đấu của Thể thao quần chúng.
Hàng năm các giải, hội thi thể thao quần chúng thường được tổ chức từ cơ sở cấp
xã, huyện, tỉnh đến toàn quốc như sau:
- Các hoạt động thể thao gắn liền với kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và
các lễ hội truyền thống của mỗi địa phương hàng năm, bao gồm: Các giải thể thao
Mừng Đảng mừng xuân (3/2), ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày thể thao Việt Nam
27/3, ngày Chiến thắng 30/4, ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày Sinh nhật Bác 19/5,
ngày chạy Olympic 23/6, ngày Gia đình Việt nam 28/6, ngày thương binh liệt sỹ 27/7,
Kỷ niệm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9, ngày thành lập Quân đội nhân dân
và Quốc phòng toàn dân 22/12, tháng thể thao vì Người cao tuổi và Nông dân Việt
nam (từ 1 đến 31/10 )…
163
- Theo chu kỳ hàng năm gồm có: Giải Bóng đá thanh thiếu niên, Cầu lông phụ
nữ, Cầu lông trung cao tuổi, Bơi lội người cao tuổi, Bơi lặn phòng chống tai nạn
thương tích cho trẻ em, Hội thao công nhân viên chức, Tennis doanh nhân, Bóng bàn
người giáo viên nhân dân, Bóng bàn người cao tuổi, Hội thao người cao tuổi về thể
dục dưỡng sinh, Hội thao thanh niên, Bóng đá, Bóng chuyền nông dân...
- Theo chu kỳ 2 năm gồm có: Hội thi gia đình thể thao, Hội thi thể thao vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, Hội thi thể thao đồng bào Chăm, Ngày hội Văn hoá Thể
thao du lịch các dân tộc Đông Bắc, Tây Bắc, Tây nguyên, Đồng bào Khơ Mer Nam
Bộ; Hội thi Văn nghệ - Thể thao người khuyết tật.
- Theo chu kỳ 4 năm gồm có: Đại hội thể dục thể thao cấp xã, cấp huyện, cấp
tỉnh và toàn quốc; Hội khoẻ Phù đổng, Đại hội Thể thao sinh viên; Hội thi Văn hoá
Thể thao các trường phổ thông dân tộc nội trú; Hội thi nghiệp vụ sư phạm - thể dục thể
thao các trường sư phạm; Đại hội khoẻ vì an ninh tổ quốc; Đại hội thể dục thể thao
Quốc phòng.
- Các giải vô địch và giải trẻ các môn thể thao dân tộc dành cho vận động viên
được tổ chức hàng năm có: Võ cổ truyền, Vovinam, Vật dân tộc, Đá cầu, Kéo co, Đua
ghe ngo, Bắn nỏ, Đẩy gậy, Đua thuyền truyền thống.
- Các giải thể thao giải trí và thể thao điện tử được tổ chức hàng năm có: Leo núi
chinh phục đỉnh Phanxiphăng, (Lào Cai), chinh phục núi Bàrá (Bình Phước), Lướt ván
và lặn biển (Bình Thuận, Nha Trang), Lắc thúng (Bình Định, Phú Yên), đua môtô, xe
đạp trên cát (Ninh Thuận); Thể thao điện tử E.Sport và X.Game (Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh), Đua ngựa (Bắc Hà Lào cai, TP Hồ Chí Minh), Câu cá (ở hầu hết các khu du
lịch sinh thái trong cả nước)......
2.2. Nhiệm vụ phát triển thể dục thể thao quần chúng.
Theo Quyết định 2198/QĐ-TTg ngày 3.12.2010 của Thủ tướng chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt nam đến 2020, trong đó nhiệm vụ
phát triển thể dục thể thao quần chúng được quy định theo những nội dung sau đây:
1. Tiếp tục thực hiện “Cuộc vận động toàn dân rèn luyện thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại” gắn với triển khai phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng, bản, tổ
dân phố, khu dân cư, cơ quan, đơn vị ở các địa phương, các ban, ngành và đoàn thể.
2. Tuyên truyền phổ biến hướng dẫn mọi đối tượng quần chúng tập luyện, tham
dự thi đấu thể dục, thể thao trong các câu lạc bộ từng môn hoặc nhiều môn thể thao
được thành lập, hoạt động ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, xã,
phường và thị trấn.
3. Củng cố và tăng cường hệ thống thiết chế về quản lý các mô hình thể dục, thể
thao quần chúng: Câu lạc bộ thể dục, thể thao, mô hình điểm về phát triển thể dục, thể
thao quần chúng đối với những vùng có mức độ phát triển kinh tế - xã hội đặc trưng.
- Ban hành thiết chế văn hóa - thể thao đối với từng cụm, điểm dân cư gắn kết với
quy hoạch sử dụng đất, xây dựng đô thị - nông thôn mới;
164
- Ban hành và hướng dẫn thực hiện quy chế về tổ chức thi đấu, lễ hội thể thao,
công tác phong danh hiệu, thể thao dân tộc và thể thao giải trí; xây dựng và ban hành
hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu về phát triển thể dục, thể thao quần chúng;
- Thành lập, hướng dẫn và hỗ trợ hoạt động đối với các Hội đồng thể dục, thể
thao, Câu lạc bộ thể dục, thể thao ở cấp xã;
- Duy trì và hoàn thiện hệ thống thi đấu thể thao cho mọi người chu kỳ hàng năm,
hai năm hoặc bốn năm…;
- Ban hành chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển thể dục, thể thao đối với các
đối tượng xã hội đặc biệt, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật.
4. Tiếp tục hỗ trợ đầu tư và ban hành các chính sách khuyến khích huy động các
nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển thể dục, thể thao quần chúng. Khuyến khích phát
triển thể thao giải trí, kinh doanh dịch vụ thể thao gắn với hoạt động văn hóa, du lịch.
5. Ban hành các quy chuẩn về quy hoạch đất đai cho thể dục, thể thao; tăng
cường đầu tư xây dựng các sân chơi bãi tập, công trình thể thao trong quần thể Trung
tâm văn hóa- thể thao cấp xã, cụm thôn -bản, thôn, bản.
6. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, hướng dẫn viên thể dục, thể
thao quần chúng; chú trọng tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cộng tác
viên thể dục, thể thao cấp xã và thôn, làng, bản.
7. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cấp ủy, chính quyền cơ sở và các cán bộ ngành thể dục, thể thao về vai
trò của hoạt động thể dục, thể thao, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
8. Xây dựng mô hình điểm về cơ sở vật chất và tổ chức hoạt động thể dục, thể
thao tại các thôn, bản và xã; ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển thể dục, thể
thao ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
9. Đưa công tác sưu tầm, thống kê phân loại các trò chơi vận động dân gian trong
các lễ hội truyền thống hàng năm của các dân tộc thiểu số thành một nội dung của nhiệm
vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt Nam;
lựa chọn một số trò chơi vận động dân gian để đề xuất đưa vào thi đấu trong hệ thống thi
giải thao quốc gia; chú trọng bảo tồn và phát triển các môn võ cổ truyền dân tộc.
10. Ban hành và hướng dẫn thực hiện quy chế hoạt động của các câu lạc bộ thể
dục, thể thao người khuyết tật; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ huấn luyện viên, hướng dẫn
viên, cộng tác viên thể dục, thể thao người khuyết tật. Ban hành bổ sung các điều kiện
đáp ứng nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao của người khuyết tật trong quy chuẩn xây
dựng cơ sở tập luyện, sân bãi thể thao; thí điểm xây dựng ở một số tỉnh, thành phố các
Trung tâm huấn luyện thể thao cho người khuyết tật.
2.3. Một số giải pháp cơ bản để phát triển thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nội dung công tác thể dục thể thao quần chúng ở cơ sở
đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, phù hợp với xu thế và định hướng phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, các bộ ngành ở Trung ương và Ủy
165
ban nhân dân các địa phương cần tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ các nhóm giải
pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý các của cấp uỷ đảng và chính quyền để
thực hiện nhiệm vụ đưa thể dục thể thao về cơ sở:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thể
dục thể thao, tiếp tục tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh trong lĩnh vực thể dục thể thao; đưa nhiệm vụ phát triển thể dục thể
thao vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của mỗi xã, phường, thị trấn.
- Tổ chức quán triệt và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
về công tác thể dục thể thao, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác thể dục thể
thao, Luật thể dục thể thao và các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, của Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các bộ, ngành có liên quan.
- Các tổ chức Đảng và chính quyền ở cơ sở thường xuyên tổng kết. đánh giá về
công tác chỉ đạo phát triển phong trào thể dục thể thao, động viên và khen thưởng kịp
thời những cá nhân, đơn vị xuất sắc. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên gương
mẫu tham gia tập luyện và tổ chức, vận động quần chúng tham gia các hoạt động thể dục
thể thao ở cơ sở.
- Tổng kết chỉ thị 17/CT-TW năm 2002 của Ban bí thư, kiến nghị Trung ương
ban hành Nghị quyết chuyên đề về thể dục thể thao với các mục tiêu: đưa thể dục thể
thao về cơ sở; vận động toàn dân rèn luyện thân thể hàng ngày, vận động toàn xã hội
cùng chăm lo cho sự nghiệp thể dục thể thao với các phương châm: “Dân cường thì
quốc thịnh”; “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”; “Thể thao vì lối sống lành mạnh,
đẩy lùi ma tuý”.
- Tiếp tục cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ
đại” lồng ghép với các hoạt động văn hoá ở cơ sở, trong phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hoá. Xây dựng các chuẩn mới của thể thao cho mọi người ở cơ
sở theo khuyến cáo của tổ chức Thể thao cho mọi người thế giới (TAFISA) là: mỗi
người hãy vận động thể lực tối thiểu 30 phút mỗi ngày; phấn đấu đạt tiêu chuẩn thể
chất người Việt Nam theo quy định về lứa tuổi (từ 6 đến 60 tuổi đối với nam giới và từ
6 đến 55 tuổi đối với nữ giới).
Hai là, định hướng các hình thức và nội dung hoạt động chủ yếu của các đối
tượng quần chúng nhân dân trên các địa bàn
- Các tỉnh miền núi: khai thác, phát triển các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân
gian; gắn hoạt động thể dục thể thao với các lễ hội của địa phương; tổ chức tốt “Ngày
hội Văn hoá - Thể thao các dân tộc” cấp tỉnh và cấp vùng; “Hội thi Thể thao các dân tộc
thiểu số miền núi” từ làng, bản, buôn, sóc đến tỉnh và toàn quốc.
- Khu vực các tỉnh đồng bằng Bắc bộ: Phát triển các môn bóng đá, bóng chuyền, vật
dân tộc, võ thuật, đua thuyền, bơi... các trò chơi dân gian gắn với lễ hội truyền thống của
mỗi địa phương hàng năm. Tổ chức “Ngày Hội Văn hoá - Thể thao các tỉnh Đồng bằng
Sông Hồng”.
166
- Khu vực các tỉnh ven biển, miền Trung và Tây nguyên: ngoài những môn thể
thao nhân dân ưa thích, tập trung phát triển môn bơi lặn, điền kinh, đua thuyền, các trò
chơi dân gian gắn với sông nước và tổ chức tốt “Ngày hội Văn hóa - Thể thao dân tộc
Chăm” và “Ngày hội Văn hoá - Thể thao các dân tộc Tây Nguyên”.
- Khu vực miền Đông và miền Tây Nam bộ: ngoài bóng đá, bóng chuyền, võ
thuật, phổ cập bơi lội cần đẩy mạnh các môn truyền thống như đua thuyền truyền
thống, đua ghe ngo, các trò chơi dân gian trong các ngày lễ của đồng bào dân tộc, đưa
các hoạt động Văn hóa - Thể thao vào chùa Khơ Mer và tổ chức “Ngày hội Văn hóa -
Thể thao dân tộc Khơ Mer Nam bộ” .
- Khu vực thành phố, thị xã: tiếp tục đẩy mạnh và duy trì việc tập thể dục dưỡng
sinh, đi bộ và bơi lội cho các đối tượng; phát triển phong trào tập các môn thể thao
hiện đại: Cầu lông, bóng bàn, quần vợt, bóng đá, bóng chuyền, võ thuật, thể hình, thể
dục thẩm mỹ, thể thao giải trí….
- Đối tượng thanh, thiếu niên học sinh, sinh viên: Tập trung phát triển các nội dung
thể thao học đường, các môn võ thuật, đá cầu, nhảy dây, bóng đá, cầu lông, thể hình, thể
dục thẩm mỹ, thể dục nhịp điệu, thể thao giải trí trong chương trình giáo dục thể chất bắt
buộc và các hoạt động ngoại khoá ngoài giờ học.
- Đối tượng người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: tập
các môn như đi bộ, cầu lông, các hình thức tập dưỡng sinh, thái cực quyền, thái cực
trường sinh và các môn thể thao quần chúng phù hợp.
- Xây dựng một hệ thống thi đấu thể thao quần chúng ở cơ sở thống nhất trong cả
nước, định hướng vào những giải thể dục thể thao hàng năm gắn liền với việc kỷ niệm
những ngày lễ lớn của đất nước và các lễ hội truyền thống của mỗi địa phương với Hội
khỏe măng non, Hội thi thể thao gia đình, Hội khoẻ Phù Đổng trong trường học, Hội
khoẻ thanh niên và Đại hội thể dục thể thao cấp xã. Các hoạt động nói trên được định
kỳ tổ chức hàng năm, 2 năm và 4 năm.
Ba là, tích cực chủ động phối hợp liên ngành để chỉ đạo phát triển phong trào và
đẩy mạnh xã hội hóa thể dục thể thao ở cơ sở
- Phối hợp chỉ đạo liên ngành giữa Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch với các Bộ,
ngành, đoàn thể chính trị xã hội và các doanh nghiệp để phát triển thể dục thể thao
trong từng đối tượng, trên từng địa bàn theo Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc
người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030 (Quyết định 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 của
Thủ Tướng Chính phủ) và theo Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 (Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ
Tướng Chính phủ).
- Lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá (quyết định
125/2007/QĐ-TTg ngày 31/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ) với chương trình phát
triển thể dục thể thao ở xã phường thị trấn (Quyết định 100/2005/QĐ-TTg ngày
10/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ) trong đó đặc biệt lưu ý các xã miền núi; vùng
sâu, vùng xa trong 61 huyện nghèo nhất cả nước.
167
- Phối hợp Trung ương đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và
Đào tạo tiếp tục triển khai chương trình “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích
cực” giai đoạn 2008 - 2013 (Kế hoạch liên ngành số 7575/KHLN/BGDĐT-BVHTTDL-
TƯĐTN ngày 19/8/2008) ; đưa võ dân tộc và trò chơi dân gian vào trường mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở tại mỗi xã, phường, thị trấn.
- Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa cộng tác viên Thể thao với Giáo viên thể dục
trường phổ thông, cô nuôi dạy trẻ, giáo viên mầm non và cán bộ đoàn cấp xã để xây
dựng phong trào thể dục thể thao ở cơ sở và phát hiện năng khiếu thể thao.
- Tăng cường vận động thành lập, hướng dẫn hoạt động đối với các Hội thể thao quần
chúng, các Liên đoàn, Hiệp hội thể thao từ Trung ương đến địa phương, tạo sức mạnh xã
hội hoá các hoạt động thể dục thể thao trong cả nước. Phấn đấu đến 2015 các môn Thể thao
đều có 100% Liên đoàn cấp quốc gia và 80% các môn có Liên đoàn cấp Tỉnh.
- Nghiên cứu xây dựng ban hành các thông tư hướng dẫn việc quản lý các loại
hình cơ sở thể thao, điểm tập luyện vui chơi của trẻ em và Câu lạc bộ thể dục thể thao
quần chúng, coi đó là những thiết chế cơ bản của thể dục thể thao cơ sở.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở; nâng cao
chất lượng việc xét, công nhận, tôn vinh các danh hiệu thi đua khen thưởng trong thể
dục thể thao một cách thực chất, tránh bệnh thành tích; từng bước mở rộng giao lưu
các hoạt động thể thao cho mọi người, thể thao giải trí với các nước trong khu vực và
thế giới.
- Tiếp tục nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hoá Thể thao
ở cơ sở. Nhất là chính sách về đất đai, về thuế đối với các cơ sở thể thao (công lập và
ngoài công lập) nhằm phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bằng vận động thể lực.
Phấn đấu đạt quy chuẩn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính, phong trào và cán
bộ thể dục thể thao trong Trung tâm Văn hoá - Thể thao cấp xã (Quyết định số
2448/QĐ-BVHTTDL ngày 7/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch).
3. Quy trình quản lý, hướng dẫn, tổ chức phong trào thể dục thể thao quần chúng
Theo quy định hiện hành, hàng năm phong trào thể dục thể thao quần chúng được đánh
giá bằng các chỉ tiêu cơ bản như sau:
+ Tỷ lệ % người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
+ Tỷ lệ % gia đình luyện tập thể dục thể thao.
+ Số giải thể thao, hội thi thể thao quần chúng được tổ chức.
+ Số câu lạc bộ thể thao, Hội thể thao quần chúng được thành lập.
+ Số cộng tác viên, hướng dẫn viên thể thao được tập huấn nghiệpvụ.
+ Số môn thể thao dân tộc, trò chơi dân gian được khôi phục.
+ Số người đạt tiêu chuẩn thể chất người Việt Nam theo quy định.
+ Số m2 đất được quy hoạch và số công trình thể thao được xây dựng.
168
Cũng theo quy định hiện hành,trách nhiệm thường xuyên của Công chức Văn hóa
- Xã hội cấp xã là: Tham mưu cho cấp ủy và chính quyền xây dựng kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra đánh giá và thống kê báo cáo các chỉ tiêu nói trên về thể dục thể
thao quần chúng ở cơ sở hàng năm. Công việc đó được thực hiện theo các quy trình cụ
thể như sau:
3.1. Quy trình kiểm tra, báo cáo tỷ lệ phần trăm người luyện tập thể dục thể thao
thường xuyên và gia đình luyện tập thể dục thể thao.
Người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên là người mỗi tuần ít nhất 3 lần,
mỗi lần ít nhất 30 phút trong thời gian liên tục 6 tháng trong 1 năm rèn luyện sức khoẻ
bằng những phương tiện, phương pháp của thể dục thể thao. Học sinh trong nhà
trường thực hiện đầy đủ chương trình GDTC theo quy định được coi là người tập
luyện thường xuyên.
Tỷ lệ % người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên là tổng số người tập
thường xuyên của một địa phương chia cho tổng dân số của địa phương đó, rồi nhân
với 100.
Gia đình luyện tập thể dục thể thao là gia đình có ít nhất 50% số thành viên đại
diện các thế hệ trong gia đình là người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên.
Tỷ lệ % gia đình luyện tập thể dục thể thao là số % gia đình luyện tập thể dục
thể thao của một địa phương chia cho tổng số hộ gia đình của địa phương đó, rồi nhân
với 100.
Trình tự thủ tục kiểm tra đánh giá và báo cáo thống kê số người luyện tập thể
dục thể thao thường xuyên và gia đình luyện tập thể dục thể thao như sau:
- Hàng năm công chức văn hoá xã hội hoặc cộng tác viên cấp xã phối hợp với các
trưởng thôn hoặc tổ trưởng tổ dân phố thông kê số người luyện tập thể dục thể thao
thường xuyên và số gia đình luyện tập thể dục thể thao từ các thôn hoặc tổ dân phố;
tính tỷ lệ bình quân toàn xã, báo cáo chủ tịch UBND cấp xã và trưởng phòng VHTT
cấp huyện.
- Trưởng phòng VHTT cấp huyện tổng hợp báo cáo của các xã trong huyện, tính
bình quân trong toàn huyện rồi báo cáo chủ tịch UBND cấp huyện và Giám đốc Sở
VHTTDL cấp tỉnh. Giám đốc sở VHTTDL cấp tỉnh tổng hợp báo cáo của các huyện
trong tỉnh, tính bình quân trong toàn tỉnh rồi báo cáo chủ tịch UBND cấp tỉnh và Bộ
trưởng Bộ VHTTDL để tổng hợp chung trong cả nước và báo cáo Chính phủ.
(Theo Thông tư 02/BVHTTDL ngày 17/3/2009 của Bộ VHTTDL hướng dẫn việc tổ
chức và đánh giá phong trào thể dục thể thao quần chúng tại địa phương)
3.2.Quy trình quản lý câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở
Câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở là 01 tổ chức xã hội về thể dục thể thao có chức
năng tuyên truyền vận động hướng dẫn người tập, tổ chức các giải thể thao, quản lý hội
viên, xây dựng cơ sở vật chất và triển khai các hoạt động dịch vụ phục vụ người tập.
Câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở được thành lập ở thôn, ấp, bản, cụm dân cư và
trong các cơ quan, đơn vị trường học, doanh nghiệp đóng trên mỗi địa bàn cấp xã.
169
Điều kiện thành lập 01 câu lạc bộ thể thao cơ sở bao gồm: Có cán bộ nhân viên về
thể thao; có cơ sở vật chất trang thiết bị phù hợp; có phương án hoạt động được phê duyệt.
Câu lạc bộ thể dục thể thao hoạt động theo phương thức tự quản, tự nguyện, tự
trang trải; chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp xã. Tổ chức của CLB thể dục thể
thao gồm Ban chủ nhiệm và các Hội viên. Ban chủ nhiệm do Hội viên bầu, hoạt động
theo nhiệm kỳ, do điều lệ CLB quy định.
Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn ra quyết định thành lập CLB thể dục thể
thao trực thuộc UBND sau khi thống nhất với cơ quan thể dục thể thao cấp huyện; Thủ
trưởng cơ quan, đợn vị, trường học ra quyết định thành lập câu lạc bộ thể dục thể thao
trong cơ quan, đơn vị sau đó thông báo với Chủ tịch UBND cấp xã để ra quyết định
công nhận. Cơ quan thể dục thể thao cấp huyện phối hợp UBND cấp xã chỉ đạo phát
triển CLB thể dục thể thao cơ sở, đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát các hoạt
động chuyên môn trong CLB.
Cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã theo dõi, hướng dẫn, làm các thủ tục thành
lập CLB thể dục thể thao cấp xã, đồng thời tham mưu cho cấp uỷ để quản lý hoạt động
của các CLB này trên địa bàn.
(Theo Quyết định số 1589/UB thể dục thể thao-QĐ ngày 19/9/2003 của UB thể
dục thể thao về tổ chức và hoạt động câu lạc bộ thể thao cơ sở)
3.3. Quy trình quản lý cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã.
Cộng tác viên thể dục thể thao là người có 1 trong 4 tiêu chuẩn chuyên môn sau đây :
+ Là huấn luyện viên, hướng dẫn viên thể thao hoặc vận động viên có đẳng cấp 2 trở lên.
+ Có bằng cấp về chuyên ngành thể dục thể thao từ bậc trung cấp trở lên.
+ Có giấy chứng nhận chuyên môn do Liên đoàn thể thao quốc gia hoặc quốc tế cấp.
+ Có giấy chứng nhận được đào tạo chuyên môn do Sở VH,TT và DL cấp tỉnh cấp
Đối với các xã vùng cao, biên giới, hải đảo chưa có người đủ tiêu chuẩn trên thì
những người làm công tác văn hóa xã hội, công tác đoàn thanh niên, là hạt nhân phong
trào thể dục thể thao đều được xét làm cộng tác viên.
Để có thể đạt được tiêu chuẩn thứ 4 nói trên, hàng năm Sở thể dục thể thao các địa
phương cần coi trọng việc mở các lớp tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho người có nhu
cau. Thời gian tập huấn mỗi lớp từ 5-7 ngày với nội dung kiến thức gồm cả lý thuyết và
thực hành nhằm hình thành kỹ năng vận động và tổ chức các giải Thể thao cho quần
chúng ở cơ sở.
Cộng tác viên Thể thao ở cơ sở có thể được cấp thẻ Cộng tác viên theo quy định
của Luật thể dục thể thao.Trưởng phòng văn hóa và thông tin cấp huyện cấp thẻ cộng
tác viên thể dục thể thao sau khi nhận đủ hồ sơ, bao gồm: Giấy đề nghị của UBND
cấp xã; Sơ yếu lý lịch; Giấy chứng nhận đủ sức khỏe; Bản sao giấy chứng nhận về
chuyên môn và ảnh của cộng tác viên.
Cộng tác viên thể dục thể thao có nhiệm vụ vận động, tổ chức, hướng dẫn quần
chúng nhân dân tập luyện, biểu diễn, thi đấu thể thao và tham gia các hoạt động phát
170
triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở. Hàng năm được dự các lớp tập huấn nghiệp
vụ do phòng Văn hoá và thông tin hoặc Sở Văn hoá- Thể thao và Du lịch tổ chức. Khi
họ thực hiện những nhiệm vụ này thì được UBND cấp xã trả thù lao theo những quy
định tại Thông tư liên tịch 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27/5/2010 của
Bộ Nội vụ, Tài chính, Lao động,Thương binh và Xã hội.
(Theo Thông tư 05/2007/TT-UB thể dục thể thao ngày 20/7/2007 của Ủy ban thể
dục thể thao hướng dẫn Nghị định 112/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thể dục thể thao)
3.4. Quy trình tổ chức thi đấu thể thao quần chúng.
Tổ chức thi đấu các môn thể thao cho các đối tượng quần chúng nhân dân ở cơ sở
là một hoạt động có sức thu hút mạnh mẽ và phản ánh rõ nét nhất nhu cầu cũng như chất
lượng phong trào thể dục thể thao. Đây là trách nhiệm thường xuyên của cán bộ công
chức văn hóa xã hội và cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã.
Quy trình tổ chức một Giải thi đấu thể thao thông thường bao gồm: Xây dựng
Điều lệ giải và tổ chức giải theo Điều lệ
Xây dựng Điều lệ một giải đấu phải thể hiện được các nội dung chính như sau:
+ Tên giải là gì? mục đích yêu cầu tổ chức giải này ra sao?
+ Đối tượng tham gia là những ai? tiêu chuẩn thế nào? số lượng bao nhiêu?
+ Thi đấu mấy nội dung? cá nhân hay đồng đội? phương thức thi đấu theo luật
nào? cách tính thành tích ra sao?...
+ Thời gian, địa điểm, kinh phí tổ chức thế nào?...
+ Các mức thưởng và hình thức khen cho cá nhân, tập thể đạt thành tích?
+ Những quy định về sử lý kỷ luật nếu vi phạm điều lệ?
+ Những quy định về trang thiết bị, dụng cụ, kinh phí, trang phục...?
Các bước tiến hành trong công tác tổ chức giải đấu bao gồm :
+ Thành lập Ban tổ chức giải, phân công trách nhiệm cho từng thành viên.
+ Ban hành Điều lệ và Kế hoạch tổ chức chi tiết.
+ Tuyên truyền, vận động tài trợ, chuẩn bị cơ sở vật chất, dụng cụ thi đấu, kinh
phí, an ninh, y tế, giải thưởng, lễ tân, hậu cần...
+ Họp chuyên môn xếp lịch thi đấu và tập huấn trọng tài.
+ Tổ chức thi đấu theo kế hoạch và Điều lệ; công bố kết quả và trao thưởng.
+ Nếu có lễ khai mạc thì phải theo trình tự: diễu hành hoặc tập trung các đoàn;
chào cờ; phát biểu khai mạc của trưởng ban tổ chức; tuyên thệ của đại diện trọng tài,
vận động viên; tặng cờ, hoa cho các đoàn. Nếu là Đại hội thể dục thể thao thì sau phần
nghi lễ sẽ là các hoạt động biểu diễn văn hóa văn nghệ thể dục thể thao chào mừng.
+ Nếu có lễ bế mạc thì sau phần đánh giá tổng kết sẽ là phần trao thưởng. Lễ bế
mạc phải thật ngắn gọn, tránh rườm rà.
171
Một số phương án tổ chức thi đấu:
Có ba phương án (còn gọi là thể thức thi đấu) thường được xử dung là: thi đấu
vòng tròn, thi đấu loại trực tiếp và thi đấu hỗn hợp.
+ Thi đấu vòng tròn là các đội, VĐV gặp nhau một lần, ai được nhiều điểm thì
thắng... Phương án này thường áp dụng khi số người, số VĐV tương đối đông, thời
gian thi đấu ngắn. Số trận thi đấu của phương án này được tính bằng cách lấy số đội
hoặc số VĐV nhân với số đội hoặc số VĐV trừ đi một , rồi chia cho hai. Thí dụ: Nếu
có 6 VĐV thì tổng số trận là 6 (6-1) : 2 = 15.
+ Thi đấu loại trực tiếp gồm hai loại: Trực tiếp một lần thua và trực tiếp hai lần thua.
Loại trực tiếp một lần thua được áp dụng trong trường hợp có nhiều đội hoặc
VĐV tham gia và thời gian thi đấu ngắn, mỗi đội hoặc VĐV gặp nhau một lượt, nếu
thua sẽ bị loại. Cách sắp xếp trận đấu như sau: Nếu số đội hoặc VĐV là số chẵn thì cứ
từng cặp một thi đấu loại trực tiếp cho đến người vô địch; nếu số đội hoặc VĐV là số
lẻ thì vòng một sẽ có một đội không phải thi đấu, các cặp khác đấu loại trực tiếp cho
đến khi có một đội vô địch.
Loại thi đấu trực tiếp hai lần thua được áp dụng trong trường hợp có ít đội hoặc
VĐV tham gia và thời gian thi đấu dài, mỗi đội hoặc VĐV gặp nhau lượt đầu, các đội
thua gặp nhau lượt thứ hai, đội hoặc VĐV thua sẽ bị loại, đội thắng sẽ đấu tiếp cho đến
đội vô địch..
+ Thi đấu hỗn hợp: Là phương án kết hợp cả thi đấu vòng tròn và thi đấu loại trực
tiếp, áp dụng khi số đội hoặc số VĐV đông, thời gian thi đấu dài. Thông thường theo
phương án này thì tổ chức cho các đội bốc thăm vào các bảng, trong mối bảng sẽ thi
đấu vòng tròn một lượt để chon các đội nhất, nhì vào chung kết. Ở giai đoạn chung kết
các đội, VĐV sẽ thi đấu loại trực tiếp một lần thua để chọn ra đội, VĐV vô địch. Ưu
điểm của phương án này tiết kiệm được thời gian và đánh giá tương đối chính xác
trình độ VĐV. Tuy vậy khi chia bảng cần chọn các đội, VĐV “hạt giống” để chia đều
cho các bảng để tránh các đội, VĐV mạnh bị loại ngay vòng đầu.
Cách xếp hạng trong thi đấu một số môn thể thao
- Môn bóng đá: Trong từng trận thì đội thắng 3 điểm, đội hòa 1 điểm, đội thua 0
điểm. Xếp hạng chung cuộc thì đội cao điểm hơn xếp trên; nếu hai đội có tổng điểm
bằng nhau thì xét đến hiệu số bàn thắng -thua; nếu hiệu số bàn thắng-thua bằng nhau
thì xét đến kết quả trận gặp nhau trực tiếp. Nếu tất cả các chỉ số đều bằng nhau thì bốc
thăm để chọn đội xếp hạng cao hơn.
- Môn cầu lông: Trong giải đồng đội nếu thi đấu 3 trận thì đội nào thắng hai trận
là thắng; nếu thi đấu 5 trận thì đội thắng 3 trận là thắng. Trong giải cá nhân nếu thi đấu
3 hiệp, mỗi hiệp 21 điểm, VĐV thắng hai hiệp là thắng. Trong thi đấu vòng tròn một
trận thắng được 2 điểm, trận thua được 1 điểm, bỏ cuộc 0 điểm. Xếp hạng chung cuộc
thì đội cao điểm hơn xếp trên. Nếu số điểm bằng nhau thì xét đến các chỉ số hiệp thắng
hiệp thua, và điểm thắng điểm thua.
172
- Môn bóng chuyền: Trong từng trận đội nào thắng 3 hiệp là thắng, đội thắng
được 2 điểm, thua 1 điểm. Xếp hạng chung cuộc thì đội cao điểm hơn xếp trên. Nếu số
điểm bằng nhau thì xét đến các chỉ số hiệp thắng hiệp thua, và điểm thắng điểm thua.
- Môn bóng bàn: Giải đồng đội thi đấu 5 trận, đội thắng 3 là thắng; giải đôi thi
đấu 5 ván, ai thắng 3 là thắng; giải đơn thi đấu 7 ván ai thắng 4 là thắng. Một trận
thắng được 2 điểm, trận thua được 1 điểm, bỏ cuộc 0 điểm. Xếp hạng chung cuộc thì
đội cao điểm hơn xếp trên. Nếu hai đội, VĐV có số diểm bằng nhau thì xét kết quả
trận đấu trực tiếp; nếu ba đội, VĐV trở lên bằng điểm nhau thì tính đến ván đấu (cách
tính là lấy tổng số ván thắng chia cho tổng số ván thua của mỗi đội, đội nào có tỉ số
cao hơn sẽ xếp trên).
3.5. Quy trình kiểm tra công nhận người đạt tiêu chuẩn thể chất (RLTT)
Thể chất con người gồm thể hình và thể lực. Thể hình là các số đo về chiều cao, cân
nặng, các vòng… Thể lực là sức nhanh, mạnh, bền, khéo và mềm dẻo. Thể chất đồng
nghĩa với từ sức khỏe, được phát triển theo các quy luật tự nhiên, di truyền, lứa tuổi, giới
tính, đồng thời chịu sự tác động của các điều kiện sống, điều kiện làm việc, vệ sinh môi
trường, dinh dưỡng… Mục đích của giáo dục thể chất là phát triển và hoàn thiện thể chất
con người đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở Việt Nam từ những năm sáu mươi, Chính phủ đã có những quy định về kiểm
tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho các đối tượng học sinh và người lao động. Sau đó
hàng năm các Bộ, ngành ở trung ương và UBND các địa phương đều tổ chức việc
kiểm tra để đánh giá tình trạng sức khỏe, thể chất con người, làm cơ sở cho việc hoạch
định các chính sách phát triển thể chất người Việt Nam. Từ năm 2001, UB thể dục thể
thao đã triển khai tổng điều tra thể chất người Việt Nam và xây dựng các tiêu chuẩn
đánh giá thể chất người Việt Nam theo lứa tuổi (từ 6- 60) và giới tính (nam, nữ). Nội
dung các tiêu chuẩn kiểm tra đánh giá bao gồm: Chiều cao (cm); cân nặng (kg); dẻo
gập thân (cm); lực bóp tay thuận (kg); nằm ngửa gập bụng (tính số lần trong 30 giây);
bật xa tại chỗ (tính khoảng các - cm); chạy 30m xuất phát cao (tính thời gian - giây);
chạy thoi 4 x 10m (tính thời gian - giây); chạy tuỳ sức 5 phút (tính quãng đường - mét).
Tháng 4/2011 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 641/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án tổng thể phát triển thể chất người Việt Nam, với mục tiêu:
* Cải thiện tầm vóc thân thể của thanh niên Việt Nam đạt nhịp độ tăng trưởng ổn
định theo các tiêu chí sau:
- Đối với nam 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 167 cm; năm 2030 chiều
cao trung bình 168,5 cm.
- Đối với nữ 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 156 cm; năm 2030 chiều
cao trung bình 157,5 cm.
* Cải thiện thể lực, đặc biệt là sức bền và sức mạnh của đa số thanh niên có
bước phát triển rõ rệt, thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển ở châu Á theo
các tiêu chí sau:
173
- Đối với nam 18 tuổi: Chạy tùy sức 5 phút tính quãng đường trung bình đạt
1.050 m vào năm 2020; 1.150 m vào năm 2030; Lực bóp tay thuận đạt trung bình 45
kg năm 2020; 48 kg năm 2030.
- Đối với nữ 18 tuổi: Chạy tùy sức 5 phút tính quãng đường trung bình đạt 850 m
vào năm 2020; 1.000 m năm 2030; Lực bóp tay thuận đạt trung bình 30 kg năm 2020;
34 kg năm 2030.
3.6. Quy trình xây dựng công trình thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn
Theo Quyết định 100/2005/QĐ-TTg của Thủ tường Chính phủ thì đến năm 2010
mỗi địa phương cần quy hoạch đất để mối người đân có từ 2 - 3 m2 đất để xây dựng
các công trình thể thao. Các công trình thể thao phục vụ việc tập luyện và thi đấu của
nhân dân ở mỗi xã, phương, và thị trấn bao gồm:
- Vùng đô thị: Tối thiểu có một sân thể thao phổ thông; từ 1 đến 2 phòng tập đơn
giản, từ 4 đến 6 sân tập ngoài trời và một bể bơi hoặc hồ bơi đơn giản.
- Vùng núi và hải đảo: Tối thiểu có một sân thể thao, vui chơi giải trí và một
phòng tập đơn giản.
- Vùng đồng bằng Bắc Bộ, sông Cửu Long và Duyên hải miền Trung: Tối thiểu
có một sân thể thao phổ thông; 2 đến 4 sân tập từng môn, 1 phòng tập đơn giản, 1 hồ
bơi đơn giản.
Sân thể thao phổ thông là hệ thống sân ngoài trời, có thể tập luyện và thi đấu
được nhiều môn như bóng đá, bóng chuyền, điền kinh, cầu lông… Kích thước sân của
từng môn cụ thể như sau:
- Sân bóng đá: Có thể là sân đất hoặc sân cỏ, kích thước tối thiểu (90m x 45m),
tối đa (90m x 120m). Nếu là sân mi ni thì kích thước tối thiểu (38m x 18m), tối đa
(42m x 25m). Khung cầu môn có kích thước (7,32m x 2,44m).
- Sân bóng chuyền: Có thể là sân đất hoặc sân xi măng, kích thước (18m x 9m).
Cột lưới cao 2,55m; lưới rộng 1m, dài 10m.
- Sân cầu lông, đá cầu: Có thể là sân đất hoặc sân xi măng, kích thước sân đôi
(13,4m x 6,1m); sân đơn (13,4m x 5,18m); lưới rộng 1m, dài 10m. Cột lưới cao 1,55m.
- Sới vật: Có thể là sân đất hoặc sân xi măng có đệm, hình tròn đường kính 9m,
kích thước sân xung quanh (17m x 17m).
- Sân kéo co: Có thể là sân đất hoặc sân xi măng, kích thước (36m x 1,2m); dây
dài tối thiểu 33m. Có 5 điểm đánh dấu trên dây: Điểm giữa dây là giới hạn bắt đầu
kéo; từ điểm đó sang 2 bên, mỗi bên 4m là giới hạn phân định thắng - thua; từ 2 điểm
đó về 2 bên mỗi bên 1m là giới hạn nắm dây của VĐV 2 đội.
- Đường để chạy tùy sức 5 phút (đây là bài kiểm tra sức bền của người tập):
Chạy trên địa hình tự nhiên, chiều dài tối thiểu 50m, rộng tối thiểu 2m, hai đầu kẻ 2
đường giới hạn, phía ngoài 2 đường giới hạn có khoảng trống ít nhất 1m để chạy quay
vòng; trên đoạn dài 50m đánh dấu từng đoạn 10m để xác định phần lẻ sau khi chạy hết
thời gian.
174
Căn cứ vào các nội dung trình bày trong 6 quy trình nói trên, hàng năm Công chức
Văn hóa - Xã hội hoặc Cộng tác viên thể dục thể thao cấp xã có trách nhiệm tham mưu
đưa vào kế hoạch từng công việc cụ thể và phối hợp tổ chức thực hiện khi được phê
duyệt. Trong quá trình triển khai phải tuân thủ sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ
thể dục thể thao của Phòng Văn hóa và Thông tin cấp huyện.
Kết luận: Khu vực miền núi, trung du, vùng dân tộc là khu vực địa - văn hóa, địa
- kinh tế, địa - chính trị…có đặc điểm riêng, khác với khu vực đồng bằng, ven biển,
hải đảo. Đây là địa bàn sinh sống lâu đời của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Trong
quá trình sinh sống tại các khu vực địa lý khác nhau từ Bắc vào Nam, từ các khu vực
rẻo cao, rẻo giữa, cao nguyên hay thung lũng, chân núi, đồng bằng, ven biển, châu
thổ… đồng bào các dân tộc đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa vât thể, phi vật thể đặc
sắc mang đậm dấu ấn gắn với các điều kiện tự nhiên, vùng địa lý. Đó là những giá trị
văn hóa do các cộng đồng dân tộc sáng tạo trong quá trình sinh tồn và phát triển giàu
bản sắc riêng, tạo nên tính đa dạng trong tính thông nhất của văn hóa Việt Nam
Phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở vùng trung du, miền núi và vùng
cao, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn
mà trước hết là tiềm lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, trung du,
miền núi còn có vai trò đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước
như điều hoà khí hậu, điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Tuy điều kiện tự nhiên cũng như xã hội còn nhiều khó khăn nhưng trong những
năm qua phong trào thể dục, thể thao quần chúng khu vực trung du, miền núi vùng dân
tộc phát triển mạnh nhưng chưa đều, chất lượng chưa cao. Các vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo còn thiếu các phương tiện tập luyện và thiếu cán bộ hướng dẫn viên thể
dục, thể thao. Chưa chú trọng xây dựng và quản lý hệ thống các đơn vị cơ sở, các câu
lạc bộ thể dục, thể thao quần chúng ở cơ sở;
Các cơ sở giáo dục đào tạo còn thiếu sân bãi, phòng tập, dụng cụ phục vụ cho
nhu cầu tập luyện, thi đấu và vui chơi giải trí của học sinh, sinh viên; đội ngũ giáo viên
thể dục còn thiếu; chương trình chính khóa cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa
còn nghèo nàn, chưa hợp lý, không hấp dẫn học sinh tham gia các hoạt động thể dục,
thể thao ngoại khóa.
Nguyên nhân thì có nhiều điều quan trọng là xuất phát từ nhận thức của một bộ
phận cán bộ về vai trò của công tác phát triển thể dục, thể thao quần chúng ở xã,
phường, thị trấn chưa đúng và đủ. Việc tuyên truyền, hướng dẫn, vận động nhân dân
tham gia vào các hoạt động thể dục, thể thao còn mang tính hình thức, thiếu gắn bó với
thực tiễn đời sống và phong tục, tập quán của đồng bào địa phương. Chưa chú trọng
chỉ đạo và đầu tư cho thể dục, thể thao trường học. Do đó cán bộ văn hoá - xã hội xã
cần phải đặc biệt quan tâm và tập trung mấy nội dung như sau:
- Coi trọng và làm tốt công tác phong trào thể dục thể thao, đặc biệt và lưu ý phát
huy truyền thống thể dục thể thao mang bản sắc dân tộc thông qua việc sưu tầm nghiên
cứu, tổ chức các cuộc thi, hội thao, chú ý khôi phục và bảo tồn và nâng cao chất lượng
các môn thể thao truyền thống của các dân tộc trong địa bàn xã
175
- Tham mưu đẩy mạnh xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao của xã, tăng
cường tuyên truyền các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước thông qua hệ thống thiết chế này. Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân
trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động thể dục thể
thao trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống thể dục thể thao gắn liền với nếp sống,
phong tục tập quán trong bản, bon, buôn, sóc...
- Chú trọng xây dựng môi trường thể dục thể thao lành mạnh. Tuyên truyền cho
đồng bào các dân tộc biết về giá trị của sức khoẻ gắn liền phong trào thể dục thể thao
cùng với những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của mình, phát huy các
giá trị theo chuẩn mực và yêu cầu trong cuộc sống mới. Xây dựng và thực hiện quy
ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền thống tốt đẹp gắn với phong trào
thể dục thể thao....
****************
Câu hỏi và bài tập tình huống
1. Trình bày những hiểu biết của anh, chị về thể dục thể thao quần chúng khu vực
trung du, miền núi, vùng dân tộc? về nhiệm vụ và giải pháp cơ bản để phát triển thể
dục thể thao quần chúng ở cơ sở? liên hệ với thực tế nơi anh, chị sinh sống, làm việc
để làm rõ hơn những vấn đề đó của thể dục thể thao quần chúng?
2. Hãy xây dựng Điều lệ tổ chức giải Bóng đá Nông dân toàn xã nhân ngày
truyền thống Hội Nông dân Việt Nam 14 tháng 10.
3. Hãy xếp lịch thi đấu loại trực tiếp một lần thua cho 18 vận động viên và cho 19
vận động viên môn Bóng bàn trong Giải Bóng bàn toàn xã năm 2011.
Tài liệu tham khảo
1.Ban Bí Thư Trung ương Đảng: Chỉ thị 36/CTTW ngày 24/3/1994 và Chỉ thị
17/CTTW ngày 23/10/2002 .
2. Luật Thể dục, Thể thao, Nhà xuất bản Thể dục thể thao, Năm 2007.
3. Thủ Tướng Chính phủ: Quyết định 2198/QĐ-TTg ngày 3/12/2010 của Thủ Tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển thể dục thể thao Việt Nam đến 2020.
4. Thủ Tướng Chính phủ: Quyết định 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 của Thủ
Tướng Chính phủ phê duyệt đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam
giai đoạn 2011- 2030.
5. 60 năm thể dục thể thao cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
Nhà xuất bản Thể dục thể thao, Năm 2006.
176
KỸ NĂNG QUẢN LÝ, HƯỚNG DẪN KHAI THÁC GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN
VĂN HÓA PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC
TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
PGS, TS. TRƯƠNG QUỐC BÌNH
Th.s. NGUYỄN THANH THỦY
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về di sản văn hóa nói chung và
trên địa bàn xã.
- Nâng cao kiến thức quản lý và kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn của công chức
văn hóa-xã hội xã trong việc khai thác giá trị di sản văn hóa phục vụ hoạt động du lịch
trên địa bàn xã.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được những kiến thức cơ bản và biết vận dụng trong hoạt
động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về Di sản văn hóa và hoạt động du lịch
1.1. Những khái niệm cơ bản về di sản văn hóa, tổng quan về kho tàng di sản
văn hóa Việt Nam
Di sản văn hoá: Bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là
sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Điều 1. Luật
Di sản Văn hóa)
Di sản văn hoá phi vật thể: Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá,
khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, và được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng
dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về
y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực,về trang phục truyền thống dân tộc và
những tri thức dân gian khác.
Di sản văn hoá vật thể: Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá và khoa học
bao gồm di tích lịch sử- văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di tích lịch sử - văn hoá: Là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
Danh lam thắng cảnh: Là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa
cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
177
Khái quát về nội dung, giá trị của kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam:
- Các di sản văn hóa phi vật thể
- Các di tích lịch sử- văn hóa và danh lam thắng cảnh
- Hệ thống các bảo tàng ở Việt Nam
1.2.Những khái niệm cơ bản về hoạt động du lịch
a)Du lịch
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Hoạt động du lịch góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan như sản xuất và
tiêu thụ đồ ăn uống, sản phẩm lưu niệm, trình diễn nghề thủ công, vận chuyển khách
du lịch…).
b)Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể
được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu
du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
c) Du lịch văn hóa
Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh,
du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục...du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc
thù của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thu hút nhiều khách du lịch
quốc tế.
Văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được gọi là điểm tựa, là
nền tảng cho sự phát triển du lịch. Văn hóa du lịch đang trở thành xu thế chủ đạo trong
chiến lược trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới. Trong nghị quyết đại
hội Đảng lần thứ VIII đó nêu ra: “Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to
lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa sinh thái, môi trường xây dựng các chương
trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.
Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền
thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du
lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu,
khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu của họ. Hầu hết các hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa
bàn cấp xã - nơi tồn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống như di tích lịch sử, tập
quán, luật tục, lễ hội… Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là
tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.
178
2. Các văn bản về quản lý, hướng dẫn khai thác giá trị các di sản văn hóa
phục vụ hoạt động du lịch
2.1. Các văn bản pháp luật về Di sản văn hoá
Những nội dung cơ bản của Luật Di sản văn hoá, Luật bổ sung một số điều của
Luật Di sản văn hóa và Nghị định huớng dẫn thi hành Luật có liên quan đến các hoạt
động du lịch, một trong những hình thức cơ bản nhất của công tác phát huy giá trị các
di sản văn hóa:
Nhìn chung, so với tất cả các văn bản luật pháp ban hành trước đây ở Việt Nam,
nội dung của Luật Di sản văn hoá, Luật bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá
và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đã có những thay đổi cơ bản trên cơ sở những
nhu cầu xã hội và thực tiễn hoạt động của sự nghiệp bảo vệ và phát huy các di sản văn
hoá ở nước ta, đó là:
a) Về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật
- Đưa Di sản văn hoá phi vật thể- bộ phận hữu cơ của kho tàng di sản văn hoá
thanh đối tượng điều chỉnh của Luật Di sản văn hoá.
- Đưa di sản thiên nhiên- bộ phận hữu cơ của kho tàng di sản nhân loại thành đối
tượng điều chỉnh của Luật Di sản văn hoá:
b) Về quyền sở hữu đối với di sản văn hoá, Luật Di sản văn hoá đã xác định về
sở hữu đối với di sản văn hoá ở Việt Nam cụ thể như sau:
“Nhà nước thống nhất quản lý di sản văn hoá thuộc sở hữu Nhà nước; công nhận
và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân
và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hoá theo quy định của pháp luật.
c) Xác định những chế tài nhằm ngăn chặn tình trạng xâm hại di tích, những hành
vi đào bới trái phép các di tích khảo cổ đã được xếp hạng để tìm kiếm và chiếm đoạt
trái phép cổ vật, ngăn chặn những hành vi lấn chiếm đất đai thuộc di tích đã và đang
diễn ra ở mức báo động hiện nay.
d) Bên cạnh những quy định cụ thể nhằm đề cao trách nhiệm của nhà nước,
quyền và nghĩa vụ của công dân được xác định theo huớng tôn trọng sở hữu tư nhân,
tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân tham gia vào sự nghiệp bảo vệ, phát huy giá
trị các di sản văn hoá.
e) Luật Di sản văn hoá có một mục đề cập cụ thể về vấn nguồn lực cho các hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hoá; trong đó, quy định thống nhất việc
sử dụng các nguồn thu và trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp ngân sách cho
các hoạt động này.
g) Xác định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về di sản văn hoá nói chung,
trong đó có những nội dung:
Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hoá;
179
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá (Điều 54).
2.2. Luật Du Lịch
Luật Du lịch được Nghị quyết của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, số 44/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 thông qua gồm 11 chương, 88
điều: Chương I Những quy định chung; Chương II Tài nguyên du lịch; Chương III
Quy hoạch phát triển du lịch; Chương IV: Khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và
đô thị du lịch; Chương V: Khách du lịch; Chương VI: Kinh doanh du lịch; Chương
VII: Hướng dẫn du lịch; Chương VIII: Xúc tiến du lịch; Chương IX: Hợp tác quốc tế
về du lịch; Chương X: Thanh tra du lịch, giải quyết yêu cầu, kiến nghị của khách du
lịch; Chương XI: Điều khoản thi hành.
Nhìn chung, Luật Du lịch đề cập khá toàn diện về các hoạt động du lịch, thậm
chí khá chi tiết về các hoạt động nghiệp vụ.
Chúng tôi cho rằng, khi nghiên cứu vận dụng vào công tác quản lý, tổ chức các
hoạt động khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa phục vụ du lịch ở địa bàn cấp
xã, chỉ cần lưu ý một số điểm cơ bản sau đây:
a) Định nghĩa về du l ịch
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. (Theo khoản 1, Điều 4, Luật Du lịch)
b) Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể
được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu
du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
c) Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách
du lịch trong chuyến đi du lịch.
d) Dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách du lịch.
e) Kinh doanh dịch vụ du lịch: Kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch,
điểm du lịch, đô thị du lịch bao gồm kinh doanh lữ hành, lưu trú du lịch, vận chuyển
khách du lịch, ăn uống, mua sắm, thể thao, giải trí, thông tin và các dịch vụ khác phục
vụ khách du lịch.
f) Đặc trưng của Du lịch văn hóa
180
Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền
thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du
lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới.
g) Sự tham gia của cộng đồng dân cư
Để có thể phát triển du lịch bền vững thì việc tham gia của người dân cư địa
phương là hết sức quan trọng nhằm tạo nên nét đặc trưng, sự khác biệt và sống động
cho những sản phẩm, chương trình du lịch.
3. Kỹ năng lồng ghép các nội dung về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa và phát triển du lịch trên địa bàn cơ sở
3.1. Lồng ghép những nội dung chi tiết về di sản văn hóa (cổ vật, di tích, danh
lam thắng cảnh, lễ hội) với tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên nhân văn
Di vật: Là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
Cổ vật: Là là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá,
khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Bảo vật quốc gia: Là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm
tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học.
Các tiêu chí cụ thể của di tích lịch sử- văn hoá, danh lam thắng cảnh:
- Di tích lịch sử - văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a. Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình
dựng nước và giữ nước;
b. Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của các anh hùng
dân tộc, danh nhân của đất nước;
c. Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ
cách mạng, kháng chiến;
d. Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
đ. Quần thể hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ
thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
- Danh lam - thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a. Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên
với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;
b. Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng
sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật
chất về các giai đoạn hình thành và phát triển của trái đất.
- Việc phân loại và phân hạng các Di tích lịch sử- văn hoá và Danh lam thắng
cảnh ở Việt Nam:
Xuất phát từ nhu cầu quản lý Nhà nước, các di tích lịch sử và danh lam thắng
cảnh ở Việt Nam ( sau đây gọi là di tích ) được chia thành 4 loại là:
181
1. Di tích lịch sử- văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học;
2. Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể kiến
trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiến
trúc của dân tộc;
3. Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai
đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ.
4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa
cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học;
Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, di tích lịch sử - văn hoá, danh lam -
thắng cảnh được chia thành ba hạng:
1. Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương;
2. Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia;
3. Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.
3. 2. Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể - bộ phận quan trọng
của tài nguyên du lịch
Phân loại tài nguyên du lịch:
-Tài nguyên du lich tự nhiên: Là các thành phần tự nhiên, các tổng thể tự nhiên
trực tiếp hoặc gián tiếp được khai thác, sử dụng tạo ra các sản phẩm du lịch, phục vụ
cho mục đích phát triển du lịch. Các thành phần trong tự nhiên với tư cách là tài
nguyên du lịch có tác động mạnh nhất đến hoạt động này là địa hỡnh, khí hậu, nguồn
nước và sinh vật.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: Là các sản phẩm tinh thần và sản phẩm vật chất do
con người tạo ra, có giá trị phục vụ du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các loại
di tích lịch sử, lễ hội, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa, thể
thao và các hoạt động nhận thức khác. Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học: Về các
tập tục cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống, sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các nét
truyền thống trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc…
3. 3. Mối quan hệ biện chứng giữa di sản văn hóa và hoạt động du lịch
Thực tế đã chứng minh, một nơi có nguồn di tích lịch sử văn hóa phong phú, giàu
bản sắc dân tộc thì nơi đó thu hút được một lượng khách lớn, tác động đến nhiều mặt
của đời sống văn hóa xã hội địa phương. Nơi đó cũng có nhiều ưu thế và điều kiện để
phát triển kinh tế hơn so với các địa phương khác thông qua hoạt động du lịch. Đồng
thời có tác động nhiều đến nền kinh tế trên địa bàn đó.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân thanh toán
của khu vực và đất nước .
182
Du khách đến làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ do sự khác biệt giữa việc tiêu
dùng du lịch và tiêu dùng hàng hóa khác là: Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch được coi
như hình thức xuất khẩu tại chỗ.
Cụ thể hơn là quan hệ vật chất nảy sinh khi du khách tiếp xúc với phong tục tập
quán, với di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh của địa phương thì khách sẽ tiêu
thụ những sản phẩm, dịch vụ cụ thể như ăn, ở tại địa phương, mua quà lưu niệm…
Nhờ có lực hút trong hoạt động kinh doanh du lịch mà so sánh với ngành kinh tế
khác, ngành du lịch ở địa phương có nhiều nổi trội hơn thông qua việc du lịch quốc tế
xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không trải qua nhiều khâu nên tiết kiệm được
lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không quá cao. Người tiêu
dùng mua được hàng với giá thấp, người sản xuất bán được với giá cao nên kích thích
được người tiêu dùng; góp phần làm tăng thêm thu nhập cho mọi tầng lớp nhân dân,
khiến cho mức sống của người dân ngày càng nâng cao và cải thiện .
Khi một nơi có nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn và trở thành một điểm đến của
du khách, sẽ làm cho nhu cầu vật chất tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn
vật tư, hàng hóa các loại đó kích thích mạnh mẽ đến các ngành kinh tế có liên quan
như nông nghiệp, công nghiệp chế tạo, giao thông vận tải, dịch vụ…từ đó tạo ra nhiều
công ăn việc làm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương .
Như vậy, với nguồn di tích lịch sử, di sản văn hóa…phong phú mà biết khai thác
để phục vụ du lịch thì sẽ có tác dụng to lớn trong việc làm thay đổi diện mạo kinh tế -
xã hội của địa phương, của khu vực thậm chí của mỗi quốc gia. Chính vì vậy nhiều
nước trên thế giới đó coi di sản văn hóa như là nền tảng hoạt động kinh doanh du lịch,
góp phần không nhỏ để vực dậy nền kinh tế của đất nước .
3.4. Sức hút của Di sản văn hóa với sự phát triển du lịch tại mỗi địa phương
Kho tàng di sản văn hóa, đặc biệt là những đặc trưng về phong cách, lối sống,
thói quen, phong tục tập quán, cách ăn, mặc, ở…là một thành tố quan trọng tạo nên
sản phẩm du lịch và sức hấp dẫn trong du lịch.
Tâm lý của khách du lịch là muốn rời xa cuộc sống quen thuộc để tìm hiểu đặc
trưng văn hóa, môi trường tự nhiên của một vùng hay một quốc gia khác nhằm tìm đến
cái mới lạ để thỏa mãn trí tò mò, để thay đổi cuộc sống thường nhật, không khí và thư
giãn. Mặt khác, những người tham gia loại hình du lịch văn hóa đa số là những người
có trí thức và trình độ văn hóa, vì vậy mục đích của họ ngoài việc tham quan những
địa danh du lịch nổi tiếng, họ muốn tìm đến những địa danh mang niềm tự hào dân tộc,
về văn hóa bản địa hay những địa danh được ít người biết đến.
Các tài nguyên du lịch văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn.
Nếu như tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn du khách bởi tính nguyên sơ, nguyên bản
thỡ tài nguyên du lịch nhân văn lại thu hút khách du lịch bởi tính truyền thống và tính
địa phương của nó. Các đối tượng di sản văn hóa - tài nguyên du lịch nhân văn chính
là là cơ sở để tạo nên loại hình du lịch văn hóa phong phú. Bên cạnh đó nhận thức về
văn hóa là yếu tố thúc đẩy động cơ du lịch của du khách. Như vậy xét về yếu tố thị
183
trường thì văn hóa vừa là yếu tố “cung” vừa góp phần hình thành nên yếu tố “cầu”
trong kinh tế du lịch .
Sự tác động ảnh hưởng và sức hấp dẫn của di sản phụ thuộc vào chính giá trị của
di tích, di chỉ đó. Một di tích có giá trị càng lớn thì sự tác động, tầm ảnh hưởng đến du
lịch tại địa bàn càng nhiều... Hàng năm đã thu hút một lượng khách không nhỏ trong
nước và nước ngoài đến tham quan và tìm hiểu.
4. Những lưu ý trong công tác tổ chức các hoạt động Du lịch văn hóa nhằm
khai thác giá trị di sản văn hóa phục vụ du lịch tại địa bàn xã
4.1. Tổ chức khai thác những giá trị đặc trưng văn hóa của các vùng miền
phục vụ phát triển du lịch
Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh,
du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục...du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc
thù của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thu hút nhiều khách du lịch
quốc tế.
Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền
thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du
lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu,
khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu của họ. Hầu hết các hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa
bàn cấp xã - nơi tồn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống như di tích lịch sử, tập
quán, luật tục, lễ hội… Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là
tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.
Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc
điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian
vùng Đồng bằng Nam Bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự
kiện chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết
hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)... là những hoạt động
của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Vùng đồng bằng,
làng quê trù phú, phong tục tập quán sinh hoạt văn hóa mang nét đặc trưng của nền văn
minh lúa nước sông Hồng thích hợp với loại hình du lịch “du khảo đồng quê”...
4.2. Xác định các sản phẩm du lịch tiêu biểu từ đặc thù cả các loại hình du lịch
văn hóa cụ thể
- Du lịch lễ hội, du lịch hoa: Festival Huế, Festival hoa Đà Lạt, hội chùa Hương,
hội Lim, tết cổ truyền… Với loại hnh du lịch này du khách có thể vừa tham quan vừa
kết hợp du lịch văn hóa. Đặc biệt là với du khách quốc tế. Những tour du lịch tm hiểu
văn hóa, lịch sử có thể thực hiện rất đa dạng ở Việt Nam. Loại hình này được tổ chức
theo mùa ở các thời điểm khác nhau trong năm.
- Du lịch phố cổ: Hội An, Hà Nội, phố Hiến (Hưng Yên)…loại hình này có tính
chất thường xuyên, diễn ra đều đặn hơn.
- Du lịch làng nghề: Gốm Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc - Hà Đông…
184
- Du lịch ẩm thực: tiệc cung đình Huế hay ẩm thực Bắc Trung Nam… Nét tinh tế
của ẩm thực Việt Nam chịu sự ảnh hưởng rất lớn của yếu tố lịch sử, khí hậu, điều kiện
tự nhiên... Sự tinh tế trong ẩm thực vùng miền cũng là một yếu tố được du lịch khai
thác hiệu quả.
4.3. Tổ chức khai thác có hiệu quả sự tham gia của cộng động dân cư
Để có thể phát triển du lịch bền vững thì việc tham gia của người dân cư địa
phương là hết sức quan trọng nhằm tạo nên nét đặc trưng, sự khác biệt và sống động
cho những sản phẩm, chương trình du lịch.
Để làm được điều này, cần sự phối hợp các ban, ngành trong công tác tuyên
truyền tại địa phương làm du lịch, tăng cường gặp gỡ và trao đổi giữa các doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành với người dân tại khu vực để người dân thấy được quyền
lợi và trách nhiệm của mình, để việc kinh doanh du lịch nhận được sự giúp đỡ và hợp
tác của người dân bản địa.
4.4. Kết hợp công tác bảo vệ di sản, bảo vệ môi trường với quản lý các hoạt
động du lịch.
Nhận diện những tác động và nguy cơ gây hại đối với các di tích lịch sử văn hoá
và danh lam thắng cảnh, làm sai lệch và hủy hoại các di sản văn hóa phi vật thể:
- Những tác động và nguy cơ từ thiên nhiên (thiên tai: Bão, lụt, độ ẩm, động thực
vật có hại).
- Những tác động và nguy cơ do con nguời (vô thức và hữu thức, tác động của
các hoạt động kinh tế, du lịch, sự ô nhiễm môi trường, sự tu bổ, tôn tạo di tích không
theo quy định, sự làm sai lệch các nội dung, giá trị di sản văn hóa phi vật thể…)
- Xây dựng và quản lý việc thực hiện các nội quy, quy chế về bảo vệ di sản (tôn
trọng quy chế bảo vệ di tích, tín ngưỡng truyền thống…), bảo vệ môi trường ( nguồn
nước, thảm thực vật, động vật…) với các hoạt động du lịch.
