Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
LÊ TRÍ KHẢI
THANH TOÁN CHI PHÍ KHÁM CHỮA BỆNH BẢO HIỂM Y TẾ THEO ĐỊNH SUẤT TẠI MỘT SỐ TRẠM Y TẾ XÃ THUỘC HUYỆN ĐĂK TÔ
TỈNH KON TUM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
HÀ NỘI - 2014
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
LÊ TRÍ KHẢI
THANH TOÁN CHI PHÍ KHÁM CHỮA BỆNH BẢO HIỂM Y TẾ THEO ĐỊNH SUẤT TẠI MỘT SỐ TRẠM Y TẾ XÃ THUỘC HUYỆN ĐĂK TÔ
TỈNH KON TUM
Chuyên ngành: Y tế công cộng
Mã số: 62.72.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Nguyễn Công Khẩn
2. TS. Trần Văn Tiến
HÀ NỘI - 2014
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận án Lê Trí Khải
iii
Lời cảm ơn
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với hai
thầy hướng dẫn là GS.TS. Nguyễn Công Khẩn, Cục trưởng Cục Khoa học
công nghệ và Đào tạo - Bộ Y tế và TS. Trần Văn Tiến, Chuyên gia cao cấp
Viện Chiến lược và Chính sách y tế, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế
- Bộ Y tế đã hết lòng hướng dẫn tận tình, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt
quá trình học tập và viết luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương;
các cán bộ của các khoa, phòng; các cán bộ phòng Đào tạo Sau đại học
thuộc khoa Đào tạo và Quản lý khoa học đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập tại Cơ sở Đào tạo của Viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và
Sở Y tế tỉnh Kon Tum đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, động viên, khích lệ
và ủng hộ để tôi tham dự khóa học và hoàn thành luận án. Tôi cũng xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Hoàng Văn Minh, Phó Viện trưởng Viện
Đào tạo Y học dự phòng và Y tế Công cộng Trường Đại học Y Hà Nội đã gợi
mở cho tôi nhiều ý tưởng nghiên cứu cũng như những ý kiến quý báu giúp tôi
hoàn chỉnh luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Dự án HEMA đã hỗ trợ kinh phí để triển
khai mô hình thí điểm; cảm ơn lãnh đạo và nhân viên Sở Y tế, Bảo hiểm xã
hội tỉnh Kon Tum, Trung tâm Y tế, Bảo hiểm xã hội 2 huyện Đăk Tô và Kon
Rẫy, 6 Trạm Y tế xã Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm - huyện Đăk Tô và Đăk
Tre, Đăk Pne, Đăk Kôi - huyện Kon Rẫy đã tạo điều kiện thuận lợi để triển
khai nghiên cứu và tích cực tham gia vào nghiên cứu; xin trân trọng cảm ơn
người dân tại 6 xã nghiên cứu đã hợp tác tham gia vào nghiên cứu rất nhiệt
tình và có trách nhiệm.
iv
Thành quả nghiên cứu này có được cũng nhờ sự ủng hộ và giúp đỡ tích
cực của các bạn đồng nghiệp trong ngành Y tế tỉnh Kon Tum đã dành cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin cảm ơn chân thành tới các bạn
đồng nghiệp là CN Hoàng Long Quân, BS.CKII. Lê Vũ Thức, ThS.BS. Phạm
Minh, ThS.BS. Lê Hữu Lợi, CN. Nguyễn Đức Hiền, CN. Phạm Thành Tú,
NHSTH. Lê Thị Hoàng Linh, ĐDTH. Tạ Công Tuấn, YS. Trần Thị Kim Liên
và KS. Đặng Trần Huân đã trực tiếp giúp tôi trong quá trình triển khai
nghiên cứu, thu thập thông tin, xử lý và nhập số liệu.
Sự thành công của tôi không thể có được nếu không có bố, mẹ tôi đã
sinh thành, nuôi dạy, yêu thương và luôn sẵn lòng giúp đỡ tôi vượt qua mọi
khó khăn trong cuộc sống. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng
đối với bố, mẹ và các anh, chị, em tôi.
Cuối cùng, tôi cảm ơn sâu sắc tới vợ, các con yêu quý của tôi là nguồn
động lực và chỗ dựa về mọi mặt cho tôi trong cuộc sống, giúp tôi vượt qua
mọi khó khăn trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2014 Lê Trí Khải
v
MỤC LỤC ___________
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................ iii
MỤC LỤC ............................................................................................... v
DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT ................................ ix
DANH MỤC BẢNG ............................................................................... x
DANH MỤC HÌNH ................................................................................ xiii
ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................... 3
Chương 1. TỔNG QUAN ....................................................................... 4
1.1. BẢO HIỂM Y TẾ .............................................................................. 4
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm y tế …….................................................... 4
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của BHYT xã hội ………………...................... 5
1.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của BHYT xã hội .................................. 6
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hoạt động BHYT ................................................ 7
1.1.5. Chính sách BHYT xã hội ở Việt Nam và việc đưa BHYT về
tuyến xã ..................................................................................................... 11
1.2. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ ......... 20
1.2.1. Vai trò của phương thức thanh toán ............................................... 20
1.2.2. Các phương thức thanh toán chi phí DVYT trên thế giới .............. 22
1.2.3. Thực trạng áp dụng các PTTT chi phí DVYT ở Việt Nam ............ 37
1.2.4. Bối cảnh của chính sách y tế trong áp dụng PTTT theo định suất 38
1.2.5. Các nghiên cứu và kinh nghiệm về PTTT theo định suất ............... 44
1.3. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM DÙNG
TRONG NGHIÊN CỨU ........................................................................... 50
1.3.1. Khung lý thuyết nghiên cứu ............................................................ 50
1.3.2. Một số khái niệm được dùng trong nghiên cứu .............................. 52
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....... 53
vi
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ............................................................... 53
2.1.1. Huyện, xã can thiệp ........................................................................ 53
2.1.2. Huyện, xã đối chứng ....................................................................... 54
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU ............................................................. 54
2.3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ............................................................... 54
2.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ
ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP
VÀ CÔNG THỨC ĐỊNH SUẤT ÁP DỤNG TRONG MÔ HÌNH .......... 55
2.4.1. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng …………………….. 55
2.4.2. Hoạt động can thiệp và công thức định suất áp dụng trong mô
hình ………………………...…………………………………………… 57
2.5. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................... 63
2.6. CỠ MẪU ........................................................................................... 64
2.6.1. Nghiên cứu mô tả ............................................................................ 64
2.6.2. Nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý ..................................................... 64
2.6.3. Nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh ......................................... 64
2.6.4. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm 65
2.6.5. Nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã ............... 66
2.7. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU ......................................................... 66
2.8. BIẾN SỐ, CHỈ SỐ VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH .......... 67
2.9. QUY TRÌNH THU THẬP SỐ LIỆU ................................................. 75
2.9.1. Nghiên cứu mô tả ............................................................................ 75
2.9.2. Nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý ..................................................... 75
2.9.3. Nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh ......................................... 75
2.9.4. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm 76
2.9.5. Nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã ............... 76
2.10. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ, XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU 76
2.11. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU .............................................. 78
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU …………………...................... 79
vii
3.1. Thông tin chung về các xã nghiên cứu .............................................. 79
3.2. Thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch
vụ tại một số TYT xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012 .................... 79
3.3. Hiệu quả của phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo
định suất tại một số TYT xã thuộc huyện Đăk Tô .................................... 84
3.3.1. Kê đơn thuốc hợp lý ....................................................................... 84
3.3.2. Sự hài lòng của người bệnh ............................................................ 89
3.3.3. Một số chỉ số KCB BHYT .............................................................. 97
3.3.4. Chi phí KCB BHYT ....................................................................... 100
3.3.5. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm 108
3.3.6. Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã ................................. 115
Chương 4. BÀN LUẬN ........................................................................... 119
4.1. BÀN LUẬN CHUNG ........................................................................ 119
4.2. BÀN LUẬN THEO MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............................. 123
4.2.1. Thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch
vụ tại một số TYT xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012 .................... 123
4.2.2. Hiệu quả của phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo
định suất tại một số TYT xã thuộc huyện Đăk Tô .................................... 126
4.3. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU ...................................................... 146
KẾT LUẬN .............................................................................................. 149
KHUYẾN NGHỊ ..................................................................................... 151
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ
CÔNG BỐ ................................................................................................ 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 153
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thực trạng áp dụng các phương thức thanh toán chi phí dịch
vụ y tế ở Việt Nam .................................................................................... 163
Phụ lục 2: Mục tiêu của hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất
cho các nước thu nhập thấp và trung bình ................................................ 176
viii
Phụ lục 3: Hiệu quả của phương thức thanh toán theo định suất ............. 178
Phụ lục 4: Một số thông tin về địa điểm nghiên cứu ................................ 183
Phụ lục 5: Một số nội dung chính của mô hình thí điểm định suất tại
TYT xã thuộc huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum ............................................ 185
Phụ lục 6: Bản đồ mạng lưới y tế cơ sở tỉnh Kon Tum ............................ 190
Phụ lục 7: Các bên liên quan, mối quan tâm và hình thức phổ biến kết
quả nghiên cứu …………….................................................................... 191
Phụ lục 8: Một số kết quả nghiên cứu …………………….................. 193
Phụ lục 9: Hướng dẫn thu thập số liệu tính toán chi phí dịch vụ y tế tại
trạm y tế xã ………………………........................................................... 213
BỘ CÔNG CỤ THU THẬP THÔNG TIN
Mẫu số 01 ...................................................................................... 218
Mẫu số 02 ...................................................................................... 219
Mẫu số 03 ...................................................................................... 223
Mẫu số 04 ...................................................................................... 224
Mẫu số 05 ...................................................................................... 225
Mẫu số 06 ...................................................................................... 228
Mẫu số 07 ...................................................................................... 230
Mẫu số 08 ...................................................................................... 232
Mẫu số 09 ...................................................................................... 234
Mẫu số 10 ...................................................................................... 236
Mẫu số 11 ...................................................................................... 239
Mẫu số 12 ...................................................................................... 242
Mẫu số 13 ...................................................................................... 245
ix
DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT _____________________
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BQ Bình quân
CMKT Chuyên môn kỹ thuật
CSSK Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ Chăm sóc sức khỏe ban đầu
CSVC Cơ sở vật chất
DRG Diagnosis-related group: Thanh toán theo nhóm chẩn đoán
DVKT Dịch vụ kỹ thuật
DVYT Dịch vụ y tế
ĐS Định suất
ĐTKT Điều tiết - khen thưởng
GGT Giấy giới thiệu
KBCB Khám bệnh, chữa bệnh
KCB Khám chữa bệnh
KS Kháng sinh
KT-XH Kinh tế - xã hội
MLNS Mục lục ngân sách
NCS Nghiên cứu sinh
NSNN Ngân sách nhà nước
NVYT Nhân viên y tế
PTTT Phương thức thanh toán
PVS Phỏng vấn sâu
SL Số lượng
TB Trung bình
TLN Thảo luận nhóm
TTB Trang thiết bị
TTYT Trung tâm Y tế
TYT Trạm Y tế
VTYT Vật tư y tế
VTYTTH Vật tư y tế tiêu hao
YTCC Y tế công cộng
YTDP Y tế dự phòng
x
DANH MỤC BẢNG ___________
Bảng Tên bảng Trang
1.1 Đặc điểm và tác động của các PTTT CSSKBĐ ....................... 23
1.2 Đặc điểm và tác động của các PTTT bệnh viện ....................... 31
2.1 Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đáp ứng mục tiêu 56
2.2 Các biến số và chỉ số nghiên cứu mô tả ................................... 67
2.3 Các biến số khảo sát kê đơn thuốc hợp lý ................................ 69
2.4 Các biến số khảo sát sự hài lòng của người bệnh .................... 70
3.1 Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy ............. 79
3.2 Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy ................. 80
3.3 Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT huyện Kon Rẫy ................ 82
3.4 Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT huyện Kon Rẫy ..... 83
3.5 Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT huyện Kon Rẫy .. 83
3.6 Tình hình kê đơn thuốc tại các TYT xã 2 huyện trước can thiệp 84
3.7 Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp trước (2011) và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất (2012) ……… 85
3.8 Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng ...................... 86
3.9 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của một số chỉ số về kê đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ........ 87
3.10 Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất ..... 88
3.11 Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng ..................... 88
3.12 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ....................................... 89
3.13 Thông tin chung về đối tượng được phỏng vấn ....................... 89
xi
Bảng Tên bảng Trang
3.14 Lý do chọn TYT xã để khám bệnh, thời gian chờ đợi và người khám .............................................................................. 90
3.15 Tình hình hướng dẫn sử dụng thuốc, cấp thuốc, trả thêm tiền và kết quả điều trị ..................................................................... 91
3.16 Thái độ của NVYT, thủ tục KCB, sự hài lòng, nguyên nhân, quay lại lần sau khi có bệnh và nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB ................................... 93
3.17 Mô hình hồi quy logistic đa biến phân tích mối liên quan giữa sự hài lòng của người bệnh với một số yếu tố liên quan .......... 95
3.18 Tình hình KCB BHYT tại các TYT xã trước can thiệp …… 97
3.19 Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất ................................... 98
3.20 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 với năm 2011 của một số chỉ số KCB BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ................... 99
3.21 Chi phí KCB BHYT tại các TYT xã trước can thiệp ………... 100
3.22 Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất ......................................... 101
3.23 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ........................ 102
3.24 Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất ..... 103
3.25 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ...................................... 104
3.26 Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất ........................ 104
3.27 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BQ theo giới tính giữa các TYT xã thuộc hai nhóm ....... 105
3.28 Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT xã can thiệp trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất .............. 105
3.29 So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi giữa các TYT xã thuộc hai nhóm .... 106
xii
Bảng Tên bảng Trang
3.30 Cân đối quỹ định suất năm 2012 của 3 TYT xã huyện Đăk Tô 107
3.31 Ý kiến về hiệu quả của PTTT chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã ......................................................................... 114
3.32 Đặc điểm cơ bản và thống kê hoạt động của 6 TYT xã nghiên cứu năm 2012 ........................................................................... 115
3.33 Chi chí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã ..................... 117
3.34 Cơ cấu chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã .......... 117
3.35 So sánh giữa chi phí đơn vị và mức phí cho phép tối đa ......... 118
xiii
DANH MỤC HÌNH ___________
Hình Tên hình Trang
1.1 Khái niệm không gian 3 chiều của bao phủ BHYT toàn dân ............. 10
1.2 Sơ đồ khung lý thuyết nghiên cứu ..................................................... 51
2.1 Sơ đồ thiết kế nghiên cứu ................................................................... 55
3.1 Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã (3 thành phần chi
phí) ..................................................................................................... 115
3.2 Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã (5 thành phần chi
phí) ..................................................................................................... 116
3.3 Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã (7 thành phần chi
phí) ..................................................................................................... 116
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương thức thanh toán (PTTT) là một trong năm công cụ (bao gồm: Tài
chính, PTTT, Cung ứng dịch vụ, Quản lý nhà nước và Tuyên truyền thay đổi hành
vi) điều hành quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả và tính công bằng của hệ thống y
tế [82]. PTTT có vai trò kết nối giữa 2 thành phần là tài chính y tế và cung ứng
dịch vụ y tế (DVYT), với nhiệm vụ chủ chốt là kiểm soát chi phí và chất lượng dịch
vụ bằng việc tạo ra các cơ chế khuyến khích phù hợp [98].
Tại Việt Nam, một vấn đề quan trọng đối với cơ chế tài chính tại các cơ sở
cung ứng DVYT là PTTT và cho đến hiện nay thanh toán theo dịch vụ vẫn là PTTT
chủ yếu được áp dụng chung đối với DVYT nói chung cũng như đối với dịch vụ
khám chữa bệnh (KCB) bảo hiểm y tế (BHYT) nói riêng. Với PTTT này, việc kiểm
soát chi phí là vô cùng khó khăn do bản chất của PTTT theo dịch vụ là khuyến
khích cơ sở cung ứng càng nhiều dịch vụ càng có lợi, nhất là trong bối cảnh các cơ
sở y tế đang thực hiện tự chủ như hiện nay [22]. Các cơ sở KCB được thanh toán
chi phí cho dịch vụ mà họ cung cấp, do đó, càng lên tuyến trên kinh phí mà các cơ
sở y tế được thanh toán càng lớn vì nó tỷ lệ thuận với dịch vụ được cung cấp chứ
không tính đến nhu cầu KCB của người bệnh. Từ đó dẫn đến xu hướng lạm dụng
DVYT và gây nên tình trạng lạm chi quỹ BHYT. Trong bối cảnh đó, PTTT theo
định suất, một PTTT mới và tiên tiến, lần đầu tiên được đưa vào Luật BHYT do
Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2009 [7].
Luật BHYT quy định 3 phương thức cơ bản thanh toán chi phí KCB BHYT
là thanh toán theo định suất, thanh toán theo dịch vụ và thanh toán theo trường hợp
bệnh [41]. Liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính xác định lộ trình áp dụng thanh toán theo
định suất là đến năm 2015 tất cả cơ sở y tế đăng ký KCB ban đầu tại địa phương
thực hiện PTTT theo định suất [19]. Trạm y tế (TYT) tuyến xã là một trong những
cơ sở y tế đăng ký KCB ban đầu chính ở địa phương. Trên thế giới, PTTT chăm sóc
sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) tiên tiến nhất và ưu việt nhất hiện nay là PTTT theo
định suất, bởi vì phương thức này hướng hoạt động chăm sóc sức khỏe (CSSK) cho
người dân tới các hoạt động y tế dự phòng (YTDP), nâng cao sức khỏe và quản lý
các bệnh mạn tính tại cộng đồng [74].
2
Mặc dù Luật BHYT đã xác định thanh toán theo định suất là một phương
thức cơ bản, nhưng việc hoàn thiện cơ chế này cần có thời gian để xác định cụ thể
nguyên tắc, điều kiện và phạm vi áp dụng trên cơ sở các luận chứng khoa học và
thực tiễn. Năm 2011, có 786/1.951 cơ sở KCB ban đầu tại 59/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương áp dụng thanh toán theo định suất, đạt tỷ lệ 40,3% [22]. Tuy
nhiên, hầu hết các cơ sở y tế nói trên đều thuộc tuyến huyện, có một số đơn vị thuộc
tuyến tỉnh và trung ương [2], [10]. Trong khi đó, theo quy định của Luật BHYT và
các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, PTTT theo định suất được dùng để áp dụng
cho tuyến huyện và xã [19], [26], [41].
PTTT theo định suất hiện đang áp dụng tại Việt Nam còn nhiều điểm bất
cập về cả thiết kế cũng như triển khai thực hiện và tác động. Thiết kế thanh toán
theo định suất của Việt Nam có nhiều điểm không phù hợp với nguyên tắc của
thiết kế định suất nói chung cũng như thực tiễn triển khai định suất thành công
trên thế giới. Theo đó, nguyên tắc của thiết kế thanh toán theo định suất chủ yếu
sử dụng cho điều trị ngoại trú và CSSKBĐ, hay nói cách khác, chủ yếu là hoạt
động dự phòng sức khỏe tại cộng đồng. Trong khi đó, thiết kế định suất tại Việt
Nam bao gồm cả cho điều trị nội trú, không bao gồm CSSKBĐ và điều này sẽ làm
nảy sinh nhiều hệ quả bất cập [68].
Nhằm cung cấp bằng chứng khoa học cập nhật phục vụ cho việc xây dựng và
hoàn thiện PTTT chi phí KCB BHYT theo định suất tại trạm y tế tuyến xã để có thể
áp dụng ở phạm vi lớn hơn, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Thanh toán chi
phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại một số trạm y tế xã thuộc
huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum”.
Đây là nghiên cứu về PTTT chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT
tuyến xã được hoàn thành trước năm 2015, thời điểm mà tất cả các cơ sở y tế đăng
ký KCB ban đầu tại địa phương thực hiện PTTT theo định suất theo quy định của
liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính. Các kết quả của nghiên cứu được hy vọng có thể đóng
góp nhất định đối với việc điều chỉnh và triển khai thực hiện Luật BHYT nói chung
và thực hiện PTTT theo định suất tại tuyến xã nói riêng.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo
phương thức dịch vụ tại một số trạm y tế xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012.
2. Đánh giá hiệu quả đối với một số chỉ số khám chữa bệnh, kê đơn thuốc
hợp lý và việc kiểm soát chi phí khám chữa bệnh của phương thức thanh toán chi
phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại một số trạm y tế xã thuộc
huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum.
4
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. BẢO HIỂM Y TẾ
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm y tế
BHYT xã hội là chương trình BHYT do nhà nước tổ chức thực hiện, trong đó
mức phí bảo hiểm thường được tính theo tỷ lệ thu nhập của người lao động, trong
khi quyền lợi KCB được hưởng không theo mức đóng góp mà theo nhu cầu KCB.
Đây là định nghĩa được sử dụng trong các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
cũng như Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Lao động quốc tế [61], [70], [71]. Quỹ
BHYT xã hội được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao động, chủ sử dụng
lao động và Chính phủ. Chương trình BHYT xã hội được thực hiện bắt buộc theo
luật định, nên còn gọi là BHYT bắt buộc. Nguồn tài chính từ quỹ BHYT xã hội
được coi là nguồn tài chính công, có vai trò đặc biệt quan trọng để bảo đảm công
bằng trong đóng góp tài chính y tế thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro [23]. Theo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, BHYT là hình thức bảo hiểm bắt
buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật BHYT để chăm
sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện [40].
Khái niệm BHYT ở đây được hiểu là BHYT xã hội.
BHYT toàn dân là chương trình BHYT xã hội bao phủ được toàn bộ dân số.
Trong một số trường hợp, có thể công bố đạt được mục tiêu bao phủ toàn dân khi tỷ
lệ bao phủ dưới 100%, nhưng với điều kiện những người chưa có BHYT phải được
bảo vệ trước rủi ro bệnh tật bằng những cơ chế tài chính y tế an toàn khác [23].
BHYT thương mại, BHYT tư nhân là hoạt động kinh doanh BHYT vì lợi
nhuận; mức phí BHYT được xác định theo xác suất rủi ro mắc bệnh của người hoặc
nhóm người tham gia BHYT. Khác với BHYT xã hội, quyền lợi của người tham gia
BHYT thương mại tùy thuộc vào mức phí BHYT đã đóng. Nhà nước thường không
tổ chức kinh doanh loại hình BHYT thương mại mà để cho tư nhân kinh doanh, nên
còn gọi là BHYT tư nhân. BHYT thương mại là hình thức BHYT tự nguyện, nên ở
một số nước, BHYT thương mại còn được gọi là BHYT tự nguyện [23].
5
BHYT tự nguyện ở Việt Nam là chương trình BHYT được thực hiện đến khi
Luật BHYT có hiệu lực năm 2009, phi lợi nhuận với phí bảo hiểm đồng mức cho
từng nhóm đối tượng ở từng khu vực, do BHXH Việt Nam thực hiện. Chương trình
BHYT này thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện và hoàn toàn khác với khái niệm
BHYT tự nguyện - thương mại ở nước ngoài [23]. Hiện nay, BHYT tự nguyện
chính là BHYT thương mại và được thực hiện theo Luật Kinh doanh bảo hiểm.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của BHYT xã hội
Việc chi trả cho DVYT nói chung có thể chia làm hai loại: Chi trả trước và
chi trả trực tiếp từ tiền túi khi sử dụng DVYT. Trong đó, hình thức chi trả trước có
thể thực hiện qua việc đóng thuế hoặc đóng phí tham gia BHYT xã hội. Ngân sách
nhà nước (NSNN) thu từ thuế hoặc nguồn thu BHYT xã hội sẽ được dùng để chi trả
cho các DVYT cung cấp cho người tham gia đóng góp khi có nhu cầu sử dụng.
Theo phương thức này, nguồn lực và rủi ro của các thành viên tham gia được gom
lại, do đó giảm rủi ro và tăng sự bảo vệ về tài chính đối với mỗi cá nhân trước nguy
cơ tổn thất tài chính do ốm đau, bệnh tật. Nguyên tắc của phương thức tài chính này
là đóng góp theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. WHO đã tỏ rõ quan điểm
ủng hộ các hệ thống tài chính y tế dựa trên cơ chế chi trả trước, coi đây là lựa chọn
hàng đầu nhằm thực hiện mục tiêu CSSK toàn dân [62].
Hệ thống y tế dựa trên thuế hoặc BHYT xã hội giúp giảm thiểu việc chi trả
trực tiếp của hộ gia đình khi phải sử dụng DVYT, bảo vệ người dân trước rủi ro rơi
vào bẫy đói nghèo do phải chi trả quá lớn khi đau ốm, đồng thời loại bỏ rào cản về
tài chính giúp tăng khả năng tiếp cận sử dụng DVYT khi cần cho người dân. Nghị
quyết số 58.33 của Đại Hội đồng Y tế thế giới lần thứ 57 đã khẳng định chi trả
trước và chia sẻ rủi ro là nguyên tắc cơ bản trong thiết lập cơ chế bảo vệ trước các
nguy cơ về tài chính cho CSSK. Nghị quyết này đã kêu gọi các nước thành viên của
WHO xây dựng hệ thống tài chính y tế dựa trên chi trả trước nhằm chia sẻ rủi ro,
bảo vệ người dân trước các chi phí y tế thảm họa và nguy cơ rơi vào đói nghèo do
chi trả DVYT khi đau ốm [100]. Ngày 24/5/2011, WHO lại có Nghị quyết số 64.9
về xây dựng hệ thống tài chính y tế bền vững theo phương thức chi trả trước nhằm
6
thực hiện mục tiêu CSSK toàn dân [93]. Theo đó, để tiến tới mục tiêu CSSK toàn
dân, các quốc gia có thể dựa vào tài chính từ thuế hoặc BHYT xã hội [61], [92].
Một số chuyên gia cho rằng so với phương thức huy động nguồn tài chính từ thuế,
BHYT xã hội minh bạch, rõ ràng hơn khi người tham gia biết rõ mình đang góp tiền
cho CSSK cũng như gói quyền lợi mình được hưởng. Ngoài ra, thông qua BHYT xã
hội, gánh nặng chi phí y tế không chỉ tập trung vào nhà nước mà chia sẻ cho các tổ
chức và cá nhân trong xã hội. Đây chính là lý do khiến lãnh đạo chính phủ các nước
ngày nay ngày càng quan tâm hơn đến việc phát triển hệ thống BHYT xã hội.
Khoảng một phần hai các nước công nghiệp đã chọn BHYT xã hội làm phương
thức cung cấp tài chính y tế [60]. Mặc dù vậy, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng BHYT
xã hội hay tài chính dựa vào thuế đều có hạn chế nhất định, do đó nên theo hướng
kết hợp cả hai phương thức tài chính này nhằm đạt CSSK toàn dân [63].
Tuy nhiên, thực tế tại các nước đang phát triển cho thấy việc thiết lập một hệ
thống y tế dựa trên thuế không hề đơn giản do tỷ lệ người lao động khu vực phi
chính thức (không có lương) khá cao, tính tuân thủ đối với quy định nộp thuế hạn
chế trong khi năng lực của hệ thống quản lý và thu thuế còn yếu. Mặt khác, BHYT
xã hội là phương thức trong đó áp dụng chế độ BHYT bắt buộc đối với mọi người
dân, thông thường trước tiên là trong khu vực lao động chính thức hưởng lương.
Như vậy, việc mở rộng BHYT xã hội ra khu vực lao động phi chính thức là một vấn
đề bức thiết để thực hiện BHYT toàn dân nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức khi
một tỷ lệ lớn người lao động thuộc khu vực phi chính thức tại các nước có thu nhập
thấp và trung bình. Trong bối cảnh đó, một lựa chọn khác được đưa ra là BHYT
cộng đồng, tức là hình thức BHYT tự nguyện tổ chức tại cộng đồng dân cư [60].
1.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của BHYT xã hội
Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, BHYT xã hội cũng phải tuân thủ
nguyên lý số đông hay nguyên tắc về tính cộng đồng trong tổ chức thực hiện nhằm
chia sẻ rủi ro khi không may bị ốm đau, bệnh tật. Ngoài ra, BHYT xã hội còn được
thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau nhằm bảo đảm sự công bằng và hiệu
quả, giúp phân biệt BHYT xã hội với các loại hình BHYT kinh doanh (hay BHYT
thương mại) [31].
7
1.1.3.1. Nguyên tắc về tính phi lợi nhuận
BHYT xã hội được tổ chức thực hiện không vì mục tiêu lợi nhuận là một
trong những nguyên tắc cơ bản để phân biệt với các loại hình BHYT thương mại
khác. Theo đó, mọi nguồn thu của quỹ BHYT xã hội, kể cả số tiền lãi thu được từ
hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ (nếu có) cũng được dùng để chi trả chi phí KCB
cho cộng đồng tham gia BHYT.
1.1.3.2. Đảm bảo sự hỗ trợ chéo giữa những nhóm người tham gia BHYT
- Nhóm người khỏe, có nguy cơ bệnh tật thấp hỗ trợ nhóm người yếu, có
nguy cơ mắc bệnh cao.
- Nhóm có thu nhập cao hỗ trợ nhóm người có thu nhập thấp và nhóm người
còn đang ở độ tuổi lao động hỗ trợ cho nhóm người chưa hoặc không còn ở độ tuổi
lao động, v.v…
1.1.3.3. Đóng góp theo thu nhập, sử dụng dịch vụ y tế theo nhu cầu
Theo đó, mức đóng BHYT xã hội của mỗi cá nhân được xác định theo tỷ lệ
phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương
cơ sở của khu vực hành chính theo quy định của Chính phủ. Mức hưởng BHYT xã
hội theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người
tham gia BHYT xã hội.
1.1.3.4. Chi trả trước
Theo đó, người tham gia BHYT xã hội có trách nhiệm đóng góp trước vào
quỹ BHYT khi chưa ốm đau để được hưởng quyền lợi khi bị đau ốm.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá hoạt động BHYT
BHYT là một phương thức tài chính y tế, vì vậy BHYT vẫn có ba chức năng
cơ bản của tài chính y tế, đó là: Huy động nguồn thu, gom quỹ chia sẻ rủi ro và chi
trả DVYT. Việc đánh giá mỗi chức năng được dựa trên các chỉ số cụ thể như sau:
1.1.4.1. Huy động nguồn thu
Mức độ tham gia: Là tỷ lệ người dân tham gia BHYT trên tổng số đối tượng
đích. Đối với BHYT tự nguyện, một vấn đề thường gặp phải là lựa chọn bất lợi hay
lựa chọn ngược xảy ra khi toàn người ốm tham gia BHYT. Điều này sẽ đẩy chi phí
8
KCB BHYT và mức phí tham gia BHYT tăng cao dẫn đến sự đổ vỡ của BHYT. Do
đó, tỷ lệ tham gia cao là một yếu tố quyết định tính bền vững của BHYT. Các yếu tố
ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT bao gồm:
- Khả năng chi trả mức phí đóng góp của người dân: Đây được xem là yếu tố
quyết định sự tham gia BHYT. Đối với cùng một mức đóng góp nhưng khả năng
tham gia của các hộ nghèo sẽ hạn chế hơn nhiều so với hộ khá giả.
- Đơn vị tham gia BHYT: Có thể là hộ gia đình, làng hay hợp tác xã. Việc
lựa chọn đơn vị tham gia BHYT là một biện pháp hạn chế tình trạng lựa chọn
ngược. Có thể áp dụng việc đăng ký tham gia BHYT theo hộ gia đình hoặc thậm chí
quy định một tỷ lệ tối thiểu các hộ gia đình trong làng tham gia BHYT.
- Khoảng cách từ hộ gia đình đến cơ sở y tế gần nhất cung cấp DVYT cũng
là một yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT.
- Thời gian thu phí BHYT phù hợp: Các nghiên cứu của WHO cho thấy đối
với các quỹ BHYT tại khu vực thành thị, thời điểm thu phí phù hợp là hàng tháng
hoặc hàng quý vì như vậy phù hợp với thời điểm trả lương, trong khi đối với các
quỹ BHYT tại vùng nông thôn, việc thu phí theo năm tỏ ra phù hợp hơn [60]. Tuy
nhiên, nhiều quỹ BHYT áp dụng thời gian thu phí linh hoạt, hàng tháng, hàng quý
hoặc nửa năm.
- Chất lượng DVYT: Là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định
tham gia BHYT của các thành viên. Chất lượng DVYT được nhìn nhận theo các
khía cạnh bao gồm: Hồi phục nhanh, nhân viên y tế (NVYT) bảo đảm chất lượng,
thuốc tốt và thái độ tiếp đón niềm nở.
- Sự tin tưởng vào cách thức quản lý quỹ.
Tỷ lệ mức đóng góp so với chi phí DVYT: Trong hoạt động BHYT, việc thu
đủ nguồn quỹ để chi trả cho chi phí DVYT là yếu tố quan trọng không kém gì so
với mức độ tham gia. Mức đóng góp càng cao càng bảo đảm người tham gia tránh
được các chi phí DVYT từ tiền túi của mình. Khi mức đóng góp thấp so với chi phí
DVYT, người tham gia BHYT sẽ phải chi trả tiền túi khi đi KCB cho các khoản
khấu trừ (deductives), cùng chi trả (copayment) và các khoản chi phí ngoài phạm vi
9
thanh toán của BHYT [60]. Tuy nhiên, ngoài hộ gia đình, nhà nước và các nguồn
viện trợ cũng có thể tham gia đóng góp quỹ BHYT.
1.1.4.2. Mức độ góp quỹ, chia sẻ rủi ro (pooling): Đây là một tiêu chí quan trọng
bởi nó cho phép nguồn tài chính được chia sẻ giữa người khỏe và người ốm, điều
này đặc biệt có ý nghĩa trong bảo vệ hộ gia đình trước các chi phí y tế thảm họa
(catastrophic expenditures). Mặc dù ý nghĩa và vai trò của việc gom quỹ chia sẻ
rủi ro là rõ ràng như vậy nhưng trên thực tế không phải lúc nào tiêu chí này cũng
được bảo đảm thực hiện. Trên thực tế, trong một quốc gia, một vùng hoặc một
huyện có thể tồn tại nhiều quỹ BHYT khác nhau cho các đối tượng khác nhau, có
mức đóng góp và quyền lợi được hưởng điều chỉnh theo nguy cơ đau ốm. Việc
gom quỹ chia sẻ rủi ro không nhất thiết bắt buộc phải thực hiện duy nhất một quỹ
BHYT. Mặc dù có nhiều quỹ BHYT nhưng nếu có cơ chế kết nối các quỹ này với
nhau thì nguyên tắc chia sẻ rủi ro vẫn có thể được bảo đảm. Việc thành lập một
quỹ cân đối chính là một cơ chế như vậy. Quỹ này được đóng góp từ các quỹ có
kết dư và được chuyển đến cho các quỹ bị bội chi. Một cơ chế khác có thể áp dụng
là các quỹ tham gia bảo hiểm đối với các chi phí y tế thảm họa đối với một tổ chức
tái bảo hiểm. Việc xác định phạm vi của quỹ BHYT cũng là một cách để thực hiện
chia sẻ rủi ro, ví dụ thiết lập quỹ BHYT trong phạm vi một huyện thay vì một làng
sẽ tạo ra một quỹ lớn hơn để chia sẻ rủi ro.
1.1.4.3. Chi trả dịch vụ y tế một cách chiến lược, bài bản từ việc lựa chọn dịch vụ
tốt nhất, lựa chọn đơn vị cung ứng dịch vụ tốt nhất đến sử dụng PTTT tốt nhất. Việc
thực hiện chi trả DVYT một cách chiến lược, bài bản là cách bảo đảm tiếp cận
DVYT phù hợp và có tính chi phí hiệu quả cao. PTTT phù hợp là yếu tố then chốt
trong chi trả DVYT. Có các PTTT khác nhau bao gồm: Theo mục lục ngân sách,
theo dịch vụ, theo định suất, theo ngày điều trị, theo tổng ngân sách, theo nhóm
chẩn đoán... Bên cạnh đó, việc phân tuyến cung ứng DVYT cũng là một yếu tố
quan trọng trong xem xét chi trả DVYT. Để khống chế tình trạng lựa chọn ngược,
một số quỹ BHYT áp dụng quy định người tham gia BHYT phải chờ một thời gian
10
nhất định kể từ khi tham gia BHYT mới được hưởng quyền lợi từ BHYT khi sử
dụng một số dịch vụ nhất định [63].
Trước đây, khi nói về một hệ thống BHYT, ta thường hay quan tâm đến độ
bao phủ mà ít đề cập đến chiều sâu của độ bao phủ, tức là mức độ bảo vệ về tài
chính trước các nguy cơ chi phí lớn do CSSK của chương trình BHYT. Tuy nhiên,
gần đây vấn đề này ngày càng được quan tâm hơn. Theo WHO, có ba vấn đề cần
quan tâm đối với một hệ thống tài chính y tế nhằm mục tiêu CSSK toàn dân, đó là:
Tỷ lệ người dân được bao phủ (chiều rộng bao phủ), phạm vi và chất lượng dịch vụ
được cung cấp (chiều sâu của độ bao phủ) và tỷ lệ chi phí y tế được chi trả (chiều
cao của độ bao phủ) (Hình 1.1) [72], [99].
Hình 1.1: Khái niệm không gian 3 chiều của bao phủ BHYT toàn dân
Khi thiết kế một chương trình tài chính cho CSSK toàn dân, ngoài các chiến
lược để mở rộng độ bao phủ đến các nhóm dân cư, việc xây dựng gói quyền lợi
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Không một quốc gia nào đủ nguồn lực tài chính
chi trả cho tất cả DVYT. Tuy nhiên, có một số vấn đề thường gặp phải khi xây dựng
gói quyền lợi [63]. Thứ nhất đó là khó khăn khi phải lựa chọn để đưa vào gói dịch
vụ giữa các dịch vụ chi phí - hiệu quả, ít tốn kém và các dịch vụ ít chi phí - hiệu quả
hơn nhưng là gánh nặng chi phí lớn cho những người có nhu cầu sử dụng dịch vụ
1. Tăng tỷ lệ
bao phủ
3. Tăng
tỷ lệ chi
trả
2. Mở
rộng
gói
dịch
Mức độ bao phủ hiện tại
11
này đứng trước nguy cơ rơi vào chi phí y tế thảm hoạ, dịch vụ chạy thận nhân tạo là
một ví dụ. Một giải pháp cho vấn đề này là sự trợ giúp của mạng an sinh xã hội đối
với các hộ gia đình khi phải sử dụng các DVYT chi phí lớn. Thứ hai, việc bảo đảm
người cung ứng dịch vụ tuân thủ theo nội dung gói quyền lợi không phải là dễ dàng.
Người cung ứng dịch vụ luôn muốn đáp ứng tốt nhất yêu cầu KCB của người bệnh
trong điều kiện trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phép. Một vấn đề
khác của gói quyền lợi đó là không đáp ứng nhu cầu của một số nhóm dân cư có
khả năng tiếp cận các dịch vụ đắt tiền, chất lượng cao hơn. Thực tế này có thể diễn
ra theo hai hướng, hoặc tồn tại các chế độ quyền lợi khác nhau theo các chương
trình BHYT khác nhau cho các nhóm đối tượng nhất định hoặc những người có
điều kiện kinh tế sẽ mua thêm các dịch vụ ngoài gói quyền lợi.
1.1.5. Chính sách BHYT xã hội ở Việt Nam và việc đưa BHYT về tuyến xã
Ở Việt Nam, với sự ra đời của Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Điều lệ BHYT đã chính thức đánh
dấu sự ra đời của chính sách BHYT xã hội. Quá trình phát triển của chính sách
BHYT xã hội và việc đưa BHYT về tuyến xã tính tới thời điểm hiện tại bao gồm
các giai đoạn chính như sau:
1.1.5.1. Giai đoạn 1992-1998
Giai đoạn này được đánh dấu với sự ra đời của Nghị định số 47/CP ngày
06/6/1994 sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị
định 299/HĐBT. Các đối tượng tham gia bảo hiểm trong giai đoạn này chủ yếu
là các đối tượng tham gia BHYT bắt buộc bao gồm: cán bộ, công chức, viên
chức, cán bộ hưu trí, mất sức lao động ở các khu vực hành chính sự nghiệp,
người lao động khu vực sản xuất, kinh doanh của nhà nước… Các đối tượng
khác tham gia BHYT theo khả năng và nhu cầu, trên cơ sở tự nguyện. Chỉ một
năm sau khi Điều lệ BHYT được ban hành, số người tham gia BHYT năm 1993
là 3,79 triệu (chiếm khoảng 5,4% dân số). Hai năm tiếp theo (năm 1995) số
người tham gia BHYT tăng lên đáng kể (gần gấp đôi so với năm 1993) và đến
năm 1998 đạt trên 9,89 triệu, tăng gần gấp 3 lần năm 1993 [11].
12
Tuy nhiên, do hệ thống văn bản pháp luật về BHYT chưa đồng bộ nên đã
phát sinh một số khó khăn, vướng mắc, bất cập như: (i) Chủ sử dụng lao động
tìm cách không mua bảo hiểm cho người lao động, số người tham gia BHYT
còn rất thấp; (ii) Quỹ BHYT không được quản lý tập trung thống nhất mà do
các địa phương tự quản lý dẫn đến tình trạng quyền lợi BHYT không thống
nhất; chưa có cơ chế điều tiết quỹ BHYT giữa các tỉnh, thành phố và ngành;
quỹ tại một số địa phương được sử dụng không đúng mục đích, kém hiệu quả.
Công tác KCB BHYT tại tuyến xã không được đề cập trong quy định về cơ
sở KCB BHYT, do vậy giai đoạn này chưa triển khai thực hiện KCB tại tuyến xã.
Người có thẻ BHYT đăng ký KCB tại các bệnh viện.
1.1.5.2. Giai đoạn 1998-2005
Ngày 13/8/1998, Điều lệ BHYT mới được Chính phủ ban hành theo Nghị
định số 58/1998/NĐ-CP để thực hiện chính sách BHYT thống nhất trên phạm vi cả
nước. Tổ chức BHYT được thành lập theo hệ thống dọc và quản lý tập trung, thống
nhất từ Trung ương đến địa phương, đối tượng tham gia BHYT, phạm vi quyền lợi
KCB BHYT được mở rộng hơn, đồng thời bổ sung quy định về trách nhiệm cùng
chi trả chi phí KCB của người bệnh [28].
Trong giai đoạn này có sự thay đổi về tổ chức bộ máy, hệ thống BHYT
Việt Nam được chuyển giao từ Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam [48]. Quỹ BHYT
trở thành một quỹ thành phần của quỹ BHXH, được quản lý tập trung, thống nhất
toàn diện theo Quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. Ngày
08/8/2005, Vụ Bảo hiểm y tế thuộc Bộ Y tế được thành lập để tăng cường thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về BHYT. Sau 7 năm thực hiện Nghị định số
58/1998/NĐ-CP, đến cuối năm 2004 diện bao phủ BHYT đã đạt được 23% dân
số; số thu từ BHYT chiếm khoảng 28% - 32% tổng chi ngân sách nhà nước cấp
cho cơ sở KCB, vừa bảo đảm nguồn thu ổn định cho hoạt động KCB vừa bảo đảm
tính công bằng thông qua cơ chế BHYT. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã
đạt được, chính sách BHYT trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ một số bất cập là:
(i) Một số nhóm đối tượng thuộc diện phải tham gia BHYT bắt buộc nhưng chưa
13
được quy định trong Điều lệ BHYT. Loại hình BHYT tự nguyện mới chỉ thực
hiện cho học sinh, sinh viên, chưa mở rộng sang các đối tượng khác; (ii) Chưa quy
định rõ phạm vi quyền lợi mà người tham gia BHYT được hưởng phù hợp với sự
phát triển, tiến bộ về khoa học và công nghệ trong y học, một số dịch vụ kỹ thuật
(DVKT) cao, chi phí lớn chưa được BHYT thanh toán (chụp cộng hưởng từ, nội
soi, các loại vật tư tiêu hao, vật tư thay thế đặc biệt…); (iii) Phương thức cùng chi
trả (20%) mới chỉ thực hiện được ở một số đối tượng là những người có mức đóng
góp cao (cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các doanh nghiệp…)
nhưng lại ít sử dụng DVKT cao tạo nên sự không bình đẳng giữa các nhóm đối
tượng; (iv) PTTT theo dịch vụ vừa tăng chi phí hành chính, vừa chứa đựng rủi ro
cao đối với sự an toàn của quỹ BHYT, không đảm bảo tiết kiệm và chưa nâng cao
hiệu quả chi phí; (v) Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về BHYT
chưa rõ ràng, chưa đầy đủ sau khi chính sách BHYT được giao cho BHXH Việt
Nam tổ chức thực hiện [18].
Trong giai đoạn này, công tác KCB BHYT ở tuyến xã cũng đã được đề cập
trong Thông tư số 17/1998/TT-BYT ngày 19/12/1998 của Bộ Y tế hướng dẫn thực
hiện việc KCB, sử dụng quỹ KCB và thanh toán chi phí KCB BHYT. Tuy nhiên
việc triển khai KCB BHYT tại tuyến xã giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế.
1.1.5.3. Giai đoạn 2005-2009
Để khắc phục một phần những bất cập của Điều lệ BHYT ban hành kèm
theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP, ngày 16/5/2005, Chính phủ ban hành Điều lệ
BHYT mới kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP. Đối tượng tham gia BHYT
bắt buộc được mở rộng đến cả những người có hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng
trở lên, giáo viên trong các cơ sở bán công lập, tư thục, đặc biệt là các đối tượng
chính sách xã hội và người nghèo với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, đồng thời
mở rộng hơn loại hình tham gia BHYT tự nguyện (ngoài đối tượng là học sinh,
sinh viên còn triển khai BHYT tự nguyên theo hộ gia đình, hội viên hội đoàn thể);
mở rộng quyền lợi KCB BHYT, thanh toán cho một số dịch vụ như xét nghiệm
chẩn đoán sàng lọc HIV, thanh toán trong trường hợp KCB tự chọn; tổ chức hợp
14
đồng KCB BHYT với cơ sở y tế tư nhân; thay đổi cơ chế cùng chi trả; bổ sung các
PTTT mới với cơ sở KCB như theo định suất, theo nhóm bệnh và các hình thức
thanh toán thích hợp khác [27]. Với các điều chỉnh như trên, sau hơn 2 năm thực
hiện, số đối tượng tham gia BHYT tiếp tục được gia tăng nhanh chóng, nhất là đối
tượng tự nguyện và người nghèo, người dân tộc thiểu số được NSNN hỗ trợ 100%
mức phí BHYT. Năm 2006, số người tham gia BHYT đạt hơn 36,78 triệu người,
chiếm khoảng 42% dân số; tổng thu quỹ BHYT vào khoảng 4.812 tỷ đồng [3].
Vấn đề bất cập lớn nhất khi thực hiện Nghị định số 63/2005/NĐ-CP là không
có sự tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng BHYT. Trong khi mức phí BHYT
không thay đổi thì quyền lợi của người tham gia BHYT được mở rộng gần như tối
đa. Người tham gia BHYT không thực hiện cùng chi trả chi phí KCB, được thanh
toán cả chi phí điều trị do tai nạn giao thông; một số đối tượng được thanh toán chi
phí vận chuyển. Người bệnh cũng được thanh toán các chi phí điều trị kỹ thuật cao
(chẩn đoán hình ảnh, phẫu thuật, can thiệp tim mạch...), quỹ BHYT chi trả cho cơ
sở KCB theo giá viện phí không có trần khống chế. Hệ quả là quỹ BHYT đã bị mất
cân đối nghiêm trọng, tính đến tháng 12/2009 số bội chi quỹ BHYT đã là trên 3.000
tỷ đồng, đòi hỏi phải sớm có sự điều chỉnh chính sách [21], [23].
Công tác KCB BHYT tại tuyến xã đã có bước phát triển đột phá trong
giai đoạn này. Có tới 60% số TYT xã có hợp đồng KCB BHYT. Việc mở rộng
KCB BHYT tại tuyến xã đã góp phần củng cố và phát triển y tế cơ sở, nâng cao
chất lượng CSSKBĐ và KCB thông thường tại tuyến y tế cơ sở, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các DVYT của người có thẻ BHYT. Trong
năm 2004-2006, khoảng 40% tổng số KCB BHYT là ở tuyến huyện (bao gồm
cả KCB tại TYT xã) [34].
1.1.5.4. Giai đoạn từ 2009 tới nay
Năm 2008, Quốc hội thông qua Luật BHYT, chính sách BHYT và lộ trình
thực hiện BHYT toàn dân được quy định trong văn bản pháp lý cao nhất. Theo đó,
từ 01/7/2009 ngoài các nhóm đối tượng thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc theo
các quy định trước đây thì trẻ em dưới 6 tuổi, người thuộc hộ cận nghèo được đưa
15
ngay vào diện tham gia BHYT bắt buộc với sự hỗ trợ mức phí BHYT từ NSNN.
Học sinh, sinh viên tham gia BHYT bắt buộc từ 01/01/2010 và các nhóm đối
tượng còn lại (hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; hộ kinh doanh cá thể,
thân nhân người lao động) tiếp tục tham gia vào những năm sau đó. Luật cũng quy
định cụ thể phạm vi quyền lợi được BHYT bao gồm cả một số bệnh được khám
sàng lọc, chẩn đoán sớm theo danh mục do Bộ Y tế quy định. Quỹ BHYT sẽ thanh
toán 100% chi phí KCB cho các đối tượng là người có công, trẻ em dưới 6 tuổi và
cho mọi đối tượng khác nếu KCB tại TYT tuyến xã hoặc chi phí cho 1 lần KCB
không vượt quá 15% mức lương cơ sở; mở rộng việc thanh toán các kỹ thuật và
thuốc sử dụng trong điều trị, thanh toán chi phí vận chuyển người bệnh từ tuyến
huyện trở lên trong trường hợp cấp cứu hoặc khi điều trị nội trú cho một số nhóm
đối tượng thuộc diện ưu đãi xã hội, thanh toán một phần chi phí cho người tham
gia BHYT khi KCB ở nước ngoài. Mức thanh toán tối đa cho chi phí thuốc, vật tư
y tế (VTYT), DVKT cao chi phí lớn, DVKT phục hồi chức năng được tăng từ
mức 20 triệu đồng lên mức bằng 40 tháng lương cơ sở. Quỹ BHYT thanh toán
theo tỷ lệ nhất định cho các trường hợp KCB (kể cả DVKT cao chi phí lớn) không
đúng cơ sở đăng ký KCB ban đầu hoặc không theo tuyến CMKT. Quy định cụ thể
mức đóng BHYT theo nhóm đối tượng và thực hiện cùng chi trả của người bệnh.
Mức đóng BHYT hàng tháng của các đối tượng tham gia BHYT tăng lên 4,5%
mức tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp
thất nghiệp được áp dụng từ ngày 01/01/2010. Phương thức cùng chi trả được áp
dụng với các tỷ lệ linh hoạt theo các nhóm đối tượng khác nhau, cụ thể là 5% đối
với cán bộ hưu trí, mất sức lao động, bảo trợ xã hội, người nghèo, người dân tộc
thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH) khó khăn,
đặc biệt khó khăn và 20% cho các đối tượng khác. Vấn đề đổi mới PTTT chi phí
KCB BHYT cũng được chú trọng khi Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-
BTC giữa Bộ Y tế và Bộ Tài chính đưa ra lộ trình cho việc áp dụng PTTT theo
định suất là đến năm 2015 tất cả các cơ sở y tế đăng ký KCB ban đầu tại địa
phương đều thực hiện PTTT theo định suất [19], [26], [41].
16
Gần đây, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 07/9/2009 về
đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới và Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020, trong đó nhấn mạnh vai trò bảo đảm
an sinh xã hội và công bằng trong CSSK của BHYT và yêu cầu các cấp ủy đảng,
chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân quán triệt và thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả các chính sách về BHYT [1], [5].
Ngày 29/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 538/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012 -
2015 và 2020. Với Đề án được phê duyệt, mục tiêu trên 80% dân số tham gia
BHYT vào năm 2020 đã mang tính khả thi và hiện hữu với các giải pháp cụ thể,
cùng nguồn lực đầu tư cho từng giai đoạn của lộ trình [47]. Tuy nhiên, lộ trình
thực hiện bao phủ BHYT toàn dân theo Luật BHYT mới tập trung vào bao phủ
dân số mà chưa đề cập tới các chiều còn lại của bao phủ CSSK toàn dân.
Về kết quả thực hiện mở rộng BHYT, năm 2012 số người tham gia
BHYT là 59,31 triệu người đạt tỷ lệ bao phủ 66,8% dân số. Trong số những
người tham gia BHYT, các nhóm lớn được NSNN hỗ trợ toàn bộ hoặc một
phần kinh phí tham gia BHYT chiếm tỷ trọng 60% [4]. Năm 2013 có trên 61
triệu người tham gia BHYT, đưa diện bao phủ BHYT lên gần 70% dân số cả
nước tạo tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển BHYT bền vững, tiến tới
BHYT toàn dân [17].
Với mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân và phát triển hệ thống CSSK theo
định hướng công bằng, hiệu quả, chất lượng và phát triển bền vững, công tác KCB
BHYT tại tuyến ban đầu ngày càng được chú trọng và triển khai mạnh mẽ. TYT
tuyến xã được quy định là cơ sở KCB BHYT trong Luật BHYT và được hướng dẫn
chi tiết việc tổ chức thực hiện tại Thông tư liên tịch số 09 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài
chính. Số TYT xã tham gia KCB BHYT tăng nhanh. Năm 2011, số TYT xã thực
hiện KCB BHYT là 8.656 trạm, chiếm khoảng 80% tổng số TYT xã trên cả nước,
tăng 28% so với năm 2010 [36]. Hiện nay, phần lớn người tham gia BHYT đều
17
đăng ký KCB ban đầu tại TYT tuyến xã, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa. PTTT chi phí KCB BHYT tại TYT tuyến xã chủ yếu là theo dịch vụ
hoặc theo định suất được quy định tại Thông tư liên tịch số 09.
Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều cản trở trong thực hiện lộ trình BHYT toàn dân.
Các báo cáo đánh giá việc thực hiện Luật BHYT đã chỉ rõ các vấn đề vướng mắc,
bất cập trong công tác BHYT. Những cản trở này liên quan đến những thiếu hụt
trong quy định chính sách pháp luật cũng như những hạn chế trong triển khai thực
hiện. Đó là việc thiếu các quy định pháp lý bảo đảm tính tuân thủ quy định tham gia
BHYT bắt buộc; chưa có quy định để cơ quan BHXH thực thi được vai trò người
mua DVYT đáp ứng các tiêu chí an toàn, hiệu quả, chất lượng và giá chấp nhận
được; việc quản lý, sử dụng quỹ BHYT còn hạn chế về tính bền vững và hiệu quả;
PTTT DVYT chưa phù hợp; năng lực quản lý của cơ quan BHXH chưa đáp ứng
yêu cầu; hệ thống thông tin quản lý yếu… Những cản trở này ảnh hưởng tới cả ba
khía cạnh bao phủ của BHYT bao gồm tỷ lệ tham gia, phạm vi DVYT được thụ
hưởng và mức độ giảm tỷ lệ chi trả từ tiền túi của người sử dụng DVYT. Chưa thực
hiện hiệu quả cải cách thủ tục mua, cấp thẻ và thanh toán BHYT để tạo điều kiện
thuận lợi cho người có BHYT trong quá trình sử dụng DVYT [4], [15], [51], [53].
Ngày 13/6/2014, kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã biểu quyết thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT với 82,73% đại biểu tán thành.
Đây là dự thảo Luật được dư luận xã hội quan tâm vì có nhiều nội dung liên quan
trực tiếp đến cơ chế tài chính cho CSSK và an sinh xã hội. Theo đó, nhiều điểm
trong Luật BHYT đã được thay đổi theo chiều hướng tạo thuận lợi và thu hút người
dân tham gia BHYT. Luật BHYT vẫn tiếp tục bảo đảm tính chất xã hội của BHYT,
đó là chính sách an sinh xã hội do Nhà nước chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện với
sự tham gia của người dân và định hướng tiến tới BHYT toàn dân, đây là quan điểm
đã được thống nhất trong quá trình xây dựng và ban hành Luật BHYT.
So với Luật BHYT hiện hành (năm 2008), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật BHYT có một số điểm quan trọng có tính đột phá mạnh mẽ để khắc phục
những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, tạo cơ chế pháp lý bảo đảm quyền lợi
18
của người tham gia BHYT và tính bền vững của quỹ BHYT để thực hiện mục tiêu
BHYT toàn dân, cụ thể như sau:
Một là, quy định bắt buộc tham gia BHYT: Đây là một trong những giải
pháp đột phá hết sức quan trọng thể hiện quyết tâm chính trị nhằm thúc đẩy thực
hiện mục tiêu BHYT toàn dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và Nghị quyết 21
của Bộ Chính trị. Nhà nước sử dụng cơ chế hỗ trợ ngân sách trực tiếp cho một bộ
phận người dân tham gia BHYT, cũng như cơ chế chính sách về giá DVYT để thúc
đẩy toàn dân tham gia BHYT.
Hai là, quy định khuyến khích tham gia BHYT theo hộ gia đình với cơ
chế giảm dần mức đóng từ thành viên thứ hai trở đi, đến người thứ năm trở đi đóng
bằng 40% mức đóng của người thứ nhất. Quy định này sẽ khắc phục tình trạng cấp
trùng thẻ BHYT, hạn chế tình trạng chỉ có người ốm mới tham gia BHYT, bảo đảm
sự chia sẻ ngay trong hộ gia đình.
Ba là, mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT: Việc sửa
đổi bổ sung Luật lần này quan tâm nhiều đến quyền lợi của người tham gia BHYT
nhằm giảm gánh nặng chi phí KCB, tăng khả năng tiếp cận DVYT đối với một số
đối tượng chính sách, cụ thể là:
- Bổ sung người đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó
khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo được cấp thẻ BHYT miễn phí từ
nguồn NSNN bảo đảm.
- Bỏ quy định cùng chi trả 5% đối với người nghèo, bảo trợ xã hội, người
dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH khó khăn; người đang
sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại
xã đảo, huyện đảo.
- Bỏ quy định cùng chi trả 20% đối với thân nhân của người có công với
cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sỹ, người có công nuôi
dưỡng liệt sỹ; giảm mức cùng chi trả từ 20% xuống còn 5% với thân nhân khác của
người có công và người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
19
- Quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí KCB khi người bệnh có thời gian
tham gia BHYT 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí KCB trong
năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở.
- Quy định cụ thể mức hưởng BHYT đối với các trường hợp tự đi KCB
không đúng tuyến và bổ sung quy định quỹ BHYT thanh toán trong các trường hợp
tự tử, tự gây thương tích, tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Bốn là, mở thông tuyến KCB BHYT: Cùng với việc cải cách thủ tục, quy
trình KCB, đây là quy định hết sức quan trọng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
người tham gia BHYT trong việc tiếp cận các DVYT. Từ ngày 01/01/2016 sẽ mở
thông tuyến KCB BHYT giữa tuyến xã và tuyến huyện trên cùng địa bàn tỉnh. Mở
thông tuyến KCB BHYT đến tuyến tỉnh và tuyến trung ương trong phạm vi cả nước
đối với người thuộc hộ gia đình nghèo và người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại
vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại
các xã đảo, huyện đảo. Từ ngày 01/01/2021, quỹ BHYT chi trả chi phí điều trị nội
trú theo mức hưởng cho người tham gia BHYT khi KCB không đúng tuyến tại các
cơ sở KCB tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước.
Năm là, quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng quỹ BHYT: Luật vẫn
thống nhất nguyên tắc: Quỹ phải quản lý tập trung, thống nhất ở cấp quốc gia để
tập trung nguồn lực, điều tiết chung trong phạm vi cả nước, bảo đảm thực hiện
đúng mục tiêu chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, do chưa có sự đồng đều về tỷ lệ tham gia BHYT và dịch vụ KCB giữa các
tỉnh (có nơi đạt gần 100%, nhưng có tỉnh mới đạt 50-60% dân số tham gia BHYT,
có tỉnh đầy đủ DVKT y tế hiện đại nhưng có tỉnh còn thiếu nhiều trang thiết bị y
tế) nên Luật cho phép các địa phương có kết dư quỹ BHYT được sử dụng 20% để
sử dụng theo thứ tự ưu tiên: Hỗ trợ quỹ KCB cho người nghèo; hỗ trợ mức đóng
BHYT cho một số nhóm đối tượng phù hợp với điều kiện KT-XH của địa phương;
mua trang thiết bị (TTB) y tế phù hợp với năng lực, trình độ của NVYT; mua
phương tiện vận chuyển người bệnh ở tuyến huyện. Từ ngày 01/01/2021, khi tỷ lệ
tham gia BHYT của các địa phương đã ở mức cao, chất lượng DVYT đã khá đồng
20
đều, không còn sự khác biệt nhiều về kết dư hay bội chi quỹ BHYT giữa các tỉnh
sẽ thực hiện quản lý quỹ BHYT theo hướng quản lý tập trung hoàn toàn, thống
nhất và điều tiết chung trong phạm vi cả nước, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu
chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng.
Ngoài những điểm mới quan trọng như trên, để khắc phục những bất cập
trong tổ chức thực hiện, Luật bổ sung đối tượng thuộc lực lượng quân đội và công
an tham gia BHYT, bổ sung quyền lợi đối với trẻ em dưới 6 tuổi... Đồng thời Luật
cũng quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong tổ chức thực hiện chính
sách, đặc biệt là: (i) Trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế trong việc quy định thống
nhất giá dịch vụ KCB BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, quy
định Gói DVYT cơ bản do BHYT chi trả, ban hành danh mục và tỷ lệ, điều kiện
thanh toán đối với thuốc, hóa chất, VTYT, DVKT y tế thuộc phạm vi được hưởng
của người tham gia BHYT; (ii) Trách nhiệm Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc lập
danh sách để cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, lập danh sách đề nghị cấp thẻ
BHYT cho trẻ em đồng thời với việc cấp giấy khai sinh; (iii) Trách nhiệm của
BHXH Việt Nam trong việc kiểm tra, rà soát để tránh trùng thẻ BHYT cho các đối
tượng, tổ chức để người dân có thể tiếp cận và đóng BHYT theo hộ gia đình được
thuận lợi tại tất cả các địa bàn trên phạm vi cả nước.
1.2. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ
1.2.1. Vai trò của phương thức thanh toán
PTTT được các học giả Harvard nhìn nhận như một trong 5 nút điều khiển hệ
thống y tế (Tài chính, PTTT, Cung ứng dịch vụ, Công cụ quản lý của Nhà nước và
Tuyên truyền thay đổi hành vi) [82]. Thông qua tác động khuyến khích về tài chính
và phi tài chính, PTTT có thể làm thay đổi hành vi của các tổ chức và cá nhân cung
ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Đáng chú ý là tác động khuyến khích đó có
thể làm nảy sinh tình trạng mà các nhà kinh tế gọi là “rủi ro đạo đức” (“moral
hazard”), khi bên có ưu thế về thông tin có động cơ hành động theo hướng làm lợi
cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin [73].
Các ưu đãi được tạo ra bởi PTTT và sự đáp ứng của cơ sở cung ứng dịch vụ
đối với những ưu đãi đó, hệ thống thông tin quản lý để hỗ trợ các PTTT và cơ chế
21
trách nhiệm được thiết lập giữa cơ sở cung ứng dịch vụ và người mua dịch vụ có thể
có ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức phân bổ các nguồn lực CSSK và các dịch vụ
được cung cấp. PTTT sẽ giúp đạt được mục tiêu chính sách y tế bằng cách khuyến
khích khai thác các DVYT cần thiết cho người bệnh, các dịch vụ chăm sóc chất
lượng cao và cải thiện sự công bằng, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả và
hiệu suất các nguồn lực một cách thích hợp và tiết kiệm chi phí [74].
Cải thiện chất lượng DVYT được coi là biện pháp tích cực để nâng cao hiệu
suất sử dụng nguồn lực tài chính và đem lại chi phí - hiệu quả cao [90]. Mặt khác,
các công cụ tài chính, đặc biệt là PTTT cho cơ sở cung ứng dịch vụ có vai trò đặc
biệt quan trọng khuyến khích, thúc đẩy cải thiện chất lượng DVYT.
Để thực hiện bao phủ CSSK toàn dân, cần áp dụng các PTTT với các yếu tố
khuyến khích hợp lý, nhằm sử dụng nguồn lực theo cách công bằng và với hiệu quả
cao nhất, đồng thời tạo động lực để hạn chế các “rủi ro đạo đức”, “hớt váng”, thu
phí không chính thức của người bệnh và hướng việc cung ứng dịch vụ tới các mục
tiêu bao phủ về chiều rộng, chiều sâu cũng như bảo vệ tài chính trong CSSK. Ngoài
ra, PTTT cần đáp ứng các yêu cầu kiềm chế gia tăng chi phí không hợp lý, trong đó
có sự kết hợp hài hòa các PTTT thích hợp cho các nhóm dịch vụ ưu tiên [33].
Trên thế giới có 6 PTTT chi phí DVYT chính, đó là theo mục lục ngân sách,
theo dịch vụ, theo định suất, theo ngày điều trị, theo trường hợp bệnh và theo tổng
ngân sách. Trong đó có 3 PTTT chính dành cho CSSKBĐ bao gồm theo mục lục
ngân sách, theo dịch vụ và theo định suất; 5 PTTT chính dành cho bệnh viện bao
gồm theo mục lục ngân sách, theo dịch vụ, theo ngày điều trị, theo trường hợp bệnh
và theo tổng ngân sách. Việc lựa chọn, thiết kế PTTT phù hợp phụ thuộc rất nhiều
vào điều kiện KT-XH của mỗi quốc gia cũng như phụ thuộc vào khả năng cung ứng
DVYT, chất lượng dịch vụ và năng lực quản lý của cơ quan BHXH và các cơ sở y
tế. Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước thường kết hợp sử dụng hỗn hợp các PTTT
khác nhau thay vì chỉ sử dụng thuần túy một phương pháp. Việc kết hợp này giúp
tận dụng những mặt mạnh và hạn chế mặt tiêu cực của mỗi phương pháp.
Nhìn chung, PTTT dựa trên kết quả hoạt động đang ngày càng trở nên một
xu hướng và được áp dụng rộng rãi hơn, theo đó, cơ sở cung ứng dịch vụ được chi
trả theo kết quả và chất lượng dịch vụ. Đây là điểm thay đổi quan trọng so với
22
PTTT thông thường. Các cơ quan quản lý y tế, bên chi trả - quỹ BHYT, bên sử
dụng dịch vụ và nhất là các nhà hoạch định chính sách y tế ngày càng có những
quan tâm lớn hơn về chất lượng DVYT. Điều này đặt ra yêu cầu quan trọng cho
những chính sách, những cơ chế khuyến khích, quản lý và giám sát chất lượng để
chất lượng DVYT không ngừng được cải thiện.
