99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, lý do chọn đề tài 1.1. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là m ột trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho trào lưu văn h ọc hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguy ễn Công Hoan còn là m ột cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở nhi ều thể loại khác nhau, trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các truy ện ngắn của ông được xếp và o truy ện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr. 181]. Sáng tác c ủa Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế hệ độc giả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đào sâu để tìm tiếp những " vỉa vàng" lấp lánh. Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân ngh ệ thuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện ngắn. Hơn hai mươi năm c ầm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp sáng tác của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê bình "nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những " địa tầng" mới trong thế giới nghệ thuật của ông. Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truy ện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ quát của văn học thế giới.

Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Embed Size (px)

DESCRIPTION

http://tailieu.vncty.com/index.php

Citation preview

Page 1: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

MỞ ĐẦU

1. Mục đích, lý do chọn đề tài

1.1. Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) là một trong những nhà văn xuất

sắc của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông được coi là người mở đầu cho

trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Nguyễn Công

Hoan còn là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, dẻo dai, một tài năng xuất

sắc. Hơn nửa thế kỉ cầm bút nhà văn để lại một số lượng lớn các tác phẩm ở

nhiều thể loại khác nhau, trong đó nổi bật là truyện ngắn. Nhiều trong số các

truyện ngắn của ông được xếp vào truyện hay, có ý nghĩa tiêu biểu cho nền

văn học dân tộc. Chúng ta có thể sánh ông với những nhà văn viết truyện

ngắn trào phúng nổi tiếng nhất như Guy dơ Mopatxang, Sekhov…. [37,tr.

181]. Sáng tác của Nguyễn Công Hoan có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều th ế

hệ độc g iả, cho tới nay vẫn được tiếp tục khám phá và đào sâu để tìm tiếp

những " vỉa vàng" lấp lánh.

Sekhov (1860 - 1904) là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế

kỷ XIX, là nhà văn, nhà cách tân nghệ thuật mới mẻ trong lĩnh vực truyện

ngắn. Hơn hai mươi năm cầm bút, Sekhov để lại một khối lượng lớn truyện

ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới. Sự nghiệp

sáng tác của ông vẫn luôn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê

bình "nghĩ tiếp" và khơi sâu vào những " địa tầng" mới trong thế giới nghệ

thuật của ông.

Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan và truyện ngắn Sekhov vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc

trong nước và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, truyện ngắn của hai nhà văn này

vừa mang những giá trị dân tộc đặc thù vừa đạt được những giá trị chung phổ

quát của văn học thế giới.

Page 2: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

1.2. Đối với bạn đọc Việt Nam, Nguyễn Công Hoan rất quen thuộc và

gần gũi. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông.

Sekhov cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc Việt

Nam. Ở Nga đã có hẳn một ngành Sekhov học, với nhiều công trình nghiên

cứu về Sekhov. Nhưng cho đến nay, chưa có một công trình chuyên biệt nào

xem xét thế giới nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn

Sekhov trong mối quan hệ so sánh. Vì vậy chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài

“Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn

Sekhov”. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng tìm ra những nét tương đồng trong

việc tổ chức hệ thống nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn, chỉ ra những

hiệu quả nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ của cách thức tổ chức đó; tìm ra những

nét khác biệt thể hiện cái độc đáo, cái sắc nét của mỗi nhà văn với đặc trưng

dân tộc, đặc trưng văn hoá khác nhau.

1.3. Trong khoa học giáo dục Việt Nam, Nguyễn Công Hoan và Sekhov

là hai tác gia trong số các tác gia tiêu biểu được đưa vào chương trình giảng

dạy ở nhà trường.Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đóng góp một

cách “đọc, hiểu” mới tác phẩm của hai nhà văn nói riêng và tác phẩm văn

chương nói chung. Điều này bổ sung và làm mới cách thức tiếp nhận văn học,

cũng như công tác giảng dạy của chúng tôi trong nhà trường. Đồng thời đề tài

của chúng tôi góp một phần nhỏ bé vào việc chứng tỏ vai trò của bộ môn văn

học so sánh - một bộ môn khoa học có tính chất quốc tế mà hiện nay đang

được giới nghiên cứu văn học nghệ thuật trên thế giới nói chung và ở Việt

Nam nói riêng quan tâm.

2. Lịch sử vấn đề

Với đề tài “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và

Sekhov”, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật,

Page 3: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn. Từ những tài liệu thu

thập được chúng tôi có những nhận xét sau:

2.1. Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn

Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến “ một đời văn lực lưỡng” . Ông

không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự hình thành và phát triển của trào

lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 mà còn có công xây dựng nên

một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan

luôn thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn

học trong mấy chục năm qua.

Nguyễn Công Hoan đã gây được sự chú ý của dư luận ngay từ tập truyện

ngắn đầu tiên “Kiếp hồng nhan”, xuất bản năm 1923. Nhưng phải đến những

năm 1929 – 1933 nhà văn mới thực sự khẳng định mình bằng những truyện

ngắn in ở mục Xã hội ba đào ký trong An Nam tạp chí do Tản Đà chủ trương.

Những truyện ngắn này được độc giả yêu thích. Tên tuổi của nhà văn chuyên

viết những “cảnh đi xuống của xã hội” đã nhanh chóng trở nên quen thuộc

với bạn đọc. Tháng 6 – 1935, khi tập truyện ngắn “ Kép Tư Bền” ra đời, sáng

tác của Nguyễn Công Hoan đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và thu hút

được sự quan tâm đặc biệt của giới phê bình.. Tập Kép Tư Bền đã mở đầu cho

trào lưu văn học tả chân xã hội, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội.. Với

Nguyễn Công Hoan, Kép Tư Bền có thể xem là mốc đánh dấu trong đời văn

chương Ông viết: “ việc cuốn Kép Tư Bền được hoan nghênh làm tôi tin rằng

tôi có thể viết nổi tiểu thuyết và tôi có thể theo đuổi được nghề văn"

[35, tr.118].

Tập truyện với nghệ thuật độc đáo mới lạ, đã thu hút được đông đảo bạn

đọc trong cả nước, Họ chú tâm nhiều hơn đến những tác phẩm hiện thực của

Nguyễn Công Hoan. Năm đó Kép Tư Bền là tậ p truyện được đánh giá hay

nhất, được mười tám tờ báo Bắc, Trung, Nam viết bài khen ngợi và trở thành

Page 4: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

đề tài cho một cuộc tranh luận về nghệ thuật. Phái nghệ thuật vị nhân sinh của

Hải Triều đã viết nhiều bài đanh thép để công kích phái nghệ thuật vị nghệ

thuật của Hoài Thanh. Khi cuộc tranh luận đang trong độ gay cấn nhất thì Hải

Triều đọc được Kép Tư Bền. Kép Tư Bền trở thành cứu cánh đưa phái Nghệ

thuật vị nhân sinh đến thắng lợi. Trong một bài bút chiến Hải Triều có viết: “

Cái chủ trương Nghệ thuật vị nhân sinh của tôi ngày nay đã được biểu hiện

bằng những bức tranh linh hoạt dưới ngòi bút tài tình của văn sĩ Nguyễn

Công Hoan”[66, tr.64]

Sau khi tập truyện Kép Tư Bền ra đời, Thiếu Sơn đã xếp Nguyễn Công

Hoan và Tam Lang ở cùng một phái " tả chân xã hội" và cho rằng: " Cũng như

Tam Lang, tác giả của Kép Tư Bền ưa nói đến những bề trái của xã hội, ưa

phanh phui, bày tỏ những cái hèn kém, xấu xa gian tà, độc ác của người đời"

và cuối cùng tác giả đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả

(...) ". Cái đặc sắc của ông Hoan là ỏ chỗ biết quan sát những cái gì chung

quanh mình, biết kiếm ra những câu truyện tức cười, biết vẽ người bằng

những nét ngộ nghĩnh thần tình, viết vấn đáp bằng những giọng hoạt kê lý thú

và biết kết cấu thành những tấn bi hài kịch (...) còn nói về cái tài vẽ người của

ông thì thật là tuyệt diệu, có lẽ không thua gì những Carcteres và Paraits của

La Bruyere" [71, tr.441- 442].

Trần Hạc Đình khi nhận xét về “Kép Tư Bền”, qua nghệ thuật khắc hoạ

tính cách nhân vật có viết "Ông ưa tả , ưa vẽ cái xấu xa, hèn mạt đê tiện của

cả một hạng người xưa nay vẫn đeo cái mặt lạ giả dối. Hạng người này có

gặp ở đời, ta thường lầm vì cái bề ngoài mà phải kính trọng nể nang họ” và

tác giả kết luận “Nhà văn ở đây vô tình lại có cái đau đớn, khổ sở lầ m than

của hạng người cùng đinh nghèo khổ và cái giả trá xấu xa bất lương của bọn

quyền quý trưởng giả, nhà văn đã nhận thấy rằng: “cái xã hội hiện thời đầy

Page 5: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

rẫy sự ô trọc, giả dối lại xây lên trên mọi sự bất bình, là một xã hội cần phải

đạp đổ”” [17, tr.40].

Về thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc

Phan đã nhận định : “Ông miêu tả đủ hạng người trong xã hội, nhưng ít khi

ông tả những ý nghĩ của họ nhất là những điều u uất của họ thì không bao giờ

ông đả động, bao giờ cũng đặt họ vào một khuôn riêng, đó là khuôn lễ giáo

hay phong tục mà họ đã " ra trò" với những bộ mặt phường tuồng của họ”

[64, tr.1078]

Trên đây là những ý kiến đánh giá và phê bình về thế giới nhân vật được

miêu tả, khắc hoạ trong truyện ngắn Nguyễn công Hoan trước năm 1945. Sau

năm 1945 các nhà nghiên cứu đi vào khai thác sâu hơn về thế giới nhân vật

trong truyện ngắn của ông và đi đến những ý kiến thống nhất về nghệ thuật

mô tả nhân vật, xây dựng tính cách nhân vật, chân dung nhân vật trong truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan.

Nhóm tác giả trong cuốn Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam có nhận xét

về nghệ thuật khắc hoạ nhân vật như sau: " ông có sở trường về cách mô tả tư

cách hèn hạ, đê tiện hết chỗ nói của bọn quan lại sâu mọt, bọn nha lại, bọn

hãnh tiến giầu có, sang trọng và khinh người" [ 9, tr.101].

Nói về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Công Hoan qua thủ pháp

nghệ thuật trào phúng, Trương Chính lại cho rằng: "cách vẽ phóng đai, cách

vẽ biếm hoạ của nghệ thuật gây cười... cách tập trung tất cả những cái xấu về

hình thức cũng như về tư tưởng vào nhân vật phản diện không phải là cách

sáng tạo điển hình. Cách đó sẽ làm cho nhân vật kỳ dị, méo mó, không thật.

Bệnh công thức, bệnh sơ lược bắt đầu từ đây chứ còn từ đâu nữa" [8, tr.169]

Tại cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tác giả Nguyễn Trác nhận định:

"Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một tấn trò đời rộng rãi và phong phú,

ông chỉ cốt khám phá trong hiện thực, những mâu thuẫn, những cảnh tượng

Page 6: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

trái và phản nhau…. Thế giới của Nguyễn Công Hoan là thế giới những

những kẻ khốn khổ đáng thương. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan người

đọc như được trực tiếp sống giữa cái xã hội khốn cùng của những con người

dưới đáy, những thói hư tật xấu của đám thanh niên tiểu tư sản thành thị chạy

theo lối sống "Âu hoá". Hoặc “khi nhân vật ông miêu tả vừa là kẻ có tiền, có

quyền vừa có nhân cách và hành động trái ngược với thứ đạo đức ông ưa, thì

ông lên án bằng cả lý trí và tình cảm. Tiếng cười đả kích của ông sảng khoái,

nhân vật của ông sống, tác phẩm của ông thành công” [75, tr.222].

Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển văn học - tập 2 đánh giá về nghệ

thuật khắc hoạ tính cách nhân vật của Nguyễn Công Hoan: "Mỗi nhân vật nhà

văn thường chỉ nêu lên một nét tính cách cơ bản, bộc lộ qua hành động ngôn

ngữ, tình huống nào đó (...). Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

chưa có bề sâu tâm lý. Song không vì vậy mà chúng không chân thực, không

sinh động. Có thể nói trái lại, chỉ bằng vài nét vẽ, nhà văn đã phác ra được

một bộ mặt, một tư thế, một chân dung khá sinh động với nét tâm lý chủ yếu

nổi bật, phù hợp với bản chất xã hội nhân vật" [39, tr.56].

Vũ Ngọc Khánh trong Thơ văn trào phúng Việt Nam , có viết về thủ pháp

nghệ thuật, cách mô tả nhân vật của Nguyễn Công Hoan như sau: "Thủ pháp

quen thuộc và độc đáo của Nguyễn Công Hoan là hay làm cho bộ mặt đối

tượng trở nên méo mó hơn, lố bịch hơn để bản chất ti tiện của nó được nổi rõ

hơn" [38, tr.375].

Nhóm Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu Trong cuốn Văn học Việt Nam giai

đoạn giao thời 1900 - 1930 nhận xét về ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan, cho rằng: "Đọc ông, độc giả phân biệt rõ đâu là ngôn

ngữ của tác giả đâu là ngôn ngữ nhân vật và mỗi nhân vật đều có ngôn ngữ

của riêng mình. Với Nguyễn Công Hoan, có thể nói truyện ngắn hiện đại và

ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành" [13, tr.386]

Page 7: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt

Nam đã nhận xét như sau: “Với số lượng khá lớn như vậy… Nguyễn Công

Hoan đã hợp thành một bức tranh rộng lớn khá đầy đủ về xã hội cũ. Hầu hết

trong xã hội thực dân phong kiến đều có mặt: nông dân, công nhân, tiểu tư

sản, trí thức làm các nghề tự do như thầy thuốc, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,

các nghệ sĩ, tư sản, các nhà buôn, nha thầu khoán, địa chủ, quan lại, cường

hào,nghị viên, công chức, học sinh đứa ở, phu xe, kẻ cắp, anh hát xẩm, chị

bán hàng rong, binh lính, bồi bếp…từ các giai cấp bị bóc lột, các giai cấp

thống trị và các tầng lớp trung gian cho đến những người ở dưới đáy của một

xã hội hết sức phức tạp”. “Quả thật, Nguyễn Công Hoan là một nhà văn có

tài xây dựng nhân vật phản diện (...) việc xây dựng nhân vật phản diện cho

phép nhà văn được tô đậm khuếch ®¹i những nét tiêu biểu” [14, tr.351]

Nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan nhiều nhất phải kể đến Lê Thị Đức

Hạnh, với những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể, bà đã chỉ ra được

những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Khi nhận

xét về cách miêu tả nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, bà

viết: “Cách miêu tả nhân vật trong sự đối lập giữa hai sự vật bản chất khác

nhau, giữa bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức..." [28, tr.58]

Nhận xét về chân dung nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,

tác giả Hoàng Anh trong Văn tập 39 khẳng định: "Những chân dung Nguyễn

Công Hoan vẽ nên là những ký hoạ hoặc biếm hoạ linh hoạt, không chỉ đặc tả

tính cách của từng loại nhân vật qua cái thần của họ, mà xếp bên cạnh nhau

còn hiện lên lồ lộ bức tranh toàn cảnh của xã hội thực dân nửa phong kiến,

mặc dù chúng cố tình che đậy, giấu giếm sau tấm phông loè loẹt, mỹ miều"

[67, tr.54]

Nhìn dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử nhận xét: "Con người

trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan là con người bị tha hoá,

Page 8: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

vật hoá, sống và hoạt động hầu như phi nhân tính. Thế giới truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan là thế giới làm trò, nhân vật là những kẻ làm trò”

[21, tr.142]

Những tổng hợp ý kiến trên, một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật của

Nguyễn Công Hoan trong nền văn học Việt Nam hiện đại, một mặt đã ít nhiều

chú ý đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Từ những

ý kiến đó đã gợi ý cho chúng tôi khi thực hiện đề tài.

2.2. A.Sekhov và truyện ngắn

Nhà văn lão thành Nga Grigôrôvich là người đầu tiên có công phát hiện

và đưa ra ý kiến đánh giá mang tính dự báo về tài năng nghệ thuật độc đáo

của Sekhov. Đồng thời ông còn khích lệ cổ vũ và xác định ưu thế vượt trội

của tác giả trong thể loại văn học này: “Tôi rất kinh ngạc về sự độc đáo của

các chi tiết trong truyện, và nhất là tính trung thực, chân xác sâu sắc trong

việc mô tả các nhân vật và cả thiên nhiên nữa (...), anh đã có khả năng phân

tích nội tâm rất sâu, cả tài tả cảnh điêu luyện” [20, tr.161-162]

Yêu mến tài năng nghệ thuật của nhà văn Sekhov, đại văn hào Nga

L.Tonxtoi không chỉ coi ông như một người kế tục và thừa hưởng đầy đủ

truyền thống văn hoá, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn là người cách

tân của văn học Nga. “Điều chủ yếu là bao giờ Sekhov cũng chân thành, và

đó là phẩm chất cao quý của nhà văn, nhờ đó mà Sekhov đã sáng tạo ra được

những hình thức viết mới, hoàn toàn mới” [20, tr.330] hoặc “đây là một viên

ngọc, một ngôn từ tuyệt diệu. Cả Tuôcghênhep và Gônsarôp, cả tôi không ai

viết được như ông ta” [58, tr.41]. Nhận xét này có ý nghĩa định hướng và cổ

vũ A.sêkhov vững tin sáng tạo.

G.N. Pospelôp với chuyên luận “Dẫn luận nghiên cứu văn học”, khi xây

dựng lý thuyết về cốt truyện cũng đánh giá quan trọng về những cách tân

nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn: “ Cơ sở của truyện không phải là

Page 9: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

các sự kiện đột biến, mà là những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân

vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, sự cảm thụ và lý giải các hiện

tượng và sự thực ngày càng mới, những sự bừng sáng của trí tuệ, các bước

chuyển hoá từ quan niệm hư ảo đến cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc có tính phê

phán đối với thế giới, hoặc là ngược lại, ngày càng phụ thuộc vào sức ỳ của

cái tầm thường”[63, tr.42]

M.Gorki là người rất say mê Sekhov. Ông đã nhận xét: “Sự tầm thường

ti tiện là kẻ thù của anh, suốt đời anh đã đấu tranh với nó, bắt nó hiện nguyên

hình nghiêm khắc qua ngòi bút của anh, anh biết moi móc ra vết mốc meo hôi

hám của nó ở ngay chỗ mà mới nhìn tưởng như mọi vật đều sắp đặt khéo léo

và có vẻ choáng lộn nữa” [59, tr.36]. Đồng thời ông cũng khẳng định tinh

thần nhân đạo trong tác phẩm Sekhov: “Mỗi một truyện của Sekhov đưa ra, là

nhấn sâu thêm vào cái điểm dũng cảm và yêu thương cuộc đời, nó là một

điểm rất quý và rất cần cho chúng ta”… “ Mỗi một truyện ngắn là một cái

thảm kịch nhỏ, nó cảm người một cách sâu sắc” [78, tr.258]

M.Gorki đã có những nhận xét chân thành và sâu sắc về tính hiện thực

trong sáng tác của Sêkhov: "Tất cả những con người ấy, kẻ xấu cũng như

người tốt, đều sống trong câu chuyện của Sekhov đúng như họ sống trong

hiện thực. Trong các truyện ngắn của Sekhov, không hề có một cái gì mà lại

không có thật trong cuộc sống. Cái sức mạnh khủng khiếp của tài năng ông,

chính là ông không bịa đặt ra một cái gì, “không có trên đời này”, tuy có thể

là tốt đẹp, có thể là đáng mong ước. Ông không bao giờ tô vẽ cho con

người...” [22, tr.5]

Nhận xét về đầu óc nô lệ trong thế giới nhân vật của Sekhov M. Gorki

viết: “Trước mắt ta diễu qua cả một chuỗi dài vô tận những kẻ nô lệ và nô tỳ

của tình yêu, của sự ngu dại và của thói lười biếng, của sự tham lam đối với

những lạc thú trần gian; đó là nhưng kẻ nô lệ của một nỗi sợ hãi, tối t ăm

Page 10: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

trước cuộc sống, họ quằn quại trong một nỗi lo âu mơ hồ và trút ra những lời

lẽ đầu Ngô mình Sở về tương lai vì cảm thấy trong hiện tại không có chỗ cho

mình đứng...” [22, tr.5]

Là đại diện xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga cuối thế kỷ

XIX Sekhov được giới thiệu ở Việt Nam khá sớm. Nhiều nhà văn Vi ệt Nam

say mê Sekhov như Nguyễn Tuân, Nam Cao. Những truyện ngắn đầu tiên của

Sekhov được dịch ra tiếng Việt từ năm 1943. Nguyễn Tuân đã có bài nghiên

cứu đầu tiên về ông. Đến nay ở Việt Nam A.Sêkhov được coi là một tài năng

đặc biệt, được hâm mộ và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng.

Nhà văn Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu ở tập truyện ngắn Sekhov, đã

nhận xét: “Trong sáng tác, Sekhov không chen vào mà giải quyết vấn đề,

hoặc gián tiếp giải quyết bằng nhân vật này khác. Sekhov cho ta thấy, cho ta

xem hết ông nọ bà kia, cho ta gặp nhưng thằng, những con người và như ngụ

ý hỏi lại những người đồng điệu chúng ta rằng: “ Trò đời là vậy đó? Vậy thì

có nên để nó tồn tại thế không? Có nên bắt chước họ sống một cách tồi tàn,

bậy bạ như thế không?” [77, tr.14]

Nhấn mạnh cái tính chất ban đầu, tính chất khởi điểm trong cách miêu tả

nhân vật của Sekhov, Hoàng Xuân Nhị nhận xét: “lần đầu tiên trong văn học

Nga và thế giới chúng ta thấy toàn bộ sáng tác của nhà văn tập trung vào

biểu hiện những con người nhìn bề ngoài mà nói rất tầm thường, biểu hiện

cảnh sống buồn chán, nghẹt thở, đau thương của họ”[ 65, tr.79]

Dịch giả Đỗ Khánh Hoan cho rằng: Thế giới nhân vật Sekhov "là một

nhân loại nho nhỏ", qua đó ông nhấn mạnh tính phức tạp của những "mảnh

đời" những "mảng sống" của đủ mọi hạng người trong xã hội. Nhà nghiên

cứu Phan Hồng Giang đã đưa ra những nhận định để khái quát số lượng nhân

vật đông đảo, nhân vật trong truyện ngắn của Sekhov "đó là những cảnh

tượng đông đúc huyên náo thật đáng kinh ngạc, hàng nghìn con người, chải

Page 11: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

chuốt và bê tha… nói tóm lại chúng ta sẽ gặp được cả một thế giới trên cái

đường phố tưởng tượng kia một thế giới thu nhỏ dường như thật hơn, cô đọng

hơn, vừa xấu xa hơn mà cũng vừa cao cả hơn" [20, tr.12]

Năm 2004 ở Việt Nam đã có một cuộc hội thảo kh oa học kỉ niện 100

năm ngày mất Sekhov. Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến về nhân vật trong

truyện ngắn Sekhov.

Đi sâu tìm tòi những cái mới trong truyện ngắn Sekhov, Nguyễn Hải Hà

đã chú trọng khám phá “Sekhov không trực tiếp miêu tả nhân vật như

F.Dostoievski, L.Tonxtoi nhưng ông vẫn quan tâm đến thể hiện tâm lý theo

cách riêng của mình, qua hành động, đối thoại, cảm nhận thiên nhiên và qua

chân dung nữa". Đồng thời chú ý đến bút pháp nghệ thuật trong miêu tả chân

dung của Sekhov, ông viết: "Ông rất chú trọng đến chân dung nhân vật, nắm

bắt tâm lý của nó". [22, tr.6]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hải Hà trong bài Cái mới

trong truyện ngắn Sekhov, đã chỉ ra thói tật nô lệ của những nhân vật trong

truyện ngắn của Sekhov: “Có thể nói thói nô lệ ngấn sâu và đầu độc người

lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức, viên chức, quan nhân, thương gia, sinh

viên, nông dân, “ những con người không biết kính trọng cái phẩm giá làm

người của mình, đành tâm ngoan ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những

kẻ nô lệ”[22, tr.5]. Sekhov muốn giúp con người “chắt lọc, loại bỏ khỏi con

người mình từng giọt nô lệ”.

Phạm Xuân Nguyên cũng gặp gỡ Nguyễn Hải Hà khi khẳng định tài

năng của Sekhov trong miêu tả tâm lý nhân vật "... Sekhov có biệt tài khám

phá những khả năng kinh ngạc của bản tính con người, sự phân tích tâm lý

của ông rất sâu sắc và linh động”[57, tr.6].

Trong bài Sekhov - Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, Nguyễn Trường

Lịch lại chú ý tới giọng điệu, điểm nhìn của người thuật truyện như: “lối dẫn

truyện khách quan, sự vắng mặt cả người thuật truyện. Ông đã chứng minh

Page 12: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

cho các luận điểm của mình bằng các tác phẩm như Người đàn bà có con

chó nhỏ, Hai kẻ thù....” [44, tr.89]

Đến với thế giới nhân vật đông đảo của Sekhov nhiều nhà nghiên cứu

khẳng định lần đầu tiên trong văn học những con người bình thường trong

cuộc sống chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Sekhov…. Nói cách

khác, có thể khẳng định "gu" thẩm mĩ hay cái tạng của Sekhov là "nhà văn

của đời thường”.

Như vậy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Sekhov là nhà văn của

tầng lớp bình dân, nhân vật của ông chỉ loay hoay với cuộc sống đời thường

với những lo lắng tủn mủn về vật chất, những biến động tinh thần không lớn

lắm trong từng nhân vật. Tuy nhiên, với tài năng của mình, thông qua cái thế

giới nhân vật sám xịt ấy, Sekhov đã phản ánh và nói lên được những vấn đề

nóng bỏng của xã hội Nga hoàng lúc bấy giờ.

Với một loạt bài viết của mình, Đào Tuấn Ảnh là một trong những người

mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu Sekhov theo lối so sánh loại hình. So

sánh truyện ngắn của Se khov với truyện ngắn của Nam Cao nhà nghiên cứu

đã chỉ ra những tương đồng loại hình trong sáng tác của hai nhà văn thể hiện

ở kiểu truyện “không cốt truyện” , ở nghệ thuật trần thuật (người kể chuyện,

ngôi kể, điểm nhìn…), ở nghệ thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Từ những so

sánh nêu trên nhà nghiên cứu đã hướng tới kết luận về một “chủ nghĩa hiện

thực kiểu mới” mà người mở đầu trong văn học Nga giao thời thế kỉ XIX- XX là

Sekhov, trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 -1945, là nhà văn Nam Cao.

Tóm lại: Từ những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy:

- Về vị trí, vai trò của hai nhà văn viết truyện ngắn Sêkhov và Nguyễn

Công Hoan, hầu hết các ý kiến đều nhất trí khẳng định tài năng cùng những

đóng góp của họ cho văn học nước nhà và văn học thế giới.

Page 13: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

- Các ý kiến đó đều thống nhất khẳng định thế giới nhân vật phong phú,

đa dạng, độc đáo trong truyện ngắn của hai nhà văn.

- Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chưa tập trung phân tích thế giới nhân

vật của hai nhà văn, nhất là đặt nó trong hệ thống tiếp cận thi pháp học. Hơn

nữa, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu và so sánh thế giới nhân

vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov.

- Mặc dù vậy, những ý kiến chúng tôi thu thập trên đều là những gợi

mở, định hướng tốt cho chúng tôi khi lựa chọn và thực hiện đề tài.

3. Phạm vi nghiên cứu

3.1. Thực hiện đề tài, chúng tôi lựa chọn những truyện ngắn tiêu biểu

trong tập Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Công Hoan, Nhà xuất bản Văn học,

Hà Nội 2005 và những truyện ngắn trong Truyện ngắn Sekhov, NXB Văn

học 1978, tập I, II, để khảo sát và trích dẫn. Số lượng tác phẩm ở hai tập

truyện ngắn của hai nhà văn rất nhiều, nhưng chúng tôi chỉ chọn ở mỗi nhà

văn 30 tác phẩm để khảo sát và phân tích . Trước hết, chúng tôi căn cứ vào

yêu cầu về dung lượng của truyện ngắn để chọn tác phẩm. Căn cứ tiếp theo để

chúng tôi lựa chọn là tính tiêu biểu của tác phẩm đã được khẳng định theo

thời gian và quá trình nghiên cứu, tiếp nhận. Đối tượng khảo sát của chúng tôi

là nhân vật và cách thức tổ chức hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn

công Hoan (trước năm 1945) và truyện ngắn Sekhov (tập I, II do Phan Hồng

Giang và Cao Xuân Hạo dịch).

