Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
2
Tác giả giữ bản quyền
3
NGUYỄN VĂN LÂN
Những người đi
xuyên thời gian Truyện ngắn giả tưởng
SÀI GÒN - NĂM 2015
4
Mục lục Lời tác giả ..........................................................5
Từ bỏ cuộc sống thì hiện tại................................7
Suýt mất tích ở thì quá khứ ..............................72
Phân thân ..........................................................86
Chuyển một bộ tộc về quá khứ .......................107
Đứa con nuôi...................................................121
5
Lời tác giả
Từ khi loài người bước vào thời kỳ văn minh kỹ
thuật, bao nhiêu máy móc đã ra đời nhằm phục vụ
đời sống con người về mặt vật chất cũng như tinh
thần, phục vụ luôn cho việc tranh giành xâu xé nhau
môi trường sống. Điều bất hạnh cho loài người hiện
nay trên Trái Đất này là mọi thành tựu tiến tiến nhất
của nền văn minh khoa học kỹ thuật đều ưu tiên cho
mục tiêu phục vụ chiến tranh. Chính điều này làm
cho cư dân của hành tinh chúng ta không bao giờ cảm
thấy an toàn, đại bộ phận luôn luôn sống trong thiếu
thốn, nghèo đói, bệnh tật và chết chóc.
Những truyện giả tưởng, viễn tưởng mà nhiều tác
giả viết ra là nhằm xoa dịu phần nào nỗi đau hiện tại,
hướng con người về một cuộc sống tương lai tươi đẹp
hơn.
Có một khía cạnh của đời sống hiện tại trên hành
tinh chúng ta là quy luật nhân quả đã trở nên phổ
biến. Nhân nào thì quả ấy.
Đã có một số tác giả viết truyện giả tưởng lấy đề
tài xuyên thời gian, con người có thể trở về quá khứ
hoặc đi sâu vào tương lai. Nếu có một phương tiện
nào đó giúp được con người trở về quá khứ thì lịch sử
nhân loại chắc chắn sẽ được viết lại, một cách chính
xác hơn, nếu với điều kiện con người trở về không
được can thiệp vào quá khứ. Nhưng ước mơ của loài
người không dừng lại ở đó. Họ còn muốn can thiệp
vào quá khứ để không cho xảy ra những thảm cảnh
diễn ra trong quá khứ. Đã có người bảo rằng nếu con
người có thể trở về quá khứ để triệt tiêu những nhân
vật từng dựa trên những triết thuyết quái gở để làm
6
hại nhân loại... thì thế giới trong thế kỷ 20 đã cứu
được mấy trăm triệu người khỏi cái chết oan ức.
Trở về quá khứ để cứu vãn hòa bình, để giảm bớt
đau thương cho từng người dân chẳng phải là việc
làm đầy tính nhân ái hay sao? Còn đi sâu vào tương
lai là nhằm biết được quy luật của phát triển xã hội
loài người, để uốn nắn những lệch lạc, sai lầm trong
đường lối chính sách của tầng lớp lãnh đạo phù hợp
trong thời hiện tại bởi vì hiện tại là cái “nhân” mà
tương lai là cái “quả”.
Được trở về quá khứ và biết tương lai cho đến
nay vẫn còn là mong ước xa vời, dẫu biết thế, loài
người vẫn không hề ngừng mong ước.
Tác giả xin gửi đến độc giả thân mến của mình
những truyện ngắn thể hiện sự mong ước vô vọng đó
qua tập sách mỏng này.
Những ngày đầu Xuân năm 2015
7
Từ bỏ cuộc sống thì hiện tại
Chúng tôi hai trai một gái cùng sinh năm 1990,
cùng quê, cùng học với nhau thời phổ thông trung
học, cùng là học sinh khá giỏi trong lớp nên chơi thân
với nhau. Có thể nói cái tuổi hoa niên này của chúng
tôi đang nằm giữa lằn ranh của thiếu niên và thanh
niên nên không ai thoát khỏi cảnh mộng mơ và tình
bạn giữa chúng tôi diễn ra khá trong trắng. Yêu nhau
ư? Hơi quá sớm. Vả lại tình bạn và tình yêu ít khi
đồng hành với nhau tuy cũng có trường hợp tình bạn
dẫn đến tình yêu. Bạn gái tôi tên Nhã Uyên, dáng
người cân đối và có nhiều nét xinh xắn. Vì con nhà
nghệ sĩ nên bạn hấp thu được truyền thống ấy, có khả
năng múa và hát khá tốt. Bạn luôn luôn là đội trưởng
đội múa của trường trong ba năm ở bậc cuối phổ
thông. Bạn trai tôi tên Tâm, giỏi môn toán và vật lý,
ngay từ đầu đã quyết định học lên cao theo một
ngành nào đó có dính đến vật lý và toán học. Còn tôi
tên Kim, môn văn có phần trội hơn và chỉ mơ ước
đơn giản sau này trở thành thầy giáo dạy văn mà thôi.
Tốt nghiệp phổ thông, mỗi đứa mỗi ngả vì thi và
học ở các trường nghề khác nhau. Tôi chọn đúng
ngành sư phạm và ra trường dạy ở một trường phổ
thông trung học của tỉnh nhà. Đã có vợ, cũng một cô
giáo dạy văn và có một bé gái đầu lòng đặt tên là
Kim Quy.
Một hôm, bỗng nhớ hai bạn, tôi lên mạng vào
Facebook nhờ các bạn khác tìm kiếm giúp và rất
nhanh chóng toại nguyện. Tâm gọi điện đến tôi đầu
tiên và báo cho biết bạn đang dạy thực hành ngành
Viễn thông trong một trường đại học danh tiếng. Sau
8
đó là Nhã Uyên cho tôi biết đang là đạo diễn múa của
một đoàn nghệ thuật. Thế là tôi yên lòng và hẹn gặp
nhau đúng vào ngày mồng 1 Tết dương lịch sắp tới
tại nhà tôi.
Đến cái tuổi 24 thời bây giờ, ai cũng yên bề nghề
nghiệp. Nhưng hỏi ra mới biết yên bề gia thất thì mới
chỉ mình tôi. Trước mặt vợ tôi, tôi nói với hai bạn
rằng việc xây dựng gia đình là theo duyên số, không
phải muốn là được. Bạn Nhã Uyên thì nửa thật nửa
đùa nói rằng mình nằm mơ nhiều lần thấy mình là vợ
một hoàng thân không rõ thuộc triều đại nào, đang
dạy múa hát cho cung nữ. Tôi quay hỏi Tâm có mơ
thấy gì không, bạn cười trả lời hễ cứ đặt mình nằm
xuống là ngủ liền một mạch cho đến sáng, chẳng bao
giờ mơ mộng gì. Nếu có thì đang mơ giữa ban ngày
đây, mơ sáng chế ra một chiếc máy truyền tin xuyên
không gian và thời gian.
Trong bữa cơm thịnh soạn do vợ tôi chiêu đãi hai
người bạn thân lâu ngày mới gặp, tôi để lộ một bí mật
mà ngay cả vợ tôi cũng chưa biết:
- Mình đang kết bạn với một người ngoài hành
tinh, mọi người có tin không?
Dĩ nhiên là chả ai tin, kể cả vợ tôi. Vợ tôi cười
bảo:
- Anh ấy đang viết truyện khoa học viễn tưởng
đấy. Đã in được mấy cuốn...
- À ra thế! – Nhã Uyên tin ngay lời vợ tôi.
Còn Tâm thì thận trọng hơn nhưng nói với giọng
chế giễu:
- Cậu hãy cho chúng mình gặp người bạn ngoài
hành tinh thì mình mới tin.
Tôi xác quyết:
9
- Được rồi.
Trong ánh mắt nghi ngờ của mọi người, tôi điềm
tĩnh đứng lên, bước ra ngoài. Không lâu sau, tôi dẫn
một thanh niên đẹp trai, ăn mặc giản dị, áo sơ mi
trắng bỏ trong quần jean vào giới thiệu:
- Đây là bạn của tôi, tên Uri, đang sống trên một
hành tinh cách xa Trái Đất chúng ta chừng hai trăm
năm ánh sáng.
Tâm vẫn với giọng nghi ngờ:
- Chào anh Uri! Thế tàu vũ trụ của anh ở đâu?
Với giọng Hà Nội rất sõi, Uri điềm nhiên trả lời:
- Nó đang ở ngoài kia – vừa nói, Uri vừa chỉ tay
ra sân.
Hai bạn và vợ tôi cùng đứng bật dậy lao ra cửa.
Uri theo sau và bằng tín hiệu nào đó ra lệnh cho một
con tàu ánh bạc, hình nón, đường kính khoảng mười
mét và cao ba mét từ trên trời hạ dần xuống đậu giữa
sân nhà tôi. Sau đó chừng một phút, con tàu biến mất.
Uri bảo:
- Phải cho tàu tàng hình để mọi người qua lại khỏi
tò mò.
Tôi mời mọi người trở vào nhà, cùng ngồi quanh
bàn. Nhã Uyên rót nước ra chén, đưa tay mời khách:
- Mời anh Uri dùng trà.
Uri thành thật lắc đầu:
- Người chúng tôi không quen uống trà.
Bấy giờ, Nhã Uyên mới tò mò:
- Anh Uri ơi, anh xuống thăm Trái Đất và kết bạn
với anh Kim lâu chưa?
Tôi trả lời thay:
- Mới khoảng một tháng nay thôi.
- Thế anh xuống Trái Đất làm gì? – Tâm hỏi.
10
Ngần ngừ một lúc như để tìm ý, Uri trả lời:
- Một chuyến du lịch tìm hiểu các bạn sống như
thế nào thôi.
Vợ tôi hỏi một câu sát sườn hơn:
- Các nước ở trên hành tinh chúng tôi đang săn
tìm những con tàu vũ trụ lạ bằng radar, rồi sau đó
dùng các máy bay phản lực tiêm kích bắt giữ, vậy
anh làm thế nào để thoát khỏi cuộc săn tìm đó?
- Tàu của tôi luôn ở chế độ tàng hình và tránh
được mọi tia dò của Trái Đất.
Tâm truy vấn:
- Người chúng tôi quan niệm người hành tinh
khác đến Trái Đất là nhằm thăm dò khai thác tài
nguyên hoặc muốn xâm chiếm hành tinh này để đến
định cư, có đúng không?
- Hoàn toàn sai lầm. Các bạn cho đến bây giờ vẫn
chưa có tàu vũ trụ vượt không gian, đúng không?
Chúng tôi có tàu vũ trụ đến được Trái Đất có nghĩa là
chúng tôi đã có trình độ văn minh cao hơn các bạn rất
nhiều. Trong vũ trụ hiện nay, khá nhiều hành tinh
giàu tài nguyên mà chưa có người ở, muốn khai thác
và định cư, chúng tôi chỉ việc đến đó, cần gì phải
tranh giành lãnh địa với các bạn? Gây chiến tranh để
giành giật môi trường sống là việc làm của những
hành tinh có trình độ văn minh thấp kém.
Vợ tôi hỏi:
- Anh Uri à, anh đã đến các vùng đang có chiến
sự trên hành tinh này chưa?
- Rồi! Và tôi rất ghét nhìn thấy cảnh máu đổ,
người chết. Đó là điều kinh khủng mà trên hành tinh
chúng tôi không bao giờ xảy ra.
- Anh có nhận xét gì sau khi thăm thú Trái Đất
11
thời gian qua?
- Nói chung, các bạn đang cư ngụ trong một hành
tinh đầy bất trắc. Môi trường sống bị phá hoại ghê
gớm. Cảnh đói khát và bệnh tật diễn ra khắp nơi. Số
người chết ở mọi lứa tuổi do nhiều nguyên nhân xảy
ra hằng ngày trên hành tinh này khá nhiều.
- Theo ý anh, muốn trở thành một hành tinh văn
minh đúng nghĩa, chúng tôi phải làm gì?
- Đầu tiên là chấm dứt chiến tranh, xóa hết mọi
thù hận. Sau đó là xóa đói, giảm nghèo, nâng cao sức
khỏe, nâng cao đời sống văn hóa, đẩy mạnh khoa học
kỹ thuật phục vụ dân sinh cho toàn cư dân hành tinh.
Vợ tôi than:
- Không biết đến bao giờ chúng tôi mới làm được
hết những điều anh nói.
Với chủ đích có sẵn, tôi hỏi thăm dò người bạn
ngoài hành tinh:
- Anh Uri này, con tàu của anh có chức năng trở
lại thời quá khứ hay đi sâu vào tương lai không?
- Đó là một trong những cách trốn thoát hữu hiệu
sự dò xét hay truy đuổi của phi công Trái Đất.
- Nghĩa là thế nào?
- Khi gặp trường hợp bị phát hiện, tôi có thể chọn
bật chức năng tàng hình của tàu, hoặc cho tàu tăng
tốc độ vượt ánh sáng hoặc cho tàu trốn về quá khứ
hay tương lai.
Tôi chợt quay sang hỏi hai người bạn của tôi:
- Các bạn có muốn làm một chuyến du hành về
quá khứ hay về tương lai không?
Trong khi Uyên và Tâm ngần ngừ chưa trả lời vì
nghi ngờ, tôi hỏi Uri:
- Bạn có sẵn lòng giúp chúng mình xuyên thời
12
gian một chuyến không?
Xem như việc đương nhiên, Uri trả lời ngay:
- Sẵn lòng. Với lại mình cũng muốn xem thử
người hành tinh các bạn sống ra sao trong thời quá
khứ cũng như thời tương lai.
Tôi quay sang vợ tôi an ủi:
- Chúng mình còn con nhỏ, em không thể tham
dự chuyến này được. Đành để dịp khác nhé!
Hai bạn tôi xem ra chưa sẵn sàng lắm nên trả lời
kiểu hoãn binh. Tâm thay bạn mình phát biểu:
- Phải có thì giờ chuẩn bị. Anh Uri tha lỗi nhé.
Bọn này phải suy nghĩ và hẹn sớm trả lời anh qua bạn
Kim đây ngay trong tuần này.
Thật tình mà nói, mấy ai có điều kiện được du
hành xuyên thời gian tựa như trong phim viễn tưởng?
Nên ai cũng cố nén sự háo hức không muốn để lộ ra
cho người ngoài biết. Rồi các bạn sẽ thấy, chỉ có
mình tôi là không thay đổi số phận sau chuyến đi,
còn hai bạn của tôi thì có một bước ngoặt lớn quyết
định cả cuộc đời còn lại mà hiện giờ họ vẫn chưa
hình dung được cụ thể nó như thế nào.
Chúng tôi đã bàn bạc qua điện thoại rất kỹ. Nên
mang gì theo trong chuyến đi? Tôi đề nghị không nên
ở lâu quá một tuần để còn kịp về ăn Tết Âm lịch. Về
thời gian trở về quá khứ, Nhã Uyên đề nghị thời kỳ
nhà Trần đang chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ hai nhằm vào lúc mở ra Hội
nghị Diên Hồng. Tôi lên mạng sưu tầm thì được biết
đúng vào thời vua Trần Nhân Tông trị vì, hội nghị
Diên Hồng tổ chức trong tháng Chạp âm lịch (năm
1284) nhưng không biết ngày nào. Vì vậy, nếu có đi
nên chọn ngày đầu tháng Chạp tương đương với ngày
13
7 tháng 1 dương lịch năm 1285. Đến năm 1285, vua
Trần Nhân Tông ở tuổi 27, lên ngôi được 6 năm. Lúc
bấy giờ, vị thống tướng điều khiển ba quân là Trần
Quốc Tuấn đang ở tuổi 57, sau ba lần cầm quân
chống Nguyên Mông thành công được phong tước
Hưng Đạo vương vào năm 61 tuổi. Tôi cũng lưu ý
với mọi người rằng Hàn Thuyên cũng ở thời này, làm
đến chức thượng thư bộ Hình đang ở độ tuổi 56. Vì
vậy thời bấy giờ, chữ Nôm được sử dụng rất phổ
biến.
Tôi báo cho Uri biết tất cả sẽ lên đường trở về
quá khứ vào ngày 7 tháng 1 tới. Trong mấy ngày chờ
đợi, tôi lên mạng tìm hiểu các triều đại nhà Trần, vừa
cố nhớ vừa tải xuống in ra mấy trang giấy.
Đúng 7 tháng 1 năm 2015, hai bạn có mặt tại nhà
tôi rất sớm. Vì nghĩ rằng cuộc du ngoạn chỉ kéo dài
vài ba ngày nên không ai mang theo gì nhiều. Vợ tôi
gói ghém vài chục gói mì ăn liền, mấy hộp thịt, cá,
sữa, mấy chai nước khoáng giải khát. Nhã Uyên bảo
cô có mang theo mấy lượng vàng phòng thân. Còn
Tâm thì mang theo máy tính bảng để chụp ảnh ghi lại
làm kỷ niệm, đồng thời dùng nó chứng minh rằng
chúng tôi đúng là những người của thời tương lai trở
lại quá khứ nếu có ai nghi ngờ phủ nhận.
Tôi và Tâm không thể nào tìm ra ngay được bộ
cánh áo dài đen, quần trắng, khăn đóng của nam giới
ngày xưa nên đành mặc đơn giản áo sơ mi bỏ vào
quần Âu. Còn Nhã Uyên toát lên nét trẻ trung xinh
đẹp, rực rỡ trong bộ áo dài màu sáng lấp lánh ôm bó
người cùng chiếc quần lụa màu xanh nước biển hiện
đại. Tôi ôm hôn đứa con gái đầu lòng, chào tạm biệt
vợ rồi cùng mọi người lên tàu. Uri hỏi số ngày của
14
Trái Đất quay quanh Mặt Trời rồi nhập vào máy tính
của tàu, sau đó hỏi cần lùi thời gian bao năm. Tôi đã
chuẩn bị tính toán sẵn trả lời:
- Chúng ta đầu tiên bay ra Hà Nội rồi bay ngược
thời gian 729 năm.
Sau khi Uri bắt đầu khởi động, con tàu bay vút
lên cao, hướng về phía Bắc, dừng lại giây lát trên bầu
trời Hà Nội rồi chuyển chế độ bay về quá khứ. Trong
chốc lát, cái cảnh quen thuộc nhà cao nhà thấp nhấp
nhô vô trật tự, đường phố chật hẹp đông đúc người
dân và đủ loại xe chen chúc đi lại biến đâu mất. Uri
bảo đã đến nơi và cho con tàu từ từ hạ xuống trên
một khoảnh đất trống ven rừng của thủ đô Thăng
Long. Sau khi bảo chúng tôi hãy hướng về phía mặt
trời ở phương Đông mà đi, Uri bật chế độ tàng hình
và cho con tàu bốc lên cao khoảng một trăm mét rồi
dừng lại. Vừa tìm được con đường, ba người chúng
tôi đã thấy từ phía xa, một đoàn quân lính có ngựa và
xe song mã đi tới. Xe song mã được lệnh dừng ngay
khi họ vừa nhìn thấy chúng tôi bởi chúng tôi y phục
không giống người ở đây. Một cánh tay thò qua cửa
xe song mã vẫy chúng tôi lại gần và hỏi từ trong vọng
ra với một giọng rất quan cách:
- Các ngươi từ đâu đến đây?
Tâm thay mặt chúng tôi trả lời:
- Dạ thưa, chúng tôi từ tương lai đến đây!
- Tương lai nào? – cũng giọng ấy hỏi lại đầy vẻ
ngạc nhiên.
Đến lượt tôi trả lời:
- Dạ, tương lai gần 730 năm sau ạ.
Thấy có chuyện lạ, người ngồi trong xe song mã
vẫy một ông quan đang cưỡi ngựa đi kèm đến và
15
phán:
- Bá phụ hãy cấp ngựa cho mấy người này và đưa
họ về kinh cho trẫm.
Khi ngựa được đem đến, chúng tôi chỉ xin hai con
cho Tâm cưỡi một, còn tôi và Nhã Uyên cùng ngồi
trên con kia. Chúng tôi cố ý chạy chậm về phía sau
xe và hỏi người lính chạy bộ bên cạnh người đi trong
xe song mã và người cưỡi ngựa đi kèm sát xe là ai thì
được cho biết, người trong xe là vua Trần Nhân
Tông, còn ông cưỡi ngựa đi bên cạnh là quan Quốc
công tiết chế Trần Quốc Tuấn.
Khi về đến dinh, bước xuống xe song mã, ngoài
đức vua còn có một người đàn bà khác mà chúng tôi
đoán là hoàng hậu Bảo Thánh. Hoàng hậu chính là
công chúa Quyên Thanh, con gái của Trần Quốc
Tuấn và Thiên Thành công chúa. Tướng Trần Quốc
Tuấn dẫn chúng tôi đi theo sau. Trong dinh, vua và
hoàng hậu bước lên, ngồi chễm chệ trên ngai vàng.
Lập tức, lính hầu từ sau mang ra bốn chiếc ghế: một
chiếc đặt phía dưới bên phải vua dành cho Quốc công
tiết chế, ba chiếc còn lại cũng đặt phía dưới nhưng ở
bên trái hoàng hậu cho ba người chúng tôi. Nhìn
phong cách ăn mặc của chúng tôi, người thời ấy coi
là lạ.
Từ trên ngai vàng, vua phán hỏi:
- Các ngươi tên gì, nói đã từ tương lai đến đây,
thế đã dùng phương tiện gì?
Tôi vừa đứng lên thì quan tiết chế ra hiệu bảo tôi
bước ra giữa quỳ xuống. Tôi quỳ, chắp hai tay trước
ngực thưa:
- Tâu hoàng thượng, thần tên Lê Hoàng Kim, còn
hai bạn thần tên Trần Quang Tâm và Hoàng Nhã
16
Uyên. Chúng thần đi bằng con tàu vũ trụ.
- Con tàu vũ trụ nó như thế nào? Hiện giờ để nó
ở đâu?
- Con tàu hình chiếc nón úp, chứa được bốn
người, hiện ở bìa rừng nơi hoàng thượng đã phát hiện
ra chúng thần.
- Các ngươi có thể đưa tàu về đây cho trẫm xem
được không?
- Tâu hoàng thượng, không được đâu ạ. Nó tàng
hình và do người ngoài hành tinh lái đi mất rồi.
Đến lượt hoàng hậu lên tiếng:
- Cô gái kia, hiện nay ngươi đang làm nghề gì?
Nhã Uyên theo gương tôi, cũng bước ra giữa quỳ
ngay bên cạnh, thưa:
- Tâu hoàng hậu, thần đang phụ trách một đoàn
nghệ thuật múa hát.
- Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
Trong lúc Nhã Uyên phân vân không biết trả lời
thế nào, tôi đánh bạo nói dối:
- Tâu hoàng hậu, Nhã Uyên năm nay tròn 18 ạ.
Chả là, phụ nữ của thời đại văn minh sống đầy đủ
nhưng chưa lập gia đình trông khá trẻ so với tuổi thật
nên người xưa khó nhận thấy.
Hoàng hậu ghé tai vua thầm thì một lúc, sau đó
phán hỏi:
- Ngươi có thuận ở lại đây nhận làm nữ quan dạy
múa hát cho cung nữ và ta mai mối cho em trai hoàng
thượng là Tá Thiên vương Trần Đức Việp năm nay
cũng vừa tròn 20 hay không?
Chuyện đến bất ngờ ngoài dự tính, không dám từ
chối thẳng, Nhã Uyên đáp:
- Tâu hoàng hậu, thần rất đội ơn nhã ý của hoàng
17
thượng cùng hoàng hậu. Nhưng xin phép cho thần
suy nghĩ rồi sẽ trả lời sớm được không ạ?
Tất nhiên là vua và hoàng hậu vui lòng chấp
thuận chờ đợi, không cần biết ý muốn của mình có
hợp tình hợp lý hay không. Tôi và Tâm đều hiểu
thâm ý của Nhã Uyên là tìm cách hoãn binh để cùng
bàn tính cho ra nhẽ. Nếu đồng ý, Nhã Uyên sẽ ở lại
(thực hiện đúng theo giấc mơ ban đêm của mình),
còn nếu không, tôi sẽ báo cho Uri đến ngay sân rồng
bốc chúng tôi lên và biến ngay về hiện tại. Lúc bấy
giờ, vua phán:
- Cho hai ngươi bình thân.
Rồi vua bước xuống thầm thì gì đó với quan tiết
chế. Trần Quốc Tuấn đi ra sau, một lát dẫn ra một
chàng trai trẻ dáng con nhà võ trông khôi ngô tuấn tú.
Hoàng hậu chỉ vào chàng trai và giới thiệu với chúng
tôi:
- Đây Tá Thiên vương Trần Đức Việp, em trai
của hoàng thượng – sau chỉ vào chúng tôi, nói với
chàng trai – Đây là ba con người của thời đại sau, đã
xuyên thời gian gần 730 năm trở về quá khứ với
chúng ta.
Trước vẻ ngạc nhiên không giấu nổi của gã em
trai, vua và hoàng hậu phớt lờ không thèm giải thích,
sai người bố trí cho chúng tôi phòng nghỉ và ra lệnh
tổ chức bữa yến tiệc chiêu đãi vào ngay chiều hôm
nay. Tại phòng nghỉ, chúng tôi cấp tốc bàn chuyện
Nhã Uyên nên ở lại hay về. Không cần nghe chúng
tôi dài dòng phân tích, Nhã Uyên nói ngay:
- Mình quyết định ở lại. Có lẽ số phận đã định
như vậy.
Tôi hiểu Uyên có thể chủ động định đoạt số phận
18
của mình chứ không nhất thiết phải thế. Từ một đời
sống văn minh tiêu dùng đầy đủ, chịu trở lại đời sống
thiếu thốn ngày xưa đâu có dễ. Mùa hè sẽ không có
quạt máy, mùa đông không có máy sưởi, ban đêm
không đèn điện và tivi để xem tin tức. Sẽ không có cả
máy tính để vào mạng thường ngày. Nhã Uyên chấp
nhận cuộc sống mới có lẽ vì chuyện khác. Vừa tốt
nghiệp trường múa thì bố mẹ mất do tai nạn giao
thông. Ở với bà nội một thời gian ngắn hai năm sau,
bà cũng ra đi. Đó là chuyện đau lòng lớn cho cuộc
đời một con người. Hiện giờ, Nhã Uyên sống độc
thân, hằng ngày thui thủi một mình tự nấu ăn sau khi
từ đoàn nghệ thuật trở về.
Trong bữa tiệc, vua giới thiệu với chúng tôi ai là
thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, ai là hoàng thái
hậu Thiên Cảm, ai là công chúa Thiên Thành, vợ của
quan Tiết chế. Sau đó, hoàng hậu giới thiệu ba người
chúng tôi là ai với thái thượng hoàng, hoàng thái hậu
và công chúa Thiên Thành. Bà còn nói thêm là có ý
đề nghị Nhã Uyên ở lại làm nữ quan trông nom huấn
luyện múa hát cho cung nữ, nhưng giữ ý không đả
động gì đến việc mai mối. Tôi đoán thế nào vua và
hoàng hậu cũng đã nói chuyện này với thái thượng
hoàng, hoàng thái hậu, công chúa Thiên Thành và
cậu em của vua.
Sơn hào hải vị, nem công, chả phượng cùng cháo
yến, bồ câu tiềm, thiên nga quay, đặt ê hề trên chiếc
bàn rộng phủ khăn trắng kê cạnh khung cửa sổ dài.
Khoảng rộng bên cạnh dành chỗ cho đội nhạc công
và đội vũ nữ của hoàng cung biểu diễn góp vui.
Trong khi dự yến, Tâm đứng lên xin phép ghi lại
hình ảnh của bữa tiệc. Lấy máy tính bảng ra mở, rồi
19
nhờ một cung nữ đang hầu tiệc cách bấm nút chụp
mọi người. Sau đó, Tâm tự mình tách chụp riêng một
pô gồm các vua quan và có cả cung nữ hầu tiệc.
Xong, Tâm mang máy đến cho mọi người xem các
hình ảnh vừa chụp để xác nhận chứng tích của nền
văn minh thời tương lai của chúng tôi đang sống.
Tâm còn ngỏ ý xin phép chụp riêng thái thượng
hoàng cùng hoàng thái hậu, vua và hoàng hậu, quan
tiết chế với Thiên Thành công chúa và một pô gồm
em vua, vua, hoàng hậu và Nhã Uyên.
Trong khi dự tiệc, tôi lôi tờ giấy ra đứng lên xin
phép được tâu rằng sử sách đời sau có ghi trong triều
đại nhà Trần, vinh danh nhất là thời thái thượng
hoàng và hoàng thượng ngày nay đang trị vì với ba
lần thắng quân Nguyên nhờ sự trợ giúp thông minh
và kiên cường của quan Tiết chế. Lần tấn công thứ
hai của quân Nguyên chắc chắn sẽ đại bại vào năm
Ất Dậu kéo dài 4 tháng, lần thứ ba cũng sẽ thảm bại
vào cuối năm Đinh Hợi đầu năm Mậu Tý cũng kéo
dài gần 4 tháng.
Nghe đến đây, thái thượng hoàng đưa tay cắt
ngang bắt tôi dừng lại và nghi ngờ hỏi:
- Liệu sự việc diễn ra có đúng thế không?
- Muôn tâu, lịch sử đời sau ghi thế nào thì sự việc
chắc chắn sẽ diễn ra đúng như vậy, trừ phi...
Thái thượng hoàng nghi ngờ hỏi liền:
- Trừ phi ... thế nào?
Tôi mạnh dạn thưa:
- Muôn tâu, thần trộm nghĩ nếu chỉ tin vào lịch sử
đời sau mà đời này chúng ta không cố gắng, buông
xuôi, thì chính chúng ta sẽ viết lại lịch sử đó. Biết
được tương lai giống như tiên tri, chỉ có ý nghĩa giúp
20
ta tin tưởng khẳng định với ý chí quyết tâm hơn để
giành thắng lợi.
- Ngươi nói chí phải! – thái thượng hoàng tán
thành lời nói thẳng của tôi.
Tôi nói tiếp:
- Nhà Nguyên còn muốn xâm lược nước ta lần
nữa dưới triều vua Trần Anh Tông nhưng đầu năm
Giáp Ngọ, Hốt Tất Liệt sẽ qua đời nên cuộc chiến bị
hủy. Từ đó về sau, đất nước Đại Việt ta an hưởng thái
bình. Trần Thiệu Đế là nhà vua cuối cùng của triều
đại Trần. Sau đó là triều đại Hồ kéo dài trong 7 năm
rồi nước Đại Việt ta bị nhà Minh xâm lược và đô hộ
20 năm cho đến khi nhà Lê giành độc lập trở lại.
Cuối cùng tôi tổng kết:
- Trong các triều đại nhà Trần, lịch sử đời sau ghi
công ơn nhiều nhất, làm rạng danh cho Đại Việt
nhiều nhất là thời đại thái thượng hoàng Trần Thánh
Tông và hoàng thượng Trần Nhân Tông có công
chống được giặc Nguyên giữ vững độc lập sơn hà.
Những lời trong di chúc nổi tiếng của hoàng thượng
đã được lịch sử mãi mãi ghi nhớ, thần xin đọc như
sau:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm
những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái
quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa
lâu đời của ta là họa nước Tàu. Chớ coi thường
chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải. Các việc trên,
khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ
không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt
ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được
ta, thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu
dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng
21
thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ
lời ta dặn:"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng
không được để lọt vào tay kẻ khác. Nếu các ngươi
đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm
mồi cho giặc thì phải tội tru di". Ta cũng để lời nhắn
nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con
cháu."[1]
Khi nghe tôi đọc đến bản di chúc, mọi người ngạc
nhiên nhận thấy vua Trần Nhân Tông nhíu mày sửng
sốt, ngồi nhấp nhổm không yên. Tôi cảm thấy xấu hổ
khi vua Trần Nhân Tông thành thực nói to:
- Những chuyện khác thì ta không biết. Nhưng
chuyện di chúc thì hậu bối lại bịa ra rồi. Ta đâu có ý
định viết di chúc. Mà viết để làm gì cơ chứ?
Tôi ngượng chín người :
- Xin hoàng thượng tha tội, thần đâu dám…
- Ta biết, ngươi chỉ chép lại. Nhưng viết lịch sử
mà nêu ra những điều không có thực nhằm đề cao
hoặc hạ thấp vai trò của nhân vật hoặc sự kiện của
lịch sử theo ý muốn chủ quan, gán cho một người hay
một nhóm người những vinh quang hay tội lỗi mà họ
không có đều là có tội với tiền nhân và với cả con
cháu mai sau.
Nhưng rồi, không bận tâm lâu đến chuyện ấy, vua
ngoắt tôi đến và xin tôi tờ giấy đang cầm trên tay.
Những tưởng mình sẽ đọc được những lời bằng chữ
[1] Bản di chúc do nhà văn Hoàng Quốc Hải hư cấu trong cuốn tiểu
thuyết “Huyển Trân công chúa” in năm 1987.
(www.viethaingoai.net/di-chuc-cua-vua-tran-nhan-tong.1.html hoặc
www.12c1983quoc hoc.vn/ .../nho-on-thay-co/569-ban-di-chuc-cua-
vua-tnt)
22
Nôm, nhưng khi nhìn thấy những dòng chữ ngoằn
ngoèo lạ mắt, nhà vua hỏi tôi:
- Ngươi viết loại chữ gì lạ lùng thế? Ngươi không
biết chữ Nôm sao?
Tôi thưa:
- Tâu hoàng thượng, hiện nay nước ta tên mới là
Việt Nam, thủ đô nay đã đổi tên thành Hà Nội. Lối
chữ này thời của chúng thần được gọi là quốc ngữ
xây dựng trên nền chữ La tinh, bắt đầu phổ biến từ
đầu thế kỷ thứ 20 (Hiện nay, nhà vua đang ở thế kỷ
thứ 13). Chỉ còn một số ít nhà nghiên cứu chuyên biệt
vẫn còn học và biết viết chữ Hán, chữ Nôm nhưng
chỉ nhằm đọc được các tài liệu lịch sử và văn bia cổ.
Còn chúng thần không học chữ Hán, chữ Nôm nên
không biết.
Sau khi vua truyền một lệnh gì đó cho cung nữ,
vua chuyển mảnh giấy của tôi cho hoàng hậu, thái
thượng hoàng, hoàng thái hậu, quan tiết chế và phu
nhân cùng xem. Một lúc sau, một vị quan cỡ tuổi
quan tiết chế bước vào chắp tay vái chào mọi người
rồi ngồi xuống chiếc ghế do một cung nữ đem lại.
Nhà vua giới thiệu với chúng tôi:
- Đây là Hàn Thuyên, quan thượng thư bộ Hình,
người chăm lo dạy chữ nghĩa cho hoàng cung. Quan
rất khuyến khích người dân Đại Việt học và viết chữ
Nôm. Quan thượng thư này, – vừa nói, vua vừa chỉ
vào ba chúng tôi – ba người này là từ tương lai sau ta
gần 730 năm trở về đây. Bây giờ họ dùng lối chữ này
để ghi chép chứ không viết bằng chữ Nôm như thời
chúng ta nữa.
Không kịp thắc mắc hỏi lại, Hàn Thuyên nhận
mảnh giấy ghi chép của tôi từ ai đó chuyển đến và
23
ngỡ ngàng trước lối chữ viết ngoằn ngoèo lạ mắt. Ai
chứ Hàn Thuyên thì chúng tôi còn lạ gì, chúng tôi
đều biết ông từ thời học phổ thông. Mùa thu năm
Nhâm Ngọ (1282), khi quân Nguyên đang ráo riết
chuẩn bị xâm lược nước ta lần 2, bấy giờ có con cá
sấu đến sông Hồng. Vua sai ông làm văn tế ném
xuống sông, con cá sấu tự nhiên đi mất. Vua xem
việc này giống như việc Hàn Dũ (đời nhà Đường –
Trung Quốc) đã làm, nên cho đổi họ Nguyễn của tên
ông thành họ Hàn. Hàn Thuyên giỏi thơ Nôm, là
người tích cực phát triển, phổ biến chữ Nôm. Ông
còn là người đầu tiên áp dụng luật thơ Đường vào thơ
Nôm nên người đời sau gọi thơ Nôm theo Đường luật
là theo Hàn luật. Có một điều người đời sau đang
tranh cãi liệu khi vua sai ông làm văn tế đuổi cá sấu,
ông dùng chữ gì để viết. Nhiều người suy ra rằng ông
luôn khuyến khích dùng chữ Nôm nên chắc chắn ông
cũng dùng chữ Nôm để thảo ra văn tế đuổi cá sấu.