Trong điều kiện thực tế hệ thống y tế nước ta, các câu hỏi chính đang được
đặt ra là khung chính sách chi trả dịch vụ và các PTTT đang áp dụng có tác động
như thế nào đến chất lượng DVYT, những tác động tích cực nào cần được phát huy
và những tác động bất lợi nào cần được giải quyết; cần làm gì để phát triển và áp
dụng những PTTT tiến bộ, góp phần thúc đẩy chất lượng và hiệu quả DVYT ở
những khía cạnh cơ bản, như tinh giản thủ tục, giảm chi phí, đề cao các giá trị tinh
thần và hiệu suất, tăng sự hài lòng của người bệnh; khuyến khích liên tục nâng cao
trình độ chuyên môn và năng lực quản lý chất lượng DVYT...
1.2.2. Các phương thức thanh toán chi phí DVYT trên thế giới
Trong phần dưới đây giới thiệu các PTTT chi phí DVYT phổ biến cho cả
người bệnh ngoại trú (đặc biệt là CSSKBĐ) và người bệnh nội trú. Tất cả các PTTT
chi phí DVYT đều có thể được áp dụng trong thanh toán chi phí KCB BHYT.
1.2.2.1. PTTT CSSKBĐ (Primary Health Care Payment Methods)
Có ba PTTT chính dành cho CSSKBĐ (bao gồm cả người bệnh ngoại trú):
Thanh toán theo mục lục ngân sách (Line-item budget), thanh toán theo dịch vụ
(Fee-for-service, có hoặc không có một biểu phí cố định) và thanh toán theo định
suất (Per capita hoặc Capitation) được trình bày tại Bảng 1.1. Cũng có thể chi trả
cho cơ sở cung ứng dịch vụ CSSKBĐ theo trường hợp bệnh hoặc đợt điều trị,
nhưng các PTTT như vậy hiếm khi được sử dụng cho các dịch vụ CSSKBĐ bởi vì
nó không tương ứng với sự thiết lập các dịch vụ CSSKBĐ cơ bản, trong đó các dịch
vụ này cần được hướng tới nâng cao sức khỏe, phòng bệnh và quản lý các ca bệnh.
Ngoài ra, PTTT theo trường hợp bệnh là quá phức tạp để thiết kế cho CSSKBĐ và
chăm sóc người bệnh ngoại trú, sẽ đặt một gánh nặng hành chính quá mức vào
người mua dịch vụ và hầu hết các bệnh mạn tính không có thời điểm khỏi bệnh
riêng biệt và như vậy sẽ phải phát triển một hệ thống thanh toán riêng biệt cho dịch
vụ phòng bệnh.
23
Bảng 1.1: Đặc điểm và tác động của các PTTT CSSKBĐ
Phương thức thanh
toán
Đặc điểm
Tác động đối với cơ sở cung ứng dịch vụ
Thiết lập tỷ lệ thanh toán theo
Thanh toán cho
cơ sở cung ứng dịch vụ
theo
Thanh toán dựa trên
Theo mục lục ngân sách
Tương lai
Tương lai Đầu vào
Cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, tham khảo các cơ sở cung ứng dịch vụ khác, tăng đầu vào, không khuyến khích hoặc không có cơ chế để nâng cao hiệu suất của sự kết hợp đầu vào, khuyến khích chi tiêu tất cả số tiền còn lại vào cuối năm ngân sách
Theo dịch vụ (biểu phí cố định và gói dịch vụ)
Tương lai
Quá khứ Đầu ra Tăng số lượng các dịch vụ bao gồm cả trên mức cần thiết, giảm đầu vào cho mỗi dịch vụ
Theo dịch vụ (không có biểu phí cố định)
Quá khứ Quá khứ Đầu vào
Tăng số lượng dịch vụ, tăng đầu vào
Theo định suất
Tương lai
Tương lai Đầu ra
Nâng cao hiệu suất của hỗn hợp đầu vào, thu hút người tham gia bổ sung, giảm đầu vào, cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, tham khảo các cơ sở cung ứng dịch vụ khác, tập trung vào nâng cao sức khỏe và phòng bệnh ít tốn kém, cố gắng để lựa chọn người tham gia mạnh khỏe hơn
Đây là ba PTTT phổ biến nhất, đặc điểm của các phương thức này và tác
động mà nó có khả năng tạo ra cho cơ sở cung ứng dịch vụ được trình bày trong
Bảng 1.1. Mỗi PTTT đều có các biến thể có thể tạo ra những tác động khác nhau;
các PTTT có thể được sử dụng kết hợp để tăng cường hoặc giảm thiểu các tác động
mà nó được tạo ra bởi mỗi phương thức riêng biệt.
24
Thanh toán theo mục lục ngân sách (Line-item budget)
PTTT cho cơ sở cung ứng dịch vụ theo mục lục ngân sách (một số tài liệu
gọi phương thức này là theo dòng ngân sách hoặc theo mục ngân sách) là việc phân
bổ một số tiền cố định cho cơ sở cung ứng dịch vụ để trang trải các mục chi cụ thể
(hoặc chi phí đầu vào), chẳng hạn như nhân viên, các tiện ích, thuốc và vật tư trong
một thời gian nhất định. Do đó, cả việc thiết lập và thực hiện PTTT theo mục lục
ngân sách dựa trên chi phí đầu vào đều là cho thời gian sắp tới (tương lai). Nó cung
cấp kiểm soát hành chính mạnh, thường có giá trị trong hệ thống của nhà nước. Về
lý thuyết, hiệu suất kỹ thuật và phân bổ của các can thiệp y tế có thể được tối ưu hóa
bằng cách điều chỉnh mục lục ngân sách nhà nước theo thời gian để tăng cung cấp
các can thiệp y tế chi phí - hiệu quả và giảm cung cấp các can thiệp ít chi phí - hiệu
quả. Điều này giả định rằng chính phủ có thể theo dõi và hiểu sự kết hợp đúng để
đạt được những kết quả này. Nhưng trên thực tế, họ thường không thể thực hiện
được vì thiếu thông tin giám sát tốt.
Thông thường, có các quy định hạn chế khả năng của cơ sở cung ứng dịch vụ
để chuyển tiền qua lại giữa các mục chi, do đó cơ sở cung ứng dịch vụ không có
động cơ hoặc cơ chế để đạt được sự kết hợp đầu vào hiệu suất nhất. Bởi vì cơ sở
cung ứng dịch vụ không chịu trách nhiệm về các quyết định phân bổ nguồn lực của
họ, thậm chí họ không có động lực để xác định những gì sẽ là kết hợp hiệu suất
nhất. Một khi ngân sách được phân bổ, cơ sở cung ứng dịch vụ thường có ít trách
nhiệm về khối lượng và chất lượng dịch vụ được cung cấp.
Mức độ thanh toán không liên quan đến đầu ra (chẳng hạn như ngày giường
hoặc các ca bệnh), mặc dù ngân sách có thể được điều chỉnh trong năm hiện tại để
phản ánh những thay đổi trong sử dụng đầu vào hay đầu ra (gọi là "mục lục ngân
sách bỏ ngỏ"), hoặc trong những năm tiếp theo để phản ánh mức độ đầu vào và đầu
ra trong những năm trước đó. Do đó, các động lực có thể mơ hồ, tùy thuộc vào
khoảng thời gian mà cơ sở cung ứng dịch vụ đáp ứng và mức độ mà ngân sách được
điều chỉnh dựa trên cơ sở chi phí hiện tại hoặc lịch sử và kết quả đầu ra. Ví dụ, nếu
ngân sách năm tới phản ánh những thay đổi trong chi phí hoặc đầu ra, cơ sở cung
ứng dịch vụ có thể làm tăng đầu vào hoặc đầu ra trong năm hiện tại để được cấp
nhiều ngân sách hơn trong tương lai.
25
PTTT theo mục lục ngân sách phổ biến ở Vương quốc Anh trong những năm
1980, trong khối Đông Âu và các nước cộng hòa của Liên Xô trước đây và hiện nay
vẫn còn phổ biến ở nhiều nước khác như Ai Cập, Philippines, Việt Nam và một số
nước ở châu Phi. Ngày nay, phương thức này còn thấy trong nhiều hệ thống nhà
nước tại tất cả các vùng trên thế giới, bất kể mức thu nhập như thế nào (như
Bahrain, Bangladesh, Mozambique và Saudi Arabia) [74].
Thanh toán theo dịch vụ (Fee-for-service)
Trong PTTT theo dịch vụ (một số tài liệu gọi phương thức này là theo phí
dịch vụ hoặc phí theo dịch vụ hoặc thực thanh thực chi, còn Luật BHYT ngày
14/11/2008 gọi là theo giá dịch vụ), cơ sở cung ứng dịch vụ được hoàn trả cho
mỗi dịch vụ đơn lẻ được cung cấp. Phương thức này có thể dựa trên đầu vào hay
đầu ra. Dựa trên đầu vào nếu không có biểu phí cố định và các dịch vụ không theo
gói (có nghĩa là nơi các DVYT không được nhóm lại thành một đơn vị tổng hợp
cao hơn). Trong trường hợp này, cơ sở cung ứng dịch vụ được phép cấp hóa đơn
cho người mua dịch vụ tất cả các chi phí phát sinh để cung cấp cho mỗi dịch vụ.
Điều này thường được gọi là thanh toán "dựa trên chi phí hồi tố", một thuật ngữ
thường được dùng ở Mỹ.
Phương thức này cũng có thể dựa trên kết quả đầu ra nếu có một biểu phí cố
định (như ở Canada, Đức và Nhật Bản) và các dịch vụ được đóng gói ở một số mức
độ: Cơ sở cung ứng dịch vụ được thanh toán khoản phí cố định cho dịch vụ được
xác định trước không phụ thuộc vào chi phí phát sinh. Trong PTTT theo dịch vụ
này, cơ sở cung ứng dịch vụ có động cơ để tăng số lượng các dịch vụ trong tổng thể
các lần KCB và làm giảm đầu vào sử dụng cho mỗi dịch vụ. Dịch vụ có thể được
cung cấp một cách hiệu suất nhất và tạo ra số dư một cách nhanh chóng nhất. Mức
phí có thể được thiết lập để trả cho cơ sở cung ứng dịch vụ là phù hợp với chi phí
tạo ra các dịch vụ đó, như vậy số dư sẽ không quá cao. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều
dịch vụ riêng lẻ được cung cấp, sẽ là khó khăn và không cần thiết để có được thông
tin chính xác về chi phí mỗi dịch vụ. Các dịch vụ càng được đóng gói nhiều thì
phạm vi chi phí sản xuất càng lớn và càng ít hy vọng giá cả của các dịch vụ sẽ phù
hợp với chi phí thực tế cho mỗi lần KCB riêng lẻ.
26
PTTT theo dịch vụ được đánh giá là có nhiều bất cập, tạo nên rào cản tài
chính, cản trở khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản cần thiết của
người dân [69], [80], nhất là nhóm thu nhập thấp. Khi phải chi trả tiền túi cho dịch
vụ CSSK, người dân phải đối diện với nguy cơ chịu chi phí quá mức và bị đẩy vào
bẫy nghèo đói [103]. Với các chương trình BHYT, PTTT theo dịch vụ là một
trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng chi phí CSSK [58].
Mặc dù PTTT theo dịch vụ đã được thu hẹp kể từ đầu thế kỷ hai mươi,
nhưng phương thức này vẫn còn phổ biến ở các nước như Canada, Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc; trong số các công ty bảo hiểm tư nhân ở các nước vùng
Vịnh như Saudi Arabia; Mỹ (theo kế hoạch bồi thường); và các phần của Tây Âu
(như Áo và Đức).
Kinh nghiệm trong các nền kinh tế công nghiệp và ngày càng mở rộng ra các
nơi trên thế giới, đó là PTTT theo dịch vụ tương quan với một sự gia tăng rõ rệt về
khối lượng và chi phí y tế tổng thể, như đã thấy ví dụ như tại Cộng hòa Séc và Đài
Loan - Trung Quốc. Một phản ứng ngắn hạn đối với sự gia tăng chi tiêu này để giới
hạn chi tiêu tổng thể về mặt cung (Croatia, Nhật Bản) và khuyến khích một số
người bệnh chia sẻ chi phí để giảm thiểu rủi ro đạo đức (Philippines, một số tỉnh ở
Canada). Tuy nhiên, miễn là người mua DVYT (hoặc công ty bảo hiểm) có tất cả
các rủi ro và sẵn sàng trả tiền, chi phí của cơ sở cung ứng dịch vụ có khả năng tiếp
tục tăng. Động cơ cung cấp nhiều dịch vụ và sử dụng chi phí đầu vào tốn kém làm
cho PTTT này không bền vững trong hầu hết các hệ thống y tế.
Tuy nhiên, PTTT theo dịch vụ có lợi thế. Thứ nhất, nó có thể dễ dàng được
phát triển và thực hiện với yêu cầu về năng lực không đáng kể. Biểu phí có sẵn rất
nhiều. Mô hình tài chính cộng đồng ở châu Á và châu Phi đã sử dụng phương thức
này lúc khởi động. Thứ hai, nó phản ánh chính xác hơn các công việc thực sự thực
hiện và những nỗ lực mở rộng hơn những công việc này so với PTTT theo mục lục
ngân sách, do đó khuyến khích cơ sở cung ứng dịch vụ làm việc nhiều giờ hơn
và/hoặc cung cấp nhiều dịch vụ hơn. Thứ ba, PTTT theo dịch vụ được cho là cải
thiện sự tiếp cận và sử dụng cho các vùng dưới mức phục vụ (chẳng hạn như các
vùng nông thôn ở Philippines), cho dân số dưới mức phục vụ (người nghèo) như ở
Vương quốc Campuchia và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và cho các dịch vụ ưu
27
tiên cao (Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Haiti, Vương quốc Anh). Thứ tư, nếu những chi
phí này được hiểu một cách thấu đáo, mức phí dự kiến có thể được thiết lập để
khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ chi phí - hiệu quả như ở Nhật Bản. Tuy
nhiên, nếu chi phí không tương quan với mức thu phí, những tác động ngược lại là
có thể, chẳng hạn như chú trọng vào dịch vụ kỹ thuật cao liên quan đến CSSKBĐ
như ở Trung Quốc.
Thanh toán theo dịch vụ, với những tác động không tích cực cho mục tiêu
bao phủ CSSK toàn dân đã được nhận thấy, tạo nên rào cản tài chính, cản trở khả
năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản cần thiết của người dân. Ở Việt
Nam, thanh toán theo dịch vụ vẫn đang là phương thức chủ yếu được áp dụng
trong mạng lưới cung ứng dịch vụ, với 64,5% các cơ sở KCB BHYT đang áp
dụng, làm cho việc kiểm soát chi phí trở nên vô cùng khó khăn [22].
Thanh toán theo định suất (Per capita hoặc Capitation)
Theo thuật ngữ giải thích trong tài liệu “Chiến lược về tài chính y tế cho
các quốc gia thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á
(2006-2010)” của WHO thì “Thanh toán theo định suất được hiểu là một phương
thức trả trước (trước khi dịch vụ được thực hiện) cho cơ sở cung ứng dịch vụ, theo
đó tổng quỹ mà cơ sở cung ứng dịch vụ nhận được phụ thuộc vào số người đăng
ký và mức phí cố định theo mỗi đầu thẻ tại đó nhưng không phụ thuộc vào số
lượng dịch vụ đã thực hiện” [55].
Theo từ điển Y khoa http://medical-dictionary.thefreedictionary.com/
capitation thì “Thanh toán theo định suất là một PTTT cho các DVYT. Các cơ sở y
tế được trả một mức phí theo thỏa thuận tính cho từng thành viên đăng ký, cho một
khoảng thời gian thường là một năm bất luận số lượng và chủng loại dịch vụ đã
thực hiện là dịch vụ nào. Mức thỏa thuận theo hợp đồng thường dựa trên các yếu tố
về tuổi, giới, bệnh tật và vùng miền” [76].
Thông thường cách tính phí trong PTTT theo định suất được thực hiện dưới
hai hình thức, hoặc (i) Tính theo tỷ lệ phần trăm cố định của số thu mà cơ quan
bảo hiểm đã thu được hoặc (ii) Tính theo giá chi phí thực tế cho từng thẻ đăng ký
tại cơ sở cung ứng dịch vụ dựa vào mức giá viện phí, giới tính, phạm vi quyền lợi,
mức cùng chi trả, số lượng người đăng ký, tính chất đăng ký là tự đăng ký hay
đăng ký theo tập thể [66].
28
Theo AusAID thì “Thanh toán theo định suất là cơ chế thanh toán, theo đó
cơ sở cung ứng dịch vụ được trả trước với mức phí cố định cho một khoảng thời
gian nào đó thường là một năm tính cho mỗi người đăng ký KCB với các gói quyền
lợi đã được xác định. Cơ chế thanh toán này là cơ chế dựa vào giám sát đầu ra.
Nguyên tắc thực hiện chính của PTTT này là tiền trả cho cơ sở cung ứng dịch vụ
không phụ thuộc vào số lượng dịch vụ cung cấp cũng như các đầu vào đã sử dụng”.
Theo Joseph S. Coyne, Stuart D. Simon, thanh toán theo định suất là một cơ
chế thanh toán cho cơ sở cung ứng dịch vụ một khoản tiền nào đó để cơ sở đó thực
hiện CSSK cho người tham gia BHYT đăng ký tại đó trong một khoảng thời gian
nào đó. Tổng số tiền được trả trước cho cơ sở cung ứng dịch vụ có nghĩa rằng nó đã
bao hàm một dự báo hoặc ít nhất cũng là một thỏa thuận về những yêu cầu mà cơ sở
cung ứng dịch vụ phải thực hiện khi cung cấp DVYT thông qua hợp đồng với cơ
quan bảo hiểm. Việc hai bên - Cơ quan BHYT và cơ sở cung ứng dịch vụ ký hợp
đồng tự thân nó đã nói rằng đây là một cơ chế cung ứng dịch vụ có kiểm soát [66].
Theo Luật BHYT ngày 14/11/2008 của Quốc hội thì “Thanh toán theo
định suất là thanh toán theo định mức chi phí khám bệnh, chữa bệnh (KBCB)
và mức đóng tính trên mỗi thẻ BHYT được đăng ký tại cơ sở KBCB BHYT trong
một khoảng thời gian nhất định”[41], sau này được Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật BHYT ngày 13/6/2014 của Quốc hội quy định lại là “Thanh
toán theo định suất là thanh toán theo mức phí được xác định trước theo phạm
vi dịch vụ cho một đầu thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng DVYT trong một khoảng
thời gian nhất định” [40].
Trong hệ thống thanh toán theo định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ được chi
trả trước một tỷ lệ kinh phí cố định được xác định trước để cung cấp các dịch vụ đã
được xác định cho mỗi cá nhân đăng ký với cơ sở cung ứng dịch vụ trong một
khoảng thời gian cố định. Hệ thống thanh toán theo định suất dựa trên kết quả đầu
ra và đơn vị đầu ra là phạm vi bao phủ của tất cả các dịch vụ được xác định trước
cho một cá nhân trong một thời gian cố định, thường là một tháng hoặc một năm.
Nguyên tắc chính là thanh toán cho cơ sở cung ứng dịch vụ không liên quan tới đầu
vào mà cơ sở cung ứng dịch vụ sử dụng hoặc khối lượng dịch vụ được cung cấp. Vì
vậy, một số rủi ro được chuyển từ người mua dịch vụ sang cho cơ sở cung ứng dịch
29
vụ. Nếu cơ sở cung ứng dịch vụ phải chịu chi phí lớn hơn ngân sách theo định suất,
cơ sở cung ứng dịch vụ phải tự chịu trách nhiệm. Nếu cơ sở cung ứng dịch vụ đạt
được hiệu suất và chi phí thấp hơn so với ngân sách theo định suất, số dư này
thường có thể được giữ lại và tái đầu tư.
Trong một hệ thống thanh toán theo định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ có
động cơ tăng kết quả đầu ra hoặc thu hút nhiều người bệnh đến đăng ký, làm tăng
tổng thanh toán của mình nhận được. Nó có thể thu hút những người tham gia thông
qua cải thiện chất lượng chăm sóc, các dịch vụ bổ sung mà thường không được chi
trả, hoặc các biện pháp khác mà người bệnh có thể cảm nhận như tăng lợi ích của
người đăng ký với cơ sở cung ứng dịch vụ đó so với các cơ sở cung ứng dịch vụ
khác. Bởi vì cơ sở cung ứng dịch vụ không nhận được thanh toán bổ sung cho các
cải tiến dịch vụ này, đó là nguy cơ cho tất cả các yếu tố đầu vào, và do đó họ có
động cơ để làm giảm đầu vào sử dụng cho mỗi cá nhân được bảo hiểm. Điều này có
thể được thực hiện bằng cách cải thiện sự kết hợp đầu vào để giảm chi phí nhằm
cung cấp cùng một mức độ dịch vụ và chất lượng; bằng cách chuyển các dịch vụ
đến các hoạt động nâng cao sức khỏe và phòng bệnh ít tốn kém để giữ cho các cá
nhân tham gia mạnh khỏe và làm giảm nhu cầu của họ về các dịch vụ chữa bệnh tốn
kém hơn, hoặc bằng cách giảm chất lượng chăm sóc hoặc cung cấp các dịch vụ dưới
mức cần thiết. Cơ sở cung ứng dịch vụ cũng có thể làm giảm đầu vào và chi tiêu
bằng việc thực hiện các biện pháp thu hút những người mạnh khỏe hơn đăng ký
tham gia (được gọi là lựa chọn rủi ro hoặc "hái quả anh đào" hoặc hớt váng), trừ khi
một số hình thức điều chỉnh rủi ro được thêm vào hệ thống thanh toán theo định
suất để bù đắp cho cơ sở cung ứng dịch vụ đối với các biến thể trong dự đoán nhu
cầu CSSK giữa các nhóm dân cư khác nhau, chẳng hạn như nhóm tuổi và giới tính.
Ở Việt Nam, thanh toán theo định suất đang ngày càng được áp dụng
nhiều hơn trong một hệ thống lồng ghép các PTTT khác nhau, cho các cơ sở
cung ứng dịch vụ tại các tuyến khác nhau, nhất là với các cơ sở y tế tuyến
huyện. Từ năm 2009, PTTT theo định suất đã được Luật BHYT quy định là một
trong 3 PTTT chi phí KCB giữa cơ quan BHXH với cơ sở KCB BHYT.
Thực hiện lộ trình đổi mới PTTT chi phí KCB BHYT theo hướng từ chi trả
theo dịch vụ sang khoán định suất, số lượng và tỷ lệ các cơ sở KCB thực hiện thanh
toán theo định suất tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, PTTT theo định suất hiện đang
30
áp dụng tại Việt Nam được đánh giá là thiếu một thiết kế tổng thể để có được các cơ
chế, công cụ phù hợp cho quản lý và cải thiện chất lượng, nhất là khi tình trạng
thâm hụt quỹ còn phổ biến đối với nhiều cơ sở cung ứng dịch vụ. Các hạn chế cơ
bản nhất của PTTT theo định suất hiện đang áp dụng bao gồm: (i) Thiết kế thiếu
tính hệ thống và chưa tuân thủ những nguyên tắc và yêu cầu điều chỉnh theo thực tế
mô hình bệnh tật, nhu cầu CSSK; (ii) Sự chia nhỏ quỹ BHYT theo địa phương và
theo các nhóm đối tượng trên phạm vi cả nước cũng như trong một địa phương, do
việc tính suất phí cho 6 nhóm đối tượng dựa trên chi phí lịch sử và do quy định tổng
quỹ định suất giao cho các cơ sở y tế thực hiện định suất phụ thuộc vào số thu của
địa phương. Như vậy, tỉnh nghèo sẽ có suất phí thấp hơn, quỹ định suất nhỏ hơn
tỉnh giàu. Các tỉnh giàu sẽ được sử dụng nguồn quỹ BHYT nhiều hơn so với các
tỉnh nghèo, tạo ra sự không công bằng ngay trong phân bổ nguồn tài chính BHYT;
(iii) Suất phí thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu chi phí cung ứng dịch vụ; (iv) Cơ
chế thanh toán chuyển tuyển - vượt tuyến chưa hợp lý, gây nhiều khó khăn khi cơ
sở quản lý quỹ ban đầu luôn bị động với phần thanh toán phát sinh ngoài cơ sở
KCB ban đầu.
Các nỗ lực hoàn thiện hơn nữa phương thức định suất đang nhận được đồng
thuận cao từ các bên liên quan theo hướng lồng ghép hài hòa các yếu tố khuyến
khích năng suất, chất lượng dịch vụ, đồng thời bảo vệ cơ sở cung ứng dịch vụ khỏi
những rủi ro tài chính. Theo đó, suất phí cần có sự cân đối hợp lý giữa khả năng đáp
ứng với yêu cầu bồi hoàn cho các chi phí dịch vụ và mô hình quỹ định suất cần đủ
về quy mô (pooling scale) để hạn chế nguy cơ mất cân bằng quỹ (thâm hụt) cho các
cơ sở cung ứng dịch vụ, nhất là các cơ sở tuyến huyện.
1.2.2.2. PTTT bệnh viện (Hospital Payment Methods)
Có năm PTTT bệnh viện chính. Hai phương thức đã được trình bày ở trên
(PTTT theo mục lục ngân sách và theo dịch vụ) có thể được áp dụng cho các dịch
vụ điều trị nội trú. Ba phương thức khác là theo ngày điều trị (per diem), theo
trường hợp bệnh (case-based) và tổng ngân sách (global budget). Các PTTT mở
rộng, đặc điểm và tác động mà chúng có khả năng tạo ra được trình bày trong Bảng
1.2. Mỗi PTTT có các biến thể có thể tạo ra các tác động khác nhau và các phương
thức có thể được sử dụng kết hợp để tăng cường hoặc giảm thiểu các tác động được
tạo ra bởi mỗi phương pháp riêng biệt.
31
Bảng 1.2: Đặc điểm và tác động của các PTTT bệnh viện
Phương thức thanh
toán
Đặc điểm
Tác động đối với cơ sở cung ứng dịch vụ
Thiết lập tỷ lệ thanh
toán theo
Thanh toán cho
cơ sở cung ứng dịch vụ theo
Thanh toán dựa trên
Theo mục lục ngân sách
Tương lai
Tương lai Đầu vào
Cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, tham khảo các cơ sở cung ứng dịch vụ khác, tăng đầu vào, không khuyến khích hoặc không có cơ chế để nâng cao hiệu suất của sự kết hợp đầu vào, khuyến khích chi tiêu tất cả số tiền còn lại vào cuối năm ngân sách
Theo dịch vụ (biểu phí cố định và gói dịch vụ)
Tương lai
Quá khứ Đầu ra Tăng số lượng các dịch vụ bao gồm cả trên mức cần thiết, giảm đầu vào cho mỗi dịch vụ
Theo dịch vụ (không có biểu phí cố định)
Quá khứ Quá khứ Đầu vào
Tăng số lượng dịch vụ, tăng đầu vào
Theo ngày điều trị
Tương lai
Quá khứ Đầu ra
Tăng số ngày (nhập viện và thời gian lưu trú), giảm đầu vào mỗi ngày điều trị, nâng cao công suất sử dụng giường
Theo trường hợp bệnh
Tương lai
Quá khứ Đầu ra
Tăng số ca bệnh, bao gồm cả nhập viện không cần thiết; giảm đầu vào cho mỗi ca bệnh; khuyến khích nâng cao hiệu suất của sự kết hợp đầu vào; giảm thời gian lưu trú; chuyển chăm sóc phục hồi chức năng sang điều trị ngoại trú
Theo tổng ngân sách
Tương lai
Tương lai
Đầu vào hoặc
đầu ra
Cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, tham khảo các cơ sở cung ứng dịch vụ khác, tăng đầu vào, có cơ chế để nâng cao hiệu suất của sự kết hợp đầu vào
32
Thanh toán theo ngày điều trị (Per diem)
Trong một cách tiếp cận theo ngày điều trị (trên ngày giường), tác động chi
phối là nâng cao số ngày bệnh viện trong quá trình tăng sử dụng giường bệnh. Có
thể có tác dụng phụ của tăng công suất sử dụng giường bệnh là chuyển người bệnh
ngoại trú và các dịch vụ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng vào các bệnh viện.
Đồng thời, cơ sở cung ứng dịch vụ có động cơ để giảm cường độ của các dịch vụ
cho mỗi ngày giường. Tỷ lệ sử dụng giường bệnh cao đạt được thông qua việc thúc
đẩy nhập viện và thời gian lưu trú trung bình. Tác động để kéo dài thời gian lưu trú
có thể sẽ mạnh hơn so với tác động để tăng nhập viện vì đó cũng là một tác động để
làm giảm đầu vào mỗi ngày và ngày bệnh viện có xu hướng đắt hơn trong những
ngày đầu lưu trú so với những ngày sau đó.
Tỷ lệ bình quân (BQ) ngày điều trị thường được tính toán dễ dàng và nhanh
chóng bởi vì nó thường dựa trên căn cứ đầu tiên là tổng chi phí bệnh viện năm trước
chia cho tổng số ngày giường. Tỷ lệ có thể được điều chỉnh để phản ánh đặc điểm
của người bệnh, chuyên khoa lâm sàng và các biến thể trong nhóm chẩn đoán giữa
các bệnh viện (ví dụ như ở Estonia trong những năm đầu của thập kỷ này).
Tuy nhiên, những điều chỉnh tỷ lệ theo ngày điều trị ảnh hưởng đến các ưu
đãi. Ví dụ, điều chỉnh tỷ lệ thanh toán cao hơn tương đối cho những ngày đầu điều
trị nội trú có thể làm giảm tác động tăng BQ ngày điều trị nội trú, nhưng có thể tăng
cường khuyến khích tăng số lượng người bệnh nhập viện. Thật vậy, PTTT theo
ngày điều trị ở Brazil được thiết lập từ giữa những năm 1971 và 1981, số người
bệnh nhập viện đã tăng lên gấp 3 lần. Áp dụng phương thức thanh toán theo ngày
điều trị của Đức dẫn đến số ngày điều trị nội trú dài hơn (13,1 ngày vào năm 1987)
so với các nước công nghiệp khác. So với PTTT theo dịch vụ, hệ thống này có thể
làm việc tốt hơn khi kết hợp với một quỹ ngân sách cho các dịch vụ bệnh viện (như
ở Estonia và các bộ phận của Liên bang Nga). Chất lượng và thời gian điều trị nội
trú có thể được giám sát bởi chuyên gia phản biện.
Điều chỉnh tỷ lệ thanh toán theo ngày điều trị dựa trên nhóm chẩn đoán có
thể như một cơ chế chuyển đổi hữu ích từ một hệ thống thanh toán theo ngày điều
33
trị sang một hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh thì sau đó cần thêm thời
gian, thông tin và năng lực kỹ thuật. Trong thực tế, một hệ thống thanh toán theo
ngày điều trị bệnh viện có thể là một bước trung gian thích hợp trong việc chuyển
đổi sang một hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh, bởi vì nó đơn giản về mặt
hành chính để thực hiện và nó có thể được sử dụng để bắt đầu thu thập các dữ liệu
cần thiết nhằm thiết kế một hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh.
Thanh toán theo trường hợp bệnh (Case-based)
Hệ thống thanh toán bệnh viện theo trường hợp bệnh đồng thời tạo ra các
khuyến khích để tăng số lượng người bệnh và giảm thiểu các yếu tố đầu vào sử
dụng cho từng người bệnh. Bởi vì cơ sở cung ứng dịch vụ kiểm soát nhiều hơn về
nguồn lực sử dụng cho mỗi trường hợp bệnh hơn so với tổng số các trường hợp
được điều trị, tác động sau này thường mạnh mẽ hơn (về sự sẵn có của các thao tác
của cơ sở cung ứng dịch vụ) và do đó hệ thống thanh toán bệnh viện theo trường
hợp bệnh đã được sử dụng như một cơ chế để kiểm soát chi phí và giảm công suất
sử dụng giường bệnh trong lĩnh vực bệnh viện. Phương thức này được thực hiện ở
Brazil, Cộng hòa Kyrgyzstan, Thái Lan và ở một số nước ở châu Âu như Hungary
và Slovenia. Chúng đang được thí điểm trong các bộ phận của Trung Quốc,
Indonesia, Hàn Quốc và Nga.
Bằng chứng trên toàn thế giới cho thấy rằng thanh toán bệnh viện theo
trường hợp bệnh liên quan đến việc giảm BQ ngày điều trị nội trú. Ví dụ, trong hệ
thống Medicare của Mỹ cung cấp DVYT cho người cao tuổi, BQ ngày điều trị nội
trú giảm 15% trong ba năm sau khi nhóm chẩn đoán (DRG) của hệ thống thanh toán
theo trường hợp bệnh được giới thiệu và các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng việc
giảm BQ ngày điều trị nội trú lên tới 24% đối với một số chẩn đoán, chẳng hạn như
bệnh tim và gãy xương hông. Một sự giảm thô (không trọng số) BQ ngày điều trị
nội trú từ 4,5-6,0% mỗi năm tại Cộng hòa Kyrgyzstan sau khi hệ thống thanh toán
dựa trên trường hợp bệnh được thực hiện. Sự giảm thời gian nằm viện được quan
sát có ý nghĩa thống kê chủ yếu cho các bệnh mạn tính và nhập viện tự chọn; BQ
ngày điều trị nội trú các bệnh cấp tính không bị ảnh hưởng đáng kể.
34
Tuy nhiên, một hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh có thể làm tăng cả
số người bệnh nhập viện và cho người bệnh nhập lại viện không cần thiết. Ở
Hungary, Nga và nhiều nước khác, số người bệnh nhập viện tăng đáng kể sau khi
một hệ thống như vậy được giới thiệu. Trong một hệ thống thanh toán theo trường
hợp bệnh, tất cả các trường hợp bệnh nằm trong một số loại thanh toán được xác
định trước. Loại thường được xác định theo mức độ sử dụng nguồn lực BQ. Tất cả
các trường hợp bệnh nằm trong một thể loại riêng lẻ được hoàn trả ở tỷ lệ như nhau.
Kết quả là, nó có lợi cho các bệnh viện để cố gắng nhận các trường hợp ít tốn kém
hơn trong một loại thanh toán, tránh các trường hợp tốn kém hơn và để phân chia
các trường hợp đắt tiền thành nhiều đợt nằm viện (hai cách tiếp cận cuối cùng đôi
khi tạo ra những rào cản nhập viện đối với những người bệnh nặng). Để chống lại
những tác động bất lợi này, phương pháp tinh vi để phân biệt giữa các trường hợp
có mức độ nguồn lực khác nhau, chẳng hạn như DRG đã được phát triển và liên tục
được hoàn thiện.
Hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh có một số nhược điểm khác, bao
gồm:
• "Chuyển dịch mã bệnh", trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ có khả năng mã
người bệnh vào một nhóm với điểm (hoặc chỉ số) cao để có được sự bồi hoàn lớn
hơn (như đã thấy ở Croatia, Hungary và Slovenia).
• "Chuyển dịch chi phí", trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ thay đổi mô hình
chăm sóc và chi phí cho những người bệnh không thuộc nhóm chẩn đoán và các
thiết lập không thuộc nhóm chẩn đoán, khiến tổng chi phí cho người mua dịch vụ
không thay đổi.
• Khuyến khích xuất viện sớm, trong đó chi phí được chuyển sang dịch vụ
ngoại trú, chăm sóc tại nhà và chăm sóc tại nhà dưỡng lão (làm giảm chất lượng
chăm sóc do gián đoạn) hoặc cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết.
* Tác động trong thanh toán theo ngày điều trị và theo trường hợp bệnh
Một nguyên tắc của cả hai phương thức này là chúng đang được dự định để
cung cấp cho các bệnh viện với thanh toán phản ánh chi phí BQ sản sinh ra một đơn
35
vị sản phẩm trong một bệnh viện trung bình và có thể sẽ được điều chỉnh để tính
toán cho các điều kiện kinh tế khu vực. Thanh toán chi phí BQ trên một đơn vị sản
phẩm này, chẳng hạn như một trường hợp xuất viện, tạo ra động lực cho cơ sở cung
ứng dịch vụ để tăng hiệu suất, trong khi đó thanh toán chi phí thực tế cho từng
trường hợp bệnh tạo ra ít hoặc không có động cơ để tăng hiệu suất. Chúng ta không
mong đợi việc thanh toán sẽ phù hợp với chi phí điều trị của mỗi người bệnh và một
bệnh viện hiệu suất sẽ tạo ra một số dư trên một số trường hợp bệnh và phải chịu
một mức thâm hụt trên một số trường hợp bệnh khác. Định giá dựa trên chi phí BQ
cũng là mong muốn về mặt hành chính, bởi vì sự đa dạng của các yêu cầu của người
bệnh là quá rộng lớn, trong khi hệ thống y tế phát triển công nghệ CSSK thay đổi
một cách nhanh chóng mà bất kỳ nỗ lực để phù hợp sự thanh toán với điều trị được
cung cấp cho mỗi người bệnh sẽ là cồng kềnh về mặt hành chính.
Hệ thống thanh toán theo ngày điều trị và theo trường hợp bệnh dựa trên chi
trả một tỷ lệ được xác định trước cho một đơn vị sản phẩm xác định có thể là một
động lực để kích thích sự cạnh tranh giữa các bệnh viện, bởi vì các bệnh viện hiệu
suất hơn sẽ tạo ra số dư nhiều hơn và do đó có thể cạnh tranh thu hút nhiều người
bệnh hơn bằng cách đầu tư số dư của họ trong việc cải thiện chất lượng các dịch vụ.
Tuy nhiên, tỷ lệ thanh toán dựa trên chi phí BQ cho mỗi trường hợp bệnh cũng tạo
ra một số động lực để giảm chi phí đối với các ca bệnh đắt tiền hơn. Tuy nhiên, hai
động lực này (nâng cao chất lượng và giảm đầu vào cho mỗi ca bệnh) không phải
lúc nào cũng mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, tại Hàn Quốc, chi phí BQ cho mỗi ca bệnh
trong bệnh viện giảm 14% BQ trong giai đoạn thí điểm hệ thống thanh toán dựa
trên trường hợp bệnh mới và một số sự giảm đó được giải thích là do sử dụng kháng
sinh một cách hợp lý hơn.
Ở một số nước Mỹ La tinh (như Argentina và Mexico), sự phân loại theo
nhóm chẩn đoán được sử dụng trong các hệ thống thanh toán dựa trên trường
hợp bệnh đã được phát triển để theo dõi khối lượng công việc và chất lượng
chăm sóc, cũng như giúp các chính phủ và công ty bảo hiểm thiết lập số tiền
thanh toán cho bệnh viện.
36
Thanh toán theo tổng ngân sách (Global budget)
PTTT theo tổng ngân sách (một số tài liệu gọi phương thức này là khoán
tổng quỹ) ở tuyến bệnh viện được thiết lập trước để trang trải các chi phí tổng hợp
của một bệnh viện trong một thời gian nhất định (thường là một năm) để cung cấp
một tập hợp các dịch vụ đã được nhất trí rộng rãi giữa bệnh viện và người mua dịch
vụ. Nó là một mục tiêu chi tiêu tổng thể hoặc giới hạn đó sẽ hạn chế giá cả và thiết
lập chất lượng của các dịch vụ được cung cấp. Trong khi khái niệm này là đơn giản,
các loại tổng ngân sách thay đổi theo ngân sách một cách linh hoạt, chủng loại và số
lượng cơ sở cung ứng dịch vụ, số lượng người mua dịch vụ, mục tiêu quỹ ngân sách
và khả năng đáp ứng ngân sách.
Theo mức độ linh hoạt, tổng ngân sách có thể được chia thành hai loại - mềm
và cứng. Trong loại mềm, người mua giả định chi phí vượt; trong loại cứng, cơ sở
cung ứng dịch vụ giả định rủi ro tài chính. Tổng ngân sách cũng có thể được nhóm
lại theo dịch vụ bệnh viện, dịch vụ thầy thuốc, dược phẩm và cả dịch vụ và thuốc.
Chúng cũng có thể được phân loại bằng cách một hoặc nhiều người mua dịch vụ.
Tổng ngân sách có thể dựa trên một trong hai yếu tố đầu vào hoặc đầu ra
hoặc kết hợp cả hai. Ví dụ, Canada và Đan Mạch xác định tổng ngân sách chủ yếu
trên cơ sở chi phí lịch sử trong những năm 1990, trong khi Pháp và Đức kết hợp các
biện pháp đầu ra, chẳng hạn như số ngày giường hoặc ca bệnh vào trong tổng ngân
sách bệnh viện. Ai-len đã giới thiệu một điều chỉnh theo nhóm chẩn đoán cho tổng
ngân sách đối với các dịch vụ bệnh viện cấp tính trong năm 1993 và kể từ đó gần
như tất cả các nước EU áp dụng phương thức tổng ngân sách với một số điều chỉnh
theo nhóm chẩn đoán [74].
Vì cả hai việc thiết lập và thanh toán cho cơ sở cung ứng dịch vụ đều thuộc
về tương lai, nên các tác động của phương thức này tương tự như phương thức
thanh toán theo mục lục ngân sách. Tuy nhiên, tổng ngân sách cho phép sự linh hoạt
trong việc chuyển tiền qua lại giữa các hạng mục chi phí, để có một cơ chế nâng cao
hiệu suất của sự kết hợp đầu vào, mặc dù có thể không phải là một động cơ để làm
như vậy. Ví dụ, hệ thống tổng ngân sách tại Pháp làm cho chi phí bệnh viện tổng
37
thể tăng trưởng chậm hơn, nhưng điều này là kết quả của khối lượng các dịch vụ
thấp hơn chứ không phải là giảm chi phí cho mỗi dịch vụ).
Tóm lại, mỗi PTTT có những ưu điểm và hạn chế riêng, không có phương
thức nào là hoàn hảo [79]. Các nỗ lực đổi mới có xu hướng cân bằng các mục tiêu
khác nhau theo hướng kết hợp hài hòa các phương thức khác nhau [67]. Các
phương thức thường được áp dụng đồng thời với sự lồng ghép theo những mục tiêu
xác định, trong từng điều kiện, theo từng lĩnh vực dịch vụ, với những ưu tiên và
những mục tiêu chính sách để đáp ứng thực tế yêu cầu CSSK tại mỗi quốc gia, mỗi
khu vực KT-XH khác nhau.
PTTT CSSKBĐ ưu việt nhất hiện nay trên thế giới là thanh toán theo định
suất. Đối với PTTT bệnh viện, cần lưu ý tới cơ cấu của các nguồn tài chính bệnh
viện và phân bố tỷ lệ người sử dụng có và chưa có BHYT hiện nay (trong đó
khoảng 60% là từ ngân sách nhà nước và quỹ BHYT, khoảng gần 40% từ thu phí
trực tiếp từ người chưa có BHYT) [30], PTTT được lựa chọn cần đáp ứng đặc
điểm của hai nhóm. Những phương thức yêu cầu nguồn lực tập trung phù hợp với
phần chi từ nguồn NSNN hoặc từ quỹ BHYT nhưng lại không đáp ứng tốt với
nguồn chi trả trực tiếp từ cá nhân người sử dụng dịch vụ. Để có thể đáp ứng yêu
cầu của cả hai nhóm người sử dụng dịch vụ, báo cáo khảo sát "Phí dịch vụ bệnh
viện và phương thức chi trả trọn gói theo trường hợp bệnh" [32] đã phân tích
những ưu điểm, hạn chế của từng PTTT và đề xuất sự kết hợp phương thức tổng
ngân sách với phương thức thanh toán theo trường hợp bệnh như một lựa chọn
phù hợp cho hệ thống KCB ở nước ta. Phương thức tổng ngân sách trên cơ sở định
suất áp dụng cho phần ngân sách bao cấp được phân bổ từ NSNN và ngân sách
cho dịch vụ KCB ngoại trú. Phương thức theo trường hợp bệnh áp dụng cho dịch
vụ KCB nội trú. Phương thức kết hợp này có thể đáp ứng yêu cầu chi trả trực tiếp,
trong ngắn hạn, của nhóm chưa có BHYT để dần thay thế phương thức theo dịch
vụ cho cả người bệnh có hoặc không có BHYT.
1.2.3. Thực trạng áp dụng các PTTT chi phí dịch vụ y tế ở Việt Nam
PTTT chi phí DVYT ở nước ta đã trải qua một thời gian dài áp dụng phân
38
bổ kinh phí theo mục lục ngân sách (giường bệnh cho khu vực điều trị/bệnh viện
và số biên chế cho khu vực YTDP). Từ khi có chính sách thu một phần viện phí
năm 1989 [35], thanh toán theo dịch vụ là phương thức kết hợp, được áp dụng
song song với phần phân bổ kinh phí theo mục lục ngân sách nhà nước và dần trở
thành PTTT chính trong mạng lưới KCB. Thanh toán theo định suất mới được áp
dụng thí điểm từ năm 2005, với quy mô ngày càng lớn về số địa phương và số cơ
sở cung ứng dịch vụ. Thanh toán theo trường hợp bệnh mới chỉ áp dụng thí điểm
cho một số nhóm bệnh và hiện đang trong giai đoạn chuẩn bị cơ sở dữ liệu cần
thiết cho việc phát triển và áp dụng ở phạm vi lớn hơn. Thanh toán dựa trên kết
quả hoạt động cũng chỉ đang ở giai đoạn bắt đầu thí điểm tại một số xã của tỉnh
Nghệ An. Nhìn chung, thanh toán cho các cơ sở cung ứng dịch vụ vẫn dựa chủ
yếu theo dịch vụ. Theo định hướng chung, các nỗ lực phát triển, hoàn thiện các
PTTT khác nhau nhằm bổ sung và dần thay thế cho PTTT theo dịch vụ đang được
triển khai thực hiện (xem thêm ở Phụ lục 1, trang 162).
1.2.4. Bối cảnh của chính sách y tế trong áp dụng PTTT theo định suất
Những năm gần đây, chủ đề “bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân” được
thảo luận rộng rãi trên các diễn đàn quốc tế và được nhìn nhận như một quá trình có
tính quyết định để thực hiện tốt hơn sự nghiệp CSSK và như một mục tiêu nhất
quán phát triển hệ thống y tế [89].
Theo Liên Hiệp Quốc, "Bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân có nghĩa là tất
cả mọi người dân đều được tiếp cận các DVYT cơ bản về nâng cao sức khoẻ, dự
phòng, điều trị, phục hồi chức năng và các loại thuốc thiết yếu, an toàn, bảo đảm
chất lượng, với mức chi phí có thể chi trả được, bảo đảm người sử dụng dịch vụ,
đặc biệt là người nghèo và các đối tượng thiệt thòi, không phải đối mặt với khó
khăn về tài chính". Quan niệm này của Liên Hiệp Quốc cũng trùng hợp với quan
niệm của WHO: “Bao phủ toàn dân (Universal Coverage), hoặc bao phủ CSSK
toàn dân (Universal Health Coverage), được định nghĩa là sự bảo đảm để mọi
người dân khi cần đều có thể sử dụng các dịch vụ nâng cao sức khỏe, dự phòng,
điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ (palliative care) có chất lượng và
39
hiệu quả, đồng thời bảo đảm rằng việc sử dụng các dịch vụ này không làm cho
người sử dụng gặp phải khó khăn tài chính” [97].
Nói đến bao phủ dịch vụ CSSK là nói đến khả năng người dân nhận được các
can thiệp CSSK có hiệu quả khi họ cần [56]. Đó không chỉ đơn thuần là việc cung
ứng dịch vụ mà còn là một quá trình bao gồm từ phân bổ nguồn lực tới kết quả thực
hiện mục tiêu đề ra. Bao phủ dịch vụ CSSK cần được đo lường một cách toàn diện
dưới nhiều góc độ khác nhau, cả về tính sẵn có của DVYT, khả năng tiếp cận, khả
năng chấp nhận, việc sử dụng DVYT của người dân cũng như tính hiệu quả của
việc cung ứng dịch vụ [83]. Cụ thể là cần xem xét, đánh giá: (i) Dịch vụ có đến với
người dân không (khả năng sử dụng dịch vụ, tiếp cận về địa lý, tiếp cận về tài
chính); (ii) Các loại dịch vụ nào (tính thích hợp, tính hiệu quả); (iii) Dịch vụ được
cung ứng như thế nào (hiệu suất, tính liên tục; sự hài lòng của người sử dụng). Việc
đo lường về mức độ bao phủ cho biết mối tương tác giữa DVYT được cung ứng và
nhóm đối tượng đích được nhận dịch vụ. Để thực hiện bao phủ dịch vụ CSSK,
nhiều nước đã bắt đầu bằng việc ưu tiên phát triển các dịch vụ CSSKBĐ hoặc
CSSK cơ bản [75].
Dịch vụ CSSK cơ bản (còn gọi là gói dịch vụ CSSK thiết yếu, hay tối thiểu,
hay gói lợi ích) được xây dựng với mục tiêu nhằm tập trung nguồn lực hạn hẹp vào
các DVYT mà có thể mang lại hiệu quả đầu tư cao nhất. Dịch vụ CSSK cơ bản là
những dịch vụ thiết yếu được xác định dựa trên những định hướng ưu tiên trong hệ
thống y tế của một quốc gia cũng như tính sẵn có của nguồn lực. Nó được mong đợi
có thể bảo đảm thực hiện được mục tiêu công bằng, cải thiện hiệu suất và hiệu quả
của hoạt động CSSK [96]. Các DVYT cơ bản thường được xác định dựa trên một số
tiêu chí cụ thể (hiệu quả chi phí của dịch vụ/can thiệp, gánh nặng bệnh tật, tính sẵn
có của nguồn lực...) với sự thống nhất cao của tất cả các bên liên quan trong đó có
các nhà hoạch định chính sách, cơ sở cung ứng DVYT cũng như của xã hội [101].
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT thì “Gói dịch vụ y tế cơ
bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả là những dịch vụ y tế thiết yếu để chăm sóc sức
khỏe, phù hợp với khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế” [40].
40
Mặc dù được xác định khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội và dịch tễ học của mỗi nước, tuy nhiên, theo khuyến cáo thì dịch vụ
CSSK cơ bản cần bao gồm cả các dịch vụ y tế công cộng (YTCC) và dịch vụ lâm
sàng. Đối với các dịch vụ YTCC, cần chú trọng tới những dịch vụ thúc đẩy sự thay
đổi hành vi con người (như các chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe) cũng
như những dịch vụ kiểm soát rủi ro về môi trường (như chương trình phun thuốc
diệt muỗi phòng bệnh sốt rét) và các dịch vụ phòng bệnh (như tiêm chủng mở rộng,
CSSK bà mẹ trẻ em, sàng lọc bệnh, sử dụng thuốc để phòng một số bệnh, quản lý
bệnh mạn tính). Đối với dịch vụ lâm sàng, thông thường là các dịch vụ KCB ban
đầu hoặc các dịch vụ được xác định riêng cho từng tuyến dựa vào năng lực chẩn
đoán và điều trị của cơ sở y tế từng tuyến (phòng khám đa khoa, trung tâm y tế,
bệnh viện huyện và cả bệnh viện tuyến trên trong tiếp nhận người bệnh chuyển
tuyến). Ở các nước có thu nhập thấp, dịch vụ CSSK cơ bản thường được cung ứng ở
các đơn vị y tế thuộc tuyến CSSKBĐ là tuyến xã và tuyến huyện.
Đáng lưu ý rằng, thiết kế và thực hiện gói DVYT cơ bản/thiết yếu không
phải là một giải pháp trong điều kiện quản lý còn yếu kém. Nó đòi hỏi phải có sự
cam kết chính trị và thể chế, các quyết định về cấp tài chính và tổ chức mạng lưới
cung ứng dịch vụ, xây dựng danh mục thuốc thiết yếu; đào tạo và phân bố cán bộ,
và phát triển hệ thống thông tin y tế [96].
Y tế dự phòng, y tế công cộng và chăm sóc sức khỏe ban đầu cùng có chung
mục tiêu là nâng cao sức khỏe và chất lượng sống, giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh
của cộng đồng, không chỉ với các bệnh truyền nhiễm hay suy dinh dưỡng, mà cả
các bệnh mạn tính như: tim mạch, đái tháo đường, tăng huyết áp, ung thư,... Đầu tư
cho YTDP, YTCC, CSSKBĐ được công nhận là một cách cải thiện sức khỏe cộng
đồng hiệu quả với chi phí thấp và đó là con đường tối ưu để thực hiện bao phủ
CSSK toàn dân.
Y tế công cộng là tổng hòa các hoạt động phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và
tăng cường sức khỏe cho người dân thông qua những cố gắng có tổ chức của cộng
đồng. YTCC nhấn mạnh việc cải thiện và nâng cao sức khỏe ở cấp độ tổng thể cộng
41
đồng, đòi hỏi sự tham gia và nỗ lực của các cá nhân, các tổ chức, cộng đồng và toàn
xã hội với sự chỉ đạo chung của Chính phủ. YTCC mang tính chuyên môn đa ngành
với các chuyên ngành chính như dịch tễ học, thống kê y sinh học, khoa học môi
trường, hành vi sức khỏe, dinh dưỡng, quản lý y tế,…[81], [95]. Hoạt động YTCC
dựa trên việc theo dõi, chẩn đoán, phân tích các vấn đề sức khỏe của cộng đồng từ
đó đề ra các biện pháp dự phòng bệnh tật, truyền thông giáo dục sức khoẻ khuyến
khích các hành vi lối sống lành mạnh, thúc đẩy các hoạt động nâng cao sức khoẻ.
Y tế dự phòng là các can thiệp phòng bệnh nhằm bảo vệ, tăng cường,
duy trì sức khỏe và chất lượng sống, dự phòng bệnh tật, tàn tật và tình trạng
tử vong sớm [57] ở cấp độ cá nhân hay nhóm cộng đồng nhất định. YTDP
cộng thêm với những nỗ lực nhằm tăng cường cơ sở hạ tầng như cải thiện môi
trường, nhà ở, cung cấp nước sạch và công trình vệ sinh, ứng dụng phương pháp
dịch tễ học, ưu tiên cho phòng chống các bệnh dịch, chú trọng đến người nghèo và
các nhóm dân cư có nhu cầu CSSK đặc thù sẽ chuyển sang cách tiếp cận của
YTCC, có sự tham gia liên ngành và có tính chất xã hội cao hơn.
Chăm sóc sức khỏe ban đầu là sự CSSK thiết yếu, dựa trên các phương
pháp và kỹ thuật có tính thực tiễn, có cơ sở khoa học và được xã hội chấp nhận,
phổ cập đến mọi cá nhân và gia đình trong cộng đồng, qua sự tham gia tích cực
của họ với một phí tổn mà cộng đồng và quốc gia có thể chi trả được ở bất cứ giai
đoạn phát triển nào, trên tinh thần tự lực và tự quyết [94]. Quan niệm hiện đại về
CSSKBĐ [91] nhấn mạnh việc đổi mới hệ thống y tế nhằm bảo đảm khả năng tiếp
cận toàn dân, mở rộng sự quan tâm tới tất cả các nguy cơ và bệnh tật, có sự đầu
tư thỏa đáng hơn, kết hợp dự phòng và điều trị, thay vì tiếp cận gói can thiệp y
tế cơ bản và thuốc thiết yếu cho người nghèo; tập trung chăm sóc bà mẹ và trẻ
em; tập trung chủ yếu vào bệnh truyền nhiễm và cấp tính; đối lập với chăm sóc
bệnh viện... Tuy nhiên, CSSKBĐ vẫn được coi là nơi tiếp xúc đầu tiên của người
dân với hệ thống y tế và là yếu tố đầu tiên của quá trình bao phủ CSSK toàn dân.
Lĩnh vực CSSKBĐ là phần dễ thấy và dễ sử dụng nhất của hệ thống CSSK.
Nó cũng là một phần của hệ thống tiềm năng có tác động lớn nhất đối với sức khỏe
42
của người dân. Bằng chứng quốc tế xác nhận rằng lĩnh vực CSSKBĐ mạnh mẽ hơn,
đặc biệt là ở các nước có thu nhập thấp, có liên quan đến công bằng và tiếp cận
chăm sóc y tế cơ bản lớn hơn, sự hài lòng của người bệnh cao hơn và chi tiêu tổng
hợp cho cùng một công việc thấp hơn hoặc kết quả đầu ra tốt hơn. Do đó, tài chính
của CSSKBĐ và hệ thống thanh toán cho cơ sở cung ứng dịch vụ được sử dụng
đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi hệ thống y tế tốt hơn dựa trên các
ưu đãi tài chính. Đối với hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất điều quan
trọng là nó được thiết kế trong bối cảnh các mục tiêu chính sách y tế rộng hơn, năng
lực hiện tại của hệ thống và những thay đổi mong muốn trong hệ thống.
Ngoài ra, một hệ thống thanh toán dịch vụ CSSKBĐ mới sẽ kích thích những
thay đổi trong CSSKBĐ sẽ được nhận thấy trong các phần khác của CSSK toàn
dân. Ví dụ, nếu hệ thống mới tạo ra động lực để giữ cho người dân khỏe mạnh
thông qua việc tăng các dịch vụ dự phòng và quản lý bệnh mạn tính, tỷ lệ nhập viện
có thể giảm, đặc biệt là đối với các tình trạng nhất định có thể ngăn ngừa hoặc quản
lý ở tuyến CSSKBĐ. Một giao diện mới và liên tục giữa lĩnh vực chăm sóc ban đầu,
chăm sóc chuyên khoa người bệnh ngoại trú và các dịch vụ người bệnh nội trú sẽ
phát triển, có thể cải thiện sử dụng nguồn lực và chất lượng chăm sóc, nhưng cũng
có thể tạo ra sự căng thẳng giữa các chuyên gia và các cơ sở cung ứng dịch vụ chăm
sóc ban đầu. Vì vậy, việc lập kế hoạch triển khai hệ thống thanh toán CSSKBĐ mới
nên bao gồm một phân tích về tác động dự kiến và tác động tiềm tàng ngoài ý muốn
không chỉ trong lĩnh vực chăm sóc ban đầu, mà còn ở các phần khác của hệ thống
CSSK và cộng đồng [74].
Như vậy hoạt động YTDP, YTCC và CSSKBĐ đều lấy phòng bệnh làm cốt
lõi, tuy mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau, trong đó CSSKBĐ chú trọng hơn
vào chăm sóc và nâng cao sức khỏe trực tiếp cho người dân một cách toàn diện đầu
tiên không chỉ bằng các DVYT thiết yếu mà còn có sự tham gia của các ban ngành,
các tổ chức xã hội cũng như cộng đồng trong phòng ngừa các nguy cơ ảnh hưởng
đến sức khỏe. YTCC tiếp cận rộng hơn trong đó mục tiêu là phòng bệnh và nâng
cao sức khỏe cho toàn thể cộng đồng. Cả hai cách tiếp cận này đều mang tính đa
43
ngành và đòi hỏi sự cam kết và tham gia của chính phủ, của các ban ngành và cộng
đồng cao hơn so với cách tiếp cận YTDP đơn thuần [22].
Nếu nhìn từ góc độ tổ chức và quản lý cung ứng dịch vụ thì việc tổ chức
quản lý và cung ứng các dịch vụ YTDP, CSSKBĐ sẽ phải bao trùm tất cả các cấp
độ phòng bệnh từ cấp độ không cho yếu tố nguy cơ xảy ra cho đến không để tàn phế
hay tử vong. Và như vậy các hoạt động phòng bệnh sẽ phải bao gồm cả các hoạt
động cung ứng dịch vụ thuộc lĩnh vực YTCC, dịch vụ phòng bệnh không để xảy ra
bệnh (cả bệnh lây nhiễm và không lây nhiễm) và điều trị sớm không để bệnh nặng
lên, gây tàn phế hoặc tử vong [22].
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc gần đây đã chỉ rõ, để thực hiện được hiệu quả
và bền vững bao phủ CSSK toàn dân, cần có một hệ thống y tế “nhạy bén, có tính
đáp ứng cao, cung cấp dịch vụ CSSKBĐ một cách toàn diện...” và phải bảo đảm
cho “tất cả mọi người dân đều được tiếp cận các DVYT cơ bản về nâng cao sức
khoẻ, dự phòng, điều trị, phục hồi chức năng và các loại thuốc thiết yếu, an toàn,
bảo đảm chất lượng, với mức giá có thể chi trả được, bảo đảm người sử dụng dịch
vụ, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng thiệt thòi, không phải đối mặt với khó
khăn về tài chính” [86].
Như vậy, để thực hiện mục tiêu "bao phủ CSSK toàn dân", cần thiết phải xác
định các DVYT cơ bản, nhằm khẳng định nội dung ưu tiên về CSSK của quốc gia
trong điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp. Các DVYT cơ bản này cần được thiết kế
theo hướng hợp nhất các dịch vụ để cung cấp một cách toàn diện và tích hợp/lồng
ghép, dựa trên cách tiếp cận của CSSKBĐ [65].
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương
khoá XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 nêu rõ mục tiêu
"Bảo đảm y tế tối thiểu", trong đó có một số nội dung liên quan đến các DVYT cơ
bản như: cải thiện dịch vụ CSSK nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện
nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất
lượng công tác CSSK bà mẹ và trẻ em; đến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi
44
được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân
10%; đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình phòng, chống lao quốc gia…
Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai
đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013, cũng nêu quan điểm "Đổi mới và
hoàn thiện hệ thống y tế Việt Nam theo hướng Công bằng - Hiệu quả - Phát triển;
bảo đảm mọi người dân, đặc biệt người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em
dưới 6 tuổi, các đối tượng chính sách, người dân vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo và các nhóm người dễ bị tổn thương được tiếp cận với dịch vụ
CSSK cơ bản có chất lượng".
1.2.5. Các nghiên cứu và kinh nghiệm về PTTT theo định suất
1.2.5.1. Các nghiên cứu và kinh nghiệm trên thế giới
Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu về tác động của PTTT đến chi phí và
chất lượng DVYT. Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng thiết kế nghiên cứu trước -
sau và có nhóm chứng để đánh giá tác động của PTTT. Nghiên cứu của Winnie Yip
và Karen Eggleston (2004) tại Trung Quốc cho thấy phương thức trả trước như
thanh toán theo định suất và DRG dẫn đến sự giảm về chi phí do giảm lạm dụng
thuốc biệt dược đắt tiền và DVKT cao so với PTTT theo dịch vụ. Nghiên cứu của
Winnie Yip và cộng sự về tác động của PTTT theo định suất tại Thái Lan (2001)
cũng cho thấy so với PTTT theo dịch vụ thì PTTT theo định suất có thể là công cụ
hữu hiệu để giảm sự gia tăng chi phí mà không ảnh hưởng đến chất lượng KCB.
Tuy nhiên, sự thành công của PTTT theo định suất phụ thuộc vào nhiều yếu tố ví dụ
như cơ chế thanh toán, khả năng quản lý và công tác kiểm tra, giám sát [104], [105].
Thái Lan là một trong những quốc gia áp dụng thành công PTTT theo định
suất. Trong lịch sử các PTTT chi phí DVYT tại Thái Lan, thanh toán theo định suất
được áp dụng lần đầu năm 1991 trong hệ thống BHYT xã hội áp dụng cho khu vực
tư nhân. Khi đó, thanh toán theo định suất được áp dụng đối với cả dịch vụ KCB
ngoại trú và nội trú [84]. Mười năm sau, khi thực hiện chương trình Bao phủ toàn
dân (Universal Coverage), PTTT theo định suất lại được sử dụng nhưng chỉ giới
45
hạn cho các dịch vụ KCB ngoại trú. Theo đánh giá của các chuyên gia Thái Lan,
việc áp dụng thanh toán theo định suất cho khu vực điều trị nội trú có thể làm ảnh
hưởng đến quyền lợi người bệnh do nguy cơ cắt giảm dịch vụ cho người bệnh trong
quá trình nằm viện [105]. PTTT theo định suất được đánh giá khá thành công trong
chương trình Bao phủ toàn dân của Thái Lan. Việc áp dụng PTTT theo định suất
được áp dụng ở Thái Lan đã có hiệu quả khi các nhà cung cấp dịch vụ phát triển
mạng lưới cung cấp dịch vụ ngay tại cộng đồng để hạn chế dịch vụ điều trị tại bệnh
viện. Phạm vi thanh toán định suất chỉ bao gồm các dịch vụ ngoại trú không bao
gồm các bệnh chi phí lớn. Mức thanh toán định suất được xác định dựa trên tần suất
sử dụng các dịch vụ KCB ngoại trú trong năm của các thành viên trong chương
trình Bao phủ toàn dân và mức chi phí BQ một lượt KCB ngoại trú. Do hạn chế về
số liệu tính toán chi phí, Thái Lan sử dụng chi phí theo phương thức dịch vụ để tính
chi phí BQ. Suất phí BQ được điều chỉnh theo tuổi và giới của các thành viên trong
chương trình Bao phủ toàn dân. Quỹ định suất giao cho các Trung tâm Y tế (TTYT)
huyện bao gồm cả chi phí KCB ngoại trú tuyến trên. Một nghiên cứu mới gần đây
tại Thái Lan đã chứng minh được nguồn tài chính có sự dịch chuyển từ tuyến tỉnh
về tuyến huyện và đã mang lại nhiều lợi ích cho người nghèo đang sinh sống tại
Thái Lan. Trong quá trình thực hiện thanh toán theo định suất, việc theo dõi giám
sát, nhất là các chỉ số về sử dụng và chất lượng dịch vụ KCB được đặc biệt chú
trọng. Nhờ hệ thống thông tin khá tốt nên việc theo dõi các chỉ số về sử dụng, chi
phí và chất lượng dịch vụ được cập nhật đầy đủ và thường xuyên. Kết quả theo dõi
và đánh giá cho thấy, việc thanh toán theo định suất làm tăng sử dụng thuốc theo
tên gốc, việc chẩn đoán và điều trị phù hợp hơn, do đó làm giảm chi phí điều trị và
tăng hiệu suất cung ứng DVYT trong chương trình Bao phủ toàn dân [84].
Một bài học khác từ áp dụng PTTT theo định suất tại Mỹ cho thấy: (i)
Không giao khoán quỹ định suất cho một thầy thuốc tư nhân, mà phải giao cho cơ
sở y tế có nhiều thầy thuốc để tạo động cơ cùng chịu rủi ro nếu không cùng kiểm
soát tốt chi phí; (ii) Không nên tạo rủi ro quá lớn cho cơ sở KCB bởi dễ làm méo
mó đến các quyết định, chỉ định của thầy thuốc; (iii) Không giao khoán đối với
46
các bệnh hoặc các thủ thuật mà việc bố trí lại khoa phòng hoặc sự tác động của
thầy thuốc không tạo ra sự thay đổi về mặt tiết kiệm chi phí hoặc vượt quá năng
lực thầy thuốc tại chỗ [59].