3.2. Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sekhov có thể

có nhiều vấn đề nghiên cứu như : nghệ thuật kết cấu truyện, nghệ thuật xây

dựng nhân vật, thời - không gian nghệ thuật…, nhưng chúng tôi chỉ tập trung

nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và

truyện ngắn Sekhov trên hai phương diện hình thức và nội dung.

Page 14: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

3.3. Từ việc khám phá cách thức tổ chức hệ thống nhân vật, chúng tôi

xem xét hai nhà văn đã cắt nghĩa những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế

kỉ XX, xã hội Nga cuối thế kỉ XIX như thế nào, với những phương thức biểu

hiện nào.

4 Phương pháp nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

4.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: nhằm nghiên cứu so sánh truyện

ngắn của Nguyễn Công Hoan và A.Sêkhov trong tính chỉnh thể

4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học nhằm giải quyết nhiệm vụ đề tài

đặt ra. Phương pháp này cho phép không chỉ dừng lại xem xét tác phẩm nói

lên cái gì mà phải xem còn được nói như thế nào. Trên cơ sở phương pháp

nghiên cứu này chúng tôi sẽ tìm hiểu thông qua việc tổ chức hệ thống nhân

vật trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Công Hoan và Sekhov đã cắt

nghĩa những vấn đề gì của xã hội đương thời.

4.3. Phương pháp so sánh: giúp cho chúng tôi chỉ ra những nét tương

đồng và khác biệt của hai nhà văn, ở hai quốc gia khác nhau trong những điều

kiện lịch sử (dựa trên phông văn hoá khác nhau, lịch đại, lịch sử khác nhau).

Sử dụng phương pháp loại hình nhằm so sánh truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan và Sekhov trên một cấp độ và bình diện cụ thể, để từ đó chỉ ra những

nét tương đồng mang tính phổ quát và cả những nét khác biệt mang tính

đặc thù.

4.4. Phương pháp phân tích tổng h ợp: giúp chúng tôi đi vào phân tích

nhân vật cụ thể nhằm thuyết minh cho những luận điểm, từ đó quy nạp, tổng

hợp lại vấn đề.

5. Những đóng góp mới của luận văn

So sánh thế giới nhân vật trong truyện ngắn của hai nhà văn có “cơ địa

sáng tác” khác nhau này, chúng tôi muốn hướng tới những tương đồng về

Page 15: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

loại hình nhân vật trong truyện ngắn của hai ông, đồng thời chỉ ra những điểm

độc đáo trong phương thức xây dựng thế giới nhân vật của từng nhà văn, qua

đó xác định những đóng góp của hai nhà văn đối với chủ nghĩa hiện thực trong

văn học Việt Nam, văn học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung.

Thực hiện được điều này, luận văn bước đầu đóng góp thêm vào việc tìm

kiếm những cách thức tiếp cận mới sáng tác của Nguyễn Công Hoan, nhằm

phát hiện những giá trị về nội dung, tư tưởng nghệ thuật đang còn tiềm ẩn

trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Điều này bổ sung thêm một cách “đọc

hiểu” hiện tượng văn học được coi là có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình

văn học thế kỉ XX ở Việt Nam. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và

Sekhov.

Chương 2: Nhân vật - những dị tật của xã hội trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan và Sekhov.

Chương 3: Nhân vật - những nạn nhân bi thảm trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan và Sekhov.

Page 16: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

Chương 1:

HỆ THỐNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN CÔNG HOAN VÀ TRUYỆN NGẮN A.SEKHOV

1.1. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

1.1.1. Nguyễn Công Hoan và thời đại

Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977) được xem là một trong những đại thụ

của văn xuôi Việt Nam, là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn học

Việt Nam.

Được sinh ra trong một gia đình nho học thất thế, cuộc sống của anh em

Nguyễn Công Hoan đã trải ra trong khó khăn, vất vả. Nhà nghèo, đông anh

em, Nguyễn Công Hoan phải đến ở với bác ruột - một Phó bảng, làm Tri

huyện. Những năm tháng sống ở nhà bác, Nguyễn Công Hoan chứng kiến rất

nhiều chuyện xung quanh mối quan hệ quan - dân. Chuyện nhà quan, chuyện

làm quan đã để lại những ấn tượng sâu sắc, làm thành ý thức khám phá thời

cuộc ở Nguyễn Công Hoan.

Năm 1926, Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp trường sư phạm, bắt đầu cuộc

sống tự lập của một ông giáo tiểu học. Cuộc đời dạy học của ông không mấy

suôn sẻ. Vốn tinh tường, sắc sảo, trung thực, khảng khái, Nguyễn Công Hoan

không được cấp trên vừa ý. Ông bị chuyển chỗ dạy nhiều nơi. Thị xã Hải

Dương, Thị xã Lao Cai, Thị xã Nam Định, Trà cổ… là những nơi Nguyễn

Công Hoan bị điều đến và dạy học. Mỗi nơi, ông và gia đình không ở quá

được 2 năm. Vất vả, long đong, nhưng bù lại, ông có điều kiện đi nhiều nơi,

biết và khám phá được nhiều điều.

Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu tay “Quyết chí phiêu lưu” (1920) của

Nguyễn Công Hoan ra đời. Năm 20 tuổi, tập truyện ngắn “Kiếp hồng nhan”

ra mắt độc giả. Cũng như “Quyết chí phiêu lưu”, tập “Kiếp hồng nhan”

Page 17: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

không được độc giả đón đợi nhiều. Năm 1935, truyện ngắn “Kép tư bền” ra

đời, gây một tiếng vang lớn trên văn đàn, khẳng định tài năng nghệ thuật, mở

ra một giai đoạn mới, sung sức trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan. Có thể

coi, sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan được bắt đầu từ những năm

20 và thực sự được khẳng định ở những năm 30 của thế kỷ XX, với thể loại

truyện ngắn. Giai đoạn sáng tác truyện ngắn thành công nhất của Nguyễn

Công Hoan được tính từ 1920 đến 1945. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị,

xã hội Việt Nam rất phức tạp, rối ren với tính chất thực dân nửa phong kiến.

Nhà nước phong kiến già nua, lỗi thời, phản động, chế độ thực dân tàn bạo

hiện hữu và cùng với nó là sự đàn áp khốc liệt phong trào đấu tranh của nhân

dân, là phong trào Âu hóa rầm rộ, lố lăng…, sự vận động của phong trào yêu

nước ở các sỹ phu, những manh nha đầu tiên của các tổ chức cộng sản v…v…

là những yếu tố tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, làm biến

đổi đời sống tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, khoa bảng, Nguyễn Công

Hoan chịu ảnh hưởng sâu sắc hệ tư tưởng phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của

Nguyễn Công Hoan là tư tưởng yêu nước, yêu con người. Con gái ông - Nhà

văn Lê Minh - khẳng định: “Cha tôi trước khi là nhà văn đã là một nhà giáo

yêu nước” [81]. Sống trong thời thế rối ren, đảo lộn đó, ông ghi nhận và đồng

tình với tâm lý bất mãn của tầng lớp quan lại thất thế với xã hội nửa Tây, nửa

Tầu nhố nhăng. Ông cũng không chấp nhận, thậm chí cảm thấy bị xúc phạm

bởi sự xu nịnh, luồn cúi của bọn quan lại “thức thời”, lũ “liếm gót giầy cho

Tây”. Ông khinh bỉ bọn hãnh tiến, bọn tư sản chạy theo lối sống Âu hóa đồi

bại. Ông đau đớn trước sự biến đổi khôn lường của những thước đo giá trị cho

những vấn đề, vốn được coi là thiêng liêng. Những khái niệm nghĩa: cha -

con, tình chồng - vợ, bạn bè… đã được thay đổi nội hàm, được đem ra hành

Page 18: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

xử theo kiểu xu thời mẫn thế. Xã hội, nhất là nơi thành thị, nhan nhản những

rởm đời, học đòi, đua chen, bẩn thỉu.

Thời đại, hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống… đã tạo nên ở Nguyễn

Công Hoan một cái nhìn sắc sảo. Ông viết: “Do gia đình tôi là một gia đình

quan lại lỗi thời lép vế, hằn học với bọn quan lại đương lên, ôm chân bọn đế

quốc để có thể có tiền, bản thân tôi làm cái nghề bị bạc đãi là cái nghề dạy

học, lại làm thêm nghề viết tiểu thuyết kiểu tôi, là nghề mà bọn thống trị

chẳng ưa tý nào. Tất cả những cái ấy giáo dục cho tôi nhìn đế quốc, phong

kiến, tư sản bằng con mắt căm thù” [35, tr.282].

Nguyễn Công Hoan là người quan tâm nhiều đến thời cuộc với những

biến đổi khi ồn ào, dữ dội, lúc bình lặng, tinh vi. Không một câu chuyện nào

ngoài đời, không một cảnh tượng nào bất chợt xuất hiện…, lại không được

ông lưu giữ. Một gánh tuồng với những đào kép son phấn lòe loẹt diễu qua

phố lúc chiều muộn, một mẩu tin trên báo đọc hàng ngày, có thể thoáng qua,

vô nghĩa đối với người khác, nhưng với ông lại có giá trị và ông không bỏ

qua. Với lòng yêu nước, với cái nhìn sắc sảo, tỉnh táo, Nguyễn Công Hoan

quan niệm cuộc đời là một sân khấu hài kịch. Ông từng tự bạch : “Tôi là một

người bi quan, hoài nghi, nên khinh thế ngạo vật, hay đùa và hay chế nhạo.

Sống dưới chế dộ thống trị của thực dân, tôi thấy cái gì cũng là giả dối, lừa

bịp, đáng khôi hài. Thế mà thằng làm trò khôi hài là thằng thực dân, lại làm

ra mặt nghiêm chỉnh. Thật là buồn cười. Cho nên tôi hay chế giễu, mỉa mai để

khôi hài tác giả việc khôi hài. Tôi coi thường tất cả. Tất cả đối với tôi chỉ là

trò cười. Vì vậy tôi hay pha trò cười” [35, tr.367].

Cái nhìn thời cuộc, xã hội thuộc địa thực dân phong kiến này của

Nguyễn Công Hoan gặp gỡ cái nhìn của Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng

cũng nhìn thấy sự quay cuồng, hỗn loạn, điên đảo của “xã hội chó đểu”. Ông

cũng phanh phui thực chất sự vô luân lý, vô nghĩa lý của xã hội, khi bố con

Page 19: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

trở thành kẻ thù, vợ chồng hóa ra anh em, nghèo đói trở thành triệu phú, mạt

hạng trở thành vĩ nhân. Có thể nói, cả Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng

Phụng đều nhìn đời là một trò diễn sân khấu đầy bi hài. Bằng cách của riêng

mình, mỗi ông đã giải phẫu những sinh thể quái dị ấy, “xé toạc mọi trạng thái

đang bị che giấu”. Không chỉ nhìn đời bằng con mắt lạnh lùng, kết hợp khôi

hài để chế giễu những trò diễn sân khấu, Nguyễn Công Hoan còn nhìn đời

bằng con mắt trắc ẩn, đầy cảm thông, đau xót. Là một người nhân hậu, sống ở

thời kỳ đất nước bị đô hộ, dân chúng lầm than, đói nghèo, loạn lạc. Ông luôn

khuyên, dạy các con: “Con người sống phải biết căm thù bọn bóc lột và yêu

thương những người cùng khổ [81]

Cái nhìn chân thực, cảm thông đối với những kiếp lầm than như hệ quả

tất yếu của cái nhìn đời là một trò diễn và không hề mâu thuẫn, trái lại, đó là

cái nhìn hiện thực hết sức tinh nhạy, tỉnh táo. Có thể nói, quan điểm đạo đức

phong kiến, dẫu có sâu sắc, cũng không là quan điểm nhìn nhận hiện thực duy

nhất và của Nguyễn Công Hoan. Từ cái nhìn hiện thực nhiều chiều đó,

Nguyễn Công Hoan đã phát hiện mâu thuẫn giầu - nghèo trong xã hội. Đó là

“nỗi ám ảnh thường trực, trở thành ý thức nghệ thuật của Nguyễn Công

Hoan” [37,tr.359].

Ý thức nghệ thuật đã chi phối Nguyễn Công Hoan trong sáng tác chính là

“yếu tố quyết định một tác phẩm bao giờ cũng là sự sống” [35,tr.236]. Ông

luôn đứng về phía những con người nghèo khổ, bần cùng, bị ức hiếp, bóc lột

để lên án bọn giầu có, quyền thế, bất nhân, bất nghĩa. Đó chính là cảm quan

hiện thực khỏe khoắn và tiến bộ cuả ông. Trong thời của ông, khi người ta

đang say sưa với chủ nghĩa lãng mạn, thì Nguyễn Công Hoan dứt khoát chọn

con đường hiện thực phê phán. Sức mạnh thuyết phục của cách thức phản ánh

này là bám rất chặt và o đời sống, nhìn thẳng vào nh÷ng vấn đề của xã hội

đương thời, công khai đả kích, phê phán không thương tiếc những thói hư tật

Page 20: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

xấu, những cái ác, thói rởm đời và bênh vực những con người bé nhỏ, cơ cực.

Mục đích sáng tác mà Nguyễn Công Hoan nhằm tới là “(…) yêu quan ngày

xưa, so sánh với quan ngày nay, sẽ khinh ghét, kinh tởm bọn đỉa đói”.

Để người đọc nhận biết, hiểu được điều mình nói ra, Nguyễn Công Hoan

chú ý khai thác đề tài trong xã hội hiện hành và tìm tới hình thức t ruyện ngắn.

Nguyễn Công Hoan quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện, mà là

một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ,

với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc” [35, tr.301]. Mỗi truyện ngắn “chỉ

có thể tóm tắt bằng một câu, nêu lên một ý” [35, tr.307].

Từ những sự có thật trong cuộc sống, tìm cho nó được hình thức Nguyễn

Công Hoan còn rất chú ý tới kỹ thuật viết để sao cho thích hợp với ngòi bút

trào phúng của mình, đồng thời làm cho truyện nổi rõ tư tưởng, chủ đề. Quan

niệm của Nguyễn Công Hoan về một truyện hay là “dễ hiểu. Người đọc phải

nhận ra được, phải hiểu tác giả định nói cái gì?” [35, tr.132]. Theo Nguyễn

Công Hoan để người đọc hiểu được truyện, nhận thấy được từ truyện những

cái đang có rất nhiều ở ngoài đời, điều căn bản mà nhà văn phải làm là biết sử

dụng chi tiết, phải biết “bớt cái thừa, thêm cái thiếu, nhấn mạnh cái cần ở

trong sự việc có thật” [35, tr.315]. Nguyễn Công Hoan sử dụng chi tiết với tư

cách là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để p hản ánh cuộc sống

với tất cả sự rộng lớn bên trong.

Tóm lại, thời đại, hoàn cảnh xã hội cụ thể, điều kiện gia đình, đã tác

động mạnh mẽ đến quá trình hình thành, phát triển tài năng của Nguyễn Công

Hoan. Hiện thực cuộc sống của một trí thức yêu nước đã trở thành nguồn

nguyên liệu quý giá để Nguyễn Công Hoan kiến tạo nên hệ thống hình tượng

trong sáng tác của mình. Những quan niệm về cuộc đời, về con người đã giúp

nhà văn tìm hiểu, khám phá hiện thực, phản ánh hiện thực một cách sống

động trong tác phẩm.

Page 21: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

1.1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Mỗi tác phẩm nghệ thuật hàm chứa một thế giới nghệ thuật do nhà văn

sáng tạo ra và nó mang tính chỉnh thể. Đó là toàn bộ những yếu tố hợp thành,

cấu tạo nên tác phẩm nghệ thuật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, tạo nên

giá trị thẩm mỹ, tư tưởng và nội dung cho tác phẩm. Đối tượng phản ánh của

thế giới nghệ thuật là hiện thực khách quan. Qua thế giới nghệ thuật, nhà văn

bộc lộ quan niệm về thế giới, con người và cách cắt nghĩa về thế giới đó, con

người đó. Tính chỉnh thể bao hàm cả cách thức tổ chức các yếu tố cấu thành

thế giới nghệ thuật, mang đậm tính sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới nghệ

thuật, thế giới nhân vật được coi là thành tố quan trọng nhất, giữ vị trí trung

tâm. “Có bao nhiêu nhà văn sẽ có bấy nhiêu thế giới nhân vật riêng biệt”

[46,tr.700]. Tạo nên thế giới nhân vật trong tác phẩm là nhân vật và hệ thống

nhân vật. Nhân vật là trung tâm của nhận thức, là nơi tập trung tư tưởng nghệ

thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Từ cái nhìn của tác giả, nhân vật

được khắc họa, miêu tả ở nhiều góc độ và thực hiện những chức năng khác

nhau. Vì vậy, đọc tác phẩm, người đọc tiếp xúc trực tiếp với một hệ thống

hình tượng nhân vật và thông qua đó, nắm bắt được những vấn đề nhà văn đặt

ra, giải quyết.

Thế giới nhân vật được cấu thành bởi nhiều kiểu loại nhân vật với những

đặc điểm tÝnh cách, số phận khác nhau. Chúng bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo

thành một hệ thống, thực hiện nhiệm vụ chuyển tải nội dung tư tưởng của tác

phẩm. Thế giới nhân vật cũng tạo cho tác phẩm sự độc đáo - dấu ấn sáng tạo

của mỗi cá nhân. Từ sự phong phú của thế giới nhân vật người ta có thể phân

loại nhân vật dựa trên những tiêu chí khác nhau. Dựa vào vị trí, vai trò của

nhân vật trong tổ chức tác phẩm, có nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật

trung tâm. Dựa vào phương thức xây dựng nhân vật, có nhân vật tư tưởng,

nhân vật tính cách, nhân vật loại hình và nhân vật chức năng. Tuy nhiên, sự

Page 22: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Dù là kiểu nhân vật nào, thì nhân vật

khi xuất hiện tr ong tác phẩm, cũng đều là kết quả sự lựa chọn của tác giả,

nhằm đạt đến hiệu quả thẩm mỹ cao nhất. Đó chính là đối tượng miêu tả mà

nhà văn tìm đến và mục đích của việc tổ chức đối tượng đó. Từ những vấn đề

lý luận trên, tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan

và Sekhov, chúng tôi dựa trên tiêu chí chung nhất: đối tượng miêu tả và mục

đích phản ánh. Với tiêu chí này, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống nhân

vật trong truyện ngắn. Chúng tôi tiếp tục xem xét, các nhà văn đã cắt nghĩa

những vấn đề thời đại như thế nào qua hệ thống nhân vật đó.

Đề tài và những vấn đề xã hội mà Nguyễn Công Hoan đề cập trong

truyện ngắn rất đa dạng, phong phú. Xuyên suốt các tác phẩm là bức tranh đời

sống, hiện thực xã hội Việt Nam những năm đầu XX phức tạp, đảo điên. Bức

tranh đó được hiện ra với hai mảng mầu đối lập. Một bên là những quan lại,

cường hào, tư sản ăn trên, ngồi trốc. Một bên là những số phận nghèo hèn,

lầm than, khổ nhục.

Khảo sát 30 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi có kết quả sau:

TT Tên tác phẩm

Nhân vật

Ghi

chú Nhân vật là những

dị tật của Xã hội

Nhân vật là những

nạn nhân bi thảm

của xã hội

1 Răng con chó nhà tư sản X

2 Oẳn tà roằn X

3 Hai thằng khốn nạn X

4 Người ngựa ngựa người X

5 Gói đồ nữ trang X

6 Thằng ăn cắp X

7 Báo hiếu trả nghĩa cha X

8 Báo hiếu trả nghĩa mẹ X

Page 23: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

9 Cụ Chánh Bá mất giầy X

10 Mất cái ví X

11 Kép tư bền X

12 Thanh! Dạ! X

13 Đàn bà là giống yếu X

14 Một tấm gương sáng X

15 Cái vốn để sinh nhai X

16 Nhân tài X

17 Xuất giá tòng phu X

18 Được chuyến khách X

19 Quyền chủ X

20 Phành phạch X

21 Chiếc quan tài X

22 Đồng hào có ma X

23 Thằng ăn cướp X

24 Thịt người chết X

25 Sáu mạng người X

26 Sáng, chị phu mỏ X

27 Hé! He! He! X

28 Công dụng của cái miệng X

29 Người thứ ba X

30 Bữa…no đòn X

Tổng số 19 11

Kết quả khảo sát cho chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến rõ rệt. Tuyến

một gồm những nhân vật thuộc lớp quan lại, địa chủ, cường hào, ác bá, tư sản

mới lên. Tuyến này chiếm tỷ lệ tương đối nhiều (19/30) trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, đây là những nhân vật quen thuộc và là

những nhân vật xấu trong xã hội thuộc địa, phong kiến. Đó là bọn nhà giầu,

Page 24: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

cậy quyền cậy thế mà ức hiếp người nghèo. Đó là bọn quan lại, địa chủ, tư

sản, tiểu tư sản với những nét nhơ bẩn cả về vật chất lẫn tinh thần. Loại người

này xuất hiện nhiều trong xã hội nhốn nháo, nửa Tây, nửa Ta, nửa Tầu.

Chúng là sản phẩm tấ t yếu của xã hội đó. Nguyễn Công Hoan đã đưa chúng

vào tác phẩm, tạo điều kiện cho chúng diễn đủ trò. Điều mà Nguyễn Công

Hoan nhìn thấy và muốn chỉ cho mọi người thấy là ở chỗ: xã hội đầy rẫy sự

bất công, lừa bịp, xấu xa, trơ trẽn, bẩn thỉu, nhưng, kẻ thống trị lại cố tìm mọi

cách để che đậy. Đưa chúng vào tác phẩm, Nguyễn Công Hoan phanh phui

những mâu thuẫn đó, phơi bầy những xấu xa, tàn bạo đó. Loại nhân vật này

xuất hiện dưới hai dạng thức. Một là bọn quan lại phong kiến, vô trách nhiệm,

“ăn bẩn” , bọn tư sản hãnh tiến ác độc. Đó là quan huyện, xuất hiện lúc là

Quan, lúc là Huyện Hinh, lúc là Tổng đốc Lê Thăng …; Đó là các cụ chánh

bá, lý trưởng…. Những điển hình này mang tính khái quát về lũ sâu mọt

(nhân danh nhà nước, đại diện nhà nước) chuyên đục kho ét, áp bức dân lành

với đủ mánh khóe, thủ đoạn. Đó là các ông chủ hãng xe hơi, ông chủ báo, nhà

tư sản… vô nhân tính, keo bẩn, độc ác. Hai là hệ thống nhân vật bị đồng tiền

chi phối mà trở nên mất nhân cách, vô liêm sỉ, mất lương tâm. Loại này xuất

hiện tương đối nhiều (10/19) truyện. Cuộc sống xã hội Việt Nam buổi giao

thời hiện ra với bao điều kệch cỡm, xa hoa, lố lăng, nhảm nhí. Thói đạo đức

giả, đểu cáng được phơi bầy trong một loạt các truyện như: “Mất cái ví”,

“Xuất giá tòng phu”…. Hình ảnh ông Tham bày trò mất ví để đuổi khéo cậu

ruột ra khỏi nhà khiến người đọc bật ra tiếng cười khinh miệt. Tiếp nhận hình

ảnh ông chủ hãng xe hơi đuổi mẹ già về quê ngay trong ngày làm giỗ, báo

hiếu cha, thì người đọc chỉ còn biết thở dài cho sự vô sỉ, vô lương tâm ... Và,

không còn gì để nói khi một quan Tham lấy luân thường đạo lý ra dạy vợ, bắt

vợ ngủ với quan trên để tiến thân ... Nguyễn Công Hoan đã tập trung phơi bầy

Page 25: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

bản chất xấu xa của bọn này. Tiền, danh vọng với chúng là trên hết. Đó là căn

bệnh do xã hội sản sinh ra và nhà văn đã giải phẫu một cách kiên quyết.

Tuyến nhân vật thứ hai là những kiếp người nghèo khổ, bị áp chế, ức

hiếp. Tuyến này chiếm tỷ lệ (11/30) trên tổng số truyện ngắn. Họ là những

con người sống lay lắt trong xã hội Việt Nam ở cả thành thị lẫn nông thôn. Đó

là những anh phu kéo xe, kép hát, gái điếm… không chỉ đổ mồ hôi, sôi nước

mắt, mà còn nhục nhã, khốn cùng (“Người ngựa ngựa người”, “Kép tư

bền”). Đó là những người nông dân do dốt nát mà bị ức hiếp (“Hai thằng

khốn nạn”, “Gánh khoai lang”, “Thịt người chết” ). Cái cách mà Nguyễn

Công Hoan sử dụng ở những truyện kiểu này là những phi lý trở thành có lý.

Người đọc tiếp nhận hiện thực ở góc độ vô lý nhất, bật ra tiếng cười chua xót,

cay đắng, đầy nước mắt và nhận thấy sự có lý hiển nhiên. Đó là “được đến chỗ

đau đớn của người đời, truyện như bịa chơi mà trò đời thường có”[37,tr. 412].

Tham gia vào tuyến nhân vật này còn là những nhân vật trẻ em

(“Thanh! Dạ”, “Giá ai cho cháu một hào”, “Thằng bé ăn mày”, “Quyền

chủ”…). Đó là những đứa bé đi ở, ăn trộm, ăn cắp, ăn mày…. Chúng cũng bị

đánh đập, bóc lột như bất kỳ kẻ nghèo đói, cùng quẫn nào. Cuộc sống của

chúng là chuỗi dài đầy ải khủng khiếp. Chúng là thú vui của bọn nhà giầu

hợm hĩnh, ác độc. Sự góp mặt của những nhân vật trẻ em đã gia tăng sự

phong phú của những con người nghèo khổ, là những mảng màu bổ sung cho

bức tranh xã hội vốn đã xám xịt, càng xám xịt thêm.

Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn sáng tạo ra loại nhân vật đặc biệt:

nhân vật - đồ vật. Nhân vật hóa đồ vật là một thủ pháp các nhà trào phúng

thường sử dụng và khai thác triệt để khả năng phản ánh hiện thực của chúng.

Nói về cuộc sống khốn khổ của người dân bằng chính họ chưa đủ, Nguyễn

Công Hoan còn sử dụng đồ vật như nhân vật để làm tăng cái nghèo, cái bấp

bênh, cái khốn cùng của kiếp người (“Chiếc quan tài”).

Page 26: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

Tóm lại, thế giới nhân vật trong truyện ngăn Nguyễn Công Hoan thật

phong phú, đa dạng. Đó là một thế giới đông đúc với đủ hạng người, đủ các

thành phần. Tất cả từ quan lại, tư sản, đến me Tây, gái điếm, phu phen, nông

dân, kéo xe, ăn mày, từ người lớn đến trẻ con, từ sang trọng đến thấp hèn …

đều đang nhố nhăng, đi lại, nói cười trong truyện ngắn của ông. Thế giới nhân

vật ấy thật sinh động, góp phần thể hiện quan niệm của ông về cuộc đời, về

con người. Thế giới ấy cũng góp phần chứng minh cho nguyên lý: xã hội thế

nào thì con người thế ấy.

1.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn A.Sekhov

1.2.1. A.Sekhov và thời đại

A.P.Sekhov (1860 -1904) là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy của văn

học Nga nói riêng và văn học thế giới nói chung. Ông được sinh ra trong một

gia đình tiểu th ị d ân ở th ị trấn Tagan ro c - một thành phố cảng cổ, một nơi

buôn bán sầm uất. Dòng họ Sekhov có tới năm đời là nô lệ. Đến đời ông nội

của Sekhov dòng họ mới chuộc được tự do. Thoát khỏi kiếp nô lệ, là người tự

do, nhưng cuộc sống của gia đình Sekhov vẫn rất chật vật. Họ sống trong sự

chắt bóp, dè sẻn, tằn tiện. Cuộc sống vất vả đã cho cha Sekhov - ông Peven

E.S. một bài học giáo dục đáng sợ và ông thực hiện nó với con cái. Cần phải

có quy củ trong cuộc sống; cần phải có luật lệ trong gia đình; cần phải nghiêm

khắc với con cái…. Vì thế, sinh hoạt trong gia đình Sekhov là thời gian biểu

bất di bất dịch. Sáng, lũ trẻ cùng bố mẹ đi lễ nhà thờ, về ăn qua quít, người

cha bán hàng. Trưa, đi lễ nhà thờ và tối đến, sau bữa ăn, Paven đọc báo cho cả

nhà nghe và ông sẽ không chịu nổi nếu ai đó tỏ vẻ không lắng nghe. Trước

khi đi ngủ, họ lại cầu nguyện. Bản thân Sekhov nhiều lần suýt bị đánh đòn, vì

đã lấy làm lạ, sao lại cứ phải cúi rạp, chạm trán xuống sàn nhà.