Mấy ai được trở lại thời quá khứ để giải tỏa những
thắc mắc của hậu bối, sẵn dịp tôi đã đem điều này hỏi
ông vào ngày hôm sau. Ông thành thực trả lời:
- Đời này vẫn còn coi văn bản nghiêm túc phải
viết bằng chữ Hán. Cho nên khi vua sai, tuy không
nói cụ thể, tôi phải dùng chữ Hán để viết chứ không
dám tự tiện dùng chữ Nôm mặc dù tôi rất muốn.
Thế là đã rõ, không hiểu các bạn đọc có tin tôi
hay không. Hàn Thuyên đã không dám dùng chính
con đẻ của mình để làm văn tế đuổi cá sấu..
Còn một chuyện nữa, thật ra, tôi cũng còn muốn
giải đáp thêm thắc mắc của người đời sau về Trần Ích
Tắc, chú của vua Trần Nhân Tông, ngày 15/3/2185
đã đem gia đình trốn chạy theo giặc. Trần Ích Tắc
24
năm nay 30 tuổi, vốn người thông minh, hiếu học,
thông hiểu lịch sử, đã từng mở trường đào tạo nhân
tài, trong hoàn cảnh đất nước đang lâm nguy. Hai hội
nghị Bình Than và Diên Hồng đã chứng tỏ toàn dân
đồng lòng đánh giặc với khí thế ngút trời, lẽ nào ông
ấy lại dễ trở thành tội đồ phản quốc được? Trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất,
nhà Trần thua đau liên tiếp đến nỗi hiến công chúa
An Tư cho Thoát Hoan để làm kế hoãn binh. Còn từ
khi Trần Ích Tắc đi hàng giặc thì giặc bắt đầu thua
thảm hại, lần sau chuẩn bị tốt hơn nhưng thua đậm
còn hơn lần trước. Xảy ra điều đó có thể là nhờ Trần
Ích Tắc làm nội gián chăng? Nếu muốn biết thực hư
ra sao thì phải hỏi Trần Quốc Tuấn hay trực tiếp hỏi
vua Trần Nhân Tông, nhưng còn mấy tháng sau sự
việc này mới xảy ra. Sau này, trong dịp trò chuyện
tay ba: tôi, Tâm và Nhã Uyên ở thì tương lai, tôi có
hỏi Nhã Uyên về Trần Ích Tắc và có đọc hai câu thơ
mà Trần Ích Tắc để lại cho đời sau:
Bỏ nước ra đi nhớ tự ngày,
Lòng trung canh cánh có trời hay,..
và nói thêm về giấc mơ của vua Trần Thái Tông khi
Trần Ích Tắc chưa sinh, thấy một thần nhân ba mắt từ
trên trời xuống, nói với vua rằng thần bị thượng đế
quở trách, xin thác sinh làm con vua, sau này lại về
phương Bắc. Đến khi Ích Tắc sinh, giữa trán có cái
vết lờ mờ như hình con mắt, hình dáng giống hệt
người trong mơ. Trong cuộc gặp của chúng tôi,
thường có chồng Nhã Uyên tham dự. Nhã Uyên hỏi
chồng, Việp lắc đầu chỉ bảo việc này chỉ có hoàng
thượng và quan Tiết chế là biết rõ nhất. Từ khi chú ấy
đi, hoàng thượng cấm mọi người bàn tán về chú ấy.
25
Ngay trong bữa yến, Nhã Uyên đến ghé tai nói
nhỏ với hoàng hậu. Hoàng hậu ngoắt Tá Thiên vương
Trần Đức Việp lại cùng nói nhỏ cho cả vua Trần
Nhân Tông nghe. Vua ngước nhìn có ý hỏi em mình
và Việp gật đầu. Thế là nhà vua đứng lên trịnh trọng:
- Tâu phụ vương và mẫu hậu, chúng con vui
mừng báo một tin hệ trọng của hoàng cung. Ngày
mai, chúng con sẽ làm lễ thành hôn cho em Trần Đức
Việp cùng với cô gái từ tương lai trở về Nhã Uyên –
đoạn quay sang Trần Quốc Tuấn –. Trẫm muốn nhờ
quan tiết chế đứng làm chủ hôn giúp. Cũng từ ngày
mai, hoàng cung sẽ có chính thức một dương phi mới
tên là Nhã Uyên.
Mọi người trong hoàng cung từ vua quan cho đến
tất cả cung nữ, nhạc công và vũ nữ đều vỗ tay râm
ran. Tôi đến đề nghị thầm Nhã Uyên chơi một bản
nhạc nào đó cho mọi người thưởng lãm. Nhã Uyên
gật đầu. Tôi đứng lên thưa:
- Muôn tâu thái thượng hoàng, hoàng thái hậu,
hoàng thượng và hoàng hậu, thần xin giới thiệu Nhã
Uyên sẽ đàn giúp vui cho bữa tiệc.
Nhã Uyên bước đến chỗ đội nhạc công ngồi, hỏi
mượn cây đàn bầu. Một nhạc công lui ra nhường ghế
và đàn. Trong không khí im lắng và háo hức chờ đợi,
Nhã Uyên gảy một bản nhạc réo rắt, mê hoặc lòng
người trên nền nhạc đệm của đàn nguyệt, đàn nhị, sáo
và các loại trống con, trống cơm và mõ của đội nhạc.
Nhà vua gọi đội trưởng nhạc công lại và hỏi:
- Ngươi có biết Nhã Uyên dương phi đang gảy
bản nhạc lạ tai này là gì không?
- Muôn tâu, đó là một bản độc tấu chèo biến thể
đấy ạ.
26
Vừa hoàn thành bản độc tấu bằng đàn bầu, Nhã
Uyên đứng dậy cúi chào mọi người, đến ghé tai hỏi
nhỏ một cung nữ rồi theo ả vào trong. Lát sau, một vũ
công ba lê lạ lẫm với hầu hết mọi người, từ trong
bước ra và biểu diễn ngay một màn độc diễn múa.
Trong lúc đang xem, nhà vua gọi đội trưởng vũ công
lại và hỏi:
- Ngươi có biết dương phi đang múa điệu lạ mắt
này là gì không?
- Tâu hoàng thượng, thần chưa bao giờ thấy một
điệu múa như thế này ạ.
Tôi đứng lên thưa:
- Muôn tâu, đó là vở múa ba lê Hồ Thiên Nga đấy
ạ. Nhã Uyên đang độc diễn vai thiên nga. Những điệu
múa của vở này trong thời đại của chúng thần được
coi là cơ sở từ đó đào tạo nên những diễn viên múa ở
tất cả các bộ môn múa khác kể cả điệu múa hoàng
cung.
Tôi thật sự ngạc nhiên không hiểu Nhã Uyên đào
đâu ra trong lúc này bộ đồ múa áo liền quần kể cả đôi
giày chuyên dùng. Sau tôi mới vỡ lẽ, do nghiệp mà
trong túi xách của Nhã Uyên, dù đi đâu ở đâu, bao
giờ cũng gói sẵn đôi giày và bộ đồ múa.
Có thể nói bà phi mới này đã để lại trong lòng
mọi người hôm nay một ấn tượng khá tốt đẹp và sâu
sắc. Ngày đầu tiên bước chân vào hoàng cung của
Nhã Uyên có thể nói là rất thuận lợi, lấy được cảm
tình của hết thảy mọi người từ thái thượng hoàng cho
đến thường dân là các nhạc công, cung nữ và lính
hầu. Bữa tiệc kéo dài cho đến 6 giờ tối.
Chúng tôi nghỉ một đêm yên tĩnh trong hoàng
cung. Sáng hôm sau, chúng tôi được cung nữ mang
27
đến cho mỗi người một chậu nước ấm, một khăn mặt
mới, một tô cháo bồ câu hầm và một bình trà sen tỏa
hương thơm phức. Sau đó, Nhã Uyên phải sang một
phòng riêng cho các cung nữ trang điểm cô dâu chú
rể để hai người ra mắt hoàng hậu xem hoàng hậu có
vừa ý không. Sau khi hoàng hậu gật đầu và đi ra,
Tâm ào vào phòng, bảo đôi vợ chồng trẻ đứng sát vào
nhau và chụp một pô ảnh kỷ niệm ngày cưới rồi thoắt
biến ra ngoài.
Bỗng có một lính hầu tìm đến Nhã Uyên và báo:
- Thưa dương phi, có một cô gái ăn mặc theo kiểu
dương phi lúc mới đến đây muốn gặp dương phi. Con
đã dẫn cô ấy vào đây.
Nhã Uyên lệnh cho các cung nữ tạm lánh ra ngoài
và sau đó, vợ tôi ào vào phòng. Hai chị em ôm lấy
nhau mừng mừng tủi tủi. Nhã Uyên giới thiệu chàng
rể. Vợ tôi lặng lẽ gật đầu chào rồi trao cho Nhã Uyên
một gói giấy bọc cẩn thận và bảo:
- Có món quà do anh Kim gửi cho chị và dặn chị
nhất thiết sau lễ cưới mới được mở.
- Thật lạ, anh Kim đang ở đây mà, sao không trao
quà trực tiếp cho chị mà phải qua em? –Nhưng
không có thì giờ suy nghĩ lâu, Nhã Uyên hối hả nói –
Mà làm sao em đến được đây, có phải nhờ Uri
không? Thôi được, chị em ta chắc còn khó gặp nhau
nếu không nhờ Uri giúp cho lần nữa. Chị biếu vợ
chồng em cái này bởi vì tại đây, chị hoàn toàn không
cần đến nó nữa.
Nói rồi, Nhã Uyên trao cho vợ tôi gói giấy (sau
này mở ra mới biết đó là mấy lượng vàng Nhã Uyên
mang theo phòng thân). Hai chị em ôm nhau bịn rịn
lần nữa và vội vã chào nhau từ biệt.
28
- Xin lỗi, em không thể ở lại chia vui cùng vợ
chồng chị được. Chúc anh chị sống hạnh phúc. Con
bé nhà em chỉ biết có sữa mẹ, còn khi đưa núm vú
bình vào miệng thì bao giờ cũng dãy nẩy khóc thét
lên.
Có lệnh của hoàng thượng truyền xuống đòi gặp
Tâm. Lính hầu xông vào hỏi lệnh bà dương phi có
trông thấy ông Tâm đâu không. Chúng bảo lùng sục
khắp nơi trong cung nhưng không tài nào tìm thấy hai
người đàn ông của thời tương lai. Nhã Uyên nói với
chồng:
- Chắc chắn bọn họ đã lên đường trở về nhà rồi.
Không hiểu ý hoàng thượng muốn gặp anh Tâm làm
gì, anh có biết không?
Việp trả lời:
- Chắc hoàng thượng muốn xin chiếc máy lưu giữ
các bức ảnh chụp. Có thể hoàng thượng cũng muốn
tự mình chụp nhiều bức ảnh khác chăng.
- Ở thời này, người ta chưa làm ra điện. Chiếc
máy hết điện thì chỉ có vứt đi chẳng còn ích lợi gì
nữa. Cho nên anh Tâm dù có để lại cho hoàng thượng
chiếc máy, hoàng thượng cũng không dùng nó được
lâu đâu.
Đem Nhã Uyên và Đức Việp so sánh tuổi tác, nếu
xét về tuổi sinh lý thì Nhã Uyên lớn hơn chồng 5
tuổi, nhưng xét về tuổi khai sinh thì cô kém thua
chồng 725 tuổi. Số Nhã Uyên phải lấy chồng già
khụ?
Ngay khi Tâm và vợ tôi cùng bước ra gặp tôi, vợ
tôi giục phải về nhà ngay trước khi con bé đói sữa.
Thế là theo tín hiệu, Uri hạ cánh xuống đón chúng tôi
bốc lên cao, bay ngay trở về thì hiện tại, chuyển
29
hướng về Sài Gòn bỏ vợ tôi xuống. Tâm gửi cho vợ
tôi cái máy tính bảng nhờ in các ảnh mà chúng tôi
chụp được trong hoàng cung, cứ trong ảnh có bao
nhiêu người thì in ra bấy nhiêu tấm. Tất cả gói buộc
cẩn thận để trao cho Nhã Uyên, dặn đến ngày hôm
sau mới được mở. Vào sáng ngày 8 tháng 1 năm
2015, Uri sẽ đến đón để trở về quá khứ.
Còn tôi và Tâm tiếp tục chuyến đi vào tương lai.
- Chúng ta hướng về tương lai bao nhiêu năm
đây? – Uri hỏi để chuẩn bị cài chương trình bay.
Tâm đã tính toán trước, nói với tôi:
- Tôi muốn đến năm 2100 để xem thế nào. Có
một nhà thiên văn học tên là Kardashev. Ông đã chia
nền văn minh của loài người trong vũ trụ thành 3 cấp
dựa theo mức độ tận dụng năng lượng thiên nhiên,
trong đó cấp độ 1 là thấp nhất. Theo dự báo của nhà
thiên văn này, loài người Trái Đất sẽ đạt đỉnh cao của
nền văn minh cấp độ 1 vào năm 2100. Vậy ta thử đến
lúc đó xem sao. Nhẩm tính 2100 trừ đi 2015, tôi nói
với Uri:
- Chúng ta sẽ bước vào tương lai sau 85 năm.
Sau khi nhập số liệu và nhấn nút khởi động, con
tàu hơi rùng mình một chút. Uri tuyên bố:
- Chúng ta đến năm 2100 rồi đó.
Đồng hồ đeo tay của tôi đang chỉ 7 giờ 30 phút
sáng. Nhìn xuống bên dưới, Sài Gòn đang bắt đầu
một ngày mới, thành phố tấp nập người đi, đường
phố nhộn nhịp xe cộ và đường trên cao chằng chịt
như mạng lưới. Tuyệt đối không còn bóng dáng một
chiếc xe honda nào. Uri lái tàu đến một công viên hơi
vắng vẻ, bật chế độ tàng hình, cho tàu hạ cánh để hai
chúng tôi xuống.
30
Trước khi chào tạm biệt, Tâm nhờ Uri trở lại đón
vợ tôi và chở giúp vợ tôi trở về quá khứ thời nhà Trần
chậm một ngày tức ngày 8 tháng 1 năm 1285.
Với bộ Âu phục đơn giản, chúng tôi không cảm
thấy lạc lõng cho lắm với mọi người ở đây. Tâm hỏi
thăm một người qua đường:
- Tôi có một viên kim cương, xin vui lòng chỉ
giúp một nơi tôi có thể bán được.
- Anh hãy đến ngân hàng đá quý nằm ở cuối con
đường này.
Chúng tôi đi đến nơi đã chỉ và nhanh chóng đổi
được một xấp tiền giấy có in hình Trái Đất với những
dòng chữ bằng ngôn ngữ Esperanto. Tôi đoán đến lúc
này, toàn thế giới đã thống nhất dùng chung một
đồng tiền với đơn vị mang tên tero. Tâm vẫy được
một chiếc taxi và nhờ chở chúng tôi đến một trường
đại học nổi tiếng nào đó đào tạo và nghiên cứu kỹ
thuật. Taxi đã chở chúng tôi đến trường đại học Bách
khoa Sài Gòn. Khi hỏi bảo vệ nơi khoa Điện làm
việc, họ chỉ một tòa nhà cao tầng mang chữ cái D.
Vào văn phòng khoa, hỏi đến bộ môn Viễn thông,
người thư ký nhấn một nút trên máy truyền tin nội bộ
và được trả lời:
- Tôi nghe đây.
- Xin mời đến văn phòng khoa đón khách.
Sau vài phút, một cô gái trẻ đang mặc áo blu
trắng bước vào. Cô thư ký văn phòng chỉ vào chúng
tôi đang ngồi chờ bên chiếc bàn thấp.
- Xin lỗi, hai anh cần bộ môn chúng tôi giúp gì ạ?
Tâm điềm nhiên trả lời trước sự ngỡ ngàng của
hai phụ nữ:
- Chúng tôi từ quá khứ năm 2015 đến đây. Tôi
31
làm việc trong ngành Viễn thông, có thiết kế sơ đồ
một máy truyền tin xuyên thời gian, nhưng năm 2015
kỹ thuật chưa có điều kiện chế tạo. Tôi muốn nhờ
xem ...
Vừa nói, Tâm vừa rút từ túi tấm bản vẽ khổ A3
mở rộng ra trên mặt bàn. Chăm chú nhìn một lúc, cô
gái gật gù nói khẽ:
- Chúng tôi có khả năng chế tạo được. Hai anh có
thể chờ bao lâu?
Tôi trả lời:
- Khoảng hai ba ngày gì đó. Tiền nong tính sao
đây?
- Với thời gian này chúng tôi chỉ có thể sản xuất
vài ba chiếc mẫu trong phòng thí nghiệm thôi. Còn
sản xuất đại trà phải đăng ký phát minh. Dù với vài
ba chiếc, nhưng chi phí khá cao đấy, liệu các anh có
trả nổi không – ngần ngừ giây lát, cô gái nói tiếp –
Có một cách là... nếu đồng ý chuyển giao bản vẽ tự
nguyện cho chúng tôi mà không đòi hỏi điều kiện
ràng buộc gì, chúng tôi sẵn sàng chế tạo giúp hai anh
mấy chiếc máy truyền tin mẫu.
Tâm trả lời ngay:
- Đồng ý. Và chúng tôi chỉ cần ba chiếc. Hãy làm
và đặt tên cho máy là TTXTG nghĩa là máy truyền tin
xuyên thời gian.
Chúng tôi đứng dậy chào tạm biệt và được cô gái
trao cho tấm thiệp để tiện liên hệ. Mặc dù có sẵn
thiệp để trao đổi lại theo thói thường nhưng xét thấy
việc này vô nghĩa nên chúng tôi không làm.
Bước ra khỏi trường, chúng tôi đi bộ hỏi thăm tìm
đến một khách sạn gần trường nhất để tá túc vài
ngày. Sau khi nhận phòng, tôi bàn với Tâm mời cô
32
gái làm việc với chúng ta gặp khi sáng đến khách sạn
dự bữa cơm tối thân mật để trao đổi thêm. Lấy tấm
thiệp ra đọc, thấy tên cô là Nguyễn Thúy Loan, tiến sĩ
trợ giảng của bộ môn Viễn thông. Tôi xuống phòng
tiếp tân nhờ gọi điện giúp, được trả lời ở đầu bên kia:
- A lô, tôi là Thúy Loan đây, xin cho biết ai gọi
đấy?
- Tôi là Tâm, người đã làm việc với chị khi sáng
về chiếc máy truyền tin xuyên thời gian.
- À vâng. Tôi nhớ rồi. Xin cho biết anh cần gì ạ?
- Chả là chúng tôi muốn mời chị đến ăn tối cùng
chúng tôi tại khách sạn Ban Mai trên đường Lý
Thường Kiệt vào lúc bảy giờ. Chị đến được không ạ?
- Xin cảm ơn, tôi sẽ đến. Nhưng tôi muốn rủ cô
chủ nhiệm bộ môn cùng đi có được không ạ?
- Ồ! Thế thì quý hóa quá. Xin chuyển giúp lời
mời của chúng tôi đến cô chủ nhiệm nhé.
- Thưa vâng.
Đúng bảy giờ, hai cô giáo đã kịp có mặt tại phòng
tiếp tân của khách sạn. Chúng tôi mời hai cô sang
phòng ăn. Cô chủ nhiệm trao cho chúng tôi tấm danh
thiếp. Tên cô là Nguyễn Thúy Quỳnh, phó giáo sư
tiến sĩ đang là chủ nhiệm bộ môn Viễn thông. Theo
sổ thực đơn để sẵn trên bàn, tôi gọi những món thông
thường như bữa trưa. Tôi thắc mắc hỏi hai cô giáo:
- Thời chúng tôi, Sài Gòn bán rượu bia ê hề,
muốn mua bao nhiêu cũng có trong khi ăn, tại sao bây
giờ không thấy?
Cô giáo Thúy Quỳnh trả lời:
- Cách nay mấy chục năm, cả thế giới đồng lòng
xóa hẳn các nhà máy rượu, bia, thuốc lá, những chất
kích thích gây nghiện nói chung ảnh hưởng đến sức
33
khỏe và tư cách con người. Bởi vậy, anh hỏi nhà
hàng khách sạn bất kỳ nào, người ta trả lời không
biết, không có, là phải.
- Thế thời đó, người ta chữa bệnh nghiện ngập
bằng cách nào? Có gây nên vật vã đau đớn cho những
người ấy không?
- Ngành y dùng liệu pháp gien, nên hiệu quả khá
tốt và từ ấy đến nay, không ai bị nghiện những chất
kích thích trở lại. Với lại, muốn mua những chất kích
thích ấy cũng không thể tìm đâu ra vì cả thế giới đã
ngừng sản xuất.
Khi những món ăn dọn lên, Thúy Loan giới thiệu:
- Tuy mang tên là thịt này, cá nọ, cơm kia nhưng
hoàn toàn nhân tạo đấy các anh. Thế giới từ lâu đã
biết sản xuất thịt, cá, gạo, mì gạo nhân tạo nhanh,
nhiều và với giá thành rất rẻ so với chăn nuôi, đánh
bắt và trồng trọt. Nhờ đó, môi trường của Trái Đất
được cải thiện đáng kể.
Trong khi ăn, cô chủ nhiệm nói:
- Khi được Thúy Loan báo có hai anh người từ
quá khứ đến, tôi lạ lắm và cũng muốn tò mò xem thử
hai anh ... – bật cười – “cổ lỗ” như thế nào? Nhưng
không ngờ hai anh xem ra đâu có khác mọi người
thời nay về cách ăn mặc, nói năng và nhất là trí óc
thông minh, sáng tạo. Mà tôi vẫn chưa hiểu, máy theo
sơ đồ đặt hàng có thể chế tạo được đó nhưng các anh
sẽ dùng nó để làm gì cơ chứ?
Tâm trả lời:
- Đúng thế, nếu chúng ta không có mối quan hệ
với những người thời quá khứ cũng như thời tương
lai thì máy không sử dụng để làm gì cả. Nhưng hai cô
giáo thấy đấy, chúng ta những người đang sống ở
34
năm 2015 và ở năm 2100, nếu cùng có máy chắc
chắn sẽ liên lạc được với nhau, đúng không? Mấy
ngày vừa qua của năm 2015, chúng tôi cũng đã gửi
một cô bạn về năm 1285 sống trong hoàng cung của
triều đại nhà Trần. Nếu cô ấy có máy truyền tin
xuyên thời gian, chắc hẳn năm người chúng ta sẽ liên
lạc được với nhau một cách dễ dàng đó.
Thúy Loan tỏ vẻ nghi ngờ:
- Dẫu có chuyển tin về quá khứ như các anh đã
làm với cô bạn gái đó hoặc chúng tôi chuyển tin được
về quá khứ cho các anh, liệu cô gái đó và cả các anh
có còn sống để nhận tin không?
Tâm thanh minh:
- Chị Thúy Loan vẫn còn bị ám ảnh bởi chiếc
máy truyền tin hiện nay. Chiếc máy truyền tin hiện
nay thuộc loại truyền tin vượt không gian chứ đâu
phải xuyên thời gian. Ở hai nơi xa nhau, gọi điện
thoại cho nhau là vượt không gian, còn thời gian là
đồng nhất hay là xảy ra cùng một lúc.
Tôi hỏi Tâm:
- Máy truyền tin có thể truyền hình được không?
Tâm trả lời chắc nịch:
- Chắc chắn là được. Thông tin có nhiều dạng
trong đó có hình ảnh. Chẳng phải chiếc điện thoại di
động chúng ta đang dùng gửi trao đổi cho nhau
những hình ảnh chụp được là gì?
Tôi nói tiếp:
- Nếu tôi cài được người vào thời đại nào đó của
quá khứ mà người ấy có máy truyền tin xuyên thời
gian, chắc chắn chúng ta sẽ giải đáp được một số
nghi vấn của lịch sử nhân loại về thời đại đó. Ví dụ
một hình ảnh Trần Hưng Đạo, khi nặn tượng hay
35
chọn diễn viên cho sân khấu và trong điện ảnh, người
thời nay hoàn toàn tưởng tượng ra chứ đâu phải giống
như thật. Nếu người chúng ta cài vào thời đó chụp
ảnh được thì ảnh Trần Hưng Đạo chắc chắn là thật.
Sau bữa cơm thân mật, chúng tôi trao đổi cho nhau
về cuộc đời riêng của mỗi người. Tôi kể tôi tên là Lê
Hoàng Kim, đã tốt nghiệp trường đại học Sư phạm ra
và hiện đang giảng dạy tại một trường trung học. Đã
có vợ và một con gái đầu lòng. Tâm giới thiệu mình
tên là Trần Quang Tâm đã lấy bằng tiến sĩ ngành viễn
thông tại CHLB Đức và đang làm trợ giảng thí
nghiệm bộ môn Viễn thông trường đại học Bách
Khoa TP Hồ Chí Minh. Vẫn còn sống độc thân. Thúy
Quỳnh tự giới thiệu mình đã lấy bằng tiến sĩ ngành
viễn thông tại Mỹ và về trường giữ chức chủ nhiệm
bộ môn được mấy năm. Đã lấy chồng và chưa con.
Chồng là nghiên cứu sinh cùng trường, đã về Việt
Nam làm viện trưởng của một viện chuyên ngành
Máy tính. Còn Thúy Loan tự giới thiệu mình đã lấy
bằng tiến sĩ ở Đức, mới về nước được một năm, đang
làm trợ giảng và còn độc thân.
Tôi hỏi Thúy Loan:
- Học ở Đức, hẳn cô giáo biết tiếng Đức chứ?
- Không cần đâu anh. Ngày nay đi đến đâu trên
thế giới này, người ta đều nói năng trao đổi bằng
quốc tế ngữ Esperanto. Trẻ con vào lớp 1 đã bắt đầu
học nói tiếng mẹ đẻ cùng lúc với quốc tế ngữ rồi.
Tôi nói:
- Kể ra trong chỉ chừng có 85 năm tương đương
với một đời người mà thế giới đã làm được nhiều
việc như thế là quá nhanh!
- Thế giới tiến nhanh kể từ khi chấm dứt được
36
mọi cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Lúc này, khoa học chỉ
còn phục vụ hòa bình mà thôi. Khi khoa học chỉ phục
vụ cho dân sinh thì tiến mạnh tiến nhanh là lẽ đương
nhiên.
Đêm về khuya, hai cô giáo đứng dậy chào tạm
biệt. Thúy Quỳnh ra lấy xe hơi và cho Thúy Loan quá
giang về nhà.
Trước khi chia tay, Thúy Quỳnh nói một câu làm
chúng tôi nổi da gà:
- Hai hôm nữa, sau khi nhận được máy và trở lại
thời quá khứ của mình, đến lúc ấy chắc chắn hai anh
đã trở thành người thiên cổ hết rồi, đâu còn có mặt ở
đây.
Tôi nghĩ bụng:
- Đương nhiên không ai trong hai chúng tôi sống
nổi đến 110 năm tức là 25 cộng 85.
Chúng tôi lang thang thăm thú Sài Gòn hết cả
buổi sáng hôm sau, khi về khách sạn ăn trưa thì được
tiếp tân báo có người nhắn tin xin gọi lại. Nhìn số
điện thoại, tôi biết người nhắn là cô chủ nhiệm Thúy
Quỳnh. Tôi gọi tức thì. Đầu dây bên kia nói:
- Xin báo cho hai anh biết, do hai anh không ở
được lâu, chúng tôi đã làm việc suốt ngày đêm không
nghỉ cho xong ba chiếc máy truyền tin theo đặt hàng.
Nó to cỡ một chiếc máy tính bảng 24,5 cm đường
chéo với bộ pin vĩnh cửu theo thiết kế. Mời hai anh
quá bộ đến văn phòng bộ môn chúng tôi nhận máy.
Tôi rối rít:
- Ôi, cảm ơn các chị nhiều lắm. Đúng hai giờ
chiều chúng tôi xin có mặt.
Tôi báo cho Tâm tin vui, Tâm ôm choàng lấy tôi
vỗ vỗ mấy cái vào lưng, nghẹn ngào không nói nên
37
lời. Theo cách riêng, tôi báo tin cho Uri biết vào đúng
7 giờ tối nay đến đón chúng tôi về nhà.
Cả buổi trưa, hai chúng tôi thao thức không sao
ngủ được. Tắm rửa lần cuối rồi xuống căng tin mua
hai ly cà phê đen uống cho tỉnh táo, chúng tôi gặp
tiếp tân thanh toán, trả phòng và bước ra ngoài.
Chúng tôi lững thững đi bộ loanh quanh tính toán
đúng 2 giờ kém 15 thì đến cổng trường. Khi vừa đến
văn phòng khoa Điện, Thúy Loan đã có mặt vui vẻ
dẫn chúng tôi lên thẳng lầu 3. Tại một căn phòng
rộng bày biện bàn ghế như dành cho một bữa tiệc, cô
chủ nhiệm Thúy Quỳnh ra đón chúng tôi. Cô giới
thiệu với chúng tôi hai thanh niên dáng lịch lãm cùng
đóng bộ vét khá trịnh trọng chỉ khác nhau ở màu cà
vạt:
- Xin giới thiệu với hai anh, đây là hiệu trưởng
trường và đây là chủ nhiệm khoa Điện.
Chúng tôi bắt tay nhau hoan hỷ. Khi được mời
ngồi vào chỗ, ngước nhìn lên, trên bức tường có treo
một băng rôn đề dòng chữ “CHÀO MỪNG HAI
BẠN ĐẾN TỪ QUÁ KHỨ”. Cô Thúy Quỳnh đi đến
đứng dưới băng rôn dùng micro không dây tuyên bố:
- Hôm nay là một ngày đặc biệt đối với chúng tôi
bởi vì hiếm có khi nào chúng tôi làm việc với những
người từ quá khứ cách nay 85 năm trở về. Công việc
cũng đặc biệt là chế tạo giúp cho mẫu máy truyền tin
xuyên thời gian mà vào năm 2015, công nghệ lúc đó
chưa chế tạo được. Tác giả của mẫu máy này là tiến
sĩ Trần Quang Tâm – cô giáo chỉ tay về phía Tâm và
Tâm đứng lên chắp tay chào mọi người – và còn đây
là ba chiếc máy bộ môn chúng tôi vừa làm xong – cô
giáo chỉ tay về phía ba chiếc máy màu bạch kim được
38
đặt trên chiếc bàn con – Người thứ hai từ quá khứ trở
về là thầy giáo, cử nhân văn học Lê Hoàng Kim – cô
giáo chỉ tay về phía tôi, tôi cũng đứng lên chào mọi
người – Tham dự bữa tiệc chia tay hôm nay, còn có
thầy hiệu trưởng và thầy chủ nhiệm khoa Điện. Mọi
người còn lại là giáo viên và công nhân viên của bộ
môn.
Mọi người trong phòng vỗ tay hân hoan. Có một
ai đó từ bên dưới giơ tay:
- Xin cho hỏi, ba chiếc máy đã được thử nghiệm
sử dụng đạt thành công chưa ạ?
Hơi lúng túng một chút,Thúy Quỳnh trả lời:
- Hiện tại chúng tôi chưa có điều kiện thử
nghiệm.
- Thế thì làm thế nào biết máy chế tạo đã thành
công rồi? Còn điều kiện để thử nghiệm máy là gì?
Tâm đứng lên trả lời thay:
- Những người ở thì quá khứ, hiện tại và tương lai
đều có máy thì mới thử nghiệm được.
- Vậy làm thế nào để cho những người ở ba thời
đại đó đều có máy?
- Hiện nay đây, năm 2100 chúng ta đã có máy
truyền tin xuyên thời gian, khi chúng tôi trở lại thì
hiện tại của chúng tôi là năm 2015 cũng mang theo
máy này về, chỉ ngày mai là chúng ta có thể thử
nghiệm được rồi.
Có một ý kiến thắc mắc khác:
- Tôi chưa rõ làm thế nào hai anh từ hiện tại năm
2015 du hành được đến đây vào năm 2100? Các anh
dùng máy di chuyển xuyên thời gian chăng?
Tôi đứng lên trả lời:
- Thật tình hiện tại, chúng tôi chưa chế ra được
39
máy xuyên thời gian như các truyện viễn tưởng đã
mô tả. Nhưng chúng tôi may mắn đi nhờ trên một
máy xuyên thời gian dạng phi thuyền của một anh
bạn người ngoài hành tinh. Lần vừa rồi, chúng tôi đã
nhờ anh ấy chở bằng tàu vũ trụ bay từ TP Hồ Chí
Minh ra Hà Nội rồi từ Hà Nội thủ đô của nước Việt
Nam năm 2015 trở về Thăng Long thủ đô của nước
Đại Việt xưa vào năm 1285 đúng lúc nhà Trần đang
gấp rút chuẩn bị cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần 2.
- Thế con tàu vũ trụ đang ở đâu?
- Chúng tôi để nó ở công viên Tao Đàn dưới dạng
tàng hình.
Không ai còn thắc mắc gì. Thúy Quỳnh tuyên bố
bữa tiệc đứng bắt đầu và mời mọi người tự lấy thức
ăn, vừa ăn vừa trò chuyện cùng nhau.
Các giáo viên cả nam lẫn nữ trong bộ môn đều
lần lượt đến bắt tay thăm hỏi chúng tôi. Đến gần cuối
bữa tiệc, Thúy Quỳnh kéo chúng tôi lại gần và nói:
- Từ năm 2015 đến nay, thời gian chỉ khoảng một
đời người. Đêm hôm qua tôi và Thúy Loan tra cứu
trên mạng danh sách giảng viên của trường đại học
Bách khoa TP Hồ Chí Minh, tiền thân của trường đại
học Bách khoa Sài Gòn thì phát hiện có thầy Nguyễn
Quang Tâm ở khoa Điện, bộ môn Viễn thông, mất
tích vào năm 2015 – đoạn hướng về phía Tâm – Thế
là thế nào hở anh Tâm?
Làm sao mà chúng tôi có thể trả lời câu hỏi hóc
búa này nên cùng lắc đầu tỏ vẻ không hiểu. Tôi ngờ
ngợ nghĩ thầm trong bụng nhưng không tiện nói ra.
Giấc mơ ban ngày của Tâm thế là đã thực hiện xong.
Nhưng ban ngày không thể mơ mình sẽ đến sống vào
40
thì tương lai. Không khéo anh chàng này có số phận
giống Nhã Uyên chăng, đi về tương lai rồi ở lại đó
luôn chứ không chịu về. Biết đâu, vài giờ còn lại, anh
chàng này sẽ tìm cách trốn đi thì sao?
Thúy Quỳnh giọng ngập ngừng chưa tin tưởng
hẳn vào suy nghĩ của mình:
- Thúy Loan giải thích rằng thầy giáo Trần Quang
Tâm này mất tích khi du hành vào thì tương lai. Vậy
bộ môn hãy đề nghị anh Tâm ở lại và nếu anh ấy
đồng ý, thế là hợp với câu chuyện mất tích vào năm
2015 nhất được lưu trên mạng.
Thế rồi Thúy Quỳnh trở lại chỗ đứng dưới băng
rôn cầm micro nói:
- Xin lỗi thầy hiệu trưởng và thầy chủ nhiệm khoa
cùng các bạn, tôi xin có một đề nghị. Qua việc chế
tạo máy truyền tin xuyên thời gian, chúng tôi nhận
thấy tiến sĩ Trần Quang Tâm là một người đặc biệt
thông minh và có đầu óc sáng tạo. Qua phát minh vừa
rồi của anh, nền công nghệ năm 2015 chưa đáp ứng
được, có nghĩa là anh đã đi trước thời đại của mình.