Theo Alexander Telyukov: “Rất nhiều các nghiên cứu về PTTT theo định
suất trên thế giới đã kết luận có ba nhóm biến chính tác động đến suất phí: (i) Các
yếu tố dân số - xã hội như tuổi, giới tính, nơi ở, thu nhập, trình độ văn hóa, độ lớn
của số người trong một hộ gia đình và tình trạng việc làm ảnh hưởng khoảng 20%
đến sự biến thiên của quỹ; (ii) Số liệu lịch sử về chi phí KCB quyết định 60% mức
quỹ định suất; (iii) Các bệnh mạn tính gây ra sự khác biệt khoảng 15%” [85].
1.2.5.2. Các nghiên cứu và kinh nghiệm ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHYT đã nhận
thấy vai trò quan trọng của PTTT với việc kiểm soát chi phí và thực thi chính sách
BHYT. Từ năm 2000 đến nay, tổ chức BHYT Việt Nam và ngành Y tế đã nỗ lực
phối hợp thí điểm thanh toán theo định suất tại một số cơ sở y tế để tìm ra PTTT
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện PTTT theo định suất theo quy định của
Luật BHYT đã đạt kết quả bước đầu khá quan trọng, năm 2011 đã có 59/63 tỉnh,
thành phố triển khai thực hiện thanh toán theo định suất. Tổng số cơ sở KCB theo
định suất là 786/1.951 (đạt tỷ lệ 40,3%), vượt trên 10% theo quy định lộ trình tại
Thông tư liên tịch số 09 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính, một số tỉnh đã thực hiện
thanh toán theo định suất với 100% cơ sở KCB đăng ký ban đầu. Năm 2011, 17
tỉnh, thành phố có các cơ sở KCB cân đối được quỹ và có kết dư, 40 tỉnh, thành phố
có các cơ sở KCB vừa có kết dư vừa có bội chi. Có 418 cơ sở KCB kết dư với số
tiền 622,365 tỷ đồng, 277 cơ sở KCB bội chi với số tiền là 864,428 tỷ đồng. PTTT
theo định suất đã góp phần nâng cao trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ BHYT của
các cơ sở KCB, tăng cường tính chủ động trong công việc quản lý và sử dụng quỹ
KCB của đơn vị (chủ động trong điều hành quản lý, điều tiết quỹ KCB ngoại trú và
nội trú, điều tiết giữa các quý...). Các cơ sở KCB đã có sự cân nhắc trong việc chỉ
định điều trị để giảm các chi phí không cần thiết mà không ảnh hưởng đến kết quả
điều trị; giảm chuyển người bệnh lên tuyến trên, chủ động đào tạo cán bộ để nâng
47
cao trình độ chuyên môn; góp phần giảm tải bệnh viện tuyến trên, đồng thời quyền
lợi của người bệnh vẫn được đảm bảo [2], [10]. Đến năm 2012, theo BHXH Việt
Nam, có 58/63 tỉnh, thành phố đã triển khai thực hiện thanh toán theo phương thức
này. Tổng số cơ sở KCB theo định suất là 786/1.951 (đạt 40,3%), trong đó có 175
cơ sở nhận định suất ngoại trú và 611 cơ sở nhận định suất nội, ngoại trú [22].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn quá trình triển khai
thực hiện cũng đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc cần phải được nghiên cứu
và điều chỉnh kịp thời, đó là: (i) Phương pháp xác định chi phí, xác định suất phí
còn nhiều vướng mắc, chưa phản ánh chính xác chi phí của các nhóm đối tượng,
dẫn tới tình trạng mất cân đối hay dư thừa quỹ định suất của các cơ sở KCB, kể cả
các cơ sở KCB cùng tuyến điều trị và trong cùng địa giới hành chính; (ii) Chưa có
cơ chế điều chỉnh suất phí cũng như hệ số k một cách linh hoạt, kịp thời cho phù
hợp với đặc thù về tuổi, giới tính của các nhóm đối tượng, loại hình cơ sở KCB
cũng như về sự khác biệt trong chi phí KCB giữa các vùng, miền; (iii) Chưa xây
dựng được một hệ thống theo dõi đảm bảo chất lượng. Chưa thống nhất trong việc
điều tiết kinh phí giữa các bệnh viện khi có thâm hụt hay dư quỹ định suất, trong
cách thức giám định, tạm ứng kinh phí cũng như thanh quyết toán chi phí thanh
toán theo định suất... [2], [10].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Nga (2001) cho thấy sau 1 năm áp dụng
thí điểm PTTT theo định suất tại TTYT huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ngày
điều trị nội trú BQ giảm từ 10,16 xuống 9,86 ngày, nhưng chi phí BQ một đợt điều
trị lại gia tăng và bệnh viện bị bội chi quỹ định suất. Một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng này là nguyên tắc và cơ chế thí điểm chưa phù hợp và bản
chất PTTT tại đây vẫn là thực chi [77].
Kết quả nghiên cứu của Trần Quang Thông (2006) cho thấy sau một năm thử
nghiệm thanh toán theo định suất (chi phí BQ một lượt KCB tại xã, chi phí BQ một
lượt KCB ngoại trú, chi phí BQ một đợt điều trị của 5 bệnh nghiên cứu) tại bệnh
viện huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng tăng hơn so với giai đoạn thanh toán
theo dịch vụ nhưng vẫn đảm bảo cân đối quỹ vì sử dụng hiệu quả quỹ KCB và chi
phí hành chính theo định suất giảm hơn thanh toán theo dịch vụ. Chất lượng KCB
cho người có thẻ BHYT trong giai đoạn thanh toán theo định suất được tăng cường
48
hơn so với giai đoạn thanh toán theo dịch vụ nhờ có sự giám sát thường xuyên về
chất lượng và đảm bảo quyền lợi KCB cho người có thẻ BHYT theo đúng quy định.
Cụ thể là trong giai đoạn thanh toán theo định suất, bệnh viện đã ưu tiên triển khai
KCB về tuyến xã, tăng cường KCB ngoại trú hơn nội trú, có kiểm soát việc chuyển
tuyến để giảm chi phí không cần thiết ở tuyến trên, sự tuân thủ phác đồ điều trị cao
hơn; ngày điều trị BQ thấp hơn; cải thiện hơn thủ tục hành chính khi KCB [45].
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy Nga, Nguyễn Quỳnh Anh, Trần
Quang Thông và cộng sự (2010) cho thấy mặc dù chưa có bằng chứng rõ rệt về tác
động của PTTT theo định suất đến chi phí và chất lượng KCB BHYT tại hai bệnh
viện huyện Chí Linh và Tứ Kỳ của tỉnh Hải Dương, nhưng việc thực hiện thanh
toán theo định suất là hướng đi đúng đắn và được các bên liên quan ủng hộ. Tuy
nhiên, việc thí điểm định suất tại hai bệnh viện này còn bộc lộ nhiều hạn chế trong
việc xác định suất phí và cơ chế thanh toán. Do vậy, Bộ Y tế và BHXH Việt Nam
cần xem xét, nghiên cứu để đưa ra suất phí và cơ chế thanh toán phù hợp với thực
tiễn là bù đắp được chi phí cho cơ sở KCB, đảm bảo quyền lợi người có thẻ và đảm
bảo tính bền vững của quỹ BHYT [37].
Nghiên cứu của Võ Văn Chí và Trần Thúc Khả (2010) cho thấy hiệu quả của
thanh toán theo định suất tại TTYT huyện Phù Cát tỉnh Bình Định: Bệnh viện chủ
động quản lý kinh phí; bệnh viện phải tính toán chính xác chi phí điều trị cho người
bệnh; chỉ định cận lâm sàng và thuốc hợp lý nên tiết kiệm chi phí hơn trên lĩnh vực
cận lâm sàng và phẫu thuật; số ngày điều trị BQ giảm; chuyển viện có cân nhắc kỹ
để bảo tồn quỹ; chi phí BQ trên thẻ sau thanh toán theo định suất giảm. Bệnh viện
phục vụ người bệnh trong điều kiện tốt nhất, tăng cường chất lượng chuyên môn và
TTB để giữ người bệnh điều trị tuyến dưới; hạ tỷ lệ chuyển viện [24].
Trần Quang Thông (2012) nghiên cứu trên hai bệnh viện huyện Hà Trung
(thuộc khu vực đồng bằng) và Mường Lát (thuộc khu vực miền núi) triển khai thí
điểm PTTT theo định suất trong năm 2009 với các bệnh viện đối chứng tương ứng
là bệnh viện huyện Đông Sơn (thuộc khu vực đồng bằng) và Quan Sơn (thuộc khu
vực miền núi) của tỉnh Thanh Hóa. Thiết kế nghiên cứu mô tả, so sánh trước - sau
(trước và sau khi thực hiện thanh toán theo định suất), có đối chứng (thực hiện
thanh toán theo dịch vụ); thu thập số liệu định lượng, định tính và số liệu thứ cấp.
49
Kết quả nghiên cứu cho thấy: (i) PTTT theo định suất có ảnh hưởng rõ rệt làm
giảm gia tăng chi phí KCB BHYT so với PTTT theo dịch vụ. Ở khu vực đồng
bằng cũng như miền núi, tỷ lệ gia tăng chi phí BQ/lượt KCB và tổng chi phí tại
các tuyến ở bệnh viện thí điểm thanh toán theo định suất (tăng 0,4% - 12,9% và
tăng -1,5% -24,3%) ít hơn so với bệnh viện thanh toán theo dịch vụ (tăng 30,2% -
35% và tăng 39,1% - 45,1%); tỷ lệ gia tăng chi phí BQ/thẻ/năm chung các nhóm
đối tượng ở bệnh viện thí điểm thanh toán theo định suất (đồng bằng: 22,9%, miền
núi: -14,7%), ít hơn so với bệnh viện thanh toán theo dịch vụ (đồng bằng: 35,3%,
miền núi: 20,0%). (ii) So với thanh toán theo dịch vụ, PTTT theo định suất chưa
thấy có ảnh hưởng đến các chỉ số KCB BHYT. Tỷ lệ tuân thủ điều trị và kết quả
điều trị các nhóm bệnh viêm phế quản cấp, viêm dạ dày cấp, tăng huyết áp nguyên
phát, viêm ruột thừa cấp, mổ lấy thai đều đạt trên 85% và không thấy có sự khác
biệt giữa hai PTTT [46].
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế - Bộ Y tế phối hợp với Ngân hàng Thế
giới và Tổ chức Joint Learning Network trong Báo cáo đánh giá quốc gia về cơ
chế chi trả cho cơ sở cung ứng dịch vụ ở Việt Nam cho thấy [68]: PTTT theo định
suất hiện đang áp dụng tại Việt Nam đang còn nhiều điểm bất cập về cả thiết kế
cũng như triển khai thực hiện và tác động. Thiết kế thanh toán định suất của Việt
Nam có nhiều điểm không phù hợp với nguyên tắc của thiết kế định suất nói
chung cũng như thực tiễn triển khai định suất thành công trên thế giới. Trong đó,
nguyên tắc của thiết kế phương thức chi trả theo định suất chủ yếu sử dụng cho
điều trị ngoại trú và CSSKBĐ. Hay nói cách khác, chủ yếu là hoạt động dự phòng
sức khỏe tại cộng đồng. Trong khi, thiết kế định suất tại Việt Nam bao gồm cả cho
điều trị nội trú, không bao gồm CSSKBĐ và điều này sẽ làm nảy sinh nhiều hệ
quả bất cập. Cụ thể là áp dụng một mức giá chi phí dịch vụ cố định cho một dịch
vụ cung cấp luôn thay đổi, do đó đã dẫn tới khả năng thừa quỹ hay vỡ quỹ định
suất tại các tuyến là hệ quả không thể tránh khỏi. Bên cạnh, những vấn đề liên
quan đến phạm vi áp dụng, cách xác định phạm vi thanh toán, cách tính quỹ định
suất, việc xác định hệ số điều chỉnh cũng được đặt ra.
Một trong những bất cập nổi bật trong thanh toán định suất là quỹ định suất
giao cho bệnh viện bao gồm cả chi phí KCB đa tuyến và chi phí KCB người bệnh tự
50
trả và thanh toán trực tiếp với cơ quan BHXH. Do đó, bệnh viện chịu rủi ro bội chi
quỹ định suất rất lớn do tình trạng người bệnh tự đi KCB vượt tuyến với tỷ lệ tương
đối cao, có địa phương lên tới 75%, và mức chi phí KCB tại các tuyến trên cao gấp
nhiều lần so với tuyến dưới. Nếu thanh toán đa tuyến, hiển nhiên là các bệnh viện
huyện không thể kiểm soát được dịch vụ và chi phí diễn ra ngoài cơ sở của mình.
Kết quả là nhiều bệnh viện đã bị thâm hụt lớn quỹ định suất do chi phí đa tuyến.
Trong triển khai thanh toán theo định suất cũng đang tồn tại nhiều vướng
mắc, khó khăn. Chưa có cơ chế hiệu quả giám sát chất lượng dịch vụ KCB BHYT
khi áp dụng thanh toán theo định suất. Trong khi đó, hoạt động giám sát chất lượng
KCB thanh toán theo định suất được đặc biệt chú ý trong các hệ thống BHYT trên
thế giới. Trong quá trình triển khai thực hiện cho thấy còn bộc lộ một số hạn chế về
năng lực tổ chức thực hiện của cả hai phía là cơ quan BHXH và cơ sở cung ứng
DVYT. Quan hệ giữa cơ quan BHXH và các cơ sở cung ứng DVYT trong quá trình
thực hiện thanh toán theo định suất nảy sinh những bất đồng, mâu thuẫn nhất định.
Về kết quả thực hiện định suất, với thiết kế và thực hiện như hiện nay, PTTT
theo định suất chưa mang lại được các kết quả như mong đợi, thậm chí còn tạo ra
các kết quả ngược lại so với mong đợi. Về phương diện công bằng trong phân bổ
nguồn lực, cách tính quỹ định suất theo suất phí BQ 6 nhóm theo tỉnh đang tạo ra sự
mất công bằng giữa các tỉnh, nhất là tỉnh miền núi có mức chi phí BQ thấp so với
các thành phố có mức chi phí BQ cao gấp nhiều lần. Kết dư của các cơ sở KCB còn
đang rất thiếu thốn nguồn lực tại các tỉnh miền núi đang được dùng để thanh toán
phần vượt quỹ định suất của các cơ sở y tế hiện đại, dồi dào nguồn thu của các
thành phố lớn. Tình trạng bội chi quỹ định suất và áp lực quản lý quỹ khiến nhiều
cơ sở KCB không muốn tham gia khoán định suất. Do bội chi quỹ, nhiều bệnh viện
lâm vào cảnh nợ tiền thuốc trầm trọng, ảnh hưởng tới tình hình tài chính và hoạt
động chuyên môn của bệnh viện. Tại nhiều địa phương, việc bất đồng trong xử lý
bội chi quỹ KCB định suất giữa cơ quan BHXH và cơ sở KCB diễn ra khá phổ biến.
1.3. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM DÙNG TRONG
NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khung lý thuyết nghiên cứu
51
Hình 1.2: Sơ đồ khung lý thuyết nghiên cứu
THANH TOÁN CHI PHÍ KCB BHYT
THEO ĐỊNH SUẤT TẠI TYT XÃ
TTYT HUYỆN
CƠ QUAN CUNG ỨNG DỊCH VỤ KCB
(TYT XÃ)
CƠ QUAN MUA DỊCH VỤ KCB
(BHXH HUYỆN)
SỞ Y TẾ BHXH TỈNH
BÊN SỬ DỤNG DỊCH VỤ KCB (NGƯỜI BỆNH BHYT)
Kiểm soát hiệu
quả chi phí KCB
BHYT Tăng cường sử
dụng dịch vụ
KCB
Tăng sự hài
lòng của người
bệnh
Chi phí và chất lượng dịch vụ KCB Bao gồm:
1. Kê đơn thuốc hợp lý 2. Các chỉ số KCB được cải thiện 3. Mức thanh toán chi phí KCB BHYT so
với chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB
52
1.3.2. Một số khái niệm được dùng trong nghiên cứu
- Thanh toán theo định suất: Thanh toán theo định suất là thanh toán chi phí
dịch vụ KCB cho tất cả người bệnh hưởng BHYT và đăng ký KCB tại một cơ sở
KCB nhất định (trong mô hình thí điểm này là các TYT xã) trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là 12 tháng) [7].
- Suất phí: Suất phí (C) là chi phí xác định hàng năm dành cho KCB cho một
người bệnh có BHYT trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 12 tháng),
dựa trên chi phí BQ của thuốc, vật tư y tế tiêu hao (VTYTTH), tiền công khám và
chi phí DVKT. Suất phí được tính bằng cách nhân chi phí BQ/lượt khám với chỉ
tiêu tần suất KCB/thẻ/năm đối với TYT xã (quy ước = 1,0) [7].
- Quỹ điều tiết - khen thưởng (ĐTKT): Quỹ ĐTKT là khoản kinh phí dùng để
bù đắp chi phí khi tần suất sử dụng dịch vụ KCB vượt mức dự kiến ban đầu, ngoài
ra còn góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ và sử dụng thuốc hợp lý. Quỹ ĐTKT
hàng năm được phân bổ trước và được xác định theo số đối tượng BHYT tại một
TYT. Hạn mức cho quỹ ĐTKT tối đa là 10% suất phí [7].
- Quỹ định suất: Quỹ định suất (ĐS) là kinh phí hàng năm dành cho một
cơ sở KCB (trong mô hình thí điểm này là TYT xã) nhằm mục đích: (i) Chi trả
tất cả chi phí cho dịch vụ KCB của người bệnh đăng ký KCB BHYT ban đầu
với cơ sở đó; (ii) Vừa để bù đắp kinh phí thiếu hụt và vừa để chi thưởng khuyến
khích cho cán bộ [7].
- Chi phí KCB BHYT: Chi phí KCB BHYT ở Việt Nam là chi phí của
người bệnh BHYT được xác định theo giá một phần viện phí tại các cơ sở y tế,
chưa tính đến chi phí gián tiếp từ phía người bệnh, chi phí cơ hội và một số yếu
tố khác liên quan [14].
- Chi phí hay còn gọi là giá thành, là toàn bộ chi phí mà cơ sở cung ứng dịch
vụ phải bỏ ra để chi trả cho nhân công, vật tư, thiết bị, nhà xưởng và quản lý hành
chính để có thể cung cấp được một dịch vụ nào đó [78].
- Chi phí đơn vị của dịch vụ KCB: Là chi phí để có được một đơn vị sản
phẩm của dịch vụ KCB, ví dụ lượt KCB ngoại trú, ngày điều trị nội trú... [78].
53
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Kon Tum là tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, nằm ở phía Bắc Tây Nguyên,
có đường biên giới dài 280,7 Km tiếp giáp với 2 nước bạn Lào và Căm Pu Chia.
Diện tích tự nhiên khoảng 9.689,61 km2, dân số cuối năm 2013 là 478.524 người,
với 27 dân tộc anh em (trong đó có 6 dân tộc bản địa: Xơ Đăng, Bana, Dẻ Triêng,
Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm, chiếm 49,15% dân số toàn tỉnh). Tỷ lệ dân tộc thiểu số nói
chung chiếm 53,2% dân số. Toàn tỉnh có 1 thành phố và 8 huyện với 102 xã,
phường, thị trấn, trong đó có 75 xã thuộc vùng khó khăn. Thu nhập BQ đầu người
năm 2013 đạt 25,71 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo là 19,2% và tỷ lệ hộ cận nghèo
là 6,6%. Tỷ lệ người tham gia BHYT năm 2013 là 83,6% so với dân số toàn tỉnh,
trong đó chủ yếu là nhóm 3 (người nghèo; đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có
điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn; người cận nghèo) chiếm 51,76% và
nhóm 4 (trẻ em dưới 6 tuổi) chiếm 20,34% tổng số người tham gia BHYT (Nguồn:
Sở Y tế tỉnh Kon Tum).
2.1.1. Huyện, xã can thiệp
Huyện Đăk Tô được chọn có chủ đích để triển khai mô hình thí điểm thanh
toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại một số TYT xã.
Tiêu chí lựa chọn xã thí điểm can thiệp là: (i) Tỷ lệ người dân tham gia
BHYT và đăng ký KCB ban đầu tại TYT xã đạt từ 70% dân số trở lên; (ii) Là xã có
bác sĩ và có sự cam kết triển khai thực hiện thí điểm của các thành viên TYT xã;
(iii) TYT xã có máy vi tính và các cán bộ sử dụng tốt máy vi tính để triển khai phần
mềm thanh toán chi phí KCB BHYT; và (iv) Khoảng cách từ xã đến bệnh viện
huyện không quá gần (≥10 Km) để hạn chế tình trạng vượt tuyến trong KCB.
Đối chiếu với tiêu chí lựa chọn xã thí điểm can thiệp và các thông tin tại
Bảng 1 Phụ lục 4 (trang 183), chúng tôi chọn được 3 xã gồm Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga
và Đăk Trăm để triển khai can thiệp. Xã Văn Lem không được chọn vì TYT xã
đang được đầu tư xây dựng.
54
2.1.2. Huyện, xã đối chứng
Các tiêu chí chọn huyện, xã đối chứng là: (i) Là huyện có điều kiện KT-XH
và thành phần dân tộc tương đối tương đồng với huyện triển khai thí điểm can thiệp;
(ii) TTYT huyện có bệnh viện để hỗ trợ trực tiếp cho TYT xã trong công tác KCB
BHYT; (iii) Các xã được chọn làm đối chứng là xã có tỷ lệ người dân tham gia
BHYT và đăng ký KCB ban đầu tại TYT xã đạt từ 70% dân số trở lên, TYT có bác
sĩ; và (iv) Khoảng cách từ xã đến bệnh viện huyện không quá gần (≥10 Km) để hạn
chế tình trạng vượt tuyến trong KCB.
Trong 7 huyện còn lại (trừ huyện Đăk Tô và thành phố Kon Tum) của tỉnh
Kon Tum, chỉ có huyện Kon Rẫy là đạt các tiêu chí của huyện đối chứng. Các
huyện còn lại không đạt các tiêu chí của huyện đối chứng vì là huyện có điều kiện
KT-XH phát triển hơn hoặc kém phát triển hơn hoặc thành phần dân tộc ở các
huyện này có sự khác biệt so với huyện triển khai thí điểm can thiệp. Vì vậy, chọn
huyện Kon Rẫy làm đối chứng.
Đối chiếu với các tiêu chí của xã đối chứng và các thông tin tại Bảng 2 Phụ
lục 4 (trang 184), chúng tôi chọn được 3 xã Đăk Tre, Đăk Pne và Đăk Kôi của
huyện Kon Rẫy làm đối chứng. Xã Đăk Tơ Lung không được chọn vì năm 2012
bệnh viện huyện dời về xã Đăk Ruồng và cách xã Đăk Tơ Lung dưới 10 Km.
Một đặc điểm đáng quan tâm là hiện tại các TYT xã trong tỉnh Kon Tum mới
chỉ thực hiện KCB ngoại trú. Các xã nghiên cứu đều có tỷ lệ người dân tham gia
BHYT cao (trên 80%), nên các TYT xã này chỉ KCB BHYT, không thực hiện thu
phí dịch vụ KCB đối với người không có BHYT. Đây là điểm cần lưu ý khi thiết kế
các biến số, chỉ số nghiên cứu và biểu mẫu thu thập số liệu ở các TYT xã.
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10 năm 2011 đến tháng 5 năm 2014,
trong đó thời gian tiến hành can thiệp trong năm 2012 và thời gian thu thập số liệu
tại thực địa từ tháng 4 - 7 năm 2013.
2.3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu can thiệp có đối chứng.
55
Hình 2.1: Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
2.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ ĐÁP ỨNG
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU, HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP VÀ CÔNG THỨC
ĐỊNH SUẤT ÁP DỤNG TRONG MÔ HÌNH
2.4.1. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
So
sánh
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
So
sánh
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
So
sánh
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
Mô tả: - Chỉ số hoạt động - Chi phí KCB BHYT
So
sánh
Mô tả: - Chỉ số KCB - Chi phí KCB BHYT
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
Can thiệp
So sánh
Không can thiệp
So sánh
Đánh giá hiệu quả can thiệp: - Mô tả - Kê đơn thuốc hợp lý - Sự hài lòng của người bệnh - Ý kiến của những người có liên quan về hiệu
quả của can thiệp - Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
Can thiệp
So sánh
Không can thiệp
So sánh
Đánh giá hiệu quả can thiệp: - Mô tả - Kê đơn thuốc hợp lý - Sự hài lòng của người bệnh - Ý kiến của những người có liên quan về hiệu
quả của can thiệp - Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo định suất (HUYỆN ĐĂK TÔ)
3 TYT thanh toán
theo dịch vụ (HUYỆN KON RẪY)
Can thiệp
So sánh
Không can thiệp
So sánh
Đánh giá hiệu quả can thiệp: - Mô tả - Kê đơn thuốc hợp lý - Sự hài lòng của người bệnh - Ý kiến của những người có liên quan về hiệu
quả của can thiệp - Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
3 TYT đối chứng (HUYỆN KON RẪY)
(trước thời điểm can thiệp)
3 TYT can thiệp (HUYỆN ĐĂK TÔ)
(trước can thiệp)
3 TYT can thiệp (HUYỆN ĐĂK TÔ)
(sau can thiệp)
3 TYT đối chứng (HUYỆN KON RẪY)
(sau thời điểm can thiệp)
Can thiệp
So sánh
Không can thiệp
So sánh
Đánh giá hiệu quả can thiệp: - Mô tả (chỉ số KCB và chi phí KCB BHYT). - Kê đơn thuốc hợp lý - Sự hài lòng của người bệnh - Ý kiến của những người có liên quan về hiệu
quả của can thiệp - Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
Mô tả: - Chỉ số KCB - Chi phí KCB BHYT
56
Bảng 2.1: Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đáp ứng mục tiêu
Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu
và các chỉ số đo lường chính Mô tả
Đánh giá hiệu
quả can thiệp
Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch vụ tại một số trạm y tế xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012.
- Nghiên cứu mô tả: Chỉ số KCB và chi phí KCB BHYT.
Định lượng
Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả đối với một số chỉ số khám chữa bệnh, kê đơn thuốc hợp lý và việc kiểm soát chi phí khám chữa bệnh của phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại một số trạm y tế xã thuộc huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum.
- Nghiên cứu mô tả: Hiệu quả được đo lường bằng chỉ số KCB được cải thiện, tỷ lệ gia tăng các chỉ số KCB ít hơn và chi phí KCB BHYT được kiểm soát ở thời điểm sau can thiệp so với thời điểm trước can thiệp và so với nhóm chứng.
Định lượng
- Nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý: Hiệu quả được đo lường bằng số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn ít hơn, tỷ lệ đơn thuốc sử dụng kháng sinh (KS) trong nước cao hơn, tỷ lệ đơn thuốc KS kê theo tên gốc cao hơn, tỷ lệ đơn thuốc có số ngày dùng KS từ 5 ngày trở lên cao hơn, tỷ lệ đơn thuốc có thuốc KS kê phù hợp với chẩn đoán cao hơn ở thời điểm sau can thiệp so với thời điểm trước can thiệp và so với nhóm chứng.
Định lượng
- Nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh: Hiệu quả được đo lường bằng tỷ lệ người bệnh hài lòng với dịch vụ KCB tại TYT xã cao hơn ở thời điểm sau can thiệp so với nhóm chứng.
Định lượng
- Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm: Hiệu quả được đo lường bằng những ý kiến nhận xét, đánh giá của những người được phỏng
Định tính
57
vấn về chất lượng dịch vụ KCB được nâng lên, tỷ lệ chuyển tuyến giảm, tần suất KCB vượt chỉ tiêu mong đợi, người dân ngày càng tin tưởng hơn và hài lòng hơn với dịch vụ KCB tại TYT xã so với trước khi triển khai thực hiện mô hình thí điểm PTTT chi phí KCB BHYT theo định suất, quỹ định suất tại các TYT xã được bảo đảm và có kết dư.
- Nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã: Đây là nghiên cứu bổ trợ cho các nghiên cứu trên nhằm mục đích xác định hiện trạng đầu tư để định hướng ưu tiên đầu tư tài chính cho hoạt động y tế xã, điều chỉnh giá dịch vụ KBCB và tính quỹ định suất cho TYT tuyến xã.
Định lượng
2.4.2. Hoạt động can thiệp và công thức định suất áp dụng trong mô hình
2.4.2.1. Hoạt động can thiệp
Các hoạt động can thiệp để triển khai thí điểm thanh toán chi phí KCB
BHYT theo định suất tại một số TYT xã huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum được tiến
hành từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/12/2012, với những hoạt động chủ yếu sau:
Nội dung 1: Tổ chức triển khai thí điểm
Để đảm bảo việc triển khai thí điểm đúng quy định và thuận lợi, những yêu
cầu về thủ tục pháp lý được hoàn thiện, đồng thời với sự chuẩn bị sẵn sàng của các
bên liên quan. Các hoạt động bao gồm:
Hoạt động 1.1. Hoàn thiện các thủ tục cho việc phối hợp thực hiện giữa
BHXH tỉnh, Sở Y tế, TTYT huyện, BHXH huyện và các TYT xã được lựa chọn.
Liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh ban hành kế hoạch triển khai mô hình thí điểm.
Nhân viên các TYT được nhận thông tin và hướng dẫn về mô hình thí điểm này.
Hoạt động 1.2. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn việc áp dụng PTTT theo định
suất cho cán bộ BHXH huyện, cán bộ phòng Giám định BHYT thuộc BHXH tỉnh,
TTYT huyện và các TYT xã được chọn.
- Nội dung tập huấn: Chính sách pháp luật về BHYT (đặc biệt là về các dịch
vụ KCB tại TYT xã); nội dung của PTTT theo định suất; các nội dung của
mô hình thí điểm; yêu cầu về ghi chép, báo cáo số liệu giúp cho việc phân
58
tích số liệu thống kê, tình hình cung cấp dịch vụ KCB của TYT xã và dùng
cho các bộ công cụ theo dõi, giám sát; phương pháp đánh giá.
- Hướng dẫn triển khai cụ thể căn cứ vào các nguồn lực sẵn có.
Hoạt động 1.3. Hợp đồng KCB BHYT: Một hợp đồng KCB BHYT bổ sung
giữa BHXH huyện và TTYT huyện trong đó nêu các điều khoản về PTTT theo định
suất tại các TYT xã.
Nội dung 2: Đào tạo, tập huấn nâng cao chất lượng KCB
Hoạt động 2.1. Các bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng, nữ hộ sinh hiện đang làm việc
tại các TYT xã thí điểm sẽ tham gia vào các chương trình tập huấn phù hợp. Nội
dung tập huấn gồm:
- Chẩn đoán, điều trị một số bệnh thông thường;
- Quản lý, sử dụng, hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn, hợp lý;
- Kỹ năng truyền thông, giáo dục và phương pháp khám bệnh hướng đến
người bệnh;
- Chính sách BHYT, quyền lợi và trách nhiệm;
- Ghi chép, phân tích thống kê, báo cáo;
- Ứng dụng tin học để ghi nhận và phân tích số liệu thống kê.
Hoạt động 2.2. Tập huấn dành cho đối tượng là bác sĩ và giám sát viên tuyến
huyện gồm các nội dung sau:
- Tổng quan chính sách BHYT và nghiệp vụ giám định KCB BHYT cơ bản;
- Kiến thức và yêu cầu cơ bản về thống kê, phân tích số liệu và thực hiện chi
trả chi phí KCB BHYT;
- Đánh giá thực hành chuyên môn, hướng dẫn sử dụng, quản lý thuốc hợp lý.
Nội dung 3: Giám sát hỗ trợ thực hiện thí điểm
Nghiên cứu sinh (NCS), cán bộ chuyên trách của Sở Y tế, BHXH tỉnh,
TTYT huyện và BHXH huyện chịu trách nhiệm giám sát hoạt động thí điểm tại các
TYT đã chọn. Mục đích của giám sát là nhằm đảm bảo các hoạt động được tổ chức
và triển khai đúng kế hoạch, quyền lợi và trách nhiệm của các bên thực hiện đúng
59
quy định, đảm bảo quyền lợi của đối tượng hưởng lợi. Hoạt động theo dõi, giám sát
được xác định là một nội dung quan trọng cho thành công của mô hình này.
Hoạt động 3.1. Hoạt động theo dõi, đánh giá của BHXH huyện và TTYT
huyện được thực hiện định kỳ hàng tháng, của NCS được thực hiện hàng quý. Quy
trình, cách thức như sau:
(1) BHXH huyện phối hợp với TTYT huyện giám định chất lượng dịch vụ,
đánh giá các chỉ số về KCB và chi phí KCB.
Hàng tháng, thông qua họp giao ban, cán bộ TTYT huyện và TYT xã thực
hiện kiểm tra chất lượng các hoạt động chuyên môn như chẩn đoán, kê đơn
hợp lý, hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý có được thực hiện hay không, v.v....
Trên cơ sở thông tin thu nhận từ TYT xã, cán bộ TTYT huyện sẽ tiến hành
phân tích mô hình bệnh tật cũng như việc sử dụng thuốc, VTYTTH;
Xem xét những thay đổi về tỷ lệ khám, điều trị, tỷ lệ chuyển tuyến, việc sử
dụng thuốc (để tránh tình trạng cán bộ y tế hạn chế việc KCB của nhân dân
để tăng số dư);
Xác định các DVKT được cung cấp về mức độ sử dụng, có theo đúng hướng
dẫn điều trị không, đối tượng hưởng lợi và các thông tin khác;
Tổng hợp chi phí KCB hàng tháng và đánh giá việc sử dụng quỹ KCB
BHYT;
Sau mỗi kỳ quyết toán (3 tháng một lần), TTYT và BHXH huyện phối hợp
báo cáo tình hình thực hiện mô hình với Sở Y tế và BHXH tỉnh để tiếp tục
nhận được sự chỉ đạo trong việc triển khai thực hiện mô hình thí điểm.
(2) NCS tiến hành giám sát để đánh giá mô hình và đề xuất điều chỉnh, bổ sung
kịp thời. Sau mỗi đợt giám sát, tổ chức họp với các bên liên quan để báo cáo,
phân tích kết quả theo dõi, đánh giá. Hoạt động cụ thể như sau:
Đánh giá việc cấp thuốc và VTYTTH cho TYT xã; việc kê đơn và cung ứng
DVYT cho người bệnh; việc sử dụng, thanh quyết toán chi phí KCB BHYT;
Xem xét ý kiến phản hồi từ NVYT và từ phía người hưởng lợi;
60
Thu thập, phân tích số liệu, làm báo cáo quý, năm về: Khả năng đáp ứng và
chất lượng cung ứng thuốc, VTYTTH cho TYT; hiệu quả sử dụng quỹ
BHYT và chi phí KCB do cơ quan BHXH chi trả; chi phí KCB BHYT.
Hoạt động 3.2. Giám sát đột xuất
NCS tiến hành giám sát đột xuất để tìm hiểu cụ thể quy trình KCB (thời gian
KCB, tiếp đón người bệnh, kê đơn thuốc, thái độ thăm khám, v.v...), việc ghi chép,
vào sổ chi phí KCB của TYT, thay đổi về chi phí KCB - như giá DVYT, phạm vi
dịch vụ áp dụng tại TYT, mô hình bệnh tật tại địa phương.
Cùng với kết quả các đợt giám sát định kỳ, những thông tin thu thập từ giám
sát đột xuất như trên sẽ giúp đánh giá kịp thời hơn về tiến độ triển khai mô hình thí
điểm, làm cơ sở để mô hình thí điểm tiếp tục được cải thiện liên tục.
Nội dung 4: Đánh giá và báo cáo kết quả mô hình thí điểm định suất
Mô hình định suất sẽ được đánh giá dựa trên kết quả giám sát thuộc Nội
dung 3. Quy trình thu thập, phân tích và báo cáo số liệu cụ thể như sau:
Hoạt động 4.1. Thu thập số liệu: Số liệu sẽ được tổng hợp từ các xã thí điểm
và TTYT cũng như BHXH huyện. Để phục vụ công tác báo cáo, các TYT xã sẽ
phải tra theo sổ sách ghi chép thường xuyên của trạm, các báo cáo giám sát của
TTYT, BHXH huyện và báo cáo hoạt động của chính các xã.
Hoạt động 4.2. Phân tích số liệu do NCS đảm nhiệm.
Hoạt động 4.3. Báo cáo đánh giá kết quả mô hình thí điểm do NCS thực
hiện, đồng thời thông báo đến Sở Y tế, BHXH tỉnh, TTYT huyện, BHXH huyện và
các TYT xã thí điểm.
2.4.2.2. Công thức định suất áp dụng trong mô hình [7], [106]
* Công thức xác định suất phí:
C = f x (M1 + M2 + S + V1) = f x U
C = Suất phí cho một đối tượng hưởng BHYT
f = Chỉ tiêu tần suất KCB/thẻ/năm tại TYT (quy ước = 1,0)
U = (M1+M2+S+V1) = Chi phí BQ cho 1 lượt khám tại TYT
M1 = Chi phí thuốc BQ/lượt khám
61
M2 = Chi phí DVKT BQ/lượt khám (hiện tại có giá trị mặc định bằng 0; phụ
thuộc vào việc xác định cụ thể các DVKT về sau)
S = Tiền công khám (do UBND tỉnh phê duyệt)
V1 = Vật tư y tế tiêu hao
* Quỹ định suất cho mỗi TYT xã:
Quỹ ĐS = (N x C) + (N x Quỹ ĐTKT)
Quỹ ĐS = Quỹ định suất
N = Số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở y tế
C = Suất phí trên đầu thẻ
Quỹ ĐTKT = Quỹ điều tiết - khen thưởng = 10% của C
Suất phí tại TYT là chi phí sàn hàng năm phân bổ cho TYT dành cho chi phí
KCB của một người bệnh BHYT trong một năm, dựa trên chi phí BQ của thuốc
(M1), phí DVKT xác định sau (M2), tiền công khám (S) và VTYTTH (V1) cho mỗi
lượt khám nhân với chỉ tiêu của tần suất KCB/thẻ/năm (chỉ tiêu áp dụng cho mô
hình thí điểm là 1,0 lượt/thẻ/năm). Suất phí áp dụng cho TYT không bao gồm chi
phí KCB của người có thẻ BHYT tại cơ sở KCB khác, chi phí KCB ở tuyến trên (có
kiểm soát chuyển tuyến), không bao gồm chi phí cho các hoạt động YTDP, nâng
cao sức khỏe và quản lý các bệnh mạn tính tại cộng đồng.
Quỹ định suất cho TYT xã do TTYT huyện quản lý. Quỹ định suất cho mỗi
TYT được quản lý riêng biệt, được dùng để mua thuốc, VTYTTH cho TYT và để
chi tiền công khám. Sau một năm, số dư quỹ định suất sẽ được chuyển sang quỹ
ĐTKT năm tiếp theo và không dùng để tính suất phí của năm tiếp theo.
Quỹ ĐTKT là một nội dung mới trong mô hình thí điểm này. Theo thiết kế,
quỹ ĐTKT là một phần của quỹ định suất và là quỹ dùng để bù kinh phí bị thiếu hụt
do tần suất KCB tăng vượt chỉ tiêu, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ
KCB, khuyến khích việc cung ứng và sử dụng thuốc hợp lý. Vì quỹ ĐTKT cũng là
một phần của quỹ ĐS nên cũng do TTYT huyện quản lý, nhưng phải tách biệt với
suất phí cho các TYT và quản lý thành một khoản chung cho tất cả các xã. Kinh phí
62
cho quỹ ĐTKT được BHXH tỉnh xác định trước cho mỗi năm, dựa trên số đầu thẻ
BHYT của mỗi TYT. Định mức của quỹ này là tối đa bằng 10% suất phí.
Quỹ ĐTKT sẽ được BHXH tỉnh ứng trước hàng năm, được TTYT huyện
quản lý riêng và tuân theo nguyên tắc sử dụng được nêu dưới đây. Cũng giống như
ý nghĩa của PTTT theo định suất, việc xác định trước quỹ ĐTKT thêm một lần nữa
đảm bảo cho nguồn kinh phí có sẵn dành cho hoạt động. Cùng với cơ chế phân bổ
rất rõ ràng, quỹ ĐTKT được xem là có tác động tích cực thúc đẩy việc cải thiện chất
lượng cung ứng dịch vụ KCB. Sau một năm triển khai mô hình, việc phân bổ ngân
sách cho quỹ ĐTKT sẽ dựa trên đề xuất của TTYT huyện theo phân cấp ưu tiên nêu
dưới đây, thông qua phê duyệt của liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh. Quỹ ĐTKT
được phân bổ theo nguyên tắc như sau:
(1) Phân bổ ưu tiên - Bù đắp kinh phí thiếu hụt
Mục đích sử dụng hàng đầu của quỹ ĐTKT là bù đắp (giữa các TYT) khi xảy
ra thiếu hụt kinh phí cho hoạt động của trạm vì lý do tần suất KCB vượt chỉ tiêu đã
định một cách hợp lý - Do bệnh dịch làm tăng lượng người bệnh đến trạm, hoặc do
chất lượng dịch vụ của TYT đó rất tốt nên thu hút đông người bệnh đến khám.
Ngược lại, nếu TYT nào có tần suất KCB quá thấp so với mức cho phép (dưới 90%
so với chỉ tiêu đã đặt ra là trung bình 1,0 lượt/thẻ/năm) thì TYT đó sẽ phải hoàn trả
một phần suất phí để góp lại thành quỹ ĐTKT cho năm sau; trong khi đó, những
TYT vượt chỉ tiêu hợp lý (trên 110% so với chỉ tiêu đã đặt ra là trung bình 1,0
lượt/thẻ/năm) sẽ nhận được suất phí cao hơn. Cơ chế bù trừ như vậy sẽ giúp thực
hiện mục tiêu hoạt động và chức năng của quỹ ĐTKT.
(2) Phân bổ thứ cấp - Chi thưởng
Mục tiêu kế tiếp của quỹ ĐTKT là khuyến khích tăng cường cung ứng dịch
vụ KCB và với chất lượng tốt hơn (cả tuyến xã và huyện). Các khoản chi thưởng
này sẽ được phân bổ theo nguồn tiền mặt và được chi theo các mức gấp đôi hoặc
gấp ba lần tiền công khám (áp dụng theo từng điều kiện cụ thể), hoặc chi khuyến
khích theo các hình thức khác như tập huấn, phục vụ nâng cấp cơ sở vật chất
(CSVC), v.v... Tiền chi thưởng/khuyến khích chỉ áp dụng cho những TYT đạt hoặc
63
gần đạt chỉ tiêu, các hình thức khuyến khích khác sẽ dựa theo mức độ hoạt động của
TYT (tốt hơn, có chất lượng hơn) nhưng không đặt điều kiện quá nghiêm ngặt.
Trong điều kiện phân bổ quỹ ĐTKT, ưu tiên số 1 luôn luôn dành cho việc bù
đắp kinh phí thiếu hụt cho các TYT. Sau đó mới đến chi cho khen thưởng/khuyến
khích, phụ thuộc vào nguồn kinh phí có còn dư cho chi thưởng hay không. Phần
kinh phí riêng cho chi thưởng chiếm tối đa 75% quỹ ĐTKT hàng năm, để nhấn
mạnh mục đích ưu tiên của quỹ.
2.5. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các dịch vụ KCB BHYT tại 6 TYT xã: Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm,
Đăk Tre, Đăk Pne và Đăk Kôi.
- Đơn thuốc điều trị ngoại trú có KS năm 2011 và năm 2012 của 6 TYT xã
nghiên cứu.
- Người dân tham gia BHYT được KCB tại 6 TYT xã nghiên cứu trong năm
2012. (i) Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu: Người dân tham gia BHYT từ
18 tuổi trở lên, được KCB tại TYT xã trong năm 2012 (không chuyển lên tuyến
trên), đang sinh sống tại địa điểm nghiên cứu, không phân biệt giới tính, tự nguyện
tham gia và hợp tác nghiên cứu, có trình độ học vấn từ biết đọc - biết viết trở lên;
(ii) Tiêu chuẩn loại trừ chọn đối tượng nghiên cứu: Người dưới 18 tuổi hoặc quá già
yếu, điếc, mù, lòa, đục thủy tinh thể, liệt nửa người, đang mắc bệnh nặng không thể
tham gia nghiên cứu, không biết đọc - biết viết, không tự nguyện và không hợp tác
nghiên cứu, không còn sinh sống tại địa điểm nghiên cứu.
- Đại diện lãnh đạo Sở Y tế và BHXH tỉnh, đại diện lãnh đạo TTYT và
BHXH huyện Đăk Tô; một số cán bộ có liên quan của Sở Y tế, BHXH tỉnh, TTYT,
BHXH huyện Đăk Tô, Trưởng trạm và tất cả nhân viên của 3 TYT xã triển khai mô
hình thí điểm định suất thuộc huyện Đăk Tô.
- Chi phí tài chính của các dịch vụ đã được xác định, tương ứng với chi phí
thực tế của TYT xã về hàng hoá và các dịch vụ mua vào, bao gồm: Chi phí thường
xuyên (chi phí lao động; thuốc; VTYTTH; vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường
64
xuyên khác; đào tạo và nghiên cứu) và chi phí đầu tư (khấu hao nhà cửa, khấu hao
TTB y tế, khấu hao TTB phi y tế).
2.6. CỠ MẪU
2.6.1. Nghiên cứu mô tả: Các chỉ số KCB và chi phí KCB BHYT năm 2011 và
năm 2012 của người tham gia BHYT tại 6 TYT xã và 2 TTYT huyện nghiên cứu.
2.6.2. Nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý
- Áp dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ, ta có:
- Trong đó:
n là cỡ mẫu tối thiểu
Z(1-α/2) = Với khoảng tin cậy 95%, kiểm định 2 phía, Z(1-α/2) = 1,96
p = (p1 + p2) / 2
Z(1-β) = 1-β là lực mẫu, trong trường hợp này ta lấy 1-β = 85%
p1 = Tỷ lệ kê đơn thuốc hợp lý ở thời sau can thiệp tăng so với thời
điểm trước can thiệp tại các TYT xã can thiệp, dựa trên kinh nghiệm
và mong đợi của NCS, chúng tôi ước tính p1=10%
p2 = Tỷ lệ kê đơn thuốc hợp lý ở thời sau can thiệp tăng so với thời
điểm trước can thiệp tại các TYT xã đối chứng, dựa trên kinh nghiệm
và mong đợi của NCS, chúng tôi ước tính p2=3%
- Thay số vào công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ trong phần mềm
Sample size determination in health studies của WHO (2.2b) ta có n = 222. Vì đây
là mẫu cụm, nên cần nhân với hệ số thiết kế (de: design effect) là 2 và sẽ có cỡ mẫu
là 444, làm tròn là 450 đơn thuốc điều tra ở thời điểm trước can thiệp và 450 đơn
thuốc điều tra ở thời điểm sau can thiệp ở mỗi nhóm. Như vậy, mỗi TYT xã sẽ điều
tra 150 đơn thuốc trước can thiệp và 150 đơn thuốc sau can thiệp.
2.6.3. Nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh
- Áp dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ, ta có:
65
- Trong đó:
n là cỡ mẫu tối thiểu
Z(1-α/2) = Với khoảng tin cậy 95%, kiểm định 2 phía, Z(1-α/2) = 1,96
p = (p1 + p2) / 2
Z(1-β) = 1-β là lực mẫu, trong trường hợp này ta lấy 1-β = 85%
p1 = Tỷ lệ người được phỏng vấn hài lòng với dịch vụ KCB tại các
TYT xã can thiệp ở thời điểm sau can thiệp, dựa trên kinh nghiệm và
mong đợi của NCS, chúng tôi ước tính p1 = 85%
p2 = Tỷ lệ người được phỏng vấn hài lòng với dịch vụ KCB tại các
TYT xã đối chứng ở thời điểm sau can thiệp, dựa trên kinh nghiệm và
mong đợi của NCS, chúng tôi ước tính p2 = 70%
- Thay số vào công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỷ lệ trong phần mềm
“Sample size determination in health studies” của WHO (2.2b) ta có n = 138. Vì
đây là mẫu cụm, nên cần nhân với hệ số thiết kế (de: design effect) là 2 và sẽ có cỡ
mẫu là 276 người cần được phỏng vấn ở mỗi nhóm. Như vậy, mỗi xã sẽ phỏng vấn
92 người được KCB tại TYT xã trong năm 2012. Trên thực tế chúng tôi đã phỏng
vấn được 636 người (Ngọc Tụ: 107 người, Đăk Rơ Nga: 106 người, Đăk Trăm: 104
người, Đăk Tre: 108 người, Đăk Pne: 106 người và Đăk Kôi: 105 người).
2.6.4. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm
* Phỏng vấn sâu (PVS): 7 cuộc.
- PVS lãnh đạo Sở Y tế và BHXH tỉnh: 2 cuộc.
- PVS lãnh đạo TTYT và BHXH huyện: 2 cuộc.
- PVS 3 Trưởng TYT xã triển khai mô hình thí điểm: 3 cuộc.
* Thảo luận nhóm (TLN): 5 cuộc.
- TLN cán bộ có liên quan tại tuyến tỉnh (2 cán bộ phòng Kế hoạch - Tài
chính và 2 cán bộ phòng Nghiệp vụ Y Sở Y tế theo dõi BHYT, 2 cán bộ phòng Kế
hoạch - Tài chính và 2 cán bộ phòng Giám định BHYT BHXH tỉnh): 1 cuộc.
66
- TLN cán bộ có liên quan tại huyện Đăk Tô (2 cán bộ phòng Kế hoạch tổng
hợp theo dõi BHYT, 2 kế toán theo dõi chi phí KCB BHYT, 2 cán bộ khoa Dược
TTYT huyện; 2 Giám định viên BHYT tại TTYT huyện): 1 cuộc.
- TLN nhân viên TYT 3 xã triển khai mô hình thí điểm: 3 cuộc.
2.6.5. Nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã: Chi phí đầy đủ
của dịch vụ KCB năm 2012 tại 6 TYT xã nghiên cứu.
2.7. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU
- Phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu cụm có chủ đích theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1 chọn huyện can thiệp (Đăk Tô) và huyện đối chứng (Kon Rẫy), giai
đoạn 2 chọn 3 xã can thiệp (Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm) và 3 xã đối chứng
(Đăk Tre, Đăk Pne, Đăk Kôi), giai đoạn 3 chọn đơn vị mẫu.
- Chọn đơn vị mẫu trong nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý: Khung mẫu là
Bảng tổng hợp chi phí KCB năm 2011 và năm 2012 của 6 TYT xã nghiên cứu
được lưu tại TYT xã. Các trường hợp không có chi phí KCB BHYT đã được loại
bỏ khỏi các bảng tổng hợp này. Bảng tổng hợp chi phí KCB năm 2011 sử dụng
cho khung mẫu điều tra ở thời điểm trước can thiệp. Bảng tổng hợp chi phí KCB
năm 2012 sử dụng cho khung mẫu điều tra ở thời điểm sau can thiệp. Tiến hành
chọn đơn vị mẫu theo phương pháp mẫu ngẫu nhiên hệ thống cho đến khi đủ cỡ
mẫu được xác định cho mỗi TYT. Trường hợp đơn vị mẫu được chọn không có
KS thì được chọn đơn vị mẫu kế tiếp trên khung mẫu cho đến khi có KS. Trên cơ
sở danh sách đơn vị mẫu đã được lựa chọn, NCS tiến hành thu thập các đơn thuốc
lưu tại TYT xã (bản sao) để khảo sát.
- Chọn đơn vị mẫu trong nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh: Khung mẫu
là danh sách người bệnh được KCB trong năm 2012 tại 6 TYT xã nghiên cứu. Ở
mỗi khung mẫu, chọn ngẫu nhiên 1 thôn/làng để lập danh sách những người trong
cùng thôn/làng đó dự kiến sẽ được phỏng vấn theo đúng tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu
chuẩn loại trừ chọn đối tượng nghiên cứu. Nếu thôn/làng đầu tiên chưa đủ số lượng
mẫu được xác định cho từng xã, tiếp tục chọn ngẫu nhiên 1 thôn/làng khác để lập
danh sách cho đến khi đủ số lượng mẫu cần lập. Danh sách dự kiến được phỏng vấn
cần lập bằng 120% cỡ mẫu được xác định cho mỗi xã để dự phòng trong trường hợp
67
NCS đến hộ gia đình phỏng vấn nhưng không gặp được đối tượng hoặc đối tượng
nằm trong diện tiêu chuẩn loại trừ.
- Phương pháp chọn mẫu cho nghiên cứu định tính là chọn mẫu có chủ đích,
cụ thể là chọn những người có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện mô
hình thí điểm để tiến hành PVS hoặc TLN.
2.8. BIẾN SỐ, CHỈ SỐ VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH
Bảng 2.2: Các biến số và chỉ số nghiên cứu mô tả
Biến số/ chỉ số
Khái niệm - Chỉ số Phân loại biến
Phương pháp và công cụ xác
định
Tổng số lượt khám bệnh
Tổng số lượt người bệnh đến khám bệnh tại TYT xã trong năm
Định lượng
Tính từ Bảng thống kê chi
phí KCB BHYT tại TYT
xã năm 2011 và 2012
Số lượt khám bệnh BQ
Tổng số lượt khám bệnh/Dân số trung bình
Định lượng
Tính từ các bảng thu thập
số liệu
Tần suất khám/thẻ/năm
Tổng số lượt khám bệnh/Số thẻ đăng ký KCB ban đầu tại TYT
Định lượng
Số lượt chuyển tuyến
Số lượt người bệnh chuyển tuyến từ TYT lên TTYT huyện
Định lượng
Tỷ lệ % chuyển tuyến
Số lượt người bệnh chuyển tuyến từ TYT lên TTYT huyện x 100/Tổng số lượt KCB trong năm của TYT
Tỷ lệ
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện
Số lượt người bệnh thuộc các xã nghiên cứu được KCB tại TTYT huyện trong năm (có phân loại số lượng và tỷ lệ có giấy giới thiệu, số lượng và tỷ lệ không có giấy giới thiệu, số lượng và tỷ lệ lượt KCB ngoại trú, số lượng và tỷ lệ lượt KCB nội trú)
Định lượng Tính từ danh
sách KCB BHYT tại
TTYT huyện 2011 và 2012
Tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện
Số lượt người bệnh thuộc các xã nghiên cứu được KCB tại TTYT huyện trong năm x 100/Tổng số lượt KCB trong năm của TYT
Tỷ lệ
68
Tổng chi phí KCB BHYT tại TYT
Là tổng chi phí cho việc KCB BHYT tại TYT trong năm (bao gồm tổng chi phí, tỷ trọng chi cho công khám, thuốc, VTYTTH và DVKT)
Định lượng
Tính từ Bảng thống kê chi
phí KCB BHYT tại TYT
xã năm 2011 và 2012
Chi phí BQ/ lượt khám
Tổng chi phí KCB BHYT tại TYT trong năm/Tổng số lượt KCB tại TYT trong năm
Định lượng
Chi phí cao nhất/ lượt khám
Là giá trị chi phí KCB BHYT/ lượt khám cao nhất trong năm của TYT
Định lượng
Chi phí thấp nhất/ lượt khám
Là giá trị chi phí KCB BHYT/ lượt khám thấp nhất trong năm của TYT
Định lượng
Trung vị chi phí/lượt khám
Là giá trị chi phí KCB BHYT/ lượt khám nằm ở giữa trong dãy giá trị chi phí KCB BHYT/ lượt khám trong năm của TYT xã sau khi đã được sắp xếp theo một trình tự
Định lượng
Chi BQ/ thẻ/năm Tổng chi phí KCB BHYT tại TYT trong năm/Số thẻ đăng ký KCB ban đầu tại TYT
Định lượng
Tính từ các bảng thu thập
số liệu
Chi phí KCB BQ/ thẻ/năm theo nhóm đối tượng
Chi phí KCB tại TYT của từng nhóm đối tượng tham gia BHYT trong năm/Số thẻ đăng ký KCB ban đầu của nhóm đối tượng đó tại TYT. Sáu nhóm đối tượng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 09 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính, bao gồm: - Nhóm 1: Cùng tham gia đóng BHXH, BHYT. - Nhóm 2: Do BHXH đóng phí. - Nhóm 3: Người nghèo, cận nghèo. - Nhóm 4: Trẻ em dưới 6 tuổi. - Nhóm 5: Học sinh, sinh viên. - Nhóm 6: Khác hay tự nguyện.
Định lượng
Chi phí KCB BQ/ thẻ/năm theo giới tính
Chi phí KCB tại TYT của từng giới (nam, nữ) tham gia BHYT trong năm/Số thẻ đăng ký KCB ban đầu của giới đó tại TYT
Định lượng
Chi phí KCB BQ/ thẻ/năm theo nhóm tuổi
Chi phí KCB tại TYT của từng nhóm tuổi tham gia BHYT trong năm/Số thẻ đăng ký KCB ban đầu của nhóm tuổi đó tại TYT. Các nhóm tuổi bao gồm: ≤ 5; 6-14; 15-24; 25-48; 49-60; >60.
Định lượng
69
Bảng 2.3: Các biến số khảo sát kê đơn thuốc hợp lý
Biến số Khái niệm - Chỉ số Phân loại biến
Kỹ thuật
thu thập
Công cụ thu thập
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn
= Tổng số loại thuốc được sử dụng/Tổng số đơn được khảo sát
Định lượng
Điều tra hồi cứu
Phiếu khảo sát
Đường dùng thuốc KS
Là đường đưa thuốc vào cơ thể ghi trong đơn, gồm 3 loại:
1. Tiêm
2. Uống
3. Tiêm + Uống
Danh mục
Điều tra hồi cứu
Nguồn gốc thuốc KS
Là nguồn gốc sản xuất thuốc KS trong đơn, gồm 3 loại:
1. Trong nước
2. Nước ngoài
3. Trong nước+Nước ngoài
Danh mục
Điều tra hồi cứu
Tên thuốc KS
Là dạng thuốc KS được ghi trong đơn theo Dược thư quốc gia, gồm 3 loại:
1. Tên gốc
2. Biệt dược
3. Tên gốc + Biệt dược
Danh mục
Điều tra hồi cứu
Số ngày dùng thuốc KS
Là số ngày dùng thuốc KS được kê trong đơn.
Định lượng
Điều tra hồi cứu
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn
= Tổng số ngày dùng thuốc KS/Tổng số đơn được khảo sát
Định lượng
Điều tra hồi cứu
Thuốc KS kê phù hợp với chẩn đoán
Theo hướng dẫn của Bộ Y tế [12], gồm 2 giá trị:
1. Có
2. Không
Danh mục
Điều tra hồi cứu
70
Bảng 2.4: Các biến số khảo sát sự hài lòng của người bệnh
Biến số Khái niệm - Chỉ số Phân loại biến
Kỹ thuật thu thập
Công cụ thu thập
Tuổi
Tuổi được tính theo năm dương lịch tại thời điểm phỏng vấn: Kể từ ngày tháng năm sinh cứ đủ 12 tháng tiếp theo được tính thêm 1 tuổi.
Định lượng
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Giới tính
Giới tính của người được phỏng vấn, gồm 2 giá trị:
1. Nam 2. Nữ
Nhị phân
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Nghề nghiệp
Là nghề mang lại thu nhập chính cho bản thân và gia đình, gồm 4 loại:
1. Nghề nông 2. Lao động tự do 3. Cán bộ nhà nước/doanh
nghiệp/hưu trí 4. Khác
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Trình độ học vấn
Tính theo cấp học, gồm 6 giá trị: 1. Biết đọc, biết viết 2. Tiểu học 3. Trung học cơ sở 4. Trung học phổ thông 5. Trung học chuyên nghiệp 6. Từ cao đẳng trở lên
Thứ bậc
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Lý do khám bệnh tại
TYT
Lý do người bệnh đến khám bệnh tại TYT, gồm 8 giá trị: 1. Do có BHYT, KCB không mất tiền 2. Do thuận tiện, gần nhà 3. Do chỉ được đăng ký KCB ở TYT
xã 4. Do tin tưởng thầy thuốc ở TYT xã 5. Do NVYT thân thiện hoặc quen
biết 6. Do được cấp thuốc đầy đủ 7. Do môi trường, cảnh quan thân
thiện 8. Khác
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Thời gian chờ đợi
Là khoảng thời gian người bệnh phải chờ đợi để được khám bệnh, gồm 4 giá trị:
Rời rạc Phỏng
vấn Phiếu hỏi
71
1. Dưới 15 phút 2. Từ 15 đến dưới 30 phút 3. Từ 30 đến 60 phút 4. Trên 60 phút
Người khám bệnh
Là NVYT trực tiếp khám bệnh cho người bệnh, gồm 3 loại:
1. Bác sĩ/Y sĩ 2. Y tá, Điều dưỡng, Hộ sinh 3. Không biết
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Thái độ của NVYT
Là biểu hiện của NVYT đối với người bệnh, gồm 4 giá trị:
1. Thân thiện, cởi mở 2. Bình thường 3. Lạnh lùng, thiếu tôn trọng 4. Khác
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Hướng dẫn sử dụng thuốc
Là sự hướng dẫn của NVYT đối với người bệnh về sử dụng thuốc, gồm 3 giá trị:
1. Đầy đủ, dễ hiểu 2. Không đầy đủ, khó hiểu 3. Không được hướng dẫn
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Thuốc cấp theo đơn
Là thuốc do NVYT cấp cho người bệnh, gồm 3 giá trị:
1. Đúng, đủ như trong đơn 2. Không đúng, đủ như trong đơn 3. Không biết
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Trả thêm tiền
Là việc người bệnh phải trả thêm tiền (ngoài quy định) khi KCB, gồm 2 giá trị:
1. Có 2. Không
Nhị phân
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Kết quả điều trị
Là tình trạng bệnh của người bệnh sau điều trị, gồm 3 giá trị:
1. Khỏi bệnh 2. Đỡ, ổn định 3. Không khỏi
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Thủ tục KCB
Là các thủ tục hành chính khi người bệnh KCB tại TYT, gồm 3 giá trị:
1. Gọn nhẹ, đơn giản 2. Rườm rà, phức tạp 3. Chỉ dẫn không rõ ràng, khó
hiểu
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
72
Sự hài lòng
Là sự đánh giá của người bệnh về mức độ hài lòng khi KCB tại TYT, gồm 2 giá trị:
1. Hài lòng 2. Chưa hài lòng
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Nguyên nhân chưa hài lòng
Là những lý do làm cho người bệnh chưa hài lòng, gồm 6 giá trị:
1. Thuốc chữa không khỏi bệnh 2. TYT không cấp thuốc theo đơn 3. Thái độ NVYT không tôn
trọng 4. Chờ đợi để được khám quá lâu 5. Không được chuyển viện 6. Khác
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Quay lại TYT để
KCB
Là việc người bệnh quay lại TYT để KCB nếu lần sau bị ốm, gồm 2 giá trị:
1. Có 2. Không
Nhị phân
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Nguyện vọng chọn
nơi đăng ký KCB
Là nguyện vọng của người bệnh về lựa chọn nơi đăng ký KCB ban đầu, gồm 3 giá trị
1. Tại TYT xã 2. Tại bệnh viện huyện 3. Tại thầy thuốc tư nhân gần nhà
Danh mục
Phỏng vấn
Phiếu hỏi
Nội dung nghiên cứu định tính
- Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình thí điểm
thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã.
- Sự phối hợp giữa ngành Y tế và ngành BHXH trong việc triển khai thực
hiện mô hình thí điểm. Các hoạt động triển khai thực hiện mô hình thí điểm và kết
quả đạt được.
- Chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh
sau khi triển khai mô hình thí điểm.
- Tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng cường sử dụng dịch vụ
KCB tại TYT xã của người bệnh.
- Hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT tại TYT xã.
- Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ
việc triển khai thực hiện mô hình thí điểm.
- Những đề xuất, kiến nghị để việc triển khai thực hiện mô hình thí điểm
trong thời gian tới có hiệu quả hơn.
73
Phương pháp tính toán chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
* Nguyên tắc chung
Chi phí được tính toán từ quan điểm của TYT xã để ước tính chi phí đầy đủ
của các dịch vụ đang thực hiện, bất kể chi phí đó là do ngân sách trung ương cấp
theo mục lục ngân sách, chi trả của BHYT, hoặc chi trả từ tiền túi của người bệnh.
Nghiên cứu này sử dụng kết hợp phương pháp phân bổ từng bước (Step-
down) và phương pháp chi phí nguồn (Resource Costing Method).
Chi phí được phân loại theo chi phí trực tiếp và gián tiếp. Chi phí trực tiếp
bao gồm đầu vào của những dịch vụ cung cấp DVYT trực tiếp. Chi phí gián tiếp
bao gồm các đầu vào cần thiết khác để duy trì hoạt động của TYT xã nhưng không
sử dụng trực tiếp cho việc KCB và các nhiệm vụ khác.
Các chi phí gián tiếp (bao gồm cả khấu hao) được phân bổ cho các nhiệm vụ
KCB, YTDP và nhiệm vụ khác (ví dụ NVYT là đại biểu Hội đồng nhân dân xã,
kiêm nhiệm công tác của các ngành, đoàn thể của xã, thôn làng, v.v...), cộng thêm
với chi phí tiền công thực tế của NVYT thực hiện các nhiệm vụ với các tỷ lệ phần
trăm tương ứng. Chi phí trực tiếp của các dịch vụ (thuốc và VTYTTH) được tính
vào tổng chi phí KCB để tính chi phí BQ một lượt KCB ngoại trú (chi phí đơn vị).
Chi phí lao động và khấu hao nhà cửa, TTB được phân bổ theo số lượt KCB.
Đối với những chi phí này, tính tổng chi phí hàng năm xong thì chia bởi tổng số
lượt KCB để ra chi phí BQ của một lượt KCB.
Tổng chi phí trực tiếp cho KCB bằng tổng chi phí thuốc, VTYTTH và lao
động. Chi phí trực tiếp BQ cho một lượt KCB bằng tổng chi phí trực tiếp chia cho
tổng số lượt KCB.
Tổng chi phí gián tiếp cho KCB được tính bằng tổng chi phí vận hành (bao
gồm sửa chữa nhỏ, đào tạo, chi thường xuyên khác) và khấu hao tài sản (nhà cửa,
trang thiết bị) trong năm nhân với tỷ lệ phần trăm dành cho KCB. Tổng chi phí gián
tiếp BQ của một lượt KCB bằng tổng chi phí gián tiếp cho KCB chia cho tổng số
lượt KCB.
Khấu hao là trị giá giảm đi theo thời gian của tài sản trong thời gian sử dụng
nó. Giá mua gốc, không phải trị giá còn lại, đã được sử dụng làm cơ sở tính khấu
hao tài sản.
74
Khấu hao hàng năm theo từng loại tài sản được tính bằng cách chia tổng giá
trị gốc của nhà cửa, TTB y tế, TTB phi y tế, đồ dùng và phương tiện đi lại bởi tổng
số năm kỳ vọng sử dụng tài sản đó. Tuy nhiên, hầu như không thể biết được chắc
chắn thời gian sử dụng của nhà cửa, TTB, đồ dùng và phương tiện đi lại, nên đã áp
dụng các thông lệ kế toán chuẩn để tính ra chi phí khấu hao hàng năm. Một tỷ lệ
khấu hao là 0,03 (tương đương với 33 năm của thời gian sử dụng) đã được giả định
đối với nhà cửa, tỷ lệ 0,1 (tương đương 10 năm) giả định để tính khấu hao TTB, đồ
dùng và phương tiện được mua không quá 10 năm và 0,0% nếu mua quá 10 năm.
