Upload
dotram
View
215
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
1 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
TÔI HIỂU KINH PHÁP HOA NHƯ
THẾ NÀO ?
TẬP 2
Tâm Trợ NGUYỄN NGỌC HỖ
3 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
M ỤC L ỤC TẬP 2
QUYỂN NĂM
* Phẩm An lạc hạnh thứ mười bốn 7
- An Lạc hạnh thứ nhứt : Hành xứ 12
- An Lạc hạnh thứ hai : Thân cận xứ 13
- An Lạc hạnh thứ ba : Tâm an lạc 18
- An Lạc hạnh thứ tư : Tâm đại bi 19
- Tình yêu tự ngã 20
- Sự tích quỷ thần Khoáng Dã 23
- Hạnh nhẫn nhục 24
- Hạt kim cương 27
- Thiện căn sanh tâm đại bi 30
- Giọt nước mát lành 41
* Phẩm Tùng địa dũng xuất thứ mười lăm 43
- Ba điều khó tin 56
- Phật tánh có hay không có 60
-Ai truyền giới cho Phật ? 64
- Thời gian 65
- Sự tích nàng Sự phụ 68
* Phẩm Như Lai thọ lượng thứ mười sáu 71
- Đức cổ Phật Thích Ca Mâu Ni 74
- Con số bất khả thuyết 84
- Phước lực nhờ thọ bát quan trai 85
* Phẩm Phân biệt công đức thứ mười bảy 89
- Cúng dường cách nào để được phước báo ? 98
- Tên thợ săn đắp y vàng 101
- Cúng dường y ca sa 104
- Phật tử không nên tự sát 107
* Phần kết của quyển V 110
QUYỂN SÁU
* Phẩm Tùy hỷ công đức thứ mười tám 120
4 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
- Những bài kệ của đức Bồ tát Di Lặc 123
- Đức Cỗ Phật Thích Ca Mâu Ni 143
- Trưởng giả A Nan hà tiện 153
* Phẩm Pháp sư công đức thứ mười chín 156
- Ngưng hơi thở 163
- Nói nhiều có hại 165
- Thân thể và tâm thức 169
- Bồ đề hành kinh 177
- Sông Hằng 180
* Phẩm Thường bất khinh Bồ tát thứ hai mươi 183
- Luận sư A đề Sa và thiền sư Lạt ma Rinchen Zangpo 190
* Phẩm Như Lai thần lực thứ hai mươi mốt 193
- Thanh tịnh sinh ra năng lượng và trí tuệ 195
* Phẩm Chúc lụy thứ hai mươi hai 201
- Bốn Diệu đế 203
- Bốn điên đảo 206
* Phẩm Dược vương Bồ tát bổn sự thứ hai mươi ba 209
- Tự đốt thân, cách cúng dương của Bồ tát 212
- Ngọn lửa Thích Quảng Đức 213
- Quả tim Thích Quảng Đức 218
- Ngọn lửa Thích Nguyên Hương 221
- Ngọn lửa Thích Thanh Tuệ 225
- Ngọn lửa Thích nữ Diệu Quang 226
- Ngọn lửa Thích Tiêu Diêu 227
- Ngọn lửa Thích Quảng Hương 228
- Ngọn lửa Thích Thiện Mỹ 229
- Công đức mười vị Thánh tăng 237
- Vua A Dục và tiền thân 247
* Phần kết của quyển sáu 254
- Tụng kinh Pháp Hoa thoát nữ thân 262
- Ả ca nhi 264
- Thất tiết với chồng 265
- Xảo ngôn với chồng 267
5 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
QUYỂN BẢY
* Phẩm Diệu Âm Bồ Tát thứ hai mươi bốn 270
- Phân biệt tà và chánh 279
* Phẩm Quán thế âm Bồ tát thứ hai mươi lăm 284
- Sự tích Quán thế âm Bồ tát 293
- Sự tích Quan Âm Nam hải 297
- Sự tích Quan âm Thị Kính 305
- Tính cách dân tộc về hai mẫu chuyện 308
* Phẩm Dà la ni thứ hai mươi sáu 310
-Năng lực bí mật của chú Đà la ni 311
- Phật thuyết Lục tự đại minh chương cú 318
- Hiển giáo và mật giáo 320
* Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự thứ 27 327
- Tính cách của nhân vật 332
* Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 336
- Bốn pháp đặng kinh Pháp Hoa 337
- Đại trí, đại bi, đại hạnh 344
- Mười hai bộ kinh 352
* Phần kết của quyển bảy 356
- Thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni 362
- Phật mẩu Chuẩn Đề thần chú 385
- Bài đọc vui : Thảo am. 390
PHẦN THỨ BA
KINH QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP
PHƯƠNG PHÁP SÁM HỐI 392
- Sám hối con mắt 405
- Sám hối lổ tai 407
- Sám hối lổ mủi 408
6 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
- Sám hối cái lưỡi 409
- Sám hối thân tâm 411
MƯỜI HẠNH NGUYỆN CỦA PHỔ HIỀN 420
* Phần chú thích 426
Ngaøi Văn Thuø Sö Lôïi côõi treân con sö töû xanh, töôïng tröng
cho trí hueä saéc beùn caét ñöùt sanh töû luaân hoài.
7 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
QUYỂN NĂM.
Phẩm AN LẠC HẠNH thứ mười bốn.
An lạc hạnh có nghĩa là sống hạnh phúc, an vui. Được bình
yên sống hạnh phúc đó là một may mắn lớn của kiếp người.
Làm được kiếp con người quí báu biết bao nhiêu! Nhưng
thường ít ai quan tâm và hiểu được cuộc sống quí giá này. Thân thể con
người của chúng ta hình thành được trong kiếp này cũng là một nhơn
duyên hản hửu gieo căn lành từ bao kiếp trước. Cho nên đời nay chúng
ta được may mắn làm người, là một người Phật tử đã quy y Tam Bảo,
được hạnh phúc khi thọ trì kinh Pháp Hoa, được an lạc khi đã hiểu
những ý nghĩa thẩm sâu trong kinh thời còn gì bằng.
Như Lai cũng đã từng nói “Kinh Pháp Hoa này ở trong vô
lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà huống là
đặng thấy thọ trì, đọc tụng”. Đã biết vậy, muốn được hưởng an lạc
phải biết sống mạnh khoẻ từ thể chất đến tinh thần, phải biết nên gần gủi
người nào và không nên gần gủi người nào. Điều kiện cần và đủ cho
cuộc sống ngày hôm nay là phải biết giữ sao cho thân người trong kiếp
này trọn hưởng an vui và hạnh phúc.
Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm An Lạc Hạnh
thì cảm thấy niềm tin được củng cố, nghi ngờ được xóa sạch, phẩm hạnh
được tăng cao. Bởi vì thọ trì kinh Pháp Hoa không những đưa cái tâm vô
kỷ luật của chúng ta vào khuôn phép, mà còn đánh thức Phật tánh trong
con người của chúng ta, khiến tâm thức chúng ta nghĩ đến hướng thiện
nhiều hơn, thiền quán tốt hơn, thẩm sâu giáo lý Pháp Hoa cao hơn, xây
dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và tôi miên man nghĩ đến:
Niết Bàn nào ở đâu xa.
Bởi tâm tỉnh giác sinh ra Niết Bàn.
8 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nhớ xưa Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị Tổ đời thứ hai
mười tám (thế kỷ thứ mười một Phật Lịch) có nói: “Ở ngoài cái tâm
không có Phật đâu mà tầm. Có ai mà coi Niết Bàn với Đại Ngộ là
những sự ngoài cái tâm, ấy là lầm to vậy. Ngoài sự thật của cái tâm,
mọi sự vật đều giả dối. Chỉ có tư tưởng trong tâm là sốt sắng thôi. Và
khi tư tưởng ngừng nghĩ, tịch yên, ấy là Niết Bàn. Mỗi người đều thấy
Phật và tưởng Phật trong tâm mình. Mơ tưởng một vị Phật nào ở
ngoài cái tâm, cho rằng mình thấy Phật ở một chỗ nào đó, ấy là điên
cuồng lắm vậy.”
Bởi thế, không phải ngó ra ngoài, mà ngó vào trong người và
nhìn kỷ vị Phật mà ta đang có, thì sẽ thấy mỗi người đều có một tâm
thức, tâm thức đó là Phật. Chính lý do đó nên đức Phật nói “Trong mỗi
chúng sanh đều có Phật tánh, trong mỗi chúng sanh đều sẽ thành
Phật.” Cho nên muốn được hưởng bình yên, an lạc phải coi chừng cái
tâm.
Đức Phật dạy rằng: “Hãy canh giữ cái tâm cho kỷ. Hãy chú
trọng đến nó và không để cho nó tưởng quấy, nghĩ bậy, vì khi vừa
nghĩ sái đã có tội rồi. Vì cái muốn trong tâm trí nó giục người ta thi
hành. Làm sái rồi ăn năn, sám hối thì có thể làm sái nhiều lần, ăn
năn nhiều lần, sám hối nhiều lần chỉ hoài công thôi.”
Tất cả sự thanh bạch hay ô uế đều do tâm, nếu tâm rời xa cấu
nhiễm thì được an lạc, bình yên, nếu tâm gần với năm tham, mười ác thì
dầu có thọ trì ba vạn quyển Pháp Hoa Phật tánh cũng không hiện ra. Đức
Phật dạy “Người nào có hai món phước đức và trí huệ tức có Phật
tánh.”
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát,
ngài Sư Tử Hống Bồ Tát bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật tánh? Do nghĩa gì nên
gọi là Phật tánh? Có gì lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh? Nếu chúng
sanh có Phật tánh tại sao lại chẳng thấy được Phật tánh của tất cả
chúng sanh? Thập trụ Bồ Tát trụ những pháp gì mà chẳng thấy Phật
9 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tánh rỏ ràng?Phật trụ những pháp gì mà thấy được rỏ ràng? Thập trụ
Bồ Tát dùng con mắt gì mà chẳng thấy rỏ ràng? Phật dùng con mắt gì
mà thấy Phật tánh được rỏ ràng?”
Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Nếu
có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ trang nghiêm: Một là
trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm
như vậy thời biết Phật tánh, cũng lại rỏ biết gọi là Phật tánh, nhẫn
đến có thể biết thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì, chư Phật Thế Tôn
dùng con mắt gì.”
Ông hỏi thế nào là Phật tánh đó? Lóng nghe, ta sẽ phân
biệt giãi thuyết cho ông.
Này Thiện nam tử! Phật tánh đã gọi là đệ nhứt nghĩa
không, đệ nhứt nghĩa không gọi là trí huệ.
Không đây là chẳng thấy không cùng bất không. Người trí
thấy không và bất không thường cùng vô thường khổ với lạc, ngã
cùng vô ngã. Không là nói tất cả sanh tử. Bất không là nói Đại Niết
Bàn. Nhẫn đến vô ngã chính là sanh tử. Ngã đó chính là Đại Niết
Bàn.
Thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không thời chẳng gọi
là trung đạo, nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã thời
chẳng gọi là trung đạo. Trung đạo đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa này
nên Phật tánh là thường hằng không biến đổi vì vô minh che đậy làm
cho chúng sanh chẳng thấy được. Hàng Thanh Văn, Duyên giác thấy
tất cả không mà chẳng thấy bất không, nhẫn thấy tất cả vô ngã mà
chẳng thấy ngã, do đây nên chẳng được đệ nhứt nghĩa không. Vì
chẳng đặng đệ nhứt nghĩa không nên chẳng đi được nơi trung đạo. Vì
không trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh.
Này Thiện nam tử! Phàm có ba hạng chẳng thấy trung
đạo:
10 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Một là định lạc hành, chính là đại Bồ Tát vì thương xót tất cả chúng
sanh, nên dầu ở địa ngục A tỳ, nhưng an vui như đệ tam thiền.
Hai là định khổ hành, là nói đến hàng phàm phu.
Ba là khổ lạc hành, là nói đến Thanh Văn, Duyên Giác. Vì Thanh
Văn, Duyên Giác hành nơi khổ lạc mà tưởng là trung đạo, do đây nên
dầu có Phật tánh mà chẳng thấy được.
Như ông hỏi nghĩa gì gọi là Phật tánh?
Này Thiện nam tử! Phật tánh chính là Vô thượng bồ đề của tất cả chư
Phật, là chủng tử của trung đạo.”
Trong phẩm An Lạc Hạnh đức Phật chỉ rỏ những điều kiện
cần và không cần, thân cận và không thân cận cho hành giả muốn thọ trì
và đọc tụng kinh Pháp Hoa. Trước khi thẩm sâu vào phẩm kinh chúng ta
hãy cùng quán tưởng thân Phật. Chúng ta hãy tham muốn thân Phật, vì
thân Phật là Pháp thân, Pháp thân ấy do vô lượng công đức trí huệ sinh
ra, do từ bi hỷ xả sinh ra, do tu pháp trợ đạo bồ đề sinh ra. Do bởi những
công đức trí huệ ấy sinh ra Thân Như Lai. Vậy muốn được thân đó thì
phải phát tâm bồ đề, cầu được nhất thiết chủng trí thường, lạc, ngã, tịnh.
Trong sách Bồ đề tâm luận có giảng : “ Bồ Đề tâm này hàm chứa pháp
công đức của hết thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo
sư của hết thảy. Nếu quay về gốc thì là cõi Mật Nghiêm, chẳng đứng
dậy khỏi tòa mà thành tựu được hết thảy Phật sự. Nếu ai cầu Phật
huệ mà thông đạt Bồ đề tâm thì ở ngay nơi thân do cha mẹ sinh ra sẽ
mau chứng địa vị Đại Giác.” Tới đây, tâm đã thanh tịnh rồi, chúng ta
hãy bắt đầu đọc phẩm kinh.
“1. Lúc bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát bạch
Phật rằng: ”Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này thật là ít có, vì kính thuận
Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở nơi đời ác sau, hộ trì, đọc nói kinh
Pháp Hoa này. Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát ở đời ác sau thế nào mà có
thể nói kinh này?”