Xét thấy anh Tâm phù hợp với thời đại hiện nay của
chúng ta, tôi đề nghị trong cuộc du hành về tương lai
này, anh hãy ở lại với chúng tôi, đừng về nữa. Nếu
anh ấy đồng ý, xin thầy hiệu trưởng và thầy chủ
nhiệm khoa suy xét và chấp nhận đề nghị này của chủ
nhiệm bộ môn.
Thầy hiệu trưởng và thầy chủ nhiệm khoa thì thầm
với nhau một lúc và cuối cùng thầy hiệu trưởng đứng
lên phát biểu:
- Tôi và thầy chủ nhiệm khoa đã hội ý và cùng
nhất trí chấp nhận tiến sĩ Tâm về trường công tác nếu
anh ấy chịu ở lại.
41
Tôi đẩy Tâm đứng lên, bắt nói quyết định của
chính mình ngay trước đề nghị của mọi người. Như
người mộng du, Tâm nói lạc giọng như không phải
bằng tiếng nói của mình:
- Cảm ơn mọi người... Tôi ... xin ở lại.
Không khí trong phòng như đang bị nén chặt
bỗng vỡ òa ra. Mọi người vỗ tay hoan nghênh quyết
định của một con người đến từ quá khứ.
Đúng 7 giờ tối ngày 9 tháng 1, tôi thuê taxi đến
vườn Tao Đàn tìm đến chỗ đậu của con tàu vũ trụ. Vì
tàu ở chế độ tàng hình, Uri như từ khoảng không
bước ra đón tôi.
- Chỉ một mình Kim về sao?
- Vâng. Tâm quyết định ở lại giống như trường
hợp Nhã Uyên đã ở lại thời quá khứ.
- Nạp dữ liệu vào máy sao đây?
- Đích đến vẫn là đây nhưng thời gian đến là sáng
sớm ngày 8 tháng 1 năm 2015.
Do Tâm ở lại, tôi chỉ mang về hai máy truyền tin,
một cho tôi và một cho Nhã Uyên. Khi về đến nhà,
tôi hỏi vợ tôi các tấm hình chụp từ máy tính bảng đã
rửa đem bọc lại cẩn thận cùng với một máy truyền tin
và sáng mai nhờ Uri chở vợ tôi về quá khứ chọn lúc
đến là sáng mồng 8 tháng 1 năm 1285 tìm cách trao
cho Nhã Uyên. Tôi còn dặn:
- Để dễ tìm và không bị gây khó dễ, em nên chọn
bộ áo dài nhung màu mận chín có khoác áo len và
quần trắng giống như Nhã Uyên đã mặc hôm trước
và khi gặp cô ấy, nhớ dặn chỉ được mở quà vào ngày
hôm sau. Quà gồm các bức ảnh Quang Tâm đã chụp
và chiếc máy truyền tin này.
Vợ tôi hỏi lại:
42
- Em còn trông con, sao anh không đi, lại bảo
em?
- Anh không tiện trở lại. Anh ở nhà trông bé cho
em. Uri sẽ vượt thời gian quay trở về ngay đúng vào
giờ này hôm nay để con bé chưa kịp khát sữa.
Rồi mọi sự việc diễn ra đúng như các bạn đã thấy.
Có thể nói ngày mồng 9 tháng 1 năm 2015 là
ngày chờ đợi và hồi hộp nhất của ba chúng tôi: một
người ở thì hiện tại là tôi, một người ở thì quá khứ là
Nhã Uyên và một người ở thì tương lai là Quang
Tâm. Chúng tôi có máy vào chiều mồng 7, Nhã Uyên
nhận máy vào sáng mồng 8. Vậy sáng mồng 9, ba
chúng tôi có thể gọi điện thoại cho nhau được rồi.
Trước khi bước lên taxi từ biệt Quang Tâm, hắn vội
vàng báo cho tôi biết mã số để bấm máy gọi nhau.
Mã số của Nhã Uyên là NUTLDV (chữ đầu của Nhã
Uyên Thăng Long Đại Việt. Từ đó suy ra, mã số máy
của tôi là HKSGVN, của Quang Tâm là QTSGDV.
Chả là đến năm 2100, thành phố Hồ Chí Minh được
lấy lại tên cũ là Sài Gòn, Việt Nam lấy lại tên cũ là
Đại Việt. Chính tôi là người hồi hộp bấm máy trước
gọi cho Quang Tâm với mã số QTSGDV. Mãi một
lúc khoảng năm giây, Quang Tâm mới bắt máy và
hỏi:
- Tôi là Quang Tâm đây, ai gọi đấy?
Tôi đáp như reo:
- Còn ai vào đây nữa. Ôi, ôi, thành công rồi, thành
công rồi.
Quang Tâm trả lời trong không khí ồn ào náo
nhiệt của đám đông:
- Chúng mình đang họp tổ bộ môn. Cả tổ đang
lắng nghe bạn nói đây. Ai cũng vui mừng, nhất là
43
Thúy Quỳnh và Thúy Loan. Chắc chắn Thúy Quỳnh
và Thúy Loan mỗi người cũng sẽ có một chiếc máy
truyền tin với mã số quy định.
Tôi phấn khởi nói tiếp:
- Bây giờ mình bấm máy gọi đến Nhã Uyên. Lúc
này ba người giữ máy cùng nói chuyện với nhau
được chứ?
- Đương nhiên, mình đã thiết kế cho máy có chức
năng ấy.
Đồng thời, tôi cũng nghe một giọng nữ đang ngạc
nhiên hỏi:
- Ai gọi Nhã Uyên đấy?
Ngẫu nhiên cùng một lúc, tôi và Quang Tâm cùng
đáp rành rọt từng tiếng một:
- Chúng-thần-đang-gọi-đến-lệnh-bà-Nhã-Uyên-
dương-phi-đây!
Thế là các máy đều cùng lúc phát lên tiếng cười
rộn rã.
Quang Tâm nhắc mọi người:
- Theo như hướng dẫn sử dụng của tác giả, máy
truyền tin này có công dụng giống như điện thoại di
động, có hiện hình ảnh người đối thoại cộng với máy
tính bảng, chỉ khác là xuyên thời gian.
Tôi tò mò:
- Hiện tại Nhã Uyên đang làm gì đấy?
- Đang ăn sáng món xúp yến cùng với hờ ..ắ..ắn..
à với đức lang quân.
Quang Tâm giễu:
- Chúc lệnh bà ăn khỏe chóng lớn... và phát triển
mạnh kích thước 3D.
- Đồ quỷ!
Ở thì hiện tại và thì tương lai, hai vợ chồng tôi và
44
Quang Tâm cùng nghe một giọng nam ngỡ ngàng:
- Em đang nói nhảm với ma đấy à?
- Không phải ma đâu anh! Đây anh nhìn xem. Có
phải ba người này đã đến hoàng cung hôm trước là gì
– Nhã Uyên vừa nói vừa chỉ vào hình Quang Tâm và
vợ chồng tôi.
Vì không ai chuẩn bị sẵn để nói với nhau nhiều
hơn, vả lại Quang Tâm đang họp nên tôi có ý kiến:
- Quang Tâm đang bận. Chúng ta dừng lại ở đây
nhé! Chào tạm biệt. Hẹn gặp lại.
Từ ngày trang bị được máy truyền tin xuyên thời
gian, chúng tôi đã thường xuyên trao đổi cho nhau
những văn bản viết dưới dạng nhật ký, những ảnh
chụp được, những bản nhạc và điệu múa cung đình
do Nhã Uyên mới sáng tác. Thỉnh thoảng lại tổ chức
chuyện trò tay ba hay nhiều người hơn.
Sau đây là những đoạn nhật ký của Nhã Uyên viết
và phát về cho chúng tôi.
* Ngày mồng 3 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên
hiệu Thiệu Bảo thứ 6. Trong ngày hôn lễ thứ hai,
theo lời dặn của anh Kim, NU cùng với anh V mở gói
quà do anh K gửi. Ôi, thú vị và bất ngờ làm sao, toàn
bộ ảnh chụp đã được gửi về. Số ảnh in ra đủ để tặng
cho mỗi người một tấm từ người cao nhất là thái
thượng hoàng cho đến thấp nhất là các lính hầu bữa
tiệc hôm ấy. Tôi nhờ anh V tìm đến trao hình cho thái
thượng hoàng, hoàng thái hậu, hoàng thượng, hoàng
hậu, vợ chồng quan Tiết chế, quan thượng thư bộ
Hình, còn tôi đem phát cho đội nhạc công, các cung
nữ và các lính hầu. Ai nấy khi nhận được ảnh có mặt
mình trong đó đều vui mừng và coi như đã được một
món quà quý.
45
* Ngày mồng 4 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên
hiệu Thiệu Bảo thứ 6. Đang ăn sáng bỗng máy truyền
tin xuyên thời gian réo gọi. Tôi bật máy thì bắt gặp
hình ảnh vợ chồng anh K, anh T cùng nhiều người
hiện lên và trò chuyện cười nói rôm rả. Anh T chẳng
nghiêm chỉnh chút nào, cứ toàn trêu chọc đức bà
dương phi. Anh V không hiểu chuyện gì cho là mình
đang nói chuyện với ma. Phải chỉ cho anh ấy ảnh của
vợ chồng anh K và T vừa ở cách đây mấy hôm, anh
ấy mới hết sợ hãi.
* Ngày mồng 5 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên
hiệu Thiệu Bảo thứ 6. Hôm nay, hoàng thượng ký sắc
lệnh phong cho NU chức Lễ nghi học sĩ, chủ yếu đào
tạo vũ công và dạy nhạc cho ca sĩ và nhạc công ký
âm theo lối mới.
* Ngày mồng 6 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên
hiệu Thiệu Bảo thứ 6. Quan thượng thư bộ Hình HT
mời vợ chồng NU đến sảnh đường Quốc tử giám để
trò chuyện. Ông ấy chìa tờ giấy của anh K đã chuẩn
bị nội dung lời phát biểu tại bữa tiệc hoàng thượng
chiêu đãi. Ông hỏi rất nhiều việc học hành của sĩ phu
thời hiện đại và cuối cùng tôi nhận dạy cho ông ấy
học chữ quốc ngữ. Anh V bảo nhân thể cùng dạy cho
anh ấy luôn. Tôi tỏ vẻ phân vân vì không tìm đâu ra
bút để viết chữ. Đành dùng than viết lên bức tường
sơn trắng. Sau buổi học, bàn tay thầy trò đều lấm
lem, lính hầu phải đem chậu nước và khăn lau cho
quan thượng thư, hoàng thân và dương phi rửa.
Ngược lại tôi muốn nhờ HT dạy chữ Nôm, ông ấy
bảo hãy nhờ Tá Thiên vương dạy cho. Chắc chắn có
bút lông và giấy bản, không bị nhọ nhem như khi học
chữ quốc ngữ đâu. Ba chúng tôi cùng cười.
46
* Ngày mồng 8 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên
hiệu Thiệu Bảo thứ 6. NU không ngờ học chữ Nôm
khó thế. Đầu tiên phải học chữ Nho đã, sau đó mới
học chữ Nôm. Kiểu chữ thật khó nhớ. Chữ Nho, chữ
Nôm nếu không biết mặt chữ thì chịu không thể biết
nghĩa và đọc được. Viết chữ bằng bút lông còn khó
hơn. Học chữ quốc ngữ mấy hôm, ông HT và anh V
đều phát biểu kiểu chữ ngoằn ngoèo nhưng dễ viết,
dễ học. Tôi nói chỉ cần nửa tháng mọi người có thể
đọc rành chữ quốc ngữ.
Trong ba đứa chúng tôi, Nhã Uyên là nữ vốn
chăm viết nhật ký ngay khi còn sống ở thì hiện tại.
Nay đến ở thì quá khứ, tuy sống đầy đủ trong cảnh
nhung lụa giàu sang của hoàng cung, nhưng Nhã
Uyên than vẫn cứ cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn và
càng chăm viết nhật ký hơn. Tuy nhiên, không phải
trang nhật ký nào cô cũng gửi cho chúng tôi xem.
Trong lần trò chuyện tiếp theo, chúng tôi đề nghị
Nhã Uyên dùng máy truyền tin chụp ảnh sinh hoạt
trong hoàng cung kể cả những lúc cả triều đình lánh
giặc gửi về cho chúng tôi làm tư liệu. Gửi cả video và
nhạc cung đình. Ngược lại, chúng tôi lên mạng, đọc
thông tin của thời hiện đại (như trong năm 2015 hoặc
năm 2100) và nhờ đó, Nhã Uyên cũng đọc được như
chúng tôi dẫu rằng thời quá khứ, thế giới chưa có
mạng.
Nhã Uyên tiếp tục viết nhật ký và gửi cho chúng
tôi xem.
* Ngày 30 tháng Chạp năm Giáp Thân, niên hiệu
Thiệu Bảo thứ 6. Thái thượng hoàng tổ chức hội nghị
các bô lão được triệu tập cả tháng nay từ địa phương
xa xôi nhất cùng về dự trước sân điện Diên Hồng. Từ
47
những cụ còn khỏe đi lại vững vàng, các cụ yếu phải
chống gậy và có người dìu cho đến những cụ quá yếu
phải nằm võng do hai người khiêng, ai cũng hăm hở
về kinh đô dự hội nghị có một không hai trên đời.
Các cụ được thái thượng hoàng chiêu đãi yến và báo
cho các cụ biết giặc Nguyên đang chuẩn bị gấp rút
sang xâm lược nước Đại Việt ta lần nữa. Giặc đang ở
thế mạnh, còn ta luôn luôn ở thế yếu, thái thượng
hoàng chất vấn các cụ hãy thay mặt toàn dân trả lời
cho biết ta nên hòa hay nên chiến. Đồng tâm như
một, tất cả đều trả lời “Quyết chiến” dẫu có “Hy
sinh” cũng không nề. Qua các cụ già, dân Đại Việt
một lần nữa tỏ rõ ý chí quyết tâm chống giặc ngoại
xâm.
* Những ngày cuối tháng Chạp năm Giáp Thân.
Tình hình nước sôi lửa bỏng. Sau 27 năm kể từ cuộc
xâm lược lần thứ nhất, hoàng đế nhà Nguyên mở
cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai.
Quân ta liên tục bị đánh bại ở các mặt trận Lạng
Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật, sông Đuống. Chỉ
20 ngày sau khi vượt biên giới, quân Nguyên đã
chiếm được Thăng Long. Gia đình Nhã Uyên cùng
với triều đình đành rút lui theo sông Hồng về Thiên
Trường rồi Trường Yên. Mọi nỗ lực phản kích của
các đội quân ta dọc theo sông Hồng đều bị quân
Nguyên đánh bại. Từ phía Nam, Toa Đô dẫn quân từ
Chiêm Thành ra dễ dàng đánh tan quân Đại Việt tại
vùng Nghệ An – Thanh Hóa, bộ sậu triều đình lại
phải rút ra biển lên vùng Quảng Ninh, đợi đến khi
cánh quân Nguyên phía Nam đi qua Thanh Hóa mới
lui về Thanh Hóa. Cuộc di tản tuy vất vả nhưng triều
đình không một ai bị thương vong.
48
* Những ngày đầu năm Ất Dậu, niên hiệu Thiệu
Bảo thứ 6. Coi như năm nay từ vua quan cho đến
thần dân đều không ăn Tết mà lo đánh giặc. Cũng
như cuộc kháng chiến lần trước, triều đình hô hào
dân chúng lánh giặc, giặc đến đâu vườn không nhà
trống đến đấy. Quân Nguyên lại gặp khó khăn về
lương thực, trở nên mệt mỏi, giảm sút nhuệ khí.
Khoảng gần hai tháng sau khi rút về Thanh Hóa,
quân Đại Việt bắt đầu phản công. Dọc theo sông
Hồng ta lần lượt giành thắng lợi tại cửa Hàm Tử, bến
Chương Dương, sau đó giải phóng Thăng Long.
Cánh quân phía Bắc của quân Nguyên trên đường
rút chạy đã bị tập kích tại sông Cầu, Vạn Kiếp, Vĩnh
Bình. Cánh quân rút về Vân Nam bị tập kích tại Phù
Ninh. Cánh quân phía Nam bị tiêu diệt hoàn toàn tại
Tây kết. Thế là cuộc chiến bắt đầu từ cuối tháng
Chạp năm Giáp Thân đến cuối tháng Tư năm Ất Dậu
là kết thúc, kéo dài khoảng 4 tháng.
* Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần
này, tấm gương chống giặc của tuổi thiếu niên như
Trần Quốc Toản thì ai cũng biết và được lịch sử ghi
lại chi tiết. Có một chuyện thông minh giết giặc của
một em bé thường dân khi quân Nguyên đã chiếm
Thăng Long. Trời lạnh, ở một căn nhà nọ bị bỏ
hoang (do chính sách vườn không nhà trống được
người dân áp dụng triệt để) hai tên lính nhà Nguyên
tìm thấy một chiếc hòm lớn bỏ trống bèn rủ nhau mở
nắp chui vào bên trong nằm chuyện trò và hút thuốc
phiện cho ấm. Một em bé của nhà này lẻn về ngửi
thấy mùi thuốc phiện và nghe tiếng rì rầm bên trong
hòm, ghé mắt qua khe trống nhận thấy có hai tên lính
đang nằm hút. Bé tìm ngay một ổ khóa khóa ngay
49
nắp hòm lại rồi xuống bếp bắc một nồi nước lớn đun
cho sôi. Ở nhà trên hai tên phát hiện mình bị nhốt,
réo om sòm và lấy kiếm chọc lên nhằm phá nắp. Em
bé vội bắc ghế và múc từng gáo nước sôi nhè vào các
khe kiếm chọc rót xuống. Bé cần mẫn giội từng gáo
nước sôi cho đến khi tiếng hét của hai tên lính biến
thành tiếng rên và cuối cùng im bặt. Đến lúc đó, bé
nhanh chân lẻn ra ngoài, rời khỏi căn nhà mình biến
đi trong đêm.
* Lại nói vể Trần Quốc Toản. Theo như lịch sử
mà chúng mình đã học, trong cuộc kháng chiến lần 2
này, Trần Quốc Toản cầm quân đánh thắng liên tiếp
mấy trận, sau đó thì bị giết vào ngày 2 tháng Hai âm
lịch tại sông Như Nguyệt trong năm 1285[2]. Tuy
nhiên không phải như vậy. Trần Quốc Toản là con
Trần Nhật Duy, gọi vua Trần Thái Tông là ông nội.
Sau chiến thắng Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1258,
vua Trần Thánh Tông cử Trần Nhật Duy và vợ Trần
Ý Ninh cùng một số tướng lĩnh sang giúp nhà Tống,
vì nghĩ rằng nếu Nguyên Mông tiêu diệt được nhà
[2] Về cái chết của Trần Quốc Toản, theo chính sử Việt Nam ghi lại
thì ông mất năm 1285 nhưng không nói rõ ông mất ở đâu, trong trận
nào. Riêng các quyển sử của nhà Nguyên viết rằng ông chết trong
trận đánh ở sông Như Nguyệt. Nhưng theo gia phả của hậu duệ Trần
Ích Tắc (chú Trần Quốc Toản) để lại thì Trần Quốc Toản cùng vợ trở
về Trung Quốc khởi binh khôi phục triều Tống. Riêng gia phả của
hậu duệ Trần Quốc Toản mang tên "Viêm phương Trần tộc Lưu phả"
và mộ chí ở Trung Quốc vừa tìm thấy được có nói về người vợ Tống
của ông là vị công chúa cuối đời Tống tên Triệu Ngọc Hoa. Trong gia
phả và mộ chí này có nói rằng Trần Quốc Toản sống rất thọ và mất ở
Tống chứ không phải chết trong trận đánh với quân Nguyên năm
1285 như chúng ta đã biết.
Đinh Ngọc Thu
(www.hungsuviet.us/lichsu/BianTranQuocToan.html)
50
Tống thì sẽ đánh Đại Việt lần nữa. Trần Quốc Toản
được mẹ sinh ra ở đất Tống vào năm 1267 nên có
nhiều bạn bè là con cháu trong hoàng tộc nhà Tống.
Năm 1279, sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt
hoàn toàn, một số người Tống kéo sang Đại Việt lánh
nạn và giúp nhà Trần đánh giặc Nguyên, trong đó có
hoàng tử Tống là Triệu Trung chiến đấu dưới sự chỉ
huy của tướng Trần Nhật Duật. Em của Triệu Trung
là công chúa Triệu Ngọc Hoa cùng chiến đấu trong
đội quân này. Sau đó Trần Quốc Toản và Triệu Ngọc
Hoa cảm mến, yêu thương nhau và trở thành vợ
chồng. Sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
lần này, Trần Quốc Toản không chết mà cùng vợ trở
về Trung quốc khởi binh khôi phục triều Tống.
Gần một năm sau, Nhã Uyên báo tin mình sắp
sinh. Cho đến giờ phút cuối, vẫn mù tịt không làm
thế nào để biết mình con mình sẽ là trai hay gái.
Mấy tháng sau, Nhã Uyên gửi cho chúng bức ảnh
chụp cô nàng đang bế thằng bé trai đầy tháng khá bụ
bẫm và dễ thương. Hai vợ chồng đặt tên cho bé là
Trần Đức Kha, dự định sẽ dạy cháu biết chữ Nôm và
cả chữ quốc ngữ khi cháu tròn 5 tuổi.
Nhã Uyên báo cho chúng tôi biết thông qua giao
tiếp với chúng tôi, cô nàng đã lên mạng, tải về được
bài hát “Hội nghị Diên Hồng” do Lưu Hữu Phước
sáng tác cách thời hiện tại của chúng tôi hơn nửa thế
kỷ. Cô đã ký âm lại, truyền dạy cho đội đồng ca hoàng
cung cùng tấu trên nền nhạc đệm bằng nhạc cụ dân
tộc của đội nhạc. Buổi trình diễn trước vua quan văn
võ triều đình đã gây xúc động cao độ cho khán thính
giả. Cô còn xin phép hoàng thượng cho đội nhạc trình
51
diễn hòa tấu “Hội nghị Diên Hồng” mấy buổi trên
sân khấu ngoài trời cho dân chúng kinh đô cùng
thưởng thức.
Hai năm sau, Nhã Uyên lại ghi nhật ký mô tả
cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên.
* Những ngày tháng 11 năm Đinh Hợi, niên hiệu
Trùng Hưng thứ 2. Lần thứ ba, toàn dân Đại Việt lại
khẩn trưởng chuẩn bị cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên từ biên giới phía Bắc. Lại thêm một lần nữa
toàn dân Đại Việt phải hoãn ăn Tết để lo chống giặc.
Từ cuối tháng Chạp năm Đinh Hợi, quân Nguyên
chia làm ba cánh đánh vào Đại Việt từ Vân Nam, từ
Quảng Tây và từ Quảng Đông theo đường biển.
Quân địch mau chóng đánh tan quân ta cả trên bộ
lẫn trên biển. Nhưng chúng lại chịu một tổn thất
quan trọng, đó là lương thực chuyên chở bằng tàu
biển bị mất hết phần vì đi lạc, phần vì bị bão biển,
phần do các đơn vị của Trần Khánh Dư tấn công ở
Vân Đồn. Quân Nguyên tập trung ở Vạn Kiếp và
đánh rộng ra xung quanh, chiếm được Thăng Long,
nhưng lại bị đói giống như hai lần trước.
Khác với hai lần trước, lần này quân Đại Việt
không huy động lực lượng lớn chặn đánh quân
Nguyên từ đầu mà chỉ đánh có tính kìm chân. Bộ chỉ
huy và phần lớn lực lượng Đại Việt rút về vùng Đồ
Sơn, Hải Phòng, từ đó tổ chức các cuộc tấn công vào
căn cứ Vạn Kiếp và đánh thủy quân Nguyên. Vì đói
và có nguy cơ bị đối phương chia cắt, quân Nguyên
một lần nữa bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp rồi chủ
động rút lui dù quân ta chưa phản công lớn. Cánh
thủy quân Nguyên đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại bãi
cọc của sông Bạch Đằng khi định rút ra biển. Còn
52
cánh lục quân Nguyên khi đi qua Bắc Giang và Lạng
Sơn đã bị quân ta tấn công dữ dội. Thế là cuộc kháng
chiến lần thứ ba này chấm dứt sau khoảng gần bốn
tháng tính từ cuối tháng Mười một năm Đinh Hợi cho
đến cuối tháng Ba năm Mậu Tý.
Vào năm 2029, Nhã Uyên báo một tin buồn là bé
Kha bấy giờ đã được 15 tuổi vào năm Trần Anh Tông
làm vua được 7 năm, lìa đời do bệnh tiêu chảy cấp,
ngự y không cứu kịp.
Đến năm 2036, Nhã Uyên bỗng lại báo tin buồn
là chồng mình bị bạo bệnh đã qua đời đúng theo như
lịch sử đã ghi. Trần Đức Việp chỉ hưởng dương 41
tuổi, chết trước vua Trần Nhân Tông (lúc này đã đi
tu) 2 năm. Năm sau, Nhã Uyên sinh đứa con trai thứ
2 đặt tên là Trần Đức Nhã. Vợ chồng chúng tôi năm
đó tức là năm 2037 cũng sinh thêm đứa con gái thứ
hai đặt tên là Kim Lan.
Còn Quang Tâm ở thì tương lai phải học lại
chương trình của đại học kỹ thuật đương đại đồng
thời học thêm quốc tế ngữ Esperanto. Hắn phát biểu
đó là loại ngôn ngữ nhân tạo mang tính khoa học cao,
dễ học, dễ nói và dễ nhớ. Sau đó mấy tháng, Quang
Tâm cưới vợ. Vợ hắn chính là cô giáo Nguyễn Thúy
Loan. Nói về tuổi sinh lý, Quang Tâm giống như tôi
hơn vợ 4 tuổi. Như vậy, Thúy Loan sinh năm 2070
do đó theo giấy khai sinh, Quang Tâm già hơn vợ đến
90 tuổi. Trong thời đại mới, luật dân sự cấm nam nữ
kết hôn chênh nhau 10 tuổi. Việc làm giấy chứng
nhận hôn thú thời bấy giờ hoàn toàn tự động. Bởi
vậy, cặp vợ chồng này không thể nào làm giấy hôn
thú được, cứ mỗi lần nạp dữ liệu là máy báo sai và từ
chối cấp giấy chứng hôn thú. Quang Tâm buộc lòng
53
phải khai báo mất giấy căn cước, nhập lại năm sinh là
2066.
Mấy tháng sau nữa, Quang Tâm cũng báo cho
chúng tôi biết Thúy Loan có mang. Ở thời tương lai,
việc xác định con trai hay con gái khá dễ dàng. Ra
hiệu thuốc mua một que thăm về tự mình khám thai
là biết ngay mình đang mang bầu con trai hay con
gái.
Tại năm 2100, qua chuyển tiếp thông tin bản đồ
trên mạng, ở thì hiện tại, cũng cũng thấy rõ tình trạng
nước biển dâng. Và dọc theo bờ biển nước ta, tôi nhìn
thấy rõ những con đê được khẩn trương xây dựng từ
mấy năm trước, chạy dài ven biển, cao trên hai mét
để ngăn nước biển tràn vào.
Tôi hỏi Quang Tâm về tình hình thế giới thế nào,
hắn bảo tuy vẫn còn chiến tranh đây đó, nhưng ở một
số nước trong đó có nước ta đã có chuyển biến tích
cực về thể chế chính trị đem lại đời sống hạnh phúc
thực sự cho người dân. Thực hiện lời dặn của tiền
nhân “Nhân tài là nguyên khí của đất nước”, nhà
nước coi trọng thực lòng tầng lớp trí thức. Nhờ đó mà
nền kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển rất mạnh.
Nước ta bấy giờ sống dễ thở hơn nhiều. Các tầng lớp
cùng khổ nhất thời hiện tại của chúng tôi là nông dân
và công nhân đã có đời sống vật chất và tinh thần
kháđầy đủ, trình độ học vấn khá cao. Do sức ép của
quốc tế, những nước đang tàng trữ vũ khí hạt nhân
buộc phải giải trừ hết, những nước có thuộc địa buộc
phải trao trả độc lập cho nhiều nước, một số đảo bị
chiếm đoạt ở Thái Bình dương đã được trả lại cho cố
quốc.
Nước ta đã lấy lại tên nước là Đại Việt và thủ đô
54
cũng lấy lại tên cũ là Thăng Long. Còn thành phố Hồ
Chí Minh lấy lại tên cũ là Sài Gòn. Riêng các trường
Bách khoa Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh có
ý kiến đề nghị nhập làm một, có ban giám đốc điều
hành chung, dưới đó là hiệu trưởng các cơ sở: 1 ở
Thăng Long, 2 ở Đà Nẵng và 3 ở Sài Gòn, giảng viên
dùng chung, và các khoa các bộ môn có một hoạt
động sinh hoạt học thuật thống nhất. Nhờ đó, sức
mạnh chất lượng giảng dạy và học tập của sinh viên
được nâng cao rất nhiều. Chắc chắn trường Bách
Khoa sẽ nằm trong nhóm 10 trường đại học có chất
lượng hàng đầu trên thế giới.
Về hoạt động chuyên môn, Quang Tâm nói riêng
với tôi là đang dự định thiết kế một chiếc máy xuyên
thời gian. Chiếc máy thành công vừa rồi là chiếc máy
truyền thông tin xuyên thời gian, bây giờ hắn lý luận
cũng trên nguyên lý đó, thay thông tin bằng con
người là làm ra được chiếc máy ấy. Nó phải có dạng
một con tàu vũ trụ nhưng bay không cần nhanh cho
lắm, mang được con người xuyên thời gian như
chúng tôi đã từng nhờ anh bạn người ngoài hành tinh.
Người ngoài hành tinh đã làm được, chắc chắn chúng
ta cũng sẽ làm được.
Quang Tâm đã âm thầm nghiên cứu và chế tạo cỗ
máy xuyên thời gian ấy mà không hề trao đổi cho tôi
biết. Đến lúc chúng tôi vừa tròn 70, hắn cùng với vợ
đột ngột đến nhà tôi, chúng tôi mới ngã ngửa vì bất
ngờ. Tôi nghi rằng đã có lúc nào đó, Quang Tâm hỏi
Uri nguyên lý thiết kế chế tạo cỗ máy xuyên thời gian
nên hắn nhanh chóng đạt thành công đến như vậy.
Sau đó hắn rủ vợ chồng chúng tôi cùng trở về quá
khứ thăm Nhã Uyên vào năm 1321. Lúc đó, Trần
55
Minh Tông đã lên ngôi được 7 năm. Khi vào trình
diện vua, người buồn bã không nói gì, sai một viên
thái giám vào trong dẫn ra một chàng thiếu niên khôi
ngô tuấn tú, đầu đang quấn khăn tang trắng, giới
thiệu là con trai thứ 2 đã được 15 tuổi của dương phi
Nhã Uyên. Chúng tôi tự giới thiệu là bạn của mẹ nó.
Thằng con cũng im lặng không nói gì, mời chúng tôi
đi theo hắn ra nghĩa địa chung của hoàng gia và đưa
đến trước một ngôi mộ có bia khắc chìm dòng chữ
Nôm “Niên hiệu Đại Khánh thứ 8. Mộ chí của Nhã
Uyên dương phi, thọ 55 tuổi”, bên cạnh hai ngôi mộ
khác cũng khắc chìm dòng chữ Nôm “Niên hiệu
Hưng Long thứ 7. Mộ chí của thân vương Trần Đức
Kha, hưởng dương 15 tuổi” và “Niên hiệu Hưng
Long thứ 14. Mộ chí của Tá Thiên vương Trần Đức
Việp, hưởng dương 41 tuổi”. Thời bấy giờ, sống đến
55 tuổi như Nhã Uyên cũng được xem là thọ rồi. Thật
ra đấy là tuổi khai gian, còn tuổi thật của Nhã Uyên
là 61. Chúng tôi cùng thằng con đứng mặc niệm một
lúc, lấy máy tính bảng chụp ảnh ba ngôi mộ rồi trở về
dinh. Vừa đi, thằng bé vừa nói mẹ nó bị sưng đau hai
bầu vú, nhức nhối kéo dài mấy tháng sau đó thì mất.
Hắn hỏi chúng tôi hai bác có phải tên là Kim và Tâm
không, chúng tôi gật đầu. Về nhà, hắn vào trong lấy
ra chiếc túi vải gấm bọc chiếc máy truyền tin xuyên
thời gian mẹ hắn bảo trước khi mất nếu có người thời
tương lai đến xưng tên là Kim hay Tâm thì giao lại.
Khi chào từ biệt vua Trần Minh Tông, Quang Tâm
bỗng nêu sáng kiến xin phép đưa cháu bé con Nhã
Uyên về làm con nuôi. Vua quay sang hỏi ý kiến
thằng bé, nó lắc đầu. Tôi hỏi cháu có muốn giữ lại kỷ
vật của mẹ cháu không, nó gật đầu.
56
Thằng bé đưa tiễn chúng tôi ra đến con tàu xuyên
thời gian, vợ tôi bịn rịn đến ôm nó trong giây lát, mắt
ai cũng rơm rớm như muốn khóc, sau đó chúng tôi
chào tạm biệt nó và lên tàu trở về. Khi về đến nhà, vợ
tôi bảo:
- Em ôm thằng bé mà cứ tưởng như mình như
đang ôm chị Nhã Uyên hồi nào. Giá như chị ấy về lại
sống ở thời đại chúng ta, với bệnh ung thư vú, chắc
chắn chị không thể chết oan uổng như thế.
Về sau, tôi và Quang Tâm mấy lần có bấm mã số
máy truyền tin xuyên thời gian của Nhã Uyên nhưng
không ai bắt máy.
Sau đó một tháng, đang trò chuyện xuyên thời
gian với Quang Tâm, tôi bỗng nảy ra sáng kiến:
- Cậu đang có máy xuyên thời gian, chẳng lẽ
chúng ta đầu hàng số phận sao mà không đến cứu
Nhã Uyên?
Quang Tâm chợt bừng tỉnh:
- Ừa, phải đấy.
Thế là vợ chồng Quang Tâm bỏ công việc, xuất
hiện tức khắc tại nhà tôi. Sau đó họ cùng với vợ
chồng tôi ngược thời gian trở về quá khứ sâu hơn lần
trước hai năm. Lúc đó Trần Anh Tông làm vua được
6 năm. Khi trình diện vua và xin gặp dương phi Nhã
Uyên, người sai thái giám dẫn chúng tôi vào trong,
đến tận phòng ở của Nhã Uyên. Nhã Uyên đang nằm
trên giường vật vã đau đớn ôm hai bầu vú, bên thằng
con trai 13 tuổi tên là Trần Đức Nhã đang ôm mẹ khóc
rấm rứt, vừa khóc vừa gào:
- Mẹ ơi, mẹ đừng chết. Mẹ ơi, đừng bỏ con. Mẹ
đi rồi con ở với ai?
Nhìn thấy cảnh xót xa ấy, bốn chúng tôi không ai
57
cầm lòng cũng khóc theo. Vợ tôi gỡ tay thằng bé ra,
ôm lấy vai Nhã Uyên dìu đứng lên. Tôi biết Nhã
Uyên đang bị ung thư vú. Quang Tâm nói với Nhã
Uyên:
- Chúng mình đến đưa Nhã Uyên về tương lai để
chữa bệnh. Bệnh ung thư vú thời kỳ cuối này ở đây
không chữa được. Phải đi nhanh lên kẻo muộn.