Có thể nói, tuổi thơ của anh em Sekhov trải qua trong nhàm chán, buồn

tẻ, sợ hãi. Cầu kinh, đi học, trông hàng, đòn roi ở nhà và đòn roi ở trường…,

Page 27: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

đó là vßng luẩn quẩn, tẻ nhạt mà họ phải chịu đựng. Khi đã trưởng thành,

Sekhov chua chát nhắc lại: “Thuở nhỏ, tôi không có thời thơ ấu…”.

Quyền lực, trật tự gia đình mà Peven muốn gây dựng, cuối cùng không

thực hiện được. Buôn bán khó khăn, vỡ nợ, phá sản, ông buộc phải trốn đi, để

lại gánh nặng cho Sekhov. Năm 1876, gia đình Sekhov thực sự phá sản, phải

chuyển đến Maxcơva. Đang học dở trung học, Sekhov ở lại Taganroc với cô

ruột. Cuộc sống khó khăn, nhờ sự giúp đỡ của bà cô, cộng với nghị lực của

bản thân, Sekhov đã vượt qua.

Cuộc sống “không có thời thơ ấu” , nỗi đau của cha, mẹ, những vất vả

của họ, sự tráo trở, đê tiện của người vốn là bạn của cha, những tháng năm

một mình bươn trải để sống ở Taganroc đã tạo cho Sekhov cái nhìn tỉnh táo,

lạnh lùng, nghiêm khắc. Không chỉ có thế, nỗi đau vì nghèo đói, nô lệ đã thấm

sâu trong Sekhov. Tốt nghiệp trung học, Sekhov quyết định lên M axcơva.

Trước khi đi, Sekhov chào bà cô với tâm trạng bùi ngùi: “Đừng buồn cô ạ.

Cháu đi Maxcơva rồi sẽ thành bác sỹ. Cháu sẽ sống đàng hoàng, sống cho ra

con người cô ạ”. Đây, không đơn giản là một lời chào, mà là một tâm niệm,

được xuất phát từ thực tế cuộc sống, để rồi trở thành quan niệm về cuộc đời,

về con người của nhà văn Sekhov sau này.

Ở Maxcơva, Sekhov vừa học trường y, vừa bắt đầu viết văn. Chất hài

hước xuất hiện trong những tác phẩm đầu tay của ông. Mặc dù còn trẻ, nhưng

Sekhov đã trở thành chỗ dựa cho mẹ và các em ở Maxcơva. Ông rất quan tâm

đến việc giáo dục các em, uốn nắn họ. Hơn ai hết, Sekhov hiểu rõ, cay đắng,

căm phẫn với sự nô lệ đã trở thành máu thịt của bao kiếp người, trong đó có

cha ông, anh, em ông. Cho nên, theo ông, cần phải tẩy rửa đến cùng những

giọt máu nô lệ. Trong thư gửi anh trai Nicolai, Sekhov đã nói rõ quan niệm

của mình về một con người có đạo đức, có giáo dục. Đó là người cần thỏa

mãn những điều kiện:

Page 28: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

“- Phải biết tôn trọng cá tính con người, luôn độ lượng, nhã nhặn, lễ

độ…

- Không chỉ yêu thương những con người nghèo khổ mà còn phải biết

yêu thương những con mèo.

- Phải biết đau xót tâm hồn…” [ 19,tr.2].

Sự nghiệp văn học của Sekhov được tính từ những năm 80 của thế kỷ

XIX. Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm cực kỳ phức tạp của

lịch sử xã hội Nga. Nhận xét về thời kỳ này, Sekhov viết:

“Cảnh sống chung quanh thật tồi tệ… theo như sự suy xét của tôi về trật

tự sự vật, thì cuộc đời hầu như chỉ gồm toàn những điều khủng khiếp, cãi cọ,

cấu xé nhau. Sự ti tiện, thấp hèn, xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc”. Do đâu mà có

hiện thực đó?

Nước Nga nửa sau thế kỷ XIX thật sự rối ren. Cuộc cải cách nông nô 19-

12-1861 với tính chất nửa vời, bịp bợm đã làm đảo lộn toàn bộ xã hội. Chế độ

nông nô không những không bị thủ tiêu m à còn trở nên tàn bạo hơn, tinh vi

hơn trong việc áp chế nhân dân. Chế độ phong kiến Nga hoàng bước vào thời

kỳ khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn. Đó là “tình trạng bế tắc, đứng

ở ngã ba đường về xu hướng chính trị, xã hội, cuộc sống tràn ngập vô vàn

mâu thuẫn” [61,tr. 45]. Để tồn tại, giai cấp quý tộc già nua câu kết với giai

cấp tư sản vừa “thoát thai từ giai cấp nông nô” , non yếu, bạc nhược và cũng

đầy toan tính. Giai cấp vô sản mới ra đời chưa đủ sức trở thành một lực lượng

chính trị độc lập, như ng đã phần nào thể hiện những yếu tố tiến bộ, cách

mạng, tác động nhất định đến phong trào đấu tranh của nhân dân Nga.

Những năm 80,90 của thế kỷ XIX là những năm trì trệ nhất trong lịch sử

xã hội Nga. Sekhov tận mắt nhìn thấy đời sống khổ cực của nhân dân do nạn

mất mùa xảy ra liên tiếp trong mấy năm. Ông cũng chứng kiến sự tàn bạo, hà

khắc của Nga hoàng và nhà nước phong kiến trong ngày tàn, cùng sự ngoi lên

Page 29: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

của tầng lớp tư sản mới trở lại. Không khí ngột ngạt, oi bức bao trùm toàn bộ

đất nước. Tư tưởng nhân dân bị phân tách. Phần đông giới trí thức hoang

mang, dao động, rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Tầng lớp tiến bộ

muốn rời bỏ vũ đài chính trị, thậm chí thỏa hiệp, đầu hàng. Học thuyết

“không chống lại cái ác bằng bạo lực” của L.Tonxtoi có điều kiện phát huy

tác dụng. Có thể nói, Đây là giai đoạn thoái trào của cách mạng. Nước Nga

rơi vào hoàn cảnh ảm đạm, xám xịt, phá sản về nhiều mặt và nổi bật nhất là

sự phá sản về tinh thần của giới trí thức Nga. Họ lặn ngụp trong sự tầm

thường và dung tục.

Như vậy, những năm 80,90 của thế kỷ XIX là thời kỳ giao thời của xã

hội với những rối ren, đảo lộn. Cái cũ chưa mất đi, cái mới chưa hình thành.

Đời sống văn học lúc này, về cơ bản, là bế tắc. Tuy nhiên văn học hiện thực

vẫn có thành tựu.

Sekhov sống và sáng tác trong buổi giao thời đó. Ô ng được coi là đại

biểu xuất s¾c cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga. Sekhov bước vào lịch

sử văn học Nga với tư cách nhà cách tân thiên tài trong lĩnh vực truyện ngắn.

Sekhov - nhà văn của thời đại. Năng khiếu qua n sát, nhạy bén với xã hội

đã giúp nhà văn hình thành nhận th ức kh ách quan. Bằn g sự tin h tế, sự trải

nghiệm, nhà văn thu lượm chất liệu cho truyện ngắn từ đời sống hàng ngày,

gần gũi với tất cả mọi người. Chứng kiến sự thật trần trụi của xã hội đảo điên,

Sekhov đau xót và hi vọng vào sự thức tỉnh của nhân cách. Ông không chỉ

đưa ra lời khuyên mà còn khích lệ tích cực cho sự bảo vệ, hoàn thiện nhân

cách. Quan niệm về cuộc đời và con người luôn được Sekhov duy trì. Trong

thư gửi em trai, Sekhov viết:

“Việc gì em phải tôn sùng người khác bằng cách tự gọi mình là kẻ hèn

mọn, không đáng để ý đến…. Không! Giữa người đời cần phải ý thức được

Page 30: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

nhân phẩm của mình…. Em hãy biết rằng con người nhỏ bé, trung thực,

không phải là người hèn mọn”. [19,tr. 82]

Khuyên em và cũng là nhắc mình. “Phải sống sao cho ra con người”,

“(…) Giữa người đời phải ý thức được nhân phẩm của mình” - Đó cũng là

mục đích sáng tạo của Sekhov. Có thể nói, toàn bộ sự nghiệp văn học của

Sekhov đã và chỉ phục vụ cho mục đích cao cả ấy. Trong sự phá sản tinh thần

khủng khiếp của thời đại, Sekhov là người dũng cảm lôi ra những xấu xa, tội

lỗi chui rúc sâu trong ngõ ngách tâm hồn, phản ánh thực trạng xã hội đen tối.

Ông cũng là người lên tiếng phê phán xã hội qua những cuộc đời khổ ải, bất

công…. Tất c ả những việc làm đó của ông đều nhằm tìm và trả lại cho con

người ý nghĩa đẹp đẽ và cao cả của chính nó.

Cuộc sống vất vả, chật vật tạo điều kiện cho Sekhov khả năng quan sát,

khám phá hiện thực. Cùng lúc Sekhov vừa làm thày thuốc chữa bệnh, vừa làm

nhà văn. Nghề y buộc ông tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hội. Nhà

giải phẫu, nhà chữa bệnh thân xác, nhà châm biếm, thầy thuốc tâm hồn có

thêm điều kiện hiểu cặn kẽ mỗi loại người. Nhờ thế, trong tác phẩm, những

xấu xa, ti tiện được ông moi ra từ mỗi đường gân, thớ thịt để xem xét, mô tả,

phê phán, đớn đau. Bất kỳ ở đâu, chỗ nào, Sekhov cũng nhìn ra căn bệnh tinh

thần khủng khiếp. Sau thời gian làm việc ở đảo Xakhalin - nơi Nga hoàng đầy

ải các tù nhân - Sekhov chứng kiến nhiều nỗi kinh hoàng của tù nhân. “Chúng

ta làm chết dần chết mòn hàng vạn người trong n hà tù, làm lụi dần ánh bình

minh (…) Chúng ta là những kẻ vô nhân đạo; chúng ta đã xua đuổi nhiều

người vào nơi băng giá, trong gông cùm…. Chúng ta đã làm sinh sôi, nảy nở

ra những tên tội phạm và chú ng ta đã trút tất cả điều đó cho những tên

cai ngục mũi đỏ. Không phải những tên cai ngục có tội mà tất cả chúng

ta đều có tội”.

Page 31: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

Trung tâm chú ý của Sekhov là “mong muốn khám phá và mô tả thân

phận nô lệ, đầu óc nô lệ của con người biểu hiện qua vô vàn dạng thức (…)

Thói nô lệ ngấm sâu và đầu độc người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, trí thức,

viên chức, quân nhân, thương gia, sinh viên, nông dân - những con người

không biết kính trọng cái phẩm giá làm người của mình, đành tâm ngoan

ngoãn phục tùng bạo lực, sống như những kẻ nô lệ”. Chính vì vậy, khao khát

của Sekhov là ở chỗ, tác phẩm của ông không chỉ phanh phui, lên án, công

kích hiện tại, mà còn hướng đến tương lai qua nhận thức của người đọc. Đây là

những lời ông nói với một thanh niên, khi anh ta khóc trước vở kịch của ông:

- “Đấy, annh kể với tôi rằng anh đã khóc khi xem kịch của tôi. Mà không

phải chỉ mình anh. Nhưng tôi đâu có viết để thấy những giọt nước mắt? Tôi

muốn cái khác kia. Tôi chỉ muốn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng:

“Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tệ như

thế nào? Cái quan trọng nhất là để họ thấu hiểu điều đó, và khi đã thấu hiểu,

thế nào họ cũng phải tạo cho mình cuộc sống tốt hơn. Tôi không thấy cuộc

sống đó, nhưng tôi biết rằng nó sẽ hoàn toàn khác, không giống gì với cuộc

sống hiện tại.

Và bây giờ, khi nó chưa tới, tôi sẽ còn mãi mãi nói với mọi người: Hãy

nhận ra đi, các người sống thật tồi, thật tệ”.

Vậy, thì có gì phải khóc?” [19,tr.282]

Những năm cuối đời, Sekhov vẫn tiếp tục quan niệm sống, quan niệm

nghệ thuật vì con người đó. Nhờ vậy, sự phản ánh mặt trái xã hội ở ông thời

kỳ này nghiêm khắc hơn, quyết liệt hơn. Vấn đề gay cấn của thời đại, của xã

hội đã hiện hình rõ nét. Đó là cuộc sống tầm thường, dung tục trở nên phổ

biến, bao vây con người.

Sekhov đã vật lộn với cuộc sống, tìm tòi trong đó, và bẳng thái độ lạnh

lùng, khách quan, ông đã phản ánh thực trạng xã hội, phanh phui, lật tẩy

Page 32: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

những cái xấu, cái ác bọc trong nhung lụa, hào nhoáng. Theo ông, khi viết

truyện có thể khóc lóc, có thể rên rỉ, có thể đau đớn cùng nhân vật của mình.

Càng tỏ ra khách quan bao nhiêu, ấn tượng gây ra càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Đó chính là sự hi vọng vào cộng đồng sáng tạo ở độc giả của Sekhov, thể hiện

rất rõ quan hệ giữa sáng tạo và đời sống hiện thực.

Quan niệm về cuộc đời, con người, nghệ thuật đã đem lại cho nhà văn

những giá trị riêng. Toàn bộ sáng tác của Sekhov đã phản ánh một cách đầy

đủ, trọn vẹn và sâu sắc thời đại mà ông sống, hoạt động nghệ thuật. Từ hoàn

cảnh sống, đến sự vận động, phát triển và những thay đổi của thời đại… đều

được thâu tóm bằng cái nhìn tinh tế, nhạy bén và sâu sắc của nghệ sỹ Sekhov.

Tác phẩm của Sekhov không chỉ cất lên tiếng nói của thời đại nước Nga

những năm 80 - 90, mà còn phản ánh được hơi thở chung, sự gần gũi của các

dân tộc khác trong những hoàn cảnh tương tự.

“Chắc rằng người đọc chúng ta ngày nay vẫn tìm thấy trong tác phẩm

Sekhov cái thế giới và cuộc sống của nước Nga những năm 80 không có gì

rạng rỡ đó, những con người, những tâm hồn sao mà gần gũi, giống như họ

đang sống đâu đây” [45,tr.215]

1.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Sekhov

Truyện ngắn Sekhov là truyện ngắn hiện thực, do vậy, nhân vật, sự việc

được đề cập đến đều xuất phát từ những nguyên mẫu ngoài đời. Cũng như khi

phân loại truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi cũng lấy đối tượng miêu

tả và mục đích phản ánh của tác giả làm tiêu chí để khảo sát thế giới nhân vật

trong truyện ngắn Sekhov. Đối tượng miêu tả của Sekhov là tất cả các tầng

lớp người trong xã hội. Từ bọn quan lại trí thức, những người bình thường,

đến tầng lớp đáy cùng của xã hội… đều xuất hiện trong tác phẩm của Sekhov

với tư cách là nhân vật chính. Mục đích phản ánh của Sekhov, như ông viết

trong thư gửi Pleseev: “Tôi că m thù sự dối trá và bạo lực trong mọi dạng

Page 33: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

thức của chúng, thói giả nhân giả nghĩa, sự đần độn và thói độc đoán ngự trị

không chỉ trong các gia đình thương gia và cả trong nhà tù” [52,Tr. 252]

Chúng tôi đã khảo sát 30 truyện ngắn của Sekhov và có bảng khảo sát

thế giới nhân vật sau:

TT Tên tác phẩm

Nhân vật Ghi

chú Nhân vật là những

dị tật của xã hội

Nhân vật là những nạn

nhân bi thảm của xã hội

1 Cái chết của một viên chức X

2 Anh béo anh gầy X

3 Con kỳ nhông X

4 Phẫu thuật X

5 Mặt nạ X

6 Lão quản Prisubeep X

7 Vanka X

8 Chuyện đời vặt vãnh X

9 Vé trúng số X

10 Đánh cược X

11 Những người đàn bà X

12 Các bà X

13 Ionuts X

14 Người trong bao X

15 Lũ trẻ X

16 Quân ăn hại X

17 Một phiên tòa X

18 Buồn ngủ X

19 Một chuyện đùa nho nhỏ X

20 Khóm phúc bồn tử X

21 Một chuyện tình yêu X

22 Nỗi khổ X

23 Nỗi nhớ X

Page 34: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

24 Trong thung lũng X

25 Hai kẻ thù X

26 Thủ đoạn X

27 Cái mề đay X

28 Thày giáo dạy văn X

29 Cô đào hát X

30 Rối ren X

Tổng số 23 07

Từ bảng khảo sát, chúng tôi nhận xét: nhân vật trong truyện ngắn

Sekhov, về cơ bản, được tổ chức thành hai tuyến cơ bản. Tuyến một gồm

những nhân vật thuộc lớp quan lại, công chức, trí thức. Loại nhân vật này

chiếm một số lượng lớn truyện ngắn (23/30). Loại nhân vật này của Sekhov

không là những người tai to mặt lớn như các quan tri huyện, tuần phủ của

Nguyễn Công Hoan, mà thuộc loại trung bình trong xã hội (Họ trung bình về

tất cả mọi mặt: thành phần giai cấp, vị trí xã hội, tài sản, trình độ…). Họ là

lớp người được sản sinh ra sau cải cách 1861, trong sự đảo lộn, rối ren của xã

hội Nga n ửa sau thế k ỷ XIX và đ an g có rất n h iều ở xã h ội Nga. Lo ại này

trong cuộc sống, có chút công việc ổn định, chút của cải, chút ít danh vị, học

thức, nhưng chưa leo được vào xã hội thượng lưu. Đây là cái mới của Sekhov

khi lựa chọn đối tượng phản ánh.Cái gọi là tinh thần trống rỗng, vô liêm sỉ

của những ông chủ, các quý bà đã được các nhà văn lớp trước đề cập và giải

quyết trọn vẹn. Đến lượt mình Sekhov chú ý đến tầng lớp tiểu tư sản, thị dân

và chĩa mũi nhọn phê phán vào chúng, tạo ra sự phê phán mang tính toàn diện

trong văn học Nga nói chung.

Lớp người này xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn Sekhov. Tỷ lệ

23/30 truyện có loại nhân vật này cho thấy mối quan tâm đặc biệt và tập trung

“giải phẫu” cho lớp người này của tác giả. Tỷ lệ này cũng cho thấy họ -

Page 35: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

thành viên của xã hội Nga sau 1861 - đã là lực lượng phổ biến, chịu sự tác

động hết sức mạnh mẽ của một xã hội rối ren, trì trệ, đầy ung nhọt. Sekhov đã

không nương tay khi phanh phui từng lớp tâm hồn lũ người này, lôi ra chân

tướng của chúng để đả kích, phê phán, làm thành những toa thuốc trị bệnh.

Một tuyến nhân vật nữa được Sekhov lưu tâm. Đó là những người đáy

cùng trong xã hội. Truyện về loại người này (“Cô đào hát”, “Con ở”, “Quân

ăn hại”…) xuất hiện không nhiều, có 7/30 truyện. Trước Sekhov, loại nhân

vật này đã xuất hiện trong sáng tác của Puskin, Gogon, Turghenhev. Đó là

những con người bé nhỏ, thấp cổ bé họng. Dù bị chà đạp, hủy diệt, nhưng dẫu

sao, họ vẫn ở bậc thấp nhất của ngạch công chức nhà nước, được cấp cho một

loại công việc, một chút lương để tạm duy trì cuộc sống. Sekhov tiếp tục đề

tài con người bé nhỏ với diện mạo mới. Những năm 90 của thế kỷ, nước Nga

đã phô ra rất nhiều điều khủng khiếp, mà phải gần dân lắm, phải từ cùng khổ

mà ra như Sekhov mới thấu hiểu hết cái kiếp tôi đòi, nô lệ đó. Sekhov đã hết

sức tỉnh táo, khám phá những biểu hiện nhỏ nhất, từ đó nói lên kiếp người

trong cõi tối tăm, khổ nhục. Về mặt này, Sekhov đã kế tục xuất sắc truyền

thống văn học trước đó và dọn đường tích cực cho M.Gorki sau này.

Bên cạnh những người lớn bị đầy đọa, là những đứa trẻ với thân phận tôi

đòi, bị đầy đọa không kém gì người lớn. Cuộc sống cơ cực của những em bé

này xuất hiện không nhiều, chỉ 3/7 truyện, nhưng sức tố cáo thật lớn. T rong

những truyện ngắn này (“Vanka”, “Buồn ngủ”, “Lũ trẻ”) chuyện tưởng như

không có chuyện. Một đứa bé mới 9 tuổi viết thư, một đứa bé đi ở phải trông

con cho nhà chủ làm nhiều quá và buồn ngủ, những đứa bé chơi với nhau vô

tư…, tưởng như không có gì đáng nói. Vậy mà, qua ngòi bút Sekhov, nó

mang ý nghĩa nhân sinh vô cùng lớn. Những câu chuyện đơn giản nhưng đã

làm xúc động người đọc. Mục đích Sekhov muốn đạt đến là tất cả cùng nhìn

cuộc sống xung quanh mình, trăn trở và sửa đổi cuộc sống thực, nhìn ra tương

Page 36: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

lai. Những câu hỏi về số phận những nhân vật này cứ treo lơ lửng, không có

kết thúc như bức thư của Vanka, số phận của Varka….

Miêu tả loại người này trong tác phẩm với ngòi bút lạnh lùng khách

quan, Sekhov tái hiện lại những lát cắt hiện thực khắc ngh iệt. Èn sâu dưới

hình thức lạnh lùng là tấm lòng nhân đạo, sự cảm thông, thấu hiểu của

Sekhov. Nỗi khổ nhục, cùng quẫn của loại nhân vật này đã như bản cáo trạng,

lên án chế độ nông nô chuyên chế của Nga Hoàng kéo dài.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sekhov cũng có nhân vật đặc biệt -

nhân vật là đồ vật. Đó là bức thư trong truyện ngắn “Vanka”. Nhân vật là đồ

vật, thứ vô tri nhưng lại mang tiếng nói rõ ràng, sâu sắc. Đây là phát hiện mới

của Sekhov trong lịch sử văn học Nga, thể hiện sự đồng cảm với những con

người nghèo khổ bị chà đạp. Nhân vật - đồ vật của Sekhov cũng mang ý nghĩa

phê phán xã hội rất lớn.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sekhov phong phú, đa dạng, đã

chuyển tải một dung lượng hiện thực lớn, và làm nên tài năng của Sekhov.

“Nếu có một phép màu nào làm nhân vật của Sekhov rời khỏi trang sách,

bước xuống đường phố, thì chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng đông đúc, huyên

náo, thật là đáng kinh ngạc; hàng nghìn con người, mỗi người một vẻ, lớn bé

già trẻ, nữ, nam, chải chuốt, bê tha, nghèo hèn và giàu có, xinh đẹp và dị

dạng, cao sang và bần tiện…” [19,tr. 29].

Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều là những nhà văn viết truyện ngắn tài

ba. Họ sống ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Sekhov sống trọn vẹn 44 năm

cuối của thế kỷ XIX. Nguyễn Công Hoan sống 73 năm của thế kỷ XX. Mặc

dù sống và viết ở hai thời đại kh¸c nhau với truyền thống lịch sử, văn hóa,

dân tộc khác nhau, nhưng truyện ngắn của họ có những nét tương đồng. Cơ sở

của sự tương đồng đó, trước hết là ở tính chất thời đại mà chúng tôi đã chỉ ra.

Lịch sử nước Nga cuối thế kỷ XIX và lịch sử Việt Nam đầu XX đều mang

Page 37: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

một đặc điểm cơ bản: giao thời giữa cái cũ (nhà nước phong kiến lỗi thời,

phản động) và cái mới (giai cấp tư sản, giai cấp vô sản hình thành với những

định hướng chính trị khác nhau), sự cấu kết giữa phong kiến và tư sản hòng

ngăn chặn phong trào đấu tranh của nhân dân. Đặc điểm cơ bản này đã chi

phối đời sống chính trị, kinh tế, tinh thần của tất cả mọi tầng lớp xã hội, tạo ra

sự khủng hoảng, phá sản về tinh thần, sự đảo lộn trật tự xã hội. Xã hội đó đã

đẻ ra những quái thai, dị tật, đẻ ra lớp quần chúng bần hàn, mông muội. Cơ sở

thứ hai thuộc về hai nhà văn. Họ đều là những người tôn trọng đạo lý, giá trị

tinh thần đích thực. Họ đều là những người thông minh, nhạy bén, có cảm

quan xã hội khỏe khoắn. Họ đều trải qua cuộc sống gần gũi với mọi lớp người

trong xã hội. Họ đều hiểu biết xã hội, con người sâu sắc. Quan trọng hơn cả,

họ đều nắm được đời sống bên trong con người thông qua những biểu hiện

hết sức vụn vặt, thậm chí rất bình thường bên ngoài. Vì thế, ở họ có quan

niệm đúng đắn về cuộc đời, về con người. Họ gặp gỡ nhau về quan niệm nghệ

thuật, gặp gỡ nhau ở cách xây dựng truyện ngắn, lấy truyện ngắn làm công cụ

giải phẫu xã hội bệnh. Họ khao khát gạt bỏ chất nô lệ trong con người, đem

và trả lại giá trị đích thực cho con người. Xã hội Nga cuối XIX, Việt Nam đầu

XX đã cung cấp cho họ những đề tài, chủ đề về sự méo mó, sự thô lậu, bẩn

thỉu của nhân cách. Họ đã phản ánh tất cả sự thực đó trong tác phẩm của mình

thông qua hệ thống nhân vật hết sức phong phú và sinh động. Có khác chăng

là ở cách thức sử dụng những phương tiện nghệ thuật trào phúng, châm biếm,

tạo cái cười…. Tựu chung lại, đối tượng, mục đích sáng tác của họ đều gặp

gỡ nhau, và họ đóng góp cho văn học nước nhà, văn học thế giới từ thực tế

sáng tác của mình.

Page 38: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

Chương 2:

NHÂN VẬT – NHỮNG DỊ TẬT CỦA XÃ HỘI

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYÊN CÔNG HOAN VÀ A.SEKHOV

Một trong những cơ sở quan trọng tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc cho

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov là thông qua hệ thống nhân vật

phong phú và đa dạng, hai tác giả đã phản ánh chân thực mối quan hệ giữa

thời đại và con người của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX và văn học Nga

cuối thế kỉ XIX. Ở chương 1 chúng tôi đã chỉ ra những yếu tố lịch sử xã hội

tương đồng, tác động đến quá trình hình thành quan niệm về cuộc đời, về con

người, về nghệ thuật của hai tác giả. Rõ ràng, cả hai nhà văn, trong điều kiện

xã hội cụ thể mà họ đã sống, chứng kiến, trải qua…, đã khám phá mối quan

hệ giữa thời đại và con người. Họ đã tiến hành những cuộc giải phẫu bằng

ngôn từ, để làm rõ mối quan hệ một chiều này. Đó là quan hệ mà trong đó,

thời đại có vai trò quyết định, tác động đến tâm lý, tình cảm, tư tưởng con

người, làm thay đổi số phận con người. Con người chịu sự chi phối của thời

đại, không có khả năng cải tạo xã hội. Giải quyết, làm rõ mối quan hệ này, cả

hai nhà văn đều thực hiện nhiệm vụ tố cáo, đả kích, lên án những bất công phi

lý, thói tật xấu xa, nô lệ mà xã hội đẻ ra nhằm thức tỉnh con người.

2.1. Nhân vật – những quái thai đắc lực của nhà nước thống trị

Thời đại thế nào sẽ sản sinh ra loại người tương ứng với nó. Những nhân

vật là công cụ đắc lực này cùng xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan và Sekhov với những cách thức khác nhau. Ở Nguyễn Công Hoan, loại

nhân vật này xuất hiện trong 9/10 truyện (“Răng con chó nhà tư sản”, “Báo

hiếu trả nghĩa cha”, “Đàn bà là giống yếu”, “Thịt người chết”, “Đồng hào

có ma” ….).

Page 39: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

Viết về loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan rất chú ý đặc tả ngoại hình

và hành động của chúng. Thể loại tr uyện ngắn không cho phép để nhà văn

miêu tả cặn kẽ ngoại hình nhân vật. Chính vì vậy, Nguyễn Công Hoan thường

chọn một trong số những yếu tố ngoại hình, tập trung bút lực đặc tả, tạo ra nét

chân dung chứa đựng tâm lý bên trong. Khi đặc tả, tác giả thường kết hợp lời

bình trực tiếp, cộng với giọng điệu châm biếm, vì thế, chân dung nhân vật

hiện lên rất rõ nét, đập ngay vào nhận thức của người đọc. Ví dụ, tả cái béo

của quan huyện Hinh trong “Đồng hào có ma”, tác giả viết: “Chà! Chà! Béo

ơi là béo! Béo đến nỗ i…”. Không cần phải mô tả thêm, người đọc cũng hình

dung ra được Huyện Hinh thế nào.