11 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Nều vị Đại Bồ Tát ở đời
ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp:
“2. Một, an trụ nơi “hành xứ” và nơi “thân cận xứ” của
Bồ Tát, thời có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn Thù Sư
Lợi! Thế nào gọi là chỗ “hành xứ” của Đại Bồ Tát? Nều đại Bồ Tát
an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu, khéo thuận mà không vụt chạc
lòng, cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt và quán
tưởng như thật của các pháp, cũng chẳng vịn theo, chẳng phân biệt,
đó gọi là chỗ “hành xứ” của Bồ Tát.
“Thế nào gọi là chỗ “thân cận” của Đại Bồ Tát? Vị đại Bồ
Tát chẳng gần gủi Quốc Vương, Vương Tử, Đại thần, Quan trưởng,
chẳng gần gủi các ngoại đạo phạm chí, ni kiền tử (89)
v…v… và
chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm, sách ngoại đạo cùng
với phái “lộ già da đà”, phái “nghịch lộ già da đà” (90)
, cũng chẳng
gần gủi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau và bọn na
la (91)
v…v… bày các cuộc chơi biến hiện.
“Lại chẳng gần gủi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà,
chó, săn bắn, chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người
như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ Tát vì nói pháp không có lòng
mong cầu.
“Lại chẳng gần gủi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà
tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng,
hoặc ở chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở
chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát theo cơ nghi nói
pháp không lòng mong cầu.
“Văn Thù Sư Lợi! Lại vị đại Bồ Tát chẳng nên ở thân
người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói
pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người, chẳng cùng với gái
nhỏ, gái trinh, gái góa v…v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần
năm giống người bất nam để làm thân hậu.
12 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhơn duyên
cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật.
“Nều vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười,
chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu,
huống lại là việc khác.
“Chẳng nên nuôi đệ tử sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng
chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ
vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù Sư Lợi, đó là chỗ “thân cận” ban
đầu.
“3.- Lại nữa, vị đại Bồ Tát quán sát “Nhứt thiết pháp
không như thiệt tướng”, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối,
chẳng chuyễn, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô
dứt (92)
, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không
tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại,
không chướng, chỉ do nhơn duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho
nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là “chỗ thân
cận” thứ hai của vị đại Bồ Tát.”
Ba đoạn kinh văn trên, Phật dạy hàng Bồ Tát ở trong đời ác
sau muốn thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng kinh Pháp Hoa phải thực hiện
hai điều kiện: Một là ‘Hành xứ”, hai là “Thân cận xứ”.
1.- An lạc hạnh thứ nhứt: HÀNH XỨ.
An trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu.
Chẳng kinh sợ, không vụt chạc lòng.
Hành xứ là Bồ Tát phải cố hết sức mình sống trong hạnh
nhẫn nhục, chịu đựng tất cả sự ngược đãi và khinh miệt của bọn ngoại
13 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đạo. Cho dù trong bất cứ hoàn cảnh thiệt thòi nào, áp bức nào cũng
không được sân hận mà phải biểu hiện sự hoan hỷ và chấp nhận, không
tỏ ra kinh sợ hay vụt chạc lòng.
Như vậy, “hành xứ” là an trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu khéo thuận lòng.
Lòng không vụt chạc cũng chẳng kinh sợ. Ở nơi tất cả pháp không phân
biệt, quán tưởng như thật tướng của các pháp, chẳng vịn theo, chẳng
phân biệt.
Hạnh nhẫn nhục là hạnh của Bồ Tát. Hồi đức Phật còn tại
thế, một hôm Ngài đang ngồi dưới bóng mát một thân cây tàn lá sum
xuê trong một cánh rừng vắng, lúc đó có một con ác quỉ tên là Khoáng
Dã nhìn thấy đức Như Lai đang an nhiên tịnh tọa liền khởi tâm hung ác,
kéo binh tướng đến quấy phá định ăn thịt Phật. Đức Phật bèn hóa ra hình
vị Đại Lực quỉ là vua trong loại quỉ thần. Khoáng Dã quỉ lấy làm sợ sệt
bèn ngã ra bất tỉnh. Phật hiện lại nguyên hình Như Lai thuyết pháp cho
Khoáng Dã quỉ hồi tâm quy y Phật. Từ đó Khoáng Dã quỉ không còn
sinh tâm hung ác nữa, trở lại hiền lương và phát nguyện sẽ hỗ trợ chư
tăng và những người tu Phật. Đó là đức Phật dùng hạnh nhẫn nhục cứu
độ chúng sanh, trước con ác quỉ Khoáng Dã, Như Lai không vụt chạc
lòng, cũng chẳng kinh sợ.
2. An lạc hạnh thứ hai: THÂN CẬN XỨ.
Thân cận xứ được chia ra làm hai phần: Thân cận và bất thân
cận.
Những chỗ thân cận Bồ Tát nên làm:
Quán sát các pháp không như thiệt tướng.
Ở nơi pháp không phân biệt.
Thường xuyên động dụng trí huệ quán tưởng pháp không, không
có cái có, không có cái không, cũng không thể có, cũng không thể
14 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
không, cũng có thể có, cũng có thể không, tất cả đều hư vọng, giả tạo.
Bởi trong pháp, không có cái gọi là hướng Thanh văn thừa, hướng
Duyên giác thừa, hướng Bồ Tát thừa, hường Vô thượng bồ đề. Cũng
không có hướng phàm phu, hướng tục tử, hướng nhiễm, hướng tịnh,
hướng sanh tử, hướng niết bàn. Bởi vì các pháp vốn không. Vì không
cho nên mới gọi là thật tướng.
Đức Phật dạy: “Không đây là chẳng thấy không cùng bất
không. Người trí thấy không và bất không, thường cùng vô thường,
khổ với lạc, ngã cùng vô ngã. Bất không là nói Đại Niết Bàn. Nhẫn
đến vô ngã chính là sanh tử, Ngã đó chính là Đại Niết Bàn.”
Nhiều phe phái muốn bác cái thuyết Không của nhà Phật, họ
nói rằng: Nếu không có gì hết, nếu không có sanh, không có diệt, thì đức
Phật nói Tứ Diệu Đế làm chi, vì không có đau khổ, không biết nguồn
gốc cái khổ, thời làm sao mà diệt khổ. Nều không có đau khổ, không
diệt khổ, thời không có gì chứng đắc. Mà nếu không có Tứ Diệu Đế, thời
sau này sẽ không có Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
Như vậy Thuyết không nghĩa là không có Tăng, không có
Pháp, không có Phật?
Thuyết không ở đây không phải chẳng có gì hết. Thuyết
không ở đây là luật. Thuyết không sinh ra tất cả vạn vật và làm cho vạn
vật được tồn tại theo luân hồi và nghiệp báo. Chính nghiệp báo làm cho
tất cả chúng sanh hoặc là sang cả, hoặc là thấp hèn, có kẻ sống lâu, có
người chết trẻ, có kẻ mạnh khoẻ, có người ốm đau, có kẻ tốt tướng, có
người xấu hình, có kẻ oai thế, có người yếu hèn, có kẻ khôn ngoan, có
người ngu dại.Thuyết không là chơn lý tuyệt đối. Kẻ nào bày bác thuyết
không của nhà Phật tức không hiểu chơn lý của Phật Thích Ca Mâu Ni,
cho nên đức Phật mới dạy “Hãy quán sát các pháp không như thiệt
tướng.”
Cũng như thế, khi Bồ Tát quán sát tất cả pháp đều bất khả
đắc, nhưng không phải là không có tất cả pháp. Cũng ví như nói có hư
15 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
không, trong mười phương thế giới tìm hoài, tìm mãi vẫn không thấy hư
không, nhưng không phải là không có hư không.
Bồ Tát là vị đại thí chủ, phàm có việc gì chúng sanh cần Bồ
Tát đều bố thí được cả. Lòng bình đẳng không hề hối tiếc, chẳng trông
quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi tức, chỉ một niệm cầu cứu
khổ tất cả chúng sanh. Bồ Tát vì muốn học tập theo bổn hạnh của chư
Phật, vì yêu mến bổn hạnh của chư Phật, vì bổn hạnh của chư Phật thanh
tịnh, nên hoan hỷ cứu hết chúng sanh thoát khổ, an vui.
Bồ Tát hộ trì tịnh giới, lòng không nhiễm trước sắc, thinh,
hương, vị, xúc, cùng đem sự vô trước ấy nói với chúng sanh, chẳng cầu
oai thế, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc tướng. Chỉ bền giữ một lòng
thanh tịnh như Phật.
Bồ Tát tu hành tinh tấn, tánh không tham sân si, không kiêu
mạng phú tàng. Bồ Tát chỉ vì sự khổ của chúng sanh mà tinh tấn, sự
phiền não của chúng sanh mà tinh tấn. Bồ Tát có thể vì chúng sanh trong
vô số thế giới mà chịu khổ ở vô gián địa ngục, để những chúng sanh đó
được gặp Bồ Tát như thấy được Phật mà hưởng thọ sự vui an lạc.
Bồ Tát thành tựu được hạnh chánh niệm rồi thì tâm không
tán loạn, kiên cố bất động, tối thượng thanh tịnh. Vì do chánh niệm nên
hiểu hết ngôn ngữ thế gian, hay thọ trì ngôn thuyết của các pháp xuất
thế. Vì Bồ Tát học chơn thiệt nghĩa của tam thế chư Phật, nhập chủng
tánh của tam thế chư Phật, đồng thiện căn với tam thế chư Phật.
Những chỗ bất thân cận Bồ Tát chẳng nên làm:
Những người có quyền thế trong xã hội: Quốc vương, vương tử,
đại thần, quan trưởng.
Những kẻ ngoại đạo: Phạm chí, ni kiền tử, phái thuận lộ già da đà,
phái nghịch lộ già da đà.
16 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Những kẻ viết sách thế tục ca ngâm.
Những kẻ sống với nghè ác: buôn bán hàng thịt, nuôi heo, gà, chó,
săn bắn, chài lưới.
Những kẻ hung hiểm, bày cuộc đấm đá, đâm, chém.
Những tỳ kheo, tỳ kheo ni, những ưu bà tắc, ưu bà di, hạng người
tu theo hạnh tiểu thừa. Chỉ biết độ mình mà quên độ người.
Những kẻ dể dàng sanh tư tưởng dục nhiễm: phụ nữ, bán nam bán
nữ, sa di ít tuổi.
Nói về bất thân cận xứ là những điều Bồ Tát không nên làm.
Trong phần này đức Phật có nói “Bồ Tát không được gần gủi”, phải hiểu
ý đức Phật muốn nói dẫu có thân cận nhưng đừng để bị ảnh hưởng,
không lợi dụng người, người không lợi dụng ta, nhứt là đối với những vị
quốc vương, đại thần, quan to, quan nhỏ. Bởi vì Bồ Tát gần gủi những
người này sẽ có mối hiểm nguy về phẩm hạnh, về tư chất thanh tịnh.
Chớ nên dựa dẩm vào chức vụ của họ mà thụ hưởng ân huệ, lợi dưỡng
cúng dường. Đức Phật đã từng phát đại nguyện cứu khổ hết thảy chúng
sanh, thì có đâu lại cấm tăng ni chẳng đặng gần gủi những người như đã
nêu trên thì làm sao độ cho họ thoát khổ? Như vậy chúng ta phải hiểu
như thế nào cho đúng ý của Như Lai dạy? Phải hiểu là dù cho có thân
cận với những bậc quốc vương, những người giàu có nhưng không để
cho quyền lực và tiền tài làm tha hóa con người. Cũng như chúng ta có
thân cận với những kẻ sống bằng nghề ác là để cãi hóa họ chuyễn cách
sinh sống bằng nghề khác, bỏ bớt ăn thịt mà ăn chay. Cũng như với phụ
nữ, những người đã lở sa chân vào cuộc sống đồi trụy, chúng ta có thân
cận là để chỉ cho họ con đường hoàn lương v…v… Hiểu được như vậy
sẽ tránh ngộ nhận ý nghĩa cụm từ “Chẳng đặng gần gủi.” Nhưng nếu đã
có thân cận với những hạng người trên đây, Bồ Tát tùy theo cơ nghi nói
pháp mà không có lòng mong cầu, không làm thân hậu, nhứt là đối với
phụ nữ, không hở răng cười, không bày hông ngực, chuyên một lòng
niệm Phật.
17 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chúng ta hãy đọc tiếp phần kinh văn:
“5. Lại Văn Thù Sư Lợi! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở
trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc,
hoặc miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc kinh, đều chẳng ưa nói lỗi của
người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các pháp sư khác,
chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh
văn cũng chẳng nêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng nêu
tên khen ngợi điều tốt của người đó.
“Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiểm, vì khéo tu lòng an
lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn
hỏi, chẳng dùng pháp tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp đại thừa mà vì
đó giãi nói làm cho đặng bực “Nhứt thiết chủng trí”.
“7.- Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc
pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh
ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm
chỗ hay dở của kia. Nều hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà
di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo
đều không đặng làm nảo đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà
nói với người đó rằng: “Các người cách đạo rất xa trọn không thể
đặng bực Nhứt thiết chủng trí”.
“Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung biếng trễ đối với
đạo. Lại chẳng hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả
chúng sanh khởi tưởng đại bi, đối với các đức Như Lai sanh tưởng
như cha lành, đối với các Bồ Tát ở mười phương phải thâm tâm lễ
lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo
pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp
cũng chẳng nói nhiều.
“Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau, lúc pháp
muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói
pháp này không ai có thể não loạn, đặng bạn đồng học tốt chung
18 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
cùng đọc tụng kinh này, cũng đặng đại chúng thường đến nghe họ.
Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay
chép, hoặc bảo người chép cúng dường kinh quyển cung kính tôn
trọng ngợi khen.
“9.- Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị Bồ Tát ở đời rốt sau lúc
pháp gần diệt, có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người
tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ
Tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là
mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng
nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người
đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc Ta đặng Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, Ta dùng
sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt đó khiến trụ trong pháp này.
“Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát đó ở sau lúc Như Lai
diệt độ nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này
không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, Quốc vương, Vương tử, Đại thần, nhân dân Bà la môn, cư
sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng, ngợi khen, hàng chư thiên
ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong
xóm làng, thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi,
hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến
người nghe đều đặng vui mừng.”
3.- An lạc hạnh thứ ba: TÂM AN LẠC
Bồ Tát muốn trụ trong hạnh an lạc thứ ba này phải ghi nhớ:
Chớ ôm lòng ganh ghét, dối trá.
Chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của họ,
dù là tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc hay ưu bà di, hoặc là người cầu
bực Thanh văn, Duyên giác hay Bồ Tát đạo.
19 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chẳng nên hí luận các pháp, tranh cãi vô lý.
4.- An lạc hạnh thứ tư: TÂM ĐẠI BI.
Là tâm biết xót thương hết thảy chúng sanh, dẹp hết nỗi khổ
đau của chúng sanh, khiến cho chúng sanh được an vui, thanh tịnh, vô
nhiễm. Tâm đại bi hàm chứa hết thảy pháp công đức của chư Phật, cho
nên Bồ Tát muốn thọ trì kinh Pháp Hoa phải khởi tâm đại bi, dù tục gia
hay xuất gia, nếu không có lòng từ bao la thời sẽ mất lợi lớn.
Bồ Tát là những vị có lòng từ bi luôn phát đại nguyện cứu
khổ tất cả chúng sanh, mặc dầu các ngài đã đủ hạnh an lạc để vào cõi vô
dư Niết bàn, nhưng vì lòng thương chúng sanh vô hạn. Thấy chúng sanh
bị đọa đày trong ba cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, các ngài thương xót
muốn chịu khổ thay cho họ. Nhưng làm như vậy thì nghiệp báo không
công bằng. Những kẻ ở dưới kia đang chấp hành nghiệp quả hoặc đời
trước, hoặc đời này, họ phải trả quả hoặc bằng đủ mọi cách. Như vậy
muốn cứu khổ chúng sanh thì Bồ Tát phải dùng diệu lý phân biệt, diễn
giảng cho chúng sanh bừng tỉnh trong cơn mê đồ, mộng ảo. Các ngài
không vụt chạc lòng, cũng chẳng kinh sợ. Mục đích là cứu vớt chúng
sanh thoát khỏi nghiệp báo sanh tử. Vì còn sanh tử thì còn luân hồi.
Tóm lại, nếu có hành giả nào muốn nói kinh Pháp Hoa, phải
an trụ trong bốn pháp: Một là an trụ trong Hành Xứ: Chịu đựng nhẫn
nhục, thuận thảo, không nóng nảy. Tâm bình yên, xem muôn vật như
chơn không thiệt tướng, không phân biệt. Hai là an trụ trong Thân Cận
Xứ: Không gần gủi vua, quan các cấp, không gần gủi ngoại đạo phạm
chí, không gần gủi những bọn người hung hiểm, sống với nghề ác,
không gần gủi phụ nữ, kẻ bán nam bán nữ, trẻ nhỏ. Không điên đảo,
không động, không thối, không chướng, không ngại, chẳng sanh, chẳng
xuất. Ba là an trụ trong hạnh An Lạc: Không nên nói sai quấy của người
và kinh điển. Không khinh rẻ, kiêu ngạo đối với pháp sư. Không nói
điều tốt xấu, hay dở của người khác. Không vạch sai lầm của tỳ kheo, tỳ
kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Bốn là phát tâm Đại Bi: Dù là hàng tại gia
20 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hay xuất gia đều phải sanh lòng từ lớn, nếu không sẽ mất lợi lớn. Thấy
người cơ hàn, khổ sở thì phát khởi lòng từ. Thấy người kêu cứu giúp đở
thì phát khởi lòng từ. Thấy người rên siết, đau đớn vì mất người thân thì
phát khởi lòng từ v.v…
Nên phân biệt lòng từ khác với tình thương yêu. Thương ông,
thương bà, thương cha, thương mẹ, thương anh, thương chị, thương em,
tình yêu lứa đôi, tình yêu vợ chồng. Nhưng lòng từ lại không giống như
tình yêu thương nói trên. Tình yêu thương còn ở trong vòng tự ngã, còn
lòng từ thì đã vượt ra ngoài cái tự ngã. Xin trích ra đây một câu chuyện
trong kinh A Hàm nói về tình yêu thương còn ở trong vòng tự ngã:
TÌNH YÊU TỰ NGÃ.
Một hôm vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi:
- Trên đời này ái khanh yêu ai nhất?
Phu nhân Mạt Lợi đáp:
- Dĩ nhiên, người thiếp yêu chính là bệ hạ.
Vua Ba Tư Nặc nói:
- Trẫm cũng đoán rằng khánh sẽ nói như thế.
Phu nhân Mạt Lợi mĩm cười.
- Tâu bệ hạ, nếu Thánh thượng cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi
một tí, nhưng xác thực hơn.
Vua Ba Tư Nặc bảo:
- Khanh cứ nói.
Phu nhân Mạt Lợi thưa:
- Tâu bệ hạ! Người mà thần thiếp yêu nhất chính là thần thiếp.
21 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên.
- Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu khanh muốn nói gì
Phu nhân Mạt Lợi thưa:
- Tâu bệ hạ! Vì có ai trọng tự ngã mình, nên thần thiếp mới yêu
thương bệ hạ, vì bệ hạ là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã này.
Vua Ba Tư Nặc nói:
- Trẫm biết đều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rỏ ý cuả khanh.
Phu nhân Mạt Lợi dè dặt:
- Tâu bệ hạ! Thần thiếp mạng phép nêu ra một câu hỏi: ” Trên đời
này bệ hạ yêu thương ai nhất?
Vua Ba Tư Nặc cười:
- Ai khanh chớ còn ai nữa.
Phu nhân Mạt Lợi hỏi tiếp:
- Giả sử thần thiếp yêu thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ
làm gì?
Vua Ba Tư Nặc lúng túng:
- À! Trẫm sẽ …Trẫm sẽ …
Phu nhân Mạt Lợi nói tiếp:
- Bệ hạ sẽ nổi trận lôi đình chém đầu thần thiếp ngay lập tức phải
không?
Vua Ba Tư Nặc giả lả:
- Khanh hỏi rắc rối quá! Rắc rối thật!
Phu nhân Mạt Lợi hỏi:
- Tâu bệ hạ! Có đúng thế không?
22 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vua Ba tư Nặc đáp:
- À!...À!...
Phu nhân Mạt Lợi hỏi dồn:
- Đúng! Phải không bệ hạ?
Vua Ba Tư Nặc im lặng giây lâu rồi nói:
- Có lẽ khanh nói đúng.
- Thế là bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi.
Yêu người ta nhất đời, mà người ta yêu kẻ khác thì chặt đầu.
Như vậy có yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thiệt thì dù người ta có
thương ai khác, mình cũng vẫn thương người ta. Đàng này người ta
không thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là vì ai? Thương
đó là vì mình. Mình chỉ thương mình thôi. Tất cả mọi đối tượng mà
mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương mình qua tự ngã
của mình là vậy.
Hôm sau vua Ba Tư Nặc xa giá đến tịnh xá Kỳ viên thăm
Phật. Và trình bày câu chuyện đối đáp giữa vua và hoàng hậu. Phật xác
nhận ý kiến của phu nhân Mạt Lợi qua bài kệ như sau:
Tâm ta đi cùng khắp
Tất cả mọi phương trời
Cũng không tìm thấy được
Ai thân hơn tự ngã
Đi tìm khắp phương trời
Cũng không tìm đâu thấy
Ai thân hơn tự ngã
Vậy ai yêu tự ngã
Chớ hại tự ngã người.
23 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đó là lời xác nhận của đức Phật. Chúng sanh yêu thương tự
ngã mình hơn ai hết.
Tình thương tự ngã đem ra so sánh với lòng từ, thấy ngưới ta
neo đơn, nghèo khổ mình thương mình giúp đở, có ai khác giàu hơn
mình, họ thương người đó nhiều hơn mình, họ giúp đở người đó nhiều
hơn mình. Mình thấy mình vui chớ không ghen ghét.
SỰ TÍCH QUỈ THẦN KHOÁNG DÃ.
Nhà chùa có lệ, trước khi ăn ngọ trai, các thầy thường thí
thực cho vị quỉ thần Khoáng Dã cùng chư thần hộ pháp.
Đức Phật dạy:
“Thiện nam tử! Như có một lúc, ta du hành đến cụm rừng kia
thuộc về tụ lạc Khoáng Dã. Phía dưới rừng ấy có một quỉ thần, cũng tên
là Khoáng Dã, ăn ròng máu thịt, đã giết nhiều chúng sanh. Lại ở xóm ấy,
đến lượt quỉ thần Khoáng Dã ăn thịt một người.
“Thiện nam Tử! Lúc ấy ta có thuyết rộng những lẽ cốt yếu
của pháp cho quỉ thần ấy nghe. Nhưng bởi y bạo ác, ngu si, vô trí, nên
chẳng thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân làm vị Đại Lực Quỉ (vua trong các
loài quỉ) náo động cung điện của y, khiến y chẳng ở yên. Khoáng Dã bèn
dắt quyến thuộc và quân binh để chống cự lại ta. Nhưng đến khi thấy ta
(hóa hiện làm vị đại lực quỉ) quỉ liền thất lạc kinh hồn, hoảng sợ và té
xuống đất bất tỉnh như người chết.
“Ta đem lòng từ mẫn, lấy tay xoa mình y. Y tỉnh lại và ngồi
dậy nói rằng: Sung sướng thay! Hôm nay tôi sống trở lại. Vị Đại thần
vương đây có oai đức lớn. Lại có lòng từ mẫn, nên tha tội cho tôi.
24 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Liền đó ở trước mặt ta, y sanh lòng thiện tín. Ta bèn hiện trở
lại thân Như Lai, lại thuyết với y mọi lẽ pháp yếu. Khiến quỉ thần ấy thọ
giới bất sát.
“Ngay bửa ấy, trong thôn Khoáng Dã, có một vị trưởng giả
tới phiên mình phải chết. Những người trong thôn đã tống trưởng giả ấy,
phó cho quỉ thần kia ăn thịt. Khi được mạng người, quỉ thần ấy bèn đem
cúng thí cho ta. Nhận người xong, ta mới đổi danh tự cho trưởng giả,
kêu là Thủ trưởng giả (bàn tay trưởng giả).
“Lúc ấy, vị quỉ thần bạch với ta rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi và
quyến thuộc chỉ trông nhờ vào máu thịt để sống. Nay phải kiên cử, làm
sao mà sống được?
“Ta bèn đáp rằng: Từ nay ta ra lệnh cho các Thanh văn đệ tử,
hể đến tu hành Phật Pháp ở chỗ nào, trước khi thọ trai, tất phải thí món
ăn vật uống cho các ngươi.
“Thiện nam tử! Vì nhơn duyên ấy, ta có chế định cho các tỳ
kheo, tỳ kheo ni điều giới như vầy: Từ nay về sau, các ngươi nên thường
thí thực cho quỉ thần Khoáng Dã ấy. Nếu ở chỗ trụ nào mà chẳng thí như
vậy, thì nên biết rằng bọn ấy chẳng phải đệ tử của ta, mà là đồ đảng
quyến thuộc của Thiên ma.
“Thiện nam tử! Vì muốn điều phục chúng sanh, nên Như Lai thị hiện
mọi thứ phương tiện như vậy, chớ chẳng phải cố ý làm cho họ sanh sợ
sệt đâu.
HẠNH NHẪN NHỤC
Pháp nhẫn hạnh: Bồ Tát thường tu nhẫn pháp, khiêm hạ,
cung kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chỉ dụng tâm thuyết giảng
pháp diệu lý bằng bất cứ mọi phương tiện để cầu mong chúng sanh lìa
xa sự ác, thường hành bát chánh đạo. Muốn duy trì được tâm tỉnh thức
25 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
một cách toàn vẹn và bền vững, thực tập hạnh nhẫn nhục là phương
pháp hiệu quả nhất. Khi có người cố ý làm hại ta, hoặc quấy nhiễu làm
cho ta bực mình khiến ta bộc lộ thái độ không tốt, sự sân hận làm cho
tâm ta mất cảnh giác. Chỉ có hành nhẫn mới giúp được ta thoát khỏi sự
khó khăn này.
Hành nhẫn bằng cách nào? Hãy quán tưởng đến sự lợi lạc của
tánh nhẫn. Hãy so sánh sự lợi lạc của tánh nhẫn và những tác hại của
lòng sân hận. Nó cũng giống như một bên là kiến thiết, xây dựng, một
bên là hủy hoại, phá bỏ. Người tu Phật phải chọn một phương cách hiệu
quả.
Thực tập nhẫn nhục là cách hay nhứt để có cái tâm an bình.
Dù cho ta có gặp phải bao nhiêu tình huống đối nghịch làm não lòng ta,
gây thù hận với ta, hạnh nhẫn nhục giúp cái tâm ta sáng suốt, cái lòng
không vụt chạc. Người biết hành nhẫn là tự mình đã thủ sẳn một lá chắn
không cho mọi phiền não xăm nhập, không bị tám cái khổ quấy nhiễu.
Người đó có quyết tâm chấm dứt luân hồi. Cho nên đức Phật mới dạy
chúng ta phải hành nhẫn rồi mới thọ trì kinh Pháp Hoa, bởi vì kinh Pháp
Hoa có con đường dẫn chúng sanh vào cõi Niết Bàn. Sự nhẫn nhục cũng
làm tiêu tan ác nghiệp đã tạo ra từ bao đời trước.
Muốn hành nhẫn cho có kết quả phải so sánh sự nóng giận và
nhẫn nhục. Về sự nóng giận, Tổ Bụt đà gô sa (93)
(Buddhaghosa) có luận
rằng:
“Anh ơi! Anh đã xuất gia lánh tục mà anh còn giận người
kia, anh hãy nói cho tôi biết coi anh giận ở chỗ nào? Có phải anh giận
tóc, giận lông, giận móng tay, móng chân v…v… chăng? Hay anh giận
chất đất ở trong tóc, hay anh giận chất nước, chất lửa, chất khí ở trỏng
(thân tứ đại)? Hay anh giận năm phần trong người (ngủ uẩn)? Hay anh
giận sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp)? Hay anh giận sáu thức
(nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý)? Hay anh giận hình thể? Hay anh giận
những cái sắc, thọ, tưởng, hành, thức? Hay anh giận một cái quan, một
cái trần, hay một cái thức nào?