5. Kỹ năng cơ bản về quản lý và hướng dẫn khai thác giá trị di sản văn hóa
phục vụ du lịch của công chức văn hóa-xã hội xã
Để thực hiện tốt hoạt động quản lý và hướng dẫn khai thác giá trị di sản văn hóa phục
vụ du lịch trên địa bàn xã, công chức văn hóa-xã hội xã cần quan tâm các vấn đề sau:
- Bước 1: Thống kê nắm tình hình, nội dung và phân loại các di sản văn hóa
được xếp hạng trên địa bàn xã.
Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn các xã dủ ở miền núi hay
đồng bằng được công nhận là di sản phải đạt được các tiêu chí và được Hội đồng cấp
địa phương (tỉnh), cấp Quốc gia và quốc tế (UNESCO) công nhận. Trên địa bàn các xã
sự hiện diện của các di sản văn hóa rất khác nhau: Có xã không có di sản nào, có xã có
di sản cấp địa phương, có xã có di sản cấp quốc gia, có xã có dí sản cấp quốc tế... Do
vậy việc quản lý và hướng dẫn khai thác giá trị di sản văn hóa phục vụ du lịch trên địa
bàn xã chỉ đặt ra đối với những xã có các di sản văn hóa được công nhận.
185
Các di sản được công nhận ở các xã cũng rất đa dạng. Có di sản là kiến trúc, nghệ
thuật, có di sản mang tính lịch sử, văn hóa, có di sản bao hàm nhiều giá trị...
Để quản lý và hướng dẫn khai thác giá trị di sản văn hóa phục vụ du lịch trên địa
bàn xã, công chức văn hóa-xã hội xã cần nghiên cứu Hồ sơ các di sản ở địa phương,
sau đó tiến hành thông kê, phân loại về nội dung, hiện trạng của các di sản...để có kế
hoạch khai thác gắn với hoạt động du lịch. Việc thống kê cần đặt ra các tiêu chí theo
giá trị của các nhóm di sản đã được công nhận; thống kê vị trí, vai trò và ý nghĩa của
nó đã và đang được khai thác trong hoạt động du lịch và giáo dục truyền thống ở địa
phương như thế nào...?
Trong trường hợp cần thiết cần có sự hợp tác, chỉ đạo của cơ quan cấp trên và sự
phối hợp của các cơ quan chuyên môn về khoa học, pháp lý để thực hiện việc thống kê
và hoàn thiện thông tin đáp ứng yêu cầu đề ra.
- Bước 2: Lập sổ tay ghi chép những những nội dung cơ bản của Luật di sản văn
hóa và Luật du lịch cũng như các Thông tư hướng dẫn liên quan để làm căn cứ tham
mưu tư vấn và tổ chức các hoạt động liên quan.
Công chức văn hóa-xã hội xã cần lập sổ tay để ghi chép nội dung cơ bản và liên
quan của Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch...để nắm được cơ sở pháp lý, xây dựng căn
cứ trong tham mưu, tư vấn; trong quản lý và tổ chức các hoạt động phát huy giá trị di
sản văn hóa trong hoạt động du lịch ở địa phương.
Đây là bài học kinh nghiệm đặt ra, từ nhiều sở xã trong thời gian vừa qua các
công ty du lịch tỉnh và Trung ương đưa khách tham quan đến các điểm di sản văn hóa
ở xã nhưng do không rõ cơ chế trong quản lý, trong chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn và
quyền lợi nên dẫn đến hạn chê từ nhiều phía trong tôn tạo, bảo vệ và khai thác vì lợi
ích phát triển chung. Muốn đấu tranh làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi giữa
địa phương (cấp xã) và các công ty du lịch...thì cán bộ công chúc xã phải nắm được cơ
sở pháp lý. Muốn năm được cơ sở pháp lý thì phải nỗ lực trong học tập, tự học, phải
tìm hiểu và ghi chép những điều cần thực hiện ở địa phương.
- Bước 3: Xây dựng kế hoạch khai thác giá trị các di sản văn hóa ở địa phương
trình lãnh đạo xã và cấp có thảm quyền phê duyệt.
Để tham mưu, tư vấn có hiệu quả họat động khai thác giá trị các di sản văn hóa
vào hoạt động du lịch ở địa phương, cán bộ công chức xã phải tiến hành xây dựng kế
hoạch cụ thể hàng năm trình lãnh đạo xã và cấp có thẩm quyền phê duyệt dể làm căn
cứ thực hiện.
Việc xây dựng kế hoạch khai thác giá trị các di sản văn hóa vào hoạt động du lịch ở
địa phương tùy thuộc vào tính hình di sản của từng xã về nội dung và hiện trạng di sản,
nhất là đối với các di sản vật thể. Có thể nói xã là địa bàn trực tiếp có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ, tôn tạo và phát huy lâu dài các di sản văn hóa dù ở cấp quốc gia hay
quốc tế ở địa phương. Do vậy việc lập kế hoach tôn tạo, bảo vệ, khai thác các di sản văn
hóa ở địa phương có di sản như thế nào là nội dung rất quan trọng liên quan đến hoạt động
quản lý và khai thác không chỉ ở cấp xã mà còn ở cấp tỉnh, trung ương...
186
Căn cứ vào tình hình di sản ở địa phương, công chức văn hóa xã hội xã khi lập
Kế hoạch khai thác giá trị các di sản văn hóa vào hoạt động du lịch ở địa phương
cần tiến hành theo các bước sau:
1. Xác định mục đích yêu cầu
2. Xác định các di sản cần khai thác; di sản cần tôn tạo (khai thác sau)
3. Xác định nội dung khai thác đối với từng loại di sản (Kiến trúc, Nghệ thuật,
Lịch sử, Tôn giáo, Cách mạng, Danh nhân...)
4. Xác định đối tượng và phương pháp khai thác (học giả, khách tham quan bình
thường, khách trong nước, khách nước ngoài...)
5. Xác định thời gian, lộ trình khai thác (gắn với Lế hội, ngày Tết...)
6. Xác định nguồn lực đầu tư, tôn tạo đối với các di sản cần tôn tạo khi
xuống cấp.
7. Xác định và phân công người phụ trách các mảng công việc, thời gian hoàn
thành, yêu cầu vầ chất lượng phải dạt.
- Bước 4: Phối hợp với các tổ chức, công ty du lịch quốc gia hay địa phương xây
dựng cơ chế phối hợp hoạt động khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa
phương về phương thức hoạt động, tài chính, bảo vệ, tôn tạo và phát huy vài trò của
cấp xã, người dân trong khai thác giá trị di sản vào hoạt động du lịch.
Để “Kế hoạch khai thác giá trị các di sản văn hóa vào hoạt động du lịch” ở địa
phương có chất lượng và hiệu quả, một nội dung quan trọng là phải xây dựng cơ chế
làm việc giữa Cấp xã và các đơn vị, tổ chức hoạt độn Du lịch liên quan.
Di dản văn hóa là của quốc gia và có những di sản ở tầm nhân loại, nhưng các di
sản đó lại nằm trực tiếp tại một số địa phương-xã. Chính quyền và người dân địa
phương có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa
cùng với cơ quan chức năng. Việc xây dựng và xác định rõ chức trách, nhiệm vụ,
quyền hạn của địa phương cấp Xã và các Công ty du lịch sẽ mang lại những hiệu quả
về kinh tế, về việc bảo tồn và tôn tạo bền vững các di tích, tránh được những “xung
đột” lợi ích giữa địa phương có di sản và các công ty, tổ chức...hoạt động du lịch.
Công chức văn hóa-xã hội xã cần tham mưu cho lánh đạo UBND xã làm việc với các công
ty, tổ chức du lịch đến khai thác di sản văn hóa tại địa phương để thống nhất cơ chế phối hợp
trong khai thác mang tính bền vững, lâu dài; xác định vai trò trách nhiệm, tỷ lệ % về thu nhập của
các bên.
Kết luận
Khu vực miền núi, trung du, vùng dân tộc là khu vực địa-văn hóa, địa-kinh tế,
địa-chính trị…có đặc điểm riêng, khác với khu vực đồng bằng, ven biển, hải đảo. Đây
là địa bàn sinh sống lâu đời của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Trong quá trình sinh
sống tại các khu vực địa lý khác nhau từ Bắc vào Nam, từ các khu vực rẻo cao, rẻo
giữa, cao nguyên hay thung lũng, chân núi, đồng bằng, ven biển, châu thổ… đồng bào
các dân tộc đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa vât thể, phi vật thể đặc sắc mang đậm
187
dấu ấn gắn với các điều kiện tự nhiên, vùng địa lý. Đó là những giá trị văn hóa do các
cộng đồng dân tộc sáng tạo trong quá trình sinh tồn và phát triển giàu bản sắc riêng,
tạo nên tính đa dạng trong tính thông nhất của văn hóa Việt Nam.
Di sản văn hóa là giá trị quan trọng thuộc sự quản lý, xếp hạng ở cấp quốc tế,
quốc gia hoặc địa phương. Trên địa bàn xã khu vực miền núi, trung du, vùng dân tộc,
tùy thuộc và đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội..mà có sự tồn tại nhiều hay ít những loại
hình, dạng thức di sản văn hóa khác nhau. Những địa phương có các di sản văn hóa
không chỉ là niềm tự hào mà còn là “tài nguyên” quan trọng có thể khai thác vào phục
vụ du lịch trên địa bàn xã.
Đối với công chức văn hóa-xã hội xã khu vực miền núi, trung du, vùng dân tộc,
để góp phần thực hiện tốt việc khai thác các giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn xã
vào hoạt động du lịch (ở những xã cho phép, có điều kiện) thì việc tìm hiểu và có nhận
thức để phân biệt giá trị di sản văn hóa, các nguyên tắc hoạt động du lịch, các nội dung
và yêu cầu về quản lý hướng dẫn khai thác giá trị di sản văn hóa vào hoạt động du lịch
cũng như các kỹ năng lồng ghép các nội dung phát huy giá trị di sản và phát triển du
lịch là yêu cầu tất yêu đặt ra.
****************
Câu hỏi thảo luận
1. Di sản văn hóa là gì?
2. Làm gì để phát huy giá trị di sản văn hóa của địa phương vào hoạt động du lịch
trên địa bàn xã?
Tài liệu tham khảo
- Luật di sản văn hóa, Số 28/2001/QH 10
- Luật Du lịch số 44/2005/ QH 11
- Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa số 32/2009/QH 12.
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di Sản văn hóa.
- Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020, ban hành theo Quyết định số 581/QĐ-
TTg ngày 6/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
188
KỸ NĂNG QUẢN LÝ, HƯỚNG DẪN VÀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC GIA ĐÌNH
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
Th.s. HOA HỮU VÂN
Th.s. PHẠM NHƯ QUỲNH
Thời lượng: 12 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn
và tổ chức công tác gia đình trên địa bàn xã khu vực trung du miền núi, vùng dân tộc.
- Biết vận dụng kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn và tổ chức công
tác gia đình trên địa bàn xã khu vực trung du miền núi, vùng dân tộc.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kỹ năng quản lý, hướng dẫn
và tổ chức công tác gia đình trên địa bàn xã, đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
Nội dung quản lý Nhà nước về gia đình là một khái niệm mới ở nước ta. Do đặc
điểm của đối tượng gia đình nói chung và đặc điểm gia đình Việt Nam nói riêng, trong
quá trình quản lý gia đình, Nhà nước chỉ tiến hành tác động và điều tiết một số nội
dung và quan hệ chủ yếu của đời sống gia đình nhằm hướng tới một mục tiêu phản ánh
tính ưu việt của chế độ là tạo cho gia đình, các thành viên gia đình phát triển trong một
môi trường kinh tế - xã hội, môi trường văn hoá mới của quốc gia và nhân loại, vừa
đậm đà bản sắc Việt Nam, vừa hiện đại, có thể đóng góp vào sự phát triển chung của
cộng đồng và quốc gia.
Thực tế hiện nay, hệ thống văn bản pháp lý, văn bản hành chính quản lý Nhà
nước về gia đình còn tản mản và chưa hoàn thiện. Công chức văn hóa xã hội xã phải
đảm đương nhiều nhiệm vụ và phần lớn chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng
cơ bản trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều này gây không ít khó khăn cho công tác gia
đình, đặc biệt công tác gia đình ở nông thôn, miền núi.
Tài liệu này nhằm cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về gia đình và
một số đặc điểm của công tác quản lý Nhà nước về gia đình trên địa bàn xã; Hướng
dẫn cho công chức Văn hóa - xã hội xã (sau đây viết CCVHXH) kỹ năng trong truyền
thông vận động thực hiện luật pháp, chính sách về gia đình ở cấp xã. Từ đó, học viên
hiểu biết những nội dung cơ bản về vai trò, chức năng của gia đình, xác định được
nhiệm vụ và vận dụng những nội dung cơ bản về quản lý, hướng dẫn tổ chức công tác
gia đình trên địa bàn xã.
Gia đình khu vực trung du, miền núi và vùng dân tộc mang đậm những bản sắc
khác nhau: có những nhóm gia đình mang đậm những yếu tố mẫu hệ truyền thống như
(*)
- Lý thuyết: 4 tiết; Thảo luận: 8 tiết
189
các dân tộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Ê Đê, Gia Rai, Raglai, Chu ru), có
những dân tộc mang đâm yếu tố phụ hệ và cũng cũng có những dân tộc còn tồn tại tàn
dư của yếu tố song hệ (cư trú cả bên nhà trai và nhà gái sau khi cưới: dân tộc Chơ
ro...); và cũng có những dân tộc tu đã chuyển sang phụ hệ nhưng còn mang những yếu
tố mẫu hệ (Khơ me, Thái...). Các tập tục trong nếp sống gia đình các dân tộc là hết sức
phong phú và đa dạng liên quan đến nhiều giá trị và bản sắc tộc người.
Do vậy việc quản lý và hướng dẫn các hoạt động gia đình ở khu vực trung du,
miền núi và vùng dân tộc có những đặc thù rất da dạng và phong phú. Bài này chỉ nêu
những vấn đề có tính nguyên tắc, quy trình chung để công chức văn hóa – xã hội xã
trên địa bàn vận dụng cho sát hợp với các đối tượng trên địa bàn nhằm đạt hiệu quả
cao nhất theo các mục tiêu, nhiệm vụ công tác gia đình đặt ra.
1. Những vấn đề chung về gia đình
1.1. Khái niệm “gia đình”
Gia đình là một thiết chế xã hội có tính lịch sử toàn cầu. Từ lâu, các nhà triết học
đã đưa ra nhiều định nghĩa về gia đình, nhìn chung đều khẳng định gia đình là một
thiết chế của xã hội, tồn tại trên cơ sở các mối quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ
và con cái. K.Mark cho rằng: Gia đình là mối quan hệ, thông qua đó và nhờ vào đó mà
thực hiện việc tái sản xuất con người và cơ chế tái sản xuất con người. Liên hợp quốc
định nghĩa gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng cùng chung sống và có
ngân sách chung.
Mặc dù diễn đạt có khác nhau tuỳ thuộc ở góc độ tiếp cận, song xem xét một
cách chung nhất, nội hàm của khái niệm gia đình bao gồm các yếu tố: là một đơn vị xã
hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi duỡng để thực
hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá, xã hội, tín ngưỡng... các thành viên
quan hệ với nhau trên cơ sở những định ước, quy định rõ ràng về đạo lý, bổn phận,
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với các việc cần làm, được phép, cấm đoán; có mối liên hệ
gắn bó với nhau về tình cảm, quyền lợi, trách nhiệm và có những ràng buộc có tính
pháp lý đuợc Nhà nước thừa nhận, bảo vệ.
Theo luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm "gia đình"
sử dụng trong quản lý Nhà nước về công tác gia đình, được quy định tại Điều 10,
khoản 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Gia đình là tập hợp những người gắn
bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau".
1.2.Chức năng của gia đình
1.2.1 Chức năng sinh đẻ, tái sản xuất sức lao động
Chức năng sinh đẻ của gia đình đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của
mỗi gia đình cũng như đối với lịch sử tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia và của
nhân loại.
Việc thực hiện chức năng sinh sản luôn tạo ra sự gắn kết của các cặp vợ chồng,
đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong gia đình và họ hàng đối với việc duy trì và
190
phát triển giống nòi, thỏa mãn nhu cầu tái sản xuất con người cả về quy mô cũng như
chất lượng.
Ở Việt Nam, trong điều kiện kinh tế còn chưa phát triển, tập quán thích sinh con
trai vẫn còn phổ biến, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên
còn cao, mức sinh đã giảm nhưng chưa bền vững. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến mức sinh và số con mong muốn, cũng như ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, ảnh
hưởng đến việc chăm lo cho con cái được học hành và phát triển toàn diện cả về thể
chất lẫn tinh thần.
1.2.2 Chức năng kinh tế
Chức năng kinh tế của gia đình là những hoạt động mà gia đình thực hiện nhằm
đảm bảo các nhu cầu cơ bản của các thành viên.
Chức năng kinh tế là chức năng đầu tiên khi hình thành gia đình. Chức năng kinh tế
của gia đình vừa mang tính chia sẻ thu nhập, vừa mang tính đóng góp thu nhập. Chức
năng kinh tế của gia đình không chỉ là trách nhiệm của cha mẹ mà còn là trách nhiệm của
con cái và các thành viên khác trong gia đình. Điều đó đòi hỏi các thành viên gia đình
cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, cùng đóng góp công sức, tiền và tài sản
phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình để duy trì cuộc sống.
Chức năng tiêu thụ là chức năng tất yếu của mọi gia đình bao gồm thức ăn nuôi
sống con người, nhà cửa, đồ dùng gia đình, các phương tiện đi lại, các phương tiện
thông tin phục vụ đời sống văn hoá, đồ dùng sinh hoạt cá nhân.
Các hoạt động sản xuất và tiêu dùng có mục đích cuối cùng là đáp ứng nhu cầu
của các thành viên gia đình. Mức độ thỏa mãn của từng thành viên phụ thuộc vào cách
thức mà các gia đình lựa chọn để phân phối các nguồn lực và lợi ích của mình. Quá
trình phân phối nguồn lực và lợi ích trong gia đình cho thấy bên cạnh tính thống nhất
thì gia đình còn bao gồm các mối quan hệ về quyền, lợi ích và trách nhiệm khác nhau.
Điều nay, trong thực tế có thể có sự mâu thuẫn với nhau giữa các thành viên. việc phân
phối các nguồn lực và lợi ích trong gia đình được xem xét chủ yếu từ hai khía cạnh,
một là sự tham gia của các thành viên vào việc ra quyết định về sử dụng và phân phối
các lợi ích. Hai là thứ tự ưu tiên trong phân phối nguồn lực và lợi ích ở các gia đình.
1.2.3. Chức năng giáo dục, xã hội hóa đối với trẻ em.
Trong phạm vi tài liệu này, Xã hội hoá được hiểu “là quá trình, mà qua đó cá
nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu xã hội. Quá trình mà
nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy
nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, hoà nhập vơi xã hội”. Có thể hiểu
quá trình xã hội hoá đối với trẻ em là một quá trình bao gồm việc đứa trẻ học tập
(được chỉ dẫn) về những cách thức, qui định của gia đình và xã hội để trẻ có thể tham
gia vào các hoạt động đời sống của gia đình và xã hội. Đứa trẻ không thể trưởng thành
và phát triển nếu chúng bị tách khỏi gia đình và bị biệt lập với xã hội. Với cách tiếp
cận như vậy, có thể hiểu xã hội hóa đối với trẻ em chính là quá trình dạy dỗ và trao
truyền kỹ năng sống của các thành viên gia đình, họ tộc để đứa trẻ trưởng thành, thích ứng
191
được yêu cầu của đời sống. Đây là quá trình tiếp nối tất yếu của chức năng sinh đẻ tái sản
xuất sức lao động.
Mỗi gia đình là một nhóm xã hội khác nhau, do vậy quá trình xã hội hoá đối với
trẻ em cũng bị chi phối bởi những đặc điểm khác nhau trong nếp sống (hay có thể gọi
là gia phong), tức là phương thức, nguyên tắc hình thành lối sống, nhân cách con
người trong từng gia đình cụ thể - cốt lõi của văn hoá gia đình. Nội dung và các hình
thức của lối sống trong mỗi gia đình không phải là bất biến, ngược lại chúng cũng bị
biến đổi theo từng thời đại. Sự biến đổi đó chủ yếu do tác động của các nhân tố kinh tế
và văn hoá, trong đó văn hoá là một nhân tố cực kỳ quan trọng, làm thay đổi kết quả
quá trình xã hội hoá trẻ em trong những gia đình khác nhau.
1.2.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm của gia đình
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm là khái niệm chỉ phương thức biểu
hiện hoạt động sống của gia đình nhằm đáp ứng và làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của
các thành viên, đảm bảo sự phát triển của tổ ấm gia đình. Chức năng tâm lý tình cảm
của gia đình ngày càng quan trọng và có xu hướng nổi trội trong đời sống của gia đình
hiện đại.
Sự đáp ứng nhu cầu tâm lý tình cảm dựa trên quan hệ qua lại giữa các thành viên
trong gia đình, bao gồm các mối quan hệ: Vợ - chồng, cha mẹ - con cái, cha mẹ chồng
(vợ) - con dâu (rể), ông bà - cháu, trong gia đình mở rộng có thể bao gồm thêm cả
những quan hệ: Anh, chị - em chồng (vợ), cháu - chú (cô, dì…). Trong từng mối quan
hệ, mỗi cá nhân thường có nhu cầu tâm lý tình cảm riêng, phù hợp và tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố như quan niệm, nhận thức, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, phong tục
tập quán. Vì vậy, chức năng tâm lý tình cảm có sự khác nhau về mức độ, tính chất ở
mỗi gia đình… Có thể đánh giá mức độ thỏa mãn nhu cầu tâm lý tình cảm bằng việc
xem các thành viên đã thực sự cảm thấy thoải mái, hạnh phúc trong gia đình hay chưa,
gia đình có đảm bảo là môi trường cho trẻ thơ phát triển toàn diện cả về thể chất và
tinh thần? Người già không hưu quạnh cô đơn, tìm thấy nguồn vui trong cuộc sống;
người lao động được cân bằng tâm lý sau những giờ lao động mệt nhọc thông qua biểu
hiện tình cảm giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, sự chia sẻ công việc gia đình giữa
các thành viên và các hình thức sinh hoạt giải trí của gia đình.
1.3. Mối quan hệ giữa các thành viên gia đình.
Độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc vào các mối quan hệ trách nhiệm,
nghĩa vụ giữa các thành viên mà ngày càng bị chi phối bởi các mối quan hệ tình cảm,
sự quan tâm đến nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân trong cuộc sống chung. Chất
lượng mối quan hệ giữa các thành viên gia đình là hàn thử biểu quan trọng đo lường
hạnh phúc gia đình.
Trong gia đình truyền thống, các chuẩn giá trị cổ truyền được hình thành và tồn
tại với những biểu tượng như “tam - tứ đại đồng đường”, “đông con nhiều cháu”, “rể
thảo dâu hiền”... Các quan hệ trong gia đình có sự phân biệt theo trật tự cha mẹ, con
cái và chồng vợ. Trong các mối quan hệ gia đình thì quan hệ giữa vợ và chồng giữ vai
trò quan trọng nhất, tác động đến mối quan hệ giữa ông bà - cháu và quan giữa các
192
con, cháu. Mức độ yên ấm, hạnh phúc trong gia đình phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ
giữa vợ và chồng.
Một trong những vấn đề then chốt của quan hệ vợ chồng là sự phân vai trong
công việc gia đình. Vẫn còn tồn tại trong nhiều gia đình Việt Nam hiện nay, nhất là ở
khu vực nông thôn: Gánh nặng của công việc gia đình vẫn đè lên vai người vợ, người
phụ nữ. Trong điều kiện và bối cảnh hội nhập, sự tác động đối với quan hệ vợ chồng,
được biểu hiện ở những khía cạnh sau:
a. Thay đổi phân công lao động gia đình giữa vợ và chồng không theo quy tắc
truyền thống mà hướng tới sự độc lập kinh tế giữa vợ và chồng khi phụ nữ tham gia
các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp.
b. Khi phụ nữ tham gia kinh tế thị trường, quan hệ vợ chồng có xu hướng bình
đẳng hơn.
c. Khi phụ nữ chấp nhận duy trì các hoạt động nông nghiệp và người chồng tham
gia kinh tế thị trường, mô hình quan hệ vợ chồng truyền thống được duy trì, người vợ
phụ thuộc vào chồng trên mọi bình diện.
d. Xung đột vai trò và sự thoả hiệp vợ, chồng chỉ xảy ra khi người vợ có vai trò
quyết định kinh tế trong gia đình. Người chồng chấp nhận vai trò trông nom gia đình,
chăm sóc con cái và cho rằng đây là công việc quan trọng trong gia đình.
e. Sự độc lập kinh tế giữa vợ và chồng dễ dẫn đến xung đột gia đình, Người
chồng chấp nhận vai trò bình đẳng của người vợ, nhưng quan hệ gia đình có phần lỏng
lẻo hơn. Trong loại gia đình này, người ta thường coi trọng quan hệ kinh tế hơn là đời
sống gia đình.
Đây là những vấn đề cần quan tâm trong việc xây dựng kế hoạch công tác gia đình, đặc
biệt nội dung truyền thông về gia đình đối với cán bộ văn hóa - xã hội xã.
1.4. Vai trò của gia đình trong xây dựng và phát triển xã hội bền vững.
Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
hội nhập kinh tế khu vực, kinh tế quốc tế. Quá trình đô thị hoá, di cư từ nông thôn tới
đô thị, phi nông nghiệp hoá nông thôn diễn ra nhanh hơn so với các thời kỳ trước đây.
Những tác động này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống gia đình, đặc biệt là các
gia đình ở nông thôn. Gia đình Việt Nam hiện nay đang đứng trước một số vấn đề sau:
- Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam và nữ có chiều hướng cao hơn trước
nhưng tình trạng tảo hôn vẫn còn phổ biến ở một số vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa.
- Hôn nhân thực tế (không đăng ký kết hôn) chưa được kiểm soát.
- Quan hệ tình dục trước hôn nhân liên quan đến sức khoẻ và lối sống vị thành
niên gây hậu quả đáng lo ngại.
- Tỷ lệ nạo phá thai cao
- Số lượng các vụ ly hôn tăng qua các năm, đặc biệt là ở các thành phố lớn.
193
- Bạo lực gia đình gây hậu quả nặng nề đến sự bền vững của gia đình, vi phạm
nghiêm trọng quyền con người với tư cách là thành viên gia đình.
- Tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình và tội phạm trẻ em có nguyên nhân từ
phía gia đình chưa giảm.
- Tâm lý thích và coi trọng con trai vẫn còn phổ biến, đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm mất cân bằng giới tính.
- Xu hướng gia đình hai thế hệ (chỉ có bố mẹ và con cái) làm tăng nguy cơ tách
cuộc sống của người cao tuổi ra khỏi môi trường sống truyền thống của họ là mạng
lưới gia đình mở rộng, cắt đứt sự giao tiếp trực tiếp của họ với con cháu.
- Thời gian cha mẹ dành cho con ngày càng giảm; giáo dục gia đình gặp khó
khăn trong việc định hướng phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Trong bối cảnh như vậy, xác định vai trò và nâng cao trách nhiệm của gia đình
trong sự ổn định và phát triển đất nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tại Thông báo
số 26 TB/TW ngày 9 tháng 5 năm 2011, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có kết luận:
"Khẳng định xây dựng gia đình là vấn đề hết sức lớn, hết sức hệ trọng của dân tộc và
cả thời đại." Gia đình giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc ổn định và phát triển
đất nước trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
2. Một số chính sách liên quan đến gia đình.
Để giúp cho gia đình ổn định và được củng cố trước những thay đổi nhanh chóng
về kinh tế - xã hội, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng, bổ sung, sửa đổi những bộ luật
liên quan đến gia đình để tạo khuôn khổ pháp lý tích cực cho gia đình phát triển.
1. Hiến pháp năm 1992, Điều 64 khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội”,
“Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”, “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến
bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”, “Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con trở
thanhh những công dân tốt”, “Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà,
cha mẹ”, “Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
Những nguyên tắc của Hiến pháp 1992 là cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các luật liên
quan tới gia đình.
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 trong Lời nói đầu đã khẳng định “Gia
đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã
hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 tập trung đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình trong đời sống xã hội,
tạo cơ sở pháp lý để củng cố và ổn định gia đình Việt Nam; phát huy các giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xoá bỏ những tập tục lạc hậu trong các gia đình
và hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với các gia đình Việt
Nam; tăng cường quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực gia đình và xác định rõ trách
nhiệm của Nhà nước, cộng đồng xã hội và chính bản thân mỗi gia đình trong việc ổn
định và tăng cường vai trò, chức năng của gia đình Việt Nam.
194
3. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2000 quy định: Trẻ em, không phân
biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con riêng, con
chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính
kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được
hưởng các quyền theo quy định của pháp luật; việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi
hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của
trẻ em phải được quan tâm hàng đầu.
4. Luật Bình đẳng giới 2006 đã dành những điều khoản quy định về bình đẳng
trong gia đình để xây dựng gia đình hạnh phúc. Điều 18 ghi rõ: "Vợ, chồng bình đẳng
với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia
đình; vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong
gia đình; vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử
dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con
ốm theo quy định của pháp luật; con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và
tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển; các thành
viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
5. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 đã xác định rõ các hành vi bạo lực bị
nghiêm cấm và trách nhiệm của gia đình trong việc phòng, chống bạo lực gia đình.
Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ,
tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
e) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
g) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ;
h) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
i) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính;
k) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Về trách nhiệm của gia đình, Điều 32 quy định:
195
1. Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định của pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma
túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; can ngăn người có
hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng, chống bạo
lực gia đình.
4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình theo quy định
của Luật này.
Ngoài ra, các bộ luật cơ bản khác như Luật Dân sự năm 1995, Luật Hình sự năm
1999 và nhiều văn bản dưới luật khác cũng đã được bổ sung, sửa đổi nhằm mục đích
nâng cao năng lực của gia đình trong điều kiện phát triển kinh tế.
3. Quản lý Nhà nước về gia đình.
3.1. Gia đình là đối tượng quản lý của Nhà nước.
Gia đình là một đơn vị cấu thành của Nhà nước, gia đình là một tổ chức cơ sở của
xã hội, gia đình có chức năng thực hiện các mục tiêu của Nhà nước và có vai trò quan
trọng trong việc cung cấp nguồn lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình là nơi sinh
ra và giáo dục, quản lý những công dân của Nhà nước... Do vậy, gia đình trở thành đối
tượng quản lý của Nhà nước.
Nhà nước quản lý gia đình gắn liền với quản lý công dân tại nơi cư trú. Đây là
cách quản lý chặt chẽ nhất từ khi Nhà nước ra đời. Gắn kết gia đình và nơi cư trú có
các quy định của Nhà nước về nhiều mặt như: Quản lý hộ tịch, hộ khẩu thường trú,
tạm trú, tạm vắng, đăng ký khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn, ly hôn, đăng ký kinh
doanh, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm...
Khái niệm quản lý Nhà nước về gia đình có thể hiểu như sau:
Quản lý Nhà nước về gia đình là quản lý những vấn đề cơ bản thuộc nội dung và
quan hệ gia đình nhằm định hướng, điều tiết sự phát triển gia đình theo một mục tiêu
nhất định, nhằm phát huy vai trò của gia đình đối với cộng đồng xã hội và quốc gia;
đây là quá trình tiến hành các hoạt động pháp lý, các hoạt động cung cấp biện pháp
và dịch vụ của Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu và nội dung trên.
Khái niệm trên cho thấy, quản lý Nhà nước về gia đình cũng mang những đặc
điểm chung của quản lý Nhà nước và xã hội:
- Chủ thể quản lý Nhà nước về gia đình là Nhà nước, cụ thể ở cấp Trung ương là
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, ở địa phương là Ủy ban nhân dân các cấp ( Sở Văn
hóa, thể thao và du lịch, Phòng Văn hóa, thông tin huyện, Ban Văn hóa, thông tin cấp
xã là cơ quan, tổ chức tham, mưu cho UBND cùng cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý
Nhà nước về gia đình của cấp mình).
- Khách thể quản lý về gia đình là hộ gia đình và các cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoạt động trong lĩnh vực gia đình hoặc có liên quan đến lĩnh vực gia đình.
196
- Phương thức quản lý Nhà nước về gia đình là sự phối kết hợp thực hiện các
nhiệm vụ của hệ thống tổ chức bộ máy của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cơ chế
quản lý thống nhất với nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao về
công tác gia đình. Như vậy, công tác quản lý Nhà nước về gia đình phải được đặt trong
cơ chế phối hợp giữa cơ quan chủ trì với các cơ quan có liên quan ở mỗi cấp. Cơ quan
Văn hóa, thể thao và du lịch ở mỗi cấp giữ vai trò chủ trì và điều phối các cơ quan có
liên quan. Ví dụ: để thu thập thông tin số liệu cơ bản về gia đình và phòng, chống bạo
lực gia đình ở xã định kỳ theo quý, 6 tháng và 1 năm, cán bộ Văn hóa - xã hội xã phải
căn cứ vào hướng dẫn của Phòng Văn hóa và thông tin huyện để xây dựng kế hoạch,
dự trù kinh phí, dự thảo phân công các trưởng thôn, phối hợp với Hội phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu Chiến binh, Công an, Tư pháp xã...
3.2. Nhiệm vụ quản lý Nhà nước về gia đình đối với công chức Văn hóa - xã hội xã:
3.2.1. Công tác tham mưu.
Tham mưu cho Đảng uỷ, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân cấp xã nội dung
các nghị quyết, kế hoạch, chương trình công tác hàng năm về phòng, chống bạo lực
gia đình; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; phân công cán bộ,
đảng viên phụ trách các địa bàn dân cư, các gia đình chính sách, gia đình khó khăn.
3.2.2. Công tác truyền thông - giáo dục.
a) Tổ chức tuyên truyền giáo dục luật pháp về gia đình.
- Tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức, kỹ năng về gia đình, giáo dục đời
sống gia đình, phòng chống bạo lực gia đình; các buổi nói chuyện chuyên đề về luật
pháp đối với gia đình.
- Phối hợp và tổ chức các đợt tuyên truyền giáo dục pháp luật về gia đình lồng
ghép vào các hoạt động vui chơi giải trí trên địa bàn xã.
b) Tổ chức giáo dục đời sống gia đình.
- Xây dựng, tổ chức và quản lý các mô hình can thiệp bạo lực gia đình, ở các thôn
- bản - xóm - ấp.
- Triển khai nội dung giáo dục gia đình thông qua mô hình Câu lạc bộ Gia đình
phát triển bền vững, các loại hình câu lạc bộ của các tổ chức chính trị xã hội: Phụ nữ,
Nông dân, Thanh niên..., tổ Tư vấn.
- Tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ
cơ sở nhằm xây dựng gia đình văn hoá, thôn - làng - ấp văn hóa.
c) Công tác xây dựng gia đình văn hoá.
- Tổ chức vận động các gia đình đăng kí, phấn đấu đạt danh hiệu Gia đình văn hoá.
- Chủ trì tham mưu xét chọn các gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hoá, Gia
đình văn hoá tiêu biểu, Làng văn hoá, Khu phố văn hoá...
197
d) Phối hợp hoạt động.
Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông
dân, Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh... tổ chức thiết thực các hoạt động nhân
Ngày gia đình Việt Nam 28/6 hàng năm, biểu dương các gia đình tiêu biểu trong xã.
3.2.3. Quản lý địa bàn dân cư.
Tổ chức thu thập các số liệu, chỉ số về gia đình, chỉ số về phòng chống bạo lực
gia đình (theo Hướng dẫn số 1481/BVHTTDL-GĐ ngày 13/5/2009 của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, thể thao và du lịch về việc thu thập số liệu thuộc lĩnh vực gia đình; Quyết
định số 238 ngày 20/1/2009 của Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch) định kỳ 6 tháng thu
thập, báo cáo 01 lần (Từ ngày 1/12 năm trước đến 30/5 năm sau gọi là báo cáo số liệu
6 tháng đầu năm; từ 1/6 đến 30/11 cùng năm gọi là báo cáo 6 tháng cuối năm). Báo
cáo làm thành 03 bản gửi: Phòng Văn hóa và thông tin huyện; Phòng Thống kê huyện
và lưu UBND xã.
Nắm vững tình hình gia đình trong địa bàn bao gồm: Đời sống kinh tế, tình hình
chăm sóc trẻ em, người già, dân số gia đình và những vấn đề đang phát sinh trong gia
đình cần được hỗ trợ giải quyết, thường xuyên báo cáo với lãnh đạo xã và xin ý kiến
giải quyết những vấn đề bức xúc về gia đình trong địa bàn.
Thường xuyên giám sát và kiến nghị giải quyết quyền lợi của gia đình.
Theo dõi và yêu cầu cán bộ tư pháp hoặc các cán bộ chuyên ngành khác thực
hiện đúng các điều luật và các chính sách đối với gia đình (Luật hôn nhân và gia đình;
Luật đất đai; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Pháp lệnh dân số; Luật Bình
đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình).
Đề xuất với chính quyền địa phương về các biện pháp nhằm thực hiện chủ trương
của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước về gia đình trong điều kiện của địa phương
như: Chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh liệt sĩ, gia
đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình chỉ mẹ hoặc chỉ có bố với con…
4. Kỹ năng truyền thông vận động thực hiện luật pháp, chính sách về gia đình và
công tác gia đình.
Công chức văn hóa - xã hội xã là người trực tiếp làm việc với lãnh đạo UBND và
các ban ngành, đoàn thể ở xã, các thôn, buôn, bản (sau đây gọi là thôn) và trực tiếp
làm việc với hộ gia đình cũng như thành viên gia đình.
Nhiệm vụ và nội dung của công tác gia đình còn mới, lãnh đạo địa phương không
phải ai cũng hiểu và sẵn sàng ủng hộ, tạo điều kiện
Nhận thức của người dân còn hạn chế, nhất là nội dung bình đẳng trong gia đình
và phòng, chống bạo lực gia đình. Phong tục tập quán, luật tục lạc hậu của một số dân
tộc còn tồn tại trong đời sống cộng đồng. Các hộ gia đình rải rác trên khu vực rộng,
núi cao, đường đi lại khó khăn, khó tập hợp để sinh hoạt.
198
Bởi vậy, để thực hiện và thực hiện tốt 4 nhóm nhiệm vụ đã nêu ở phần trên thì
truyền thông vận động thực hiện luật pháp, chính sách về gia đình và công tác gia đình
là một biện pháp hữu hiệu, đòi hỏi công chức văn hóa - xã hội cần có kỹ năng nhất định.
4.1. Khái niệm
Truyền thông vận động là quá trình trao đổi, chia sẻ thông tin có mục đích, liên
tục 2 chiều giữa người trao gửi và người nhận thông tin để đem lại kết quả mong
muốn của người trao gửi thông tin.
Với khái niệm như vậy, công chức văn hóa - xã hội xã phải có kỹ năng cung cấp
thông tin, dự kiến những hoạt động về lĩnh vực gia đình trên địa bàn để thuyết phục
lãnh đạo xã, các ban ngành đoàn thể, các thôn, các hộ gia đình (sau đây gọi là đối tác)
trên địa bàn ủng hộ và tổ chức thực hiện.
4.2. Kỹ năng truyền thông vận động.
Các kỹ năng cơ bản dưới đây sẽ giúp công chức văn hóa - xã hội xã thực hiện tốt
nhiệm vụ truyền thông vận động về gia đình và công tác gia đình.
Một là Kỹ năng tiếp xúc thân mật với đối tác: Nhằm tạo sự gần gũi, tin tưởng
giữa công chức văn hóa - xã hội với đối tác qua cách thể hiện sau:
- Chào hỏi ân cần.
- Giữ thái độ niềm nở, biểu lộ sự chân thành, nghiêm túc.
- Động tác, tư thế trong giao tiếp: Thoải mái, tự tin, gần gũi.
- Giao tiếp qua lời nói: Dễ nghe, dễ hiểu.
- Trang phục phù hợp.
Hai là Kỹ năng cung cấp, phân tích thông tin về công việc định thực hiện: Để đối
tác: Biết - hiểu - ủng hộ - thực hiện.
Công chức văn hóa - xã hội xã cung cấp thông tin (kế hoạch, chương trình, hướng
dẫn của Phòng Văn hóa Thông tin, của Đảng ủy, UBND xã...về lĩnh vực gia đình)
bằng việc thu hút được sự chú ý lắng nghe của đối tác. Cùng với việc cung cấp thông
tin, phải phân tích những thông tin chính xác, rõ ràng, ngắn và dễ hiểu. Dựa vào ý kiến
phản hồi của đối tác để xác định xem mức độ hiểu và nắm bắt những thông tin đó ở
mức độ nào, nếu chưa đúng, chưa đủ phải nhắc lại từng bước vận động họ ủng hộ
những yêu cầu đặt ra.
Ba là, mô tả chính xác những việc cần làm:
- Đối với lãnh đạo xã: Nên chuẩn bị những tài liệu, số liệu cần thiết liên quan đến
công việc, hoạt động cần thực hiện. Có thể cung cấp những thông tin có được về các
xã bên đã làm, đang làm tốt để tăng tính thuyết phục.
- Đối với cán bộ thôn, bản, hộ gia đình: Hướng dẫn tỷ mỉ, tốt nhất có ví dụ sát
thực hoặc mô hình, để đối tác hình dung rõ, biết rõ thứ tự việc sẽ làm. Ví dụ như: Tổ
chức góp ý phê bình người gây bạo lực gia đình ở thôn, bản, công chức văn hóa - xã
hội phải cung cấp văn bản quy định thẩm quyền của người đứng ra tổ chức góp ý, quy
199
định về thành phần tham dự, người ghi biên bản, những chứng cứ vi phạm của người
gây bạo lực gia đình, cách thức đặt vấn đề trong buổi góp ý...
Bốn là, Tìm ra những lý do ảnh hưởng đến việc công việc :
Là lĩnh vực còn mới mẻ, lãnh đạo xã, có người còn chưa thực sự quan tâm đến
công tác gia đình bởi họ cho rằng còn những việc cần thiết hơn hoặc họ chưa hiểu biết
nhiều về quản lý lĩnh vực này. Đối với người dân ở nông thôn còn nhiều yếu tố tác
động khác. Do vậy, ngoài kế hoạch, các văn bản hướng dẫn của cấp trên, công chức
Văn hóa, Xã hội cần hiểu biết về các yếu tố tác động tới gia đình: Phong tục tập quán,
thói quen văn hoá, dân tộc và tôn giáo... công chức Văn hóa, Xã hội nên biết khai thác
tỷ mỷ, tìm ra những nguyên nhân cản trở công việc sắp thực hiện từ đó xác định những
tác động hỗ trợ.
Năm là, Dùng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu:
Tốt nhất là nói bằng ngôn ngữ của địa phương thường sử dụng khi tiếp xúc với các
hộ gia đình cùng với việc nắm bắt đầy đủ thông tin của của đối tác điều này còn giúp họ
yên tâm, tin tưởng và dễ dàng bộc lộ chia sẻ những vấn đề của bản thân về những khó
khăn của việc sẽ làm. Sử dụng ngôn ngữ của đồng bào.
Sáu là, Nêu các ví dụ cụ thể:
Công chức văn hóa - xã hội nên đưa ra những dẫn chứng, người thật, việc thật sẽ
có giá trị thuyết phục đối tác và khuyến khích họ làm theo. Ví dụ: Có thể mời nạn
nhân của hành vi buôn bán phụ nữ kể lại tình huống mà họ bị lừa gạt, nạn nhân của
bạo lực gia đình nói về nguyên nhân và hậu quả mà họ đã, đang phải gánh chịu, hoặc
mời người dân của thôn, bản của xã phát triển kinh tế gia đình khá giỏi nói về cách
thức làm ăn của gia đình họ... minh họa.
Bảy là, Khuyến khích đối tượng đặt câu hỏi:
Trong quá trình truyền thông vận động về công tác gia đình, cán bộ xã hoặc
người dân còn chưa hiểu nội dung công việc muốn được giải đáp những thắc mắc, họ
có thể đưa ra những câu hỏi song do tâm lý ngại ngùng xấu hổ họ có thể không nói hết,
do vậy công chức văn hóa - xã hội nên chủ động gợi ý giúp bộc lộ những suy nghĩ, băn
khoăn của họ.
Tám là, Kiểm tra đối tác qua thông tin phản hồi:
Thời gian giao tiếp với đối tác có thể không đủ đáp ứng nhu cầu công việc đưa ra,
công chức văn hóa - xã hội cần kiểm tra lại các thông tin phản hồi, điều cần tránh là sự
giải thích những vấn đề không đầy đủ và người dân nắm bắt vấn đề không cặn kẽ dẫn
đến hiểu sai và làm sai.
4.3. Kỹ năng trình bày trước người dân ở xã.
Trình bày là hình thức giao tiếp giữa một người với một hoặc nhiều người để
cung cấp thông tin nào đó. Ví dụ: Công chức văn hóa - xã hội trình bày thực trạng bạo
lực gia đình trên địa bàn xã trong những năm gần đây;
Các bước thực hiện
200
a) Chuẩn bị cho việc trình bày:
- Xác định thời gian: Ngày nào, từ mấy giờ....đến ...giờ ngày...
- Tập hợp tài liệu chủ yếu và các tài liệu liên quan đến chủ đề, nội dung trình bày.
- Phương tiện phục vụ cho bài trình bày: Đề cương hoặc bài viết về nội dung sẽ
trình bày, tranh ảnh minh họa, đèn chiếu...
- Trang phục của người trình bày: Phù hợp với trang phục của đồng bào.
b) Xây dựng cấu trúc, nội dung của bài trình bày
- Phần mở đầu: Nêu vấn đề định trình bày (Chú ý nêu chủ đề và các phần mục
định trình bày ngắn gọn, trực tiếp).
- Phần nội dung: Những nội dung cơ bản theo các phần mục đã xác định.
- Phần kết luận: Tóm tắt lại những điểm chính đã nêu; Đưa ra những hành động
cần làm; Cám ơn người nghe (có thể hứa hẹn những điều trong phạm vi thẩm quyền
giải quyết).
c) Xác định và phân loại thông tin sẽ cung cấp trong buổi trình bày
- Thông tin phải biết: Là những điều thiết yếu phải cung cấp để đáp ứng mục tiêu
đề ra. Cần dành nhiều thời gian, trình bày rõ ràng, cụ thể làm cho người nghe nắm
vững những thông tin này.
- Thông tin cần biết: Là những điều cung cấp để làm rõ thêm những thông tin
trọng tâm.
- Thông tin nên biết: Là những thông tin mở rộng làm phong phú thêm nội dung
trình bày.
d) Tạo ấn tượng tốt khi bắt đầu trình bày
- Trấn tĩnh, thở sâu vài hơi trước lúc trình bày, có thể nhấp vài ngụm nước trước
khi đứng vào vị trí trình bày.
- Quan sát toàn bộ khung cảnh diễn ra hoạt động và đối tượng nghe.
- Nhìn một vài người và hỏi một vài câu để làm quen (tránh nhìn lên trần nhà
hoặc nhìn ra phía ngoài). Đây có thể coi là một hoạt động khởi động, tạo không khí
gần gũi giữa người trình bày và người nghe.
- Giữ phong thái tự nhiên, thoải mái.
d) Làm chủ thời gian trình bày
- Trình bày theo đề cương đã chuẩn bị. Có thể tài liệu bài trình bày được chia
thành 2 bản: một bản đề cương và một bản đầy đủ nội dung trình bày, có thể sử dụng
bút mầu gạch chân các mục, tiểu mục để dễ dàng nhận diện, không bị nhầm lẫn.
- Các động tác cần chủ động, không lúng túng, rụt rè.
- Khi quên ý nên bình tĩnh lướt nhìn đề cương.
- Chủ động đề nghị người nghe đặt câu hỏi.
201
- Lắng nghe, sắp xếp các câu hỏi rồi trả lời từng câu hoặc ghi nhận nếu chưa trả
lời được.
- Hãy nêu những ví dụ cụ thể trong thực tế để chứng minh, những ví dụ đó cộng
với sự dí dỏm trong việc sử dụng các từ ngữ của địa phương sẽ làm cho không khí
buổi sinh hoạt sẽ trở nên sinh động và đạt hiệu quả cao.
- Không nên lo lắng và thể hiện thái độ lo lắng trong lúc trình bày. Cảm giác lo
lắng sẽ mất khi người trình bày đã làm chủ nội dung và thực hiện đặt câu hỏi cho
người nghe.
- Xử lý tình huống khi người nghe đưa ra câu hỏi khó
Một số người có thể hỏi để đưa ra những lời nhận xét mang tính chất xây dựng,
cũng có nhiều người hỏi chỉ vì tò mò và thích thú những vấn đề đang trình bày. Những
câu hỏi sẽ giúp người trình bày nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau. Với
những vấn đề còn đang gây tranh cãi, cũng đừng ngại khi nói ra ý kiến của cá nhân.
Nếu có những phần kiến thức không biết hoặc chưa sẵn sàng để trả lời có thể trả lời
một cách chân thành rằng, vấn đề này sẽ tìm hiểu thêm và trả lời trong dịp khác.
e) Sử dụng ngôn ngữ nói
- Sử dụng các cụm từ giao tiếp phù hợp với độ tuổi người nghe (kính thưa các cụ,
các ông bà; thưa các bà con, anh chị em thân mến...)
- Nói chậm rãi, to, rõ ràng (tùy ý định của diễn giả để có thể nói lúc nhanh, lúc
chậm hơn).
- Giọng nói: Rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ của đồng bào tránh nói đều đều buồn tẻ
hoặc gây cười không ăn nhập với nội dung trình bày.
- Nói vừa phải, đủ nghe, không nói quá to hoặc thì thầm.
- Đôi lúc tạm dừng để nhấn mạnh ý hoặc chuyển sang đoạn sau.
h) Sử dụng ngôn ngữ không lời
- Đứng tự nhiên, thoải mái, thỉnh thoảng đi lại.
- Dùng tay để nhấn mạnh ý hay khích lệ người nghe.
- Dùng ánh mắt thiện cảm để bao quát, đôi khi tập trung nhìn vào mắt, khuôn mặt
của một, hai người trong lúc trình bày nhằm tạo cảm giác cho người nghe đang được
tham gia vào nội dung trình bày tức là hoạt động giao tiếp giữa người trình bày và
người nghe bằng ngôn ngữ không lời.
- Nét mặt tươi vui, không biểu hiện sự lo âu, căng thẳng.
- Thái độ: chân thành, gần gũi, tự tin
- Phong thái tự nhiên, ung dung.
i) Sử dụng các phương tiện hỗ trợ
Nên chuẩn bị và sử dụng một số phương tiện hỗ trợ trong khi trình bày như tranh
ảnh minh họa, đèn chiếu. việc sử dụng phương tiện hỗ trợ sẽ đem lại hiệu quả tốt và
202
người trình bày có thể đo được, nhận biết được trên gương mặt hay những tiếng xì
xào, tán thưởng của người nghe. Tuy nhiên tránh lạm dụng phương tiện, sử dụng quá
nhiều phương tiện trong cùng một buổi trình bày, bởi điều này có thể làm cho người
nghe quên nội dung chính mà chỉ nhớ đến những chi tiết được minh họa bằng phương
tiện hỗ trợ.
**************
Câu hỏi và bài tập thực hành
1. Theo anh (chị), khi triển những nhiệm vụ trong lĩnh vực công tác gia đình,
công chức văn hóa- xã hội xã gặp những thuận lợi, khó khăn gì?
2. Để tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn,
công chức văn hóa- xã hội cần dựa vào những văn bản nào, điều kiện gì là quan trọng
nhất để thực hiện nhiệm vụ trên đây? Hãy nêu đôi nét về thực trạng bạo lực gia đình ở
xã? Luật tục, phong tục nào cản trở việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực phòng, chống
bạo lực gia đình ở xã mà bạn đang công tác?
3. Theo Kế hoạch của UBND huyện và hướng dẫn của Phòng Văn hóa và Thông
tin, chỉ còn một tháng nữa các xã sẽ tổ chức Ngày Gia đình Việt Nam (28 tháng 6)
nhằm đề cao trách nhiệm của lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể, các gia đình
trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc và biểu dương, khen
tặng các gia đình tiêu biểu. Là công chức văn hóa - xã hội, anh (chị) hãy dự kiến các
công việc, các bước tiến hành để tham mưu cho UBND xã tổ chức hoạt động tuyên
truyền về gia đình và tổ chức buổi gặp mặt, tuyên dương các gia đình tiêu biểu trên địa
bàn xã mà anh (chị) đang công tác.
4. Hãy thiết kế kịch bản cho một buổi họp thôn/ bản/ ấp để tuyên truyền về chủ
đề “Kỹ năng ứng xử, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình”.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Bí thư trung ương Đảng: Chỉ thị 49/CT-TW ngày 21 tháng 02 năm 2005
của Ban Bí thư trung ương Đảng về xây dưng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng: Thông báo số 2vi/TB-TW ngày 9/5/2011 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 49/CT-TW về xây dựng
gia đình Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH.
3. Bộ Văn hóa - Thông tin: Quyết định số 62/2006 ngày 23/6/2006 của Bộ trưởng
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch về việc ban hành quy chế công nhận danh hiệu “Gia đình
văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”.
4. Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch: Quyết định số 4415/QĐ-BVHTTDL ngày
25/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch ban hành Kế hoạch phòng,
chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2015.
5. Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch: Quyết định số 3391/QĐ-BVHTTDL ngày
01/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch về việc phê duyệt Đề án
Tuyên truyền đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam giai doạn 2010-2020.
203
6. Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch: Hướng dẫn số 1481/BVHTTDL-GĐ ngày
13/5/2009 của Bộ trưởng Văn hóa, thể thao và du lịch về việc thu thập số liệu thuộc
lĩnh vực gia đình.
7. Chính phủ: Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
8. Chính phủ: Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 16/12/2009 về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
9. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
10. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giá dục trẻ em năm 2001.
11.Luật Bình đẳng giới năm 2006.
12. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007.
13.Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30/5/2008 của Thủ
tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
14.Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg ngày 4/5/2011của Thủ
tướng Chính phủ về Ngày Gia đình Việt Nam.
204
KỸ NĂNG XÂY DỰNG KỊCH BẢN CHƯƠNG TRÌNH HỘI NGHỊ,
KỊCH BẢN CHƯƠNG TRÌNH CÁC SỰ KIỆN VĂN HÓA, GIA ĐÌNH,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC TRUNG DU,
MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
TS. NSƯT. NGUYỄN VĂN KHÁNH
Th.s. HOÀNG THỊ BÌNH
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Mục đích.
- Giúp cho học viên nắm vững những vấn đề cơ bản về xây dựng kịch bản
chương trình Hội nghị và Kịch bản chương trình các Sự kiện văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc.
- Hiểu biết các kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị và Kịch bản
chương trình các Sự kiện văn hóa, thể thao gia đình và du lịch trên địa bàn xã khu vực
trung du, miền núi vùng dân tộc.
2. Yêu cầu:
- Học viên có kiến thức hiểu biết và có kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình
cho Hội nghị và Kịch bản chương trình các sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình và du
lịch trên địa bàn xã khu vực trung du, miền núi vùng dân tộc.
B. NỘI DUNG
Tổ chức Hội nghị, Sự kiện là hình thức hoạt động phổ biến, một trong những công
việc không thể thiếu trong công tác quản lý và điều hành các hoạt động văn hoá, thể
thao, gia đình và du lịch của các cấp quản lý nhà nước từ Trung ương cho đến các địa
phương. Những năm gần đây việc tổ chức Hội nghị, Sự kiện các hoạt động văn hoá, thể
thao, gia đình và du lịch của các cấp chính quyền địa phương, nhất là cấp xã đã gặt hái
được nhiều thành quả rất đáng được khích lệ. Các hoạt động ấy đã và đang có sức mạnh
thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia góp phần gắn kết
cộng đồng các dân tộc và phát huy tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc với nhau. Tuy
nhiên, trên thực tế trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã ở
các vùng nông thôn hiện nay còn nhiều khập khiễng, bất cập, lúng túng và bị động. Hầu
hết đội ngũ này đều được lớn lên và trưởng thành từ các phong trào văn hóa, văn nghệ,
thể dục thể thao quần chúng, chưa được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cũng như lý luận
Chính trị - Hành chính chuyên sâu, đa phần là trình độ trung cấp, rất hiếm cán bộ có
trình độ đại học, đặc biệt ở những vùng trung du, miền núi, dân tộc cho đến thời điểm
này vẫn còn không ít cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã chưa đạt tới trình độ trung
cấp. Chính vì vậy việc tổ chức Hội nghị và tổ chức các Sự kiện văn hóa, thể thao và du
lịch bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, thiếu chất lượng,
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
205
nhiều sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch được tổ chức còn thiếu trọng tâm,
trọng điểm, diễn ra tràn lan, gây phản cảm trong quần chúng nhân dân.
Thực trạng trên đã và đang làm giảm đi những giá trị đích thực vốn có của các
hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nguyên nhân
có nhiều nhưng tựu trung lại là do các cấp chính quyền địa phương thiếu đi sâu đi sát,
thiếu sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ và kiểm tra các khâu chuẩn bị Hội nghị hoặc Sự
kiện của các cơ quan, đơn vị, đoàn thể, cá nhân có nhu cầu tổ chức Hội nghị, tổ chức
Sự kiện, nên hầu hết chỉ mang tính hình thức, nội dung chương trình thiếu chất lượng,
thậm chí có những nơi còn không quan tâm đến việc xây dựng kịch bản chương trình,
hoặc có xây dựng nhưng nội dung chương trình không được được quy định cụ thể, rõ
ràng, nên không ít các Hội nghị, các Sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch ở địa phương
diễn ra chưa mang lại hiệu quả xã hội cao.
Để tổ chức các Hội nghị, các Sự kiện văn hoá, thể thao, gia đình và du lịch ở cấp xã
ngày càng đi vào chuyên nghiệp, không có con đường nào khác là các cấp chính quyền
địa phương cần phải nhanh chóng có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức văn
hoá - xã hội xã, kịp thời trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về việc xây dựng kịch
bản các chương trình Hội nghị, Sự kiện… Để từ đó, người cán bộ văn hoá - xã hội xã có
thể chủ động tiến hành công việc một cách có hiệu quả, giảm thiểu những khâu rườm rà,
không cần thiết trong quá trình tiến hành tổ chức Hội nghị hoặc Sự kiện…
Với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức văn hóa-xã hội xã có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản
lý hành chính, quản lý điều hành Kinh tế - Xã hội và thực thi công vụ phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, chuyên đề bài
giảng “Kỹ năng xây dựng kịch bản Hội nghị, kịch bản chương trình các Sự kiện văn
hóa, gia đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã” nhằm mục đích giúp cán bộ công
chức văn hoá - xã hội xã có thêm những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong việc viết
kịch bản Hội nghị, và các Sự kiện văn hoá, thể thao, gia đình và du lịch, góp phần
nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã đồng
thời nâng cao hơn nữa chất lượng các Hội nghị, các Sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình
và du lịch được tổ chức tại xã trong thời kỳ hội nhập và phát triển đất nước.
1. Hội nghị.
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm về Hội nghị
- Hội nghị là một cuộc họp được tổ chức có nhiều thành phần đại biểu tham dự, để
bàn bạc hoặc giải quyết một hoặc nhiều công việc có tính chất chung nào đó. Hội nghị là
quá trình thảo luận và xử lý thông tin nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn theo đa
số; Từ đó, xác định phương hướng, giải pháp, hành động cần phải tiến hành và sau đó
có kế hoạch kiểm tra, xem xét hiệu quả việc thực hiện chúng.
- Hội nghị là một hoạt động nhằm quán triệt, triển khai nhiệm vụ hoặc bàn bạc
thảo luận đi đến thống nhất một kế hoạch, một chủ trương hay một công việc nào đó,
trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm huy động sức mạnh của tập
206
thể cùng nhau nỗ lực phấn đấu hoàn thành công việc nội bộ của cơ quan đề ra hoặc
nhiệm vụ của cấp trên giao cho. Vì vậy, việc tổ chức Hội nghị tại cơ quan, đơn vị là
một trong những công việc rất quan trọng, cần phải được tổ chức cẩn trọng, chu đáo
nhằm phát huy được hiệu quả cao nhất.
- Để tổ chức một Hội nghị thành công người cán bộ công chức văn hóa-xã hội xã
khi viết kịch bản cần có những kỹ năng và kiến thức cơ bản về việc xây dựng kịch bản
chương trình và cách thức để tổ chức Hội nghị thành công. Mỗi Hội nghị được tổ chức
đều có mục đích, ý nghĩa, nội dung, mục tiêu và tầm quan trọng khác nhau do đó trong
phạm vi bài giảng này chúng ta chỉ nghiên cứu những kỹ năng cơ bản để xây dựng
kịch bản chương trình Hội nghị, căn cứ vào mục đích, ý nghĩa, mục tiêu và quy mô
của Hội nghị được tổ chức, người viết kịch bản xây dựng kịch bản cho phù hợp với
từng loại Hội nghị.
1.1.2. Khái niệm về kịch bản chương trình Hội nghị.
Kịch bản chương trình Hội nghị là toàn bộ nội dung chương trình Hội nghị được
viết ra dưới dạng văn bản, thể hiện đầy đủ các yếu tố: mục đích ý nghĩa, quy mô, thời
gian, địa điểm, trang trí khánh tiết, người dẫn chương trình, người chủ trì Hội nghị, thư
ký Hội nghị, âm thanh, ánh sáng và các trang thiết bị khác phục vụ cho Hội nghị đạt
hiệu quả và chất lượng cao. Một kịch bản chương trình Hội nghị tốt, có chất lượng là
kịch bản bao quát được toàn bộ nội dung chương trình Hội nghị một cách đầy đủ và
chi tiết. Vì thế để viết được kịch bản chương trình Hội nghị người viết kịch bản phải
có kỹ năng và kiến thức hiểu biết nhất định.
Một chương trình Hội nghị tổng kết công tác năm khác với một chương trình
Hội nghị phát động phong trào thi đua yêu nước, tôn vinh các gia đình văn hóa,
tổng kết công tác phòng chống bạo lực gia đình hoặc quán triệt triển khai chỉ tiêu
kế hoạch nhà nước giao… Điều đó có nghĩa là Không có mẫu kịch bản chung, chi
tiết áp dụng cho tất cả các Hội nghị mà tùy thuộc vào tính chất, mức độ và quy mô
của từng Hội nghị người viết kịch bản cân nhắc xây dựng kịch bản chương trình
cho phù hợp.
Kịch bản chương trình Hội nghị được chia làm 2 loại: Kịch bản tổng quát và
kịch bản chi tiết; Kịch bản tổng quát là kịch bản khái quát được toàn bộ nội dung
chương trình Hội nghị, tập hợp được các vấn đề, sự vật, sự việc có quan hệ chặt chẽ với
nhau, làm thành một thể thống nhất, làm sáng tỏ chủ đề và trọng tâm của Hội nghị, đồng
thời kịch bản tổng quát là kịch bản khái quát được toàn bộ mục đích ý nghĩa, mục tiêu,
tầm quan trọng, nội dung, hình thức, nguồn kinh phí và đưa ra được các giải pháp triển
khai thực hiện Hội nghị đạt hiệu quả cao - đây là dạng kịch bản trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt, trên cơ sở đó xây dựng kịch bản chi tiết để triển khai tổ chức thực hiện. Kịch
bản chi tiết là kịch bản cụ thể hóa, chi tiết hóa kịch bản tổng quát. Kịch bản chi tiết là
kịch bản xác định nhiệm vụ cụ thể, đầy đủ, chi tiết đến từng phần, từng việc, từng
điểm rất nhỏ trong nội dung của chương trình Hội nghị, giúp cho việc tổ chức triển khai
thực hiện Hội nghị đạt hiệu quả cao.