Chúng tôi dìu Nhã Uyên ra ngoài cùng rập đầu
xin vua ban cho đặc ân chở Nhã Uyên trở về tương
lai chữa bệnh. Với bệnh tình này, dương phi nếu còn
ở đây sẽ không thể nào qua khỏi. Thằng bé cũng khóc
lóc rập đầu xin vua tha cho mẹ nó tội bất nghĩa, hứa
chữa khỏi bệnh sẽ quay về hoàng cung. Vua cũng tỏ
ra xót xa cảm động không kém, suy nghĩ trong giây
lát cuối cùng gật đầu, truyền thái giám đưa dương phi
lên kiệu đi chữa bệnh. Nhã Uyên được ngồi kiệu, bốn
lính hầu khiêng ra đến chỗ tàu đậu. Thái giám bế thốc
dương phi đưa lên tàu. Sau đó, hai mẹ con Nhã Uyên
cùng chúng tôi chào tạm biệt mọi người đưa tiễn và
cho tàu bốc lên cao, lái thẳng về tương lai năm 2136.
Sở dĩ chúng tôi không đưa về thì hiện tại vì bệnh Nhã
Uyên quá nặng rồi, bệnh viện thời hiện tại chịu bó tay
với ung thư thời kỳ cuối. Với kỹ thuật y học hiện đại
của thế kỷ 22, bệnh của Nhã Uyên chắc chắn chữa
được. Nằm ở bệnh viện cấp cứu mấy hôm, Nhã Uyên
hồi phục nhanh chóng và hoàn toàn khỏi bệnh. Quay
về thì tương lai, Nhã Uyên được tính trẻ hơn chúng
tôi 2 tuổi.
Sau khi cứu sống được Nhã Uyên, bỗng nhiên tôi
liên tưởng đến Huyền Trân công chúa. Hai số phận
của hai con người có gì đó na ná giống nhau. Cùng về
làm dâu cho một triều đại, sau khi Chế Mân chết, nếu
58
Trần Khắc Chung không kịp đến cứu thì Huyền Trân
đã không thoát khỏi giàn thiêu. Còn với Nhã Uyên
nếu chúng tôi không đến kịp đưa về tương lai chữa
bệnh thì cô nàng cũng đã trở thành người thiên cổ rồi.
Bấy giờ, vợ chồng Quang Tâm thuyết phục Nhã
Uyên đừng về nữa. Thằng bé khóc bảo con đã hứa
với hoàng thượng là chúng ta sẽ trở về, nếu không
thực hiện lời hứa là bất trung. Nghe nó nói, chúng tôi
ai cũng cảm động. Quang Tâm phải nói dối:
- Do bay quá nhanh vượt qua 828 năm để kịp đưa
mẹ cháu đi chữa bệnh nên máy bay đang trục trặc,
bác chữa mãi vẫn chưa xong. Hai mẹ con tạm ở lại
một thời gian vậy, rồi bác sẽ đưa trở về.
Sống ở thì tương lai trong một xã hội văn minh
với phương tiện hiện đại: đêm có đèn điện sáng
choang soi tỏ trong nhà ngoài ngõ, ngày nóng có máy
lạnh, ngày rét có lò sưởi, đi lại thì có ô tô, máy bay
không nhọc nhằn mà nhanh chóng, ăn toàn những
món ngon vật lạ như kem, sô cô la, lúc nào cũng có
máy tính và máy tính bảng để lên mạng chơi trò chơi
và chụp ảnh. Đối với một đứa bé thời cổ lỗ không
khác những cậu bé nhà quê nghèo khó ngày xưa,
được sống như thế, thằng bé mê mẩn quên cả nhớ
nhà. Quang Tâm tạm gửi nó đến trường học và mua
sắm cho nó nhiều đồ chơi hiện đại có thể sai khiến
được như ô tô điện chạy trên mặt đất, thuyền điện
chạy trên nước và máy bay bay lòng vòng trên trời.
Càng ngày, thằng bé càng thấy thích thú được sống
trong hoàn cảnh mới này.
Một hôm, Quang Tâm đến thăm hai mẹ con và ôn
tồn nói với thằng bé:
- Cháu hiểu không, bây giờ là năm 2134. Cháu
59
hứa với hoàng thượng lúc đó là vào năm 1321. Do
tàu của bác bay nhanh trong chớp mắt mà nó kịp đưa
mẹ cháu đến đây để chữa bệnh. Như thế là chúng ta
đã bay qua hơn 813 năm. Qua 813 năm, đức vua làm
sao còn sống đến ngày nay để trách phạt hai mẹ con
không giữ lời hứa trở về.
Nhã Uyên không nói gì, chỉ nháy mắt với thằng
bé. Mới 13 tuổi chưa kịp hiểu cách nói bí hiểm của
người lớn, thằng bé đành chịu thua và yên tâm không
áy náy về tội bất trung với vua nữa.
Một hôm, thằng bé tò mò hỏi mẹ:
- Bác Tâm nói hiện giờ, đức vua không còn sống
có đúng không mẹ?
- Đúng.
- Thế còn bác Kim?
- Bác Kim cũng mất lâu rồi.
- Thế sao bác Tâm và mẹ vẫn còn nói chuyện
được với bác Kim.
- Bởi vì bác Tâm, bác Kim và mẹ đều có máy
truyền tin xuyên thời gian.
- Nó ra sao hở mẹ?
- Con vẫn nhìn thấy mẹ dùng đấy thôi. Con còn
mượn nó từ mẹ để chơi trò chơi là gì?
- Thế còn chiếc máy bay mà bác Tâm nói nó bị
hỏng nên không đưa được mẹ con ta trở về với đức
vua?
- À, máy này cũng thuộc loại xuyên thời gian
nhưng chở được người. Nếu hai bác đến trễ như lần
trước thì mẹ đã chết và hai năm sau đó, chính con đã
dẫn các bác ra thăm mộ mẹ là gì?
Đến lúc này, thằng bé ngẩn ngơ, không hiểu mẹ
nó nói gì vì nó mới 13 tuổi.
60
Bấy giờ, tôi và Quang Tâm đều đã đến tuổi 68.
Tôi về hưu trước đó 3 năm. Quang Tâm vẫn còn sinh
hoạt học thuật trong bộ môn nhưng lĩnh trợ cấp hưu.
Còn Nhã Uyên xuyên thời gian 2 năm nên có độ tuổi
66. Với số vàng mấy trăm cây mang theo từ quá khứ,
Thúy Loan đã giúp Nhã Uyên đổi thành tiền một ít
dùng mua nhà, còn lại gửi ngân hàng lấy lãi chi dùng
trong đời sống hai mẹ con.
Do thằng bé vốn thông minh và cách dạy của nhà
trường hiện đại buộc nó bớt chơi để dồn sức vào việc
học nên chỉ vài năm nó đã đuổi kịp trình độ học vấn
với các bạn cùng tuổi.
Thằng bé tên là Đức Nhã như các bạn đã biết,
theo học cho đến năm hai mươi tuổi thì tốt nghiệp đại
học ngành Lịch sử. Do tư chất thông minh, năm 21
tuổi làm nghiên cứu sinh. Đề tài nghiên cứu của Nhã
là ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đời
Trần. Đến lúc này tức là vào năm 2143, Quang Tâm
đã cải tiến bổ sung thêm chức năng tàng hình cho
chiếc máy bay xuyên thời gian của mình. Nhờ chiếc
máy này, Đức Nhã đã đi đi về về nhiều lần trở lại quá
khứ vào những năm từ 1258 đến 1288, thời vua Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông trị vì.
Mặc dù sinh sau nhưng nó đã nhìn thấy được ông bà
nội, ông bà cố, bố mẹ cùng anh trai nó. Nó giả dạng
lính hầu khi ở trong cung, giả dạng thường dân khi ở
ngoài cung. Cũng mấy lần chạm mặt bố và mẹ nhưng
bố mẹ hoàn toàn không nhận ra nó. Có một lần, nó
tưởng đứng tim khi đang đi nghe có tiếng gọi giật lại:
- Này tên kia.
Quay lại nhìn, hóa ra là bố và mẹ nó. Bố nó nhìn
nó ngờ ngợ và hỏi:
61
- Ta thấy ngươi quen quen. Ngươi ở đội nào?
- Bẩm Tá Thiên vương, con ở đội tuần tra hoàng
thành.
Nó còn nghe được mẹ nó nói sau khi đã đi xa:
- Sao thằng này giống bé Đức Kha nhà mình quá!
Bố mẹ nó quay đi. Chắc là nó giống anh trai nó,
bởi vì khi bố mất thì nó chưa ra đời.
Dưới dạng khi thì lính hầu, khi thì thường dân,
Đức Nhã trà trộn trong dân chúng, lén dùng máy tính
bảng chụp ghi lại các sự kiện và chân dung các nhân
vật có công lao trong sự nghiệp chống xâm lăng. Mấy
năm sau bảo vệ, luận văn tiến sĩ của nó được đánh giá
khá độc đáo và xuất sắc. Khi về, nó kể lại chuyện hay
giáp mặt bố mẹ, nhưng bố mẹ vẫn không thể nhận ra
con mình. Nó cũng thường xuyên ra thăm nghĩa trang
hoàng gia. Mộ bố và mộ anh trai vẫn còn đó, nhưng
mộ mẹ thì không. Nhìn thấy tấm hình con trai chụp
không có mộ mình giống như hình bác Quang Tâm
chụp trước kia, tự nhiên Nhã Uyên ước vọng sau khi
chết được trở về chôn đúng vào mộ mình trước đây
và dặn Đức Nhã hãy nhớ thực hiện ý nguyện này của
mẹ.
Vào ngày bảo vệ luận án tiến sĩ, Quang Tâm có
đưa vợ chồng cùng đứa con gái thứ hai của chúng tôi
về tương lai tức là năm 2148 để tham dự bữa tiệc
chiêu đãi gia đình và bạn thân. Thúy Loan nhìn con
gái tôi và nói thầm với Nhã Uyên:
- Trông con bé nhà anh Kim khá đẹp gái. Em thấy
nó xứng đôi với thằng Nhã nhà chị đấy. Nếu hai bên
đồng ý, em sẽ làm bà mối cho.
Thế là ba người đàn bà lại gặp nhau, cùng nhất trí
hứa tìm cách thuyết phục hai cô cậu. Sau bữa tiệc,
62
Nhã Uyên gặp con và hỏi:
- Hiện tại, con đã tìm được bạn gái nào vừa ý có
thể tiến tới hôn nhân chưa, nói cho mẹ biết.
- Con chưa, đâu mẹ.
- Nếu con tính trở lại quá khứ để tìm hiểu và cưới
một công chúa nào đó thì sẽ khó cho mẹ đấy!
- Vì sao hở mẹ?
- Con không nhớ mẹ đã chết từ năm con lên 15
sao? Nay tự dưng mẹ trở về làm hôn lễ cho con tại
hoàng cung, mọi người sẽ ngạc nhiên bảo mẹ vừa đội
mồ sống dậy chắc?
Chờ một lát, Nhã Uyên thủ thỉ:
- Mẹ thấy con bé Lan nhà bác Kim xinh đấy chứ.
Cô Thúy Loan hứa nếu con thích, cô ấy sẽ làm mối
cho.
Thật ra, hai cô cậu vừa chạm mặt đã có cảm tình
với nhau rồi. Nên khi mẹ nói lên ý nghĩ của mẹ, Đức
Nhã im lặng không phản đối.
Còn chuyện bé Kim Lan có bằng lòng không là
nhiệm vụ thuyết phục của vợ tôi. Kết quả nói theo
kiểu thời bấy giờ là nhiệm vụ vợ tôi đã hoàn thành
xuất sắc.
Chuyện quan trọng này là do ba bà có sáng kiến
tác động. Trong cuộc gặp mặt tiếp theo sau đó, ba gia
đình quyết định tổ chức đám cưới ngay ngày hôm
sau. Hai đứa tuy cùng sinh một năm, nhưng vì Đức
Nhã cùng với mẹ nó xuyên thời gian 2 năm để tiến về
tương lai nên năm nay nó thua con gái tôi 2 tuổi. Gái
hơn hai, trai hơn một, thế cũng được.
Bé Lan nhà tôi năm nay tốt nghiệp đại học kinh tế
ngành quản trị kinh doanh và đã có việc làm ở một xí
nghiệp tư doanh. Khi chỉ có hai vợ chồng tôi trở về
63
thì hiện tại, tôi đến xí nghiệp cháu đang làm nói với
họ là cháu xin phép nghỉ để du học, họ không thắc
mắc gì.
Có một lần Quang Tâm một mình âm thầm bay
ngược về quá khứ đến đúng vào ngày 12 tháng 9 năm
1930 để tò mò chứng kiến cuộc nổi dậy của nông
dân. Bắt đầu là cuộc biểu tình của người dân ở Hưng
Nguyên (Nghệ An). Vào ngày này, ước tính có
khoảng 8000 nông dân kéo về phủ lỵ và trương các
khẩu hiệu như: Bỏ sưu thuế, bớt giờ làm, chống
khủng bố trắng, bồi thường cho các gia đình bị tàn
sát trong cuộc bạo động Yên Bái,... thậm chí là Chia
lại ruộng đất, Đả đảo chủ nghĩa đế quốc, Đả
đảo phong kiến. Đoàn biểu tình này xếp hàng dài hơn
một cây số, tập trung kéo về thành phố Vinh. Đi đầu
là những người cầm cờ đỏ, đi hai bên là đội viên tự
vệ được trang bị các loại dao, gậy. Trên đường đi,
đoàn biểu tình có lúc dừng lại để diễn thuyết và chỉnh
đốn đội ngũ.
Lựa lúc đoàn biểu tình dừng nghỉ để ăn uống,
Quang Tâm xuất hiện, nhờ chuẩn bị trước nên cũng
giả vờ lếch thếch áo xống, quần ống thấp ống cao đến
làm quen. Ba cô gái trạc tuổi nhau khoảng mười tám
đôi mươi, chít khăn mỏ quạ, áo nâu, váy đen đang
nhễ nhại mồ hôi vừa dùng nón quạt vừa thở gấp gáp.
Quang Tâm chỉ lên một tấm băng khẩu hiệu viết
nguệch ngoạc bằng mực tàu trên tấm băng rôn trắng
“Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” hỏi:
- Các o hiểu biểu ngữ kia nói gì không?
Một cô đọc chầm chậm:
- Trí...phú...địa...hào.. Phú, địa, hào thì hiểu rồi,
64
nhưng trí là gì thì chúng em không rõ lắm!
Quang Tâm giải thích:
- Trí là trí thức, những người học cao như bác sĩ,
kỹ sư, ... Thế họ có tội tình gì mà đào tận gốc, trốc
tận rễ họ?
- Chúng em đoán có lẽ vì họ ăn trắng mặc trơn,
sống đài các, làm việc nhẹ nhàng mà vẫn hưởng
lương cao, không như nông dân chúng em suốt ngày
đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời –
một cô gái trả lời.
- Có một nơi mà hoàn toàn vắng bóng trí, phú,
địa, hào. Các o muốn đến xem không, tôi sẽ đưa đi.
- Chúng em đang tham gia đấu tranh kia mà, sao
có thể đi được bây giờ. Để hôm khác có được không?
Quang Tâm bật mí:
- Các o có thể vắng mặt trong chốc lát thôi rồi về,
vẫn kịp tham gia biểu tình, tôi hứa đấy – vừa đưa
đồng hồ đeo tay lên xem vừa nói – Bây giờ là 10 giờ
rưỡi sáng, ta đi rồi về có thể cũng vào giờ này hoặc
có thể sớm hơn.
- Chóng vánh thế kia ư? Thế bác cho chúng em đi
bằng gì?
- Bằng cỗ máy xuyên thời gian. Nào các cô hãy
theo tôi.
Tuy chưa hiểu cỗ máy xuyên thời gian là gì,
nhưng ba cô gái vẫn liều lĩnh đứng dậy đi theo Quang
Tâm. Quang Tâm dẫn ba cô gái tách đoàn đi khoảng
năm trăm thước và bật tín hiệu cho chiếc máy xuyên
thời gian hiện ra. Anh kéo vội ba cô gái lên và khi tất
cả đã ở hẳn bên trong, anh bật tín hiệu tàng hình,
nhấn nút về quá khứ những năm 3000 trước công
nguyên và cho máy bốc lên cao. Vào năm này, Nghệ
65
An hoàn toàn hoang vu, đất đai mênh mông rừng là
rừng. Trong khi bay rà rà trên không, Quang Tâm chỉ
cho các cô thấy quang cảnh một bộ lạc thời tiền sử
đang sống. Trên một khoảng đất trống, nhiều nóc nhà
bằng cỏ được dựng lên. Ở bên ngoài, túm năm tụm ba
những đàn ông, đàn bà, chàng trai, cô gái đều ở trần,
quấn khố bằng vỏ cây, đang giết mổ và chuẩn bị lửa
để nướng các con thú hoang săn được. Bọn trẻ con
hoàn toàn trần truồng chạy nhảy lăng xăng đây đó và
đang bày những trò chơi gì đó chỉ có chúng mới hiểu
được. Quang Tâm giới thiệu:
- Đây là xã hội loài người hoàn toàn không có
một ai là trí, là phú, là địa, là hào. Tất cả đều nghèo
khổ và thiếu đói như nhau. Liệu các o có muốn sống
trong thứ xã hội như thế này không?
Ba cô gái ngây thơ, trong trắng bất chợt im lặng
và không sao trả lời được. Quang Tâm lại nói tiếp:
- Chúng ta sẽ đi về tương lai xem sao nhé. Các o
đang sống vào năm 1930. Bây giờ, chúng ta sẽ bay đi
Sài Gòn tương lai 182 năm nữa tức là vào năm 2112.
Không chờ cho các cô gái có bằng lòng hay
không, Quang Tâm nhấn nút cho máy bay cất lên
cao bay về phương Nam, sau một cái rùng mình nó
hạ cánh xuống đất, ngay trước nhà mình. Hôm ấy
đúng vào ngày chủ nhật, Quang Tâm nghỉ làm. Anh
nói với các cô gái:
- Các o hãy ngồi yên chờ cho một lát, tôi đi lấy
quần áo mới cho các o thay, bởi vì các o không thể
vẫn giữ bộ cánh này để đi thăm thú đây đó trong thời
văn minh hiện đại được.
Thế rồi Quang Tâm vội vàng bước xuống, chạy
ngay vào nhà, lục tủ quần áo của vợ, lôi ra ba bộ áo
66
váy và đem lên máy bay cho các cô gái. May mắn là
các cô gái loay hoay một lúc rồi cũng mặc được vào
người những thứ của lạ. Một may mắn nữa là giày
dép và mũ cũng đều vừa khít với kích cỡ của các cô.
Khi các cô gái bước xuống máy bay thì cũng vừa
lúc Thúy Loan, vợ Quang Tâm bước ra.
- Anh xin giới thiệu với em, đây là ba cô gái đang
tham gia biểu tình trong phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh năm 1930 vừa mới đến đây. – rồi quay sang ba
cô gái – Còn đây là vợ tôi.
Thúy Loan ngỏ lời trước:
- Xin chào các chị.
- Chúng em xin chào chị – ba cô gái đồng thanh
trả lời.
Vợ chồng Quang Tâm mời ba cô gái ghé sang
một cửa hàng giải khát gần đó, cho ăn kem sô cô la
và uống nước trái cây lạnh.
- Đây là thành phố Sài Gòn thời hiện đại năm
2112.– Quang Tâm giới thiệu – Nơi đây hiện nay,
không hề có hào. Nhưng trí, phú và địa thì rất nhiều.
Nhờ có trí, phú và địa mà đất nước này xây dựng
được văn minh, hiện đại, toàn dân đều sống trong
giàu sang và hạnh phúc.
- Thế hào đã biến đi đâu? Có phải họ đã bị đưa ra
đấu tố rồi xử tử hết không? – một cô gái hỏi.
- Hào thì thời nào cũng có. Nó tác oai tác quái
mãi cho đến bao giờ xã hội sống trong chế độ dân
chủ, văn minh thì mới chấm dứt.
Tuy là sinh sau, không được chứng kiến trực tiếp
cái cảnh tang thương ở nông thôn miền Bắc vào
những năm 50, khi đó, người ta lấy oán trả ơn, những
người nông dân nghèo khó vốn hiền lành chân chất
67
bỗng chốc biến thành những tên đồ tể khát máu,
Quang Tâm cũng cảnh báo:
- Này các o, nếu còn sống đến hai mươi năm nữa,
tôi mong thế, tôi khuyên các o đừng có ham làm giàu
mà khốn cái thân đấy!
Các o nghe vậy thì biết vậy chứ chưa hiểu anh
định nói gì. Quang Tâm lại dẫn ba cô gái trở lại máy
bay, để cho họ lên trước thay quần áo, sau đó lái máy
bay ở dạng tàng hình bay lòng vòng trên bầu trời Sài
Gòn để các cô chiêm ngưỡng cảnh quan của một
thành phố hiện đại và văn minh là như thế nào. Trong
lúc lái, Quang Tâm cho biết:
- Tất cả những thành tựu văn minh này là đều do
bàn tay khối óc của những trí thức và những nhà giàu
mà có. Cho nên, không có lý do gì để đào tận gốc,
trốc tận rễ hai thành phần này được.
Quang Tâm còn nói thêm:
- Tôi nói điều này cho các o biết nhé. Dù có biểu
tình phản đối đến đâu, bốn thành phần trí, phú, địa,
hào vẫn còn y nguyên cho hết thế kỷ này và còn tiếp
theo nhiều năm sau nữa. Đặc biệt, trong xã hội không
thể thiếu vắng “trí”. Quốc gia thịnh hay suy là do
người đứng đầu quốc gia có biết dùng hiền tài hay
không. Còn phú, địa là những người biết làm giàu
cho mình và cho đất nước. Đất nước không có phú,
địa sẽ không thể giàu mạnh được.
Sau đó, Quang Tâm chuyển hướng cỗ máy xuyên
thời gian bay ra Bắc, đến đúng lãnh địa Nghệ An thì dừng lại. Vẫn ở thì tương lai vào năm 2112, Quang Tâm
lái máy bay bay lòng vòng trên bầu trời thành phố Vinh
để cho các cô gái nhìn thấy quang cảnh tương lai của
thành phố này là như thế nào. Rồi Quang Tâm ấn nút cho
68
máy bay trở về đúng 10 giờ 30 phút sáng ngày 12 tháng 9
năm 1930 tại địa điểm cũ. Quang Tâm nói lời chào tạm
biệt trong lúc ba cô gái nông dân bần thần bước ra
khỏi máy bay, uể oải trở về nhập bọn với đoàn biểu
tình đang còn nghỉ giải lao bên đường quốc lộ.
Dòng người này bắt đầu đi, càng đi càng được bổ
sung thêm cho đến khi đến gần Vinh con số đã lên tới
30 000 người và xếp hàng dài tới hơn 4 cây số. Sau
đó thì Quang Tâm nghe rất nhiều tiếng bom rền vang.
Thế là chính quyền thực dân Pháp đã phản ứng đáp
trả mạnh mẽ. Sau này đọc lại lịch sử, Quang Tâm biết
máy bay ném bom vào đoàn biểu tình làm 217 người
chết và 125 người bị thương. Không rõ ba cô gái mà
Quang Tâm vừa mới làm quen có bị sao không.
Quang Tâm cảm thấy ân hận vì việc máy móc trả ba
cô gái về đúng vị trí cũ vào thời gian cũ nên ba cô gái
rất có thể bị tử thương thậm chí tử vong trong trận
không kích vừa rồi của quân đội Pháp. Quang Tâm
gấp rút nhấn nút cho cỗ máy trở lại sớm hơn thời gian
quy định l0 phút. Lúc bấy giờ, ba cô gái còn đang ở
trên con tàu. Quang Tâm đề nghị:
- Còn 10 phút nữa là đến 10 giờ 30 sáng ngày 12
tháng 9. Nhưng tôi biết, sau đó khoảng 20 phút, máy
bay Pháp sẽ nã bom dữ dội vào đoàn biểu tình làm
nhiều người chết và bị thương. Tôi không muốn ba o
có thể không may nằm trong số đó. Vậy ta cứ bay
lòng vòng một lúc chờ cho hết tiếng bom rồi hẵng trở
lại đoàn biểu tình.
Lúc này, cho các cô xuống nhập đoàn hay không
là quyền ở Quang Tâm, nên các cô không thể muốn
gì được. Quả đúng như vậy, sau đó khoảng 20 phút,
khắp trời rền vang tiếng máy bay, tiếng súng và tiếng
69
bom nổ đinh tai nhức óc. Từ trên không trung trong
cỗ máy tàng hình, mọi người thấy rõ cảnh tan tác tán
loạn của đoàn biểu tình cùng với cảnh người chết
nằm la liệt trên đường cái. Nhìn thấy cảnh ấy, các cô
gái sợ xanh mắt, run như cầy sấy. Khi biết máy bay
Pháp đã rút hết, Quang Tâm mới cho hạ cánh cỗ máy
để các cô gái bước xuống, trở về hội nhập với đoàn
biểu tình.
Sau này xem lại lịch sử, Quang Tâm còn biết
rằng, hành động đàn áp trên không ngăn được đoàn
người biểu tình đấu tranh. Người biểu tình đã kéo về
huyện lỵ, đập phá nhà lao, đốt phá các huyện đường,
bao vây đồn lính khố xanh. Điều này đã làm cho hệ
thống chính quyền thực dân, phong kiến tan rã hay
lung lay ở nhiều huyện, xã. Nhiều viên chức nhà
nước như lý trưởng, tri huyện đã bỏ trốn vì sức ép
này. Nhưng cuối cùng cuộc nổi dậy của nông dân đã
bị nhà Nguyễn và chính quyền Bảo hộ Pháp đàn áp.
Chính quyền Xô viết đầu tiên được hình thành hàng
loạt tại nhiều xã thuộc các huyện như Thanh Chương,
Nam Đàn, Anh Sơn, Nghi Lộc, Vinh-Bến Thủy, Can
Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ, Hưng Nguyên, Hương Sơn
... Các chính quyền Xô viết một mặt thi hành các
chính sách mới, mặt khác phá bỏ hệ thống chính
quyền cũ, trưng thu đất, thóc gạo, tiền bạc của các địa
chủ, đồng thời ra yêu sách với các chủ xưởng, chủ tàu
ở vùng này. Tuy vậy những chính quyền kiểu này chỉ
tồn tại sau bốn, năm tháng do bị chính quyền của
thực dân Pháp phối hợp với chính quyền địa phương
của triều đình trấn áp làm cho nó tan rã và giải thể.
Đến năm 2070, tôi tròn 80 tuổi bỗng mắc một căn
70
bệnh hiểm nghèo mà y học bấy giờ đành chịu: bệnh
liệt rung. Bệnh viện bảo chỉ có nước ngoài, may ra
chữa khỏi nhưng tốn kém lắm. Con bé Kim Lan nhà
tôi bảo bố cứ bay về thời đại chúng con để chữa trị,
chắc chắn khỏi và phí tổn không đáng kể. Đúng thật
như thế. Thời tương lai ấy, đơn giản họ dùng kỹ thuật
gen và kết quả thật mỹ mãn.
Đến năm 2080 tức là năm 1348 của thì quá khứ
hay là 2166 của thì tương lai, lúc đó Nhã Uyên 88
tuổi, do tuổi già sức yếu vô ý trượt ngã đập đầu
xuống nền nhà tắm và bất tỉnh. Cả nhà phát hiện
muộn quá nên không cứu được. Thời bấy giờ, luật
dân sự cấm địa táng vì lý do ô nhiễm môi trường.
Xác chết buộc nhúng vào thùng chứa ni tơ lỏng sẽ
đông cứng và rất giòn, cho vào máy xay vỡ vụn thành
bột, tẩm formon rồi ép cứng lại, cho vào chiếc bình
gửi vào nghĩa trang.
Trong chuyến trở về quá khứ có ghé qua nhà rước
hai vợ chồng tôi cùng đi, vợ chồng Quang Tâm và vợ
chồng Đức Nhã đem khối bột hài cốt, theo di nguyện
của Nhã Uyên trước đây, chờ đêm tối lén chôn vào vị
trí mộ cũ của Nhã Uyên theo ảnh chụp của Quang
Tâm. Do không phải đào hố sâu chôn quan tài như
thường lệ mà chỉ chôn hũ bột hài cốt, nên với cuốc
xẻng mang theo, chúng tôi tạo nên ngôi mộ rất
nhanh, sau đó, dựng tấm bia đã chuẩn bị sẵn ở nhà.
Tấm bia ghi dòng chữ Nôm đề là “Niên hiệu Thiệu
Phong thứ 10. Mộ chí của Nhã Uyên dương phi, thọ
88 tuổi”. Chúng tôi còn không quên mang theo ba
vòng hoa viếng đặt lên mộ. Sáu người chúng tôi đứng
lặng hồi lâu mặc niệm rồi vội vàng lên máy bay trở
71
về tương lai. Lúc đó là thời vua Trần Dụ Tông trị vì.
Bấy giờ, vua mới có 14 tuổi. Từ đó trở đi, cứ đến
ngày giỗ Nhã Uyên, vợ chồng Đức Nhã lại quay về
quá khứ đến thăm ba ngôi mộ bố, mẹ và anh trai.
Lại nói về gia đình tôi. Vào ngày trở về quá khứ
để lập phần mộ cho Nhã Uyên, trên đường trở về, con
gái thứ Kim Lan có đề nghị vợ chồng tôi cùng vợ
chồng chị nó chuyển về tương lai sinh sống. Nhưng
chúng tôi từ chối vì cuộc sống dân ta vào năm 2080
đã khấm khá, dễ thở. Tôi thì đã 90 rồi, còn sống bao
năm nữa, đâu nỡ bỏ họ hàng mà đi. Còn vợ chồng
Kim Quy có cuộc sống ổn định, ở lại thì hiện tại còn
có bố mẹ chúng nó. Vào năm 2100, thằng con thứ 3
của Kim Quy lúc bấy giờ 54 tuổi có học vị tiến sĩ
ngành Viễn thông đang dạy học ở đại học Bách khoa
Sài Gòn. Nó có tham dự buổi gặp gỡ đặc biệt đón
chào hai người trẻ từ quá khứ đến, một người tên là
Quang Tâm đem sơ đồ máy truyền tin xuyên thời
gian nhờ chế tạo giúp, người thứ hai tên là Hoàng
Kim. Nó đem tấm hình chụp trong máy tính bảng về
hỏi mẹ:
- Con ngờ ngợ anh bạn trẻ Hoàng Kim này có
phải là ông ngoại nhà mình mất năm 2088 hay
không?
Mẹ hắn lục tủ lôi ra bức ảnh màu chụp từ năm
2014 cảnh ông ngoại ngồi cạnh bà ngoại đang bế mẹ
nó lúc bấy giờ mới đầy tháng để cho thằng con so
sánh.
72
Suýt mất tích ở thì quá khứ
Đã bước sang thế kỷ thứ 22, mặc dù ngành lịch sử
Việt Nam đã sửa lại lịch sử vào thời kỳ Hùng vương,
không hề có giai đoạn Thục An Dương vương và
Triệu Đà theo đề nghị của giáo sư Lê Mạnh Thát để
đưa vào sách giáo khoa, nhưng các nhà lịch sử vẫn áy
náy không hoàn toàn tin tưởng cho lắm, mặc dù việc
loại ra khỏi lịch sử dân tộc mình một thời kỳ Bắc
thuộc đen tối là có lợi rất nhiều cho đất nước ta.
Giáo sư Lê Mạnh Thát đưa ra luận cứ: những tài
liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung quốc là
Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư hoàn toàn
không đề cập đến chuyện Triệu Đà đánh An Dương
vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những
thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu
Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất
Trung quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một
nước độc lập. Vậy nước ta chưa bao giờ thuộc Nam
Việt của Triệu Đà bên Trung quốc. Nước ta từ thời
Hùng vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến
năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất
không tồn tại.
Làm thế nào để chứng tỏ luận cứ của giáo sư Thát
hoàn toàn đúng ngoài những dẫn chứng mà giáo sư
đã đưa ra, một số học giả của ngành Lịch sử muốn trở
về quá khứ quan sát để xác minh. Hiện tại, việc trở
lại quá khứ không còn là chuyện viễn tưởng nữa,
bằng chứng là tiến sĩ Trần Đức Nhã đã trở lại thời đại
các vua Trần tìm dữ liệu cho công trình nghiên cứu
của mình và đã bảo vệ luận án thành công. Viện Lịch
sử, nơi Đức Nhã công tác có biết chuyện này và có kế
73
hoạch cử người trở về thời đại Hùng vương để nghiên
cứu thực địa. Đức Nhã gợi ý đến nhờ bác Quang Tâm
giúp đỡ. May mắn làm sao, Quang Tâm vừa hoàn
thành xong một con tàu xuyên thời gian thứ hai với
đầy đủ tính năng như con tàu thứ nhất và đồng ý cho
viện Lịch sử mượn. Viện Lịch sử sẽ phái một đội
gồm ba nhà nghiên cứu gồm hai nam một nữ không
có Đức Nhã tham gia, đi nhờ con tàu xuyên thời gian
của Quang Tâm. Trong chuyến đi này, Quang Tâm
còn cung cấp cho đội nghiên cứu một máy truyền tin
xuyên thời gian và ba bộ quần áo tàng hình.
Qua một tuần làm quen với việc điều khiển con
tàu, ba nhà nghiên cứu lịch sử nam tên Phong và
Thân, nữ tên Quỳnh Như bắt đầu khởi hành. Không
gian đến là vùng đồi núi Phú Thọ. Thời gian đến là
những năm vua Hùng thứ 18 trị vì, tức là từ năm 218
TCN. Tuy nhiên, ba nhà nghiên cứu này không nán
lại lâu mà chỉ làm công việc chuẩn bị sao cho việc
thâm nhập sau này được thuận lợi. Họ cho con tàu
bay rà rà bên trên trong dạng tàng hình, quay phim
quang cảnh sống của người thời đó, cách phục sức và
nói năng đối xử với nhau. Nhà cửa thường dân ở
đồng bằng lúc bấy giờ phần lớn là nhà tranh, vách
bằng đất hay bằng phên tre, ở một số vùng trung du,
nhà sàn mái tranh vách nứa. Nhà của vua và lạc hầu
lạc tướng thì vách bằng đất nung, mái ngói âm
dương. Khác với quan niệm của số nhà nghiên cứu
lịch sử cho rằng thời này người dân chủ yếu đóng
khố, ở trần. Không phải vậy, họ có quần áo mặc hẳn
hoi và tầng lớp từ lạc hầu lạc tướng trở lên thì y phục
khá đẹp. Dân chúng không còn lối y phục sơ khai của
thời đại đồ đá. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những
74
vùng người dân sống tập trung nuôi tằm, ươm tơ, dệt
lụa. Có người còn cho rằng cái tên Trưng Trắc, Trưng
Nhị là cách phiên âm theo chữ Hán, chứ nôm na tiếng
Việt cổ là Trứng Chắc, Trứng Nhì trong kỹ nghệ nuôi
tằm ươm tơ mà ra. Màu sắc quần áo của thường dân
thường là màu chàm ở vùng trung du, màu nâu hay
đen ở vùng đồng bằng. Riêng tầng lớp quan lại, màu
sắc quần áo có phong phú hơn, trong đó có lẫn màu
vàng, màu hồng, màu xanh lá cây. Đàn ông búi tóc,
đàn bà thì bện tóc lại và vấn khăn quanh đầu. Còn trẻ
em thiếu niên nhi đồng chủ yếu đầu để chỏm. Nam
mặc quần, nữ mặc váy. Vũ khí để tự vệ chủ yếu là
giáo, mác và nỏ.
Sau khi tìm hiểu sơ qua cách ăn mặc và lối sống
của người dân thời đó, ba nhà nghiên cứu trở về nhà
và chuẩn bị trở lại sau khoảng thời gian đủ để nuôi
tóc dài đến mức quấn được thành búi trên đầu đối với
nam giới và buộc vào khăn quấn quanh đầu đối với
nữ giới. Quần áo bằng tơ tằm được thay bằng lụa dệt
từ sợi hóa học và nhuộm các màu bình dân.
Muốn tìm hiểu xem, nước ta có bị Bắc thuộc lần
thứ nhất không thì nên trở về vào năm 200 trước
công nguyên, bởi vì lịch sử đã ghi là giai đoạn đoạn
Bắc thuộc lần 1 là từ năm 207 TCN đến năm 40
SCN. Lịch sử còn ghi nhà Triệu cũng trị vì nước ta
vào giai đoạn này từ năm 207 đến năm 111 TCN.