26 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Khi đã quán tưởng và phân tích được như thế thì không còn
chỗ nào để chứa chấp cái giận, cũng như không thể nào đặt hột cải trên
đầu cây kim. Bởi vì ta không còn thấy hình dạng của sự giận hiện diện
nữa rồi. Có như vậy ta mới yên tâm hành nhẫn.
Ta hãy nhìn thẳng vào tình huống làm cho ta sắp nổi cơn
thịnh nộ, hay là nhìn thẳng vào kẻ thù đã từng làm cho ta đau khổ, xong
rồi hãy quán từ bi, nhẫn nhục. Trước nhất tình huống sắp nổi cơn thịnh
nộ có quá đáng chăng, có nên bỏ qua chăng, có nên làm cho sư việc từ
nhỏ hóa lớn chăng. Kế đến quán tưởng kẻ thù có làm cho ta khiếp sợ
không, có quật ngã được ta không, có thể ta đã tạo nghiệp quả trước nay
nên họ đến đòi lại chăng v…v… Quán tưởng rồi, ta sẽ thanh lọc được
nhiều ác nghiệp đang chờ chực ta nổi giận nó sẽ xăm hai bản thân ta,
tâm hồn ta. Bởi vì trong tình huống này ta mới có cơ hội để hành nhẫn.
Kẻ thù của ta là thầy dạy ta hành nhẫn hiệu quả nhất.
Sự nhẫn nhục cũng làm cho ta biết thương người hơn thương
chính bản thân ta. Đây cũng là một yêu cầu cấp thiết cho người thọ trì,
đọc tụng kinh Pháp Hoa.
Người ta chỉ vì quá thương mình, cho nên phát lên sân hận
khi có một tình huống lấn cấn đến quyền lợi, sự sống của bản thân, họ
nổi nóng, theo sau là cuồng ngôn, loạn ngữ, kế đến là bêu xấu, đả
thương. Bằng mọi cách họ tranh giành cái lợi sao cho thuộc về họ. Cái ta
sân hận này đối nghịch với cái tâm nhẫn của Bồ Tát, tức là đối nghịch
với chúng sanh, nó làm cho chúng sanh phải chết cho cái ta được tồn tại.
Bởi vì cái ta ham lợi lộc công danh, ham quyền cao chức trọng, cái ta
xúc phạm đến cha me, phá hủy ngôi Tam bảo, làm điên đảo hòa hợp
chúng, trước sau gì cái ta này cũng phải đi xuống ba tầng cõi dưới là địa
ngục, ngạ quỉ và súc sanh.
Các nạn nguy, các đau khổ, các tai họa lớn nhỏ ở đời đều bởi
do từ cái thương thân ta mà ra. Hãy so sánh kẻ ngu muội chỉ lo thân
mình, chỉ muốn mình được sung sướng. Hãy nhìn chư vị Bồ Tát chỉ
muốn lợi cho người, làm sao cho người bớt khổ, làm sao cho người
27 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
không bị thiếu ăn. Hai đối cảnh tương phản nhau. Nhưng rốt cuộc kẻ
ham vui sướng cho mình lại là kẻ khốn khổ nhiều, còn Bồ Tát biết lấy
cái khổ của người làm cài khổ chính mình, biết lấy cái đói của người làm
chính cái đói của mình. Cho nên Bồ Tát vui nhiều.
HẠT KIM CƯƠNG.
Ngày xưa, có một thầy sa môn đến thăm viếng nhà một người
bạn cũ, vốn la thợ kim hoàn, chuyên bán đồ nữ trang. Là một thí chủ có
đạo tâm, thường hay cúng trai tăng tại các chùa, hoặc tại nhà. Cho nên
hôm nay khi thấy vị sa môn đến, chủ nhà vui vẻ làm cơm chay thết đãi.
Cơm nước xong xuôi, chủ khách còn đang ngồi nghĩ giãi lao.
Người chủ kim hoàn tánh hay hờ hửng, tay cầm hạt kim cương săm soi
qua kính hiển vi, bất ngờ có khách gọi, ông bèn bỏ lại viên kim cương
trên bàn và bước ra đón khách. Lúc bấy giờ, có một con két của chủ nhà
nuôi, nhìn thấy hột kim cương chiếu sáng lấp lánh liền bay xuống xớt
qua và nuốt luôn vô bụng. Khi người chủ nhà bước vào, nhớ tới hột kim
cương để trên bàn, giờ thì không thấy, trong lòng rối bấn lên, xụt xạo
tìm kiếm trên bàn lẫn dưới đất mà không thấy, có ý nghi ngờ thầy sa
môn lấy cắp, bèn hỏi rằng:
”Nảy giờ tôi bước ra ngoài nói chuyện với khách, vậy có ai
vào đây không?”
Thầy sa môn đáp: “Không. Chỉ có một mình bần tăng ngồi
tại đây thôi.”
Người chủ nhà nóng nảy quát lớn: “Vậy chớ hột kim cương
tôi để trên bàn đó, đâu mất rồi?”
Thầy sa môn vẫn lặng thinh.
28 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chủ nhà thấy vậy càng thêm nổi nóng và nghi quyết cho thầy
đã lấy cắp viên ngọc, bèn quơ cây đánh đập thẳng tay. Thầy nín thinh
chịu đòn, máu me lai láng. Mỗi lần đòn thù tới tấp vào thân hình gầy yếu
phẳng phiu của thầy, kèm theo những lời đe dọa: “Có lấy cắp viên ngọc
không?” thời thầy một mực nói rằng: “Bần tăng không có lấy cắp viên
ngọc.” Và cứ thế những trận đòn cứ bổ vào thầy khiến thầy chịu không
nỗi đành ngất xỉu.
Con két thấy máu liền bay xuống toan uống. Nhưng vừa lúc
ấy, người chủ nhà vun tay đánh thầy sa môn lại trúng nhằm vào con két.
Nên con két chỉ kịp dảy dụa vài cái rồi lăn ra chết tươi. Chủ nhà thấy
con két khôn ngoan của mình đã chết oan vì ông thầy tu, nên càng sôi
gan quất roi tới tấp vào đầu, vào cổ của thầy. Thầy thấy con két dảy dụa
chết tươi nên khai toạt ra:
”Tôi không lấy hột kim cương. Kẻ đánh cắp hột kim cương là
con két. Chính mắt tôi thấy con két ngậm hột kim cương và nuốt luôn
vào bụng. Không tin, cứ mổ bụng nó ra sẽ thấy”.
Chủ nhà ngừng tay đánh, lấy dao mổ bụng con két ra, quả
nhiên thấy hột kim cương của mình. Người chủ nhà vô cùng hối hận vì
cách đối xử hung bạo của mình. Ông ta chấp hai tay xin lỗi thầy, ông xin
thầy chủ trì cho ông được sám hối, và nói:
“Thầy quả là người ngay thật, sao trước lại không nói ra cho
tôi biết, để tôi phải lở tay phạm nhằm. Trước hay sau con két cũng phải
chết, thầy nói sớm thì tôi không đánh thầy.”
Thầy sa môn liền nói rằng: “Bần tăng thà giữ gìn đạo lý, dẫu
có mất thân này cũng không sao. Lở một lời nói của bần tăng làm cho
con két phải bị chết, thời bần tăng không thể nào an lòng được.Loài
động vật cũng là chúng sanh, loài thực vật cũng là chúng sanh, là chúng
sanh thì vòng đời có sanh có tử, sanh tử tự nhiên đều do quả báo luân
hồi. Ngày hôm nay ông đánh bần tăng ra cơ thể như vầy, chắc là kiếp
trước bần tăng cũng đã đánh ông ra cơ thể như vậy. Bần tăng hôm nay
29 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
trả được nợ trước của ông, nhưng con két lại chết về tay ông, chắc là
ông cũng đã trả xong thù oán kiếp trước.”
Người chủ nhà liền thưa rằng:“Hôm nay tôi giết một sinh
mạng, tôi có phạm vào điều ác không?”
Thầy sa môn đáp: “Ông biết mình phạm tội, ông liền sám hối
với chư Phật, thời tội sẽ tiêu. Biết mình phạm tội mà không chịu sám
hối, tội nhẹ cũng hóa thành nặng. Ví như có người cúng dường trai tăng,
hay làm điều thiện, lở có phạm tội mà không chịu sám hối, còn cố tình
che dấu nào có khác chi viên sỏi ném xuống nước sẽ bị chìm ngay. Còn
người sống ở đời không biết tới mười điều thiện là gì, lở có làm điều ác,
bèn nghĩ tưởng đến Phật, xin Phật chở che một lòng sám hối, nào có
khác chi một trăm viên sỏi được để trên một tấm ván bỏ xuống nước, sỏi
đâu có chìm được. Vì sao? Vì được Phật độ cho an toàn, không xuống
địa ngục mà lên cõi trời vậy.”
Chủ nhà hỏi: “Có điều tại sao thầy không phản đối khi tôi
đánh đập thầy, thậm chí làm cho thân thể thầy tóe máu?”
Thầy sa môn đáp: “Đó là pháp tu hạnh nhẫn nhục của một
sa môn. Ông dầu có đánh đập bần tăng máu me lai láng, bần tăng cũng
không oán hờn ông.Bần tăng không nói con két nuốt viên kim cương
cũng là cái cớ cho ông mắng chửi, đánh đập bần tăng. Tôi biết rằng tôi
vô tội, nhưng vì hành nhẫn mà tôi tự xét rằng có lẽ nghiệp trước của tôi
còn lấn cấn với ông chút đỉnh, nên thà để ông trút hết oán giận vào tôi,
coi như là tôi trả dứt nợ kiếp này. Đồng thời tôi cũng làm đúng theo lời
Phật dạy: “Dẫu cho có người mắng chửi mình, đánh đập mình, phá
hoại mình, mình cũng không oán ghét báo thù.”
Cũng vậy, Phật dạy các đệ tử:
“Này chư đệ tử! cho đến kẻ cường đồ hay quân bạo tợn có
cưa đứt chân cẳng của các người, nếu các người giận thì các người
không nghe theo ta vậy. Trong lúc ấy, các người phải giữ như thế
30 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
này: trí các người không kinh khủng, môi các người không thốt lời
dữ, các người cứ hiền lành, cái tâm đầy sự bác ái và chẳng chứa một
mảy may gì, các người bèn bủa giăng chúng nó bằng tư tưởng thơm
lành, quảng đại, cao thâm vô cùng, vô tận, không có chút gì giận oán
ghét hết. Ay! Các người phải giữ như vậy luôn.”
THIỆN CĂN SANH TÂM ĐẠI BI.
Xin trích ra tám mẫu chuyện tích Phật nói trong kinh Đại Bát
Niết Bàn.
Phật phán với ngài đại Ca Diếp Bồ Tát: Thiện nam tử! Lòng
từ có vô lượng môn, ấy là thần thông.
1.- Thiện nam tử! Như Đề bà đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế
muốn hại Như Lai. Lúc ấy ta vào đại thành Vương Xá, lần lượt khất thực
từng nhà. Vua A Xà Thế liền thả con voi Hộ Tài đã bị phục rượu say
cuồng, muốn cho voi ấy hại ta và các đệ tử. Lúc đó voi đạp chết vô
lượng trăm ngàn chúng sanh. Những chúng sanh ấy chết rồi, rất nhiều
hơi máu xông lên. Voi ấy ngửi hơi máu lại hăng say thêm lên. Nó thấy
những người hầu bên ta mặc áo màu đỏ, nó ngở là máu bèn chạy theo.
Trong các đệ tử của ta, những người chưa lìa dục, thảy đều sợ chạy tứ
tán, chỉ trừ A Nan mà thôi.
Trong đại thành Vương Xá, tất cả nhơn dân đồng thời kêu
lên, khóc lóc, kể lể, nói ra mấy lời này: Tại sao chỉ trong một buổi mai,
đức Chánh Giác phải tán hoại! Lúc ấy Đề Bà Đạt Đa lấy làm vui vẻ thốt
rằng: Sa môn Cồ Đàm dứt mất là phải lắm. Từ nay trở đi, chắc thật là
ông ấy không có mặt nữa. Khoái thay cho kẻ ấy! Sở nguyện của ta được
toại rồi.
Thiện nam tử! Lúc ấy ta muốn hàng phục con voi Hộ Tài,
cho nên ta liền vào phép Định Từ, duỗi tay ra mà chỉ nó. Tức thời từ nơi
31 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
năm ngón tay của ta hiện ra năm con sư tử. Con voi ấy thấy vậy rồi, nó
bèn hoảng sợ, té cứt té đái, gieo mình xuống đất kính lễ nơi chân ta.
Thiện nam tử! Lúc ấy đàng đầu năm ngón tay thật không có
sư tử. Đó là sức thiện căn tu lòng từ của ta, khiến con voi ấy chịu điều
phục.
2.- Lại nữa. Thiện nam tử! Khi ta định vào Niết Bàn, lúc mới
cất bước, ta đi về phía thành Câu thi na. Được nửa đường ta thấy có năm
trăm người trong kiến họ lực sĩ đang dọn dẹp, quét tước, rưới nước.,
giữa lộ có một hòn đá. Họ toan bứng bỏ đá ấy, nhưng dùng hết sức mà
chẳng làm nỗi. Lúc ấy ta lấy làm thương xót, liền phát khởi lòng từ.