207
1.1.3. Khái niệm về người dẫn chương trình Hội nghị.
Người dẫn chương trình Hội nghị thông thường là cán bộ tổ chức của cơ quan,
đơn vị có trách nhiệm giúp lãnh đạo cơ quan, đơn vị tổ chức Hội nghị. Nói cách khác
người dẫn chương trình Hội nghị là người được lãnh đạo tin tưởng giao nhiệm vụ dẫn
chương trình cho Hội nghị có trách nhiệm kiểm tra con số đại biểu tham dự Hội nghị
báo cáo cho lãnh đạo biết. Sau khi có ý kiến của lãnh đạo cho phép Hội nghị tiến hành,
người dẫn chương trình thực hiện các thủ tục nghi lễ khai mạc Hội nghị, tuyên bố lý
do, giới thiệu đại biểu, mời cán bộ lãnh đạo Chủ trì Hội nghị lên điều hành Hội nghị,
mời thư ký Hội nghị lên ghi biên bản Hội nghị. Quá trình diễn biến và kết quả Hội
nghị do Chủ trì Hội nghị điều hành, thư ký Hội nghị ghi biên bản, Kết thúc Hội nghị
người dẫn chương trình thay mặt Ban tổ chức Hội nghị nói lời cám ơn và chúc các đại
biểu tham dự Hội nghị sức khỏe và thành công.
1.1.4. Khái niệm về Người chủ trì Hội nghị
Người chủ trì Hội nghị thông thường là lãnh đạo cơ quan, đơn vị tổ chức Hội
nghị là người chịu trách nhiệm chính toàn bộ mục đích, ý nghĩa, nội dung, mục tiêu và
các công việc trọng tâm của Hội nghị cần phải được các đại biểu tham dự Hội nghị
trao đổi thảo luận và đi đến biểu quyết thống nhất. Nhưng do tính chất, quy mô, đặc
điểm, đặc thù của từng Hội nghị khác nhau nên cũng có những Hội nghị cơ quan, đơn
vị mời Thủ trưởng cấp trên hoặc Nhà quản lý, Nhà khoa học, Chuyên gia có uy tín để
Chủ trì Hội nghị. Người chủ trì Hội nghị chính là người trực tiếp điều hành toàn bộ nội
dung chương trình và chịu trách nhiệm trước kết quả của Hội nghị. Do đó người Chủ trì
Hội nghị ngoài bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, cần phải có
kỹ năng thích ứng và xử lý tốt đối với mọi tình huống có thể xảy ra trong Hội nghị,
hướng dẫn Hội nghị đi đến thành công.
Người Chủ trì Hội nghị phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức Hội nghị, đóng vai
trò chủ chốt trong việc chỉ đạo, điều hành, không bỏ qua bất cứ một quy tắc nào do
Hội nghị đề ra, đảm bảo thời gian, chất lượng và hiệu quả của Hội nghị. Có khả năng
quan sát thái độ đồng tình hay không đồng tình của các đại biểu và tổng hợp được ý
kiến của các thành viên tham dự Hội nghị, trên cơ sở đó đưa ra những kết luận sáng
suốt, đúng đắn và hiệu quả. Vì thế để viết được một kịch bản chương trình Hội nghị và
triển khai tổ chức Hội nghị thành công người viết kịch bản phải xin ý kiến chỉ đạo của
tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị tiến cử ai là người có đủ năng lực và kỹ năng điều
hành Hội nghị đi đến thắng lợi để đưa vào trong kịch bản (Tùy theo tính chất, quy mô
của Hội nghị mà tập thể lãnh đạo có thể chọn lựa và tiến cử 1 hay là 2 đến 3 người…).
1.1.5. Khái niệm về Thư ký Hội nghị
Thư ký Hội nghị có trách nhiệm: Ghi biên bản Hội nghị; Tổng hợp đầy đủ, trung
thực, chính xác ý kiến phát biểu của đại biểu tại Hội nghị; Giúp Chủ trì Hội nghị trong
việc điều khiển thảo luận và biểu quyết tại Hội nghị. Với các nhiệm vụ nêu trên, đòi hỏi
Thư ký Hội nghị phải là người có trình độ, có kiến thức tổng hợp, có khả năng tốc ký để
ghi chép đầy đủ các ý kiến phát biểu của đại biểu và kết luận của người Chủ trì Hội nghị.
Do đó người viết kịch bản chương trình Hội nghị cũng cần phải xin ý kiến chỉ đạo của tập
thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chọn lựa và tiến cử để ghi vào trong kịch bản.
208
1.2. Kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị
1.2.1. Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ tổ chức Hội nghị
Khác với các cuộc họp để giải quyết công việc thường nhật của cơ quan, đơn vị,
Hội nghị thường được tổ chức nhằm mục đích quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên
hoặc triển khai thực hiện một nhiệm vụ, một kế hoạch nào đó của cơ quan, đơn vị. Tùy
theo tính chất, mức độ, tầm quan trọng của Hội nghị người viết kịch bản phải có trình
độ, kiến thức, có khả năng hình dung được toàn bộ chương trình Hội nghị diễn ra từ khi
bắt đầu cho đến lúc kết thúc. Có Hội nghị cần phải có chuẩn bị tài liệu, văn bản có liên
quan để phát trực tiếp, tại chỗ cho các đại biểu tham dự Hội nghị, để các thành viên Hội
nghị nghiên cứu, trên cơ sở đó phát biểu chính kiến cá nhân và thể hiện rõ thái độ đồng
ý hay không đồng ý. Có Hội nghị cần phải chuẩn bị tài liệu, văn bản, báo cáo, nội dung
chương trình Hội nghị gửi cho các đại biểu nghiên cứu trước 1 tuần hay nửa tháng để họ
chuẩn bị tham góp ý kiến tại Hội nghị.
Chủ trì Hội nghị là người điều hành Hội nghị từ đầu cho đến lúc kết thúc, có
trách nhiệm báo cáo trước Hội nghị những vấn đề cốt lõi, then chốt nhất để Hội nghị
xem xét. Sau khi lắng nghe các ý kiến phát biểu của đại biểu, Chủ trì Hội nghị tổng
hợp các ý kiến và kết luận Hội nghị theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Thư ký
Hội nghị có trách nhiệm ghi chép đầy đủ các ý kiến phát biểu của các đại biểu và kết
luận của người chủ trì Hội nghị. Quá trình diễn ra Hội nghị và kết quả của Hội nghị
không dễ dàng thống nhất nhanh chóng. Bởi vậy điều quan trọng nhất trong công tác
xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị là: Đặt ra mục đích, mục tiêu rõ ràng, nhiệm
vụ cụ thể và chuẩn bị đầy đủ những thông tin tư liệu cần thiết cho các đại biểu tham
dự Hội nghị có cơ sở để nghiên cứu, bàn bạc, thảo luận và đi đến kết quả thống nhất.
1.2.2. Xác định nội dung chương trình Hội nghị
Căn cứ kế hoạch tổ chức Hội nghị được lãnh đạo giao, công việc đầu tiên của
người viết kịch bản là phải xác định nội dung chương trình Hội nghị, trên cơ sở đó tập
trung trí tuệ và tài năng viết kịch bản chương trình Hội nghị theo đúng mục đích yêu cầu
của lãnh đạo đề ra, trình lãnh đạo phê duyệt rồi mới triển khai thực hiện. Nếu nội dung
chương trình Hội nghị chuẩn bị chưa tốt hoặc quá sơ sài, thiếu chu đáo, nhất là những
vấn đề trọng tâm cần phải đưa ra Hội nghị để các đại biểu tham dự thảo luận, bàn bạc
chưa được xác định rõ ràng hoặc đại biểu mời tham dự Hội nghị không đúng đối
tượng… thì chắc chắn Hội nghị đó sẽ không đạt kết quả. Để giảm thiểu những sai sót về
nội dung chương trình tổ chức Hội nghị, khi viết kịch bản chương trình Hội nghị, người
viết kịch bản phải xác định được toàn bộ nội dung chương trình cũng như hình thức thể
hiện và các công việc khác có liên quan đến công tác phục vụ Hội nghị, trên cơ sở đó
khắc phục những yếu kém, tránh sự rườm rà không cần thiết trong các khâu chuẩn bị
nhằm giảm thiểu tối đa nguồn nhân lực và kinh phí nhưng lại đạt hiệu quả cao.
1.2.3. Lên kế hoạch và dự trù kinh phí tổ chức Hội nghị
Tùy theo tính chất, quy mô của từng Hội nghị mà người viết kịch bản chương
trình Hội nghị lên kế hoạch có thành lập hay không thành lập Ban tổ chức. Ai là người
chủ trì, ai là thư ký? Những Hội nghị nhằm triển khai chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao,
209
thủ trưởng cơ quan, đơn vị giao nhiệm vụ cho Phòng Tổ chức-Hành chính hoặc Chánh
văn phòng đảm nhận và lên kế hoạch triển khai thực hiện trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
Ở những Hội nghị có quy mô lớn hơn, người viết kịch bản lên kế hoạch theo từng nội
dung công việc đã được quy định trong kịch bản và đề nghị lãnh đạo cơ quan, đơn vị
thành lập Ban tổ chức, xác định rõ số lượng đại biểu, khách mời, thời gian, địa điểm tổ
chức Hội nghị. Có hay không trang trí khánh tiết cũng như tài liệu văn bản phục vụ
Hội nghị? Các điều kiện cần thiết khác: Lễ tân đón tiếp đại biểu, quay phim, chụp ảnh,
máy chiếu, âm nhạc, các tiết mục văn nghệ phục vụ khai mạc, nghỉ giải lao và bế mạc
Hội nghị? Hoa trang trí, hoa chúc mừng Hội nghị, thẻ đeo của Ban Tổ chức, đại biểu,
khách mời, sơ đồ sắp xếp bàn ghế trong Hội trường, các trang thiết bị âm thanh, ánh
sáng, micro (có dây, không dây, dự phòng) và các vấn đề khác có liên quan đến Hội
nghị cần phải được chuẩn bị nghiêm túc và có sự phân công công việc cụ thể cho từng
thành viên trong Ban tổ chức. Trên cơ sở đó lập dự trù kinh phí theo từng công việc
(thù lao đại biểu, thẻ đeo của Ban tổ chức, khách mời, nước uống giải khát, kể cả các
vật dụng mượn, thuê mướn, hợp đồng mua bán phục vụ Hội nghị…) người viết kịch
bản lập tờ trình, kèm theo kịch bản chương trình và dự trù kinh phí phục vụ Hội nghị
trình lãnh đạo phê duyệt.
1.2.4. Xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị
Để xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị người viết kịch bản cần nắm vững
những bước cơ bản như sau:
Một là: Kiểm tra lại thời gian tổ chức Hội nghị từ mấy giờ đến mấy giờ vào ngày
tháng năm nào, lãnh đạo có ý kiến thay đổi gì không? Địa điểm ở đâu? Hội trường lớn
hay Hội trường nhỏ, có hay không có trang trí khánh tiết? Nghi thức khai mạc và bế mạc
Hội nghị theo phương thức nào? Ai là người chủ trì, ai là thư ký, ai là người dẫn chương
trình? Lên danh sách, gửi giấy mời kèm theo chương trình Hội nghị cho các đại biểu,
khách mời. Tổng số danh sách đại biểu, khách mời là bao nhiêu? (đồng thời kèm theo
Hồ sơ trích ngang của các đại biểu, khách mời để bộ phận lễ tân sắp xếp bố trí chỗ ngồi
hợp lý). Có hay không có thẻ đeo cho Ban tổ chức, đại biểu, khách mời. Ai là người đọc
báo cáo, bao nhiêu đại biểu có bài phát biểu tham luận? bao nhiêu đại biểu đăng ký phát
biểu tại Hội nghị? Mỗi đại biểu phát biểu trong vòng bao nhiêu phút?
Hai là: Mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của Hội nghị lãnh đạo UBND xã có
điều chỉnh bổ sung điều gì khác và mới không? Nhất là nội dung, phạm vi, quy mô
Hội nghị có gì thay đổi không?
Nghiên cứu thật sâu ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo về việc tổ chức Hội nghị nhằm
quán triệt triển khai kế hoạch công tác gì? Của cấp trên giao, hay của cơ quan, đơn vị
đề ra? Hướng tới mục tiêu gì? Thảo luận bàn bạc và giải quyết những vấn đề gì? Có
mấy vấn đề cần phải trao đổi thảo luận đi đến thống nhất? Mỗi vấn đề cần có bao
nhiêu thời gian dành cho đại biểu phát biểu ý kiến? Biểu quyết tán thành hay không
tán thành bằng hình thức bỏ phiếu kín, hay giơ tay?
Ba là: Kiểm tra lại hình thức tổ chức hội nghị lãnh đạo có ý kiến chỉ đạo gì khác
trước đó không? Kinh phí tổ chức Hội nghị lãnh đạo duyệt so với kế hoạch đề ra tăng
hay giảm, nếu tăng thì tăng ở phần việc nào và giảm thì giảm ở phần việc nào? Địa điểm
210
tổ chức Hội nghị có hay không có phông màn âm thanh, ánh sáng, sân khấu. Nếu là
Phòng họp thì phòng hình vuông hay hình chữ nhật? Nếu là Hội trường thì rộng hay
hẹp? Bục bệ, bàn ghế cho người chủ trì, thư ký và đại biểu, khách mời được bố trí như
thế nào? Có hay không có khẩu hiệu, pano, áp phích, nếu có treo ở đâu, nội dung chữ
viết thế nào? Trang trí khánh tiết theo nghi lễ nào? Có chào cờ hay không?
Bốn là: Xác định người dẫn chương trình cho Hội nghị vì thông thường kịch bản
chương trình của Hội nghị bao giờ cũng kèm theo lời dẫn chương trình. Nói cách khác
người viết kịch bản chương trình đồng thời cũng là người viết lời dẫn chương trình vì
không ai có thể viết lời dẫn chương trình Hội nghị sinh động hấp dẫn và có sức thuyết
phục bằng tác giả kịch bản. Nhưng không phải lúc nào người viết kịch bản cũng đồng
thời là người dẫn chương trình Hội nghị vì không phải bất kỳ ai viết lời dẫn hay cũng
có khả năng diễn đạt trước Hội nghị tốt và ngược lại cũng có người viết không hay
nhưng lại có tài hùng biện trước công chúng nên khi đảm nhận công việc dẫn chương
trình cho Hội nghị lại rất có sức thuyết phục. Do đó việc xác định người dẫn chương
trình trong kịch bản chương trình Hội nghị cũng phải được đặt ra nghiên cứu cẩn trọng
và đề xuất lãnh đạo xem xét tiến cử người nào có khả năng, góp phần vào sự thành
công chung của Hội nghị.
Sau khi các dữ liệu cần thiết có trong tay ta bắt đầu đặt bút viết. Đây là kịch bản
chương trình triển khai tổ chức thực hiện. Xin ví dụ sau đây một dạng Hội nghị có
nghi thức làm lễ chào cờ.
Cụ thể:
- Khai mạc
Khai mạc Hội nghị là phần đầu của chương trình Hội nghị, người cán bộ được
Ban tổ chức phân công dẫn chương trình, hoặc cán bộ trong Ban tổ chức Hội nghị có
trách nhiệm tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi và đầm ấm tình đồng chí đồng
nghiệp của các đại biểu và khách mời tham dự Hội nghị. Khai mạc Hội nghị thường có
các công việc sau:
• Tập hợp lực lượng: Trong khi chờ đợi đại biểu, khách mời đến dự Hội nghị ta
có thể dùng âm nhạc với những bài ca lạc quan yêu đời tạo không khí phấn chấn cho
các đại biểu, khách mời đến tham dự Hội nghị. Bộ phận lễ tân đón đại biểu khách mời,
phát tài liệu, tặng hoa (nếu có) cần phải thực hiện các công việc nêu trên nhanh gọn để
tạo ra khí thế phấn khởi ban đầu cho Hội nghị.
• Tiến hành Nghi thức khai mạc Hội nghị.
• Chào cờ
Sau khi các đại biểu, khách mời ổn định vị trí, chỗ ngồi, người cán bộ dẫn
chương trình Hội nghị xuất hiện trong tư thế nghiêm trang, chỉnh tề mời các đại biểu,
khách mời tham dự Hội nghị đứng lên làm lễ chào cờ. Dõng dạc hô: Nghiêm! Chào
cờ…chào! Quốc ca vang lên. Nghi thức chào cờ xong. Người cán bộ dẫn chương trình
hô: Thôi! Mời quí vị đại biểu và khách mời an tọa. Thông thường dùng từ cám ơn!
Các đại biểu trở về vị trí cũ.
211
• Tuyên bố lý do:
Nghi thức chào cờ kết thúc, người cán bộ dẫn chương trình làm nhiệm vụ
tuyên bố lý do tổ chức Hội nghị. Nội dung tuyên bố lý do nói lên mục đích ý nghĩa
và tầm quan trọng của Hội nghị, lời lẽ tuyên bố lý do ngắn gọn, rõ ràng, rành mạch,
khúc chiết. Kết thúc lời tuyên bố lý do bao giờ cũng kèm theo lời chúc Hội nghị
thành công tốt đẹp.
• Giới thiệu đại biểu:
Sau tuyên bố lý do là phần giới thiệu đại biểu
- Giới thiệu đại biểu cấp cao trước.
- Giới thiệu đại biểu là khách mời trước, chủ nhà sau.
Lưu ý:
- Đừng quên giới thiệu lực lượng tham gia
- Linh hoạt trong phần giới thiệu đại biểu bổ sung (khi đại biểu đến trễ hoặc do
BTC sai sót).
- Giới thiệu lãnh đạo có trách nhiệm cao nhất của cơ quan, đơn vị lên khai mạc
Hội nghị.
- Giới thiệu lãnh đạo cấp trên phát biểu chỉ đạo Hội nghị
• Thông qua chương trình:
Sau lời khai mạc của lãnh đạo cơ quan, đơn vị, lời phát biểu chỉ đạo Hội nghị
của lãnh đạo cấp trên, người dẫn chương trình thông qua Hội nghị toàn bộ nội dung
chương trình Hội nghị đã được quy định chặt chẽ trong kịch bản. Sau đó mời Chủ trì
Hội nghị lên điều hành Hội nghị. Mời thư ký Hội nghị lên làm nhiệm vụ ghi Biên bản
Hội nghị.
1.2.5. Nội dung chương trình Hội nghị
Đây là phần chính của chương trình Hội nghị, Người chủ trì Hội nghị căn cứ nội dung
chương trình đã được cụ thể hóa trong kịch bản để điều hành Hội nghị.
• Người chủ trì Hội nghị có trách nhiệm đưa ra Hội nghị những nội dung cần trao
đổi thảo luận tại Hội nghị để đi đến thống nhất.
• Bố trí sắp xếp cho các đại biểu, khách mời đọc báo cáo, phát biểu tham luận,
hoặc phát biểu tại Hội nghị của các vị đại biểu, khách mời một cách hợp lý, tạo không
khí đoàn kết, phấn khởi, vui tươi, lạc quan trong Hội nghị.
• Sau khi Hội nghị thảo luận, trao đổi, bàn bạc từng vấn đề một cách sôi nổi và đầy
trách nhiệm. Chủ trì Hội nghị có trách nhiệm tổng hợp tất cả các ý kiến của các thành viên
tham dự Hội nghị, trên cơ sở đó kết luận từng vấn đề cụ thể rõ ràng. Đề nghị các thành
viên tham dự Hội nghị nếu không còn có ý kiến gì khác thì biểu quyết thông qua theo
nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
- Chủ trì Hội nghị Thông qua Kết luận của Hội nghị.
212
- Thư ký Hội nghị thông qua Biên bản Hội nghị
1.2.6. Bế mạc
Đây là phần cuối của toàn bộ chương trình Hội nghị, cần tạo không khí vui tươi
phấn khởi để kết thúc Hội nghị. Bế mạc Hội nghị thường có các phần sau:
- Công bố các quyết định khen thưởng. Tiến hành trao phần thưởng trên bục danh
dự cho các tập thể và cá nhân xuất sắc (nếu có).
- Thay mặt Ban Tổ chức Hội nghị, người dẫn chương trình đọc lời Bế mạc, nói
lời cám ơn, chúc sức khỏe các đại biểu, khách mời tham dự Hội nghị.
- Mời đại biểu, khách mời chụp ảnh lưu niệm. Bộ phận lễ tân tiễn đại biểu khách
mời ra về với sự trân trọng.
2. Sự kiện
2.1. Những khái niệm
2.1.1. Khái niệm về các sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch.
Sự kiện là một sự việc, một hoạt động quan trọng xảy ra gây ảnh hưởng và tác
động lớn đến tình cảm tư tưởng của cộng đồng, tạo ra dư luận rộng rãi trong công chúng
và toàn xã hội. Có những sự kiện cả nước quan tâm ví dụ: Sự kiện kỷ niệm Một nghìn
năm Thăng - Hà Nội, Lễ Hội Giỗ tổ Hùng vương, kỷ niệm 300 năm Thành phố Hồ chí
Minh, 350 năm tỉnh Khánh Hoà, 400 năm tỉnh Phú Yên, Festival Huế, Festival biển
Nha Trang, Festival hoa Đà lạt, Lễ Hội Cà phê Ban Mê Thuột… và những sự kiện tổ
chức các cuộc thi sắc đẹp như: Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Hoàn Vũ, Hoa hậu Quý bà
đẹp và thành đạt… Tổ chức sự kiện được phân cấp từ Trung ương cho đến địa phương,
tùy theo mục đích, ý nghĩa, quy mô tổ chức, có những sự kiện thuộc pham vị tỉnh, thành,
vùng miền tổ chức và cũng có những sự kiện thuộc phạm vi huyện, xã tổ chức.
Sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch chính là các hoạt động văn hóa, thể
thao, gia đình và du lịch với quy mô lớn có tác động trực tiếp đến tình cảm tư tưởng
của cộng đồng dân cư và có sức hút mạnh mẽ đối với các lực lượng tham gia.
2.1.2. Khái niệm về kịch bản chương trình sự kiện
Để tổ chức tốt một sự kiện, việc đầu tiên phải viết kịch bản chương trình rồi
mới tiến hành tổ chức. Vậy kịch bản chương trình sự kiện là gì?
Kịch bản chương trình sự kiện là toàn bộ nội dung và hình thức tổ chức Sự kiện
theo một trình tự nhất định và trong một thời gian nhất định. Kịch bản chương trình
được viết ra dưới dạng kịch bản văn học, thể hiện đầy đủ các yếu tố: Ý tưởng, mục
đích ý nghĩa, nội dung và hình thức tổ chức toàn bộ chương trình, các hoạt động diễn
ra trong cùng một Sự kiện; tính chất, quy mô, thời gian, địa điểm tổ chức Sự kiện; lời
dẫn, người dẫn chương trình, âm thanh, ánh sáng, sân khấu và các trang thiết bị khác
phục vụ cho việc tổ chức nội dung chương trình Sự kiện đạt hiệu quả và chất lượng
cao.
Kịch bản chương trình Sự kiện được tổ chức tại xã chính là ý tưởng và toàn bộ nội
dung và hình thức tổ chức Sự kiện đó do UBND xã đề ra, viết kịch bản chương trình Sự
213
kiện không ngoài mục đích định hướng Sự kiện triển khai tổ chức thực hiện theo một
trình tự thống nhất vào một thời gian cụ thể đã được quy định chặt chẽ. Sự kiện được tổ
chức ở các lĩnh vực khác nhau, quy mô không giống nhau thì kịch bản khác nhau. Ví dụ
Sự kiện tổ chức Liên hoan văn hóa văn nghệ quần chúng chào mừng ngày thống nhất
đất nước (30-4) ở xã A sẽ khác với Sự kiện tổ chức Hội thao Hội diễn phong trào thể
dục thể thao quần chúng chào mừng ngày kỷ niệm cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2-
9 ở xã B…Vì thế, khi viết kịch bản cho các Sự kiện người viết kịch bản phải nghiên cứu
ý tưởng, chủ đề, mục đích ý nghĩa, nội dung, tính chất, quy mô và tùy thuộc vào đặc
điểm và tầm quan trọng của từng Sự kiện để xây dựng kịch bản chương trình cho phù
hợp.
Kịch bản chương trình Sự kiện có vai trò và tầm quan trọng như một kim chỉ nam
hướng các hoạt động văn hoá, thể thao, gia đình và du lịch của mỗi địa phương đi đúng
mục tiêu, phương hướng và chủ đề đặt ra, mang lại hiệu quả cao cho công tác tổ chức Sự
kiện cũng như công tác quản lý nhà nước của chính quyền địa phương.
Xây dựng kịch bản chương trình Sự kiện giúp lãnh đạo UBND xã nắm bắt được
toàn bộ ưu điểm và tính hữu ích của Sự kiện sắp tổ chức, cũng như những vấn đề còn
bất cập của chương trình, trên cơ sở đó lãnh đạo UBND xã sẽ có ý kiến chỉ đạo cụ thể,
kích thích sự sáng tạo của người viết kịch bản, giúp cho việc tổ chức Sự kiện đạt hiệu
quả cao, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và tình
yêu xứ sở quê hương của cộng đồng dân cư trong xã.
Một kịch bản chương trình Sự kiện tốt, có chất lượng là kịch bản nói lên được ý
tưởng, chủ đề và mục đích, ý nghĩa của Sự kiện được tổ chức. Nói cách khác là bao
quát được toàn bộ nội dung chương trình một cách đầy đủ và chi tiết. Để viết được
kịch bản chương trình Sự kiện, người viết kịch bản phải có năng khiếu và trình độ
thẩm mỹ nghệ thuật, hình dung được Sự kiện đó diễn ra từ đầu cho đến lúc kết thúc
sao cho ngoạn mục và hấp dẫn. Vì lẽ đó người viết kịch bản ngoài kiến thức hiểu biết
về cách thức, kỹ năng viết kịch bản, còn phải có khả năng hoạch định được các công
việc cần phải làm, lên được các phương án tối ưu để tổ chức thực hiện. Ví dụ để tổ
chức một Sự kiện thuộc lĩnh vực văn hóa văn nghệ quần chúng đòi hỏi người viết kịch
bản phải am hiểu lĩnh vực văn hóa văn nghệ quần chúng, xác định Sự kiện chuẩn bị
được tổ chức bắt nguồn từ ý tưởng nào? Chủ đề Sự kiện tập trung vào mục đích ý
nghĩa gì? Phương pháp cách thức tuyên truyền quảng bá sự kiện sao cho đạt hiệu quả?
Làm thế nào để có sức hút mạnh mẽ các nguồn lực và các thành phần kinh tế tham
gia? Các hoạt động chính trong sự kiện là những hoạt động gì? Diễn ra ra sao để làm
nổi bật chủ đề của sự kiện? Tính hấp dẫn của chương trình ở điểm nào để được mọi
người quan tâm? Nội dung nào có tác động mạnh mẽ đến tình cảm và tư tưởng của
quần chúng nhân dân? Hoạt động nào khơi dậy niềm tự hào dân tộc và tình yêu xứ sở
quê hương của công chúng? Phương án nào triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao?
Để có thể viết được kịch bản chương trình cho các sự kiện văn hóa, thể thao, gia
đình và du lịch ở địa phương đạt chất lượng cao, người viết kịch bản ngoài việc phải
am hiểu sâu sắc về các lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao, gia đình và du lịch còn cần
phải có những kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình Sự kiện.
214
2.2. Kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình các sự kiện văn hóa, thể thao
và du lịch.
Tương tự như kịch bản chương trình Hội nghị. Kịch bản chương trình sự kiện
cũng được chia ra làm 2 loại: Kịch bản tổng quát và kịch bản chi tiết. Kịch bản tổng
quát chương trình Sự kiện là kịch bản bao hàm toàn bộ các vấn đề của sự kiện: Ý
tưởng, chủ đề, mục đích ý nghĩa; nội dung chương trình, các hoạt động chính, nhân sự
tham gia Ban tổ chức, Êkip thực hiện, tác giả, đạo diễn, lực lượng tham gia, địa điểm
tổ chức, hình thức tổ chức, hoạt động chính, hoạt động phụ trong sự kiện. Công tác
tuyên truyền quảng bá Sự kiện? Nguồn kinh phí tổ chức? Có hay không có tài trợ? Dự
kiến đại biểu, khách mời, khán giả tham dự, phương án dự phòng, phương án bảo vệ
an ninh trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường... và các giải pháp khác để có thể
tổ chức sự kiện đạt hiệu quả cao.
Kịch bản chương trình Sự kiện là kịch bản trình UBND xã xem xét phê duyệt, kịch
bản chương trình là cơ sở, là nền tảng vững chắc để xây dựng kịch bản chi tiết.
Kịch bản chi tiết là kịch bản xác định nhiệm vụ cụ thể, đầy đủ, chi tiết đến từng
phần, từng việc, từng điểm rất nhỏ trong nội dung của chương trình. Có người còn gọi
kịch bản chi tiết là kịch bản MC (Kịch bản người dẫn chương trình) vì trong đó có kèm
theo lời dẫn MC và phân công công việc cụ thể cho từng thành viên trong ekip tổ chức
thực hiện chương trình, kịch bản chi tiết được xây dựng nhằm mục đích cụ thể hóa kịch
bản tổng quát giúp cho việc tổ chức triển khai thực hiện chương trình đạt hiệu quả cao.
Kịch bản chi tiết chính là kịch bản của đạo diễn Sự kiện.
Khác với kịch bản chương trình của Hội nghị, kịch bản chương trình của sự kiện
đòi hỏi người viết kịch bản phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự kiện sắp được tổ chức. Để
kịch bản chương trình của sự kiện cuốn hút được người đọc và trở thành mảnh đất phì
nhiêu cho đạo diễn chương trình tung hoành sáng tạo, xây dựng được những hình tượng
nghệ thuật kỳ vĩ hấp dẫn người xem, người viết kịch bản ngoài khả năng ham thích tìm
tòi, sáng tạo người viết kịch bản cần phải có niềm đam mê cuồng nhiệt trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Chính vì vậy, ngoài những kỹ năng xây dựng kịch bản chương trình
Hội nghị đã trình bày ở phần trên, người viết kịch bản chương trình các sự kiện cần phải
có các kỹ năng thiết yếu như sau:
2.2.1. Kỹ năng tham mưu, đề xuất lãnh đạo thành lập Ban tổ chức và Êkíp tổ
chức thực hiện Sự kiện
Sự kiện văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch là các hoạt động văn hóa, thể thao,
gia đình và du lịch có quy mô lớn thu hút nhiều lực lượng tham gia, tác động mạnh mẽ
đến tình cảm tư tưởng của cộng đồng dân cư, nên không thể chỉ có một vài nhân sự
đứng ra tổ chức được mà phải có Ban tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện, thì sự kiện đó
mới thành công.
Do đó khi bắt tay viết kịch bản cho bất cứ Sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch
nào theo sự chỉ đạo của UBND xã, người viết kịch bản chương trình cần phải nghiên
cứu ý tưởng, chủ đề, mục đích, ý nghĩa, tính chất, quy mô và tầm quan trọng của sự
kiện, trên cơ sở đó tham mưu, đề xuất những cán bộ có khả năng và lòng nhiệt huyết
215
đề nghị UBND xã ra quyết định thành lập Ban Tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện. Ban
Tổ chức và Êkip tổ chức thực hiện thảo luận bàn bạc và đi đến thống nhất đặc điểm,
tính chất, và quy mô tổ chức sự kiện. Từ đó Trưởng Ban tổ chức phân công nhiệm vụ
cụ thể rõ ràng cho các thành viên trong Ban tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện. Cụ thể:
Ai viết kịch bản, ai đạo diễn chương trình? Ai chịu trách nhiệm huy động mọi nguồn
lực xã hội và các thành phần kinh tế tham gia? Ai kêu gọi tài trợ? Ai lên danh sách các
đơn vị nghệ thuật quần chúng và số lượng nghệ sĩ tham gia? Ai lo khâu hậu cần? Ai
chịu trách nhiệm về việc quảng bá tuyên truyền cho sự kiện? Ai lên kế hoạch bảo vệ
an ninh trật tự? Ai chịu trách nhiệm về sân khấu, trang thiết bị âm thanh, ánh sáng loa
đài…? Ai chịu trách nhiệm về các thành phần khác tham gia phục vụ sự kiện? Ai chịu
trách nhiệm lên phương án dự phòng? Kế hoạch triển khai thực hiện trong bao lâu? Ai
là người chịu trách nhiệm đôn đốc, giám sát và nghiệm thu những công việc này? Việc
phân công nhiệm vụ cụ thể kèm theo thời gian tiến độ phải hoàn thành cho các thành
viên trong Ban Tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện Sự kiện phải rành mạch rõ ràng,
đảm bảo các phần việc của sự kiện không bị chậm trễ, kém chất lượng hoặc gây ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến những công việc khác của Sự kiện. Vì những lẽ đó
người viết kịch bản chương trình Sự kiện phải có kỹ năng tham mưu và đề xuất UBND
xã thành lập Ban tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện chương trình.
2.2.2. Kỹ năng xác định Chủ đề cho sự kiện.
Chủ đề là vấn đề cơ bản, là nội dung cốt lõi, trọng tâm, trọng điểm của Sự kiện,
nói cách khác Chủ đề của Sự kiện là những vấn đề then chốt nhất được UBND xã phê
duyệt, có sức mạnh truyền tải đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước tới quần chúng nhân dân đạt hiệu quả cao nhất. Chủ đề là vấn đề chính
yếu của sự kiện; là yếu tố quyết định tính chất, hình thức, quy mô, nội dung của sự
kiện; Đồng thời là thông điệp có sức truyền cảm mạnh mẽ nhất tới công chúng. Việc
xác định Chủ đề cho Sự kiện chính là trả lời câu hỏi “Sự kiện tổ chức để làm gì? Nhằm
mục đích gì và có tác động gì đến tình cảm tư tưởng của công chúng trong đời sống xã
hội”? Chính vì vậy nếu khắc họa rõ nét Chủ đề của Sự kiện và được khán giả thừa
nhận Chủ đề ấy thì Ban tổ chức và Êkíp tổ chức thực hiện Sự kiện đã nắm chắc 50%
thắng lợi.
Chủ đề của Sự kiện thường được thể hiện trực tiếp qua tên gọi của Sự kiện. Ví
dụ: “Festival Biển Nha Trang”, “Lễ Hội hoa Đà Lạt”, Hoa hậu các dân tộc Việt
Nam… nên rất dễ hiểu. Nhưng cũng có những chủ đề buộc khán giả phải suy ngẫm
mới có thể cảm nhận được, ví dụ cùng là Lễ Hội hoa Đà Lạt nhưng mỗi năm Lễ hội
này lại mang một chủ đề khác nhau: Năm 2005 chủ đề là “Đà Lạt - Thành phố ngàn
hoa”; năm 2007 chủ đề là “Hoa Đà Lạt - Tôi yêu bạn”; năm 2009 chủ đề là “Festival
Hoa Đà Lạt chào mừng 1000 năm Thăng Long-Hà Nội” và năm 2011 chủ đề là “Đà
Lạt - Thành phố Festival Hoa”… Từ ví dụ nêu trên ta thấy chủ đề của sự kiện gắn liền
với nội dung, mục đích, ý nghĩa của sự kiện nên phải được lãnh đạo xem xét và phê
duyệt trước khi tổ chức thực hiện.
Để xác định Chủ đề cho Sự kiện ta cần lưu ý các yếu tố cơ bản sau đây:
216
- Xác định lĩnh vực của Sự kiện được tổ chức: Văn hóa-nghệ thuật, văn hóa-thể
thao, văn hóa - gia đình hay văn hóa - du lịch? Và các Sự kiện ấy diễn ra nhằm mục
đích gì?
- Xác định hình thức thể hiện sự kiện: Lễ hội truyền thống hay Festival, Liên hoan văn hóa
văn nghệ quần chúng hay Hội thao, Hội diễn thể dục thể thao quần chúng?
- Xác định tổ chức sự kiện vào thời điểm nào: Mùa đông, mùa Xuân, mùa Hạ, mùa
Thu hay các ngày lễ lớn trong năm của đất nước: Ngày thành lập Đảng 3/2; Ngày giải
phóng Miền Nam thống nhất đất nước 30/4; Ngày cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9;
Ngày gia đình Việt Nam 28/6; ngày phụ nữ Việt Nam 20/10…
- Xác định đại biểu, khách mời và các đối tượng khán giả tham dự sự kiện. Dự
kiến có bao nhiêu khán giả và công chúng tham dự sự kiện?
- Căn cứ vào mục đích, mục tiêu, ý nghĩa và thông điệp của Sự kiện gửi đến công
chúng để xác định Chủ đề cho Sự kiện: Ví dụ: Tổ chức sự kiện nhằm tuyên truyền,
phố biến về gia đình thì Chủ đề của Sự kiện sẽ là “kế hoạch hóa gia đình và trách
nhiệm của bạn” hay “bạo lực gia đình - vấn đề của toàn xã hội” …
Sau khi đã xác định được các vấn đề nêu trên, người viết kịch bản chương trình Sự
kiện ngoài kiến thức tổng hợp vốn có, cần phải tham khảo ý kiến những thành phần có
trách nhiệm tổ chức Sự kiện để xây dựng Chủ đề Sự kiện thật rõ nét và dễ hiểu.
2.2.3. Kỹ năng thiết lập Nội dung cho Sự kiện
Nội dung Sự kiện có hai cấp độ: Cấp độ thứ nhất là nội dung cụ thể nhằm chỉ dung
lượng trực cảm của Sự kiện. Ðó là sự thể hiện một cách sinh động và khách quan một
phạm vi hiện thực cụ thể của đời sống với quá trình diễn biến và sự thể hiện thông qua
hình ảnh, hình tượng của các hoạt động, chương trình được diễn ra trong Sự kiện.
Cấp độ thứ hai cao hơn, sâu hơn, chính là Chủ đề tư tưởng của Sự kiện. Chủ đề tư
tưởng của Sự kiện là quan điểm và đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước trong đời sống kinh tế - xã hội được UBND xã sáng tạo, lồng ghép khéo léo trong
các hoạt động, chương trình của Sự kiện nhằm truyền tải đến người dân những thông
điệp về các khía cạnh của đời sống-xã hội, đẩy lùi những quan niệm sai trái, thức tỉnh
những điều tốt đẹp, hướng con người đến những giá trị chân, thiện, mỹ, làm cho đời
sống người dân ngày càng phong phú và tốt đẹp hơn.
Để thiết lập Nội dung cho Sự kiện vừa sát với Chủ đề Sự kiện, vừa sâu sắc, vừa gần gũi
với quần chúng nhân dân, người xây dựng kịch bản chương trình cần xác định:
- Nội dung, hình thức, quy mô tổ chức Sự kiện; Được tổ chức trong bao nhiêu
ngày? Hoạt động của từng ngày ra sao? Chương trình Khai mạc thế nào? Bế mạc theo
phương thức nào? Nội dung chính diễn ra trong Sự kiện là gì? Kinh phí cho mỗi hoạt
động, chương trình ra sao? Sau khi liệt kê các hoạt động, chương trình dự kiến sẽ diễn
ra trong Sự kiện cần kèm theo kịch bản chi tiết và kế hoạch triển khai cho từng hoạt
động một cách cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác.
217
Lưu ý: Khi xây dựng các hoạt động cho Sự kiện (Khai mạc, Bế mạc, Tiểu phẩm,
Chương trình ca múa nhạc, Thi đấu thể thao, Hội diễn văn nghệ…) cần chú ý tính logic,
thống nhất trong Sự kiện, mỗi hoạt động đều nên gắn liền với chủ đề của Sự kiện.
Số lượng người tham dự Sự kiện trong đó:
- Khách mời cho Lễ khai mạc, Bế mạc và từng hoạt động cụ thể của Sự kiện với
số lượng bao nhiêu là hợp lý?
- Lực lượng tham gia các hoạt động trong Sự kiện là bao nhiêu? Dự kiến mời đạo
diễn, nghệ sĩ, ca sĩ , kỹ thuật âm thanh ánh sáng nào tham gia? Chi phí cụ thể cho đạo
diễn, nghệ sĩ, ca sĩ kỹ thuật âm thanh ánh sáng tham gia là bao nhiêu?
Cần dự tính số lượng khán giả tham dự từng chương trình của sự kiện. Trên cơ
sở đó xác định địa điểm tổ chức, lên phương án xây dựng sân khấu, phương án bảo vệ
an ninh trật tự, bảo vệ môi trường và các phương án dự phòng.
Sự kiện được tổ chức có điều gì làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân
tộc hay không? Mang lại lợi ích tinh thần và vật chất như thế nào cho quần chúng nhân
dân ở địa phương?
Sau khi xác định được các yếu tố nêu trên, người viết kịch bản tổng hợp lại, lên
danh sách, sắp xếp nội dung chương trình, xem hoạt động nào tổ chức trước, hoạt động
nào tổ chức sau, hoạt động nào được tổ chức đồng thời, hình thức tổ chức, thời gian tổ
chức, địa điểm tổ chức, số lượng người tham gia chương trình (khách mời, khán giả,
nghệ sĩ, diễn viên…) Đồng thời phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong Ban Tổ
chức, Êkíp tổ chức, mỗi người chịu trách nhiệm về một hoặc hai ba công việc nhất định,
trên cơ sở đó giám sát và kiểm tra kết quả của một hoặc nhiều hoạt động, chương trình
trong sự kiện.
2.2.4. Kỹ năng phân chia thời gian cho Sự kiện
Để đảm bảo cho sự kiện được tổ chức thành công, truyền tải được toàn bộ nội
dung chương trình, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân địa phương,
người viết kịch bản chương trình Sự kiện cần phân chia thời gian hợp lý, chú thích thời
gian một cách cụ thể, chi tiết, chính xác cho từng phần, từng hoạt động, từng tiết mục
của Sự kiện và gửi cho các thành viên trong Ban Tổ chức để họ xây dựng kế hoạch,
phương án tổ chức và định lượng thời gian cho các hoạt động mà họ được phân công
chịu trách nhiệm .
- Xác định quy mô tổ chức Sự kiện, Sự kiện được tổ chức trong 01 ngày hay nhiều
ngày, nếu Sự kiện được tổ chức trong nhiều ngày, người viết kịch bản chương trình cần
liệt kê danh sách các hoạt động của Sự kiện theo từng ngày. Ngày thứ nhất làm gì? Tổ
chức các hoạt động gì? Ở đâu? Kinh phí là bao nhiêu? Cần bao nhiêu nhân lực tham gia tổ
chức? Ai chịu trách nhiệm? Ngày thứ hai làm gì? Tổ chức chương trình gì?… Và trên cơ
sở kịch bản chương trình Sự kiện người viết kịch bản cần phải có kịch bản chi tiết cho
từng ngày, cho từng hoạt động cụ thể.
Sau khi liệt kê danh sách các hoạt động của Sự kiện, nhằm đảm bảo các hoạt
động của Sự kiện được diễn ra xuyên suốt, mạch lạc, chính xác, không có tình trạng
218
ngắt quãng hay còn gọi là thời gian chết trong từng chương trình, hoạt động cụ thể,
người viết kịch bản chương trình cần lên một bảng kế hoạch chi tiết, kèm theo là thời
gian thực hiện các công việc, phần việc trong toàn bộ chương trình tổ chức Sự kiện, để
các lực lượng tham gia Sự kiện tuân thủ chấp hành, đảm bao cho Sự kiện thành công.
Ví dụ: Lễ Khai mạc tổ chức liên hoan nghệ thuật quần chúng chào mừng kỷ niệm
ngày cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9 của xã A diễn ra vào lúc 9h00 ngày 02
tháng 9 năm 2010, tại Sân Vận động xã với thời lượng 01 tiếng đồng hồ, ta có thể lên
bảng kế hoạch chi tiết cho từng công việc theo từng nội dung cụ thể như sau:
Bắt đầu từ 8h30 Đạo diễn chương trình cùng Êkíp tổ chức thực hiện chương
trình có mặt đầy đủ tại địa điểm tổ chức Sự kiện xem xét kiểm tra lại lần cuối về trang
trí khánh tiết và các trang thiết bị âm thanh ánh sáng, sân khấu, bục bệ, phục vụ lễ
Khai mạc có đảm bảo hay không? Nghi lễ khai mạc được trang trí có đúng với makét
của UBND xã duyệt không? Kỹ thuật âm thanh, ánh sáng đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng
phục vụ Lễ khai mạc chưa? Chương trình văn nghệ chào mừng Sự kiện chuẩn bị thế
nào? Chu đáo chưa? Ai là người chịu trách nhiệm ghi hình, chụp ảnh cho buổi lễ, ai là
người thay mặt Ban tổ chức dẫn chương trình, ai là người đọc diễn văn khai mạc? Ai
là người đại diện cho Ban tổ chức lên trao các giải thưởng, phần thưởng cho các lực
lương tham gia Sự kiện (nếu có).
- 08h30 đến 8h45: Bộ phận Lễ tân của Ban tổ chức phân công người đón tiếp và
bố trí sắp xếp vị trí chỗ ngồi cho các đồng chí lãnh đạo, đại biểu, khách mời và toàn
thể khán giả một cách hợp lý.
- 08h45 đến 8h55: Ổn định chỗ ngồi cho các đồng chí lãnh đạo, đại biểu, khách
mời và khán giả trong nền nhạc êm dịu, vui tươi, và lạc quan.
- 8h55 đến 09h00:
Người dẫn chương trình (gọi tắt là MC) bước ra sân khấu cúi chào khán giả và
trân trọng kính mời các đồng chí lãnh đạo, quí vị đại biểu, các vị khách quí đón xem
chương trình văn nghệ chào mừng Lễ khai mạc Liên hoan văn hóa văn nghệ quần
chúng xã A nhân dịp kỷ niệm Ngày cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9. Sau khi
chương trình văn nghệ chào mừng kết thúc, người dẫn chương trình xuất hiện cám ơn
đội văn nghệ quần chúng xã nhà đã mang đến cho Lễ khai mạc một chương trình nghệ
thuật độc đáo và đặc sắc của địa phương, sau đó người dẫn chương trình thay mặt cho
Ban tổ chức tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, khách mời. (Giới thiệu đại biểu lãnh
đạo cấp cao, khách mời trước, chủ nhà sau) Tiếp đến là trân trọng kính mời đồng chí
Chủ tịch xã lên đọc diễn văn khai mạc.
- 9h00 đến 9h05: Chủ tịch xã đọc diễn văn khai mạc
- 9h05- 09h10: Người dẫn chương trình giới thiệu và kính mời đại biểu lãnh đạo
cấp trên lên phát biểu ý kiến chỉ đạo.
- 9h10- 9h15: Mời đại biểu chính quyền địa phương nơi diễn ra Lễ khai mạc và
địa điểm tổ chức Liên hoan lên đọc lời chào mừng.
219
- 9h15- 9h25: Mời đại diện Ban tổ chức công bố các quyết định và thể lệ của
cuộc Liên hoan, giới thiệu các đơn vị nghệ thuật quần chúng tham dự Liên hoan, Lịch
trình tham dự Liên hoan của từng đơn vị, giới thiệu Chủ tịch Hội đồng giám khảo và
các thành viên trong Hội đồng giám khảo.
- 09h25- 9h40: Mời đại diện các đơn vị nghệ thuật quần chúng lên sân khấu nhận
cờ lưu niệm và hoa của Ban tổ chức trao tặng. Mời lãnh đạo đại diện Ban tổ chức và
đại diện Hội đồng Giám khảo lên trao cờ lưu niệm và hoa cho các đơn vị nghệ thuật
quần chúng tham gia Liên hoan. (Nhạc nền tưng bừng khí thế).
- 09h40- 9h45 (MC) Giới thiệu đại diện cho các đơn vị nghệ thuật quần chúng lên
phát biểu cảm tưởng.
- 9h45- 9h55 (MC) Giới thiệu với khán giả tham dự Lễ khai mạc toàn bộ nội
dung chương trình diễn ra Liên hoan nghệ thuật quần chúng tại xã;
- 9h55- 10h00: Người dẫn chương trình thay mặt Ban tổ chức kính mời các đồng
chí lãnh đạo, quí vị đại biểu các vị khách quí và toàn thể khán giả theo dõi đón xem
các chương trình nghệ thuật độc đáo và đặc sắc của các đơn vị nghệ thuật quần chúng
tham gia Liên hoan lần này (Từ ngày nào đến ngày nào, bao giờ kết thúc?). Cuối cùng
đọc lời cảm ơn, kính chúc các đồng chí lãnh đạo, các vị khách quý, quý vị đại biểu và
khán giả đã tới tham dự Lễ Khai mạc đầy ý nghĩa này lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và
thành công! Trân trọng cám ơn! (Âm nhạc bùng lên các ca khúc tràn đầy niềm tin và
hy vọng. Kết thúc Lễ khai mạc).
Người viết kịch bản lưu ý: Cần phải liệt kê chi tiết các hoạt động của Sự kiện, nhất
là thời gian tổ chức cho mỗi hoạt động và thời gian tổ chức các tiết mục trong mỗi hoạt
động ấy cần phải liên tục, không được ngắt quãng, cân đối sao cho thời lượng chương
trình phù hợp, tránh để thừa hoặc thiếu thời gian. Viết kịch bản càng khoa học, cụ thể bao
nhiêu thì khi đạo diễn tổ chức diễn tập đỡ vất vả bấy nhiêu.
2.2.5. Kỹ năng chọn người dẫn chương trình cho sự kiện
Người dẫn chương trình, hay còn gọi là em-xi (MC) do gọi tắt từ tiếng
Anh Master of Ceremonies, theo nghĩa thông thường được hiểu là người hướng dẫn
quần chúng trong một Sự kiện. Còn hiểu theo đúng nghĩa của từ MC thì nó phải là:
"Bậc thầy của nghệ thuật giao tiếp".
MC là người có khả năng dẫn dắt khán giả, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt kết nối các
tiết mục trong cùng một chương trình Sự kiện, tạo nên sự nhất quán cho Sự kiện. Họ
thay mặt Ban tổ chức, đạo diễn kịp thời xử lý những tình huống ngoài ý muốn như:
cúp điện, sự cố kỹ thuật sân khấu… (có thể xen vào các nội dung khác như văn nghệ,
trò chơi…). Điều quan trọng nhất của MC là giọng nói, khi nói trước công chúng cần
phải "tròn vành, rõ tiếng" (hoặc "tròn vành, rõ chữ"). Nếu nói không rõ tiếng, rõ lời thì
thông tin muốn truyền đạt đến công chúng không được rõ ràng, đôi khi bị hiểu sai lệch
ý nghĩa. Hơn nữa nói không rõ chữ, rõ lời thì sẽ kém truyền cảm. Để dẫn dắt tốt một
sự kiện, MC cần có "kỹ năng dẫn chương trình". Đây chính là nền tảng của nghiệp vụ.
Không có kỹ năng dẫn chương trình, người dẫn chương trình sẽ bị áp lực tâm lý dẫn
đến không tự tin, luôn có cảm giác mơ hồ tựa như đang đi trong sương mù vì không
220
biết làm như thế đúng hay sai, không biết bắt đầu từ đâu, sáng tạo trên cơ sở nào và
trong quá trình tác nghiệp vô tình phạm lỗi. Vì vậy để đảm bảo cho sự kiện được tổ
chức thành công, người viết kịch bản chương trình Sự kiện phải là người biết cân
nhắc, lựa chọn, tham mưu, giới thiệu cho lãnh đạo UBND xã, Ban Tổ chức và Êkip tổ
chức thực hiện Sự kiện người dẫn chương trình có khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt,
không nói ngọng, nói lắp, không khiếm khuyết về ngoại hình, có kiến thức sâu rộng,
am hiểu về nhiều lĩnh vực, có sức truyền cảm mang lại hiệu quả cao.
2.2.6. Kỹ năng lựa chọn địa điểm tổ chức Sự kiện
Tổ chức các Sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch là một trong những hoạt động
nhằm bảo vệ, gìn giữ, khai thác và phát triển các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình
và du lịch trên địa bàn xã, trên cơ sở đó quảng bá, giới thiệu, tuyên truyền các giá trị
thẩm mĩ, nhân văn của các hoạt động ấy đến với nhân dân, làm thỏa mãn đời sống tinh
thần của nhân dân. Sự kiện được tổ chức cũng chính là dịp để người dân có cơ hội gặp
gỡ giao lưu, để làm cho tất cả mọi người đều cảm thấy thoải mái, người viết kịch bản
khi xây dựng kịch bản chương trình Sự kiện cần lưu tâm tới địa điểm dự định tổ chức
Sự kiện, địa điểm tổ chức Sự kiện phải là nơi rộng rãi, thoáng mát và là trung tâm của
xã, tốt nhất là nên tổ chức Sự kiện tại các Nhà văn hóa xã, thôn, sân bóng đá, hoặc
khuôn viên các Trường học trong xã… cũng có khi tổ chức tại các đình, chùa, miếu
mạo, các di tích, danh thắng của địa phương nơi gắn liền với Sự kiện được tổ chức (Lễ
hội truyền thống, Lễ dâng hương, Lễ tưởng niệm…).
Đối với các Sự kiện được tổ chức dài ngày, (có nhiều địa điểm khác nhau, cần dự
tính đâu là địa điểm chính, đâu là địa điểm phụ để tổ chức Khai mạc và Bế mạc Sự
kiện) sau khi xác định được địa điểm sẽ diễn ra Sự kiện, người viết kịch bản phải lên
phương án xây dựng sân khấu cho Sự kiện, thông thường sân khấu là hình chữ nhật và
cao hơn ghế ngồi khán giả từ 50cm đến 100cm. Sân khấu được thiết kế bằng bục, bàn
ghế, sàn gỗ bằng phẳng và được phủ các chất liệu đảm bảo cho các hoạt động diễn ra
trên sân khấu. Trang trí Sân khấu đúng maket mà UBND xã đã lựa chọn. Xây dựng
được sân khấu, ta cần phải tính đến phương án ghế ngồi cho khán giả (có thể là ghế gỗ
hoặc ghế nhựa), Sự kiện có tổ chức bán vé hay không? Nếu bán vé thì phải tiến hành
xây hàng rào xung quanh sân khấu và địa điểm diễn ra Sự kiện như thế nào? Nếu
không bán vé thì phải hướng dẫn người dân vào xem như thế nào để không xảy ra tình
trạng chen lấn, xô đẩy, mất trật tự?… Các phương án bảo vệ an ninh trật tự tại địa
điểm tổ chức Sự kiện được bố trí như thế nào? Tốt nhất là người viết kịch bản nên đề
nghị UBND xã huy động lực lượng công an xã đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao
thông cho Sự kiện. Vấn đề vệ sinh môi trường cũng cần được quan tâm, mỗi Sự kiện
được tổ chức là một ngày hội cho nhân dân trong xã được gặp gỡ, giao lưu vì thế nhiều
hàng quán cóc sẽ được bày bán để phục vụ nhu cầu ăn uống của bà con, bên cạnh đó
việc thiếu ý thức của một số bà con trong xã và khách thập phương về vấn đề rác thải,
nếu không có phương án từ đầu sẽ dẫn đến tình trạng rác thải vứt tràn lan quanh khu
vực tổ chức Sự kiện gây nên tình trạng mất mỹ quan, ảnh hưởng xấu đến Sự kiện và
truyền thống tốt đẹp của địa phương. Vì lẽ đó, người viết kịch bản phải kịp thời lên
phương án bảo vệ vệ sinh môi trường đề nghị UBND xã có kế hoạch mua hoặc thuê
221
các thùng rác công cộng để đặt xung quanh địa điểm tổ chức Sự kiện và thuê nhân
công dọn vệ sinh trong thời gian diễn ra Sự kiện.
2.2.7. Lập dự toán kinh phí tổ chức Sự kiện và lên phương án dự phòng cho
Sự kiện.
Khi tiến hành lập dự toán kinh phí tổ chức Sự kiện ta cần tập trung vào các vấn
đề sau:
Căn cứ vào quy mô tổ chức, Sự kiện diễn ra trong thời gian bao lâu (01 ngày hay
nhiều ngày), Sự kiện được tổ chức tại một địa điểm hay nhiều địa điểm? Có bao nhiêu
hoạt động diễn ra trong cùng một Sự kiện? Kinh phí cho mỗi hoạt động? Sự kiện có tổ
chức các cuộc thi không? Nếu tổ chức thì có bao nhiêu giải thưởng, mỗi giải thưởng là
bao nhiêu? Sân khấu được xây dựng như thế nào? Trang trí sân khấu theo phương thức
nào? Phông màn, bạt (đối với sự kiện tổ chức ngoài trời)? Âm thanh, ánh sáng trang thiết
bị phục vụ Sự kiện ra sao? (thuê hay mua), màn hình máy chiếu (nếu có), micro (không
dây, có dây), ghế ngồi cho khán giả, hoa trang trí sân khấu, hoa cho đại biểu, khách mời.
Cần bao nhiêu nhân công để có thể tổ chức sự kiện và tiền thù lao cho mỗi nhân công
trong 01 ngày là bao nhiêu? Nếu diễn ra nhiều ngày thì ước tính là bao nhiêu? Ban Tổ
chức, Êkíp tổ chức thực hiện là những ai? Tiền công cho Ê kíp tổ chức thực hiện là bao
nhiêu? Trang phục, phương tiện, nước uống cho sự kiện là bao nhiêu? Có cần phải thuê
địa điểm hay không? Nếu thuê thì tiền thuê địa điểm bao nhiêu? Có bao nhiêu lực lượng
tham gia Sự kiện? Dự kiến có bao nhiêu khán giả tham dự? Có quà tặng cho khách mời,
đại biểu hay không? Nếu có thì quà tặng trị giá bao nhiêu/khách mời, đại biểu? …
Việc lập dự toán kinh phí cho sự kiện cần phải được tiến hành tỉ mỉ, kỹ càng sát
với thực tế. Sau khi lập dự toán kinh phí người viết kịch bản tham mưu cho Ban Tổ
chức lập Tờ trình trình UBND xã phê duyệt.
Đồng hành với việc lập dự toán kinh phí tổ chức Sự kiện, người viết kịch bản
phải lên các phương án dự phòng để khắc phục các sự cố bất ngờ có thể xảy ra: Hỏa
hoạn, mất điện đột xuất, hư hỏng trang thiết bị, tình trạng cấp cứu? Đó là những điều
mà khi tổ chức bất cứ Sự kiện nào người viết kịch bản cũng phải tính tới. Đối với sự
kiện được tổ chức ngoài trời, nếu mưa thì xử lý phương án nào? Nếu mất điện thì giải
quyết như thế nào? Giữa chừng micro hỏng thì phải làm thế nào? Hoặc chẳng may MC
quên lời dẫn thì xử lý ra sao?... Sau khi nắm bắt được tất cả những kỹ năng nêu trên,
người viết kịch bản chương trình Sự kiện cần phải lường trước được những rủi ro, bất
ngờ, bất lợi cho sự kiện và lên phương án dự phòng đảm bảo cho Sự kiện tổ chức
thành công.
****************
Câu hỏi thảo luận
1. Hội nghị là gì? Trình bày những khái niệm về Hội nghị? Khái niệm về kịch
bản chương trình Hội nghị? Nội dung Kịch bản chương trình Hội nghị bao gồm những
vấn đề gì? Tầm quan trọng của Kịch bản chương trình Hội nghị?
2. Trình bày những kỹ năng cơ bản để xây dựng kịch bản chương trình Hội nghị?
222
3. Sự kiện là gì? anh (chị) hiểu như thế nào về các Sự kiện văn hóa, thể thao gia
đình và du lịch? Chủ đề của Kịch bản chương trình Sự kiện? Tầm quan trọng của Kịch
bản chương trình Sự kiện?
4. Trình bày những kỹ năng cơ bản để xây dựng Kịch bản chương trình các Sự kiện
văn hóa, thể thao, gia đình và du lịch?
223
Ví dụ: Kịch bản chi tiết Hội nghị triển khai kế hoạch công tác năm 2011 tại xã A
Stt Thời gian Nội dung Lời dẫn Âm
thanh
Ánh sáng
/chụp ảnh,
ghi hình
Người
thực hiện
1 8h00-8h05
Nghi thức
làm lễ chào
cờ.
Đã đến giờ khai mạc
Hội nghị, Ban tổ
chức trân trọng kính
mời quí vị đại biểu,
các vị khách quí cùng
toàn thể các đồng chí
và các ban đứng lên
làm lễ chào cờ. Dõng
dạc hô: Nghiêm!
Chào cờ … chào!
Kết thúc Quốc ca, hô:
Thôi! Mời quý vị đại
biểu an tọa hoặc Xin
cám ơn.
Nhạc
Quốc ca
Ánh sáng
Tập trung
chiếu vào
ảnh Bác và
cờ Tổ quốc
phía trên Hội
trường (nếu
có)
Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Người dẫn
chương trình
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng.
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
2 8h05-8h10
Tuyên bố lý
do, giới thiệu
đại biểu
- Mục đích ý nghĩa
và tầm quan trọng
của Hội nghị.
- Trân trọng giới thiệu
sự có mặt của các
đồng chí lãnh đạo, quý
vị đại biểu, quý vị
khách quý về tham dự
Hội nghị theo trình tự
đã được quy định.
- Ánh sáng
chiếu vào
đại biểu,
khách mời
được giới
thiệu.
(nếu có )
- Người dẫn
chương trình
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
3 8h10-8h15
- Mời lãnh
đạo UBND
xã lên đọc lời
khai mạc Hội
nghị.
- lãnh đạo UBND xã
lên đọc lời khai mạc
Hội nghị
- Ánh sáng
chiếu vào
bục nơi Lãnh
đạo UBND
xã lên khai
mạc Hội
nghị (nếu
có)
- Chụp ảnh,
quay phim
- Người dẫn
chương trình
-Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
224
(nếu có)
4 8h15-8h20
Mời lãnh đạo
cấp trên lên
phát biểu chỉ
đạo Hội nghị
(nếu có)
-Lãnh đạo cấp trên
phát biểu chỉ đạo Hội
nghị
- Ánh sáng
chiếu vào
bục nơi Lãnh
đạo cấp trên
phát biểu chỉ
đạo Hội nghị
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Người dẫn
chương trình
-Cán bộ kỹ
thuật âm thanh,
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
5 8h20-8h25
Thông qua
chương trình
Hội nghị.
Giới thiệu
cán bộ lãnh
đạo chủ trì
Hội nghị và
thư ký Hội
nghị.
- Thông qua chương
trình Hội nghị.
- Giới thiệu cán bộ
lãnh đạo chủ trì, điều
hành Hội nghị
- Kính mời Đồng chí
(A) lên chủ trì , điều
hành Hội nghị. Đồng
chí (B) thư ký Hội
nghị lên ghi biên bản
Hội nghị
- Ánh sáng
tỏa sáng
khắp Hội
trường
- Người dẫn
chương trình
- Cán bộ kỹ
thuật (âm
thanh, ánh
sáng)
6 9h25-9h35
Người chủ trì
Hội nghị và
Thư ký Hội
nghị lên vị trí
làm việc.