Cách thức đặc tả của Nguyễn Công Hoan là phóng đại, cường điệu một

số đặc điểm ngoại hình, tô đậm, tăng cường sự đối lập, làm tăng tính trào

phúng, châm biếm. Cách thức nà y tác động ngay tới sự chú ý của người đọc,

tạo ấn tượng khó quên về nhân vật. Đây là hình ảnh Nghị Trinh trong “Hai

thằng khốn nạn”:

“Mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ, môi trễ mà không râu, mặc quần

áo lụa, phe phẩy cái quạt”. [ 36,tr.36]

Mỗi người mỗi vẻ, tập hợp thành bức tranh mà trong đó sự no đủ, phè

phỡn là ấn tượng chủ đạo. Bà chủ trong “Phành phạch” được miêu tả: “Bà

nằm đó. Nhưng, thoạt trông đố ai bảo là một người (…) Cái mặt phị, cái cổ

rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay ngắn chùn chùn” (…) Thật thế, bà

béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” [36,tr.378]. Không cần nhân vật phải hoạt

động, không cần phải vẽ kỹ lưỡng chân dung, chỉ cần thế thôi, người đọc

cũng đã phát ngấy, phát nóng trước phản thịt ấy.

Cũng cách tả như vậy, cái béo ngốt người của một bà chủ khác lại hiện

ra: “Bà béo quá. Gớm! Béo đâu béo lạ béo lùng thế! Béo đến nỗi hai má chảy

Page 40: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

ra, rụt cổ lại. Béo đến nỗi bụng sệ xuống. Béo đến nỗi trông phát ngấy lên” [

36,tr.378].

Những câu: - Chà! Chà! Béo ơi là béo.

- Thoạt trông đố ai bảo là người.

- Gớm! Béo đâu béo lạ béo lùng.

- Béo đến nỗi….

là những lời bình trực tiếp của tác giả, tác động ngay đến trí tưởng tượng của

người đọc. Chưa cần phải có những chi tiết cụ thể, người đọc đã có cái nhìn

khái quát về nhân vật rồi.

Không chỉ c ó thế, các nhân vật thuộc lớp nhµ giầu này còn được tác giả

miêu tả chân dung luôn có nét thô kệch. Cũng dễ hiểu, một khi đã béo quá,

thô kệch cũng là đương nhiên. Có điều, những nét chân dung thô kệch đó, qua

ngòi bút châm biếm của Nguyễn Công H oan trở lên tởm lợm. Quan bà (một

tấm gương sáng) - một góa phụ “đoan chính” - được tả chỉ bằng hai bộ phận

trên cơ thể: “Cặp môi đỏ nẫn” và “Cái ngực đầy lù lù nóng hổi”, đã đủ để

người đọc biết góa phụ này có đoan chính thật hay không. Và quả nhiên, cặp

môi đỏ nẫn, cái ngực đầy lù lù nóng hổi ấy đã từng bước đưa bà từ cái bóng

nghèo hèn, lên dần, lên cao dần thành bà Phủ, rồi cụ Tuần. Chân dung quan

bà trong “Đàn bà là giống yếu” được tác giả vẽ:

“Chỉ riêng bộ mặt cũng đủ long trọng. Người ta tưởng chiếc bánh dầy

đám cưới, ở giữa đặt một quả chuối ngự và ngay đầu quả chuối nằm dài hai

múi cà chua. Rồi khi hai múi cà chua tách ra để theo nhịp với cái mắt híp (…)

thì ai cũng phải thấy một cái hố sâu thẳm, sâu như bụng dạ đàn bà”

[36,tr.191]. Chân dung đó phù hợp với tâm địa của một mụ đàn bà hư hỏng,

trơ trẽn, khi mụ ta ném vào mặt chồng: “Tôi cứ nói. Rồi tôi đi khắp chỗ quen

thuộc, bạn bè với ông, báo với họ rằng: Mười mấy lần bà phủ ngủ với trai

Page 41: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

ngay trong buồng quan Phủ”. Cái trơ trẽn đã giúp bà chuyển bại thành thắng,

chuyển xấu xa thành tốt đẹp, chuyển có lỗi thành không có lỗi.

Chân dung, ngoại hình bọn quan lại giầu có hiện ra rất đa dạng. Không

phải chỉ có cái béo đến phì nộn, phát ngấy, phát tởm, mà chúng còn là “những

hình thể khác hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng cong cong, từ cái sống mũi,

đến cái lương tâm, từ cái lưng đến cái xử kiện”. Nguyễn Công Hoan không

che giấu thái độ của mình qua cách miêu tả đó. Ông lôi chúng ra để chế giễu,

khinh miệt. Bất kỳ một tên quan lại, tư sản nào cũng bị ông vẽ t hành bức biếm

họa. Có điều, mỗi cái biếm họa theo một kiểu khác nhau. Bọn quan lại, phong

kiến béo nẫn, béo nần. Bọn tư sản đang lên cũng béo, nhưng cái béo cũng có

vẻ “tân tiến” hơn . Vẽ bọn tư sản, tác giả thường chú ý đến đầu, tóc hơn là

mặt mũi. Nhà tư sản trong “Báo hiếu trả nghĩa cha” được tả:

“Cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp, cũng thẳng như cái

hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo úp trên đầu, không chịu kém với bộ

ria sửa khéo như vẽ” [ 36,tr.118 ].

Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Công Hoan chọn lựa cho nhân vật của

mình những diện mạo, hình dạng như thế. Chân dung của mỗi người như thế

nào sẽ phản ánh cái con người bên trong của họ như thế. Trên thực tế, không

phải tự nhiên mà hầu hết các quan, đến các quan bà đều béo nứt, béo trương.

Nguyễn Công Hoan đã để cho nhân vật xưng tôi trong “Một tấm gương

sáng” phát biểu:

“Vì “thế sự” đã xoay thành ngược, mà “đời” ngày nay chẳng phải là

một bà hiền mẫu biết thưởng phạt công minh. “Đời” đã hóa ra một con mụ

chửa hoang, đẻ bậy, sinh non ra toàn những hạng hoặc mất dạy, hoặc đói

cơm (…) Hạng đói cơm thì ngài thấy nhan nhản khắp nơi (…) Còn hạng mất

dạy, cũng chẳng ít. Họ rất no đủ, sang trọng, chuyên môn đeo mặt nạ để lừa

dối, bóc lột lẫn nhau” [36,tr.218].

Page 42: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

Đó, có thể nói, là chỉ dẫn của Nguyễn Công Hoan cho người đọc đi vào

thế giới nhân vật no đủ, phè phỡn của ông. Lập luận của Nguyễn Công Hoan

rất rõ ràng: “Ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh

thích ăn bẩn cả” [36,tr.406]. Ăn bẩn, trong khám phá của Nguyễn Công Hoan

là công cụ, cách thức để ức hiếp dân nghèo của bọn quan lại.

Bọn quan lại, được mệnh danh là những bậc phụ mẫu của dân, nhưng

thực chất chúng là lũ sâu mọt. Điều đó đã được miệng một quan bà phát ra và

nó có sức mạnh như một chân lý: “Chữ “tử tế” của ông bêu lên cho mọi

người, giá viết của nó là “bắt bí”, mà đọc nó là “bóp nặn” thì đúng hơn (…)

Đào trong ruột những thằng dân của ông, chứ còn đâu nữa! Ông quên rằng,

ô tô của bọn các ông chẳng phải chạy bằng etxăng, mà chạy bằng mồ hôi

nước mắt của dân đen à”.

Lấy “Đồng hào có ma” làm ví dụ. Sự ăn bẩn của huyện Hinh, hiếm có ai

bằng. Đường đường là một quan Huyện, quyền sinh quyền sát, nhưng ông ta

ăn chặn của dân từng đồng một. Ăn chặn, ăn của đút lót là bản chất của quan.

Cách thức ăn chặn của huyện Hinh mới thật độc đáo. Cái hay là ở chỗ, huyện

Hinh ngay mở đầu tác phẩm đã được giới thiệu: “Chà! Chà! Béo ơi là béo!”.

Cái béo được giải thích bằng tác phong làm việc của quan với dân. Dân vào

cửa quan, ngoài chờ đợi lâu la, phải đút lót tiền cho cai, cho lệ mới được vào

hầu quan. Dân có cần nhưng quan chưa vội. Dân sợ càng tốt cho quan. huyện

Hinh cứ đủng đỉnh “dặn dò cậu lệ xuống nhà bảo nhà bếp ninh cho thật dừ

cái chân giò”. Con mẹ Nuôi đứng khép nép ở đó không làm quan chú ý,

nhưng, chỉ nghe hai con gà Tây béo mẫm quàng quạc kêu, thì “Quan đang

ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiện, đứng ngay cạnh nhà

Nuôi và gọi váng: Có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao” [36,tr.409].

Chi tiết “chân giò” hầm, gà Tây béo được đưa ra, gián tiếp giải thích vì

sao quan lại béo đến thế, và như thế là hợp lẽ đời. Ăn ngon, quan béo là phải.

Page 43: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

Đồng thời, những chi tiết đó cũng là sự chuẩn bị cho người đọc tiếp nhận sự

chuyển nghĩa của từ “ăn ngon” sang “ăn bẩn”, từ nghĩa đen sang nghĩa bóng

của “ăn bẩn”.

Dân vào hầu, trì nh quan việc mất trộm, phải có tiền để vi thiềng quan.

Con mẹ Nuôi cởi giải yếm để lấy tiền, sợ vía quan lớn mà run, làm rơi hết cả

tiền, “choáng váng cả người, hoa cả mắt”. Chị ta tìm tiền. Đến mạt kiếp, chị

ta cũng không sao giải thích được vì sao chỉ có chị ta và quan phụ mẫu, mà

năm hào đôi của chị ta biến mất. Tác giả để cho chị ta vừa tìm tiền, vừa sợ

hãi. Tác giả diễn tả ý nghĩ của người đàn bà tội nghiệp:

“Nó phải có năm hào đôi. Năm hào đôi mới thành đồng bạc được (…)

Không lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi đâu mất chóng thế được (…) Trình

đơn có tám hào, tất nó bị quan chửi (…) Nó tần ngần chắp hai tay, vái: “Lạy

quan lớn ạ”. Rồi nó lùi lùi bước ra cửa. Rồi nó đi về…” [36,tr.411].

Tác giả kết câu chuyện bằng một cảnh:

“Ông huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn

nạn. Rồi khi thấy nó đã đi thoát, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc

giầy ra một tý. Và, vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay nhặt đồng

hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở giầy dính vào, rồi bỏ tọt v ào

túi” [36,tr.411].

Không một lời bình luận nào được đưa ra, và người đọc hiểu rõ tại sao

tác giả lại phải tranh luận về vấn đề ăn uống vệ sinh ở đầu tác phẩm, cũng

hiểu vì sao huyện Hinh béo đến thế. Hơn thế, cái tức cười mà tác phẩm đạt

đến chính là sự nhập nhằng giữa có và không ngay tại cửa pháp luật này. Dân

mất trộm, trình quan để tìm trộm, lại mất trộm ngay trong cửa quan. Quan là

nơi điều hành luật lệ, tìm trộm cho dân lại chính là kẻ lấy trộm của dân một

cách trắng trợn. Ý nghĩa tố cáo, sự phơi bầ y bản chất sâu mọt, ăn bẩn của

quan lại là ở chỗ đó.

Page 44: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

Những tên quan ăn bẩn, vô trách nhiệm như thế không phải là hiếm trong

xã hội Việt Nam ngày đó. Chúng chỉ biết “ăn tiền và chơi gái” (“Đồng hào

có ma”). Chúng cũng chỉ biết “cả đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn

giờ sáng mới về”. Mọi việc quan mặc kệ. Sự ăn bẩn được Nguyễn Công Hoan

đưa lên đỉnh điểm trong tác phẩm “Thịt người chết”. Vì sự vô trách nhiệm

của quan mà người chết đã hai hôm không được chôn cất. Người ta trình báo,

người ta chờ đợi cuộc khám xét của quan phụ mẫu. Tác giả đã cho xuất hiện

ba cảnh song hành. Cảnh 1 - cảnh gia đình người chết, buồn thương, ảm đạm,

người chết “chờ chôn, mỗi lúc một trương to, rập rình cảnh cái quan tài

ngoác miệng chờ việc”. Cảnh 2 - cảnh hoạt động tấp nập của những loài

“khác giống” với tử thi:

“Dưới nước, lũ cá mương vui vẻ, nô giỡn nhau, chui vào kẽ nách, lỗ tai,

đớp thật nhanh, rồi chạy nhào biến mất. Rồi lại đớp, rồi lại chạy. Trên không,

vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân tay, mải miết

hút chất đồ ăn bổ (…) Trên ngọn tre, một con quạ đen (…) rồi một con nữa

(…) chẳng mấy chốc, hai ba con nữa bay lại (…) cả lũ theo nhau, mổ rỉa từng

nơi một (…) Như thế anh Xích vô tình là ân nhân của đàn cá, ruồi, nhặng,

quạ” [36,tr.442].

Cảnh 3 - “cho đến tận 9 giờ sáng hôm sau, còi ô tô đằng xa thét váng”

[36,tr.442]. Quan huyện tư pháp về, làm tan mất cuộc rỉa mồi của lũ quạ, ruồi

nhặng, cá mương…. Cảnh này sinh động nhất. Ngoài những “họ hàng, người

làng, ai nấy khoanh tay im lặng nuốt đờm, n hìn chằm chặp vào xác chết.

Người thở dài, người lau nước mắt” ra còn có hẳn một lực lượng tranh ăn

trên xác chết của Xích. Đó gồm “quan huyện là một, cụ lục sự là hai, cậu lính

lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, cùng trịnh trọng khạc nhổ”. Nếu chỉ có

vậy, chưa đáng nói. Nguyễn Công Hoan đã dàn một cuộc đối thoại rất hợp về

hình thức (hỏi, lấy thông tin xung quanh về người chết) nhưng lại không hợp

Page 45: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

lý về nội dung (khả năng thu nhập, nguồn tài chính của khổ chủ), để quan đi

đến quyết định “tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên

Xích có nhiều vết khả nghi (…) xin đốc-tờ về khám cẩn thận”. Cuộc đối thoại

chỉ chỉ có hai người tham gia, mỗi người đại diện cho một lực lượng đối lập

nhau về tất cả mọi mặt. Quan huyện - phụ mẫu - đại diện cho lực lượng hành

pháp nhà nước, ông Cửu (bố Xích) đại diện cho lực lượng được chăn dắt.

Quan lạnh lùng, sắt đá. Nhà Cửu run cầm cập, não ruột. Cuộc đối thoại vẫn

tiếp tục. Mỗi một lượt tham thoại của quan là một lần tiến gần đến mục đích

moi tiền khổ chủ. C uộc đối thoại thư hai có thêm cụ lục sự, là đối tượng để

quan trao đổi, nhưng không cần trả lời. Đó là khâu trung gian đối thoại, mà

nội dung cuộc thoại dành cho ông Cứu. Kết quả của hai cuộc thoại:

“- Xin quan lớn cho con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.

- Anh định tạ tôi bao nhiêu” [36,tr.445].

Cuộc thoại thứ ba xuất hiện. Lần này, lục sự tham gia với tư cách tác

động đẩy nội dung và mục đích cuộc thoại lên cao trào. Việc lục sự tham

thoại đồng lượt với cả quan và ông Cửu.

Với quan :

“- Bẩm quan lớn, việc này to chứ chẳng vừa”.

Với ông Cửu:

“- (…) Anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách hay

sao?”.

Kết quả cuộc ngã giá: ông Cửu đành chấp nhận vì:

“(…) ít ra, anh cũng lo lấy bát thập, còn thập nguyên, cho đằng này ăn với

chứ?”.Nhờ vậy, “một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ”

[36,tr.446].

Huyện Hinh trong “Đồng hào có ma” đã là ăn bẩn. Ăn sống ăn sượng

đồng hào đôi của người dân đen tội nghiệp - huyện Hinh đã bẩn lắm rồi. Quan

Page 46: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

huyện trong “Thịt người chết” còn bẩn gấp bội lần. Huyện Hinh ăn vì đồng

hào lăn một cách vô thức vào chân ông ta. Quan huyện tư pháp ăn bẩn một

cách có tính toán, vì thế mà bẩn hơn, tởm lợm hơn. Nguyễn Công Hoan hạ

bút: “chúng (lũ ruồi, cá, quạ) có biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh

mất món mồi ngon của chúng” [36,tr.446]. Vì, “thịt người chết, ai hay cũng

là món đồ ăn quý hóa”.

Mỉa mai thay, đó là những quan lại, thay mặt nhà nước mà chăn dắt con

dân. Đó là lũ sâu mọt, vô nhân đạo. Mục đích của Nguyễn Công Hoan như

ông đã từng khẳng định: mở mắt cho nhân dân, để họ nhìn rõ hơn chân tướng

lũ quan lại nhơ bẩn, lũ đỉa đói ấy.

Viết về công cụ đại diện cho nhà nước, Nguyễn Công Hoan tập trung vào

các nhân vật làm quan to , n h ữn g tư sản lớn. Sekhov, trái lại, tập tru n g vào

tầng lớp công chức bình thường, có chức phận bình thường. Trước Sekhov,

văn học Nga đã lên tiếng tố cáo, phê phán sự áp bức bóc lột của lớp quan

chức, giai cấp quý tộc và nhà nước phong kiến. Những cái ác trong xã hội đã

được phanh phui, mổ xẻ. Đến lượt mình, Sekhov không chọn đối tượng đó

nữa. Ông chọn lớp người là công cụ đắc lực cho nhà nước phong kiến và khai

thác họ ở góc độ: những quái thai, dị dạng do chính xã hội, nhà nước phong

kiến cũ, tư sản mới đẻ ra. Những nhân vật này xuất hiện 5/23 truyện (“Con kỳ

nhông”, “”Lão quản Prisubeep”, “Đánh c­îc”, “Một phiên tòa” v…v….).

Với “Con kỳ nhông”, Sekhov chỉ ra một chất nô lệ quánh đặc ở nhân vật

Otsumelov - thày quản coi g iữ trật tự ở một kh u ph ố chợ. Sekh ov gặp gỡ

Nguyễn Công Hoan ở nghệ thuật kết cấu truyện ngắn “Thịt người chết”. Câu

chuyện được kết cấu theo lối hướng tâm, mà tiêu điểm kết cấu là con chó con

cắn ngón tay người thợ kim hoàn Khriukin. Làm tăng giá trị của kết cấu kiểu

này là sự tổ chức chi tiết theo kiểu: một chi tiết trung tâm và hỗ trợ cho nó là

các chi tiết xung quanh. Chiều hướng vận động của các chi tiết theo hướng đi

Page 47: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

lên, tăng dần mức độ và xoáy chặt, làm nổi bật nội dung, tư tưởng tác phẩm.

Trong “Con kỳ nhông”, tình tiết duy nhất là con chó cắn người thợ, khi anh ta

trêu nó. Vì nó cắn tay mình mà K hriukin chửi mắng nó, bắt nó trình với thày

quản Otsumelov. Vì nó cắn người khi chạy rông, nên thày phải có trách

nhiệm xử lý vi phạm trật tự công cộng. Vì là chó thả rông nên phải tìm ra chủ

nó để bắt phạt. Vì chủ nó khó xác định, lúc người này, lúc tưởng không là

người này, nên thái độ thầy quản phải thay đổi theo. Những chi tiết xung

quanh có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho việc thể hiện nội dung. Tác giả để

Otsumelov có hai lần hắng giọng và đi liền với hắng giọng là hành động nhờ

Endurin cởi áo, mặc áo hộ. Tình huống để hai chi tiết này xuất hiện: con chó

con được xác định của tướng Giugalov.

Lần 1: Trước đó, Otsumelov ra lệnh đập chết con chó con. Nhưng, có ai

đó nói: “Hình như của tướng Giugalov…”. Nghe thấy, Otsumelov liền:

“- Hèm… Endurin! Cởi hộ tao cá i áo bành tô với… Chà, thật khủng

khiếp, nóng chi là nóng! Hình như trời sắp mưa rồi hay sao ấy…”[68,tr.16].

Lần 2: Người ta lại bảo chó con không phải của Giugalov. Otsumelov lại

xoay giở đủ kiểu, đòi đánh đập, chê bai con chó. Khi người ta lại khẳng định

nó là của Giugalov thật, Otsumelov lại:

“- Hèm… Endurin, mặc hộ ta cái áo bành tô một tý…. Trời chuyển gió

rồi đấy…ren rét là…” và, ông ta quay ra nịnh con chó.

Câu chuyện ngày càng trở nên hấp dẫn, khi con chó được coi là vô chủ.

Otsumelov hống hách, kiê n quyết đòi đập nó, xúc phạm nó và không cần phải

cởi áo hay mặc áo, không cần bình luận về thời tiết. Qua cách để các chi tiết

xung quanh này xuất hiện đúng lúc (chó được coi là của tướng Giugalov), tác

giả cho thấy: Otsumelov hành động không phải theo bản năng. Từ chính

mình, ông ta thừa biết sự quay quắt, thay đổi thái độ theo vị trí con chó con

của mình là vô lý, đáng khinh. Biết thế, nhưng ông ta vẫn làm, tự phỉ nhổ vào

Page 48: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

mình. Vì thế, ông ta mới đánh lạc sự chú ý của mọi người bằng sự cởi áo, mặc

áo, bằng sự trời thoắt nóng đấy, lại rét ngay đấy.

Cái hay của câu chuyện con ở chỗ: với con chó, Otsumelov thay đổi thái

độ liên tục còn với người bị chó cắn, người dưới mình, nhất loạt, ông ta chỉ có

một thái độ: hống hách, đe dọa.

Lựa chọn chi tiết, đặt chúng trong những tình huống cụ thể, đẩy chúng

lên cao, cho chúng phát huy tối đa khả năng diễn tả, Sekhov làm nối bật sự xu

nịnh, tồi tệ trong nhân cách của Otsumelov. Sự thay hình đổi dạng của con

người trước một con chó hiện lên cứ tự nhiên như không, nhưng lại tạo được

ấn tượng sâu đậm, khó quên. Sự tiếp nhận của người đọc, nhờ thế nhanh hơn,

luôn giữ lâu hơn. Sự đau đớn, day dứt của người đọc nhiều hơn.

Những công cụ, những người máy phục vụ đắc lực cho nhà nước phong

kiến còn được tác giả thể hiện ở những góc độ khác nhau. Dưới ngòi bút

Sekhov, một loạt người vừa đần độn, vừa hống hách, vừa thảm hại hiện ra.

Những giám đốc nhà băng, những thủ quỹ, những thầy quản, những cảnh

binh…, vừa hung hăng, đầy nộ khí đấy thôi, khi đứng trước một “mặt nạ”

ngang ngược, đã vội “nhũn như con chi chi”, xum xoe, bợ đỡ khi cái mặt nạ

được bỏ ra, hiện nguyên cái “khuôn mặt trơ tráo, bị thịt, nhẵn bóng, đỏ lừ vì

rượu” của một thân hào truyền kiếp.

Nhân vật là quái thai, dị tật của xã hội xuất hiện trong truyện ngắn

Sekhov làm nhức nhối tâm hồn người đọc. “Lão quãn Prisubeev” và “Rối

ren” là ví dụ điển hình. Trong “Lão quãn Prisubeev”, tác giả đảo trình tự kết

cấu. Câu chuyện được trình bày từ giữa, tức cảnh phiên tòa xử Prisubeev vì

tội đã quá mẫn cán, về hưu rồi vẫn thực thi nhiệm vụ giữ trật tự như thuở còn

đi làm. Cách đảo lộn này cho thấy những lý do đưa ra buộc tội lão quản là rất

đúng luật pháp. Về hưu rồi mà lão còn dám làm nhục trương tuần, chánh tổng,

Page 49: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

những người thi hành công vụ. Nên, lão bị xử là thích đáng. Sự tức cười dẫn

đến nỗi đau là ở chỗ: công việc đã in sâu vào tim, óc lão, đến nỗi, không còn

ai khiến nữa mà lão vẫn cứ lo lắng cho luật pháp nhà nước. Đến nỗi, nhà nước

cũng bị làm phiền vì lão. Sự việc kết thúc, đặt đúng vị trí, đã làm nổi bật cái

quái dị trong lão quản Prisubeev. Bị tòa tuyên án, phạt một tháng tù giam.

Vậy mà:

“Khi bước ra khỏi phòng xử án, nhìn thấy đám nông phu tụ tập nói với

nhau cái gì đấy, thì lão ta, theo một thói quen, không thể nào tẩy rửa được,

bèn duỗi thẳng tay theo đường nẹp quần và quát to bằng cái giọng rè rè, giận

dữ: Ê, dân chúng, giải tán ngay! Không được xúm đông thế này! Ai về nhà

nấy!” [68,tr.29].

Cái kết chuyện với sự góp mặt của chi tiết quát dân chúng của lão quản

đã đẩy sự khôi hài lên cao độ. Rõ ràng, đây không là con người nữa mà là một

cái máy. Đằng sau sự khôi hài đó, là nỗi đau ám ảnh. Thực tế tàn nhẫn, nghiệt

ngã mà lão quản không nhận ra: Ngay cả chế độ Nga Hoàng cũng không chấp

nhận loại nhân viên “người máy” ấy. Không chấp nhận không phải vì nhà

nước cần những công cụ có lương tâm, không trì độn, mà họ còn bênh vực

những kẻ lười nhác, vô trách nhiệm, vô lương tâm khác.

Mỗi người một cách tiếp nhận, khám phá, phản ánh hiện thực khách

quan khách quan khác nhau, nhưng chung lại, cả Nguyễn Công Hoan và

Sekhov đều đưa người đọc trở lại với thế giới tù túng, ngột ngạt, người bóc lột

người một cách thậm tệ, tàn bạo và bẩn thỉu. Những sâu mọt đục khoét dân

lành, những công cụ hành pháp trơ tráo, máy móc đã hiện ra vô cùng sinh

động trong tác phẩm của hai nhà văn. Mỗi thế hệ người đọc đều nhận thấy câu

hỏi hai nhà văn đặt ra và đều tìm cho mình câu trả lời từ những câu chuyện

khôi hài mà đau đớn đó.

Page 50: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

2.2. Nhân vật - những kẻ dung tục, nô lệ

Nguyễn Công Hoan và Sekhov không chỉ phê phán bọn quan lại - những

công cụ đắc lực của nhà nước phong kiến, mà còn tập trung lôi ra những thói

tật nô lệ ẩn sâu dưới mẽ n go ài chải ch uốt, đ ẹp đ ẽ. Nguyễn Công Hoan và

Sekhov gặp gỡ nhau ở chỗ, lôi ra chân tướng của lũ người này, cả hai nhà văn

đều nhằm thức tỉnh con người trước hiện thực xấu xa. Nguyễn Công Hoan

đưa vào tác phẩm những cảnh đời nhố nhăng lai tạp của xã hội thực dân nửa

phong kiến. Ông đã xây dựng khá thành công một thế giới nhân vật đông đúc,

đa dạng với nhiều màu sắc, một thế giới người đông đúc và cũng thật là lúc

nhúc. Với đủ các thàn h phần từ quan lại, me tây, gái điếm, ph u phen, th ợ

thuyền, nông dân, tư sản đến người ăn mày… Cả một xã hội nhố nhăng đang

đi lại, nói cười trong tác phẩm của ông. Thế giới nhân vật ấy góp phần thể

hiện được quan niệm của ông về con người tha hoá theo lối vật hoá, con

người làm trò, diễn trò để tồn tại.

Nguyễn Công Hoan phơi bầy bản chất xấu xa, đạo đức giả, đua đòi rởm

của bọn tư sản, lũ nhà giầu. Những nhân vật kiểu này có trong 10/19 truyện.

Với chúng đồng tiền và danh vọng là tất cả. Có thể nhận ra chúng trong các

truyện: “Báo hiếu trả nghĩa cha”, “Báo hiếu trả nghĩa mẹ”, “Xuất giá tòng

phu”, “Mất cái ví”…. Từ tầng lớp này Nguyễn Công Hoan đã phát hiện thêm

một căn bệnh nữa của xã hội mà cần phải mổ xẻ, phanh phui. Tâm hồn chúng

đã hoàn toàn chai sạn trước tiền bạc, của cải.