Những người lực sĩ liền thấy ta dùng ngón chân cái dở hòn
đá to ấy lên ném nó lên hư không, rồi ta đưa tay ra mà hứng tiếp, đặt yên
trong lòng bàn tay mặt. Ta thổi cho đá ấy tan thành bụi. Ta lại làm cho
bụi ấy hiệp trở lại thành hòn đá, khiến lòng cóng cao của những lực sĩ ấy
dứt bặt. Liền đó ta giảng sơ với họ mọi lý cốt yều của Phật Pháp, khiến
họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt Như Lai chẳng có lấy ngón chân
mà hất hòn đá to ấy lên hư không, đặt nơi lòng bàn tay, thổi cho thành
bụi, rồi làm hiệp lại như cũ.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó là sức thiện căn của lòng
từ, khiến các lực sĩ thấy việc như vậy.
3.- Lại nữa thiện nam tử! Ở Thiên Trước đây, có một đại
thành tên là Thủ ba La, trong thành ấy có một trưởng giả tên là Lư Chí,
làm đạo chủ một chúng tu hành. Ay là người đã từng trồng nhiều cội rễ
lành hồi ở quá khứ, ở trước mặt vô lượng chư Phật.
Thiện nam tử! Trong đại thành ấy tất cả nhơn dân đều tin
phục tà đạo, phụng sự phái Ni Kiền (phái thầy tu không mặc quần áo).
Lúc ấy vì muốn độ vị trưởng giả ấy, ta bèn rời khỏi thành Vương xá, đến
32 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thành ấp ấy, ở khoảng giữa đường, còn cách sáu mươi lăm do tuần, ta đi
bộ mà đến đặng hóa độ mọi người ở đó.
Bọn Ni Kiền, sau khi nghe ta sắp đến thành Thủ Ba La, liền
có ý tưởng này: Nều Sa Môn Cồ Đàm đến chốn này, ắt nhơn dân ở đây
sẽ bỏ chúng ta, họ chẳng còn cung cấp cho chúng ta nữa. Chúng ta sẽ
nghèo cùng tiều tụy, làm sao chúng ta sẽ sống nỗi đây?
Bọn Ni Kiền bèn cùng nhau bàn tán, rêu rao với nhơn dân ở
thành ấy rằng: Sa Môn Cồ Đàm nay sắp đến đây. Nhưng sa môn ấy là
người phụ rãy cha mẹ, chạy đông chạy tây. Ông ta đến đâu thì khiến đất
đai và lúa thóc ở đó mất mùa, nhơn dân nghèo đói, nhiều kẻ chết mất,
bệnh dịch xăm hại, không thể giải cứu. Cồ Đàm là kẻ vô lại. Theo sau
ông ta ròng là bọn La sát dữ, quỉ thần dữ. Những kẻ không cha, không
mẹ, cô đơn cùng quẩn đến với ông ta, hỏi han và chịu làm môn đồ của
ông ta. Những điều mà ông ta có thể dạy ròng là thuyết hư không. Ông
ta đến chỗ nào thì chỗ ấy không bao giờ được an lạc. Những người kia
nghe rồi, đem lòng sợ sệt, đầu mặt lễ kính bọn Ni kiền ấy bạch rằng: Đại
sư! Nay chúng tôi nên lập kế gì?
Bọn Ni kiền đáp: Sa Môn Cồ Đàm có tánh ưa thích rừng cây,
suối chảy, nước trong. Ở ngoài thành, nếu có những cảnh vật ấy, nên phá
hủy hết đi. Các ông nên kéo nhau đi ra khỏi thành, đến những nơi có cây
cối, vườn rừng thì chặt đốn cho hết, đừng để lại chi cả. Còn những suối,
giếng, ao thì nên trút phân dơ vào đó. Hãy đóng chặt các cửa thành. Mỗi
nơi ấy, phải sắp đặt binh khí cho nghiêm chỉnh; ở nơi vách thành nên
phòng hộ, giữ gìn cho kiên cố. Nếu người ấy đi đến, đừng cho ai tới
trước mặt người. Nếu chẳng ai tới trước mặt người, các ông sẽ an ổn,
chúng ta cũng sẽ sắp đặt mọi phương thế đặng làm cho ông
Cồ Đàm ấy cứ theo đường cũ mà trở về.
Các nhơn dân ấy nghe vậy rồi thảy đều cung kính, vâng lệnh
thi hành.. Họ bèn đốn chặt cây cối, làm ô nhiễm nguồn nước, bố trí đồ
binh khí tuần phòng và hộ vệ một cách kiên cố.
33 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thiện nam tử! Khi ta đến thành ấy thì chẳng thấy cây cối,
vườn rừng chi cả, chỉ thấy người cầm binh khí đang thủ hộ ở các vách
thành. Thấy việc ấy rồi ta lấy làm thương xót, đem lòng từ hướng về mọi
cảnh vật ở đó, cây cối bèn mọc xanh trở lại như cũ, lại còn đâm chồi nẩy
lộc thêm nữa. Ở những sông, rạch, ao, hồ, giếng, suối nước trở nên trong
sạch, đầy tràn. Nước ấy dường như lưu ly xanh, sanh ra các thứ hoa khác
nhau, che giăng trên nước. Nước ấy lại biến hóa cho vách thành trở nên
lưu ly màu da trời. Từ trong thành, nhơn dân lại thấy suốt ta và đại
chúng. Cửa thành tự nhiên mở rộng, không ai cầm chế được. Các món
binh khí đều biến thành mọi thứ hoa khác nhau.
Trưởng giả Lư Chí làm bực Thượng Thủ, có nhơn dân trong
thành theo sau, cùng đến nơi Phật ngự. Ta bèn giảng cho họ nghe mọi lẽ
cốt yếu trong Phật Pháp, khiến tất cả mọi người đều phát tâm A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.
Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng hóa ra mọi thứ cây cối,
nước chảy trong sạch, đầy tràn sông rạch ao hồ. Ta cũng chẳng biến
thành ấy ra lưu ly màu da trời làm cho nhơn dân thấy suốt đến ta. Ta
chẳng có mở cửa thành biến đồ binh khí thành hoa.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều do sức Thiện căn của
lòng từ, khiến những người ấy thấy việc như vậy.
4.- Lại nữa Thiện nam tử! Trong thành Xá Vệ có một người
đàn bà Bà la môn, họ Bà tư Trá. Bà chỉ có một đứa con trai mà thôi. Bà
rất yêu thương nó, nhưng nó bị bệnh và chết.
Lúc ấy sự buồn rầu độc địa xăm nhập lòng bà, khiến bà
cuồng loạn mất trí. Bà lõa lồ hình thể không biết thẹn, đi lang thang đến
các ngã tư đường la khóc thất thanh, hô rằng: Con! Con! Con đi đến
chốn nào? Bà đi khắp trong thành ấp không biết mệt mỏi. Nhưng nữ
nhơn ấy là người đã có trồng cội đức ở nơi chư Phật thuở xưa.
34 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thiện nam tử! Ta bèn khởi lòng từ mẫn đối với bà. Ngay lúc
ấy, bà được thấy ta, tưởng rằng ta là con của bà. Bà lấy lại bổn tâm, đến
trước mặt ta và ôm lấy thân ta, hôn nút miệng ta. Ta bèn phán vời thị giả
A Nan rằng: Ngươi đem áo lại đây cho nữ nhơn này mặc. Khi bà được
áo rồi, ta bèn giảng cho bà nghe mọi lý cốt yếu trong Phật Pháp. Nghe
pháp xong rồi bà lấy làm vui vẻ thích chí, bà liền phát tâm A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề.
Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng phải là con của bà ấy, bà
chẳng phải là mẹ của ta, cũng chẳng có ôm giữ ta.
Thiện nam tử! Nên nhớ rằng đó đều là do Sức Thiện căn của
lòng từ, khiến nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.
5.- Lại nữa Thiện nam tử! Tại thành Ba La nại co một người
Ưu bà di (nữ Phật tử tại gia) tên là Ma ha Tư na đạt đa, ấy là người đã có
trồng các căn lành hồi đời quá khứ, trước mặt vô lượng chư Phật xưa.
Người Ưu bà di ấy trong chín mươi ngày mùa hạ, có xin phép chúng
tăng phụng thí thuốc thang cho những thầy đau ốm. Trong chúng có một
thầy tỳ kheo thân mang bệnh nặng. Lương y chẩn mạch bảo bệnh nhơn
rằng: Nên dùng món thịt làm thuốc. Nếu ông được thịt, bệnh ông sẽ dứt.
Nếu ông chẳng được thịt, mạng ông phải mất.
Lúc ấy bà Ưu bà di nghe được lời của lương y, bèn cầm tiền
vàng đi khắp chợ và quê, rao hỏi mấy lời này: Ai có thịt bán, tôi mua
bằng vàng. Như ai có thịt, tôi sẽ trao vàng, cân lường bằng nhau.
Bà đi khắp thành thị, nhưng chẳng tìm được thịt. Người Ưu
bà di ấy tự cầm lấy dao thẻo thịt ở bắp vế của mình, cắt ra nấu cháo, gia
vị nhiều thứ hương đem dâng cho thầy tỳ kheo bệnh. Tỳ kheo ấy ăn
xong, bệnh liền được dứt.
Ưu bà di ấy, thương tích hóa thành ghẻ độc, đau đớn khổ
não. Bà chẳng chịu nỗi liền phát tiếng lớn rằng: Nam mô Phật Đà! Nam
mô Phật Đà!
35 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lúc ấy ta đang ở tại thành Xá Vệ, nghe được tiếng ấy ta liền
khởi lòng đại từ đối với nữ nhơn ấy. Tức thì người thấy ta cầm lương
dược phết lên ghẻ độc, da thịt người liền lại như cũ. Ta lại thuyết pháp
mọi lẽ với người. Nghe pháp xong người ấy lấy làm vui vẻ, liền phát tâm
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng đến thành Ba la nại, đem
thuốc phết lên ghẻ độc của Ưu bà di ấy.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là do Sức Thiện căn của
lòng từ khiến nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.
6.- Lại nữa Thiện nam tử! Kẻ ác là Đề bà đạt Đa, lòng tham
chẳng biết đủ, ăn bơ nhiều quá nên nhức đầu, đau bụng,thọ khổ não lớn.
Người chẳng chịu nỗi mới phát ra lời này: Nam mô Phật Đà! Nam mô
Phật Đà!
Lúc đó ta đang ở tại thành Ưu thiền Ni, nghe tiếng của người
liền sanh lòng từ. Liền đó Đề Bà Đạt Đa thấy ta đến nơi, lấy tay xoa đầu,
xoa bụng người và đưa thuốc muối cho người, khiến người phải sống.
Người uống thuốc xong liền bình phục.
Thiện nam tử! Thiệt ta chẳng có đến nơi Đề bà đạt Đa xoa
đầu, xoa bụng, đưa thuốc cho người uống.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là do Sức Thiện căn của
lòng từ khiến cho Đề bà đạt Đa thấy việc như vậy.
7.- Lại nữa Thiện nam tử! Ở nước Kiều tát La, có một bọn
cướp số đếm năm trăm đứa. Bọn ấy đoạt giựt của người, gây hại vô
phương kể. Vua Ba tư Nặc đương ở ngôi tại kinh thành Xá Vệ của nước
ấy lấy làm lo ngại vì sự hoành hành bạo ngược của chúng, sai khiến binh
lính rình bắt họ. Bắt được họ rồi, binh lính bèn móc mắt họ, bỏ họ nơi
rừng rậm đen tối. Nhưng bọn cướp ấy vốn có trồng căn lành cội đức đối
diện với chư Phật đã qua. Khi mắt mất rồi, họ thọ khổ não lớn, ai nấy
36 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đều hô lên rằng: Nam mô Phật Đà! Nam mô Phật Đà! Hôm nay không ai
cứu hộ chúng tôi. Họ khóc lóc kêu than.
Lúc ấy ta ở tại Kỳ Hoàn tịnh xá gần thành Xá Vệ, nghe lời
than tiếng khóc ấy liền sanh lòng từ. Tức thời có ngọn gió lành thổi
hương vào núi. Các thứ hương dược xông đầy mí mắt họ; lần lần họ
được sáng mắt trở lại y nguyên như cũ.
Bọn cướp ấy mở mắt ra, liền thấy Như Lai đứng trước họ,
thuyết pháp với họ. Nghe pháp xong, bọn cướp đồng phát tâm A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.
Thiện nam tử! Bọn cướp ấy, thiệt ta chẳng có làm ra gió thổi
hương vào núi cùng mọi thứ hương dược, chẳng có đứng trước họ mà
thuyết pháp với họ.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là Sức Thiện căn của
lòng từ khiến bọn cướp ấy thấy được như vậy.
8.- Lại nữa Thiện nam tử! Thái Tử Lưu Ly, con vua Ba Tư
Nặc ở thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La, vì ngu si nên phế truất vua cha,
tự mình lên ngôi.Thái Tử nhớ tới hiềm xưa nên hại nhiều người dòng họ
Thích Ca ở thành Ca Tỳ La Vệ. Người bắt một vạn hai ngàn nữ nhơn họ
Thích mà cắt tai, thẽo mủi, chặt tiệt tay chân của họ và xô họ xuống hào
hố. Những người nữ ấy bị khổ não bèn hô lên rằng: Nam mô Phật Đà!
Nam mô Phật Đà! Nay chẳng có ai cứu hộ chúng tôi. Họ lại kêu khóc
lớn hơn nữa. Mà các nữ nhơn ấy vốn có trồng các căn lành đời trước.
Lúc ấy ta ở tại vườn Trúc Lâm, gần thành Vương Xá, nghe
tiếng khóc la của họ, ta bèn khởi lòng từ. Tức thì các người nữ ấy thấy ta
tới thành Ca Tỳ La, dùng nước mà rửa vết thương cho họ và dùng thuốc
mà đắp cho họ. Lần lần họ hết đau nhức, lổ tai, lổ mủi, tay chân họ lành
lại y nguyên như cũ.
37 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bấy giờ ta mới thuyết những lẽ cốt yếu của Pháp cho họ
nghe, khiến cả thảy đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Họ
bèn đến nơi bà tỳ kheo ni Đại Ai Đạo xin xuất gia thọ giới cụ túc.
Thiện nam tử! Lúc ấy thật Như Lai chẳng đi tới thành Ca Tỳ
La, dùng nước rửa thương tích, đắp thuốc ngăn khổ.
Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là Sức Thiện căn của
lòng từ khiến các nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.
Trở lại phần kinh văn. Sau khi đức Phật thuyết pháp cho các
đệ tử nghe về bốn hạnh của Bồ Tát thọ trì, đọc tụng, diễn giải kinh Pháp
Hoa, đức Phật phán với ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng:
“Kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở
quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy. Văn Thù Sư Lợi, kinh Pháp Hoa
này ở vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà
huống là đặng thấy thọ trì, đọc tụng.
“Văn Thù Sư Lợi! Ví như vua Chuyễn luân Thánh vương
sức lực mạnh mẻ, muốn dùng oai thế hàng phục các nước, mà các
vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh, bấy giờ Chuyễn luân Thánh vương
đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người
đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban.
Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y
phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng bạc,
lưu ly, xa cừ, mả nảo, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhơn
dân, chỉ viên minh châu trong buối tóc chẳng đem cho đó.
“Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này,
nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ.
“Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền
định trí huệ đặng cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma
vương chẳng khứng thuận phục, các tướng hiền thánh của Như Lai
38 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
cùng Ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở
trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho
các pháp thiền định, giãi thoát, vô lậu căn lực. Và lại ban cho thành
Niết Bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều
đặng vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.
“Văn Thù Sư Lợi! Như vua chuyễn luân thấy các binh
chúng, những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu
ở trong buối tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.
Đức Như Lai cũng như thế, làm vị Đại Pháp Vương trong
ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân hiền
Thánh cùng ma ngủ ấm, ma phiền não, ma chết đánh nhau có công
lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy, Như Lai cũng
rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bực”
Nhứt thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét, khó tin,
trước chưa từng nói mà nay nói đó.”
Đức Phật là một vị Đại Pháp Vương trong ba cõi, Ngài giảng
dạy và cảm hóa tất cả mọi chủng loại chúng sanh bằng pháp vi diệu.
Đức Phật là một vị Đại Y Vương, tùy theo bệnh của mọi
chủng loại chúng sanh mà cho thuốc uống trừ ba độc (tham, sân si).
Đức Phật là một vị Chuyễn Luân Thánh Vương, cầm quân ra
trận đánh bại lũ binh ma, và ban cho người thắng trận thành, ấp, xóm,
làng, ruộng, nhà, xe cộ, vàng bạc, pha lê, xa cừ, mả nảo, trân châu.
Riêng chỉ có viên minh châu trên đảnh vua là không ban cho.
Vì sao ? Vì chưa phải lúc vậy.
Dụ viên minh châu là dụ thứ sáu (từ phẩm một đến phẩm thứ
mười bốn). Viên minh châu đây ý nói là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, văn
từ ý tứ khó tin, khó hiểu, cho nên người đời sau mới đặt tên là Huyền
Nghĩa Pháp Hoa Kinh, hoặc là Mật Nghĩa Pháp Hoa Kinh, hoặc là Thâm
39 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nghĩa Pháp Hoa Kinh. Chính lúc đương thời của Như Lai còn nhiều kẻ
ghét ganh. Huống chi là…
Nhưng mà không sao! Trước khi Phật thuyết dụ viên minh
châu, Như Lai đã phán: Kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật
thuở quá khứ, hiện tại, vị lai giữ gìn. Kinh Pháp Hoa này trong vô lượng
cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà huống là đặng thấy
thọ trì, đọc tụng. Vậy mà ngày hôm nay chúng ta vô cùng hạnh phúc
được cầm trên tay quyển kinh Pháp Hoa, được thọ trì, đọc tụng, giải nói
thì còn gì bằng!
Viên minh châu trên đây là ngụ ý nói kinh Pháp Hoa. Đức
Phật biết là đã đến thời cơ ban kinh Pháp Hoa cho chúng sanh, vì chúng
sanh là những binh chúng, những người có công lớn đánh dẹp được giặt
ma, phá được lưới ma để vượt ra khỏi ba cõi, khiến cho tất cả chúng
sanh đều đến được bờ “Nhứt thiết chủng trí”.
Cuối cùng đức Phật phán cho ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
rằng
“Kinh Pháp Hoa này là lời nói bực nhứt của Như Lai, ở
trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức
mạnh kia, lâu gìn viên minh châu mà nay mới cho đó.
“Văn Thù Sư Lợi!Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của
các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bực trên hết, lâu
ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông
mà bày nói đó.”
Thế Tôn liền nói kệ rằng:
10.- Thường tu hành nhẫn nhục
Thương xót tất cả chúng
Mới có thể diễn nói
Kinh của Phật khen ngợi
40 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đời mạt thế về sau
Người thọ trì kinh này
Với tại gia, xuất gia
Và chẳng phải Bồ Tát
Nên sanh lòng từ bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin kinh pháp này
Thời là mất lợi lớn
Khi ta chứng Phật đạo
Dùng các sức phương tiện
Vì nói kinh pháp này
Làm cho trụ trong đó
Thí như vua Chuyễn Luân
Thánh vương có sức mạnh
Binh tướng đánh có công
Thưởng ban những đồ vật
Voi, ngựa và xe cộ
Đồ trang nghiêm nơi thân
Và những ruộng cùng nhà
Xóm, làng, thành, ấp thảy
Hoặc ban cho y phục
Các món trân báu lạ
Tôi tớ cùng của cải
Đều vui mừng ban cho
Nều có người mạnh mẻ
Hay làm được việc khó
Vua mới mở buối tóc
Lấy minh châu cho đó
Đức Như Lai cũng thế
Là vua trong các pháp
Nhẫn nhục sức rất lớn
Tạng báu trí huệ sáng
Dùng lòng từ bi lớn
Đúng như pháp độ đời
Thấy tất cả mọi người
41 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chịu các điều khổ não
Muốn cầu được giải thoát
Cùng các ma đánh nhau
Phật vì chúng sanh đó
Nói các món kinh pháp
Dùng sức phương tiện lớn
Nói các kinh điển đó
Đã biết loài chúng sanh
Đặng sức mạnh kia rồi
Rốt sau mới vì chúng
Nói kinh Pháp Hoa này
Như vua Thánh mở tóc
Lấy minh châu cho đó
Kinh này là bực tôn
Trên hết trong các kinh
Ta thường giữ gìn luôn
Chẳng vọng vì mở bày
Nay chính đã phải lúc
Vì các ông mà nói
Sau khi ta diệt độ
Người mong cầu Phật đạo
Muốn đặng trụ an ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thường gần gủi
Bốn pháp trên như thế.
GIỌT NƯỚC MẮT LÀNH.
Vua hỏi:
_ Bạch Đại Đức, người ta khi có cha mẹ chết thì ưu bi sầu khổ, gào
khóc thảm thê, nước mắt ràn rụa. Lại có người khi mới nghe được Pháp
Phật và nhờ đó mà tỉnh ngộ, cũng lại nước mắt đầm đìa, lệ tuông lã chã.
42 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ca hai trường hợp đều có lệ rơi. Vậy hai dòng lệ đó có khác gì nhau
không?
_Tâu Đại Vương, nước mắt tuông ra khi cha mẹ chết là nước mắt
của sầu ưu, khổ thống, do niệm ân ái gây nên. Đó là chất độc của ngu si
tiết rĩ ra. Còn nước mắt ứa trào khi nghe được pháp Phật là nước mắt của
lòng từ tâm, vì nhớ nghĩ đến đau khổ của thế gian mà tuông ra. Đây là
loại nước mắt an lạc, thanh tịnh. Cũng đồng thời là nước mắt, nhưng một
bên là nóng bức tật đố, một bên là mát mẻ an lành và tăng thêm phước
đức.
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo.
43 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT thứ mười lăm.
Trong phần giới thiệu kinh Diệu Pháp Liên Hoa trước đây,
chúng ta đã hiểu thế nào là đức Bổn Phật, thế nào là đức Tích Phật (Phần
thứ hai – Kinh Diệu Pháp Liên Hoa). Trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất
thứ mưới lăm, phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu, chúng ta sẽ thấy
trong kinh còn ẩn chứa nhiều Bổn Pháp và Tích Pháp.
Bổn pháp là giáo lý gốc của đức Phật, là pháp chơn chánh
của đức Phật, là môn triết lý tuyệt đối của Phật giáo, là môn học tâm linh
cứu độ hết thảy chúng sanh thoát vòng biển khổ, trầm luân.
Tích pháp là cấu trúc của chơn lý, là thể hiện sự cương quyết
tồn tại một tôn giáo sinh động nhập đời, xây dựng lại cuộc đời và làm
cho đời đẹp hơn, như hoa sen mọc từ trong bùn, vươn thẳng lên khỏi mặt
nước mà không hề nhiễm bùn. Đó mới chính là giáo thuyết của Diệu
Pháp Liên Hoa. Bây giờ chúng ta bắt đầu mở quyển kinh ra, phẩm
TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT THỨ MƯỜI LĂM để thấy toàn bộ tích pháp
tuyệt vời của phẩm kinh.
“1.- Lúc bấy giờ các vị Đại Bồ Tát ở các nước phương
khác, đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng, đứng
dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu bằng lòng
cho chuíng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi ta bà này siêng tu
tinh tấn, giữ gìn đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điễn này, thời
chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng nói đó.”
“Khi đó Phật bảo các chúng đại Bồ Tát: Thiện nam tử
Thôi đi Chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì cõi ta bà của
ta tự có chúng đại Bồ Tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông
Hằng. Mỗi vị Bồ Tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc, những
người đó có thể sau khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh
này.”
44 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy rằng đức Phật từ chối công
đức tình nguyện của chư vị Bồ Tát ở các phương khác đến cõi ta bà này,
phát nguyện nếu sau khi Phật diệt độ, các ngài sẽ thay Phật thọ trì, đọc
tụng, giải nói, biên chép kinh điển này. Số lượng tình nguyện của chư vị
Bồ Tát ấy đông bằng số cát của tám sông Hằng. Nhưng tại sao đức Phật
lại từ chối?
Mật nghĩa của đoạn kinh văn trên là hàm ý đức Phật muốn
cho tất cả số Bồ Tát ở trong cõi ta bà này, nhiều bằng số cát của sáu
muôn sông Hằng được phép đi thuyết pháp ở mười phương thế giới, mà
không chấp nhận Bồ Tát ở mười phương thế giới khác hành đạo ở cõi ta
bà. Là vì mục đích của Như Lai là dạy cho chúng sanh pháp môn tự lực
giải thoát. Trong kinh Pháp Hoa và kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật
nhiều lần nói đi nói lại tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Và tât cả
chúng sanh đều sẽ thành Phật. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh làm cản trở,
che áng trí huệ và phước đức cho nên không thấy được Phật tánh. Muốn
tự lực giải thoát thì phải làm sao cho trí huệ được sáng suốt, làm nhiều
điều thiện để tăng trưởng phước đức. Mình phải tự cứu sẽ có người khác
cứu mình. Tha lực sẽ vô ích nếu không cố gắng tự lực. Tự lực giải thoát
ở đây là phải tự mình tháo gở những gút phiền não, những gút khổ trược,
và còn phải biết cái gút nào mở trước, cái gút nào mở sau. Có nghĩa là
phải tự giải thoát mình trước rồi mới giải thoát tới người khác. Phải tinh
tấn tháo gút vô minh để đạt được trí huệ sáng suốt, phước đức thành tựu.
Tôi xin trích một câu chuyện mở gút trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm.
“Phật dùng khăn bảo hoa có thắt sáu gút để dạy đức A Nan
rằng: Sự diễn tiến của con đường giải thoát chỉ là việc tuần tự tháo gở
các gút nội tâm đó thôi. Những gút này là do chúng ta thắt lại vì bị vô
minh ám ảnh. Khi Phật lấy khăn bảo hoa thắt một gút và hỏi ngài A Nan
“Cái gì đây?”
Ngài A Nan trả lời: “Bạch Thế Tôn! Đó là khăn bảo hoa mà
Phật vừa thắt một gút.”
45 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật tiếp tục thắt gút thêm năm lần, và mỗi lần đều hỏi và
được đáp như nhau. Phật liền phán: “Khi ta thắt cái đầu tiên thì ông
bảo đó là gút. Khi ta thắt cái thứ hai thì ông cũng bảo đó là gút và ông
trả lời chỉ có một cách.”
Ngài A Nan không hiểu ý Phật muốn nói gì, rất phân vân nên
thưa rằng: “Phật thắt một gút hay cả trăm gút cũng vậy, tất cả đều là
gút, dầu cho khăn bảo hoa có nhiều màu sắc và được dệt nguyên thành
một dải.”
Phật biết A Nan chưa hiểu nên giảng rằng: “Dầu cho khăn
chỉ có một và tất cả các gút đều là gút, nhưng có một sự khác biệt, đó là
thứ lớp thắt gút, hay trật tự của các gút.”
Đồng thời Phật yêu cầu ngài A Nan tháo giúp, vì Phật lôi kéo
tứ phía nên các gút lại càng siết chặt thêm thay vì nới ra. Ngài A Nan
liền thưa rằng: “Con cần phải xem các gút thắt như thế nào cái đã.”
Phật dạy: “Đúng vậy! Ông phải biết việc đó trước. Vì ai mà
biết được duyên khởi của mọi sư sẽ hủy diệt được chúng. Nhưng ta hỏi
thêm một câu: “Vậy ông có thể tháo các gút cùng một lần không?” Ngài
A Nan trả lời: “Bạch Thế Tôn! Không. Vì các gút được thắt theo thứ tự,
con chỉ có thể tháo theo thứ tự lớp lớp ngược lại.”
Phật liền cho biết rằng sáu gút ấy là sáu căn. Nếu không lo
giải thoát những căn ấy trước mà lo giải những căn cao siêu hơn là làm
sai thứ lớp. Thay vì tháo nghiệp, chúng ta tự trói thêm vào.”
Bài giảng trên cho chúng ta thấy tích pháp nằm trong cái gút
chớ không phải khăn bảo hoa. Xin được tiếp tục phần kinh văn.