Ba nhà nghiên cứu lịch sử lên tàu khởi hành từ
Sài Gòn ra Bắc, đến Phú Thọ rồi bấm nút trở về quá
khứ năm 200 TCN trên bầu trời Bạch Hạc. Tìm đến
một khu rừng rậm, cho con tàu hạ xuống, ba sử gia
bước ra và bấm nút điều khiển cho nó tự nâng lên
cách mặt đất khoảng 100 mét rồi bật chế độ tàng
75
hình. Xúng xính trong bộ quần áo may gần giống
trang phục người dân thời đó, cả ba người lân la tìm
vào một làng gần đó. Khi gặp một ông lão tóc búi tó
đã bạc, Phong, trưởng nhóm hỏi:
- Thưa cụ, đây là nơi nào và xin cụ chỉ cho chúng
cháu đến thăm lạc tướng có việc.
- Đây la bô Cưu Chân Bach Hac, cac chau đi môt
đoan nưa găp ngôi nha to to thi vao đo hoi thăm[1]
(Đây là bộ Cửu Chân, các cháu đi một đoạn nữa gặp
ngôi nhà to to thì vào đó hỏi thăm.)
- Cảm ơn cụ.
Lạ thật, sao người xưa nói lơ lớ không có dấu
giọng gì cả, khác với bây giờ người dân Phú Thọ nói
giọng Bắc không khác mấy giọng người Hà Nội. Sau
này gặp nhiều người nữa tại đây, cả ba người đều
nghe rặt một giọng lơ lớ như thế.
Khi cả ba người tìm thấy một ngôi nhà to cao, có
rào giậu và cổng lớn bên ngoài, một bầy chó xông ra
sủa inh ỏi. Một thanh niên đi chân đất bước ra sân
xua lũ chó và hỏi vọng ra:
- Ai đo? (Ai đó)
- Chúng tôi xin gặp lạc tướng.
- Xin mơi vao. (Xin mời vào)
Chợt nhận ra có một người đàn ông ngồi trên
trường kỷ đang xem một cuộn giấy, ba người đồng
thanh:
- Kính chào lạc tướng.
Sâu bên trong gian phòng khách là một bàn thờ
gia tiên. Ở giữa căn phòng đơn sơ, có bày một chiếc
[1] Theo ông Đỗ Văn Xuyền, người xưa nói giọng âm lơ lớ chứ không
được rõ ràng các thanh sắc như ngày nay.
76
bàn bằng gỗ gụ và mấy chiếc ghế mây. Lạc tướng cỡ
tuổi 40, vẻ nho nhã, mặc bộ đồ bà ba bằng lụa tơ tằm
màu vàng nhạt, chìa tay mời khách ngồi và nói vọng
vào trong:
- Thăng ơi, nâu nươc đai khach. Thê cac ngươi ơ
đâu ta va đên đây co viêc gi? (Thăng ơi, nấu nước đãi
khách. Thế các người ở đâu tá và đến đây có việc gì?)
Phong trả lời:
- Kính thưa lạc tướng, không giấu gì quan, chúng
tôi là những người tương lai cách đây hơn nghìn năm
đang trở về đây để tìm hiểu lịch sử.
Thân tiếp lời:
- Thưa lạc tướng, nước Văn Lang ta hiện nay do
ai cai quản? Vua Hùng hay người Hán?
- Vua Hung thư 18. Ngươi Han có đên xâm lăng
nhưng bi đanh lui het. (Vua Hùng thứ 18. Người Hán
có đến xâm lăng nhưng bị đánh lui hết)
Quỳnh Như hỏi:
- Còn Thục An Dương vương và Triệu Đà?
- Thuc An Dương vương va Triêu Đa nao? Theo
ta biêt, nươc Thuc ơ Tư Xuyên cach đây hang mây
nghin dăm va bi Tân diêt trươc đây 116 năm. Con
nươc Nam Viêt va Triêu Đa xưng vương trươc đay 6
năm đang ơ phía băc nươc ta. (Thục An Dương
vương và Triệu Đà nào? Theo ta biết, nước Thục ở
Tứ Xuyên cách đây hàng mấy nghìn dặm và bị Tần
diệt trước đây 116 năm. Còn nước Nam Việt và Triệu
Đà xưng vương trước đây 6 năm, đang ở phía bắc
nước ta).
Thế là đã rõ. Lịch sử ta không có thời kỳ Bắc
thuộc lần thứ nhất kéo dài 167 năm, cũng không có
An Dương vương và Triệu Đà làm vua nước ta.
77
Ba sử gia ngỏ ý xin phép lạc tướng cho đi xem
các nơi trong bộ. Lạc tướng gọi với vào trong:
- Anh Thăng, hay đưa cac vi khach đi thăm thu
cac nơi (Anh Thăng, hãy đưa các vị khách đi thăm
thú các nơi)
Anh lính lệ vừa rồi lại bước ra cúi đầu chào khách
và đi trước dẫn đường. Ba sử gia cúi đầu nói lời cảm
ơn và chào tạm biệt lạc tướng. Anh lính dẫn ba sử gia
đi lòng vòng, xem các ruộng người dân đang cày
bằng trâu, xem một cơ sở đang ươm tơ dệt lụa, một
cơ sở đang giã cây dó để làm giấy, một phòng học
một thầy và dăm trò có cả trai lẫn gái đang cặm cụi
viết chữ (lối chữ cổ của thời Hùng vương dạng hỏa
tự), một xưởng đang đúc trồng đồng, và một xưởng
đang chế tác nhạc cụ gồm trống bồng, đàn tranh bảy
dây, đàn tỳ bà, đàn đoản, đàn dây, sáo ngang, tiêu
dọc, ...
Chương trình tham quan mấy nơi cũng tạm đủ
cho các sử gia hình dung rõ nét về nền nông nghiệp
trồng lúa nước, nền giáo dục, nền thủ công nghiệp
làm giấy dó, đúc trồng đồng và làm nhạc cụ. Khi trở
về dinh của lạc tướng, để chào từ biệt, họ còn hỏi
thêm về kinh Dịch để xác nhận nó có phải là sản
phẩm của nền văn minh thời kỳ Hùng vương hay
không.
- Thưa lạc tướng – Phong hỏi – Người đời sau
chưa xác định được kinh Dịch là do người Tàu làm ra
hay do người Việt, bởi vì kinh Dịch đã bị thất truyền.
Quan lạc tướng trố mắt ngạc nhiên:
- Thê ư? Cho đên bây giơ, ngươi phương Băc đa
biêt kinh Dich là cai gi đâu. Kinh Dich co môt triêt ly
sâu xa lăm đo. (Thế ư? Cho đến bây giờ, người
78
phương Bắc đã biết kinh Dịch là cái gì đâu. Kinh
Dịch có một triết lý sâu xa lắm đó.)
- Xin lạc tướng cho hỏi tiếp hai câu nữa. Hiện
nay, ta đã làm ra lịch chưa và có bộ luật riêng của
nước ta từ lúc nào?
Lạc tướng chưa trả lời vội mà vào trong mang ra
hai cuốn sách mỏng bằng giấy dó đưa tặng khách,
sách viết bằng thứ chữ “hỏa tự” [2] và nói:
[3] Chữ “hỏa tự” không phải dạng con nòng nọc mà có dạng “bốc
lửa”. Sau đây là một ví dụ về dạng chữ cổ thời Hùng vương do học
giả Đỗ Văn Xuyền cung cấp.
HỊCH KHỞI NGHĨA
Nay Tô Định làm thái thú châu Giao tham tài hiếu sắc, hiếp vợ
giết chồng, thần dân đều cùng căm giận, trời đất không thể dung tha.
Ta nay vâng mệnh Trời, thuận lòng người, dấy nghĩa diệt loài vô
đạo họ Tô, hào khí ngất trời, đuổi lũ ngoại xâm giặc Hán, dựng cờ tự
chủ ở nước Nam, trống khua quật cường vang bốn cõi.
Hịch văn đến đâu, không kể thổ hào, trẻ già trai gái, đều nên tự
khởi nghĩa binh, hay tự chiếm lấy châu quận, phủ huyện hạt mình, cắt
đứt viện trợ quân lương của giặc, sau sẽ chọn quân tinh nhuệ đến hội
tại Hát Môn, tiêu diệt giặc Hán.
Hịch này truyền ra, cả nước cùng rõ.
79
- Đây la bô lich va bô luât. Đa co lich va luât tư
lâu rôi. Nhơ co lich ma dân ta mơi biêt thơi vu cay
cây gieo trông. Bô luât phai lam sơm đê giư gin ky
cương đât nươc (Đây là bộ lịch và bộ luật. Đã có lịch
và luật từ lâu rồi. Nhờ có lịch mà dân ta mới biết thời
vụ cày cấy gieo trồng. Bộ luật phải làm sớm để giữ
gìn kỷ cương đất nước.)
Thế là đã rõ. Chuyến đi về quá khứ lần này đã
giải đáp một số thắc mắc cơ bản mà lịch sử Việt Nam
trong thế kỷ 20 còn bỏ ngỏ.
Cả ba nhà sử học lên tàu quay trở về hiện tại. Họ
tổ chức một cuộc họp báo và công bố những dữ kiện
lịch sử tìm được bằng phương pháp quay trở về quá
khứ.
Cuộc du hành trở lại quá khứ dự định vào năm 43
SCN tức là thời gian hai bà Trưng chống Mã Viện và
cuối cùng đại bại.
Theo lịch sử đã ghi: năm 42, Hán Quang Vũ
Đế Lưu Tú hạ chiếu cho các quận Trường Sa, Hợp
Phố chuẩn bị xe thuyền, sửa đường và trữ lương đi
đánh Giao Chỉ. Vua Hán phong tướng Mã Viện đã 58
tuổi làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long là phó
tướng, Đoàn Chí làm Lâu Thuyền tướng quân sang
đánh đất Giao Chỉ. Quân đội của nhà Hán bao gồm
8000 quân lấy từ các quận Trường Sa, Quế
Dương, Linh Lăng, 12000 quân lấy ở bộ Giao Chỉ.
Tổng cộng quân Hán có 2 vạn người cùng 2000
thuyền xe. Đội quân này gồm toàn người Hoa Nam,
quen thuộc thủy thổ phương Nam, lại có sự chỉ huy
của Mã Viện, viên tướng giàu kinh nghiệm chiến
trận.
Quân Mã Viện chia thành 2 đạo thủy bộ dự tính
80
hội quân ở Hợp Phố để tiến đánh. Tuy nhiên khi đến
Hợp Phố thì Đoàn Chí chết vì bệnh nên Mã Viện
thống suất toàn quân tiến theo ven biển, ngược sông
Bạch Đằng tới sông Lục Đầu rồi vào đất Giao Chỉ, đi
thẳng tới Lãng Bạc.
Quân Hán tiến đến Long Biên, Tây Vu và Lãng
Bạc ở phía đông Cổ Loa. Hai Bà Trưng từ Mê Linh
qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đón đánh quân Hán. Tại
đây, hai bên đã giao chiến dữ dội. Quân Hán không
hợp thủy thổ phương Nam, nhiều người bị chết, trong
đó có Bình Lục hầu Hàn Vũ.
Sách Hậu Hán Thư chép rằng quân hai bên chống
nhau ở Lãng Bạc giằng co cả năm trời, khiến Mã
Viện lo lắng buồn phiền, nhớ tới lời của em trai là
Thiếu Du ngày trước khuyên Mã Viện không nên
xông pha gian khổ, cứ ở nhà cho nhàn nhã tấm thân,
và Mã Viện đã cười mà trả lời em rằng: “Làm tài trai
phải xông pha nơi chiến trận, lấy da ngựa bọc thây,
chứ sao lại ru rú ở xó nhà để chịu chết trong cánh tay
đàn bà”. Nay việc quân không lợi, Mã Viện lo lắng
buồn phiền, ngày ngày nhìn đàn cò bay là là trên mặt
nước hồ mà đôi lúc thấy hối hận đã không nghe lời
em.
Giao chiến lâu ngày, quân hai Bà Trưng thiếu
trang bị và kinh nghiệm, không địch nổi đạo quân
thiện chiến của Mã Viện. Tháng 3 âm lịch tức tháng 4
năm 43, quân Việt bại trận. Sau trận Lãng Bạc, Trưng
Vương phải thu quân về giữ Cổ Loa một thời gian rồi
phải lui về Mê Linh, sau đó chạy sang Cấm Khê. Tại
đây, quân của Hai bà tiếp tục bị đánh bại. Quân Hán
chém hơn nghìn người, bắt hàng hơn 2 vạn quân của
hai Bà. Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, hai Bà
81
chạy đến sông Hát thì nhảy xuống sông tự sát.
Sau chiến thắng, Mã Viện thu quân trở về nước
năm 44. Quân Hán cũng bị thương vong rất nhiều,
khi đi có 2 vạn quân, khi trở về chỉ còn non nửa.
Nước ta từ đó rơi vào cảnh Bắc thuộc kéo dài 498
năm.
Mấy hôm sau, ba sử gia lên tàu trở lại quá khứ
vào năm 42 SCN. Khác với lần trước, không khí
chuẩn bị chiến tranh chống ngoại xâm làm xáo động
không khí bình yên của thời đại Hùng vương trước
đây. Hỏi người dân, ba sử gia được biết hai bà Trưng
là con cháu của vua Hùng đang tiếp tục làm vua ở
triều đại Hùng vương. Hai bà vốn là chị em sinh đôi.
Tên của hai bà là Trứng Chắc và Trứng Nhì (gọi theo
cách nói dân gian chất lượng trứng tằm tốt thứ nhất,
thứ nhì nuôi cho nhả tơ). Trước đây, hai bà đều là
tướng giỏi, đã theo lệnh vua chống ngoại xâm
phương Bắc, đã đánh thắng và chiếm thêm nhiều
thành huyện của họ. Hai bà mới lên làm vua cách đây
2 năm. Bà Trưng Trắc đã lấy chồng. Chồng tên Thi,
con quan lạc tướng huyện Châu Diên [3].
[3] Hai bà Trưng sinh vào ngày 1 tháng 8 năm Giáp Tuất (tức năm 14
SCN). Trong Thủy Kinh chú, Lệ Đạo Nguyên có viết như sau “Châu
Diên lạc tướng tử danh Thi, sách Mê Linh lạc tướng nữ danh Trưng
Trắc vi thê, Trắc vi nhân hữu đảm tương Thi khỉ tắc” (nghĩa là Con
trai lạc tướng Châu Diên tên Thi, lấy con gái lạc tướng Mê Linh tên
Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người có gan đem Thi nổi dậy làm giặc).
Như vậy là chồng bà Trưng Trắc tên là Thi chứ không phải tên Thi
Sách như sách Hậu Hán thư đã ghi và các nhà lịch sử nước ta đã chép
lại. “sách ... vi thê” nghĩa là lấy làm vợ. Phát hiện sai lầm của Hậu
Hán thư, một đồ nho Tàu tên là Huệ Đồng có bổ chú cho Hậu Hán
thư, còn ở Việt Nam có học giả Nguyễn Phương trong cuốn Phương
pháp sử học do Viện đại học Huế xuất bản vào năm 1964 cũng đã
dựa vào Thủy Kinh chú để vạch ra cái sai này.
82
Hai bà có đến hơn bảy chục tướng lĩnh, trong đó
có nhiều thủ lĩnh các quân địa phương. Đặc biệt,
trong số này có nhiều nữ tướng. Hai bà Trưng và
hàng chục, hàng trăm nữ tướng, cả một đội ngũ đông
đảo phụ nữ Việt Nam tham gia phong trào kháng
Hán, góp phần tạo nên truyền thống anh hùng bất
khuất cho giới mình và cho cả dân tộc mình. Nguyên
lý Mẹ và sắc thái bình quyền trai gái in đậm nét trong
nền văn hóa dân tộc - dân gian Việt Nam đến nỗi
nhiều học giả cho rằng đấy là điểm vượt trội không
còn phải bàn cãi gì nữa của Việt Nam so với Trung
Quốc và phương Tây.
Cũng như lần trước, những tin tức và hình ảnh
đều được cập nhật và gửi về viện Lịch sử bằng máy
truyền tin xuyên thời gian dạng máy tính bảng.
Ba nhà sử học điều khiển con tàu xuyên thời gian
cho trở lui về năm 43 để tận mắt chứng kiến cuộc
chiến tranh vệ quốc của hai Bà. Tại trận Lãng Bạc,
quân ta chết và bị bắt sống rất nhiều. Các quân sĩ bị
giết chủ yếu là chém đầu, xác nằm ngổn ngang,
nhuộm đỏ cả một vùng rộng. Hai Bà phải vội vã thu
tàn quân rút lui về Cổ Loa.
Mặc dù đã nắm được lịch sử kháng chiến chống
quân Hán sẽ diễn ra như thế nào nhưng trên con tàu
trở về hiện tại, ai nấy đều không muốn nói gì trong
trong niềm thương đau vô hạn. Quỳnh Như đã bật
khóc trong suốt chuyến trở về. Phong còn nói một
câu làm Quỳnh Như uất ức thêm:
- Hai bạn biết không, thời vua Tự Đức có một học
giả tên là Lê Ngô Cát được vua sai làm một quốc sử
diễn ca. Diễn ca này viết bằng thơ lục bát dài mấy
nghìn câu trong đó khi nói về thất bại của hai bà Trưng
83
có mấy câu thơ như sau:
Uy thanh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây[4] đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao!
[4] Theo Minh Vũ Hồ Văn Châm, ở đây tác giả Lê Ngô Cát và nhiều
sử gia thời bấy giờ đã có sự nhầm lẫn. Trận chiến cuối cùng giữa hai
Bà Trưng với Mã Viện là ở Hồ Lãng Bạc chứ không phải Hồ Tây
nằm ở bờ nam sông Hồng. Trong khi đánh nhau với quân hai Bà
Trưng, Mã Viện chưa đem quân đến phía nam sông Hồng. Hai cứ
điểm quân sự trọng yếu của quân Hai Bà lúc bấy giờ là Phong Châu
và Long Biên, hoàn toàn ở bờ bắc sông Hồng. Quân Mã Viện từ biên
giới phía bắc tràn xuống, Hai Bà đương nhiên phải đưa quân lên phía
bắc đón đánh. Không thể có một lý do gì lúc bấy giờ khiến Hai Bà lại
đưa quân xuống phía nam, vượt qua sông Hồng để dàn trận phòng
ngự ở vùng Hồ Tây. Trận đánh quyết định ở vùng Hồ Lãng Bạc nói
trong sách Hậu Hán Thư của Trung Quốc đã xảy ra trong phần đất
phía bắc sông Hồng. Nói một cách khác, Hồ Lãng Bạc không thể nào
lại là Hồ Tây ở Hà Nội. Vậy thì Hồ Lãng Bạc ở đâu?
Hậu Hán Thư đã ghi rõ là quân tiến công của Mã Viện gặp phải
sự chống trả quyết liệt của quân Hai Bà Trưng tại vùng Hồ Lãng Bạc.
Hai bên giằng co bất phân thắng bại gần cả năm trời, khiến cho viên
tư lệnh bách chiến Phục Ba tướng quân của Đông Hán phải lo lắng
buồn phiền. Như vậy, trận Hồ Lãng Bạc đã xảy ra khi quân của Hai
Bà Trưng còn đầy đủ thực lực, quân Mã Viện chỉ mới phạm vào bờ
cõi Giao Chỉ, chưa tiến sâu vào nội địa, chưa chiếm đóng được Long
Biên và Phong Châu. Từ đó, ta có thể rút ra hệ luận là Hồ Lãng Bạc
phải nằm trên đường tiến quân của Mã Viện, khởi đầu từ vùng phân
ranh Hợp Phố với Giao Chỉ, tức là biên giới Hoa-Việt ở vùng ven
biển ngày nay, hướng đến các mục tiêu chủ yếu là Long Biên, phủ lỵ
quận Giao Chỉ, tức là Bắc Ninh ngày nay, và Phong Châu, kinh đô
của hai Bà Trưng, tức là Phú Thọ ngày nay. Đối chiếu với bản đồ
miền Bắc nước ta, đường tiến quân của Mã Viện ngày ấy chạy dài
qua địa phận các vùng Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Bắc Giang,
Thái Nguyên, Bắc Ninh, Vĩnh Phú, theo dọc lưu vực sông Thương,
sông Cầu, và miền phụ cận. Và Hồ Lãng Bạc nói trong sách Hậu Hán
Thư của Trung Quốc, nơi xảy ra trận đánh quyết liệt giữa quân xâm
lược Mã Viện và quân Hai Bà Trưng ngày ấy, là một trong những cái
hồ nằm dọc đường tiến quân của Mã Viện, tại miền Việt Bắc nước ta.
84
Sao kẻ hậu bối lại dám coi thường hai Bà là nữ
nhi (tức đàn bà con nít) mà xem giặc cướp nước là
anh hùng được nhỉ?
Con tàu hạ cánh xuống sân viện Lịch sử. Thân và
Phong gọi tắc xi trở về nhà. Quỳnh Như tình nguyện
lái tàu trả lại cho Quang Tâm. Tuy nhiên khi lên tàu,
Quỳnh Như đổi ý lái thẳng tàu về phương Bắc, bấm
nút quay trở lại đầu năm 43 SCN. Giấu tàu trong một
cánh rừng ở Phú Thọ và bật chế độ tàng hình, Quỳnh
Như giắt theo con dao, khoác lên người bộ áo tàng
hình và tìm đến đại bản doanh của Mã Viện.
Một ngày sau khi về đến nhà, Phong gọi điện đến
viện trưởng viện Lịch sử xin bố trí ngày tổ chức buổi
báo cáo chuyến đi về quá khứ tìm hiểu cuộc chiến
chống quân nhà Hán của hai bà Trưng. Đồng thời,
Phong cũng thay mặt viện Lịch sử gọi đến Quang
Tâm ngỏ lời cảm ơn của viện về chuyện cho mượn
tàu và hẹn sẽ gửi giấy mời tham gia buổi báo cáo của
ba sử gia. Quang Tâm hơi ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh chưa mang tàu trả?
- Kìa, ngay khi về đến viện ngày hôm qua, Quỳnh
Như đã nhận lái tàu trả cho anh rồi kia mà.
- Không thấy!
- Chết rồi. Quỳnh Như có biểu hiện không bình
thường sau khi chứng kiến cảnh đổ máu của trận
chiến Lãng Bạc. Chắc chắn Quỳnh Như đã lái tàu
thẳng về thời đó. Ta là người không thuộc thời quá
khứ làm sao có thể thay đổi lịch sử được kia chứ!
Buổi báo cáo của viện Lịch sử thế là phải hoãn
lại. Quang Tâm bấm máy truyền tin liên hệ với máy
truyền tin trên con tàu thứ hai, máy có kêu nhưng
không ai bắt máy. Quang Tâm đề nghị viện Lịch sử
85
hãy kiên nhẫn chờ khoảng vài ba hôm cho đến một
tuần để xem thế nào. Nếu như không thấy Quỳnh
Như trở về, Quang Tâm quyết định sẽ cùng với Đức
Nhã quay trở lại quá khứ để tìm con tàu thứ hai lái
về.
Tuy nhiên, Đức Nhã đề nghị với Quang Tâm:
- Thưa bác, không cần trở lại quá khứ để đưa tàu
trở về đâu ạ. Chỉ cần hỏi anh Phong là ngày hôm
trước, ba người đã về đến viện lúc mấy giờ và ta đến
đón lõng ở đấy, ngăn không cho chị Quỳnh Như một
mình trở lại quá khứ.
- Phải đấy!
Và đúng vào lúc con tàu thứ hai vừa hạ cánh
xuống sân của viện, Quang Tâm đã xông ngay lên
tàu, yêu cầu Quỳnh Như xuống về nhà, không cần
mang tàu đi trả nữa.
Các bạn biết rồi đấy: thế là không hề có chuyện
mất tích ở quá khứ của một sử gia giàu cảm xúc như
Quỳnh Như.
86
Phân thân
Từ ngày về hưu, tôi thường ra công viên gần nhà
tập thể dục vào buổi sáng. Cuối buổi tập, tôi hay tản
bộ men theo con đường lát gạch ven bìa công viên.
Một hôm, đang tản bộ, một người đàn ông luống
tuổi từ đằng sau tiến nhanh lên đuổi kịp và song hành
cùng tôi. Tôi nhìn sang, một người trông dáng nhiều
tuổi nhưng còn khỏe mạnh, tóc hoa râm, bộ dạng
không phải người Việt. Chưa ai mở miệng nhưng
chúng tôi đã kịp hiểu nhau. Bằng ý nghĩ, người lạ
hỏi:
- Chào anh, tên tôi là Paoli.
Tôi cũng đáp lại bằng ý nghĩ trong đầu:
- Còn tôi tên là Kim.
- Anh ở gần đây chứ?
- Vâng, nhà tôi ở gần đây.
Tôi tò mò:
- Anh người nước nào mà có tên Paoli?
Chưa nhận biết câu trả lời, liếc nhìn sang, đi bên
tôi không còn là một già tóc hoa râm mà là một cô
gái trẻ.
- Tôi từ một thế giới khác đến đây.
Vừa trả lời xong, cô gái trẻ biến thành một chàng
thanh niên đẹp trai. Tôi nghĩ thầm:
- Đúng là mình đang gặp ma giữa ban ngày!
Chàng thanh niên lại biến thành ông già lúc đầu.
- Tôi đã nói tôi từ một thế giới khác đến đây chứ
không phải ma. Ở đây ma nhiều lắm, họ đang sống
cùng các anh và chính từ người các anh chết đi mà
thành.
Tôi đã bình tĩnh trở lại và không còn sợ hãi như
87
trước:
- Thế giới nào? – tôi hỏi.
- Một hành tinh văn minh hơn hành tinh của các
anh đang sống.
- Thế tàu vũ trụ của anh để ở đâu?
- Tôi đến đây không bằng tàu vũ trụ mà bằng
phép phân thân.
- Nghĩa là sao?
- Tôi tự chia cơ thể tôi thành hai nửa, một nửa
thực còn đang ở tại hành tinh nhà, còn một nửa ảo
chu du trong vũ trụ và cuối cùng đã đến đây.
Dừng lại một lúc, người lạ nói tiếp bằng ý nghĩ:
- Nhân loại hành tinh chúng tôi thuộc nền văn
minh tâm linh. Mọi thứ chúng tôi muốn có và xây
dựng nên đều bằng ý chí và bằng những câu thần chú.
Theo tôi được biết, ở hành tinh của anh, xưa kia có
rất nhiều và ngày nay hiếm hoi mới có vài người làm
được điều này.
- Anh dựa vào đâu mà nói như vậy?
- Tôi đã đến Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng và một số
nước, đã thấy nhiều công trình xưa được xây dựng
không phải bằng kỹ thuật mà bằng ý chí và niệm chú.
Tôi bắt đầu thích thú và tò mò hỏi:
- Việc dùng được ý chí và các câu thần chú là do
bẩm sinh hay phải rèn luyện?
- Phải khổ luyện mới có chứ con người mới được
sinh ra làm sao có ngay kiến thức của một nền văn
minh cao bao giờ.
Tôi phải thừa nhận:
- Đúng là nền văn minh tâm linh đã biến nhiều
chuyện phức tạp khó khăn trở nên đơn giản và dễ
dàng. Trong nền văn minh kỹ thuật, con người muốn
88
du hành vũ trụ phải biết chế ra con tàu khắc phục
được sức hấp dẫn của các hành tinh, lại phải có tốc
độ cao gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng. Ở đây, anh chỉ
cần phân thân là có thể đến bất cứ hành tinh nào, rất
nhanh chóng và thật đơn giản quá!
Dừng lại một lúc, tôi lại tò mò hỏi tiếp:
- Ở hành tinh chúng tôi hiện nay, có một số người
có đầu óc viễn tưởng, mong muốn chế ra một chiếc
máy có thể đưa con người vượt thời gian, nghĩa là
muốn trở về quá khứ hay đi về tương lai đều được.
Chỉ mới nghĩ ra thôi chứ còn lâu hoặc không thể, chế
ra được chiếc máy thần kỳ ấy. Phân thân đã chứng tỏ
khả năng vượt không gian, còn vượt thời gian thì
sao?
Anh bạn khẳng định:
- Tôi có thể phân thân về quá khứ hoặc về tương
lai được, nhưng người ở các thời ấy không thể nhìn
thấy tôi nếu tôi không muốn hiện hình. Thật ra, hình
của tôi chỉ là ảnh sao chép của tôi từ hành tinh nhà
mà không ai có thể hại tôi và tôi cũng không thể tác
động vào xã hội thời quá khứ hoặc thời tương lai
được.
Nói vừa dứt câu, anh bạn biến mất. Tôi lại lẩm
bẩm:
- Đúng sáng hôm nay, mình đã gặp ma rồi!
Nhưng liền ngay sau đó, tôi nghe trong đầu câu
trả lời:
- Tôi đã bảo tôi là người của hành tinh khác chứ
không là ma cơ mà! Hiện giờ, tôi đang đi bên anh,
nhưng vô hình. Thôi, chào tạm biệt. Nếu có duyên,
chúng ta sẽ còn dịp gặp lại nhau.
Bẵng đi thời gian khoảng một tuần, Paoli xuất
89
hiện đột ngột bên cạnh tôi khi tôi đang tản bộ trên
đường lát gạch vòng quanh công viên. Lần này là một
cô gái trẻ trung. Sở dĩ tôi biết cô gái là Paoli vì hắn ta
xuất hiện như ma. Không nói thành lời, tôi chào hỏi
trước:
- Chào Paoli, rất vui mừng được gặp lại. Thực sự
Paoli là chàng trai, cô gái hay ông già?
- Thực sự là ông già cỡ tuổi anh. Anh có muốn
biến thành cô gái giống hệt tôi không?
- Được sao?
- Được quá đi chứ!
Tôi thoắt nhìn lại mình và người bạn và thấy như
hai chị em sinh đôi đang tản bộ cạnh nhau.
- Tự tôi có thể biến mình thành một chàng trai trẻ
đẹp được không?
- Được. Hãy nhẩm câu thần chú “Ba ra ca ram sa
ram. Hãy biến tôi thành chàng trai trẻ đẹp. Ba ra ca
ram sa ram”.
Đúng là sau khi nhẩm xong câu thần chú, tôi biến
thành một chàng trai trẻ đẹp thực sự. Chàng trai
khoác tay cô gái đi dạo như một cặp tình nhân. Chàng
trai hỏi cô gái:
- Giả sử khi về nhà, tôi đọc câu thần chú trên
nhưng nội dung là ‘Hãy biến tôi trở lại ông già như
cũ’ có được không?
- Không.
Tôi thốt nhiên hoảng hốt thực sự:
- Vì sao? Chẳng lẽ anh muốn chơi khăm tôi à?
- Tôi không ác thế đâu. Nếu anh đọc câu thần chú
đó ngay tại đây thì được, vì có tôi giúp sức. Còn khi
về nhà, anh không có ý chí đủ mạnh để câu thần chú
thực hiện lời ước.
90
Tôi vội vàng nhẩm ngay câu thần chú và kết quả
là tôi trở lại hình dạng vốn có. Cô gái quàng tay phải
qua người tôi, còn tay trái ôm bụng cười sặc sụa. Tôi
thầm ước:
- Giá như mình có ý chí đủ mạnh nhỉ?
Nhưng Paoli biết tôi nghĩ gì và bảo:
- Nếu anh muốn, ta cùng về hành tinh của tôi rồi
tôi bày cách cho anh khổ luyện.
Nếu được du hành qua hành tinh khác thì không
gì quý bằng. Nhưng bấy giờ, thật tình tôi chưa có ý
định này. Rồi tôi tránh không suy nghĩ đến nó nữa để
Paoli không đoán được ý định của tôi. Tôi nghĩ sang
ý khác:
- Nếu Paoli giúp tôi trở về quá khứ hay đi đến
tương lai thì hay quá. Chắc chắn, chúng mình sẽ có
được những cuộc du ngoạn thú vị.
Không chần chừ suy nghĩ lâu, Paoli đáp ngay:
- Được quá đi chứ! Tôi sẽ giúp anh phân thân.
Anh về nhà chuẩn bị đi. Không phải mang theo hành
lý gì hết. Anh sắp xếp có một buồng riêng và một
chiếc giường. Không một ai được vào buồng riêng
của anh trong lúc phân thân. Anh sẽ khóa trái cửa lại
và nằm dài lên giường. Sáng mai, tôi sẽ đến nhà anh
và cùng đi.
Buổi chiều hôm đó, tôi nói cho cả nhà biết là sáng
hôm sau tôi sẽ đi du lịch cùng một người bạn học cũ.
Một thời gian sau, tôi sẽ tự về, cả nhà không phải lo
lắng gì.
Buổi sáng hôm ấy, tôi vẫn ra công viên tập thể
dục và tản bộ như thường lệ. Sau đó, tôi dẫn Paoli về
nhà tôi. Mâm thức ăn sáng đã bày sẵn, tôi mời Paoli
cùng ăn nhưng Paoli từ chối:
91
- Khi phân thân thì con người mình không cần ăn
uống gì. Sau bữa điểm tâm, anh hãy đi vệ sinh, tắm
rửa sạch sẽ rồi chúng ta cùng đi.
Đã quá 8 giờ sáng. Vợ và hai đứa con tôi đều đi
làm. Tôi cùng Paoli vào phòng, khóa trái cửa lại. Tôi
nằm lên giường và thế rồi cả hai chúng tôi bước
xuyên qua tường, đi ra. Chúng tôi đi qua rất nhiều
người, lạ có quen có, nhưng không một ai nhận thấy
chúng tôi. Thế là tôi đã phân thân!
Paoli nhấc tôi bay bổng lên không trung. Gió rít
bên tai mỗi lúc một dữ dội, sau đó dịu dần rồi im bặt.
Tôi mở mắt nhìn thấy cả hai đang đứng bên một bờ
biển vắng người, bãi cát trắng phau rất sạch như chưa
từng có dấu chân người. Nước biển trong xanh dịu
mắt, sóng vỗ rì rào êm ả. Tôi hỏi Paoli:
- Đây là nơi nào?
- Mình không rõ, nhưng chắc chắn đây là một
vùng biển của Việt Nam.
- Thế bây giờ là thời điểm nào?
- Mình cũng không rõ. Bây giờ, anh muốn đến
đâu, vào thời gian nào hãy đọc câu thần chú mà mình
đã bày trước đây với nội dung khác.
Tôi bắt đầu đọc câu thần chú:
- “Ba ra ca ram sa ram. Hãy đưa chúng tôi về quê
tôi vào quãng tháng Hai năm 1954. Ba ra ca ram sa
ram”.
Ngay tức khắc, hai chúng tôi có mặt tại nhà tôi
vào lúc đó. Một căn nhà vách đất mái tranh tồi tàn
thời kháng chiến 9 năm. Má tôi đang nằm võng ru
đứa em gái của tôi vừa mới sinh được mấy tháng. Ba
tôi vắng nhà, hình như là ông mang vó ra các hồ ven
quốc lộ vớt mấy con cá nhép về cho bữa trưa. Một
92
chàng trai vạm vỡ vừa đến tuổi 20 chính là tôi đang
hai tay xách hai thùng nước nặng múc từ ao lên, tưới
mấy đám rau muống xanh tốt. Thằng em trai lớn của
tôi dáng còm nhom ngồi xổm bên cánh võng má tôi
đang nằm, hí húi đan bao lác. Ba đứa em sau của tôi
đi đâu vắng, có lẽ đang dạo chơi bên hàng xóm. Nhìn
cảnh nhà vắng vẻ đìu hiu và túng bấn xưa kia, tôi
không cầm được nước mắt. Tôi hối hận lúc phân thân
không mang theo một ít tiền để giúp đỡ gia đình.