Lấy “Báo hiếu trả nghĩa cha” làm ví dụ. Ý nghĩa mỉa mai nằm ngay

trong nhan đề câu chuyện: “Báo hiếu…”. Đạo đức của người con thể hiện ở

việc làm cỗ giỗ cha. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ gây cười để bộc lộ bản chất

sự việc. Tác giả miêu tả vợ chồng ông chủ hãng xe Con Cọp:

“(…) Miệng lúc nào cũng chực tóe ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay,

bổn phận ông bà là phải hay cười. Mà đã cười thì cười thật to, ôm bụng mà

Page 51: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến cả câu nói không buồn cười. Nghĩa là

ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản”

[36,tr.119 ].

Vợ chồng nhà tư bản “tươi như hoa” đón rước khách đến dự buổi “kỵ cố

ông”. Thoáng qua, ai cũng thấy họ thật có hiếu.

Thường thì, Nguyễn Công Hoan ít miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên xuất

hiện trong tác phẩm của ông thường là những đoạn tả rất ngắn. Ông chọn lựa

yếu tố thiên nhiên phù hợp , diễn tả đ ược đ ú n g b ản chất sự v iệc. Bức tranh

thiên nhiên ở đây được cấu thành bởi hai yếu tố: gió, mưa và mang tính chất

rét buốt. Câu chuyện báo hiếu được diễn ra trong cái nền thiên nhiên rất đặc

biệt. Có ba lần, bức tranh thiên nhiên xuất hiện, 2/3 bức được tả ngắn, gọn:

“Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương” . Đi liền với hai bức

tranh đó là hai nghịch cảnh. Cảnh 1: Bữa tiệc linh đình báo hiếu cha diễn ra

bên trong, sang trọng, ấm áp. Cảnh 2: ngoài đường phố, một bà cụ rách rư ới

như ăn mày, lọ mọ tìm đến “ông chủ” và bị chửi mắng, đuổi đi. Đó là mẹ đẻ

của ông chủ. Bà được đưa vào từ cửa ngách thông ra ngõ nhỏ, được chính ông

chủ “tiếp” bằng câu: “Một suýt nữa làm tôi ê cả mặt. Ai bảo bà ra làm gì?

(…) Bà không biết để sĩ diện cho tôi (…) Mặc kệ bà…” [ 36,tr.124].

Bức tranh thiên nhiên thứ ba xuất hiện làm nhiệm vụ kết thúc câu chuyện

buồn tủi của bà lão, đã trót đẻ ra thằng con “có hiếu”, và cũng làm rõ bộ mặt

thật của ông chủ hãng xe hơi Con Cọp:

“Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đang

khen là hiếu tử” [ 36,tr.125 ].

Tác giả không dừng sự mổ xẻ ở đây. “Báo hiếu trả nghĩa mẹ” đã đảm

nhiệm xuất sắc vai trò phanh phui thói đạo đức giả, sự bất hiếu của lũ người

giầu có.

Page 52: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

Nguyễn Công Hoan vận dụng lối kết cấu chương hồi của tiểu thuyết cổ

điển vào sáng tác truyện ngắn. Hiệu quả nghệ thuật của lối kết cấu này rất lớn.

Hai câu chuyện độc lập với nhau, nhưng được xâu chuỗi với nhau bởi tư

tưởng, chủ đề. Nhân vật ông chủ hãng xe hơi Con Cọp cùng vợ ông ta lại xuất

hiện. Mở đầu “Báo hiếu trả nghĩa mẹ” không là bức tranh thiên nhiên nữa, mà

là một cuộc đối thoại. Những lượt tham thoại không ăn nhập cho phép xuất

hiện lớp nghĩa hàm ẩn.

“- Thưa cụ (…) cụ có phải là cụ sinh ra ông chủ tôi không ạ?

- Không phải, con vú già đây!

- Kia có phải là bà chủ không?

- Không phải, đấy là mẹ đấy!” [36,tr.126].

Không giải thích, ai cũng hiểu vú già là mẹ chồng và “mẹ đấy” là con

dâu - tức vợ ông chủ hãng xe Con Cọp. Ai cũng hiểu, giữa mẹ chồng nàng

dâu đang có va chạm, xung đột lớn.

Cuộc thoại thứ hai xuất hiện, gồm ông chủ và bà chủ tham gia đối thoại.

Có 5 lượt thoại và 5 lượt hồi đáp. Cả 10 lượt thoại đều bóc trần bản chất khốn

nạn của vợ chồng ông chủ hãng xe Con Cọp. Thằng con trai đuổi mẹ, thề thốt

với vợ sự bất hiếu của mình (“Tôi không đuổi thì tôi chết! Mợ cứ chửi đứa

nào nói dối mợ”). Đứa con dâu vật vã vì “bà ấy ở đây ngày nào, tôi ê chề

ngày ấy”.

Con trai: “Tôi xin mợ! Tôi van mợ! Tôi lạy mợ!”

Con dâu: “Đồ mặt dày! Thế mà không biết nhục! Sao nó không chết đi

cho người ta nhẹ nợ!” [36,tr.127].

Kết thúc cuộc thoại: “Cậu buông tôi ra. Tôi không để con mẹ ấy yên đêm

nay được” [ 36,tr.127].

Vẫn giọng điệu lạnh lùng khách quan, vẫn cái cách kết cấu không cần lời

bình, bản thân câu chữ, giọng điệu đã nói lên tất cả. Tính dự báo của lời thoại

Page 53: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

rất cao. Đạo đức, hiếu tử của vợ chồng ông chủ hiện rõ trong cuộc đối thoại

đó. Hơn thế, số phận b à cụ được địn h đoạt bởi chính “đạo đức” của bọn

chúng.

Cái đám ma linh đình ngày hôm sau, lại một lần chứng tỏ cho thiên hạ

thấy “hiếu thảo” của bọn chúng. Cách tả của tác giả đậm tính chất chất gây

cười. Đây là thằng con trai - ông chủ:

“Người ấy mặc đồ sô gai, chứ còn bụng dạ nào mà áo quần chải chuốt

(…) người ta lại sợ hiếu chứ thương mẹ quá mà đập đầu vào quan tài, lỡ chết

thì hoài”.

Đây là đứa con dâu - bà chủ:

“Người con dâu mới lại đáng ngại nữa chứ! (…) kêu khản cả tiếng, khóc

hết cả hơi (…) Áo quan chưa ngắm đúng hướng, người ấy đã nhảy đánh tụp

xuống mà nằm thẳng cẳng…” [36,tr.132].

Với cách thức tổ chức nhân vật, tổ chức thiên nhiên, những cuộc thoại,

lối kết cấu chương hồi, tác giả bày ra trước người đọc những cảnh diễn bi hài,

mà diễn viên là những nhân vật đại tài. Họ diễn trò hay bao nhiêu, sự thối tha,

bẩn thỉu trong họ bày ra đậm đặc bấy nhiêu.

Không chỉ vạch trần sự vô đạo, xấu xa, đê tiện của những kẻ giầu sang

Nguyễn Công Hoan còn viết về thói dâm ô, bỉ ổi, cùng với sự đua đòi rởm

của chúng. Có thể nói bọn người này là sản phẩm của một xã hội tối tăm, mục

ruỗng, hỗn loạn, thiếu hẳn một nền đạo đức luân lý chính thống.

Người đọc ghê tởm vị quan hèn hạ đến mức đánh vợ, ép vợ đi ngủ với

quan trên để cho mình thăng chức (“Xuất giá tòng phu”). Có vị quan tham

lam, keo kiệt, bỉ ổi đến không còn nhân cách, bầy mưu để có được đôi giầy

mới (“Cụ Chánh Bá mất giầy”).

Người đọc cũng ghê tởm khi một bà vợ lăng loàn rước trai về nhà,

chồng bắt được lại té tát mắng chửi chồng, thậm chí, còn ngang nhiên tuyên

Page 54: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

bố ngủ với trai ngay trong buồng chồng tới mười bảy lượt (“Đàn bà là giống

yếu”). Một cô gái tự cho mình là thuỷ chung tiết hạnh nhưng chính cô cũng

không biết cái thai trong bụng mình là con của ai (“ Oẳn tà roằn”). Đám đàn

bà truỵ lạc đám gái mới lẳng lơ đó là những hiện hình sinh động nhất của sự

băng hoại về đạo đức, đánh mất đi nhân phẩm của mình. Nguyễn Công Hoan

miêu tả đám đàn bà xấu xa ấy, kẻ nào cũng phổng phao, hồng hào, sang trọng

quý phái nhờ vào luồng gió " Âu hoá" đang tràn lan khắp các hang cùng ngõ

hẻm của đô thị. Chúng đã đi ngược lại luân lý đạo đức của truyền thống dân

tộc bằng lối sống lố lăng, đồi bại.

Cái bụng "tròn như cái thúng" và một chú "Oẳn tà roằn đen như cột nhà

cháy" mà cô Nguyệt có được sau những mối tình "thuỷ chung" với không biết

bao nhiêu đàn ông, chính là kết quả của những ngày tháng " ăn gió nằm

sương" của người đàn bà chung tình nhất thế gian. Hay truyện Một tấm gương

sáng là bà Phủ Bống, một người đàn bà goá nhưng chẳng thủ tiết chờ chồng

mà lại tìm mọi cách có được một tấm bảng phong tặng " tiết hạnh khả phong"

và trở thành tấm gương sáng để mọi người noi theo. Cái thực trạng xã hội nhố

nhăng, đồi bại ấy ông gọi chung đó là " đời" và quan niệm "...Đời ngày nay

chẳng phải là một bà hiền mẫu biết thưởng phạt công minh. Đời đã hoá ra

một mụ chửa hoang, đẻ bậy, sinh non ra những hạng mất dạy hoặc đói cơm”

[36,tr.218].

Lấy nhân vật làm phương tiện phản ánh hiện thực, nhà văn Nguyễn Công

Hoan đã giúp bao thế hệ người đọc cách sống triết lý nhân sinh. Trong đó lối

sống “Âu hoá” một lối sống rởm hợm đã làm cho xã hội nhốn nháo hơn.

Thước đo giấ trị nhân phẩm đã bị thay đổi. Các nhân vật đã tự xổ toẹt nhân

cách mình, vứt nó xuống tận cùng của xấu xa, bỉ ổi.

Là con dân của cái xã hội đảo điên thối nát, họ trở thành nạn nhân của

đồng tiền của quyền lực và của những kẻ thống trị là lẽ tất nhiên. Nếu đồng

Page 55: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

tiền và quyền lực làm tha hoá hoàn cảnh bản chất của những người dân lao

động nghèo, thì nó lại là công cụ tác yêu, tác quái của lũ nhà giầu, tham quan

vô lại, làm biến chất hoàn toàn những nhân cách sống của đạo làm người, trở

thành những kẻ vô nhân hình, vô nhân tính.

Viết “ Xuất giá tòng phu”, nhà văn nhằm đả kích, châm biếm hạng

người vì danh lợi sẵn sàng đem cả vợ mình ra để làm chiếc thang bước lên

danh vọng. Đó là ngay giáp tết, người chồng bắt vợ trở thành món đồ lễ tết bề

trên. Tiếng khóc, tiếng van xin của vợ không bằng những hy vọng tốt đẹp ở

ngày mai.

“ - Tôi lậy cậu, tôi van cậu, cậu đừng ép tôi. Tôi là vợ cậu…

- À, tôi là vợ cậu! Là vợ mà chồng bảo không nghe. Luân lý để đâu?

Giáo dục để đâu?”.

Nếu chỉ đọc câu này của người chồng, thì chúng ta sẽ nghĩ ngay rằng, vợ

ông ta hẳn là phạm tội lớn lắm, và ông ta ắt phải là một người đạo đức, trọng

tình nghĩa lắm. Nhưng không, đây là câu nói ở miệng kẻ vô đạo, hắn đang cao

giọng bắt vợ đi làm điều ô nhục. Ông ta đánh đập, quát tháo, doạ dẫm bắt vợ

phải đi phục vụ quan trên làm theo ý mình, không chút xấu hổ nhục nhã.

Ở một khía cạnh khác, con người đã tự đánh mất đi nhân cách của mình

trở thành “đồ đểu” thậm chí “chó đểu” (thú vật hoá). Nhân vật ông Tham

(“Mất cái ví”) là trí thức có trình độ học vấn cao, cương vị xã hội không thấp

nhưng lại đối xử tàn tệ với họ hàng bề trên. Hành động ông Tham tự ăn cắp ví

của mình để đuổi khéo người cậu ruột là một hành động đê tiện:

“ Ông tham ung dung, tủm tỉm cười, đáp:

- Thế gì đã làm sao?

- Thế sao cậu lại ngờ cho ông làm gì vậy?

- Tôi vờ thế, chứ ví đây này, có mất đếch đâu!

Vừa nói ông vừa móc túi quần, quẳng cái ví đánh bẹt xuông mặt phản.

Page 56: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

Bà tham trố mắt nhìn chồng.

- Rõ khỉ, thế có phải ông giận không?

- Mợ không hiểu. Tôi cốt làm để bận sau ông đừng ra chơi nữa. Tốn kém

lắm” [ 36, tr. 157-158]

Kết thúc truyện đột ngột không một lời bình, nhưng để lại trong lòng

người đọc nỗi buồn sâu sắc, về sự xuống cấp đạo đức của lớp người được coi

là trí thức.

Tuy không có quan niệm rành rẽ như Sêkhov, song Nguyễn Công Hoan

sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, lại phải chứng

kiến những cảnh bất công phi lý, những điều xấu xa đồi bại của chế độ thực

dân phong kiến mọt ruỗng nên nhà văn cảm nhận " phải làm một cái gì để

khỏi tủi con nhà gia giáo". Bằng giọng văn ngắn gọn, hài hước Nguyễn Công

Hoan phơi bày cái thói xu nịnh diễn ra ở các tầng lớp người trong xã hội, từ

giai cấp thống trị cho đến những người dân nghèo, từ nông thôn cho đến

thành thị, đâu đâu cũng thấy sự xuất hiện của nó trong mỗi con người. Bằng

thực tế sáng tác của của mình Nguyễn Công Hoan đã phơi bày thói tật nô lệ

đó tồn tại trong xã hội phong kiến thực dân đương thời.

Viết về tình trạng con người bị tha hoá về nhân tính trong cảnh đi xuống

của xã hội, nhà văn Sêkhov đã có nhiều trang viết bất hủ qua các nhân vật

Nicôlai Iônưt, Acinhia… Sêkhov đã phơi bày thói dã tâm, độc ác trong chế độ

phong kiến quý tộc Nga đang đi nhanh đến chỗ diệt vong, nhường chỗ cho

chế độ tư bản bằng một loạt tác phẩm như Trong thung lũng, Iônưts, K hóm

phúc bồn tử,...

Nhân vật Acxinhia (“Trong thung lũng”) đại diện cho sự tác oai tác quái

của đầu óc tư hữu, tích luỹ tư sản. Ở con người này đã hội tụ mọi điều xấu xa

nhơ bẩn. Chồng ả là một người đần, nên ả đã có nhiều chồng không chính

thức khác. Khi biết bố chồng làm chúc thư để lại cho cháu trai những ruộng

Page 57: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

đất, Acxinhia đã nổi cơn tam bành, xỉa xói bố mẹ chồng, rồi dội nước sôi giết

cháu trai, cấm ch ị d âu khôn g đ ược kh ó c co n. Ngày đ ưa ma cháu trai,

Acxinhia mặc váy áo mới, đánh phấn, thoa son, vui cười như tết. Dần dần ả

đã trở thành một nhà tư sản và cuối cùng Acxinhia đuổi bố chồng ra đường.

Khi con người bị của cải chế ngự thì lập tức mất hết tình cảm tự nhiên đối với

đồng loại và biến thành loài lang sói.

Nhân vật Iônưts, trong truyện ngắn cùng tên của Sêkhov, là một bác sĩ

trẻ hăng hái yêu đời, những muốn đem hết tâm huyết sức lực của mình góp

phần thay đổi nơi anh ta sống và làm việc. Song cuộc sống tù túng nơi tỉnh lẻ,

đã nhấn chìm ý chí của nhân vật. Cuối cùng "anh đã khoát tay phó mặc đời

một cách miễn cưỡng", và nỗi đam mê duy nhất của anh ta lú c này là kiếm

cho thật nhiều tiền.

Trong sáng tác của Sêkhov, chất nô lệ được lôi ra thật khủng khiếp. Khác

với Iônưts từ một người háo hức sống, muốn cống hiến tài năng sức lực cho

xã hội, bị hoàn cảnh và đồng tiền chi phối, đã chấp nhận thoả hiệp với hoàn

cảnh, trở thành nô lệ của đồng tiền, nhân vật Nhikôlai Ivanưts ngay từ buổi

đầu lập nghiệp đã quyết thay đổi hoàn cảnh của mình. Bằng mọi cách hắn tậu

được trang trại, để tự mình trồng cấy. Hắn ao ước được ăn những quả từ chính

vườn nhà. Để đạt mục đích tối cao này, hắn đã không ngần ngại lấy một bà

goá già để đào mỏ, bắt vợ ăn uống kham khổ để tích cóp tiền bạc. Ước mơ

làm giầu và thưởng thức sản phẩm do chính mình làm ra của mỗi con người là

chính đáng. Nhicôlai Ivanưts trong “Khóm phúc bồn tử ” được khắc hoạ tính

cách theo sự cảm nhận của nhân vật khác. Hình ảnh của Nhicôlai được hiện

lên qua lời kể của nhân vật khác nhưng vẫn sinh động. Sự dung tục, thói nô lệ

đã trở thành bản chất của Nhicôlai Ivanưts. Hình ảnh Nhicôlai “thưởng thức”

thành quả lao động của mình được miêu tả:“Nhicôlai Ivanưts cười thích chí

rồi im lặng nhìn phúc bồn tử một lúc, ứa nước mắt anh ta không thể nói được

Page 58: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

câu gì vì xúc động lát sau anh ta đưa lên miệng một quả, nhìn tôi với vẻ đắc

thắng của đứa trẻ cuối cùng đã được thứ đồ chơi nó mơ ước và nói “Chà!

Ngon quá”. Anh ta ăn ngấu nghiến, luôn mồm nhắc lại: Chà! N gon thật! Anh

cứ ăn thử mà xem! [ 68,tr.170]. Đọng lại trong người đọc là hình ảnh Nhicôlai

ưá nước mắt, nước mũi, sùi cả bọt mép, ngấu nghiến nhai, vươn mãi cái cổ ra

cố nuốt những trái phúc bồn tử vừa chua, vừa chát mà vẫn cố khen ngon khen

ngọt. Anh ta đã tự đưa mình vào vị trí nô lệ của chính mình, nô lệ cho của cải

mình làm ra. Một kiểu nô lệ đến rùng mình ghê sợ. Nhicôlai tự quỳ gối nịnh

bợ những trái cây đắng chát của chính anh. Sekhov đã khám phá ra kiểu nô lệ

chưa từng thấy bao giờ trong thế giới loài người.

Người đọc bắt gặp kiểu nô lệ tương tự như Nhicolai ở “Gói đồ nữ trang”

của Nguyễn Công Hoan. Thật kinh tởm khi cả hai vợ chồng người đổ phân

thuê vui cười hỷ hả, cắm đầu tìm vàng trong thùng phân nhày nhụa. "Mùi khai

thối sực lên tận óc. Con vợ thấy nhiều vàng quá, mừng rú lên, vồ lấy vồ để.

Bất đồ trượt chân, nó ngã đánh oạch một cái, bê bết cả cứt vào mặt lẫn

người. Nhưng vì nó mê của cải, nó không thấy bẩn, không ngửi thấy thối, cứ

tự nhiên như không, lăn xả vào cái mỏ vàng mà nhặt” [ 36,tr.109] .

“Chuyện đời vặt vãnh” lại đề cập đến một thói tật dung tục khác.

Bêliaep chỉ là người bình thường như bao người khác. Đằng sau vẻ ngoài hào

hoa, phong nhã của Bêliaep, Sekhov đã chắt lọc ra được thói xấu xa, chất

dung tục. Đó là sự giả dối, tráo trở, lật lọng từ trong sâu kín tâm hồn hắn. Từ

đầu đến cuối truyện, nhân vật hiện ra là một người lớn chân thực, tôn trọng trẻ

con. Thái độ, lời nói của Bêliaep được miêu tả bắt đầu từ thái độ “không biết

đến ai” khi vào nhà người tình, đến thái độ thờ ơ đáp lại sự quan tâm, lòng

nhiệt tình của Aliôsa, rồi vờ như quan tâm “cháu lại đây cháu”, “Sao cháu

biết? Cháu vẫn gặp ba đấy ư?” “Cháu với ba cháu làm gì ở đấy?” “ Cháu

hãy nói với bác như người bạn thân của cháu!”, “ Cháu coi bác là ai mà lại

Page 59: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

thế”. Anh ta vồ vập, sốt sắng một cách sống sượng. Sau khi được nghe mọi

chuyện của Aliôsa rồi, thì anh ta làu bàu, cáu kỉnh và cuối cùng đã hành động

hoàn toàn bất ngờ, đột ngột với người đ ọc. Anh ta đã không giữ lời hứa vừa

mới nói cách đó vài phút mà “Cái người lớn” kia đã phản bội một cách trắng

trợn lòng tin, sự ngây thơ rong trắng của Aliôsa bằng thái độ tàn nhẫn “đấy,

cô hãy xem ông nhỏ này, ông ấy kể cho mà nghe, cứ hỏi mà xem!” . Nhân vật

đã tự lộ mình bằng chính cau nói của mình, thái độ lời nói của nhân vật diễn

ra rất thườngnhưng lại là quá trình chắt lọc chát xấu xa ẩn sâu trong lòng

người. Câu chuyện tưởng hết sức bình thường, nhưng đã lột tả chân dung con

người thật của những kẻ đạo dức giả trong cuộc sống.

Quan sát truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Sêkhov cho thấy hai

nhà văn dành rất nhiều trang viết về tình trạng " tha hoá" của con người trong

xã hội. Dưới cái nhìn của một nhà văn, sự tinh vi sắc sảo của một bác sĩ

Sêkhov đã phơi bày sự nhẫn tâm độc ác, mọi sự xấu xa ghê tởm của con

người trong xã hội Nga cuối thế kỷ XIX. Nguyễn Công Hoan bằng ngòi bút

sắc sảo của một nhà văn, sự tinh tế của một nhà giáo cũng đã nhìn rõ đã vẽ

nên những hình tượng xấu xa, tiêu biểu trong xã hội nửa thực dân phong kiến

đầu thế kỷ XX. Tất cả những điều đó được thể hiện trong sự căm ghét và sự

cảnh tỉnh của nhà văn với con người trước tình trạng suy thoái đạo đức trở

nên hèn mọn, nhỏ nhoi. Thế giới nhân vật đã phơi bày tất cả sự xấu xa đồi bại

của xã hội đã biến con người đi đến tận cùng của sự xa đoạ trước đồng tiền và

quyền lực. Một sự gặp gỡ giữa Nguyễn Công Hoan và Sêkhov khi thể hiện

thế giới nhân vật trong truyện ngắn.

Viết về thói tật nô lệ của con người trong xã hội, cả Sêkhov và Nguyễn

Công Hoan đã đưa vào tác phẩm biết bao cảnh diễn ra thường ngày trong xã

hội đầy rẫy sự bất công, tàn bạo. Từ cuộc sống hiện thực đời thường, hai nhà

văn đã phát hiện ra những xấu xa để phanh phui, mổ xẻ. Muôn chuyện nằm

Page 60: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

trong dòng đời bất tận đã trở thành đố i tượng phản ánh trong truyện ngắn.

Mỗi sự việc, mỗi con người, xuất hiện trong tác phẩm rÊt tự nhiên, bình

thường như nó vốn có ngoài đời thực. Vì vậy, thế giới nhân vật của họ đa

dạng, phong phú. Những cao sang, bần tiện, lạnh lùng, giễu cợt, nhỏ nhen,

luồn lọt, đau khổ, sung sướng... tất cả xen kẽ nhau trong dòng đời không yên

ả. Là nhà văn của mọi tầng lớp, họ đã lách ngòi bút của mình vào đáy sâu tâm

hồn con người, để chắt lọc những giọt nô lệ, đem lại sự trong sáng, cái đẹp

cho con người.

Page 61: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

Chương 3

NHÂN VẬT- NHỮNG NẠN NHÂN BI THẢM CỦA XÃ HỘI

TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYÊN CÔNG HOAN VÀ A.SEKHOV

Như đã nói, một trong những cái mới Nguyễn Công Hoan và Sekhov

mang lại cho văn học Việt Nam đầu XX và văn học Nga cuối XIX là sự kiến

tạo được một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo. Ở chương 2 chúng tôi đã

xem xét vai trò của loại nhân vật là công cụ đắc lực của nhà nước, giai cấp

thống trị, loại nhân vật dung tục, nô lệ, chúng tôi đã chỉ ra nét tương đồng

trong việc thể hiện loại nhân vật này của hai nhà văn. Bên cạnh những nhân

vật thuộc tầng lớp trên và trung bình đó, cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov

đều tập trung ngòi bút vào tầng lớp cùng khổ trong xã hội từ thành thị đến

nông thôn. Đời sống của tầng lớp dân nghèo trong xã hội buổi giao thời với

những đói rách, cùng quẫn đã hiện ra sinh động trong các tác phẩm.

3.1. Nhân vật - những con người cùng khổ bị đầy đọa và hủy diệt Loại nhân vật này xuất hiện trong 11 truyện ngắn trên tổng số 30 truyện

ngắn của Nguyễn Công Hoan. Bằng cái nhìn hiện thực và cái nhìn nghệ thuật

“ vào mặt trái cuộc đời”, Nguyễn Công Hoan đã phát hiện và miêu tả những

cảnh khổ cực của người dân lao động đói nghèo. Họ là những thành phần đáy

cùng của xã hội. Đó là người nông dân, anh kép hát, kẻ đi ở, phu xe, đứa ăn

cắp, ăn mày, gái điếm…. Nhà văn đã lôi ra biết bao cảnh khổ của họ để từ đó

khám phá, phơi bày bản chất thực của xã hội thực dân, phong kiến.

Mỗi người, mỗi nhân vật là mỗi cảnh đời, mỗi số phận khác nhau, nhưng

họ đều giống nhau ở nỗi bất hạnh và sự đói nghèo.

Người đọc có thể nhận thấy các tầng lớp dưới của xã hội trong truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan trước hết là những người phải bán thân, bán sức lao

Page 62: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

động với giá rẻ mạt để nuôi miệng, nuôi gia đình mà vẫn đói khát, cực khổ về

cả vật chất lẫn tinh thần.

Xây dựng loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan thường chú ý tới những

hoàn cảnh éo le, những mâu thuẫn cả bên ngoài và bên trong nhân vật. Lấy

truyện Kép Tư Bền làm ví dụ. Để làm nổi bật số phận của nhân vật Nguyễn

Công Hoan đã chọn lựa tình huống tiêu biểu. Đó là mâu thuẫn giữa hoàn cảnh

thê thảm của anh kép hát (bố chết) và tình thế buộc anh ta phải mua vui, cười

cợt (đóng vai hề).

Nỗi niềm đắng cay của anh kép hát Tư Bền hiện rõ trong tình huống đó.

Là người có tài, một "ông chúa khôi hài" nhưng cuộc đời anh lại đầy nh ững

đắng cay chua xót. Sự trớ trêu bắt đầu từ việc: “đã hơn một tháng nay, anh ta

không diễn ở đâu cả. Vì cha anh ta ốm…anh ta phải đi vay trước của ông chủ

rạp hát ít nhiều…”. Vở bi hài được “khai màn”, báo trước chiều hướng phát

triển của câu chuyện. Những mâu thuẫn xẩy ra liên tục và được đẩy lên cao

khi ông chủ rạp đến nhà, nhắc khéo anh món nợ. Sự gay cấn xuất hiện khi ông

chủ bắt ép anh đi diễn, lúc doạ dẫm, lúc ngọt ngào. Để có tiền chữa bệnh cho

cha, anh buộc phải đi diễn giữa lúc ông ốm rất nặng và đã trở thành con rối

trong tay hắn. Nhắm mắt nhận lời diễn vai mới, Tư Bền phó mặc cho số phận

để lên sân khấu, nuốt nước mắt mua vui cho công chúng. Cảnh Tư Bền đang

chết từng khúc ruột mà vẫn phải đánh phấn, hoá trang để đóng một vai giàu

sang, sung sướ ng là một cảnh bi hài. Cái trớ trêu, cái mỉa mai được đẩy lên

bước nữa khi lững thững bước ra sân khấu, vì lo cho cha, anh "đứng thần

người y như phỗng", thì khán giả lại vỗ tay cười vì tưởng anh muốn pha trò

như thế. Trò diễn càng trở nên oái oăm khi, trê n sân khấu, Tư Bền phải làm

điệu làm bộ, nhiều lúc phải "rặn ra mà cười ha hả" để thiên hạ được vui,

được cười. Mâu thuẫn giữa nội tâm nhân vật và hoàn cảnh càng phát triển.