Chủ trì Hôi nghị phát
biểu ý kiến và mời
đại diện lãnh đạo
UBND xã lên đọc
bản báo cáo tổng kết
và phương hướng
nhiệm vụ mới.
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi Đ/c
đại diện
UBND xã
đọc báo cáo
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Chủ trì Hội
nghị
- Đ/c đại diện
UBND xã
- Cán bộ kỹ
thuật (âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
225
8h35-8h45
Mời Đại diện
Cấp ủy xã
lên phát biểu
ý kiến .
Đại diện Cấp ủy xã
lên phát biểu ý kiến
đóng góp vào bản
tổng kết công tác
năm và phương
hướng nhiệm vụ mới
trong năm tới dưới
góc độ công tác đảng.
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi đại
diện Cấp ủy
phát biểu ý
kiến đóng
góp
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Chủ trì Hội nghị
- Đại diện Cấp
ủy
- Cán bộ kỹ
thuật (âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
8h45-8h55
Mời Đại diện
Công Đoàn
xã lên phát
biểu ý kiến.
Đại diện Công Đoàn
xã lên phát biểu ý
kiến đóng góp vào
bản tổng kết công tác
năm và phương
hướng nhiệm vụ mới
trong năm tới dưới
góc độ công tác Công
đoàn
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi đại
diện Công
Đoàn phát
biểu ý kiến
đóng góp
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Chủ trì Hội
nghị
- Đại diện Công
Đoàn
- Cán bộ kỹ
thuật (âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
8h55-9h05
Mời Đại diện
Đoàn Thanh
niên xã lên
phát biểu ý
kiến
Đại diện Công Đoàn
xã lên phát biểu ý
kiến đóng góp vào
bản tổng kết công tác
năm và phương
hướng nhiệm vụ mới
trong năm tới dưới
góc độ công tác thanh
niên. Đề xuất, kiến
nghị bổ sung (nếu có)
- Ánh sáng tập
trung vào bục,
nơi đại diện
Đoàn Thanh
niên phát biểu
ý kiến đóng
góp
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Chủ trì Hội
nghị
- Đại diện Đoàn
Thanh niên
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
9h05-9h15
Mời Cán bộ
chủ chốt xã
lên phát biểu
ý kiến
Cán bộ chủ chốt xã
lên phát biểu ý kiến,
thể hiện rõ quan điểm
của cá nhân đối với
bản báo cáo tổng kết
và phương hướng
mới. Mạnh dạn kiến
nghị đề xuất, bổ sung
( nếu có)
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi đại
diện Cán bộ
chủ chốt phát
biểu ý kiến
đóng góp
- Chụp ảnh,
quay phim
- Chủ trì Hội
nghị
- Cán bộ chủ
chốt
-Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
226
(nếu có) ảnh, quay phim
9h15-9h25
Mời cán bộ,
công chức,
viên chức lên
phát biểu ý
kiến
Cán bộ, công chức,
viên chức lên phát biểu
ý kiến tỏ rõ quan điểm
đồng tình hay không
đồng tình với bản báo
cáo tổng kết và
phương hướng nhiệm
vụ mới. Mạnh dạn đề
xuất, kiến nghị bổ sung
… (nếu có)
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi đại
diện Đại
diện cán bộ,
công chức,
viên chức
phát biểu ý
kiến đóng
góp
- Chụp ảnh,
quay phim (nếu
có)
- Chủ trì Hội
nghị
- Cán bộ, công
chức, viên chức
- Cán bộ kỹ thuật
âm thanh ánh
sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
7
9h25-9h40
Mời Lãnh đạo
cấp trên, các
đại biểu, khách
mời phát biểu
ý kiến đánh
giá nhận xét
bản báo cáo
tổng kết năm
và tham góp ý
kiến vào
phương hướng
mới
- Lãnh đạo cấp trên,
Đại biểu khách mời
phát biểu ý kiến đánh
giá nhận xét bản tổng
kết năm và tham góp
ý kiến vào phương
hướng mới
(nếu có).
- Ánh sáng
tập trung vào
bục, nơi đại
diện Lãnh
đạo cấp trên,
- Đại biểu
khách mời
phát biểu ý
kiến đóng
góp.
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Chủ trì Hội
nghị
- Lãnh đạo cấp
trên, Đại biểu,
khách mời
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
8 9h40-10h15
Tiếp thu ý
kiến đóng
góp (giải đáp
một số vấn
đề nếu có )
và kết luận
từng vấn đề
nêu ra trong
Hội nghị
- Khi Hội nghị không
còn có ý kiến phát
biểu, Chủ trì Hội
nghị thay mặt Hội
nghị tiếp thu những ý
kiến đóng góp của
các thành viên tham
dự Hội nghị. Mỗi vấn
đề người chủ trì kết
- Ánh sáng
tập trung vào
Chủ trì Hội
nghị.
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
Chủ trì Hội
nghị
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng)
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
227
luận tại Hội nghị đều
lấy biểu quyết của
các thành viên tham
dự Hội nghị thể hiện
rõ ý chí tán thành hay
không tán thành.
9 10h15-
10h30
Mời thư ký
Hội nghị lên
trước Hội
nghị thông
qua biên bản
Thư ký Hội nghị lên
thông qua Biên bản
Hội nghị.
- Ánh sáng tập
trung vào Thư
ký Hội nghị
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Thư ký hội
nghị
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
10 10h30-
11h00
Mời Thường
trực Hội đồng
thi đua Khen
thưởng lên
Công bố các
Quyết định
Thi đua-Khen
thưởng trong
năm
Thường trực Hội
đồng thi đua Khen
thưởng xã công bố
các Quyết định Thi
đua-Khen thưởng
trong năm theo trình
tự Tập thể trước, cá
nhân sau (theo thứ tự
từ cao xuống thấp).
- Ánh sáng
tập trung vào
Thường trực
Hội đồng Thi
đua khen
thưởng xã
- Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Thường trực
Hội đồng Thi
đua khen
thưởng xã
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
11 11h00
- 11h30
Mời các tập
thể và cá nhân
lên bục danh
dự để nhận
phần thưởng
và mời lãnh
đạo lên trao
phần thưởng,
quyết định
khen thưởng.
- Đại diện lãnh đạo
cấp trên lên trao
quyết định, bằng
khen, giấy khen, hoa
chúc mừng, tiền
thưởng cho tập thể
lãnh đạo xã (nếu có).
- Đại diện lãnh đạo xã
trao quyết định, bằng
khen, giấy khen, hoa
chúc mừng, tiền thưởng
cho tập thể đơn vị và các
cá nhân có thành tích
xuất sắc trong năm.
Nhạc tưng
bừng rộn
rã
Ánh sáng tập
trung vào
bục danh dự
Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Người dẫn
chương trình.
- Cán bộ kỹ
thuật âm thanh
ánh sáng
- Cán bộ chụp
ảnh, quay phim
228
12 11h30
- Bế mạc Hội
nghị
- Mời đại
biểu, khách
mời chụp
ảnh lưu
niệm.
Kính thưa các đồng
chí lãnh đạo, quý vị
đại biểu, quý vị khách
quý cùng toàn thể các
đồng chí và các bạn,
Hội nghị triển khai
công tác năm 2011
của xã (A) đến đây là
kết thúc. Thay mặt
BTC chúng tôi xin
trân trọng gửi đến các
Đ/c lãnh đạo, quý vị
đại biểu, các vị khách
quý các đ/c và các bạn
lời chúc sức khỏe và
lời cảm ơn chân thành
về những ý kiến tham
góp sâu sắc của các
đồng chí đã giúp cho
Hội nghị thành công
tốt đẹp. Xin cảm ơn!
Nhạc tưng
bừng rộn rã
Ánh sáng tập
trung vào
bục danh dự
Chụp ảnh,
quay phim
(nếu có)
- Người dẫn
chương trình.
229
Ví dụ: Kịch bản chương trình
Lễ Bế mạc trong Sự kiện “LIÊN HOAN VĂN NGHỆ QUẦN CHÚNG” Tại xã B
Stt Thời
gian Nội dung
Lời dẫn MC
/Nội dung chi tiết Âm thanh Ánh sáng
Người
thực hiện
Ghi
chú
1
1
9h00-
19h30
Kiểm tra
lần cuối về
sân khấu,
âm thanh,
ánh sáng
trước khi
diễn ra Lễ
Bế mạc
- Kiểm tra việc
trang trí sân khấu,
bục bệ, hoa chào
mừng, các lực
lượng tham gia
phục vụ lễ Bế
mạc.
- Kiểm tra
đường dây
mirco, loa
đài, micro dự
phòng (micro
có dây,
không dây,
pin micro,
cán bộ trực
âm thanh.
Đài băng, đĩa
hoặc Dàn
nhạc (nếu có)
- Kiểm tra
đèn hội
trường, đèn
sân khấu.,
đèn ngoài
Hội trường,
lối ra vào,
nhà vệ
sinh, bãi
gửi xe…
- Cán bộ phụ
trách Sân
khấu, Âm
thanh, Ánh
sáng …
2 19h30
-20h00
Đón đại
biểu, khách
mời, khán
giả sắp xếp
chỗ ngồi
Đón đại biểu,
khách mời, khán
giả, hướng dẫn đại
biểu, khách, khán
giả vào chỗ ngồi tại
Hội trường - nơi
diễn ra Lễ Bế mạc.
-Mở những
ca khúc trữ
tình về tình
yêu quê
hương, đất
nước
-Ánh sáng
tràn ngập
Hội trường
- Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng, Lễ tân
Lúc này
MC chưa
xuất hiện
3 20h00
-20h02
Bắt đầu
chương
trình
Lời chào mừng
của MC đến với
các vị đại biểu,
các vị khách quý
cùng toàn thể
khán giả tham dự
Lễ Bế mạc.
-Âm nhạc
rộn ràng
- Ánh sáng
dưới Hội
trường tắt,
ánh sáng
tập trung
trên phía
sân khấu.
- MC
- Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sang.
Âm nhạc
chỉ vang
lên khi
MC kết
thúc lời
chào
mừng
cùng
tiếng vỗ
tay của
khán giả.
230
4 20h02
-20h07
Giới thiệu
đại biểu
MC giới thiệu
mục đích ý nghĩa
của lễ bế mạc
giới thiệu đại
biểu, giới thiệu
các vị khách quý
về dự lễ Bế mạc.
- Nhạc nền
khi giới thiệu
quan khách.
Ánh sáng
tập trung
khi đại
biểu, quan
khách đứng
lên chào
khán giả
- MC Cán bộ
phụ trách
Âm thanh,
Ánh sáng,
- Cần
đưa Mic
có giá đỡ
ra giữa
sân khấu.
(MC sử
dụng Mic
không
dây).
5 20h07
-20h10
Giới thiệu
chương
trình văn
nghệ chào
mừng lễ bế
mạc
(nếu có)
- Kính mời quý vị
đại biểu, quý vị
khách quý thưởng
thức Chương trình
Văn nghệ chào
mừng Lễ Bế mạc.
Ánh sáng
tập trung
lên Sân
khấu phục
vụ biểu
diễn văn
nghệ.
- MC
- Đại biểu
Cán bộ
phụ trách âm
thanh, ánh
sáng
- MC
(Các tiết
mục văn
nghệ được
biểu diễn
trong đêm
Bế mạc là
những tiết
mục đã
được BGK
chấm đạt
giải).
6
20h10
-20h15
Tiết mục
văn nghệ
của các em
thiếu nhi
thôn 1
- Tiết mục văn
nghệ được các em
thiếu nhi biểu
diễn hồn nhiên,
trong trẻo, ngây
thơ
- Tên bài hát, âm
nhạc, các điệu
múa…
Míc không
dây cho các
em thiếu nhi.
- Nhạc nền
của bài hát.
Ánh sáng
tập trung
vào Sân
khâu - nơi
các em
đang biểu
diễn
Các em thiếu
nhi
Cán bộ
phụ trách âm
thanh, ánh
sáng
Các em
thiếu nhi
ra sân
khấu để
biểu
diễn
7
20h15
-20h20
Tiết mục
văn nghệ
thôn X
- MC cảm ơn tiết
mục văn nghệ của
các em thiếu nhi
- Giới thiệu về đội
văn nghệ thôn X
và tiết mục mà
đội văn nghệ thôn
X sẽ biểu diễn.
Mic không
dây cho cá
nhân hoặc
tập thể biểu
diễn văn
nghệ.
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- MC
- Thí sinh
biểu diễn.
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
20h20- Tiết mục - MC thay mặt Mic không Ánh sáng - MC
231
8
8
20h25 văn nghệ
thôn Y
BTC cảm ơn đội
văn nghệ thôn X.
- Giới thiệu về đội
văn nghệ thôn Y
và tiết mục mà
đội văn nghệ thôn
Y sẽ biểu diễn.
dây cho cá
nhân hoặc
tập thể biểu
diễn văn
nghệ.
tập trung
phía trên
sân khấu
- Thí sinh
biểu diễn.
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
9
9
20h25-
20h30
Tiết mục
văn nghệ
thôn G
- MC thay mặt
BTC cảm ơn đội
văn nghệ thônY.
- Giới thiệu về đội
văn nghệ thôn G
và tiết mục mà
đội văn nghệ thôn
G sẽ biểu diễn.
Mic không
dây cho cá
nhân hoặc
tập thể biểu
diễn văn
nghệ.
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- MC
- Thí sinh
biểu diễn.
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
1
10
20h30-
20h33
Kết thúc
văn nghệ
chào mừng
- MC thay mặt
BTC cảm ơn đội
văn nghệ thôn G,
giới thiệu Trưởng
Ban Tổ chức đọc
báo cáo tổng kết
Liên hoan.
Mic có chân
Âm nhạc rộn
rã vui mừng
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- MC
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
1
11
20h33-
20h38
Báo cáo
tổng kết
- Trưởng Ban Tổ
chức đọc Báo cáo
tổng kết liên
hoan.
Mic có chân
đỡ đặt giữa
Sân khấu
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- Trưởng Ban
Tổ chức
Khi
Trưởng
BTC đọc
báo cáo
Tổng kết
Liên
hoan thì
âm nhạc
được nổi
lên ngay
sau đó
cùng với
tiếng vỗ
tay của
khán giả.
MC tiến
ra sân
khấu,
232
cảm ơn
Trưởng
BTC và
giới thiệu
Trưởng
BGK
12 20h38-
20h50
Công bố
các cá
nhân, tập
thể đạt giải
- Trưởng BGK
lên sân khấu
công bố kết quả
Liên hoan.
Mic có chân
cho Trưởng
Ban Tổ chức
(đặt ở giữa
sân khấu).
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- MC
- Thí sinh
biểu diễn.
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
Sau khi
Trưởng
Ban
Giám
khảo công
bố kết quả
liên hoan,
âm nhạc
tưng bừng
rộn rã
được bật
lên cùng
với tiếng
vỗ tay
hoan
nghênh
của khán
giả.
1
13
20h50-
21h00
Mời các cá
nhân, tập
thể đạt giải
lên sân
khấu để
trao giải
thưởng.
- MC thay mặt
BTC mời Chủ
tịch xã, các đơn vị
tài trợ (nếu có),
trưởng các thôn,
làng tham dự liên
hoan lên sân khấu
trao phần thưởng
cho các cá nhân
và tập thể đoạt
giải và chụp ảnh
lưu niệm
Nhạc tưng
bừng, rộn
ràng.
Ánh sáng
tập trung
phía trên
sân khấu
- MC
- Các cá
nhân, tập thể
đạt giải
- Đại diện
UBND xã,
trưởng các
thôn, làng, đơn
vị tài trợ (nếu
có).
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
- Mic có
chân
được đưa
vào cánh
gà,
- Khi tất
cả các giải
thưởng đã
được trao,
kim tuyến
được bắn
lên trên
sân khấu
chúc
mừng các
cá nhân,
tập thể đạt
233
giải.
1
14
21h00
Kết thúc
Bế mạc
- MC thay mặt
BTC đọc lời bế
mạc Liên hoan,
cám ơn quý vị đại
biểu, khách quý
UBND xã, các
thôn, làng, đơn vị
tài trợ (nếu có),
các thí sinh là cá
nhân, tập thể tham
gia Liên hoan
cám ơn khán giả
đã đến tham dự
Liên hoan và nói
lời hẹn gặp lại tại
liên hoan lần sau
(nếu có).
Nhạc tưng
bừng, rộn
ràng.
Ánh sáng
tràn ngập
sân khấu
và Hội
trường.
- MC
Cán bộ phụ
trách âm
thanh, ánh
sáng
234
KỸ NĂNG QUẢN LÝ VÀ HƯỚNG DẪN CÁC DỊCH VỤ VĂN HÓA,
GIA ĐÌNH, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
KHU VỰC TRUNG DU, MIỀN NÚI, VÙNG DÂN TỘC
BÙI QUỐC BẢO
MA KIỀU LY
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Mục đích.
- Giúp cho học viên nắm vững những vấn đề cơ bản về dịch vụ văn hóa, gia đình,
thể thao và du lịch trên địa bàn xã.
- Hiểu biết các kỹ năng để tham mưu tư vấn cho lãnh đạo chính quyền xã về quản
lý và tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch trên địa bàn xã
2. Yêu cầu:
- Học viên có kiến thức, hiểu biết và có kỹ năng tham mưu, tư vấn về quản lý và
tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa, gia đình, thể thao, du lịch trên địa bàn xã.
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về các dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch
1.1. Khái quát về hoạt động dịch vụ
1.1.1. Sự hình thành dịch vụ
Sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong hơn hai chục năm qua thực sự đã
là một đòn bẩy tất cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội tiến lên
phía trước. Kinh tế thị trường có được sức mạnh đòn bẩy ấy chính vì nó có đặc trưng
là nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế có tính cạnh tranh cao. Các thành phần
kinh tế cùng có quyền lợi và trách nhiệm làm ra của cải vật chất cho xã hội, cũng như
đáp ứng, cung ứng mọi nhu cầu vật chất và cả tinh thần cho xã hội theo phương thức
thanh toán thỏa thuận giữa đôi bên. Chính các thành phần kinh tế với phương thức
thỏa thuận đã hình thành nên hoạt động dịch vụ "thuận mua vừa bán". Nếu chỉ thuận
mua vừa bán thì cũng chưa phải là dịch vụ.
Vậy hoạt động dịch vụ là gì?
Hoạt động dịch vụ là một hoạt động thương mại hoặc có tính chất thương mại-
gồm một bên đưa ra yêu cầu (bên mua-sử dụng) và một bên đáp ứng yêu cầu (bên bán-
cung ứng). Nhưng hoạt động này người đưa ra yêu cầu là bên A. Người đáp ứng yêu
cầu là bên B. Hoạt động được xác định mục đích là để đáp ứng những yêu cầu của bên
A. Những yêu cầu đòi hỏi vượt ra ngoài phạm vi sinh hoạt hoặc hành chính thông
thường với phương thức thỏa thuận "Thuận mua vừa bán".
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
235
Ví dụ 1: Anh đến siêu thị hoặc ra chợ mua 1kg thịt bò. Như thế không phải là
hoạt động dịch vụ. Nhưng nếu anh ngồi ở nhà gọi điện thoại, người bán thịt mang đến
tận nhà cho anh, đúng chủng loại, đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng thời gian như
anh yêu cầu. Thì đó đã là hoạt động dịch vụ.
Ví dụ 2: Anh bị ốm, đến bệnh viện khám theo thẻ bảo hiểm. Đấy không phải là
hoạt động dịch vụ. Nhưng nếu phải nằm viện điều trị, anh muốn một mình nằm một
phòng có máy điều hòa nhiệt độ, ti vi...vượt ra ngoài những quy định chung của bệnh
viện mà được bệnh viện đáp ứng thì đây là hoạt động dịch vụ. Hoặc giả anh không đến
bệnh viện mà gọi điện thoại mời bác sĩ đến nhà để khám cho anh. Thì đây là hoạt động
dịch vụ.
Như vậy, với phương thức thỏa thuận, hoạt động dịch vụ đáp ứng những yêu cầu
đòi hỏi của bên A và làm cho những yêu cầu đòi hỏi ấy được thỏa mãn như bên A
mong muốn. Tất nhiên, giá phải trả sẽ cao hơn bình thường, nghĩa là bên A phải trả số
tiền nhiều hơn cho hoạt động dịch vụ của anh ta.
Thực ra, từ xưa trong hoạt động thương mại của nước ta đã có phương thức thuận
mua vừa bán. Nhưng một thời kỳ cả nước sống trong cơ chế bao cấp, nên thương mại
và sản xuất hàng hóa kém phát triển, nếu không muốn nói là đình trệ bởi chiến tranh.
Mọi gánh nặng của đời sống trong chiến tranh đều trên vai nhà nước. Mọi người dân
chỉ sống dựa vào bao cấp, phân phối của nhà nước qua chế độ tem phiếu, nhu cầu hàng
ngày của con người cũng giản đơn và ít ỏi. Bởi tất cả phải dồn sức, dốc lòng cho chiến
đấu chống lại kẻ thù, cứu nước giữ nhà.
Ngày nay, đất nước ta đã khác hẳn ngày xưa nhờ đổi mới cơ chế, chính sách kinh
tế của Đảng. Cuộc sống ấm no, đủ đầy đã từng ngày, từng giờ xuất hiện rõ trên mọi
miền đất nước. Nhu cầu về vật chất, về văn hóa tinh thần ngày càng nhiều hơn, đa dạng
hơn. Vì thế, hoạt động cung ứng kịp thời dựa trên phương thức thanh toán thỏa thuận
giữa người có nhu cầu và người cung ứng nhu cầu ngày càng mạnh mẽ, hiệu quả.
1.1.2. Loại hình dịch vụ
Có hàng chục loại dịch vụ khác nhau gắn với hoạt động ngành nghề, xin nêu vài
loại như sau: Dịch vụ hàng không; dịch vụ giáo dục; dịch vụ y tế; dịch vụ văn hóa;
dịch vụ thể thao; dịch vụ du lịch; dịch vụ giao thông vận tải; dịch vụ hành chính công;
dịch vụ thương mại; dịch vụ bưu điện... Trong mỗi loại dịch vụ ấy lại bao gồm hàng chục
nội dung dịch vụ cụ thể.
Ví dụ: Trong dịch vụ hàng không (nói chung) có các hoạt động dịch vụ cụ thể cho
từng nhu cầu như bán vé qua điện thoại, qua mạng, dịch vụ chuyển vé đến tận tay, tận
nhà khách hàng, dịch vụ đưa, đón khách từ nhà ra sân bay, dịch vụ làm thủ tục bay,
dịch vụ đóng gói hàng... trong loại dịch vụ văn hóa cũng có hàng chục hoạt động cụ
thể như: dịch vụ quay camera, chụp ảnh, dịch vụ tổ chức góp vui đám cưới, dịch vụ tổ
chức sự kiện, động thổ, khai trương, khánh thành, hội nghị với việc trang trí cờ hoa,
góp vui văn nghệ...và còn nhiều thứ dịch vụ khác. Ở các loại hình dịch vụ xã hội cũng
vậy, trong nó có hàng chục, hàng vài chục nội dung hoạt động. Như vậy, rõ ràng là có
rất nhiều loại hình dịch vụ và mỗi loại hình ấy lại có nhiều nội dung dịch vụ cụ thể.
236
1.1.3. Tính chất của dịch vụ
Tuy vậy, trong các loại hình dịch vụ với đặc điểm ngành nghề riêng, lại bộc lộ
những tính chất chung dù mỗi loại dịch vụ kèm theo một nội dung một cách thức, một
điều kiện riêng. Ví dụ:
- Hoạt động mang tính cung ứng.
- Hoạt động mang tính chuyển giao, truyền dạy.
Hoạt động ủy thác ký gửi, tổ chức, bố trí sắp đặt, môi giới hành chính, chắp nối,
thăm dò, tìm kiếm, theo dõi phát hiện...
Những tính chất trên có trong những hoạt động dịch vụ liên quan tới vật chất và
cả những hoạt động dịch vụ tinh thần không liên quan tới vật chất. Người ta có thể
cung ứng một nguồn hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp, cũng có thể chỉ cung ứng
những nhu cầu về tâm sinh lý hay cung ứng những thông tin về một vấn đề gì đó.
1.1.4. Đặc trưng của dịch vụ
Mỗi loại dịch vụ đều mang trên mình nó một hay nhiều tính chất. Song, các dịch
vụ ấy đều có chung một giao ước là sự đảm bảo nghĩa là đã cung cấp dịch vụ và đã sử
dụng dịch vụ là chắc chắn phải hoàn tất, phải xong. Bởi vì, dịch vụ là sự thực hiện,
giải quyết hoặc trợ giúp một việc thông qua phương thức thỏa thuận. Như vậy, thỏa
thuận không những chỉ là phương thức mà đã trở thành đặc trưng cơ bản của hoạt động
dịch vụ.
Để giải quyết công việc một cách nhanh chóng và hiệu quả, đảm bảo như mong
muốn của bên A. Thì bên B phải tạo ra cho mình những khả năng một cách chuyên
nghiệp và bên A phải thanh toán lại cho bên B một khoản tiền công theo sự thỏa thuận
của hai bên. Cũng có những trường hợp bên B đặt ra mức độ thanh toán, bên A nếu có
nhu cầu giải quyết công việc thì phải chấp nhận mức độ đó một cách bình thường như
có thỏa thuận.
1.1.5. Thế mạnh của dịch vụ
Hoạt động dịch vụ còn nổi lên các đặc tính khác, đồng thời cũng là các thế mạnh
của dịch vụ, đó là:
- Năng động.
- Thuận tiện.
- Thiết thực.
Nội dung các hoạt động dịch vụ vô cùng phong phú, đa dạng, có những nội dung
liên quan tới luật pháp, quy chế, quy định của Nhà nước hay tính mạng con người như
dịch vụ luật sư, thầy cãi, công chứng hay cung cấp thuốc và chữa bệnh... cũng có những
dịch vụ chỉ đơn thuần, đơn giản như chuyển giúp một vật gì đó từ chỗ này sang chỗ kia
hoặc làm thỏa mãn những sở thích cá nhân trong lĩnh vực văn hóa tinh thần (ca hát,
khiêu vũ, du ngoạn, hội lễ...). Từ đặc tính năng động đó mà hoạt động dịch vụ tạo ra sự
thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ. Nhiều công việc do không có đủ điều kiện như
thời gian, sức khỏe hay năng lực để thực hiện mà người ta phải nhờ đến dịch vụ. Người
237
cung cấp dịch vụ với tính chuyên nghiệp đã thực hiện giải quyết công việc nhanh chóng
và hiệu quả.
Người ta thường nhờ đến dịch vụ khi tự mình không giải quyết được công việc
hoặc không có biện pháp quy mô hành chính Nhà nước nào giải quyết công việc một
cách nhanh chóng và dễ dàng. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người ta có thể
đủ khả năng, điều kiện tự giải quyết công việc nhưng vẫn thuê dịch vụ để dành thời
gian, sức lực cho công việc khác. Như vậy, thấy rõ dịch vụ là một hoạt động có đặc
tính thiết thực. Cũng có thể hiểu rằng hoạt động dịch vụ là hoạt động "ngoài luồng",
hoạt động không chịu sự điều hành, chi phối bởi các thủ tục hành chính của Nhà nước.
Đồng thời, là hoạt động mà vị trí người sử dụng dịch vụ được tôn lên là chủ.
Trong chuyên đề này đi sâu tìm hiểu hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch
là những mảng hoạt động ngành văn hóa đang quản lý.
1.2. Hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch
1.2.1. Mục đích và quy mô của hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch
Hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch (gọi chung là hoạt động dịch vụ văn
hóa), cũng như các hoạt động kinh tế, thương mại hay dịch vụ xã hội khác đều có mục
đích rõ ràng, đó là mục đích của người cung cấp dịch vụ và mục đích của người sử
dụng dịch vụ. Nói một cách khác là người làm thuê và người thuê.
- Với người cung cấp dịch vụ thì mục đích tối cao là cung cấp được nhiều: nhiều
lần, nhiều người sử dụng, nhiều mặt hàng hoặc nhiều nội dung công việc...để thu về
nhiều lợi nhuận và tạo điều kiện mở rộng dịch vụ.
- Với người sử dụng dịch vụ thì mục đích tối cao là hiệu quả, thuận tiện, dễ dàng,
mãn nguyện.
Người cung cấp dịch vụ, dù với tính chất dịch vụ thế nào hay nội dung dịch vụ là
gì thì họ cũng sẵn sàng thực hiện, miễn sao không quá khó cho họ. Nghĩa là trong tầm
tay họ.
Người sử dụng dịch vụ thì xác định trước là phải tốn kém, miễn là đạt được hiệu
quả mong muốn.
Như vậy, mục đích của hai bên khác nhau nhưng lại phù hợp với nhau.
Người xưa đã nói "phú quý sinh lễ nghĩa". Bây giờ, không chỉ người giàu có, no
đủ mà cả người nghèo khó cũng ham đi lễ bái. Với người giàu thì mỗi lần đi lễ là một
lần sắm sửa lễ vật rất công phu. Không chỉ tự sắm lễ mà còn cần dịch vụ cung cấp lễ
vật có đủ các thứ hoa quả, bánh trái, cả rượu thịt, vàng hương, thậm chí cả tiền vàng,
đồ dùng như nhà cửa, xe cộ, áo, quần, mũ, giày và nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc để cúng
tế, dâng cho đối tượng nhận lễ. Đi kèm theo dịch vụ sắm lễ là dịch vụ dâng lễ, nhất là
ở những nơi cửa đình, cửa chùa chật ních con nhang đệ tử thì càng cần có những người
giúp cho dịch vụ dâng lễ bằng cách đội đầu, bưng bê, chen lấn.
Mỗi thứ dịch vụ lại có một quy mô riêng, đơn giản như chỉ đội mâm lễ từ ngoài vào
bàn thờ trong chùa. Lớn hơn là sắm sửa mâm lễ có đủ mọi thứ đồ lễ. Và quy mô to lớn
hơn nữa là tìm một mảnh đất, một gốc cây cổ thụ ven đường hay trong hẻm núi để xây
238
một ngôi chùa, một gian miếu có đủ tượng thần linh, đức phật và các đồ sơn son thiếp
vàng rồi nhờ (mời) một ông (bà) thầy cúng làm nhiệm vụ hương khói để thu hút khách
thập phương và như thế cũng hình thành một thiết chế tín ngưỡng để làm dịch vụ "văn
hóa tâm linh" như những nơi đình, chùa tôn nghiêm khác nhằm thu tiền về cho mình.
Như trên, chỉ đề cập đến một nội dung dịch vụ là tín ngưỡng mà đã có nhiều quy
mô khác nhau mặc dù mục đích thì chỉ có một. Ví dụ trên cho thấy mục đích thì đơn
giản nhưng quy mô thì đa dạng, phong phú và phức tạp của hoạt động dịch vụ văn hóa
nói riêng và các lĩnh vực dịch vụ khác nói chung.
1.1.2. Phân loại nhóm dịch vụ văn hóa
Phân loại các nhóm dịch vụ văn hóa theo đặc tính và chức năng hoạt động, ngành
nghề phổ biến hiện có trong cả nước với 5 nhóm chính:
- Nhóm dịch vụ du lịch: Tour du lịch, điểm du lịch, xe du lịch...
- Nhóm dịch vụ thể thao: Địa điểm, phương tiện tập luyện...
- Nhóm dịch vụ văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí: Vũ trường, quán bar...
- Nhóm dịch vụ tâm linh: Cúng lễ, tang ma...
- Nhóm dịch vụ sinh hoạt đời sống: Cung ứng, phục vụ...
Trong mỗi nhóm lại có nhiều loại hình dịch vụ khác nhau. Đặc biệt, nhóm dịch
vụ sinh hoạt đời sống bao gồm rất nhiều các dịch vụ có liên quan tới đời sống văn hóa
như nhu cầu làm đẹp, tổ chức sự kiện, hay in ấn văn hóa phẩm, làm băng đĩa, quay
phim...
Như vậy, trong mỗi ngành nghề đều có rất nhiều nội dung công việc được thực
hiện thông qua phương thức hoạt động dịch vụ. Các ngành nghề thuộc lĩnh vực văn
hóa, thể thao, du lịch cũng vậy. Tuy nhiên, mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề cũng có
những nội dung công việc không thể sử dụng dịch vụ để giải quyết, trừ khi người có
nhu cầu cố tình làm sai bằng cách sử dụng biện pháp thuê dịch vụ.
Ví dụ: Không thể làm dịch vụ thi đấu thể thao, nghĩa là thuê người khác thi đấu thay
mình. Không thể có dịch vụ viết luận án, bảo vệ luận án bằng trí tuệ của người khác.
Ngược lại có những việc tưởng như không thể làm được bằng dịch vụ, nhưng vẫn
thực hiện có hiệu quả như: Dịch vụ mang thai, sinh đẻ, dịch vụ làm chồng, làm vợ,
dịch vụ làm lãnh đạo điều hành công ty, xí nghiệp... những dịch vụ này trên thực tế ít
có nhưng luật pháp không ngăn cấm thì nó vẫn có thể được thực hiện.
Trong lĩnh vực văn hóa, có nhiều dịch vụ bản chất là tốt nhưng người cung ứng
dịch vụ, có khi cả người sử dụng dịch vụ lợi dụng sự dễ dàng của hoạt động dịch vụ để
làm những việc không lành mạnh. Ví dụ: Sau cái bình phong của karaoke, sàn nhảy
hay vũ trường lại có hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc đỏ đen... cũng có những dịch
vụ phát sinh từ mưu đồ kiếm lợi nhiều và nhanh như xây dựng đền, miếu, chùa, nơi
thờ cúng khói hương không có nguồn gốc tôn giáo, tín ngưỡng, truyền thuyết hay lịch
sử gì mà chỉ lợi dụng lòng tin, mê tín của nhân dân đến cầu, cúng.
239
Tất nhiên, những dịch vụ nào trái với luật pháp và đạo đức truyền thống đều sẽ bị
loại bỏ.
1.2.3. Lực lượng và khả năng hoạt động dịch vụ văn hóa
Hoạt động dịch vụ văn hóa là một trong những loại hình hoạt động xã hội thu hút
đông đảo đối tượng cung cấp và sử dụng nhất. Vì văn hóa là lĩnh vực rộng lớn, bao
trùm mà mỗi người dân ai cũng phải cần đến hàng ngày.
Ngày lễ, ngày hội dọc hai bên hè phố đâu đâu ta cũng có thể mua được một bó
hoa, nhiều bó hoa để tặng bạn bè. Người cung cấp hoa không chỉ là người chuyên
doanh hoa mà còn có nhiều nam nữ thanh niên, sinh viên tranh thủ làm dịch vụ này để
kiếm chút ít tiền lời. Cả gia đình muốn đi tham quan du lịch vài ngày cũng dễ dàng
thực hiện, chỉ cần liên hệ qua điện thoại là xong mọi thủ tục và lên đường. Du khách
từ xa đến viếng chùa, không mang theo lễ vật, yên tâm sẽ có ngay mâm đồ lễ như ý
muốn. Trong lễ cưới, hai họ muốn cho buổi lễ tưng bừng hơn bởi những giọng ca,
tiếng nhạc không phải đã thu qua đĩa mà là những ca sĩ, nhạc công thực thụ trình diễn,
xin có ngay... như vậy, tham gia vào các dịch vụ là một lực lượng đông đảo, đủ mọi
thành phần xã hội, với nhiều nghề nghiệp và trình độ: Sinh viên, nhà doanh nghiệp,
người giúp việc, dân thường, nghệ sĩ... họ là những người ham công việc và thực sự
năng động, đồng thời họ là người có ý thức trong việc họ làm với một mục đích rõ rệt.
Không những thế, nhiều người làm việc trong các cơ sở dịch vụ là những người có
chuyên môn cao, họ có bằng cấp ngành nghề và thực tài. Đó là những nghệ sĩ, nhà
giáo, nhà văn hóa, nhà khoa học đã nghỉ hưu nhưng còn nhiều sức khỏe và có nhiều
thời gian dành cho công việc, ở những cơ sở dịch vụ này có nhiều người tài đức song
toàn, đã hoàn thành dịch vụ có giá trị, có ý nghĩa thiết thực cho đời sống xã hội, được
mọi người tin cậy.
1.2.4. Dịch vụ văn hóa và văn hóa dịch vụ
Như ở mục B chương I đã nêu những đặc điểm, tính chất của dịch vụ văn hóa, thể
thao, du lịch, gọi chung là dịch vụ văn hóa.
* Dịch vụ văn hóa là gì?
Có thể hiểu một cách thông thường dịch vụ văn hóa chính là hoạt động thương mại
trong lĩnh vực văn hóa bởi vì phương tiện thanh toán giữa đôi bên, người cung ứng dịch
vụ và người sử dụng dịch vụ vẫn là đồng tiền. Như vậy, nó có tính chất bán mua. Nhưng
dù sao hoạt động dịch vụ văn hóa cũng không phải là một hoạt động thương mại bình
thường chính bởi các đặc điểm, tính chất của nó. Trong kinh tế thị trường, văn hóa cũng
trở thành hàng hóa, cũng hòa vào guồng máy bán mua của thị trường.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành phần, việc thương mại đã là một
công việc phức tạp với không ít những rủi ro lại càng phức tạp hơn. Vì thế, nó làm nảy
sinh nhiều tiêu cực, nhiều sai trái cho cả phía người bán lẫn người mua. Và hoạt động
dịch vụ văn hóa cũng không ngoại lệ.
240
Cho nên khi đã có dịch vụ văn hóa và để làm cho dịch vụ văn hóa phát triển lành
mạnh thì cần có chiến lược xây dựng văn hóa dịch vụ.
* Nhận thức về văn hóa dịch vụ
Văn hóa dịch vụ là một khía cạnh của văn hóa thương mại nói chung. Nó đòi hỏi các
đối tác hoạt động dịch vụ đến với nhau thông qua giao tiếp, ứng xử có văn hóa, văn minh,
lịch sử và tôn trọng lẫn nhau. Đưa giá trị nội dung dịch vụ lên trên giá trị đồng tiền. Đặc
biệt tránh việc lợi dụng dịch vụ để làm những việc sai phạm pháp luật hay đạo đức lối
sống.
Như vậy, để thực sự xây dựng nên văn hóa dịch vụ thì các đối tác liên quan tới
hoạt động dịch vụ đều phải tự xác định và trang bị cho mình những kiến thức về luật
pháp, giữ gìn đạo đức lối sống tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc. Văn hóa dịch
vụ phải trở thành điều tâm đắc, thành vóc dáng và sức mạnh của dịch vụ xã hội nói
chung, trong đó có dịch vụ văn hóa.
* Những hạn chế, tiêu cực của hoạt động dịch vụ văn hóa
Trong những năm vừa qua hoạt động dịch vụ văn hóa có nhiều mặt tích cực và
mặt tích cực là chính, song cũng cần đề cập tới những tiêu cực hạn chế để tìm cách
khắc phục. Trong phạm vi bài này chỉ nêu một số nét làm ví dụ:
- Không ít những chủ nhà hàng, quán bar, vũ trường, karaoke sử dụng tiếp viên
nữ một cách trái phép để thu hút khách đến với hoạt động thiếu lành mạnh, gợi cảm,
hướng dục vọng, sử dụng thuốc kích thích, thuốc lắc, heroin. Đặc biệt nghiêm trọng là đối
tượng đến với các cơ sở dịch vụ trên đa phần là thanh thiếu niên, đang độ tuổi học tập, rèn
luyện để trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài ra còn có một bộ phận cán bộ, công
chức nhà nước cũng tham gia vào các dịch vụ này.
- Việc ra đời một số cơ sở thờ cúng bất hợp pháp, mang nặng dấu ấn mê tín dị
đoan và những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng để thu lợi lộc,
đã gây nhiều phức tạp và bức xúc cho xã hội, cho cộng đồng.
- Các hoạt động dịch vụ du lịch, lữ hành gia đình kém chất lượng, nạn cò mồi lôi
kéo khách du lịch để cho thuê xe, thuê phòng hay bán hàng lưu niệm, kể cả xin tiền
tràn lan. Các dịch vụ ẩm thực "treo đầu dê bán thịt chó", đồ ăn quá hạn, mất vệ sinh
thậm chí ôi thiu vẫn bán cho khách, nhiều cửa hàng ép giá khách hàng gấp hai ba lần.
Nhiều mặt hàng người mua không yên tâm vì cân đong, đo đếm thiếu chính xác.
- Nhiều cơ sở dịch vụ văn hóa in sang băng đĩa lậu, kém chất lượng và trốn thuế.
Truyền bá băng đĩa có nội dung xấu, không được phép lưu hành ra thị trường.
- Nhiều quán internet game online cài đặt chương trình trò chơi kích động bạo
lực, hoạt động sai phạm quy định...
Trên khắp mọi miền đất nước, nhiều dịch vụ mang lại thất vọng bực mình cho
người sử dụng vì đã lỡ quá tin vào người cung ứng dịch vụ, dẫn đến mức độ "tiền mất
tật mang", dịch vụ hiệu quả thấp, không đạt yêu cầu. Rõ ràng không thể kể hết được
những hạn chế, những tiêu cực của hoạt động dịch vụ.
241
Nguyên nhân của những hạn chế, tiêu cực ấy thì lại không nhiều. Có thể chỉ ra
một số nguyên nhân chính:
- Đối với người cung cấp dịch vụ, đó là: Nhận thức về pháp luật hạn chế; Lòng
tham, sự ích kỷ và lợi dụng; Đạo đức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm thấp kém.
- Đối với người sử dụng dịch vụ, đó là: Sự ham muốn, cần thiết không được kiềm
chế; Sự chấp nhận, cam chịu, tự hài lòng trước thực tế.
Như vậy, nguyên nhân về phía người sử dụng dịch vụ tạo động lực, tạo điều kiện
cho nguyên nhân về phía người cung cấp dịch vụ bùng phát.
* Dự báo về đời sống xã hội và hoạt động dịch vụ văn hóa
Nước ta đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ một số năm
nay, cơ hội phát triển kinh tế đã rộng mở. Các lĩnh vực hoạt động sẽ tăng cường cạnh
tranh ngay trong đất nước và cạnh tranh quốc tế. Mọi điều kiện để đẩy mạnh sự cạnh
tranh sẽ được tận dụng và đó cũng là thời cơ tốt cho củng cố và mở rộng thêm nữa
phạm vi cũng như quy mô của hoạt động các loại dịch vụ xã hội mà trong đó không
thể thiếu vắng các dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch.
Mở rộng dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch là do nhu cầu, đòi hỏi về đời sống văn
hóa của xã hội tăng cao.
Trong nhân dân, đời sống vật chất ngày càng giàu hơn, đời sống tinh thần ngày
càng phong phú, văn minh, hiện đại hơn. Nhu cầu nghỉ ngơi, an dưỡng, hưởng thụ du
lịch, văn hóa, nghệ thuật, vui chơi nhiều hơn, tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh được quan
tâm hàng ngày. Sản phẩm văn hóa truyền thống và đương đại càng được nhiều người
ưa chuộng, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, phát triển. Người đi làm, người đi học,
người đi ngoại giao, thương mại ngày càng nhiều. Người nước ngoài vào nước ta ngày
càng tăng cao... Đất nước mở cửa và hội nhập. Nhiều hoạt động quốc tế lớn như hội
nghị, liên hoan, hội thi người đẹp, thi đấu thể thao được thực hiện ở Việt Nam. Đi theo
những sự kiện lớn, quan trọng đó là bao nhiêu nhu cầu về mọi mặt và đều đòi hỏi phải
được đáp ứng đầy đủ hoàn hảo.
Như vậy, để đáp ứng mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trong nước
và khách quốc tế đến Việt Nam, cũng như của người Việt Nam ra nước ngoài và Việt
Kiều từ khắp các nơi về thăm đất nước thì không thể chỉ trông chờ vào các hoạt động
kinh tế-văn hóa mang tính Nhà nước, mà phải có sự góp sức tích cực của mỗi cơ sở, tổ
chức tập thể, tư nhân trong xã hội. Đó chính là các hoạt động dịch vụ văn hóa nói
riêng, dịch vụ xã hội nói chung.
Chúng ta cũng dự báo rằng từ 10 đến 20 năm nữa Việt Nam sẽ là một đất nước có
nền kinh tế phát triển ngang với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Nước ta sẽ là một đất nước công nghiệp hiện đại. Điện khí hóa 100% lãnh thổ. Nền
nông nghiệp được cơ giới hóa 90%. Cư dân nông nghiệp chỉ còn 35% đến 40% thay vì
85% như hiện nay (năm 2011). Như thế, việc áp dụng kỹ thuật và điện tử hóa nhiều
loại hình dịch vụ văn hóa được mở rộng để đáp ứng yêu cầu ngày một cao hơn, hiện
đại hơn của đời sống xã hội.
242
1.3. Một số giải pháp để phát triển hoạt động dịch vụ
Để phát triển bền vững và tốt đẹp các hoạt động dịch vụ văn hóa, từng bước xây
dựng nên tính văn hóa trong hoạt động dịch vụ cần thiết phải tiến hành kịp thời và
đồng bộ một số giải pháp.
1.3.1. Tăng cường giáo dục nâng cao dân trí
Một biện pháp cần thiết và hữu hiệu nhất để dịch vụ văn hóa đạt được nhiều
thành quả tốt đẹp, góp phần làm tăng nhanh giá trị của nền kinh tế và các lĩnh vực
khác của xã hội, đó là giáo dục nâng cao dân trí.
Giáo dục nâng cao dân trí là thực hiện "chiến lược con người", bởi con người quyết
định mọi thành bại của sự việc. Sự nghiệp giáo dục nâng cao dân trí là sự nghiệp cách
mạng về văn hóa tư tưởng do Đảng lãnh đạo, Nhà nước và nhân dân cùng thực hiện.
Sự nghiệp giáo dục nâng cao dân trí bao gồm trên mọi mặt đời sống văn hóa tinh
thần mà trước tiên là trên mặt bằng học vấn, học thức của nhân dân.
Việc giáo dục phổ cập bậc tiểu học được nhà nước nêu ra và thực hiện từ nhiều
năm, nhưng hiện tại vẫn còn có người mù chữ, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng
sâu, vùng xa. Hiện vẫn có tình trạng ở giữa thị trấn, thị xã mà vẫn còn có những thanh
thiếu niên không biết đọc, biết viết. Có trường hợp người không biết chữ vẫn kinh
doanh, buôn bán, lao động bình thường. Đúng là như vậy, nhưng không có nghĩa như
thế là không cần biết chữ, không cần có dân trí. Bởi phải có trình độ học vấn nhất
định-hiện nay là phổ cập phổ thông trung học, có tri thức mới tiếp thu được khoa học
kỹ thuật và các chính sách pháp luật, các kỹ năng hoạt động ngành nghề. Từ đó mới
làm mọi công việc từ buôn bán nhỏ đến kinh doanh, mở doanh nghiệp, sản xuất, xây
dựng hay làm các ngành nghề khác như văn hóa, y tế,... có kết quả tốt được. Cho nên,
việc nâng cao dân trí trước hết là phổ cập giáo dục cho nhân dân là một đòi hỏi quan
trọng và cấp bách.
Đối với người đã biết chữ, có trình độ học vấn từ bậc trung học trở lên việc nâng
cao dân trí là việc được trang bị, được bổ sung, được giáo dục về nhân sinh quan, thế
giới quan, về đạo đức xã hội, về pháp luật về vai trò và trách nhiệm công dân.
Một đất nước có dân trí cao chính là một đất nước có nhân dân tôn trọng và sống
theo đúng quy định của luật pháp.
Như vậy, công tác giáo dục nâng cao dân trí là một trong những giải pháp để làm
phát triển hoạt động dịch vụ văn hóa và xây dựng nên văn hóa dịch vụ.
Đây là một giải pháp đòi hỏi cả chiều sâu và bề rộng, cả sự sinh động và linh hoạt
trong nội dung, đối tượng, kỹ năng và điều kiện.
- Sâu về nội dung giáo dục.
- Rộng về đối tượng giáo dục.
- Sinh động về kỹ năng, cách thức giáo dục.
- Linh hoạt về hoàn cảnh, điều kiện để giáo dục.
243
* Nội dung giáo dục
Với đặc điểm là một loại hình giáo dục cộng đồng, đa cấp, đa dạng, đa thành
phần với hai lĩnh vực nội dung chính là:
- Giáo dục pháp luật.
- Giáo dục đạo đức, lối sống.
Tất thảy mọi hoạt động xã hội muốn hoàn thành được tốt đẹp thì trước hết người
thực hiện nội dung hoạt động phải được trang bị tốt hai lĩnh vực trên. Đó là nền tảng
để học hỏi, tiếp thu và phát huy những giá trị về ngành nghề, chuyên môn. Không hiểu
rõ, không nắm vững pháp luật thì làm gì cũng bị vi phạm. Không có đạo đức, lối sống
tốt thì không được cộng đồng công nhận và hợp tác.
Với những đối tượng hoạt động cung cấp dịch vụ, hay sử dụng dịch vụ cũng vậy.
Cũng rất cần hiểu biết và thi hành nghiêm chỉnh luật pháp và có đạo đức, lối sống tốt.
Như vậy, nội dung giáo dục nâng cao dân trí rất sâu và có ý nghĩa thiết thực.
* Đối tượng tiếp nhận giáo dục
Sự nghiệp giáo dục nâng cao dân trí dành cho tất cả thành phần trong xã hội,
không loại trừ hay phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, tôn giáo, giới tính, dân tộc, vùng
miền. Mỗi người được học hỏi, được trang bị thêm kiến thức xã hội là không bao giờ
vô ích, không thừa, bởi vì trong cuộc sống không ai là không có thiếu sót, khuyết
điểm, sai lầm, không ai là biết tất, biết hết mọi điều của vạn vật. Vậy thì đối tượng của
giáo dục là tất cả mọi người. Tuy nhiên, đây là giáo dục xã hội, đặc biệt chú trọng tới
những đối tượng hoạt động cung cấp và sử dụng dịch vụ. Bởi đây là đối tượng trực
tiếp làm bền vững, phát triển và làm tốt đẹp các hoạt động dịch vụ trong xu thế phát
triển kinh tế thị trường đầy biến động. Như vậy, đối tượng giáo dục là rất rộng, rộng về
thành phần, lứa tuổi, rộng về địa bàn vùng miền, dân tộc, rộng về dân cư giàu nghèo,
trình độ học vấn, ngành nghề...
* Cách thức giáo dục
Nội dung cần giáo dục và đối tượng cần được giáo dục như trên đã nêu chỉ ra
rằng phải có cách thức giáo dục đa dạng, sinh động.
Trước hết phải đặt vấn đề giáo dục là giúp trang bị hoặc bổ sung kiến thức, nhận
thức về cuộc sống, về luật pháp chứ không đơn thuần là sự dạy và học, sự lên lớp dạy
bảo làm cho đối tượng khó tiếp thu.
Như vậy, mục đích giáo dục phải được tiến hành bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ:
- Giáo dục trong nhà trường với đối tượng học sinh, sinh viên.
- Giáo dục bằng các hình thức vui chơi, giải trí, lồng ghép nội dung cần truyền
đạt cho các đối tượng sinh hoạt trong nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, câu lạc
bộ, tụ điểm văn hóa của thanh thiếu nhi hoặc cộng đồng.
- Phổ biến bằng văn bản, bằng hình vẽ, bằng cổ động trực quan cho các đối tượng
kinh doanh ở các nhà hàng, quán hàng, kiốt hay trong các khu thương mại.
244
- Phát tờ rơi và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Phát động tìm hiểu, đố vui, thi có thưởng...
Nói chung là phải tìm ra cách thức phổ biến, truyền bá nhằm đạt được mục đích
giáo dục một cách nhẹ nhàng, sinh động và hiệu quả. Nhiều khi đối tượng giáo dục
không nhận ra mình đang là đối tượng giáo dục, từ đó họ tiếp nhận nội dung giáo dục
một cách tự giác, vô tư.
* Hoàn cảnh, điều kiện giáo dục cần phải được linh hoạt
Không nhất thiết phải đạt được ngay kết quả, phải trông thấy ngay sự biến
chuyển, tiến bộ ở đối tượng giáo dục.
Do đó, điều kiện, hoàn cảnh tiến hành giáo dục cũng tùy thuộc vào khả năng
khách quan và yếu tố chủ quan của đối tượng. Sự giáo dục nhiều khi được tiến hành
bằng một lần gặp mặt, một lần trò chuyện, trao đổi giản dị, không cần giấy, mực, máy
móc hay tài liệu, sách vở gì. Sự giáo dục có khi chỉ có một hoặc vài ba đối tượng, cũng
có khi là một buổi họp tổ dân phố, họp tổ bán buôn nơi trung tâm thương mại hoặc ở
chợ với các phương tiện âm thanh, các văn bản, sách báo... của ban quản lý, của người
phụ trách hoạt động hoặc của ban kiểm tra, của cơ quan chức năng, trật tự, an ninh
cộng đồng.
Đối với khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc, hoàn cảnh và điều
kiện giáo dục lại càng cần chú ý linh hoạt nhiều hơn, bởi vì đây là những vùng miền
đời sống của dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, dân trí còn thấp so với thành phố.
Cho nên, không thể áp dụng một biện pháp, một cách làm cho tất cả mọi vùng miền
mặc dù nội dung và đối tượng giáo dục thì tương tự như nhau.
Tuy nhiên, để công tác giáo dục đạt được kết quả khả quan. Nếu chỉ dùng một biện
pháp vận động mềm dẻo không thôi cũng chưa đủ mà nhiều khi phải đi đôi với biện
pháp mệnh lệnh cứng rắn. Tùy theo mức độ sai phạm nặng nhẹ của người cung cấp hay
sử dụng dịch vụ mà xử trí cho phù hợp và kịp thời với những hoàn cảnh và điều kiện bắt
buộc như tập trung học tập, cải tạo... Như cơ quan chức năng đã xử lý ở một số cơ sở
dịch vụ karaoke hay vũ trường mấy năm vừa qua. Cải tạo, răn đe cũng là một biện pháp
giáo dục.
Công tác giáo dục là một giải pháp hết sức cần thiết và quan trọng hàng đầu, do
đó phải được thực hiện thường xuyên và liên tục bằng nhiều cách thức, góp phần xây
dựng nên tính văn hóa trong hoạt động dịch vụ-gọi tắt là văn hóa dịch vụ. Đây là biện
pháp Tăng cường công tác quản lý nhà nước dịch vụ văn hóa-một giải pháp quan
trọng và cần thiết. Trong tương lai khi nền kinh tế xã hội phát triển ngang tầm với các
nước phát triển trong khu vực và thế giới thì hoạt động dịch vụ cũng phải được hoàn
thiện và chuyên nghiệp hơn đối với nhà cung cấp dịch vụ. Nhu cầu sử dụng dịch vụ
cũng nhiều hơn và với chất lượng cao hơn. Do vậy, công tác quản lý nhà nước các hoạt
động dịch vụ cũng phải được đổi mới và hoàn chỉnh hơn nữa.
Trước hết, khắc phục những yếu kém, chồng chéo trong khâu quản lý hiện còn
tồn tại. Qua khảo sát thực tế cho thấy có những hoạt động dịch vụ văn hóa công cộng
tại các khách sạn do Bộ kế hoạch và Đầu tư cấp phép hoạt động trong phạm vi quy chế
245
hoạt động doanh nghiệp. Nhưng công tác kiểm tra, quản lý lại do ngành văn hóa thực
hiện. Hoạt động internet và tụ điểm game online do các quy định của ngành Bưu chính
viễn thông điều chỉnh, nhưng trong thực tế ngành văn hóa cũng phải chịu trách nhiệm
vào cuộc.
Rõ ràng hiện tại còn có những văn bản quản lý hoạt động dịch vụ chất lượng chưa
cao, nội dung quy định chồng chéo hoặc chung chung, hoặc thiếu thực tế, thiếu tính khoa
học. Vì vậy, đối tượng thực thi văn bản quản lý phát hiện ra những kẻ hở, những điều vô
lý, từ đó dẫn đến việc ý thức chấp hành không nghiêm túc, không triệt để.
Xuất phát từ tinh thần cầu thị và ý thức trách nhiệm, chúng ta có thể thấy rằng sự
yếu kém, lỏng lẻo của văn bản quản lý và thực thi quản lý còn tồn tại đã góp một phần
gây ra những bất cập của dịch vụ văn hóa. Từ đó làm nảy sinh không ít những sự việc
đau lòng cho gia đình, cha mẹ mà do các thanh thiếu niên phạm phải tội lỗi làm xôn
xao dư luận xã hội.
Thậm chí có thời điểm quần chúng nhân dân bức xúc, thắc mắc, chưa hài lòng
trước một số cách thức xử lý văn bản và cấp phép hoạt động dịch vụ văn hóa của các
đơn vị cơ quan chức năng.
Đứng trước các thực tế đó, để hoạt động dịch vụ văn hóa phát huy được những
mặt tích cực, ưu điểm và hạn chế dần những mặt yếu kém, tiêu cực, dẫn tới sự ổn định,
nề nếp và thực sự xứng đáng với vai trò góp phần thúc đẩy xã hội, đất nước giàu đẹp
hơn. Hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch cần được quan
tâm và kiện toàn hơn nữa.
Muốn làm tốt được điều đó, các ngành chức năng cần tăng cường đổi mới tư duy
quản lý, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ
quản lý. Mặt khác cần tăng cường sự cộng tác, phối hợp giữa các ngành chức năng
như: văn hóa, thể thao, du lịch, tài nguyên môi trường, thanh tra, công an và chính
quyền trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động dịch vụ. Và trước hết
đó là hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy về quản lý dịch vụ văn hóa, thể thao, du
lịch trong cơ chế kinh tế thị trường và hòa nhập cộng đồng, hòa nhập kinh tế quốc tế.
Làm tốt các nhiệm vụ trên là chúng ta đã thực hiện được những bước đi cơ bản
nhất cho việc xây dựng một nền tảng vững bền và bộ mặt tươi đẹp của dịch vụ văn
hóa. Đó chính là văn hóa dịch vụ-một phạm trù mà chúng ta vừa đề cập.
2. Giới thiệu một số văn bản quản lý dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch
Trong những năm vừa qua hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch đã mang lại
nhiều lợi ích kinh tế và văn hóa xã hội cho nhân dân trên khắp các vùng miền của đất
nước ta và cho cả những người nước ngoài vào Việt Nam hay người Việt Nam ra nước
ngoài.
Chúng ta đã khẳng định vai trò tích cực của hoạt động dịch vụ và qua đó cũng
xác định những yếu kém, tiêu cực của hoạt động dịch vụ cả về hai phía: Người tổ chức
cung cấp, cung ứng dịch vụ và người sử dụng, đòi hỏi dịch vụ.
246
Để hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch từng bước phát triển bền vững, mang
lại nhiều lợi ích hơn nữa cho đời sống nhân dân. Điều cần thiết đặt ra là Nhà nước phải
quan tâm tới hoạt động này và kịp thời tiến hành công tác quản lý Nhà nước hoạt động
này.
Thực tế những năm qua, nhiều văn bản pháp quy của nhà nước đã ban hành,
nhiều văn bản đã sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh để đáp ứng với những bước phát triển
mới của đời sống nhân dân và đất nước. Do vậy, người làm công tác quản lý, hướng
dẫn, tổ chức các hoạt động văn hóa cơ sở có vai trò tham mưu và góp phần trực tiếp
quản lý hướng dẫn hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch ở cơ sở, là những
người cần tìm hiểu sâu về các văn bản pháp quy này.
Trong khoảng 20 năm nay đã có nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước và ngành
văn hóa được ban hành rộng rãi trong nhân dân. Sau đây xin nêu một số văn bản pháp
quy có liên quan tới quản lý, hướng dẫn tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch ở
cơ sở nói chung và hoạt động dịch vụ văn hóa nói riêng:
1. Hướng dẫn số 1182/HD-BVHTT ngày 14/4/2004 của Bộ Văn hóa-Thông tin
hướng dẫn xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở. Trong đó định hướng và chỉ đạo việc xây
dựng tổ chức hoạt động nhà văn hóa làng, thôn, ấp, bản. Đơn vị văn hóa gắn bó gần
gũi nhất với đời sống văn hóa ở cơ sở.
2. Chỉ thị số 1677/CT ngày 26/9/1991 của Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao về
việc phát triển văn hóa, thông tin, thể thao trong thanh thiếu niên nhi đồng.
3. Quyết định số 636/QĐ-QC ngày 21/5/1994 của Bộ Văn hóa-Thông tin về ban
hành quy chế lễ hội kèm theo nội dung các điều khoản "quy chế lễ hội".
4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) của Ban chấp hành Trung ương
Đảng ngày 16/7/1998 về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc".
5. Chỉ thị số 27/CT-TW ngày 12/1/1998 của Bộ chính trị về thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
6. Quyết định số 55/1999/QĐ-BVHTT ngày 05/8/1999 của Bộ Văn hóa-Thông
tin ban hành quy chế sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành, kinh doanh băng âm
thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình ca nhạc, sân khấu...
7. Quyết định số 39/QĐ-BVHTT ngày 28/3/2001 của Bộ Văn hóa-Thông tin về
quy chế tổ chức lễ hội. ở quy chế này đã điều chỉnh và bổ sung một số điều.
8. Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11/8/2000 của Chính phủ về việc bãi bỏ
một số giấy phép và chuyển một số giấy phép thành điều kiện kinh doanh.
9. Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 31/11/2001 của Chính phủ quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực văn hóa-thông tin.
10. Nghị định số 59/2002/NĐ-CP ngày 04/6/2002 của Chính phủ về việc bãi bỏ
một số giấy phép và thay thế một số giấy phép bằng phương thức quản lý khác.
247
11. Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài
chính cho đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực văn hóa-thông tin, trong đó có các
thiết chế văn hóa như nhà văn hóa, trung tâm văn hóa...
12. Nghị định số 114/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ, trong đó có xác
định định xuất chức danh cán bộ văn hóa-xã hội, với vai trò và nhiệm vụ công tác của
chức danh cán bộ văn hóa xã.
13. Quyết định số 04/2004/NĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ quy định
nhiệm vụ, chức trách cũng như quyền lợi đãi ngộ của công chức văn hóa-xã hội.
14. Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày 25/5/2006 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích trên các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
15. Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 6 tháng 11 năm 2009 về Quy chế hoạt
động dịch vụ văn hoá công cộng.
16. Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động văn hoá.
Trên đây là một số văn bản pháp quy đã và đang có hiệu lực thi hành với nội
dung điều chỉnh tập trung vào lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật và dịch vụ văn
hóa công cộng.
Mỗi văn bản pháp quy đều có những điều khoản cụ thể xác định trách nhiệm của chủ
thể quản lý và đối tượng của quản lý kèm theo là những điều khoản quy định rõ việc nhà
nước cho phép cái gì được làm và cái gì cấm làm trong từng lĩnh vực. Đó không phải là
những định hướng mà là quy định bắt buộc mọi đối tượng phải thực hiện đúng và nghiêm
túc.
Ví dụ: Điều 3 chương I của quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn
hóa công cộng (ban hành kèm theo nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009)
của Chính phủ, ghi rõ: "Quy định cấm trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ
văn hóa công cộng"... (các hoạt động bị cấm 1...2....3...).