Tổng khấu hao nhà cửa, TTB hàng năm giành cho KCB được quy ra khấu
hao BQ một lượt KCB.
* Công thức tính chi phí [106]
TTổổnngg cchhii pphhíí ttrrựựcc ttiiếếpp cchhoo KKCCBB == TTổổnngg cchhii pphhíí tthhuuốốcc vvàà VVTTYYTTTTHH ++ TTổổnngg cchhii pphhíí
cchhoo llaaoo đđộộnngg xx TTỷỷ llệệ %% tthhờờii ggiiaann ddàànnhh cchhoo KKCCBB..
TTổổnngg cchhii pphhíí ggiiáánn ttiiếếpp cchhoo KKCCBB == ((TTổổnngg cchhii pphhíí vvậậnn hhàànnhh ++ KKhhấấuu hhaaoo ttààii ssảảnn)) xx TTỷỷ
llệệ %% ddàànnhh cchhoo KKCCBB..
* Các thành phần chi phí
Chi thường xuyên được phân loại theo năm thành phần chi phí: 1) Chi phí
lao động; 2) Thuốc; 3) VTYTTH; 4) Vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên
khác; 5) Đào tạo và nghiên cứu. Chi phí đầu tư được phân loại theo hai thành phần
chi phí: 1) Khấu hao nhà cửa; 2) Khấu hao TTB (bao gồm TTB y tế và phi y tế).
Chi phí lao động bao gồm tiền lương, các khoản phụ cấp, phí BHYT, phí
BHXH và những khoản tiền thưởng. Chi phí vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường
xuyên khác bao gồm điện, nước, nhiên liệu, vật tư văn phòng, viễn thông, vận
chuyển vật liệu, bảo dưỡng nhỏ và sửa chữa tài sản cố định, du lịch, v.v... Chúng tôi
ước tính chi phí đơn vị của dịch vụ KCB ngoại trú bao gồm bảy thành phần (5 thành
phần chi phí thường xuyên và 2 thành phần chi phí đầu tư), năm thành phần chi phí
75
thường xuyên và ba thành phần chi phí được BHYT chi trả theo phương thức dịch
vụ (thuốc; VTYTTH; vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên khác) [9].
2.9. QUY TRÌNH THU THẬP SỐ LIỆU
2.9.1. Nghiên cứu mô tả
Công cụ thu thập số liệu bao gồm: (i) Bảng thống kê chi phí KCB BHYT tại
6 TYT xã nghiên cứu năm 2011 và năm 2012 (biểu mẫu số 01); (ii) Bảng thu thập
một số số liệu năm 2011 và năm 2012 tại 6 xã nghiên cứu (biểu mẫu số 02); (iii)
Danh sách người bệnh 6 xã nghiên cứu KCB BHYT tại TTYT huyện năm 2011 và
năm 2012 (biểu mẫu số 03); và (iv) Báo cáo tình hình quản lý và sử dụng quỹ định
suất tại 3 TYT xã thuộc huyện Đăk Tô năm 2012 (biểu mẫu số 06).
Các số liệu này được thu thập tại 6 TYT và 2 TTYT của huyện Đăk Tô và
huyện Kon Rẫy. Các báo cáo, phiếu tổng hợp chi phí KCB BHYT tại các TYT xã
đều được lưu tại TTYT huyện. Do đó chỉ cần thu thập số liệu tại TTYT huyện là
đầy đủ, khi cần thiết có thể xác minh thêm tại các TYT xã. Khi thu thập các số liệu
về chi phí KCB BHYT và các số liệu có liên quan đến chi phí KCB BHYT thì
những số liệu này đều đã được cơ quan BHXH huyện giám định.
2.9.2. Nghiên cứu kê đơn thuốc hợp lý
NCS cùng 3 bác sĩ (Trưởng khoa Nhi, Trưởng khoa và Phó Trưởng khoa Nội
tim mạch - Lão khoa Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum) là người đánh giá các đơn
thuốc đã được lựa chọn. Kết quả khảo sát từng đơn thuốc được ghi riêng vào Phiếu
khảo sát kê đơn thuốc hợp lý (mẫu số 04). Tiêu chuẩn để đánh giá đơn thuốc dựa
vào Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú [8] và Hướng dẫn chẩn đoán và
xử trí các cấp cứu thông thường ở tuyến y tế xã [12] do Bộ Y tế ban hành. Quy trình
này được lặp đi lặp lại cho đến khi đủ số lượng mẫu của từng TYT.
Trước khi nhập thông tin của Phiếu khảo sát vào phần mềm quản lý nhập
liệu (Epidata 3.1), NCS ghi mã số phiếu từ 001 đến hết số lượng mẫu cho mỗi loại
phiếu điều tra ở thời điểm trước can thiệp hay sau can thiệp.
2.9.3. Nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh
NCS đến từng hộ gia đình theo danh sách người dự kiến được phỏng vấn đã
được lập. Khi gặp người được phỏng vấn, NCS giới thiệu về mục đích của cuộc
phỏng vấn, đồng thời đề nghị người được phỏng vấn hợp tác tham gia và hướng dẫn
họ cách thức trả lời phỏng vấn. Chỉ những người đồng ý tham gia nghiên cứu mới
76
tiến hành phỏng vấn. NCS đặt câu hỏi theo Phiếu phỏng vấn sự hài lòng của người
bệnh (mẫu số 05) và ghi kết quả trả lời vào Phiếu phỏng vấn này. Quy trình này
được lặp đi lặp lại cho đến khi đủ số lượng mẫu cho từng xã.
Trước khi nhập thông tin của Phiếu phỏng vấn vào phần mềm quản lý nhập
liệu (Epidata 3.1), NCS ghi mã số phiếu từ 001 đến hết số lượng mẫu của từng xã.
2.9.4. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm
NCS là người trực tiếp hướng dẫn PVS và TLN. Bộ công cụ hướng dẫn PVS
và TLN là từ mẫu số 07 đến mẫu số 12.
NCS liên hệ với những người được chọn tham gia PVS, TLN để thống nhất
nội dung trao đổi, thời gian và địa điểm tiến hành PVS, TLN. Chỉ những người
đồng ý tham gia vào nghiên cứu mới tiến hành PVS hoặc mời tham gia TLN. Địa
điểm PVS là tại các cơ quan nơi người được phỏng vấn công tác. Địa điểm TLN
cán bộ có liên quan tại tuyến tỉnh là Sở Y tế, cán bộ có liên quan tại huyện Đăk Tô
là TTYT huyện và nhân viên TYT xã là TYT các xã. Tất cả các cuộc PVS và TLN
đều được ghi âm.
2.9.5. Nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
Sử dụng một biểu mẫu thu thập số liệu tại TYT xã hoặc nhập trực tiếp vào
bảng tính toán để thu thập số liệu về chi phí đầy đủ cho dịch vụ KCB tại TYT xã.
Các nội dung điều tra bao gồm: Thông tin chung, các DVYT, các khoản thu, nhân
lực, thuốc, các khoản chi thường xuyên, nhà cửa, TTB y tế và phi y tế. Các nội dung
điều tra này được thu thập số liệu tại TTYT huyện và tại từng TYT xã.
NCS làm việc trực tiếp với các nhân viên phòng Tài chính - Kế toán của 2
TTYT huyện và NVYT của 6 TYT xã nghiên cứu để thu thập số liệu từ các báo cáo
hoạt động và báo cáo tài chính, sổ sách, hóa đơn, chứng từ kế toán năm 2012 được
lưu giữ tại các đơn vị này.
Hướng dẫn thu thập số liệu tính toán chi phí KCB tại TYT xã được trình bày
chi tiết tại phụ lục 9.
2.10. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ, XỬ LÝ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
- Đối với nghiên cứu mô tả và nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB
tại TYT xã, số liệu sau khi thu thập được làm sạch và nhập vào máy vi tính bằng
phần mềm Microsoft Office Excel 2007. Các công thức và thuật toán của Microsoft
Excel 2007 cũng được sử dụng trong tính toán. Đối với nghiên cứu kê đơn thuốc
77
hợp lý và nghiên cứu sự hài lòng của người bệnh, toàn bộ các thông tin được mã
hóa, làm sạch trước khi nhập bằng chương trình Epidata 3.1, sau đó sử dụng phần
mềm Stata 10.0 để phân tích.
- Tất cả các chi phí KCB BHYT năm 2011 đều được điều chỉnh về giá trị
năm 2012 theo chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố tại Website:
http://www.gso.gov.vn.
- Một số công thức tính dùng trong nghiên cứu
+ Công thức tính chi phí BQ/lượt khám:
∑ xi
X =
n1
Trong đó:
X : Là chi phí BQ/lượt khám.
xi: Số tiền chi cho lượt KCB thứ i (i = 1, 2, 3...).
n1: Số lượt KCB tại TYT xã trong năm.
+ Công thức tính chi phí BQ/thẻ/năm:
∑ yi
Y =
n2
Trong đó:
Y : Là chi phí BQ/thẻ/năm.
yi: Số tiền chi cho lượt KCB thứ i (i = 1, 2, 3...).
n2: Số thẻ đăng ký KCB ban đầu tại TYT trong năm.
+ Công thức tính tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011:
(Chỉ số 2012 - Chỉ số 2011) x 100
Tỷ lệ gia tăng (%) =
Chỉ số 2011
- Sử dụng phần mềm Stata 10.0 để kiểm định sự khác biệt giữa các giá trị của
hai năm 2011 và 2012 bằng các trắc nghiệm thống kê sau: Wilcoxon signed-rank
test đối với số liệu định lượng phân bố không chuẩn, Z test đối với 2 tỷ lệ. Để so
sánh, tìm sự khác biệt cho biến định tính của trên 1 nhóm, áp dụng test khi bình
phương (2) khi tần số mong đợi của các ô đều lớn hơn hoặc bằng 5 hoặc fisher’s
78
exact test khi tần số mong đợi của một ô nào đó nhỏ hơn 5. Áp dụng test phi tham
số (Mann-Whitney test) để so sánh, tìm sự khác biệt cho biến định lượng của 2
nhóm độc lập (can thiệp, đối chứng). Mức ý nghĩa thống kê p<0,05 được áp dụng.
- Xây dựng mô hình hồi quy logistic đa biến để phân tích mối liên quan giữa
sự hài lòng của người bệnh được KCB tại các TYT xã năm 2012 của 2 nhóm với
một số yếu tố liên quan, bao gồm: Xã, giới tính, nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ
học vấn, thời gian chờ đợi, người khám bệnh và cấp thuốc theo đơn.
- Thông tin định tính dưới dạng ghi chép trong phiếu phỏng vấn, biên bản
TLN và băng ghi âm của các cuộc PVS, TLN được gỡ để phân tích thông tin. Các
thông tin này được phân thành các nhóm chủ đề để dễ dàng phân tích. Kết quả được
trình bày dưới dạng văn bản có trích dẫn trực tiếp ý kiến, quan điểm của những
người được phỏng vấn để minh hoạ.
2.11. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu này đã được sự đồng ý của Sở Y tế tỉnh Kon Tum và đã được
Hội đồng đánh giá đề cương chi tiết Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương thông qua
vấn đề đạo đức trong nghiên cứu.
- NCS trực tiếp giới thiệu về nghiên cứu với Giám đốc TTYT các huyện Đăk
Tô, Kon Rẫy và 6 Trưởng TYT xã nghiên cứu và đã có Giấy đồng ý tham gia
nghiên cứu của những người này. NCS trực tiếp giới thiệu về nghiên cứu cho các
NVYT có liên quan của 2 TTYT huyện và 6 TYT xã nghiên cứu để họ hợp tác chặt
chẽ trong việc cung cấp số liệu.
- Trước khi phỏng vấn hoặc TLN, NCS trực tiếp giới thiệu về nghiên cứu
cho người được mời phỏng vấn hoặc tham gia TLN hiểu rõ và chỉ tiến hành phỏng
vấn hoặc TLN đối với những người đồng ý tham gia vào nghiên cứu thể hiện bằng
việc người đó ký vào Giấy đồng ý tham gia trả lời phỏng vấn nghiên cứu hoặc Giấy
đồng ý tham gia TLN nghiên cứu. Trong khi phỏng vấn hoặc TLN, nếu người được
phỏng vấn hoặc tham gia TLN thấy có những câu hỏi khó trả lời, không muốn trả
lời hoặc không muốn thảo luận thì họ có quyền từ chối trả lời hoặc không tham gia
ý kiến. Để đảm bảo tính riêng tư, toàn bộ thông tin do người được phỏng vấn hoặc
tham gia TLN cung cấp sẽ được tổng hợp cùng với thông tin thu được từ những
người khác, mã hoá và không gắn với tên người trả lời phỏng vấn hoặc tham gia
TLN, nên sẽ không ai khác biết được họ đã trả lời hoặc thảo luận cụ thể những gì.
- Các số liệu phải được NCS thu thập đầy đủ, trung thực, chính xác và chỉ sử
dụng vào mục đích nghiên cứu.
79
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về các xã nghiên cứu
Tỷ lệ người dân tham gia BHYT năm 2012 đạt 100% hoặc gần 100% ở các
xã Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm, Đăk Pne, Đăk Kôi, riêng xã Đăk Tre tỷ lệ này
là 86%. Đối tượng tham gia BHYT chủ yếu là người thuộc hộ gia đình nghèo,
người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc
biệt khó khăn (nhóm 3) và trẻ em dưới 6 tuổi (nhóm 4). 100% thẻ BHYT đều được
đăng ký KCB ban đầu tại TYT xã. Tất cả 6 xã đều chưa đạt Bộ tiêu chí quốc gia về
y tế xã giai đoạn 2011-2020. Nhân lực mỗi TYT xã đều có 7 nhân viên và đều có
đầy đủ các chức danh bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, dược sĩ hoặc dược tá.
3.2. Thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch vụ tại
một số TYT xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012
Bảng 3.1: Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%)
p Trắc nghiệm
thống kê
Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã
8.408 10.761 28,0 -
Số lượt khám bệnh BQ 0,9 1,1 22,0 0,3173 Wilcoxon signed-rank
test Tần suất khám/thẻ/năm 1,0 1,2 25,9 0,3173
Số lượt chuyển tuyến 475 527 10,9 -
Tỷ lệ % chuyển tuyến 5,6 4,9 -13,3 0,0152 Z test
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện
891 909 2,0 -
- Trong đó
+ Có GGT 475 527 10,9 -
Tỷ lệ % 53,3 58,0 8,8 0,0224 Z test
+ Không có GGT 416 382 -8,2 -
Tỷ lệ % 46,7 42,0 -10,0 0,0224 Z test
80
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%)
p Trắc nghiệm
thống kê
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã
10,6 8,4 -20,3 <0,0001 Z test
* Ngoại trú 567 575 1,4 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
63,6 63,3 -0,6 0,4474 Z test
* Nội trú 324 334 3,1 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
36,4 36,7 1,0 0,4474 Z test
Bảng 3.1 cho thấy tổng số lượt khám bệnh tại 3 TYT xã năm 2012 tăng
28,0% so với năm 2011. Số lượt khám bệnh BQ năm 2011 là 0,9 lượt và năm 2012
là 1,1 lượt; tần suất khám/thẻ/năm năm 2011 là 1,0 lượt và năm 2012 là 1,2 lượt;
tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê. Số lượt chuyển tuyến
năm 2012 tăng 10,9% so với năm 2011, tuy nhiên tỷ lệ chuyển tuyến lại giảm
13,3% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ người bệnh được
KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu trong năm 2012 là 58,0%, tăng 8,8% so với
năm 2011 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ lượt KCB tại
TTYT huyện so với tổng số khám tại TYT xã năm 2012 giảm 20,3% so với năm
2011 và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ lượt KCB ngoại trú có
xu hướng giảm và tỷ lệ lượt KCB nội trú có xu hướng tăng tại TTYT huyện, tuy
nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.2: Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%) p
Trắc nghiệm thống kê
Tổng chi phí KCB BHYT
680.714 871.511 28,0 -
- Tiền công khám 7.178 8.609 19,9 -
Tỷ lệ % tiền công khám
1,1 1,0 -6,3 0,2495 Z test
81
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%) p
Trắc nghiệm thống kê
- Tiền thuốc 667.066 842.062 26,2 -
Tỷ lệ % tiền thuốc 98,0 96,6 -1,4 <0,0001 Z test
- Tiền VTYTTH 500 13.386 2.575,7 -
Tỷ lệ % tiền VTYTTH
0,1 1,5 1.989,9 <0,0001 Z test
- Tiền DVKT 5.970 7.454 24,9 -
Tỷ lệ % tiền DVKT 0,9 0,9 -2,5 1,0000 Z test
Chi phí/lượt khám
Wilcoxon signed-rank test
- BQ 81,0 81,0 0 -
- Cao nhất 368,9 310,6 -15,8
- Thấp nhất 0,9 1,1 22,2
- Trung vị 72,9 73,6 1,0 0,3173
Chi BQ/thẻ/năm 78,1 98,3 25,9 0,3173
Bảng 3.2 cho thấy tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT năm 2012 tăng 28,0%
so với năm 2011, trong đó tiền công khám tăng 19,9%, tiền thuốc tăng 26,2%, tiền
DVKT tăng 24,9% và tăng nhiều nhất là tiền VTYTTH (2.575,7%). Tỷ lệ tiền công
khám, tiền thuốc, tiền DVKT năm 2012 giảm so với năm 2011, trong đó tỷ lệ tiền
thuốc giảm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ tiền VTYTTH năm 2012 tăng
nhiều so với năm 2011 và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Chi BQ/lượt
khám năm 2011 và năm 2012 đều bằng 81,0 ngàn đồng. Chi BQ/thẻ năm 2012 tăng
25,9% so với năm 2011, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Chi phí cao
nhất/lượt khám (max) năm 2011 là 368,9 ngàn đồng, năm 2012 là 310,6 ngàn đồng;
chi phí thấp nhất/lượt khám (min) năm 2011 là 0,9 ngàn đồng, năm 2012 là 1,1
ngàn đồng; trung vị (median) chi phí/lượt khám năm 2011 là 72,9 ngàn đồng, năm
2012 là 73,6 ngàn đồng; tuy nhiên sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê.
82
Bảng 3.3: Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT huyện Kon Rẫy
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%)
p
(Wilcoxon signed-rank test)
BQ trên lượt khám
81,0 81,0 0 -
Nhóm 1 66,4 84,1 26,7 0,3173
Nhóm 2 69,6 74,4 6,9 0,3173
Nhóm 3 84,3 85,7 1,6 0,3173
Nhóm 4 72,2 66,0 -8,6 0,3173
Nhóm 5 69,4 90,1 29,8 0,3173
Nhóm 6 62,5 69,8 11,6 0,3173
BQ trên thẻ 78,1 98,3 25,9 0,3173
Nhóm 1 2.013,4 114,7 -94,3 0,3173
Nhóm 2 241,3 139,7 -42,1 0,3173
Nhóm 3 77,2 102,4 32,7 0,3173
Nhóm 4 68,6 81,9 19,5 0,3173
Nhóm 5 104,1 64,3 -38,2 0,3173
Nhóm 6 160,8 246,4 53,2 0,3173
Bảng 3.3 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 tăng ở tất cả
các nhóm đối tượng, trừ nhóm 4 giảm 8,6% so với năm 2011, trong đó tăng cao
nhất là nhóm 5 (29,8%) và nhóm 1 (26,7%), sau đó đến nhóm 6 (11,6%), nhóm 2
(6,9%) và nhóm 3 (1,6%); tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 tăng ở các nhóm 6 (53,2%), nhóm 3 (32,7%),
nhóm 4 (19,5%) và giảm ở nhóm 1 (94,3%), nhóm 2 (42,1%) và nhóm 5 (38,2%);
tuy nhiên sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê.
83
Bảng 3.4: Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT huyện Kon Rẫy
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%) p
(Wilcoxon signed-rank test)
BQ trên lượt khám 81,0 81,0 0 -
Nam 79,5 80,2 0,9 0,3173
Nữ 82,3 81,7 -0,8 0,3173
BQ trên thẻ 78,1 98,3 25,9 0,3173
Nam 66,6 83,7 25,7 0,3173
Nữ 91,7 115,1 25,4 0,3173
Bảng 3.4 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 tăng 0,9% ở
nam và giảm 0,8% ở nữ so với năm 2011, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 tăng 25,7% ở nam và tăng 25,4% ở nữ so với
năm 2011, tuy nhiên sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.5: Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT huyện Kon Rẫy
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%) p
(Wilcoxon signed-rank test)
BQ trên lượt khám 81,0 81,0 0 -
≤ 5 70,9 66,4 -6,5 0,3173
6-14 76,8 69,1 -10,1 0,3173
15-24 79,0 80,7 2,2 0,3173
25-48 85,9 90,3 5,1 0,3173
49-60 92,0 99,3 8,0 0,3173
> 60 89,8 93,8 4,5 0,3173
BQ trên thẻ 78,1 98,3 25,9 0,3173
≤ 5 69,6 82,2 18,1 0,3173
6-14 55,0 65,4 18,9 0,3173
15-24 48,8 65,6 34,4 0,3173
25-48 103,3 128,3 24,2 0,3173
49-60 180,4 265,6 47,2 0,3173
> 60 153,2 194,3 26,8 0,3173
84
Bảng 3.5 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 giảm ở nhóm
tuổi ≤ 5 tuổi và nhóm tuổi từ 6-14 tuổi, các nhóm tuổi còn lại đều tăng so với năm
2011, tất cả sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê. Chi phí KCB BQ trên
thẻ năm 2012 đều tăng ở tất cả các nhóm tuổi so với năm 2011 và các sự khác biệt
này đều không có ý nghĩa thống kê.
3.3. Hiệu quả của phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất
tại một số TYT xã thuộc huyện Đăk Tô
3.3.1. Kê đơn thuốc hợp lý
Bảng 3.6: Tình hình kê đơn thuốc tại các TYT xã 2 huyện trước can thiệp
Nội dung
3 TYT xã can thiệp (2011)
3 TYT xã đối chứng (2011) p
SL % SL %
Đường dùng thuốc KS
- Uống 450 100 446 99,1 0,124 (Fisher’s exact test) - Tiêm + Uống 0 0 4 0,9
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 450 100 424 94,2 <0,001 (Fisher’s exact test) - Nước ngoài 0 0 26 5,8
Tên thuốc KS
- Tên gốc 200 44,4 374 83,1 <0,001 (Fisher’s
exact test) - Biệt dựợc 232 51,6 74 16,4
- Tên gốc+Biệt dựợc 18 4,0 2 0,5
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày 3 0,7 4 0,9 1,000 (Fisher’s exact test) - ≥ 5 ngày 447 99,3 446 99,1
Đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán
374 83,1 353 78,4 0,076 (2)
Bảng 3.6 cho thấy ở thời điểm trước can thiệp (2011), đường dùng thuốc KS
và số ngày dùng thuốc KS tại các TYT xã 2 huyện có sự khác biệt không đáng kể
(không có ý nghĩa thống kê); tuy nhiên về nguồn gốc thuốc KS và tên thuốc KS có
85
sự khác biệt đáng kể có nghĩa thống kê với p<0,05. Các TYT xã can thiệp sử dụng
100% KS trong nước, trong khi đó các TYT xã đối chứng sử dụng 94,2% KS trong
nước và 5,8% KS nước ngoài. Tên thuốc KS kê theo tên gốc, biệt dược và tên gốc +
biệt dược của các TYT xã can thiệp theo thứ tự tương ứng với các tỷ lệ là 44,4%,
51,6% và 4,0%; trong khi đó các tỷ lệ này của các TYT xã đối chứng là 83,1%,
16,4% và 0,5%. Tỷ lệ đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán của 3 TYT xã
can thiệp là 83,1%, trong khi đó tỷ lệ này của 3 TYT xã đối chứng là 78,4% và sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.7: Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp
trước (2011) và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất (2012)
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%) p
SL % SL %
Đường dùng thuốc KS
- Uống 450 100 450 100 0 -
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 450 100 450 100 0 -
Tên thuốc KS
- Tên gốc 200 44,4 441 92,0 120,5
<0,001 (2)
- Biệt dựợc 232 51,6 24 5,3 -89,7
- Tên gốc+Biệt dựợc 18 4,0 12 2,7 -33,3
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày 3 0,7 1 0,2 -66,7 0,624 (Fisher’s
exact test) - ≥ 5 ngày 447 99,3 449 99,8 0,4
Bảng 3.7 cho thấy tất cả thuốc KS đều được kê đơn dưới dạng thuốc uống và
đều là KS trong nước. Tên thuốc KS năm 2012 kê theo tên gốc chiếm tỷ lệ 92,0%,
tăng 120,5%; kê theo biệt dược giảm 89,7% và kê vừa tên gốc vừa biệt dược giảm
33,3% so với năm 2011; các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tỷ lệ đơn thuốc có số ngày dùng KS ≥ 5 ngày năm 2011 là 99,3% và năm 2012 là
99,8%, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
86
Bảng 3.8: Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%) p
SL % SL %
Đường dùng thuốc KS
- Tiêm 0 0 2 0,4 - 0,561
(Fisher’s exact test)
- Uống 446 99,1 445 98,9 -0,2
- Tiêm + Uống 4 0,9 3 0,7 -25,0
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 424 94,2 455 98,9 7,3 <0,001
(Fisher’s exact test)
- Nước ngoài 26 5,8 3 0,7 -88,5
- Trong nước + Nước ngoài
0 0 2 0,4 -
Tên thuốc KS
- Tên gốc 374 83,1 389 86,5 4,0 0,079
(Fisher’s exact test)
- Biệt dựợc 74 16,4 55 12,2 -25,7
- Tên gốc+Biệt dựợc 2 0,5 6 1,3 200,0
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày 4 0,9 6 1,3 50,0 0,525 (2) - ≥ 5 ngày 446 99,1 444 98,7 -0,4
Bảng 3.8 cho thấy tỷ lệ đơn thuốc kê KS đường uống chiếm 99,1% trong
năm 2011 và chiếm 98,9% trong năm 2012, số còn lại là sử dụng KS tiêm hoặc vừa
tiêm vừa uống, tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê. Đơn
thuốc sử dụng KS trong nước năm 2012 tăng 7,3% và sử dụng KS nước ngoài giảm
88,5% so với năm 2011; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tên
thuốc KS năm 2012 kê theo tên gốc chiếm tỷ lệ 86,5%, tăng 4,0%; kê theo biệt
dược giảm 25,7%, nhưng kê vừa tên gốc vừa biệt dược lại tăng 200,0% so với năm
2011; tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ đơn
thuốc có số ngày dùng KS ≥ 5 ngày năm 2012 là 98,7%, giảm 0,4% so với năm
2011, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
87
Bảng 3.9: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của một số chỉ số về kê đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can
thiệp (%) 3 TYT xã đối
chứng (%)
p
(Z test)
Đường dùng thuốc KS
- Tiêm 0 - -
- Uống 0 -0,2 -
- Tiêm + Uống 0 -25,0 -
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 0 7,3 <0,0001
- Nước ngoài 0 -88,5 -
- Trong nước + Nước ngoài
0 - -
Tên thuốc KS
- Tên gốc 120,5 4,0 <0,0001
- Biệt dựợc -89,7 -25,7 -
- Tên gốc+Biệt dựợc -33,3 200,0 <0,0001
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày -66,7 50,0 <0,0001
- ≥ 5 ngày 0,4 -0,4 0,0896
Bảng 3.9 cho thấy tỷ lệ gia tăng đường dùng thuốc KS không có sự khác
biệt giữa các TYT xã thuộc hai nhóm. Tỷ lệ gia tăng đơn thuốc sử dụng KS
trong nước, tên thuốc kê theo tên gốc và kê vừa tên gốc vừa biệt dược, đơn
thuốc có số ngày dùng KS ≤ 4 ngày có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nhóm với p<0,05. Tỷ lệ đơn thuốc sử dụng KS trong nước năm 2012 và tỷ lệ gia
tăng tên thuốc kê theo tên gốc của nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng;
ngược lại tỷ lệ gia tăng tên thuốc kê vừa tên gốc vừa biệt dược và đơn thuốc có
số ngày dùng KS ≤ 4 ngày của nhóm đối chứng cao hơn nhóm can thiệp.
88
Bảng 3.10: Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Nội dung
2011 2012 Gia tăng
(%) p
SL % SL %
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn
3,9 4,0 2,6 0,0044 (Mann-Whitney test)
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn
5,0 5,0 0 0,3149 (Mann-Whit ney test)
Đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán
374 83,1 426 94,7 11,6 <0,001 (2)
Bảng 3.10 cho thấy số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn năm 2012 là 4,0 loại, tăng
2,6% so với năm 2011, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Số ngày
dùng thuốc KS BQ/đơn của cả 2 năm đều là 5,0 ngày. Tỷ lệ đơn thuốc kê thuốc KS
phù hợp với chẩn đoán năm 2012 là 94,7%, tăng 11,6% so với năm 2011 và sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.11: Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng
Nội dung
2011 2012 Gia tăng
(%) p
SL % SL %
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn 3,9 4,1 5,1 0,0255 (Mann-Whitney test)
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn
5,0 5,0 0 0,1080 (Mann-Whitney test)
Đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán
353 78,4 348 77,3 -1,4 0,688 (2)
Bảng 3.11 cho thấy số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn năm 2012 là 4,1 loại, tăng
5,1% so với năm 2011, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Số ngày
dùng thuốc KS BQ/đơn của cả 2 năm đều là 5,0 ngày. Tỷ lệ đơn thuốc kê thuốc KS
phù hợp với chẩn đoán năm 2012 là 77,3%, giảm 1,4% so với năm 2011 và sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê.
89
Bảng 3.12: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can
thiệp (%) 3 TYT xã đối
chứng (%)
p
(Z test)
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn 2,6 5,1 0,0256
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn 0 0 -
Đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán
11,6 -1,4 <0,0001
Bảng 3.12 cho thấy tỷ lệ gia tăng số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn và đơn thuốc
có thuốc KS kê phù hợp với chẩn đoán có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nhóm với p<0,05. Tỷ lệ gia tăng số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn của nhóm can thiệp
ít hơn nhóm đối chứng và tỷ lệ gia tăng đơn thuốc có thuốc KS kê phù hợp với chẩn
đoán của nhóm can thiệp nhiều hơn nhóm đối chứng.
3.3.2. Sự hài lòng của người bệnh
Bảng 3.13: Thông tin chung về đối tượng được phỏng vấn
Nội dung 3 xã can thiệp 3 xã đối chứng
p n=317 100% n=319 100%
Giới tính
- Nam 120 37,8 146 45,8 0,043 (2)
- Nữ 197 62,2 173 54,2
Nghề nghiệp
- Nghề nông 304 95,9 302 94,7 0,186
(Fisher’s exact test)
- Lao động tự do 6 1,9 3 0,9
- Cán bộ nhà nước/doanh nghiệp/hưu trí
7 2,2 14 4,4
Trình độ học vấn
- Biết đọc, biết viết 171 53,9 172 53,9 0,854
90
Nội dung 3 xã can thiệp 3 xã đối chứng
p n=317 100% n=319 100%
- Tiểu học 75 23,7 77 24,1 (Fisher’s exact test)
- Trung học cơ sở 48 15,1 51 16,0
- Trung học phổ thông 19 6,0 14 4,4
- Trung học chuyên nghiệp
3 1,0 5 1,6
- Cao đẳng trở lên 1 0,3 0 0
Bảng 3.13 cho thấy tỷ lệ người được phỏng vấn là nam chiếm 37,8%, nữ
chiếm 62,2% ở 3 xã can thiệp; còn ở 3 xã đối chứng, nam chiếm 45,8% và nữ
chiếm 54,2%; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nghề nghiệp
của những người được phỏng vấn chủ yếu là nghề nông và trình độ học vấn là
biết đọc, biết viết. Sự khác biệt về nghề nghiệp và trình độ học vấn giữa hai
nhóm xã không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.14: Lý do chọn TYT để khám bệnh, thời gian chờ đợi và người khám
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng p
SL % SL %
Lý do chọn TYT để khám bệnh
- Có BHYT, KCB không mất tiền
229 72,2 234 73,4 0,752 (2)
- Thuận tiện, gần nhà 162 51,1 184 57,7 0,096 (2)
- Được đăng ký KCB ở TYT
2 0,6 4 1,3 0,686 (Fisher’s
exact test)
- Tin tưởng thầy thuốc 8 2,5 4 1,3 0,239 (2)
- NVYT thân thiện hoặc quen biết
1 0,3 5 1,6 0,217 (Fisher’s
exact test)
- Được cấp thuốc đầy đủ 1 0,3 0 0 0,498 (Fisher’s
exact test)
91
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng p
SL % SL %
Thời gian chờ đợi
- Dưới 15 phút 286 90,2 292 91,5
0,773 (Fisher’s exact test)
- 15 - <30 phút 27 8,5 21 6,6
- 30 - 60 phút 3 1,0 5 1,6
- Trên 60 phút 1 0,3 1 0,3
Người khám bệnh
- Bác sĩ/Y sĩ 248 78,2 128 40,1
<0,001 (2) - Y tá, Điều dưỡng, Hộ
sinh 62 19,6 126 39,5
- Không biết 7 2,2 65 20,4
Bảng 3.14 cho thấy lý do chọn TYT để khám bệnh ở cả hai nhóm chủ yếu là
do có BHYT, KCB không mất tiền và thuận tiện, gần nhà; sự khác biệt giữa hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê. Thời gian chờ đợi để được khám bệnh ở cả hai
nhóm chủ yếu là dưới 15 phút và sự khác biệt giữa hai nhóm cũng không có ý nghĩa
thống kê. Người khám bệnh là Bác sĩ/Y sĩ ở nhóm can thiệp chiếm tỷ lệ 78,2%,
trong khi đó ở nhóm đối chứng chỉ có 40,1%; người khám bệnh là Y tá, Điều
dưỡng, Hộ sinh ở nhóm can thiệp chiếm tỷ lệ 19,6%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm
đối chứng là 39,5%; đặc biệt là tỷ lệ người được phỏng vấn ở nhóm đối chứng trả
lời không biết người khám bệnh là ai chiếm 20,4%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm can
thiệp chỉ 2,2%; các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.15: Tình hình hướng dẫn sử dụng thuốc,
cấp thuốc, trả thêm tiền và kết quả điều trị
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng
p n = 317
100 %
n = 319
100 %
Hướng dẫn sử dụng thuốc
- Đầy đủ, dễ hiểu 311 98,1 277 86,8 <0,001 (2)
92
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng
p n = 317
100 %
n = 319
100 %
- Không đầy đủ, khó hiểu
6 1,9 42 13,2
Cấp thuốc theo đơn
- Đúng, đủ như trong đơn
300 94,6 279 87,5 0,002 (2)
- Không biết 17 5,4 40 12,5
Trả thêm tiền
- Có 0 0 2 0,6 0,499 (Fisher’s exact test) - Không 317 100 317 99,4
Kết quả điều trị
- Khỏi bệnh 266 83,9 130 40,7
<0,001 (2) - Đỡ, ổn định 42 13,3 169 53,0
- Không khỏi 9 2,8 20 6,3
Bảng 3.15 cho thấy tỷ lệ người được phỏng vấn trả lời được hướng dẫn sử
dụng thuốc đầy đủ, dễ hiểu ở nhóm can thiệp là 98,1%, trong khi đó tỷ lệ này ở
nhóm đối chứng là 86,8%; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ
người trả lời được cấp thuốc đúng, đủ như trong đơn ở nhóm can thiệp là 94,6%,
trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm đối chứng là 87,5% và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p<0,05. Có 2 người ở nhóm đối chứng trả lời là phải trả thêm tiền khi
đi khám chữa bệnh, trong khi đó ở nhóm can thiệp không có trường hợp nào, tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ người trả lời kết quả điều
trị khỏi bệnh ở nhóm can thiệp là 83,9%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm đối chứng là
40,7%; tỷ lệ đỡ, ổn định ở nhóm can thiệp là 13,3%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm
đối chứng là 53,0%; tỷ lệ điều trị không khỏi ở nhóm can thiệp là 2,8%, trong khi
đó tỷ lệ này ở nhóm đối chứng là 6,3%; các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống
kê với p<0,05.
93
Bảng 3.16: Thái độ của NVYT, thủ tục KCB, sự hài lòng, nguyên nhân, quay
lại lần sau khi có bệnh và nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng p
SL % SL %
Thái độ của NVYT
- Thân thiện, cởi mở 285 89,9 161 50,5 <0,001 (2)
- Bình thường 32 10,1 147 46,1 <0,001 (2)
- Lạnh lùng, thiếu tôn trọng
0 0 41 12,9 <0,001 (2)
Thủ tục KCB tại TYT
- Gọn nhẹ, đơn giản 317 100 317 99,4
1,000 (Fisher’s exact test)
- Rườm rà, phức tạp 0 0 1 0,3
- Chỉ dẫn không rõ ràng, khó hiểu
0 0 1 0,3
Sự hài lòng
- Hài lòng 296 93,4 249 78,1 <0,001 (2)
- Chưa hài lòng 21 6,6 70 21,9
Nguyên nhân chưa hài lòng
- Thuốc chữa không khỏi bệnh
9 2,8 20 6,3 0,038 (2)
- TYT không cấp thuốc theo đơn
17 5,4 40 12,5 0,002 (2)
- Thái độ NVYT không tôn trọng
0 0 41 12,9 <0,001 (2)
- Chờ đợi để được khám quá lâu
1 0,3 1 0,3 1,000 (Fisher’s
exact test)
- Khác 6 1,9 44 13,8 <0,001 (2)
94
Nội dung
3 xã can thiệp
3 xã đối chứng p
SL % SL %
Quay lại TYT để KCB
- Có quay lại 314 99,1 314 98,4 0,725 (Fisher’s exact test) - Không quay lại 3 0,9 5 1,6
Nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB
- Tại TYT xã 300 94,6 284 89,0
0,013 (2) - Tại bệnh viện huyện 12 3,8 17 5,3
- Tại thầy thuốc tư nhân gần nhà
5 1,6 18 5,7
Bảng 3.16 cho thấy tỷ lệ người được phỏng vấn trả lời về thái độ của NVYT
thân thiện, cởi mở ở nhóm can thiệp là 89,9%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm đối
chứng là 50,5%; thái độ bình thường ở nhóm can thiệp là 10,1%, trong khi đó tỷ lệ
này ở nhóm đối chứng là 46,1%; thái độ lạnh lùng, thiếu tôn trọng không gặp ở
nhóm can thiệp, nhưng ở nhóm đối chứng là 12,9%; các sự khác biệt này đều có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Thủ tục KCB tại TYT đều được trả lời là gọn nhẹ, đơn
giản ở cả hai nhóm, trừ 2 trường hợp ở nhóm đối chứng và sự khác biệt giữa hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ người trả lời hài lòng với dịch vụ KCB ở
nhóm can thiệp là 93,4%, trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm đối chứng là 78,1% và sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nguyên nhân chưa hài lòng có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa hai nhóm là thuốc chữa không khỏi
bệnh, TYT không cấp thuốc theo đơn, thái độ NVYT không tôn trọng và các
nguyên nhân khác. Hầu hết người được phỏng vấn đều trả lời là sẽ quay lại TYT để
KCB, chỉ có 3 trường hợp ở nhóm can thiệp và 5 trường hợp ở nhóm đối chứng trả
lời không quay lại, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ trả
lời về nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB tại TYT xã, tại bệnh viện huyện và tại
thầy thuốc tư nhân gần nhà của người được phỏng vấn ở nhóm can thiệp lần lượt là
94,6%, 3,8% và 1,6%; trong khi đó ở nhóm đối chứng các tỷ lệ này lần lượt là
89,0%, 5,3% và 5,7%; các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
95
Bảng 3.17: Mô hình hồi quy logistic đa biến phân tích mối liên quan
giữa sự hài lòng của người bệnh với một số yếu tố liên quan
Biến phụ thuộc:
Sự hài lòng của người bệnh
Đặc điểm
OR 95%CI
Xã
- Đối chứng (nhóm so sánh) 1 -
- Can thiệp 2,3* 1,1 - 4,7
Giới tính
- Nam (nhóm so sánh) 1 -
- Nữ 1 0,6 - 1,9
Tuổi
- 18-24 (nhóm so sánh) 1 -
- 25-48 1,7 0,8 - 3,7
- 49-60 1,3 0,4 - 3,8
- > 60 1,3 0,3 - 5,9
Nghề nghiệp
- Nghề nông (nhóm so sánh) 1 -
- Nghề khác (lao động tự do, cán bộ nhà nước/doanh nghiệp/hưu trí)
0,7 0,2 - 3,7
Trình độ học vấn
- Biết đọc, biết viết (nhóm so sánh) 1 -
- Tiểu học 0,8 0,4 - 1,8
- Trung học cơ sở 1,5 0,6 - 3,7
- Trung học phổ thông 0,6 0,2 - 2,4
- Từ Trung học chuyên nghiệp trở lên 0,6 0 - 7,1
Thời gian chờ đợi
- Dưới 15 phút 75,5* 13,8 - 412,5
- 15 - <30 phút 51,1* 7,0 - 371,8
- Từ 30 phút trở lên (nhóm so sánh) 1 -
96
Biến phụ thuộc:
Sự hài lòng của người bệnh
Đặc điểm
OR 95%CI
Người khám bệnh
- Bác sĩ/Y sĩ 6,7* 2,8 - 15,6
- Y tá, Điều dưỡng, Hộ sinh 2,5* 1,2 - 5,5
- Không biết (nhóm so sánh) 1 -
Cấp thuốc theo đơn
- Đúng, đủ như trong đơn 44,9* 20,1 - 100,0
- Không biết (nhóm so sánh) 1 -
Ghi chú *: Có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.17 cho thấy, sau khi khống chế các yếu tố nhiễu (các biến độc lập
có trong mô hình là như nhau), người bệnh thuộc nhóm can thiệp có xác suất hài
lòng với dịch vụ KCB cao gấp 2,3 lần so với những người bệnh thuộc nhóm đối
chứng và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (OR = 2,3; 95%CI: 1,1 - 4,7).
Các biến số về giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn không thấy có ảnh
hưởng đáng kể đối với sự hài lòng của người bệnh và sự khác biệt đều không có ý
nghĩa thống kê (do 95%CI đều chứa 1). Thời gian chờ đợi của người bệnh càng
ngắn, xác suất hài lòng của họ càng cao. So với thời gian chờ đợi từ 30 phút trở
lên, người bệnh có thời gian chờ đợi dưới 15 phút có xác suất hài lòng cao gấp
75,5 lần và sự khác biệt này là có nghĩa thống kê (OR = 75,5; 95%CI: 13,8 -
412,5); người bệnh có thời gian chờ đợi từ 15 đến dưới 30 phút có xác suất hài
lòng cao gấp 51,1 lần và sự khác biệt này là có nghĩa thống kê (OR = 51,1;
95%CI: 7,0 - 371,8). Người khám bệnh là Bác sĩ/Y sĩ có xác suất hài lòng cao
nhất, so với người khám bệnh mà người bệnh không biết, người khám bệnh là Bác
sĩ/Y sĩ có xác suất hài lòng cao gấp 6,7 lần và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống
kê (OR = 6,7; 95%CI: 2,8 - 15,6), người khám bệnh là Y tá/Điều dưỡng/Hộ sinh
có xác suất hài lòng cao gấp 2,5 lần và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê
(OR = 2,5; 95%CI: 1,2 - 5,5). Người bệnh được cấp thuốc đúng, đủ như trong đơn
thuốc có xác suất hài lòng cao gấp 44,9 lần so với những người không biết và sự
khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (OR = 44,9; 95%CI: 20,1 - 100,0).
97
3.3.3. Một số chỉ số KCB BHYT
Bảng 3.18: Tình hình KCB BHYT tại các TYT xã trước can thiệp
Nội dung 3 TYT xã can thiệp
(2011)
3 TYT xã đối chứng
(2011) p
Trắc nghiệm thống kê
Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã
11.197 8.408 -
Số lượt khám bệnh BQ 1,3 0,9 0,3173 wilcoxon signed-rank
test Tần suất khám/thẻ/năm 1,2 1,0 0,3173
Số lượt chuyển tuyến 794 475 -
Tỷ lệ % chuyển tuyến 7,1 5,6 <0,0001 Z test
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện
1078 891 -
- Trong đó
+ Có GGT 794 475 -
Tỷ lệ % 73,7 53,3 <0,0001 Z test
+ Không có GGT 284 416 -
Tỷ lệ % 26,3 46,7 <0,0001 Z test
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã
9,6 10,6 0,0105 Z test
* Ngoại trú 482 567 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
44,7 63,6 <0,0001 Z test
* Nội trú 596 324 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
55,3 36,4 <0,0001 Z test
Bảng 3.18 cho thấy ở thời điểm trước can thiệp (2011), số lượt khám bệnh
BQ và tần suất khám/thẻ/năm của 3 TYT xã can thiệp (1,3 và 1,2 lượt) cao hơn 3
TYT xã đối chứng (0,9 và 1,0 lượt), tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý
nghĩa thống kê. Tỷ lệ chuyển tuyến, tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT huyện có
giấy giới thiệu, tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện so với tổng số khám tại TYT xã, tỷ
lệ lượt KCB ngoại trú so với số lượt KCB tại TTYT huyện và tỷ lệ lượt KCB nội trú
98
so với số lượt KCB tại TTYT huyện giữa các TYT xã thuộc hai nhóm đều có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ chuyển tuyến, tỷ lệ người bệnh
được KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu và tỷ lệ lượt KCB nội trú so với số
lượt KCB tại TTYT huyện của 3 TYT xã can thiệp (7,1%; 73,7% và 55,3%) cao
hơn 3 TYT xã đối chứng (5,6%; 53,3% và 36,4%); tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện
so với tổng số khám tại TYT xã và tỷ lệ lượt KCB ngoại trú so với số lượt KCB tại
TTYT huyện của 3 TYT xã can thiệp (9,6% và 44,7%) thấp hơn 3 TYT xã đối
chứng (10,6% và 63,6%).
Bảng 3.19: Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%)
p Trắc nghiệm
thống kê
Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã
11.197 13.817 23,4 -
Số lượt khám bệnh BQ 1,3 1,5 15,6 0,3173 wilcoxon signed-rank
test Tần suất khám/thẻ/năm 1,2 1,4 16,6 0,3173
Số lượt chuyển tuyến 794 650 -18,1 -
Tỷ lệ % chuyển tuyến 7,1 4,7 -33,7 <0,0001 Z test
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện
1078 833 -22,7 -
- Trong đó
+ Có GGT 794 650 -18,1 -
Tỷ lệ % 73,7 78,0 5,9 0,0150 Z test
+ Không có GGT 284 183 -35,6 -
Tỷ lệ % 26,3 22,0 -16,6 0,0150 Z test
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã
9,6 6,0 -37,4 <0,0001 Z test
* Ngoại trú 482 285 -40,9 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
44,7 34,2 -23,5 <0,0001 Z test
* Nội trú 596 548 -8,1 -
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện
55,3 65,8 19,0 <0,0001 Z test
99
Bảng 3.19 cho thấy tổng số lượt khám bệnh tại 3 TYT xã năm 2012 tăng
23,4% so với năm 2011. Số lượt khám bệnh BQ năm 2011 là 1,3 lượt và năm
2012 tăng lên 1,5 lượt; tần suất khám/thẻ/năm năm 2011 là 1,2 lượt và năm
2012 tăng lên 1,4 lượt; tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa
thống kê. Số lượt chuyển tuyến năm 2012 giảm 18,1% so với năm 2011, tỷ lệ
chuyển tuyến giảm 33,7% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu trong năm 2012
là 78,0%, tăng 5,9% so với năm 2011 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p<0,05. Tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện so với tổng số khám tại TYT xã
năm 2012 giảm 37,4% so với năm 2011 và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05. Tại TTYT huyện, tỷ lệ lượt KCB ngoại trú năm 2012 giảm 23,5% so
với năm 2011, tỷ lệ lượt KCB nội trú năm 2012 tăng 19,0% so với năm 2011 và
các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.20: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 với năm 2011
của một số chỉ số KCB BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can
thiệp (%) 3 TYT xã đối
chứng (%) p
(Z test) Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã 23,4 28,0 <0,0001 Số lượt khám bệnh BQ 15,6 22,0 <0,0001 Tần suất khám/thẻ/năm 16,6 25,9 <0,0001 Số lượt chuyển tuyến -18,1 10,9 <0,0001 Tỷ lệ % chuyển tuyến -33,7 -13,3 - Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện
-22,7 2,0 <0,0001
- Trong đó + Có GGT -18,1 10,9 <0,0001 Tỷ lệ % 5,9 8,8 0,0082 + Không có GGT -35,6 -8,2 - Tỷ lệ % -16,6 -10,0 -
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã
-37,4 -20,3 -
* Ngoại trú -40,9 1,4 0,0001 - Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại
TTYT huyện -23,5 -0,6 -
* Nội trú -8,1 3,1 <0,0001 - Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại
TTYT huyện 19,0 1,0 <0,0001
100
Bảng 3.20 cho thấy tỷ lệ gia tăng một số chỉ số KCB BHYT giữa 3 TYT xã
can thiệp và 3 TYT xã đối chứng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05,
trong đó tỷ lệ gia tăng tất cả các chỉ số của 3 TYT xã can thiệp đều ít hơn 3 TYT xã
đối chứng, trừ tỷ lệ lượt KCB nội trú tại TTYT huyện.
3.3.4. Chi phí KCB BHYT
Bảng 3.21: Chi phí KCB BHYT tại các TYT xã trước can thiệp
Nội dung 3 TYT xã can thiệp (2011)
3 TYT xã đối chứng (2011)
p Trắc nghiệm
thống kê
Tổng chi phí KCB BHYT
461.228 680.714 -
- Tiền công khám 9.559 7.178 -
Tỷ lệ % tiền công khám 2,1 1,1 <0,0001 Z test
- Tiền thuốc 446.333 667.066 -
Tỷ lệ % tiền thuốc 96,8 98,0 <0,0001 Z test
- Tiền VTYTTH 380 500 -
Tỷ lệ % tiền VTYTTH 0,1 0,1 1,0000 Z test
- Tiền DVKT 4.956 5.970 -
Tỷ lệ % tiền DVKT 1,1 0,9 <0,0001 Z test
Chi phí/lượt khám
wilcoxon signed-rank test
- BQ (average) 41,2 81,0 0,3173
- Cao nhất (max) 208,8 368,9
- Thấp nhất (min) 0,9 0,9
- Trung vị (median)
39,0 72,9 0,3173
Chi BQ/thẻ/năm 50,7 78,1 0,3173
Bảng 3.21 cho thấy ở thời điểm trước can thiệp (2011), tỷ lệ tiền công khám,
tỷ lệ tiền thuốc và tỷ lệ tiền DVKT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm đều có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ tiền công khám và tỷ lệ tiền DVKT của 3
TYT xã can thiệp (2,1% và 1,1%) cao hơn 3 TYT xã đối chứng (1,1% và 0,9%); tỷ
lệ tiền thuốc của 3 TYT xã can thiệp (96,8%) thấp hơn 3 TYT xã đối chứng
(98,0%). Chi BQ/lượt khám và chi BQ/thẻ của 3 TYT xã can thiệp (41,2 và 50,7
ngàn đồng) thấp hơn 3 TYT xã đối chứng (81,0 và 78,1 ngàn đồng), tuy nhiên các
sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê.
101
Bảng 3.22: Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng
(%) p
Trắc nghiệm thống kê
Tổng chi phí KCB BHYT
461.228 453.775 -1,6 -
- Tiền công khám 9.559 11.054 15,6 -
Tỷ lệ % tiền công khám 2,1 2,4 17,5 0,0564 Z test
- Tiền thuốc 446.333 436.189 -2,3 -
Tỷ lệ % tiền thuốc 96,8 96,1 -0,7 0,0015 Z test
- Tiền VTYTTH 380 585 53,8 -
Tỷ lệ % tiền VTYTTH 0,1 0,1 56,3 1,0000 Z test
- Tiền DVKT 4.956 5.948 20,0 -
Tỷ lệ % tiền DVKT 1,1 1,3 22,0 0,0752 Z test
Chi phí/lượt khám
wilcoxon signed-rank test
- BQ (average) 41,2 32,8 -20,3 0,3173
- Cao nhất (max) 208,8 211,5 1,3
- Thấp nhất (min) 0,9 0,8 -11,1
- Trung vị (median)
39,0 30,1 -22,8 0,3173
Chi BQ/thẻ/năm 50,7 47,1 -7,0 0,3173
Bảng 3.22 cho thấy tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp năm
2012 giảm 1,6% so với năm 2011, trong đó tiền công khám tăng 15,6%, tiền thuốc
giảm 2,3%, tiền VTYTTH tăng 53,8% và tiền DVKT tăng 20,0%. Tỷ lệ tiền công
khám, tiền VTYTTH và tiền DVKT năm 2012 đều tăng so với năm 2011, tuy nhiên
các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ tiền thuốc năm 2012
giảm 0,7% so với năm 2011 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Chi BQ/lượt khám và chi BQ/thẻ năm 2012 đều giảm so với năm 2011, nhưng sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Chi phí cao nhất/lượt khám (max) năm 2011
là 208,8 ngàn đồng, năm 2012 là 211,5 ngàn đồng; chi phí thấp nhất/lượt khám
102
(min) năm 2011 là 0,9 ngàn đồng, năm 2012 là 0,8 ngàn đồng; trung vị (median) chi
phí/lượt khám năm 2011 là 39,0 ngàn đồng, năm 2012 là 30,1 ngàn đồng; tuy nhiên
các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.23: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của chi phí KCB BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can
thiệp (%) 3 TYT xã đối
chứng (%)
p
(Z test)
Tổng chi phí KCB BHYT -1,6 28,0 <0,0001
- Tiền công khám 15,6 19,9 <0,0001
Tỷ lệ % tiền công khám 17,5 -6,3 <0,0001
- Tiền thuốc -2,3 26,2 <0,0001
Tỷ lệ % tiền thuốc -0,7 -1,4 -
- Tiền VTYTTH 53,8 2.575,7 <0,0001
Tỷ lệ % tiền VTYTTH 56,3 1.989,9 <0,0001
- Tiền DVKT 20,0 24,9 <0,0001
Tỷ lệ % tiền DVKT 22,0 -2,5 <0,0001
Chi phí/lượt khám
- BQ (average) -20,3 0 -
- Cao nhất (max) 1,3 -15,8 <0,0001
- Thấp nhất (min) -11,1 22,2 <0,0001
- Trung vị (median) -22,8 1,0 <0,0001
Chi BQ/thẻ/năm -7,0 25,9 <0,0001
Bảng 3.23 cho thấy tỷ lệ gia tăng các chỉ số phản ánh chi phí KCB
BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng tất cả chỉ số của 3 TYT xã can thiệp đều ít hơn 3
TYT xã đối chứng, trừ tỷ lệ tiền công khám, tỷ lệ tiền thuốc, tỷ lệ tiền DVKT và
chi phí/lượt khám cao nhất (max).
103
Bảng 3.24: Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%) p
(wilcoxon signed-rank test)
BQ trên lượt khám 41,2 32,8 -20,3 0,3173
Nhóm 1 58,3 46,6 -20,1 0,3173
Nhóm 2 50,3 36,2 -28,1 0,3173
Nhóm 3 40,9 32,9 -19,5 0,3173
Nhóm 4 41,2 32,3 -21,6 0,3173
Nhóm 5 0 - - -
Nhóm 6 52,0 23,6 -54,6 0,3173
BQ trên thẻ 50,7 47,1 -7,0 0,3173
Nhóm 1 50,8 70,5 38,7 0,3173
Nhóm 2 53,3 49,5 -7,0 0,3173
Nhóm 3 43,6 42,9 -1,5 0,3173
Nhóm 4 74,8 60,3 -19,4 0,3173
Nhóm 5 0 - - -
Nhóm 6 156,0 28,4 -81,8 0,3173
Bảng 3.24 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 giảm ở tất
cả các nhóm đối tượng (trừ nhóm 5) so với năm 2011, trong đó giảm nhiều nhất là
nhóm 6 (54,6%) và nhóm 2 (28,1%), sau đó đến nhóm 4 (21,6%), nhóm 1 (20,1%)
và nhóm 3 (19,5%); tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý nghĩa thống
kê. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 giảm 7,0% so với năm 2011, trong đó
giảm nhiều nhất là nhóm 6 (81,8%) và nhóm 4 (19,4%), nhóm 2 giảm 7,0% và
nhóm 3 giảm 1,5%, riêng nhóm 1 tăng 38,7%; tuy nhiên các sự khác biệt này cũng
đều không có ý nghĩa thống kê.
104
Bảng 3.25: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can thiệp
(%) 3 TYT xã đối chứng
(%) p
(Z test) BQ trên lượt khám -20,3 0 -
Nhóm 1 -20,1 26,7 <0,0001 Nhóm 2 -28,1 6,9 0,0035 Nhóm 3 -19,5 1,6 <0,0001 Nhóm 4 -21,6 -8,6 - Nhóm 5 - 29,8 - Nhóm 6 -54,6 11,6 0,1415
BQ trên thẻ -7,0 25,9 <0,0001 Nhóm 1 38,7 -94,3 0,0003 Nhóm 2 -7,0 -42,1 - Nhóm 3 -1,5 32,7 <0,0001 Nhóm 4 -19,4 19,5 <0,0001 Nhóm 5 - -38,2 - Nhóm 6 -81,8 53,2 0,0195 Bảng 3.25 cho thấy tỷ lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên lượt khám theo nhóm
đối tượng giữa các TYT xã thuộc hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều ít hơn nhóm đối chứng. Tỷ
lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên thẻ theo nhóm đối tượng giữa các TYT xã thuộc
hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng BQ
chung và ở các nhóm 3, 4, 6 của nhóm can thiệp ít hơn nhóm đối chứng.
Bảng 3.26: Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%) p
(wilcoxon signed-rank test)
BQ trên lượt khám 41,2 32,8 -20,3 0,3173
Nam 40,8 32,1 -21,3 0,3173
Nữ 41,4 33,1 -20,0 0,3173
BQ trên thẻ 50,7 47,1 -7,0 0,3173
Nam 38,3 27,6 -28,0 0,3173
Nữ 63,1 64,6 2,5 0,3173
105
Bảng 3.26 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với
năm 2011 đều giảm ở cả 2 giới, tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có ý
nghĩa thống kê. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 giảm 7,0% so với năm
2011, trong đó nam giảm 28,0% và nữ tăng 2,5%, tuy nhiên các sự khác biệt
này đều không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.27: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của chi phí KCB BQ theo giới tính giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can thiệp
(%) 3 TYT xã đối chứng
(%) p
(Z test) BQ trên lượt khám -20,3 0 -
Nam -21,3 0,9 <0,0001 Nữ -20,0 -0,8 -
BQ trên thẻ -7,0 25,9 <0,0001 Nam -28,0 25,7 <0,0001 Nữ 2,5 25,4 <0,0001
Bảng 3.27 cho thấy tỷ lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên lượt khám và trên thẻ
theo giới tính giữa các TYT xã thuộc hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều ít hơn nhóm đối chứng.
Bảng 3.28: Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT xã can thiệp
trước và sau khi áp dụng mô hình thí điểm định suất
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung 2011 2012 Gia tăng (%) p
(wilcoxon signed-rank test) BQ trên lượt khám 41,2 32,8 -20,3 0,3173
≤ 5 40,8 32,3 -20,6 0,3173 6-14 30,9 25,0 -19,0 0,3173
15-24 41,5 33,8 -18,7 0,3173 25-48 45,2 37,5 -17,1 0,3173 49-60 47,2 35,4 -25,0 0,3173 > 60 47,5 34,5 -27,5 0,3173
BQ trên thẻ 50,7 47,1 -7,0 0,3173 ≤ 5 72,8 66,7 -8,3 0,3173
6-14 24,7 26,2 6,0 0,3173 15-24 34,2 32,7 -4,4 0,3173 25-48 62,0 56,3 -9,3 0,3173 49-60 73,2 62,1 -15,2 0,3173 > 60 94,9 79,8 -15,9 0,3173
106
Bảng 3.28 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với năm
2011 đều giảm ở tất cả các nhóm tuổi, tuy nhiên các sự khác biệt này đều không có
ý nghĩa thống kê. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm 2011 cũng đều
giảm ở các nhóm tuổi, trừ nhóm tuổi từ 6-14 tăng 6,0% và các sự khác biệt này đều
không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.29: So sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011
của chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi giữa các TYT xã thuộc hai nhóm
Nội dung 3 TYT xã can thiệp (%)
3 TYT xã đối chứng (%)
p
(Z test)
BQ trên lượt khám -20,3 0 -
≤ 5 -20,6 -6,5 -
6-14 -19,0 -10,1 -
15-24 -18,7 2,2 <0,0001
25-48 -17,1 5,1 <0,0001
49-60 -25,0 8,0 <0,0001
> 60 -27,5 4,5 <0,0001
BQ trên thẻ -7,0 25,9 <0,0001
≤ 5 -8,3 18,1 <0,0001
6-14 6,0 18,9 <0,0001
15-24 -4,4 34,4 <0,0001
25-48 -9,3 24,2 <0,0001
49-60 -15,2 47,2 <0,0001
> 60 -15,9 26,8 <0,0001
Bảng 3.29 cho thấy tỷ lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên lượt khám và trên thẻ
theo nhóm tuổi giữa các TYT xã hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều ít hơn nhóm đối chứng.
* Ghi chú: Tất cả các chi phí KCB BHYT năm 2011 đều được điều chỉnh về
giá trị năm 2012 theo chỉ số giá tiêu dùng do Tổng cục Thống kê công bố tại
Website: http://www.gso.gov.vn
107
Bảng 3.30: Cân đối quỹ định suất năm 2012 của 3 TYT xã can thiệp
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ
Đăk Rơ Nga
Đăk Trăm
Tổng số
1. Một số chỉ số dùng để tính quỹ định suất
- Số thẻ đăng ký KCB (thẻ) 2.648 2.938 4.044 9.630
- Tần suất KCB 1,6 1,3 1,4
- Chi phí KCB BHYT (1000 đồng) 137.102 118.765 197.908 453.775
- Chi phí DVKT (1000 đồng) 1.647 2.145 2.157 5.948
- Suất phí theo kế hoạch (1000 đồng) 38,2 38,2 38,2
- Ngưỡng suất phí phải hoàn kinh phí (tần suất KCB =0,9) (1000 đồng)
34,4 34,4 34,4
- Ngưỡng suất phí được bù đắp kinh phí (tần suất KCB =1,1) (1000 đồng)
42,0 42,0 42,0
- Suất phí theo thực tế (1000 đồng) 61,1 49,7 53,5
- Suất phí thiếu hụt (1000 đồng) 19,1 7,7 11,5
- Suất phí sau điều tiết (1000 đồng) 57,3 45,9 49,7
2. Quỹ định suất (không bao gồm quỹ ĐTKT)
- Ban đầu (theo kế hoạch) 101.154 112.232 154.481 367.866
- Sau điều tiết 151.730 134.854 200.987 487.571
- Số tiền được bù đắp thiếu hụt 50.577 22.623 46.506 119.705
- Chi phí KCB (sau khi đã trừ chi phí DVKT được thanh toán theo dịch vụ)
135.455 116.620 195.751 447.826
Chiếm tỷ lệ % 89,3 86,5 97,4 91,8
- Kết dư sau điều tiết 16.275 18.234 5.236 39.745
Chiếm tỷ lệ % 10,7 13,5 2,6 8,2
3. Quỹ ĐTKT
- Ban đầu (theo kế hoạch) 36.787
- Sau điều tiết 48.757
- Số kinh phí phải bổ sung từ nguồn khác (Dự án HEMA)
70.948
- Tổng kinh phí Quỹ ĐTKT
119.705
108
Bảng 3.30 cho thấy suất phí theo kế hoạch là 38.200 đồng; suất phí sau điều
tiết của xã Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga và Đăk Trăm lần lượt là 57.300, 45.900 và 49.700
đồng. Số tiền được bù đắp thiếu hụt quỹ định suất lên đến 119.705.000 đồng, trong
đó nhiều nhất là xã Ngọc Tụ (50.577.000 đồng) và ít nhất là xã Đăk Rơ Nga
(22.623.000 đồng). Tổng số chi phí KCB (không tính chi phí DVKT) chiếm 91,8%
quỹ định suất của 3 xã, trong đó xã Đăk Trăm có tỷ lệ chi phí KCB nhiều nhất
(97,4%) và xã Đăk Rơ Nga có tỷ lệ chi phí KCB ít nhất (86,5%). Tỷ lệ kết dư chung
là 8,2% quỹ định suất của 3 xã, trong đó xã Đăk Trăm có tỷ lệ kết dư ít nhất (2,6%)
và xã Đăk Rơ Nga có tỷ lệ kết dư nhiều nhất (13,5%). Tổng kinh phí quỹ điều tiết -
khen thưởng lên đến 119.705.000 đồng, trong đó số kinh phí theo định mức là
48.757.000 đồng và số kinh phí phải bổ sung từ nguồn khác (Dự án HEMA) là
70.948.000 đồng. 100% số tiền của quỹ điều tiết - khen thưởng đều được dùng để
điều tiết phần kinh phí thiếu hụt của quỹ định suất.
3.3.5. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm
Với câu hỏi những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình thí
điểm thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã. Hầu hết các ý kiến
PVS và TLN đều cho rằng thuận lợi là chính, đồng thời cũng có một số khó khăn
nhất định. Những thuận lợi bao gồm: 31/33 ý kiến cho rằng có sự phối hợp chặt chẽ
của hai ngành y tế và BHXH, sự hưởng ứng nhiệt tình và sự tham gia tích cực của
các đơn vị có liên quan; 29/33 ý kiến cho rằng đó là việc bố trí đầy đủ nhân lực đặc
biệt là bác sĩ, cung cấp đầy đủ thuốc, VTYTTH... cho các TYT xã để hoạt động;
28/33 ý kiến cho rằng đó là hệ thống tổ chức mạng lưới y tế tại tuyến huyện ổn
định, hoạt động có hiệu quả; 25/33 ý kiến cho rằng có sự giám sát hỗ trợ thường
xuyên của tuyến trên đối với tuyến dưới và giám sát hỗ trợ lẫn nhau giữa các TYT
xã thực hiện thí điểm, ứng dụng CNTT trong quản lý KCB BHYT, biết trước được
số kinh phí giành cho công tác KCB hàng năm của các TYT xã...
* “Sự mạnh dạn, quyết tâm lựa chọn triển khai mô hình thí điểm định suất
tại TYT xã huyện Đăk Tô của lãnh đạo Sở Y tế và BHXH tỉnh. Bố trí đầy đủ nhân
lực đặc biệt là bác sĩ; cung cấp đầy đủ thuốc, VTYTTH, cung cấp thêm một số TTB
y tế, văn phòng phẩm, phần mềm vi tính... cho các TYT xã để hoạt động”.