Nhưng chợt nghĩ lại dẫu có mang được tiền thì đồng
tiền hiện tại vô giá trị trong thời quá khứ. Còn vàng
thì tôi không có. Paoli bảo khi phân thân, anh chỉ là
hình ảnh không thực. Anh hiện diện tại đó mà không
ai nhìn thấy, chỉ có thể suy nghĩ, cảm nhận và cùng
lắm là trao đổi ý nghĩ chứ không thể mang theo bất
cứ đồ vật gì. Tôi chưa đủ sức mạnh ý chí để có thể
trao đổi ý nghĩ với người thân. Tôi mà hiện ngay ra
đây chỉ có làm cả nhà hoảng lên thôi. Tôi kéo Paoli ra
khỏi nhà, đi thăm lại các nơi kể cả nhà những người
bạn thân. Sau này, có đứa sẽ chết trận trong thời nội
chiến, có đứa sẽ sống bên xứ người, có đứa sẽ chết
bệnh sau ngày thống nhất đất nước vài năm. Sau đó,
tôi niệm thần chú trở về ngày 5 tháng 1 năm 1973,
tức là trước hai ngày ba tôi mất (mồng 4 tháng Chạp
năm Nhâm Tý) đến tại số nhà 132, đường Võ Tánh,
Quy Nhơn. Lúc này cả nhà tôi đang bấn lên vì ba tôi
đang ở thời kỳ cuối của bệnh ung thư vòm họng nên
rất yếu. Mọi người không biết ba tôi sẽ sớm ra đi lúc
nào. Tôi muốn nhờ Paoli niệm thần chú để ba tôi
mạnh khỏe, sống lại nhưng Poali lắc đầu:
- Khi trở lại quá khứ hay đi về tương lại, phân
thân không được phép và cũng không thể làm thay
93
đổi hiện trạng của thời đó. Con người chết có số cả
đấy. Có số chết bình thường nhưng cũng có số chết
bất đắc. Với số người chết bất đắc, trong hiện tại, ta
có thể niệm thần chú cứu sống được.
- Nếu mình niệm thần chú mong đừng chết có
được không?
- Niệm thần chú để khỏe mạnh, không bị bệnh tật
gì thì được. Điều đó có nghĩa mình sẽ sống thọ.
Nhưng đến số thì vẫn phải chết thôi, được cái trước
khi chết, mình không bị đau đớn gì.
Về quá khứ để thăm lại cảnh cũ người xưa đối với
tôi bây giờ thực sự chỉ để chuốc lấy đau lòng mà thôi.
Trong lúc tâm thần bấn loạn, tôi đề nghị Paoli trở về
thời hiện tại. Paoli ngạc nhiên:
- Phân thân chỉ để xem lại mấy cảnh của quá khứ
này thôi ư?
- Thú thật với Paoli, trở về nhà thời quá khứ,
mình chỉ thấy thêm đau khổ mà thôi. Bây giờ thì bố
mẹ và một số đứa em của mình đã trở thành người
thiên cổ rồi.
Paoli chân thành đề nghị:
- Hay là nhân dịp này, bạn về thăm hành tinh của
mình một thời gian được không? Mình sẽ dạy bạn
cách rèn luyện ý chí và thuật phân thân.
- Đi như thế có lâu không?
- Khoảng một năm.
- Một năm thì mình không thể. Vắng nhà lâu như
thế, cả nhà mình sẽ cuống lên, cho là mình mất tích
và rồi cả địa phương mình sẽ ầm ĩ cả lên.
- Bạn khỏi lo. Mình có cách làm cho cả nhà bạn
kể cả hàng xóm láng giềng không ai còn nhớ đến việc
bạn đi vắng lâu. Sau một năm, bạn sẽ tự mình vượt
94
thời gian trở về nhà vào đúng thời điểm mà bạn đã ra
đi.
Thế là từ nơi chôn nhau cắt rốn của tôi thời quá
khứ, chúng tôi bay thẳng đến hành tinh của Paoli thời
hiện tại. Trong lúc bay, tôi bị mê đi, không còn biết
những gì đã xảy ra quanh mình. Sau này, Paoli bảo
cho tôi biết bạn đã biến cả hai đứa thành một vật thể
bay bé tẹo, len lách qua các thiên hà và những vành
đai bụi vũ trụ để cuối cùng về đến nhà bạn an toàn.
Theo Paoli mô tả, hành tinh này lớn cỡ Trái Đất
chúng ta. Bầu không khí tương tự như Trái Đất,
nhưng trong lành hơn nhiều. Cảnh quan thiên nhiên
hầu như ít có bàn tay con người can thiệp. Đồi núi,
đồng bằng, sông ngòi và biển cả giống hệt Trái Đất.
Nhưng dân số khá ít, chỉ khoảng vài triệu và mấy
nghìn năm qua vẫn thế, chứ không tăng không giảm.
Ngày trên hành tinh này dài gấp đôi ngày của
Trái Đất. Cho nên nếu tính tuổi thì bao giờ tuổi của
họ cũng dài gấp đôi tuổi của ta. Nền văn minh này
cho phép họ sống đến nghìn năm. Họ không bao giờ
bị bệnh tật làm suy kiệt sức khỏe. Lúc vừa nhuốm
bệnh, chỉ cần dùng ý chí và niệm thần chú là họ khỏi
bệnh ngay.
Tôi hỏi trên hành tinh có thú dữ không. Paoli trả
lời có và khá nhiều nhưng không làm hại được ai do
chúng bị loài người chinh phục bằng những câu thần
chú, trở nên hiền lành và cam chịu.
Paoli dẫn tôi vào nhà và giới thiệu tôi với toàn thể
người thân. Gia đình Paoli vẫn còn ông bà, bố mẹ và
anh chị em. Căn nhà khá trống trải và xây dựng rất
đơn sơ bằng những vật liệu thiên nhiên, nhưng không
vì thế mà ta cảm thấy nó tồi tàn. Paoli bảo sống như
95
thế sẽ gần gũi với thiên nhiên hơn. Tôi nghi ngờ ban
đêm hành tinh này sẽ sống trong tăm tối, nhưng Paoli
chỉ ngay cho tôi thấy những quả cầu bằng pha lê treo
khắp chốn trong nhà, chỉ cần đọc thần chú là chúng
phát ra ánh sáng soi tỏ giống thứ ánh sáng ban ngày.
Tôi ở đây là ảnh phân thân, không cần ăn uống đã
đành, nhưng suốt cả ngày chưa thấy lúc nào cả gia
đình Paoli cùng quây quần ăn uống. Tôi thắc mắc thì
được Paoli giải thích rằng trên hành tinh này, bằng
niệm thần chú, loài người vẫn no đủ mà không cần ăn
uống. Thực ra thì ngay từ khi mới ra đời, đứa bé đã
quen với việc hấp thu năng lượng vũ trụ rồi. Sau mấy
tháng bú mẹ, muốn dứt sữa, người mẹ phải niệm thần
chú để dùng năng lượng vũ trụ nuôi con chứ không
cho con ăn uống gì.
Khi ngồi hàn huyên cùng gia đình Paoli, nhiều
người hỏi tôi sống như thế nào ở hành tinh của mình.
Tôi phải nhờ Paoli hỗ trợ để tôi niệm thần chú, một
căn nhà bê tông một trệt một lầu y như thật xuất hiện
ngay trên sân nhà Paoli. Tôi dẫn mọi người vào
trong, giới thiệu những tiện nghi sinh hoạt như đèn
điện, quạt máy, tủ lạnh, vòi nước, nhà tắm. Chỉ vào
đèn điện, đèn bật sáng. Chỉ vào quạt máy, quạt quay
vù vù. Mở tủ lạnh, đèn tủ lạnh phát sáng soi tỏ những
thức ăn trữ bên trong. Vặn vòi nước, nước tuôn chảy
xối xả. Mọi người xem xét căn nhà của tôi ra chiều
thích thú. Nhưng không ai có ý nghĩ ham muốn được
sống trong một căn nhà như vậy. Khi tất cả mọi
người vừa bước ra ngoài thì căn nhà bỗng biến mất
như tan vào không khí. Tôi hơi ngạc nhiên thì được
Paoli giải thích do ý chí của tôi chưa đủ mạnh nên
không giữ căn nhà hiện hữu được lâu. Vả lại, câu
96
thần chú nếu được niệm bằng ngôn ngữ hành tinh của
Paoli thì hiệu quả mạnh mẽ hơn. Bởi vậy, dù trao đổi
được cho nhau bằng ý nghĩ nhưng tôi nên học ngôn
ngữ của hành tinh. Đương nhiên, Paoli sẽ dạy tôi nói
đồng thời với dạy rèn luyện ý chí.
Hóa ra, khi học ngôn ngữ của hành tinh, tôi mới
vỡ lẽ hành tinh này chỉ có một dân tộc duy nhất và
cùng dùng một thứ tiếng nói và chữ viết. Chữ viết
khá đơn giản và dễ học. Tiếng nói đều đều một thanh
không lên bổng xuống trầm. Nhưng cư dân hành tinh
này rất ngại nói mà chỉ trao đổi với nhau bằng ý nghĩ.
Thông qua những người thân trong gia đình Paoli,
tôi nghĩ cư dân của hành tinh này sống có vẻ giản dị,
thanh bần và chịu đựng một cuộc đời đạm bạc, không
có nhu cầu cao về vật chất. Biết tôi suy nghĩ gì, Paoli
thanh minh:
- Đó là tôi nghĩ thế chứ không hẳn như vậy. Quan
niệm và cách sống của loài người trên mỗi hành tinh
có khác nhau. Hạnh phúc không nhất thiết phải có ăn
ngon, mặc đẹp, nhà cao to, phương tiện đi lại nhanh
chóng, đời sống vật chất đầy đủ tiện nghi như ở Trái
Đất. Loài người chúng tôi sống theo kiểu thích nghi
với tự nhiên. Dẫu khí hậu trở nên khắc nghiệt đến
mức nào, chúng tôi vẫn có thể chịu được. Chúng tôi
hòa mình vào thiên nhiên, chứ không cải tạo thiên
nhiên để phục vụ mình như loài người các bạn.
Tôi ngỏ ý muốn đến trình diện thủ lĩnh hành tinh.
Paoli bảo không cần đâu, mình đến chỉ làm phiền ông
ấy thôi. Ở một hành tinh văn minh và hòa bình như
hành tinh này, không một ai có hành động gây rối trật
tự hoặc làm ảnh hưởng đến cuộc sống người khác.
Cho nên người lạ đến hành tinh này không bắt buộc
97
phải trình diện chính quyền.
Paoli dẫn tôi đi thăm thú các nơi nhưng hầu như
nơi nào cũng na ná như trên Trái Đất, không có gì
khác biệt hấp dẫn. Thời gian còn lại, Paoli giúp tôi
học ngôn ngữ và ngồi thiền, tập trung tư tưởng và rèn
luyện ý chí. Phần lớn thời gian trong ngày, tôi sống
theo kiểu vô thức, nghĩa là chẳng làm gì cả, chẳng
suy nghĩ gì cả, thả lỏng hoàn toàn cơ thể, hít thở đều
đều theo phương pháp chỉ dẫn. Paoli bảo việc hít thở
có liên quan đến việc hấp thu năng lượng vũ trụ, làm
cho việc học ngôn ngữ và rèn luyện ý chí chóng hiệu
quả. Tuy nhiên có lúc, chúng tôi cũng dành trọn ngày
để rong chơi giải trí như đi tắm sông, tắm biển, leo
núi ngắm cảnh hoặc khám phá các hang động. Có lúc
chúng tôi đuổi theo các bầy thú hoang, quan sát
chúng sinh hoạt thế nào nhưng khi đó bắt buộc chúng
tôi phải ở dạng vô hình. Trái cây ở rừng thì ê hề,
chim chóc tha hồ ăn no nhưng tôi không ăn được đã
đành mà Paoli lại cũng không màng đến.
Cuộc rèn luyện kéo dài khoảng sáu tháng tương
đương với thời gian một năm trên Trái Đất. Lúc bấy
giờ, Paoli bảo tôi hãy tìm đến một bãi đất vắng, tự
mình thực hành, dùng ý chí và niệm thần chú bằng
ngôn ngữ địa phương thử xem có đạt những mong
muốn mà không cần nhờ đến sự trợ giúp của Paoli
nữa không. Tôi đã thử làm như vậy và hoàn toàn
thành công.
Thế rồi đã đến lúc chia tay, chia tay với gia đình
Paoli và cả những người hàng xóm. Sau khi nhận lời
chào tạm biệt, Paoli bảo tôi ngồi yên, tập trung ý chí
niệm thần chú với nội dung muốn trở về nhà.
Thế là trong chớp mắt, tôi đã có mặt tại nhà. Khi
98
tôi nhổm dậy từ giường của mình, một cơn đói ập
đến, cồn cào cả ruột gan. Đó là hậu quả của một thời
gian dài không ăn, không uống. Cả nhà đi vắng. Tôi
mở cửa, xuống nhà bếp, bật lửa nấu một nồi cháo
loãng và nếm từ từ từng tí một. Sau đó, tôi mới nhận
thấy mình chưa tận dụng hết hiệu lực của việc niệm
thần chú để không thấy đói trong trường hợp này và
sẽ an toàn đi đến bữa ăn chung cùng với gia đình.
Tất cả những sự việc đã qua, tôi không muốn nói
lại với gia đình. Tôi âm thầm thực hiện quyền năng
mà tôi luyện được. Tôi biết khi phân thân, tôi không
thể mang theo bất cứ thứ gì như máy ảnh, máy tính
bảng là những thứ có thể ghi lại hình ảnh những nhân
vật quan trọng của thời đại xa xưa hoặc tương lai nên
tôi niệm thần chú để tôi có khả năng họa lại những
chân dung nhân vật trong trí nhớ. Việc này, do tôi
không có năng khiếu hội họa nên phải dành ra
khoảng sáu tháng ròng để chuẩn bị. Khi tôi bắt đầu
vẽ, cả nhà tôi và bạn bè thân thiết, ai cũng lấy làm lạ
sao tôi có thể bất chợt trổ tài hội họa, một lĩnh vực
mà lâu nay chưa ai thấy tôi bộc lộ ra bao giờ.
Sau khi tôi họa chân dung một số người và được
khen là khá giống, tôi bắt đầu vạch kế hoạch phân
thân về quá khứ. Cứ vài ba tuần, tôi lại bịa chuyện đi
du lịch với các bạn già khoảng hai ba ngày. Trong
tình hình nước sôi lửa bỏng của đất nước hiện nay,
tôi có ý muốn quay trở lại các thời ông cha ta đã
chuẩn bị và đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc
như thế nào.
Trước tiên, tôi sẽ về thời các vua Hùng, một là
tìm hiểu triều đại Hùng vương kéo dài trong bao lâu
để giải tỏa thắc mắc của người đời sau về chuyện tại
99
sao thời đó, mỗi đời vua có thể kéo dài hơn cả trăm
năm. Hai là nền văn minh thời đó phải chăng đã sinh
ra Kinh Dịch, chữ thời đó viết theo kiểu gì, có phải
sau Hùng vương thứ 18 là nước ta bị Bắc thuộc lần
thứ nhất hay không. Lịch sử Việt Nam đương đại
đang tranh chấp một ý kiến mới của tiến sĩ Lê Mạnh
Thát cho rằng, nước ta thời đó độc lập cho đến thời
hai bà Trưng làm vua bị thất bại trong cuộc chiến
chống Mã Viện năm 43 SCN và không hề có An
Dương Vương và Triệu Đà. An Dương Vương chỉ là
phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ
truyền sang ta từ thời Hùng Vương. Còn Triệu Đà là
có thực nhưng làm vua nước Nam Việt bên Trung
quốc chứ không phải bên ta. Vì vậy, lịch sử nước ta
nên loại bỏ cuộc Bắc thuộc lần thứ nhất.
Tôi đã gặp nhiều nhân vật như vua Hùng thứ 18,
bà Trưng Trắc, Trưng Nhị và một số nữ tướng tài giỏi
của hai bà như Lê Chân quê ở Hải Phòng, Thánh
Thiên quê ở Bắc Giang, Thục Nương quê ở Thái
Bình, Vương thị Tiên quê ở Ninh Bình, v.v... Khi trở
về, tôi ghi chép các sự kiện thực của lịch sử thời đó
và họa lại theo trí nhớ chân dung của vua Hùng thứ
18, hai vua Trưng Trắc, Trưng Nhị cùng các nữ
tướng Lê Chân, Thánh Thiên, ... như vừa kể. AAA
Lần thứ hai tôi trở lại thời quá khứ vào năm 248
SCN là năm bà Triệu khởi binh đánh quân Đông Ngô
để xác định những nghi vấn về bà Triệu. Bà tên là
Triệu Trinh nương hay Triệu thị Trinh hay Triệu
Quốc Trinh, người quận Cửu Chân tức thuộc tỉnh
Thanh Hóa bây giờ. Bà sinh năm 226 SCN, lớn lên là
người phụ nữ có sức mạnh và giỏi võ nghệ. Lúc bấy
giờ, tức là năm 248, khi dấy bình khởi nghĩa, bà
100
được nhân dân tôn là Nhụy Kiều tướng quân (vị
tướng yêu kiều) hay Lệ Hải bà vương (tức vua bà ở
biển mỹ lệ). Trông bà thật oai phong lẫm liệt, xứng
danh là một nữ tướng. Lịch sử sau này ghi bà “vú dài
ba thước”, đó là huyền thoại rất phổ biến ở phương
Nam từ Hợp phố đến Cửu Chân lúc bấy giờ, phụ nữ
nào cao to, kiệt xuất đều có vú dài ba thước (tương
đương với 1,5 m ngày nay!) mặc dù bà chưa có
chồng và sinh con. Còn Triệu Ẩu là tên miệt thị do
người Trung Quốc đặt cho bà. Ẩu nghĩa mụ, là vú
em. Chống quân Đông Ngô năm sáu tháng thì thua và
bà tuẩn tiết, hưởng dương mới 23 tuổi. Tuy nhiên,
G.S. Lê mạnh Thát đã dẫn Thiên Nam ngữ lục và
Ngụy chí để kết luận rằng Bà Triệu đã không thua bởi
tay Lục Dận, trái lại đã đánh bại viên tướng này. Lục
Dận chỉ chiếm được vùng đất nay thuộc Quảng Tây.
Bà Triệu đã giữ được độc lập cho đất nước đến
khi Đặng Tuân do Tôn Hựu sai sang đánh Giao Chỉ
vào năm 257.
Lần thứ ba tôi trở lại thời quá khứ vào năm 1788
là lúc quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đưa Lê
Chiêu Thống về Thăng Long và phong cho làm An
Nam quốc vương. Quân Thanh sang, quân Tây Sơn
không đón đánh mà bỏ Thăng Long lui về giữ Tam
Điệp, phía nam tỉnh Ninh Bình ngày nay. Ngô Văn
Sở đóng ở sông Cầu cũng đem một vạn quân rút lui
về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng đợi đại quân
Quang Trung. Mọi thông tin được cấp báo về Phú
Xuân và mọi kế hoạch được Quang Trung vạch sẵn.
Quân Thanh tiến vào Đại Việt đến tận Thăng Long
một cách dễ dàng không bị kháng cự nào nên chủ
quan cho rằng quân dân Đại Việt ở Bắc Hà nghênh
101
tiếp chúng hoan hỉ. Tết năm ấy, quân Thanh ở lại
Thăng Long ăn Tết xả láng. Ở Phú Xuân, Hoàng đế
Quang Trung chỉ còn đúng 40 ngày để đưa quân đến
tận Thăng Long đánh úp quân xâm lược đang phè
phỡn, mất cảnh giác. Cả Tôn Sĩ Nghị cũng không
tính được đến mùng 6 Tết quân Quang Trung có thể
đến Thăng Long. Bốn mươi ngày đường, khoảng
cách 1200 dặm tức 800 km, tổng số quân 10 vạn, có 5
vạn từ Phú Xuân và 5 vạn tại Thanh Nghệ Tĩnh cùng
300 thớt voi, nếu muốn đến Thăng Long thì 1 ngày
phải đi được 30 dặm (tức 15 km), và phải đi liên tục
không có ngày nghỉ nào cả. Vào thời điểm đó, từ Phú
Xuân ra Thăng Long chỉ có hai tuyến đường chính.
Đó là đường dịch trạm hay đường thiên lý (gần trùng
với quốc lộ 1A hiện nay) và tuyến thượng đạo, men
theo đồi núi trung du phía Tây. Nếu đại quân Quang
Trung tiến theo đường thiên lý sẽ không lọt qua tai
mắt thám thính của bọn xâm lược và tay sai, nhất là
các thế lực chống lại Tây Sơn. Trong nghệ thuật chọn
con đường tốt nhất tiếp cận mục tiêu, ngoài các yếu
tố địa hình, hậu cần, còn phải bảo đảm yếu tố bí mật
đến tuyệt đối. Trong binh pháp có tổng kết "lai vô
ảnh, khứ vô hình” là muốn ám chỉ sự bí mật của
đường đi. Tuyến thượng đạo có dài hơn một ít so với
tuyến thiên lý nhưng địa hình đồi núi trung du, phải
qua sông đầu nguồn và những con suối cạn. Chỉ có
vài ba con sông lớn như sông Lam, sông Mã... Đây là
thượng đạo có từ xa xưa và các cuộc hành quân của
các triều đại trước thường sử dụng. Như vậy quân sĩ,
voi có thể theo thượng đạo một cách bí mật thần tốc
và đi bình thường 15 km hàng ngày suốt 40 ngày đêm
không mệt mỏi. Với tuyến thượng đạo, vấn đề qua
102
sông suối là dễ dàng, 300 thớt voi đã có chuối rừng
và cỏ làm thức ăn thuận tiện. Và điều quan trọng là
quân địch không thể nào phát hiện có sự động binh
của Quang Trung ra Bắc. Nếu cứ theo tuyến thiên lý,
đại quân sẽ đi qua các vùng có nhiều tai mắt của quân
Thanh, chắc rằng quân Thanh sẽ động binh sớm hơn
kế hoạch dự định. Nói về cuộc hành quân thần tốc
của vua Quang Trung từ Phú Xuân ra Thăng Long,
đó là cuộc hành binh có một không hai với hàng vạn
người, quân đi điệp điệp trùng trùng như sóng. Có
nhiều voi, ngựa và đặc biệt là có nhiều chiếc cáng.
Nói là cáng, nhưng thật ra không hẳn là cáng. Phải
gọi là những chiếc thuyền nan thì đúng hơn. Hình
dạng của nó thuôn nhỏ như chiếc thuyền câu của
đồng bào vùng trũng Bắc bộ. Những chiếc thuyền
nan này được đan bằng tre, chiều dài khoảng 6 thước
(2,4 m), rộng khoảng 2 thước (0,8 m). Đan xong,
người ta lấy vỏ một loại cây có nhựa, cùng với sợi
dây tơ hồng (một loại dây leo), giã nhỏ, trộn với phân
trâu, bò thành một chất kết dính, trát kín thuyền rồi
đem phơi khô (danh từ trong nghề gọi là "xảm"). Cứ
ba người lính lập thành một tổ và trang bị một chiếc
thuyền. Thuyền này được coi như chiến cụ của cả tổ,
các thành viên trong tổ có nhiệm vụ mang vác, bảo
quản, vận chuyển suốt dọc đường hành quân. Để
được thuận lợi, người ta buộc một chiếc đòn tre dài
dọc theo thuyền. Bình thường hai người khiêng hai
đầu đòn tre như khiêng cáng, trên thuyền là vũ khí cá
nhân, dụng cụ, tư trang, gạo nước... của cả tổ. Người
dân từ xa nhìn vào tưởng là cáng người. Thật ra cũng
có khi cáng người, nhưng rất ít. Đó là những trường
hợp có người nào ốm yếu, mệt mỏi, bị thương, thì có
103
thể nằm lên cáng, để hai người khiêng đi. Tuy nhiên
trường hợp này không nhiều. Ai cũng cố gắng không
muốn để đồng đội phải khiêng mình. Tác dụng tốt
nhất của chiếc "thuyền cáng" là để vượt sông. Từ Phú
Xuân ra Thăng Long, đoàn quân phải vượt qua hàng
chục con sông lớn và hàng trăm con sông nhỏ. Huy
động làm sao đủ thuyền bè để đưa hàng chục vạn
quân qua sông cùng một lúc? Mà bơi vượt sông thì
đang là mùa đông (tháng Chạp) trời rất rét. Chính lúc
này chiếc thuyền phát huy tác dụng. Quân đến bờ
sông lập tức thuyền được hạ thủy, giáo mác làm mái
chèo, cứ thế ba người một thuyền sang sông chủ
động, an toàn và đặc biệt là không bị ướt, rét. Dọc
đường hành quân, mỗi khi trời mưa, chiếc thuyền
cáng còn được úp lên đầu thành mái che mưa rất hữu
hiệu. Chiếc thuyền còn có một tác dụng nữa: khi
công đồn nó được dùng làm khiên, cản tên đạn của kẻ
thù để cho quân ta tiến lên, rất có hiệu quả. Do chiếc
"thuyền cáng" có nhiều công dụng như thế nên các tổ
ba người luôn luôn bảo vệ nó, mang theo nó không
bao giờ rời, như là một dụng cụ chiến đấu vậy.Vì thế
mà có câu ca nói về tác dụng của chiếc "thuyền cáng"
này: Giúp quân thần tốc/ Không kể ngày đêm/ Đi
đường làm cáng/ Xuống nước là thuyền/ Trời mưa
làm lán/ Xung trận thành khiên/ Quân đi như nước/
Trên cáng dưới thuyền. Trong cuộc hành quân thần
tốc của vua Quang Trung, chính chiếc "thuyền cáng"
đã góp phần làm cho cuộc hành quân được mau lẹ,
tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, góp phần không nhỏ vào
trận Đại thắng mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789. Nó là
một sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật quân sự tuyệt
vời của Hoàng đế Quang Trung. Từ nghệ thuật chọn
104
đường hành quân, tạo cho đại quân Quang Trung
nhanh chóng, bất ngờ tiếp cận mục tiêu không để
quân xâm lược kịp thời đối phó. Đại quân Quang
Trung đến vùng Ninh Bình, kịp vào Tết Nguyên Đán.
Đại quân đóng ở Nho Quan và ở Tam Điệp là căn cứ
tập kết cũ. Từ hai địa điểm đó, các cánh quân khinh
binh từ Tam Điệp tiến theo đường thiên lý và đường
sông về Thăng Long và Hải Dương, đánh quân địch
tại các đồn từ Thanh Quyết đến Hạ Hồi, Ngọc Hồi.
Đại quân theo thượng đạo vẫn bí mật bám sát tiến
trình của khinh binh. Đêm mùng 4 rạng mùng 5 từ
Chương Mỹ, đại quân chia làm 2 mũi, một mũi do Đô
đốc Long đánh thẳng vào Đống Đa, nhanh chóng tiêu
diệt quân nơi này. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự
tử. Cùng lúc và muộn hơn chút ít, khinh binh tấn
công đồn Ngọc Hồi, tiêu diệt một vạn quân Thanh.
Hai vạn quân địch vòng lên phía Tây Bắc định về
Thăng Long liền bị cánh quân do đô đốc Bảo từ
Chương Mỹ qua Thanh Trì đánh làm hai vạn quân
địch bị dìm chết tại Đầm Mực khiến cho quân Thanh
không kịp động binh vào mùng 6 Tết. Hai đồn quân
tiền tiêu Đống Đa, Ngọc Hồi bị diệt xong mà tại cung
Tây Long Tôn Sĩ Nghị không hề hay biết, vì hai đồn
này bị đánh bất ngờ, không có thông tin nào được
truyền về ngay trong chiến sự. Đại quân tiến vào
Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị chui ống đồng cho quân sĩ
dẫn sang bên kia sông Hồng, cùng bại binh tháo chạy
về nước. Thăng Long và Đại Việt hoàn toàn sạch
bóng quân thù. Đại thắng Mậu Thân - Kỷ Dậu ở
Thăng Long đã thể hiện vai trò nổi bật của hoàng đế
Quang Trung vừa là một chiến tướng, khoác áo bào
đánh từ Ngọc Hồi đến Đống Đa vừa là linh hồn và
105
người chủ xướng cách đánh, chỉ cho các tướng phải
đánh ra sao để giành thắng lợi hoàn toàn.
Lần thứ tư, tôi tạm không trở về quá khứ mà thử
đi vào tương lai xem sao. Tôi chọn tương lai là năm
2200. Rất may là tôi ở dạng vô hình, nếu không tôi sẽ
giống như một anh chàng nhà quê ra tỉnh lần đầu. Để
nhanh chóng nắm bắt tình hình, tôi làm quen với một
người luống tuổi đã về hưu giống như trước đây Paoli
đã làm quen với tôi. Địa điểm cũng là một vườn hoa
của thành phố vào buổi sáng sớm đông người ra đấy
tập thể dục và tản bộ. Người ấy tên là Thụ, từng là
giảng viên một trường đại học kỹ thuật. Tôi nói thẳng
tôi là ai, từ quá khứ đến đây bằng cách nào và muốn
tìm hiểu trong tương lai người dân xứ mình sống ra
sao. Ở thời chúng tôi đang sống, dân rất cực cả về vật
chất lẫn tinh thần. Tầng lớp cực nhất là nông dân và
công nhân. Các nước trên thế giới luôn sống trong sợ
hãi, chiến tranh liên miên gây ra thảm cảnh đổ máu
chết chóc. Vẫn còn cảnh tranh giành lãnh địa, xâm
chiếm tài nguyên lẫn nhau, nô dịch dân tộc khác.
Trong nước thì giới lãnh đạo đã để đất nước suy thoái
tận cùng về tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, y tế, giáo
dục, đạo đức, càng ngày càng mất niềm tin với dân
chúng. Thụ bảo cảnh ấy bây giờ không còn nữa. Các
nước sống với nhau hòa bình, dưới sự cai quản chung
bởi một cơ quan giống như Liên hợp quốc khi xưa.
Thế giới đã giải quyết được nạn thiếu năng lượng, đã
chấm dứt việc khai thác năng lượng không tái tạo ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường thiên nhiên. Tôi
bảo:
- Tôi muốn biết tình hình thế giới và trong nước
từ năm 2015 đến năm 2100.
106
Thụ bảo:
- Lúc ấy tôi chưa ra đời, làm sao tôi biết được.
Tôi mời anh về nhà tôi, ta bật mở máy tính, tha hồ
anh tìm tòi dữ kiện lịch sử thời đó.
Thế là tôi theo anh đi bộ về nhà cách vườn hoa
không xa. Và tôi đã toại nguyện.
Tất cả những chuyến về quá khứ và về tương lai,
tôi ghi chép cẩn thận vào một cuốn sổ tay và đồng
thời vẽ cả những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt
Nam. Tôi không dám và cũng không có ý định công
bố những sự kiện đó bởi vì tôi không thể nêu chứng
cứ có được là do mình phân thân.
107
Chuyển một bộ tộc về quá khứ
Đây là chuyến thứ mười và cũng là chuyến cuối
cùng di dân đến đây. Năm trăm con người nam nữ
già trẻ lớn bé đều có cả. Họ là những người may mắn
sống sót trong một trận dịch lan tràn như bão tố giết
chết lần lượt nước này đến nước khác của hành tinh
với tổng số dân có đến hàng trăm triệu. Trong lúc
mọi người ở lục địa lăn ra chết thê thảm thì những
người này đang ở một hòn đảo cách biệt, là nơi tập
trung những bộ óc siêu việt nhất hành tinh. Nơi đây
cũng đang sở hữu những phòng thí nghiệm hiện đại
nhất, những công xưởng chế tạo tàu vũ trụ liên hành
tinh. Họ từ bỏ hành tinh quê hương ra đi nhưng vẫn
không hiểu bệnh dịch phát sinh do đâu và nguồn gốc
gây bệnh là gì mà sức tàn phá ghê gớm và nhanh
chóng không kịp xoay trở như vậy.
Một kế hoạch di dân khẩn cấp đến một hành tinh
khác được đảo trưởng triệu tập các nhà khoa học
cùng vạch ra. Các nhà du hành vũ trụ giới thiệu một
hành tinh xanh chưa có người ở cách đó khoảng mười
năm ánh sáng. Điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và
những thông số khác của hành tinh ấy hoàn toàn phù
hợp cho cư dân: không khí chứa 77% khí nitơ; 22%
khí oxy; 0,95% khí trơ và 0,05% khí carbonic, áp
suất khí quyển 0,89 atmosphe, gia tốc trọng trường
800 cm/giây bình phương.
Thế rồi, những con tàu vũ trụ khổng lồ chở vật
liệu xây dựng cùng với công nhân lần lượt đi trước,
sau đó chở những trang bị thí nghiệm, những máy
móc sản xuất đồng thời với những con tàu nhỏ hơn
chở hành khách. Sau đó, lại chính những con tàu vũ
108
trụ khổng lồ ấy mang bom đạn cháy có tính hủy diệt
hàng loạt quay trở lại ngậm ngùi thiêu rụi tất cả, biến
hành tinh quê hương thành một hành tinh lửa, khói
đen bao trùm ngăn cản ánh sáng mặt trời, nhấn chìm
cả hành tinh trong cảnh đêm đen tận thế.
Tại hành tinh mới, những người di tản bắt đầu
xây dựng trước tiên là những nhà ở tạm, sau đó đến
nhà máy điện, nhà máy nước và các phòng thí
nghiệm, các công xưởng sản xuất lương thực, thực
phẩm và hàng tiêu dùng. Tất cả các công trình tập
trung trên một diện tích bằng diện tích của đảo cũ.
Mọi hoạt động di dân tiến hành thuận lợi và mọi
người tưởng rằng sắp bước vào thời kỳ sinh hoạt ổn
định thì bỗng nhiên trong một đêm, toàn bộ khu vực
nhà ở bị bao vây. Không hiểu từ đâu, người dân bản
địa xuất hiện rất đông. Họ giống như người thời kỳ
đồ đá, không quần áo che thân. Mỗi người cầm một
bó đuốc. Họ la hét ầm ĩ ra dáng muốn xua đuổi người
lạ. Máy phiên dịch trực tiếp từ ý nghĩ của dân bản địa
cho biết họ muốn nói:
“Mọi người hãy cút đi”
“Đây là lãnh địa của chúng tao, chỉ có chúng tao mới
được quyền ở”
“Mảnh đất này đã có chủ, chúng mày phải cuốn xéo
ngay”.
Người bản địa làm náo loạn không cho ai ngủ
suốt cả đêm hôm ấy. Khi mặt trời vừa ló dạng, họ vội
vàng rút đi ngay.
Sáng hôm sau, đảo trưởng đã được bầu làm thủ
lĩnh, triệu tập cuộc họp khẩn cấp để bàn việc đối phó.
Ông hỏi:
- Các nhà du hành nghĩ sao? Chúng ta đã chọn
109
nhầm hành tinh đã có người ở rồi chăng? Bây giờ
mọi người tính sao đây? Rút lui hay ở lại?
Một nhà du hành trả lời:
- Trước khi đến đây, chúng tôi đã rà soát kỹ từng
ngóc ngách của hành tinh mà có thấy bóng dáng một
sinh vật giống người nào đâu. Bây giờ mới biết người
bản địa chuyên sống trong hang vào ban ngày, còn
ban đêm họ mới ra ngoài kiếm ăn.
Đa số các nhà khoa học bàn nên thương lượng
với họ để ở lại. Họ đang ở thời kỳ trình độ thấp kém.
Ta có thể giúp họ có cuộc sống tốt hơn, văn minh
hơn.
Sang đêm thứ hai, người dân bản địa lại đến bao
vây như lần trước. Họ lại hò hét những ý mà máy
phiên dịch đã dịch. Một nhà khoa học cầm loa nối với
máy phiên dịch nói to cho tất cả dân bản địa cùng
nghe:
“Hành tinh rộng lớn, đủ chỗ cho mấy trăm con người
chúng tôi cùng với dân bản địa chung sống hòa bình”
“Chúng tôi tôn trọng và không can thiệp vào đời sống
vốn có của dân bản địa”
“Ngược lại, chúng tôi có thể giúp dân bản địa có cuộc
sống ấm no, không phải vất vả về chuyện ăn, mặc,
ở”.