- Điều 27 chương VII (cũng văn bản quy chế trên) phần nói về: trách nhiệm của
chủ kinh doanh vũ trường. Cũng ghi rõ: "Khi hoạt động kinh doanh vũ trường, chủ
kinh doanh phải tuân theo các quy định sau đây" .... 1....2...3.....9.
- Điều 32 chương VIII (văn bản quy chế trên) phần nói về: trách nhiệm của chủ
cơ sở kinh doanh karaoke. Cũng ghi rõ: "khi hoạt động kinh doanh karaoke, chủ cơ sở
kinh doanh phải tuân theo các quy định sau đây" (1...2....3....8).
Các văn bản pháp quy đều ghi rõ cái được làm và cái không được làm dành cho
đối tượng là người tổ chức hoạt động dịch vụ công cộng. Nhưng như thế không có
nghĩa là người có nhu cầu sử dụng dịch vụ ở trong lĩnh vực ấy đứng ngoài phạm vi
trách nhiệm.
Ví dụ: Mục 5 Điều 27 chương VII "hoạt động vũ trường" (văn bản quy chế trên)
ghi: "Khi phát hiện người say rượu, bia, người sử dụng các chất ma túy và các chất
kích thích bị cấm sử dụng phải yêu cầu người đó ra khỏi vũ trường". Hay ở mục 6
248
Điều 27 chương VII "hoạt động vũ trường" (cũng văn bản quy chế trên) ghi: "Không
cho người dưới 18 tuổi làm việc hoặc vào khiêu vũ tại vũ trường".
Các điều mục ví dụ trên rõ ràng là quy định dành cho đối tượng là chủ kinh
doanh phải thực hiện, nhưng đồng thời với người liên quan tới các vấn đề đã bị cấm ở
điều mục ấy như người say rượu, bia, sử dụng ma túy...(ở mục 5 Điều 27) hay người
dưới 18 tuổi vào làm việc phục vụ hoặc khiêu vũ....(ở mục 6 Điều 27) đều sẽ bị xử lý
hành chính.
Như vậy, mỗi văn bản pháp quy dành cho một đối tượng A thực hiện nhưng đồng
thời nó cũng có tác dụng tới các đối tượng B, C... khác có liên quan cũng phải chịu
trách nhiệm. Tuy nhiên, khi cơ quan chức năng, nhà chức trách làm nhiệm vụ xem xét,
xử lý hành chính các đối tượng vi phạm điều luật sẽ xem xét ở nhiều góc độ và trên
nhiều điều khoản quy định ở các văn bản pháp quy khác nữa để đưa ra kết luận vi
phạm và xử phạt phù hợp, công bằng.
Nghị định 103 của Chính phủ ra ngày 06/11/2009 với văn bản quy chế hoạt động
văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng đã quy định nhiều nội dung liên
quan tới nhiều lĩnh vực hoạt động.
- Chương I: Những quy định chung có từ Điều 1 đến Điều 3. Đặc biệt chú ý Điều
3: quy định cấm trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa.
- Chương II: Lưu hành, kinh doanh băng, đĩa ca nhạc, sân khấu quy định từ Điều
4 đến điều 6. Chú ý Điều 6: Quy định đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh, phổ biến
băng đĩa ca nhạc sân khấu.
- Chương III: Biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang bao gồm từ Điều 7 đến
Điều 11. Chú ý 2 điều 9 và 10 là các quy định về trách nhiệm của chủ địa điểm biểu
diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang và trách nhiệm của người tổ chức biểu diễn nghệ
thuật, trình diễn thời trang.
- Chương IV: Triển lãm văn hóa nghệ thuật
Từ Điều 12 đến Điều 16 chú ý Điều 15: điều kiện triển lãm và trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân tổ chức triển lãm.
- Chương V: Tổ chức lễ hội
Gồm từ Điều 17 đến Điều 20 chú ý Điều 18 và Điều 20 thẩm quyền và thủ tục
cấp giấy phép tổ chức lễ hội; trách nhiệm của người tổ chức lễ hội.
- Chương VI: Viết, đặt biển hiệu
Từ Điều 22 đến Điều 23.
- Chương VII: Hoạt động vũ trường
Gồm từ Điều 24 đến Điều 29. Chú ý Điều 27 và Điều 29 quy định trách nhiệm
của chủ kinh doanh vũ trường và quy định cấm trong hoạt động vũ trường.
- Chương VIII: Hoạt động karaoke
249
Từ Điều 30 đến Điều 34. Chú ý Điều 32 và Điều 34. Quy định trách nhiệm của
chủ cơ sở kinh doanh karaoke và quy định cấm trong hoạt động karaoke.
- Chương IX: Hoạt động trò chơi điện tử và các hình thức vui chơi khác.
Từ Điều 35 đến Điều 36.
- Chương X: Điều khoản thi hành
Từ Điều 37 đến điều 38. Chú ý Điều 37 quy định về hoạt động sau 12 giờ đêm.
Trong văn bản pháp quy, mỗi điều khoản đều quan trọng và cần thiết nắm vững để
thực hiện. Tuy nhiên, đặc biệt chú ý tới những điều khoản mang tính cốt lõi có liên quan
trực tiếp tới các đối tượng cung ứng và sử dụng dịch vụ để điều hành quản lý được hiệu quả.
3. Kỹ năng tham mưu, tư vấn cho UBND xã về quản lý hoạt động dịch vụ
văn hóa, thể thao và du lịch
3.1. Vai trò, vị trí của công tác tham mưu, tư vấn
Chúng ta đã biết, ở mỗi cấp chính quyền người có trách nhiệm nặng nề nhất, lớn
nhất là chủ tịch. Chính quyền xã là chủ tịch xã. Chủ tịch điều hành tất cả mọi công
việc của xã, chịu trách nhiệm trước Đảng và dân về tất cả những gì đang diễn biến
trong đời sống của nhân dân trong xã.
Dưới Chủ tịch có bộ máy hành chính giúp việc. Trong lĩnh vực văn hóa, thông
tin, thể thao, du lịch và dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch, người giúp việc cho Chủ
tịch là cán bộ văn hóa xã-Ban văn hóa xã.
Lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch và hoạt động dịch vụ văn hóa, thể
thao, du lịch ở xã vô cùng rộng lớn và phức tạp, trong khi đó đội ngũ cán bộ lại quá ít.
Hiện tại mỗi xã chỉ có một định xuất. Có một vài địa phương trong cả nước đã tăng
thêm một định xuất nữa. Việc nhiều, người quá ít lại có những khó khăn chồng chất
nên công tác tham mưu, tư vấn cho chủ tịch xã không được làm đến nơi đến chốn. Do
vậy, nhiều sai phạm, tiêu cực trong hoạt động dịch vụ văn hóa không được giải quyết
dứt điểm, gây nhiều bức xúc cho nhân dân. Nếu không có tham mưu, tư vấn, chủ tịch
xã không thể nào nắm hết được ngọn ngành, chi tiết, mức độ của những vi phạm, sai
sót, tiêu cực trong các hoạt động, trong đời sống nhân dân của xã, nhất là hoạt động
dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch đang bùng phát mạnh mẽ trong cơ chế kinh tế thị
trường hôm nay. Không nắm bắt cụ thể vấn đề, sự việc đồng nghĩa với việc không giải
quyết được vấn đề, sự việc.
Với vai trò, nhiệm vụ là một cán bộ giúp việc cho chủ tịch xã về mảng văn hóa-
xã hội, cán bộ văn hóa xã nắm vững tình hình hoạt động và có đề xuất tham mưu, tư
vấn cho chủ tịch về phương án giải quyết, xử lý, chấn chỉnh thì những vi phạm, tiêu
cực trong hoạt động dịch vụ văn hóa mới có triển vọng được khắc phục.
Rõ ràng, hoạt động tham mưu, tư vấn, quản lý, chấn chỉnh trong lĩnh vực dịch vụ
văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn xã là một hoạt động nhiều khó khăn, phức tạp,
nhiều trở ngại nhưng không thể không làm vì nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống
văn hóa xã hội ở xã. Như vậy, hoạt động tham mưu, tư vấn về quản lý dịch vụ văn hóa,
thể thao, du lịch cho chủ tịch xã có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng và thiết thực.
250
3.2. Yếu tố của công tác tham mưu tư vấn
Bao gồm 2 yếu tố chính là: Người làm công tác tham mưu, tư vấn và Nội dung
tham mưu, tư vấn.
a. Người làm công tác tham mưu, tư vấn
Người làm công tác tham mưu, tư vấn cho UBND xã về quản lý hoạt động dịch
vụ văn hóa, thể thao, du lịch trên địa bàn xã chính là cán bộ văn hóa xã. Để tạo điều
kiện cho cán bộ văn hóa xã làm tròn chức trách của mình, ngành văn hóa, thể thao
và du lịch đã nêu ra những yêu cầu và biện pháp thiết thực như:
- Cần phải đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa, thể thao, du lịch ở cơ sở.
- Chú ý và ưu tiên nguồn cán bộ tại chỗ ở vùng đồng bào dân tộc là con em các dân
tộc. Những người thông thạo tiếng nói và tâm lý, phong tục, tập quán ở địa phương.
- Song song với công tác đào tạo cơ bản cho cán bộ văn hóa cơ sở vẫn phải quan
tâm thường xuyên bổ sung, tập huấn, kiến thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ để
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của thực tế. Đồng thời chú ý tạo điều kiện
thuận lợi và có chính sách đãi ngộ hợp lý để cán bộ yên tâm công tác lâu dài.
Những biện pháp trên đây nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở có
đầy đủ năng lực để hoàn thành tốt vai trò là một cán bộ văn hóa của Đảng ở cơ sở với
yêu cầu:
Về quan điểm, nhận thức và lối sống: Cán bộ văn hóa xã phải có quan điểm, nhận
thức chính trị rõ ràng, lập trường tư tưởng vững vàng; Có hiểu biết các đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong đó cần hiểu biết sâu về
các chính sách kinh tế-xã hội có liên quan tới đời sống hàng ngày của quần chúng
nhân dân tại cơ sở, địa phương. Nhất là các văn bản pháp quy về hoạt động văn hóa,
thể thao, du lịch và hoạt động dịch vụ văn hóa đang phát triển mạnh mẽ. Cán bộ phải
là người giản dị nhanh nhẹn, hoạt bát, gần gũi chan hòa với mọi người, chân thật, cởi
mở biết lắng nghe và học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với đồng nghiệp, đồng
chí trong địa bàn xã.
Về nghiệp vụ chuyên môn: Cán bộ văn hóa xã phải có kiến thức, hiểu biết cơ bản
về văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch. Đây là một vấn đề tưởng như đơn giản nhưng
thực tế lại rất khó khăn, phức tạp. Bởi vì các lĩnh vực của văn hóa, thông tin, thể thao,
du lịch là vô cùng nhiều, vô cùng rộng lớn. Nhưng nếu không có những hiểu biết cơ
bản về nó tất không thể nói được điều gì, làm được việc gì cho cơ sở.
Cán bộ văn hóa cơ sở có thể có chuyên môn sâu về một lĩnh vực nào đó như sáng
tác âm nhạc, vẽ tranh, nặn tượng, kẻ vẽ pa-nô, áp phích hoặc hát hay, diễn kịch giỏi,
nhưng cũng có thể không nhất thiết phải giỏi, phải tài về một lĩnh vực như thế. Mà
trước hết là phải nắm bắt được những đặc trưng, đặc điểm riêng của mỗi lĩnh vực và
rồi chỉ đạo nó, quản lý, hướng dẫn nó đi đúng quỹ đạo phục vụ cho mọi nhiệm vụ
chính trị xã hội chung của địa phương.
Cán bộ văn hóa cơ sở phải là người am hiểu về truyền thống văn hóa, phong tục
tập quán của địa phương, dân tộc. Có khả năng tổ chức các chương trình hoạt động
251
văn hóa, thông tin, thể thao hay du lịch ở cơ sở. Có khả năng vận động và lôi cuốn tập
hợp được quần chúng tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng một cách
đông đảo và hiệu quả.
Như vậy, để làm được những điều như yêu cầu trên, cán bộ văn hóa xã phải là
một người giàu tâm huyết với sự nghiệp văn hóa ở cơ sở.
b. Nội dung tham mưu, tư vấn:
Hai nội dung chính của công tác tham mưu, tư vấn:
Tham mưu, tư vấn về hoạt động phong trào văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch
và dịch vụ văn hóa.
Tham mưu, tư vấn về chấn chỉnh, xử lý sai phạm trong hoạt động văn hóa, thông
tin, thể thao, du lịch và hoạt động dịch vụ văn hóa.
- Về hoạt động phong trào văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch và dịch vụ văn
hóa: Bao gồm tất cả những mặt, những lĩnh vực diễn ra trong đời sống văn hóa của
quần chúng nhân dân địa phương hàng ngày, với các điều kiện, biện pháp, con người,
nội dung cụ thể...được mô tả đầy đủ, chi tiết bằng văn bản gọi là phương án tổ chức
hoạt động. Ngoài ra còn có các phương án hoạt động xã hội khác, hoặc định kỳ, hoặc
đột xuất mà cán bộ văn hóa xã hội phải lo liệu và phải có đề án, phương án để đề xuất,
tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo chính quyền xã từ vài tháng, trước khi tiến hành tổ
chức thực hiện. Cũng có phương án phải tham mưu, tư vấn từ năm trước cho hoạt
động của năm sau.
Yêu cầu chung của phương án: Mỗi phương án được xây dựng để tham mưu, tư
vấn cho lãnh đạo xã phải thể hiện được những mặt cơ bản như sau:
- Mục đích, ý nghĩa của phương án.
- Yêu cầu, mong muốn của phương án.
- Thời gian, thời lượng thực hiện nội dung phương án.
-. Địa điểm thực hiện nội dung phương án.
- Người thực hiện, nội dung phương án, cá nhân, tập thể.
- Phương tiện, kỹ thuật phục vụ cho phương án.
- Nội dung của phương án.
- Cách thức tổ chức hoạt động.
- Công tác giám sát, kiểm tra hoạt động.
- Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, thi đua.
Dù quy mô phương án tổ chức hoạt động lớn, nhỏ thế nào thì cũng cần có những
tính toán, chuẩn bị chi tiết chu đáo về các mặt trên và đòi hỏi cán bộ văn hóa xã phải
trình bày rõ ràng, cặn kẽ cho lãnh đạo xã để xin ý kiến chỉ đạo.
Trên đây chỉ đề cập đến các hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch do
chính quyền hay đoàn thể của xã chủ trì tổ chức hoạt động.
252
Đồng thời, hoạt động đó lại trực tiếp do cán bộ văn hóa xã đề xuất hoặc phối hợp
đề xuất tổ chức.
- Về Chấn chỉnh, xử lý sai phạm trong hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao, du
lịch và hoạt động dịch vụ văn hóa
Đây là nội dung thứ hai của công tác tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo của cán bộ
văn hóa xã phải thực hiện. Trong nền kinh tế thị trường, với chủ trương xã hội hóa các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch, bên cạnh những thành quả đạt được
không tránh khỏi những sai lầm, yếu kém, tiêu cực nhất là trong những hoạt động dịch
vụ. Vì vậy, công tác tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo xã kịp thời chấn chỉnh, sửa đổi
những sai sót, yếu kém, tiêu cực trong phong trào văn hóa, hoạt động dịch vụ văn hóa
trên địa bàn xã phải được tiến hành nghiêm túc và thường xuyên.
Các sai phạm, yếu kém, tiêu cực trong đời sống văn hóa ở địa phương thường
biểu hiện nhiều trên hai phương diện chính, đó là:
Vi phạm quy định, luật định đã ban hành
- Về nghĩa vụ công dân xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, giữ gìn bản sắc
văn hóa.
- Về giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng làng xã.
- Về dân số kế hoạch hóa gia đình.
- Về bảo vệ giữ gìn các công trình văn hóa lịch sử, tín ngưỡng, danh lam thắng
cảnh công cộng.
- Về thực hiện các cuộc vận động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”.
Sai phạm về đạo đức, lối sống biểu hiện
- Tính tham lam, hám lợi, vụ lợi, buôn gian, bán lậu.
- Tính cá nhân ích kỷ, lợi mình hại người, lười biếng ham hưởng thụ, bon chen,
trộm cắp, lừa đảo, cờ bạc, ma túy.
- Mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh.
- Huyênh hoang, ganh đua, công thần địa vị, bè phái mất đoàn kết.
- Tư tưởng lạc hậu, hủ bại, thi phú khinh bần, chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa dòng
tộc hẹp hòi.
Các vi phạm, sai phạm điển hình trên đây là những khía cạnh của cuộc sống
thường dễ nhận biết, nhưng không dễ khắc phục, xóa bỏ, sửa chữa. Ngoài ra, có những
sai phạm, những tiêu cực như tảng băng chìm khó nhận biết gây hại cho cuộc sống
bình yên của địa phương làng xã.
Nhiệm vụ của cán bộ văn hóa xã thật nặng nề khi phải tham mưu, tư vấn cho lãnh
đạo xã chỉnh đốn, khắc phục những bất cập trên đây.
253
c. Quy trình tham mưu, tư vấn
Một quy trình tham mưu, tư vấn của cán bộ văn hóa xã hội đối với lãnh đạo xã
thường có hai bước: Cán bộ đối diện với thực tế hoạt động xã hội và Cán bộ báo cáo
đề xuất và xin ý kiến chỉ đạo.
Bước 1. Cán bộ đối diện với thực tế hoạt động xã hội
Với vai trò và trách nhiệm của một cán bộ văn hóa xã, đây chính là nghiệp vụ của
cán bộ văn hóa xã. Đối diện với thực tế hoạt động xã hội là công việc, nhiệm vụ hàng
ngày, hằng giờ của cán bộ văn hóa-xã hội ở địa phương. Nó đòi hỏi:
- Cán bộ phải bám sát đời sống văn hóa-xã hội của cộng đồng làng xã như: tâm
tư, nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình, kinh tế, học vấn...
- Cán bộ phải có mặt thường xuyên ở các hoạt động văn hóa-xã hội của xã như
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch-tất nhiên là phải phân chia thời gian,
sắp xếp, bố trí công việc cho phù hợp từng nơi, từng lúc, từng việc.
- Cán bộ luôn quan tâm lắng nghe, tìm hiểu, thu thập thông tin của quần chúng về
các mặt hoạt động và quan hệ làng xã cộng đồng, mặt gì tốt cần phát huy, mặt gì chưa
tốt cần khắc phục.
- Cán bộ cần phát hiện kịp thời những diễn biến mới, những hiện tượng lạ trong
đời sống cộng đồng làng xã, nhất là những diễn biến có liên quan tới hoạt động văn
hóa-xã hội. Trong đó phân loại và sơ bộ nhận xét về diễn biến các hiện tượng đó, cái
gì đúng, cái gì sai hoặc vi phạm các quy định của pháp luật hay quy định của địa
phương như: Nội quy, quy định của ủy ban, đoàn thể, của câu lạc bộ, của các hội...
- Nắm vững định hướng xây dựng và phát triển các hoạt động phong trào văn
hóa, thể thao, du lịch của xã thông qua các kế hoạch, dự án hay chương trình hành
động mà lãnh đạo đã duyệt, cán bộ văn hóa cần thiết phải soạn thảo các phương án
triển khai và tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo xã chỉ đạo thực hiện. Đồng thời một hoạt
động xã hội khác cũng nằm trong phạm vi quản lý của lãnh đạo chính quyền xã mà
cán bộ văn hóa xã phải bao quát là hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch trên
địa bàn xã. Hoạt động này cũng phải được cán bộ văn hóa xã tham mưu, tư vấn cho
lãnh đạo xã quản lý một cách sát sao, vì nó đang hiện hữu liên quan tới đời sống từng
người dân trong xã, có cả tích cực và tiêu cực.
Bước 2: Cán bộ báo cáo, đề xuất, xin ý kiến chỉ đạo
Bước một đầy khó khăn, vất vả, tốn nhiều thời gian, công sức bao nhiêu thì bước hai
cũng đầy gian nan, phức tạp và đòi hỏi nhiều suy tính thận trọng bấy nhiêu.
Sau khi nắm bắt kỹ lưỡng và chính xác hiện thực khách quan và đã có được
những nhận định cần thiết cho sự phát huy mặt tích cực và chỉnh sửa những sai sót,
tiêu cực của hiện thực khách quan đó, cán bộ văn hóa xã tiến hành soạn văn bản báo
cáo, đề xuất và xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo xã. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng:
tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo xã để quản lý phong trào văn hóa, thể thao, du lịch và
dịch vụ văn hóa của địa phương tồn tại và phát triển vững bền, tốt đẹp đúng định
254
hướng của Đảng và Nhà nước về công tác văn hóa, thể thao, du lịch trong kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế.
Báo cáo, đề xuất, tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo xã phải hội tụ một số yêu cầu
chính sau:
- Phải có tính sát thực: Không tô hồng, bôi đen hoặc bóp méo sự thật hoạt động
của quần chúng đã có hoặc những sự việc, hiện tượng mới phát sinh trong phong trào
quần chúng, trong đời sống xã hội.
- Phải có tính khách quan: Nhìn nhận, đánh giá một sự việc, một phong trào phải
từ góc độ xây dựng, không chủ quan áp đặt hoặc suy diễn, không cảm tính, yêu ghét
tùy tiện. Phải tôn trọng cả lý và tình của sự việc hoặc hiện tượng đã và đang xảy ra.
- Phải lý giải được tính cấp thiết tiến hành công tác quản lý, chỉnh đốn, bổ sung,
nâng cấp để phát triển hay loại bỏ vì lợi ích cộng đồng trước mỗi hiện tượng hoặc sự việc.
- Phải nêu ra được những biện pháp cách thức giải quyết, xử lý hợp lý, thiết thực,
có hiệu quả, không gây nhiều sáo trộn, không gây hoang mang mất đoàn kết trong
quần chúng hoặc ảnh hưởng xấu tới trật tự an ninh xã hội, tổn hao tiền của nhà nước.
Như vậy một văn bản báo cáo, đề xuất, tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo xã phải
được chuẩn bị và biên soạn cẩn thận, chu đáo, thấu tình, đạt lý có tính khoa học và sức
thuyết phục nhất định. Thậm chí trong nhiều trường hợp phải có những cách trình bày
khéo léo, tế nhị hoặc phải có lòng dũng cảm và tinh thần trách nhiệm, dám đương đầu,
dám hy sinh bản thân vì sự nghiệp xây dựng quê hương, vì cái chân - thiện - mỹ.
Trên đây là những bước đi, những tiêu chí, những kỹ năng tham mưu, tư vấn cho
lãnh đạo xã quản lý và tổ chức hướng dẫn hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và dịch
vụ văn hóa ở xã của cán bộ văn hóa xã. Việc tiếp thu, lắng nghe tham mưu, tư vấn như
thế nào là do phía lãnh đạo xã, tuy nhiên nó cũng phụ thuộc nhiều vào chất lượng tham
mưu, tư vấn của cán bộ văn hóa. Như vậy, công việc tham mưu, tư vấn, nội dung tham
mưu tư vấn là thuộc về cán bộ văn hóa xã. Còn tiếp nhận và đưa ra kết luận xử lý cuối
cùng các vi phạm, sai sót, tiêu cực của hoạt động dịch vụ là thuộc về chủ tịch và tập
thể cán bộ chức năng do chủ tịch chỉ đạo.
Nhiều người quan niệm tham mưu, tư vấn là một nghệ thuật, quả không sai, vì
tham mưu, tư vấn là một việc làm xuất phát từ trái tim, từ khối óc của người tham
mưu. Nó là một công việc nhạy cảm, đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo, nhưng đôi khi cũng
phải mạnh bạo, dũng cảm mới làm được. Ngoài ra để nội dung tham mưu, tư vấn có
sức thuyết phục, người tham mưu, tư vấn phải trang bị cho mình vốn kiến thức xã hội
phong phú, vốn nghề nghiệp chuyên môn đủ để có lòng tin của người tham mưu, tư
vấn nói riêng, của đồng nghiệp và quần chúng nhân dân nói chung.
Kết luận
Hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch thực sự đã là một nhu cầu không thể
thiếu của đời sống xã hội.
Hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch góp phần làm phong phú đời sống
văn hóa tinh thần của mỗi tầng lớp nhân dân. Nó tạo ra công ăn việc làm cho rất nhiều
255
lao động trong xã hội và góp phần làm tăng thu nhập kinh tế cho nhiều cá nhân, gia
đình và toàn thể xã hội.
Với những người sử dụng dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch phương thức "thỏa
thuận" của dịch vụ đã giúp họ hài lòng hơn, yên tâm hơn, tiết kiệm được nhiều thời
gian, công sức khi cần phải tiến hành làm một việc, một vấn đề nào đó. Như thế là đã
mang lại lợi ích thiết thực cho cả người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ.
Vậy, có thể khẳng định rằng hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch có vai
trò thiết yếu trong đời sống văn hóa của nhân dân và hoạt động này cũng là động lực
góp phần thúc đẩy xã hội tiến lên.
Song, để hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch luôn xứng đáng với lòng tin
và sự chờ đợi, ủy thác, thỏa thuận của toàn xã hội. Cần thiết Nhà nước phải có những
biện pháp quản lý, hướng dẫn tổ chức hoạt động dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch kịp
thời, sát sao nhiều hơn nữa, mà trong đó vai trò nhiệm vụ của người cán bộ văn hóa ở cơ
sở xã là hết sức quan trọng, cần được quan tâm của toàn xã hội. Cán bộ văn hóa xã-
người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa ở địa bàn nông thôn, đồng bằng hay miền núi-người
đóng góp trực tiếp bằng những hoạt động thực tiễn phong trào và tham mưu, tư vấn cho
Chủ tịch xã đưa ra những giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất nhằm làm cho hoạt động dịch
vụ văn hóa, thể thao, du lịch-một mắt xích quan trọng đẩy cỗ xe kinh tế, văn hóa-xã hội
tiến lên phía trước.
Chúng ta hy vọng và tin tưởng rằng đời sống văn hóa-xã hội của mỗi làng xã, của
cả đất nước ngày càng khởi sắc, phát triển bền vững mang đậm dấu ấn của thời đại
mới mà trong đó có sự góp sức của bao trái tim, khối óc đầy nhiệt huyết, âm thầm,
lặng lẽ hiến dâng từ những miền quê xa xôi nhiều gian khó mà cán bộ văn hoá xã là
một lực lượng quan trọng góp phần vào thành quả chung đó.
************
Câu hỏi thảo luận
1) Trình bày nhận thức về dịch vụ văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch?
2) Hãy nêu thực trạng hoạt động dịch vụ văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch tại
địa phương?
3) Những yếu tố nào cho sự phát triển của dịch vụ văn hóa, gia đình, thể thao và du
lịch?
4) Để tham mưu cho UBND xã về quản lý và tổ chức các hoạt động dịch vụ văn
hóa, thể thao và du lịch, công chức văn hóa xã cần phải làm gì?
256
KỸ NĂNG KIỂM TRA, PHÁT HIỆN CÁC HÀNH VI VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VỀ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, THỂ THAO, DU LỊCH VÀ
PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
PHẠM XUÂN PHÚC
Th.s. PHẠM THỊ NHƯ QUỲNH
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích:
- Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về kiểm tra, phát hiện các hành
vi vi phạm hành chính về hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch và phòng chống bạo
lực gia đình trên địa bàn xã vùng đồng bằng.
- Biết vận dụng kiến thức cơ bản về kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm hành
chính về hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên
địa bàn xã.
2. Yêu cầu: Học viên nắm được kiến thức cơ bản về kiểm tra, phát hiện các
hành vi vi phạm hành chính về hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch và phòng
chống bạo lực gia đình trên địa bàn xã, đồng thời ứng dụng có hiệu quả trong hoạt
động thực tiễn ở địa phương.
B. NỘI DUNG
Thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm hành chính về là một
quá trình, một nội dung quan trọng không thể thiếu của cơ quan hành chính Nhà nước.
Chuyên đề này cung cấp một số kiến thức và và kỹ năng cơ bản về kiểm tra phát hiện
các vi phạm chính trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch đối với
công chức văn hóa - xã hội xã
1. Vi phạm hành chính
1.1. Khái niệm: Vi phạm hành chính là hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước mà không
phải là tội phạm (chưa đến mức cấu thành tội phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự)
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Như vậy ta thấy rằng:
- Chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức, cá nhân;
- Vi phạm hành chính có cả do cố ý hoặc vô ý và đều bị xử phạt hành chính;
- Khách thể của vi phạm hành chính là các quy định của pháp luật về quản lý
Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực quản lý, ở tất cả các cấp, các ngành;
(*)
Lý thuyết 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
257
- Mức độ vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm gây hậu quả xấu cho xã hội
thấp hơn so với tội phạm hình sự.
1.2. Trách nhiệm hành chính
Trong quản lý Nhà nước, có rất nhiều quy định hành chính thuộc tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội như: Hộ tịch, hộ khẩu, vệ sinh dịch tễ, hải quan, quy tắc săn bắn,
đánh cá, môi trường, đăng ký nghĩa vụ quân sự, y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục thể
thao, du lịch, gia đình, giao thông, xây dựng v.v…
Nếu các vi phạm quy định trên không thuộc tội phạm quy định trong Bộ luật
hình sự (hay có thể hiểu là các vi phạm đó gây hậu quả có mức độ nguy hiểm đối với
xã hội chưa đến mức cấu thành tội phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự), thì đó là
những vi phạm hành chính và phải truy cứu trách nhiệm hành chính. việc truy cứu
trách nhiệm hành chính không phụ thuộc vào mức độ gây thiệt hại mà chỉ phụ thuộc
vào cơ sở pháp lý có vi phạm là đủ.
Ngoài những đặc điểm chung với các loại trách nhiệm pháp lý khác, thì trách
nhiệm hành chính khác với trách nhiệm hình sự ở chỗ nó được quy định trong các văn
bản luật, dưới luật do các cơ quan quản lý hay cá nhân áp dụng; nó khác trách nhiệm
dân sự ở chỗ có thể hành vi vi phạm hành chính không gây ra thiệt hại về vật chất
(trong lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao và du lịch tương đối phổ biến vấn đề này); nó
khác trách nhiệm kỷ luật ở chỗ nó không phải là trách nhiệm của cán bộ, công chức
Nhà nước đối với lãnh đạo (quản lý).
1.3. Cơ sở của trách nhiệm hành chính
Cơ sở của trách nhiệm hành chính là việc thực hiện một vi phạm hành chính
thông qua các dấu hiệu của vi phạm hành chính (hành động, không hành động) của
pháp luật, có thể gây thiệt hại, có lỗi vi phạm các quy phạm của pháp luật hành chính,
do đó bị truy cứu trách nhiệm hành chính theo pháp luật hành chính bằng hình thức xử
phạt hành chính. Trong thực tế có bốn dấu hiệu vi phạm chính như sau:
- Hành động hoặc không hành động trái pháp luật, có nghĩa là đã vi phạm một
quy phạm hành chính trong một văn bản pháp luật hành chính nào đó.
- Có lỗi cố ý hay vô ý do những người có năng lực hành vi, hoặc tổ chức có
năng lực pháp lý thực hiện.
- Có thể đã gây ra thiệt hại (cũng có thể chưa phải là những thiệt hại thực tế).
Việc gây ra thiệt hại có quan hệ nhân quả với lỗi gây ra.
- Cần áp dụng một hình thức phạt.
1.4. Các hình thức trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính được biểu hiện trong các hình thức phạt hành chính
khác nhau và biện pháp khắc phục hậu quả. Hình thức phạt phụ thuộc vào mức độ
nặng hoặc nhẹ của vi phạm hành chính, bao gồm:
- Phạt có tính chất để giáo dục đạo đức, tinh thần thường là hình thức cảnh cáo;
- Phạt tiền;
258
- Trục xuất;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề (tước bằng lái các
phương tiện giao thông, phương tiện vận tải; thu hồi giấy phép kinh doanh, chứng chỉ
hành nghề hay các loại giấy phép khác).
- Tịch thu tang vật, phương tiện, trang thiết bị được sử dụng để vi phạm pháp
luật hành chính.
Các hình thức phạt trên được phân ra hình thức phạt chính, hình thức phạt bổ
sung và được quy định cụ thể trong từng văn bản pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính. Biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm:
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
- Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm
hành chính gây ra;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm,
phương tiện.
2. Kỹ năng kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa
bàn cấp xã
2.1. Các văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình
Hệ thống văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính có văn bản pháp luật
chung là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2007; Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008 và Nghị định số
128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
Trên từng lĩnh vực có các văn bản dưới luật là các Nghị định của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hoặc về lĩnh vực đó.
Trong hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia
đình có các văn bản pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
- Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 9 năm 2010. Nghị định có 4 chương, 52 điều.
Chương I. Những quy định chung
Chương 2: Hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, hình thức và
mức xử phạt. Có 7 mục:
259
Mục 1: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực điện ảnh, hình thức và mức phạt. Từ điều
7 đến điều 11 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: quay phim, sản
xuất phim; in, nhân bản, tàng trữ phim; phát hành phim nhựa, băng đĩa phim; chiếu
phim; lưu chiểu phim, lưu trữ tác phẩm điện ảnh. Mức phạt cao nhất ở mục này là
40.000.000đồng.
Mục 2: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, hình thức và mức
phạt. Từ điều 12 đến điều 17 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về:
Nhân bản băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; sản xuất phát hành, dán nhãn kiểm soát băng,
đĩa ca nhạc, sân khấu; mua, bán, cho thuê băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; tàng trữ, phổ
biến băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; biểu diễn nghệ thuật và trình diễn thời trang; tổ chức
thi Hoa hậu, Hoa khôi, Người đẹp. Mức phạt cao nhất ở mục này là 40.000.000đồng.
Mục 3: Hành vi vi phạm trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa
công cộng, hình thức và mức phạt. Từ điều 18 đến điều 24 quy định hành vi vi phạm,
hình thức và mức phạt về: Nếp sống văn hóa; Điều kiện tổ chức hoạt động văn hóa,
kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng; giấy phép hoạt động; sản xuất, lưu hành băng,
đĩa trò chơi điện tử; vi phạm quy định cấm đối với hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch
vụ văn hóa công cộng; vi phạm quy định cấm đối với hoạt động văn hóa, kinh doanh
dịch vụ văn hóa tại cơ sở lưu trú, nhà hàng ăn uống, dịch vụ công cộng; dạy âm nhạc,
dạy khiêu vũ của cơ sở dạy âm nhạc, dạy khiêu vũ ngoài công lập. Mức phạt cao nhất
ở mục này là 40.000.000 đồng.
Mục 4: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực mỹ thuật; triển lãm văn hóa, nghệ thuật;
nhiếp ảnh, hình thức và mức phạt. Từ điều 25 đến điều 26 quy định hành vi vi phạm,
hình thức và mức phạt về: Giấy phép, đăng ký hoạt động; vi phạm quy định cấm trong
lĩnh vực mỹ thuật; triển lãm văn hóa, nghệ thuật; nhiếp ảnh. Mức phạt cao nhất ở mục
này là 40.000.000 đồng.
Mục 5: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo; viết, đặt biển hiệu, hình thức
và mức phạt. Từ điều 27 đến điều 33 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt
về: Giấy phép hoạt động quảng cáo; hình thức quảng cáo; địa điểm, vị trí quảng cáo;
nội dung quảng cáo; quảng cáo sản phẩm chưa được phép xuất bản, phát hành, phổ
biến; quảng cáo trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, thời trang, hoạt động văn hóa, thi
đấu thể dục thể thao; viết, đặt biển hiệu. Mức phạt cao nhất ở mục này là 40.000.000
đồng.
Mục 6: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực di sản văn hóa, thư viện, công trình văn
hóa, nghệ thuật, hình thức và mức phạt. Từ điều 34 đến điều 37 quy định hành vi vi
phạm, hình thức và mức phạt về: bảo vệ công trình văn hóa, nghệ thuật, bảo vệ di sản
văn hóa; khai quật khảo cổ, trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa; phát hiện, bảo vệ
và giao nộp di sản văn hóa (di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia); lĩnh vực thư viện. Mức
phạt cao nhất ở mục này là 40.000.000 đồng.
Mục 7: Hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm văn hóa;
công bố, phổ biến tác phẩm ra nước ngoài, hình thức và mức phạt. Từ điều 38 đến điều
41 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: Thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu
văn hóa phẩm; giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm văn hóa; các quy định cấm
260
xuất khẩu, nhập khẩu đối với văn hóa phẩm; công bố, phổ biến tác phẩm ra nước
ngoài. Mức phạt cao nhất ở mục này là 40.000.000 đồng.
Chương 3: Thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa: Từ điều 42 đến điều 50 quy định về: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan Thanh tra chuyên ngành, Công an
nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, cơ quan Thuế, Quản lý thị
trường và Thanh tra chuyên ngành khác; phân định thẩm quyền xử phạt; thủ tục xử
phạt; thu, nộp tiền phạt; Thủ tục tịch thu và xử lý tang vật, phương tiện vi phạm; Thủ
tục tước quyền xử dụng giấy phép; thủ tục tiêu hủy văn hóa phẩm độc hại.
Nghị định này quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hầu hết các lĩnh vực
hoạt động văn hóa (trừ lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan), rất quan trọng, do đó
làm công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực văn hóa ở các cấp, các ngành phải hiểu,
nắm chắc các quy định của Nghị định này để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm.
Để áp dụng Nghị định được đúng, chính xác, cần phải nghiên cứu, nắm vững các
quy định tại Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24 tháng 8 năm 2010 của Bộ
Văn hóa, thể thao và du lịch quy định chi tiết thi hành một số quy định tại Nghị định
số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
- Nghị định số 141/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thể dục, thể thao, có hiệu lực thi hành từ
ngày 15 tháng 7 năm 2004. Nghị định có 5 chương, 35 điều.
Chương I: Những quy định chung
Chương 2: Những hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử lý. Chương này có
5 mục lớn bao gồm:
Mục 1: Hành vi vi phạm hành chính trong tuyển- chọn- đào tạo, hình thức và
mức phạt. Từ điều vi đến điều 9 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về:
vi phạm của thí sinh trong quá trình dự tuyển vào các trường, lớp năng khiếu nghiệp
vụ thể dục thể thao; vi phạm của thành viên trong Hội đồng tuyển chọn trong các
trường, lớp năng khiếu nghiệp vụ thể dục thể thao; vi phạm của cá nhân, tổ chức trong
huấn luyện, giảng dạy thể dục thể thao; vi phạm của học viên các trường, lớp năng
khiếu thể dục thể thao. Mức phạt cao nhất ở mục này là 3.000.000 đồng.
Mục 2: Hành vi vi phạm hành chính trong thi đấu - biểu diễn, hình thức và mức
phạt. Từ điều 10 đến điều 1vi quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: vi
phạm của thành viên Ban Tổ chức trong thi đấu - biểu diễn; vi phạm của trọng tài thể
thao trong khi làm nhiệm vụ; vi phạm của giám sát, thư ký trong khi thi hành nhiệm
vụ; vi phạm của trưởng đoàn, lãnh đạo đội, huấn luyện viên, chỉ đạo viên trong khi thi
hành nhiệm vụ; vi phạm của vận động viên trong thi đấu - biểu diễn; vi phạm các quy
định của Ban Tổ chức làm ảnh hưởng đến việc thi đấu - biểu diễn; vi phạm khác trong
thi đấu - biểu diễn. Mức phạt cao nhất ở mục này là 50.000.000 đồng.
261
Mục 3: Hành vi vi phạm hành chính trong tổ chức và quản lý đội tuyển thể thao,
hình thức và mức phạt. Từ điều 17 đến điều 20 quy định hành vi vi phạm, hình thức và
mức phạt về: vi phạm của trưởng đoàn về các quy định tổ chức và hoạt động của đội
tuyển; vi phạm của thành viên Ban huấn luyện về các quy định tổ chức và hoạt động
của đội tuyển; vi phạm của vận động viên đội tuyển; vi phạm của thành viên đội tuyển
về kỷ luật phát ngôn. Mức phạt cao nhất ở mục này là 10.000.000 đồng.
Mục 4: Hành vi vi phạm hành chính trong công tác y tế- cứu hộ- phục vụ, hình
thức và mức phạt. Từ điều 21 đến điều 22 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức
phạt về: vi phạm các quy định về y tế - cứu hộ; vi phạm trong hoạt động phục vụ luyện
tập, thi đấu - biểu diễn thể dục thể thao. Mức phạt cao nhất ở mục này là 3.000.000
đồng.
Mục 5: Hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động quảng cáo và tổ chức dịch
vụ thể dục, thể thao, hình thức và mức phạt. Từ điều 23 đến điều 25 quy định hành vi
vi phạm, hình thức và mức phạt về: vi phạm về hoạt động quảng cáo trong thi đấu -
biểu diễn thể dục thể thao; vi phạm các quy định trong hoạt động dịch vụ thể dục, thể
thao; vi phạm các quy định về sử dụng tên gọi, biểu tượng của câu lạc bộ, môn phái,
bài tập. Mức phạt cao nhất ở mục này là 50.000.000 đồng.
Chương 3: Thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể dục
thể thao: Từ điều 26 đến điều 30 quy định về: Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
của Ủy ban nhân dân các cấp; thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Thanh tra
Thể dục Thể thao; thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Công an nhân dân;
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Thanh tra lao động; thủ tục phạt
tiền, thu và xử lý tang vật, phương tiện vi phạm.
Đây là Nghị định duy nhất quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thể dục thể thao. Tuy nhiên, Nghị định này được xây dựng từ trước khi có Luật
thể dục thể thao, hệ thống các văn bản dưới luật quản lý ngành còn quá ít; nay Luật thể
dục thể thao đã được ban hành, nhiều Thông tư, văn bản quản lý ngành mới được ban
hành, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2008, do đó các căn cứ pháp lý xây dựng Nghị định đã có nhiều thay đổi, các hành vi
hành chính cũng đã được quy định cụ thể hơn, mức phạt cao nhất cũng đã được Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008 nâng lên đến 70.000.000
đồng. Để phù hợp và đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về thể dục thể thao trong giai
đoạn hiện nay, cần phải xây dựng mới Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thể dục thể thao để thay thế cho Nghị định số 141/2004/NĐ-CP.
- Nghị định số 149/2007/NĐ- CP ngày 09 tháng 10 Năm 2007 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch. Nghị định có 5 chương, 36 điều
Chương I. Quy định chung
Chương 2. Hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức xử phạt. Chương này
có 4 mục lớn gồm:
Mục 1. Hành vi vi phạm quy định về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch, vận
chuyển khách du lịch. Từ điều 7 đến điều 12 quy định hành vi vi phạm, hình thức và
262
mức phạt về: Thông báo hoạt động kinh doanh lữ hành; về kinh doanh lữ hành; về
kinh doanh đại lý lữ hành; về hướng dẫn viên du lịch; về kinh doanh vận chuyển khách
du lịch; về thành lập và hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp
du lịch nước ngoài tại Việt Nam. Mức phạt cao nhất ở mục này là 15.000.000 đồng.
Mục 2. Hành vi vi phạm quy định về kinh doanh lưu trú du lịch. Từ điều 13 đến
điều 14 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: Kinh doanh lưu trú du
lịch; về kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện trong cơ sở lưu trú du
lịch. Mức phạt cao nhất ở mục này là 15.000.000 đồng.
Mục 3. Hành vi vi phạm quy định về xúc tiến du lịch. Từ điều 15 đến điều 1vi
quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: Hoạt động xúc tiến du lịch; về tổ
chức hội chợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu sản phẩm du lịch. Mức phạt cao nhất ở
mục này là 5.000.000 đồng.
Mục 4. Hành vi vi phạm quy định về hoạt động du lịch khác. Từ điều 17 đến điều
20 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: Tài nguyên du lịch, quy hoạch
phát triển du lịch; về bảo vệ môi trường du lịch; về quản lý, hoạt động kinh doanh
trong khu du lịch, điểm du lịch; hành vi cản trở hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm hành chính. Mức phạt cao nhất ở mục này là 15.000.000 đồng.
Chương 3. Thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Từ điều 21 đến điều
31 quy định về: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân các
cấp; Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành du lịch;
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan Công an nhân dân, Cảnh sát
biển, Bộ đội biên phòng, Thanh tra chuyên ngành; nguyên tắc xác định thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính và ủy quyền xử phạt vi phạm hành chính; thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính; thủ tục tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; thủ tục
tịch thu, xử lý tang vật, phương tiện vi phạm; chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính; cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; quy định các
biện pháp khắc phục hậu quả; áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính.
- Nghị định số 110/2010/NĐ- CP ngày 20 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Nghị
định có 4 chương, 33 điều.
Chương I. Những quy định chung.
Chương 2. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia
đình, hình thức và mức xử phạt. Từ Điều 9 đến Điều 25 quy định hành vi vi phạm,
hình thức và mức phạt về: Đánh đập hoặc hành vi khác xâm hại sức khỏe thành viên
gia đình; hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình; xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành
viên gia đình; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý; ngăn cản việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông bà và cháu, giữa cha mẹ và
con, giữa vợ và chồng, giữa anh, chị, em với nhau; chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
cưỡng ép kết hôn, ly hôn, tảo hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ; bạo lực về
kinh tế; hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ;
bạo lực đối với người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ
263
nạn nhân bạo lực gia đình; cưỡng bức, kích động, xúi dục, giúp sức người khác thực
hiện hành vi bạo lực gia đình; sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm
kích động hành vi bạo lực gia đình; tiết lộ thông tin về nạn nhân bạo lực gia đình; lợi
dụng hoạt động phòng chống bạo lực gia đình để trục lợi; vi phạm quy định về đăng
ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng,
chống bạo lực gia đình; vi phạm quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Chương 3. Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Từ điều 2vi đến
điều 31 quy định về Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp; Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Công an nhân dân;
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của bộ đội Biên phòng; Thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính của Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch; nguyên tắc xác định
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.
Đây là Nghị định xử phạt vi phạm hành chính đối với 76 hành vi. Mức xử phạt
tiền thấp nhất là 100.000 đồng, cao nhất là 30.000.000 đồng
- Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan. Nghị định có 5
chương, 51 điều.
Chương I. Những quy định chung
Chương 2. Hành vi vi phạm hành chính, hình thức và mức phạt:Từ điều 6 đến
điều 44 quy định hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt về: vi phạm quy định về
đăng ký; vi phạm quy định về hoạt động của tổ chức đại diện tập thể; vi phạm quy
định trong hoạt động giám định về quyền tác giả, quyền liên quan; vi phạm quy định
về hoạt động của tổ chức tư vấn, dịch vụ; cản trở bất hợp pháp hoạt động quản lý Nhà
nước, thanh tra, kiểm tra về quyền tác giả, quyền liên quan; vận chuyển hàng hóa vi
phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tàng trữ, chứa chấp hàng hóa vi phạm quyền tác
giả, quyền liên quan; quảng cáo hàng hóa vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan; xâm
phạm quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm; xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác
phẩm; xâm phạm quyền công bố tác phẩm; xâm phạm quyền làm tác phẩm phái sinh;
xâm phạm quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng; xâm phạm quyền cho thuê bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính; xâm phạm quyền phân
phối dưới hình thức bán tác phẩm; xâm phạm quyền nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao
tác phẩm; xâm phạm quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng; xâm phạm quyền sao
chép tác phẩm; làm tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo; bán tác phẩm mà chữ
ký của tác giả bị giả mạo; xâm phạm quyền áp dụng biện pháp công nghệ để tự bảo vệ
quyền tác giả; chiếm đoạt quyền tác giả; xâm phạm quyền được giới thiệu tên của
người biểu diễn; xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn; xâm phạm
quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của người biểu diễn; xâm phạm quyền sao
chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn; xâm phạm quyền phát sóng hoặc truyền
theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình; xâm phạm quyền
phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn; xâm phạm quyền sao
chép trực tiếp hay gián tiếp bản ghi âm, ghi hình; xâm phạm quyền phân phối đến
264
công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình; sử dụng bản ghi âm, ghi hình
nhằm mục đích thương mại đã công bố; xâm phạm quyền công bố, sản xuất và phân
phối bản ghi âm, ghi hình; Xâm phạm quyền phát sóng, tái phát sóng chương trình
phát sóng; xâm phạm quyền phân phối đến công chúng chương trình phát sóng; xâm
phạm quyền định hình chương trình phát sóng; xâm phạm quyền sao chép chương
trình phát sóng; trích ghép chương trình phát sóng; xâm phạm quyền áp dụng biện
pháp công nghệ để tự bảo vệ quyền liên quan; chiếm đoạt quyền liên quan.
Chương 3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Điều 45 quy định thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính của: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; Chánh
Thanh tra, Thanh tra viên chuyên nghành Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch; Các cơ quan thuộc ngành Hải quan; Công an nhân dân; Cảnh sát biển;
Bộ đội biên phòng; Quản lý thị trường. Điều 46 quy định về nguyên tắc xác định thẩm
quyền xử phạt. Mức phạt quy định trong Nghị định này tối đa là 500.000.000 đồng.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 30 tháng 6 năm 2009. Tuy nhiên,
trong quá trình thực thi có một số trường hợp tác phẩm bị vi phạm không thể xác định
chính xác giá trị thiệt hại bằng tiền, do đó không có cơ sở để đưa ra mức phạt, gây khó
khăn trong xử lý của các cơ quan có thẩm quyền. Để phù hợp với thực tiễn, việc thực
thi pháp luật đạt kết quả cao, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch đang xây dựng Nghị
định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 47/2009/NĐ-CP, dự kiến trình
Chính phủ ban hành trong quý 4/2011. Tuy nhiên, khi chưa có Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 47/2009/NĐ-CP thì các quy định trong Nghị định
số 47/2009/NĐ-CP vẫn đang còn hiệu lực thi hành.
2.2. Kỹ năng kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa bàn cấp xã
Kiểm tra, thanh tra với tư cách là một phương thức bảo đảm pháp chế, tăng
cường kỷ luật Nhà nước, nâng cao hiệu quả của quản lý Nhà nước cần phải được xác
định như một nhân tố tất yếu của công tác quản lý.
Theo quy định của pháp luật, ở cấp xã không thành lập cơ quan Thanh tra, không
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, do đó trong công tác quản lý
Nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch ở cấp xã chỉ thực hiện chức
năng kiểm tra.
Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét. Theo đó, kiểm tra
được hiểu với nghĩa là một dạng hoạt động xem xét thực tế về sự kiện, kết quả hoạt
động nào đó để rút ra nhận xét, đánh giá và cuối cùng là nhằm tác động, điều chỉnh hoạt
động của con người cho phù hợp với mục đích đặt ra. Hoạt động kiểm tra được thực hiện
thường xuyên, rộng rãi trong thực tiễn, là một nội dung không thể thiếu của công tác quản
lý, thông qua kiểm tra giúp cho chủ thể quản lý tự điều chỉnh hành vi của mình theo mục
tiêu, nhiệm vụ quản lý Nhà nước, con người có hoạt động là đối tượng quản lý điều chỉnh
hành vi phù hợp với mục đích của mình, quy định của pháp luật cũng như đáp ứng yêu cầu
của cộng đồng. Từ đó, tạo điều kiện để từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường
pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và nhân dân ở địa bàn cũng như phạm vi cả
nước.
265
2.2.1. Kỹ năng kiểm tra, phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt
động văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa
bàn cấp xã
Hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch trên địa bàn cấp xã
(không phân biệt cấp xã ở thành thị, đồng bằng hay miền núi) bao gồm:
a. Về văn hóa
- Di sản văn hóa: bao gồm cả di sản văn hóa vật thể như di tích, cổ vật, bảo vật,
danh thắng…; di sản văn hóa phi vật thể như lễ hội, quan họ, chèo…
- Điện ảnh: sản xuất phim, chiếu phim…
- Mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm: sản xuất, lắp dựng tượng, tranh , trưng bày
tranh, ảnh, tượng, điêu khắc…
- Hoạt động nghệ thuật biểu diễn: biểu diễn kịch, ca nhạc, múa, thời trang, thi người
đẹp…
- Hoạt động của bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa thôn, xã…
- Kinh doanh dịch vụ văn hóa: karaoke, vũ trường, băng đĩa, thu âm, trò chơi điện
tử, văn hóa phẩm…
- Hoạt động quảng cáo.
b. Thể dục thể thao
- Tập, luyện các môn thể thao;
- Tổ chức thi đấu các giải thể thao;
- Kinh doanh dịch vụ thể dục thể thao: Nhà tập các môn như cầu lông, tennis,
bóng bàn, bi a, võ…; bể bơi; các môn thể thao trên biển…
c. Du lịch
- Kinh doanh lữ hành (các công ty tổ chức các đoàn khách du lịch đến địa phương
thăm quan, du lịch hoặc ở xã có công ty kinh doanh lữ hành);
- Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch(hệ thống khách sạn, nhà nghỉ trên địa bàn xã
cho khách du lịch thuê ngủ, nghỉ);
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch(ô tô, tàu, xuồng…);
- Hướng dẫn viên du lịch;
- Bảo vệ các khu du lịch, điểm du lịch, môi trường du lịch thuộc địa bàn xã…
d. Phòng, chống bạo lực gia đình
Tùy theo địa bàn cấp xã, có xã thì có đầy đủ các loại hình hoạt động như nêu ở
trên, có xã có thể chỉ có một số loại hình hoạt động ở từng lĩnh vực. Căn cứ vào nội
dung quản lý Nhà nước đối với từng lĩnh vực của Ủy ban nhân dân xã và sự phân
công, phân cấp quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp trên cho Ủy ban nhân dân
266
xã và thực tế hoạt động văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch trên địa bàn xã
mà xác định đối tượng, nội dung kiểm tra, chương trình kế hoạch kiểm tra. Kế hoạch,
nội dung kiểm tra phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã (hoặc Phó Chủ tịch được ủy
quyền) phê duyệt, ban hành Quyết định kiểm tra, thành lập Đoàn kiểm tra theo quy
định của pháp luật.
Kiểm tra có 2 hình thức: kiểm tra theo chương trình kế hoạch được xây dựng và
được Ủy ban nhân xã phê duyệt ngay từ đầu năm; kiểm tra đột xuất là hoạt động kiểm
tra khi phát hiện hoạt động nào đó có dấu hiệu vi phạm quy định của pháp luật hoặc
kiểm tra để giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Để công tác kiểm tra đạt hiệu quả cao, người (hoặc Đoàn liên ngành) được Ủy
ban nhân dân xã giao nhiệm vụ thực hiện việc kiểm tra lĩnh vực hoạt động nào đó (về
dịch vụ văn hóa chẳng hạn, hoặc cơ sở lưu trú khách du lịch, hoặc cơ sở kinh doanh bể
bơi…) Phải thực hiện một số kỹ năng cơ bản sau:
- Nghiên cứu, hiểu và nắm bắt được các quy định của pháp luật về lĩnh vực sẽ
tiến hành kiểm tra: Đây là một kỹ năng quan trọng của người thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra.
Ví dụ: Về dịch vụ văn hóa cần phải nghiên cứu kỹ các quy định tại Nghị định số
103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt
động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng…Ở đây quy định về điều kiện
kinh doanh karaokê, vũ trường, kinh doanh trò chơi điện tử…; tương tự, các hoạt động
khác nếu nằm trong nội dung kiểm tra thì cũng đều phải nghiên cứu, hiểu và nắm bắt
các quy định của pháp luật đối với hoạt động đó, chẳng hạn như:
Luật Di sản văn hóa năm 2001 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Nghị định số
98/2010/NĐ-CP ngày ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Di sản văn hóa và Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Luật Điện ảnh năm 2006 và Luật Điện ảnh sửa đổi, bổ sung năm 2009; Nghị định
số 54/2010/NĐ-CP ngày 21/5/2010 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật Điện ảnh năm 2006 và Luật Điện ảnh sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Luật Du lịch năm 2005; Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch;
Luật Thể dục, Thể thao năm 2006; Nghị định số 112/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thể dục, Thể thao;
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Nghị định số 08/2007/NĐ-CP
ngày 04/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống
bạo lực gia đình;
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Nghị định số
100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan;
Pháp lệnh Thư viện năm 2000;
267
Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001; Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13/3/2003
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Quảng cáo…, và
rất nhiều các Thông tư, quyết định của Bộ quy định, hướng dẫn thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ về quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực hoạt động
văn hóa, gia đình, thể dục thể thao và du lịch.
Đây là một kỹ năng mang tính bắt buộc đối với người được giao thực hiện chức
năng kiểm tra. Nếu không nghiên cứu, hiểu và nắm bắt được các quy định của pháp
luật về các hoạt động mà Ủy ban nhân dân xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
trên địa bàn thì không thể xây dựng được nội dung kiểm tra; tiến hành kiểm tra không
biết được thực tế đối tượng kiểm tra có thực hiện đúng hay không đúng quy định của
pháp luật; việc xây dựng biên bản kiểm tra; báo cáo kết quả kiểm tra; đánh giá về kết
quả kiểm tra…sẽ lúng túng, thiếu chính xác, thậm chí còn sai, dẫn đến việc tham mưu,
đề xuất xử lý vi phạm sẽ khó khăn.
- Xây dựng nội dung kiểm tra: Căn cứ vào chương trình kế hoạch kiểm tra đã
được phê duyệt, sau khi đã nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, người thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra trước khi tiến hành kiểm tra hoạt động nào đó phải xây dựng
nội dung kiểm tra. Ví dụ: Kiểm tra các cơ sở kinh doanh karaokê phải kiểm tra những
nội dung gì? Tại Chương VIII Nghị định số 103/2009/NĐ-CP từ điều 30 đến điều 34
quy định về hoạt động karaokê, điều 12 và 13 Thông tư 04/2009/TT-BVHTTDL ngày
16/12/2009 của Bộ quy định chi tiết việc thực hiện Nghị định 103 về hoạt động
karaokê, do đó phải xây dựng nội dung kiểm tra theo các quy định ở Nghị định 103 và
Thông tư 04 này: Kiểm tra về giấy phép kinh doanh karaokê, kiểm tra về điều kiện
kinh doanh karaokê: Diện tích phòng hát, cửa phòng hát, khoảng cách địa điểm hoạt
động đến trường học, bệnh viện…, ánh sáng, độ ồn, nhân viên phục vụ, giờ hoạt động,
có bán rượu hoặc để khách uống rượu trong phòng hát không, có vi phạm quy định
cấm tại điều 34 không…; tương tự các hoạt động khác nếu kiểm tra thì trước khi tiến
hành cũng phải xây dựng nội dung kiểm tra cụ thể theo quy định của pháp luật về hoạt
động đó.
- Ra quyết định kiểm tra: Trên cơ sở đã nghiên cứu, hiểu và nắm vững các quy
định của pháp luật và văn bản quản lý của Nhà nước đối với hoạt động nào đó cần
kiểm tra, xây dựng được nội dung kiểm tra hoạt động đó, người được UBND xã giao
tham mưu giúp UBND xã quản lý Nhà nước về các hoạt động cần kiểm tra, phải tham
mưu cho Chủ tịch UBND xã ra quyết định kiểm tra. Quyết định kiểm tra cần phải dựa
vào các căn cứ như: kế hoạch, chương trình kiểm tra đã được UBND xã duyệt hoặc do
yêu cầu của cơ quan hành chính cấp trên, do yêu cầu kiểm tra để giải quyết khiếu nại tố
cáo hoặc người được giao giúp UBND xã quản lý Nhà nước về các hoạt động cần kiểm
tra để phát hiện hoạt động nào đó có dấu hiệu vi phạm. Từ đó, Quyết định kiểm tra sẽ thể
hiện là kiểm tra theo kế hoạch hay kiểm tra đột xuất. Quyết định kiểm tra cần ghi rõ: các
căn cứ để ra Quyết định kiểm tra; mục đích, yêu cầu, thời gian kiểm tra; nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của đoàn kiểm tra hoặc người được giao kiểm tra; họ và tên, chức danh
của từng thành viên đoàn kiểm tra; trách nhiệm của cơ sở, đơn vị được kiểm tra. Ở cấp xã tổ
chức kiểm tra phải thành lập Đoàn kiểm tra (liên ngành), không giao cho một người thực
hiện kiểm tra.
268
- Tiến hành một cuộc kiểm tra: Sau khi đã thực hiện 3 kỹ năng nêu trên, tiến hành
tổ chức cuộc kiểm tra. Cuộc kiểm tra được tiến hành theo 3 bước:
Bước 1: Chuẩn bị - Trưởng đoàn kiểm tra cần phải phổ biến cho thành viên trong
đoàn nắm vững: mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng, thời gian và những vấn đề
cần tập trung kiểm tra; quán triệt tư tưởng, tác phong, thái độ trách nhiệm và phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên; chuẩn bị các văn bản về chính sách, pháp luật có
liên quan đến cuộc kiểm tra; chuẩn bị các mẫu: biên bản kiểm tra, biên bản vi phạm hành
chính, biên bản tạm giữ tang vật vi phạm v.v…Nếu bước này làm tốt, chu đáo thì các
bước sau sẽ không bị lúng túng và đạt hiệu quả cao hơn.
- Bước 2: Trưởng đoàn kiểm tra công bố toàn văn quyết định kiểm tra; nêu các
yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra như: Cung cấp các loại giấy tờ, tài liệu của cơ sở
mà liên quan đến nội dung kiểm tra; tiến hành kiểm tra thực tế để thu thập chứng cứ;
ghi biên bản kiểm tra (tất cả các loại giấy tờ tài liệu liên quan mà đơn vị, cơ sở kiểm
tra cung cấp; các chứng cứ thu thập được qua kiểm tra thực tế đều phải ghi vào biên
bản kiểm tra). Ví dụ: kiểm tra cơ sở kinh doanh karaoke, chủ cơ sở phải cung cấp các
loại giấy tờ như: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của cơ quan có thẩm quyền
cấp, giấy phép kinh doanh karaoke do Sở Văn hóa, thể thao và du lịch hoặc UBND
huyện cấp (tùy theo phân cấp của địa phương), giấy tờ tùy thân của người đứng tên
trong 2 loại giấy phép trên (nếu kinh doanh hoạt động khác mà quy định đòi hỏi phải
có các loại văn bằng, chứng chỉ chuyên môn thì phải yêu cầu xuất trình cả các loại
giấy tờ này); nếu có sử dụng nhân viên thì phải xuất trình: hợp đồng lao động của chủ
với nhân viên, giấy tờ tùy thân của nhân viên có tên trong hợp đồng, giấy đăng ký tạm
trú tạm vắng của nhân viên; giấy chứng nhận đảm bảo về an ninh trật tự, phòng cháy
chữa cháy…; đo diện tích phòng hát được bao nhiêu mét vuông, cửa có để kính trong
suốt được bao nhiêu phần trăm diện tích cửa, có để khóa cửa hoặc then chốt cài khóa ở
phía trong không, ánh sáng trong phòng hát, độ ồn, có đặt camêra hoặc thiết bị báo động
không; khoảng cách từ cơ sở kinh doanh đến trường học, cơ quan…là bao nhiêu mét; giờ
hoạt động thế nào; có bán rượu trong phòng hát không…Tất cả những nội dung nêu trên
phải được kiểm tra và ghi kết quả kiểm tra vào biên bản kiểm tra, đại diện Đoàn kiểm tra
và chủ cơ sở cùng ký xác nhận vào biên bản.