(Nam, 33 tuổi, Sở Y tế, TLN cán bộ tuyến tỉnh)
109
** “Được sự hỗ trợ, giám sát kịp thời của cán bộ tuyến tỉnh và huyện đối với
các TYT xã. TTYT huyện và TYT xã biết được danh sách và số lượng người tham
gia BHYT của từng xã, biết trước được quỹ định suất của từng xã”.
(PVS lãnh đạo TTYT huyện)
*** “Áp dụng phần mềm Quản lý chi phí KCB BHYT, giúp cho TYT xã có
rất nhiều thuận lợi trong công tác thống kê, báo cáo, giúp TYT xã thống kê được
các thông tin về KCB, công tác dược, tiết kiệm được rất nhiều thời gian”.
(PVS Trưởng TYT xã)
Một số khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình thí điểm là: 29/33 ý kiến
cho rằng đó là những khác biệt về cơ sở nhà trạm, TTB và nhân lực ở các xã thực
hiện thí điểm; 27/33 ý kiến cho rằng đó là nhận thức và thực hành CSSK, bảo quản
và sử dụng thẻ BHYT khi đi KCB của người dân còn hạn chế; 23/33 ý kiến cho
rằng giá dịch vụ KBCB thấp, cơ chế tài chính cho hoạt động của y tế tuyến xã còn
nhiều bất cập; 20/33 ý kiến cho rằng nhân lực tại các TYT xã mỏng, trình độ còn
hạn chế, nhiều trường hợp người khám bệnh, kê đơn thuốc không phải là bác sĩ
hoặc y sĩ, CNTT tại các TYT xã còn hạn chế...
* “CSVC, TTB và cán bộ y tế của các TYT xã triển khai mô hình thí điểm có
những khác biệt đáng kể; nhận thức và thực hành CSSK của người dân còn hạn
chế; giá dịch vụ y tế thấp; và cơ chế tài chính cho hoạt động của y tế tuyến xã còn
nhiều bất cập”.
(PVS lãnh đạo Sở Y tế)
** “Mặc dù mỗi TYT xã đều có tối thiểu 1 bác sĩ, 1 y sĩ nhưng chế độ trực
luân phiên ở TYT xã không đảm bảo việc y, bác sĩ có mặt thường trực 24/24 giờ để
phụ trách công tác KCB, bên cạnh đó thói quen đi khám bệnh vào ngày nghỉ, lễ,
ngoài giờ hành chính của người dân làm cho những cán bộ không phải là y, bác sĩ
cũng phải thực hiện khám bệnh, kê đơn”.
(Nam, 37 tuổi, Sở Y tế, TLN cán bộ tuyến tỉnh)
*** “Nhận thức của người dân trong việc sử dụng thẻ BHYT chưa cao,
nhiều khi đi KCB không mang thẻ”.
(PVS lãnh đạo TTYT huyện)
110
Với câu hỏi sự phối hợp giữa ngành Y tế và ngành BHXH trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện mô hình thí điểm; các hoạt động triển khai thực
hiện mô hình thí điểm và kết quả đạt được. Đa số các ý kiến PVS hoặc TLN đều
đánh giá rất tốt về sự phối hợp và tham gia của các đơn vị trong ngành Y tế và
ngành BHXH, nhất là ở tuyến huyện và tuyến xã. Các hoạt động và kết quả đạt
được trong việc triển khai thực hiện mô hình thí điểm bao gồm: 17/18 ý kiến cho
rằng đó là tổ chức điều tra ban đầu, xác định suất phí, ban hành kế hoạch liên ngành
để triển khai thực hiện; 16/18 ý kiến cho rằng đó là tổ chức tập huấn các quy định
về triển khai mô hình, về chẩn đoán và điều trị các bệnh thường gặp ở tuyến xã cho
các cán bộ có liên quan, tổ chức các chuyến giám sát hỗ trợ tuyến huyện và tuyến
xã trong việc triển khai thực hiện; 14/18 ý kiến cho rằng đó là ký kết hợp đồng KCB
BHYT theo định suất giữa TTYT và BHXH huyện, giám định và thanh quyết toán
chi phí KCB BHYT, phân tích chi phí KCB và quỹ định suất tại các xã...
* “Sở Y tế và BHXH tỉnh phối hợp tốt trong việc tính quỹ định suất cho các
TYT xã, thực hiện tốt công tác giám định và thanh quyết toán chi phí KCB theo
đúng quy định của Luật BHYT. Kết quả năm 2012 Trung tâm y tế huyện Đăk Tô kết
dư quỹ định suất”.
(PVS lãnh đạo BHXH tỉnh)
** “Ngay từ thời điểm ban đầu đã có sự phối hợp, thống nhất lựa chọn triển
khai thí điểm mô hình, cụ thể như việc xây dựng và ban hành kế hoạch liên ngành
giữa BHXH và Sở Y tế về việc triển khai thí điểm mô hình; cùng thực hiện hoạt
động giám sát, đánh giá số liệu về mô hình thí điểm”.
(Nam, 33 tuổi, Sở Y tế, TLN cán bộ tuyến tỉnh)
Với câu hỏi đánh giá về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự hài
lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm, có 31/33 ý kiến cho rằng
chất lượng dịch vụ KCB tại các TYT xã thực hiện mô hình thí điểm ngày càng tốt
hơn, người bệnh hài lòng hơn về chất lượng dịch vụ của TYT xã so với trước khi
triển khai mô hình thí điểm.
* “Triển khai thí điểm mô hình định suất tại các xã trong thời gian vừa qua
đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ KCB tại TYT xã. Số lượt và tần suất KCB
111
BHYT tại các TYT này được tăng lên đáng kể. Số lượt vượt tuyến lên tuyến huyện
giảm hẳn so với thời điểm chưa áp dụng mô hình trên”.
(PVS lãnh đạo BHXH huyện)
** “Nhìn chung chất lượng KCB tại TYT xã tốt lên, số lượng bệnh nhân đến
khám năm 2012 nhiều hơn so với năm 2011, số lượt chuyển tuyến lại ít hơn, bệnh
nhân không còn phàn nàn về công tác KCB tại TYT xã nữa. Do được tập huấn nên
việc kê đơn thuốc cũng hợp lý hơn. Kết quả điều trị tốt hơn nên người dân tới khám
nhiều hơn, tin tưởng ở TYT xã hơn”.
(PVS Trưởng TYT xã)
*** “Người bệnh đa số đều đến TYT xã khám một lần, không phải quay lại
tái khám nữa, điều đó cũng thể hiện được việc KCB có hiệu quả hơn”.
(Nữ, 26 tuổi, TLN nhân viên TYT xã)
Với câu hỏi về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng cường sử
dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh, 33/33 ý kiến PVS và TLN đều nêu
lên rằng mô hình thí điểm đã có sự tác động rõ rệt đối với việc tăng cường sử dụng
dịch vụ KCB tại TYT xã của người dân.
* “Số lượt khám bệnh tại TYT xã năm 2012 so với năm 2011 tăng rõ, số lượt
chuyển tuyến giảm. Trường hợp chuyển tuyến đa số đều vượt quá khả năng KCB tại
TYT xã”.
Nam, 26 tuổi, TTYT, TLN tại tuyến huyện)
** “Qua 1 năm thực hiện mô hình thí điểm đã có những tác động nhất định
đến việc tăng cường sử dụng dịch vụ KCB BHYT tại TYT xã. Số lượt KCB BHYT
tăng, số lần chuyển tuyến giảm nhiều so với năm 2011. Trạm có bác sĩ hoạt động
thường xuyên, cơ cấu thuốc vì thế cũng đa dạng hơn”.
(PVS Trưởng TYT xã)
*** “Khi triển khai mô hình định suất, người bệnh đến TYT xã KCB nhiều
hơn so với trước, việc chuyển viện giảm do số đầu thuốc cũng đa dạng hơn so với
trước khi triển khai mô hình”.
(Nam, 31 tuổi, TLN nhân viên TYT xã)
112
Với câu hỏi về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT
tại TYT: 31/33 ý kiến cho rằng có hiệu quả rất tốt, được thể hiện bằng việc tăng
cường sử dụng dịch vụ y tế tại TYT xã của người dân, nâng cao chất lượng dịch vụ
KCB, tăng tỷ lệ hài lòng của người bệnh đối với dịch vụ KCB tại TYT xã, kiểm
soát được chặt chẽ chi phí KCB BHYT, hạn chế lạm dụng quỹ BHYT, tiết kiệm chi
phí quản lý hành chính; 30/33 ý kiến cho rằng đó là khuyến khích và nâng cao năng
lực chuyên môn, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh của cán bộ TYT xã; 29/33 ý
kiến cho rằng đó là công tác quản lý chặt chẽ, ít sai sót, tiết kiệm thời gian và nhân
lực nhờ áp dụng CNTT.
* “Mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT tại TYT xã qua thời gian
triển khai đạt được hiệu quả thiết thực, nâng cao chất lượng KCB tại TYT xã, hạn
chế tỷ lệ chuyển tuyến, vượt tuyến gây quá tải tại tuyến trên. Hạn chế lạm dụng quỹ
KCB, khuyến khích và nâng cao năng lực chuyên môn của nhân viên y tế”.
(PVS lãnh đạo BHXH huyện)
** “Thành công lớn nhất mô hình đem lại là ý thức cán bộ y tế được nâng
lên khi được giao quỹ định suất, tất cả nhân viên trong TYT xã đều có ý thức sử
dụng thuốc đúng, không cho thuốc tràn lan. Áp dụng phần mềm Quản lý Chi phí
KCB BHYT HMS 2.0 vừa tiết kiệm được nhân lực và thời gian, giúp công tác quản
lý số liệu, quản lý thuốc, báo cáo, thống kê thuận lợi hơn rất nhiều”.
(PVS Trưởng TYT xã)
Với câu hỏi những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh
nghiệm rút ra từ việc triển khai thực hiện mô hình thí điểm, 18/33 ý kiến nêu lên
hạn chế của mô hình thí điểm là một số kết quả đạt được của mô hình thí điểm chưa
tương xứng với sự đầu tư và mong muốn ban đầu của mô hình do sự đầu tư của nhà
nước cho y tế tuyến xã chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ, trình độ chuyên
môn và năng lực công tác của cán bộ y tế xã còn những hạn chế nhất định và sự hỗ
trợ của y tế tuyến trên chưa đầy đủ.
“Một số kết quả đạt được của mô hình thí điểm chưa tương xứng với sự đầu
tư và mong muốn ban đầu của mô hình. Nguyên nhân do sự đầu tư của nhà nước
cho y tế tuyến xã chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ; trình độ chuyên môn và
năng lực công tác của cán bộ y tế xã còn những hạn chế nhất định; sự hỗ trợ của y
tế tuyến trên chưa đầy đủ”.
(PVS lãnh đạo Sở Y tế)
113
17/33 ý kiến nêu lên bài học kinh nghiệm về việc triển khai thực hiện mô
hình thí điểm là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành Y tế và BHXH; lựa
chọn xã có tỷ lệ người dân tham gia BHYT cao; tăng cường công tác giám sát hỗ
trợ và giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực
hiện; kết hợp chặt chẽ giữa công tác KCB, phòng bệnh và truyền thông giáo dục sức
khoẻ trong nhân dân.
“Có sự phối hợp chặt chẽ và đồng thuận cao giữa hai ngành Y tế và BHXH;
tăng cường công tác giám sát hỗ trợ và giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc
trong quá trình triển khai thực hiện mô hình thí điểm; kết hợp chặt chẽ giữa công
tác KCB, phòng bệnh và tuyên truyền giáo dục sức khoẻ trong nhân dân nhằm nâng
cao kiến thức và thực hành của người dân về chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho bản
thân, gia đình và cộng đồng”.
(PVS lãnh đạo Sở Y tế)
Với câu hỏi về những đề xuất, kiến nghị để việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn. 33/33 ý kiến đề nghị nhà nước cần tăng
cường đầu tư đồng bộ và toàn diện cho y tế tuyến xã, đổi mới cơ chế tài chính đối
với y tế tuyến xã, điều chỉnh giá dịch vụ KBCB tuyến xã theo hướng từng bước tính
đúng, tính đủ chi phí; 32/33 ý kiến đề nghị tiếp tục duy trì mô hình thí điểm ở các
xã đang triển khai và mở rộng ra các xã khác nếu có điều kiện, cần tách riêng quỹ
định suất của tuyến xã với tuyến huyện và giao cho TTYT huyện quản lý và điều
tiết, sửa đổi công thức tính suất phí và quỹ định suất, bảo đảm quỹ định suất năm
sau không nhỏ hơn so với năm trước và nhân với hệ số trượt giá; 30/33 ý kiến đề
nghị đầu tư xây dựng TYT xã đạt chuẩn theo quy định.
* “Nhà nước cần tăng cường đầu tư đồng bộ và toàn diện cho y tế tuyến xã.
Đổi mới cơ chế tài chính đối với y tế tuyến xã. Tiếp tục duy trì mô hình thí điểm ở
các xã đang triển khai và mở rộng ra các xã khác nếu có điều kiện. Cần tách riêng
quỹ định suất tuyến xã với tuyến huyện và giao cho TTYT huyện quản lý, điều tiết”.
(PVS lãnh đạo Sở Y tế)
** “Điều chỉnh lại giá dịch vụ kỹ thuật tại tuyến xã, cần nâng giá lên cho
đầy đủ các chi phí trong các dịch vụ kỹ thuật”.
(PVS lãnh đạo TTYT huyện)
*** “Sửa đổi công thức tính suất phí và quỹ định suất, bởi: Ngoài hệ số
trượt giá “k” còn các yếu tố khác tác động đến chi phí bình quân lần KCB như việc
114
đầu tư thêm cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, thực hiện các cải tiến trong KCB,
phát triển thêm các dịch vụ kỹ thuật mới tại TYT xã... đảm bảo được năm sau quỹ
định suất không nhỏ hơn so với năm trước và nhân với hệ số trượt giá, điều này mới
có thể khuyến khích cán bộ y tế xã làm việc”.
(Nam, 33 tuổi, Sở Y tế, TLN cán bộ tuyến tỉnh)
Bảng 3.31: Ý kiến về hiệu quả của PTTT chi phí KCB BHYT
theo định suất tại TYT xã
Số TT
Nội dung Số người đồng ý /tổng số
Tỷ lệ %
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài chính 33/33 100
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết 33/33 100
3 Hạn chế lạm dụng quỹ 33/33 100
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến 33/33 100
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ 33/33 100
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải chi 33/33 100
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng 30/33 90,9
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất giảm hơn theo giá dịch vụ
33/33 100
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên môn 33/33 100
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn 31/33 93,9
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ 33/33 100
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ 32/33 97,0
Bảng 3.31 cho thấy hầu hết các ý kiến đều thống nhất rất cao về hiệu quả của
phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã, chỉ có 9,1%
không đồng ý với ý kiến đỡ phải giám sát chống lạm dụng, 6,1% không đồng ý với
ý kiến nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn và 3,0% không đồng ý với ý
kiến phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã đảm
bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ.
115
3.3.6. Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
Bảng 3.32: Đặc điểm cơ bản và thống kê hoạt động
của 6 TYT xã nghiên cứu năm 2012
TYT xã
Số nhân viên y tế (người)
Dân số phục vụ TB
(người)
Tỷ lệ dân số tham gia
BHYT (%)
Số lượt khám
ngoại trú (lượt)
Tần suất sử dụng dịch vụ
BQ (lượt)
Ngọc Tụ
7 2.632 100 4.259 1,6
Đăk Rơ Nga
7 2.921 100 3.769 1,3
Đăk Trăm
7 3.895 100 5.789 1,5
Đăk Tre
7 5.215 86,0 5.456 1,0
Đăk Pne
7 1.811 96,8 1.433 0,8
Đăk Kôi
7 2.458 100 3.872 1,6
BQ chung
7 3.155 95,8 4.096 1,3
Bảng 3.32 cho thấy mỗi TYT xã đều có 7 NVYT, dân số phục vụ trung bình
mỗi trạm dao động từ 1.811 đến 5.215 người, tỷ lệ dân số tham gia BHYT đạt từ 86
đến 100%, tần suất sử dụng dịch vụ BQ thấp nhất là 0,8 lượt (TYT xã Đăk Pne) và
cao nhất là 1,6 lượt (TYT xã Ngọc Tụ và TYT xã Đăk Kôi).
Hình 3.1: Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT (3 thành phần chi phí)
116
Hình 3.2: Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT (5 thành phần chi phí)
Hình 3.3: Chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT (7 thành phần chi phí)
Hình 3.1, 3.2 và 3.3 cho thấy chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú khác biệt
đáng kể giữa các TYT xã. Các TYT xã huyện Đăk Tô có chi phí đơn vị thấp hơn
nhiều và có sự chênh lệch giữa các TYT xã không nhiều so với các TYT xã huyện
Kon Rẫy. Chi phí đơn vị bao gồm 3 thành phần chi phí (thuốc; VTYTTH; vận hành,
sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên khác) thấp nhất là 31,7 ngàn đồng (TYT xã Đăk
Rơ Nga) và cao nhất là 89,8 ngàn đồng (TYT xã Đăk Tre). Chi phí đơn vị bao gồm
5 thành phần chi phí (3 thành phần chi phí + chi phí lao động + đào tạo và nghiên
cứu) thấp nhất là 86,4 ngàn đồng (TYT xã Đăk Trăm) và cao nhất là 250,5 ngàn
đồng (TYT xã Đăk Pne). Chi phí đơn vị bao gồm 7 thành phần chi phí (5 thành
phần chi phí + chi phí khấu hao nhà cửa + chi phí khấu hao TTB) thấp nhất là 96,8
ngàn đồng (TYT xã Đăk Trăm) và cao nhất là 298,4 ngàn đồng (TYT xã Đăk Pne).
117
Bảng 3.33: Chi chí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã
Đơn vị: 1000 VNĐ
TYT xã 3 thành phần
chi phí 5 thành phần
chi phí 7 thành phần
chi phí Huyện Đăk Tô 32,9 97,5 103,4 Ngọc Tụ 32,8 101,0 105,7 Đăk Rơ Nga 31,7 105,1 107,8 Đăk Trăm 34,3 86,4 96,8 Huyện Kon Rẫy 78,9 172,1 191,0 Đăk Tre 89,8 126,7 130,2 Đăk Pne 83,8 250,5 298,4 Đăk Kôi 63,0 139,2 144,3 BQ chung 55,9 134,8 147,2 Bảng 3.33 cho thấy chi phí đơn vị BQ chung của 6 TYT xã là 55,9 ngàn
đồng với 3 thành phần chi phí, 134,8 ngàn đồng với 5 thành phần chi phí và 147,2
ngàn đồng với 7 thành phần chi phí.
Bảng 3.34: Cơ cấu chi phí đơn vị lượt KCB ngoại trú tại 6 TYT xã
Đơn vị: %
TYT xã Chi phí
lao động
Thuốc, VTYTTH
Vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên
khác
Đào tạo và nghiên cứu
Khấu hao nhà cửa,
TTB
Huyện Đăk Tô
62,4 30,4 1,4 0 5,7
Ngọc Tụ 64,6 29,5 1,5 0 4,4 Đăk Rơ Nga
68,1 28,0 1,4 0 2,5
Đăk Trăm
53,8 34,0 1,4 0 10,7
Huyện Kon Rẫy
48,8 40,5 0,8 0 9,9
Đăk Tre 28,3 68,4 0,5 0 2,7 Đăk Pne 55,9 27,1 1,0 0 16,0 Đăk Kôi 52,8 43,0 0,7 0 3,5 BQ chung
53,6 36,9 1,0 0 8,4
Bảng 3.34 cho thấy chi phí lao động chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi
phí, tiếp theo là chi phí thuốc, VTYTTH và sau đó là khấu hao nhà cửa, TTB.
Không có chi phí cho đào tạo và nghiên cứu tại các TYT xã. Tỷ lệ chi phí vận hành,
sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên khác là không đáng kể. Riêng TYT xã Đăk Tre
118
chi phí thuốc, VTYTTH chiếm tỷ trọng cao nhất (68,4%), sau đó là chi phí lao động
(28,3%). Chi phí đơn vị khác nhau giữa các TYT xã chủ yếu là do tiền thuốc, chi
phí lao động và khấu hao nhà cửa.
Bảng 3.35: So sánh giữa chi phí đơn vị và mức phí cho phép tối đa
Nội dung
Chi phí thực tế (1000 đồng)
Mức phí tối đa theo TTLT số 04 (không bao gồm thuốc và
VTYTTH)
Mức phí tối đa theo Quyết định số 38
(không bao gồm thuốc và VTYTTH)
Số tiền (1000 đồng)
Tỷ lệ mức phí tối
đa/Chi phí thực tế (%)
Số tiền (1000 đồng)
Tỷ lệ mức phí tối
đa/Chi phí thực tế (%)
1. Chi phí thường xuyên (không bao gồm thuốc và VTYTTH)
80,5 5 6,2 3 3,7
Huyện Đăk Tô 66,1 5 7,6 3 4,5 Huyện Kon Rẫy 94,9 5 5,3 3 3,2 2. Chi phí đầu tư và chi phí thường xuyên (không bao gồm thuốc và VTYTTH)
92,8 5 5,4 3 3,2
Huyện Đăk Tô 72,0 5 6,9 3 4,2 Huyện Kon Rẫy 113,7 5 4,4 3 2,6
Bảng 3.35 trình bày sự so sánh giữa chi phí đơn vị (không bao gồm chi phí
thuốc và VTYTTH) và mức phí dịch vụ tối đa tương ứng (không bao gồm chi phí
thuốc và VTYTTH) theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04 của liên Bộ Y tế - Bộ
Tài chính [20] và theo Quyết định số 38 của UBND tỉnh Kon Tum [49]. Mức thu
viện phí rất thấp so với chi phí đơn vị của các dịch vụ được cung cấp. Đối với chi
phí đơn vị chỉ tính chi phí thường xuyên, tỷ lệ thu hồi chi phí BQ của 6 TYT xã là
6,2% với mức phí tối đa theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04 của liên Bộ Y tế
- Bộ Tài chính; với mức phí tối đa theo quy định tại Quyết định số 38 của UBND
tỉnh Kon Tum thì tỷ lệ thu hồi chi phí BQ của 6 TYT xã là 3,7%. Đối với chi phí
đơn vị bao gồm cả chi phí đầu tư và chi phí thường xuyên, tỷ lệ thu hồi chi phí BQ
của 6 TYT xã là 5,4% với mức phí tối đa theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04
của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính; với mức phí tối đa theo quy định tại Quyết định số
38 của UBND tỉnh Kon Tum thì tỷ lệ thu hồi chi phí BQ của 6 TYT xã là 3,2%.
119
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. BÀN LUẬN CHUNG
PTTT có vai trò kết nối giữa tài chính y tế và cung ứng DVYT, với nhiệm vụ
chủ chốt là kiểm soát chi phí và chất lượng dịch vụ bằng việc tạo ra các cơ chế
khuyến khích phù hợp [98]. Chi trả DVYT được xem là một trong năm công cụ
điều hành chính sách y tế quan trọng trong cải cách hệ thống y tế nhằm nâng cao
hiệu quả và tính công bằng [82]. Thông qua tác động khuyến khích về tài chính và
phi tài chính, PTTT có thể làm thay đổi hành vi của các tổ chức và cá nhân cung
ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. PTTT là yếu tố có tính quyết định đối với
hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực tài chính. Trên thế giới, đã có nhiều PTTT
khác nhau được áp dụng như: Theo dịch vụ, theo trường hợp bệnh, theo ngày điều
trị, theo nhóm chẩn đoán (DRG), theo định suất… Tuy nhiên, việc lựa chọn, thiết kế
PTTT phù hợp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia
cũng như phụ thuộc vào khả năng cung ứng DVYT, chất lượng dịch vụ và năng lực
quản lý của cơ quan BHXH và các cơ sở cung ứng DVYT. Kinh nghiệm quốc tế
cho thấy, trong vòng 15-20 năm trở lại đây, hai PTTT BHYT được áp dụng khá
rộng rãi ở cả các nước phát triển và đang phát triển, đó là thanh toán theo định suất
và theo nhóm chẩn đoán [64].
Ở Việt Nam, trong nhiều năm qua, PTTT chi phí KCB BHYT đã được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Theo dịch vụ, theo định suất,
theo trường hợp bệnh hoặc các PTTT khác. Hiện nay, Việt Nam chưa có PTTT phù
hợp do thiếu cơ sở khoa học để xác định chi phí và thiếu hệ thống giám sát, bảo
đảm chất lượng dịch vụ KCB.
PTTT theo dịch vụ là PTTT hồi cứu theo số lượng và giá của các dịch vụ đã
được cung cấp cho người bệnh. Giá của dịch vụ thường được lấy trong khung giá
DVYT được ban hành ở mỗi quốc gia. Phương thức này được đánh giá là có nhiều
bất cập, tạo nên rào cản tài chính, cản trở khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ
CSSK cơ bản cần thiết của người dân [69], [80], nhất là nhóm thu nhập thấp. Khi
120
phải chi trả tiền túi cho dịch vụ CSSK, người dân phải đối diện với nguy cơ chịu chi
phí quá mức và bị đẩy vào bẫy nghèo đói [103]. Với các chương trình BHYT,
PTTT theo dịch vụ được đánh giá là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia
tăng chi phí CSSK [58]. Đây là PTTT được nhiều nước áp dụng vào thời kỳ đầu
triển khai KCB BHYT nhưng cũng là phương thức mà nhiều quỹ BHYT trên thế
giới đã từ bỏ vì nguy cơ vỡ quỹ do nó tạo ra. Với phương thức này, cơ sở cung ứng
dịch vụ có xu hướng cung ứng nhiều dịch vụ hơn, sử dụng nhiều dịch vụ đắt tiền,
đặc biệt những dịch vụ mang lại nhiều lợi ích cho phía đơn vị cung ứng. Họ không
chịu sức ép phải tiết kiệm chi phí. Phương thức này được bệnh viện và người bệnh
ủng hộ vì cả bệnh viện và người bệnh đều được đảm bảo quyền lợi. Tuy nhiên, đối
với người bệnh tự trả viện phí thì bản thân người bệnh sẽ tự yêu cầu hạn chế các chỉ
định về thuốc cũng như các dịch vụ xét thấy không cần thiết để tiết kiệm chi phí từ
tiền túi của mình, nhưng với người bệnh BHYT thì không có sự kiểm soát này vì đã
có quỹ BHYT chi trả. Vì vậy, PTTT theo dịch vụ luôn tiềm ẩn các nguy cơ: (i) Các
thầy thuốc thường không quan tâm đến hiệu quả kinh tế khi chỉ định các dịch vụ
cho người bệnh vì xu hướng thỏa mãn mọi yêu cầu của người bệnh và để có nguồn
thu cho bệnh viện; (ii) Chi phí y tế gia tăng do chỉ định quá nhiều dịch vụ, dẫn đến
nguy cơ mất an toàn của quỹ; (iii) Chi phí hành chính cao, bao gồm cả chi phí của
quỹ BHYT và của bệnh viện trong việc tổ chức thu phí, kiểm tra, giám sát hóa đơn,
chứng từ để thanh toán cũng như hệ thống kiểm tra, kiểm soát để phát hiện và
phòng chống các chứng từ hay bệnh án giả. Do đó, ở những nước vẫn đang tiếp tục
thực hiện PTTT này thì các biện pháp hạn chế leo thang chi phí phải được thực hiện
khá chặt chẽ như: Hạn chế số lần KCB trong năm, thực hiện cùng chi trả, tăng
cường chặt chẽ giám sát quy trình chuyên môn của bệnh viện…
Với PTTT theo nhóm chẩn đoán (DRG), bệnh viện được trả một khoản tiền
cố định, được thỏa thuận trước, để điều trị một trường hợp bệnh, thường được phân
loại vào một “nhóm chẩn đoán” (DRG). Đây là phương thức chi trả trọn gói theo
mỗi ca bệnh, không xem xét và thanh toán theo số lượng và giá từng dịch vụ đã
được sử dụng cho người bệnh. Mỗi bệnh hay nhóm bệnh được xác định có một đơn
121
giá riêng theo tính chất và mức độ chi phí. Ưu điểm của phương thức này là hạn chế
kéo dài ngày điều trị, khuyến khích các bệnh viện áp dụng các biện pháp để đảm
bảo chất lượng điều trị, trong khi vẫn tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, phương thức này
cũng có những nhược điểm như: Việc xây dựng hệ thống phân loại bệnh/ nhóm
bệnh và tính toán chi phí cho từng nhóm đòi hỏi một hệ thống thông tin đầy đủ và
chính xác, là điều rất khó với tình hình ở các nước đang phát triển; bệnh viện
thường chọn gói chẩn đoán đắt tiền hơn để thanh toán với BHYT, bệnh viện cho
người bệnh ra viện sớm rồi lại nhập viện trở lại để tăng số DRG; v.v...
Với PTTT theo định suất, đơn vị cung ứng được trả một mức kinh phí cố
định, được thỏa thuận trước, cho mỗi người đăng ký KCB (mức phí có thể được
điều chỉnh theo độ tuổi, giới tính,..) cho một gói dịch vụ xác định, trong một thời
gian xác định (thường là 1 năm). Trong khi PTTT theo nhóm chẩn đoán được áp
dụng chủ yếu cho các dịch vụ điều trị người bệnh nội trú, PTTT theo định suất được
các nước trên thế giới áp dụng phổ biến cho các dịch vụ CSSK tuyến ban đầu và các
dịch vụ ngoại trú. PTTT theo định suất có những ưu điểm sau: (i) Về mặt kiểm soát
chi phí, phương thức này có tác động tích cực, khuyến khích các bệnh viện sử dụng
hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực hay nói cách khác là chuyển chức năng kiểm soát
chi phí từ quỹ BHYT sang các cơ sở KCB; (ii) Giảm hay loại bỏ việc kiểm tra, giám
sát sử dụng từ quỹ BHYT vì không cần việc giám sát chống lạm dụng nữa khi đã
khoán cho bệnh viện, các bác sĩ sẽ chủ động chỉ định sử dụng dịch vụ phù hợp để
tiết kiệm chi phí; (iii) Có khả năng tăng thu nhập cho NVYT thông qua việc sử
dụng hiệu quả dịch vụ, hạn chế các dịch vụ không cần thiết; (iv) Chi phí hành chính
của phương thức này thấp, nhất là so với PTTT theo dịch vụ. Tuy nhiên, phương
thức này cũng có những nhược điểm như sau: (i) Có thể ảnh hưởng đến chất lượng
do hạn chế sử dụng dịch vụ hay thuốc trong quá trình điều trị hay cho người bệnh ra
viện quá sớm hay chuyển người bệnh quá nhiều lên tuyến trên hay tìm cách thu
thêm tiền của người bệnh; (ii) Cần cơ sở dữ liệu và thông tin về chi phí, về tỷ lệ sử
dụng dịch vụ; những thông tin này cần phải được ghi chép có hệ thống chính xác để
có cơ sở phân tích, xác định chi phí; (iii) Thường bị xem là không tương ứng với chi
122
phí thực, hạn chế sự thực hành của bác sĩ; (iv) Nguy cơ tài chính là khả năng giảm
thu nhập nếu định suất không tương ứng với chi phí.
Có thể khẳng định, PTTT là một phần rất quan trọng trong BHYT, có tác
động mạnh đến các bên liên quan, trong đó có vấn đề đặc biệt quan trọng là gia tăng
chi phí y tế. PTTT cũng không chỉ đơn thuần là thanh toán chi phí mà còn liên quan
đến chất lượng DVYT được cung ứng như thế nào. Để bảo đảm hoạt động, các bệnh
viện cần có kinh phí để cung cấp DVKT cơ bản, cũng như các chi tiêu cần thiết
khác để đảm bảo cấp cứu, phát triển kỹ thuật, phục vụ người bệnh.
Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước thường kết hợp sử dụng hỗn hợp các
PTTT khác nhau thay vì chỉ sử dụng thuần túy một phương pháp. Việc kết hợp này
giúp tận dụng những mặt mạnh và hạn chế mặt tiêu cực của mỗi phương pháp.
Ở Việt Nam hiện nay đang thiếu chiến lược và lộ trình cụ thể, nhất quán trong đổi
mới PTTT. Một hệ thống các PTTT hỗn hợp đang vận hành, trong đó các PTTT
không được thiết kế để hỗ trợ lẫn nhau nhằm phát huy ưu điểm và hạn chế nhược
điểm. Mỗi PTTT đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định. Hiện tại chưa có hệ
thống thanh toán phản ánh chi phí của các dịch vụ CSSK được cung cấp tại Việt
Nam. Thanh toán theo dịch vụ vẫn đang chiếm ưu thế, dẫn đến lạm dụng phổ biến
các DVYT và chi phí y tế leo thang. Thanh toán theo định suất hiện đang áp dụng
còn nhiều điểm bất cập về thiết kế chính sách cũng như triển khai thực hiện và tác
động. Hơn nữa, việc thực hiện thanh toán theo định suất đang áp dụng về bản chất
không khác gì thanh toán theo dịch vụ và vẫn chưa đạt được mục tiêu kiểm soát chi
phí [22]. PTTT theo định suất như nó được thiết kế và thực hiện tại Việt Nam đã
không mang lại những lợi ích tiềm năng của định suất, chẳng hạn như cải thiện sự
công bằng hoặc chuyển các dịch vụ về CSSK ban đầu [68]. Có nhiều vấn đề vướng
mắc giữa cơ sở cung ứng dịch vụ và cơ quan BHYT nảy sinh trong quá trình thực
hiện thanh toán theo định suất. Tình trạng bội chi quỹ định suất và áp lực quản lý
quỹ khi số chi của người bệnh chuyển tuyến và vượt tuyến chiếm tỷ trọng lớn khiến
nhiều cơ sở KCB không muốn tham gia khoán định suất. Thanh toán theo định suất
cần được thiết kế lại cho phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng các mục tiêu
123
mong đợi. Thanh toán theo trường hợp bệnh đang được từng bước triển khai. Tuy
nhiên, các nỗ lực đổi mới PTTT này chưa được điều phối và triển khai một cách
hiệu quả theo một kế hoạch tổng thể với chiến lược và lộ trình cụ thể, nhất quán.
Việc đổi mới PTTT cần đặt trong bối cảnh chung của hệ thống y tế liên quan tới các
cơ chế hiệu quả và đồng bộ, cũng như hệ thống thông tin phù hợp cho quản lý chất
lượng và khuyến khích liên tục cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ [22].
4.2. BÀN LUẬN THEO MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
4.2.1. Thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch vụ tại
một số TYT xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012
Tại Bảng 3.1 cho thấy tổng số lượt khám bệnh, số lượt khám bệnh BQ và tần
suất khám/thẻ/năm của 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2012 đều tăng so với năm
2011 và tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện so với tổng số khám tại TYT xã năm 2012
giảm so với năm 2011. Điều này cho thấy việc thực hiện BHYT tại TYT xã đã từng
bước có hiệu quả nhất định, hầu hết người tham gia BHYT đều được đăng ký KCB
ban đầu tại TYT xã và người dân đã tin tưởng hơn vào dịch vụ KCB tại TYT xã.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược
và Chính sách y tế là tần suất khám/thẻ/năm của chúng tôi thấp hơn (cụ thể là ở tỉnh
Hà Nam tần suất khám/thẻ/năm năm 2009 là 3,1 lần; ở tỉnh Kiên Giang, chỉ số này
là 2,3 lần) [52]. Sự khác biệt này theo chúng tôi có thể là do những rào cản về
khoảng cách từ nhà tới TYT xã, Kon Tum là tỉnh miền núi nên việc người dân đến
KCB tại TYT xã sẽ khó khăn hơn so với các tỉnh đồng bằng.
Số lượt chuyển tuyến năm 2012 tăng 10,9%, tuy nhiên tỷ lệ chuyển tuyến lại
giảm 13,3% so với năm 2011, tỷ lệ lượt KCB nội trú tại TTYT huyện năm 2012
tăng so với năm 2011 và tỷ lệ lượt KCB ngoại trú tại TTYT huyện năm 2012 giảm
so với năm 2011, điều này lại chứng tỏ thêm hầu hết các bệnh thông thường đều
được giải quyết tại tuyến xã, TYT xã chỉ chuyển người bệnh nặng, vượt quá khả
năng chuyên môn của trạm lên KCB tại TTYT huyện. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách y tế là tỷ
lệ chuyển tuyến của chúng tôi thấp hơn nhiều (cụ thể là trong năm 2009, tỷ lệ
124
chuyển tuyến từ TYT xã lên Bệnh viện huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam là 9,3%,
còn ở huyện Kiên Lương tỉnh Kiên Giang là 11,9%) [52]. Ngoại trừ một số TYT xã
có tỷ lệ chuyển tuyến cao, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng khá tương đồng
với kết quả nghiên cứu của Hoàng Thị Hiệp [34].
Tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu trong năm
2012 là 58,0%, tăng 4,7 điểm phần trăm so với năm 2011. Điều này cho thấy mặc
dù tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu trong năm 2012
đã có sự tăng lên đáng kể so với năm 2011, tuy nhiên vẫn còn nhiều người tham gia
BHYT vẫn chưa hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm và quyền lợi khi sử dụng thẻ
BHYT, còn một tỷ lệ khá lớn vượt tuyến, trái tuyến khi đi KCB. Ngoại trừ những
trường hợp không yêu cầu bắt buộc phải có giấy giới thiệu chuyển viện (cấp cứu; tái
khám; người có công với cách mạng; người từ 80 tuổi trở lên; người thuộc diện
quản lý, bảo vệ sức khoẻ theo hướng dẫn số 52-HD/BTCTW ngày 02/12/2005 của
Ban Tổ chức Trung ương; người thuộc diện được quản lý, bảo vệ sức khoẻ của tỉnh;
và trẻ em dưới 6 tuổi) [42], [43], thì những trường hợp không có giấy giới thiệu
chuyển viện đều được xếp vào diện trái tuyến, vượt tuyến và đều phải thực hiện
cùng chi trả theo quy định tại Khoản 3, Điều 22, Chương IV Luật BHYT [41],
Khoản 3, Điều 7, Chương II Nghị định 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 của Chính
phủ [26] và Khoản 1, Điều 9, Chương III Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-
BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính [19].
Tại Bảng 3.2 cho thấy cơ cấu chi phí KCB BHYT chủ yếu là tiền thuốc
chiếm 97-98%, tiền công khám, VTYTTH và DVKT chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Việc điều chỉnh giá dịch vụ KBCB theo Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-
BTC ngày 29/02/2012 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính ban hành mức tối đa khung
giá một số dịch vụ KBCB trong các cơ sở KBCB của nhà nước, tại thời điểm
nghiên cứu ở tỉnh Kon Tum mới điều chỉnh 2 dịch vụ tại tuyến xã là khám lâm sàng
chung (từ 800 đồng lên 3.000 đồng) và ngày giường bệnh (từ 5.000 đồng lên 8.000
đồng) từ ngày 01/9/2012 [49]. Tuy nhiên, hiện tại các TYT xã nghiên cứu chỉ thực
hiện KCB ngoại trú. Để so sánh chi phí KCB BHYT trong 2 năm 2011 và 2012,
125
chúng tôi đã loại bỏ yếu tố điều chỉnh giá dịch vụ (tất cả tiền công khám đều được
tính theo mức giá 800 đồng) và đã điều chỉnh giá trị chi phí KCB BHYT năm 2011
về năm 2012 theo hệ số trượt giá do Tổng cục Thống kê công bố. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2012 tăng
28,0% so với năm 2011, trong đó tất cả các khoản mục đều tăng. Sự gia tăng này có
thể được giải thích là do tăng số lượt KCB tại TYT vì chi BQ/lượt khám năm 2011
và năm 2012 bằng nhau (81 ngàn đồng). Trung vị (median) chi phí/lượt khám năm
2011 và năm 2012 đều thấp hơn chi phí BQ/lượt khám ở mức từ 7,4 đến 8,1 ngàn
đồng, điều này cho thấy phần lớn chi phí/lượt khám đều nằm ở dưới mức chi phí
BQ/lượt khám. Tuy nhiên, chi BQ/thẻ năm 2012 tăng 25,9% so với năm 2011. Điều
này hoàn toàn phù hợp với lý luận của PTTT theo dịch vụ là chi phí KCB ngày một
gia tăng [22], [58], [64]. Nghiên cứu của Trần Quang Thông về ảnh hưởng của
PTTT định suất đến chi phí và một số chỉ số KCB tại 4 bệnh viện huyện tỉnh Thanh
Hóa trong 2 năm 2008-2009 tiến hành theo nguyên tắc và phương pháp theo quy
định tại Điều 15, Chương V Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày
14/8/2009 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính cho thấy: Chi BQ/lượt khám của tuyến
xã ở 2 huyện thực hiện thanh toán theo dịch vụ như sau: Huyện Đông Sơn (huyện
đồng bằng) năm 2008 là 18 ngàn đồng, năm 2009 là 22 ngàn đồng, gia tăng chi phí
KCB BHYT năm 2009 so với năm 2008 là 22,0%; huyện Quan Sơn (huyện miền
núi) năm 2008 là 29 ngàn đồng, năm 2009 là 38 ngàn đồng, gia tăng chi phí KCB
BHYT năm 2009 so với năm 2008 là 25,5%; trong khi đó kết quả nghiên cứu của
chúng tôi về chi BQ/lượt khám năm 2011 và năm 2012 đều bằng 81 ngàn đồng, cao
hơn nhiều so với nghiên cứu của Trần Quang Thông. Gia tăng chi phí KCB BHYT
tại tuyến xã năm 2009 so với năm 2008 của huyện Đông Sơn là 32,8%, của huyện
Quan Sơn là 22,7%, kết quả này tương đối tương đồng với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi là 28,0% [46].
Tại Bảng 3.3 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với năm
2011 tăng ở tất cả các nhóm đối tượng (trừ nhóm 4), càng thể hiện rõ sự gia tăng chi
phí không thể kiểm soát. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm 2011 tăng
126
ở các nhóm 6 (53,2%), nhóm 3 (32,7%), nhóm 4 (19,5%) và giảm ở nhóm 1
(94,3%), nhóm 2 (42,1%) và nhóm 5 (38,2%). Nếu chi phí KCB BQ trên lượt khám
và chi phí KCB BQ trên thẻ cùng tăng thể hiện sự gia tăng chi phí KCB không chỉ ở
mỗi lần KCB mà còn thể hiện sự gia tăng số lần KCB trong năm, điều này là hoàn
toàn phù hợp với nhóm 6 là nhóm tham gia BHYT tự nguyện khi thường xuyên
phải sử dụng dịch vụ KCB và là nhóm có sự lựa chọn ngược hay còn gọi là lựa
chọn bất lợi trong tham gia BHYT [38], [88], [102]; nhóm 3 là nhóm người thuộc
hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-
XH khó khăn, đặc biệt khó khăn và người thuộc gia đình cận nghèo; nhóm 4 là trẻ
em dưới sáu tuổi là những nhóm dễ mắc bệnh hơn so với những nhóm khác. Các
nhóm 1, 2 và 5 do ít mắc bệnh hơn nên tần suất sử dụng dịch vụ KCB ít hơn và chi
phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 đều giảm so với năm 2011.
Tại Bảng 3.4 cho thấy chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm 2011
tăng 25,7% ở nam và tăng 25,4% ở nữ, trong khi đó chi phí KCB BQ trên lượt
khám năm 2012 so với năm 2011 thay đổi không đáng kể (tăng hoặc giảm đều dưới
1%), điều này chứng tỏ cả hai giới đều có tần suất sử dụng dịch vụ KCB trong năm
2012 nhiều hơn năm 2011.
Tại Bảng 3.5 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với năm
2011 giảm ở 2 nhóm tuổi (≤ 5 tuổi, 6-14 tuổi), các nhóm tuổi còn lại đều tăng, điều
này cũng phù hợp với xu hướng tăng của chi phí KCB BQ trên lượt khám theo
nhóm đối tượng. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm 2011 đều tăng ở
tất cả các nhóm tuổi, ngoài việc gia tăng chi phí KCB trong mỗi lần KCB (trừ 2
nhóm ≤ 5 tuổi và 6-14 tuổi), tất cả các nhóm tuổi đều có tần suất sử dụng dịch vụ
KCB trong năm 2012 nhiều hơn so với năm 2011, nhất là ở 2 nhóm tuổi ≤ 5 tuổi và
6-14 tuổi, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tần suất khám/thẻ của năm 2012
nhiều hơn 0,2 lượt so với năm 2011.
4.2.2. Hiệu quả của phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất
tại một số TYT xã thuộc huyện Đăk Tô
4.2.2.1. Kê đơn thuốc hợp lý
127
Tại Bảng 3.7 cho thấy qua việc khảo sát đơn thuốc có KS tại 3 TYT xã can
thiệp ở thời điểm trước can thiệp (năm 2011) và thời điểm sau can thiệp (năm 2012)
cho thấy tất cả thuốc KS đều được kê đơn dưới dạng thuốc uống và đều là KS trong
nước. Việc sử dụng KS trong nước là một trong những yếu tố hạn chế gia tăng chi
phí KCB BHYT, đồng thời góp phần thực hiện tốt chủ trương “Người Việt Nam ưu
tiên dùng thuốc Việt Nam” của Bộ Y tế. Theo quy định của Quy chế kê đơn thuốc
trong điều trị ngoại trú [8], tên thuốc được viết theo tên chung quốc tế hay tên gốc
(INN, generic name) hoặc nếu ghi tên biệt dược phải ghi tên gốc trong ngoặc đơn
(trừ trường hợp thuốc có nhiều hoạt chất), đơn thuốc KS sau can thiệp (năm 2012)
được kê theo tên gốc chiếm tỷ lệ 92,0%, tăng 120,5%; kê theo biệt dược giảm
89,7% và kê vừa tên gốc vừa biệt dược giảm 33,3% so với thời điểm trước can thiệp
(năm 2011); các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này
chứng tỏ kiến thức và thực hành về kê đơn thuốc hợp lý của NVYT sau can thiệp đã
có sự tăng lên đáng kể. Trong khi đó, sự thay đổi các chỉ số này ở thời điểm trước
can thiệp và sau can thiệp của 3 TYT xã đối chứng (Bảng 3.8) không rõ rệt và có xu
hướng không rõ ràng; đơn thuốc sử dụng KS trong nước và tên thuốc KS kê theo
tên gốc tăng; tuy nhiên, tên thuốc kê vừa tên gốc vừa biệt dược lại tăng và tỷ lệ đơn
thuốc có số ngày dùng KS ≥ 5 ngày giảm. Trong khi đó, nếu so sánh ở thời điểm
trước can thiệp (Bảng 3.6), tỷ lệ tên thuốc KS kê theo tên gốc của các TYT xã đối
chứng (83,1%) cao hơn nhiều so với các TYT xã can thiệp (44,4%) và các tỷ lệ tên
thuốc KS kê theo biệt dược hoặc kê vừa tên gốc vừa biệt dược của các TYT xã đối
chứng đều thấp hơn so với các TYT xã can thiệp và các sự khác biệt này đều có ý
nghĩa thống kê với p<0,05.
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của một số chỉ số về kê
đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.9) cho thấy tỷ lệ gia tăng đơn
thuốc sử dụng KS trong nước, tên thuốc kê theo tên gốc và kê vừa tên gốc vừa biệt
dược, đơn thuốc có số ngày dùng KS ≤ 4 ngày có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa hai nhóm với p<0,05. Tỷ lệ đơn thuốc sử dụng KS trong nước và tỷ lệ gia tăng
tên thuốc kê theo tên gốc của nhóm can thiệp cao hơn nhóm đối chứng; ngược lại tỷ
128
lệ gia tăng tên thuốc kê vừa tên gốc vừa biệt dược và đơn thuốc có số ngày dùng KS
≤ 4 ngày của nhóm đối chứng cao hơn nhóm can thiệp. Điều này càng chứng tỏ sự
can thiệp đã có những hiệu quả rõ rệt so với không can thiệp.
Tại 3 TYT xã can thiệp (Bảng 3.10), số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn năm
2012 so với năm 2011 tăng 2,6% và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05,
thể hiện quyền lợi của người bệnh không bị cắt giảm mà còn tăng lên trong khoán
định suất. Tỷ lệ đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán năm 2012 so với
năm 2011 tăng 11,6% và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này
cho thấy sự lạm dụng KS trong kê đơn thuốc đã được hạn chế, góp phần hạn chế
tình trạng kháng kháng sinh của vi sinh vật và hạn chế gia tăng chi phí KCB
BHYT. Trong khi đó, tại 3 TYT xã đối chứng (Bảng 3.11), số đầu thuốc sử dụng
BQ/đơn năm 2012 so với năm 2011 tăng 5,1% và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p<0,05. Điều này không những chỉ bảo đảm quyền lợi cho người bệnh mà còn
làm cho chi phí KCB BHYT gia tăng không thể kiểm soát nổi [22], [58], [64]. Tỷ
lệ đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán năm 2012 là 77,3%, giảm 1,4%
so với năm 2011. Điều này không chỉ gây nên sự lạm dụng KS mà còn ảnh hưởng
đến kết quả điều trị do tỷ lệ khỏi bệnh không cao nên người bệnh phải điều trị
nhiều ngày hoặc nhiều đợt hơn hoặc phải chuyển lên tuyến trên để điều trị gây tốn
kém cho quỹ BHYT và gia đình người bệnh.
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của một số chỉ số
tổng hợp về kê đơn thuốc giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.12) cho thấy
tỷ lệ gia tăng số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn và đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với
chẩn đoán có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm với p<0,05; tỷ lệ gia
tăng số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn của nhóm can thiệp ít hơn nhóm đối chứng và
tỷ lệ gia tăng đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán của nhóm can thiệp
nhiều hơn nhóm đối chứng. Điều này chứng tỏ khi thực hiện khoán định suất việc
khống chế sự gia tăng sử dụng thuốc tốt hơn dẫn đến sự gia tăng chi phí KCB
BHYT sẽ ít hơn và tỷ lệ đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn đoán cao hơn so
với huyện chưa thực hiện khoán định suất.
129
4.2.2.2. Sự hài lòng của người bệnh
Theo quy định của Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
BHYT, TYT xã là một trong những cơ sở đăng ký KCB ban đầu và tất cả các
đối tượng khi đăng ký KCB ban đầu tại TYT xã thì không phải thực hiện cùng
chi trả [16], [19], [26], [41]. Hiện nay hầu hết người dân tại các xã nghiên cứu đều
có BHYT nên lý do họ chọn TYT xã để khám bệnh chủ yếu là do có BHYT, KCB
không mất tiền và thuận tiện, gần nhà (Bảng 3.14). Thực tế là 100% người tham gia
BHYT ở các xã nghiên cứu đều được đăng ký KCB ban đầu tại TYT xã. Điều này
rất phù hợp với chủ trương đưa công tác KCB BHYT về tuyến xã và cần tăng
cường đầu tư cho y tế tuyến xã để bảo đảm tốt công tác KCB nói riêng và công tác
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn xã nói chung.
Thủ tục KCB ở các TYT xã nghiên cứu đơn giản, gọn nhẹ và người bệnh
khi đến KCB tại TYT xã đa số đều được tiếp đón ngay, kể cả ngoài giờ hành
chính, nên thời gian chờ đợi để được khám bệnh ở cả 2 huyện chủ yếu là dưới 15
phút (Bảng 3.14). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như kết quả
nghiên cứu của Vụ Bảo hiểm y tế - Bộ Y tế và Trường Đại học Y Hà Nội [54].
Theo quy định, người chịu trách nhiệm về chỉ định dùng thuốc cho người bệnh tại
TYT tuyến xã bao gồm: Bác sĩ, Y sĩ, Lương y, Y sĩ Y học cổ truyền, Hộ sinh viên
(khi không có Bác sĩ hoặc Y sĩ, Hộ sinh viên được chỉ định thuốc cấp cứu trong
trường hợp đỡ đẻ) [8], [13] và những người này bắt buộc phải có chứng chỉ hành
nghề [39]. Tuy nhiên, kết quả điều tra (Bảng 3.14) cho thấy vẫn còn một tỷ lệ nhất
định người khám bệnh tại các TYT xã nghiên cứu không phải là Bác sĩ hoặc Y sĩ.
Tỷ lệ này chiếm tới 59,9% ở nhóm đối chứng (bao gồm cả tỷ lệ người được phỏng
vấn không biết người khám bệnh là ai), trong khi đó ở nhóm can thiệp chỉ là 21,8%.
Tỷ lệ người được phỏng vấn ở nhóm đối chứng trả lời không biết người khám bệnh
là ai chiếm 20,4%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm can thiệp chỉ 2,2%; điều này chứng tỏ
các TYT xã nhóm can thiệp đã chú trọng hơn đến việc giao tiếp ứng xử giữa thầy
thuốc và người bệnh, đeo thẻ viên chức và cấp đơn thuốc đầy đủ cho người bệnh.
Một điểm cần được nhấn mạnh thêm là các sự khác biệt nêu trên đều có ý nghĩa
130
thống kê với p<0,05, trong khi số lượng và cơ cấu cán bộ giữa các TYT xã nghiên
cứu là khá tương đồng với nhau.
Tỷ lệ người được phỏng vấn trả lời được hướng dẫn sử dụng thuốc đầy
đủ, dễ hiểu, được cấp thuốc đúng, đủ như trong đơn và điều trị khỏi bệnh tại các
xã của nhóm can thiệp đều cao hơn tại các xã của nhóm đối chứng và các sự
khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (Bảng 3.15). Các kết quả này
cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát các chỉ số kê đơn thuốc hợp lý tại
các TYT xã của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05 so với
các TYT xã của nhóm đối chứng.
Theo quy định của Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
BHYT [19], [26], [41], người tham gia BHYT khi đi KCB tại TYT xã không phải
cùng chi trả chi phí KCB BHYT. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy có 2 người
ở nhóm đối chứng trả lời là phải trả thêm tiền khi đi KCB với lý do trả phần
chênh lệch giữa chi phí KCB thực tế và chi phí KCB được BHYT thanh toán của
dịch vụ khâu vết thương (Bảng 3.15). Tại thời điểm nghiên cứu, giá của dịch vụ
khâu vết thương phần mềm tổn thương nông <10cm tại tuyến xã của tỉnh Kon
Tum là 17.500 đồng [50]. Trên thực tế giá 1 sợi chỉ để khâu vết thương này đã là
25.000 đồng, chưa kể đến chi phí về bông, băng, cồn, gạc, thuốc sát khuẩn, tiền
công... Trong khi đó mức giá tối đa của dịch vụ này theo quy định tại Thông tư
liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 29/02/2012 giữa Bộ Y tế và Bộ Tài
chính là 155.000 đồng [20]. Qua tìm hiểu của chúng tôi, NVYT tại các TYT xã
thường có tâm lý không muốn triển khai DVKT vì phải chịu bù lỗ do giá dịch vụ
quá thấp hoặc cực chẳng đã thì phải thu thêm tiền của người bệnh do sợ làm trái
quy định của nhà nước về thu một phần viện phí. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cần
thiết phải điều chỉnh, bổ sung giá các DVKT tại tuyến xã để bảo đảm chi phí tối
thiểu là việc làm hết sức cần thiết.
Bảng 3.16 cho thấy thái độ của NVYT tại các TYT xã can thiệp có nhiều
chuyển biến rất tích cực so với các TYT xã đối chứng. Tỷ lệ hài lòng với dịch vụ
KCB tại các TYT xã can thiệp là 93,4%, cao hơn các TYT xã đối chứng 15,3% và
131
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nguyên nhân chưa hài lòng là
thuốc chữa không khỏi bệnh, TYT không cấp thuốc theo đơn, thái độ NVYT không
tôn trọng và các nguyên nhân khác, trong đó tỷ lệ các nguyên nhân này tại các TYT
xã can thiệp đều thấp hơn tại các TYT xã đối chứng và các sự khác biệt này đều có
ý nghĩa thống kê với p<0,05. Đa số người tham gia BHYT đều muốn chọn nơi đăng
ký KCB là TYT xã (94,6% ở nhóm can thiệp và 89,0% ở nhóm đối chứng). Điều
này cho thấy, mô hình thí điểm đã có những tác động rất tốt đối với người tham gia
BHYT và NVYT.
Khi phân tích đa biến với hồi quy logistic (Bảng 3.17) để loại bỏ các yếu tố
gây nhiễu, cho thấy với các yếu tố khác như nhau, người sử dụng dịch vụ thuộc các
xã can thiệp có xác suất hài lòng với dịch vụ KCB cao gấp 2,3 lần so với những
người thuộc các xã đối chứng và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (OR = 2,3;
95%CI: 1,1 - 4,7). Điều này chứng tỏ mô hình thí điểm đã có những tác động tích
cực và rõ rệt so với nhóm đối chứng.
4.2.2.3. Một số chỉ số KCB BHYT
Tại Bảng 3.19 cho thấy, cũng tương tự như huyện Kon Rẫy, tổng số lượt
khám bệnh, số lượt khám bệnh BQ và tần suất khám/thẻ/năm của 3 TYT xã can
thiệp năm 2012 đều tăng so với năm 2011. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác
với kết quả nghiên cứu của Nhóm CBEH Việt Nam là tỷ lệ gia tăng về tình hình
khám bệnh ngoại trú không có xu hướng rõ rệt, có 4/7 bệnh viện tăng từ 3,1% -
33,7%, còn lại 3 bệnh viện thì lại giảm số lượt khám bệnh [64], tuy nhiên đây là
nghiên cứu tại 8 bệnh viện tuyến huyện của 4 tỉnh thực hiện khoán quỹ định suất
theo quy định tại Thông tư liên tịch số 21/2005/TTLT-BYT-BTC ngày 27/7/2005
của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT bắt buộc. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng khác với kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược và
Chính sách y tế là tỷ lệ này có xu hướng giảm khi thực hiện PTTT theo định suất
quy định tại Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của
liên Bộ Y tế và Bộ Tài chính (cụ thể là ở tỉnh Hà Nam, năm 2009, trung bình 1
người có thẻ BHYT KCB tại TYT xã 3,1 lần, nhưng từ năm 2010 khi áp dụng
132
PTTT theo định suất, chỉ số này giảm xuống chỉ còn 1,7 lần; ở tỉnh Kiên Giang, chỉ
số này giảm từ 2,3 lần năm 2009 xuống còn 1,4 lần năm 2010) [52].
Đặc biệt đáng lưu ý là số lượt chuyển tuyến năm 2012 so với năm 2011 giảm
18,1%, tỷ lệ chuyển tuyến giảm 33,7% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
p<0,05; tỷ lệ lượt KCB tại TTYT huyện so với tổng số khám tại TYT xã năm 2012
so với năm 2011 giảm 37,4%; tỷ lệ lượt KCB ngoại trú giảm 23,5%, tỷ lệ lượt KCB
nội trú tăng 19,0% tại TTYT huyện và các sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê
với p<0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của
Nhóm CBEH Việt Nam là chuyển tuyến ngoại trú có xu hướng tăng lên ở hầu hết
các bệnh viện [64] và cũng khác với kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược và
Chính sách y tế là tỷ lệ chuyển tuyến có xu hướng tăng lên khi thực hiện PTTT theo
định suất (ở huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam, tỷ lệ chuyển tuyến từ TYT xã lên
Bệnh viện huyện năm 2009 là 9,3%, năm 2010 tăng lên 14%; ở huyện Kiên Lương
tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ này năm 2009 là 11,9%, năm 2010 tăng lên 14,3%) [52].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chất lượng KCB tại các TYT xã
nghiên cứu đã được nâng lên rõ rệt, hầu hết các bệnh thông thường đều được giải
quyết tại tuyến xã, TYT xã chỉ chuyển những người bệnh nặng vượt quá khả năng
chuyên môn lên tuyến huyện và người dân ngày càng tin tưởng hơn vào dịch vụ
KCB của TYT xã.
Tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT huyện có giấy giới thiệu trong năm
2012 là 78,0%, tăng 4,3 điểm phần trăm so với năm 2011 và sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này cho thấy tỷ lệ người bệnh được KCB tại TTYT
huyện có giấy giới thiệu trong năm 2012 đã có sự tăng lên đáng kể so với năm 2011
và người tham gia BHYT đã có sự hiểu biết tương đối tốt về trách nhiệm và quyền
lợi khi sử dụng thẻ BHYT trong KCB.
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 với năm 2011 của một số chỉ số KCB
BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.20) cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng tất cả chỉ số của nhóm can thiệp
đều ít hơn nhóm đối chứng, trừ tỷ lệ lượt KCB nội trú tại TTYT huyện. Điều này
133
chứng tỏ các TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm soát sự gia tăng các chỉ số
KCB tốt hơn và từ đó góp phần kiểm soát sự gia tăng chi phí KCB BHYT tốt hơn
so với các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ.
4.2.2.4. Chi phí KCB BHYT
Bảng 3.22 cho thấy cơ cấu chi phí KCB BHYT của 3 TYT xã can thiệp chủ
yếu là tiền thuốc chiếm 96-97%, tiền công khám, VTYTTH và DVKT chiếm tỷ lệ
không đáng kể. Cũng tương tự như huyện Kon Rẫy, chúng tôi đã loại bỏ yếu tố làm
tăng chi phí KCB BHYT do điều chỉnh giá dịch vụ và đã điều chỉnh giá trị chi phí
KCB BHYT năm 2011 về năm 2012 theo hệ số trượt giá do Tổng cục Thống kê
công bố. Tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT năm 2012 so với năm 2011 giảm
1,6%, trong đó chỉ có tiền thuốc là giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối (có ý
nghĩa thống kê với p<0,05); còn lại tiền công khám, tiền VTYTTH và tiền DVKT
đều tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối (không có ý nghĩa thống kê). Chi
BQ/lượt khám và chi BQ/thẻ năm 2012 đều giảm so với năm 2011. Trung vị
(median) chi phí/lượt khám năm 2011 và năm 2012 đều thấp hơn chi phí BQ/lượt
khám ở mức từ 2,2 đến 2,7 ngàn đồng, điều này cho thấy phần lớn chi phí/lượt
khám đều nằm ở dưới mức chi phí BQ/lượt khám. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
khác với kết quả nghiên cứu của Nhóm CBEH Việt Nam là chi phí BQ/lượt KCB
ngoại trú của hầu hết các bệnh viện đều tăng lên so với năm trước khi thực hiện
định suất, mức độ gia tăng dao động trong khoảng 18,2% - 30,6% [64]. Điều này
cho thấy, mặc dù tần suất cung ứng dịch vụ KCB BHYT năm 2012 của 3 TYT xã
can thiệp tăng so với năm 2011 (thể hiện ở tổng số lượt khám bệnh, số lượt khám
bệnh BQ, tần suất khám/thẻ/năm và tiền công khám đều tăng), tuy nhiên tổng chi
phí KCB BHYT của 3 TYT năm 2012 so với năm 2011 không tăng mà lại giảm,
trong đó tất cả các khoản mục đều tăng, chỉ có tiền thuốc là giảm, chứng tỏ các
TYT xã thực hiện khoán định suất đã có sự kiểm soát rất tốt vấn đề lạm dụng thuốc
BHYT, từ đó dẫn đến việc kiểm soát được chi phí KCB BHYT.
Kết quả nghiên cứu của Trần Quang Thông chi BQ/lượt khám của tuyến xã ở
2 huyện thực hiện thanh toán theo định suất như sau: Huyện Hà Trung (huyện đồng
134
bằng) năm 2008 (thanh toán theo dịch vụ) là 25 ngàn đồng, năm 2009 (thanh toán
theo định suất) là 22 ngàn đồng, gia tăng chi phí KCB BHYT năm 2009 so với năm
2008 là -11,2%; huyện Mường Lát (huyện miền núi) năm 2008 (thanh toán theo
dịch vụ) là 18,99 ngàn đồng, năm 2009 (thanh toán theo định suất) là 18,8 ngàn
đồng, gia tăng chi phí KCB BHYT năm 2009 so với năm 2008 là -0,8%; trong khi
đó kết quả nghiên cứu của chúng tôi về chi BQ/lượt khám năm 2011 là 41,2 ngàn
đồng và năm 2012 là 32,8 ngàn đồng cũng cao hơn nhiều và gia tăng chi phí KCB
BHYT năm 2012 so với năm 2011 cũng giảm nhiều hơn (-20,3%) so với nghiên cứu
của Trần Quang Thông. Gia tăng chi phí KCB BHYT tại tuyến xã năm 2009 so với
năm 2008 của huyện Hà Trung là -12,4%, của huyện Mường Lát là 5,8%, kết quả
của chúng tôi là -1,6% [46].
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB
BHYT giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.23) cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng tất cả các chỉ số của nhóm can
thiệp đều ít hơn nhóm đối chứng (trừ tỷ lệ tiền công khám, tỷ lệ tiền thuốc, tỷ lệ tiền
DVKT và chi phí/lượt khám cao nhất - max). Điều này một lần nữa lại chứng tỏ các
TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm soát tốt và có hiệu quả sự gia tăng chi phí
KCB BHYT so với các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ. Tỷ lệ gia tăng tỷ
lệ tiền công khám, tỷ lệ tiền thuốc và tỷ lệ tiền DVKT ở các TYT xã thực hiện
khoán định suất nhiều hơn các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ là tín
hiệu tốt, thể hiện các TYT xã thực hiện khoán định suất cung cấp dịch vụ KCB
ngày càng nhiều hơn, điều này hoàn toàn khác với lý thuyết về thanh toán theo
định suất là các cơ sở nhận định suất thường có xu hướng hạn chế cung cấp dịch
vụ cho người bệnh [37], [64], [85]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương
tự như kết quả nghiên cứu của Trần Quang Thông là gia tăng chi phí KCB BHYT
và chi BQ/lượt khám ở các TYT xã thực hiện thanh toán theo định suất ít hơn các
TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ [46].
Bảng 3.24 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với năm
2011 giảm 20,3% và giảm ở tất cả các nhóm đối tượng (trừ nhóm 5 có 5 người
135
nhưng không có ai đi khám bệnh trong năm 2011 và năm 2012 không có đối tượng
nào tham gia BHYT). Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm 2011 giảm
7,0% và giảm ở tất cả các nhóm đối tượng (trừ nhóm 1). Đáng chú ý nhất là nhóm 6
là nhóm giảm nhiều nhất cả chi phí KCB BQ trên lượt khám và chi phí KCB BQ
trên thẻ. Đây là nhóm tham gia BHYT tự nguyện và thường có sự lựa chọn ngược
hay lựa chọn bất lợi trong tham gia BHYT [38], [88], [102], nhưng khi thực hiện
khoán định suất không những chỉ kiểm soát được sự gia tăng chi phí KCB ở mỗi lần
KCB mà còn kiểm soát được sự gia tăng số lần KCB trong năm, điều này hiếm khi
có thể xảy ra đối với các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ.