Tiếng dân bản địa đốp chát trả lời:
“Chúng tao không cần chúng mày giúp đỡ”
“Chúng tao vốn có cuộc sống riêng của chúng tao từ
xưa”
“Đất đai này là do ông bà chúng tao ngày xưa để lại,
không ai có quyền xâm phạm”
“Chúng mày phải lập tức cuốn xéo ngay”.
Thế rồi, tên bắn như mưa vào các căn nhà lập tạm.
110
Mọi nhà lập tức đóng kín cửa và không ai dám ló mặt
ra ngoài. Tuy nhiên một số người không kịp chạy
trốn đã bị tên có tẩm thuốc độc bắn tử nạn. Mọi
người lại một đêm thức trắng vì mất ngủ và lo lắng vì
có người chết. Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló dạng,
đám người dân bản địa lại vội vàng rút đi hết.
Thủ lĩnh triệu tập cuộc họp khẩn cấp vì có người
chết. Ai cũng tỏ ra lo lắng, đau khổ và hối hận vì chủ
quan thiếu cảnh giác. Các nhà khoa học cùng nhận
định là dân bản địa khá hiếu chiến và rất sợ ánh sáng
mặt trời. Có lẽ họ ở sâu trong các hang động, chỉ dám
ra ngoài vào ban đêm để kiếm ăn nên nhiều lần tàu
vũ trụ bay rà rà vào ban ngày trên hành tinh mà
không phát hiện ra họ là vì vậy. Cuối cùng, thủ lĩnh
quyết định dùng con tàu vũ trụ lớn bay ngược trở lại
quá khứ cách đó một ngày, lúc mà chưa có ai bị tên
bắn tử nạn, gia cố cẩn thận các nhà ở tạm và ra lệnh
cấm mọi người mở cửa hoặc ra bên ngoài lúc đêm
xuống, đồng thời chuẩn bị nhiều đèn pha công suất
lớn để đối phó với dân bản địa.
Đến đêm thứ hai ở thì hiện tại, người dân bản địa
đến bao vây như lần thứ nhất. Họ lại hò hét những ý
mà máy phiên dịch đã dịch. Một nhà khoa học cầm
loa nối với máy phiên dịch nói to cho tất cả dân bản
địa cùng nghe. Họ vẫn khăng khăng từ chối như lần
trước, đồng thời cho người bắn tên như mưa vào khu
nhà ở tạm nhưng vì đã chuẩn bị kỹ trước đó nên
không ai việc gì. Dân bản địa cũng rút lui lần này khi
những tia sáng đầu tiên của mặt trời vừa ló dạng.
Đêm thứ ba, dân bản địa lại đến, lại hò hét và
chửi bới. Từ các chòi canh, hàng chục chiếc đèn công
suất lớn cùng bật lên chiếu thẳng vào đám dân bản
111
địa. Dân bản địa không chịu nổi thứ ánh sáng công
suất lớn ấy đã phải bỏ chạy tán loạn và không dám
đến gần khu vực dân di tản nữa.
Ngày hôm sau, thủ lĩnh lại triệu tập cuộc họp, nêu
câu hỏi nên rút lui hay bám trụ. Trong lúc mọi người
phân vân chưa biết chọn phương án nào thì một nhà
sinh học nêu ý kiến:
- Dân bản địa này rất hiếu chiến và thù nghịch,
không thể cảm hóa họ được. Ta có thể giúp họ
chuyển đến một hành tinh khác để sống. Về chuyện
mưu sinh, với đời sống rất thấp hiện nay, họ có thể
nhanh chóng hội nhập với cuộc sống ở bất kỳ một
hành tinh xanh nào khác.
Thủ lĩnh quay sang hỏi các nhà du hành:
- Liệu có còn một hành tinh xanh nào đáp ứng
được cuộc sống người dân bản địa không?
- Còn nhiều đấy ạ! Hành tinh gần đây nhất 2 năm
ánh sáng có điều kiện xấp xỉ hành tinh này là về
không khí chứa 78,% khí nitơ, 21% khí oxy, 0,97%
khí trơ và 0,03% khí carbonic, áp suất 1 atmosphe,
gia tốc trọng trường 980 cm/giây bình phương.
Chúng ta chỉ còn bàn làm cách nào để chuyển họ đi
thôi.
Một nhà du hành khác có ý kiến:
- Thưa thủ lĩnh, việc chuyển họ sang một hành
tinh khác tuy khả dĩ nhưng khá tốn kém. Chi bằng, ta
vẫn giữ họ ở đây nhưng chuyển họ về quá khứ cách
nay năm trăm năm hay một nghìn năm chẳng hạn.
Điều này sẽ giúp ta không mang tiếng là xâm chiếm
đất đai của họ và đuổi họ đi nơi khác.
Mọi người thấy đề nghị hợp lý và đồng ý phương
án này. Sau đó thủ lĩnh phân công các nhà du hành
112
cho con tàu trở về quá khứ của hành tinh này ngay tại
đây tìm thời điểm thích hợp với cuộc sống hiện tại
của người bản địa và với điều kiện các hang động lúc
ấy chưa có người ở.
Ngay trong hôm ấy, các nhà du hành đã cho biết
kết quả, khi lùi về quá khứ hai nghìn năm, khí hậu và
thổ nhưỡng hành tinh này vẫn chưa có gì thay đổi
lắm và vùng này hoàn toàn không có người ở. Còn
các nhà khoa học khác làm nhiệm vụ trinh sát nơi ở
của người bản địa hiện nay. Vào thời gian ban ngày,
bằng máy hồng ngoại dò tìm nhiệt, họ xác định được
các hang động có người ở của bộ tộc vừa đến quấy
rối. Sau khi trùm đầu bằng mặt nạ chống độc, họ
dùng súng phun một liều lượng vừa đủ thuốc gây mê
vào các hang, xông vào trong và dùng đèn bấm xem
xét cách ăn ở, sinh hoạt của người bản địa. Hang lớn
nhất là nơi tộc trưởng cùng gia đình và gia nhân ở.
Mọi người nhận ra tộc trưởng ở chỗ là con người to
lớn, mang nhiều trang sức quý giá. Trong lúc người
dân bản địa đang mê man bất tỉnh, họ trói tất cả lại,
gom hết cung tên và những phương tiện sinh sống
mang ra ngoài. Sau đó, đội du hành điều các con tàu
lớn chở tất cả trên 60 người bản địa bao gồm già trẻ
gái trai và các em bé cùng các phương tiện săn bắt và
sinh sống trở về quá khứ ngay trong ngày. Chờ khi
màn đêm vừa buông, con tàu hạ cánh xuống đất, phi
công bật chế độ tàng hình, mở cửa đẩy họ ra. Lúc bấy
giờ trong dạng nửa tỉnh nửa mơ, họ tìm về lại mấy
cái hang có vẻ quen thuộc của mình. Rồi lập tức, con
tàu bốc lên cao, quay về thì hiện tại.
Nói về số phận những kẻ bị đày về quá khứ. Sau
khi tự cởi trói cho nhau một cách dễ dàng, người dân
113
bản địa không sao hiểu nổi tự nhiên các hang của họ
đang ở bỗng cỏ mọc đầy, chim chóc và dơi làm tổ kín
bên trong. Quang cảnh hoang vu giống như chưa bao
giờ có người ở. Đầu óc mụ mẫm, không ai trong số
họ giải thích nổi điều kỳ lạ này. Nhưng công việc
trước mắt là mọi người phải ra sức dọn sạch cây cỏ
mọc trong hang và bên ngoài hang, rồi đem vào hang
cất giấu các phương tiện sinh sống thường ngày của
mình. Tộc trưởng phái một số thanh niên đến hiện
trường có người lạ đã xâm nhập, nhưng những thanh
niên này quay ngay trở về báo là chẳng tìm thấy ai,
họ đã đi hết rồi.
Trong thời gian trinh sát các hang để đưa họ trở
về thời quá khứ, có một điều kinh khủng mà mọi
người không thể hình dung nổi là bộ tộc bản địa này
biết ăn thịt người. Họ phát hiện ngay ở trong các
hang, bên cạnh những xương sọ của các loài thú
hoang, có nhiều đầu người đã bị nướng, róc hết thịt
vứt lăn lóc. Có một hang đang giam giữ năm thanh
niên thuộc người của bộ tộc khác đang còn sống.
Đương nhiên khi chuyển bộ tộc bản địa về quá khứ,
những tù binh này được giữ lại. Các nhà nhân chủng
học xác nhận những đầu lâu và những người bị bắt
giữ là cùng một nhóm bộ tộc bản địa khác. Khi hỏi
những người bị bắt, qua máy phiên dịch, họ trả lời:
- Chúng tôi là những tù binh thuộc bộ tộc Uni, bị
bắt sau cuộc chiến với bộ tộc người Anu.
- Thế các anh có bị giết để làm thức ăn cho họ
không?
- Họ giữ chúng tôi để giết dần, trước tiên là
những người già nhất.
- Bộ tộc các anh có đông không?
114
- Vào khoảng năm mươi người.
-Trong cuộc chiến, các anh có bắt giữ tù binh của
bộ tộc người Anu không? Các anh có ăn thịt những tù
binh này không?
- Chúng tôi có bắt giữ tù binh nhưng chỉ để trao
đổi chứ không hề giết ăn thịt. Ăn thịt người là dã
man, chúng tôi ghê tởm không làm điều này.
- Bộ tộc các anh có sinh hoạt vào ban ngày
không?
- Chúng tôi chủ yếu sinh hoạt vào ban đêm, săn
bắn thú rừng. Ban ngày chúng tôi ngủ vì không chịu
nổi ánh sáng chói lòa của mặt trời.
- Ngoài bộ tộc Anu, các anh có biết còn bộ tộc
nào nữa không?
- Không.
- Bây giờ chúng tôi thả các anh về. Chúng tôi sẵn
sàng giúp bộ tộc các anh thoát khỏi đói nghèo, giúp
xây dựng nhà cửa kiên cố để có cuộc sống no đủ,
miễn là đừng tấn công và xua đuổi chúng tôi. Chúng
ta cùng chung sống hòa bình với nhau và các anh hãy
thuyết phục tộc trưởng các anh chấp nhận đề nghị của
chúng tôi.
Sau đó, chúng tôi đưa họ lên máy bay, bay ở chế
độ tàng hình theo hướng họ chỉ dẫn và cho họ xuống
vào ban đêm. Từ trên cao, qua ánh sáng của các ngọn
đuốc ở bên dưới, chúng tôi thấy từ rất nhiều hang
động, nhiều người ăn mặc rách rưới ùa ra mừng rỡ
đón các người thân trở về.
Ba ngày sau vào ban đêm, chính năm người tù
binh cũ cùng với tộc trưởng đến gặp chúng tôi. Tộc
trưởng trước tiên cảm ơn chúng tôi đã cứu thoát
mạng sống của năm người trong bộ tộc, sau đó vui vẻ
115
ngỏ lời đồng ý đề nghị của chúng tôi và hứa cùng
chung sống hòa bình, không tấn công và không xâm
phạm lãnh thổ của nhau. Sau buổi thương lượng,
chúng tôi chiêu đãi khách bằng những món ngon vật
lạ cùng quần áo đẹp để họ mặc thử và một số đồ hộp
làm quà.
Trong lúc ăn uống, thủ lĩnh chúng tôi hỏi tộc
trưởng:
- Trên hành tinh này, ngoài bộ tộc Anu và Uni,
còn bộ tộc nào nữa không?
- Hành tinh rộng lớn, chúng tôi không có điều
kiện đi xa nên không được rõ lắm. Còn ngay tại đây,
chỉ có hai bộ tộc này thôi.
- Người bộ tộc có thường xuyên bị đói không?
- Chuyện này hay xảy ra. Chúng tôi chỉ có thể ra
ngoài vào ban đêm để kiếm ăn vì ban ngày, ánh sáng
mặt trời chói quá, chúng tôi không chịu nổi. Vì săn
bắt và hái lượm vào ban đêm nên kết quả không
nhiều, ngược lại, chúng tôi rất dễ bị thú dữ tấn công
giết chết.
- Người của bộ tộc có hay bị đau ốm, chết chóc vì
bệnh không?
- Điều này cũng khá thường xuyên. Thường một
người mang bệnh là thế nào cũng chết, không có cách
gì cứu chữa được.
Thế rồi thủ lĩnh và tộc trưởng cùng bàn với nhau
kế hoạch giúp cho bộ tộc thoát khỏi đói nghèo, bệnh
tật và sẽ nghiên cứu giúp cho người của bộ tộc chịu
được ánh sáng mặt trời.
Đêm hôm sau, theo chương trình đã vạch ra với
tộc trưởng, chúng tôi cử hai đội đến nơi cư trú của bộ
tộc Uni. Một đội khám sức khỏe lần lượt cho mọi
116
người, người có bệnh được chữa trị lành bệnh ngay.
Một đội đem theo quần áo phát cho mỗi người hai bộ.
Đội thứ ba phân về mỗi gia đình một thùng bánh và
một thùng sữa đóng chai sẵn, dặn mỗi người mỗi
ngày chỉ cần ăn một phong bánh và uống một chai
sữa cũng đủ no, khỏi phải đi săn bắt thú hoang.
Để giúp bộ tộc này trở nên thích nghi với ánh
sáng chói chang của mặt trời, chúng tôi lập ngay một
trạm xá tại nơi ở của bộ tộc, đêm đêm dùng liệu pháp
gen để chỉnh lý lại bộ gen của người bản địa. Phải
mất năm đêm như vậy, chúng tôi mới xử lý hết cho
toàn bộ cư dân của bộ tộc. Chúng tôi phát cho mỗi hộ
năm bộ kính râm có mức độ đậm nhạt khác nhau giúp
cho người bộ tộc đeo để tập làm quen dần với ánh
sáng. Qua một tuần, toàn bộ người dân của bộ tộc đã
có thể sinh hoạt, đi lại bên ngoài mà không còn sợ
ánh sáng chói mắt của mặt trời nữa.
Sau khi người của bộ tộc bản địa hoàn toàn làm
quen với ánh sáng ban ngày, chúng tôi cử một đội
máy xây dựng, tìm một trảng cỏ bằng phẳng gần các
hang động cũ, san ủi đất tạo nên một mặt bằng để
chuẩn bị xây nhà ở cho họ. Trước mắt là xây nhà ở
tạm thay cho hang động, bắc đường ống dẫn từ con
sông bên cạnh để đưa nước vào các vòi công cộng.
Tất cả các công việc nặng nhọc chính đều do robot
thực hiện. Còn thanh niên dân bản địa chỉ làm mấy
công việc vụn vặt như phát quang, thu dọn làm vệ
sinh nơi ở, thu gom các vật liệu thừa thãi, sắp xếp các
ống dẫn nước từ sông về nơi ở.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại điều động các máy
ủi, san bằng một vùng đất khá rộng và máy cày cày
xới, bón phân và hướng dẫn họ gieo trồng bốn loại
117
ngũ cốc chính gồm lúa mì, ngô, lạc và đậu nành.
Những việc làm này nhằm cung cấp nguyên liệu để
chế biến thức ăn tổng hợp nuôi sống hơn sáu trăm
con người trong tương lai khi mà thức ăn dự trữ đã
hết.
Một ngày nọ, khi chúng tôi hỏi về thức ăn uống
gồm bánh và sữa nhân tạo, mọi người đều trả lời họ
không quen ăn uống thứ này, chỉ thích ăn thịt thú
rừng và uống nước lã thôi. Vì vậy, chúng tôi phải cho
tàu vũ trụ trở về quá khứ đến hành tinh cũ của mình
cách đấy một trăm năm, chở về một trăm con gà và
một trăm con bò cùng với thỏ và dê. Chúng tôi hướng
dẫn người bản địa cách chăn nuôi phát triển số gia
súc này để làm thức ăn.
Ngày thứ ba, chúng tôi cử một đội xây dựng đem
các vật liệu đúc sẵn ghép thành những căn nhà ở cho
từng hộ gia đình, một đội lắp các thiết bị nội thất gồm
đèn, quạt máy, bồn rửa, nhà tắm, nhà vệ sinh. Điện
lấy từ các mái thu quang năng của mặt trời. Nước
sạch được bơm từ con sông gần đó, trữ trên một bồn
nước đặt trên cao có ống dẫn chia về mỗi căn nhà.
Sau này, khi xây dựng nhà máy nước xong, chúng tôi
sẽ dẫn nước đã xử lý hút từ các giếng ngầm đến khu
ở của chúng tôi và của bộ lạc để khỏi lệ thuộc vào
nước sông vào các mùa khô cạn.
Một hôm, thủ lĩnh triệu tập các nhà khoa học lại
và nói:
- Tôi vẫn áy náy về số phận của người bộ tộc
Anu. Chúng ta đã thành công trong việc giúp người
bộ tộc Uni chịu được ánh sáng mặt trời, tại sao chúng
ta không giúp bộ tộc Anu được như thế. Nếu bộ tộc
này sinh hoạt được vào ban ngày, họ sẽ dễ dàng tránh
118
khỏi bị diệt chủng.
Một người có ý kiến:
- Bây giờ chúng ta quay lại chỗ họ, liệu họ có
chống lại ta không?
Thủ lĩnh đáp:
- Có thể không, vì ta không chiếm đất của họ vào
thời đó. Ta sẽ thuyết phục họ cho ta chữa bệnh chói
ánh sáng để họ sinh hoạt được vào ban ngày và kiếm
ăn dễ dàng hơn. Thậm chí ta còn biếu cho họ một ít
gà, bò, thỏ, dê hướng dẫn họ nuôi lấy thịt.
Thế là sau đó, một con tàu vũ trụ bay vào ban
ngày trở về quá khứ. Từ trên con tàu vũ trụ, loa
phóng thanh qua máy phiên dịch kêu gọi:
- Hỡi bộ tộc Anu, chúng tôi vừa chuyển sang nơi
khác chứ không ở chỗ cũ. Chúng tôi không chiếm đất
các bạn. Riêng bộ tộc Uni, họ không chống lại chúng
tôi nên chúng tôi đã giúp họ chữa được bệnh chói
sáng mặt trời và giờ đây, họ đã ra khỏi hang kiếm ăn
vào ban ngày. Chúng tôi còn giúp họ có được một số
động vật nuôi để giết thịt dần trong những lúc không
săn bắt được thú rừng. Nếu người bộ tộc Anu thôi
không chống đối chúng tôi nữa, chúng tôi có thể giúp
các người như đã giúp bộ tộc Uni. Các người hãy bàn
luận đi và trả lời chúng tôi biết trong đêm nay.
Con tàu vũ trụ quay trở về thì hiện tại và đêm
hôm ấy, trở lại quá khứ mang theo các gia súc kể trên
mỗi thứ năm cặp đực và cái cùng một đội y tế chữa
trị chứng chói ánh sáng.
Đêm hôm ấy, từ trên cao, chúng tôi đã nhìn thấy
hầu như toàn bộ người của bộ tộc Anu đều tràn ra
khỏi hang cùng với những bó đuốc sáng rực. Tộc
119
trưởng với dáng người cao lớn, thân thể mang nhiều
vật trang trí đã ngước lên trời nói lớn, qua máy phiên
dịch, chúng tôi nghe được:
- Hỡi những người nhà trời, vì chúng mày không
xâm nhập địa phận của chúng tao nên bộ tộc chúng
tao chấp nhận đề nghị của chúng mày. Hãy xuống
đây và thực hiện những gì chúng mày hứa.
Chúng tôi đã cho tàu hạ cánh xuống đất dưới
dạng tàng hình. Sau đó, dưới con mắt ngạc nhiên của
dân bản địa, họ thấy bỗng nhiên xuất hiện như ma
một người chúng tôi cùng với các con thú mỗi loại
năm cặp. Tiếng nói qua máy phiên dịch cất lên:
- Chúng tôi xin biếu bộ tộc Anu các con thú mỗi
thứ năm cặp để nuôi và cho sinh sản, bao giờ được
nhiều hãy giết thịt. Cặp thú lớn nhất là bò, sau đó là
dê, có thể giết thịt và lấy sữa. Cặp thú nhỏ là thỏ,
nuôi để lấy thịt. Ba loại thú này chỉ ăn cỏ và lá cây.
Cặp thú cuối cùng là gà, thuộc loại chim, nuôi để lấy
thịt và trứng. Cứ thả chúng tự do kiếm ăn, chỉ cần đề
phòng thú dữ trong rừng giết hại.
Tộc trưởng vui vẻ nói sau khi sai mấy chàng trai
xua các con thú về một cái hang gần đấy:
- Chúng tao cảm ơn về món quà tặng của chúng
mày.
Người của chúng tôi quay trở lại con tàu và người
bản địa thấy như đã biến đi trong khoảng không. Sau
đó, tiếng nói từ con tàu phát ra qua máy phiên dịch:
- Xin chào mọi người. Sáng mai, chúng tôi sẽ trở
lại và tổ chức chữa trị cho mọi người khỏi chứng lóa
mắt dưới ánh sáng mặt trời.
Sáng hôm sau, con tàu chúng tôi trở lại quá khứ,
mang theo lều bạt và mấy nhân viên y tế, hạ cánh
120
xuống nơi bộ tộc Anu đang ở. Lúc này bên ngoài im
ắng vì họ đều trú hết trong các hang ngoại trừ các con
thú chúng tôi biếu hôm qua đã ra ngoài thản nhiên
kiếm ăn. Chúng tôi qua máy phiên dịch nói to cho
mọi người cùng biết sẽ bịt mắt và dẫn lần lượt từng
người một vào các lều bạt mới dựng để tiến hành
chữa trị. Sau đó, mỗi người được phát năm cặp kính
màu từ tối đến xám dần để mang trong thời gian sau
đó nhằm làm quen dần với ánh sáng. Vì dân số
khoảng mấy chục nên chúng tôi thực hiện chữa trị
không quá một ngày là xong.
Như vậy là do không rà soát kỹ, chúng tôi đành
phải lưu đày về quá khứ một bộ tộc hiếu chiến để rồi
cùng chung sống hòa bình với một bộ tộc hiền lành
biết điều hơn. Quả thật trong lúc điều tra tìm một
hành tinh xanh để di dân về đấy sinh sống, gặp một
hành tinh có đến hàng trăm triệu người đến hàng tỷ
người hiếu chiến và chúng tôi cũng đã gặp rồi đó thì
chúng tôi trong ba mươi sáu chước, chước chuồn là
thượng sách. Chọn biện pháp chiến tranh để tiêu diệt
mầm sống, giành giật môi trường sống là việc làm
không xứng đáng đối với một dân tộc văn minh tầm
cỡ liên hành tinh.
121
Đứa con nuôi
Vợ chồng tôi hiếm muộn. Đến khi ngành y đạt
được tiến bộ khoa học về thụ tinh trong ống nghiệm
thì vợ tôi đã không còn kinh. Thế là vợ chồng tôi bàn
nhau tìm con nuôi.
Tại quê tôi, có nhà chùa nữ tên là Bảo Ngọc.
Những cô gái vì nhiều lẽ, có sinh mà không muốn
dưỡng thường lén đem con bỏ trước cổng chùa này.
Nhiều người đã tìm đến chùa xin bé sơ sinh về nuôi.
Vợ chồng tôi nhờ dặn trước các sư nữ nên cũng nhận
được một bé trai kháu khỉnh trông như một thiên
thần. Điểm khác biệt với những đứa trẻ bình thường
là đôi mắt rất sáng với đôi tròng đen luôn đổi màu,
lúc lại nâu lúc lại xanh tùy theo tâm trạng của cháu
và lạ lùng nhất là màu sáng bạc dị thường, không hề
giống ai.
May mắn sao là em vợ tôi cũng vừa mới sinh con
gái nên chúng tôi phải cho cháu bú nhờ dì. Được cái
dì khá nhiều sữa nên hai anh em không phải chịu
thiếu thốn.
Chúng tôi đặt tên cháu là Bảo Ngọc để kỷ niệm
việc nhờ có chùa Bảo Ngọc mà chúng tôi có cháu. Ơn
trời, cháu khỏe mạnh, chóng lớn, không mấy khi ốm
đau và không bao giờ quấy khóc. Cháu cứ thế lớn
lên, hết nhà trẻ đến mẫu giáo và ở nơi nào nào cháu
cũng chăm ngoan, không nghịch ngợm, không gây gổ
bắt nạt bạn bè. Năm lên lớp 1, cháu học thông minh,
đọc thông viết thạo, vượt hẳn bạn bè trong lớp. Môn
học nào, cháu cũng giành giải nhất. Một hôm, tôi khá
ngạc nhiên khi nghe cháu kể:
- Mẹ ơi, hôm nay bạn Đào bị một bạn trai xô ngã,
122
đập mặt xuống nền nhà môi sưng vều, bạn đau đớn
khóc rấm rứt.
- Thế con có nâng bạn ấy lên và mách cô giáo
không?
- Không!
- Sao lại thế? Con không thương bạn ấy sao?
- Đâu có. Con đã giúp bạn ấy không bị ngã sưng
giộp môi.
- Vừa rồi, con bảo bạn Đào đã bị ngã đập mặt
xuống nền nhà rồi nên môi sưng vều đau lắm mà.
- Nhưng con biết vậy nên trước đó đã rủ bạn đến
chơi gần cửa sổ, ôm chặt bạn ấy để bạn trai không xô
ngã được.
Tôi nghe cháu nói mà phân vân không hiểu sự
việc đã xảy ra như thế nào. Tôi đoán cháu còn bé,
chưa đủ sức diễn đạt được câu chuyện nên nói ra theo
kiểu dự đoán.
Một lần khác, tôi chở cháu bằng honda đến
trường. Vừa đến đúng ngã tư, một tai nạn giao thông
xảy ra. Một chiếc xe tải đã chạy vượt lên một xe tải
khác nên đâm vào một xe máy chạy cùng chiều đang
chở ba người, vợ chồng và em bé gái làm cả ba tử
vong. Bé bảo tôi:
- Mẹ ơi, con muốn cứu ba mẹ và bạn gái.
- Bằng cách nào?
Tôi chưa kịp nghe cháu trả lời thì đã thấy xe của
mình đang lùi xa cách ngả tư khoảng hai trăm mét.
Cháu vội bảo tôi:
- Kìa, ba người trên chiếc xe máy sắp bị tai nạn,
mẹ kêu họ dừng lại ngay đi.
Ngoái nhìn lại phía sau, tôi thấy đúng hai vợ
chồng cùng một bé gái tôi đã nhìn thấy tại ngã tư ban
123
nãy đang cố vượt lên trước xe của tôi. Tôi vội dừng
lại hối hả đưa tay vừa vẫy vừa gọi to:
- Này, anh ơi làm ơn dừng ngay lại cho tôi hỏi
một chút.
Người đàn ông vội hãm xe lại với vẻ bực bội:
- Chúng tôi đang vội, hỏi gì thì nói ngay đi.
Tôi đưa tay chỉ về phía sau:
- Anh thấy chiếc xe tải kia không? Nó chạy rất
ẩu. Nó sắp lao ra lấn tuyến, anh hãy đi chậm lại chờ
cho nó vượt lên xong chạy sau nó kẻo bị tai nạn.
- Vớ vẩn.
Tuy mồm nói vậy, nhưng người đàn ông cũng
nghe lời tôi đi chậm lại nép vào lề đường cho chiếc
xe tải vượt qua rồi mới tiếp tục đi. Thế là tại đúng
ngã tư hôm ấy, không hề xảy ra vụ tai nạn giao thông
nào làm chết cả ba người trong một gia đình.
Từ nay, tôi mới biết thằng bé Bảo Ngọc nhà tôi
có một khả năng trời phú là có thể trở lại thì quá khứ
để ngăn chặn tai nạn đã từng xảy ra trong hiện tại.
Hóa ra, chuyện cứu bạn gái ở lớp trong giờ ra chơi
trước đây không bị ngã dập môi là có thực chứ không
phải cháu không biết diễn đạt bằng lời do trí tưởng
tượng suy diễn.
Tuy nhiên, việc trở lại quá khứ để cứu người của
cháu không phải lúc nào cũng thành công. Đó là
những trường hợp họ coi thường không tin lời cháu
can ngăn và cứ thế dấn thân vào cửa tử. Tôi nghĩ
bụng có thể nguyên nhân ở đây là số mệnh nên xui họ
có thái độ như vậy.
Có lần, tôi xem một tờ nhật báo mà tôi không còn
nhớ rõ. Báo có đăng một trường hợp bà mẹ buộc con
vào mình và nhảy xuống sông tự tử, để lại trên thành
124
cầu một chiếc xe máy cùng một điện thoại di động và
hai đôi dép của hai mẹ con. Cháu hỏi xin tôi tờ báo
và lẳng lặng ra ngoài. Không biết bằng cách nào mà
mấy ngày hôm sau, cháu bảo tôi:
- Con đã cứu được hai mẹ con nhảy sông rồi đó.
Tôi ngạc nhiên hỏi cháu:
- Con cứu họ bằng cách nào?
- Con đem tờ báo ngày hôm nay quay ngược trở
lại thời gian mấy ngày trước đến tòa soạn bảo họ
đúng ngày giờ ngày hôm qua có vụ tự tử ở trên cầu
..., các chú đến đó ngăn họ ngay.
- Thế khi con đem tờ báo cho tòa soạn xem, họ có
ngạc nhiên đọc trang có người tự tử ở một tờ báo mà
họ chưa in ra không?
- Đương nhiên họ có ngạc nhiên. Nhưng con bảo
con nhặt được tờ báo trên đường và mang đến cho
các cô chú xem chuyện lạ này.
Tôi cũng chưa có thì giờ để hỏi cháu đã đi bằng
phương tiện gì và làm thế nào để tìm được đến tòa
soạn báo ấy.
Sau này tôi được biết, hôm ấy tòa soạn báo nọ
xôn xao ngỡ ngàng sao có chuyện lạ đời là tòa soạn
nhận được một bài báo của chính mình sắp in vào
ngày hôm sau. Ông tổng biên tập đút ngay tờ báo lạ
vào ngăn kéo nhưng cũng nghi ngờ điều hai phóng
viên trước giờ ngày xảy ra thảm nạn vẫn cứ phải đến
hai đầu cầu ghi trong báo để đề phòng. Và quả thật
hai phóng viên đã nhận dạng được hai mẹ con đi trên
chiếc honda đến giữa cầu thì dừng lại. Khi người mẹ
bế đứa con xuống chuẩn bị buộc dây đứa con vào
bụng mình thì hai phóng viên đã ập đến ngăn lại,
khuyên nhủ hết lời để người mẹ tỉnh ngộ và quay về.
125
Người mẹ thui thủi đặt con lên xe và rồ máy. Tuy
nhiên để đề phòng, hai phóng viên vẫn kín đáo theo
sau hai mẹ con nọ cho đến tận nhà họ rồi mới rút lui.
Đến ngày hôm sau, ông tổng biên tập rút tờ báo lạ
trong ngăn kéo ra rất ngỡ ngàng vì không tìm thấy tin
báo hai mẹ con nhảy xuống sông tự tử ở một trang
nào cả.
Năm cháu lên tám, nhân ngày về quê thăm mộ
ông bà, tôi đưa cháu vào nghĩa trang. Có thể nói ở
các thành phố hiện nay, nghĩa trang giống như một
quận đặc biệt dành cho người cõi âm. Họ cũng có
ngôi nhà riêng và tùy theo túi tiền của những người
thân đang còn sống mà nhà của họ (những nấm mồ)
nghèo hèn hay sang trọng đến cỡ nào. Muốn tìm đến
đúng ngôi mộ của người thân, phải len lách rất khổ.
Trong khi theo tôi chật vật đi qua các ngôi mộ, cháu
cứ luôn mồm:
- Cháu chào ông , cháu chào bà, cháu chào cô ạ.
Nhìn quanh chẳng thấy ai, tôi hỏi:
- Con chào ai đấy?
- Ở đây đông người lắm, mẹ à. Kẻ đứng người
ngồi trên các ngôi mộ đông ơi là đông. Nhiều người
đi lại cười nói vui vẻ. Kìa có một ông đang vẫy gọi
mẹ kìa, mẹ không thấy gì sao?
Đương nhiên là tôi không nhìn thấy ai vẫy gọi tôi.
Khi tôi đi theo hướng cháu đưa tay chỉ, vừa đến bên
mộ ba tôi tức là ông ngoại của cháu, cháu Bảo Ngọc
nói:
- Ông này xưng là ông ngoại của con.
- Con nhìn thấy ông có giống trong ảnh chụp đặt
ở bàn thờ không?
- Giống, rất giống!
126
Thế là lần này, tôi nhận thêm một khả năng của
cháu là nhìn thấy linh hồn và nghe được tiếng nói của
linh hồn như một nhà ngoại cảm thực thụ. Hôm ấy,
cháu đã làm trung gian cho cuộc chuyện trò tâm tình
giữa hai cha con tôi kể từ ngày ba tôi mất đến nay
ngay tại nghĩa trang. Rồi thì từ đó, nhân các ngày giỗ
chạp, cháu tôi nhìn thấy vong linh các người quá cố
đã về đông đủ và cháu đã làm phiên dịch để cho cả
nhà trao đổi tâm tình khá vui vẻ. Bao giờ cũng vậy,
con cháu không thể nào giấu được những việc làm sai
trái của mình và bị trách mắng, khuyên nhủ, buộc
những người còn sống phải tự răn mình và ăn năn hối
lỗi.
Lại có hôm, cháu về khoe với tôi là đã chữa khỏi
bệnh một ông già đã đến hồi thập tử nhất sinh. Hôm
đó, cháu theo người bạn học cùng lớp về nhà bạn ấy
chơi nghe bạn bảo ông nội bạn năm nay bảy mươi
tám tuổi sắp chết vì bệnh ung thư gan. Cháu bảo bạn
dẫn cháu vào thăm ông. Cháu hỏi:
- Ông ơi, ông đau ở đâu?
Người ông cầm lấy bàn tay cháu áp vào bụng bên
phải của mình. Cháu giữ yên không nhấc tay ra
khoảng mười lăm phút. Trong lúc đó thì người ông
lim dim mắt vẻ mơ màng. Cháu hỏi:
- Ông ơi, ông đỡ đau chưa?
- Ừ..., ông thấy đỡ ... à mà hình như không còn
đau nữa.
Thế rồi trong mấy ngày tiếp, sau buổi học, cháu
lại sang nhà bạn và đặt tay lên bụng ông già. Ông già
tự dưng thấy mình khỏe lại, đi đứng ăn uống như
người bình thường. Cả nhà mừng rỡ khôn xiết đưa
ông đến bệnh viện khám, các bác sĩ ngạc nhiên cho
127
trường hợp khỏi bệnh kỳ lạ của ông già.
Tôi hỏi cháu:
- Sao con biết mình có khả năng chữa bệnh mà
chữa cho ông nội bạn?
- Con đâu có biết mình có khả năng ấy. Chả là lúc
ông cầm tay con đặt lên bụng của ông ấy, con cảm
thấy bàn tay con nhói nhau, cái đau ấy truyền đến
bụng bên phải của con. Lúc đó, con cố sức chống lại
cái đau ấy rồi dần dần con không còn cảm thấy đau
nữa, còn ông thì cũng cảm thấy hết đau. Hôm sau con
đến nhà bạn, lại đặt bàn tay lên bụng ông, lại cảm
thấy đau và lần này đau ít hơn, con lại cố chống lại
cái đau. Đến lần thứ ba, con đến, đặt tay lên bụng ông
và không còn thấy đau nữa. Con không cảm thấy đau
tức là ông đã khỏi bệnh rồi.
Thế là vợ chồng tôi lại phát hiện thêm một năng
lực mới nữa của cháu là có thể chữa bệnh bằng năng
lượng sinh học. Cháu cũng đã áp dụng cách rà soát và
chữa bệnh cho cả gia đình nhà bạn rồi về nhà mình,
chữa bệnh cho chúng tôi bằng hai bàn tay vàng của
cháu.