Trong khi ở nhà, cha Tư Bền đang chết dần, thì tại sân khấu, tài năng diễn hài

Page 63: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

của anh cần phải được thăng hoa vào cảnh cuối. Khi diễn xong,Tư Bền không

còn bụng dạ nào để tận hưởng mọi lời hoan nghênh, khen ngợi của công

chúng “yêu nghệ thuật”. Đỉnh điểm của nỗi đắng cay, đau xót, bi hài chính là

lúc nhận món tiền của chủ từ tay người bạn cũng là lúc Tư Bền nhận được tin

cha chết. "Mau về anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân

anh quá!".

Để thiên hạ được vui, được cười với hy vọng sẽ có tiền chữa bệnh cho

cha Tư Bền phải quên cha mà diễn trò. Nhưng niềm hy vọng ấy đã tắt lịm khi

anh nghe tin người cha đã trút hơi thở cuối cùng. Thế là cha chết không được

nhìn mặt con, con không được nhìn mặt cha phút cuối cùng.... Thật xót xa cho

người nghệ sĩ có tài năng nhưng phải sống không chỉ thiếu thốn về vật chất

mà còn bị đầy đoạ về tinh thần. Tài năng của họ chỉ là công cụ cho bọn tư sản

kiếm lời.

Nếu như ở “Kép Tư Bền”, người đọc gặp sự trớ trêu, bi thảm của Kép

Tư Bền, th ì ở “Người ngựa, ngựa người”, người đọc cũng lại bắt gặp một

cảnh trớ trêu, bi hài khác. Cái hay của câu chuyện này là ở chỗ: tác giả cho

hai loại người cùng đi kiếm khách gặp nhau, lừa nhau, bóc lột nhau, xỉ vả

nhau. Đó là anh phu kéo xe và cô gái điếm. Hoàn cảnh để họ gặp nhau là đêm

30 Tết, tình huống để họ lừa nhau, biết rõ nhau là cả hai cùng ế khách. Anh

phu xe không có khách nào đi,cô gái điếm chẳng có khách nào gọi. Người đọc

cảm thông với những lời than thở của anh phu xe, "Tôi thật nợ nàn gì cô kiếp

trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô thế này, đầu năm mà đã rấp. Rắc rối!",

và cũng xót thương cho cô gái giang hồ, khi nghe cô năn nỉ "Anh đừng nói

thế, ai lại muốn thế này làm gì". Anh phu xe “vừa đi vừa thở dài, khách cũng

vừa đi vừa thở dài, càng đi càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt…". Bi thảm

là ở chỗ, cả hai đều không có cơ hội nào dù nhỏ để kiếm chút tiền vào đêm

cuối năm. Nực cười là ở chỗ: đến tận cùng khốn quẫn, cô gái điếm buộc phải

Page 64: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

lừa anh phu xe để không bị đòi tiền xe. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, tác

giả lại đặt tên cho tác phẩm: “Người ngựa, ngựa người”. Cũng không vô cớ

chút nào, khi tác giả hạ một câu: “…Bất đắc dĩ, con ngựa người lại kéo con

người ngựa”. Cái cười bật ra là cái cười rơi nước mắt.

“Người ngựa, ngựa người” của Nguyễn Công Hoan đưa người đọc liên

tưởng đến “Hai kẻ thù” của Sekhov. Cũng là kiểu đầy đọa lẫn nhau, làm khổ

nhau, nhưng Sekhov khai thác ở khía cạnh khác. Trong “Hai kẻ thù” , cuộc

sống của viên bác sỹ Kirilop và bệnh nhân Aboghin khốn khổ, khốn nạn như

nhau. Họ đều là những kẻ mất mát, đau đớn và vì thế họ làm khổ nhau. Bác sỹ

Kirilop đau đớn vì đứa con tra i yêu quý vừa chết chưa đầy 5 phút. Vì nhân từ,

vì lương tâm nghề nghiệp phải đi cấp cứu cho vợ Aboghin, để mặc vợ mình ở

nhà với xác đứa con trai. Aboghin thì bị vợ lừa đi mời bác sỹ, để đi với người

tình. Hành động của bác sỹ là vì trách nhiệm nghề nghiệp, nhân đạo và ông bị

Aboghin “lừa” một cách vô tình. Hành động mời bác sỹ, năn nỉ bác sỹ đi cứu

vợ mình của Aboghin cũng vì trách nhiệm, lòng thương và hơn thế nữa là tình

yêu. Aboghin bị vợ lừa. Khi sự thật nghiệt ngã đã được phơi bày: Vợ Aboghin

không ố m, chỉ giả vờ ốm để trốn đi với người tình, thì nỗi đau và sự bị xúc

phạm của cả Kirilop và Aboghin là quá lớn, họ đã bùng phát cơn tức giận

không thể kìm chế nổi. Họ hạ n h ục n h au và mãi mãi xa rời n hau, đ ầy

định kiến:

“Bất hạnh - Bác sỹ khinh bỉ cười khẩy - Xin ông đừng động đến chữ ấy,

nó không dính dáng gì đến ông sốt. Những kẻ ăn không ngồi rồi, không vay

đâu được tiền cũng tự cho mình là bất hạnh, thằng hoạn quan béo ra vì thừa

mỡ cũng bất hạnh. Thật là những kẻ thảm hại, nhỏ nhoi!”. [ 68,tr.65]

Nỗi uất giận mà không thể làm gì được của viên bác sỹ và của cả

Aboghin nữa, sẽ phảng phất ở anh phu xe và cô gái điếm trong “Người ngựa,

ngựa người”. Sự căm ghét và khinh bỉ làm trái tim các nhân vật thắt lại đau

Page 65: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

đớn. Thời gian rồi sẽ qua đi, nỗi khổ củ a v iên b ác sỹ rồi cũ n g sẽ qua đi,

nhưng những hành vi không công bằng, không tương xứng với trái tim con

người sẽ không biến đi, trái lại, mãi mãi còn trong tâm trí nhân vật và nhiều

thế hệ người đọc. Cũng như ngày nay, trên sân khấu hài của Việt Nam, người

ta diễn đi diễn lại “Người ngựa, ngựa người” với diễn xuất của những diễn

viên hài nổi tiếng, mà khán giả vẫn không nhàm chán. Tuy xót xa, cám cảnh

vẫn còn, nhưng người đọc sẽ phân tích, đánh giá tỉnh táo hơn, để rồi biết yêu

con người hơn.

Những người lao động nghèo khốn khó, cùng quẫn xuất hiện khá nhiều

trên những trang viết của Nguyễn Công Hoan. Mỗi người, mỗi cảnh ngộ khác

nhau, mỗi day dứt khác nhau. Nếu anh phu xe trong “Người ngựa, ngựa

người” bật ra nỗi đau khổ, uất ức, thậm chí nỗi cảm thông, thông qua những

lời thoại chứa chất bực bõ, mỉa mai, thì anh phu xe có tên Tiêu trong “Được

chuyến khách” lại ngẫm về nỗi khổ, sự khốn cùng của mình bằng những ý

nghĩ vụt đến. Nguyễn Công Hoan đứng ra, “đọc” ý nghĩ của nhân vật, bằng

lời của mình, diễn tả mạch cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Nhân vật xuất

hiện, bộc lộ nội tâm ở ngôi thứ ba: “Anh rùng mình khi nghĩ đến tiền đền một

buổi xe ngày hội. Hay là anh chịu lỗ vốn ít nhiều, gọi một người bạn nào mà

bán lại xe cho ngươì ta buổi tối nay?” (…) “Hay là bây giờ còn sớm? Phải,

người sang trọng còn đương ăn cơm. Chốc nữa, có mà vứt đi cũng không hết

khách" [36,tr.344-345]. Đây là cả một mạch suy nghĩ, tự động viên và hy

vọng kiếm được khách của anh phu xe. Trong truyện Nguyễn Công Hoan, sự

xen kẽ giữa phân tích tâm lý trực tiếp của người kể chuyện với sự tự phân tích

tâm lý nhân vật thường được tác giả sử dụng kết hợp với việc tạo ra tình

huống căng thẳng. Sự hấp dẫn của câu chuyện không dừng lại ở những suy

nghĩ triền miên của anh phu Tiêu, mà còn ở ch ỗ: Anh phu Tiêu chỉ biết nghĩ,

thậm chí tranh luận với riêng mình. Anh không thể nói ra với ai và chắc chắn

Page 66: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

cũng chả ai thèm nghe anh nói. Cái đói, cái nghèo đã đẩy con người vào

đường cùng, đã vắt kiệt sức lao động của con người, miếng ăn đối với người

nghèo là phải trả giá bằng mồ hôi, bằng nước mắt mà còn bằng cả máu. Đói,

nghèo cũng tước đi khả năng hòa đồng của nhân vật. Đó là tình cảnh đáng

thương của anh phu xe trong truyện Được chuyến khách, anh Tiêu đã phải vắt

kiệt sức của mình vào những chuyến xe, thậm chí đổ máu vào những chuyến

xe, để có tiền nuôi vợ, nuôi con. Bệnh tật không dám nghỉ, sau những cơn ho

đến kiệt sức tưởng như không gượng đứng lên được, vậy mà nghe tiếng gọi

"xe!", không kịp hoàn hồn, anh vội vàng “quẹt tay, chùi máu mép, với lấy

càng xe, cũng cắm cổ chạy. Chiếc xe nhẩy lên chồm chồm. May sao anh lại

tranh được chuyến khách". [ 36,tr.346]

Những Kép Tư Bền, Phu xe Tiêu … không phải hiếm thấy trong xã hội

đương thời. Họ là hiện thân của nghèo hèn, đói khổ, là sản phẩm tất yếu của

xã hội người bóc lột người mà Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra.

Người đọc bắt gặp sự tương đồng số phận của những kẻ nghèo hèn ở

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Những suy nghĩ về nỗi khổ, về

miếng cơm manh áo, về bất hạnh vợ con của anh Phu Tiêu gặp gỡ những suy

nghĩ của bác xà ích già Ion - người đánh xe ngựa đêm ở thành phố Peterbua

tráng lệ (“Nỗi nhớ”). Nỗi bất hạnh của Ion là ở chỗ mất đứa con trai, bác đau

đớn, nhớ con khôn nguôi. Bác không thể ở với con mà phải đi làm. Nỗi đau

quá lớn, nỗi nhớ quá dày, nỗi buồn quá nặng, bác giãi bày với khách đi xe,

nhưng chẳng một ai để tâm. Cái lạnh lùng, dửng dưng của người đời mà Ion

vấp phải, đã khiến bác sợ hãi, gục ngã. Ion đành giãi bày nỗi lòng của mình

với con ngựa. Con ngựa không biết nói nhưng nó biết nghe, biết vẫy tai, biết

rùng mình trước tiếng nấc khô khan của bác xà ích. Được tâm sự, được sẻ

chia, được nói tiếng người với người - khát khao đơn giản trong xã hội loài

người mà mong manh, hiếm hoi quá.

Page 67: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

Miêu tả, phản ánh cuộc sống của lớp người cơ cực, không nơi bấu víu,

không nơi nương tựa tinh thần là cái mới của Sekhov và cũng là cái mới của

Nguyễn Công Hoan. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa Sekhov và Nguyễn Công

Hoan. Cả hai nhà văn đã nhìn thấy và chỉ ra sự dửng dưng, ghẻ lạnh của con

người với con người trong xã hội rối ren, đảo lộn.

Đói là một đề tài được các nhà văn hiện thực phê phán chú ý khai thác.

Những năm 30 - 45, xã hội Việt Nam tràn ngập đói. Đi liền với đói bụng là

nhu cầu được ăn để khỏi đói. Mỗi nhà văn nhìn, thể hiện cái đói và sự ứng xử

của con người trước cái đói, cái ăn khác nhau. Với Nam Cao, cái đói đưa con

người về với bản năng và vì bản năng mà chết (“Một bữa no”). Nguyễn Công

Hoan lại nhìn cái đói như là một công cụ đưa con người trở về kiếp vật. Cái

khác người trong cách khám phá hiện thực của Nguyễn Công Hoan là ở chỗ

đó. Đọc “Răng con chó nhà tư sản”, người đọc từ ngạc nhiên đến thấm thía,

đến kinh hãi và đau thắt con tim trước sự gầm ghè, tranh giành miếng ăn giữa

thằng người ăn mày, đói rã họng và con chó nhà giầu, no. Ở truyện này,

Nguyễn Công Hoan miêu tả cuộc tranh ăn giữa người và chó, chủ yếu bằng

hành động. Hành động của nhân vật được xếp theo chuỗi, lúc nhẹ lúc mạnh.

Cuộc trò chuyện khoe thú chơi mới, khoe chó khôn ngoan của nhà tư sản là

nền để người nghèo và chó xuất hiện. Tình huống phát lộ hành động là bữa

cơm sang trọng của nhà giầu và đĩa cơm trắng thơm trộn thịt, cho chó ăn.

Thoạt đầu, thằng ăn mày ngồi “lù lù” bên cạnh cổng nhà tư sản. Khi

trong nhà sắp cơm với mùi thơm, hắn “gào lên xin”, “lạy van rã bọt mép”.

Bị quát, hắn lại “im thin thít”. Một loạt hành động của chó và người được tổ

chức theo kiểu ngang bằng. Hành động của chó và người đồng thời lại được

sắp xếp kế tiếp nhau và ngày một tăng về tính chất mạnh. Người quan sát, chó

theo dõi. Người nhìn, chó nhìn. Ngườ i tiến, chó tiến. Người đánh, chó cắn ….

Sự sắp xếp này, một mặt tăng tính hấp dẫn của câu chuyện, một mặt cho thấy

Page 68: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

sự đ ối lập gay gắt g iữa g iầu - nghèo trong xã hội đương thời. Ngoài ra

Nguyễn Công Hoan còn rất thành công khi sáng tạo sự đối lập giữa người và

vật. Thứ nhất là đối lập về địa vị. Người ăn mày, bẩn thỉu thuộc vị trí cùng

đáy, chó gốc nước ngoài, sạch sẽ, cao quý hơn người. Thứ hai, người ăn mày

và chó Tây không hiểu nhau. Thứ ba, người ăn mày muốn liều mạng để được

ăn đĩa cơm chó, trong khi chó “rất ngoan” trông đĩa cơm của mình khi chủ

chưa cho ăn.

Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi tác giả sử dụng cách sắp xếp chi

tiết theo lối châu tuần. Chi tiết trung tâm là đĩa cơm của chó đặt ở sân. Các chi

tiết hành động của người ăn mày và chó được đặt xung quanh và theo cặp

đồng đẳng với nhau. Trước hết là cặp chi tiết: người ăn mày “nhìn chòng chọc

vào đĩa cơm” và chó thì dửng dưng, ngồi “canh đĩa cơm”. Hành động “đánh

liều dồ ra, tiến gần lại mấy bước” của người được thực hiện, ngay “lập tức

con chó đứng dậy, cũng tiến lại mấy bước”. Thằng người “giương mắt nhìn

con chó. Con chó cũng giương mắt nhìn thằng người” . “Thành ra đĩa cơm ở

giữa, người tiến chó cũng tiến, người lui chó cũng lui. Hai bên hằm hè nhau.

Người lườm chó, chó lườm người, đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thà

không đội trời chung”. [36,tr.22-23]

Cuộc tranh ăn, giữ miếng lên đến cao trào. Khi thằng người nghĩ ra kế,

cầm hòn đá dọa chó, vừa chạy tọt lại đĩa cơm, rón một miếng rõ nhanh, đút

cơm vào mồm, thì con chó đã nhanh hơn. “Nó chồm vọt lại, nhảy xổ lên, há

mồm, nhe răng”. Kết quả, vì miếng ăn, mấy phút trước, thằng người còn sợ

chó cắn, còn mong chó biết tiếng người mà “lân la”, hi vọng chó có tình

“nhân đạo” để đánh đổi số phận cho chó…, thì bây giờ, “giơ thẳng cánh tay,

nhằm giữa mồm con chó, uỵch hòn đá một cái rõ mạnh”, lại bồi thêm một cú

đấm vào đầu chó, khiến chó “buông thằng người ra, nằm sóng soài, ẳng ầm

lên”. [36,tr.23]

Page 69: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

Giá trị tố cáo của tác phẩm không chỉ dừng ở đấy. Nguyễn Công Hoan

đã dùng “chi tiết hội tụ” kết hợp với giọng lạnh lùng, khách quan để kết câu

chuyện. Trong khi:

“Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! Ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng

rồi! Khổ tôi quá”, thì: “Mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày

chết tươi, ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng. Nói đoạn, ông tắt đèn

pha, phóng xe hết sức nhanh, đuổi theo…”. [36,tr.23-24]

Vì đói mà phải liều, phải tranh ăn với cả một con chó, phải lấy cả tính

mạng để đổi lấy miếng ăn bốc trộm, chưa kịp nuốt - con người đã không còn

là người nữa, mà ngang bằng kiếp vật, thậm chí không bằng.

Cũng từ đề tài đói để phản ánh cuộc sống cơ cực, thê thảm của những

con người nghèo khổ, qua đó tố cáo sự bất công, vô nhân đạo của chế độ Nga

Hoàng, Sekhov nhìn ở góc độ khác. Cũng là cách thức tổ chức nhân vật theo

kiểu quan hệ giữa người và vật, nhưng cách xử lý của Sekhov khác với

Nguyễn Công Hoan. Hiệu quả nghệ thuật của cách sắp xếp này rất lớn. Lấy

truyện “Quân ăn hại” làm ví dụ. “Quân ăn hại” kể về cuộc sống cùng quẫn

của Zotop - một ông già nghèo, 70 tuổi. Zotop rất nghèo, sống cô đơn với một

con chó già chột mắt, một con ngựa già yếu, còm cõi. Quan hệ giữa Zotop và

hai con vật là quan hệ ngang bằng, thấu hiểu, thân thiết gắn bó, chứ không đối

kháng như quan hệ người - vật trong “Răng con chó của nhà tư sản” . Mối

quan hệ này chi phối suy nghĩ, hành động của nhân vật. Ba nhân vật này

(người, chó, ngựa) đều tiều tụy, xơ xác vì đói, nghèo, rét mướt triền miên,

nhưng không thể thiếu nhau. Cũng có lúc họ dằn vặt nhau, tất nhiên, chỉ

Zotop dằn vặt, thậm chí hắt hủi hai con vật. Khổ quá, không có ăn cho mình,

cho hai con vật, Zotop thường xuyên chửi bới số phận. Kiếp của lão là kiếp

“đọa đầy”, “kiếp chó má”. Kiếp lão gắn chặt với kiếp hai con vật, cũng già

nua, khốn khổ như lão. Chửi mình chán, lão quay ra chửi hai con vật. Thế

Page 70: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

nhưng, chúng không chịu rời lão. Sekhov đặt vào miệng Zotop những câu

chửi con chó già Lyxka trụi lông, chột mắt và con ngựa già nhẫn nhục, xiêu

vẹo. Song, trong lời mắng chửi ấy, lão đã gom cả mình vào. Thực ra, lão rất

thương, rất gắn bó, rất vì chúng. Đây là lời lão mắng, đuổi hai con vật, khi

không còn gì cho chúng ăn:

“Chúng mày chẳng cho ông lấy một chút vui vẻ, lợi lộc gì, chỉ rặt buồn

khổ, túng thiếu! Sao mãi chúng mày chẳng chết rấp đi cho rảnh, hả?... Xéo

ngay! Xéo ngay ra khỏi nhà tao! Cho khuất hẳn mắt tao đi! Tao không có bổn

phận phải chứa những của khỉ ấy trong sân nhà tao! Cút!”. [70,tr.59]

Sau lời chửi, hai con vật nhẫn nhục, cúi đầu bước ra cổng và cứ đứng ở

đó. Mắng chửi dữ tợn thế, nhưng chỉ ít phút sau, chính lão lại ra cổng, làm vẻ

hung ác, quát chúng:

“Kìa, sao cứ đứng đực ra đấy? Đợi ai? Cứ nghênh ngang giữa đường,

không cho người ta đi phỏng? Vào sân ngay!”. [70,tr.60]

Sự hiểu biết, nhẫn nhục, biết nghe lời của hai con vật là biểu hiện của sự

gắn bó, đồng cảm giữa người và vật trong cảnh khốn khó, nghèo hèn. Hai con

vật càng lầm lũi bao nhiêu, Zotop càng quát mắng bao nhiêu, cái khổ, cái tội

nghiệp càng tăng lên bấy nhiêu, lòng thương chúng của Zotop càng sâu sắc

bấy nhiêu.

Cũng như Nguyễn Công Hoan, Sekhov cũng sử dụng chi tiết hội tụ và

giọng điệu lạnh lùng khách quan làm kết chuyện. Từ đầu đến cuối tác phẩm,

người đọc chỉ chứng kiến những gắt gỏng, chửi mắng, đuổi đi của Zotop đối

với hai con vật tiều tụy. Những băn khoăn, lo lắng cho chúng, chưa đủ sức

thuyết phục để nói lên sự gắn bó, không thể thiếu của ba thân hình già nua,

còm cõi ấy. Thế nhưng, chỉ với một chi tiết cuối tác phẩm: (…) “Đang khi

choáng váng vì quẫn trí và say rượu, lão trông thấy xác hai con vật nằm sóng

soài ra đấy, liền đến bên cái khung giết thịt, giơ đầu ch o Ignat đập nốt”

Page 71: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

[70,tr.64] đã đủ nói lên tất cả, rằng: ba cái mạng ấy, một người già sắp đến cõi

và hai con vật cũng sắp đến cõi ấy, hóa ra không thể thiếu nhau, gắn bó với

nhau biết chừng nào, trong cuộc sống vốn dĩ chẳng bao giờ no đủ, vui vẻ, đầy

những buồn tủi, giận hờn. Trong lạnh lẽo, buồn thảm của cuộc sống, đó vẫn là

cái đẹp nhất, ấm áp tình nhất, nâng đỡ và sưởi ấm nhau nhất. Chi tiết kết thúc

câu chuyện, gieo vào lòng người đọc cảm giác buồn đau, sâu lắng, cùng sự

cảm thông, xót thương cho những kiếp sống vất vưởng, lụi tàn.

Cái khổ, sự lay lắt, vật vờ thường trực trong cuộc sống của những dân

nghèo. Cả Sekhov lẫn Nguyễn Công Hoan đều có những độc đáo khi tổ chức

hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của mình. Đọc truyện Nguyễn Công

Hoan, khó có thể quên được hình ảnh chiếc quan tài (“Chiếc quan tài”) của

anh Cu “chết ngay vào độ trời làm vỡ đường”. Lụt to, người ta phải đặt quan

tài lên bè chuối lềnh bềnh, đẩy đi chôn. Cảnh đưa tang thật thê thảm. Chỉ có

bốn người đẩy quan tài anh Cu đi trong nước lụt, và: “Những bọt sóng tóe

bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm trên khúc chuối, bị gió, không

sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả hương lẫn nến, nhưng vẫn

tắt như thường” [36,tr.400]. Cuộc chôn cất diễn ra dưới nước thật vất vả. Cả

bốn người cố gắng mãi, không sao ấn được quan tài xuống hố nước. Tình

cảnh đã thảm thương: “Chị muốn khóc cho hết nước mắt”, càng thê thảm hơn

khi: “chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới đội

nổi lên. Tiếng khóc im bặt” [36,tr.401]. Bằng đủ cách, ấn, nhảy, dẫm, kể cả

cách cậy nắp quan tài cho nước chảy vào…, quan tài mới chịu nằm gí xuống

đáy huyệt sau nhiều lần chìm xuống lại nổi lên.

Giá trị hiện thực không chỉ dừng ở cuộc chôn cất vất vả, quá mức thương

tâm này. Chỉ nửa ngày sau, nư ớc dềnh lên, sóng nhè nhẹ vỗ và làm nở dần

nấm đất mới đắp. Nước cứ bền bỉ moi dần, moi dần, để rồi, “ục một tiếng, cả

chiếc quan tài nổi bềnh lên”. Và: “chiếc quan tài nổi theo mực nước cao dần.

Page 72: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

Sóng bập bềnh cứ vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị

vướng gì nữa. Nó quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc

trôi ngang, lúc trôi dọc. Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn (…).

Nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó”

cùng bè ngổ, cụm bèo, cụm rừa…. Mấy thứ rác cỏ nơi vùng quê nghèo cụm

lại với chiếc quan tài, như cố níu giữ nhau khỏi sự lôi cuốn của dòng nước.

Nhưng, khi gió đổi chiều, “một mình chiếc quan tài cựa quậy, như muốn tìm

ra lối rộng. Nhưng nó nặng nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất

chậm chạp” [36, tr.404]. Hình ảnh chiếc quan tài lừ lừ trôi, lúc nhích lên, lúc

giúi nghiêng…, bập bềnh, chật vật… được tác giả miêu tả tỉ mỉ. Kết thúc tác

phẩm là chi tiết: “Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh vào hai bên, rồi

đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy vòng, rồi lừ lừ, nó

trôi theo dòng nước”. [36,tr.405] Không có lời bình nào của tác giả, nhưng

người đọc không thể dừng sự tiếp nhận tại đây. Số phận chiếc quan tài sẽ ra

sao, khi nó không còn bất k ỳ sự níu giữ nào của rong rêu, rác cỏ, giong tre?

Sẽ ra sao khi nó đã trôi theo dòng nước lụt mênh mông?

Như vậy, với đối tượng miêu tả chính là chiếc quan tài - một đồ vật đựng

người chết g iá trị h iện thực đã g ia tăng. Nhân vật quan tài được miêu tả có

ngoại hình, có hành động, có hoàn cảnh. Quan tài được giới thiệu: “Chiếc

quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu (…). Nó bằng gỗ tạp, lỗ

chỗ những vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay”. Hình dạng quan tài

cùng hoàn cảnh khốn khó, cực khổ của nó hiện ra rõ nét qua mấy câu văn đó.

Trong quá trình vật lộn với nước lụt gần trọn ngày trời, ngoại hình quan tài đã

thay đổi: “Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt gỗ cỗ ván và cong vênh

một phần nắp lên. Cả người nằm trong, chương phềnh ra, cũng hình như

không chịu được chỗ quá chật hẹp”. Rõ ràng, sự thay đổi ngoại hình đó cho

thấy cái sự nghèo hèn, khốn khó của người nông dân.

Page 73: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

Nhân vật là đồ vật - thứ vô tri, qua miêu tả của nhà văn đã mang tiếng

nói rõ ràng, sâu sắc. Hình ảnh chiếc quan tài bị nướ c lụt moi lên từ huyệt, nổi

lên, bị đẩy đi, dập dềnh trên biển nước, lúc dạt vào ngọn tre, lúc quay ngang,

lúc lao dọc… cứ xoáy vào lòng người đọc cảm giác xót xa, buồn bã. Không

có kết thúc có hậu cho chiếc quan tài thương tâm. Số phận chiếc quan tài hay

số phận của những người dân nghèo, lay lắt, nổi trôi trong dòng đời đen bạc,

bất công.

Cũng nói về thân phận người nghèo khổ thông qua việc lấy đồ vật làm

nhân vật, tạo nên tính chất đặc biệt trong hệ thống nhân vật, ở Sekhov có

truyện ngắn “Vanka”. Câu chuyện kể về cuộc sống khổ cực, bị đầy đọa của

một cậu bé nông thôn, đi ở, mới 9 tuổi. Nội dung thông báo về cuộc đời khốn

khổ của cậu bé 9 tuổi này, cùng những khao khát được giải thoát và vô

vọng… nằm trọn trong bức thư nó viết, gửi cho ông người quen, ở quê nhà,

trong đêm Giáng sinh. Sekhov đã có sự lựa chọn hình thức biểu đạt độc đáo:

Bức thư. Bức thư do đứa trẻ 9 tuổi viết, vì vậy nó bộc lộ đầy đủ lối tư duy

ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ và đóng vai trò thông báo chính. Vanka

không còn ai thân thích, chỉ có ông quen cùng đi ở ở nhà quê. Nó đi ở ngoài

thành phố, chịu nhiều khổ ải, đói khát, thiếu ngủ. Bức thư của Vanka thấm

đẫm nước mắt, buồn rầu và tuyệt vọng. Bức thư đã chứa đựng tất cả những gì

Vanka trải qua. Đó là bị đánh đập, bị chửi bới, bị đói khát, rét mướt, cộng với

những mơ ước nhỏ nhoi, khao khát giải thoát vô vọng: “Ông thương lấy cháu

mồ côi mồ cút khổ sở, không người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn

no lắm, cháu buồn lắm, không nói được gì, chỉ khóc thôi… đời cháu khổ lắm,

khổ hơn một con chó ông ạ…. Ông thân yêu. Ông lên đây đón cháu nhé”. Ý

nghĩa tuyệt vọng của bức thư, của Vanka càng lớn hơn nữa, khi Vanka dán

phong bì, đề lên đó hàng chữ: “Gửi ông nhà quê

Ông Konxtantin Makaruts”.