Tại Bảng 3.25, khi so sánh tỷ lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên lượt khám
theo nhóm đối tượng giữa các TYT xã thuộc hai nhóm cho thấy có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều ít hơn
nhóm đối chứng. Điều này chứng tỏ các TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm
soát gia tăng chi phí KCB BHYT trong mỗi lần sử dụng dịch vụ KCB tốt hơn các
TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ. Tỷ lệ gia tăng chi phí KCB BQ trên thẻ
theo nhóm đối tượng giữa các TYT xã thuộc hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng BQ chung và ở các nhóm 3, 4, 6 của
nhóm can thiệp ít hơn nhóm đối chứng. Điều này lại một lần nữa chứng tỏ các
TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm soát gia tăng chi phí KCB BHYT thông
qua kiểm soát số lần sử dụng dịch vụ KCB trong năm tốt hơn các TYT xã thực
hiện thanh toán theo dịch vụ, đặc biệt là đối với nhóm 3 và nhóm 4 là những nhóm
dễ mắc bệnh hơn so với những nhóm khác, nhóm 6 là nhóm tham gia BHYT tự
nguyện khi thường xuyên phải sử dụng dịch vụ KCB và là nhóm có sự lựa chọn
ngược trong tham gia BHYT.
Tại Bảng 3.26 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với
năm 2011 đều giảm ở cả 2 giới. Chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so với năm
2011 giảm 7,0%, trong đó nam giảm 28,0% và nữ tăng 2,5%. Điều này cho thấy mô
hình thí điểm đã có sự kiểm soát tốt chi phí KCB BHYT trong mỗi lần sử dụng dịch
vụ KCB ở cả 2 giới, kiểm soát tốt số lần sử dụng dịch vụ KCB đối với nam giới, tuy
136
nhiên nữ giới lại sử dụng dịch vụ KCB cao hơn so với năm chưa thực hiện định suất
có thể do đặc điểm của nữ giới dễ mắc bệnh hơn và có nhu cầu sử dụng dịch KCB
nhiều hơn nam giới.
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BQ
theo giới tính giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.27) cho thấy có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều ít
hơn nhóm đối chứng. Điều này lại một lần nữa chứng tỏ các TYT xã thực hiện
khoán định suất kiểm soát gia tăng chi phí KCB BHYT tốt hơn các TYT xã thực
hiện thanh toán theo dịch vụ.
Tại Bảng 3.28 cho thấy chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 so với
năm 2011 đều giảm ở tất cả các nhóm tuổi và chi phí KCB BQ trên thẻ năm 2012 so
với năm 2011 cũng đều giảm ở các nhóm tuổi (trừ nhóm tuổi từ 6-14). Điều này lại
một lần nữa chứng tỏ thêm các TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm soát gia
tăng chi phí KCB BHYT tốt hơn các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ.
Khi so sánh tỷ lệ gia tăng năm 2012 so với năm 2011 của chi phí KCB BQ
theo nhóm tuổi giữa các TYT xã thuộc hai nhóm (Bảng 3.29) cho thấy có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05, trong đó tỷ lệ gia tăng của nhóm can thiệp đều
ít hơn nhóm đối chứng ở tất cả các nhóm tuổi. Điều này lại một lần nữa chứng tỏ
thêm các TYT xã thực hiện khoán định suất kiểm soát gia tăng chi phí KCB BHYT
tốt hơn các TYT xã thực hiện thanh toán theo dịch vụ.
Bàn luận về công thức định suất áp dụng trong mô hình thí điểm:
Bảng 3.30 cho thấy suất phí ban đầu theo kế hoạch được xác định là 38.200
đồng/thẻ/năm cho mỗi xã. Do tần suất KCB của 3 xã đều lớn hơn 1,1 nên cả 3 xã
đều nhận được số kinh phí bù đắp phần thiếu hụt của quỹ định suất. Ngưỡng suất
phí được bù đắp kinh phí khi tần suất KCB =1,1 là 42.000 đồng. Suất phí thực tế
của mỗi xã sẽ bằng suất phí theo kế hoạch nhân với tần suất KCB của xã đó. Suất
phí thiếu hụt của mỗi xã sẽ bằng suất phí thực tế của xã đó trừ đi ngưỡng suất phí
được bù đắp kinh phí. Suất phí sau điều tiết của mỗi xã sẽ bằng suất phí theo kế
hoạch cộng với suất phí thiếu hụt của xã đó. Vì vậy, xã có tần suất KCB càng cao
137
thì suất phí sau điều tiết càng cao và ngược lại. Số tiền được bù đắp thiếu hụt quỹ
định suất của mỗi xã sẽ bằng suất phí thiếu hụt của xã đó nhân với số thẻ BHYT
đăng ký KCB ban đầu tại cùng xã đó hoặc bằng quỹ định suất sau điều tiết trừ đi
quỹ định suất theo kế hoạch của xã đó. Số tiền được bù đắp thiếu hụt quỹ định suất
lên đến 119.705.000 đồng, trong đó nhiều nhất là xã Ngọc Tụ (50.577.000 đồng) và
ít nhất là xã Đăk Rơ Nga (22.623.000 đồng). Điều này cho thấy tần suất KCB càng
cao thì số tiền được bù đắp thiếu hụt quỹ định suất càng lớn và ngược lại.
Tổng số chi phí KCB (không tính chi phí DVKT) chiếm 91,8% quỹ định
suất của 3 xã, điều này chứng tỏ quỹ định suất được sử dụng khá hiệu quả, phần
lớn kinh phí của quỹ định suất đều giành cho KCB. Chi phí KCB BQ trên lượt
khám của các xã tỷ lệ thuận với tỷ lệ sử dụng quỹ định suất của xã đó, cụ thể là xã
Đăk Trăm có tỷ lệ sử dụng quỹ định suất nhiều nhất (97,4%) tương ứng với chi
phí KCB BQ trên lượt khám cao nhất (34.200 đồng) và xã Đăk Rơ Nga có tỷ lệ sử
dụng quỹ định suất ít nhất (86,5%) tương ứng với chi phí KCB BQ trên lượt khám
thấp nhất (31.500 đồng). Việc quy định phần kinh phí kết dư quỹ định suất không
được xem như là một nguồn thu của đơn vị mà phải chuyển vào quỹ ĐTKT của
năm sau đã khuyến khích các TYT xã sử dụng quỹ định suất thông qua tăng
cường cung cấp các dịch vụ KCB cho người bệnh. Trong trường hợp mô hình thí
điểm này, số tiền kết dư năm 2012 là 39.745.000 đồng sẽ được chuyển vào quỹ
ĐTKT năm 2013. Điều này hoàn toàn khác với nguyên lý định suất trước đây là
các cơ sở nhận định suất thường có xu hướng hạn chế cung cấp dịch vụ cho người
bệnh để tiết kiệm số kinh phí đã được khoán chi [37], [64], [85]. Đồng thời, việc
quy định quỹ định suất của TYT xã không bao gồm chi phí KCB của người có thẻ
BHYT tại cơ sở KCB khác và chi phí KCB ở tuyến trên (có kiểm soát chuyển
tuyến) là biện pháp rất quan trọng để bảo đảm an toàn cho quỹ định suất. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của Nhóm CBEH Việt Nam
là tình trạng âm quỹ xảy ra ở hầu hết các bệnh viện (6/8 bệnh viện) vào năm thực
hiện khoán định suất. Chỉ có 2 bệnh viện là dư quỹ, đó là Hà Trung (Thanh Hóa)
và Tân Lạc (Hòa Bình). Tuy nhiên, theo ý kiến lãnh đạo của 2 bệnh viện này thì
138
đến cuối năm 2009, Hà Trung và Tân Lạc cũng sẽ bị âm quỹ [64]. Kết quả nghiên
cứu của Trần Quang Thông cho thấy năm 2009 thí điểm khoán quỹ định suất
Bệnh viện huyện Mường Lát kết dư 681 triệu đồng và Bệnh viện huyện Hà Trung
thâm hụt quỹ định suất là 2.015 triệu đồng [46].
Tổng kinh phí Quỹ ĐTKT của 3 xã lên đến 119.705.000 đồng, chiếm 24,6%
quỹ định suất, trong đó số kinh phí phải bổ sung từ nguồn khác (Dự án HEMA) gấp
1,5 lần so với số kinh phí theo định mức là 10% quỹ định suất. Do phần kinh phí
thiếu hụt quỹ định suất quá lớn nên tất cả số tiền của quỹ ĐTKT đều được dùng để
điều tiết. Nguồn kinh phí bảo đảm cho quỹ ĐTKT sẽ được lập từ 5 nguồn sau đây:
(i) BHXH tỉnh: Trích từ số dư quỹ BHYT (Khoản 1, Điều 21, Chương VII, Thông
tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế - Bộ Tài
chính) và theo quyết định của UBND tỉnh; (ii) TYT xã: Nếu tần suất KCB trong
năm thấp dưới 0,9 lượt/đầu thẻ BHYT/năm (dưới 90% so với chỉ tiêu mô hình thí
điểm), TYT sẽ phải hoàn trả phần suất phí thừa để đóng góp cho quỹ ĐTKT năm
sau; (iii) Quỹ ĐTKT: Bản thân quỹ ĐTKT, nếu hết năm mà vẫn còn số dư thì số
tiền đó sẽ chuyển sang cho quỹ ĐTKT năm sau; (iv) Nguồn từ TTYT huyện (bên
giữ quỹ định suất): Trong trường hợp tất cả các xã của huyện đều có dư quỹ thì
khoản dư này sẽ được chuyển sang quỹ ĐTKT cho năm sau; (v) Nguồn bổ sung từ
các nhà tài trợ khác: Trong trường hợp tổng kinh phí từ các nguồn nói trên vẫn
không đủ cho quỹ ĐTKT (ở mức tối đa bằng 0,1 lần quỹ định suất) mà lại có một
nguồn kinh phí khác, thì nguồn đó sẽ được chấp nhận để bổ sung quỹ ĐTKT. Trong
trường hợp mô hình thí điểm này, Dự án HEMA đã hỗ trợ 70.948.000 đồng cho quỹ
ĐTKT. Trong trường hợp chi phí cho KCB của các TYT xã lớn hơn quỹ định suất
và sau khi đã cộng hoặc trừ số kinh phí điều tiết của quỹ ĐTKT, TTYT huyện sẽ
phải bù bằng ngân sách quỹ KCB của TTYT huyện để chi trả cho người có thẻ
BHYT. Trong trường hợp quỹ KCB của huyện cũng thiếu thì BHXH tỉnh sẽ bù kinh
phí từ quỹ KCB của tỉnh. Ban đầu khi thiết kế mô hình thí điểm, quỹ này được gọi
là quỹ ĐTKT. Tuy nhiên, để mô hình này phù hợp với các quy định hiện hành
của nhà nước đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ (Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
139
ngày 25/4/2006 và Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính
phủ [25], [29]), quỹ này nên được đổi tên gọi là quỹ điều tiết và chỉ thực hiện
chức năng điều tiết kinh phí cho quỹ định suất, không có nội dung chi khen thưởng
và các nội dung chi khác như thiết kế ban đầu nữa.
Một điểm cũng cần nhấn mạnh thêm là quỹ định suất của các TYT xã không
dùng để thanh toán chi phí đối với các DVKT và tiền ngày giường bệnh. Các dịch
vụ này sẽ được thanh toán riêng theo phương thức dịch vụ. Việc thanh toán chi phí
DVKT theo phương thức dịch vụ là để khuyến khích các TYT xã tăng cường triển
khai các DVKT theo phân tuyến do Bộ Y tế quy định vì hiện tại các TYT xã trên
địa bàn tỉnh Kon Tum nói chung [44] và các TYT xã nghiên cứu triển khai thực
hiện các DVKT còn rất hạn chế. Chỉ đến khi tất cả các TYT xã thực hiện khoán
định suất triển khai đầy đủ các DVKT theo phân tuyến thì khi đó mới kết cấu chi
phí DVKT vào trong suất phí. TYT tuyến xã chủ yếu làm nhiệm vụ KCB ngoại trú,
việc điều trị nội trú không đáng kể và số lượng người bệnh nội trú có sự khác biệt
rất lớn giữa các TYT, nên tiền ngày giường bệnh cũng được thanh toán riêng theo
phương thức dịch vụ mà không được kết cấu vào trong suất phí.
Trong năm 2012, tổng kinh phí thu được từ dịch vụ KCB (chưa tính chi phí
DVKT không đáng kể và không có tiền ngày giường bệnh) của 3 TYT xã thí điểm
là 447.827.000 đồng. Sau khi trừ chi phí thuốc (436.189.000 đồng) và VTYTTH
(585.000 đồng) còn lại 11.054.000 đồng (Ngọc Tụ: 3.407.000 đồng, Đăk Rơ Nga:
3.015.000 đồng và Đăk Trăm: 4.631.000 đồng). Đây chính là tiền công khám, một
nguồn thu khá khiêm tốn so với một năm làm việc của 21 NVYT tại 3 TYT xã với
tổng số lượt KCB là 13.817. BQ mỗi ngày làm việc mỗi NVYT khám điều trị được
2,5 người bệnh và thực hiện các nhiệm vụ của công tác YTDP, triển khai các
chương trình mục tiêu quốc gia, truyền thông giáo dục sức khỏe, dân số và kế hoạch
hóa gia đình... Số tiền này sau khi trích 35% (3.868.900 đồng) để tạo nguồn cải cách
tiền lương, phần còn lại (7.185.100 đồng) được TTYT huyện quản lý và sử dụng
cho các TYT xã theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
140
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đây là một
trong những cơ sở khoa học để đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền trong việc
điều chỉnh giá dịch vụ KBCB tại TYT tuyến xã và có những chính sách ưu tiên đầu
tư cho y tế tuyến xã về CSVC, TTB, nhân lực, chế độ chính sách cho NVYT, bảo
đảm nguồn tài chính và cơ chế hoạt động cho các TYT tuyến xã.
Đề xuất công thức xác định suất phí và quỹ định suất cho mỗi TYT
xã trong các năm tiếp theo [7], [106]:
* Điều chỉnh hàng năm của suất phí:
Cy+1 = Uy x fy+1 x k x py
Cy+1 = Suất phí cho một đối tượng hưởng BHYT trong năm sau
fy+1 = Chỉ tiêu thống nhất đối với tần suất KCB/thẻ/năm tại TYT = 1,0
U = (M1+M2+S+V1) = Chi phí BQ cho 1 lượt khám tại TYT
Uy = Chi phí BQ cho 1 lượt khám tại TYT trong năm nay
k = hệ số trượt giá do Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định hàng năm (hiện tại
là 1,1)
py = Yếu tố hoạt động trong năm nay
= ∫(tần suất KCB, kiểm soát chi phí, chất lượng dịch vụ)
= 1 (giá trị mặc định; sẽ thay đổi khi được xác định cụ thể)
Yếu tố số học “p” chỉ ra kết quả thực hiện của cơ sở KCB, do đó, trong
tương lai, nó sẽ giúp xác định việc thanh toán theo định suất dựa trên kết quả thực
hiện bao gồm các yếu tố như hiệu quả lâm sàng/hiệu quả KCB, tiếp cận và sự công
bằng về tiếp cận với DVYT, hoạt động phối hợp và liên tục, mức độ tập trung cho
người bệnh và hiệu quả chi phí. Nếu không có gì thay đổi, yếu tố “p” được đặt giá
trị mặc định bằng 1.
* Điều chỉnh hàng năm của quỹ định suất cho mỗi TYT xã:
Quỹ ĐS y+1 = (N y+1 x C y+1) + (N y+1 x Quỹ ĐT y+1)
Quỹ ĐS = Quỹ định suất
Ny+1 = Số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở
Cy+1 = Suất phí trên đầu thẻ
Quỹ ĐT y+1 = Quỹ điều tiết = 10% C y+1
141
4.2.2.5. Nghiên cứu định tính về hiệu quả can thiệp của mô hình thí điểm
Mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã
triển khai thuận lợi và đạt kết quả tốt là nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành
Y tế và BHXH, sự hưởng ứng nhiệt tình và sự tham gia tích cực của các đơn vị có
liên quan và sự hỗ trợ kinh phí của Dự án HEMA để triển khai thực hiện. Một trong
những nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của mô hình thí điểm là hệ
thống tổ chức mạng lưới y tế tại tuyến huyện của tỉnh Kon Tum ổn định, tập trung
đầu mối và hoạt động có hiệu quả. Ngành Y tế tỉnh Kon Tum được quản lý thống
nhất theo ngành dọc từ tỉnh đến tận thôn bản. TTYT tuyến huyện bao gồm hai hệ
YTDP và bệnh viện, trực tiếp quản lý toàn diện các TYT tuyến xã trên địa bàn, rất
thuận lợi cho công tác chỉ đạo, điều hành mọi mặt hoạt động của TYT tuyến xã.
Khác với một số tỉnh, thành phố khác, việc thay đổi chủ thể quản lý TYT tuyến xã
từ TTYT tuyến huyện sang Phòng Y tế tuyến huyện và sau đó lại chuyển về TTYT
tuyến huyện; việc chia tách TTYT tuyến huyện thành bệnh viện huyện và TTYT
huyện chỉ thực hiện chức năng y tế dự phòng (có thời gian gọi đơn vị này là TTYT
dự phòng huyện), trong đó TTYT huyện trực tiếp quản lý toàn diện TYT xã
nhưng việc quản lý và chỉ đạo công tác KCB BHYT lại do bệnh viện huyện
đảm nhận thông qua hợp đồng KCB BHYT với cơ quan BHXH. Điều này đã
gây không ít những khó khăn và bất cập trong công tác KCB BHYT tại TYT
tuyến xã [34], [52], [54]. Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng
Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở Y tế, Phòng Y tế theo hướng hợp nhất tất cả các đơn vị y tế trên địa bàn
huyện vào TTYT tuyến huyện và giao cho TTYT tuyến huyện trực tiếp quản lý toàn
diện TYT tuyến xã trên địa bàn. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho TYT xã
hoạt động có hiệu quả hơn, trong đó có công tác KCB BHYT. Việc ứng dụng
CNTT trong quản lý công tác KCB và thanh toán chi phí KCB đã nâng cao hiệu
suất hoạt động của TYT xã, tiết kiệm được thời gian, nhân lực, kinh phí, việc kê
đơn thuốc trong điều trị ngoại trú cho người bệnh được thực hiện nhanh chóng và
tránh được những sai sót trong thanh toán chi phí KCB BHYT.
142
Tài chính cho hoạt động của y tế tuyến xã còn nhiều bất cập, giá dịch vụ
KBCB thấp. Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2012 của Sở Y tế tỉnh Kon Tum
cho thấy định mức phân bổ kinh phí chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước BQ
cho TYT xã là 51,233 triệu đồng/giường bệnh/năm (mỗi TYT xã có 5 giường
bệnh). Sau khi trừ các nội dung chi bắt buộc như lương, phụ cấp lương, các khoản
đóng góp theo lương (BHXH, BHYT, công đoàn phí), chế độ bảo hộ lao động và
chế độ nghỉ phép; BQ mỗi TYT xã còn khoảng 15 triệu đồng, cao hơn nhiều so với
định mức tối thiểu do Bộ Tài chính quy định là 10 triệu đồng/trạm/năm [6]. Số kinh
phí này dùng để chi cho tất cả các hoạt động thường xuyên trong 1 năm của trạm,
bao gồm điện thắp sáng, điện thoại, nước, xăng xe, văn phòng phẩm, dụng cụ và
công cụ làm việc, vệ sinh môi trường, hội họp, công tác phí... Với số kinh phí ít ỏi
này, hầu như không thể đáp ứng được yêu cầu hoạt động tối thiểu của một TYT xã.
Như đã đề cập ở các phần khác của nghiên cứu này, giá dịch vụ KBCB tại TYT
tuyến xã của tỉnh Kon Tum rất thấp, cụ thể là từ ngày 01/9/2012 dịch vụ khám lâm
sàng chung điều chỉnh từ 800 đồng lên 3.000 đồng và ngày giường bệnh điều chỉnh
từ 5.000 đồng lên 8.000 đồng [49]. Do giá các dịch vụ thấp, nên các TYT xã không
muốn triển khai nhiều DVKT, vì càng làm càng lỗ và cũng không có nguồn để bổ
sung khoản kinh phí thiếu hụt này. Một minh chứng cho giá dịch vụ KBCB tuyến
xã rất thấp là trong năm 2012 cả 3 TYT xã triển khai mô hình thí điểm với 21
NVYT nhưng chỉ thu được vỏn vẹn khoản chênh lệch thu - chi từ dịch vụ KCB là
11.054.000 đồng. Kết quả nghiên cứu chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
cho thấy chi phí lao động chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi phí, tiếp theo là chi
phí thuốc, VTYTTH và sau đó là khấu hao nhà cửa, TTB; không có chi phí cho đào
tạo và nghiên cứu; tỷ lệ chi phí vận hành, sửa chữa nhỏ và chi thường xuyên khác là
không đáng kể. Tỷ lệ thu hồi chi phí BQ là 6,2% (chỉ tính chi phí thường xuyên) và
5,4% (tính cả chi phí đầu tư và chi phí thường xuyên) so với mức phí tối đa. Điều
này cho thấy hoạt động của các TYT xã hiện đang rất thiếu kinh phí.
Các ý kiến PVS và TLN khác cho thấy hầu hết đều thống nhất đánh giá rất
cao về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất
143
tại TYT xã, nhất là chất lượng dịch vụ KCB được nâng lên, tỷ lệ chuyển tuyến
giảm, tần suất KCB vượt chỉ tiêu mong đợi, người dân ngày càng tin tưởng hơn và
hài lòng hơn với dịch vụ KCB tại TYT xã so với trước khi triển khai thực hiện mô
hình thí điểm, quỹ định suất tại các TYT xã được bảo đảm và có kết dư. Nhiều ý
kiến đề nghị nhà nước cần tăng cường đầu tư đồng bộ và toàn diện cho y tế tuyến
xã; đổi mới cơ chế tài chính đối với y tế tuyến xã; điều chỉnh giá dịch vụ KBCB
tuyến xã theo hướng từng bước tính đúng, tính đủ chi phí; tiếp tục duy trì mô hình
thí điểm ở các xã đang triển khai và mở rộng ra các xã khác nếu có điều kiện; tổng
kết, đánh giá để rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình ra phạm vi toàn tỉnh trong
thời gian tới; cần tách riêng quỹ định suất của tuyến xã với tuyến huyện và giao cho
TTYT huyện quản lý, điều tiết; sửa đổi công thức tính suất phí và quỹ định suất,
bảo đảm quỹ định suất năm sau không nhỏ hơn so với năm trước và nhân với hệ số
trượt giá; đầu tư xây dựng TYT xã đạt chuẩn theo quy định.
4.2.2.6. Chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã
Do hạn chế của thông tin y tế và hệ thống kế toán ở Việt Nam nói chung và
trong ngành Y tế nói riêng, việc ước tính chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT
xã không phải là một việc làm đơn giản. Đây là một trong những nghiên cứu chi phí
đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam. So với
nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Hoàng Văn Minh [87], nghiên cứu của chúng tôi
tính toán chi phí đầy đủ của dịch vụ KCB tại TYT xã bao gồm cả chi phí đầu tư
(khấu hao nhà cửa và TTB).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đặc điểm cơ bản và thống kê hoạt động của
các TYT xã nghiên cứu (Bảng 3.32) có sự khác biệt đáng kể so với nghiên cứu của
nhóm nghiên cứu Hoàng Văn Minh [87]. Cụ thể là BQ chung số NVYT, dân số
phục vụ TB, tỷ lệ dân số tham gia BHYT, số lượt khám ngoại trú và tần suất sử
dụng dịch vụ BQ trong nghiên cứu của chúng tôi theo thứ tự tương ứng là 7 người,
3.155 người, 95,8%, 4.096 lượt và 1,3 lượt; còn trong nghiên cứu của nhóm nghiên
cứu Hoàng Văn Minh theo thứ tự tương ứng là 4,4 người, 6.887 người, 54,5%,
6.010 lượt và 0,9 lượt.
144
Chi phí đơn vị BQ chung của 6 TYT xã (Bảng 3.33) với 3 thành phần chi
phí là 55,9 ngàn đồng, với 5 thành phần chi phí là 134,8 ngàn đồng và với 7 thành
phần chi phí là 147,2 ngàn đồng. Khác với nghiên cứu của nhóm nghiên cứu
Hoàng Văn Minh [87], chi phí đơn vị BQ chung trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn gấp nhiều lần (2,75 lần đối với 3 thành phần chi phí và 3 lần đối với 5
thành phần chi phí). Cụ thể là trong nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Hoàng Văn
Minh, chi phí BQ chung với 3 thành phần chi phí là 20,3 ngàn đồng và với 5 thành
phần chi phí là 44,6 ngàn đồng.
Cũng tương tự như nghiên cứu của nhóm nghiên cứu Hoàng Văn Minh [87],
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chi phí lao động chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng chi phí, tiếp theo là chi phí thuốc, VTYTTH và sau đó là khấu hao nhà
cửa, TTB; không có chi phí cho đào tạo và nghiên cứu; tỷ lệ chi phí vận hành, sửa
chữa nhỏ và chi thường xuyên khác là không đáng kể (Bảng 3.34).
Tỷ lệ thu hồi chi phí BQ chỉ tính chi phí thường xuyên trong nghiên cứu của
chúng tôi bằng 6,2% với mức phí tối đa theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04
của liên Bộ Y tế - Bộ Tài chính [20] và bằng 3,7% với mức phí tối đa theo quy định
tại Quyết định số 38 của UBND tỉnh Kon Tum [49], thấp hơn nhiều so với nghiên
cứu của nhóm nghiên cứu Hoàng Văn Minh [87] là 18,9%. Nếu tính cả chi phí đầu
tư và chi phí thường xuyên, tỷ lệ thu hồi chi phí BQ lại còn thấp hơn nữa, bằng
5,4% với mức phí tối đa theo quy định tại Thông tư liên tịch số 04 của liên Bộ Y tế
- Bộ Tài chính và bằng 3,2% với mức phí tối đa theo quy định tại Quyết định số 38
của UBND tỉnh Kon Tum (Bảng 3.35). Điều này cho thấy các dịch vụ KCB của các
TYT xã nghiên cứu hiện đang rất thiếu kinh phí và cần quan tâm nâng mức thu của
các dịch vụ này trong thời gian tới.
Khoảng cách lớn giữa chi phí đơn vị của các dịch vụ và mức phí do người
bệnh chi trả phải ít nhất một phần được bảo đảm bởi BHYT xã hội hoặc các nguồn
khác của chính phủ nếu mục tiêu mở rộng bao phủ BHYT toàn dân có hiệu quả và
đáp ứng mục tiêu tăng cường CSSK ở tuyến cơ sở. Nếu thu hẹp khoảng cách này
145
bằng cách tăng mức phí do người bệnh chi trả sẽ làm xói mòn sự bảo vệ tài chính và
có khả năng tiếp tục làm giảm sự tiếp cận và sử dụng các dịch vụ của TYT xã.
Kết quả của nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng để xây dựng
giá định suất cho các TYT xã phản ánh chi phí thành phần của các dịch vụ được
cung cấp [74]. Sự hiểu biết chi phí đầy đủ của các DVYT ưu tiên được cung cấp có
thể đảm bảo rằng các cơ sở cung ứng dịch vụ được chi trả đầy đủ để duy trì và nâng
cao chất lượng hoạt động. Sự hiểu biết chi phí tương đối của các dịch vụ khác nhau
được cung cấp có thể giới thiệu các chính sách chi trả cho cơ sở cung ứng dịch vụ,
ưu tiên các dịch vụ chi phí - hiệu quả hơn mà có thể giải phóng các nguồn lực để
mở rộng phạm vi bao phủ BHYT. TYT xã có vai trò quan trọng trong việc cung ứng
các dịch vụ CSSKBĐ một cách chi phí - hiệu quả ở Việt Nam, đặc biệt là đối với
các rào cản tiếp cận tài chính và quá tải ở các bệnh viện tuyến tỉnh.
4.2.2.7. Một số vấn đề chung
Các kết quả nghiên cứu nhìn chung khá phù hợp với xu hướng chung khi
triển khai PTTT theo định suất, như kê đơn thuốc hợp lý hơn, tăng sử dụng thuốc
trong nước, kiểm soát tốt hơn chi phí KCB BHYT... Tuy nhiên, sự khác biệt không
lớn so với trước khi triển khai (2011) và so với 3 xã đối chứng. Có thể là do thời
gian triển khai vẫn còn ngắn, chưa phát huy hết hiệu quả của PTTT theo định suất.
Chi phí KCB phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có mô hình
bệnh tật, mức độ nặng nhẹ của bệnh... Đề tài nghiên cứu không đi sâu vào vấn đề
này, nên không đưa các biến số này vào phân tích, so sánh để đánh giá hiệu quả.
Tuy nhiên, trên thực tế các TYT tuyến xã chủ yếu khám và điều trị các bệnh thông
thường, chi phí KCB giữa các người bệnh có sự khác biệt không lớn (giá trị trung
bình và trung vị của chi phí KCB BHYT ở 3 TYT xã can thiệp năm 2011 tương ứng
là 41,2 ngàn đồng và 39,0 ngàn đồng, năm 2012 tương ứng là 32,8 ngàn đồng và
30,1 ngàn đồng; còn các giá trị này ở 3 TYT xã đối chứng năm 2011 tương ứng là
81,0 ngàn đồng và 72,9 ngàn đồng, năm 2012 tương ứng là 81,0 ngàn đồng và 73,6
ngàn đồng), do đó không có sự khác nhau đáng kể giữa trước và sau can thiệp, giữa
146
can thiệp và đối chứng về một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến mô hình và mức độ
nặng nhẹ của người bệnh giữa các nhóm nghiên cứu.
Các can thiệp trong đề tài này bao gồm cả một số hoạt động đào tạo, nâng
cao chất lượng KCB, như đào tạo về chuyên môn cho NVYT. Tuy nhiên, khi triển
khai PTTT theo định suất theo diện rộng (toàn quốc) có thể không có hoạt động đào
tạo chuyên môn như vậy cho tất cả các TYT tuyến xã. Vì vậy, một số kết quả
nghiên cứu về chuyên môn (như chất lượng kê đơn thuốc, chất lượng KCB được cải
thiện...) có thể là do tác động của các hoạt động đào tạo chuyên môn này, chứ
không phải là do triển khai thanh toán bằng khoán định suất đơn thuần. Để việc
triển khai được thuận lợi và nâng cao hiệu quả của phương thức này khi triển khai
ra phạm vi rộng hơn, chúng tôi đề xuất cần tổ chức các lớp đào tạo và đào tạo lại về
cách thức triển khai thực hiện PTTT, chẩn đoán và điều trị các bệnh thường gặp, kê
đơn thuốc hợp lý và các vấn đề có liên quan khác cho tất cả NVYT tuyến xã và
những NVYT có liên quan ở tuyến huyện. Nguồn kinh phí để tổ chức các lớp đào
tạo này được lấy từ 20% kết dư quỹ BHYT để lại cho các địa phương theo quy định
của Luật BHYT, kinh phí hoạt động hàng năm của TTYT tuyến huyện và kinh phí
của các chương trình, dự án đầu tư cho tuyến cơ sở.
4.3. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này có một số hạn chế nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, chưa tính toán được chi phí KCB BHYT đối với người tham gia
BHYT tại các xã nghiên cứu đến KCB tại các cơ sở y tế tuyến trên. Tuy nhiên, mô
hình thí điểm này và xu hướng của khoán quỹ định suất trong tương lai ở Việt
Nam không coi trọng quá mức vấn đề chuyển tuyến và vượt tuyến. Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật BHYT quy định mở thông tuyến KCB BHYT, từ
ngày 01/01/2016 sẽ mở thông tuyến KCB BHYT giữa tuyến xã và tuyến huyện
trên cùng địa bàn tỉnh [40]. Trong mô hình thí điểm này, tiêu chí quan trọng hàng
đầu để bảo đảm quỹ định suất cho mỗi TYT xã là tần suất KCB trong năm của
TYT xã đó. Do đó, các TYT xã khoán định suất phải tìm mọi cách để nâng cao
chất lượng dịch vụ KCB để thu hút nhiều người bệnh đến KCB tại TYT xã mình
147
nhằm mục đích tăng thêm nguồn kinh phí hoạt động cho trạm. Cụ thể là nếu TYT
xã đạt chỉ tiêu tần suất KCB từ 0,9 đến 1,1 lượt/năm thì được giữ nguyên suất phí
ban đầu, nếu TYT xã có tần suất KCB dưới 0,9 lượt/năm thì phải hoàn trả một
phần suất phí và nếu TYT xã có tần suất KCB trên 1,1 lượt/năm sẽ được nhận bổ
sung suất phí theo quy định. Sau 1 năm thực hiện, cả 3 TYT xã triển khai mô hình
thí điểm đều có tần suất KCB trên 1 lượt/năm. Mặt khác, chi phí KCB tại các cơ
sở y tế tuyến trên của TYT xã không chỉ phụ thuộc vào năng lực KCB của TYT xã
mà chủ yếu phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật và nhu cầu KCB của người dân. Một
vấn đề khác là nghiên cứu này sử dụng một số số liệu thứ cấp nên có thể độ tin
cậy chưa cao. Vấn đề này được khắc phục bằng cách chính NCS là người trực tiếp
thu thập tất cả các số liệu, số liệu thu được phải được làm sạch kỹ càng và việc
nhập, phân tích số liệu cũng do chính NCS thực hiện.
Thứ hai, chưa có số liệu so sánh, phân tích với số liệu điều tra ban đầu về
sự hài lòng của người bệnh tại các xã nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng
so sánh, phân tích số liệu điều tra ở thời điểm sau can thiệp của 3 xã thực hiện mô
hình thí điểm và 3 xã đối chứng một cách kỹ lưỡng và xây dựng mô hình hồi quy
logistic đa biến để phân tích mối liên quan giữa sự hài lòng của người bệnh với
một số yếu tố liên quan. Kết quả phân tích này cho thấy tỷ lệ người trả lời hài lòng
với dịch vụ KCB tại các TYT xã can thiệp là 93,4%, trong khi đó tỷ lệ này tại các
TYT xã đối chứng là 78,1%; với các yếu tố khác như nhau, người bệnh thuộc các
xã can thiệp có xác suất hài lòng với dịch vụ KCB cao gấp 2,3 lần so với những
người bệnh thuộc các xã đối chứng.
Thứ ba, có thể có những sai số nhớ lại do người được phỏng vấn không nhớ
hết được những nội dung được phỏng vấn; do yếu tố tâm lý riêng tư, nên có một số
ý kiến nhận xét chưa thật sự thỏa đáng, chưa đúng với thực tế của người được
phỏng vấn. Hạn chế này đã được khắc phục bằng cách chọn mẫu ngẫu nhiên đảm
bảo mang tính đại diện cho quần thể nghiên cứu; thiết kế bộ công cụ thu thập thông
tin (phiếu phỏng vấn, hướng dẫn PVS và TLN) với các câu hỏi và ngôn ngữ đơn
giản, dễ hiểu; sử dụng thông dịch viên người dân tộc thiểu số khi tiến hành phỏng
148
vấn sự hài lòng của người bệnh dân tộc thiểu số (nếu cần thiết); tổ chức điều tra thử
tại một xã để rút kinh nghiệm và chỉnh sửa lại bộ công cụ thu thập thông tin; ĐTV
khích lệ, động viên người được phỏng vấn chủ động, tự tin khi trả lời phỏng vấn; và
ĐTV chính là NCS nên đã khắc phục được phần lớn những vấn đề này.
Thứ tư, mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại
TYT tuyến xã trong nghiên cứu này chưa hoàn toàn giống với PTTT theo định suất
chuẩn tắc trên thế giới. Cụ thể là suất phí (hay quỹ định suất) trong mô hình thí
điểm này chỉ bao gồm chi phí KCB ngoại trú cho một người tham gia BHYT trong
một năm, không bao gồm chi phí cho các hoạt động YTDP, nâng cao sức khỏe và
quản lý các bệnh mạn tính tại cộng đồng. Kinh phí cho các hoạt động này được
phân bổ riêng và được bảo đảm từ ngân sách nhà nước (phân bổ theo giường bệnh
hoặc theo định mức biên chế và các chương trình ngành dọc thông qua PTTT theo
mục lục ngân sách) hoặc các dự án của các nhà tài trợ. Trong điều kiện thực tế
chính sách của Việt Nam như hiện nay, mô hình thí điểm này là hoàn toàn phù hợp
và có tính thực tiễn cao. Hiện tại, nội dung của mô hình thí điểm này đang được Bộ
Y tế tiếp tục thí điểm tại 4 tỉnh (Bắc Ninh, Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế và Khánh
Hòa) trong năm 2014 theo Quyết định số 5380/QĐ-BYT ngày 30/12/2013 của
Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Đề án triển khai thí điểm sửa đổi thanh toán chi
phí KCB BHYT theo định suất, nhằm làm cơ sở cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện các nội dung của Thông tư thanh toán chi phí KCB BHYT
theo định suất, sẽ được áp dụng trên phạm vi toàn quốc từ ngày 01/01/2016.
149
KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài cho phép rút ra các kết luận sau đây:
1. Thực trạng thanh toán chi phí KCB BHYT theo phương thức dịch vụ
tại một số TYT xã thuộc tỉnh Kon Tum năm 2011-2012
- Tổng số lượt khám bệnh tại 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ năm 2012
tăng 28,0% so với năm 2011; số lượt khám bệnh BQ và tần suất khám/thẻ năm 2012
đều tăng so với năm 2011.
- Tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ năm 2012
tăng 28,0% so với năm 2011, trong đó tất cả khoản mục đều tăng. Chi BQ/thẻ năm
2012 tăng 25,9% so với năm 2011.
- So với năm 2011, chi phí KCB BQ trên lượt khám năm 2012 của 3 TYT xã
thanh toán theo dịch vụ tăng ở tất cả các nhóm đối tượng, trừ nhóm 4.
Kết luận này cho thấy tại các TYT xã áp dụng PTTT theo dịch vụ có sự gia
tăng về cung ứng, sử dụng dịch vụ và chi phí KCB BHYT giữa năm 2012 so với
năm 2011.
2. Hiệu quả của phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định
suất tại một số TYT xã thuộc huyện Đăk Tô
- Tỷ lệ đơn thuốc sử dụng KS trong nước, tỷ lệ gia tăng đơn thuốc có tên
thuốc kê theo tên gốc và tỷ lệ gia tăng đơn thuốc kê thuốc KS phù hợp với chẩn
đoán của 3 TYT xã thí điểm định suất (100%; 120,5% và 11,6%) nhiều hơn 3 TYT
xã thanh toán theo dịch vụ (98,9%; 4% và -1,4%). Tỷ lệ gia tăng số đầu thuốc sử
dụng BQ/đơn của 3 TYT xã thí điểm định suất (2,6%) ít hơn 3 TYT xã thanh toán
theo dịch vụ (5,1%).
- Với các yếu tố khác như nhau, người sử dụng dịch vụ tại 3 TYT xã thí điểm
định suất có xác suất hài lòng với dịch vụ KCB cao gấp 2,3 lần so với người sử
dụng dịch vụ tại 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ.
- Tổng số lượt khám bệnh tại 3 TYT xã thí điểm định suất năm 2012 tăng
23,4% so với năm 2011; số lượt khám bệnh BQ và tần suất khám/thẻ năm 2012 đều
tăng so với năm 2011. Tỷ lệ gia tăng các chỉ số KCB của 3 TYT xã thí điểm định
suất đều ít hơn 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ.
150
- Tổng chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã thí điểm định suất năm 2012 giảm
1,6% so với năm 2011, trong đó tiền thuốc giảm còn lại các khoản mục khác đều
tăng; chi BQ/lượt khám và chi BQ/thẻ năm 2012 đều giảm so với năm 2011. Tỷ lệ
gia tăng tất cả chỉ số phản ánh chi phí KCB BHYT của 3 TYT xã thí điểm định suất
đều ít hơn 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ, trừ tỷ lệ tiền công khám, tỷ lệ tiền
thuốc và tỷ lệ tiền DVKT là tín hiệu tốt thể hiện các TYT xã thí điểm định suất cung
cấp các dịch vụ KCB nhiều hơn cho người bệnh.
- So với năm 2011, chi phí KCB BQ trên lượt khám và trên thẻ của 3 TYT xã
thí điểm định suất năm 2012 đều giảm ở tất cả các nhóm đối tượng. Tỷ lệ gia tăng
chi phí KCB BQ trên lượt khám theo nhóm đối tượng, tỷ lệ gia tăng chi phí KCB
BQ trên lượt khám và trên thẻ theo giới tính và theo nhóm tuổi của 3 TYT xã thí
điểm định suất đều ít hơn 3 TYT xã thanh toán theo dịch vụ.
- Suất phí sau điều tiết của xã Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga và Đăk Trăm lần lượt là
57.300, 45.900 và 49.700 đồng. Tổng số chi phí KCB chiếm 91,8%, tỷ lệ kết dư
chung là 8,2% quỹ định suất của 3 xã và không có xã nào bị thâm hụt quỹ.
- Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy hầu hết các ý kiến PVS hoặc TLN
đều thống nhất đánh giá rất cao về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán chi phí
KCB BHYT theo định suất tại TYT xã và đề nghị cần được tiếp tục duy trì, nhân
rộng mô hình này trong thời gian sớm nhất.
- Chi phí đơn vị BQ chung của 6 TYT với 3 thành phần chi phí là 55,9 ngàn
đồng, với 5 thành phần chi phí là 134,8 ngàn đồng và với 7 thành phần chi phí là
147,2 ngàn đồng. Tỷ lệ thu hồi chi phí BQ là 6,2% (chỉ tính chi phí thường xuyên)
và 5,4% (tính cả chi phí đầu tư và chi phí thường xuyên) so với chi phí thực tế.
Kết luận này cho thấy các TYT xã thực hiện thí điểm PTTT theo định suất có
hiệu quả rõ rệt đối với một số chỉ số KCB, chất lượng dịch vụ và việc kiểm soát chi
phí KCB so với các TYT xã thực hiện PTTT theo dịch vụ, đáp ứng được sự mong
đợi của các bên liên quan (cơ quan BHXH, cơ sở KCB và người tham gia BHYT).
Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cứu về chuyên môn (như chất lượng kê đơn
thuốc, chất lượng KCB được cải thiện...) có thể là do tác động của các hoạt động
đào tạo chuyên môn, không đơn thuần là do tác động của PTTT theo định suất.
151
KHUYẾN NGHỊ
Từ các kết quả nghiên cứu trên, nghiên cứu xin đưa ra một số khuyến nghị
sau đây nhằm mở rộng PTTT chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT tuyến xã:
1. PTTT CSSKBĐ tiên tiến nhất và ưu việt nhất hiện nay là PTTT theo định
suất, vì vậy cần xây dựng lộ trình và sớm chuyển đổi PTTT chi phí KCB BHYT
theo dịch vụ sang PTTT theo định suất tại TYT tuyến xã.
2. Mô hình thí điểm PTTT chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã thuộc huyện
Đăk Tô tỉnh Kon Tum đã được chứng minh là có hiệu quả, vì vậy cần tiếp tục thí
điểm ở các vùng KT-XH khác nhau để tổng kết đánh giá và nhân rộng ra phạm vi
toàn quốc trong thời gian sớm nhất. Cần tách riêng quỹ định suất của tuyến xã với
tuyến huyện và giao cho TTYT huyện quản lý, điều tiết. Nên kết hợp thanh toán
theo định suất và thanh toán theo dịch vụ đối với các dịch vụ KCB tại TYT tuyến
xã. Quỹ định suất dành cho việc thanh toán tiền công khám, tiền thuốc, VTYTTH
và DVKT (khi TYT đã triển khai đầy đủ các DVKT theo phân tuyến). Thanh toán
theo dịch vụ áp dụng đối với tiền ngày giường bệnh và DVKT (khi TYT chưa
triển khai đầy đủ các DVKT theo phân tuyến).
3. Giá dịch vụ KBCB ở tuyến xã hiện nay rất thấp, không khuyến khích được
các TYT xã triển khai các DVKT, vì vậy cần điều chỉnh giá dịch vụ KBCB ở tuyến
xã cho phù hợp với tình hình thực tế theo từng giai đoạn để khuyến khích các TYT
xã tăng cường triển khai các DVKT phục vụ người bệnh, bảo đảm chi phí cho các
dịch vụ ở mức cần thiết và có tích lũy.
4. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức thu viện phí rất thấp so với chi phí đầy
đủ của các dịch vụ được cung cấp, vì vậy ngoài việc nâng mức giá dịch vụ KBCB,
cần đổi mới phương thức dự trù và phân bổ NSNN cho TYT xã, bảo đảm nguồn
NSNN để chi trả cho các dịch vụ YTDP và YTCC nhằm mục tiêu mở rộng bao phủ
BHYT toàn dân có hiệu quả và đáp ứng mục tiêu tăng cường CSSK ở tuyến cơ sở.
152
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Lê Trí Khải, Nguyễn Công Khẩn, Trần Văn Tiến và Hoàng Văn Minh
(2014), “Thực trạng một số chỉ số khám chữa bệnh và chi phí khám chữa bệnh bảo
hiểm y tế theo dịch vụ tại một số trạm y tế xã huyện Kon Rẫy tỉnh Kon Tum năm
2011-2012”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, số 6(155) 2014, tr. 121-127.
2. Lê Trí Khải, Nguyễn Công Khẩn, Trần Văn Tiến và Hoàng Văn Minh
(2014), “Tác động của mô hình thí điểm phương thức thanh toán theo định suất
trong việc kê đơn thuốc tại một số trạm y tế xã tỉnh Kon Tum”, Tạp chí Y học dự
phòng, Tập XXIV, số 6(155) 2014, tr. 128-134.
3. Lê Trí Khải, Nguyễn Công Khẩn, Trần Văn Tiến và Hoàng Văn Minh
(2014), “Tác động của mô hình thí điểm phương thức thanh toán theo định suất lên
chỉ số và chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại một số trạm y tế xã tỉnh Kon
Tum”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, số 8(157) 2014, tr. 93-100.
4. Lê Trí Khải, Nguyễn Công Khẩn, Trần Văn Tiến và Hoàng Văn Minh
(2014), “So sánh chỉ số khám chữa bệnh và chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
theo định suất và theo dịch vụ tại một số trạm y tế xã tỉnh Kon Tum”, Tạp chí Y học
dự phòng, Tập XXIV, số 8(157) 2014, tr. 101-108.
5. Lê Trí Khải, Nguyễn Công Khẩn, Trần Văn Tiến và Hoàng Văn Minh
(2014), “Tác động của mô hình thí điểm phương thức thanh toán theo định suất đối
với sự hài lòng của người bệnh tại một số trạm y tế xã tỉnh Kon Tum”, Tạp chí
Nghiên cứu Y học, 91(6) - 2014, tr. 118-128.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO ________
Tiếng Việt
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2009), Chỉ thị về đẩy mạnh công tác bảo hiểm y
tế trong tình hình mới, số 38-CT/TW, ngày 07/9/2009.
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2012), Báo cáo đánh giá 2 năm thực hiện phương
thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, Hà Nội.
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2006,
Hà Nội.
4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2013), Báo cáo kết quả thực hiện chính sách pháp
luật về BHYT giai đoạn 2009-2012 gửi Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội,
Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020, số 21-NQ/TW,
ngày 22/11/2012.
6. Bộ Tài chính & Bộ Y tế (2002), Thông tư liên tịch hướng dẫn nội dung thu, chi
và mức chi thường xuyên của trạm y tế xã, số 119/2002/TTLT-BTC-BYT, ngày
27/12/2002.
7. Bộ Y tế (2011), Đề án Thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y
tế theo định suất tại trạm y tế xã (ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-
BYT ngày 03/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế).
8. Bộ Y tế (2008), Quyết định về việc ban hành Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị
ngoại trú, số 04/2008/QĐ-BYT, ngày 01/02/2008.
9. Bộ Y tế (2012), Công văn hướng dẫn triển khai Thông tư liên tịch số
04/2012/TTLT-BYT-BTC, số 2210/BYT-KH-TC, ngày 16/4/2012.
10. Bộ Y tế (2012), Thông báo kết luận Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện phương
thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, số
404/TB-BYT, ngày 14/5/2012.
154
11. Bộ Y tế (2007), Báo cáo đánh giá 15 năm thực hiện chính sách BHYT (1992-
2007), Hà Nội.
12. Bộ Y tế (2004), Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí các cấp cứu thông thường ở
tuyến y tế xã, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội.
13. Bộ Y tế (2011), Thông tư hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có
giường bệnh, số 23/2011/TT-BYT, ngày 10/6/2011.
14. Bộ Y tế (2007), Kinh tế y tế và Bảo hiểm y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
15. Bộ Y tế (2012), Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Luật BHYT và đề xuất sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, Hà Nội.
16. Bộ Y tế (2009), Thông tư hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu
và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, số 10/2009/TT-BYT,
ngày 14/8/2009.
17. Bộ Y tế (2014), Báo cáo tóm tắt công tác y tế năm 2013 và nhiệm vụ trọng tâm
năm 2014, Hà Nội.
18. Bộ Y tế (2003), Xây dựng Y tế Việt Nam công bằng và phát triển, Nhà xuất bản
Y học, Hà Nội.
19. Bộ Y tế & Bộ Tài chính (2009), Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện bảo
hiểm y tế, số 09/2009/TTLT-BYT-BTC, ngày 14/8/2009.
20. Bộ Y tế & Bộ Tài chính (2012), Thông tư liên tịch ban hành mức tối đa khung
giá một số dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh của nhà nước, số 04/2012/TTLT-BYT-BTC, ngày 29/02/2012.
21. Bộ Y tế & Nhóm đối tác y tế (2010), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế
năm 2010: Hệ thống y tế Việt Nam trước thềm kế hoạch 5 năm 2011-2015,
Hà Nội.
22. Bộ Y tế & Nhóm đối tác y tế (2013), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế
năm 2013 - Hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, Hà Nội.
23. Bộ Y tế & Nhóm đối tác y tế (2008), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế
năm 2008 - Tài chính Y tế ở Việt Nam, Hà Nội.
155
24. Võ Văn Chí & Trần Thúc Khả (2010), "Đánh giá hiệu quả và khả thi của
phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất",
Đổi mới cơ chế tài chính y tế - Thực trạng và giải pháp (Kỷ yếu Hội nghị khoa
học kinh tế y tế lần thứ nhất), tr. 241-250.
25. Chính phủ (2012), Nghị định về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh công lập, số 85/2012/NĐ-CP, ngày 15/10/2012.
26. Chính phủ (2009), Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật bảo hiểm y tế, số 62/2009/NĐ-CP, ngày 27/7/2009.
27. Chính phủ (2005), Nghị định ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế (đã hết hiệu lực
thi hành), số 63/2005/NĐ-CP, ngày 16/5/2005.
28. Chính phủ (1998), Nghị định ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế (đã hết hiệu lực
thi hành), số 58/1998/NĐ-CP, ngày 13/8/1998.
29. Chính phủ (2006), Nghị định quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập, số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006.
30. Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế (2010), Báo cáo kiểm tra bệnh viện,
Hà Nội.
31. Dahlgren Goran (2001), "Bảo hiểm y tế xã hội - Tại sao? Như thế nào?", Tạp
chí Bảo hiểm y tế Việt Nam, số 10/2001.
32. Đơn vị Chính sách - Vụ Kế hoạch Tài chính - Bộ Y tế (2007), Phí dịch vụ
bệnh viện và phương thức chi trả trọn gói theo trường hợp bệnh, Hà Nội.
33. Dự án hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ - Bộ Y tế (2013), Báo cáo tình hình
thực hiện Dự án 2013, Hà Nội.
34. Hoàng Thị Hiệp, Đỗ Kháng Chiến & Phan Thục Anh (2012), "Đánh giá
thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại 30 xã của 5 tỉnh thuộc Dự án
GAVI", Tài chính y tế hướng tới chăm sóc sức khỏe toàn dân (Kỷ yếu Hội nghị
khoa học kinh tế y tế lần thứ hai), tr. 370-381.
156
35. Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) (1989), Quyết định về việc thu một phần
viện phí y tế (đã hết hiệu lực thi hành), số 45-HĐBT, ngày 24/4/1989.
36. Tống Thị Song Hương (2012), "Bảo hiểm y tế toàn dân thực trạng và giải
pháp", Tài chính y tế hướng tới chăm sóc sức khỏe toàn dân (Kỷ yếu Hội nghị
khoa học kinh tế y tế lần thứ hai), tr. 7-24.
37. Nguyễn Thị Thúy Nga, Nguyễn Quỳnh Anh, Trần Quang Thông & cs
(2010), "Đánh giá hiệu quả và khả thi của phương thức thanh toán theo định
suất tại Bệnh viện huyện Chí Linh và Tứ Kỳ, Hải Dương", Đổi mới cơ chế tài
chính y tế - Thực trạng và giải pháp (Kỷ yếu Hội nghị khoa học kinh tế y tế lần
thứ nhất), tr. 145-153.
38. Nguyễn Khánh Phương (2011), Giải pháp tài chính trong chăm sóc sức khỏe
người dân nông thôn tại bốn huyện thuộc tỉnh Hải Dương và Bắc Giang, Luận
án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
39. Quốc hội (2009), Luật khám bệnh, chữa bệnh, số 40/2009/QH12, ngày
23/11/2009.
40. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế, số
46/2014/QH13, ngày 13/6/2014.
41. Quốc hội (2008), Luật bảo hiểm y tế, số 25/2008/QH12, ngày 14/11/2008.
42. Sở Y tế & Bảo hiểm xã hội tỉnh Kon Tum (2010), Công văn quy định một số
nội dung về công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế năm 2011, số 05/LN-SYT-
BHXH, ngày 10/11/2010.
43. Sở Y tế & Bảo hiểm xã hội tỉnh Kon Tum (2011), Công văn quy định một số
nội dung về công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế năm 2012, số 07/LN-SYT-
BHXH, ngày 26/12/2011.
44. Sở Y tế tỉnh Kon Tum (2013), Báo cáo đánh giá tình hình triển khai xây dựng
xã, phường, thị trấn đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020
trong 2 năm 2012 và 2013.
45. Trần Quang Thông (2006), Nghiên cứu ảnh hưởng của khoán quỹ theo định
suất đến chi phí và chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại Bệnh viện
Vĩnh Bảo - Hải phòng, Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế
công cộng, Hà Nội.
157
46. Trần Quang Thông (2012), Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức khoán
quỹ định suất đến chi phí và một số chỉ số khám chữa bệnh bảo hiểm y tế thuộc
bốn bệnh viện huyện, tỉnh Thanh Hóa, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ
sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
47. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình
tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2012 - 2015 và 2020, số 538/QĐ-TTg,
ngày 29/3/2013.
48. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt
Nam sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam, số 20/2002/QĐ-TTg, ngày 20/01/2002.
49. Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum (2012), Quyết định về việc ban hành giá một
số dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của
nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum, số 38/2012/QĐ-UBND, ngày 21/8/2012.
50. Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum (2009), Quyết định về việc ban hành Bảng
giá thu một phần viện phí tại trạm y tế xã (đã hết hiệu lực thi hành), số
03/2009/QĐ-UBND, ngày 14/01/2009.
51. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2013), Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012, Hà Nội.
52. Viện Chiến lược và Chính sách y tế (2011), Báo cáo đánh giá bước đầu việc
triển khai khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã theo quy định của
Luật Bảo hiểm y tế, Hà Nội.
53. Viện Chiến lược và Chính sách y tế (2013), Báo cáo đánh giá 3 năm thực
hiện Luật BHYT và đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (Đề
tài cấp Bộ), Hà Nội.
54. Vụ Bảo hiểm y tế - Bộ Y tế & Trường Đại học Y Hà Nội (2009), Báo cáo kết
quả nghiên cứu tình hình khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã ở một
số địa phương, Hà Nội.
55. WHO (2005), Chiến lược về tài chính y tế cho các quốc gia thuộc khu vực Tây
Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á (2006-2010).
158
Tiếng Anh
56. Adams Orvill (2003), Effective coverage: Conceptual Framework, 4th World
Congress of the International Health Economics Association, San Francisco,
California, USA.
57. American Board of Preventive Medicine, Preventive Medicine. Available
from http://www.certificationmatters.org/abms-member-boards/preventive-
medicine.aspx, accessed 4th May 2014.
58. Berenson R.A. & Rich E.C. (2010), "US approaches to physician payment: the
deconstruction of primary care", Journal of general internal medicine, 25(6),
pp. 613-618.
59. Berwick D.M. (1996), "Payment by Capitation and the Quality of Care - Part
Five of Six", The New England Journal of Medicine, 335(16), pp. 1227-1231.
60. Carrin G. (2003), Community based health insurance schemes in developing
countries: facts, problems and perspectives, Discussion Paper No 1, WHO,
Geneva, Switzerland.
61. Carrin G. & James C. (2004), Reaching universal coverage via social health
insurance: key design features in the transition period, WHO Discussion Paper,
Geneva, Switzerland.
62. Carrin G., James C. & Evans D.B. (2005), Achieving universal health
coverage: developing the health financing system (Technical briefs for policy-
makers, Number 1/2005), WHO, Geneva, Switzerland.
63. Carrin G., Waelkens M.P. & Criel B. (2005), "Community-based health
insurance in developing countries: a study of its contribution to the
performance of health financing systems", Tropical Medicine and International
Health, 10(8), pp. 799-811.
64. CBEH Vietnamese Group (2010), Review of pilot of capitation-based
reimbursement method for HI-based healthcare in Vietnam - Findings obtained
from Hai Duong, Thanh Hoa, Hoa Binh and Ha Nam Provinces, Hanoi.
159
65. Chan Margaret (2013), Opening remarks at a WHO/World Bank ministerial-
level meeting on universal health coverage. Available from
http://www.who.int/dg/speeches/2013/universal_health_coverage/en/, accessed
4th May 2014.
66. Coyne J.S. & Simon S.D. (1996), "Capitation: selecting the method,
determining the rates", Healthcare Financial Management, 50(8), pp. 50-53.
67. Dranove D.D. & Satterthwaite M.A. (2000) The Industrial Organization of
Health Care Markets. Handbook of Health Economics, chapter 20. Elsevier,
North Holland.
68. Health Strategy and Policy Institute (2013), National Assessment of Provider
Payment Mechanism in Vietnam, Hanoi.
69. Hjortsberg C. (2003), "Why do the sick not utilise health care? The case of
Zambia", Health economics, 12, pp. 755-770.
70. Hsiao W., Shaw P. & eds. (2007), Social Health Insurance for Developing
Nations, The World Bank.
71. ILO (2007), Social Health Protection: An ILO strategy towards universal
access to health care, Issues in Social Protection, Discussion paper 19.
72. Kutzin J. (2000), Towards universal health care coverage: A goal-oriented
framework for policy analysis, HNP Discussion Paper, World Bank.
73. Lagarde M., Powell-Jackson T. & Blaauw D. (2010), Managing incentives
for health providers and patients in the move towards universal coverage,
Background paper for the global symposium on health systems research, 16-19
november 2010, Montreux, Switzerland.
74. Langenbrunner J., Cashin C. & O'Dougherty S. (2009), Designing and
Implementing Health Care Provider Payments Systems - How to Manuals, WB
and the USAID, Washington D.C.
75. Lungu Elena (2007), "Health service coverage and its evaluation (Editorial)",
Journal of Preventive Medicine, 15, pp. 3-4.
160
76. Mosby, Capitation. Available from http://medical-
dictionary.thefreedictionary.com/capitation, accessed 1st Mar 2013.
77. Nguyen Thi Thuy Nga (2003), The effect of pilot capitation payment on length
of stay and medical cost: A case study of Vinh Tuong health center in Vietnam,
post-master science course - health economics, The Institute of Public Health -
Heidelberg University.
78. Özaltın A., Cashin C. & eds. (2014), Costing of Health Services for Provider
Payment: A Practical Manual Based on Country Costing Challenges, Trade-
offs, and Solutions, Joint Learning Network for Universal Health Coverage.
79. Park M., Braun T., Carrin G. & Evans D.B. (2007), Provider Payments and
cost-containment: Lessons from OECD countries (Technical brief for policy-
makers, Number 2/2007), WHO, Geneva.
80. Preker A., Langenbrunner J. & Jakab M. (2002), Rich-poor differences in
health care financing. In: Dror D., Preker A., eds. Social re-insurance - a new
approach to sustainable community health care financing, The World Bank,
Washington D.C.
81. Ramagem Caroline & Ruales José (2008), The Essential Public Health
Functions as a Strategy for Improving Overall Health Systems Performance:
Trends and Challenges since the Public Health in the Americas Initiative,
2000-2007, Pan American Health Organization/World Health Organization
(PAHO/WHO), Washington D.C., USA.
82. Robert M., Hsiao W., Berman P. & Reich M. (2008), Getting Health Reforms
Right, Oxford University Press.
83. Tanahashi T. (1978), "Health service coverage and its evaluation", Bulletin of
the World Health Organization, 56(2), pp. 295-303.
84. Tangcharoensathien V. & et al (2010), How the contract model becomes the
main mode of purchasing: a combination of evidence and luck in Thailand,
World Health Report (2010) Background Paper, No 44.
161
85. Telyukov A. (2001), Guide to Prospective Capitation with Illustrations from
Latin America.
86. United Nations (2012), Sixty-seventh session Resolution of United Nations
General Assembly on Global Health and Foreign Policy, issued A/67/L.36,
date 6th Dec 2012.
87. Van Minh H., Phuong N.K., Özaltin A. & Cashin C. (2014), "Costing of
commune health station visits for provider payment reform in Vietnam",
Global Public Health, 2014 Aug 19, pp. 1-9.
88. Wang H., Zhang L., Yip W. & Hsiao W. (2006), "Adverse selection in a
voluntary Rural Mutual Health Care health insurance scheme in China", Social
Science and Medicine, 63(5), pp. 1236-1245.
89. WHO - Executive Board (2013), Universal health coverage (Report by the
Secretariat), issued EB132/22, date 18/01/2013.
90. WHO - Regional Office for Europe (2008), Guidance on developing quality
and safety strategies with a health system approach, WHO, Copenhagen.
91. WHO (2008), Primary Health Care - Now More Than Ever (The World Health
Report 2008), WHO, Geneva.
92. WHO (2009), Health Financing Strategy for the Asia Pacific Region
(2010-2015).
93. WHO (2011), Resolution WHA on Sustainable health financing structures and
universal coverage, No WHA64.9, 24 May 2011.
94. WHO (1978), Primary Health Care (Report of the International Conference on
Primary Health Care Alma-Ata, USSR, 6-12 September 1978), WHO, Geneva.
95. WHO, What is Public Health? Available from
http://www.whatispublichealth.org/what/, accessed 3rd May 2014.
96. WHO (2008), Essential health packages: What are they for? What do they
change? (Draft technical brief No. 2), WHO Service Delivery Seminar Series.
162
97. WHO, Health financing for universal coverage. Available from
http://www.who.int/health_financing/universal_coverage_definition/en/,
accessed 3rd May 2014.
98. WHO (2000), The World Health Report 2000 - Health system: Improving
performance, Geneva, Switzerland.
99. WHO (2010), The World Health Report 2010 - Health system financing: the
path to universal coverage, Geneva, Switzerland.
100. WHO (2005), World Health Assembly Resolution on sustainable health
financing, universal coverage and social health insurance, No 58.33, 25
May 2005.
101. Wong Holly & Bitrán Ricardo (1999), Designing a benefits package
(Prepared for the Flagship Course on Health Sector Reform and Sustainable
Financing), World Bank Institute.
102. World Bank (2008), Health Financing and delivery in Vietnam: The sort and
medium-term policy agenda, World Bank, Hanoi.
103. Xu K. & et al (2003), "Household catastrophic health expenditure: a
multicountry analysis", Lancet, 362(9378), pp. 111-117.
104. Yip W. & Eggleston K. (2004), "Addressing Government and Market
Failures with Payment Incentives: Hospital Reimbursement Reform in Hainan,
China", Social Science & Medicine, 58(2), pp. 267-277.
105. Yip W. & et al (2001), Impact of Capitation Payment: The Social Security
Scheme of Thailand, Partnerships for Health Reform.
106. Zelman William N., McCue Michael J. & Glick Noah D. (2009), Financial
Management of Health Care Organizations: An Introduction to Fundamental
Tools, Concepts and Applications, 3rd Edition, Jossey-Bass.
163
Phụ lục 1
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ Ở VIỆT NAM
______________
I. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ Ở
VIỆT NAM
1. Phân bổ kinh phí theo mục lục ngân sách
NSNN thu được từ nguồn thuế phân bổ theo những định mức xác định cho
các đơn vị cung ứng dịch vụ công (trong đó có cơ sở cung ứng DVYT) là một hình
thái điển hình của phương thức cấp ngân sách theo mục lục ngân sách (MLNS).
Đây là phương thức chi trả dựa trên yêu cầu chi phí đầu vào, với mức chi xác định
trước theo các định mức có sẵn, kèm theo một số chỉ tiêu đầu ra cần thực hiện.
Đặc điểm của cấp ngân sách theo MLNS là ngân sách được xác lập theo từng
mục và theo định mức được ấn định bởi cơ quan chức năng. Với phương thức này,
mức chi cho các mục lớn (như chi lương, chi vận hành và bảo dưỡng nhà và trang
thiết bị) thường ổn định.
Ưu điểm cơ bản của phương thức này là đơn giản, dễ áp dụng. Kế hoạch
phân bổ ngân sách thường dựa trên khả năng ngân sách hoặc yêu cầu về kinh phí
của các năm trước đó, có điều chỉnh (thường là tăng 10-15%).
Hiện nay, PTTT này đang được áp dụng cho các dự án dọc, thuộc
Chương trình mục tiêu quốc gia y tế và cho các mục chi như chi lương, một
phần chi vận hành và một phần chi khấu hao - bảo dưỡng trang thiết bị trong
các cơ sở cung ứng dịch vụ công lập.
Với khối YTDP và đa số các cơ sở cung ứng dịch vụ KCB (các cơ sở chưa
thực hiện tự chủ hoàn toàn) việc chi trả một phần chi phí thông qua nguồn ngân
sách công, ở những mức độ khác nhau, giúp hạn chế bớt sự phụ thuộc của cơ sở vào
nguồn thu từ dịch vụ, thu trực tiếp từ người sử dụng dịch vụ. Hình thức chi trả này
giúp cho các cơ sở có được nguồn lực tương đối ổn định để thực hiện cung ứng dịch
vụ CSSK, nhất là với các nhóm dịch vụ không có tiềm năng phục hồi chi phí. Ở
164
mức độ nhất định, cách thức chi trả này có thể góp phần làm giảm bớt rào cản trong
tiếp cận dịch vụ cho những người chi trả trực tiếp.