- Bước 3: Kết thúc cuộc kiểm tra: Căn cứ kết quả kiểm tra đã được ghi trong biên
bản kiểm tra, đối chiếu với các quy định của pháp luật nếu thấy cơ sở đã chấp hành
đầy đủ, đúng các quy định của pháp luật thì đọc thông qua biên bản kiểm tra, nêu
những nhận xét, đánh giá (hoan nghênh việc chấp hành đúng pháp luật) về việc kinh
doanh của chủ cơ sở; tổng hợp báo cáo kết quả kiểm tra gửi Chủ tịch UBND xã (nếu
chỉ kiểm tra một cơ sở, hoặc nhiều cơ sở nhưng có kết quả tương tự) và cuộc kiểm tra
kết thúc. Nếu đối chiếu kết quả kiểm tra với quy định của pháp luật có những vi phạm
ví dụ: cơ sở cách trường học có 120m, hoặc diện tích phòng hát có 15m2, hoặc thiếu
loại giấy tờ nào đó v.v…; như vậy là cơ sở kinh doanh đã vi phạm hành chính trong
hoạt động kinh doanh karaoke, Đoàn kiểm tra phải tiến hành lập biên bản vi phạm
hành chính theo mẫu quy định, biên bản phải ghi rõ ràng hành vi vi phạm có dẫn chiếu
theo quy định của khoản nào, điều nào của văn bản quy phạm pháp luật nào. Biên bản
vi phạm hành chính phải đọc cho chủ cơ sở nghe và cùng ký tên vào biên bản, nếu chủ
269
cơ sở từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản. Nếu xét thấy
cần thiết phải tạm giữ những tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để xác minh
tình tiết làm căn cứ quyết định xử lý hoặc ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính
thì tiến hành lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tiến
hành tạm giữ; việc lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính phải chi tiết, tỷ mỷ, đầy đủ, cụ thể và theo đúng quy định của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày
16/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2008. Tổng hợp kết quả kiểm tra báo cáo Chủ tịch
UBND xã.
Đối với cuộc kiểm tra các hoạt động khác cũng tiến hành tương tự như nêu ở trên.
Nếu là cuộc kiểm tra đột xuất, phải triển khai một cách kịp thời thì có thể làm nhanh
một số khâu, nhưng những kỹ năng cơ bản thì vẫn phải được thực hiện đầy đủ như:
Hiểu và nắm vững quy định của pháp luật, nội dung quản lý Nhà nước của UBND xã
về hoạt động đó, ra quyết định kiểm tra, tiến hành kiểm tra, lập các loại biên bản…
Tóm lại: kỹ năng kiểm tra phát hiện vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa,
thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa bàn xã của người
được giao kiểm tra là: phải hiểu, nắm vững các quy định pháp luật của Nhà nước, các
văn bản quản lý của ngành, địa phương về hoạt động đó; phải tham mưu được cho
UBND xã chương trình, kế hoạch kiểm tra, ra quyết định kiểm tra; phải xây dựng
được nội dung kiểm tra cụ thể cho từng cuộc kiểm tra; phải thực hiện đầy đủ và đúng
pháp luật, tuân thủ theo quy định của pháp luật các bước tiến hành kiểm tra (nếu
không tuân thủ theo đúng pháp luật dễ dẫn đến việc theo ý chí chủ quan của cá nhân
để nhận định, nhận xét thậm chí quy chụp không đúng các hành vi vi phạm hành
chính, làm cho UBND xã không xử lý được vi phạm hoặc xử lý nhưng không đúng,
đối tượng bị xử lý sẽ không chấp hành, khiếu nại hoặc kiện ra tòa hành chính). Để có
được những kỹ năng đó, trước hết người được giao thực thi công vụ phải được đào tạo,
bồi dưỡng, trang bị những nghiệp vụ cơ bản nhất; phải tích cực tự học tập, tìm hiểu những
vấn đề liên quan đến thực hiện nhiệm vụ được giao; phải có phẩm chất thẳng thắn, trung
thực và bản lĩnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
2.2.2. Kỹ năng tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch UBND xã xử lý các hành vi vi
phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực
gia đình trên địa bàn xã.
Tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch UBND xã xử lý các hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa
bàn xã, đây là một hoạt động quan trọng. Tham mưu, tư vấn đúng hành vi vi phạm
phải xử lý, đúng đối tượng vi phạm phải xử lý, đúng thẩm quyền thì Chủ tịch UBND
xã ra quyết định xử lý sẽ đúng, tính thực thi của quyết định xử lý vi phạm hành chính
đạt hiệu quả cao, đối tượng bị xử lý phải tự giác chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
xử lý, không xảy ra khiếu nại quyết định xử lý vi phạm hành chính, pháp luật và kỷ
cương được thực hiện nghiêm minh ở địa bàn xã, tạo ra môi trường lành mạnh để các
270
hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch ở địa phương phát triển và phòng, chống bạo lực
gia đình phát huy được hiệu quả.
Ra quyết định xử lý vi phạm hành chính là khâu được thực hiện sau khi kết thúc
kiểm tra. Trên cơ sở các tài liệu của đoàn kiểm tra và báo cáo, đề xuất kiến nghị của
đoàn kiểm tra, người được giao tham mưu, tư vấn phải nghiên cứu kỹ các loại văn bản,
tài liệu này, đồng thời nghiên cứu kỹ Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002,
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2008, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008; các Nghị
định xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu được áp dụng đối với hoạt động văn hóa, thể
thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình: Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày
12/7/2010; Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009; Nghị định số 141/2004/NĐ-
CP ngày 01/7/2004; Nghị định số 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007; Nghị định số
110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009; Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010;
Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009.
Tùy theo yêu cầu xử lý vi phạm hành chính thuộc hoạt động nào thì nghiên cứu
kỹ Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực ấy (tuy nhiên cũng có
trường hợp hành vi vi phạm trong một hoạt động này nhưng lại được quy định ở Nghị
định khác như: vi phạm về độ ồn trong hoạt động karaoke, vũ trường lại áp dụng xử
phạt theo quy định tại Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 chứ không có
quy định trong Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 hoặc kinh doanh trò chơi
điện tử đánh bạc lại áp dụng xử phạt theo quy định tại Nghị định số 73/2010/NĐ-CP
ngày 12/7/2010…). Trên cơ sở quy định của văn bản pháp luật, người tham mưu, tư
vấn phải áp các hành vi vi phạm ghi trong biên bản của Đoàn Kiểm tra xem hành vi ấy
vi phạm khoản nào, điều nào trong Nghị định, nội dung ghi biên bản với quy định của
Nghị định đã chính xác hay chưa chính xác hay không đúng; từ đó chỉ tham mưu xử
phạt đối với hành vi đã được ghi chính xác trong biên bản Đoàn kiểm tra. Người tham
mưu nghiên cứu điều khoản ghi trong Nghị định nội dung xử lý hành vi vi phạm đó
như thế nào: hình thức phạt chính là phạt cảnh cáo hay phạt tiền? Nếu là phạt tiền thì
mức phạt là bao nhiêu tiền và hình thức phạt bổ xung như thế nào? Có biện pháp buộc
phải khắc phục hậu quả không? Sau đó xem xét đến điều khoản quy định về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được quy định
trong Nghị định, với mức phạt quy định trên thì có thuộc thẩm quyền xử lý của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã không? Nếu thuộc thẩm quyền thì tham mưu Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã ra quyết định xử phạt, nếu quá thẩm quyền thì phải tham mưu Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã cho chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền cao hơn xử lý.
Theo quy định tại khoản 4 điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008 quy định sửa đổi, bổ sung điều 28 của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã quy định thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã được xử phạt tiền hành vi vi phạm hành chính với mức đến 2.000.000đ,
như vậy các hành vi vi phạm hành chính phải xử phạt tiền theo quy định của pháp luật
với mức cao hơn 2.000.000đ trở lên thì đều không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy
271
ban nhân dân xã. Tuy nhiên, nếu quy định của pháp luật mà hành vi vi phạm nào đó có
khung mức phạt tiền thấp nhất thấp hơn 2.000.000đ và cao nhất cao hơn 2.000.000đ
mà hành vi vi phạm được xác định chính xác thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã vẫn có
thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền, mức
phạt nằm trong khung phạt quy định tại Nghị định nhưng không quá 2.000.000đ.
Ví dụ 1: Biên bản vi phạm hành chính Đoàn kiểm tra lập ghi: cơ sở kinh doanh
karaoke tại xóm 5 xã H đã vi phạm hành chính “sử dụng 05 nhân viên phục vụ là nữ
nhưng không có hợp đồng lao động”, biên bản đã được Bà Đỗ Thị V là chủ cơ sở ký
xác nhận; áp hành vi trên theo quy định của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày
12/7/2010 tại điểm c khoản 2 điều 19 quy định “Phạt tiền từ 1.000.000đồng đến
3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a…; b…; c. Sử dụng người lao
động làm việc tại vũ trường, nhà hàng karaoke mà không có hợp đồng lao động theo
quy định” như vậy áp dụng điểm c khoản 2 điều 19 của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP
ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi vi phạm của bà Đỗ Thi V ở xóm 5 với hình thức phạt tiền, mức phạt
2.000.000 đồng.
Ví dụ 2: Biên bản vi phạm hành chính của Đoàn Kiểm tra khi kiểm tra một cửa
hàng bán băng đĩa ghi: ông Nguyễn Văn A ở thôn B đã vi phạm hành chính “đã chiếu
đĩa phim không dán nhãn tại sân trường Mẫu giáo xã VL”, biên bản đã được ông
Nguyễn Văn A ở thôn B ký nhận đã vi phạm hành chính; áp hành vi trên theo quy định
của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 tại khoản 2 điều 10 quy định “Phạt
tiền từ 1.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi chiếu băng đĩa phim không
dán nhãn tại nơi công cộng”, như vậy áp dụng khoản 2 điều 10 của Nghị định số
75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã VL ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của ông Nguyễn Văn A ở thôn B với hình
thức phạt tiền, mức phạt 2.000.000 đồng.
Ví dụ 3: Một đoàn khách du lịch đến thăm quan di tích Đ thuộc địa bàn xã M,
Đoàn Kiểm tra của xã yêu cầu hướng dẫn viên Lê Văn K xuất trình thẻ Hướng dẫn
viên, nhưng ông K không có thẻ, Đoàn đã lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động du lịch của K và ghi là “ Ông Lê Văn K đang hướng dẫn cho khách du
lịch thăm quan tại di tích Đ nhưng không có thẻ Hướng dẫn viên du lịch theo quy
định”, ông K đã ký biên bản xác nhận hành vi vi phạm; áp hành vi vi phạm trên vào
Nghị định số 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch Ông K đã vi phạm điểm a khoản 4 điều 10 quy
định “phạt tiền từ 2000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây: a. Hướng dẫn khách du lịch mà không có thẻ Hướng dẫn viên du lịch”. Như
vậy áp dụng điểm a khoản 4 điều 10 Nghị định số 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã M ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi
phạm của ông Lê Văn K với hình thức phạt tiền, mức phạt 2.000.000 đồng.
272
Ví dụ 4: Kiểm tra hoạt động của cơ sở T thuộc tổ dân phố 9 phường BX kinh
doanh bể bơi do ông Vũ Đức Đ là chủ cơ sở. Theo quy định của pháp luật về thể dục
thể thao thì hoạt động kinh doanh bể bơi phải có nhân viên y tế và lực lượng cứu hộ
thường trực khi đang có hoạt động tại bể bơi; tại thời điểm kiểm tra, bể bơi đang có 20
thanh thiếu niên tập bơi, đoàn kiểm tra yêu cầu ông Đ xuất trình danh sách, hợp đồng
lao động của nhân viên y tế và nhân viên cứu hộ, đồng thời yêu cầu gặp những nhân
viên này, nhưng ông Đ không xuất trình được các giấy tờ trên và cũng không bố trí
nhân viên y tế và nhân viên cứu hộ thường trực khi đang có hoạt động tại bể bơi; Đoàn
đã lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính của ông Đ chủ cơ sở T và ghi vào biên
bản “Cơ sở T không bố trí nhân viên y tế và nhân viên cứu hộ thường trực khi đang có
hoạt động tại bể bơi”, ông Đ đã ký vào biên bản xác nhận hành vi vi phạm này; áp
hành vi vi phạm trên vào Nghị định số 141/2004/NĐ-CP ngày 01/7/2004 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể dục thể thao ông Đ đã vi
phạm khoản 3 điều 21 quy định: “phạt tiền từ 2000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối
với hành vi không thực hiện các quy định về công tác y tế - cứu hộ khi tổ chức luyện
tập, thi đấu - biểu diễn thể dục thể thao”. Như vậy áp dụng khoản 3 điều 21 Nghị định
số 141/2004/NĐ-CP ngày 01/7/2004 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thể dục thể thao, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường BX ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm đối với ông Vũ Đức Đ là
chủ cơ sở T với hình thức phạt tiền, mức phạt 2.000.000 đồng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn có một số hoạt động có biểu hiện lách luật như: Hoạt
động karaoke trong quán trà, giải khát, bên hè phố không thu trực tiếp tiền hát mà thu
qua giá nước giải khát, hoặc là hình thức để thu hút được nhiều khách đến uống giải
khát, tăng doanh thu. Ở đây các trang thiết bị là hoạt động karaoke, nhưng không bố trí
trong phòng hát, không xin phép kinh doanh karaoke, gây ồn… khi kiểm tra phải lập
biên bản và xử lý về hành vi hoạt động karaoke không phép, không đảm bảo các điều
kiện hoạt động karaoke theo quy định của pháp luật; các khách sạn được xếp hạng từ 1
sao trở lên được kinh doanh karaoke không phải xin cấp giấy phép, nhưng các phòng
hát phải đảm bảo theo quy định của Nghị định 103, có nhiều khách sạn do không phải
xin phép nên thường vi phạm về điều kiện hoạt động karaoke theo quy định của pháp
luật; treo biển quảng cáo nhưng lại nói đó là biển hiệu; sử dụng nhân viên phục vụ các
hoạt động nhưng không có hợp đồng lao động, khi kiểm tra thường nói đó là con cháu
nhà làm giúp hoặc đang thử việc, do đó cần phải kiên trì đấu tranh làm rõ đúng sai…
Tóm lại, để tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch UBND xã xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình trên địa
bàn xã đúng quy định của pháp luật, người được giao làm nhiệm vụ này phải rèn luyện
kỹ năng hiểu và nắm vững các quy định của Nhà nước trong các văn bản quản lý và hệ
thống văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính liên quan các hoạt động trên,
phải nắm chắc thẩm quyền của Chủ tịch UBND xã trong xử lý vi phạm hành chính,
nhanh nhạy nhưng phải cẩn thận, tỷ mỉ trong việc áp đối chiếu các hành vi ghi trong
biên bản với các điều khoản của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính sao cho ra
quyết định xử lý đúng, chính xác cả về hình thức, nội dung, thẩm quyền, thời hiệu.
273
Trên đây là những vấn đề chung về “Kỹ năng kiểm tra, phát hiện các hành vi vi
phạm hành chính về hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia
đình trên địa bàn xã”, khi đã tiến hành kiểm tra, xử lý sau kiểm tra đều phải áp dụng
những kỹ năng cơ bản, thống nhất. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, tùy
theo điều kiện của từng xã, từng vùng miền mà nghiên cứu vận dụng cho hiệu quả. Đối
với các đô thị, các tỉnh đồng bằng hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và phòng chống
bạo lực gia đình ở các phường, xã, thị trấn có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, phát triển
mạnh hơn các khu vực khác; bên cạnh đó, mật độ dân cư đông hơn do đó những mặt
trái của các hoạt động này có sự lan tỏa, ảnh hưởng nhanh và sâu rộng hơn; trình độ
dân trí cao hơn và khả năng tiếp cận pháp luật cũng thuận lợi hơn nhưng việc vi phạm
các quy định của pháp luật cũng tinh vi hơn. Do đó việc kiểm tra, xử lý vi phạm hành
chính đối với các hoạt động này phải thường xuyên và nghiêm khắc hơn.
***************
Câu hỏi thảo luận
1. Để phát hiện các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể dục thể
thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia đình công chức văn hóa xã cần phải có kỹ năng
gì?
2. Để tham mưu, tư vấn cho UBND xã trong xử lý các hành vi vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, du lịch và phòng chống bạo lực gia
đình công chức văn hóa xã cần phải có kỹ năng gì ?
274
KỸ NĂNG THỐNG KÊ, PHÂN TÍCH, TỔNG HỢP SỐ LIỆU,
VIẾT CÁC BÁO CÁO VỀ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, GIA ĐÌNH,
THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
TS. NGUYỄN VĂN HẬU
Th.s. LẠI THỊ LAN PHƯƠNG
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Giới thiệu những kiến thức cơ bản về thống kê, phân tích, tổng hợp và báo cáo số
liệu để công chức văn hóa xã nắm và vận dụng vào thực hiện các nhiệm vụ ở địa
phương.
2. Yêu cầu
Học viên nắm được những nội dung, kiến thức cơ bản về thống kê, phân tích, tổng
hợp số liệu, viết báo cáo các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch và vận dụng có
kết quả vào công tác ở địa phương.
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm về thống kê, phân tích, tổng hợp, báo cáo số liệu
a) Thống kê
Thống kê được hiểu là hệ thống các phương pháp ghi chép, xử lý, tổng hợp, phân
tích các con số về mặt lượng để tìm hiểu bản chất và tính quy luật của các hiện tượng,
trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của hiện tượng.
Tổng thể thống kê: Là tập hợp những đơn vị cấu thành nên hiện tượng. Ví dụ:
toàn bộ nhân khẩu nước ta là một tổng thể.
Đơn vị tổng thể: Là các đơn vị cấu thành nên tổng thể: ví dụ mỗi người dân trong
tổng thể nhân khẩu.
Tiêu thức thống kê: Khái niệm chỉ một đặc điểm nào đó của đơn vị tổng thể. Ví
dụ: Mỗi người dân trong tổng thể nhân khẩu có đặc điểm riêng như: tuổi, giới tính,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức thu nhập, dân tộc, tôn giáo, khu vực sinh sống…
Chỉ tiêu thống kê: Là tiêu chí mà biểu hiện bằng số của nó phản ánh quy mô, tốc
độ phát triển, cơ cấu, quan hệ tỷ lệ của hiện tượng kinh tế-xã hội trong điều kiện thời
gian, không gian cụ thể. Ví dụ: Tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản lượng công nghiệp,
thu nhập bình quân đầu người…
Nghiên cứu thống kê gồm 3 giai đoạn cơ bản: Điều tra thống kê, Báo cáo thống
kê định kỳ và Tổng hợp thống kê.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
275
Điều tra thống kê là hoạt động tổ chức một cách khoa học và theo một kế hoạch
thống nhất việc thu nhập, ghi chép thông tin ban đầu về các hiện tượng và quá trình
kinh tế xã hội.
Điều tra chuyên môn: Là hình thức tổ chức điều tra thống kê không thường
xuyên, được tiến hành theo kế hoạch, phương pháp quy định riêng cho mỗi lần điều
tra. Điều tra chuyên môn có thể chia thành điều tra toàn bộ hoặc không toàn bộ.
Điều tra không toàn bộ là chỉ thu thập số liệu ban đầu trên một số đơn vị được
chọn ra trong toàn bộ các đơn vị thuộc đối tượng điều tra. Gồm: Điều tra trọng điểm là
điều tra chỉ tiến hành ở bộ phận chủ yếu nhất; Điều tra chuyên đề là điều tra chỉ tiến
hành ở một số rất ít hoặc một đơn vị tổng thể nghiên cứu nhưng lại đi sâu nghiên cứu
nhiều chi tiết khác nhau của đơn vị đó; Điều tra chọn mẫu là điều tra chỉ chọn ra một
số đơn vị theo những quy tắc nhất định đảm bảo tính đại diện để điều tra. Kết quả điều
tra thường dùng để đánh giá toàn bộ hiện tượng nghiên cứu.
Điều tra toàn bộ là không bỏ sót bất kỳ đơn vị nào thuộc đối tượng điều tra.
b) Tổng hợp thống kê
Là sự tập hợp, chỉnh lý, hệ thống hóa một cách khoa học các thông tin ban đầu
thu thập được trong điều tra thống kê.
Các phương pháp cơ bản của tổng hợp thống kê: Phân tổ thống kê; Lập bảng tổng
hợp thống kê; Sử dụng đồ thị thống kê để khái quát các đặc trưng chủ yếu và xu hướng
phát triển về mặt lượng của hiện tượng.
Phân tổ thống kê: là căn cứ vào một tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các
đơn vị của hiện tượng thành các tổ và các tiểu tổ có tính chất khác nhau. Ví dụ phân
chia nhân khẩu hoặc lao động theo giới, trình độ học vấn…
Lập bảng tổng hợp thống kê: Bảng thống kê là hình thức trình bày số liệu thống
kê một cách có hệ thống, khoa học nhằm mô tả cụ thể, rõ ràng các đặc trưng về mặt
lượng của hiện tượng nghiên cứu.
Vẽ đồ thị thống kê: Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học để
miêu tả có tính chất quy ước các số liệu thống kê. Các đồ thị thường được sử dụng là:
Đồ thị kết cấu, đồ thị so sánh, đồ thị phát triển, đồ thị liên hệ, đồ thị phân phối. Về hình
thức biểu hiện có các loại: Biểu đồ hình cột, biểu đồ diện tích, đồ thị đường gấp khúc,
bản đồ thống kê…
c) Báo cáo thống kê
Báo cáo thống kê định kỳ hay còn gọi là báo cáo thống kê hành chính là hình
thức thu thập thông tin theo chế độ báo cáo thống kê do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, là hình thức tổ chức điều tra thống kê mang tính chất thường xuyên,
định kỳ theo nội dung, phương pháp, chế độ báo cáo đã được quy định thống nhất. Tài
liệu báo cáo thống kê định kỳ là thông tin thống kê có giá trị pháp lý, là căn cứ quan
trọng để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế.
Báo cáo thống kê định kỳ bao gồm báo cáo thống kê cơ sở và báo cáo thống kê tổng
hợp.
276
Báo cáo thống kê cơ sở: Theo Luật thống kê, chế độ báo cáo thống kê cơ sở bao
gồm các quy định về đối tượng thực hiện, phạm vi, nội dung báo cáo, kỳ hạn, thời hạn
thực hiện, nơi nhận báo cáo do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Báo cáo thống kê tổng hợp bao gồm các quy định về đối tượng thực hiện, phạm
vi nội dung báo cáo, kỳ hạn, thời hạn thực hiện, nơi nhận báo cáo do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành để tổng hợp thông tin thống kê từ các báo cáo cơ sở, báo cáo
tài chính, kết quả điều tra thống kê và các nguồn thông tin thống kê khác.
d) Phân tích và dự báo thống kê
Phân tích và dự báo thống kê là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu
thống kê, có nhiệm vụ làm rõ đặc trưng, xu hướng phát triển của hiện tượng, quá trình
nghiên cứu dựa trên thông tin thống kê đã được chỉnh lý, tổng hợp nhằm giải đáp các
yêu cầu nghiên cứu đã đề ra.
2. Nội dung thống kê, phân tích, tổng hợp, báo cáo về công tác văn hóa, gia
đình, thể thao và du lịch trên địa bàn xã
Với cách tiếp cận trên, việc thống kê các sản phẩm văn hóa, phân tích xử lý số
liệu về văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch và thực hiện báo cáo các hoạt động liên
quan một cách thường xuyên, có sự cập nhật kịp thời là khá phức tạp vì cần lượng hóa
những sản phẩm, các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch thông qua các
biểu hiện cụ thể:
2.1. Nội dung, phân tích, tổng hợp, báo cáo thống kê về công tác văn hóa xã
2.1.1 Các thiết chế làng xã, các phong tục tập quán
Lễ tết, cưới hỏi, tang ma. Xác định vị trí già làng, trưởng bản trong việc giải quyết
bất đồng, vấn đề trong dân cư. Báo cáo tình hình, mức độ tự nguyện của nhân dân trong
việc thực hiện nghiêm túc các quy chế, hương ước, các tập tục.
Tính tỷ lệ:
- Số vụ lễ tết, cưới hỏi, tang ma theo phong tục truyền thống/ tổng số lễ tết cưới
hỏi, tang ma diễn ra trong năm* 100%.
- Thống kê số lượng các buổi lễ tết thực hiện theo phong tục và theo nếp sống
mới, có sự so sánh giữa các vùng miền, vùng cao, miền núi với đồng bằng, nông thôn.
- Thống kê số lượng các bước thủ tục lễ tết cưới hỏi truyền thống hiện đang thực
hiện/ số lượng các bước thủ tục truyền thống xa xưa truyền lại.
- Thống kê về chi phí trung bình một đám cưới hỏi, tang ma, lễ tết, so sánh với
thu nhập bình quân của một gia đình trên địa bàn.
Các sản phẩm văn hóa làng xã ở dưới dạng thiết chế là đình, chùa, đền, miếu, bến
nước (giếng nước), trụ sở ủy ban, nhà văn hóa, sân vận động, bãi chiếu phim... và ở
dưới dạng thể chế như các phong tục, tập quán, lối sống, các lễ Tết và lễ hội, các hoạt
động văn hóa-nghệ thuật, nghệ thuật dân gian và các trò chơi,..v.v. Đình chùa, đền,
miếu là các thiết chế văn hóa cổ truyền gắn bó lâu đời với làng xã, là nơi diễn ra những
sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng cộng đồng (lễ hội, rước sách, tế lễ, các trò chơi), là nơi
277
dân làng thường xuyên tụ họp, gặp gỡ giao lưu. Mái đình, cây đa, bến nước, ngôi chùa
gắn bó số phận và cuộc đời của mỗi người trong làng lại với nhau.
2.1.2 Các sản phẩm văn hóa
- Thống kê số lượng từng loại di tích, công trình kiến trúc cổ và tổng các loại di
tích, công trình cổ trên địa bàn đã xếp hạng di tích và chưa xếp hạng: đình, chùa, đền,
miếu, nơi thờ cúng, cổng làng, di tích lịch sử, danh thắng.
- Tiến hành thống kê báo cáo chi tiết về các đồ thờ cúng, cổ vật quý hiếm kèm
theo từng công trình, nguồn gốc, niên đại (nếu được xác định); thống kê các phẩm vật
được cung tiến từ các nguồn. Thống kê bao gồm cả cây cổ thụ, bến nước, giếng cổ…
và đề xuất xếp hạng.
- Báo cáo về tình hình quản lý, bảo tồn, mức độ bị xâm hại bởi thiên tai, con
người của các công trình, di tích cổ.
- Thống kê số lượng các ngôi nhà cổ, nhà thờ họ; mô tả niên đại, mức độ nguyên
vẹn của các công trình, việc quản lý, sử dụng.
Đối với các di tích chưa xếp hạng cần có sự điều tra báo cáo xác định nguồn gốc, căn
cứ cụ thể về sự ra đời, tồn tại của các di tích, mức độ nguyên vẹn của các di tích và đề
xuất xếp hạng cũng như xây dựng phương án bảo tồn, tôn tạo.
2.1.3 Các sản phẩm văn hóa phi vật thể, đề xuất phương án bảo tồn và phát
triển:
- Thống kê các lễ hội trong vùng:
Nội dung thống kê về lễ hội qua từng năm:
Thống kê số lượng các lễ hội dân gian trong vùng, thời điểm tổ chức lễ hội dân
gian, các phong tục trong lễ hội, ước lượng số lượng người trong vùng và số lượng
khách thập phương tham gia lễ hội. Thậm chí cần báo cáo cả chi phí (bao gồm chi phí
của nhà tổ chức, chi phí của những người tham gia lễ hội), nguồn thu của lễ hội.
Thống kê các trò chơi dân gian được duy trì trong lễ hội; nguồn gốc, ý nghĩa các
trò chơi; mức độ thu hút các thành phần trong cộng đồng (các thế hệ tham gia). Đặc
biệt trong báo cáo cần chỉ rõ mức độ xã hội hóa việc tổ chức lễ hội bằng các số liệu về
sáng kiến tổ chức và duy trì lễ hội của khối nhà nước và tư nhân; tỷ lệ các bên đóng
góp vào tổng chi phí cho lễ hội.
Bên cạnh các thống kê sơ bộ cần có đánh giá tổng quát về sự phát triển hoặc suy
vong của một số giá trị văn hóa trên địa bàn. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc duy
trì tập tục đối với tâm lý của người dân trong vùng qua thời gian; đánh giá ảnh hưởng
về mặt đời sống vật chất lên các gia đình; đánh giá chi phí cho các tập tục đối với thu
nhập của các hộ gia đình; đánh giá thái độ, sự ủng hộ hoặc bất mãn của các tầng lớp
đối với việc duy trì các tập tục, quy ước.
Bên cạnh đó cần đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, ảnh hưởng các
giá trị phương tây lên các giá trị văn hóa truyền thống: các phương tiện, công nghệ
hiện đại, văn hóa ngoại lai. Ví dụ cần thống kê làm rõ phương thức vui chơi thu hút
278
dân cư, giới trẻ trong các dịp lễ tết, hội hè, ma chay, cưới hỏi. Quá trình làm phong
phú thêm hoặc làm nghèo đi một số giá trị văn hóa truyền thống.
2.1.4 Các hoạt động văn hóa hiện đại được tổ chức cho dân cư trong vùng
Thống kê số lượng các buổi biểu diễn của các đoàn ca múa nghệ thuật truyền
thống và hiện đại của các loại hình nghệ thuật (ca, múa, kịch, xiếc) của từng cấp, nghệ
sỹ, ca sỹ bên ngoài đến tổ chức ở xã.
Thống kê và báo cáo chi tiết các buổi lễ, sự kiện được tổ chức ở xã. Thống kê các
hoạt động văn nghệ mang tính cây nhà lá vườn.
2.1.5. Phương tiện văn hóa, tinh thần, vui chơi giải trí của dân cư
- Số Rađiô, caset, máy thu hình, máy tính… tính bình quân cho 100 hộ gia đình.
Ví dụ phương pháp tính:
Số máy Rađiô và rađiô
caset tính bình quân cho
100 hộ gia đình
Tổng số rađiô, rađiô caset
* 100 Tổng số hộ gia đình
- Số Thư viện trên 10.000 dân chia theo nông thôn và thành thị. Phương pháp
tính:
Số thư viện tính trên
10.000 dân ở nông thôn
Tổng số thư viện ở khu vực
nông thôn
* 10.000
Tổng số dân ở khu vực nông thôn
- Số đầu sách báo, tạp chí trong thư viện trên 10.000 dân chia theo nông thôn và
thành thị. Phương pháp tính:
Số đầu sách ( báo, tạp chí)
tính trên 10.000 dân ở nông
thôn
Tổng số thư viện ở khu vực
nông thôn
* 10.000
Tổng số dân ở khu vực nông thôn
- Số nhà Văn hóa, trung tâm văn hóa giải trí tính trên 10.000 dân. Phương pháp
tính:
Số nhà văn hóa, trung
tâm văn hóa giải trí tính trên
10.000 dân ở nông thôn
Tổng số thư viện ở khu vực
nông thôn
* 10.000
Tổng số dân ở khu vực nông thôn
279
Cán bộ cấp xã chỉ cần báo cáo số lượng các phương tiện, địa điểm trên địa bàn và
tổng số dân ở khu vực.
- Tỷ lệ trẻ em được sinh hoạt ở nhà văn hóa, trung tâm văn hóa giải trí: Tỷ lệ trẻ em
được sinh hoạt ở nhà văn hóa, trung tâm văn hóa giải trí là số phần trăm trẻ em được sinh
hoạt tại các nhà văn hóa và trung tâm vui chơi giải trí trong tổng số trẻ em. Phương pháp
tính:
Tỷ lệ trẻ em được sinh hoạt ở nhà
văn hóa, trung tâm văn hóa giải trí tính
trên 10.000 dân ở nông thôn
Số trẻ em được sinh hoạt ở nhà
văn hóa, trung tâm văn hóa
giải trí
* 100
Tổng số trẻ em ở khu vực
nông thôn
- Thống kê số lượng bảo tàng nhà nước và tư nhân trong địa bàn xã.
- Thống kê số lượng công viên văn hóa, khu vui chơi, giải trí trên địa bàn xã.
- Thống kê số lượng các tụ điểm văn hóa: quán trà, karaoke, các sân khấu ngoài
trời, các khu du lịch sinh thái có biểu diễn và có trang bị phương tiện, trò chơi cho trẻ
em, thanh thiếu niên.
2.2. Thống kê, phân tích, tổng hợp, báo cáo về công tác gia đình ở xã
2.2.1 Mục tiêu, nội dung thống kê các vấn đề về gia đình
a) Mục tiêu thống kê
Đưa ra các số liệu cụ thể nhằm nhận diện thực trạng gia đình trên địa bàn xã dưới
tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa; cung cấp hệ thống dữ liệu
để xây dựng bộ chỉ số theo dõi và đánh giá tình hình phát triển của gia đình.
Ngoài việc tập trung thực hiện thống kê các số liệu cụ thể phục vụ mục đích điều
tra trong giai đoạn, thực hiện thống kê định kỳ các mặt cơ bản của gia đình để theo dõi
quá trình phát triển của gia đình, chuẩn bị sẵn dữ liệu cho các cuộc điều tra, nghiên
cứu xây dựng chính sách về gia đình sau này.
b) Các nội dung chính
Thống kê số liệu theo các chủ đề: Quan hệ gia đình; Các giá trị chuẩn mực gia
đình; Kinh tế gia đình; Phúc lợi gia đình.
Cần lựa chọn những nội dung cơ bản nhằm nhận diện thực trạng, xu hướng biến
đổi gia đình, cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ công tác quản lý, hoạch định
chính sách về gia đình.
Về quan hệ gia đình: Tập trung vào hai nội dung chủ yếu là quan hệ vợ chồng và
quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình.
Về quan hệ vợ chồng, vấn đề kết hôn, phân công lao động theo giới; đóng góp của
vợ, chồng, các thành viên khác vào thu nhập gia đình; mâu thuẫn vợ chồng, bạo lực gia
đình.
280
Quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình; giữa cha mẹ và con cái chưa trưởng thành,
mối quan hệ giữa người cao tuổi với con cháu. Vấn đề kinh tế gia đình: mức sống, thay
đổi trong tiêu dùng, tích lũy tài sản, những khó khăn, rủi ro về kinh tế gia đình. Phúc lợi
gia đình: mức độ sử dụng các dịch vụ gia đình, phúc lợi đối với gia đình nghèo, gia đình
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình có công, tính thuận tiện của các dịch vụ gia đình.
Những phần thống kê cơ bản mang tính định kỳ chủ yếu liên quan đến cơ sở kinh
tế, thành phần gia đình. Những nội dung khác chỉ thực hiện khi có các cuộc điều tra
phục vụ các dự án, đề án cụ thể.
2.2.2. Một số nội dung thống kê định kỳ về gia đình
a) Về quy mô và cơ cấu hộ gia đình
- Về quy mô: thống kê số nhân khẩu trong một hộ gia đình, tính số bình quân:
Quy mô hộ gia đình trong
1 xã ở nông thôn
Tổng số nhân khẩu nông thôn (trong xã)
* 100 Tổng số hộ gia đình trong xã vùng
nông thôn
Trong đó cần thống kê số nhân khẩu chỉ bao gồm: nhân khẩu thường trú thường
xuyên có mặt, không tạm trú dài hạn ở nơi khác (trừ trường hợp đi học) và số nhân
khẩu tạm trú dài hạn tại địa bàn.
Có thể thống kê chi tiết hơn, ví dụ: thống kê riêng bình quân nhân khẩu hộ nghèo
và hộ giàu.
Về cơ cấu hộ gia đình: Thống kê: Tỷ lệ hộ trẻ: (số hộ có trẻ từ 0-14 tuổi trong
xã/tổng số hộ trong xã)*100%; Tỷ lệ (số hộ có người cao tuổi trong xã (từ 61
tuổi)/tổng số hộ trong xã)*100%.
Số thế hệ trong gia đình: Tỷ lệ (số hộ có mô hình 2 thế hệ trong xã/tổng số hộ
trong xã)*100%; Tỷ lệ (số hộ có mô hình 3 thế hệ trong xã/tổng số hộ trong
xã)*100%; Tỷ lệ phụ thuộc: (số người phụ thuộc trong xã/tổng số hộ trong xã)*100%
(số trẻ em phụ thuộc trong xã/tổng số hộ trong xã)*100%; (số người cao tuổi phụ
thuộc trong xã/tổng số hộ trong xã)*100%
b) Trình độ học vấn:
- Tỷ lệ biết chữ của dân số (số người biết chữ từ 10 tuổi trở lên trong xã/tổng số
hộ trong xã)*100%
- Tỷ lệ nam giới/nữ giới biết chữ (số người biết chữ từ 10 tuổi trở lên là nam giới
trong xã/tổng số hộ trong xã)*100%; số người biết chữ từ 10 tuổi trở lên là nữ giới
trong xã/tổng số hộ trong xã)*100%
- So sánh tỷ lệ biết chữ giữa hộ nghèo và hộ giàu.
c) Về cơ cấu ngành kinh tế và nghề nghiệp
281
Cơ cấu ngành kinh tế trong hộ gia đình được chuyển dịch theo hướng giảm số
người làm trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và tăng số người làm trong
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
Như vậy cần thống kê số người tham gia lao động trong từng ngành công nghiệp,
dịch vụ, xây dựng trên địa bàn với những số liệu như sau:
- Tính tỷ lệ số người tham gia lao động trong từng ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ/tổng số người lao động trên địa bàn*100%.
- Thống kê số người tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ trên địa bàn = Tổng số người tham gia lao động trong từng ngành công nghiệp,
xây dựng, dịch vụ trên địa bàn cộng lại.
- Tính tỷ lệ tổng số người tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, xây
dựng, dịch vụ/tổng số người lao động trên địa bàn*100%.
- Tính tỷ lệ số người tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng,
dịch vụ/tổng số người đủ tuổi lao động trên địa bàn*100%.
- Tính tỷ lệ số người thường trú ở địa bàn khác tham gia lao động trong các
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ/ tổng số người lao động trên địa bàn*100%.
d) Một nội dung quan trọng là xác định cơ hội phát triển cho hộ nghèo:
- Thống kê, tính tỷ lệ: số người nghèo hoạt động trong ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản/ tổng số người lao động trên địa bàn*100%.
- Thống kê, tính tỷ lệ: số người nghèo hoạt động trong ngành thương mại và dịch
vụ/ tổng số người lao động trên địa bàn*100%.
- Thống kê về trình độ lao động:
- Về cơ cấu trình độ học vấn của người từ 10 tuổi trở lên biết chữ:
- Tính số người biết chữ theo từng cấp học ( tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông, đại học(chính quy, tại chức), trên đại học/ tổng số người biết chữ
trên địa bàn xã *100%.
- Tính số người ở từng cấp học ( tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông, đại học (chính quy, tại chức), trên đại học)/ tổng số người trên địa bàn xã
*100%.
- Tính và so sánh tỷ lệ số người không theo tôn giáo ở nông thôn và thành thị:
- Tính số người không theo tôn giáo ở địa bàn nông thôn/ tổng số dân cư ở địa
bàn nông thôn * 100%.
- Tính số người không theo tôn giáo ở địa bàn thành thị / tổng số dân cư ở địa bàn
nông thôn * 100%.
e) Về đặc điểm hôn nhân:
- Tính số người kết hôn ở địa bàn nông thôn/ tổng số người ở độ tuổi kết hôn (từ
18 trở lên) *100% ( không kể những trường hợp tảo hôn).
282
- Tính số trường hợp tảo hôn/ tổng số trường hợp kết hôn * 100%.
- Tính số người không đăng ký kết hôn có đăng ký/ tổng số trường hợp kết hôn
hoặc chung sống (hôn nhân thực tế) * 100%.
- Tính tỷ lệ số người không đăng ký kết hôn theo từng tiêu chí là người dân tộc
thiểu số, nông thôn, học vấn, lứa tuổi/tổng số hôn nhân thực tế.
- Phỏng vấn và tính tỷ lệ lý do không đăng ký kết hôn (không biết, ngại, lý do
khác).
- Tính tỷ lệ tuổi kết hôn trung bình của nam và nữ kèm các tiêu thức: học vấn,
vùng (nông thôn, thành thị).
- Tính tỷ lệ kết hôn lần đầu, lần thứ hai;
- Phần kết hôn cần nghiên cứu lý do kết hôn (đến tuổi thì lấy, kỳ vọng vào chỗ
dựa vật chất và tinh thần, cha mẹ sắp đặt, kiếm người giúp việc, đỡ đần…).
- Xác định tiêu chuẩn chọn bạn đời và quyền quyết định hôn nhân để làm rõ mức
độ, khả năng độc lập của các cá nhân (so sánh mức độ độc lập trong quyết định kết
hôn của các đối tượng theo độ tuổi, mức sống, vùng sinh sống).
- Có thể tìm hiểu đánh giá về các tác động tâm linh đến quyết định hôn nhân, ví
dụ: xem tuổi, xem ngày…
Một thông tin cần quan tâm là điều kiện sống của gia đình sau khi kết hôn: ở
chung, ăn chung cùng với bên nhà chồng, nhà vợ, ở riêng, ăn riêng…
- Tính số trường hợp ly hôn, ly thân / tổng số trường hợp kết hôn *100% (so sánh
số liệu theo các tiêu thức: nam/ nữ; độ tuổi; nông thôn/ thành thị; học vấn).
- Tính tỷ lệ ly hôn, ly thân, tỷ lệ độc thân, ở góa. So sánh tỷ lệ độc thân giữa nam
và nữ, giữa các vùng miền, cơ cấu thu nhập. Trong đó phân tích nguyên nhân, lý do
độc thân (hoàn cảnh gia đình, thói quen thích sống tự do, không tìm được người phù
hợp).
Đặc biệt ở đây cần nghiên cứu các trường hợp ly hôn và ảnh hưởng sau ly hôn lên
các thành viên gia đình. Cụ thể: việc chia tài sản, con cái, gánh nặng trách nhiệm sau
ly hôn giữa người mẹ và người cha. Xem xét việc bảo đảm thi hành các bản án ly hôn,
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người ly hôn trong chăm sóc con cái.
g) Nghiên cứu về các quan hệ trong gia đình:
Về vai trò của người chủ gia đình, về tính gia trưởng, về mức độ bình đẳng giới thông
qua các dự án điều tra cụ thể. Có thể xác định thông qua tỷ lệ người đứng tên giấy tờ sở
hữu/ quyền sử dụng đất và việc nắm giữ các tài sản quan trọng trong gia đình; quyền quyết
định công việc trong gia đình giữa vợ và chồng. Các dự án thường khảo sát điều tra về tỷ lệ
tham gia quyết định các việc nhỏ và lớn trong gia đình giữa người chồng và người vợ.
Xem xét việc phân công lao động trong gia đình có thể thông qua kết quả phỏng
vấn các đối tượng về tỷ lệ giữa nam và nữ trong vai trò tham gia công việc sản xuất
kinh doanh, kiếm sống, ngoại giao, làm ăn xa hay các công việc nội trợ, chăm sóc con cái.
283
Mức độ hài lòng về hôn nhân: Đánh giá xem xét mức độ hài lòng về hôn nhân
nên được lồng ghép, dựa trên các tiêu thức về mức sống, giới tính; đồng thời cần xác
định các nguyên nhân gây nên bất hòa (về kinh tế, văn hóa, trình độ giáo dục, ứng xử,
sinh lý, thói quen). Một tiêu chí rõ rệt nhất để đánh giá vấn đề này là xem xét mức độ
chung thủy của vợ và chồng.
Một số quan niệm về hạnh phúc, gia đình cũng cần được tính đến khi nghiên cứu
về gia đình, đó là quan niệm về quan hệ tình dục trước và ngoài hôn nhân, mức độ
chấp nhận, không chấp nhận những mô hình phi truyền thống như: con ngoài giá thú,
không lập gia đình nhưng vẫn sinh con, quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đặc biệt
nhiều vùng miền núi hiện nay, do tập tục tự do nhưng bị biến tướng dẫn đến các em
gái bị lợi dụng đang ngày càng phố biến. Cần có những nghiên cứu nghiêm túc và đề
xuất cụ thể nhằm giữ gìn truyền thống, văn hóa đồng thời đảm bảo sức khỏe sinh sản
cho thanh thiếu niên vùng cao.
Khi phỏng vấn và thống kê các ý kiến trả lời về những nội dung trên cần lồng ghép
với các tiêu chí về mức sống, thu nhập, giới tính, dân tộc, trình độ văn hóa.
h)Về quan niệm trọng nam khinh nữ, quan niệm về có con và sinh con trai, con
gái:
Pháp luật hiện hành nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi sinh. Đây được coi là
vấn đề nóng trong công tác dân số, gia đình. Khi đưa ra các số liệu điều tra cần làm rõ
quan điểm của dân cư về số con, về giới tính, về sự can thiệp vào quyết định giới tính
thai nhi trên cơ sở xác định quan điểm của các nhóm dân cư theo mức sống, thu nhập,
tuổi, giới tính, trình độ văn hóa… Đồng thời thu thập thông tin về nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới các quyết định trên.
Có thể xem xét tìm hiểu sâu thêm về mối quan tâm của cha mẹ đối với con cái
trên cơ sở so sánh giữa mức độ quan tâm của người thành thị và đồng bằng, hộ gia
đình giàu hay nghèo, trình độ, học vấn.
Một mảng quan trọng không thể bỏ sót là thống kê báo cáo về tình trạng bạo lực
gia đình, bạo lực, bóc lột sức lao động trẻ em.
Cần thống kê các phúc lợi gia đình, tỷ lệ % số gia đình được hưởng các phúc lợi trên
tổng số gia đình trên địa bàn (ví dụ nước sạch, điện, dịch vụ gia đình...).
2.2.3. Nội dung thống kê, phân tích, tổng hợp báo cáo về công tác thể dục, thể
thao ở xã
a) Mục tiêu thống kê về công tác thể dục, thể thao cơ sở
Mục tiêu: Đưa ra các số liệu cụ thể nhằm nhận diện thực trạng về thể dục, thể
thao cơ sở; cung cấp hệ thống dữ liệu để xây dựng bộ chỉ số theo dõi và đánh giá tình
hình, nhu cầu phát triển thể dục, thể thao trên địa bàn; phục vụ mục đích điều tra cụ
thể trong giai đoạn cụ thể.
b) Một số nội dung thống kê định kỳ về công tác thể dục, thể thao cơ sở
284
Cần thực hiện thống kê định kỳ các hoạt động thể dục thể thao tại cơ sở nhằm
theo dõi quá trình phát triển thể lực, thể trạng của người dân trong vùng và chuẩn bị
sẵn dữ liệu cho các cuộc điều tra, nghiên cứu xây dựng chính sách về thể thao thành
tích cao và thể thao cho mọi người.
Thống kê về chỉ số thể lực của người dân trong xã (có thể kết hợp với số liệu điều
tra của ngành y tế) bao gồm chiều cao, cân nặng, thể lực (sức bền, sức nhanh, sức khéo
léo); Trong đó chia tỷ lệ theo độ tuổi, giới tính, theo vùng, theo thu nhập gia đình.
Thống kê các hoạt động thể thao được tổ chức trong vùng theo từng thế hệ (thiếu
niên, thanh niên, trung niên, người cao tuổi).
Cụ thể là thống kê số môn thể thao trong trường học phổ thông trong vùng, thời
lượng học/ tuần, tỷ lệ giáo viên bộ môn/ học sinh; mức độ tham gia của học sinh; điểm
trung bình, mức độ hứng thú của các em đối với môn học, việc sắp xếp giờ học.
Thống kê các hoạt động thể thao cho thanh thiếu niên ngoài trường học, các dịp hè;
thống kê tỷ lệ người tham gia các hoạt động thể thao ngoài trường học:
- Tỷ lệ người tham gia/ tổng số thanh thiếu niên trong vùng* 100%.
- Thời gian tham gia hoạt động thể dục, thể thao trung bình của 1 người/ ngày (/
tuần).
- Thống kê số hướng dẫn viên, huấn luyện viên, trọng tài (chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm)/ số người tham gia hoạt động thể thao và trên tổng số dân cư (thanh thiếu
niên, trung niên) trong vùng.
- Thống kê và phân tích số liệu về trình độ chuyên môn của giáo viên thể dục
trong trường, của hướng dẫn viên, huấn luyện viên thể thao trong vùng, tính tỷ lệ %
giáo viên được đào tạo các cấp trên tổng số giáo viên.
- Thống kê số lượng các trung tâm thể thao, các lớp học của nhà nước và tư nhân
trong vùng, tính tỷ lệ % đầu người (ví dụ các lớp học vẽ, học cờ, cầu lông, khiêu
vũ…).
- Thống kê tỷ lệ % người tham gia các lớp thể thao trong vùng/ tổng số dân cư.
- Thống kê số lượng, tính tỷ lệ % các môn thể thao truyền thống trên tổng số các
môn thể thao được tổ chức trong vùng. Phân tích rõ việc duy trì, số lượng, chất lượng
hướng dẫn viên, số người tham gia và mức độ tham gia so với tổng số người chơi thể
thao và tổng số dân cư.
- Phân tích số liệu về mục đích tham gia chơi thể thao của dân cư: chỉ tham gia
chơi, chỉ thi đấu hay thường xuyên luyện tập.
- Thống kê số lượng, tỷ lệ người cao tuổi tham gia thể thao
Thống kê số lượng các cuộc thi đấu thể thao trong vùng, các hội khỏe; phân tích
số liệu về các cuộc thi thể thao truyền thống và hiện đại.
285
Thống kê thành tích thể thao trong vùng qua các cuộc thi. So sánh với thành tích
của các xã trong huyện, tỉnh. So sánh thành tích thể thao theo từng lứa tuổi với các xã,
huyện, tỉnh bạn để đề xuất định hướng đầu tư, bồi dưỡng phù hợp.
Thống kê số người tham gia dự thi và số người đạt thành tích thể thao trong các
cuộc thi đấu chính thức ở huyện, tỉnh, toàn quốc. Thống kê số người tham gia các giải
đấu nghiệp dư và chuyên nghiệp.
Thống kê các câu lạc bộ thể dục thể thao, các đội thể thao trong xã, đánh giá mức
độ luyện tập thường xuyên, thống kê đội hình thi đấu chính thức và đội hình dự bị.
Thống kê tỷ lệ đầu tư của nhà nước và của nhân dân địa phương vào phát triển sự
nghiệp thể thao nước nhà, xã hội hóa hoạt động đầu tư cho thể thao.
Phân tích mối quan hệ giữa các điều kiện tự nhiên như địa hình, khí hậu… và các
điều kiện xã hội như truyền thống, nghề nghiệp trong mối quan hệ với các thành tích
thể thao mà xã đạt được. Trên cơ sở đó xác định thế mạnh thể thao của vùng, địa
phương nhằm đầu tư phù hợp.
Thống kê, phân tích về quy chế quản lý thể dục thể thao, cơ chế, biện pháp
khuyến khích phát triển thể dục thể thao trong phạm vi xã; mối quan hệ giữa thực thi
cơ chế, chính sách, giữa đầu tư, xã hội hóa thể thao với các kết quả thành tích cao đã
đạt được và với kết quả phong trào thể dục thể thao toàn xã.
2.2.4. Nội dung thống kê, phân tích, tổng hợp báo cáo về công tác du lịch ở
xã
a) Mục tiêu thống kê về hoạt động du lịch ở xã
Thống kê là công cụ duy nhất để nhận thức xã hội, phục vụ việc quản lý, điều
hành của Đảng và Nhà nước. Số liệu thống kê là tấm gương phản ánh tình hình kinh
tế - xã hội. Vì vậy, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng, các chính sách, pháp luật
của Nhà nước, cán bộ công chức ngành Thống kê Quảng Ninh đã cụ thể hoá các chủ
trương, đường lối, chính sách đó bằng hành động như: đổi mới hệ thống chỉ tiêu thống
kê; chủ động nắm bắt yêu cầu thông tin phục vụ lãnh đạo các cấp, các ngành và các
đối tượng dùng tin để xây dựng, thu thập, cập nhật kịp thời.
Việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ở mỗi địa phương
có đặc thù khác nhau, do vậy, ngoài kế hoạch thông tin thống nhất do Cục Thống kê
giao, Chi cục Thống kê tỉnh thường xuyên đưa ra các kế hoạch chủ động thu thập
thông tin bổ sung, nhằm đáp ứng yêu cầu của các cấp lãnh đạo địa phương.
Hàng năm, số liệu thu thập, tổng hợp qua các cuộc điều tra, hệ thống báo cáo
thống kê của ngành Thống kê Quảng Ninh đã góp phần đánh giá đúng thực trạng và xu
hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính
sách và mục tiêu phát triển của từng thập kỷ. Giá trị pháp lý của các chỉ tiêu báo cáo
thống kê ngày càng tăng.
Hiện nay, công tác thống kê số liệu du lịch mới chỉ dừng lại ở những con số giản
đơn như tổng lượt khách và tổng doanh thu mà chưa thống kê được mức chi tiêu bình
quân của mỗi du khách, tỷ lệ khách trở lại, thời gian lưu trú trung bình của du khách…
286
số liệu cơ bản về bình quân ngày nghỉ, phương tiện sử dụng, mục đích, số lần đến địa
phương, ấn tượng tốt nhất về điều gì ở địa phương, tiêu chí lựa chọn điểm đến, mức
chi tiêu của khách lưu trú qua đêm và đi về trong ngày (gồm du khách trong nước và
quốc tế), lao động trong ngành du lịch … khiến cho các thông tin về du lịch chưa đầy
đủ. Vì vậy, việc khảo sát, điều tra, thu thập số liệu du lịch là cần thiết nhằm chuẩn hóa
các số liệu du lịch giữa các ngành liên quan và làm sơ cở xây dựng chiến lược phát
triển ngành.
b) Một số nội dung thống kê hoạt động du lịch ở xã
Mục đích: Đánh giá về mức độ đạt chuẩn du lịch, làng sinh thái, thân thiện với môi trường.
- Thống kê số địa điểm du lịch, danh thắng được xếp hạng hoặc đang được xem
xét.
- Thống kê số khách du lịch, so sánh tỷ lệ % khách du lịch với tổng số dân địa phương.
- Thống kê hình thức du lịch (đi theo tua, theo đoàn hay đi cá nhân); mục đích du
lịch (sinh thái, khám chữa bệnh, thăm người thân, ghé qua, công tác).
- Thống kê thời gian lưu trú của khách du lịch trên địa bàn theo độ tuổi, quốc
tịch.
- Thống kê các dịch vụ du lịch tiến hành trên địa bàn, thường xuyên hoặc theo thời
vụ.
- Thống kê tỷ lệ dân cư tham gia dịch vụ du lịch tại chỗ, báo cáo về mức độ
chuyển dịch cơ cấu, tỷ trọng công nghiệp du lịch trong kinh tế địa phương, tỷ lệ thu
nhập của người dân từ nguồn du lịch.
- Thống kê, đánh giá, báo cáo ảnh hưởng của du lịch đến môi trường sinh thái và
văn hóa làng xã; đánh giá tác động và có số liệu cụ thể về vấn đề ô nhiễm môi trường,
rác thải hay những ảnh hưởng không tốt từ văn hóa ngoại lai.
c) Đánh giá tiềm năng du lịch - so sánh chuẩn làng (xã) sinh thái du lịch
Có thể tham khảo tiêu chuẩn do chính quyền một số địa phương đề ra về tiêu
chuẩn là (xã) sinh thái du lịch. Đây là cơ sở để đánh giá tiềm năng du lịch của làng
(xã) để có kế hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.
Theo quy định được áp dụng ở một số địa phương, mức độ đạt chuẩn: Đó phải là
một làng (xã) hội đủ các tiêu chí về cơ sở hạ tầng, văn hoá; về sinh thái, du lịch; về
phát triển kinh tế; về đời sống văn hoá cũng như trật tự xã hội. Những tiêu chí này
được quy định rất cụ thể, chi tiết tại Quyết định số 85/2003/QĐ-UB ra ngày 21/7/2003
của UBND TP. Hà Nội.
Để được công nhận danh hiệu “làng (xã) sinh thái du lịch”, với mục đích chính là
phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn, từng làng (xã)
ngoại thành Hà Nội phải đảm bảo xây dựng các khu dân cư theo hướng văn minh đô
thị, giữ gìn truyền thống, bảo tồn các di tích lịch sử, văn hoá, duy trì nét đẹp truyền
thống nông thôn Việt Nam. Các đường giao thông liên xã, liên thôn cần được rải nhựa,
bê-tông, hoặc lát gạch 100%. Đường trục xã phải đảm bảo rộng hơn hoặc bằng 5m,
287
đường trục thôn rộng hơn hoặc bằng 3m; có hệ thống chiếu sáng đường làng, ngõ
xóm; hệ thống cấp, thoát nước, trạm y tế đạt tiêu chuẩn theo quy định...
Bên cạnh đó, nhất thiết phải có các công trình văn hoá, thể thao đáp ứng nhu cầu
của nhân dân và hoạt động của khách tham quan, du lịch; có chợ hoặc trung tâm
thương mại với diện tích từ 5.000m2 trở lên; hệ thống dịch vụ - thương mại phát triển
nhằm phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hoá của làng nghề... Công tác bảo vệ môi trường
cũng không thể thiếu, cụ thể như tổ chức thu gom và xử lý rác thải có hiệu quả...
Về phát triển kinh tế, tiêu chí đã quy định rất rõ từng mặt: sản xuất nông nghiệp,
sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cũng như thương mại - dịch vụ. Tương tự
như vậy, tại quy định tiêu chí về đời sống văn hoá, thu nhập bình quân đầu người tại
các làng (xã) này cần đạt mức 6 triệu đồng/ năm; hộ giàu đạt từ 30% trở lên, hộ nghèo
còn dưới 5% và không có hộ đói. Tỉ lệ sinh con của dân sở tại phải dưới 4%, trong đó
tỉ lệ sinh con thứ 3 dưới 3%...
Còn rất nhiều tiêu chí cụ thể khác về giáo dục, an ninh chính trị... Hàng năm, căn
cứ đề nghị của UBND các xã và qua xem xét các tiêu chí chi tiết trên, UBND TP. sẽ
phê duyệt các dự án xây dựng làng (xã) sinh thái và công nhận danh hiệu cho các dự
án được phê duyệt.
Các cuộc điều tra xã hội học với quy mô nhỏ, phản ánh vị trí, vai trò, ảnh hưởng
của dòng họ đối với gia đình. Ví dụ ở làng Tam Sơn và Đồng Kỵ, huyện Từ Sơn (Bắc
Ninh) - nơi làng đã thành phố, thành "trung tâm" giao dịch thương mại hàng chục năm
nay thì đa số người dân vẫn cho rằng gia đình, dòng họ đóng vai trò quan trọng. Quan
điểm này khá thống nhất ở nhiều nhóm đối tượng khác nhau, chiếm 97-99,6% trong
tổng số 420 hộ gia đình với hơn 1.000 người được phỏng vấn. Gần 100% số người được
hỏi cũng cho rằng, các câu nói theo khẩu ngữ dân gian như: "Một giọt máu đào hơn ao
nước lã" hay "Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì"... đến nay vẫn đúng; số người phủ định
chỉ có từ 0,5% đến 3,5%. Thậm chí, nhiều người còn khẳng định gia đình, dòng họ, làng
xã hiện nay có vai trò lớn hơn trong quá khứ và ở tương lai vai trò đó sẽ vẫn tiếp tục
được phát huy.
**********************
Câu hỏi thảo luận
1. Trình bày các hình thức tổ chức điều tra thống kê.
2. Trình bày các cách chọn mẫu thống kê, cho ví dụ.
3. Thu thập số liệu, lập bảng thống kê về chi từ ngân sách xã cho các hoạt động
văn hóa trên địa bàn xã trong các năm 2007-2008-2009, vẽ biều đồ diện tích để minh
họa cho các số liệu trên.
4. Thống kê số liệu và vẽ đồ thị mô tả thành tích 3 môn thể thao của xã trong các
cuộc thi cấp huyện trong năm 2007-2008-2009.
5. Lập phiếu điều tra về đặc điểm hôn nhân của dân cư trong xã.
6. Thống kê các loại hình nghệ thuật truyền thống trong vùng, lựa chọn và tính
toán số liệu để làm cơ sở đề xuất mức độ cần bảo tồn các loại hình nghệ thuật đó.
288
7. Hãy tự đánh giá mức đạt chuẩn làng sinh thái du lịch của làng (xã) trên cơ sở tham khảo
tiêu chuẩn làng sinh thái du lịch được áp dụng tại các địa phương.
Tài liệu tham khảo
- Sách tham khảo
1. Trường Cán bộ thống kê Trung ương: Thống kê kinh tế xã hội, Giáo trình, Nxb
Thống kê, 2003.
2. Đại học Hành chính- Học viện Hành chính: Thống kê Hành chính, Tập bài
giảng , 2010.
3. Đào Hữu Hồ: Thống kê xã hội học, Nxb Giáo dục, 2009.
4. Tổng cục Thống kê-Viện Gia đình và giới: Điều tra gia đình Việt Nam 2006,
Tài liệu dự án UBDSGĐTE, 2006.
- Văn bản pháp luật về thống kê
Stt Tên văn bản Thời gian
ban hành
Cấp
ban hành
Trích yếu nội dung
văn bản
1 Luật Thống kê 17/6/2003 Quốc hội Thay thế pháp lệnh kế toán -
thống kê năm 1988
2 Nghị định số
40/2004/NĐ-CP 13/02/2004 Chính phủ
Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của
Luật thống kê
3 Quyết định số
815/TCTK-QĐ 21/12/1998 TCTK
Ban hành chế độ báo cáo
thống kê xã, phường.
4 Nghị định số
93/1999/NĐ-CP 07/9/1999 Chính phủ
Về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thống kê
5
Quyết định số
141/2002/QĐ-
TTg
21/10/2002 Chính phủ
Phê duyệt định hướng phát
triển thống kê Việt Nam đến
năm 2010
6 Quyết định số 86
QĐ-TCTK 06/03/2000 TCTK
Điều tra đánh giá thực hiện
các mục tiêu cuối thập kỷ về
trẻ em.
7 Quyết định số 675
QĐ/TCTK 23/11/2001 TCTK
Điều tra mức sống hộ gia đình
năm 2002
8
Thông tư
02/2009/TT-
BVHTTDL
17/3/2009
Bộ Văn
hóa, Thể
thao và Du
lịch
Hướng dẫn việc tổ chức và
đánh giá phong trào thể dục
thể thao quần chúng tại địa
phương
9 Thông tư số
65/2003/TT-BTC 02/7/2003
Bộ Tài
Chính
Hướng dẫn quản lý kinh phí
chi cho các cuộc điều tra
thống kê thuộc nguồn vốn
ngân sách nhà nước.
289
KỸ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC VĂN HÓA - XÃ HỘI XÃ
Th.s. LẠI THỊ LAN PHƯƠNG
NGUYỄN TUẤN
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Giới thiệu những kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin, cách thức khai thác
thông tin trên Internet và những thao tác cơ bản trong soạn thảo văn bản trên máy tính.