Page 74: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

Bao nỗi niềm, hi vọng, Vanka để hết trong bức thư và gửi đi với một địa

chỉ vu vơ. Giữa xô bồ bao nhiêu cái ác, giữa vạn trùng giả dối, vô lương, thờ

ơ, vô trách nhiệm…, bức thư của Vanka với địa chỉ lơ lửng kia, làm sao đến

tay người nhận, để ông nhà quê biết được nỗi đau khổ vô tận của nó. Số phận

bức thư, Sekhov không nói, nhưng người đọc dự cảm được. Lá thư cũng như

Vanka, ngây thơ đến khờ khạo, hồn nhiên đến đau lòng, cũng sẽ bị tung tẩy,

lưu lạc và rồi sẽ bị lãn g quên, bị v ứt vào mộ t xó nào đ ó của xã hội đ en

ngòm đó.

Người đọc nhận thấy sự gặp gỡ tuyệt vời giữa Nguyễn Công Hoan và

Sekhov. Hai hình ảnh bức thư và chiếc quan tài đã xuất hiện trong sáng tác

của họ, đã sống trong tâm thức mọi người. Qua bao thời gian, chúng vẫn bơ

vơ, vẫn bị quăng quật, vẫn lừ lừ quay ngang, quay dọc giữa dòng đời, vẫn ám

ảnh khôn nguôi, vẫn đòi một câu trả lời.

Nỗi khổ bị đọa đầy của những kiếp người lầm than, không chỉ được hai

nhà văn khám phá ở góc độ vật chất mà còn cả ở góc độ tinh thần. Sự đói khát

về vật chất đã khủng khiếp, sự đầy đọa về tinh thần còn khủng khiếp hơn. Với

truyện ngắn “Hai thằng khốn nạn”, Nguyễn Công Hoan đã chỉ ra một kiểu

thảm cảnh không kém thương tâm. Người nông dân tên Lan, sau đê vỡ, lụt

lội, nhà đổ, trâu chết, vợ chết, ruộng phải cầm cố… gia tài trở nên sạch bách.

Tài sản duy nhất chỉ là đứa con trai mới biết ngồi. “Cái cảnh gà sống không

còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn

vậy” [36,tr.35]. Đói khát, mắt mờ, bác Lan buộc phải bán con. Nhờ người

mách bảo, bác đến gặp Nghị Trinh để bán con cho “nhà hiếm”. Cuộc ngã giá

mua - bán thằng bé con của bác Lan và Nghị Trinh được tac giả tả tỉ mỉ. Bằng

phương thức giãn cách thời gian, tác giả đã làm tăng tính chất bi hài của cuộc

mua bán đặc biệt này. Thời gian được tính bằng : “một giờ sau”, “hơn nửa

giờ nữa”; rồi lại “nửa giờ sau”; rồi lại “một lát sau”… cộng với những cụm

Page 75: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

từ hàm thời gian: “nghĩ vẩn vơ mãi”, “lạy van mãi”, “xem xét đứa bé rất kỹ

càng”, “dặn dò mãi”… cho thấy sự nài nỉ, kì kèo, thêm bớt của “hai thằng

khốn nạn” diễn ra như thế nào, trong bao lâu. Thời gian càng kéo dài, có lúc

ngưng đọng, đã diễn tả đầy đủ nỗi khổ vì đói nghèo, nỗi đau phải bán con của

bác Lan, tương phản gay gắt với Nghị Trinh, giầu có hiếm hoi, muốn mua con

nhưng lại keo bẩn nhưng lại ti tiện. Mua một con người, mấ t có ba hào, đến

phút cuối, khi xem xét kỹ thằng bé, thấy lưng nó nhiều nốt ruồi, Nghị Trinh

bớt 2 xu. Vậy, nhưng hắn vẫn thấy thật “hoài của, giá bớt hẳn 5 xu, nó cũng

phải chịu” [36,tr.39].

Cái nghèo, cái đói đã làm con người ta trở nên thảm hại. Người c ha phải

bán con lấy hai hào tám để đỡ “cái dạ dầy đã lả” đã khốn nạn. Cái thằng

người no đủ, lợi dụng cái đói nghèo, bóp chẹt từng đồng xu còn khốn nạn gấp

bội lần. Giá trị hiện thực của vấn đề nắm ngay trong nhan đề truyện: “Hai

thằng khốn nạn”.

Sự đầy đọa về tinh thần này cũng sẽ tìm thấy trong “Cô đào hát”, “Rối

ren”, “Hai kẻ thù” của Sekhov. Số phận những kiếp người lầm than được hai

nhà văn khám phá ở mọi phương diện. Những anh cu Bản trong “Ngậm

cười”, Bà Nuôi trong “Đồng hào có ma” của Nguyễn Công Hoan cũng gặp

gỡ Ion trong “Nỗi nhớ”, Lipa trong “Trong thung lũng” của Sekhov. Cùng

với kép Tư Bền, Zotop v…v… họ làm thành một mảng màu sinh động trong

bức tranh hiện thực của xã hội bất công, vô nhân đạo, trong đó, quyền sống

tối thiểu của con người không được đảm bảo. Họ là nạn nhân bi thảm của chế

độ phong kiến cũ nát và tư sản mới.

3.2. Nhân vật trẻ em - những mầm sống bị đứt đoạn

Thế giới những con người cùng khổ trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan và Sekhov hiện lên thật sinh động, phản ánh rõ nét sự c ùng quẫn, khổ

nhục trong xã hội bất công, vô nhân đạo. Thế giới đó không chỉ khủng khiếp

Page 76: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

mà còn hoang lạnh, mù xám, hiu hắt hơn khi có sự góp mặt của những nhân

vật trẻ em.

Với Nguyễn Công Hoan, nhân vật trẻ em xuất hiện trong 5/11 truyện về

những nạn nhân bi thảm. Đó là những em bé gái đi ở như con Đỏ trong

“Phành phạch”, con Thanh trong “Thanh! Dạ!”; Đó là thằng bé ăn mày

trong “Cái vốn để sinh nhai”, ăn cắp trong “Thằng ăn cắp” và “Bữa…no

đòn”. Trong quan sát của Nguyễn Công Hoan, dường như những đứa bé này,

vừa sinh ra đã bị tung ra xã hội, nhanh chóng đứng vào hàng ngũ lớp người

dưới đáy. Chúng không có tuổi thơ, không nơi nương tựa, bấu víu. Cuộc đời

chúng là những nghịch cảnh đau lòng.

Viết về loại nhân vật này, Nguyễn Công Hoan thường sử dụng cách giới

thiệu nhân vật trực tiếp và cho xuất hiện ngay mở đầu tác phẩm. Ngoài ra,

ông còn sử dụng giọng điệu cơ bản là lạnh lùng, khách quan, có xen những lời

bình giễu nhại. Nhân vật thường được đặt vào hoàn cảnh đối lập, gay cấn. Lấy

“Thanh! Dạ!” làm ví dụ. N gay mở đầu tác phẩm, người đọc đã tiếp nhận một

cặp từ gọi - đáp:

-“Thanh!

- Dạ!”.

Hoàn cảnh xã hội, phông văn hóa những năm 1935 cho phép người đọc

hiểu ngay Thanh là ai. Thanh là bé gái đi ở và sẽ bị sai bảo. Người gọi tất

phải là chủ, chí ít cũng có quyền sai khiến. Thanh xuất hiện trước người đọc

không phải là hình hài mà bằng âm thanh: “Dạ!”. Hoàn cảnh để Thanh

“Dạ!”, được tác giả giới thiệu liền đó.

“Trong nhà hôm nay tấp nập như mở hội. Me cho phép cả sáu cô ra Đồ

Sơn chơi. Ngay 7 giờ sáng, sáu chị em đã gọi nhau choàng cả dậy (…) Các cô

tranh nhau rửa mặt, rồi thi nhau trang điểm. Mùi phấn, mùi nước hoa thơm

Page 77: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

phức cả nhà. Mỗi cô chọn một màu áo, rồi ngắm hết cho nhau, lại ngắm cho

nhau”. [36,tr.238]

Một trong những khác biệt khi miêu tả kiếp trẻ bị đọa đầy, Nguyễn Công

Hoan dồn nén rất nhiều hoạt động trong khoảng thời gian chật hẹp. Thời gian

nghệ thuật là thời gian hiện tại. Sự tồn tại của thời gian rất ngắn. Các cô chủ

được tíu tít chuẩn bị cho chuyến đi từ 7 giờ đến 9 giờ. Trong 2 giờ đó, các cô

vừa vội vã, cuống quít, chuẩn bị, vừa đủng đỉnh giỡn đùa nhau. Trong khi đó,

con Thanh tất bật. Để diễn tả sự khốn khổ, quay cuồng của con Thanh, tác giả

đã cho cặp từ gọi - đáp, những câu sai khiến xuất hiện với mật độ dày, liên

tiếp. Trong hai giờ, cặp từ gọi - đáp “Thanh! Dạ!” được lặp đi lặp lại 10 lần.

Đó là các cô gọi trực tiếp. Cùng với gọi - đáp là các câu sai khiến xuất hiện

nhiều hơn. Không tính tới lệnh của bà chủ, riêng các cô, các cậu đã sử dụng

24 câu sai khiến, tương ứng là 24 lệnh sai bả o dành cho con Thanh. Con bé

ngập đầu trong mệnh lệnh và công việc.

Nội 10 lần xuất hiện của cặp từ gọi - đáp, 24 lần xuất hiện của câu sai

khiến đã cho thấy vai trò chủ đạo của hành động trong tác phẩm này. Hành

động xuất hiện liên tục, không có điểm dừng. Hành động của nhân vật được

sắp xếp theo kiểu một hành động trung tâm, và xoay quanh là các hành động

khác. Hành động trung tâm của câu chuyện là của bà chủ sai nó đi gánh nước.

Đây là hành động duy nhất trong tác phẩm vận động chậm. Nhận lệnh gánh

nước từ sáng sớm nhưng con Thanh đến gần 9 giờ sáng chưa thực hiện xong.

Xoay quanh hành động trung tâm này là 24 hành động sai bảo và con Thanh

phải thực hiện. Đối tượng phục vụ của nó là các cô chủ và các cậu bạn của họ.

Có thể nói con bé tối tăm mặt mũi. Nó trở thành đối tượng sai khiến, đù bỡn,

khinh miệt của các cô chủ, cậu chủ.

Hỗ trợ cho hành động là sự góp mặt của không gian nghệ thuật. Không

gian hoạt động của con bé là nhà bếp, phòng khách, hàng tạp hóa, hàng giặt

Page 78: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

là. Công việc mà nó phải làm là gánh nước, đi mượn tiểu thuyết cho cô này,

mua hạt tiêu cho bà, nước đá cho cậu này, ô mai cho cô kia…. Đôi chân nhỏ

nhoi của nó thoắt chỗ này lại phải guồng chạy đến chỗ kia. Nỗi vất vả của con

bé được tác giả miêu tả trực tiếp thông qua những lời bình ngắn gọn. Ví như:

- “Chung qui chỉ chết con Thanh. Đã bận lại thêm tíu tít”.

- “Một mảng áo lưng nó bết vào với thịt”.

- “Tội nghiệp con bé, trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt”.

Nguyễn Công Hoan tiếp tục sử dụng lối kết chuyện không bình luận. Tất

bật phục vụ các cô chủ, con Thanh không còn chút rảnh rỗi nào để thực hiện

lệnh của bà chủ. Thế, cho nên, chưa xong việc cho các cô, nó buộc phải hứng

chịu cơn tam bành của bà chủ: (…) “Cái đuôi gà ở đầu khăn ngỏng ngược lên

trời, quệt cái tay áo đẫm mồ hôi lên trán, tay cầm thanh củi, trỏ vào thạp

nước, trợn tròn mắt, rồi phang vào đầu, vào mặt, vào lưng con Thanh túi bụi,

để đánh nhịp với những tiếng:

- Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười! Lười!”. [36,tr.244]

Một kết thúc đầy ý nghĩa. Đúng như tác giả đã bình ở đầu câu chuyện:

“Chung qui chỉ chết con Thanh”.

“Thanh! Dạ!” của Nguyễn Công Hoan nhắc người đọc nhớ tới “Buồn

ngủ” của Sekhov. Có thể nói đây là hai truyện ngắn có khá nhiều nét tương

đồng về nhân vật, cách xử lý đề tài và hiệu quả nghệ thuật. Tất nhiên, môi

trường hoạt động của các nhân vật có khác nhau, bởi những đặc trưng văn hóa

khác nhau.

Varka trong “Buồn ngủ” cũng là một bé gái đi ở, 13 tuổi. Chủ nhà của

Varka cũng thuộc tầng lớp thị dân như nhà chủ của con Thanh. Họ cũng đua

đòi rởm, cũng ác độc, cũng đầy đọa người ở như nhau. Sekhov cũng giới

thiệu nhân vật ngay từ đầu:

Page 79: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

“Đêm đã khuya. Varka, con sen 13 tuổi, luôn tay lắc lắc cái nôi có đặt

thằng bé nằm, miệng lẩm bẩm hát ru rất khẽ…. Ru hời ru hỡi là ru”.

[70,tr.109]

Cách giới thiệu này, một mặt, cho người đọc tiếp xúc ngay với nhân vật,

mặt khác, tạo ấn tượng cho người đọc. Một câu hỏi đặt ra: Đêm hôm khuya

khoắt, hoàn cảnh như thế nào mà một bé gái 13 tuổi vẫn còn đưa nôi, ru em?.

Câu chuyện dần hé mở, bằng một loạt những chi tiết chỉ hành động, được

xếp liên tục. Trước hết là chi tiết thằng bé con “khóc hoài”, “khóc quá đã

khản đặc và kiệt sức từ lâu”. Tiếp đó là chi tiết Varka buồn ngủ:

- “Varka buồn ngủ lắm rồi. Mắt nó cứ ríu lại, đầu cứ gục xuống, cổ mỏi

rã rời (…) Nó có cảm giác như mặt nó đã khô đét và trơ ra như gỗ, đầu nó

teo quắt lại, chỉ còn bé bằng cái đầu đanh ghim”. [70,tr.109]

Tiếp nữa là giấc mơ mù mịt, mụ mẫm của con bé. Giấc mơ ngủ trên bùn

lầy lội cùng đám người lũ lượt, vật vờ thật hợp lý với sự buồn ngủ ghê gớm

của con bé. Cách kể của Sekhov khác với cách kể của Nguyễn Công Hoan.

Nhịp điệu câu chuyện cứ dàn trải ra, chậm chạp. Giấc mơ của Varka kéo dài

và toàn bộ gia cảnh nhà nó hiện lên rời rạc, đứt đoạn nhưng, hợp lại, vẫn rõ

ràng. Xen kẽ giữa giấc mơ vẫn là âm thanh tiếng ru ạ ời và sự b uồn ngủ của

Varka. Trong mơ, Varka khóc vì bố chết, nó chạy vào rừng và va vào cây

bạch dương. Cú va đập làm nó tỉnh ngủ, mở chừng mắt. Ông chủ đã đứng

trước mặt, véo tai nó rất đau…. Thằng bé vẫn khóc. Ông chủ đã ra. Thế mà,

tất cả lũ người, dậy phơi quần áo, cái phòng chật hẹp, vệt sáng xanh… lại tràn

vào cái đầu mụ ra vì buồn ngủ của Varka….

Cứ như vậy, thằng bé khóc, Varka đưa nôi, buồn ngủ và không được

ngủ. Trời lại sắp sáng và Varka đi nhóm lò. Lại một ngày bắt đầu. Cũng như

“Thanh! Dạ!” , trong “Buồn ngủ”, những mệnh lệnh thức được đưa ra liên

tục, kế tiếp nhau:

Page 80: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

“- Varka, đốt lò sưởi lên nào!

- Varka, đặt ấm lò đi!

- Varka, đánh giầy cho chủ!

- Varka, rưả phía ngoài cầu thang!

- Varka, chạy đi mua chai bia về đây!

- Varka, chạy xuống hầm lấ y vodka! Varka, cái mở nút chai đâu?

Varka, đi làm cá tý….

- Varka, ru em nhé! - Lệnh sai cuối cùng vang lên”…

Varka cũng quay cuồng trong công việc và sự sai bảo. Varka khốn khổ

hơn Thanh ở chỗ: Varka không được ngủ, buồn ngủ. Cái buồn ngủ của đứa trẻ

13 tuổi thật tội nghiệp và chắc chắn rất hiếm thấy:

“Nó ngồi xuống sàn đánh giầy, bụng nghĩ, giá chui đầu vào chiếc giầy to

tướng, sâu hoắm mà ngủ một giấc thì sướng quá…. Rồi, bỗng chiếc giầy to

lên, choán hết cả căn phòng…”. [70, tr.114-115]

Kết thúc “Thanh! Dạ!” là một trận đòn tới tấp của bà chủ dành cho bé

Thanh, có tiếng quát “Lười! Lười!....” làm nhạc đệm. Kết thúc “Buồn ngủ”

là cảnh:

“Miệng cười khanh khách, Varka vừa nháy mắt với cái vệt sáng xanh,

giơ ngón tay lên dọa nó, vừa rón rén đến cạnh cái nôi và cúi xuống sát người

thằng bé. Bóp cổ nó xong, Varka nhanh nhẹn nằm ra sàn nhà, cười khoái trá

vì bây giờ không còn cái gì cản trở giấc ngủ của nó nữa, và chỉ phút sau, nó

đã ngủ say như chết…”. [70,tr.117]

Cũng là giọng lạnh lùng, khách quan. Cũng kết thúc không lời bình luận.

Hiệu quả nghệ thuật được gia tăng rất nhiều.

Có thể nói, “Buồn ngủ” và cả “Thanh! Dạ” là những truyện ngắn hấp

dẫn. Cuộc sống bị đầy đọa, tủi hờn của những đứa trẻ hiện ra thật sinh động.

Trong toàn câu chuyện, cả hai tác giả đ ều cho nhân vật bé con của mình mỉm

Page 81: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

cười một lần. Con Thanh:… “trên mặt mũi, mồ hôi nhỏ giọt, nhưng hai mắt

nó sáng long lanh, vì vừa làm tròn một việc mà không bị mắng” .[36,tr.241]

Varka thì sau một ngày cật lực với công việc, “nhìn mấy khung cửa sổ tối

dần, Varka đưa tay lên bóp hai thái dương cứng đờ, và mỉm cười bâng quơ,

chẳng biết mình cười chuyện gì. Bóng hoàng hôn mơn trớn đôi mắt nặng trĩu

của nó và hứa hẹn với nó một giấc ngủ ngon lành”. [70,tr.115]

Ở hai quốc gia xa nhau, với hai dân tộc khác nhau, hai nền văn hóa khác

nhau, cuộc đời truyện ngắn cách nhau 67 năm (“Buồn ngủ” (1888), “Thanh!

Dạ!” (1935)), hai đứa trẻ trải đời mình trong sự đọa đày gần giống nhau.

Niềm vui ngây thơ, mong ước thơ ngây và hồn nhiên của chúng khiến người

đọc đau đớn trong tâm can. Cả “Buồn ngủ” và “Thanh! Dạ!” đều đem lại cho

người đọc một sự căng thẳng về thần kinh mà vẫn không sao dứt truyện ra

được. Cảm giác thường trực là mệt mỏi kéo dài. Lệnh tiếp lệnh, việc tiếp

việc… không có lấy một khoảng trống nào cho hai bé gái nghỉ ngơi. Con

Thanh còn “Dạ” được sau 10 lần bị quát gọi và còn trả lời, giải thích đôi câu

với các cô chủ. Varka thì im lặng từ đầu đến cuối tác phẩm, vì, trong đầu nó

chỉ có nhu cầu được ngủ. Người đọc xót xa, như bị đánh khi Thanh bị đánh.

Người đọc sững sờ trước một đứa bé 13 tuổi lẫm lũi trong công việc và chỉ có

một nhu cầu thúc bách là được ngủ mà không được ngủ. Còn sững sờ hơn

nữa, khi tác giả để Varka tìm lối thoát khỏi cơn buồn ngủ là bóp cổ thằng bé

con chủ nhà đến chết, rồi lăn ra sàn nhà mà ngủ.

Những số phận như Thanh, Varka không phải là hiếm gặp, Nhu cầu

muốn ngủ mà không được ngủ như Varka, lại thấy thấp thoáng nơi con Đỏ

trong “Phành phạch” của Nguyễn Công Hoan. Tình huống của câu chuyện là

đêm mùa hè, nóng bức, ngột ngạt. Bà chủ không chịu nổi cái oi bức, mặc dù

đã “tắt đèn đi cho dịu mát, mở tung hai cánh cửa chớp, rồi vặn quạt máy vù

vù” [36,tr.378]. Bà quyết định gọi con Đỏ lên quạt hầu bà, vì: “Bà đã đủ lòng

Page 82: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

nhân đạo đối với một con bé mười hai, mười ba tuổi đầu. Phải, còn gì nhẹ

nhàng cho bằng việc ngồi yên một chỗ, cầm chiếc quạt khẽ đưa đi đưa lại….

Con Đỏ con, cả ngày chỉ có việc bế anh, rồi làm phụ dưới bếp…” [36,tr.378].

Câu chuyện cứ nhẹ nhàng diễn ra, như chẳng động đến ai, chỉ là chuyện một

bà chủ “béo lắm, một cái béo rất hùng vĩ” với con hầu “vẫn gầy còm lắm”.

Nhưng toàn bộ sự ác độc, ích kỷ của chủ và nỗi khổ bị áp bức, bóc lột của

người nghèo cứ hiển hiện. Nhất cử lưỡng tiện, con Đỏ quạt hầu, bà chủ vừa

đỡ “hại quạt và tốn tiền điện”, vừa lại được tiếng là người có nhân đức, vì,

“cái ngữ ấy (con Đỏ)… chẳng xin ở không công để kiếm miếng ăn, tất chỉ có

ăn mày”. Người đàn bà béo nứt béo trương, vật vã trên giường vì nóng. Con

bé gày còm, hai tay khẳng khiu, phành phạch quạt cho bà, để cho “lưng áo

lụa của bà phồng lên như cánh buồm”. Thời gian con Đỏ quạt hầu bà chủ

được tính từ mười giờ tối cho đến sáng. Bà mơ màng, con Đỏ mỏi tay, buồn

ngủ, cũng lơ đãng. Cái nóng khiến bà tỉnh. Tiếng quát, mệnh lệnh “Mạnh lên,

mày” và cái “giúi đầu” nó của bà, làm con Đỏ tỉnh giấc. Bà bực d ọc, khó

chịu. Con Đỏ luống cuống, sợ hãi…. Hỗ trợ cho cơn buồn ngủ mà không

được ngủ của con Đỏ là âm thanh của đêm trường thanh vắng. Tiếng chuông

đồng hồ của nhà giầu, cứ đến cữ lại đổ chuông, tiếng gà gáy xa xa, đặc biệt

cái âm thanh “phành phạch”, “phành phạch”… cứ kéo dài, nổi trội, ám ảnh

người đọc.

Sự dồn nén của cuộc sống cay nghiệt đã dồn đẩy tuổi thơ tới phạm tội.

Phạm tội mà chúng không biết mình đã làm điều ác. Ai là người chịu trách

nhiệm về số phận bé Thanh (“Thanh! Dạ!”), số phận thằng bé con chủ nhà,

về số phận Varka (“Buồn ngủ”), nếu không phải chính xã hội Việt Nam đầu

thế kỷ XX và xã hội Nga cuối thế kỷ XIX.

Những thân phận đi ở, bị đầy đọa đến mấy, vẫn còn có chút gì hơn

những kiếp lang thang phải ăn cắp, ăn xin, ăn mày. Như đã nói, dường như

Page 83: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

những đứa trẻ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Sekhov vừa sinh ra

đã có tên trong danh sách hạng người cầu bất cầu bơ.

Ở Nguyễn Công Hoan, nhân vật là những đứa trẻ lang thang chiếm 3/5

truyện (“Bữa no đòn”, “Cái vốn để sinh nhai”, “Thằng ăn cắp”).Cái hay mà

Nguyễn Công Hoan khám phá và đem lại cho người đọc ở những tác phẩm

này không chỉ là hiện thực xô bồ, khủng khiếp, nỗi đau nhân thế, mà còn ở sự

thức tỉnh nhận thức của con người. Sự va chạm giữa giầu và nghèo, rất dễ

nhận thấy, rất dễ bộc lộ sự cảm thông, thương xót hoặc căm ghét. Sự va chạm

giữa những người cùng cảnh ngộ, hoặc na ná như nhau, không dễ nhận ra.

“Thằng ăn cắp” là câu chuyện về một thằng bé lang thang, đói rạc đói

dài, lấy cái chợ nghèo làm chốn nương thân. Tác phẩm được mở ra bằng cái

kết thúc của câu chuyện:

“Phải trận đòn này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp! Ai thương! Ai

bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp”. [36,tr.111]

Ở truyện ngắn này, có hai loại nhân vật cùng lúc xuất hiện là đám đông

và thằng bé. Nhân vật đám đông, bao gồm những bà bán hàng rau, hàng thịt,

hàng lê, hàng bún riêu, bánh đúc, và những người qua đường. Nhân vật đám

đông vừa là cái nền để làm rõ thân phận thằng bé “lử thử lừ thừ”, vừa là cái

tương phản trong tương quan lực lượng với thằng bé ăn xin không được, sinh

ra ăn cắp này. Cùng cảnh khổ cả, có chăng hơn ở chỗ có rau, có bánh đúc, bún

riêu mà bán, nhưng cả chợ đều nhìn thằng bé bằng con mắt khinh miệt, thậm

chí lãnh đạm, dửng dưng, thậm chí nhẫn tâm:

“Quân ấy tinh quái lắm! Ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn

vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm…” [36,tr.111]. Điều

đáng nói là ở đó. Cái nhìn lạnh lùng, hoài nghi của đám đông đã làm họ thiếu

tỉnh táo để nhận ra sự thực: thằng bé đói thật và nó đã thật lòng ăn xin: “Cắn

Page 84: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc…”. Lê la ăn xin không được, ở chỗ nào

nó cũng chỉ nhận được sự khinh thị, mỉa mai, phũ phàng:

- “Ba mươi sáu cái nõn nường…. Thôi đi! Dơ!”

- “Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!”.

Cũng vẫn là cái đám đông vô tình với cái đói của một thằng bé khốn nạn

ấy, nhưng lại rất nhiệt tình, thậm chí hăng hái quá mức khi thằng bé ấy quỵt

bát bún riêu. Họ nhốn nháo, kêu gào. Lực lượng đuổi bắt được gia tăng bởi

người đi đường ủng hộ. “Họ chạy huỳnh huỵch, họ làm như bắt giặc” (…)

“Một thằng chạy. Mấy trăm người đuổi. Bụi mù! Khổ chủ thì “chạy sau rốt.

Áo lấm. Khăn sổ. Tóc rũ. Ngửa mặt kêu…” [36,tr.114]. Cả đám đông ấy

hoắng lên, truyền cho nhau những thông tin đáng để bỏ công sức ra đuổi. Nào

là “nó cắt ruột tượng của người kia” , nào là “lấy của người ta 5 đồng bạc,

lại còn đánh người ta”…. Thế thì đáng đánh quá. Cho nên, người ta ùa vào

đánh nó. Nào đấm, đá, thúc… khiến thằng bé mềm như sợi bún. Trong khi

thực chất, nó quỵt 2 xu bún riêu.

Hỗ trợ đắc lực cho quan hệ tương phản của nhân vật là hệ thống âm

thanh mà tác giả sử dụng trong tác phẩm. Đó là những âm thanh của con

người, do con người phát ra. Đó là tiếng kháo nhau, tiếng thì thào to nhỏ,

tiếng quát, tiếng pha trò, tiếng cười ha hả của những người bán hàng. Đó là

tiếng kêu, tiếng chân chạy, tiếng thở, tiếng van xin, tiếng chân đá, tiếng tay

đấm… rầm rầm, huỳnh huỵch..... Tất cả tạo nên sự hỗn độn, huyên náo của cả

một khối người bộc lộ sức mạnh của “đạo lý” trước sự việc ăn cắp. Chỉ với 2

xu bún riêu mà trở thành vấn nạn, cần phải đến nhà chức trách ra tay. 2 xu

bún riêu ăn quỵt, phải lên Cẩm để giải quyết.