Hình thức phân bổ kinh phí theo MLNS cũng có những hạn chế về công
bằng trong cơ hội hưởng thụ hỗ trợ từ NSNN khi các nhóm thu nhập thấp không có
điều kiện tiếp cận tốt tới các cơ sở cung ứng dịch vụ ở các tuyến kỹ thuật cao. Ở
phương diện khác, đây là phương thức chi trả theo yêu cầu nguồn lực đầu vào (chủ
yếu theo số biên chế cho YTDP và số giường bệnh cho cơ sở KCB), thiếu sự gắn
kết giữa nguồn lực sử dụng với kết quả đầu ra, cũng như với chất lượng dịch vụ.
Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng phân bổ NSNN theo phương thức này cũng dẫn
đến tình trạng bao cấp tràn lan, vì tất cả mọi người bệnh (giàu hay nghèo) khi vào
bệnh viện thì đều được hưởng DVYT đã được nhà nước bao cấp một phần (ví dụ:
chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư TTB y tế, chi phí đào tạo cán bộ, một phần chi
lương đều đã được đầu tư qua NSNN và không tính vào mức giá dịch vụ).
Vì vậy, việc chuyển đổi PTTT cho khu vực YTDP theo hướng gắn với kết
quả hoạt động theo nghĩa đầy đủ cần được đặt ra cho các nỗ lực nghiên cứu và xây
dựng chính sách trong thời gian tới.
2. Thanh toán theo dịch vụ
Thanh toán theo dịch vụ là PTTT theo từng dịch vụ đơn lẻ, ví dụ dịch vụ
khám, xét nghiệm, thủ thuật, hay các dịch vụ cụ thể khác vẫn đang được áp
dụng như PTTT chính cho toàn mạng lưới cơ sở KCB ở Việt Nam hiện nay đối
với nguồn chi trả từ tiền túi cũng như đối với BHYT ở các bệnh viện trung
ương và tỉnh. Tuyến huyện đang chuyển đổi từ PTTT theo dịch vụ sang thanh
toán theo định suất.
PTTT theo dịch vụ cũng có những ưu điểm riêng, nếu được thực hiện với
cơ chế định giá (price setting mechanism) để kiểm soát chi phí. Khi nguồn thu
được xác lập trực tiếp theo khối lượng dịch vụ và có mức chi trả (giá dịch vụ) cao
hơn chi phí cung cấp dịch vụ, cơ chế này thúc đẩy năng suất cung cấp dịch vụ
bệnh viện và xa hơn là thúc đẩy công suất hoạt động của cả mạng lưới cung cấp
DVYT. Phương thức này nên được xem xét áp dụng cho các nhóm dịch vụ cần
được khuyến khích cung ứng và sử dụng. Tuy nhiên, cần xác định rõ ngân sách
165
chi trả từ các nguồn công cho các nhóm dịch vụ cần được khuyến khích thông qua
PTTT theo dịch vụ. Mức chi trả theo dịch vụ cho bên cung ứng cũng cần được cân
đối hợp lý với chi phí và mức khuyến khích cần thiết để phục vụ các mục tiêu
chính sách nhằm giảm sự lệ thuộc của cơ sở cung ứng dịch vụ vào các chi phí từ
tiền túi của người sử dụng dịch vụ. Điều này là cần thiết cho mục tiêu giảm thiểu
rào cản tài chính trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ.
PTTT theo dịch vụ được đánh giá là có nhiều bất cập, tạo nên rào cản tài
chính, cản trở khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản cần thiết của
người dân [13], [14], nhất là nhóm thu nhập thấp. Khi phải chi trả tiền túi cho dịch
vụ CSSK, người dân phải đối diện với nguy cơ chịu chi phí quá mức và bị đẩy vào
bẫy nghèo đói [15]. Thêm nữa khi thông tin chưa đầy đủ để tính chi phí chính xác,
và khi định giá cao hơn chi phí cung cấp, nó khuyến khích cơ sở y tế cung cấp
nhiều dịch vụ hơn, do khoản thanh toán phụ thuộc vào số lượng dịch vụ, chứ
không phải là chất lượng chăm sóc.
Quy định về PTTT theo dịch vụ áp dụng trong BHYT hiện nay đang góp
phần tạo ra sự phân mảnh quỹ BHYT giữa các tỉnh, thành phố. Khi các cơ sở KCB
ban đầu lựa chọn thanh toán theo dịch vụ thì trần thanh toán chi phí không vượt quá
“quỹ khám chữa bệnh” của cơ sở đó, trong khi quỹ KCB được tính bằng 90% số thu
BHYT của người đăng ký KCB tại cơ sở y tế đó. Như vậy, quỹ KCB tại mỗi địa
phương tuỳ thuộc vào số thu của địa phương đó và tỉnh có nhiều người có mức
đóng cao sẽ có quỹ KCB cao và ngược lại.
3. Thanh toán theo định suất
Với phương thức định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ được trả một khoản nhất
định trên một đầu người tham gia bảo hiểm có đăng ký KCB tại cơ sở cung ứng
dịch vụ đó. Phần ngân sách với mức xác định trước theo tổng số người đăng ký
được sử dụng để trang trải chi phí cho các dịch vụ trong gói đã thỏa thuận trong một
khoảng thời gian xác định (thường là 1 năm).
Thanh toán theo định suất đang ngày càng được áp dụng nhiều hơn trong
một hệ thống lồng ghép các phương thức thanh toán khác nhau, cho các cơ sở
cung ứng dịch vụ tại các tuyến khác nhau, nhất là với các cơ sở y tế tuyến
166
huyện. Từ năm 2009, phương thức thanh toán theo định suất đã được Luật
BHYT quy định là một trong 3 phương thức thanh toán chi phí KCB giữa cơ
quan BHXH với cơ sở KCB BHYT.
Thực hiện lộ trình đổi mới phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo
hướng từ chi trả theo dịch vụ sang khoán định suất, số lượng và tỷ lệ các cơ sở KCB
thực hiện thanh toán theo định suất tăng lên qua các năm. Lộ trình mở rộng việc
thanh toán theo định suất đã đạt và vượt mức xác định theo Thông tư liên tịch số
09/2009/TTLT-BYT-BTC [3]. Theo đó, lộ trình là năm 2015 đạt 100% cơ sở KCB
đăng ký ban đầu áp dụng phương thức thanh toán theo định suất. Năm 2010, có
240/1750 cơ sở KCB có đăng ký KCB ban đầu (chiếm 13,7%) thực hiện thanh toán
theo định suất, trong đó tuyến huyện và tương đương đã thực hiện thanh toán theo
định suất là 214/1190 (đạt 18%), vượt 8 điểm phần trăm so với chỉ tiêu mà BHXH
Việt Nam đặt ra năm 2010. Năm 2011, có 786/1951 cơ sở KCB ban đầu áp dụng
thanh toán theo định suất, chiếm 40,3% trong số các đơn vị ký hợp đồng KCB
BHYT, vượt 10,3 điểm phần trăm theo lộ trình quy định tại Thông tư 09 [4]. Đến
năm 2012, theo BHXH Việt Nam, có 58/63 tỉnh, thành phố đã triển khai thực hiện
thanh toán theo phương thức này. Tổng số cơ sở KCB theo định suất là 786/1951
(đạt 40,3%), trong đó có 175 cơ sở nhận định suất ngoại trú và 611 cơ sở nhận định
suất nội, ngoại trú [1], [2].
Một số kết quả nghiên cứu gần đây chỉ rõ tiềm năng của khoán định suất
trong thực hành cung ứng dịch vụ CSSK theo hướng tăng hiệu quả sử dụng nguồn
lực thông qua thúc đẩy các dịch vụ chăm sóc sớm tại cộng đồng; có thể làm giảm
nguy cơ gia tăng chi phí KCB BHYT so với phương thức thanh toán theo dịch vụ,
thông qua tiết giảm chi phí xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh không cần thiết [11].
Nhìn chung, cơ chế thanh toán theo định suất đã tạo sự chủ động cho các bệnh viện
trong điều hành kinh phí của bệnh viện, nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan
trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí BHYT.
Hòa Bình là tỉnh đầu tiên tại Việt Nam triển khai thí điểm phương thức định
suất tại 6 trạm y tế (TYT) xã của hai huyện Mai Châu và Tân Lạc đồng thời với cơ
167
chế thanh toán hỗn hợp giữa thanh toán theo định suất và thanh toán theo dịch vụ áp
dụng cho hai bệnh viện huyện cùng trên địa bàn từ tháng 01/2009 [10]. Mô hình thí
điểm này được hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật bởi Dự án Cải thiện Sức khoẻ Cộng
đồng (KICH) của Chính phủ Bỉ tài trợ. Các báo cáo chỉ số của Dự án KICH được
tổng hợp và công bố vào tháng 8/2009 và tháng 10/2010 là các tài liệu phân tích
thống kê có ý nghĩa và rất ấn tượng, nêu lên được thông tin chi tiết về chất lượng
cung cấp các DVYT tuyến xã, bao gồm cả việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ của
người dân [9], [8]. Tuy nhiên, mô hình thí điểm tại Hòa Bình được triển khai khi mà
Luật BHYT chưa có hiệu lực áp dụng. Mặc dù, xét trên hoạt động KCB và một số
phương diện khác, mô hình tại Hòa Bình bước đầu ghi nhận những thành công nhất
định, song vẫn cần có những đánh giá sâu hơn về những khó khăn, thách thức,
nhằm đảm bảo chất lượng dịch vụ, quyền lợi, hiệu quả của phương thức và năng lực
quản lý, bao gồm cả thực hành của NVYT và sự hài lòng của người bệnh.
Tuy nhiên, phương thức thanh toán theo định suất hiện nay đang được đánh
giá là thiếu một thiết kế tổng thể để có được các cơ chế, công cụ phù hợp cho quản
lý và cải thiện chất lượng, nhất là khi tình trạng thâm hụt quỹ còn phổ biến đối với
nhiều cơ sở cung ứng dịch vụ. Các hạn chế cơ bản nhất của phương thức thanh toán
theo định suất hiện đang áp dụng bao gồm:
(i) Thiết kế thiếu tính hệ thống và chưa tuân thủ những nguyên tắc và yêu
cầu điều chỉnh theo thực tế mô hình bệnh tật, nhu cầu CSSK.
(ii) Sự chia nhỏ quỹ BHYT theo địa phương và theo các nhóm đối tượng trên
phạm vi cả nước cũng như trong một địa phương, do việc tính suất phí cho 6 nhóm
đối tượng dựa trên chi phí lịch sử và do quy định tổng quỹ định suất giao cho các cơ
sở y tế thực hiện định suất phụ thuộc vào số thu của địa phương. Như vậy, tỉnh
nghèo sẽ có suất phí thấp hơn, quỹ định suất nhỏ hơn tỉnh giàu. Các tỉnh giàu sẽ
được sử dụng nguồn quỹ BHYT nhiều hơn so với các tỉnh nghèo, tạo ra sự không
công bằng ngay trong phân bổ nguồn tài chính BHYT.
(iii) Suất phí thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu chi phí cung ứng dịch vụ.
(iv) Cơ chế thanh toán chuyển tuyển - vượt tuyến chưa hợp lý, gây nhiều khó
168
khăn khi cơ sở quản lý quỹ ban đầu luôn bị động với phần thanh toán phát sinh
ngoài cơ sở KCB ban đầu.
Các nỗ lực hoàn thiện hơn nữa phương thức định suất đang nhận được đồng
thuận cao từ các bên liên quan theo hướng lồng ghép hài hòa các yếu tố khuyến
khích năng suất, chất lượng dịch vụ, đồng thời bảo vệ cơ sở cung ứng dịch vụ khỏi
những rủi ro tài chính. Theo đó, suất phí cần có sự cân đối hợp lý giữa khả năng đáp
ứng với yêu cầu bồi hoàn cho các chi phí dịch vụ và mô hình quỹ định suất cần đủ
về quy mô (pooling scale) để hạn chế nguy cơ mất cân bằng quỹ (thâm hụt) cho các
cơ sở cung ứng dịch vụ, nhất là các cơ sở tuyến huyện.
Thông qua Dự án Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo các tỉnh miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên (Dự án HEMA) và Dự án Hỗ trợ nâng cao năng lực
ngành Y tế (Dự án HSCSP), Bộ Y tế đang triển khai Đề án Thí điểm thanh toán chi
phí KCB BHYT theo định suất tại một số trạm y tế (TYT) xã theo Quyết định số
622/QĐ-BYT ngày 03/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Cụ thể là năm 2011 có 3
TYT xã (Kông Lơng Khơng, Lơ Ku và Kông B’La) của huyện K’Bang tỉnh Gia
Lai, năm 2012 có 4 TYT xã (Kon Đào, Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga và Đăk Trăm) của
huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum và năm 2013 có 9 TYT xã của 3 huyện thuộc 3 tỉnh
(các xã Đồng Du, An Nội, An Lão - Bình Lục - Hà Nam; các xã Bình Dương, Nhân
Thắng, Vạn Ninh - Gia Bình- Bắc Ninh; các xã Phong Minh, Phong Vân, Tân Hoa -
Lục Ngạn - Bắc Giang) được chọn để triển khai thí điểm mô hình này.
Hiện tại, Bộ Y tế đang triển khai thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT
theo định suất tại các bệnh viện huyện và các TYT xã của 4 tỉnh (Bắc Ninh,
Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế và Khánh Hòa) theo Quyết định số 5380/QĐ-
BYT ngày 30/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Đề án triển khai thí
điểm sửa đổi thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất. Thời gian thí điểm
từ ngày 01/01/2014 đến ngày 31/12/2014. Các kết quả đạt được từ việc triển
khai thí điểm sẽ giúp cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các nội
dung của Thông tư thanh toán chi phí KCB theo định suất và sẽ được áp dụng
trên phạm vi toàn quốc từ năm 2016.
169
4. Thanh toán theo trường hợp bệnh
Luật BHYT và Nghị định số 85/2012/NĐ-CP [5] đã định hướng áp dụng
các PTTT khác nhau, trong đó PTTT theo trường hợp bệnh (casemix) áp dụng
cho các dịch vụ chăm sóc nội trú tại các bệnh viện thuộc các tuyến khác nhau.
Các bệnh viện/cơ sở cung ứng dịch vụ tại tuyến huyện hiện được chi trả theo
phương thức định suất cho tất cả các dịch vụ ngoại trú và nội trú sẽ hướng tới
những chuyển đổi kết hợp chi trả theo trường hợp bệnh cho dịch vụ nội trú và
định suất cho dịch vụ chăm sóc ngoại trú trên cơ sở khoán tổng ngân sách. Nhìn
chung, định hướng PTTT dịch vụ KCB sẽ chuyển đổi theo hướng gắn kết ngân
sách chi trả với kết quả hoạt động.
Trên thực tế, thanh toán theo trường hợp bệnh mới được triển khai thí điểm
từ năm 2010 đến nay trên một phạm vi nhỏ tại 2 bệnh viện của Hà Nội (Bệnh viện
Thanh Nhàn và Bệnh viện huyện Ba Vì). Hiện nay, PTTT này đang tiếp tục được
nghiên cứu thí điểm trong Chương trình Phát triển nguồn nhân lực y tế do Ngân
hàng phát triển châu Á tài trợ. Quy trình chuyên môn đối với 24 nhóm bệnh đã được
xây dựng đang được các bệnh viện và chuyên gia đánh giá để hoàn thiện. Đồng thời
cán bộ của Chương trình đang thu thập các thông tin về lâm sàng và chi phí theo các
mục chuyên môn được xác định trong quy trình chuyên môn để phục vụ cho việc
tính mức thanh toán cho từng trường hợp bệnh. Theo kế hoạch, thanh toán theo
trường hợp bệnh, tới năm 2015, sẽ được thực hiện ở phạm vi lớn hơn, khoảng hơn
26 nhóm bệnh, tại hơn 30 bệnh viện, thuộc 9 tỉnh, thành phố. Ngoài ra, Bộ Y tế
cũng đang trao đổi với các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Y tế Thế
giới, Thái Lan, Joint Learning Network… về phương án và lộ trình triển khai thanh
toán theo trường hợp bệnh ở Việt Nam [4].
Bộ Y tế, đầu mối là Vụ Kế hoạch - Tài chính, đang tiếp tục thúc đẩy tiến
trình nghiên cứu (với sự hợp tác hỗ trợ kỹ thuật từ WB, ADB, IHPP (Thái Lan),
NICE (Vương quốc Anh) để phát triển một hệ thống kết hợp hài hoà các PTTT
theo hướng: Thanh toán theo định suất cho dịch vụ ngoại trú, các dịch vụ quản
lý và CSSK tại cộng đồng, các hoạt động nâng cao sức khoẻ và thanh toán theo
170
trường hợp bệnh cho dịch vụ điều trị nội trú. Việc thiết kế định suất sẽ tập trung
vào các yêu cầu cụ thể: (i) Suất phí dựa trên hạch toán đầy đủ và mang tính hệ
thống hơn; (ii) Quỹ định suất và mức khoán định suất được thiết lập với những
điều chỉnh cần thiết theo nhu cầu CSSK, ví dụ điều chỉnh theo những yếu tố cơ
bản nhất như dân số, cơ cấu theo tuổi, giới, và nhất là gánh nặng bệnh tật đặc
trưng theo khu vực địa lý, KT-XH.
5. Thanh toán theo kết quả hoạt động
Với những quan tâm ngày càng lớn hơn về chất lượng dịch vụ CSSK cơ
bản, PTTT theo kết quả hoạt động được nhìn nhận với những tiềm năng thúc
đẩy tập trung vào chất lượng dịch vụ và giảm chi phí. Thanh toán theo kết quả
hoạt động khuyến khích NVYT cơ sở chủ động giải quyết những vấn đề hạn
chế mà họ hiểu rõ nhưng chưa có động lực và/hoặc chưa được khuyến khích
giải quyết. PTTT theo kết quả hoạt động có vai trò quan trọng trong tiến trình
bao phủ CSSK toàn dân. Tuy nhiên, PTTT theo kết quả hoạt động cũng đặt ra
những yêu cầu khá phức tạp về năng lực kỹ thuật, bao gồm xây dựng, triển khai,
giám sát, đánh giá và liên tục hoàn thiện.
PTTT theo kết quả hoạt động khuyến khích tập trung nguồn lực cho tuyến
cơ sở, thanh toán cho hoạt động/dịch vụ và kết quả thay vì theo yêu cầu nguồn lực
đầu vào, với những yêu cầu/điều kiện về chất lượng và đang được đánh giá là một
PTTT tiềm năng. PTTT này đang được tích cực nhân rộng tại một số nước, và
cũng đang được triển khai thí điểm tại nhiều hệ thống y tế khác nhau. Ở nước ta,
phương thức phân bổ tài chính dựa trên kết quả hoạt động cũng đang được triển
khai thí điểm tại tỉnh Nghệ An trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc
Trung bộ. Cho đến nay, PTTT dựa trên kết quả hoạt động đã được triển khai tại 2
bệnh viện huyện, 2 trung tâm y tế (TTYT) huyện và 24 TYT xã [6]. Với bản chất
thanh toán dựa trên kết quả được thẩm định, PTTT này được mong đợi sẽ khắc
phục hạn chế của phương thức cấp ngân sách dựa trên đầu vào hiện đang áp dụng,
nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung ứng DVYT. Sổ tay hướng dẫn
thực hiện thí điểm mô hình chi trả theo kết quả hoạt động đã được Bộ Y tế và
171
Ngân hàng Thế giới phê duyệt, trong đó mô tả chi tiết phương án xây dựng và
triển khai dự án chi trả theo kết quả hoạt động là một tài liệu rất hữu ích, nhất là
đối với việc mở rộng mô hình này [7].
Trong tương lai, chúng ta có thể nghiên cứu áp dụng PTTT theo kết quả hoạt
động để thanh toán chi phí KCB BHYT.
II. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ Ở VIỆT NAM
Chưa có sự đồng thuận chính sách, bao gồm đồng thuận về vai trò, trách
nhiệm của các bên liên quan, và nguồn lực, lộ trình với từng giai đoạn cụ thể để
thực hiện đổi mới đồng bộ cơ chế chi trả cho bên cung ứng dịch vụ.
Thanh toán theo dịch vụ, với những tác động không tích cực cho mục tiêu
bao phủ CSSK toàn dân đã được nhận thấy, tạo nên rào cản tài chính, cản trở khả
năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CSSK cơ bản cần thiết của người dân. Chi trả
theo dịch vụ vẫn đang là phương thức chủ yếu được áp dụng trong mạng lưới cung
ứng dịch vụ, với 64,5% các cơ sở KCB BHYT đang áp dụng, làm cho việc kiểm
soát chi phí trở nên vô cùng khó khăn. Việc thực hiện thanh toán theo định suất
đang áp dụng về bản chất không khác gì thanh toán theo dịch vụ và vẫn chưa đạt
được mục tiêu kiểm soát chi phí [4].
PTTT theo dịch vụ hiện đang áp dụng thiếu khuyến khích cần thiết cho mô
hình chăm sóc đồng bộ, liên tục (coordinated care). Cụ thể, PTTT theo dịch vụ hiện
nay chưa thực hiện chi trả hoặc khuyến khích cho những nội dung dịch vụ được
đánh giá cao về hiệu quả chi phí, như các dịch vụ chăm sóc sớm tại tuyến xã, tại
cộng đồng hay phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện. Cùng chi trả (5-20% áp dụng
cho một số đối tượng khi KCB từ tuyến huyện trở lên và có chi phí trên 15% mức
lương cơ sở; chi trả vượt tuyến 30, 50, 70% tùy theo hạng bệnh viện khi KCB vượt
tuyến, trái tuyến) với tất cả DVYT tại bệnh viện có thể vẫn là gánh nặng tài chính
đối với người thu thập thấp, nhóm thuộc hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Trên thực
tế, tình trạng thiếu khả năng cùng chi trả hay những chi trả lớn khi người bệnh tự
mua thuốc điều trị cũng là những rào cản với khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ
CSSK cơ bản của người dân.
172
Với tất cả các PTTT khác nhau, việc xác định phạm vi chi trả theo hướng
khuyến khích hợp lý cho những dịch vụ, thuốc và can thiệp y tế có tính hiệu quả -
chi phí cao và đáp ứng được các mục tiêu chính sách đang trở thành yêu cầu ngày
càng quan trọng trong xu hướng phát triển bao phủ CSSK toàn dân. Ở phương diện
này, năng lực đánh giá công nghệ y tế (bao gồm đánh giá thuốc, TTB và DVKT,
không chỉ trong lĩnh vực điều trị mà cả trong lĩnh vực YTDP, phục hồi chức năng)
hiện nay còn rất hạn chế để có thể đáp ứng yêu cầu cung cấp bằng chứng cho việc
lựa chọn thuốc và DVKT y tế, trong phạm vi gói dịch vụ CSSK cơ bản.
Còn thiếu những điều kiện và nỗ lực cho việc chuyển đổi cơ bản PTTT theo
dịch vụ trực tiếp. Các PTTT khác như khoán định suất và thanh toán theo trường
hợp bệnh, thanh toán theo kết quả hoạt động đang được từng bước triển khai.
Những hạn chế chủ yếu với các PTTT này liên quan tới sự thiếu vắng các cơ chế
hiệu quả và đồng bộ, cũng như thông tin, cho quản lý chất lượng và khuyến khích
liên tục cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ.
Chi trả cho NVYT tại cơ sở cung ứng cũng mang những yếu tố khuyến
khích tác động trực tiếp tới năng suất và chất lượng dịch vụ. Ở phương diện
này, tăng cường tự chủ và thúc đẩy xã hội hoá mang những yếu tố tích cực với
bao phủ CSSK toàn dân khi tạo cơ chế gắn lợi ích của các cơ sở dịch vụ và thu
nhập của NVYT với kết quả hoạt động theo hướng khuyến khích năng suất và
chất lượng dịch vụ, góp phần gia tăng độ bao phủ về số lượng và chủng loại
dịch vụ CSSK. Tuy nhiên, các chính sách này cũng mang lại những hạn chế khi
khuyến khích các cơ sở y tế chú trọng quá nhiều đến các DVKT cao, thiếu quan
tâm đúng mức tới nhóm dịch vụ CSSK cơ bản, là nhóm dịch vụ được coi là ít
tiềm năng tạo nguồn thu hơn. Điều này cũng khuyến khích tình trạng lạm dụng
các DVKT cao, gia tăng chi phí dịch vụ, từ đó tạo nên rào cản tiếp cận đối với
người dân nhất là người nghèo và các đối tượng dễ tổn thương.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện tăng cường tự chủ cho các cơ sở dịch
vụ KCB theo tinh thần Nghị định số 43/2006/NĐ-CP đã chỉ ra một số hạn chế cơ
bản và những kết quả không mong muốn liên quan đến tình trạng cung ứng và sử
173
dụng dịch vụ KCB không phù hợp. Cơ chế gắn lợi ích/thu nhập của các cơ sở
cung ứng dịch vụ với kết quả hoạt động và tạo thu nhập tăng thêm hiện nay chưa
tạo được khuyến khích hợp lý với cơ sở cung ứng dịch vụ, với đội ngũ NVYT cơ
sở, trong việc tăng cường cung ứng dịch vụ CSSK cơ bản, nhất là với khu vực
YTDP. Cơ sở cung ứng dịch vụ phải tự tạo nguồn tài chính cho thu nhập tăng
thêm cho nhân viên và nguồn thu tăng thêm có được chủ yếu theo hình thức “góp
vốn - chia lãi” và gần như chỉ phát huy tác dụng ở những nơi có điều kiện KT-XH
khá, với khu vực điều trị, và những chuyên ngành có lợi thế thị trường. Cơ chế tự
chủ và xã hội hoá còn làm gia tăng sự bất công bằng về thu nhập và chế độ thù lao
cho NVYT thuộc các khu vực KT-XH hoặc các lĩnh vực dịch vụ CSSK khác nhau
(ví dụ: các lĩnh vực dịch vụ ứng dụng kỹ thuật cao so với dịch vụ YTDP, các
chương trình phòng chống lao, phong, tâm thần …).
Khi tự chủ cho các cơ sở cung ứng dịch vụ KCB còn thiếu cơ chế để
kiểm soát, và khi tối đa hóa nguồn thu còn chiếm ưu thế, các yếu tố cần thiết
cho quản lý chi phí và cải thiện chất lượng phục vụ CSSK nhân dân càng chưa
có được sự chú ý đúng mức của các đơn vị cung ứng dịch vụ. Với các chương
trình BHYT, PTTT theo dịch vụ được đánh giá là một trong những nguyên nhân
chủ yếu làm gia tăng chi phí CSSK [12].
Những nỗ lực tăng cường tự chủ và thúc đẩy xã hội hoá được hy vọng sẽ
mang lại những chuyển biến tích cực, giúp cho cơ sở y tế có điều kiện tốt hơn về
cơ sở vật chất (CSVC), TTB để không ngừng nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ
với nhiều dịch vụ mới và với năng suất cao hơn. Tuy nhiên, cần có những hỗ trợ,
điều phối cần thiết để có thể khuyến khích tương xứng hơn cho đội ngũ NVYT
thuộc các lĩnh vực chuyên ngành kém ưu thế, nhất là nhân viên công tác tại tuyến
y tế cơ sở. Điều quan trọng là những giải pháp chính sách, giúp cho sự phát triển
bền vững của y tế cơ sở nói chung, cũng như sự phát triển của các lĩnh vực CSSK
không có lợi thế, không phụ thuộc vào tiềm năng mang lại nguồn thu dịch vụ, đặc
biệt không phụ thuộc vào nguồn thu từ dịch vụ “xã hội hóa”. Những can thiệp
chính sách cũng cần định hướng đầy đủ hơn đến mục tiêu chung của toàn hệ
thống, vì thành công của một nền y tế có độ bao phủ CSSK toàn dân, thay vì
những thành công thuần túy về nguồn thu.
174
Từ khía cạnh thị trường dịch vụ CSSK, các bệnh viện lớn ở tuyến kỹ thuật
cao, được hưởng những lợi thế mức chi trả cao hơn cho cùng dịch vụ KCB cơ bản,
đang có đầy đủ tiềm năng và thuận lợi để có thể lấn át, làm suy yếu các cở sở y tế
dịch vụ tuyến dưới. Bất chấp những nỗ lực thúc đẩy hoạt động của tuyến CSSK ban
đầu với vai trò là tuyến tiếp xúc sớm nhất với người sử dụng dịch vụ, các cơ sở
bệnh viện các tuyến vẫn đang là nơi cung cấp chủ yếu các dịch vụ KCB, chiếm ưu
thế áp đảo trong cung cấp dịch vụ CSSK, kể cả các dịch vụ cơ bản. Đây rõ ràng là
một kết quả không mong muốn với định hướng công bằng, hiệu quả. Khuynh hướng
tối đa hóa nguồn thu không xem xét hài hòa với lợi ích của người sử dụng dịch vụ
và lợi ích của cả hệ thống y tế cũng chính là rào cản lớn cho việc triển khai các
chương trình đổi mới PTTT dịch vụ KCB theo hướng hợp lý và minh bạch.
Cuối cùng, chi trả không chính thức, khi chưa có giải pháp giải quyết, sẽ
tiếp tục là chướng ngại đầy khó khăn cho các nỗ lực đổi mới PTTT. Các mục
tiêu tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực thông qua cung cấp và sử dụng
dịch vụ hợp lý theo tuyến kỹ thuật, tăng cường khả năng tiếp cận công bằng và
được chăm sóc dịch vụ cơ bản, có chất lượng không phụ thuộc vào khả năng chi
trả của người dân sẽ khó có thể đạt được khi chi trả không chính thức tiếp tục
song hành với chi trả chính thức (cả với chi trả theo dịch vụ trực tiếp, theo định
suất, hay theo trường hợp bệnh).
Để thiết kế và thực hiện các PTTT mới đòi hỏi những điều kiện nhất
định về năng lực kỹ thuật, tính đáp ứng của hệ thống thông tin dữ liệu, các
nghiên cứu hỗ trợ. Trong điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay các điều kiện
này đều rất hạn chế [4].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2012), Báo cáo đánh giá 2 năm thực hiện phương
thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (2012), Thông báo kết luận Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện phương
thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất, số
404/TB-BYT, ngày 14/5/2012.
175
3. Bộ Y tế & Bộ Tài chính (2009), Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện bảo
hiểm y tế, số 09/2009/TTLT-BYT-BTC, ngày 14/8/2009.
4. Bộ Y tế & Nhóm đối tác y tế (2013), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm
2013 - Hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, Hà Nội.
5. Chính phủ (2012), Nghị định về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các
đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh công lập, số 85/2012/NĐ-CP, ngày 15/10/2012.
6. Dự án hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ - Bộ Y tế (2013), Báo cáo tình hình
thực hiện Dự án 2013, Hà Nội.
7. Dự án hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ - Bộ Y tế (2013), Sổ tay hướng
dẫn thực hiện thí điểm mô hình Phân bổ tài chính dựa trên kết quả (RBF)
tại Nghệ An, Hà Nội.
8. Dự án KICH tỉnh Hoà Bình (2010), Báo cáo chỉ số tháng 10 năm 2010,
Hòa Bình.
9. Dự án KICH tỉnh Hoà Bình (2009), Báo cáo chỉ số tháng 8 năm 2009,
Hòa Bình.
10. Sở Y tế & Bảo hiểm xã hội tỉnh Hoà Bình (2008), Đề án triển khai thí điểm
các cơ chế thanh toán chi phí mới, Hòa Bình.
11. Trần Quang Thông (2012), Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức khoán
quỹ định suất đến chi phí và một số chỉ số khám chữa bệnh bảo hiểm y tế thuộc
bốn bệnh viện huyện, tỉnh Thanh Hóa, Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ
sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
12. Berenson R.A. & Rich E.C. (2010), "US approaches to physician payment: the
deconstruction of primary care", Journal of general internal medicine, 25(6),
pp. 613-618.
13. Hjortsberg C. (2003), "Why do the sick not utilise health care? The case of
Zambia", Health economics, 12, pp. 755-770.
14. Preker A., Langenbrunner J. & Jakab M. (2002), Rich-poor differences in
health care financing. In: Dror D., Preker A., eds. Social re-insurance - a new
approach to sustainable community health care financing, The World Bank,
Washington D.C.
15. Xu K. & et al (2003), "Household catastrophic health expenditure: a
multicountry analysis", Lancet, 362(9378), pp. 111-117.
176
Phụ lục 2
MỤC TIÊU CỦA HỆ THỐNG THANH TOÁN CSSKBĐ THEO ĐỊNH SUẤT CHO CÁC NƯỚC THU NHẬP THẤP VÀ TRUNG BÌNH
_______________
Hệ thống thanh toán CSSKBĐ thường được cải tiến để đáp ứng với những
thiếu sót cơ bản trong việc thực hiện của hệ thống y tế một quốc gia đòi hỏi phải có
sự định hướng lại tài chính tổng thể và cung cấp dịch vụ chủ yếu. Ví dụ, vào năm
2002, New Zealand giới thiệu cải cách CSSKBĐ, trong đó bao gồm sự hình thành
của các đơn vị CSSKBĐ phi lợi nhuận mới (được gọi là các tổ chức sức khỏe ban
đầu) được cấp ngân sách thông qua một hệ thống thanh toán theo định suất, để giải
quyết sức khỏe đáng kể và sự bất bình đẳng trong CSSK giữa các nhóm kinh tế xã
hội và dân tộc phát sinh từ hệ thống thanh toán theo dịch vụ. Tại thời điểm cải cách
CSSKBĐ đã được thực hiện, tỷ lệ tử vong có thể tránh được của dân Maori bản địa
là 2,3 lần so với người New Zealand khác và tỷ lệ nhập viện có thể tránh được 60-
70% hay cao hơn. Một ví dụ khác, ở Costa Rica trong đầu những năm 1990 chất
lượng của các DVYT suy giảm nhanh chóng, tinh thần thấp kém trong số các cơ sở
cung ứng dịch vụ và người bệnh phải chờ đợi lâu để được chẩn đoán và các dịch vụ
khác phản ánh sự thiếu hiệu suất cấu trúc trong hệ thống CSSK, mà trước đó đã đạt
được lợi ích sức khỏe ấn tượng cho người dân. Cải cách CSSKBĐ để giải quyết
thiếu hiệu suất bao gồm việc tổ chức lại các phòng khám CSSKBĐ công vào các
hợp tác xã tự quản được chi trả dưới một hệ thống thanh toán theo định suất [1].
Ở Liên Xô cũ, sự kết hợp của việc bỏ bê lịch sử của lĩnh vực CSSKBĐ,
chăm sóc chuyên khoa hóa quá mức và phân mảnh, cơ sở hạ tầng bệnh viện không
bền vững và sự tham gia hạn chế của người dân trong sức khỏe của bản thân và
CSSK đưa đến sự sụt giảm chưa từng có về tình trạng sức khỏe trong suốt khu vực
vào đầu giai đoạn chuyển tiếp hậu Xô Viết. Các bệnh truyền nhiễm, như bệnh lao
và một số bệnh phòng ngừa bằng vắc xin, tăng lên nhanh chóng cùng một lúc với
các bệnh mạn tính như bệnh tim mạch không được điều trị hoặc được quản lý kém.
Những thất bại nghiêm trọng này đã được phản ánh bởi tỷ lệ tử vong tăng mạnh và
giảm tuổi thọ ở một số nhóm dân cư. Nhiều nước trong số các nước hậu Xô Viết bắt
177
tay vào tài chính y tế toàn diện và cải cách cung cấp dịch vụ, với việc tái cơ cấu và
tăng cường CSSKBĐ, được hỗ trợ bởi hệ thống thanh toán theo định suất mới, là
trung tâm của chiến lược cải cách.
Các mục tiêu có thể được hỗ trợ bởi một hệ thống thanh toán theo định
suất, đặc biệt là trong chuyển đổi từ một hệ thống thanh toán theo mục lục ngân
sách, bao gồm:
• Cải thiện tính công bằng trong việc phân phối các nguồn lực CSSK, tiếp
cận với DVYT cơ bản và tình trạng sức khỏe.
• Cải thiện tính minh bạch của phân bổ nguồn lực.
• Nỗ lực tái cấu trúc hệ thống cung cấp DVYT.
• Tạo ra hoặc tăng cường các tổ chức CSSKBĐ có khả năng hoạt động tự
chủ và cung cấp chăm sóc toàn diện, tích hợp, tiếp xúc đầu tiên cho các cá nhân và
cộng đồng rộng lớn hơn.
• Tạo ra sự cạnh tranh cho các cơ sở cung ứng dịch vụ và sự lựa chọn cho
người bệnh để tăng sự đáp ứng của hệ thống y tế đối với người bệnh và người dân.
• Tạo động lực cho các cơ sở cung ứng dịch vụ CSSKBĐ để cải thiện hiệu
suất thông qua việc sử dụng nguồn lực hợp lý hơn, bao gồm tăng cường nâng cao
sức khỏe và các dịch vụ phòng bệnh và cung cấp dịch vụ chất lượng cao hơn với
các nguồn lực sẵn có.
• Tăng quyền tự chủ quản lý của cơ sở cung ứng dịch vụ (có hiệu lực, phân
cấp quản lý cơ sở y tế).
• Cải thiện cung cấp dịch vụ CSSKBĐ và chất lượng chăm sóc, và mở rộng
phạm vi các dịch vụ được cung cấp trong CSSKBĐ.
• Sự tham gia của cộng đồng trong CSSKBĐ và thay đổi mối quan hệ giữa
cộng đồng và các cơ sở cung ứng dịch vụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Langenbrunner J., Cashin C. & O'Dougherty S. (2009), Designing and
Implementing Health Care Provider Payments Systems - How to Manuals, WB
and the USAID, Washington D.C.
178
Phụ lục 3
HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN THEO ĐỊNH SUẤT _______________
PTTT theo định suất tương đối đơn giản để thiết kế và thực hiện, có thể tạo
ra những thay đổi nhanh chóng trong mối quan hệ giữa các yếu tố trong ngành y tế,
nên phương thức mới này có thể đóng một vai trò quan trọng như một kích hoạt đặc
trưng của sự chuyển đổi - và văn hóa - của một quá trình cải cách toàn diện hơn.
Thiết kế trong bối cảnh này, chúng có thể tạo thuận lợi cho sự thay đổi lớn dọc theo
bốn trục của hệ thống CSSK: tài chính, cung cấp dịch vụ, cơ cấu tổ chức và vai trò
của người dân (Bảng 1) [1].
Bảng 1: Các trục tác động của hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất
Tài chính Cung cấp dịch vụ Cơ cấu tổ chức Vai trò của
người dân
- Cải thiện công
bằng
- Chuyển các
nguồn lực từ chăm
sóc chuyên khoa
sang CSSKBĐ
- Cơ sở cung ứng
dịch vụ sử dụng
các nguồn lực chi
phí - hiệu quả hơn
- Tăng phạm vi các
dịch vụ cho CSSKBĐ
và hợp nhất các
chương trình theo
chiều dọc
- Hướng tới nâng cao
sức khỏe, phòng bệnh
và quản lý các bệnh
mạn tính
- Giao diện mới và
liên tục trên các mức
độ chăm sóc
- Tái cơ cấu lĩnh vực
CSSKBĐ
- Tăng quyền tự chủ
và cổ phần hóa cơ
cấu (các đơn vị kinh
doanh CSSKBĐ)
- Phân cấp quản lý cơ
sở
- Tăng quyền
(thông tin và
sự lựa chọn)
- Tăng trách
nhiệm (sự lựa
chọn lối sống
lành mạnh)
1. Tài chính
Trong tài chính y tế, hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất tạo ra một
cơ chế ngay lập tức để tăng sự công bằng trong việc phân bổ nguồn lực cho các dịch
vụ CSSK cơ bản, tăng tính minh bạch trong phân bổ nguồn lực và chuyển nguồn
179
lực từ các lĩnh vực chuyên khoa ngoại trú và bệnh viện về cho CSSKBĐ. Một hệ
thống thanh toán theo định suất cho phép người mua DVYT cân bằng về mặt hành
chính (và điều chỉnh nguy cơ có thể xảy ra) số lượng nguồn lực được phân bổ theo
đầu người và chuyển các nguồn lực về chăm sóc ban đầu trong quá trình thiết lập tỷ
lệ định suất. Cuối cùng, tài chính y tế và hệ thống thanh toán cho cơ sở cung ứng
dịch vụ nên khuyến khích thị trường đóng một vai trò trong việc xác định phân bổ
nguồn lực giữa CSSKBĐ và các mức độ chăm sóc cao hơn. Nếu hệ thống thanh
toán được thiết kế phù hợp với sự cạnh tranh và khuyến khích kinh tế thích hợp,
ngân sách sẽ chảy đến nơi mà chúng được sử dụng với chi phí - hiệu quả nhất, đó là
lĩnh vực CSSKBĐ. Tuy nhiên, trong giai đoạn ngắn hạn, một hệ thống thanh toán
CSSKBĐ theo định suất cung cấp cơ chế hành chính để bắt đầu sự thay đổi này.
Khi thực hiện cùng với tăng quyền tự chủ quản lý và sự lựa chọn người dân,
một hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất tạo ra khuyến khích tài chính cho
cơ sở cung ứng dịch vụ trên cả hai mặt về việc đưa ra quyết định phân bổ nguồn lực
nội bộ một cách chi phí - hiệu quả hơn để thu hút người bệnh nhiều hơn, và để giữ
cho chi phí thấp và tạo ra số dư.
Cuối cùng, một hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất cho phép người
mua DVYT thanh toán phù hợp trực tiếp cho các DVYT được phép cung cấp và
người dân nhận được dưới một gói phúc lợi của chính phủ đã được phê duyệt. Điều
này đặc biệt quan trọng trong các môi trường đặc trưng bởi ngân sách dựa trên đầu
vào, nơi kết nối giữa thanh toán và gói lợi ích là không rõ ràng và do đó cơ sở cung
ứng dịch vụ không có động lực tài chính để phục vụ miễn phí người dân hoặc quản
lý thích hợp các khoản thanh toán cá nhân đối với người dân được miễn trừ [1].
2. Cung cấp dịch vụ
Hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất có thể lái những thay đổi đáng
kể, trong đó các dịch vụ được cung cấp và làm thế nào để các dịch vụ này được thực
hiện. Hệ thống như vậy liên kết trực tiếp với các gói dịch vụ mà các cơ sở cung ứng
dịch vụ phải phục vụ cho người dân đăng ký tham gia tại các cơ sở này. Vì vậy, hệ
thống thanh toán là một cơ chế để xác định và dần dần tăng phạm vi các dịch vụ
180
được cung cấp ở mức độ CSSKBĐ. Vì năng lực lâm sàng của các cơ sở cung ứng
dịch vụ CSSKBĐ tăng lên, nên tỷ lệ định suất có thể được tăng lên để trả cho cơ sở
cung ứng dịch vụ CSSKBĐ đối với các dịch vụ bổ sung. Tỷ lệ định suất cũng có thể
được mở rộng để lái sự hợp nhất các chương trình theo chiều dọc truyền thống vào
trong CSSKBĐ, chẳng hạn như tiêm chủng, chẩn đoán và điều trị bệnh lao. Phạm vi
mở rộng của các dịch vụ CSSKBĐ, kèm theo một tỷ lệ định suất tăng, tạo ra một
giao diện mới với các mức độ khác của hệ thống CSSK và tạo ra nền tảng cho tài
chính thích hợp của sự chăm sóc liên tục liền mạch.
Theo thời gian, khi các ưu đãi tài chính của hệ thống thanh toán theo định
suất trở nên quan trọng đối với cơ sở cung ứng dịch vụ, họ sẽ phản ứng với những
thay đổi trong việc sử dụng đầu vào và sự kết hợp đầu ra của họ để chi phí của họ
thấp hơn và tạo ra số dư. Những thay đổi này trong kết hợp dịch vụ của họ có khả
năng để ưu tiên cho các dịch vụ nâng cao sức khỏe chi phí thấp hơn, phòng bệnh và
quản lý bệnh mạn tính, chứ không phải là khám chữa bệnh đắt tiền hơn. Cơ sở cung
ứng dịch vụ được trả tiền để giữ người dân có sức khỏe tốt, không chỉ là điều trị
người bệnh. Nếu các cơ sở cung ứng dịch vụ CSSKBĐ giữ cho người dân của họ
khỏe mạnh, họ có thể tạo ra một khoản tiền tiết kiệm, mà những khoản tiền tiết
kiệm này có thể được sử dụng ví dụ như để mua thuốc hoặc thiết bị nhiều hơn hoặc
để bổ sung các dịch vụ khác cho người dân của họ.
Hệ thống thanh toán theo định suất cũng có thể ảnh hưởng đến các dịch vụ
được cung cấp. Trong một số trường hợp, hệ thống thanh toán cho cơ sở cung ứng
dịch vụ không cung cấp ưu đãi tài chính khi mới bắt đầu triển khai, ví dụ như các
hướng dẫn thực hành lâm sàng mới hoặc các kỹ thuật nâng cao chất lượng hoặc
thậm chí sử dụng kiến thức và kỹ năng mới đạt được bởi các NVYT. Ví dụ, ở Liên
Xô cũ, các hệ thống thanh toán cơ sở cung ứng dịch vụ khen thưởng quá mức để
duy trì công suất dư thừa trong hệ thống cung ứng DVYT. Các thực hành lâm sàng
mới hoặc các kỹ thuật nâng cao chất lượng làm giảm các DVYT không cần thiết
dẫn đến cắt giảm ngân sách của các cơ sở cung ứng DVYT. Hệ thống thanh toán
theo định suất có thể giúp đảm bảo ưu đãi tài chính để khuyến khích sử dụng các
181
DVYT hợp lý và khen thưởng trong trường hợp hiệu suất hơn hoặc các thực hành
lâm sàng có chất lượng cao hơn [1].
3. Cơ cấu tổ chức
Một vấn đề mà nhiều nước trên thế giới tiếp tục nỗ lực là xác định vai trò
tối ưu của các NVYT và chuyên gia CSSKBĐ và mối quan hệ qua lại của họ. Một
yếu tố của cải cách hệ thống y tế rộng lớn hơn có thể để nâng cao vai trò của các
NVYT CSSKBĐ và tập trung các chuyên gia vào các can thiệp đòi hỏi chuyên
môn của họ. Quá trình này có thể liên quan đến việc thay đổi cấu trúc cơ bản của
hệ thống cung ứng DVYT để giúp phát triển thêm nữa chi phí - hiệu quả
CSSKBĐ. Khuyến khích tài chính chứa đựng trong hệ thống thanh toán CSSKBĐ
theo định suất có thể góp phần vào - hoặc thậm chí là định hướng - quá trình tái cơ
cấu này. Ở nhiều nước thu nhập thấp và trung bình, cơ sở cung ứng dịch vụ
CSSKBĐ được tài trợ công khai cũng được sở hữu và quản lý công khai. Cơ chế
cứng nhắc quan liêu và tập trung thường đi kèm với một cấu trúc như vậy có thể
dẫn đến sự phân bổ nguồn lực không hiệu suất và cơ sở cung ứng dịch vụ
CSSKBĐ không có động lực một cách hiển nhiên [1].
Hệ thống thanh toán theo định suất nên được tạo ra trong một cách mà nó
đi kèm với quyền tự chủ quản lý lớn hơn và có thể bởi một cấu trúc cổ phần hóa
nhiều hơn để tạo ra lợi ích giữa các cơ sở cung ứng dịch vụ trong việc sử dụng
nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Các cơ sở cung ứng dịch vụ CSSKBĐ được
phép phân bổ ngân sách theo định suất trọn gói của họ giữa các chi phí đầu vào và
kết quả đầu ra một cách chi phí - hiệu quả nhất và bản thân họ được hưởng lợi từ
bất kỳ hiệu suất mà họ đạt được.
Cơ sở cung ứng dịch vụ phải có một số mức độ tự chủ (còn gọi là quyền
quyết định) để quản lý đầu vào của họ và để đáp ứng với các ưu đãi mới được tạo ra
bởi hệ thống thanh toán mới. Cơ sở cung ứng dịch vụ phải tăng tính tự chủ trong
việc đưa ra các quyết định sau đây:
• Nhân sự - thuê và sa thải, thù lao và phúc lợi.
182
• Đầu vào khác - số lượng và loại thuốc, vật tư và các đầu vào khác được sử
dụng để tạo ra dịch vụ CSSKBĐ.
• Tài sản vật chất - xử lý vốn cổ phần hiện có, bao gồm các tòa nhà và trang
thiết bị hoặc mua lại vốn mới, chẳng hạn như thiết bị.
• Cơ cấu tổ chức - cơ cấu quản lý và quy trình, ký kết hợp đồng tạo ra các
dịch vụ.
• Hỗn hợp đầu ra - loại dịch vụ cung cấp.
• Sử dụng doanh thu số dư - cách sử dụng doanh thu số dư được tạo ra từ
hiệu suất đạt được.
4. Vai trò của người dân
Hệ thống thanh toán CSSKBĐ theo định suất tạo ra cơ chế để tăng tiếng
nói và vai trò của người dân trong hệ thống y tế và thay đổi cán cân quyền lực từ
cơ sở cung ứng dịch vụ sang người bệnh. Đặc biệt, nếu có sự lựa chọn tự do trong
hệ thống, cơ sở cung ứng dịch vụ CSSKBĐ có thể thu hút nhiều người bệnh hơn
sẽ được thưởng tài chính nhiều hơn trong một hệ thống thanh toán theo định suất
và cơ sở cung ứng dịch vụ sẽ có động cơ để hiểu rõ hơn (và do đó đáp ứng) các
nhu cầu và yêu cầu của người dân. Người dân cũng có trách nhiệm nhiều hơn cho
sức khỏe của chính bản thân mình, vì hệ thống CSSKBĐ chuyển trọng tâm sang
nâng cao sức khỏe và phòng bệnh, dựa vào mỗi cá nhân chịu trách nhiệm lớn hơn
đối với sức khỏe của bản thân họ [1].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Langenbrunner J., Cashin C. & O'Dougherty S. (2009), Designing and
Implementing Health Care Provider Payments Systems - How to Manuals, WB
and the USAID, Washington D.C.
183
Phụ lục 4
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ____________
1. Huyện, xã can thiệp
Đăk Tô là một trong 8 huyện của tỉnh Kon Tum, cách thành phố Kon
Tum 42 Km về phía Nam, gồm có 8 xã (Diên Bình, Pô Kô, Tân Cảnh, Kon
Đào, Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga, Đăk Trăm và Văn Lem) và thị trấn Đăk Tô, dân số
cuối năm 2011 là 40.584 người, dân tộc thiểu số chiếm 53,65% dân số (trong đó
chủ yếu là dân tộc Xơ Đăng chiếm 38,39% và dân tộc Bana chiếm 10,74% dân
tộc thiểu số của huyện). Năm 2011, thu nhập BQ/người là 11.830.940 đồng, tỷ
lệ hộ nghèo là 22,47% và cận nghèo là 7,36%; tỷ lệ người tham gia BHYT năm
2011 là 66,24% so với dân số của huyện; cả 9/9 xã, thị trấn của huyện Đăk Tô
đều có bác sĩ và y sĩ (Nguồn: TTYT và Chi cục Thống kê huyện Đăk Tô).
Bảng 1: Tình hình tham gia BHYT và đăng ký KCB ban đầu
tại TYT xã của huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum
STT Tên xã, thị trấn Khoảng cách đến trung tâm huyện
(Km)
Dân số cuối năm
2011 (người)
Đăng ký KCB ban đầu tại TYT
Số lượng Tỷ lệ %
1 Thị trấn Đăk Tô 0 11.530 4.242 36,79
2 Xã Diên Bình 6 6.535 3.572 54,66
3 Xã Pô Kô 3 2.424 2.577 106,31
4 Xã Tân Cảnh 3 5.069 2.886 56,93
5 Xã Kon Đào 5 3.552 2.331 65,63
6 Xã Ngọc Tụ 14 2.418 2.610 106,49
7 Xã Đăk Rơ Nga 11 2.747 2.920 106,30
8 Xã Đăk Trăm 10 3.848 3.626 94,23
9 Xã Văn Lem 15 2.009 2.099 104,48
10 Khác 419 -
Cộng 40.551 26.863
184
2. Huyện, xã đối chứng
Huyện Kon Rẫy có 6 xã (Tân Lập, Đăk Ruồng, Đăk Tre, Đăk Pne, Đăk Tơ
Lung và Đăk Kôi) và thị trấn Đăk Rve, cách thành phố Kon Tum 39 Km về phía
Tây, dân số cuối năm 2011 là 23.857 người, dân tộc thiểu số chiếm 65,67% dân số
(trong đó chủ yếu là dân tộc Xơ Đăng chiếm 50,08% và dân tộc Bana chiếm
43,43% dân tộc thiểu số của huyện). Năm 2011, thu nhập BQ/người khoảng 11 triệu
đồng, tỷ lệ hộ nghèo là 38,58% và cận nghèo là 8,11%; tỷ lệ người tham gia BHYT
năm 2011 là 68,5% so với dân số của huyện; các xã, thị trấn của huyện đều có bác
sĩ và y sĩ (Nguồn: TTYT và Chi cục Thống kê huyện Kon Rẫy).
Bảng 2: Tình hình tham gia BHYT và đăng ký KCB ban đầu
tại TYT xã của huyện Kon Rẫy tỉnh Kon Tum
STT Tên xã, thị trấn
Khoảng cách
đến trung tâm
huyện (Km)
Dân số
cuối năm
2011
(người)
Đăng ký KCB ban
đầu tại TYT
Số lượng Tỷ lệ %
1 Thị trấn Đăk Rve 0 5.248 3.574 68,10
2 Xã Tân Lập 8 3.650 2.126 58,25
3 Xã Đăk Ruồng 12 3.787 01 -
4 Xã Đăk Tre 22 5.012 4.573 91,24
5 Xã Đăk Pne 10 1.682 1.775 105,53
6 Xã Đăk Tơ Lung 22 2.062 1.919 93,06
7 Xã Đăk Kôi 36 2.416 2.375 98,30
Cộng 23.857 16.342
1 Người tham gia BHYT đăng ký KCB ban đầu tại Phòng khám Đa khoa khu vực Đăk Ruồng
185
Phụ lục 5
MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM ĐỊNH SUẤT TẠI TRẠM Y TẾ XÃ THUỘC HUYỆN ĐĂK TÔ TỈNH KON TUM
______________
Mô hình thí điểm thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại TYT xã
thuộc huyện Đăk Tô được liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh Kon Tum thống nhất
ban hành kế hoạch triển khai thực hiện.
I. Mục tiêu
1. Mục tiêu chung: Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB, năng lực quản lý DVYT và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính tại TYT xã thông qua thực hiện phương
thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất.
2. Mục tiêu cụ thể: Đánh giá tác động từ việc áp dụng phương thức chi trả theo
định suất đối với tình hình cung ứng dịch vụ KCB tại các TYT xã, về các phạm vi
cụ thể sau:
1) Nâng cao chất lượng KCB của TYT xã, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh;
2) Thúc đẩy việc sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh;
3) Cải thiện công tác quản lý KCB và quản lý tài chính của các cơ quan BHXH
huyện, TTYT huyện và TYT xã;
4) Hỗ trợ kiểm soát chi phí KCB BHYT.
II. Các nội dung chính
Nguyên tắc chung
Mô hình thí điểm này chú trọng hai nội dung cơ bản bao gồm:
(i) Thí điểm phương thức định suất đối với dịch vụ KCB BHYT; và
(ii) Đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của phương thức chi trả theo
định suất và các công thức tính mới.
Cơ cấu các yếu tố được hạch toán vào suất phí và mức độ chi tiết trong tính
toán suất phí sẽ được điều chỉnh sau khi có kết quả đánh giá thí điểm. Suất phí cũng
sẽ được cập nhật định kỳ (hàng năm) để đạt được mức độ chính xác và phù hợp với
186
thực tế về sự thay đổi của các yếu tố đầu vào (ví dụ như tần suất KCB, mô hình
bệnh tật, giá thuốc, VTYTTH, kể cả việc thực hiện của các TYT xã).
Quá trình triển khai sẽ có các hoạt động bổ sung, gồm tập huấn, hướng dẫn
chuyên môn, theo dõi và giám sát hỗ trợ, thảo luận cách thức cải thiện chất lượng
CSSK và trao đổi học tập kinh nghiệm trong điều hành, quản lý.
Phạm vi thí điểm
Tại 3 TYT xã (Ngọc Tụ, Đăk Rơ Nga và Đăk Trăm) của huyện Đăk Tô tỉnh
Kon Tum trong năm 2012.
III. Phương pháp xác định suất phí
1. Suất phí, quỹ định suất và quỹ Điều tiết-Khen thưởng
1.1. Suất phí
Suất phí tại TYT là chi phí sàn hàng năm phân bổ cho TYT dành cho chi phí
KCB của một người bệnh BHYT trong một năm, dựa trên chi phí trung bình của
thuốc (M1), phí DVKT xác định sau (M2), tiền công khám (S) và VTYTTH (V1)
cho mỗi lượt khám nhân với chỉ tiêu của tần suất KCB/năm (chỉ tiêu áp dụng cho
mô hình thí điểm là 1,0 lượt/thẻ/năm).
Suất phí áp dụng cho TYT không bao gồm: (i) Chi phí KCB của người có thẻ
BHYT tại cơ sở KCB khác; (ii) Thuốc và VTYTTH dùng cho các DVKT (được tính
vào giá của DVKT); (iii) DVKT; (iv) Chi phí KCB ở tuyến trên (có kiểm soát
chuyển tuyến).
1.2. Quỹ định suất
Quỹ định suất cho TYT xã do TTYT huyện quản lý. Quỹ định suất cho mỗi
TYT phải được quản lý riêng biệt, được dùng để mua thuốc, VTYTTH cho TYT và
để chi tiền công khám. Sau một năm, số dư quỹ định suất sẽ được chuyển sang năm
tiếp theo nhưng không dùng để tính suất phí của năm tiếp theo.
Quỹ Điều tiết-Khen thưởng (ĐTKT) chỉ chiếm một phần nhỏ, khoảng 10%
của quỹ định suất, và vì nó cũng là một phần của quỹ định suất nên cũng sẽ do
TTYT huyện quản lý, nhưng phải tách biệt với suất phí cho các TYT và quản lý
thành một khoản chung cho tất cả các xã.
187
Trong trường hợp chi phí cho KCB của các TYT xã lớn hơn quỹ định suất và
sau khi đã cộng hoặc trừ số kinh phí điều tiết của quỹ ĐTKT, TTYT huyện sẽ phải
bù bằng ngân sách quỹ KCB để chi trả cho người có thẻ BHYT. Trong trường hợp
quỹ KCB của huyện cũng thiếu thì BHXH tỉnh sẽ bù kinh phí từ quỹ KCB của tỉnh.
1.3. Quỹ Điều tiết-Khen thưởng
Quỹ ĐTKT là một nội dung mới trong mô hình thí điểm này. Theo thiết kế,
quỹ ĐTKT là một phần của quỹ định suất và là quỹ dùng để bù kinh phí bị thiếu hụt
do tần suất KCB tăng vượt chỉ tiêu, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ
KCB, khuyến khích việc cung ứng và sử dụng thuốc hợp lý. Kinh phí cho quỹ
ĐTKT được BHXH tỉnh xác định trước cho mỗi năm, dựa trên số đầu thẻ BHYT
của mỗi TYT. Định mức của quỹ này là tối đa bằng 10% suất phí.
Quỹ ĐTKT sẽ được BHXH tỉnh ứng trước hàng năm, được TTYT huyện
quản lý riêng và tuân theo nguyên tắc sử dụng được nêu dưới đây. Cũng giống như
ý nghĩa của phương thức chi trả theo định suất, việc xác định trước quỹ ĐTKT thêm
một lần nữa đảm bảo cho nguồn kinh phí có sẵn dành cho hoạt động. Cùng với cơ
chế phân bổ rất rõ ràng, quỹ ĐTKT được xem là có tác động tích cực thúc đẩy việc
cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ KCB. Sau một năm triển khai mô hình, việc
phân bổ ngân sách cho quỹ ĐTKT sẽ dựa trên đề xuất của TTYT huyện theo phân
cấp ưu tiên nêu dưới đây, thông qua phê duyệt của liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh.
Quỹ ĐTKT được phân bổ theo nguyên tắc như sau:
1) Phân bổ ưu tiên - Bù đắp kinh phí thiếu hụt:
Mục đích sử dụng hàng đầu của quỹ ĐTKT là bù đắp (giữa các TYT) khi xảy
ra thiếu hụt kinh phí cho hoạt động của trạm vì lý do tần suất KCB vượt chỉ tiêu đã
định một cách hợp lý - Do bệnh dịch làm tăng lượng người bệnh đến trạm, hoặc do
chất lượng dịch vụ của TYT đó rất tốt nên thu hút đông người bệnh đến khám.
Ngược lại, nếu TYT nào có tần suất KCB quá thấp so với mức cho phép (dưới 90%
so với chỉ tiêu đã đặt ra là trung bình 1,0 lượt/thẻ/năm) thì TYT đó sẽ phải hoàn trả
một phần suất phí để góp lại thành quỹ ĐTKT cho năm sau; trong khi đó, những
TYT vượt chỉ tiêu hợp lý (trên 110% so với chỉ tiêu đã đặt ra là trung bình 1,0
188
lượt/thẻ/năm) sẽ nhận được suất phí cao hơn. Cơ chế bù trừ như vậy sẽ giúp thực
hiện mục tiêu hoạt động và chức năng của quỹ ĐTKT.
2) Phân bổ thứ cấp - Chi thưởng:
Mục tiêu kế tiếp của quỹ ĐTKT là khuyến khích tăng cường cung ứng dịch
vụ KCB và với chất lượng tốt hơn (cả tuyến xã và huyện). Các khoản chi thưởng
này sẽ được phân bổ theo nguồn tiền mặt, và được chi theo các mức gấp đôi hoặc
gấp ba lần tiền công khám (áp dụng theo từng điều kiện cụ thể), hoặc chi khuyến
khích theo các hình thức khác như tập huấn, phục vụ nâng cấp cơ sở vật chất
(CSVC), v.v... Tiền chi thưởng/khuyến khích chỉ áp dụng cho những TYT đạt hoặc
gần đạt chỉ tiêu, các hình thức khuyến khích khác sẽ dựa theo mức độ hoạt động của
TYT (tốt hơn, có chất lượng hơn) nhưng không đặt điều kiện quá nghiêm ngặt.
Trong điều kiện phân bổ quỹ ĐTKT, ưu tiên số 1 luôn luôn dành cho việc bù
đắp kinh phí thiếu hụt cho các TYT. Sau đó mới đến chi cho khen thưởng/khuyến
khích, phụ thuộc vào nguồn kinh phí có còn dư cho chi thưởng hay không. Phần
kinh phí riêng cho chi thưởng chiếm tối đa 75% quỹ ĐTKT hàng năm, để nhấn
mạnh mục đích ưu tiên của quỹ.
Dự kiến, quỹ ĐTKT sẽ được lập từ 5 nguồn sau đây:
1. BHXH tỉnh: Trích từ số dư quỹ BHYT (Khoản 1, Điều 21, Chương VII,
Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14/8/2009 của liên Bộ Y tế -
Bộ Tài chính) và theo quyết định của UBND tỉnh.
2. TYT xã: Nếu tần suất KCB trong năm thấp dưới 0,9 lượt/đầu thẻ BHYT/năm
(dưới 90% so với chỉ tiêu mô hình thí điểm), TYT sẽ phải hoàn trả phần suất phí
thừa để đóng góp cho quỹ ĐTKT năm sau.
3. Quỹ ĐTKT: Bản thân quỹ ĐTKT, nếu hết năm mà vẫn còn số dư thì số tiền
đó sẽ chuyển sang cho quỹ ĐTKT năm sau.
4. Nguồn từ TTYT huyện (bên giữ quỹ định suất): Trong trường hợp tất cả các
xã của huyện đều có dư quỹ thì khoản dư này sẽ được chuyển sang quỹ ĐTKT cho
năm sau.
189
5. Nguồn bổ sung từ các nhà tài trợ khác: Trong trường hợp tổng kinh phí từ
các nguồn nói trên vẫn không đủ cho quỹ ĐTKT (ở mức tối đa bằng 0,1 lần quỹ
định suất) mà lại có một nguồn kinh phí khác, thì nguồn đó sẽ được chấp nhận để
bổ sung quỹ ĐTKT.
2. Công thức định suất áp dụng trong mô hình thí điểm
a) Công thức xác định suất phí:
C = f x (M1 + M2 + S + V1) = f x U
C = suất phí cho một đối tượng hưởng BHYT
f = Chỉ tiêu tần suất KCB/thẻ/năm tại TYT (quy ước = 1,0)
U = (M1 + M2 + S + V1) = chi phí BQ cho 1 lượt khám tại TYT
M1 = Chi phí thuốc BQ/lượt khám
M2 = Chi phí DVKT BQ/lượt khám = 0 (hiện tại có giá trị mặc định bằng 0;
phụ thuộc vào việc xác định cụ thể các DVKT về sau)
S = tiền công khám (do UBND tỉnh phê duyệt)
V1 = Vật tư y tế tiêu hao
b) Quỹ định suất cho mỗi TYT xã:
Quỹ ĐS = (N x C) + (N x Quỹ ĐTKT)
Quỹ ĐS = Quỹ định suất
N = Số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở y tế
C = Phí định suất trên đầu thẻ
Quỹ ĐTKT = Quỹ điều tiết và khen thưởng = 10% của C
190
BẢN ĐỒ MẠNG LƯỚI Y TẾ CƠ SỞ
TỈNH KON TUM
CHỈ DẪN
CSYT tuyến huyện (TTYT huyện, TT ATVSTP,
TT DS-KHHĐD, Phòng Y tế)
Phòng khám Đa khoa khu vực
TYT xã, phường, thị trấn
Phụ lục 6
191
Phụ lục 7
CÁC BÊN LIÊN QUAN, MỐI QUAN TÂM VÀ HÌNH THỨC PHỔ BIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
______________
Các bên liên quan
Mối quan tâm Hình thức phổ biến kết
quả nghiên cứu
Bộ Y tế, Bộ Tài
chính và BHXH
Việt Nam
Áp dụng phương thức định suất trên phạm vi toàn quốc theo đúng lộ trình đã đề ra.
Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB.
Chi phí - hiệu quả của phương thức thanh toán.
Ban hành các hướng dẫn triển khai thực hiện Luật BHYT phù hợp với tình hình thực tế của các địa phương.
Báo cáo chi tiết kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị.
Sở Y tế và BHXH
tỉnh
Áp dụng phương thức định suất trên địa bàn tỉnh theo đúng lộ trình do Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định.
Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Thúc đẩy sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh.
Kiểm soát có hiệu quả chi phí KCB BHYT tại TYT xã.
Chi phí - hiệu quả của phương thức thanh toán.
Họp trao đổi trực tiếp với các cán bộ có liên quan để chính thức thông báo kết quả nghiên cứu và các khuyến nghị.
Báo cáo chi tiết kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị.
TTYT và BHXH huyện
Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Thúc đẩy sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh.
Kiểm soát được việc chuyển tuyến.
Kiểm soát có hiệu quả chi phí KCB BHYT tại TYT xã.
Hạn chế lạm dụng quỹ.
Họp trao đổi trực tiếp với các cán bộ có liên quan để chính thức thông báo kết quả nghiên cứu và các khuyến nghị.