2. Yêu cầu
Học viên nắm được những kiến thức cơ bản về máy tính, mạng máy tính vận
dụng để tra cứu, lưu trữ những thông tin tìm được trên mạng cũng như soạn thảo
những văn bản thông thường áp dụng vào công tác ở địa bàn xã.
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề cơ bản về Công nghệ Thông tin
1.1. Các khái niệm về thông tin, dữ liệu, xử lý thông tin
Thông tin (Information) là những gì đem lại hiểu biết, nhận thức cho con người
cũng như các sinh vật khác. Thông tin có thể tạo ra, phát sinh, truyền đi, lưu trữ, chọn
lọc và được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Dữ liệu có thể hiểu là vật mang thông tin, những thông tin có thật và có thể xử lý
bằng máy tính. Dữ liệu sau khi tập hợp lại và xử lý sẽ cho ta thông tin. Nói cách khác,
dữ liệu là nguồn gốc, là vật mang thông tin, là vật liệu sản xuất ra thông tin. Các loại
dữ liệu bao gồm: Tín hiệu vật lý, các số liệu, các ký hiệu, hình ảnh, âm thanh,...
Xử lý thông tin trong máy tính tương tự như quá trình xử lý thông tin của con
người. Đó là quá trình thu nhận, phân loại, sắp xếp, lưu trữ, tính toán, so sánh, tìm
kiếm, lựa chọn, thống kê,... đưa vào điều khiển trong quá trình xử lý.
1.2. Các bộ phận căn bản của máy tính
Máy tính bao gồm những bộ phận: Bàn phím, chuột, màn hình, vỏ máy và loa,...
Đó là những thành phần cơ bản, bên cạnh đó máy tính còn có rất nhiều các bộ phận
cấu thành, có thể được nhóm trong một khối chức năng sau:
Khối xử lý trung tâm (Central Processing Unit – CPU): Khối xử lý trung tâm hay
còn gọi là bộ vi xử lý, hoặc chíp, là bộ não của máy tính. Công việc chính của khối xử
lý trung tâm là tính toán và điều khiển mọi hoạt động của máy tính.
Bộ nhớ trong (Internal Storage): Dùng để chứa các lệnh và dữ liệu phục vụ cho
quá trình thực hiện các chương trình. Bộ nhớ trong bao gồm bộ nhớ truy cập ngẫu
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
290
nhiên (RAM – Random Access Memory) và bộ nhớ chỉ đọc (ROM – Read Only
Memory).
Bộ nhớ ngoài (External Storage): Bộ nhớ ngoài hay các thiết bị lưu trữ ngoài bao
gồm đĩa cứng (Harddisk), đĩa mềm (Floppydisk), đĩa CD, đĩa ZIP,... Ổ cứng nằm bên
trong vỏ máy nhưng vẫn là thiết bị lưu trữ ngoài.
Các thiết bị vào (Input device): Các thiết bị vào cho phép thông tin hay dữ liệu
được nhập vào máy tính, ví dụ: bàn phím, chuột, máy quét,... (bàn phím giúp người sử
dụng gõ nội dung đưa thông tin vào máy tính. Chuột giúp người dùng ấn nút, truyền
lệnh vào máy tính. Máy quét đưa thông tin về một bức ảnh, tài liệu vào máy tính dưới
dạng số hóa).
Các thiết bị ra (Output device): Các thiết bị ra cho phép thông tin có thể được
xuất ra từ máy tính, ví dụ: Màn hình, máy in, loa,... (màn hình hiển thị thông tin, máy
in in thông tin ra giấy, loa giúp thông tin được xuất ra dưới dạng âm thanh).
Các thiết bị ngoại vi (Peripheral Device): Thiết bị ngoại vi là những thiết bị có
thể gắn/cắm vào máy tính. Như vậy toàn bộ các thiết bị như máy quét, máy in, bàn
phím, chuột, loa,... đều là các thiết bị ngoại vi.
1.3. Phần cứng, phần mềm và đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền
thông
Phần cứng -Hardware: Phần cứng là các thành phần vật lý của máy tính. Các
thành phần vật lý ở đây bao gồm các thiết bị điện tử và cơ khí. Ví dụ: màn hình, bàn
phím, chuột, chip, vỏ máy,...
Phần mềm- Software: Phần mềm là tập hợp các chỉ thị cho máy tính làm việc.
Nói cách khác, toàn bộ các chương trình chạy trên máy tính gọi là phần mềm máy tính.
Sự ra đời của phần mềm khiến cho hiệu quả sử dụng phần cứng được nâng cao, rất
nhiều công việc của con người được tự động hóa, vận hành nhanh chóng. Ví dụ: Phần
mềm soạn thảo văn bản, phần mềm bảng tính, phần mềm trình diễn,...
Đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền thông - Multimedia: Một phương
pháp giới thiệu thông tin bằng máy tính, sử dụng nhiều phượng tiện truyền thông tin
như văn bản, đồ họa và âm thanh, cùng với sự gây ấn tượng bằng tương tác.
Trong chương trình giới thiệu đa phương tiện gọi là BeethovenWindows World
(Thế giới Beethoven) chẳng hạn, bạn có thể nhìn thấy chân dung của nhà soạn nhạc,
nghe âm nhạc của ông, và cả những đoạn văn bản về cuộc sống riêng của nhạc sĩ.
Những tiến bộ đạt được trong việc đồng bộ âm thanh và video cho phép bạn có thể
hiển thị các hình video động trong những cửa sổ màn hình.
2. Khai thác thông tin trên hệ thống mạng máy tính
2.1. Hệ thống mạng máy tính và dịch vụ trên mạng máy tính
2.1.1. Khái niệm cơ bản về hệ thống mạng máy tính
291
Hệ thống mạng máy tính (Internet) là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể
được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống
này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một
giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Mạng Internet mang lại rất
nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ thông của
Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy tìm dữ
liệu (search engine), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và các dịch vụ về y tế
giáo dục như là chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo.
Các cách thức thông thường để truy cập internet là quay số (dialup), băng rộng
(ADSL), không dây (WIFI, WIMAX), vệ tinh và qua điện thoại cầm tay.
Tháng 12 năm 1997, Việt Nam chính thức tham gia kết nối vào mạng lưới toàn
cầu Internet.
2.1.2. Dịch vụ triển khai trên mạng máy tính-World Wide Web (WWW)
World Wide Web, gọi tắt là Web hoặc WWW, là một dịch vụ triển khai trên
Internet, do Trung tâm nghiên cứu nguyên tử Châu Âu CERN nghiên cứu và ứng dụng
thành công năm 1991, nhờ có dịch vụ WWW mà người sử dụng tìm thấy ở mạng máy
tính toàn cầu có nhiều điều hấp dẫn.
WWW là một không gian thông tin toàn cầu mà mọi người có thể truy nhập
(đọc và phản hồi) qua các máy tính nối với mạng Internet. Thuật ngữ này thường được
hiểu nhầm là từ đồng nghĩa với chính thuật ngữ Internet. Nhưng Web thực ra chỉ là
một trong các dịch vụ chạy trên Internet, chẳng hạn như dịch vụ thư điện tử.
Các tài liệu trên World Wide Web được lưu trữ trong một hệ thống siêu văn bản
(hypertext), đặt tại các máy tính trong mạng Internet. Người dùng phải sử dụng một
chương trình được gọi là trình duyệt web (web browser) để xem siêu văn bản. Chương
trình này sẽ nhận thông tin (documents) tại ô địa chỉ (address) do người sử dụng yêu
cầu (thông tin trong ô địa chỉ được gọi là tên miền (domain), rồi sau đó chương trình
sẽ tự động gửi thông tin đến máy chủ (web server) và hiển thị trên màn hình máy tính
của người xem. Người dùng có thể theo các siêu liên kết (hyperlink) trên mỗi trang
web để nối với các tài liệu khác hoặc gửi thông tin phản hồi theo máy chủ trong một
quá trình tương tác. Hoạt động truy tìm theo các siêu liên kết thường được gọi là duyệt
Web.
Quá trình này cho phép người dùng có thể lướt trên các trang web để lấy thông tin.
Tuy nhiên độ chính xác và chứng thực của thông tin không được đảm bảo.
Trình duyệt Web là gì? Trình duyệt Web là phần mềm giúp bạn có thể xem được
thông tin từ các Website trên Internet. Có nhiều trình duyệt Web khác nhau như Internet
Explorer (IE), Netscape Navigator/ Communicator (Netscape), Opera, Mozilla FireFox,
Google Chrome,… trong đó phổ biến hơn cả là phần mềm IE. Mỗi phần mềm trình duyệt
Web đều có nhiều phiên bản khác nhau, mỗi phiên bản mới có nhiều tính năng mới hơn
phiên bản trước đó. Tuy nhiên, các chức năng sử dụng cơ bản của trình duyệt như lùi
(back), tiến (forward), làm tươi (refresh),… đều giống nhau và người dùng chỉ cần biết sử
292
dụng một loại trình duyệt là có thể dễ dàng sử dụng các trình duyệt khác để có thể truy xuất
và xem các thông tin trên Internet.
2.2. Sử dụng Internet Explore
Microsoft Internet Explorer (tiếng Việt có thể hiểu là "Bộ thám hiểm Internet";
viết tắt Internet Explorer, IE, hay MSIE) là trình duyệt web của hãng Microsoft đi kèm
với hệ điều hành Windows. IE là trình duyệt web được sử dụng nhiều nhất hiện nay.
Tổng quan về Internet Explore: Để mở trình duyệt này, ta chỉ cần click đúp
chuột vào biểu tượng IE trên nền Desktop. Cửa sổ IE sẽ được hiển thị:
Cấu trúc giao diện IE:
Phía trên cùng là thanh menu và các công cụ của trình duyệt:
- Thanh menu: File, Edit, View, Favorites, Tool, Help
- Các nút công cụ: Back, Refresh, Search, Media, Favorites…
Tiếp ngay phía dưới là thanh address: Thanh địa chỉ , thanh này chứa địa chỉ
trang web đang hiển thị. Như ở hình vẽ là trang có địa chỉ:
http://www.chinhphu.vn/portal/
Phần còn lại là phần hiển thị nội dung trang web. Mỗi trang web sẽ có 1 cấu
trúc, nội dung riêng, nên khi hiển thị nó cũng sẽ khác nhau.
Các chức năng và thao tác trong IE:
Thanh Address (Thanh địa chỉ): Để mở 1 trang web, 1 thư mục, 1 file hay 1
chương trình nào đó trên IE, bạn sử dụng thanh địa chỉ Address
2.2.1 Để mở 1 trang web: ta phải gõ địa chỉ của trang (URL) ví dụ như:
http://www.tienphong.vn vào thanh address
Để mở 1 chương trình trên IE, ta gõ tên chương trình và Enter
Để mở 1 thư mục trên IE, bạn gõ đường dẫn đến thư mục đó vào thanh
address. Ví dụ: C:\Documents and Settings
293
Đặc biệt chức năng AutoComplete cung cấp 1 danh sách trải xuống các đường
dẫn, điạ chỉ mà được các bạn gõ vào thanh address trong những lần truy nhập trước.
Nó được đưa ra từ History (lịch sử) của Internet Explore
Để cài đặt các giá trị của chức năng này bạn làm các bước sau:
+ Bước 1: Vào menu Tool chọn Internet Option\Content\Settings\Auto
complet cửa sổ Auto Complet Settings sẽ được hiển thị như sau:
+ Bước 2: Chọn các mục mà bạn muốn chức năng này hiển thị và lưu lại rồi
click chọn OK.
2.2.2. Để Copy ảnh và nội dung website
Để copy ảnh từ các website, ta thực hiện các bước sau:
+ Bước 1: Chọn ảnh cần copy, click chuột phải vào bức ảnh đó.
+ Bước 2: Sau khi click chuột phải, 1 menu các chức năng sẽ được trải xuống
cho bạn lựa chọn. Bạn click chọn vào chức năng Save Picture As.
+ Bước 3: Lựa chọn đường dẫn tới thư mục mà bạn muốn lưu và lựa chọn tên
mà bạn muốn lưu lại (nếu bạn không chọn tên, thì tên ảnh tự động được lưu với tên
mặc định ở trên trang web).
+ Bước 4: bạn chọn Save. Tại 1 số website các hình ảnh của web đó được hiển
thị bằng chương trình flash, khi đó ta sẽ không thể sử dụng cách này để lưu ảnh được.
Sử dụng các nút công cụ IE
- Back, Forward: đi đến các trang web trước và trang sau trang hiện hành.
- Stop và refresh: Khi trang web hay chương trình tải xuống quá chậm hoặc
không duyệt được thì bạn chọn chức năng stop để dừng lại hoặc refresh để làm kích
hoạt lại.
294
- Search: Tìm kiếm được mặc định là MSN hoặc search page.
- Favorites: Hiển thị danh sách các trang được yêu thích của bạn.
- Home: Đưa bạn trở lại trang mặc định của bạn, trang này được cài đặt ở trong
phần Internet Option.
Các chức năng của thanh menu
- View: Là menu cung cấp các cách nhanh nhất để thay đổi giao diện của IE
bằng cách thêm hoặc bớt các mục như thanh status, thanh toolbar. Nó cũng cung cấp
cách truy nhập tới lệnh View Source (xem nguồn) để hiện thị mã nguồn của trang web
hiện tại.
- Favorites: là menu hiển thị danh sách các thông tin được gọi là các nhãn mà
bạn yêu thích. Bạn có thể tạo các mục và lưu trữ địa chỉ, xoá địa chỉ của các trang mà
bạn muốn. Mỗi lần muốn vào trang nào ở trong Favorites mà bạn không muốn gõ địa
chỉ, bạn chỉ cần click chọn vào mục này, 1 danh sách các trang web của bạn sẽ được
hiển thị và bạn chỉ cần click chọn trang đó là IE sẽ tự động truy nhập vào trang đó.
- Tools: Menu tools truy nhập vào cửa sổ chức năng Internet option, nó cũng có
thể mở để đọc email khi các bạn click chọn chức năng Mail and News và Readmail.
2.3. Kỹ năng khai thác và tìm kiếm thông tin qua mạng INTERNET
Hiện nay, nguồn tài liệu, thông tin phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và tìm
hiểu trên Internet rất nhiều. Người ta không còn lo thiếu thông tin như trước nữa.
Nhưng một vấn đề nan giải nảy sinh đó là thông tin thì nhiều, thừa nhưng lại thiếu (?!)
vì chúng nhiều quá nên người ta mất rất nhiều thời gian để tìm được đúng thông tin
mình cần. Chính điều đó là một trở ngại lớn. Do đó, để có thể tìm kiếm và sử dụng
hiệu quả thông tin người ta phải trang bị những kỹ năng tìm kiếm cần thiết cho mình.
Có rất nhiều Search Engine (máy tìm kiếm) miễn phí trên trên Internet. Chúng ta sẽ
dùng chúng để tìm. Dưới đây là một số trang tìm kiếm thông tin trên mạng.
2.3.1. Tìm kiếm thông tin trên Google:
Giới thiệu về Google
Google là một công ty Internet tầm cỡ thế giới có trụ sở tại Hoa Kỳ, được thành
lập vào năm 1998. Sản phẩm chính của công ty này là công cụ tìm kiếm Google, được
nhiều người đánh giá là công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ nhất.
Trang tìm kiếm thông tin www.google.com.vn:
Để bắt đầu ta hãy vào trang www.google.com.vn. Đây là trang chủ Google của
Việt Nam. Tại đây google cho phép ta có thể tìm kiếm thông tin cả bằng Tiếng Việt,
tiếng Anh,…với giao diện hiển thị bằng tiếng Việt, rất thuận tiện cho người Việt
không biết Tiếng Anh sử dụng. Trang chủ chính thức của google là trang với giao diện
tiếng Anh (www.google.com)
Google cho phép tìm kiếm các loại tài liệu phân chia theo các mục:
Web : tìm kiếm thông tin, tài liệu văn bản trên các website
Hình ảnh (Image): tìm kiếm các dữ liệu dạng hình ảnh
295
Nhóm: Tìm kiếm thông tin theo các nhóm dữ liệu theo chủ đề, theo khu vực,
theo ngôn ngữ,…
Thư mục: Tìm kiếm thông tin theo các thư mục, trong danh mục có sẵn trong
CSDL của Google
Các bước để thực hiện tìm kiếm trong Google như sau:
Ví dụ: Khi ta muốn tìm kiếm thông tin trên Web (mục này thường sử dụng phổ
biến nhất) thì ta chọn tab Web (khi được chọn, chữ web sẽ được hiển thị màu đen, in
đậm).
Để lựa chọn, thay đổi các mục tìm kiếm khác nhau, bạn chỉ cần trỏ chuột và
click chọn vào mục bạn cần tìm thông tin.
Trong ô tìm kiếm ta gõ vào từ khóa, tức là từ mô tả khái niệm chứa trong tài
liệu mà ta muốn tìm kiếm.
Từ khóa được hiểu như là một tổ hợp các từ của một ngôn ngữ nhất định được
sắp xếp hay quan hệ với nhau thông qua các biểu thức logic mà công cụ tìm kiếm hỗ
trợ. Trong trường hợp một từ khoá bao gồm nhiều hơn một chữ (hay từ) thì có thể gọi
tập hợp tất cả các chữ đó là bộ từ khoá (set of keywords). Ở đây có thể là từ đơn, từ
ghép, cụm từ...Ví dụ để tìm thông tin về Các chính sách văn hoá Việt Nam thì nhập
vào ô text tìm kiếm từ khoá đó.
296
Sau đó click chọn vào nút Tìm với Google hoặc ấn phím Enter thì các thông tin
liên quan đến từ khoá cần tìm sẽ được hiển thị.
Có thể sử dụng (toán tử AND với ký hiệu dấu +, có nghĩa là “và”), (toán tử OR
với ký hiệu dấu *, có nghĩa là “hoặc”), (toán tử NOT với ký hiệu dấu -, có nghĩa là
“loại trừ” ). Ví dụ để tìm vấn đề về văn hoá có liên quan đến hội nghị Appec thì ta gõ
vào cụm từ văn hoá +APPEC, lưu ý là trước dấu + thì có một khoảng cách, còn sau
dấu + thì không có khoảng cách nào, đối với các dấu - , dấu * cũng vậy.
Ví dụ một số biểu thức tìm tin :
“Văn hoá +APPEC -Chínhtrị”: tìm các thông tin về văn hoá các nước APPEC
trừ những gì liên quan đến chính trị.
“free *shareware software”: tìm phần mềm shareware hoặc miễn phí.
Lưu ý: Cách viết chữ Tiếng Việt trong ô tìm kiếm. Để viết được tiếng việt trong
mục tìm kiếm tại các trang tin tìm kiếm thì bạn phải chọn bảng mã Tiếng Việt là
Unicode, không dùng TCVN3 vì sẽ bị lỗi font chữ
Sử dụng dấu ngoặc kép: Một số chương trình tìm kiếm khi ta dùng các từ cách
nhau là khoảng trống thì chúng có thể hiểu đó là hiểu ngầm của toán tử AND, một số
khác lại hiểu đó là OR, hoặc cứ tìm những tài liệu nào có một trong các từ có trong
cụm từ ta nhập vào. Do đó, để tìm chính xác một cụm từ không tách rời nhau thì ta nên
cho chúng vào cặp dấu ngoặc kép. Ví dụ để tìm về văn hoá Việt Nam thì ta gõ "văn
hoá Việt Nam". Kết quả nhận được sẽ chọn lọc và chỉ có thông tin có chứa cả cụm từ
này.
297
Mỗi trang hiện 10 kết quả. Đó là những đường link liên kết tới các trang web có
chứa thông tin nói về chủ đề mà ta đang tìm. Muốn đến trang nào ta kích chuột vào
link của trang đó.
Sử dụng các chức năng tìm kiếm nâng cao
Muốn thay đổi cách trình bày kết quả hiện ra thì vào mục Tuỳ chọn
(Preferences) ngay trên ô nhập tin.
Ở đây ta có thể lựa chọn Ngôn ngữ giao diện là bất kỳ thứ tiếng nào, Ngôn ngữ
tìm kiếm, Mặc định số kết quả hiển thị trên mỗi trang Google. Ta có thể chọn chức
năng mở kết quả tìm kiếm trong 1 cửa sổ mới.
Mục Tìm kiếm nâng cao (Advanced Searched) là để tìm thông tin nâng cao. Trong
đó cho phép có những tùy chọn cao cấp cho phép thông tin được tìm 1 cách chính xác
hơn.
298
Và có thể tìm kiếm trong phạm vi những kết quả đã tìm trước đó (có thể tìm
bấm ngay dòng chữ Tìm trong kết quả (Search within results) ngay sau khi lần hiển
thị kết quả đầu tiên ở cuối trang hiển thị.
Mục Mẹo tìm kiếm (Search Tips) là những mẹo ta có thể tham khảo để tìm tin
tốt hơn. Thường là chúng ta tìm thấy điều cần tìm trong 10 kết quả hiển thị đầu tiên
nếu từ khóa ta cung cấp chính xác.
Bấm nút Tiếp để xem trang kết quả tìm tiếp theo. Hãy kết hợp những cụm từ
với những toán tử để kết quả tìm không quá nhiều nhưng đạt độ chính xác cao, gần với
những gì ta cần tìm nhất. Không dùng những danh từ quá chung chung kiểu như : công
ty, chính sách mà nên dùng công ty A, công ty B, chính sách văn hoá, chính sách, giáo
dục.
2.3.2 Tìm kiếm thông tin trên Yahoo:
Cũng giống như trang tìm kiếm Google, Yahoo Search là 1 công cụ tìm kiếm
trên Internet.
Để có thể truy nhập trang web này bạn cần gõ địa chỉ: http://www.search.yahoo.com vào
thanh address trong trình duyệt Internet. Cửa sổ tìm kiếm được hiển thị:
299
Yahoo search cũng được chia ra thành nhiều mục nhỏ để bạn dễ dàng tìm kiếm
và chọn lọc thông tin liên quan nhưng được chia ra thành các lĩnh vực nhỏ hơn như:
web, images (hình ảnh), Video, Audio, directory (thư mục), local (địa phương), News
(tin tức), Shopping, Jobs (nghề nghiệp, công việc), more…
Các thao tác thực hiện việc tìm kiếm cũng được thực hiện như ở trang Google
2.3.3. So sánh kết quả
Hãy tìm kiếm trên 2 công cụ: Google và Yahoo rồi tự rút ra kết quả đánh giá về:
Hiệu quả tìm kiếm: Cái nào đưa ra được nhiều thông tin chính xác hơn
Hiệu quả sử dụng: Cái nào sử dụng dễ dàng hơn cho người dùng
2.4. Một số kỹ năng sử dụng E-MAIL
2.4.1. Hướng dẫn sử dụng webmail để gửi và nhận thư điện tử
Webmail là hệ thống cung cấp các dịch vụ E-mail (nhận mail, gửi mail, lọc
mail,...) thông qua 1 Website nào đó trên mạng Internet. Thông thường, đây là hệ
thống cung cấp địa chỉ e-mail miễn phí. Để gửi và nhận e-mail, người sử dụng Internet
chỉ có cách duy nhất là dùng trình duyệt Web truy cập vào địa chỉ Website của nhà
cung cấp dịch vụ, sử dụng account đã được cung cấp để kiểm tra e- mail và thực hiện
các dịch vụ e-mail thông thường. Ví dụ về nhà cung cấp các dịch vụ E-mail dạng
Website: http://www.mai.yahoo.com hay http://gmail.com
Sử dụng Yahoo Mail để gửi và nhận thư điện tử
- Đăng ký tài khoản trên webmail: Trước hết muốn sử dụng được webmail này
người dùng cần phải đăng ký 1 account (tài khoản) trên webmail. Với mail.yahoo ta sẽ
được đăng ký miễn phí tài khoản này bằng cách:
Bước 1. Bạn vào trang http://www.yahoo.com.vn (đây là trang web tiếng Việt của
Yahoo).
300
Để đăng ký tài khoản trên yahoo mail, bạn click chọn chuột vào chữ Đăng ký ở
phần mail miễn phí, phía trên bên phải góc màn hình. Khi đó website đăng ký tài
khoản (account) của bạn sẽ được mở ra, hãy khai toàn bộ thông tin theo chỉ dẫn như
sau:
Đăng nhập
Bạn muốn đăng nhập ngay sau khi đăng ký chỉ cần click chọn nút Tiếp tục tới
Yahoo!Thư khi đó bạn sẽ đăng nhập được ngay. Nhưng từ lần sau, khi bạn muốn đăng
nhập vào để nhận thư và chuyển thư, thì bạn cần vào địa chỉ:
http://www.mail.yahoo.com.vn. Khi đó cửa sổ đăng nhập sẽ được hiển thị bạn đăng
nhập với tên truy nhập và mật khẩu của bạn (Chú ý: Mật khẩu phân biệt chữ hoa, chữ
thường; mật khẩu có thể không đúng khi ở chế độ gõ tiếng Việt); Khi bạn gõ chính xác
thông tin, trang mail của bạn sẽ được hiển thị như sau:
301
Nếu bạn có thư mới hoặc thư chưa đọc, trang này sẽ báo cho bạn biết hiện bạn
đang có bao nhiêu thư chưa đọc.
Đọc thư: Để đọc những email gửi đến cho mình, bạn click chọn vào mục
Hộp thư. Ở đây sẽ hiển thị các thư bạn đã nhận. Thư nào chưa đọc sẽ được hiển thị
đậm hơn so với những thư đã đọc.
Bạn sẽ biết được thông tin người gửi là ai, tiêu đề thư là gì, ngày gửi là ngày
hôm nào, dung lượng là bao nhiêu. Để đọc thư bạn click chọn vào tiêu đề email muốn
đọc, nội dung email đó sẽ được mở ra. Ví dụ như hình trên, bạn click chọn vào tiêu đề:
Chào mừng bạn đến với yahoo! Email này do Yahoo gửi. Khi đó nội dung thông tin
của mail sẽ được hiển thị:
302
Bạn có thể soạn tin trả lời bằng cách click chuột vào nút Trả lời, trang soạn tin
trả lời sẽ được hiển thị để bạn trả lời, nếu bạn muốn xoá thư này thì bạn có thể click
chọn vào nút Xoá. Khi bạn muốn đọc email tiếp theo thì bạn chọn nút Chuyển tiếp.
Gửi thư: Để gửi thư cho 1 người khác, người đó cũng phải có địa chỉ hộp thư
trên Internet, không nhất thiết phải là hộp thư trên yahoo, mà có thể là bất cứ địa chỉ
hòm thư nào như: [email protected]; [email protected] ; …nhưng nếu không có địa
chỉ hòm thư trên Internet thì không thể nhận được.
Các bước thực hiện như sau: Bạn chọn nút soạn thư (Compose). Cửa sổ soạn
thư sẽ được hiển thị.
Nếu bạn chỉ gửi cho 1 người, thì bạn gõ địa chỉ hộp thư của người đó vào mục
Người nhận; ví dụ: bạn gửi thư cho anh B ở địa chỉ [email protected] thì bạn sẽ
gõ chính xác địa chỉ này vào mục người nhận. Còn nếu bạn muốn gửi mail này cho
nhiều người thì bạn click chọn vào tab Thêm địa chỉ đồng gửi, nếu bạn không muốn
người nhận biết mình gửi cho nhưng người khác thì bạn click chọn vào tab Thêm đồng
gửi (ẩn địa chỉ) khi đó màn hình sẽ xuất hiện thêm 2 dòng như sau:
Sau khi bạn nhập địa chỉ hộp thư của người nhận xong bạn bắt đầu vào soạn nội
dung thư. Có tiêu đề để người nhận biết ngay khi họ nhận được thư. Bạn viết nội dung
email ở phần nhập text phía bên dưới thanh tiêu đề.
Đính kèm tập tin: Nếu bạn muốn gửi kèm email 1 tệp tin, 1 file dữ liệu nào
đó thì bạn click chọn vào nút Đính kèm tập tin và thực hiện chọn lệnh ở khung cửa sổ
mới. Sau khi đính kèm tập tin xong, bạn click chọn nút Tiếp tục tới thư hệ thống sẽ
đưa bạn trở lại trang soạn thảo thư:
303
Khi đó đã hiển thị các mục tin đính kèm. bạn chọn vào nút Gửi để gửi thư.
Thư được gửi thành công chương trình sẽ báo cho bạn :
Nhận tài liệu đính kèm trên mail
Một thư điện tử có Tài liệu đính kèm sẽ được hiển thị hình chiếc gim ở phía
trước tên tiêu đề email như sau:
Để đọc được tài liệu này ta phải vào nội dung email đó. Tìm đến tên file Đính
kèm.
Như trong hình ví dụ này, tài liệu có tên trinhduyet.doc. Bạn mở tài liệu này
bằng cách, đưa chuột click chọn vào tên tài liệu đính kèm, khi đó màn hình sẽ hiển thị
thông tin file đính kèm như sau:
304
Bạn click chọn vào nút Tải xuống tài liệu đính kèm, cửa sổ thông báo sẽ được
hiện ra để bạn chọn chức năng:
Nếu là file nén thì bạn không thể chọn Open để mở mà bạn phải lưu file đó vào
máy tính của bạn, sau đó dũng phần mềm giải nén để mở. Còn nếu chỉ là file dữ liệu
document thì bạn có thể mở trực tiếp bằng cách chọn nút Open. Bạn muốn lưu trong
máy tính để mỗi lần xem không cần phải đăng nhập vào email thì bạn chọn nút Save
và chọn đường dẫn đến vị trí bạn muốn lưu.
3. Soạn thảo văn bản
Để soạn thảo văn bản trên máy tính thì một trong những phần mềm được sử
dụng phổ biển hiện nay là Microsoft Word thuộc bộ phần mềm Microsoft Office của
hãng phần mềm đứng đầu thế giới Microsoft. Trải qua quá trình phát triển và vòng đời
của sản phẩm có các phiên bản Microsoft Word khác nhau như Microsoft Word 2000,
Microsoft Word XP, Microsoft Word 2003, Microsoft Word 2007,… trong tài liệu này
trình bày về soạn thảo văn bản trên Microsoft Word 2003.
3.1. Các thao tác cơ bản
a) Khởi động:
Cách 1: Nháy chuột vào biểu tượng Word trên nền màn hình Desktop
Cách 2: Thực hiện theo đường dẫn sau: Start\Programs\Microsoft
Office\Microsof Word 2003.
Màn hình chính của Word xuất hiện gồm các thành phần chính sau:
Title Bar (Thanh tiêu đề): Dòng chứa tên tệp của văn bản, tên của cửa sổ
được gọi bằng tên tệp.
305
Title Bar Menu Bar Standard Tool Bar
Kiểu chữ
Căn lề Cỡ chữ Loại chữ
Vùng soạn thảo văn bản
Drawing Bar Status Bar
Thanh cuốn ngang
Thanh cuốn dọc
Thước dọc
Thước ngang
Menu Bar (Thực đơn hàng ngang): Chứa các lệnh của Word, mỗi lệnh ứng
với một Menu (Menu Popup).
Thao tác để mở một Menu:
- Nháy chuột vào tên thực đơn.
- Ấn phím F10, rồi dùng phím mũi tên di chuyển vệt sáng đến Menu cần mở và ấn
Enter.
- Gõ Alt + Ký tự đại diện của tên Menu (ký tự có gạch chân) trong các Menu. Ví
dụ: Mở thực đơn File, gõ tổ hợp phím Alt + F; Mở thực đơn Tools, gõ tổ hợp phím
Alt + T.
- Các lệnh có in màu rõ có thể chọn và thực hiện được.
- Các lệnh có màu xám nhạt là lệnh tạm thời không thực hiện được.
- Các ký tự được gạch dưới thì có thể chọn lệnh tương ứng bằng cách nhấn ký tự
đó (thay vì phải di vệt sáng đến lệnh và nhấn Enter).
- Các lệnh có ghi kèm tổ hợp phím thì có thể chọn nhanh bằng cách nhấn tổ hợp
phím đó.
306
- Các lệnh có dấu 3 chấm (...) phía sau cho biết sẽ có một hộp thoại xuất hiện khi
lệnh được chọn.
Standard (Thanh công cụ chuẩn): Chứa một số nút và ô điều khiển thể hiện
một số lệnh thông dụng. Thay vì phải vào các Menu để chọn lệnh, chỉ cần nháy chuột
vào nút lệnh tương ứng. Muốn biết tên của một nút hay một ô điều khiển nào đó trên
thanh công cụ ta chỉ cần rê chuột (không bấm nút chuột) lên ô đó và chờ vài giây.
Tools Bar (Thanh công cụ): Chứa một số biểu tượng (Icon) thể hiện một số
lệnh thông dụng. Các Tools Bar có thể bật hay tắt bằng lệnh View\ToolBar.
Ruler (Thước): Bao gồm thước ngang và thước dọc. Ruler có thể tắt hay mở bằng
lệnh View/Ruler. Để thay đổi đơn vị đo (Inches /Cm/Points/Picas) trên Ruler ta thực hiện
lệnh: Tools\Options\General rồi vào hộp thoại Measurements để thay đổi (nên chọn đơn vị
là Cm).
Drawing (Thanh công cụ vẽ): Bao gồm các công cụ dùng để vẽ trong Word.
Status Bar (Thanh trạng thái): Hiển thị tình trạnh của cửa sổ hiện tại như số
thứ tự trang, thứ tự cửa sổ, tổng số trang, vị trí con trỏ (dòng, cột), giờ, tình trặng của
Capslock, Numlock...thanh này nằm ở cuối dòng màn hình.
b) Soạn thảo tiếng Việt (Font chữ và bộ gõ):
Để soạn thảo văn bản tiếng Việt trong Microsoft Word 2003, người sử dụng phải
sử dụng bộ gõ tiếng Việt, có nhiều bộ gõ khác nhau, trong tài liệu này sử dụng bộ gõ
của Vietkey và kiểu gõ telex.
Chữ và dấu khi soạn thảo văn bản trong kiểu gõ telex:
Bạn gõ Kết quả Bạn gõ Kết quả Bạn gõ Kết quả
Aa  Dd đ R dấu hỏi
Aw Ă ] ư X dấu ngã
Oo Ô [ ơ F dấu huyền
Ee Ê S dấu sắc J dấu nặng
3.2. Soạn thảo văn bản
Để soạn thảo văn bản trên máy tính, đối với các loại văn bản khác nhau đều có
chung quy trình thực hiện, việc thực hiện theo các quy trình sẽ giúp cho công tác soạn
thảo nhanh, chuẩn và tuân theo đúng quy định của thể thức văn bản.
3.2.1. Khởi động máy tính và phần mềm Microsoft Word
3.2.2. Đặt kích thước khổ giấy theo quy định: Vào thực đơn File\Page
Setup\Margins thiết lập thông số cho các mục:
307
sau đó nháy chuột vào nút OK.
- Thiết lập phông chữ và cỡ chữ khi soạn thảo văn bản: Phông chữ chuẩn:
.VnTime, cỡ chữ chuẩn: 14, các bước thực hiện: Vào thực đơn Format\Font (Ctrl +
D), nhập giá trị .VnTime trong mục Font, 14 trong mục Size, sau đó nháy chuột vào
nút OK.
3.2.3. Nguyên tắc nhập văn bản: Không được gõ Enter để ngắt dòng trong một
đoạn, trong quá trình soạn thảo khi hết dòng, con trỏ văn bản tự động chuyển xuống
dòng tiếp theo.
Sử dụng Enter để ngắt đoạn (Paragraph).
Đối với những đoạn có tính chất điều khoản phải dùng phím Tab để thụt đầu
dòng, dòng đầu tiên của đoạn văn bản.
Các dấu: . , : ; gõ sát với từ đứng trước và cách một cách so với từ đứng đằng
sau. Các từ cách nhau một dấu cách.
3.2.4. Ghi văn bản: Có thể thực hiện theo các cách sau:
Cách 1: Vào thực đơn File\ Save As\ (hoặc Save) xuất hiện hộp thoại Save As
nhập tên tệp (File) lưu trữ trong mục File Name và chọn vị trí lưu trữ tệp, sau đó nhấn
phím Enter hoặc nháy chuột vào nút Save
Cách 2: Nháy chuột vào nút Save trên tranh Standard hoặc nhấn tổ hợp phím
Ctrl + S, xuất hiện hộp thoại Save As, các bước thực hiện tương tự Cách 1.
3.2.5. Di chuyển con trỏ văn bản
- Nháy chuột tại vị trí cần di chuyển con trỏ đến
- Sử dụng các phím mũi tên
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại về đầu dòng văn bản? (phím Home)
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại về cuối dòng văn bản? (phím End)
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại lên một trang màn hình? (phím PgUp)
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại xuống một trang màn hình? (phím PgDown)
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại về đầu văn bản? (tổ hợp phím Ctrl +
Home)
- Di chuyển con trỏ từ vị trí hiện tại về cuối văn bản? (tổ hợp phím Ctrl + End)
3.2.6. Xóa ký tự
- Xoá ký tự tại vị trí bên phải con trỏ hoặc xóa khối ký tự? (Delete)
- Xoá ký tự tại vị trí bên trái con trỏ hoặc xóa khối ký tự? (BackSpace)
Top: 2 cm Bottom: 2 cm
Left: 3.5 cm Right: 2 cm
308
3.2.7. Khôi phục lại hành động vừa thực hiện: Có thể sử dụng các cách sau:
- Nháy chuột vào nút Undo trên thanh công cụ
- Vào thực đơn Edit\ Undo
- Nhấn tổ hợp phím Ctrl + Z
3.2.8. Thao tác với khối văn bản (bôi đen, đánh dấu)
Chọn một khối: Đưa con trỏ đến đầu khối rồi dùng một trong các cách sau:
- Giữ phím Shift, nhấn các phím mũi tên (, , , ), PgUp, PgDown,
Home, End để di di chuyển đến vị trí cuối.
- Click chuột tại vị trí đầu, nhấn, giữ và kéo chuột đến vị trí cuối
- Giữ Shift, đưa con trỏ chuột đến vị trí cuối rồi nháy nút chuột trái.
- Nếu chọn một số dòng bằng chuột, có thể nhấn, giữ và kéo chuột ở lề bên trái của
dòng.
- Chọn toàn bộ văn bản: Ctrl + A
- Chọn từ vị trí con trỏ đến cuối văn bản: Shift + Ctrl + End
- Chọn từ vị trí con trỏ đến đầu văn bản: Shift + Ctrl + Home
- Chọn từ vị trí con trỏ đến đầu dòng: Shift + Home
- Chọn từ vị trí con trỏ đến cuối dòng: Shift + End
- Chọn một khối nằm giữa các dòng: Sử dụng Alt và nhấn, giữ và kéo chuột
Chép (Copy) một khối: Chọn khối muốn chép
- Thực hiện lệnh Edit\Copy trên Menu hoặc gõ Ctrl + C
- Di chuyển đến vị trí mới. Thực hiện lệnh Edit\Paste hoặc gõ Ctrl + V
- Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng các biểu tượng Copy, Paste tương ứng trên
thanh công cụ
Chuyển (Cut) một khối: Chọn khối muốn chuyển.
- Thực hiện lệnh Edit\Cut trên Menu hoặc gõ Ctrl + X
- Di chuyển con trỏ đến vị trí mới. Thực hiện lệnh Edit\Paste hoặc gõ Ctrl + V
Ngoài ra chúng ta có thể sử dụng các biểu tượng tương ứng trên thanh công cụ
Xoá một khối: Chọn khối muốn xoá, gõ phím Delete hoặc BackSpace (so
sánh giống và khác nhau của hai phím Delete và BackSpace)
3.2.9. Chỉnh sửa và định dạng văn bản
Chỉnh sửa định dạng Font chữ (ký tự):
- Thay đổi mẫu ký tự (Font): Nháy chuột vào mũi tên xuống trong hộp tên Font,
một danh sách các tên Font hiện ra, từ đó chọn tên Font cần sử dụng. Ta có thể sử
dụng phím tắt Ctrl + Shift + F để thay đổi mẫu ký tự.
309
- Thay đổi cỡ ký tự (Font Size): Nháy chuột vào mũi tên xuống trong hộp Point
Size, chọn cỡ chữ tương ứng hoặc nhập giá trị trực tiếp vào ô. Ta có thể sử dụng phím
tắt Ctrl + Shift + P.
- Tăng hoặc giảm cỡ của Font đi một đơn vị: ta sử dụng phím tắt Ctrl + [ hoặc
Ctrl + ]
- Thay đổi kiểu ký tự (Type Style): Có 3 kiểu thể hiện: Đậm (Bold), nghiêng
(Italic), gạch chân (Underline) và ta có thể kết hợp nhiều kiểu chữ lại với nhau. Muốn
chọn kiểu nào thì ta có thể nháy chuột vào kiểu đó trên thanh công cụ hoặc sử dụng tổ
hợp phím Ctrl + B, Ctrl + I, Ctrl + U.
- Để định dạng đầy đủ: Vào Menu Format\Font hoặc gõ tổ hợp phím Ctrl + D khi
đó xuất hiện hộp thoại với các lựa chọn khác nhau:
Mục Font cho phép ta có thể lựa chọn các loại Font chữ khác nhau.
Mục Font Style cho phép ta lựa chọn các kiểu chữ khác nhau.
Mục Size cho phép ta lựa chọn kích thước của chữ.
3.2.10. Định dạng đoạn văn bản Paragraph: Cho phép thay đổi hiển thị của
một đoạn văn bản. Vào Menu Format\Paragraph (Alt + O, P) xuất hiện hộp thoại:
Trong mục Alignment:
+ Left : Căn lề trái
+ Center : Căn lề giữa
+ Right : Căn lề phải
+ Justified : Căn đều hai bên
Trong mục Spacing:
+ Before : Khoảng cách giữa đoạn được chọn và đoạn trước
+ After : Khoảng cách giữa đoạn được chọn và đoạn sau
+ Line Spacing : Đặt khoảng cách giữa các dòng trong đoạn
+ Single : Cách dòng đơn
+ 1.5 Lines : Cách một dòng rưỡi
+ Double : Cách dòng đôi
+ At least : Cách dòng nhỏ nhất
+ Exactly : Cách dòng chính xác theo giá trị của người sử dụng nhập vào
Trong mục Indentation:
310
- Left - Right: Đặt lề trái - phải cho đoạn văn bản
- Special: Đặt lùi vào cho dòng đầu một đoạn
3.2.11. Tìm kiếm và thay thế (Find&Replace)
Tìm kiếm (Find): Chức năng này giúp người sử dụng có thể tìm một chữ cái, nhóm
chữ cái, một từ, cụm từ, đoạn văn bản bất kỳ trong văn bản. Vào Menu Edit\Find (Alt + E,
F) hoặc gõ tổ hợp phím Ctrl + F. Gõ chuỗi ký tự cần tìm vào hộp Find What. Muốn có lựa
chọn chi tiết thì nháy chuột vào More trong đó có một số lựa chọn:
- UP: Tìm từ vị trí con trỏ văn bản lên đầu văn bản
- Down: Tìm từ vị trí con trỏ văn bản xuống cuối văn bản
- All: Tìm trong toàn bộ văn bản
Thay thế (Replace): Chức năng ngày giúp người sử dụng có thể thay một chữ
cái, nhóm chữ cái, một từ, cụm từ, đoạn văn bản bất kỳ trong văn bản bằng nội dung
khác một cách nhanh chóng, chính xác. Ví dụ thay thế tất cả các cụm từ “Quyết định”
bởi 2 ký tự “QĐ”.
Vào Menu Edit\Replace (Alt + E, E)hoặc gõ tổ hợp phím Ctrl + H, gõ nội
dung cần tìm vào trong Find what và nội dung thay thế vào trong Replace with.
Muốn có lựa chọn chi tiết thì nháy chuột vào More trong đó có một số lựa chọn:
- UP: Tìm từ vị trí con trỏ văn bản lên đầu văn bản
- Down: Tìm từ vị trí con trỏ văn bản xuống cuối văn bản
- All: Tìm trong toàn bộ văn bản
3.2.12. Đặt số trang giấy tự động: Vào Menu Insert\Page Numbers. Hộp
thoại xuất hiện với các lựa chọn:
Postion (Vị trí đánh số trang):
- Bottom of Page (Footer): Cuối trang
- Top of Page (Header): Đầu trang
Alignment (Căn lề vị trí đánh số trang):
+ Right: Phải
+ Left: Trái
+ Center: Giữa
+ Inside/Outside: Bên trong/ngoài mép giấy đối với trường hợp in hai mặt
Nháy chuột vào Format để lựa chọn các thông số:
- Start at: Bắt đầu đánh từ số mấy
- Continue from preview section: Tiếp theo số trang của phần trước
- Number Format: Kiểu cách số
311
Một số thủ thuật trong việc đánh số trang:
- Muốn xoá số trang: Nháy chuột vào số trang sau đó ấn phím Delete
- Đánh số trang nhưng không ra số mà lại ra dòng chữ {Page}: Vào đường dẫn
Tools\Options\View\ Bỏ chọn trong mục Field Codes
- Đánh số trang nhìn bình thường nhưng khi in lại không ra số mà hiện chữ
{Page}: Vào đường dẫn Tools\Options\Printer\ Bỏ chọn trong mục Field WordArt
3.2.13. Gõ tắt: Thực hiện theo một số cách sau đây:
Sử dụng AutoText: Đánh dấu khối cụm từ cần gõ tắt, vào Menu
Insert\AutoText\AutoText, gõ cụm từ cần thay thế trong hộp thoại Name sau đó
nháy vào Add và trở lại soạn thảo bình thường. Về sau chỉ cần gõ cụm từ thay thế và
ấn phím F3 là được.
Định nghĩa gõ tắt bằng AutoCorrect: Vào Menu Tools\AutoCorrect xuất
hiện hộp thoại AutoCorrect gõ từ thay thế vào mục Replace gõ từ cần thay thế vào
mục With sau đó nháy vào nút Add và OK.
3.2.14. Chèn thêm ký hiệu đặc biệt: Word cho phép người sử dụng có thể chèn
thêm nhiều ký hiệu đặc biệt mà trên bàn phím không có như ký hiệu , , ,… Để
chèn một ký hiệu đặc biệt có thể thực hiện như sau:
- Đưa con trỏ văn bản đến nơi cần chèn, vào Menu Insert\Symbol, xuất hiện
hộp thoại, nháy chuột vào hộp Font để chọn bộ Font chứa các ký hiệu, nháy chuột vào
ký hiệu cần chèn, nháy vào Insert\Close
- Trong trường hợp thường xuyên sử dụng một số ký hiệu đặc biệt nào đó, nên
định nghĩa cho nó một tổ hợp phím theo trình tự: Vào Menu Insert\Symbol, chọn ký
hiệu cần định nghĩa, nháy vào nút Short cut Key, hộp thoại Customize xuất hiện, con
trỏ lúc này nằm ở hộp Press New Shortcut Key nhấn tổ hợp phím cần định nghĩa,
nháy nút Assign, nháy nút Close để trở về hộp Symbol, chọn một ký hiệu khác để
định nghĩa hoặc nháy nút Close để đóng hộp Symbol.
Kể từ đó chỉ cần nhấn tổ hợp phím đã định nghĩa thì ký hiệu tương ứng sẽ xuất
hiện tại vị trí con trỏ.
3.2.15. Đặt tiêu đề đầu, cuối trang:
Tiêu đề đầu, cuối trang là văn bản được in trên đầu (hoặc cuối) mỗi trang của tài
liệu. Thường sử dụng mục này để thêm vào tài liệu tên tác giả, tên tài liệu, cơ quan
phát hành,... Có thể áp dụng các kiểu đặt tiêu đề sau:
Tiêu đề giống nhau trên toàn bộ các trang tài liệu.
Tiêu đề của trang đầu tiên khác với trang còn lại.
Một tiêu đề dành cho trang chẵn, một tiêu đề giành cho trang lẻ.
Các bước tiến hành:
312
Vào Menu Insert\Header and Footer, phần trình bày tiêu đề xuất hiện cùng
với thanh công cụ.
1. Insert AutoText: Chèn AutoText
2. Insert Page Number: Chèn tổng số trang
3. Insert Number of Page: Chèn số trang
4. Format Page Number: Định dạng số trang
5. Insert Date: Chèn ngày
6. Insert Time: Chèn giờ
7. Page Setup: Thiết lập trang
8. Show/Hide Document Text: ẩn/hiện Text
9. Same as Previous: Giống trước
10. Switch Header anh Footer: Chuyển đổi trên dưới
11. Show Privious: Xem trước
12. Show Next: Xem sau
13. Close: Đóng
3.3. Bảng biểu và các phương pháp xử lý
3.3.1.Tạo bảng mới:
Tạo bảng: Để tạo bảng có thể thực hiện thao tác đặt con trỏ vào vị trí cần tạo
bảng, nháy chuột vào biểu tượng tạo bảng (Insert Table) trên thanh Standard hoặc
vào Menu Table\Insert\Table...
Các thao tác trong bảng: Khi văn bản nằm trong một ô, nó sẽ tự động xuống
dòng khi chiều rộng ô không đủ. Khi cần di chuyển con trỏ trong ô:
+ Đến ô kế tiếp Tab
+ Đến ô trước đó Shift + Tab
+ Đến ô đầu tiên của dòng hiện tại Alt + Home
+ Đến ô cuối của dòng hiện tại Alt + End
+ Đến ô đầu tiên trong cột Alt + PgUp
+ Đến ô cuối của cột Alt + PgDn
7 1 2 3 4 5 6 8 9 10 11 12 13
313
3.3.2. Chỉnh sửa bảng biểu:
Chọn các ô hàng hay cột:
- Chọn một ô: Di chuyển con trỏ chuột đến mép trái ô đó cho đến khi thấy mũi
tên trắng xuất hiện thì nháy chuột.
- Chọn một hàng: Rê chuột từ ô đầu đến ô cuối hoặc vào thực đơn Table chọn
Select Row hoặc rê chuột đến đầu hàng rồi nháy chuột trái.
- Chọn một cột: Di chuyển con trỏ chuột lên mép trên của bảng đến khi thấy
mũi tên đen chỉ xuống thì nháy chuột hoặc vào Menu Table chọn Select Column
- Muốn chọn nhiều ô trong bảng: Thì chọn ô đầu tiên, sau đó di chuyển chuột
đến ô cuối, giữ Shift đồng thời nháy chuột.
- Muốn chọn toàn bộ bảng: Đưa con trỏ vào trong bảng, vào Menu Table chọn
Select Table, hoặc nhấn tổ hợp phím Alt + 5.
Chèn thêm các ô, hàng, cột vào trong bảng: Chọn ô hoặc các ô muốn chèn
thêm các ô mới vào kế sau đó/Vào Menu Table chọn Insert\Cell, xuất hiện hộp thoại
với các chức năng sau:
+ Shift Cell Right : Chèn các ô mới vào bên trái ô được chọn
+ Shift Cell Down : Chèn các ô mới vào bên trên ô được chọn
+ Insert Entire Row : Chèn toàn bộ hàng hay các hàng
+ Insert Entire Column : Chèn toàn bộ cột hay các cột
Xoá, di chuyển ô, hàng, cột:
- Xoá các ô, hàng, cột: Trước hết chọn một ô bất kỳ trong hàng, cột cần xoá/
Vào Menu Table\Delete Cells có các lựa chọn:
+ Delete Entire Row : Xoá toàn bộ dòng
+ Delete Entire Column : Xoá toàn bộ cột
Di chuyển, sao chép các ô, hàng, cột trong bảng: Chọn các ô, hàng, cột cần
di chuyển hoặc sao chép/ Đưa trỏ chuột đến phần được chọn, giữ nút chuột trái rồi
thực hiện một trong các động tác sau:
- Rê chuột đến vị trí mới rồi thả nút chuột trái: Di chuyển phần được chọn
- Giữ phím Ctrl đồng thời rê chuột đến vị trí mới rồi thả nút trái: Copy phần được
chọn.
Thay đổi độ rộng, chiều cao của hàng, cột:
- Thay đổi chiều rộng của cột: Di chuyển con trỏ chuột đến biên phải của cột,
khi trỏ chuột có dạng mũi tên hai chiều thì rê chuột để thay đổi chiều rộng cột. Hoặc
chọn cột cần thay đổi/Vào Menu Table\Cell Heigh And Width/ Gõ độ rộng cột vào
314
mục: Width of Column/ Gõ con số chỉ khoảng cách các cột vào mục Space BetWeen
Column.
- Thay đổi độ cao hàng: Chọn một hoặc nhiều hàng cần thay đổi/Vào Menu
Table\Cell Heigh and Width/Chọn Row rồi thực hiện các thao tác sau:
* Chọn Auto trong mục Height of Row: Điều chỉnh độ cao theo độ cao văn
bản của hàng.
* Chọn At Least trong mục Height of Row: Đưa vào giá trị số chỉ độ cao ít
nhất của hàng. Nếu nội dung trong ô vượt quá con số đưa ra thì Word sẽ điều chỉnh lại.
* Chọn Exactly trong mục Height of Row: Đưa giá trị chỉ độ cao chính xác
của hàng. Nếu nội dung trong ô lớn hơn thì sẽ bị mất một phần.
* Gộp tách các cột trong bảng:
- Gộp nhiều cột thành một cột: Chọn các ô cần gộp (Có thể gồm nhiều
hàng)/Vào Menu Table\Merge Cells/ Khi đó các đường ngăn cách giữa các ô sẽ mất
đi, tạo thành một cột duy nhất.
- Tách một cột thành nhiều cột: Chọn cột cần tách (Có thể gồm nhiều
hàng)/Vào Menu Table\Split Cells xuất hiện hộp thoại Split Cells: Nhập vào số cột
cần tách/Chiều rộng mỗi cột được tạo ra bằng chiều rộng cột cũ chia cho số cột.
Sắp xếp dữ liệu trong bảng: Có thể sắp xếp các hàng trong bảng theo một cột
nào đó. Dữ liệu trong cột phải có cùng kiểu gồm một trong ba kiểu sau: Text (Văn
bản), Number (Kiểu số), Date (Kiểu ngày tháng). Nếu dữ liệu trong một hàng khác
kiểu nhau thì chỉ được phép sắp xếp theo kiểu Text
Các bước sắp xếp trong bảng:
* Chọn các hàng cấn sắp xếp. Nếu sắp xếp toàn bộ bảng thì chỉ cần đưa con trỏ
vào một ô bất kỳ trong bảng.
Vào Menu Table\Sort Table xuất hiện hộp thoại
Chọn các khoá sắp xếp trong hộp Sort By và Then By
Chọn sắp xếp dữ liệu theo kiểu nào: Text, Number, Date
Chọn thứ tự sắp xếp: Ascending (tăng dần), Descending (giảm dần)
3.3.3. In ấn văn bản
a)Đánh số trang in: Để đánh số trang cho văn bản vào Menu dọc Insert\Page
Numbers, xuất hiện hộp thoại:
- Mục Postion (Chọn vị trí đánh số trang): Top of Page: Đầu trang; Bottom
of Page: Ở cuối trang.
- Mục Alignment (Căn lề đánh số trang) Left: Bên trái; Right: Bên phải;
Center: Giữa ; Inside/Outside: Bên trong/ngoài mép giấy đối với trường hợp in theo
hai mặt đối xứng của trang giấy.
315
- Nút kiểm tra: Show Number on First Page: Có hay không hiển thị số trang ở
trang đầu tiên của tài liệu.
- Nháy chuột vào nút Format để thiết lập các thông số: Start At: Bắt đầu đánh
từ số mấy; Continue From previous section: Tiếp theo số trang của phần trước;
Number Format: Kiểu cách số.
Khi đánh số trang nhưng lại hiện ra dòng chữ {Page} thì sửa bằng cách vào
Menu Tools\Options\View sau đó nháy chuột vào ô có dòng Field Codes và huỷ bỏ
dấu chọn trong mục này.
Đánh số trang thì bình thường nhưng khi in ra không ra số trang mà xuất hiện
chữ {Page} thì sửa bằng cách: Vào Menu Tools\Options\Printer sau đó nháy chuột
vào ô có dòng Field Codes và huỷ bỏ dấu chọn trong mục này.
b) Xem trang trước khi in. Để xem trang trước khi in ta có một số cách: Nhấn
tổ hợp phím tắt: Ctrl + F2; Vào Menu File\Print preview; Nháy vào biểu tượng trên
thanh Standard
c) In ấn văn bản.
- Để in toàn bộ văn bản nháy chuột vào biểu tượng máy in trên thanh công cụ
- Để có các lựa chọn cụ thể ta vào thực đơn File\Print hoặc nhấn tổ hợp phím
Ctrl + P, xuất hiện hộp thoại với các lựa chọn cụ thể sau:
-
Mục Page
range: All: In toàn bộ văn bản; Current page: In trang hiện hành (trang chứa con trỏ
văn bản); Pages: Nhập cụ thể trang cần in; Mục Copies: Số bản cần in; Mục Zoom:
Pages per sheet: Số trang văn bản in trên một trang giấy, Scale to paper size: Chọn
kích thước khổ giấy cần in
Kết luận
Công nghệ thông tin và phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, giúp cho con
người, các lĩnh vực hoạt động, quản lý nhà nước, công chức…nâng cao rất nhiền trong
thu thập và xử lý thông tin, soạn thảo văn bản đáp ứng yêu cầu phát triển chung của
đất nước và của ngành văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch.
Việc sử dụng máy tính trong công tác nghiệp vụ, chuyên môn của công chức
nhà nước cấp xã là một yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ tất yếu đặt ra. Để sử dụng máy
tính thành thạo trong việc thu thập và xử lý thông tin, soan thảo văn bản.., đòi hỏi công
316
chức văn hóa-xã hội xã phải nêu cao tinh thần tự học tập, trao dồi kỹ năng thường
xuyên. Công nghệ thông tin sẽ giúp ich rất nhiều cho cán bộ chức văn hóa-xã hội xã
trong việc nâng cao chất lượng công tác, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công tác
tham mưu, tư vấn; quản lý và tổ chức các hoạt động văn hóa, gia đình, thể thao và du
lịch trên địa bàn xã đặt ra trong giai đoạn 2011-2015.
******************
Câu hỏi thảo luận:
1. Công nghệ thông tin là gì?
2. Hãy nêu những kỹ năng cơ bản để khai thác và tìm kiếm thông tin qua mạng
internet?
3. Để soạn thảo văn bản trên máy tính chúng ta phải làm gì?
Bài tập thực hành:
- Đánh máy và trình bày đoạn văn bản nội quy học tập.
- Copy chuyển ý 2 thành ý 1, ý 1 thành ý 3, ý 3 thành ý 2.
- Đánh số trang.
- Định dạng văn bản trên 2 dưới 2, phải 3.5 trái 2.
- In văn bản.
- Lập hòm thư và gửi văn bản nội quy học tập đến 1 địa chỉ email.
- Gửi thư kèm văn bản nội quy học tập đến 5 địa chỉ email.
- Mở lấy tài liệu gửi trong hòm thư ra in thành văn bản.
- Tra tìm văn bản của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ của công chức
cấp xã/ in văn bản đồng thời tải văn bản về máy cất vào thư mục văn bản Chính phủ.
Tài liệu tham khảo
- Dương Mạnh Hùng: Vi tính thật là đơn giản, tập 1, NXB Khoa học Kỹ thuật –
Hà Nội 1998.
- Dương Mạnh Hùng Vi tính thật là đơn giản tập 2, NXB Khoa học Kỹ thuật –
Hà Nội 1999
- Dương Mạnh Hùng Vi tính thật là đơn giản tập 3, NXB Đà Nẵng – Hà Nội
2000
- Dương Mạnh Hùng Vi tính thật là đơn giản tập 4, NXB Văn hóa Thông tin – Hà Nội
2001
- Dương Mạnh Hùng Vi tính thật là đơn giản tập 5, NXB Văn hóa Thông tin –
Hà Nội 2002.
- TS. Quách Tuấn Ngọc: Giáo trình Tin học căn bản, Nxb Thống kê, 2001
- PGS. TS Bùi Thế Tâm: Giáo trình Tin học đại cương, NXB Thời đại, 2010
- PGS. TS Bùi Thế Tâm: Giáo trình Tin học văn phòng, NXB Thời đại, 2010
317
KỸ NĂNG SOẠN THẢO VĂN BẢN
ĐỐI VỚI CÔNG CHỨC VĂN HÓA - XÃ HỘI XÃ
TS. NGUYỄN VĂN HẬU
Th.s. LẠI THỊ LAN PHƯƠNG
Thời lượng: 8 tiết(*)
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Mục đích
Giới thiệu những kiến thức cơ bản về soạn thảo và quản lý văn bản.
2. Yêu cầu
Về kiến thức: Nắm được những kiến thức cơ bản và kỹ thuật soạn thảo, quản lý
văn bản trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Về kỹ năng: Có khả năng soạn thảo và quản lý văn bản
B. NỘI DUNG
1. Nhiệm vụ của cán bộ văn hóa - xã hội xã trong soạn thảo văn bản
Để hoàn thành 11 nhiệm vụ chính theo quy định hiện hành, cán bộ văn hóa - xã
hội ngoài việc nắm chắc về đường lối, chủ trương, chính sách và tình hình thực tế của
địa phương để tham mưu với lãnh đạo trong quá trình giải quyết những công việc được
giao, tất cả những tham mưu đó phải thể hiện bằng văn bản, phải có hồ sơ trình xin ý
kiến bao gồm hệ thống văn bản hiện hành, giấy tờ liên quan làm hồ sơ căn cứ trình ký.
Chính vì vậy, việc thành thạo trong việc soạn thảo văn bản, và có đầy đủ hồ sơ, cơ sở
dữ liệu đối với công chức văn hóa- xã hội xã là rất quan trọng.
Cán bộ văn hóa-xã hội cần phối hợp với cán bộ văn phòng xã để xây dựng và
quản lý văn bản thuộc lĩnh vực mình phụ trách và tham mưu cho lãnh đạo trong việc tổ
chức ban hành văn bản liên quan đến nội dung lĩnh vực văn hóa xã hội.. Bên cạnh đó
cũng cần tổ chức thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về công tác văn hóa xã
hội, cần tập hợp và không ngừng cập nhật các quy định hiện hành của nhà nước cũng
như chuẩn bị sẵn các thông tin, hồ sơ tài liệu về từng đối tượng quản lý thuộc trách
nhiệm của mình.
Căn cứ vào quy chế, cán bộ văn hóa - xã hội tiếp nhận các văn bản, đơn thư từ
văn thư cơ quan (cán bộ văn phòng) để xem xét, nghiên cứu, tham mưu cho lãnh đạo
phương án giải quyết hợp pháp và hợp lý. Khi tiếp nhận giải quyết văn bản và soạn
thảo văn bản cần tự ghi sổ theo dõi để đối chiếu với văn thư.
Khi đưa ra phương án giải quyết văn bản, cần sử dụng phiếu xử lý văn bản hoặc
phiếu trình công văn để đề xuất ý kiến tham mưu cho lãnh đạo cũng như dùng để ghi
lại ý kiến chỉ đạo giải quyết của lãnh đạo.
(*)
- Lý thuyết; 4 tiết; Thảo luận: 4 tiết
318
Khi UBND cần ban hành văn bản để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, cán bộ văn hóa-xã
hội tập hợp, tìm kiếm đầy đủ thông tin liên quan, xây dựng phương án giải quyết nội dung
văn bản, kết hợp với việc lấy ý kiến của các cơ quan đơn vị, cá nhân hữu quan.
Nhiều văn bản quan trọng được cán bộ văn phòng trình lãnh đạo xã chỉ đạo,
định hướng giải quyết trước khi cán bộ văn hóa- xã hội tiếp nhận giải quyết thì cán bộ
văn hóa-xã hội cũng cần tìm hiểu và có tham mưu phù hợp.