Họ phản ứng dữ dội trước sự ăn cắp, ăn quỵt - điều đó hoàn toàn chính

đáng. Nhưng vì sao, thằn g b é phải ăn qu ỵ t, k hôn g ai đ ể tâm. Đó là điều

Nguyễn Công Hoan muốn nói đến, muốn đánh động tới lòng trắc ẩn của con

Page 85: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

người. Không phải ngẫu nhiên khi tác giả sử dụng giọng điệu giễu nhại, châm

biếm. Đằng sau những câu văn ngắn, phần nhiều là câu đặc biệt, vô chủ, là

tình cảm của tác giả, đau xót cho cái gọi là tình người giữa nhân quần. Liệ u

sự khinh miệt, dửng dưng, nhẫn tâm có dạy cho lũ trẻ kia điều gì? Một câu

hỏi treo trên đầu người đọc thưở ấy và cả bây giờ.

Thằng bé trong “Thằng ăn cắp” không có lối thoát, như bé Varka trong

“Buồn ngủ” của Sekhov. Nó phạm tội trong sự tính toán ngây thơ, khờ khạo.

Đói quá sinh liều. Nó không tính đến khả năng không chạy thoát, cũng như

Varka, buồn ngủ quá, chỉ biết vì thằng bé khóc mà không được ngủ. Thằng ăn

cắp quyết ăn quỵt bát bún, Varka quyết bóp cổ thằng bé con chủ nhà… chỉ

cần được ăn và được ngủ.

Với “Cái vốn để sinh nhai”, Nguyễn Công Hoan một lần nữa chỉ ra sự

dửng dưng, ghẻ lạnh của người đời đã hủy hoại những đứa trẻ như thế nào.

Vẫn là những con người không tên, hợp thành đám đông, làm nền cho

nhân vật hoạt động. Thằng bé ăn xin với cái gậy , cái rá chọn bến xe để kiếm

ăn. Cay đắng ở chỗ nó nhận ra một thực tế: “Chẳng may giời đầy nó làm kiếp

ăn mày, mà lại bắt nó phải lành lặn. Gia dĩ cái gầy gò, xấu xí cũng không

được bằng ai. Rõ khổ”. [36,tr.169]. Đội ngũ ăn mày thân tàn ma dại, không

mù thì câm, không toét mắt thì què chân, gãy tay…. Đội ngũ ấy hoạt động

mới có kết quả, dù chẳng đáng bao nhiêu, nhưng cũng đủ cho nó thèm và so

sánh với mình. Một thực tế nữa cứ xoáy vào thằng bé. Đó là những câu răn

dạy của mọi người, từ quan, đến thày khóa, đến những ông, bà đi xe.

- “Mày lành lặn thế, sao không đi làm đi ăn, chỉ lười biếng quen xác

thôi”.

- “Thừa tiền cũng không cho thứ mày”.

- “Đi mà làm ăn! Đừng lười thế.”

- “Mặc kệ mày, cho mày chết đói…”.

Page 86: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

Những câu luân lý ấy, nghe mãi quen tai, nhưng thằng bé cũng rút ra

được điều rằng: lành lặn khó xin, lành lặn đi liền với chết đói. Tác giả đã diễn

tả nỗi đau đớn, thất vọng của thằng bé bằng những đoạn độc thoại nội tâm

gián tiếp. Nhà văn mô tả lại suy nghĩ tuyệt vọng của thằng bé:

“(…) Nó biết đi xin thế này là nhục (…) Khốn nạn! Nào nó có lười biếng

gì cho cam? Nó có máu động kinh, lắm lúc đương yên lành tử tế, thì lăn đùng

ra đất, mắt trợn lên, bọt mép sùi ngầu (…) Vì thế nó bị đuổi khỏi nơi đi ở. Vì

thế nó phải đi ăn mày” [36, tr.168 - 169].

Đầu óc trẻ thơ có sâu sắc mấy cũng chỉ nhận ra bài học: Vì còn lành lặn

nên có thể chết đói.. Nó chỉ biết tuyệt vọng khi nghĩ đến chết đói. Nhưng đám

đông kia đã khai thông đầu óc cho nó bằng một lời đùa nhiều hơn thật:

- “Mày què đi thì lần sau tao cho” . Câu nói ám ảnh, câu nói mở đường.

Câu nói như một luồng ánh sáng thức tỉnh sự u mê của thằng bé. “Ở đời, làm

nghề gì chả phải có vốn? Chả phải cạnh tranh? Đi ăn mày, tưởng dễ lắm đấy

hẳn” [ ]. Chi tiết thằng bé chống gậy đi, tìm đến một cây cao, cố hết sức leo

lên, để tìm vốn sinh nhai, bằng cách:

“Nó thở dài, nó liều. Nó nhắm nghiền mắt lại, buông phắt hai tay, ngả

người ra. Vụt một cái:

Ối!... Nó rơi đánh bộp xuống đất (…) cánh tay lủng lẳng như chỉ còn

bám xương vào vai nó một tý lấy lệ” [36, tr.171-172], như một lưỡi dao cùn

cứa vào tim người đọc.

Với người đời, với thằng bé, lối thoát thật đơn giản. Nhưng, khi nghĩ

cách tìm được cái vốn để sinh nhai ấy, nó đâu biết, vào những ngày trở trời,

nó sẽ đau như dần, nó sẽ phải bò lê đi kiếm ăn….

Cũng cho nhân vật trẻ em tìm lối thoát khỏi cảnh bị đọa đày, ở Sekhov

có “Buồn ngủ” và “Vanka”. Cô bé Varka tìm lối thoát ở hành vi phạm tội. Bé

Vanka trong “Vanka” lại tìm lối thoát ở sự sẻ chia và mơ ước mong manh.

Page 87: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

9 tuổi đầu, Vanka đi ở cho gia đình tiểu chủ ở thành phố. Toàn bộ cuộc

đời khốn khổ của Vanka được tái hiện qua bức thư nó viết cho ông nhà quê.

Ngoài hình thức viết thư, Sekhov còn sử dụng kết cấu chuyện lồng chuyện.

Có hai câu chuyện được lồng trong truyện ngắn này. Câu chuyện (1) là

chuyện Vanka viết thư, tức điểm nhìn trần thuật là người kể ở ngôi thứ ba.

Câu chuyện (2) là câu chuyện đời Vanka được kể trong thư, tức điểm nhìn

trần thuật đã chuyển sang Vanka. Hỗ trợ đắc lực cho hai câu chuyện là sự đan

xen của thời gian nghệ thuật. Tại câu chuyện đời của Vanka, thời gian được tổ

chức từ điểm n h ìn của Vank a. Thời g ian q uá kh ứ, h iện tại, tươn g lai đ ồng

hiện và đan cài với nhau. Cuộc sống khốn khổ của Vanka hiện ra rõ nét qua

từng lời lẽ trong thư, được Vanka hồi nhớ. Những cụm từ “ngày hôm qua”,

“tuần vừa rồi”, “hôm vừa rồi” xuất hiện cùng với những sự việc bị bà chủ

đập cả một con cá mòi vào mặt, ông chủ cầm khuôn khâu giầy đập vào mặt

đến bất tỉnh…, cho thấy Vanka đã bị đày đọa thế nào. Giữa dòng hồi tưởng

đầy hãi hùng, Vanka sực nhớ ra: “Ông thân yêu, ông làm ơn làm phúc mang

cháu về nhà ông, về làng…”. Đoạn thư dài sau đã hàm chứa cả quá khứ, hiện

tại và tương lai.

“Cháu quỳ lạy bên chân ông, cháu cầu thượng đế suốt ngày đêm để ông

mang cháu đi khỏi nơi này (…) Cháu sẽ thái thuốc lá cho ông (tương lai).

Ông thân yêu, cháu chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ con nước là chết nữa thôi

(hiện tại), cháu đã định chạy trốn về làng nhưng mà không có giầy (quá khứ)

(…) Còn khi nào cháu lớn lên, cháu sẽ trả ơn ông và nuôi ông (tương lai)”

[68, tr.36].

Trong suốt bức thư, thời gian hiện tại xuất hiện rất ít, phản ánh rất chính

xác tâm lý trẻ con. Cậu bé không quan tâm mấy đến hiện tại. Với cậu chỉ là

những khiếp hãi, đau đớn đã trải qua và khao khát được giải thoát. Sự sắp xếp

thời gian cũng rất lộn xộn, phù hợp với nhân vật. Ở độ tuổi còn cần rất nhiều

Page 88: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

sự chăm chút của người lớn, mới có cách tư duy hồn nhiên và lộn xộn như

vậy, nên, sự việc được kể chưa được chắt lọc để viết cho rõ ràng. Yếu tố hồn

nhiên đã làm tăng giá trị hiện thực và tác động rất mạnh đến người đọc.

Tại câu chuyện Vanka viết thư, thời gian cũng được đan xen giữa hiện tại

(thời gian Vanka viết ra các đoạn thư) với quá khứ (Vanka dừng viết, hồi

tưởng) và tương lai (Vanka dừng viết và mơ). Dấu hiệu nhận biết là lời kể của

người kể chuyện. Ở câu chuyện này, thì hiện tại xuất hiện thường rất ngắn. Có

5 lần xuất hiện câu kể hàm chỉ thời gian hiện tại, kiểu như: “Vanka đưa mắt

nhìn ra cửa sổ tối tăm…”, “bây giờ…”, “Vanka thở dài, … viết tiếp…”, “cậu

đưa nắm tay đen bẩn lên dụi mắt rồi sụt sịt khóc…”, “Vanka gấp lá thư làm

tư rồi bỏ vào phong bì”. Những khoảnh khắc hiện tại làm nhiệm vụ kết nối

quãng đời đã qua trong hạnh phúc nhỏ nhoi mà ấm áp với quãng đời hiện tại

đau khổ và cực nhục của Vanka. Thời gian quá khứ không nhiều nhưng dài

hơi hơn. Đó là những hồi ức của Vanka về quê nhà, nơi cậu đi ở. Bên cạnh

hồi tưởng là giấc mơ ngắn ngủi của Vanka. Thời gian để giấc mơ tồn tại rất

ngắn và xuất hiện một lần ở cuối tác phẩm, cho thấy, cái tương lai mà Vanka

khao khát rất bấp bênh. Tính chất thời gian với những thấp thoán g của hiện

tại, quá ít của tươn g lai, quá đ ậm của qu á k h ứ ở câu ch u y ện (1 ), gó p phần

khẳng định, tô đậm nỗi khổ nhục, bế tắc của Vanka.

Như vậy, những yếu tố nghệ thuật được tác giả sử dụng đã phát huy tối

đa hiệu quả của chúng. Sự lồng ghép các mạch thời gian, sự đan xen các dạng

thức thời gian tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Cùng với đó là hình thức

bức thư được Vanka viết và gửi với địa chỉ vu vơ cho thấy sự hồn nhiên của

Vanka. Càng hồn nhiên bao nhiêu trong việc tìm lối thoát càng cho thấy, trẻ

em càng tội nghiệp, số phận của chúng càng bấp bênh, càng bế tắc.

Thế giới những con người nghèo khổ bị chà đạp, bị triệt tiêu dần khả

năng làm người hiện ra rõ nét, sinh động trong sáng tác của Nguyễn Công

Page 89: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

Hoan và Sekhov. Cả hai nhà văn đều bộc lộ tài năng khi xử lý đề tài “con

người bé nhỏ”. Bằng thái độ tiếp nhận hiện thực, bằng những thủ pháp nghệ

thuật hữu hiệu, hai nhà văn đã đưa những con người lam lũ, nghèo khổ, bất

hạnh vào tác phẩm, trao cho họ nhiệm vụ phản ánh hiện thực ngang trái, bất

công. Thông qua đó, hai nhà văn gửi gắm sự cảm thông, thương xót những số

phận bấp bênh, bị coi rẻ, khinh miệt. Thông qua hệ thống nhân vật nghèo hèn,

đủ mọi lứa tuổi này, hai nhà văn đã giải quyết triệt để mối quan hệ giầu -

nghèo trong xã hội. Họ đã góp phần tích cực trong việc vạch trần tội ác ở mọi

hình thức của lũ người ăn trên ngồi trốc, nhẫn tâm, cũng như góp phần lay

động thức tỉnh lòng trắc ẩn của con người trước hiện thực nghiệt ngã.

Page 90: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

KẾT LUẬN

1. Nguyễn Công Hoan là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện

đại, ông được coi là người có công lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn

xuôi và là người đặt nền móng cho trào lưu văn học hiện thực phê phán

1930 - 1945. Một trong những nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Công

Hoan là đã mang l ại cho văn học Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX một

phong cách nghệ thuật độc đáo, một kiểu nhân vật mới mẻ, vừa mang quan

điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện được những vấn đề xã hội của

thời đại.

Là đại biểu xuất sắc cuối cùng của văn học Nga thế kỉ XIX, Sekhov đã

mở ra khuynh hướng mới cho văn học hiện thực phê phán Nga. Bằng các tác

phẩm của mình, ông kịch liệt lên án những thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội.

Tố cáo chính quyền Nga hoàng tàn bạo và đồng cảm sâu sắc với số phận của

nhân dân. Hơn 20 năm cầm bút, Sekhov đã để lại một khối lượng lớn truyện

ngắn có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn học Nga và thế giới

Bằng nghệ thuật độc đáo, đặc sắc Nguyễn Công Hoan đã chĩa thẳng ngòi

bút của mình vào những vấn đề nổi cộm của hiện thực cuộc sống , túm lấy

những khoảnh khắc trong cuộc đời con người để phanh phui, bóc trần, lên án,

tố cáo xã hội đương thời đầy ung nhọt, nhơ nhớp của những hạng người bất

nhân và bất nghĩa. Qua những truyện ngắn bất hủ của mình, Sekhov đã phơi

bày toàn bộ hiện thực nước Nga dưới ách chuyên chế của chế độ Nga hoàng.

Giai cấp quý tộc độc ác đê tiện, bọn thị dân phàm tục, Sekhov đã tái hiện bức

tranh xã hội rộng lớn, phê phán một cách gay gắt những cái xấu, cái ác trong

xã hội đương thời.

2. Cả Nguyễn Công Hoan và Sekhov đều rất thành công khi tổ chức hệ

thống nhân vật của mình. Một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, sinh

Page 91: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

động…, nhìn vào thế giới nhân vật này người đọc các thế hệ đều hình dung

được xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX. Hệ thống

nhân vật này vừa mang quan điểm thẩm mĩ của nhà văn, vừa thể hiện những

vấn đề của xã hội, của thời đại. Họ chính là nguyên cớ, là bằng chứng về một

thực trạng xã hội không nhân tính và là nạn nhân của lòng tham, của tội ác,

của quyền lực. Đồng thời qua thế giới nhân vật, hai nhà văn đã bày tỏ khát

vọng cháy bỏng của mình về một xã hội có nhân tính, là nơi để nhà văn hy

vọng vào sự đổi thay ở con người, vào những phẩm chất tốt đẹp của con

người.

3. Nguyễn Công Hoan và Sekhov đÒu chú ý đến các loại người trong xã

hội như: quan lại, những công chức, tiểu tư sản, dung tục tầm thường, vô liêm

sỉ. Bằng nghệ thuật kết cấu, sử dụng chi tiết, lời đối thoại, lời độc thoại…,

hình ảnh các nhân vật hiện ra một cách cụ thể. Đó là bọn quan lại, tư sản giầu

có, lắm tiền mà bất nhân, vô nhân đạo. Thế giới nhân vật ấy chính là hiện thân

của một hiện thực xã hội vô nhân đạo, không có sự tồn tại của tấm lòng lương

thiện của con người. Viết về giai cấp tư sản quý tộc, tầng lớp thị dân, Sekhov

thẳng tay phanh phui, mổ xẻ những thói hư tật xấu của những kẻ sống phàm

tục, thói nô lệ tầm thường trước uy quyền và của cải tồn tại trong xã hội Nga

cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên ở mỗi nhà văn tổ chức loại nhân vật này có những

nét khác nhau. Nguyễn Công Hoan tập trung vào tầng lớp quan lại nhiều để

vạch trần những dị tật xấu xa, ghê tởm mang những điển hình của xã hội thực

dân nửa phong kiến. Còn Sekhov tập trung nhiều vào lớp công chức bình

thường, từ những con người bình thường ấy nhà văn đã chỉ ra những con

người máy, những quái thai nó chính là sản phẩm của xã hội Nga trong buổi

giao thời.

4. Bằng cái nhìn thông cảm và xót thương cả hai nhà văn chú ý đến đời

sống khổ cực của lớp người cùng đáy trong xã hội. Đồng cảm sâu sắc với số

Page 92: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

phận những người dân nghèo, đằng sau giọng mô tả bình thản của Nguyễn

Công Hoan và Sekhov về những cuộc đời cơ cực, vất vưởng, lê lết ta như

nghe rõ tiếng đạp bồi hồi, đau đớn chứa đựng niềm cảm thông sâu xa với nỗi

thống khổ của những kiếp đói nghèo. Một sự gặp gỡ tài năng nghệ thuật và

tấm lòng nhân đạo trong thể hiện thế giới nhân vật của hai nhà văn.

5. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được rọi

chiếu bằng một thứ ánh sáng gay gắt, khiến tính cách, hành động của đủ mọi

hạng người trong đó phát lộ ra bên ngoài. Còn Sekhov âm thầm nhẹ nhàng lôi

kéo ngườ i đọc xâm nhập vào thế giới bên trong con người, tìm những uẩn

khúc, những nguyên nhân tha hoá hay những phút thăng hoa của nó. Tuy

không đi sâu vào khai thác tâm lý bên trong nhân vật như Sekhov, nhưng

Nguyễn Công Hoan cũng đã thể hiện một cách sắc sảo bằng nghệ thuật độc

đáo của riêng mình để phanh phui những căn bệnh xấu xa của thời đại, được

biểu hiện trong tâm lý nhân vật. Chính điểm này là nơi gặp gỡ giữa Nguyễn

Công Hoan và Sekhov

Tất nhiên, giữa Sekhov và Nguyễn Công Hoan cái khác biệt giữa hai

người là lớn. Cái Sekhov có mà nguyễn Công Hoan không có là nhiều. Bởi

Sekhov là người có vai trò kết thúc và đưa lên đỉnh cao trào lưu hiện thực vào

giai đoạn cuối của nó, được coi là nhà hiện thực kiểu mới với những cách tân

trong thể loại truyện ngắn, đặc b iệt ở mảng tâm lý bên trong của nhân vật và

kiểu truyện không cốt truyện. Còn Nguyễn Công Hoan là người mở đầu cho

trào lưu hiện thực ở Việt Nam. Nhưng cả hai nhà văn lại có những nét tương

đồng về thời đại, về thể tài, một thế giới nhân vật đa dạng, độc đáo, một cái

nhìn sắc sảo phát hiện ra những căn bệnh của xã hội trong từng tế bào nhỏ.

Bằng tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan đã trở thành bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Sekhov là bậc thầy của

truyện ngắn nhân loại.

Page 93: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

Nghiên cứu thế giới nhân vật trong tác phẩm văn chương không còn là

một vấn đề mới, song không có nghĩa là không thể khám phá ở lĩnh vực này

những điều thú vị, hấp dẫn. Bởi mỗi nhà văn sẽ có một thế giới nghệ thuật

riêng, mỗi thế giới nghệ thuật lại có một thế giới nhân vật riêng. Luận văn của

chúng tôi đã chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc tổ chức thế giới

nhân vật ở truyện ngắn của hai nhà văn. Tìm hiểu thế giới nhân vật của

Nguyễn Công Hoan trong tương quan so sánh với Sekhov còn là một điều khá

mới lạ đối với giới nghiên cứu. Với giới hạn và khuôn khổ của luận văn,

chúng tôi cố gắng đưa một cái nhìn mới mang tính khái quát về một vài đặc

điểm nổi bật trong thế giới nhân vật của Nguyễn Công Hoan và Sekhov. Vì

vậy những vấn đề chúng tôi nêu ra chắc chắn còn chưa thật đầy đủ và thật sâu

sắc, chưa thật sự khai thác hết những đóng góp của hai nhà văn. Chúng tôi

mong muốn, hy vọng được trở lại vấn đề trong tương lai.

Page 94: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

2. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Antôn Sêkhốp và Nam Cao – nhìn từ góc độ thi

pháp”, Tạp chí nghiên cứu văn học (số 4), Viện văn học – Viện khoa học

xã hội Việt Nam.

3. Đào Tuấn Ảnh "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov. Thử một cách tiếp cận

mới", Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), Viện văn học - Viện khoa học

xã hội Việt Nam.

4. Đào Tuấn Ảnh (2004), "Cách tân nghệ thuật của A.Sêkhov và sự tiếp nhận

sáng tác của ông ở Việt Nam", Báo cáo khoa học tại Hội thảo Kỷ niệm

100 năm ngày mất A.Sêkhov.

5. Trần Lê Bảo (2004), “A.Sêkhov và Lỗ Tấn dưới góc nhìn so sánh” (Hội

thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày mất A.sêkhov).

6. Nam Cao (2000), Con người và tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

17. La Côn (1960), "Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Sê-Khốp", Tạp chí

văn học (số 2), tr. 60-71.

8. Trương Chính (1990), (viết chung) Tác phẩm văn học 1930 - 1945, tập I

Nxb Khoa học xã hội.

9. Trương Chính (1977), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập III, Nxb

xây dựng.

10. Phạm Vĩnh Cư (1996), "Đôi nét cơ bản về giao lưu văn học Việt Nam -

thế giới từ sau cách mạng tháng tám". In trong 50 năm Văn học Việt Nam

sau cách mạng tháng tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Dân (1995), Văn học so sánh, Nxb khoa học xã hội.

Page 95: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

12. Nguyễn Văn Dân (1988), Nghiên cứu văn học so sánh trước nhu cầu

đổi mới.

13. Lê Trí Dũng - Trần Đình Hựu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao

thời 1900 – 1930, Nxb ĐH & TH chuyện nghiệp.

14. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt

Nam, NxbKhoa học xã hội.

15. Trần Thanh Đạm (1997), “ Mấy vấn đề về đối tượng chức năng của văn

học so sánh”, Tạp chí văn học (số 9) tr, 39 – 42.

16. Phan Cự Đệ (1982), “ Ảnh hưởng của tư tưởng mác xít và phong trào

cách mạng đối với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán Việt

Nam (1930 - 1945)”, Tạp chí văn học (số 6), tr,83 – 93.

17. Trần Hạc Đình (1936), “ Phê bình Kép Tư Bền Hà Nội báo” (số 2).

18. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại, NxbHà Nội.

19. Phan Hồng Giang T.Sekhov (1979), Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

20. Phan Hồng Giang (2001), A.Sêkhốp, Nxb Hải Phòng.

21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Hải Hà (2004), “Cái mới trong truyện ngắn của A.Sêkhov”, (Hội

thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov.

23. Nguyễn Hải Hà (1992), Văn học Nga, sự thật và cái đẹp, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

24. Hồng Hạnh (2001), “ Vấn đề "người trong bao" trong một số tác phẩm

của Sêkhốp”, Tạp chí văn học tuổi trẻ (số 12).

25. Lê Thị Đức Hạnh (1970) “ Mấy vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn

trong truyện của Nguyễn Công Hoan trước các mạng”, Tạp chí văn học

(số 6) tr, 46 – 54.

Page 96: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

26. Lê Thị Đức Hạnh (1975), “ Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan”, Tạp chí văn học (số 5), tr. 121 – 132.

27. Lê Thị Đức Hạnh (1977), “Nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn

Công Hoan”, Tạp trí văn học (số 4), tr. 83 – 93.

28. Lê Thị Đức Hạnh (1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ,

Nxb Khoa học xã hội.

29. Lê Thị Đức Hạnh (1990), “ Kép Tư Bền”, Tạp chí văn học (số 3), tr, 24 -

25.

30. Lê Thị Đức Hạnh . (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), Nxb

KHXH, Hà Nội.

31. Lê Thị Đức Hạnh (1996), “Nguyễn Công Hoan - tài năng và nhân cách”,

Tạp chí tác phẩm mới (số 12).

32. Lê Thị Đức Hạnh (2003), Sưu tầm và biên soạn Nguyễn Công Hoan tác

giả, tác phẩm, Nxb Giáo dục.

33. Trọng Hiền (1960) Sê-Khốp nhà văn hiện thực vĩ đại, Báo văn nghệ (số 3)

34. Tô Hoài (1997), Nghệ thuật và phương pháp viết văn, Nxb Văn học.

35. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.

36. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà

Nội..

37. Nguyễn Công Hoan (2005), Tác gia - tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Vũ Ngọc Khánh (1974), Thơ văn trào phúng Việt Nam, Nxb Văn học, Hà

Nội.

39. Nguyễn Hoành Khung (1984), Nguyễn Công Hoan trong từ điển văn học

(tập hai), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Nguyễn Hoành Khung (1988), (viết chung) Văn học Việt Nam 1930 –

1945, tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

41. Phong Lê (1976), Nguyễn Công Hoan " Văn và người", Nxb Văn h ọc Hà Nội.

Page 97: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

42. Phong Lê (1993), “Nguyễn Công Hoan một đời văn lực lưỡng” , Tạp chí

văn học (số 6).

43. Phong Lê (2004), A.Sêkhov và Nam Cao " nhìn từ hai nền văn học". Tạp

chí văn học nước ngoài (số 4), Hội nhà văn Việt Nam.

44. Nguyễn Trường Lịch (2004), Người trần thuật điềm tĩnh tài hoa, (Hội

thảo khoa học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).

45. Mai Thúc Luân (1984), Nghệ thuật dân tộc quốc tế, Nxb Khoa h ọc, Hà Nội.

46. Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Lê-nin V.I (1960), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.

48. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Tổng tập văn học Việt Nam, (phần khải

luận) – Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

50. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

51. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. M.B kharapchenkô (1993), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người,

Nxb Khoa học, Hà Nội.

53. M.B kharapchenkô (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp

nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

54. M.B kharapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự p hát

triển văn học, Nxbtác phẩm mới, Hà Nội.

55. M. Gorki (1998), Bàn về văn học, NxbVăn học, Hà Nội

56. Trần Quỳnh Nga (2000), “A.Sêkhov ở Việt Nam”, Tạp chí văn học (số 10).

57. Phạm Xuân Nguyên (2004), Đặc điểm văn A.Sêkhov, (Hội thảo khoa

học kỷ niện 100 năm ngày mất của Antôn Sêkhov).

Page 98: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

58. Vương Trí Nhàn Bản dịch truyện ngắn và một giai đoạn giới thiệu văn

học nước ngoài ở Hà Nội, Evan. Vnexprress. Net.

59. Vương Chí Nhàn (2000), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

60. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại, Văn học Việt Nam giao lưu

và gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.

61. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Nga, Nxb Giáo dục, Hà Nội

62. Nhiều tác giả. (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Pespelop G.N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (hai tập), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

64. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.

65. Đỗ Hải Phong (1971), Bài giảng Thi pháp A.Sêkhov của Truđacôp, Nxb

Giáo dục Maxcơva.

66. Vũ Dương Quý (1999), Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

67. Vũ Tiến Quỳnh (1977), Sưu tầm và biên soạn tác phẩm bình luận văn

học, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.

68. Sêkhov (1988), Truyện ngắn A.Tsêkhốp, Nxb Cầu vồng Maxcơva do

Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.

69. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập một), Nxb Văn học, Hà Nội

do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.

70. Sekhov (1978), Truyện ngắn A.Tsêkhốp (Tập hai), Nxb Văn học, Hà Nội

do Phan Hồng Giang, Cao Xuân Hạo dịch.

71. Thiếu Sơn (2002), Phê bình “ Kép Tư Bền”, in lại trong tác giả tác phẩm,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72. Trần Đình Sử (1993) Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, BGD & ĐT -

Vụ giáo viên.

Page 99: Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_truyen_ngan_sekhov

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

73. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học , Nxb giáo dục,

Hà Nội.

74. Timôphiep (1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá.

75. Nguyễn Trác (1973), (viết chung) Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945,

(tập V phần 1), Nxb Bộ giáo dục, Hà Nội

76. Nguyễn Thanh Tú (1995), “Quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Công

Hoan trong truyện ngắn trào phúng”, Tạp chí văn học (số 6), tr, 7- 11.

77. Nguyễn Tuân (1957), Tìm hiểu Sêkhốp, Lời giới thiệu A.sêkhov truyện

ngắn (tái bản 2004), Nxb Hà Nội.

78. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn.

79. Vũ Thanh Việt (2000), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc

(sưu tầm và biên sọan), Nxb Văn học thông tin, Hà Nội.

80. Nguyễn Thị Vượng (2006), Thời gian - không gian nghệ thuật trong

truyện ngắn "Vaska" của A.Sêkhov. TCKH & CN Đại học Thái Nguyên

(số 3).

81. w w w. Can d. com. Vn. 12/2007