Về những khả năng khác người của cháu, tôi bàn
với nhà tôi là phải cố gắng giữ kín và cấm cháu
không được cho bạn bè hoặc một ai khác biết mình
có những khả năng ấy.
Cháu học rất sáng dạ. Từ năm lớp 1 trở đi, lúc
nào cháu cũng được xếp vào hạng nhất nhì của lớp.
Chúng tôi chủ trương không bắt cháu học thêm,
nhưng không phải vì thế mà cháu gặp khó khăn ở
trường.
Năm cháu lên 10, một hôm cháu đi đâu về và hớn
hở đến báo cho tôi một tin mừng: cháu vừa gặp mẹ đẻ
128
của cháu. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ai bảo con không do mẹ sinh ra mà bảo vừa gặp
mẹ đẻ của con?
- Chính bà ấy bảo con như vậy.
- Con tin bà ấy sao?
- Lúc đầu con không tin như bà ấy nói. Nhưng bà
phân tích xong thì con tin.
- Bà ấy phân tích thế nào?
- Con hỏi mẹ điều này nhé. Mẹ phải nói thật. Có
phải mẹ xin con từ chùa Bảo Ngọc không? Lúc ấy
con vừa mới được sinh, bụng vẫn còn dây rốn. Con
đã tự đến chùa ấy hỏi và bà sư ở đấy đã xác nhận.
- Đúng. Bố mẹ định khi nào con đủ lớn khôn mới
báo cho con biết điều này. Vả lại, bố mẹ có phân biệt
con là con nuôi hay con đẻ bao giờ đâu.
- Mẹ đẻ đã xin lỗi con và nói rằng cực chẳng đã
mẹ mới đành rứt ruột bỏ con lại trước cổng chùa. Khi
mẹ đến xin con về, mẹ đẻ của con có lén đi theo và
nhìn gia cảnh nhà ta, mẹ đẻ mới yên tâm.
- Thế mẹ đẻ của con có nói vì sao bà bỏ con mà
đi không?
- Mẹ đẻ có nói. Con vốn không thuộc loài người
của Trái Đất này. Con là người của một hành tinh
khác ở cách xa đây hàng trăm năm ánh sáng. Hành
tinh quê con đang bước vào thời kỳ đen tối, có nghĩa
là muôn loài đang chết dần vì thiếu ánh sáng mặt trời.
Mặt trời của hành tinh con đang mất dần năng lượng
để biến thành sao lùn trắng. Trên đường đi tìm một
hành tinh không người nhưng có thể sinh sống được
thì mẹ đẻ của con đang có bầu đến ngày sinh. Gặp
Trái Đất là một hành tinh sống được nhưng đã có
người ở, mẹ đành gửi con lại nơi đây và hẹn sẽ có
129
ngày trở lại đón con.
Nghe thằng bé nói vậy, tôi buồn rầu hỏi lại:
- Thế bây giờ đã đến lúc con phải đi rồi chăng?
- Chưa đâu mẹ ạ. Mẹ đẻ con bảo “Bao giờ tìm
được hành tinh mới và xây dựng nhà cửa đàng hoàng,
bố mẹ đẻ sẽ trở lại đón con”. Mẹ còn bảo “Mẹ rất lo
cho con bởi vì Trái Đất hiện nay không phải là một
hành tinh văn minh và an toàn. Rủi ro có thể ập đến
bất kỳ lúc nào cho những cư dân sống trên đó trong
đó có đứa con bỏ rơi của mẹ”
Tôi trấn an cháu:
- Nếu có dịp gặp lại mẹ đẻ, con gửi lời thăm của
mẹ đến bà ấy và hứa sẽ nhất quyết giữ gìn an toàn
cho con.
- Mẹ đẻ cũng nhờ con gửi lời thăm và cảm ơn bố
mẹ rất nhiều vì đã chăm nom nuôi dạy con khôn lớn.
Mẹ còn bảo con có nhiều khả năng mà người Trái
Đất không làm được như vừa rồi mẹ đã thấy. Mẹ đẻ
vừa mới rồi đã bấm vào một huyệt kích thích trên
người con và con đã nhận thêm khả năng tự biến đi.
Bây giờ con biến đi cho mẹ xem nhé.
Vừa nói, thằng bé thoắt biến mất làm tôi không
nhìn thấy nó đâu cả. Nhưng tiếng nói của nó vẫn lảnh
lót bên tai:
- Con vẫn đang đứng trước mặt mẹ đấy thôi.
Tôi vội đưa tay về phía trước và chạm ngay vào
người nó. Thế rồi nó hiện hình ngay lại như cũ. Tôi
nói với nó:
- Mẹ đã từng xem truyện và phim giả tưởng nói
về người tàng hình. Do có khả năng tàng hình mà
người đó đã làm nhiều chuyện xấu xa bỉ ổi, xã hội
không cho phép. Con không được có ý định đen tối
130
một khi đã có khả năng tàng hình.
- Đương nhiên rồi mẹ ạ. Con hứa sẽ không bao
giờ lợi dụng khả năng này để làm chuyện tồi tệ, mẹ
yên tâm đi.
Từ khi gặp được mẹ đẻ, thằng bé học hành cứ
như thần đồng. Mà quả là thần đồng thật. Nó ngấu
nghiến đọc hết các bộ sách giáo khoa lớp Bốn, lớp
Năm, lớp Sáu, lớp Bảy cho đến lớp Mười trong vòng
sáu tháng. Cháu đề nghị vợ chồng tôi xin cho nó
được đặc cách thi vượt cấp đầu tiên là tiểu học, sau
đó là phổ thông cơ sở và sau cùng là phổ thông trung
học. Năm cháu dự thi tốt nghiệp phổ thông trung học,
cháu mới có 11 tuổi, thí sinh bé nhất trong phòng thi.
Và rồi cháu đậu dễ dàng với tất cả các môn đều đạt
điểm 10, trở thành thủ khoa bé nhất trong toàn quốc.
Tuy nhiên có điều lạ là cháu không có ý định học
đại học trong khi có nhiều trường đại học danh tiếng
mời gọi tuyển thẳng, không phải qua thi tuyển. Gạn
hỏi mãi, cháu mới miễn cưỡng trả lời:
- Mẹ đẻ con bảo chương trình học của Trái Đất
quá lạc hậu, con không cần phải học làm gì.
Cháu còn nói:
- Mẹ đẻ bảo con sau này khi trở về hành tinh quê
hương, con phải học lại hết. Những kiến thức con học
trên Trái Đất này không phù hợp ở trên hành tinh quê
hương.
Thế nhưng, vợ chồng tôi sợ cháu rảnh rỗi không
làm gì, sinh ra hư đốn. Hình như đoán được ý nghĩ
của chúng tôi, cháu xin tiền bố mẹ ra hiệu sách mua
đủ các loại sách về văn chương, khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên trình độ trên phổ thông rồi tự
nguyện giam mình trong bốn bức tường nhà để ngấu
131
nghiến. Tôi cảm thấy áy náy, thương cho thằng bé và
gợi ý với cháu là nên học thêm âm nhạc hoặc hội họa.
Cháu bảo:
- Hay là con xin thi vào trường âm nhạc trước?
- Tùy con – tôi trả lời.
Và thế là tôi cho cháu học luyện thi vào trường
âm nhạc. Ngay trong lĩnh vực cần có năng khiếu này,
cháu cũng tỏ ra xuất sắc, học chóng tiếp thu và sau
khi đậu đại học, cháu một lần nữa tỏ ra là một thần
đồng về âm nhạc. Cháu chơi thạo các loại đàn như
piano, violon,... và cả một số nhạc cụ dân tộc Việt
Nam. Cháu còn sáng tác những bản nhạc cổ điển và
nhạc dân tộc được nhà trường ngợi khen. Cháu học
rất nhanh và tốt nghiệp ra trường khá sớm. Nhà
trường thấy cháu có triển vọng, ngỏ ý đề cử cháu đi
thi violon quốc tế, cháu lắc đầu từ chối. Tôi ngạc
nhiên hỏi cháu:
- Tại sao?
Nó đáp gọn lỏn:
- Con đâu phải người thuộc hành tinh này mà đi
ganh đua.
Năm sau, tôi hỏi nó:
- Con còn có ý thích học hội họa nữa không?
Ngẫm một lúc, nó trả lời:
- Con nghĩ, để ghi lại hình ảnh của một cái gì đó
thì con thích chụp ảnh hơn. Việc này không làm mất
nhiều thì giờ của con lắm. Thế là tôi mua cho cháu
một chiếc máy ảnh cỡ thường thường bậc trung để tự
nó tìm cách xoay xở. Cháu cũng say mê chụp ảnh
không kém chuyện đàn và sáng tác nhạc.
Đến năm cháu 15 tuổi, một hôm đúng vào ngày
chủ nhật, cháu gặp tôi và bảo:
132
- Bố mẹ đẻ con muốn gặp bố mẹ.
- Khi nào?
- Ngay bây giờ.
Tôi gọi với lên nhà trên:
- Anh ơi, nhà ta có khách.
Xong tôi quay sang cháu hỏi:
- Thế bố mẹ đẻ con đâu rồi?
- Ngay đây ạ.
Ngay sau câu trả lời của cháu, hai bóng người
hiện lên, mấp máy môi, nói thứ tiếng của mình nhưng
chúng tôi đều hiểu nhau qua suy nghĩ:
- Xin chào!
- Không dám. Chào hai ông bà – chồng tôi vừa
xuống đến nơi ngỏ lời chào lại ngay.
- Xin được giới thiệu, tôi là Al Maki, bố của cháu
... gì nhỉ?
Tôi trả lời ngay:
- Bảo Ngọc.
- Còn tên của cháu theo ngôn ngữ hành tinh
chúng tôi là Al Maka. Và đây là mẹ cháu tên là Sal
Hana. Chúng tôi làm nghề phi hành gia không gian.
Chồng tôi tự giới thiệu:
- Tôi tên Nguyễn Kim, tiến sĩ vật lý, còn vợ tôi
tên Lê Ánh Minh, giáo viên dạy trường phổ thông.
Hai phi hành gia đều cùng mặc bộ áo liền quần
may bằng thứ vải có màu ánh bạc, người tầm thước,
khỏe mạnh và trẻ trung tuổi cỡ chừng 40 trở lại.
Người bố có khuôn mặt nhân hậu và giống Bảo Ngọc
như cùng tạc từ một khuôn, chỉ là khác một khuôn cỡ
lớn, còn khuôn kia cỡ nhỏ.
Chồng tôi mời hai ông bà ngồi vào bàn, còn tôi
xuống nhà bếp chuẩn bị nước đãi khách. Mẹ đẻ của
133
Bảo Ngọc kéo cháu lại ngồi bên cạnh mình.
Câu chuyện chỉ bắt đầu khi tôi trở lại, bưng một
khay đựng năm chén cà phê đen hòa tan. Mùi cà phê
bốc lên thơm phức. Chồng tôi bưng cho hai ông bà
phi hành gia mỗi người một chén và chìa tay:
- Mời hai ông bà dùng cà phê, món uống phổ
thông trên hành tinh chúng tôi.
Tôi lấy một chén cho tôi và một cho Bảo Ngọc:
- Có thể trên hành tinh của ông bà không có thức
uống này. Mời ông bà dùng thử tôi tiếp lời.
Bà mẹ đẻ bưng chén cà phê nhấp một ngụm, hơi
nhăn mặt vì đắng. Bà hỏi Bảo Ngọc:
- Con uống được thứ này sao?
- Vâng. Nó giúp con tỉnh người mỗi lần mệt mỏi
khi học bài.
Bố đẻ ngỏ lời trước:
- Xin lỗi ông bà về chuyện cháu Al Maka đã từ
chối lời khuyên của ông bà muốn cháu học lên đại
học mặc dù có nhiều trường nhiệt tình mời cháu.
- Không có gì quan trọng đâu ạ. Lý do cháu đưa
ra là cháu không thuộc nơi này và dẫu có học, về sau
khi trở về hành tinh quê hương, cháu vẫn phải học lại
tất cả.
- Đúng thế! người bố trả lời Nhìn cách sống
và hành xử của người Trái Đất, chúng tôi nhận rõ
trình độ văn minh còn thua rất xa hành tinh của
chúng tôi. Đời sống cư dân ở đây quá thấp. Chiến
tranh cộng với bệnh tật và đói nghèo đã vắt kiệt sức
lực mọi người.
Chồng tôi tiếp lời:
- Chúng tôi biết vậy nhưng không thể làm gì được.
Hết thảy quyền lực nằm trong tay tầng lớp lãnh đạo
134
của các nước lớn và nhỏ. Đã từng có một hành tinh
có nền văn minh sớm hơn chúng tôi 65 nghìn năm
(chúng tôi chỉ mới bước vào đời sống gọi là văn minh
vài trăm năm thôi) đề nghị Trái Đất đừng có chiến
tranh thì họ sẽ giúp đỡ khoa học kỹ thuật không
ngang tầm hiện nay sẽ xấp xỉ trình độ của họ. Nhưng
chúng tôi không thể tự mình chấm dứt chiến tranh
được.
- Thế hành tinh ấy không thể giúp các bạn chấm
dứt chiến tranh sao?
Tôi lên tiếng:
- Có lẽ họ không muốn can thiệp vào chuyện nội
bộ của hành tinh khác.
Tôi nói một câu quen thuộc của người Trái Đất:
- Chắc chắn chúng tôi phải “tự cứu mình trước
khi Trời cứu”.
- Những nước đang có chiến tranh đã đành, còn ở
những nước không chiến tranh, đời sống người dân
không vì thế mà tránh khỏi mất an ninh – chồng tôi
tiếp lời.
- Vì sao?
- Nạn cướp giật, chém giết nhau vẫn thường
xuyên xảy ra do lớp người không có công ăn việc
làm, nghiện ngập xì ke ma túy, lưu manh côn đồ gây
nên.
- Chúng tôi không hiểu những khái niệm mới lạ
này – mẹ đẻ của Bảo Ngọc thắc mắc.
Bảo Ngọc giải thích:
- Trái Đất không có hòa bình. Người xấu rất
nhiều, nơi nào cũng có. Chính họ là loại người làm
cho cuộc sống cư dân hành tinh mất an ninh.
Bố đẻ Bảo Ngọc ngần ngừ đưa ra ý kiến sau một
135
hồi đắn đo suy nghĩ:
- Việc của của các bạn dúng là phải do các bạn tự
giải quyết thôi. Nếu tìm ra được giải pháp nào đó cần
giúp đỡ, chúng tôi xin sẵn sàng.
Đến đây, chúng tôi nghe có tiếng ô tô đỗ xịch
ngoài sân. Sau đó, cô giáo dạy nhạc cho Bảo Ngọc tại
nhạc viện xuất hiện ở cửa. Cô tầm cỡ trên dưới 30
tuổi, duyên dáng trong bộ váy áo màu đen, đã từng là
thần đồng âm nhạc.
Bảo Ngọc thưa:
- Con có gọi điện mời cô Lê đến nhà chơi để gặp
bố mẹ đẻ. – sau đó, cháu nói to – Con chào cô.
- Chào cả nhà – cô giáo đáp.
Bảo Ngọc tiếp tục:
- Con xin giới thiệu với cô, đây là bố mẹ đẻ của
con, làm nghề phi hành gia không gian.
Tôi tiếp lời:
- Cả hai đều là người của hành tinh khác. Xin giới
thiệu với hai anh chị, đây là cô giáo dạy nhạc cho
cháu Bảo Ngọc suốt khóa học.
Đến lúc đó, cả bố lẫn mẹ đẻ Bảo Ngọc cùng nói:
- Xin chào cô giáo.
- Chúng tôi mang ơn cô giáo đã dạy dỗ cháu
thành đạt.
Đến bấy giờ, cô giáo mới ngỡ ngàng:
- Không có gì đâu ạ. Đấy là nhiệm vụ của em do
nhạc viện giao cho. Em không ngờ Bảo Ngọc là
người thuộc hành tinh khác. Cháu học thông minh,
cần mẫn và có năng khiếu đặc biệt lắm. Cháu thành
thạo khi chơi đàn piano, violon và còn giỏi giang khi
sáng tác nhạc đấy ạ.
Ngồi chưa nóng chỗ, cô giáo đã đề nghị Bảo Ngọc:
136
- Cô cháu ta hãy chơi một khúc nhạc nổi tiếng
nào đó cho bố mẹ đẻ của cháu thưởng thức đi.
- Vâng.
Thế là hai cô cháu dắt tay nhau đến trước chiếc
đàn piano đặt bên trong phòng khách. Nhờ ơn trời,
gia cảnh nhà tôi cũng không đến nỗi nào, nên chúng
tôi đã cố sắm đầy đủ nhạc cụ cần thiết cho cháu từ
khi cháu bắt đầu ôn luyện để thi vào nhạc viện. Chính
cô giáo Lê là người thầy đầu tiên hướng dẫn cháu từ
khi mới chập chững bước đi trên con đường âm nhạc.
Cô giáo giới thiệu trước khúc nhạc sắp chơi:
- Xin thưa, đây là bản nhạc Sonat Ánh Trăng của
Ludwig Beethoven người Đức sáng tác năm 1801
viết tặng nữ bá tước 17 tuổi tên là Giulietta
Guicciardi, người mà nhạc sĩ yêu say đắm.
Hai cô cháu cùng hòa âm với nhau rất ưng ý. Bản
nhạc toát lên những giai điệu trong trẻo, đầy tính lãng
mạn và hồn nhiên. Hai con người ngoài hành tinh
nhắm nghiền mắt, nghe say mê như đắm chìm trong
tiếng nhạc và như bỗng giật mình khi bản nhạc chấm
dứt. Như thường diễn trên sân khấu, hai cô cháu cùng
đứng dậy hướng về phía chúng tôi và cúi chào. Bố
mẹ cháu đáp lễ, đưa bàn tay phải lên áp trên ngực bên
trái, nơi có hai quả tim cũng đập rộn ràng theo tiếng
nhạc và cùng gật đầu. Vợ chồng chúng tôi thì khe khẽ
vỗ tay tán thưởng.
Cô giáo lại giới thiệu tiếp trước khi chơi bản nhạc
thứ hai:
- Sau đây là bản concerto nhan đề Bốn mùa nổi
tiếng của nhà soạn nhạc bậc thầy Antonio Vivaldi
người Ý, dành cho violon sáng tác năm 1723.
Bảo Long lấy chiếc violon đặt lên vai trong lúc cô
137
giáo vẫn ngồi bên đàn piano. Sau cái nhìn nhau và
gật đầu, cháu đưa ác sê kéo lên những giai điệu réo
rắc mô tả cảnh bốn mùa trong năm xuân-hạ-thu-đông,
còn cô giáo thì đệm đàn theo.
Người chơi và người thưởng thức nhạc cũng
giống như lần trước đều tỏ ra điêu luyện và hoan hỷ
đắm mình trong không gian đầy tiếng nhạc.(1)
Sau khi chơi xong hai bản nhạc, Bảo Long bắt tay
cô giáo, sau đó chay ra ôm lấy mẹ đẻ của mình. Bố
đẻ của cháu phát biểu:
- Thật là tuyệt vời. Chúng tôi chưa bao giờ nghe
được những bản nhạc như thế. Trên hành tinh của
chúng tôi hiện nay, không còn người biết chơi nhạc.
Âm nhạc trở thành dĩ vãng, những nhạc cụ và tài liệu
âm nhạc chỉ là những di vật của thời xưa mà chưa có
ai để tâm khai thác. Hành tinh chúng tôi cách đây
mười nghìn năm đã hứng chịu một trận dịch lớn, lan
tràn nhanh chóng giết chết hàng triệu người. Chỉ một
số người trên các hòn đảo xa may mắn sống sót.
Nhưng, những người này chỉ chuyên về khoa học,
không biết gì về âm nhạc và thế là trong xã hội của
những người sống sót, âm nhạc bị thất truyền.
Đoạn, ông quay sang đứa con:
- Bố hy vọng chính con sẽ là người đầu tiên của
hành tinh chúng ta khôi phục lại nền âm nhạc đã bị
thất truyền, trả lại cho đời sống cư dân một phần đời
sống tinh thần đã bị mai một.
(1) Độc giả muốn nghe hai bản nhạc trên, xin vào:
www.youtube.com/watch?v=4Tr0otuiQuU cho bản Moonlight
Sonata của Beethoven và
www.youtube.com/watch?v=ygpf6mxTUeY cho bản The four
seasions của Vivaldi.
138
Mẹ đẻ của cháu tiếp lời:
- Cho đến hôm nay thì hành tinh của chúng tôi lại
một lần nữa mà là lần cuối, vĩnh viễn không còn sự
sống do mặt trời lụi tàn. May mắn là chúng tôi đã đạt
đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, đã chế tạo được
những con tàu vũ trụ để di tản số người còn lại
khoảng nửa triệu cùng với dụng cụ máy móc cần thiết
đến một hành tinh xanh khác vừa tìm thấy. Hành tinh
này không có người ở và có điều kiện khí hậu khá
phù hợp với cơ thể loài người chúng tôi. Nó cách xa
đây khoảng bốn mươi năm ánh sáng.
Tôi tò mò:
- Khi di tản, người của anh chị có đem theo các
loại giống cây trồng và gia súc, gia cầm gì không?
Bà mẹ trả lời:
- Đã từ lâu, chúng tôi không cần đến chúng.
Chúng tôi không ăn và uống để sống như trên hành
tinh của anh chị. Để nuôi sống mình, chúng tôi có thể
tạo nên nguồn năng lượng khác tinh khiết hơn để hấp
thu. Nhờ vậy, tuổi thọ của loài người chúng tôi khá
cao, dăm bảy trăm năm cho đến nghìn năm. Điều này
cũng ảnh hưởng tích cực môi trường sống, hành tinh
mới sẽ không bị đảo lộn vì có người đến sinh sống.
Ông bố nói tiếp:
- Hôm nay, vợ chồng chúng tôi xuống đây một là
thăm anh chị và cô giáo, ngỏ lời cảm ơn đã nuôi dạy
cháu khôn lớn, hai là xin anh chị cho phép chúng tôi
đón cháu về lại với cộng đồng cư dân hành tinh mình.
Cháu phải được đào tạo lại về mặt khoa học kỹ thuật
để đạt trình độ văn minh cao, đồng thời có trách
nhiệm phục hồi lại vốn âm nhạc đã bị mai một của
139
quê hương mình.
Bà mẹ rút ra từ túi mang theo một bộ áo liền quần
dệt từ một loại vải màu ánh bạc trao cho Bảo Ngọc và
bảo cháu vào phòng trong thay cho bộ quần áo đang
mặc. Một phút sau, cháu bước ra, xúng xính trong bộ
quần áo trông như một phi hành gia thực thụ.
Bản thân tôi, mặc dù đã đoán trước Bảo Ngọc là
người của hành tinh khác, trước sau gì cũng sẽ từ biệt
chúng tôi nhưng không ngờ thời điểm chia phôi lại
đến sớm như vậy. Cháu còn chưa qua tuổi niên thiếu
và đối với bất kỳ một bà mẹ nào đã từng ôm ấp, lo
âu, chăm sóc một đứa con tuy không rứt ruột đẻ ra
nhưng ngay từ khi dây rốn còn chưa được cắt, nay thế
nào cũng bị cái cảm giác hụt hẫng. Cháu đã chạy đến
ôm chầm lấy tôi và òa lên khóc nức nở, điều mà tôi
chưa từng bao giờ trông thấy. Tôi cũng mủi lòng ôm
chặt lấy cháu và khóc theo cháu.
Ông bố đẻ cũng rút ra từ túi mình hai vật nhỏ
bằng cái hộp diêm và hai vật lớn hơn, cỡ cuốn từ
điển, vỏ bằng kim loại màu ánh bạc có đục nhiều lỗ
nhỏ, đặt lên bàn. Ông nói:
- Để cảm ơn công lao nuôi dạy cháu, chúng tôi
muốn tặng anh chị và cô giáo hai vật mọn làm kỷ
niệm: chiếc hộp nhỏ có công dụng phát hiện bệnh tật
và triệt tiêu khi rà soát cơ thể, chiếc hộp lớn là máy tự
động thu và phát năng lượng vũ trụ, những tia năng
lượng này được cơ thể hấp thu sẽ làm con người
không cần ăn uống gì vẫn sống. Chúng tôi, chính nhờ
bộ máy thu phát năng lượng này mà có thể chu du
khắp vũ trụ mà không cần đến ăn uống.
Chồng tôi nói:
- Chúng tôi mong mỏi trong thời gian tới, nếu sắp
140
xếp được thì giờ thì mời anh chị và cháu trở lại thăm
chúng tôi.
Ông bố trả lời:
- Đương nhiên rồi. Chúng tôi nghĩ cháu nên xem
hành tinh này là quê hương thứ hai của cháu và cháu
còn có trách nhiệm giúp đỡ hành tinh của bố mẹ nuôi
trong khả năng có thể Đoạn quay sang đứa con
Con có đồng ý với lời hứa của bố không?
- Vâng ạ. thằng bé trả lời.
Sau đó mọi người đều dứng dậy. Cháu Bảo Ngọc
bước đến lần lượt ôm hôn tôi, chồng tôi và cô giáo.
Đoạn nó quay ra dắt tay mẹ đẻ và bố đẻ của nó bước
ra cửa.
Bỗng như có phép thần một phi thuyền hình nón
đường kính khoảng mười mét, cao khoảng bốn mét lù
lù hiện lên trong sân nhà tôi. Mọi người cùng bước ra
sân. Chợt chồng tôi hét lên:
- Hãy khoan. Cháu Bảo Ngọc còn quên hai nhạc
cụ. Có thể mang theo cho cháu được không?
Trong lúc chúng tôi còn phân vân thì ngỡ ngàng
nhìn thấy chiếc đàn piano cùng chiếc violon như có
một nguồn lực vô hình đã bị nhấc bổng lên và đẩy
bay vào trong khoang tàu đang mở. Ba con người
ngoài hành tinh đưa cao tay vẫy chào chúng tôi lần
cuối, bước lên rồi biến mất tăm cùng với con tàu
không để lại một dấu vết nào.
Mấy năm sau, Bảo Ngọc có trở lại Trái Đất thăm
vợ chồng chúng tôi. Cháu đã trưởng thành, to cao và
đẹp trai ở tuổi 18.
Tôi hỏi cháu:
- Con về đây một mình hay đi cùng bố mẹ đẻ?
- Không, con về đây một mình.
141
- Bố mẹ con khỏe chứ?
- Cảm ơn mẹ. Bố mẹ con vẫn khỏe. Nói chung,
người ở hành tinh con ít có ai ốm đau. Nếu bị bệnh,
sẽ có máy chữa ngay, không cần tốn một viên thuốc
nào như người trên Trái Đất.
Chồng tôi hỏi:
- Thế con đã học lại rồi chứ?
- Vâng, khi về đến nhà, con phải tự mình học lại
hết chương trình giáo dục trên đó. Con tốt nghiệp đại
học rồi. Bây giờ, vẫn phải tiếp tục học lên.
- Về chuyên môn, con tốt nghiệp ngành gì?
- Ngành chế tạo phi thuyền.
Ngẫm nghĩ một lúc, cháu nói tiếp:
- Con có thể đem kiến thức về ngành chế tạo phi
thuyền truyền lại cho người Trái Đất đấy. Nhưng yêu
cầu những người này phải học chương trình phổ
thông và đại học của hành tinh con thì mới đi sâu vào
ngành chế tạo phi thuyền được.
Tôi hỏi:
- Mẹ còn nhớ khi bố mẹ đẻ xuống đây rước con
về, bố con có nói con có trách nhiệm phục hồi lại di
sản âm nhạc của hành tinh, con đã làm được gì rồi?
- Trong thời gian ôn lại chương trình học của
hành tinh, con có mở lớp đào tạo nhạc sĩ được ba
mươi em. Song song với việc này, con phải nhờ
người nghiên cứu chế tạo các nhạc cụ mà con đem từ
Trái Đất về để phục vụ việc dạy âm nhạc. Khi có đội
ngũ nhạc sĩ này, chúng con mới bắt đầu nghiên cứu
và làm sống lại di sản âm nhạc của hành tinh.
- Con về đây, định ở chơi được bao lâu?
- Con đã xin phép thủ lĩnh hành tinh sẽ lưu lại
Trái Đất tối thiểu một năm.
142
- Một năm rong chơi thì phí quá! Con có chương
trình giúp đỡ Trái Đất rồi chứ?
- Chính đây là điều con cần phải bàn với bố mẹ.
Chợt nhớ ra điều gì, cháu nói tiếp:
- Bố mẹ đẻ con có gửi món quà nhỏ tặng bố mẹ.
Nói rồi cháu ra trước nhà khệ nệ xách vào hai cái
túi:
- Đây là túi đựng vàng nguyên chất – cháu nói –
và túi đựng kim cương tự nhiên. Trên đó, mẹ đẻ hỏi
con ở Trái Đất, trong sinh hoạt đời thường, món gì
đắt giá nhất, con trả lời là vàng và kim cương. Và thế
là con đem theo hai cái túi này, mỗi túi nặng khoảng
hai mươi ký về đây tặng bố mẹ.
- Chà, thế này thì nhà ta giàu to rồi – chồng tôi
buột mồm.
Tôi bảo:
- Ta sẽ biến chúng thành tiền gửi ngân hàng lấy
lãi tiêu xài. Ngoài ra sẽ làm từ thiện giúp đỡ người có
số phận hẩm hiu cơ nhỡ, những trẻ em nghèo không
phải bỏ học vì mưu sinh.
Mấy ngày sau đó, vợ chồng chúng tôi bàn với
Bảo Ngọc một chương trình hành động mà cháu đóng
vai trò chính. Chồng tôi gợi ý đăng ký với Sở giáo
dục thành phố mở trường tư đào tạo một thế hệ mới
mà nội dung chương trình là dạy lại từ đầu kiến thức
giáo dục hành tinh của cháu và sau đó là chuyên
ngành chế tạo phi thuyền. Tôi cản:
- Thôi đi anh ơi, việc mở trường tư hiện nay
nhiêu khê lắm. Chương trình học là do Nhà nước
quản lý, đâu dễ thay đổi, ta đâu có tự ý được.
Cháu Bảo Ngọc gợi ý:
- Hay là ta tuyển học sinh đưa lên hành tinh con
143
đào tạo? Con sẽ đề nghị thủ lĩnh hành tinh và thế nào
thủ lĩnh cũng đồng ý.
Không hiểu bằng cách nào, sau đó mấy phút,
cháu bảo đã đề đạt nguyện vọng lên thủ lĩnh và ông
ấy đã đồng ý. Tôi bảo cháu liên lạc lại và gửi lời cảm
ơn của cư dân Trái Đất đến thủ lĩnh.
Chúng tôi bàn nên tuyển loại học sinh nào là tiện
nhất. Chồng tôi bảo nên tuyển loại trẻ cỡ mười tuổi,
học giỏi, số lượng chừng ba mươi em và việc này để
chồng tôi lo.
Thế rồi, chồng tôi đáp máy bay ra Hà Nội, tìm
đến một số trường tiểu học nổi tiếng chọn ra 10 em
và liên hệ với gia đình hứa chuyển ra nước ngoài học
với học bổng do chúng tôi chu cấp. Với miền Trung
và miền Nam, chúng tôi cũng chọn ra 10 em như vậy.
Sau khi đủ số lượng trong đó có cả nam lẫn nữ,
chúng tôi viết thư mời gia đình gồm cả bố mẹ và học
sinh tập trung vào Sài Gòn để nghe phổ biến chuyến
đi du học. Vé máy bay một chiều cho học sinh và vé
khứ hồi cho bố mẹ học sinh. Chúng tôi chọn một
khách sạn để mời gia đình ở tạm trước khi đưa tiễn
con em lên đường.
Tại hội trường của khách sạn, chồng tôi đứng lên
tuyên bố:
- Thưa các anh chị và các cháu, chúng tôi may
mắn có điều kiện tổ chức một lớp dành cho ba mươi
trò thông minh, học giỏi, tuổi còn trẻ, đi du học ở một
đất nước có nền học vấn cao, đủ sức chế tạo những
phi thuyền lớn nhỏ du hành vũ trụ...
Một ông bố đứng dậy hỏi:
- Thưa đất nước nào ạ? Theo tôi biết, trên Trái
Đất này, chưa có một nước nào có trình độ chế tạo
144
được con tàu vũ trụ chở người xuyên hành tinh.
Chồng tôi từ tốn:
- Xin thưa, gia đình chúng tôi có một bí mật nhỏ:
chúng tôi may mắn có một đứa con nuôi là người của
hành tinh khác. Nó đây! – chồng tôi chỉ tay về phía
Bảo Ngọc.
Mọi người ngồi trong hội trường xôn xao cùng
đứng cả dậy để xem cho rõ.
Bảo Ngọc bước lên đứng trước micro:
- Thưa các cô, chú, bác và các em, người hành
tinh khác chính là cháu đây. Ở Trái Đất, cháu tên là
Bảo Ngọc, còn bố mẹ đẻ của cháu đặt tên cháu là Al
Maka. Ở đây, bố mẹ nuôi đã từng cho cháu ăn học
đến hết bậc phổ thông trung học, sau đó cho cháu học
ở nhạc viện trước khi trở về hành tinh của mình.
Hành tinh của chúng cháu tất nhiên là văn minh hơn
Trái Đất rất nhiều vì đã chế tạo được phi thuyền vượt
không gian. Cháu xem Trái Đất là quê hương thứ hai
của cháu nên cháu muốn đóng góp công sức của
mình bằng cách đề nghị thủ lĩnh chấp nhận cho một
lớp học khoảng 30 học sinh thông minh của Trái Đất
được du học theo chương trình đào tạo của hành tinh.
Ngành chuyên môn ra trường sẽ là kỹ sư không gian
trong đó có phi hành gia và chế tạo tàu vũ trụ.
Bố mẹ và học sinh nghe nói lúc đầu ngỡ ngàng
sau chuyển sang mừng rỡ khôn xiết và vỗ tay hoan hô
vang dậy.
Tối hôm ấy tại khách sạn, sau bữa tiệc chia tay
các học sinh đi du học cùng với phụ huynh, chồng tôi
mời mọi người lên hai chiếc xe thuê loại 50 chỗ ngồi
tiến ra một bãi đất hoang ở ngoại ô thành phố để đưa
tiễn các cháu. Tại đấy, một chiếc phi thuyền lớn đã
145
chờ sẵn với ánh đèn xanh lấp lóe. Sau khi bịn rịn ôm
nhau với người thân lần cuối, các cháu được Bảo
Ngọc đưa đến chiếc thang dẫn vào bên trong con tàu.
Phi thuyền tắt đèn, bốc lên cao và mất hút trong bóng
đêm.
Hôm cháu từ biệt chúng tôi để lên phi thuyền trở
về hành tinh quê hương, cháu nói một câu làm tôi
sững sờ:
- Mẹ ạ, con cảm thấy hình như đất nước ta sắp
xảy ra chuyện ...
- Lành hay dữ?
Cháu đáp tỉnh rụi:
- Lành hay dữ là tùy ở mỗi người. Con nhìn thấy
rất rõ trên hành tinh này, luật nhân quả đang diễn ra
dồn dập và phổ biến. Con không hiểu sao những kẻ
ác làm điều xấu xa hằng ngày không nghĩ đến tương
lai của mình, cái hậu họa sẽ đến ngay trước mắt chứ
không phải chờ lâu. Có những người sẽ trở nên bất tử
theo nghĩa nhân loại nhớ đến họ đồng thời cũng
nguyền rủa họ đời đời.
146
147
NHỮNG NGƯỜI ĐI XUYÊN THỜI GIAN
Truyện ngắn giả tưởng
Nguyễn Văn Lân
------------------------
SÁCH DO TÁC GIẢ TỰ IN DÙNG
LÀM QUÀ TẶNG
Trình bày
Saigon Lifestyle design
Tranh bìa:
HS Lê Sa Long
Liên kết thực hiện ấn phẩm
Saigon Lifestyle
In lần thứ 1, số lượng 500 cuốn, khổ 13,5×20,5 (cm)