Báo cáo chi tiết kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị.
192
Các bên liên quan
Mối quan tâm Hình thức phổ biến kết
quả nghiên cứu
Trạm Y tế
Nâng cao chất lượng dịch vụ KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Thúc đẩy sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh.
Kiểm soát được việc chuyển tuyến.
TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài chính.
Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ.
Phổ biến kết quả nghiên cứu thông qua các buổi giao ban của TTYT huyện với TYT xã.
Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị.
Cộng đồng
Tiếp cận với dịch vụ KCB thuận tiện.
Chất lượng và hiệu quả của dịch vụ KCB.
Đảm bảo quyền lợi trong KCB BHYT.
Sự hài lòng của người bệnh và cộng đồng.
Báo cáo tóm tắt, ngắn gọn, dễ hiểu về kết quả nghiên cứu với ngôn ngữ phù hợp với các đối tượng.
Các kết quả và khuyến nghị được phổ biến tại các cuộc họp, sinh hoạt ở cộng đồng, nhằm thu được các câu hỏi và trả lời.
Kế hoạch chuyển các khuyến nghị thành hành động cụ thể.
Các kết quả nghiên cứu được đăng trên báo, pa nô và cần được đặt tại các cơ sở y tế.
Phương tiện truyền thông, loa đài để chắc chắn rằng các cá nhân trong cộng đồng có thể tiếp cận được với các kết quả nghiên cứu.
193
Phụ lục 8
MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ______________
Bảng 1: Thông tin chung về các xã nghiên cứu
Nội dung
Đơn vị
tính
Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng) Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 Dân số có mặt đầu năm người 2.249 2.615 2.546 2.904 3.641 3.745 4.869 5.143 1.667 1.777 2.247 2.379 Dân số có mặt cuối năm người 2.615 2.648 2.904 2.938 3.740 4.044 5.143 5.287 1.777 1.844 2.379 2.537 Dân số trung bình người 2.432 2.632 2.725 2.921 3.691 3.895 5.006 5.215 1.722 1.811 2.313 2.458 Số người tham gia BHYT người 2.615 2.648 2.904 2.938 3.581 4.044 4.564 4.545 1.777 1.785 2.379 2.537 Tỷ lệ người tham gia BHYT so với dân số có mặt cuối năm
% 100 100 100 100 95,7 100 88,7 86,0 100 96,8 100 100
Tổng số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại trạm y tế
thẻ 2.615 2.648 2.904 2.938 3.581 4.044 4.564 4.545 1.777 1.785 2.379 2.537
Tỷ lệ thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại TYT
% 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Đạt chuẩn quốc gia về y tế - Chuẩn cũ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Đạt Đạt - Chuẩn mới 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Số nhân viên y tế xã người 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7 7
- Bác sĩ người 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 - Y sĩ người 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 2 - Điều dưỡng người 3 3 1 1 2 2 2 2 2 2 2 2 - Hộ sinh người 1 1 2 2 1 1 2 2 2 2 1 1 - Dược sĩ, Dược tá người 1 1 2 2 2 2 1 1 1 1 1 1
194
Bảng 2: Tình hình tham gia BHYT tại 6 xã nghiên cứu
Đơn vị: người
Nội dung
Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng)
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Chung 3 xã Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi Chung 3 xã
2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012 2011 2012
Chia theo nhóm đối tượng 2.615 2.648 2.904 2.938 3.581 4.044 9.100 9.630 4.564 4.545 1.777 1.785 2.379 2.537 8.720 8.867
Nhóm 1 15 17 21 16 50 41 86 74 4 21 1 7 4 5 9 33
Nhóm 2 28 13 41 22 35 33 104 68 14 11 4 8 14 14 32 33
Nhóm 3 2.056 2.067 2.129 2.283 2.708 2.956 6.893 7.306 3.557 3.528 1.326 1.291 1.941 1.974 6.824 6.793
Nhóm 4 516 549 713 617 779 1.011 2.008 2.177 976 967 442 473 420 544 1.838 1.984
Nhóm 5 0 0 0 0 5 0 5 0 10 7 0 0 0 0 10 7
Nhóm 6 0 2 0 0 4 3 4 5 3 11 4 6 0 0 7 17
Chia theo giới tính 2.615 2.648 2.904 2.938 3.581 4.044 9.100 9.630 4.564 4.545 1.777 1.785 2.379 2.537 8.720 8.867
Nam 1.319 1.314 1.207 1.205 2.033 2.035 4.559 4.554 2.321 2.319 1.085 1.095 1.333 1.324 4.739 4.738
Nữ 1.296 1.334 1.697 1.733 1.548 2.009 4.541 5.076 2.243 2.226 692 690 1.046 1.213 3.981 4.129
Chia theo nhóm tuổi 2.615 2.648 2.904 2.938 3.581 4.044 9.100 9.630 4.564 4.545 1.777 1.785 2.379 2.537 8.720 8.867
≤ 5 tuổi 543 543 504 538 907 912 1.954 1.993 1.577 1.545 102 110 155 313 1.834 1.968
6-14 tuổi 651 651 754 754 921 1.035 2.326 2.440 710 710 485 484 618 618 1.813 1.812
15-24 tuổi 591 591 553 553 701 815 1.845 1.959 1.071 1.073 396 392 547 545 2.014 2.010
25-48 tuổi 638 638 795 795 808 919 2.241 2.352 1.171 1.173 533 539 755 757 2.459 2.469
49-60 tuổi 176 176 176 176 111 219 463 571 22 28 156 156 159 160 337 344
>60 tuổi 16 49 122 122 133 144 271 315 13 16 105 104 145 144 263 264
195
Bảng 3: Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2011-2012
Nội dung Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã 4.164 5.456 31,0 1.241 1.433 15,5 3.003 3.872 28,9
Số lượt khám bệnh BQ 0,8 1,0 25,8 0,7 0,8 9,8 1,3 1,6 21,3
Tần suất khám/thẻ/năm 0,9 1,2 31,6 0,7 0,8 15,0 1,3 1,5 20,9
Số lượt chuyển tuyến 354 437 23,4 107 71 -33,6 14 19 35,7
Tỷ lệ % chuyển tuyến 8,5 8 -5,8 8,6 5 -42,5 0,5 0,5 5,3
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện 613 661 7,8 135 143 5,9 143 105 -26,6
- Trong đó
+ Có GGT 354 437 23,4 107 71 -33,6 14 19 35,7
Tỷ lệ % 57,7 66,1 14,5 79,3 49,7 -37,4 9,8 18,1 84,8
+ Không có GGT 259 224 -13,5 28 72 157,1 129 86 -33,3
Tỷ lệ % 42,3 33,9 -19,8 20,7 50,3 142,8 90,2 81,9 -9,2
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã 14,7 12,1 -17,7 10,9 10,0 -8,3 4,8 2,7 -43,1
* Ngoại trú 389 453 16,5 75 92 22,7 103 30 -70,9
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện 63,5 68,5 8,0 55,6 64,3 15,8 72,0 28,6 -60,3
* Nội trú 224 208 -7,1 60 51 -15,0 40 75 87,5
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện 36,5 31,5 -13,9 44,4 35,7 -19,8 28,0 71,4 155,4
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
196
Bảng 4: Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
Tổng chi phí KCB BHYT 399.245 500.414 25,3 83.022 125.282 50,9 198.447 245.816 23,9
- Tiền công khám 3.555 4.365 22,8 1.060 1.146 8,2 2.564 3.098 20,8
Tỷ lệ % tiền công khám 0,9 0,9 -2,0 1,3 0,9 -28,3 1,3 1,3 -2,5
- Tiền thuốc 392.610 491.362 25,2 80.569 121.132 50,3 193.887 229.567 18,4
Tỷ lệ % tiền thuốc 98,3 98,2 -0,1 97,0 96,7 -0,4 97,7 93,4 -4,4
- Tiền VTYTTH - 1.833 - 443 1.603 261,5 57 9.950 17.366,5
Tỷ lệ % tiền VTYTTH - 0,4 - 0,5 1,3 139,6 0 4,0 14.000,7
- Tiền DVKT 3.080 2.854 -7,4 950 1.400 47,4 1.939 3.200 65,0
Tỷ lệ % tiền DVKT 0,8 0,6 -26,1 1,1 1,1 -2,3 1,0 1,3 33,2
Chi phí/lượt khám
- BQ (average) 95,9 91,7 -4,3 66,9 87,4 30,7 66,1 63,5 -3,9
- Cao nhất (max) 319,5 310,6 -2,8 177,8 287,1 61,5 368,9 282,1 -23,5
- Thấp nhất (min) 0,9 1,1 22,2 1,2 1,9 58,3 0,9 3,4 277,8
- Trung vị (median) 87,8 88,1 0,3 65,3 85,7 31,2 63,6 56,0 -11,9
Chi BQ/thẻ/năm 87,5 110,1 25,9 46,7 70,2 50,2 83,4 96,9 16,2
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
197
Bảng 5: Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 95,9 91,7 -4,3 66,9 87,4 30,7 66,1 63,5 -3,9
Nhóm 1 82,7 62,6 -24,2 61,6 101,3 64,4 63,0 75,5 19,8
Nhóm 2 79,2 70,8 -10,6 78,8 94,5 19,9 61,5 66,0 7,3
Nhóm 3 101,8 98,0 -3,7 65,7 89,0 35,4 65,6 65,9 0,4
Nhóm 4 75,1 66,9 -10,9 71,2 84,0 18,1 68,9 56,5 -18,0
Nhóm 5 69,4 90,1 29,8 0 0 - 0 0 -
Nhóm 6 62,0 50,1 -19,2 0 82,1 - 67,0 0 -100
BQ trên thẻ 87,5 110,1 25,9 46,7 70,2 50,2 83,4 96,9 16,2
Nhóm 1 1.136,6 47,7 -95,8 6.960,0 332,7 -95,2 1.653,5 90,6 -94,5
Nhóm 2 226,2 276,7 22,4 216,8 129,9 -40,1 263,5 37,7 -85,7
Nhóm 3 92,4 121,1 31,0 38,8 61,8 59,2 75,4 95,7 26,9
Nhóm 4 62,2 69,9 12,4 53,6 82,6 54,1 99,2 102,8 3,6
Nhóm 5 104,1 64,3 -38,2 - - - - - -
Nhóm 6 330,5 104,7 -68,3 0 506,2 - - - -
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
198
Bảng 6: Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 95,9 91,7 -4,3 66,9 87,4 30,7 66,1 63,5 -3,9
Nam 94,2 91,5 -2,9 64,8 84,9 31,0 66,5 62,8 -5,6
Nữ 97,3 91,9 -5,5 68,7 89,7 30,6 65,6 64,1 -2,4
BQ trên thẻ 87,5 110,1 25,9 46,7 70,2 50,2 83,4 96,9 16,2
Nam 76,7 97,1 26,7 34,2 53,3 55,7 75,3 85,2 13,1
Nữ 98,6 123,6 25,3 66,3 97,0 46,3 93,7 109,6 17,0
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
199
Bảng 7: Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT xã huyện Kon Rẫy năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 95,9 91,7 -4,3 66,9 87,4 30,7 66,1 63,5 -3,9
≤ 5 72,3 67,6 -6,5 71,1 84,2 18,4 69,0 55,3 -19,8
6-14 95,9 86,3 -10,1 60,4 72,9 20,7 58,1 42,6 -26,6
15-24 94,1 91,3 -3,0 62,3 86,3 38,4 63,7 62,0 -2,6
25-48 104,5 102,0 -2,4 67,4 91,4 35,6 67,6 73,2 8,3
49-60 111,0 112,2 1,1 70,1 103,9 48,2 69,7 77,9 11,8
> 60 110,4 105,1 -4,8 85,6 108,2 26,4 68,0 80,0 17,8
BQ trên thẻ 87,5 110,1 25,9 46,7 70,2 50,2 83,4 96,9 16,2
≤ 5 39,2 48,6 24,1 232,8 352,7 51,5 271,4 152,8 -43,7
6-14 84,9 112,3 32,3 29,4 25,2 -14,4 40,9 43,1 5,4
15-24 55,5 73,9 33,0 26,1 45,8 75,2 51,9 63,4 22,1
25-48 131,3 155,7 18,5 51,7 79,4 53,4 96,2 120,8 25,5
49-60 1.795,8 2.020,5 12,5 32,8 61,3 86,8 101,7 157,8 55,2
> 60 1.876,8 1.695,1 -9,7 18,8 38,5 105,3 96,1 140,0 45,8
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
200
Bảng 8: Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Nội dung
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT (%)
2011 2012 GT (%)
2011 2012 GT (%) n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100%
Đường dùng thuốc KS
- Uống 150 100 150 100 0 150 100 150 100 0 150 100 150 100 0
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 150 100 150 100 0 150 100 150 100 0 150 100 150 100 0
Tên thuốc KS
- Tên gốc 69 46,0 138 92,0 100 63 42,0 137 91,3 117,5 68 45,3 139 92,7 104,4
- Biệt dựợc 78 52,0 10 6,7 -87,2 78 52,0 6 4,0 -92,3 76 50,7 8 5,3 -89,5
- Tên gốc+Biệt dựợc
3 2,0 2 1,3 -33,3 9 6,0 7 4,7 -22,2 6 4,0 3 2,0 -50,0
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày 1 0,7 1 0,7 0 0 0 0 0 - 2 1,3 0 0 -100
- ≥ 5 ngày 149 99,3 149 99,3 0 150 100 150 100 0 148 98,7 150 100 1,4
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
201
Bảng 9: Tình hình kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng năm 2011-2012
Nội dung
Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT (%)
2011 2012 GT (%)
2011 2012 GT (%) n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100% n=150 100%
Đường dùng thuốc KS
- Tiêm 0 0 0 0 - 0 0 2 1,3 - 0 0 0 0 -
- Uống 150 100 150 100 0 146 97,3 145 96,7 -0,7 150 100 150 100 0
- Tiêm + Uống 0 0 0 0 - 4 2,7 3 2,0 -25,0 0 0 0 0 -
Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước 150 100 150 100 0 128 85,3 145 96,7 13,3 146 97,3 150 100 2,7
- Nước ngoài 0 0 0 0 - 22 14,7 3 2,0 -86,4 4 2,7 0 0 -100
- Trong nước + Nước ngoài
0 0 0 0 -
0 0 2 1,3 -
0 0 0 0 -
Tên thuốc KS
- Tên gốc 127 84,7 130 86,7 2,4 126 84,0 128 85,3 1,6 121 80,7 131 87,3 8,3
- Biệt dựợc 23 15,3 20 13,3 -13,0 22 14,7 16 10,7 -27,3 29 19,3 19 12,7 -34,5
- Tên gốc+Biệt dựợc
0 0 0 0 -
2 1,3 6 4,0 200
0 0 0 0 -
Số ngày dùng thuốc KS
- ≤ 4 ngày 1 0,7 2 1,3 100 2 1,3 2 1,3 0 1 0,7 2 1,3 100
- ≥ 5 ngày 149 99,3 148 98,7 -0,7 148 98,7 148 98,7 0 149 99,3 148 98,7 -0,7
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
202
Bảng 10: Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Nội dung
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT
(%)
2011 2012 GT
(%)
2011 2012 GT
(%) n % n % n % n % n % n %
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn 3,8 4,0 5,3 3,9 4,0 2,6 4,1 4,1 0
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn 5,0 5,0 0 5,0 5,0 0 5,0 5,0 0
Đơn thuốc kê thuốc KS phù
hợp với chẩn đoán 122 81,3 140 93,3 14,8 125 83,3 144 96,0 15,2 127 84,7 142 94,7 11,8
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
Bảng 11: Một số chỉ số tổng hợp về kê đơn thuốc tại 3 TYT xã đối chứng năm 2011-2012
Nội dung
Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
2011 2012 GT
(%)
2011 2012 GT
(%)
2011 2012 GT
(%) n % n % n % n % n % n %
Số đầu thuốc sử dụng BQ/đơn 4,2 4 -4,8 3,9 4,2 7,7 3,8 4 5,3
Số ngày dùng thuốc KS BQ/đơn 5,0 5,0 0 5,1 5 -2,0 5,0 5,0 0
Đơn thuốc kê thuốc KS phù
hợp với chẩn đoán 118 78,7 122 81,3 3,4 115 76,7 112 74,7 -2,6 120 80 114 76 -5,0
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
203
Bảng 12: Thông tin chung về đối tượng được phỏng vấn sự hài lòng của người bệnh
Nội dung
Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng)
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
n=107 100% n=106 100% n=104 100% n=108 100% n=106 100% n=105 100%
Giới tính
- Nam 37 34,6 44 41,5 39 37,5 42 38,9 50 47,2 54 51,4
- Nữ 70 65,4 62 58,5 65 62,5 66 61,1 56 52,8 51 48,6
Nghề nghiệp
- Nghề nông 106 99,1 104 98,2 94 90,4 104 96,3 96 90,6 102 97,1
- Lao động tự do 0 0 1 0,9 5 4,8 1 0,9 2 1,9 0 0
- Cán bộ nhà nước/doanh
nghiệp/hưu trí
1 0,9
1 0,9
5 4,8
3 2,8
8 7,5
3 2,9
Trình độ học vấn
- Biết đọc, biết viết 66 61,7 52 49,1 53 51,0 54 50,0 56 52,8 62 59,1
- Tiểu học 17 15,9 32 30,2 26 25,0 29 26,9 21 19,8 27 25,7
- Trung học cơ sở 12 11,2 18 17,0 18 17,3 18 16,7 19 17,9 14 13,3
- Trung học phổ thông 10 9,4 4 3,8 5 4,8 6 5,6 6 5,7 2 1,9
- Trung học chuyên nghiệp 2 1,9 0 0 1 1,0 1 0,9 4 3,8 0 0
- Từ cao đẳng trở lên 0 0 0 0 1 1,0 0 0 0 0 0 0
204
Bảng 13: Lý do chọn TYT xã để khám bệnh, thời gian chờ đợi và người khám
Nội dung
Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng)
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
n % n % n % n % n % n %
Lý do chọn TYT để khám bệnh
- Có BHYT, KCB không mất tiền 93 86,9 73 68,9 63 60,6 77 71,3 69 65,1 88 83,8
- Thuận tiện, gần nhà 47 43,9 64 60,4 51 49,0 75 69,4 73 68,9 36 34,3
- Được đăng ký KCB ở TYT 0 0 2 1,9 0 0 1 0,9 1 0,9 2 1,9
- Tin tưởng thầy thuốc 0 0 1 0,9 7 6,7 3 2,8 1 0,9 0 0
- NVYT thân thiện hoặc quen biết 0 0 1 0,9 0 0 5 4,6 0 0 0 0
- Được cấp thuốc đầy đủ 0 0 0 0 1 1,0 0 0 0 0 0 0
Thời gian chờ đợi
- Dưới 15 phút 106 99,1 103 97,3 77 74,1 103 95,4 97 91,5 92 87,6
- 15 - <30 phút 1 0,9 1 0,9 25 24,0 4 3,7 6 5,7 11 10,5
- 30 - 60 phút 0 0 1 0,9 2 1,9 1 0,9 2 1,9 2 1,9
- Trên 60 phút 0 0 1 0,9 0 0 0 0 1 0,9 0 0
Người khám bệnh
- Bác sĩ/Y sĩ 82 76,6 84 79,3 82 78,9 55 50,9 36 34,0 37 35,2
- Y tá, Điều dưỡng, Hộ sinh 23 21,5 19 17,9 20 19,2 38 35,2 43 40,6 45 42,9
- Không biết 2 1,9 3 2,8 2 1,9 15 13,9 27 25,4 23 21,9
205
Bảng 14: Tình hình hướng dẫn sử dụng thuốc, cấp thuốc, trả thêm tiền và kết quả điều trị
Nội dung
Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng)
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
n=107 100% n=106 100% n=104 100% n=108 100% n=106 100% n=105 100%
Hướng dẫn sử dụng thuốc
- Đầy đủ, dễ hiểu 106 99,1 103 97,2 102 98,1 97 89,8 101 95,3 79 75,2
- Không đầy đủ, khó hiểu 1 0,9 3 2,8 2 1,9 11 10,2 5 4,7 26 24,8
Cấp thuốc theo đơn
- Đúng, đủ như trong đơn 104 97,2 95 89,6 101 97,1 97 89,8 102 96,2 80 76,2
- Không biết 3 2,8 11 10,4 3 2,9 11 10,2 4 3,8 25 23,8
Trả thêm tiền
- Có 0 0 0 0 0 0 0 0 2 1,9 0 0
- Không 107 100 106 100 104 100 108 100 104 98,1 105 100
Kết quả điều trị
- Khỏi bệnh 88 82,2 92 86,8 86 82,6 42 38,9 49 46,2 39 37,2
- Đỡ, ổn định 15 14,0 10 9,4 17 16,4 62 57,4 53 50,0 54 51,4
- Không khỏi 4 3,8 4 3,8 1 1,0 4 3,7 4 3,8 12 11,4
206
Bảng 15: Thái độ của NVYT, thủ tục KCB, sự hài lòng, nguyên nhân,
quay lại lần sau khi có bệnh và nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB
Nội dung Huyện Đăk Tô (can thiệp) Huyện Kon Rẫy (đối chứng)
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi n % n % n % n % n % n %
Thái độ của NVYT - Thân thiện, cởi mở 97 90,7 92 86,8 96 92,3 70 64,8 58 54,7 33 31,4 - Bình thường 10 9,4 14 13,2 8 7,7 37 34,3 47 44,3 63 60,0 - Lạnh lùng, thiếu tôn trọng 0 0 0 0 0 0 9 8,3 5 4,7 27 25,7
Thủ tục KCB tại TYT - Gọn nhẹ, đơn giản 107 100 106 100 104 100 108 100 106 100 103 98,0 - Rườm rà, phức tạp 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1,0 - Chỉ dẫn không rõ ràng, khó hiểu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1,0
Sự hài lòng - Hài lòng 102 95,3 95 89,6 99 95,2 88 81,5 93 87,7 68 64,8 - Chưa hài lòng 5 4,7 11 10,4 5 4,8 20 18,5 13 12,3 37 35,2
Nguyên nhân chưa hài lòng - Thuốc chữa không khỏi bệnh 4 3,7 4 3,8 1 1,0 4 3,7 4 3,8 12 11,4 - TYT không cấp thuốc theo đơn 3 2,8 11 10,4 3 2,9 11 10,2 4 3,8 25 23,8 - Thái độ NVYT không tôn trọng 0 0 0 0 0 0 9 8,3 5 4,7 27 25,7 - Chờ đợi để được khám quá lâu 0 0 1 0,9 0 0 0 0 1 0,9 0 0 - Khác 1 0,9 3 2,8 2 1,9 11 10,2 6 5,7 27 25,7
Quay lại TYT để KCB - Có quay lại 105 98,1 105 99,1 104 100 107 99,1 105 99,1 102 97,1 - Không quay lại 2 1,9 1 0,9 0 0 1 0,9 1 0,9 3 2,9
Nguyện vọng chọn nơi đăng ký KCB - Tại TYT xã 103 96,2 100 94,3 97 93,3 93 86,1 99 93,4 92 87,6 - Tại bệnh viện huyện 2 1,9 4 3,8 6 5,8 5 4,6 4 3,8 8 7,6 - Tại thầy thuốc tư nhân gần nhà 2 1,9 2 1,9 1 0,9 10 9,3 3 2,8 5 4,8
207
Bảng 16: Tình hình KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
Tổng số lượt khám bệnh tại TYT xã 3.604 4.259 18,2 2.804 3.769 34,4 4.789 5.789 20,9
Số lượt khám bệnh BQ 1,5 1,6 9,2 1,0 1,3 25,4 1,3 1,5 14,5
Tần suất khám/thẻ/năm 1,4 1,6 16,7 1,0 1,3 32,9 1,3 1,4 7,0
Số lượt chuyển tuyến 273 243 -11,0 243 209 -14,0 278 198 -28,8
Tỷ lệ % chuyển tuyến 7,6 5,7 -25,0 8,7 5,5 -36,0 5,8 3,4 -41,1
Số lượt người bệnh được KCB tại TTYT huyện 393 333 -15,3 362 290 -19,9 323 210 -35,0
- Trong đó
+ Có GGT 273 243 -11,0 243 209 -14,0 278 198 -28,8
Tỷ lệ % 69,5 73,0 5,0 67,1 72,1 7,4 86,1 94,3 9,5
+ Không có GGT 120 90 -25,0 119 81 -31,9 45 12 -73,3
Tỷ lệ % 30,5 27,0 -11,5 32,9 27,9 -15,0 13,9 5,7 -59,0
- Tỷ lệ % so với tổng số khám tại TYT xã 10,9 7,8 -28,3 12,9 7,7 -40,4 6,7 3,6 -46,2
* Ngoại trú 199 116 -41,7 156 103 -34,0 127 66 -48,0
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện 50,6 34,8 -31,2 43,1 35,5 -17,6 39,3 31,4 -20,1
* Nội trú 194 217 11,9 206 187 -9,2 196 144 -26,5
- Tỷ lệ % so với số lượt KCB tại TTYT huyện 49,4 65,2 32,0 56,9 64,5 13,3 60,7 68,6 13,0
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
208
Bảng 17: Chi phí KCB BHYT tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
Tổng chi phí KCB BHYT 131.970 137.102 3,9 117.046 118.765 1,5 212.212 197.908 -6,7
- Tiền công khám 3.077 3.407 10,7 2.394 3.015 26,0 4.089 4.631 13,3
Tỷ lệ % tiền công khám 2,3 2,5 6,6 2,0 2,5 24,1 1,9 2,3 21,5
- Tiền thuốc 127.241 131.864 3,6 113.230 113.466 0,2 205.862 190.859 -7,3
Tỷ lệ % tiền thuốc 96,4 96,2 -0,2 96,7 95,5 -1,2 97,0 96,4 -0,6
- Tiền VTYTTH 188 184 -2,4 - 139 - 192 262 36,1
Tỷ lệ % tiền VTYTTH 0,1 0,1 -6,0 - 0,1 - 0,1 0,1 46,0
- Tiền DVKT 1.464 1.647 12,5 1.422 2.145 50,8 2.070 2.157 4,2
Tỷ lệ % tiền DVKT 1,1 1,2 8,3 1,2 1,8 48,6 1,0 1,1 11,7
Chi phí/lượt khám
- BQ (average) 36,6 32,2 -12,1 41,7 31,5 -24,5 44,3 34,2 -22,9
- Cao nhất (max) 154,1 138,5 -10,1 154,1 143,1 -7,1 208,8 211,5 1,3
- Thấp nhất (min) 0,9 0,8 -11,1 0,9 0,8 -11,1 0,9 0,8 -11,1
- Trung vị (median) 33,3 28,7 -13,8 37,2 32,5 -12,6 41,4 29,6 -28,5
Chi BQ/thẻ/năm 50,5 51,8 2,6 40,3 40,4 0,3 59,3 48,9 -17,4
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
209
Bảng 18: Chi phí KCB BQ theo nhóm đối tượng tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 36,6 32,2 -12,1 41,7 31,5 -24,5 44,3 34,2 -22,8
Nhóm 1 0 43,6 - 50,7 40,9 -19,3 62,1 53,4 -14,0
Nhóm 2 40,7 37,2 -8,6 45,0 28,8 -35,9 56,9 42,2 -25,8
Nhóm 3 37,5 31,8 -15,2 40,5 29,9 -26,1 43,7 35,9 -17,8
Nhóm 4 34,6 32,9 -5,1 43,4 36,1 -16,7 44,5 30,0 -32,5
Nhóm 5 0 0 - 0 0 - 0 - -
Nhóm 6 0 0 - 0 0 - 52,0 23,6 -54,6
BQ trên thẻ 50,5 51,8 2,6 40,3 40,4 0,3 59,3 48,9 -17,4
Nhóm 1 0 69,2 - 60,4 102,4 69,6 62,1 58,6 -5,6
Nhóm 2 30,5 14,3 -53,1 35,1 52,4 49,2 92,7 61,4 -33,7
Nhóm 3 45,2 44,8 -0,8 32,1 36,6 14,2 51,4 46,5 -9,5
Nhóm 4 73,9 78,4 6,1 64,6 52,5 -18,7 84,8 55,2 -34,9
Nhóm 5 - - - - - - 0 - -
Nhóm 6 - 0 - - - - 156,0 47,3 -69,7
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
210
Bảng 19: Chi phí KCB BQ theo giới tính tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 36,6 32,2 -12,1 41,7 31,5 -24,5 44,3 34,2 -22,8
Nam 36,2 32,0 -11,4 41,9 31,7 -24,3 45,6 38,5 -15,4
Nữ 37,0 32,3 -12,6 41,6 31,3 -24,7 43,9 34,1 -22,3
BQ trên thẻ 50,5 51,8 2,6 40,3 40,4 0,3 59,3 48,9 -17,4
Nam 43,8 47,4 8,2 49,5 48,0 -3,1 28,2 2,8 -90,1
Nữ 57,3 56,1 -2,0 33,8 35,2 4,2 100,1 95,7 -4,4
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
211
Bảng 20: Chi phí KCB BQ theo nhóm tuổi tại 3 TYT xã can thiệp năm 2011-2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm
2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%) 2011 2012 GT(%)
BQ trên lượt khám 36,6 32,2 -12,1 41,7 31,5 -24,5 44,3 34,2 -22,8
≤ 5 34,4 32,9 -4,4 42,0 36,2 -13,8 44,5 30,2 -32,1
6-14 27,3 24,1 -11,8 29,1 23,8 -18,0 34,5 26,6 -23,0
15-24 38,0 32,2 -15,3 42,0 30,6 -27,0 44,2 37,8 -14,6
25-48 41,7 36,3 -13,1 45,8 34,0 -25,9 47,6 41,1 -13,5
49-60 40,5 34,4 -15,2 50,9 30,5 -40,0 49,8 39,6 -20,4
> 60 42,5 34,2 -19,5 48,5 30,1 -38,0 51,6 37,6 -27,2
BQ trên thẻ 50,5 51,8 2,6 40,3 40,4 0,3 59,3 48,9 -17,4
≤ 5 68,0 78,5 15,5 73,7 59,2 -19,6 75,1 64,1 -14,7
6-14 24,8 28,6 15,6 17,8 23,5 31,9 30,3 26,6 -12,2
15-24 32,7 34,3 4,9 30,7 31,9 3,9 38,2 32,1 -16,0
25-48 66,0 59,7 -9,5 44,0 46,0 4,5 76,6 62,8 -18,0
49-60 50,4 58,8 16,6 50,0 49,9 -0,1 146,2 74,5 -49,0
> 60 539,6 145,3 -73,1 47,3 51,3 8,3 85,0 81,7 -3,9
* Ghi chú: GT là viết tắt của cụm từ gia tăng.
212
Bảng 21: Cơ cấu chi phí đơn vị của dịch vụ KCB ngoại trú tại 6 TYT xã nghiên cứu năm 2012
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi BQ Đăk Tô BQ Kon Rẫy BQ 2 huyện
CP % CP % CP % CP % CP % CP % CP % CP % CP %
1. Chi phí thường xuyên 101,0 95,6 105,1 97,5 86,4 89,3 126,7 97,3 250,5 84,0 139,2 96,5 97,5 94,3 172,1 90,1 134,8 91,6
- Chi phí lao động 68,3 64,6 73,4 68,1 52,1 53,8 36,9 28,3 166,7 55,9 76,2 52,8 64,6 62,4 93,3 48,8 78,9 53,6
- Tiền thuốc 31,2 29,5 30,1 27,9 32,9 34,0 88,8 68,2 79,6 26,7 59,4 41,2 31,4 30,3 75,9 39,8 53,7 36,5
- Tiền VTYTTH 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,3 0,3 1,1 0,4 2,6 1,8 0,0 0,0 1,3 0,7 0,7 0,5
- Vận hành, sửa chữa nhỏ và
chi thường xuyên khác 1,5 1,5 1,5 1,4 1,3 1,4 0,7 0,5 3,1 1,0 1,0 0,7 1,5 1,4 1,6 0,8 1,5 1,0
- Đào tạo và nghiên cứu 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0
2. Chi phí đầu tư 4,7 4,4 2,7 2,5 10,4 10,7 3,6 2,7 47,9 16,0 5,1 3,5 5,9 5,7 18,8 9,9 12,4 8,4
- Khấu hao nhà cửa 1,0 0,9 0,2 0,1 8,3 8,6 3,0 2,3 44,7 15,0 4,1 2,9 3,1 3,0 17,3 9,0 10,2 6,9
- Khấu hao TTB y tế 1,6 1,5 1,2 1,1 0,6 0,6 0,3 0,2 2,0 0,7 0,5 0,4 1,1 1,1 0,9 0,5 1,0 0,7
- Khấu hao TTB phi y tế 2,1 2,0 1,3 1,2 1,5 1,6 0,3 0,2 1,2 0,4 0,4 0,3 1,7 1,6 0,6 0,3 1,1 0,8
Tổng cộng 105,7 100 107,8 100 96,8 100 130,2 100 298,4 100 144,3 100 103,4 100 191,0 100 147,2 100
* Ghi chú: CP là viết tắt của cụm từ chi phí.
213
Phụ lục 9
HƯỚNG DẪN THU THẬP SỐ LIỆU TÍNH TOÁN CHI PHÍ DỊCH VỤ Y TẾ TẠI TRẠM Y TẾ XÃ
_____________
Các biểu mẫu và nguyên tắc thu thập, điền số liệu
Có 9 biểu mẫu thu thập số liệu ở 9 bảng tính excel. TTYT huyện là đầu mối thu
thập số liệu. Mỗi TYT điền đầy đủ 9 biểu mẫu (bảng tính) này.
Dựa trên các nguồn số liệu sẵn có (báo cáo hoạt động, tài chính, sổ sách…),
NCS thu thập các số liệu và điền vào 9 bảng tính này.
Các số liệu về hoạt động chuyên môn và tài chính là của NĂM 2012.
Một số số liệu không có sẵn (ví dụ như phần trăm thời gian làm việc của NVYT
tại TYT dành cho KCB, YTDP, thông tin về các khu nhà làm việc của TYT xã,
TTB, chi phí vận hành...), NCS thu thập số liệu trực tiếp tại các TYT xã.
NCS cần cân nhắc để sao cho số liệu về các khoản chi phí không bị thiếu nhưng
cũng tránh việc tính thừa các khoản chi phí.
Hướng dẫn thu thập và điền số liệu vào từng bảng tính
1. Thông tin chung
Bảng tính này thu thập các thông tin chung về địa phương, về TYT và về tình hình
KCB BHYT, thực hiện phương thức chi trả theo định suất:
Tên huyện: Ghi rõ
Tên xã: Ghi rõ
Tổng số dân trong xã: Dựa trên báo cáo chính thức
Tổng số dân có thẻ BHYT: Số đầu thẻ BHYT năm 2012
Tổng số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại TYT: Ghi rõ
Năm bắt đầu thực hiện định suất: Ghi rõ
TYT có đạt chuẩn quốc gia không (trong đó phân ra chuẩn cũ và chuẩn mới):
Ghi số 1 nếu đạt chuẩn, số 0 nếu chưa đạt chuẩn
Tên người cung cấp thông tin: Ghi cụ thể
214
Số điện thoại: Ghi cụ thể
Emai: Ghi cụ thể
2. Các dịch vụ y tế của trạm y tế
Bảng tính này thu thập các thông tin về các dịch vụ mà TYT đã cung cấp trong năm
2012. Các dịch vụ bao gồm:
Tổng số lượt khám ngoại trú: Không tính khám dự phòng và chương trình mục
tiêu
Tổng số lượt xét nghiệm (nếu có)
Tổng lượt chuyển tuyến (nếu có)
3. Các khoản thu của trạm y tế
Bảng tính này thu thập các thông tin về tất cả các khoản thu của TYT năm 2012.
Các khoản thu từ BHYT (đã hoặc sẽ được thanh toán) bao gồm:
Tiền công khám
Tiền thuốc
Tiền VTYTTH (nếu có)
Tiền DVKT (nếu có)
Các khoản thu khác: Thu từ các dịch vụ khác…
Tính tổng các khoản thu theo các nguồn: Ngân sách nhà nước, BHYT và các khoản
thu khác.
4. Nhân lực của trạm y tế
Bảng tính này thu thập các thông tin về từng nhân viên làm việc tại trạm: Tên, chức
vụ, thu nhập hàng năm và tỷ lệ % thời gian mà từng nhân viên đóng góp cho từng
hoạt động của TYT.
Liệt kê toàn bộ nhân viên (biên chế + hợp đồng) của TYT, chức vụ, hệ số lương và
tất cả các khoản thu của từng nhân viên trong năm 2012, bao gồm:
Tổng lương và phụ cấp: Bao gồm lương chính + phụ cấp độc hại + phụ
cấp vượt khung + phụ cấp ưu đãi nghề + phụ cấp chức vụ + phụ cấp khác + truy
lĩnh (phần này là số chưa trừ đi tiền BHXH 7%, BHYT 1,5%, BHTN 1%, các
quỹ khác)
215
Tiền trực, làm thêm ngoài giờ
Thưởng trực tiếp cho cá nhân: Thưởng tết, ngày lễ, thưởng đột xuất mà
cá nhân được nhận (không tính tiền tổ chức các hoạt động do cơ quan tổ chức
như nghỉ hè, tham quan...)
Thu nhập khác (ABC...)
Tổng số: Bằng tổng của 4 mục trên
NCS trao đổi với NVYT của các TYT để xác định % thời gian mà mỗi viên chức
đóng góp cho từng hoạt động (KCB, YTDP, khác) trong năm 2012. Lưu ý cần kiểm
tra cột tổng thời gian và cột này phải bằng 100%.
5. Chi cho thuốc
Bảng tính này thu thập thông tin về khoản chi cho thuốc năm 2012 dùng cho điều trị
ngoại trú tại trạm.
6. Các khoản chi thường xuyên
Bảng tính này thu thập các thông tin về các khoản chi thường xuyên năm 2012 của
TYT. Từng khoản chi cần có các thông tin sau:
Mục ngân sách: Theo quy định của Bộ Tài chính
Tổng chi: Tổng chi năm 2012 bao gồm chi từ ngân sách, chi từ BHYT và
chi từ nguồn khác
Các khoản chi bao gồm:
Tổng chi cho con người
o Lương và phụ cấp
o Tiền trực, làm thêm ngoài giờ
o Thưởng trực tiếp cho cá nhân
o Thu nhập khác (ABC...)
o Chi phúc lợi khác
o Các khoản chi khác cho con người: Nghỉ mát, tham quan, liên hoan, hiếu,
hỉ,
Tổng chi cho thuốc
Tổng chi cho vật tư y tế tiêu hao
216
o Vật tư y tế tiêu hao
o Hóa chất xét nghiệm
o Oxygen
o Khác
Tổng chi vận hành
o Điện thắp sáng
o Điện thoại, Internet
o Nước
o Xử lý rác thải
o Xăng xe
o Giặt
o Đồ ăn
o Vật tư văn phòng
o Thuế
o Khác
Tổng sửa chữa nhỏ
o Sửa chữa nhỏ
Tổng chi đào tạo
o Tập huấn, đào tạo
o Khác (hội nghị...)
Chi thường xuyên khác
TỔNG CHI THƯỜNG XUYÊN
Đối với các nội dung chi vận hành, sửa chữa nhỏ, đào tạo và chi thường xuyên
khác, NCS cần thống nhất với các TYT xã để tính tỷ lệ % chi cho KCB, YTDP và
các hoạt động khác trong năm 2012. Lưu ý cần kiểm tra cột tổng thời gian và cột
này phải bằng 100%.
7. Nhà cửa
NCS trao đổi trực tiếp với các TYT để xác định thông tin về các khu nhà của TYT,
bao gồm:
217
Tên khu nhà
Năm xây
Giá xây: Không bao gồm tài sản, trang thiết bị có trong khu nhà
Sửa chữa lớn tính đến năm 2012: Tổng số tiền của các lần sửa chữa lớn
tính đến hết năm 2012
Diện tích (m2): Tính diện sử dụng của tất cả các phòng
Thời hạn sử dụng: Theo quy định của Bộ Tài chính
% sử dụng cho các hoạt động KCB, YTDP và khác. Lưu ý là tổng công
suất sử dụng là 100%.
8. Trang thiết bị y tế
Bảng tính này thu thập các thông tin về các TTB y tế của TYT. Mỗi loại TTB (cùng
loại, cùng mức giá) liệt kê vào một dòng. Nếu cùng loại TTB nhưng giá mua khác
nhau thì liệt kê vào các dòng khác nhau. Mỗi TTB cần có các thông tin sau:
Mô tả: Tên, mã trang thiết bị, model
Số lượng
Năm mua
Giá mua
Thời hạn sử dụng: Theo quy định của Bộ Tài chính
% sử dụng cho các hoạt động KCB, YTDP và khác. Lưu ý là tổng công
suất sử dụng là 100%.
9. Thiết bị, tài sản khác
Bảng tính này thu thập các thông tin về các thiết bị, tài sản khác (không phải TTB y
tế) của TYT. Cách thu thập và điền thông tin giống như TTB y tế.
218
BẢNG THỐNG KÊ CHI PHÍ KCB BHYT TẠI TYT XÃ NĂM 201... ________________________
Trạm Y tế xã: ………………………………… Huyện: ………………….
STT Họ và tên người bệnh Tuổi
Giới
Ngày
khám
bệnh
Nhóm đối tượng
Mã bệnh
Chi phí (đồng)
Công
khám Thuốc VTYTTH DVKT
Tổng
số
Nguồn số liệu: Báo cáo đề nghị thanh toán chi phí KCB BHYT theo tháng năm 201... của TYT xã tại TTYT huyện (đã được BHXH huyện
giám định).
Ngày ...... tháng ... năm 2013
Mẫu số 01
219
BẢNG THU THẬP MỘT SỐ SỐ LIỆU NĂM 2011 VÀ 2012 TẠI 6 XÃ NGHIÊN CỨU ______________________
STT Chỉ số Huyện Đăk Tô Huyện Kon Rẫy
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
I NĂM 2011
1 Dân số có mặt đầu năm
2 Dân số có mặt cuối năm
3 Dân số trung bình
4 Tổng số dân có thẻ BHYT (số thẻ BHYT)
5 Số thẻ đăng ký KCB ban đầu tại TYT
5.1 Chia theo nhóm đối tượng tham gia BHYT
- Nhóm 1
- Nhóm 2
- Nhóm 3
- Nhóm 4
- Nhóm 5
- Nhóm 6
5.2 Chia theo giới tính
- Nam
- Nữ
Mẫu số 02
220
STT Chỉ số Huyện Đăk Tô Huyện Kon Rẫy
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
5.3 Chia theo nhóm tuổi
- ≤ 5 tuổi
- 6-14 tuổi
- 15-24 tuổi
- 25-48 tuổi
- 49-60 tuổi
- >60 tuổi
6 Đạt chuẩn quốc gia về y tế
- Chuẩn cũ
- Chuẩn mới
7 Số nhân viên y tế xã
- Bác sĩ
- Y sĩ
- Điều dưỡng
- Hộ sinh
- Dược sĩ, Dược tá
- Khác (Lương y, Kỹ thuật viên, ...)
8 Số lượt chuyển tuyến
221
STT Chỉ số Huyện Đăk Tô Huyện Kon Rẫy
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
II NĂM 2012
1 Dân số có mặt đầu năm
2 Dân số có mặt cuối năm
3 Dân số trung bình
4 Tổng số dân có thẻ BHYT (số thẻ BHYT)
5 Số thẻ đăng ký KCB ban đầu tại TYT
5.1 Chia theo nhóm đối tượng tham gia BHYT
- Nhóm 1
- Nhóm 2
- Nhóm 3
- Nhóm 4
- Nhóm 5
- Nhóm 6
5.2 Chia theo giới tính
- Nam
- Nữ
5.3 Chia theo nhóm tuổi
- ≤ 5 tuổi
222
STT Chỉ số Huyện Đăk Tô Huyện Kon Rẫy
Ngọc Tụ Đăk Rơ Nga Đăk Trăm Đăk Tre Đăk Pne Đăk Kôi
- 6-14 tuổi
- 15-24 tuổi
- 25-48 tuổi
- 49-60 tuổi
- >60 tuổi
6 Đạt chuẩn quốc gia về y tế
- Chuẩn cũ
- Chuẩn mới
7 Số nhân viên y tế xã
- Bác sĩ
- Y sĩ
- Điều dưỡng
- Hộ sinh
- Dược sĩ, Dược tá
- Khác (Lương y, Kỹ thuật viên, ...)
8 Số lượt chuyển tuyến
Ngày ...... tháng ... năm 2013
223
DANH SÁCH NGƯỜI BỆNH 6 XÃ NGHIÊN CỨU KCB BHYT TẠI TTYT HUYỆN NĂM 201... ________________________
Xã: ………………………………… Huyện: …………………………………….
STT Họ và tên người bệnh Tuổi Giới
(1-Nam,
2-Nữ)
Ngày khám bệnh
Nhóm đối
tượng (từ 1
đến 6)
Mã bệnh
Giấy giới
thiệu
(1=Có,
0=Không)
Điều trị
Ngoại
trú
Nội
trú
Nguồn số liệu: Báo cáo đề nghị thanh toán chi phí KCB BHYT theo tháng năm 201... của TTYT huyện (đã được BHXH huyện giám định).
Ngày ...... tháng ... năm 2013
Mẫu số 03
224
PHIẾU KHẢO SÁT KÊ ĐƠN THUỐC HỢP LÝ ___________________
Trạm Y tế xã: ………………………………… Huyện: ................................
Họ tên người bệnh: ........................................ Giới tính: ............ Tuổi: .........
Địa chỉ (thôn): ................................................ Ngày kê đơn: .............................
Thời điểm khảo sát: ............ (Đơn thuốc kê trong năm 2011 ghi số 1, kê trong năm 2012 ghi số 2)
STT Nội dung Chi tiết Khoanh và ghi
kết quả phù hợp
C1 Chẩn đoán
Mã ICD-10:
C2 Số loại thuốc sử dụng
C3 Đường dùng thuốc
KS
- Tiêm
- Uống
- Tiêm + Uống
1
2
3
C4 Nguồn gốc thuốc KS
- Trong nước
- Nước ngoài
- Trong nước + Nước ngoài
1
2
3
C5 Tên thuốc KS
- Tên gốc
- Biệt dược
- Tên gốc + Biệt dược
1
2
3
C6 Số ngày dùng thuốc
KS
C7 Thuốc KS kê phù hợp
với chẩn đoán
- Có
- Không
1
2
Nguồn số liệu: Đơn thuốc lưu tại TYT xã nghiên cứu (bản sao).
Ngày ...... tháng ... năm 2013
Mã số:
Mẫu số 04
225
PHIẾU PHỎNG VẤN SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI BỆNH
_________________
Thôn: ................................ Xã: .................................. Huyện: ………………………
Xin ông/bà/anh/chị/em vui lòng cho biết một số thông tin sau:
1. Họ và tên: ……………………………… Tuổi (ghi theo tuổi dương lịch): ……
2. Giới tính: Nam: 1 Nữ: 2
3. Nghề nghiệp:
- Nghề nông: 1
- Lao động tự do: 2
- Cán bộ nhà nước/doanh nghiệp/hưu trí: 3
- Khác (ghi rõ): .............................................................. 4
4. Trình độ học vấn:
- Biết đọc, biết viết: 1
- Tiểu học: 2
- Trung học cơ sở: 3
- Trung học phổ thông: 4
- Trung học chuyên nghiệp: 5
- Từ cao đẳng trở lên: 6
5. Trong năm 2012, ông/bà/anh/chị/em đã khám bệnh tại TYT xã mấy lần: ………… Xin ông/bà/anh/chị/em cho biết một số ý kiến về lần khám bệnh gần đây nhất của năm này.
6. Ông/bà/anh/chị/em khám bệnh tại TYT xã vì những lý do gì? (ĐTV không đọc các phương án trả lời, để người trả lời tự kể và ĐTV khoanh vào số tương ứng)
- Do có BHYT, KCB không mất tiền: 1
- Do thuận tiện, gần nhà: 2
- Do chỉ được đăng ký KCB ở TYT xã: 3
- Do tin tưởng thầy thuốc ở TYT xã: 4
- Do NVYT thân thiện hoặc quen biết: 5
- Do được cấp thuốc đầy đủ: 6
- Do môi trường, cảnh quan thân thiện: 7
- Khác (ghi rõ): ............................................................................... 8
Mã số:
Mẫu số 05
226
7. Ông/bà/anh/chị/em thường phải chờ đợi bao lâu để được khám bệnh? (chỉ chọn một phương án trả lời)
- Dưới 15 phút: 1
- Từ 15 đến dưới 30 phút: 2
- Từ 30 đến 60 phút: 3
- Trên 60 phút: 4
8. Ông/bà/anh/chị/em đã được ai khám bệnh? (chỉ chọn một phương án trả lời)
- Bác sĩ/Y sĩ: 1
- Y tá, Điều dưỡng, Hộ sinh: 2
- Không biết: 3
9. Thời gian khám bệnh và chữa bệnh (bao gồm cả kê đơn thuốc): ........ phút.
10. Ông/bà/anh/chị/em khi đi KCB thấy thái độ của NVYT như thế nào?
- Thân thiện, cởi mở: 1
- Bình thường: 2
- Lạnh lùng, thiếu tôn trọng: 3
- Khác (ghi rõ): .................................................................... 4
11. Ông/bà/anh/chị/em được thầy thuốc hướng dẫn sử dụng thuốc như thế nào? (chỉ chọn một phương án trả lời)
- Đầy đủ, dễ hiểu: 1
- Không đầy đủ, khó hiểu: 2
- Không được hướng dẫn: 3
12. Ông/bà/anh/chị/em có nhận được thuốc đúng, đủ như trong đơn thuốc không?
- Có: 1
- Không: 2
- Không biết: 3
13. Ông/bà/anh/chị/em có phải trả thêm tiền (ngoài quy định) cho việc KCB không?
- Có: 1
- Không: 2
Nếu có thì bao nhiêu? .........................................................VNĐ
Trong đó:
1. Tiền mua thuốc, vật tư y tế: ..................................... VNĐ
2. Tiền cảm ơn thầy thuốc: ..................................... VNĐ
3. Tiền khác: ..................................... VNĐ
227
14. Kết quả sau khi điều trị?
- Khỏi bệnh: 1
- Đỡ, ổn định: 2
- Không khỏi: 3
15. Ông/bà/anh/chị/em nhận xét thế nào về thủ tục KCB tại TYT xã này?
- Gọn nhẹ, đơn giản: 1
- Rườm rà, phức tạp: 2
- Chỉ dẫn không rõ ràng, khó hiểu: 3
16. Nếu được tự chọn nơi đăng ký KCB, ông/bà/anh/chị/em muốn được KCB tại đâu?
- Tại TYT xã: 1
- Tại bệnh viện huyện: 2
- Tại thầy thuốc tư nhân gần nhà: 3
17. Ông/bà/anh/chị/em tự đánh giá về sự hài lòng của mình khi KCB tại TYT?
- Hài lòng: 1
- Chưa hài lòng: 2
Nếu chưa hài lòng thì vì sao (ĐTV không đọc các phương án trả lời, để người trả lời tự kể và ĐTV khoanh vào số tương ứng):
- Thuốc chữa không khỏi bệnh: 1
- TYT không cấp thuốc theo đơn: 2
- Thái độ NVYT không tôn trọng: 3
- Chờ đợi để được khám quá lâu: 4
- Không được chuyển viện: 5
- Khác (ghi rõ): .................................................................... 6
18. Nếu lần sau bị ốm, ông/bà/anh/chị/em có đến KCB tại TYT không?
- Có: 1
- Không: 2
19. Ông/bà/anh/chị/em có đề nghị gì để việc KCB tại TYT xã được tốt hơn?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Trân trọng cảm ơn ông/bà/anh/chị/em!
Ngày ...... tháng ... năm 2013
228
BÁO CÁO TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG QUỸ ĐỊNH SUẤT
TẠI 3 TYT XÃ THUỘC HUYỆN ĐĂK TÔ NĂM 2012 _________________
Đơn vị: 1000 VNĐ
Nội dung Ngọc
Tụ
Đăk Rơ
Nga
Đăk
Trăm
Tổng
số
1. Một số chỉ số dùng để tính quỹ định
suất
- Số thẻ đăng ký KCB (thẻ)
- Tần suất KCB
- Chi phí KCB BHYT (1000 đồng)
- Chi phí DVKT (1000 đồng)
- Suất phí theo kế hoạch (1000 đồng)
- Ngưỡng suất phí phải hoàn kinh phí (tần
suất KCB =0,9) (1000 đồng)
- Ngưỡng suất phí được bù đắp kinh phí
(tần suất KCB =1,1) (1000 đồng)
- Suất phí theo thực tế (1000 đồng)
- Suất phí thiếu hụt (1000 đồng)
- Suất phí sau điều tiết (1000 đồng)
Mẫu số 06
229
Nội dung Ngọc
Tụ
Đăk Rơ
Nga
Đăk
Trăm
Tổng
số
2. Quỹ định suất (không bao gồm quỹ
điều tiết - khen thưởng)
- Ban đầu (theo kế hoạch)
- Sau điều tiết
- Số tiền được bù đắp thiếu hụt
- Chi phí KCB (sau khi đã trừ chi phí
DVKT được thanh toán theo dịch vụ)
Chiếm tỷ lệ %
- Kết dư sau điều tiết
Chiếm tỷ lệ %
3. Quỹ điều tiết - khen thưởng
- Ban đầu (theo kế hoạch)
- Sau điều tiết
- Số kinh phí phải bổ sung từ nguồn khác
(Dự án HEMA)
- Tổng kinh phí Quỹ điều tiết - khen
thưởng
Nguồn số liệu: Báo cáo tình hình quản lý và sử dụng quỹ định suất tại 3 TYT xã
triển khai mô hình thí điểm năm 2012 của TTYT huyện Đăk Tô.
Ngày ...... tháng ... năm 2013
230
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho lãnh đạo Sở Y tế và BHXH tỉnh)
___________________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển
khai thực hiện mô hình thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
theo định suất tại Trạm Y tế xã trên địa bàn tỉnh.
Ngày thực hiện phỏng vấn: ...........................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn: .........................................................................................
Địa điểm phỏng vấn: .....................................................................................
II. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI
Họ và tên người trả lời: .................................................................................
Tuổi: ..............................................................................................................
Giới: ...............................................................................................................
Trình độ chuyên môn: ...................................................................................
Thời gian đảm nhiệm chức vụ trên: ..............................................................
III. NỘI DUNG PHỎNG VẤN
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn tỉnh là gì?
2. Sự phối hợp giữa Sở Y tế và BHXH tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai
thực hiện mô hình thí điểm? Các hoạt động của cơ quan ông/bà đối với việc triển
khai thực hiện mô hình thí điểm như thế nào? Kết quả đạt được?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
Mẫu số 07
231
4. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
5. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
6. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm là gì?
7. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
SốT
T Nội dung Đồng ý
Không
đồng ý
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài chính
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất giảm hơn
theo giá dịch vụ
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ
Xin cảm ơn sự hợp tác của ông/bà.
232
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho lãnh đạo TTYT và BHXH huyện Đăk Tô)
___________________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn huyện.
Ngày thực hiện phỏng vấn: ...........................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn: .........................................................................................
Địa điểm phỏng vấn: .....................................................................................
II. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI
Họ và tên người trả lời: .................................................................................
Tuổi: ..............................................................................................................
Giới: ...............................................................................................................
Trình độ chuyên môn: ...................................................................................
Thời gian đảm nhiệm chức vụ trên: ..............................................................
III. NỘI DUNG PHỎNG VẤN
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn huyện chúng ta là gì?
2. Sự phối hợp giữa TTYT và BHXH huyện trong việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm như thế nào? Các hoạt động của cơ quan ông/bà đối với việc triển khai
thực hiện mô hình thí điểm như thế nào? Kết quả đạt được?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
Mẫu số 08
233
4. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
5. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
6. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm là gì?
7. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
SốT
T Nội dung Đồng ý
Không
đồng ý
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài chính
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất giảm hơn
theo giá dịch vụ
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ
Xin cảm ơn sự hợp tác của ông/bà.
234
HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho Trưởng Trạm Y tế xã thuộc huyện Đăk Tô)
___________________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã.
Ngày thực hiện phỏng vấn: ...........................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn: .........................................................................................
Địa điểm phỏng vấn: .....................................................................................
II. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI
Họ và tên người trả lời: .................................................................................
Tuổi: ..............................................................................................................
Giới: ...............................................................................................................
Trình độ chuyên môn: ...................................................................................
Thời gian đảm nhiệm chức vụ Trạm trưởng: ................................................
III. NỘI DUNG PHỎNG VẤN
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã chúng ta là gì?
2. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
Mẫu số 09
235
4. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
5. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm trên địa bàn xã là gì?
6. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
SốT
T Nội dung Đồng ý
Không
đồng ý
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài chính
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất giảm hơn
theo giá dịch vụ
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ
Xin cảm ơn sự hợp tác của ông/bà.
236
HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM (Cán bộ có liên quan tại tuyến tỉnh)
_______________________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn tỉnh.
II. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM:
2 cán bộ phòng Kế hoạch - Tài chính Sở Y tế theo dõi BHYT.
2 cán bộ phòng Nghiệp vụ Y Sở Y tế theo dõi BHYT.
2 cán bộ phòng Kế hoạch - Tài chính BHXH tỉnh.
2 cán bộ phòng Giám định BHYT BHXH tỉnh.
Ngày thảo luận: .............................................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn 1: ......................................................................................
Người hướng dẫn 2: ......................................................................................
Địa điểm thảo luận: .......................................................................................
III. THÀNH PHẦN THAM DỰ
STT Họ và tên Tuổi Giới
tính Chức vụ
Thời gian đảm
nhiệm
1
2
3
4
5
Mẫu số 10
237
STT Họ và tên Tuổi Giới
tính Chức vụ
Thời gian đảm
nhiệm
6
7
8
IV. NỘI DUNG TRAO ĐỔI
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn tỉnh là gì?
2. Sự phối hợp giữa Sở Y tế và BHXH tỉnh trong việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm? Các hoạt động của cơ quan ông/bà đối với việc triển khai thực hiện mô
hình thí điểm như thế nào? Kết quả đạt được?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
4. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
5. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
6. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm là gì?
7. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
Số
TT Nội dung
Số người
đồng ý
/Tổng số
Số người
không đồng
ý /Tổng số
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài
chính
238
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải
chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất
giảm hơn theo giá dịch vụ
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên
môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ
Xin cảm ơn ông/bà đã dành thời gian cho buổi thảo luận này.
239
HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM (Cán bộ có liên quan tại huyện Đăk Tô)
_______________________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn huyện.
II. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM:
2 cán bộ phòng Kế hoạch tổng hợp TTYT huyện theo dõi BHYT.
2 kế toán theo dõi chi phí KCB BHYT của TTYT huyện.
2 cán bộ khoa Dược TTYT huyện.
2 giám định viên BHYT tại TTYT huyện.
Ngày thảo luận: .............................................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn 1: ......................................................................................
Người hướng dẫn 2: ......................................................................................
Địa điểm thảo luận: .......................................................................................
III. THÀNH PHẦN THAM DỰ
STT Họ và tên Tuổi Giới
tính Chức vụ
Thời gian đảm
nhiệm
1
2
3
4
5
6
Mẫu số 11
240
STT Họ và tên Tuổi Giới
tính Chức vụ
Thời gian đảm
nhiệm
7
8
IV. NỘI DUNG TRAO ĐỔI
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã trên địa bàn huyện chúng ta là gì?
2. Sự phối hợp giữa TTYT và BHXH huyện trong việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm như thế nào? Các hoạt động của cơ quan ông/bà đối với việc triển khai
thực hiện mô hình thí điểm như thế nào? Kết quả đạt được?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
4. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
5. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
6. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm là gì?
7. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
Số
TT Nội dung
Số người đồng
ý /Tổng số
Số người không
đồng ý /Tổng số
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả
nguồn tài chính
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không
cần thiết
241
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng
kinh phí phải chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo
định suất giảm hơn theo giá dịch vụ
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng
lực chuyên môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh
tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi
người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB
người có thẻ
Xin cảm ơn ông/bà đã dành thời gian cho buổi thảo luận này.
242
HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM (Nhân viên Trạm Y tế xã thuộc huyện Đăk Tô)
____________
I. MỤC ĐÍCH: Thu thập thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã.
II. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA THẢO LUẬN NHÓM: Tất cả nhân viên TYT xã
(trừ Trưởng trạm).
Ngày thảo luận: .............................................................................................
Thời gian bắt đầu: ..........................................................................................
Thời gian kết thúc: ........................................................................................
Người hướng dẫn 1: ......................................................................................
Người hướng dẫn 2: ......................................................................................
Địa điểm thảo luận: .......................................................................................
III. THÀNH PHẦN THAM DỰ
STT Họ và tên Tuổi Giới
tính Chức vụ
Thời gian đảm
nhiệm
1
2
3
4
5
6
7
8
Mẫu số 12
243
IV. NỘI DUNG TRAO ĐỔI
1. Xin ông/bà cho biết những thuận lợi và khó khăn khi triển khai thực hiện mô hình
thí điểm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại Trạm Y
tế xã chúng ta là gì?
2. Ông/bà đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ KCB của TYT xã, đáp ứng sự
hài lòng của người bệnh sau khi triển khai mô hình thí điểm?
3. Ông/bà đánh giá như thế nào về tác động của mô hình thí điểm đối với việc tăng
cường sử dụng dịch vụ KCB tại TYT xã của người bệnh?
4. Xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về hiệu quả của mô hình thí điểm thanh toán
chi phí KCB BHYT tại TYT xã?
5. Những hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra từ việc
triển khai thực hiện mô hình thí điểm trên địa bàn xã là gì?
6. Ông/bà có những đề xuất, kiến nghị gì để việc triển khai thực hiện mô hình thí
điểm trong thời gian tới có hiệu quả hơn không?
Cuối cùng, xin ông/bà cho biết ý kiến của mình về những nội dung sau:
Số
TT Nội dung
Số người
đồng ý
/Tổng số
Số người
không đồng
ý /Tổng số
1 TYT chủ động sử dụng hiệu quả nguồn tài
chính
2 TYT tiết giảm chi phí KCB không cần thiết
3 Hạn chế lạm dụng quỹ
4 Kiểm soát được việc chuyển tuyến
5 Được thưởng khi làm tốt và dư quỹ
6 Cơ quan BHXH biết trước lượng kinh phí phải
chi
7 Đỡ phải giám sát chống lạm dụng
8 Chi phí hành chính thanh toán theo định suất
giảm hơn theo giá dịch vụ
244
Số
TT Nội dung
Số người
đồng ý
/Tổng số
Số người
không đồng
ý /Tổng số
9 Khuyến khích TYT nâng cao năng lực chuyên
môn
10 Nhân viên y tế cư xử với người bệnh tốt hơn
11 Cán bộ BHYT đảm bảo quyền lợi người có thẻ
12 Đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB người có thẻ
Xin cảm ơn ông/bà đã dành thời gian cho buổi thảo luận này.
245
BIỂU MẪU THU THẬP SỐ LIỆU TẠI TRẠM Y TẾ XÃ (NĂM 2012)
_____________
1. Thông tin chung
Nơi điền số liệu
Tên huyện @
Tên xã @
Tổng số dân trong xã @
Tổng số dân có thẻ BHYT (số thẻ BHYT) @
Tổng số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại TYT @
Năm bắt đầu thực hiện định suất @
Đạt chuẩn quốc gia về trạm y tế (1=Có, 0=Không)
- Chuẩn cũ @
- Chuẩn mới @
Tên người cung cấp thông tin @
Số điện thoại @
Emai @
2. Các dịch vụ y tế
Loại dịch vụ Tổng số
Tổng số lượt khám ngoại trú
Tổng số lượt xét nghiệm (nếu có)
Tổng số lượt chuyển tuyến (nếu có)
Mẫu số 13
246
3. Các khoản thu
Nguồn thu Thu từ bảo hiểm y tế (đ) Ghi chú
Tiền công khám
Tiền thuốc
Tiền vật tư y tế tiêu hao (nếu có)
Tiền dịch vụ kỹ thuật (nếu có)
Các khoản thu khác (nếu có)
TỔNG THU
Nguồn thu Số tiền (đ)
Thu từ ngân sách nhà nước
Thu từ bảo hiểm y tế
Các khoản thu khác
TỔNG THU
247
4. Nhân lực
# Tên Chức vụ Hệ số
lương
Tổng
lương và
phụ cấp
Tiền trực,
làm thêm
ngoài giờ
Thưởng trực
tiếp cho cá
nhân
Thu nhập
khác
(ABC...)
Tổng
số KCB YTDP Khác Tổng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
248
5. Chi cho thuốc
VNĐ
Tổng chi cho thuốc (dùng cho điều trị ngoại trú)
249
6. Các khoản chi thường xuyên
Khoản chi Mục chi
Tổng chi (đ)
Chi từ NSNN
(đ)
Chi từ bảo
hiểm y tế (đ)
Chi từ nguồn
khác (đ)
% tổng chi cho KCB
% tổng chi cho YTDP
% tổng chi cho các
hoạt động khác
Tổng % chi
phí
Lương và phụ cấp
Tiền trực, làm thêm ngoài giờ
Thưởng trực tiếp cho cá nhân
Thu nhập khác (ABC...)
Chi phúc lợi khác
Các khoản chi khác cho con người
Tổng chi cho con người
Tổng chi cho thuốc
Vật tư y tế tiêu hao
Hóa chất xét nghiệm
Oxygen
Khác
Tổng vật tư y tế tiêu hao
Điện thắp sáng
Điện thoại, Internet
250
Nước
Xử lý rác thải
Xăng xe
Giặt
Đồ ăn
Vật tư văn phòng
Thuế
Khác
Tổng chi vận hành
Sửa chữa nhỏ
Tổng sửa chữa nhỏ
Tập huấn, đào tạo
Khác (hội nghị…)
Tổng chi đào tạo
Chi thường xuyên khác
TỔNG CHI THƯỜNG XUYÊN
251
7. Nhà cửa
Tên khu
nhà
Năm
xây
Giá
xây (đ)
Sửa chữa lớn
đến năm 2012
Diện tích
(m2)
Thời hạn
sử dụng
% dành
cho KCB
% dành cho
YTDP
% dành cho các
hoạt động khác
Tổng %
sử dụng
252
8. Trang thiết bị y tế
Tên trang
thiết bị
Số
lượng
Năm
mua
Giá mua
(đ)
Thời hạn sử
dụng (năm)
% dành cho
KCB
% dành cho
YTDP
% dành cho các
hoạt động khác
Tổng % sử
dụng
253
9. Thiết bị, tài sản khác
Tên trang thiết
bị
Số
lượng
Năm
mua
Giá
mua
(đ)
Thời hạn sử
dụng (năm)
Thời hạn sử
dụng (năm)
% dành
cho KCB
% dành
cho YTDP
% dành cho
các hoạt động
khác
Tổng %
sử dụng