“2.- Lúc Phật nói lời đó, cõi ta bà, trong tam thiên đại
thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng nghìn
muôn ức vị đại Bồ Tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ Tát đó thân đều
sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trước
46 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đây đều ở dưới cõi ta bà này, cõi đó trụ giữa hư không. Các vị Bồ
Tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni Phật nên từ dưới
mà đến. Mỗi vị Bồ Tát đều là bực đạo thủ trong đại chúng, đều đem
theo sáu muôn hằng ha sa quyến thuộc. Huống là những vị đem năm
muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằng hà sa quyến
thuộc… Huống là những vị riêng mình ưa hạnh viễn ly, số đông vô
lượng, vô biên dường ấy, tính đếm thí dụ chẳng có thể hết được.
“3.- Các vị Bồ Tát đó từ dước đất lên, đều đến nơi tháp
đẹp bảy báu, chỗ của đức Đa Bửu Như Lai và đức Thích Ca Mâu Ni
Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế Tôn mà đầu mặt lại chân
Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cột cây báu,
cũng đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba vòng, chắp tay cung kính,
dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà ngợi khen Phật, rồi đứng
qua một phía, ưa vui chiêm ngưỡng hai đấng Thế Tôn. Từ lúc các vị
Bồ Tát từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà
khen ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu kiếp.
“Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật nín lặng ngồi yên
cùng hàng tứ chúng cũng đều nín lặng. Năm mươi tiểu kiếp vì do
sức thần của Phật, khiến hàng đại chúng cho là như nửa ngày.
“Bấy giờ hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy
các Bồ Tát đầy khắp vô lượng nghìn muôn ức cõi nước hư không.
“4.- Trong chúng Bồ Tát đó có bốn vị đạo sư:
1. Thượng Hạnh, (hạnh giải thoát của chư Phật).
2. Vô biên Hạnh, (hạnh ba la mật).
3. Tịnh Hạnh, (hạnh ly dục).
4. An Lập Hạnh, (hạnh diệt ngã tướng, chấp thủ).
“Bốn vị Bồ Tát này là bực thượng thủ Xướng đạo sư
trong chúng đó, ở trước đại chúng bốn vị đồng chắp tay nhìn đức
Thích Ca Mâu Ni Phật mà hỏi thăm rằng: Thưa Thế Tôn! Có được
47 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
ít bệnh, ít não, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ
chăng, chẳng làm cho đức Thế Tôn sanh mỏi nhọc chăng?”
Trước đây, phẩm Hiện Bửu Tháp thứ mười một, đức Phật Đa
Bảo Như Lai ở trong tháp báu từ dưới đất vọt lên giữa hư không để nghe
đức Phật Thích Ca thuyết Pháp Hoa kinh. Đến phẩm Tùng Địa Dũng
Xuất lại cũng nói hằng hà sa số chư vị Bồ Tát từ đất vọt lên. Vậy thì
chúng ta hiểu như thế nào?
Phật Đa Bảo Như Lai và chư vị Bồ Tát vì nghe kinh Pháp
Hoa nên từ dưới đất vọt lên trụ giữa hư không.
Đất ở đây tức là chữ địa. Người ta thường nói người làm ác
có “Tâm địa độc ác”, hoặc thấy có người ăn ở hiền lương, hay làm việc
thiện, người ta bảo người đó có “Tâm địa hiền lành”. Như vậy đất ở
đây phải hiểu như là cái tâm.
Từ khi sinh ra cho tới lúc chết, tâm chúng sanh thường chạy
theo vọng niệm, mỗi niệm lại sanh diệt không ngừng. Cho nên mới gọi
là “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là cái tâm chuyền nhảy như con vượn, hay
chạy dong ruỗi như con ngựa. Vì cái tâm không đứng yên một chỗ nên
khó điều phục. Do đó Phật mới dạy rằng: “Bất kỳ trong tình huống
nào (đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, nghĩ, hành động, lời nói)
cần phải giữ gìn cái tâm, đừng để nó chạy rong theo ngoại cảnh.”
Ở đây tâm của chư vị Bồ Tát đã điều phục được rồi, tức là sẽ
sinh ra trí huệ. Tâm của các ngài là tâm đại bi, vì các ngài đã tu pháp
môn Lục Độ, cho nên tâm sinh ra phước đức vô lượng. Mà cái tâm có trí
huệ, có phước đức tức là có Phật tánh. Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn
đức Phật dạy:
“Nếu có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ
trang nghiêm: Một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy
đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời biết Phật tánh.”
48 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bảo tháp (phẩm Hiện Bửu Tháp) là chỉ Phật tánh. Đức Đa
Bửu Như Lai là Chơn Lý Tuyệt Đối. Bởi vì y như lời đại nguyện của
Phật Đa Bửu Như Lai hồi còn tu hạnh Bồ Tát: “Nếu ta được thành
Phật, sau khi diệt độ trong cõi nước ở mười phương, có chỗ nào nói
kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi
trước để làm chứng minh khen rằng Hay thay! Hay thay!”
Trong kinh viết chư đại Bồ Tát từ các phương khác nhiều
hơn số cát của tám sông Hằng đến tại cõi ta bà này làm lễ Phật và xin
Phật nếu bằng lòng hãy để cho các ngài sẽ siêng tu tinh tấn, giữ gìn đọc
tụng, biên chép cúng dường kinh điển này, nhưng đức Phật từ chối lòng
tốt đó của các ngài. Lại còn khẳng định rằng trong cõi ta bà này hằng hà
sa số chư vị Bồ Tát còn đông hơn số cát của sáu muôn sông Hằng sẳn
sàng hộ trì, đọc tụng kinh điển này. Bây giờ chúng ta phải diễn giải từ
từ. (câu số 2)
Lúc Phật nói lời đó, cõi ta bà: (cõi ta bà có nghĩa là tâm địa
của chúng sanh);
Trong tam thiên, đại thiên cõi nước đất đều rúng nứt: (có
nghĩa là tâm đại bi của chư vị Bồ Tát đã khai thị);
Mà ở trong đó có vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ
Tát đồng thời vọt ra: (có nghĩa là đã tới lúc Phật tánh hiển lộ rỏ ràng);
Các vị Bồ Tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai
tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trước đây đều ở dưới cõi ta bà
này, cõi đó trụ giữa hư không (có nghĩa là các vị Bồ Tát trước khi
chứng đắc Phật trí, các ngài cũng là tâm địa chúng sanh, nhờ tinh tấn tu
hành pháp môn trí huệ phước đức mới được hiển lộ Phật tánh rỏ ràng,
các ngài có thể đi tới cảnh Phật trí. Bởi vì Khi còn mê thì Phật là chúng
sanh, và khi đã ngộ thì chúng sanh là Phật);
Các vị Bồ Tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni
Phật nên từ dưới mà đến (nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói
49 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
kinh Pháp Hoa ở cõi ta bà, tâm thức các ngài bổng nhiên đặng giải
thoát).
Phật tánh ở trong hằng hà sa số pháp, mà hằng hà sa số pháp
cũng chỉ nằm ở trong tự tánh. Đức Phật nói: Vì cõi ta bà của ta tự có
chúng đại bồ tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị
Bồ Tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc, những người đó có thể sau
khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này.
Cho nên khi tự tánh đã giác ngộ thời sẽ có vô lượng, vô biên
hằng hà sa chư vị Bồ Tát từ trong tâm thức xuất hiện trong hư không.
Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói: Muôn pháp đều ở nơi tự tâm.
Vậy sao chẳng tự trong tâm mình trực nhận ra bản tánh chân như?
Bồ Tát Giới Kinh nói: Tự tánh của ta vốn tự thanh tịnh. Nếu
biết tự tâm, thấy bản tánh, hết thảy đều thành Phật đạo.
Trong chúng Bồ Tát có bốn vị Xướng Đạo sư, là bực thầy hộ
trì kinh điển Diệu Pháp Liên Hoa. Người thứ nhứt tên là Thượng Hạnh:
có ý nghĩa là trí huệ quán xét, trong ngoài sáng rở, biết tự bản tâm, đã
đến cảnh Phật trí, sắp ngộ đạo Vô thượng Bồ đề. Người thư hai tên là Vô
Biên Hạnh: có ý nghĩa là trong ngoài chẳng trụ, qua lại tự do, trừ được
tâm chấp trước, thông đạt không ngại, là người đã thoát khỏi ba cõi, tu
hạnh Bồ Tát đạo. Người thứ ba tên là Tịnh Hạnh: có nghĩa là tâm địa của
Như Lai, là người dứt tuyệt phiền não, tam độc. Người thứ tư tên là An
Lập Hạnh, có nghĩa là thường làm mười điều thiện, là người hàng phục
được các chúng binh ma, phá lưới ma, dập tắt vọng tưởng, vượt ra khỏi
sinh tử, không còn luân hồi.
“5.- Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ Tát
mà nói rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Các Thiện nam tử! Đức Như Lai
an vui ít bệnh, ít não, các hàng chúng sanh hóa độ được dễ, không
có nhọc mệt.
50 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Vì sao? Vì các chúng sanh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được
ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các đức Phật quá khứ, cung kính,
tôn trọng, trồng các cội lành. Các chúng sanh đó mới vừa thấy thân
ta, nghe ta nói pháp, liền đều tín nhận, vào được trong huệ của Như
Lai, trừ người trước đã tu tập học hạnh tiểu thừa, những người như
thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong huệ của Phật.
“Khi đó, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ tát thượng
thủ: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Các ông có thể đối với đức
Như Lai mà phát lòng tùy hỷ.”
“6.- Bấy giờ ngài Di Lặc Bồ Tát cùng tám nghìn hằng hà
sa các chúng Bồ Tát đều nghĩ rằng: “Chúng ta từ xưa, nhẫn lại
chẳng thấy, chẳng nghe các đại chúng Bồ Tát mhư thế, từ dưới đất
vọt lên, đứng trước đức Thế Tôn, chấp tay cúng dường thăm hỏi
Như Lai.”
“Lúc đó ngài Di Lặc Bồ Tát biết tâm niệm của tám nghìn
hằng hà sa chúng Bồ Tát cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của
mình, bèn chấp tay hướng về phía Phật, nói kệ hỏi rằng:
Vô lượng nghìn muôn ức
Các Bồ Tát đại chúng
Từ xưa chưa từng thấy
Nguyện đấng Lưỡng túc nói
Là từ chốn nào đến
Do nhơn duyên gì nhóm
Thân lớn đại thần thông
Trí huệ chẳng nghĩ bàn
Chí niệm kia bền vững
Có sức nhẫn nhục lớn
Chúng sanh chỗ ưa thấy
Là từ chốn nào đến?
Mỗi mỗi hàng Bồ Tát
Đem theo các quyến thuộc
51 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Số đông không thể lường
Như số hằng hà sa
Hoặc có đại Bồ Tát
Đem sáu muôn hằng sa
Các đại chúng như thế
Một lòng cầu Phật đạo
Những đạo sư đó thảy
Sáu muôn hằng hà sa
Đều đến cúng dường Phật
Cùng hộ trì kinh này
Đem năm muôn hằng sa
Số này hơn số trên
Bốn muôn và ba muôn
Hai muôn đến một muôn
Một nghìn một trăm thảy
Nhẫn đến một hằng sa
Nửa và ba bốn phần
Một phần trong ức muôn
Nghìn muôn na do tha
Muôn ức các đệ tử
Nhẫn đến đem nửa ức
Số đông lại hơn trên
Trăm muôn đến một muôn
Một nghìn và một trăm
Năm mươi cùng một mươi
Nhẫn đến ba, hai, một
Riêng mình không quyến thuộc
Ưa thích ở riêng vắng
Đều đi đến chỗ Phật
Số đây càng hơn trên
Các đại chúng như thế
Nếu người phát thẻ đếm
Quá nơi kiếp hằng sa
Còn chẳng thể biết hết
Các vị oai đức lớn
52 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chúng Bồ Tát tinh tấn
Ai vì đó nói pháp
Giáo hóa cho thành tựu
Từ ai, dầu phát tâm?
Xưng dương Phật Pháp nào?
Thọ trì tu kinh gì?
Tu tập Phật đạo nào?
Các Bồ Tát như thế
Thần thông sức trí lớn
Đất bốn phương rúng nứt
Đều từ đất vọt lên
Thế Tôn! Con từ xưa
Chưa từng thấy việc đó
Xin Phật nói danh hiệu
Cõi nước của kia ở
Con thường qua các nước
Chưa từng thấy chúng này
Bèn chẳng quen một người
Thoạt vậy từ đất lên
Mong nói nhơn duyên đó
Nay trong đại hội này
Vô lượng trăm nghìn ức
Các chúng Bồ Tát đây
Đều muốn biết việc này.
“7.- Khi ấy các vị Phật của đức Thích Ca phân thân, từ vô
lượng nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng
trên tòa sư tử, dưới cội cây báu, nơi trong tám phương. Hàng thị giả
của Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát ở bốn phương cõi tam thiên
đại thiên, từ đất vọt lên trên hư không, đều bạch với Phật mình
rằng: “Thế Tôn! Các đại chúng vô lượng vô biên a tăng kỳ Bồ Tát
đó, từ chốn nào mà đến?”
“Lúc ấy các đức Phật đều bảo với thị giả: “Các Thiện
nam tử! Hãy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ Tát tên là Di Lặc, là vị
53 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc
đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhơn đây mà được nghe.”
“8.- Bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Di Lặc
Bồ Tát: “Hay thay! Hay thay! A Dật Đa! Bèn có thể hỏi Phật việc
lớn như thế, các ông phải chung một lòng mặc giáp tinh tấn, phát ý
bền vững. Nay đức Như Lai muốn hiễn phát tuyên bày trí huệ của
các đức Phật, sức sư tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức oai thế
mạnh lớn của các đức Phật.
“9.- Nay ta ở trong đại chúng này, tuyên bảo các ông A
Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát vô lượng vô số a tăng kỳ, từ dưới đất
vọt lên mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi ta bà lúc
đặng Vô thương Chánh đẳng Chánh giác rồi, giáo hóa chỉ dẩn các
Bồ Tát đó, điều phục tâm kia khiến phát đạo tâm.