Quá trình soạn thảo được cán bộ văn hóa lập thành hồ sơ trình. Hồ sơ trình bao
gồm tất cả các tài liệu cần thiết, được sắp xếp theo trình tự phản ánh đầy đủ quy trình
ban hành văn bản theo từng vụ việc cụ thể.
Một bộ hồ sơ trình bao gồm:
- Phiếu trình (văn bản quan trọng đầu tiên của hồ sơ) ghi ý kiến giải trình của
cán bộ văn hóa-xã hội về vấn đề đặt ra để lãnh đạo dễ dàng nắm bắt yêu cầu.
- Tiếp theo là dự thảo văn bản cần ký. Dự thảo văn bản cần ký được cán bộ văn
hóa-xã hội và cán bộ văn phòng kiểm tra lại nội dung, hình thức và ký tắt vào văn bản
trước khi trình.
- Sau hai văn bản chính là toàn bộ tài liệu tham khảo, đóng góp ý kiến được sắp
xếp theo quy trình ban hành và quá trình vụ việc.
Cán bộ văn hóa-xã hội trình hồ sơ lên phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực hoặc chủ
tịch xem xét ký ban hành. Khi cần có thể trực tiếp giải thích trình bày, đồng thời theo
dõi tiến độ, tham mưu nhắc lãnh đạo về thời hạn giải quyết. Sau khi lãnh đạo ký ban
hành, cán bộ văn hóa-xã hội đưa văn bản qua văn thư để làm thủ tục phát hành và giữ
lại 01 bản chính lưu vào hồ sơ.
Cán bộ văn hóa xã hội cần lập hồ sơ, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu bằng hồ
sơ tài liệu và thông tin phần mềm về nội dung lĩnh vực mình phụ trách.
Ví dụ cán bộ văn hóa- xã hội cần xây dựng danh mục hồ sơ về các nội dung liên
qua đến lĩnh vực văn hóa:
- Nhóm hồ sơ quản lý di tích, các công trình văn hóa
- Nhóm hồ sơ về quản lý di sản văn hóa phi vật thể
- Nhóm hồ sơ về quản lý các tụ điểm sinh hoạt văn hóa, các câu lạc bộ
- Nhóm hồ sơ về quản lý các lễ hội, sự kiện văn hóa, các hoạt động biểu diễn nghệ
thuật
- Nhóm hồ sơ về quản lý các hoạt động kinh doanh văn hóa
- Nhóm hồ sơ về giải quyết các vụ việc phát sinh, vi phạm quy định về quản lý văn
hóa...
Đặc biệt những hồ sơ liên quan đến các di tích, công trình, di sản văn hóa cần
quản lý lưu giữ hết sức cẩn thận theo đúng quy định, tiêu chuẩn về lưu trữ văn bản để
đảm bảo là cơ sở nghiên cứu, quản lý, bảo tồn các tài sản quý giá của quốc gia.
319
Tương tự, về lĩnh vực quản lý các mặt đời sống gia đình, xã hội, thể thao, du
lịch, cán bộ văn hóa-xã hội cũng lập các nhóm hồ sơ theo chủ đề liên quan đến các mặt
của đời sống xã hội, các nội dung mình phụ trách.
Ví dụ về công tác gia đình, cán bộ quản lý có thể lập hồ sơ theo các nhóm theo nội
dung:
- Nhóm hồ sơ về quản lý các phúc lợi gia đình như nguồn điện, nguồn nước,
tiện nghi, các dịch vụ cơ bản...
- Nhóm hồ sơ về thực hiện các dự án phòng chống tệ nạn xã hội
- Nhóm hồ sơ về chính sách đối với trẻ em, người cao tuổi ...
Cán bộ văn hóa xã hội cần kết hợp với cán bộ phụ trách văn phòng xã để thực
hiện tốt việc quản lý, ban hành văn bản theo đúng quy định của pháp luật; thường
xuyên báo cáo và tham mưu đề xuất ý kiến lên lãnh đạo ủy ban về công tác quản lý hồ
sơ tài liệu thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội. Các hồ sơ tài liệu về văn hóa cần được nộp
lưu vào lưu trữ xã đúng thời hạn để quản lý thống nhất theo quy định.
2. Soạn thảo một số loại văn bản hành chính thông dụng
Thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính được áp dụng theo Thông tư
liên tịch số 01/2011/TTLT-BNV-VPCP ngày 19/01/2011 giữa Bộ Nội vụ-Văn phòng
Chính phủ.
2.1 Quyết định
Quyết định được chia thành hai loại: Quyết định chung (Quyết định lập quy) và
Quyết định riêng (quyết định cá biệt)
Quyết định lập quy: đặt ra hay sửa đổi các quy phạm, cụ thể hóa các quy phạm
pháp luật, điều chỉnh chung đến nhiều đối tượng
Quyết định cá biệt: Quyết định cá biệt là hình thức văn bản hành chính mang
tính áp dụng pháp luật do các cơ quan, tổ chức ban hành để thực hiện các hoạt động
quản lý, điều hành trong nội bộ cơ quan và giải quyết những công việc cụ thể đối với
các đối tượng quản lý nhất định.
Ở đây, tập trung tìm hiểu về quyết định cá biệt.
a) Mục đích: Quyết định cá biệt nhằm giải quyết các công việc có tính sự vụ
như xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các cá nhân, tổ chức hoặc xác định biện
pháp, trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật.
b) Các loại quyết định cá biệt:
- Quyết định về nhân sự: điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức
- Quyết định lên lương
- Quyết định về tổ chức bộ máy
- Quyết định thi đua
- Quyết định phê duyệt
320
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
- Quyết định đình chỉ, hủy bỏ văn bản sai trái
- Quyết định ban hành quy chế, nội quy trong nội bộ cơ quan…v.v
c) Nội dung của Quyết định
Quyết định được soạn thảo theo thể văn “điều khoản”. Kết cấu của Quyết định
gồm 2 phần:
Phần căn cứ: Phần này nêu các cơ sở pháp lý và tình hình thực tiễn để ban hành
văn bản. Phần căn cứ đảm bảo đủ ba yếu tố:
- Thẩm quyền: Viện dẫn văn bản quy định thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan tổ chức.
- Căn cứ pháp lý: Viện dẫn văn bản của cơ quan có thẩm quyền quy định những
vấn đề liên quan đến nội dung Quyết định.
- Đề xuất: Để ban hành Quyết định phải do một cơ quan (bộ phận) đề nghị, ban
hành Quyết định.
Phần nội dung: Phần này gồm các điều, khoản.
Điều 1. Thường là nội dung chính của Quyết định.
Các điều, khoản tiếp theo, mỗi điều là một nội dung hoặc tác động đến một đối
tượng khác nhau.
Điều cuối cùng là điều khoản thi hành, cần nêu rõ, cụ thể những đối tượng chịu
trách nhiệm thi hành.
2.2. Công văn
Công văn là loại văn bản hành chính được sử dụng phổ biến trong các cơ quan,
tổ chức để truyền đạt, trao đổi thông tin trong hoạt động giao dịch giữa các cơ quan,
tổ chức với nhau và giữa các cơ quan, tổ chức với công dân nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình.
a) Mục đích của công văn:
Thông báo một (hoặc một vài) vấn đề trong hoạt động công vụ như thông tin
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Hướng dẫn thực hiện văn bản của cấp trên;
Thông báo một số hoạt động dự kiến xảy ra: (tổ chức hội thao, hội diễn... và cần
thống tin phản hồi từ phía người nhận);
Xin ý kiến cấp trên về một vấn đề nào đó trong hoạt động: Tổ chức giải thể
thao, tổ chức giao lưu, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ...;
Xác nhận các vấn đề có liên quan đến hoạt động; Thăm hỏi, đóng góp ý kiến,
cảm ơn, phúc đáp….
b) Các loại công văn: dựa vào nội dung, công văn gồm các loại:
321
- Công văn hướng dẫn;
- Công văn giải thích;
- Công văn đề nghị, yêu cầu;
- Công văn phúc đáp;
- Công văn đôn đốc, nhắc nhở;
- Công văn chỉ đạo;
- Công văn hỏi ý kiến;
- Công văn mời họp...
c) Nội dung của công văn thường có ba phần:
Đặt vấn đề: Nêu lí do, cơ sở để ban hành.
Giải quyết vấn đề: Trình bày yêu cầu cần giải quyết. Nội dung phải trình bày cụ
thể, rõ ràng, đi thẳng vào trọng tâm vấn đề đặt ra.
Kết luận: Khẳng định lại những nội dung đã nêu, hoặc làm sáng tỏ thêm, yêu
cầu thực hiện, nhấn mạnh trách nhiệm giải quyết văn bản khi cần thiết.
d) Yêu cầu chung khi soạn thảo công văn:
Viết ngắn gọn, rõ ràng.
Mỗi công văn chỉ chứa đựng một vấn đề tạo điều kiện thuân lợi cho việc nghiên
cứu giải quyết.
Trình bày thể thức theo đúng quy định của Nhà nước.
Hành văn phải phù hợp với nội dung của công văn, có tính thuyết phục.
Trong quá trình soạn thảo, cần xác định rõ nội dung, vấn đề để tránh sự nhầm
lẫn giữa công văn mang tính chất thông báo với thông báo, công văn đề nghị yêu cầu
với đề án hoặc tờ trình.
2.3. Tờ trình
Tờ trình là văn bản dùng đề xuất, thuyết trình một vấn đề mới như đề án, một dự
thảo văn bản để cấp trên xem xét, quyết định. Chỉ khi cấp trên phê duyệt mới được thực
hiện.
a) Các trường hợp sử dụng Tờ trình bao gồm:
- Đề xuất một chủ trương,
- Đề xuất một phương án công tác,
- Đề xuất một chính sách,
- Đề xuất một chế độ,
- Đề xuất một tiêu chuẩn,
- Đề xuất một định mức
322
- Đề nghị bổ sung, bãi bỏ một văn bản hay quy định lỗi thời,
- Xin phê chuẩn những vấn đề thông thường trong quản lý ở các cơ quan: khen
thưởng, mở rộng quy mô, thay đổi cơ cấu chức năng hoạt động, xây dựng thêm cơ sở vật chất
...
b) Yêu cầu của tờ trình:
- Tờ trình phải đảm bảo tính thuyết phục, đây là yêu cầu quan trọng nhất
của tờ trình, để đạt tính thuyết phục cao, tờ trình cần thể hiện được một số yêu cầu
cơ bản sau đây:
Phân tích một cách đầy đủ và khách quan tất cả các vấn đề thực tế đang diễn ra,
là cơ sở cho việc đề nghị.
Nêu được những thuận lợi trong việc thực hiện đề nghị mới, nếu được thực
hiện.
Phân tích rõ những khó khăn có thể gặp phải, những phản ứng có thể xảy ra
cũng như biện pháp khắc phục chúng, khi đề nghị được thực hiện.
Những yêu cầu cơ bản đó cần được thể hiện ở mọi phương diện của văn bản:
ngôn ngữ diễn đạt, luận chứng, luận cứ, tính bố cục.
- Kết cấu nội dung của tờ trình theo loại văn bản ”tam đoạn luận”, và phải thể
hiện cụ thể, chi tiết và toàn diện.
c) Nội dung của tờ trình:
Phần mở đầu: Nêu rõ lý do đưa ra trình duyệt, phân tích những căn cứ thực tế
làm nổi bật các nhu cầu bức thiết của vấn đề cần đề nghị.
Phần giải quyết vấn đề: Nêu tóm tắt nội dung đề nghị mới, các phương án khả
thi một cách cụ thể, rõ ràng, với các luận cứ kèm theo tài liệu có thông tin trung thực,
độ tin cậy cao.
Phân tích những phản ứng có thể xảy ra xoay quanh đề nghị mới nếu được áp
dụng; những khó khăn, thuận lợi khi triển khai thực hiện; những biện pháp cần khắc
phục phải được trình bày khách quan, tránh những nhận xét chủ quan thiên vị.
Nêu ý nghĩa, tác dụng của đề nghị mới đối với sản xuất, đời sống xã hội, công
tác lãnh đạo, quản lý...
Phần kết thúc: Nêu những kiến nghị, đề nghị cấp trên xem xét chấp thuận đề
xuất mới đã nêu để sớm được triển khai thực hiện. Có thể nêu một vài phương án để
cấp trên phê duyệt, nhằm khi cần thiết có thể chuyển đổi phương án. Kiến nghị phải
xác đáng.
d) Một số điểm lưu ý khi soạn thảo tờ trình:
Tờ trình có thể đính kèm theo các văn bản phụ để minh hoạ cho các phương án
được đề xuất trong tờ trình.
Có thể mẫu hoá tờ trình đối với những công việc thông dụng như trình duyệt
văn bản; kế hoạch ngắn hạn...
323
Tờ trình giải quyết công việc chỉ gửi 1 bản, đến một địa chỉ giải quyết chính;
nếu cần gửi đến các địa chỉ có liên quan để biết hoặc phối hợp thì chỉ ghi tên các địa
chỉ đó ở phần dưới tờ trình (mục nơi nhận).
Đối với những công việc hàng ngày, đơn giản thì nên làm phiếu trình.
Nếu vấn đề trình cấp trên phê duyệt không có tính chất mới thì không làm tờ
trình mà làm Công văn đề nghị.
2.4. Thông báo
Thông báo là loại văn bản dùng để thông tin về hoạt động, thông tin nhanh
những quyết định để truyền đạt kịp thời một quyết định, hoặc kết quả sự việc đã được
tiến hành của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và những thông tin, những tin
tức khác mà người có liên quan cần biết.
a) Các trường hợp sử dụng Thông báo:
- Thông báo truyền đạt chủ trương, chính sách, quyết định, chỉ thị
- Thông báo kết quả cuộc họp, hội nghị…
- Thông báo một số hoạt động đang thực hiện
- Thông báo một số hoạt động sẽ diễn ra
- Thông báo kế hoạch mới, đề nghị mới lên cấp trên
- Thông báo về kết luận của một cấp có thẩm quyền
b) Nội dung của thông báo:
Phần mở đầu: Không cần trình bày các lý do như các văn bản khác, mà giới
thiệu trực tiếp nội dung những vấn đề cần thông báo.
Phần nội dung: Trình bày những thông tin chính cần truyền đạt. Nếu thông báo
dài, có nhiều vấn đề, cần được chia thành các mục, các phần có tiêu đề để người đọc
dễ nắm bắt vấn đề và chấp hành đầy đủ. Thông báo phải được viết ngắn gọn, dễ hiểu,
đủ lượng thông tin cần thiết.
Với thông báo truyền đạt chủ trương, chính sách, quyết định, chỉ thị: cần nhắc
lại tên văn bản được truyền đạt, tóm tắt nội dung cơ bản của văn bản đó và yêu cầu
quán triệt triển khai thực hiện.
Với thông báo kết quả cuộc họp, hội nghị: phải nêu ngày giờ họp, thành phần
tham dự, người chủ trì, tóm tắt nội dung cuộc họp, hội nghị, các quyết định, nghị quyết
của hội nghị, của cuộc họp.
Với thông báo về thực hiện những nhiệm vụ được giao: Ghi rõ, đầy đủ, ngắn
gọn về nhiệm vụ, về yêu cầu khi thực hiện nhiệm vụ và các biện pháp cần áp dụng để
triển khai thực hiện.
Với thông báo về kết luận của một cấp có thẩm quyền: cần nêu rõ họ tên người
kết luận, nội dung cuộc họp dẫn đến kết luận, và chỉ rõ những cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm thi hành
324
Phần kết thúc: Nhắc lại nội dung chính, ý chính trọng tâm cần nhấn mạnh, lưu ý
người đọc, hoặc nội dung xã giao, cám ơn nếu xét thấy cần thiết
c) Một số điểm lưu ý: Khác biệt giữa Công văn mang tính chất thông báo với
Thông báo
Thông báo Công văn mang tính chất thông báo
- Nội dung của thông báo không trình
bày phần lý do hoặc mô tả tình hình, không
hành văn lập luận hay biểu cảm
- Không yêu cầu thông tin phản hồi
- Có trình bày phần lý do hoặc mô tả
tình hình, hành văn lập luận, có biểu cảm
- Luôn yêu cầu nhận được thông
tin phản hồi
2.5. Báo cáo
Báo cáo là văn bản trình bày những kết quả đã đạt được trong hoạt động của
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm đánh giá tình hình thực tế quản lý, lãnh đạo,
là căn cứ để cấp trên ra quyết định quản lý phù hợp, hoặc phản ánh một sự việc bất
thường xảy ra lên cấp trên hay ở hội nghị, ở đơn vị, ngành….
Thực chất, báo cáo là loại văn bản thuật lại một việc, một vấn đề hoặc về một
người nào đó cho một đối tượng biết. Chính vì vậy, báo cáo phải có nội dung trung
thực, chính xác, đầy đủ, kịp thời.
a) Các loại báo cáo:
- Báo cáo thường kỳ,
- Báo cáo đột xuất,
- Báo cáo sơ kết,
- Báo cáo tổng kết,
- Báo cáo chuyên đề...
b) Nội dung của báo cáo:
Phần mở đầu: Nêu những điểm chính về chủ trương công tác, về nhiệm vụ
được giao, nêu hoàn cảnh thực hiện (những khó khăn, thuận lợi có ảnh hưởng chi phối
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao)
Phần nội dung: Kiểm điểm những việc đã làm được, những việc chưa hoàn
thành, những ưu khuyết điểm của quá trình thực hiện, đánh giá kết quả, nguyên nhân
thành công và thất bại.
Báo cáo tuần: Nêu những vấn đề cấp bách, cần giải quyết trong lĩnh vực quản lý, đề
xuất với cấp trên cách giải quyết vấn đề nêu ra.
Báo cáo tháng: Kiểm điểm việc thực hiện các nhiệm vụ được giao, kết quả việc thực
hiện các quyết định của cấp trên, tình hình thực hiện các kế hoạch, đề án (nếu có).
325
Báo cáo sáu tháng: Đánh giá các kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan,
ngành, địa phương, dự kiến việc thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng tới và nêu những
biện pháp thực hiện
Báo cáo năm: Nội dung giống báo cáo 6 tháng nhưng chi tiết hơn, tổng hợp hơn
tình hình cả năm, nêu phương hướng nhiệm vụ cho năm sau (trên cơ sở những gợi ý
phương hướng nhiệm vụ cho năm tới của cấp trên).
Báo cáo đột xuất: Tóm tắt tình hình xảy ra sự việc, nguyên nhân phát sinh, biện
pháp xử lý, kiến nghị giải quyết.
Phần kết luận: Kiến nghị những phương hướng, giải pháp khắc phục trong hoạt
động tiếp theo, đề nghị sự giúp đỡ, hỗ trợ của cấp trên.
c) Yêu cầu khi viết báo cáo:
- Khi kiểm điểm lại những việc đã làm, nhất thiết phải đánh giá kết quả, chỉ ra
nguyên nhân thành công hay thất bại. Đây chính là cơ sở để rút ra bài học cho việc
thực hiện nhiệm vụ trong thời gian tiếp theo.
- Các thông tin trong báo cáo phải trung thực, chính xác, khách quan và cần có
thông tin cụ thể, trọng điểm.
- Hành văn ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, không cầu kỳ, khoa trương, sa vào chi
tiết rườm rà. Báo cáo là một văn bản mô tả, vì vậy tránh đưa ra những luận giải mang
tính sáng tạo, mà chỉ được trình bày những đánh giá, nhận định dựa trên kết quả đã
khảo sát, mô tả.
- Khi soạn thảo báo cáo, người soạn thảo thường phải căn cứ vào mẫu, vào quy
định của cấp trên - cấp nhận báo cáo, vì trong nhiều trường hợp cấp nhận báo cáo đã
có hướng dẫn làm báo cáo theo yêu cầu, mẫu, cột, mục thống kê. Trong trường hợp đó,
người soạn thảo không được tuỳ tiện cắt bỏ các yêu cầu, thay đổi cột mục đã được quy
định vì bất cứ lý do gì.
- Trong trường hợp không có mẫu quy định, căn cứ vào các yêu cầu, mục đích và
đối chiếu kết quả công tác, người làm báo cáo phải tự xác định các yêu cầu, nội dung và
mục đích báo cáo. Sau khi xác định rõ mục đích, yêu cầu, người làm báo cáo bắt tay vào thu
thập tài liệu để viết được một báo cáo tương ứng với thực trạng công tác.
- Có thể dùng sơ đồ, biểu mẫu để chứng minh, nhằm làm tăng tính thuyết phục
của các thông tin đưa ra. Về việc sử dụng biểu đồ cần lưu ý những yêu cầu sau đây:
Nếu như biểu đồ có kích thước lớn hơn một nửa trang giấy thì cần trình bày
riêng một trang.
Biểu đồ có thể được trình bày và xem riêng rẽ đối với nội dung mô tả, do đó nó
phải được trình bày có thể hiểu được ngay và càng ít phải diễn giải bằng lời càng tốt.
Cần đánh thứ tự các biểu đồ bằng chữ số A-rập, bắt đầu từ 1. Hình vẽ thì nên
đánh thứ tự theo phần. Số thứ tự và tên biểu đồ được đặt phía trên biểu đồ. Còn, số thứ
tự và tên hình vẽ được đặt phía dưới hình vẽ.
326
Biểu đồ được đưa vào thẳng nội dung, nếu biểu đồ đó cần thiết để hiểu được nội
dung, còn nếu chỉ mang tính minh hoạ và thiếu nó không ảnh hưởng gì đến việc đọc
hiểu nội dung thì có thể trình bày vào thành phụ lục ở cuối. Một khi nội dung của báo
cáo quá lớn thì cũng nên đưa bảng biểu thành phụ lục ở cuối.
Biểu đồ cũng được trích dẫn như các nội dung khác và do đó khi trích dẫn phải
chỉ rõ xuất xứ. Xuất xứ (nguồn) được trình bày bên dưới tên gọi của biểu đồ.
Trong phần nội dung bằng lời phải có chỉ dẫn về biểu đồ, sau đó biểu đồ được trình
bày ở cuối đoạn hoặc ở trang sau nếu như biểu đồ đó được trình bày riêng biệt một trang và
phần còn lại của trang trước sẽ trình bày những nội dung tiếp theo nếu còn.
2.6. Biên bản
Biên bản là văn bản hành chính dùng để ghi chép lại những sự việc đã xảy ra hoặc
đang xảy ra trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức do những người chứng kiến thực hiện.
a) Các loại biên bản:
- Biên bản hội nghị, cuộc họp
- Biên bản sự việc xảy ra (sự kiện, sự cố)
- Biên bản xử lý
- Biên bản bàn giao, nghiệm thu, kiểm kê tài sản…
b) Nội dung của biên bản:
Đặt vấn đề: Ghi rõ thời gian lập biên bản, địa điểm, thành phần tham gia
Nội dung chính của biên bản: có thể ghi theo các cách
- Ghi diễn biến sự kiện (có thể ghi chép chi tiết và đầy đủ các sự kiện: bàn giao,
kiểm tra, cuộc họp...) ví dụ như Biên bản sự việc xảy ra: ghi thời gian và địa điểm lập
biên bản, thành phần tham dự, diễn biến vụ việc xảy ra, kết luận bước đầu về nguyên
nhân xảy ra sự việc, ai là người chịu trách nhiệm chính hoặc Biên bản bàn giao,
nghiệm thu công việc: ghi những căn cứ của việc bàn giao, ngày tháng năm, địa điểm,
thành phần tham gia và những nội dung bàn giao.
- Ghi chép theo cách tổng hợp ví dụ như Biên bản hội nghị, cuộc họp: Biên
bản hội nghị là loại văn bản hành chính dùng để ghi chép lại, phản ánh lại những ý
kiến thảo luận của hội nghị, những kết luận, quyết định của hội nghị. Trước tiên Biên
bản cần ghi mục đích cuộc họp, thời gian, địa điểm, thành phần tham dự, chương trình
nghị sự, chủ toạ, thư ký, giới thiệu đại biểu tham dự. Sau đó ghi tóm tắt diễn văn khai
mạc, báo cáo, tham luận, ý kiến thảo luận, biểu quyết (nếu có) thông qua các văn kiện,
lời kết thúc và bế mạc. (Nếu có văn bản kèm theo nội dung các phát biểu thì chỉ ghi
tên người trình bày và ghi “xem văn bản kèm theo”; nếu không có văn bản thì ghi tóm
tắt nội dung.)
- Ghi theo cách điền vào các cột, mục theo mẫu sẵn (Biên bản xử lý vi phạm,
biên bản hòa giải...)
Kết thúc biên bản: Ghi thời gian kết thúc và có tối thiểu 02 chữ ký (chủ trì và thư ký)
327
c) Yêu cầu khi soạn thảo và sử dụng biên bản.
Nội dung biên bản phải được ghi chép chính xác, cụ thể, trung thực các số liệu,
sự kiện, khách quan, chính xác và đầy đủ, không suy đoán chủ quan, mà đi vào trọng
tâm, trọng điểm, không diễn giải lan man.
Biên bản hội nghị là một bộ phận cấu thành hồ sơ hội nghị và cần phải được
ban hành đúng theo quy định.
Biên bản xử lý chỉ có thể là một trong những bằng chứng quan trọng để ban
hành những quyết định tương ứng, không nên (và không được) sử dụng biên bản để
thay thế cho những văn bản đưa ra quyết định quản lý.
2.7. Hợp đồng
Hợp đồng là sự thoả thuận, cam kết giữa hai hay nhiều bên. Thoả thuận, cam
kết đó có thể ở dạng văn bản “Hợp đồng văn bản” hoặc lời nói “Hợp đồng miệng”.
Sự thoả thuận, cam kết đưa đến xác lập hoặc thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
các bên có liên quan.
Dưới đây là phần nghiên cứu hợp đồng ở dạng văn bản
a) Các điều kiện trong giao kết hợp đồng
- Về sự thoả thuận tự nguyện: Hợp đồng được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, tự do ý
chí của các bên. Không có ai, cơ quan, tổ chức nào ép buộc một đối tác phải ký kết hợp
đồng;
- Về năng lực của các bên tham gia ký kết hợp đồng: đòi hỏi các bên tham gia
ký kết hợp đồng phải có năng lực pháp lý theo quy định của pháp luật. Trong giao kết
hợp đồng, để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng và nâng cao độ tin cậy của hợp
đồng, các bên luôn phải tìm hiểu năng lực thực thi và khả năng thực hiện cam kết của
đối tác. Do vậy, tự nó cũng nảy sinh nhu cầu chứng minh năng lực thực thi cam kết
của các bên trước khi chính thức ký kết hợp đồng.
- Về căn cứ và nội dung cam kết phải hợp pháp, phù hợp đạo đức xã hội, phong
tục tập quán...
Điều kiện trên bảo đảm cho hợp đồng có hiệu lực thi hành. Ngược lại, nếu vi
phạm một trong các điều kiện trên, hợp đồng không có hiệu lực.
Ngoài ra, hợp đồng còn phải tuân theo những khuôn mẫu nhất định về nội dung,
hình thức văn bản.
b) Nội dung hợp đồng: Cấu trúc hợp đồng gồm ba phần.
Phần mở đầu gồm:
- Nêu căn cứ pháp lý cho giao kết hợp đồng;
- Nêu căn cứ thực tế liên quan đến những nội dung được thiết lập hợp đồng;
Ngoài ra phần mở đầu cũng bao gồm những yếu tố về thời gian, không gian, thành
phần... những thông tin cần thiết liên quan đến các bên tham gia hợp đồng
328
Phần nội dung chính của hợp đồng bao gồm:
- Các nội dung về công việc cần giao kết;
- Vấn đề quyền, nghĩa vụ các bên và trách nhiệm thực hiện hợp đồng với nội
dung công việc cụ thể: Thời gian, khối lượng, địa điểm, phương thức thực hiện...;
- Những vấn đề bổ sung như điều kiện bảo đảm thực hiện, khuyến khích
thực hiện.
Ngoài những nội dung trên, trong những trường hợp cụ thể hợp đồng còn bao gồm
những vấn đề về: Phương thức thanh toán, hoàn trả sau hợp đồng; Phương thức điều chỉnh
thoả thuận lại hợp đồng khi cần thiết; Phương thức giải quyết tranh chấp, xung đột…;
Phần kết thúc hợp đồng bao gồm:
- Nội dung thi hành hợp đồng;
- Các biện pháp bảo đảm thi hành;
- Các thủ tục chung về kết thúc văn bản hợp đồng
Khi trình bày hợp đồng, thông thường trình bày dưới dạng văn điều khoản và
xác định các bên với quyền, nghĩa vụ trách nhiệm cụ thể.
Trên cơ sở cấu trúc và nội dung của hợp đồng nêu trên, tuỳ theo từng loại hợp
đồng và từng vụ, việc cụ thể người ta vận dụng để soạn thảo hợp đồng cho thích hợp.
c) Các loại hợp đồng:
Hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự được xác lập nhằm thoả mãn những yêu cầu về sinh hoạt, tiêu
dùng, đáp ứng nhu cầu giao dịch về tài sản hoặc phi tài sản như: hợp đồng cầm cố, mua
bán, thuê, mướn, vay, mượn, tặng cho tài sản hoặc các hợp đồng về bản quyền, sở hữu trí
tuệ…
Hợp đồng dân sự có thể là sự ký kết giữa:
- Cá nhân với cá nhân hoặc pháp nhân, hộ gia đình.
- Pháp nhân với pháp nhân hoặc với hộ gia đình,
- Hộ gia đình với hộ gia đình...
Thực tế cho thấy, hợp đồng dân sự được giao kết dưới nhiều dạng quan hệ khác
nhau, nhưng chúng đều có thể được quy về hai loại chính là:
- Hợp đồng song vụ: Các bên tham gia hợp đồng đều có quyền và có nghĩa vụ
trong quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn trong hợp đồng mua, bán tài sản, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất…
- Hợp đồng đơn vụ: Một bên tham gia hợp đồng chỉ có quyền, bên kia chỉ có
nghĩa vụ thực hiện. Chẳng hạn hợp đồng cho, tặng; hợp đồng bảo lãnh, gửi giữ, uỷ
quyền không trả thù lao…
Hợp đồng kinh tế
329
Hợp đồng kinh tế (còn là tên gọi chung cho Hợp đồng kinh tế - thương mại), là
văn bản ghi nhận sự thoả thuận tự nguyện giữa các bên về đầu tư, sản xuất, mua bán
vật tư, hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu khoa học…, nhằm mục đích kinh doanh.
Hợp đồng kinh tế được xác lập đáp ứng nhu cầu làm kinh tế, kinh doanh kiếm lời
của các chủ thể. Cho nên Hợp đồng kinh tế hướng đến các đối tượng gắn liền với quá trình
sản xuất, lưu thông, đầu tư và cuối cùng là hiệu quả của vốn đã đưa vào đầu tư, lưu thông…
Tham gia Hợp đồng kinh tế bắt buộc phải có một bên là pháp nhân, bên kia có
thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh…
Hợp đồng kinh tế phải được thực hiện bằng văn bản với những điều khoản cụ
thể, chặt chẽ.
Các dạng Hợp đồng kinh tế thường dùng là:
- Hợp đồng liên kết: Văn bản các bên cam kết liên doanh cùng nhau thực hiện
đầu tư, sản xuất, kinh doanh…
- Hợp đồng mua bán vật tư, hàng hoá;
- Hợp đồng uỷ thác;
- Hợp đồng đầu tư – kinh doanh – chuyển giao
- Hợp đồng cung ứng dịch vụ;
- Hợp đồng xây dựng;
- Hợp đồng nghiên cứu khoa học;
- Hợp đồng gia công hàng hoá…
Một số vấn đề cần lưu ý khi soạn thảo văn bản Hợp đồng kinh tế
- Về quốc hiệu: Đối với các hợp đồng trong giao dịch thương mại quốc tế không ghi
quốc hiệu vì các chủ thể loại hợp đồng này thường có quốc tịch khác nhau.
- Số và ký hiệu hợp đồng: Thường ghi ở trên văn bản hoặc ở góc trái hoặc ở
chính giữa phái dưới tên của văn bản Hợp đồng kinh tế. Đây là thông tin cần thiết cho
việc lưu trữ, tra cứu; ký hiệu hợp đồng là viết tắt chữ cái, in hoa của tên loại hợp đồng.
Ví dụ: Hợp đồng số 07/HĐMB (số ký hiệu của loại hợp đồng mua bán hàng hoá).
- Tên hợp đồng: Thường lấy tên hợp đồng theo loại cụ thể ghi chữ to đậm ở
chính giữa phía dưới quốc hiệu (.....)
- Những căn cứ xác lập hợp đồng: khi lập hợp đồng phải nêu những văn bản
pháp luật, văn bản làm cơ sở cho các thoả thuận về nội dung mà Hợp đồng kinh tế
hướng đến. Chẳng hạn như các pháp lệnh, nghị định, quyết định, văn bản hướng dẫn
của các cấp, các ngành; văn bản thoả thuận của hai bên chủ thể trong các cuộc họp bàn
về nội dung hợp đồng trước đó nếu có.
- Thời gian, địa điểm ký kết hợp đồng: Đây là những thông tin quan trọng phải
ghi rõ để chứng minh sự giao dịch của các bên. Khi cần thiết Nhà nước sẽ thực hiện sự
kiểm soát, bảo vệ các bên, đồng thời nó cũng là căn cứ quan trọng dựa vào đó các chủ
330
thể ấn định thời hạn của hợp đồng được bắt đầu và kết thúc lúc nào. Thông thường
thời gian ký kết là thời điểm để các thoả thuận ấn định cho hợp đồng bắt đầu có hiêụ
lực. Ví dụ: "Hợp đồng này có hiệu lực 24 tháng kể từ ngày ký...".
- Thông tin về chủ thể hợp đồng:
+ Đánh giá độ tin cậy về đối tác: Để bảo đảm sự tin cậy, loại trừ rủi ro trong
giao kết các bên phải kiểm tra lẫn nhau về tư cách pháp nhân hoặc giấy phép đăng ký
kinh doanh, đánh giá năng lực, kiểm tra sự hoạt động thực tế của đối tác trước khi giao
kết.
+ Địa chỉ doanh nghiệp: Trong hợp đồng phải ghi rõ nơi có trụ sở pháp nhân
đóng, khi cần các bên có thể tìm đến nhau để liên hệ, giao dịch hoặc tìm hiểu rõ ràng
trước khi ký kết Hợp đồng kinh tế, yêu cầu các bên phải ghi rõ số nhà, đường phố,
xóm ấp, phường, xã, quận, huyện. Nếu thực tâm có ý thức phối hợp làm ăn lâu dài
đàng hoàng họ sẽ khai đúng và đầy đủ.
+ Điện thoại, Telex, Fax: Đây là phương tiện thông tin quan trọng, mỗi chủ thể hợp
đồng thông thường họ có số đặc định cho phương tiện thông tin để giao dịch với nhau, giảm
bớt được chi phí đi lại liên hệ, trừ những trường hợp bắt buộc phải gặp mặt.
+ Tài khoản mở tại ngân hàng: Đây là vấn đề các bên tham gia hợp đồng đặc
biệt quan tâm. Khi đối tác biết số tài khoản, lượng tiền hiện có trong tài khoản, họ tin
tưởng ở khả năng được thanh toán để yên tâm ký kết và thực hiện hợp đồng
+ Người đại diện ký kết: Về nguyên tắc phải là người đứng đầu pháp nhân hoặc
người đứng tên trong giấy phép đăng ký kinh doanh nếu là doanh nghiệp tư nhân,
nhưng pháp luật Hợp đồng kinh tế vẫn cho phép họ được uỷ quyền cho người khác với
điều kiện họ phải viết giấy uỷ quyền.
+ Giấy uỷ quyền: Phải ghi rõ số lưu, thời gian viết uỷ quyền, chức vụ người ký
giấy uỷ quyền, đồng thời phải ghi rõ họ tên, chức vụ, số chứng minh nhân dân
(CMND) của người được uỷ quyền, nội dung phạm vi công việc của ủy quyền và thời
hạn uỷ quyền, pháp luật bắt buộc người thủ trưởng uỷ quyền phải chịu mọi trách
nhiệm như chính bản thân họ đã ký hợp đồng, nhưng bên đối tác cần kiểm tra giấy uỷ
quyền trước khi ký kết hợp đồng.
- Về nội dung của văn bản Hợp đồng kinh tế
Thông thường nội dung văn bản Hợp đồng kinh tế có các điều khoản sau đây:
+ Về số lượng, khối lượng, giá trị hàng hoá, sản phẩm mà các bên thoả thuận
bằng tiền hay ngoại tệ; chất lượng, chủng loại, quy cách sản phẩm hàng hoá hoặc yêu
cầu của công việc; giá cả, bảo hành.
+ Điều kiện nghiệm thu giao nhận; phương thức thanh toán.
+ Các biện pháp bảo đảm thực hiện và trách nhiệm thực hiện.
+ Các thoả thuận khác.
Những điều kiện trên có thể được phân tích thành:
331
+ Những điều khoản chính: Đây là những điều khoản bắt buộc phải có để hình
thành nên một chủng loại hợp đồng cụ thể được các bên quan tâm thoả thuận, nếu
thiếu một trong các điều khoản căn bản của chủng loại hợp đồng đó thì văn bản Hợp
đồng kinh tế đó không có giá trị. Chẳng hạn trong hợp đồng mua bán hàng hoá phải có
các điều khoản căn bản như: số lượng hàng, chất lượng quy cách hàng hoá, giá cả,
điều kiện giao nhận hàng, phương thức thanh toán là những điều khoản căn bản của
chủng loại Hợp đồng kinh tế mua bán hàng hoá.
+ Những điều khoản thường lệ: Là những điều khoản đã được pháp luật điều
chỉnh, các bên có thể ghi hoặc không ghi vào văn bản Hợp đồng kinh tế.
Nếu không ghi vào văn bản Hợp đồng kinh tế thì coi như các bên mặc nhiên công
nhận là phải có trách nhiệm thực hiện những quy định đó. Nếu các bên thoả thuận ghi vào
hợp đồng thì nội dung không được trái với những điều pháp luật đã quy định. Ví dụ: điều
khoản về bồi thường thiệt hại, điều khoản về thuế (...)
+ Điều khoản tuỳ nghi: Là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau
khi chưa có quy định của Nhà nước hoặc đã có quy định của Nhà nước nhưng các bên
được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của các bên mà không trái với
pháp luật. Ví dụ: Điều khoản về thưởng vật chất khi thực hiện hợp đồng xong trước
thời hạn, điều khoản về thanh toán bằng vàng, ngoại tệ hay tiền mặt,...(...)
- Về ký kết hợp đồng
+ Số lượng bản hợp đồng cần ký: Xuất phát từ yêu cầu lưu giữ, cần quan hệ
giao dịch với các cơ quan ngân hàng, trọng tài kinh tế, cơ quan chủ quản cấp trên, ...,
mà các bên cần thoả thuận lập ra số lượng bao nhiêu bản là vừa đủ, vấn đề quan trọng
là các bản hợp đồng đó phải có nội dung giống nhau và có giá trị pháp lý như nhau.
+ Đại diện các bên ký kết: Mỗi bên cần cử một người đại diện ký kết, thông
thường là thủ trưởng cơ quan hoặc người đứng tên trong giấy phép kinh doanh, pháp
luật cho phép họ được uỷ quyền bằng giấy tờ cho người khác ký.
Việc ký hợp đồng có thể thực hiện một cách gián tiếp như: một bên soạn thảo
ký trước và gửi cho bên đối tác, nếu đồng ý với nội dung thoả thuận bên kia đưa ra và
ký vào hợp đồng thì sẽ có giá trị như trường hợp trực tiếp gặp nhau ký kết. Những
người có trách nhiệm ký kết phải lưu ý ký đúng chữ ký đã đăng ký và thông báo,
không chấp nhận loại chữ ký tắt, chữ ký mới thay đổi khác với chữ ký đã đăng ký với
cấp trên, việc đóng dấu cơ quan bên cạnh người đại diện ký kết có tác dụng tăng thêm
sự long trọng và tin tưởng của đối tác nhưng không phải là yêu cầu bắt buộc trong thủ
tục ký kết hợp đồng.
Hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm, tiền công và các điều kiện liên quan.
Khi phân loại hợp đồng lao động phổ biến nhất là phân chia theo thời gian:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn;
332
- Hợp đồng lao động khoán việc: Hợp đồng lao động theo mùa, vụ; hợp đồng
theo phần việc cụ thể...
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước,
quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động được xác lập trên cơ sở hợp
đồng lao động. Trong đó xác định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng
lao động và người lao động.
Thực tế cho thấy, những vi phạm quy định của pháp luật về lao động nói chung
và vi phạm về hợp đồng lao động nói riêng còn rất phổ biến. Người lao động luôn ở
vào vị trí yếu thế và chịu nhiều ràng buộc khi tham gia hợp đồng lao động.
3. Công tác quản lý văn bản
3.1. Tổng quan về công tác văn thư
3.1.1. Khái niệm
Công tác văn thư theo cách gọi truyền thống là công tác công văn giấy tờ. Ngày nay
công tác văn thư được hiểu là hoạt động bảo đảm thông tin bằng văn bản phục vụ công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành các công việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế và các đơn vị vũ trang nhân dân (gọi
chung là các cơ quan, tổ chức).
Công tác văn thư có các ý nghĩa sau:
- Công tác văn thư bảo đảm cung cấp kịp thời, đầy đủ những thông tin cần thiết
phục vụ các nhiệm vụ quản lý, điều hành và các công việc chuyên môn của mỗi cơ
quan, tổ chức nói chung. Công tác văn thư vừa có chức năng là bảo đảm thông tin cho
hoạt động của cơ quan, tổ chức, vừa có chức năng truyền đạt, phổ biến thông tin bằng
văn bản;
- Làm tốt công tác văn thư sẽ góp phần giải quyết công việc của cơ quan, tổ
chức được nhanh chóng, chính xác, năng suất, chất lượng, đúng chính sách, đúng chế
độ, giữ gìn được bí mật quốc gia, hạn chế được bệnh quan liêu giấy tờ;
- Công tác văn thư bảo đảm giữ lại đầy đủ chứng cứ về mọi hoạt động của cơ
quan, tổ chức. Nội dung của những tài liệu được hình thành và được nhận trong quá
trình giải quyết các công việc phản ánh chính xác, chân thực các hoạt động của cơ
quan, tổ chức;
- Công tác văn thư có nề nếp bảo đảm giữ gìn đầy đủ hồ sơ, tài liệu, tạo điều
kiện tốt cho công tác lưu trữ. Nguồn bổ sung tài liệu vào lưu trữ chủ yếu từ giai đoạn
văn thư. Trong quá trình hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức cần phải tổ chức
thực hiện tốt công tác lập hồ sơ hiện hành và giao nộp hồ sơ, tài liệu vào lưu trữ cơ
quan. Hồ sơ được lập hoàn chỉnh, văn bản giữ đầy đủ thì thực hiện công tác lưu trữ
thuận lợi và bổ sung được nhiều tài liệu vào Phông lưu trữ quốc gia.
3.1.2. Hình thức tổ chức công tác văn thư
Hiện nay, ở nước ta, các cơ quan, tổ chức đang áp dụng ba hình thức tổ chức
công tác văn thư cơ quan là văn thư tập trung, văn thư phân tán và văn thư hỗn hợp.
333
Văn thư tập trung: Là hình thức văn thư toàn bộ các công đoạn văn thư và các
thao tác nghiệp vụ xử lý văn bản được thực hiện tại một nơi chung cho cả cơ quan,
như tại văn phòng, hoặc phòng hành chính. Hình thức này áp dụng tại các cơ quan
không lớn, đóng tập trung, cơ quan nhỏ như văn phòng UBND huyện, UBND cấp xã.
Văn thư phân tán: Là hình thức văn thư các công đoạn và thao tác nghiệp vụ
văn thư được phân chia cho nhiều đơn vị trong cơ quan cùng thực hiện, trong đó các
đơn vị thực hiện các nhiệm vụ giống nhau, như đánh máy, in, nhân bản, trình ký văn
bản, cho số ký hiệu văn bản. Hình thức này áp dụng những cơ quan lớn, các đơn vị
đóng không tập trung. Nhưng hình thức này nay chuyển dần sang hình thức hỗn hợp.
Văn thư hỗn hợp: Là hình thức trong đó một số công việc về văn thư được thực
hiện tập trung (tiếp nhận văn bản, đăng ký văn bản, nhân bản, đóng dấu, ban hành văn
bản, kiểm tra thi hành văn bản, ...), một số công việc được thực hiện phân tán (soạn
thảo văn bản, in ấn, lưu giữ hồ sơ việc, ...). Hình thức hỗn hợp được áp dụng phổ biến
trong hầu hết các cơ quan, tổ chức hiện nay.
Nhìn chung, dù áp dụng hình thức văn thư nào, các công việc về công tác văn
thư trong cơ quan phải do một đơn vị phụ trách, như văn phòng hoặc phòng hành
chính. Đối với những cơ quan nhỏ có thể không lập bộ phận văn thư chuyên trách
thuộc phòng hành chính, có thể do một nhân viên văn thư, thư ký, hay một trong cán
bộ lãnh đạo cơ quan đảm nhiệm.
Khi lựa chọn hình thức tổ chức công tác văn thư cần chú các yếu tố sau đây:
- Chức năng, nhiệm vụ, phạm vi thẩm quyền của cơ quan;
- Khối lượng văn bản chu chuyển (đi, đến, nội bộ);
- Số lượng và đặc điểm các đơn vị trực thuộc (tình hình cán bộ văn thư tại các
đơn vị, các phương tiện kỹ thuật, .v.v. ).
Trong các hình thức tổ chức công tác văn thư, hình thức hỗn hợp là hợp lý hơn
cả. Hình thức này cho phép giảm bớt cho phí cho việc thực hiện các công việc, cải tiến
tổ chức lao động cho cán bộ văn thư chuyên trách, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
định mức hoá, chuyên môn hoá, đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo về tổ chức và
nghiệp vụ, tiến tới tập trung hoá, hiện đại hoá được một số quy trình nghiệp vụ văn thư
một cách hợp lý.
3.1.3. Yêu cầu đối với cán bộ văn thư
Trong quá trình thực hiện các nội dung công việc, công tác văn thư ở các cơ
quan, tổ chức phải bảo đảm các yêu cầu: Nhanh chóng, Chính xác, Bí mật, Hiện đại.
Trong quá trình thực hiện những nội dung của công tác văn thư cụ thể, như
soạn thảo văn bản, in ấn văn bản, đăng ký văn bản, gửi văn bản, lưu văn bản, theo dõi
việc giải quyết văn bản, luôn gắn liền với việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện
đại. Vì vậy yêu cầu hiện đại hoá công tác văn thư đã trở thành một trong những tiền đề
bảo đảm cho công tác văn thư nhanh đáp ứng yêu cầu từ các hoạt động của cơ quan và
xu hướng hiện đại hóa văn phòng, văn phòng hiện đại. Hiện đại hoá công tác văn thư
334
ngày nay, trước hết nói đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác văn thư
và việc sử dụng các máy móc thiết bị văn phòng hiện đại.
3.1.4. Nội dung của công tác văn thư
Nội dung công tác văn thư được ghi trong Khoản 2, Điều 1 Nghị định
110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư. Nội dung công
tác văn thư gồm có bốn khâu nghiệp vụ như sau:
- Xây dựng và ban hành văn bản;
- Quản lý văn bản và tài liệu khác;
- Quản lý và sử dụng con dấu trong cơ quan;
- Lập hồ sơ hiện hành và giao nộp tài liệu vào lưu trữ hiện hành của cơ quan.
3.2. Quản lý văn bản đi
3.2.1. Nguyên tắc chung về việc tổ chức và quản lý văn bản đi
Văn bản đi của cơ quan thực chất là công cụ điều hành, quản lý trong phạm vi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Vì vậy việc tổ chức quản lý văn
bản đi phải bảo đảm các nguyên tắc sau :
- Chính xác, kịp thời, đúng quy trình quy định của pháp luật;
- Tất cả văn bản, giấy tờ do cơ quan gửi ra ngoài phải đăng ký và làm thủ tục
gửi đi tại văn thư cơ quan. Quy định này nhằm đảm bảo tổ chức quản lý thống nhất
văn bản đi trong một cơ quan, tổ chức.
3.2.2. Nội dung quản lý văn bản đi
a) Đăng ký văn bản đi
Đăng ký văn bản đi là việc ghi chép một số thông tin cần thiết của văn bản đi, như: số,
ký hiệu, ngày tháng năm, trích yếu nội dung của văn bản, .v.v. vào những phương tiện đăng
ký, như sổ đăng ký văn bản đi, thẻ, máy vi tính,... nhằm quản lý chặt chẽ văn bản của cơ quan
và tra tìm văn bản được nhanh chóng.
Yêu cầu khi đăng ký văn bản đi là phải ghi đầy đủ và chính xác các yếu tố cần thiết có
trong các phương tiện đăng ký. Trước khi đăng ký văn bản, văn bản phải được kiểm tra lại lần
cuối về trình bày thể thức của văn bản, thẩm quyền ban hành văn bản,...
Ngoài ra, khi đăng ký văn bản đi cần hoàn thiện các thủ tục khi phát hành văn bản
như:
- Ghi số lên văn bản: Số của văn bản là số đăng ký thứ tự của văn bản trong
năm, tính từ ngày 01 tháng 01 năm đó. Những cơ quan, tổ chức hoạt động theo nhiệm
kỳ thì lấy số văn bản theo nhiệm kỳ;
- Ghi ngày, tháng, năm lên văn bản: Ngày, tháng, năm văn bản là ngày tháng
năm văn bản được ký ban hành. Trường hợp văn bản do Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng nhân dân ban hành lấy ngày tháng năm văn bản được thông qua.
335
Ngày tháng năm của văn bản ghi bằng số Ả rập và phải ghi rõ ràng, chính xác (đối với
ngày dưới 10 và tháng dưới 3 thì thêm số 0 đằng trước);
- Đăng ký văn bản đi: Việc đăng ký văn bản đi được thực hiện trên các phương
tiện như sổ, máy vi tính. Đối với những cơ quan, tổ chức dùng sổ và số lượng văn bản
được ban hành nhiều (thường là trên 500 văn bản trong một năm) thì trong một năm
lập nhiều loại sổ đăng ký văn bản đi khác nhau đối với mỗi loại văn bản, thường là: sổ
đăng ký văn bản đi (mật); sổ đăng ký văn bản đi (thường); sổ đăng ký văn bản đi (văn
bản quy phạm pháp luật).
b) Chuyển giao văn bản đi
- Tất cả văn bản đi phải được đăng ký và chuyển đi ngay trong ngày khi đã có
chữ ký của người có thẩm quyền và đóng dấu cơ quan;
- Việc gửi văn bản đi phải đúng nơi nhận đã ghi trên văn bản;
- Những văn bản có dấu chỉ mức độ khẩn phải chuyển trước tuỳ theo mức độ khẩn;
- Tất cả các loại văn bản gửi ra ngoài đều phải có phong bì. Do vậy phải thực
hiện các công việc như chọn phong bì, trình bày phong bì, dán phong bì và làm thủ tục
gửi đi.
c) Sắp xếp và lưu văn bản
Văn bản được ban hành phải lưu lại ít nhất 02 bản, 01 bản lưu tại bộ phận văn
thư cơ quan, 01 bản lưu lại tại hồ sơ công việc của cán bộ đã trực tiếp soạn thảo văn
bản đó. Tại tập lưu văn bản ở bộ phận văn thư cơ quan, các văn bản lưu được xếp theo
thứ tự số văn bản đã được đăng ký theo sổ đăng ký văn bản đi.
3.3. Quản lý văn bản đến
3.3.1. Nguyên tắc chung đối với việc quản lý và giải quyết văn bản đến
- Mọi văn bản đến đều phải được tập trung đăng ký tại văn thư cơ quan. Đối với
những văn bản đến ghi ngoài phong bì là đích danh thủ trưởng cơ quan, sau khi bóc ra,
nếu nội dung văn bản là việc công thì cũng phải đăng ký tại văn thư cơ quan.
- Việc tiếp nhận và đăng ký văn bản đến tại văn thư cơ quan theo nguyên tắc
kịp thời, chính xác và thống nhất.
- Những văn bản đến có dấu chỉ mức độ khẩn phải làm thủ tục phân phối ngay
sau khi đăng ký.
- Những văn bản mật phải được người có trách nhiệm xử lý mới được bóc và xử lý.
3.3.2. Nội dung nghiệp vụ quản lý và giải quyết văn bản đến
- Tiếp nhận văn bản đến: Về nguyên tắc, tất cả các loại văn bản đến đều phải
tập trung đăng ký tại văn thư cơ quan.
- Đăng ký văn bản đến: Khi đăng ký phải ghi đầy đủ các thông tin cần thiết về
văn bản vào các phương tiện đăng ký. Trước khi đăng ký phải đóng dấu đến lên văn
bản. Dấu đến được đóng ở góc trái dưới phần trình bày yếu tố “số và ký hiệu văn bản”,
trường hợp là công văn trao đổi thì dưới yếu tố “trích yếu văn bản”.
336
- Trình văn bản đến: Tất cả các văn bản đến, sau khi đã đăng ký, tuỳ theo chế
độ văn thư của từng cơ quan, tổ chức, cán bộ phụ trách công tác văn thư phải trình
ngay cho chánh văn phòng (hoặc trưởng phòng hành chính) xem xét, nghiên cứu để
quyết định hướng giải quyết. Lãnh đạo văn phòng, hoặc phòng hành chính ghi ý kiến
chuyển văn bản đến các cá nhân, đơn vị giải quyết.
Đối với những cơ quan, tổ chức nhỏ, có thể trình xin ý kiến chuyển văn bản đến
trực tiếp thủ trưởng cơ quan. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức cho ý kiến chuyển văn bản.
- Chuyển giao văn bản đến: Văn thư cơ quan có trách nhiệm chuyển giao văn bản
đến đúng đối tượng xử lý theo ý kiến của lãnh đạo văn phòng hoặc của thủ trưởng cơ quan.
Người nhận văn bản phải ký nhận đầy đủ vào sổ nhận tài liệu. Đối với những cơ quan lớn,
có nhiều đơn vị đóng không cùng một chỗ thì mỗi đơn vị có sổ giao nhận riêng.
Việc chuyển giao những văn bản có dấu mật phải chú ý, khi chuyển thì chuyển
cả bì có ghi dấu hiệu mật đến người nhận xử lý. Nếu cơ quan nào có số lượng văn bản
mật nhiều, thì làm sổ chuyển giao văn bản mật riêng. Trường hợp số lượng văn bản
mật ít, thì sử dụng chung sổ chuyển giao văn bản thường, nhưng phải thêm cột ghi
mức độ mật.
- Tổ chức giải quyết và theo dõi việc giải quyết văn bản đến: Thủ trưởng cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm chỉ đạo giải quyết kịp thời những văn bản đến. Căn cứ
nội dung của văn bản đến, thủ trưởng cơ quan giao cho đơn vị, hoặc cá nhân giải
quyết. Đơn vị, cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết văn bản đến theo thời
hạn được pháp luật quy định hoặc theo quy định riêng của từng cơ quan, tổ chức.
Thủ trưởng cơ quan, tổ chức có thể giao cho lãnh đạo văn phòng, phòng hành
chính theo dõi, đôn đốc việc giải quyết văn bản đến. Lãnh đạo văn phòng, phòng hành
chính thường xuyên thông báo những văn bản đến và tiến độ giải quyết văn bản đến tại
các cuộc họp giao ban của cơ quan, tổ chức.
- Sao văn bản đến: Trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, thường xuyên phải thực
hiện sao văn bản đến. Theo quy định của pháp luật hiện nay, các bản sao phải được trình bày
theo thể thức quy định. Có ba hình thức sao là sao y bản chính, sao lục và trích sao.
3.4. Công tác lập hồ sơ
3.4.1. Các khái niệm
Hồ sơ: Hồ sơ là một tập gồm toàn bộ (hoặc một) văn bản, tài liệu có liên quan
với nhau về một vấn đề, một sự việc, một đối tượng cụ thể hoặc có cùng một (hoặc
một số) đặc điểm chung về thể loại hoặc tác giả hình thành tài liệu trong quá trình giải
quyết công việc thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân.
Lập hồ sơ: Lập hồ sơ là quá trình tập hợp, sắp xếp tài liệu hình thành trong quá trình
theo dõi, giải quyết công việc thành hồ sơ theo những nguyên tắc và phương pháp nhất
định. Mỗi hồ sơ có thể là một hoặc nhiều tập, mỗi tập là một đơn vị bảo quản.
3.4.2. Tác dụng của việc lập hồ sơ. Lập hồ sơ sẽ có tác dụng :
- Tra tìm tài liệu được nhanh chóng khi cần thiết;
337
- Làm căn cứ chính xác để giải quyết công việc kịp thời và hiệu quả;
- Bảo đảm cho việc quản lý tài liệu được chặt chẽ và giữ gìn bí mật;
- Tạo điều kiện tốt cho công tác lưu trữ.
3.4.3. Yêu cầu của việc lập hồ sơ
Hồ sơ được lập ra phải phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Tài liệu trong hồ sơ phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải phản ánh
đúng trình tự diễn biến của sự việc.
Tài liệu trong hồ sơ phải có giá trị.
3.4.4. Lập danh mục hồ sơ
Khái niệm: Danh mục hồ sơ là bản kê những hồ sơ mà cơ quan, đơn vị cần phải
lập trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Tác dụng của danh mục hồ sơ :
- Danh mục hồ sơ giúp cho việc phân loại, sắp xếp tài liệu và lập hồ sơ trong cơ
quan, đơn vị được chủ động, hợp lý, khoa học, thuận tiện;
- Giúp cho cán bộ trong cơ quan lập được hồ sơ đầy đủ, chính xác;
- Giúp cho cán bộ lưu trữ làm căn cứ kiểm tra, đôn đốc việc lập hồ sơ công việc
của cán bộ chuyên môn;
- Giúp lãnh đạo cơ quan, đơn vị nắm được toàn bộ công việc của cơ quan, đơn
vị và công việc của từng cán bộ thừa hành trong cơ quan;
- Là cơ sở để thực hiện tốt công tác thu thập tài liệu vào lưu trữ cơ quan và là cơ
sở để các cá nhân giao nộp tài liệu vào lưu trữ.
Lập danh mục hồ sơ: gồm các bước sau đây.
- Từng cán bộ công chức căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, chương trình, kế
hoạch công tác trong năm tới và nhiệm vụ cụ thể của mình để dự kiến những hồ sơ cần
lập;
- Cán bộ phụ trách trong đơn vị tập hợp các bản dự kiến của từng cá nhân trong
đơn vị, bỏ những hồ sơ trùng lặp, bổ sung những hồ sơ còn thiếu thành bản danh mục
hồ sơ của đơn vị;
- Văn phòng (hoặc phòng hành chính) tổng hợp những danh mục hồ sơ của các
đơn vị, xây dựng danh mục hồ sơ của cơ quan;
- Bản danh mục hồ sơ phải được thủ trưởng cơ quan duyệt và ban hành cho
toàn cơ quan thực hiện.
Danh mục hồ sơ mỗi năm làm một lần vào tháng cuối năm để sử dụng cho năm
sau. Đối với những cơ quan, tổ chức có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ ổn định
thì chỉ cần lập danh mục hồ sơ một lần, những năm sau chỉ bổ sung, điều chỉnh cho
phù hợp với chương trình kế hoạch mới và tiếp tục sử dụng.
338
3.4.5. Tổ chức lập hồ sơ
Mỗi đơn vị, tổ chức trong cơ quan giữ một bản danh mục hồ sơ của đơn vị mình
để làm căn cứ lập hồ sơ.
Cán bộ, công chức, nhân viên căn cứ danh mục hồ sơ để xác định những hồ sơ
mình phải lập và chuẩn bị bìa hồ sơ. Trong quá trình giải quyết, theo dõi công việc thu
thập tài liệu vào hồ sơ.
Văn thư cơ quan căn cứ vào danh mục hồ sơ để ghi số, ký hiệu hồ sơ vào cột
“Lưu hồ sơ” trong sổ đăng ký văn bản đi, đến và dấu đến. Ngoài ra, lập những hồ sơ
thuộc trách nhiệm của văn thư cơ quan.
Cuối năm, các cá nhân, các đơn vị căn cứ vào danh mục hồ sơ mà tổng hợp hồ
sơ đã lập, sắp xếp lại hoàn chỉnh, khi nào đến hạn nộp lưu thì nộp vào lưu trữ cơ quan.
Những hồ sơ mà còn cần được sử dụng lâu dài, chưa nộp được vào lưu trữ thì ghi chú
vào danh mục hồ sơ.
Danh mục hồ sơ là bản dự kiến trước cho nên có thể chưa đúng hoàn toàn với
thực tế. Vì vậy trong quá trình giải quyết cần theo dõi, điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế tình hình các công việc và giải quyết công việc của cơ quan. Nếu có việc mới
phát sinh cần bổ sung vào danh mục hồ sơ. Ngược lại, những công việc đã dự kiến
nhưng thực hiện, không hình thành hồ sơ thì ghi rõ vào cột ghi chú “Không thành hồ
sơ”.
**************
Câu hỏi thảo luận
1. Phân biệt thể thức công văn với văn bản có tên loại khác.
2. Trình bày chức năng sử dụng và soạn thảo một quyết định, tờ trình, báo cáo
có nội dung liên quan đến lĩnh vực văn hóa, xã hội.
3. Trình bày các nguyên tắc quản lý văn bản trong cơ quan; trình bày nhiệm vụ
của cán bộ văn hóa xã hội trong hoạt động ban hành và quản lý văn bản trong lĩnh vực
văn hóa xã hội.
4. Lập Danh mục hồ sơ liên quan đến hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa- xã hội.
Tài liệu tham khảo
- Sách tham khảo
1) PGS. TSKH Nguyễn Văn Thâm và TS Lưu Kiếm Thanh: Hướng dẫn kỹ
thuật nghiệp vụ hành chính – Nxb Thống kê, 2003
2) GS. TSKH Nguyễn Văn Thâm: Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý nhà
nước, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
3) TS Lưu Kiếm Thanh: Hướng dẫn soạn thảo văn bản quản lý hành chính,
Nxb Thống kê, 2004.
339
- Văn bản pháp luật về Soạn thảo văn bản và quản lý văn bản
1. Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính phủ: Thông tư số 01/2011/TTLT-BNV-VPCP
của Bộ Nội vụ - Văn phòng Chính phủ ngày 19/01/2011 Hướng dẫn thể thức và kỹ
thuật trình bày văn bản hành chính
2. Chính phủ: Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 8/4/2004 của Chính phủ về
công tác văn thư
3. Chính phủ: Nghị định số 09/2010/NĐ-CP ngày 8/2/2010 của Chính phủ sửa
đổi bổ sung Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 8/4/2004 của Chính phủ về công tác
văn thư
4. Cục Lưu trữ nhà nước: Công văn số 608/LTNN-TTNC ngày 19/11/1999 của
Cục Lưu trữ Nhà nước Hướng dẫn ứng dụng công nghệ thông tin trong văn thư lưu
trữ
5. Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước: Công văn số 425/VTLTNN-NWTW ngày
18/7/2005 của Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước hướng dẫn quản lý văn bản đi, văn bản
đến.