“Các vị Bồ Tát đó ở giữa cõi ta bà, cõi đó trụ giữa hư
không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy gẫm rỏ hiểu,
nghĩ tưởng chơn chánh. A Dật Đa! Các Thiện nam tử đó chẳng
thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa ở chỗ vắng, siêng tu
tinh tấn, chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người, trời mà
ở, thường ưa trí huệ sâu, không có chướng ngai, cũng thường ham
nơi pháp của đức Phật, chuyên lòng tinh tấn, cầu huệ vô thượng.”
“10.- Lúc bấy giờ ngài Di Lặc Đại Bồ Tát cùng vô số
chúng Bồ Tát, lòng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ
rằng: “Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có thể
giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó, làm cho trụ
nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. “Liền bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Đức Như Lai lúc làm Thái Tử rời khỏi cung dòng Thích,
ngồi nơi đạo tràng cách thành Già Da chẳng bao xa, đặng thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi
năm, đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó làm nên Phật
sự lớn. Do thế lực của Phật? Do công đức của Phật? Giáo hóa vô
54 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lượng chúng Bồ Tát lớn như thế sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác?
“Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát này giả sử có người trong
nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng đặng ngằn mé, chúng
đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội
lành, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu phạm hạnh.
“Thế Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người
sắc đẹp tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con
của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ
nuôi ta thảy, việc đó khó tin, đức Phật cũng như thế.
“Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu
mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở nơi vô lượng nghìn muôn ức kiếp,
vì Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô lượng
nghìn muôn ức tam muội, đặng thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh
đã lâu, khéo hay thứ đệ, tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp là báu
quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.
“Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc đặng Phật đạo, bắt
đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy, dìu dắt, làm cho kia
hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành
Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công đức lớn này.
“Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời
Phật nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt,
nhưng các Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời
này, hoặc chẳng tin nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp phá chánh
pháp.
“Kính thưa Thế Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng
nghi của chúng con, và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi
cũng chẳng sanh nghi. Lúc đó ngài Di Lặc muốn tuyên lại nghĩa trên
mà nói kệ rằng:
55 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
11.- Phật xưa từ dòng Thích
Xuất gia gần Già Da
Ngồi dưới cây bồ đề
Đến nay còn chưa xa
Các hàng Phật tử này
Số đông không thể lường
Lâu đã tu Phật đạo
Trụ nơi sức thần thông.
Khéo học đạo Bồ Tát
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Từ đất mà vọt ra
Đều sanh lòng cung kính
Đứng nơi trước Thế Tôn
Việc đó khó nghĩ bàn
Thế nào mà tin được
Phật đặng đạo rất gần
Chỗ thành tựu rất nhiều
Mong vì trừ lòng nghi
Như thiệt phân biệt nói
Thí như người trẻ mạnh
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người trăm tuổi già
Tóc bạc và mặt nhăn
“Bọn này của ta sanh”
Con cũng nói là cha
Cha trẻ mà con già
Mọi người đều chẳng tin
Thế Tôn cũng như thế
Đặng đạo đến nay gần
Các chúng Bồ Tát này
Chí vững không khiếp nhược
Từ vô lượng kiếp lại
Mà tu đạo Bồ Tát
56 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Giỏi nơi gạn hỏi đáp
Tâm kia không sợ sệt
Nhẫn nhục lòng quyết định
Đoan chánh có oai đức
Mười phương Phật khen ngợi
Khéo hay phân biệt nói
Chẳng thích ở trong chúng
Thường ưa ở thiền định
Vì cầu Phật đạo vậy
Trụ hư không phương dưới
Chúng con từ Phật nghe
Nơi việc này không nghi
Nguyện Phật vì người sau
Diễn nói khiến rỏ hiểu
Nếu người ở kinh này
Sinh nghi lòng chẳng tin
Liền phải đọa đường dữ
Mong nay vì giải nói
Vô lương Bồ Tát đó
Thế nào thời gian ngắn
Giáo hóa khiến phát tâm
Mà trụ bực bất thối?”
BA ĐIỀU KHÓ TIN.
Trong các chúng đại Bồ tát, có ngài A Dật Đa làm đầu, thấy
vô lượng các Bồ Tát từ dưới đất vọt lên cõi hư không, vô cùng ngạc
nhiên, cho nên liền bạch Thế Tôn về những điều nghi hoặc của mình và
cũng là điều nghi hoặc của chư Bồ Tát.
1-/ Từ lúc Như Lai làm Thái Tử, rời khỏi cung dòng Thích, ngồi
nơi đạo tràng, đặng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ hơn
57 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
có bốn mươi năm, làm sao có điều kiện để giáo hóa các chúng Bồ Tát
đặng đạo Vô thượng Bồ đề? Đó là điều khó tin thứ nhứt.
2-/ Các chúng Bồ Tát này là bực thượng thủ xướng đạo sư đông vô
xiết kể. Thường trồng các cội lành, phẩm hạnh cao quí, thành tựu đạo Bồ
Tát? Đó là điều khó tin thứ hai.
3-/ Chẳng khác nào người tóc đẹp tuổi xanh chỉ người trăm tuổi
bảo đó là con ta, còn người trăm tuổi chỉ người mới hai mươi lăm bảo đó
là cha ta. Cha trẻ mà con già. Sao lại như vậy? Đó là điều khó tin thứ ba.
Để gỉai thích phần này xin được trích ra đây những lý giải
trong “Tư tưởng kinh Pháp Hoa” của hòa thượng Thích Chơn Thiện:
“Bồ Tát Di Lặc đã giác ngộ Phật trí, đã rỏ công việc giáo
hoá của Thế Tôn, nhưng biểu lộ sư kinh ngạc trước sự kiện “Vọt mạnh
ra từ lòng đất” của chư đại Bồ Tát chỉ là để gây sự chú ý cho hàng thính
chúng hướng tâm về sự kiện này.
“Bồ Tát thắc mắc tại sao trong khoảng thời gian rất ngắn từ
ngày thành đạo đến nay (chỉ hơn bốn mươi năm trần thế) mà Thế Tôn
lại có thể giáo dục thành tựu đến vô số đại Bồ Tát như vậy, trong khi
các Bồ Tát đó phải cần đến khoảng thời gian dài, nhiều tiểu kiếp mới có
thể tu tập thành tựu tuệ giác tối thượng.
“Hình ảnh Tùng Địa Dũng Xuất kia vốn tự nó là một bài
pháp về thực tướng, về diệu dụng của thực tướng rồi. Đó là câu trả lời!
“Bất cứ thắc mắc nào về thực tướng, tương tự như thắc mắc
của Di Lặc vừa nêu, đều là sản phẩm của ngã tướng. Vướng vào ngã
tướng ấy thì thính chúng không thấy thực tướng hiển bày như chính nó
đang là. Nếu sống nắm giữ cái khái niệm về thực tướng trong tâm tưởng
mình thì tâm sẽ khởi lên nghi vấn về sự khác biệt giữa thực tướng và
khái niệm về thực tướng.
58 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Thế Tôn chỉ xác nhận đó là sự việc như thật. Lời xác nhận
ấy trước hình ảnh thực tướng “Tùng địa dũng xuất“ như là sức mạnh có
thể dập tắt hết thảy ngã tưởng về ngã tướng (tưởng thủ uẩn). Nếu ai giựt
mình buông bỏ ngã tưởng mà nhìn sự kiện kia thì bừng ngộ ngay. Nếu
còn nắm chặt ngã tưởng để nhìn sự kiện thì thắc mắc còn trổi dậy.
“Phải chăng do vì tự tánh của Đất, Bồ Tát… và hết thảy
pháp là vô tự tánh nên chúng tự tại dung nhiếp nhau? Phải chăng thời
gian là vô tự tánh nên bốn mươi năm trần thế không ngắn hơn vô lượng
kiếp của Bồ Tát? Phải chăng các vọng tâm là vô tự tánh nên tự chúng
đã là pháp tính, nếu tâm người nhìn không vướng vào ngã tưởng?
“Thấy được lẽ đó thì liền ngộ thực tướng và biết rỏ con
đường thể nhập thực tướng, và có thể tức thì thể nhập thực tướng.
“Vì thế mà đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Di Lặc rằng:
“Thời gian chư vị Bồ Tát kia đảnh lễ và xưng tán chư Phật
non nửa ngày trần gian, nhưng thực sự đã trải qua hơn năm mươi tiểu
kiếp. Và, việc giới thiệu thành quả hóa độ vô số đại Bồ Tát ở trên từ sau
ngày Thế Tôn thành đạo là sự biểu hiện uy lực, thần thông và trí tuệ của
Như Lai đó vậy.”
“Chỉ có một lằn ranh rất mỏng manh giữa ngã tưởng và
chánh tưởng vô ngã (hay giác tưởng vô ngã) mà đã tạo ra khoảng cách
xa vô cùng giữa chánh và tà, giữa sinh tử và niết bàn, giữa thánh và
phàm, giữc vọng và chân.
“Lằn ranh đó cũng chỉ do khái niệm lập ra. Đó là khoảng
cách giữa những người chưa giác ngộ với Diệu pháp.”
Đã đến lúc đức Phật phải biểu hiện thần thông, uy lực và trí
huệ cho hết thảy chúng sanh trong cõi ta bà này chiêm ngưỡng, tán thán
và ngợi khen, cho nên thời gian năm mươi tiểu kiếp dành cho các đại
chúng Bồ Tát đi nhiễu quanh hai đấng Thế Tôn chỉ thu ngắn lại có nửa
59 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
ngày trần thế. Với thần thông như vậy thì hơn bốn mươi năm đức Phật
thuyết pháp độ sanh, thời gian đó cũng tương đương với cõi tam thiên
đại thiên thế giới.
Một ngàn tiểu thế giới bằng một tiểu thiên thế giới.
Một ngàn tiểu thiên thế giới bằng một trung thiên thế giới.
Một ngàn trung thiên thế giới bằng một đại thiên thế giới.
Một đại thiên thế giới nhân lên cho ba loài hửu tình thế gian,
vô tình thế gian và khí thế gian sẽ có một đại thiên tam thiên thế giới,
tức là bằng một tỷ tiểu thế giới, là những thế giới nằm trong cõi ta bà
này, dưới quyền hóa độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu nghĩ đến uy
lực của đức Phật, nghĩ đến thần thông của đức Phật, nghĩ đến trí huệ của
đức Phật, thì số lượng đại chúng Bồ Tát trên, đông bằng số cát của sáu
muôn sông Hằng là có thật, các vị đó là đệ tử của Phật, được Phật hóa độ
và chứng đắc đến bực Phật trí.
Nghe kinh mà lòng không thanh tịnh, để tâm rối loạn sẽ bị rơi
vào ngã tướng, thì làm sao thấy được thực tướng. Như vậy ba điều khó
tin trên đây cần sớm được giải nghi. Đừng để lòng tin làm xoáy mòn tâm
thức.
Trong kinh Kim Cang, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: “Nếu qua
đời vị lai, năm trăm năm sau, có chúng sanh đặng nghe kinh này, tin
hiểu mà thọ trì thì người ấy thiệt là đệ nhất rất ít có. Bởi cớ sao? Bởi
người ấy không ngã tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả
tướng. Ngã tướng tức chẳng phải tướng, mà nhơn tướng, chúng sanh
tướng, thọ giả tướng cũng tức là chẳng phải tướng. Lìa cả thảy tướng
tức là chư Phật.”
Thật tướng là tướng chân thật, cũng là Bình đẳng nhất tướng.
Thật tướng tức là vô tướng, nhưng chẳng phải là bất tướng.
Có tướng mà vô tướng nên gọi là thật tướng.
Vô tướng là lìa các thảy tướng hư vọng, nên còn gọi vô tướng
chính là ly tướng. Tại sao lại gọi là ly tướng ? Một ví dụ dể hiểu : Ta
60 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dùng vàng ròng chế tác ra các món vòng, xuyến, cà rá, nhẫn, dây
chuyền, bình, chén, tượng v.v… Vàng ròng đây là chỉ thật tướng đem
chế ra nhiều món sai biệt khác nhau, tên gọi khác nhau, giá trị khác
nhau. Bây giờ ta lại đem các vật đó bỏ vào nồi nung chảy ra, tất cả đều
trở lại thành vàng ròng như ban đầu. Các chế tác vốn là tướng sai biệt
đều bị tiêu diệt hết, vì đó là ly tướng, là hư vọng, nhưng bản thể các vật
là vàng ròng là bình đẳng nhất tướng, bất sanh, bất diệt, chẳng tăng,
chẳng giảm.
PHẬT TÁNH CÓ HAY KHÔNG CÓ? (Trích phẩm Như Lai Tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn)
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi có
ngã cùng chăng?”
Phật dạy: “Này Thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai
tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của
ngã như vậy, từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế
nên chúng sanh chẳng nhận thấy được.
Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng,
tất cả người nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết
phương tiện bảo cô gái nghèo: “Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi”
Cô gái liền đáp: “Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi
sẽ dọn cỏ rác cho ông.”
Người khách nói: “Tôi biết cách thức, có thể chỉ kho vàng
cho cô.”
Cô gái nói: “Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được,
huống là ông mà có thể biết!”
61 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Khách lại nói: “Nay tôi có thể biết chắc chắn.”
Cô gái nói: “Tôi gắp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi.”
Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng.
Cô gái thấy kho vàng ròng rất vui mừng, ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng
người khách.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy,
tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho
vàng mà chẳng biết. Hôm nay, ta chỉ bày Phật tánh của tất cả chúng sanh
hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia, trong nhà sắn có
kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như Lai chỉ bày kho
báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật tánh. Chúng sanh thấy
được tánh này lòng rất vui mừng quy ngưỡng đức Như Lai.
Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Như Lai, cô gái
nghèo dụ cho vô lượng chúng sanh, kho vàng ròng dụ cho Phật tánh.
Này thiện nam tử! Ví như cô gái sanh một trai. Trẻ này mắc
bịnh, cô gái buồn rầu tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bịnh, dùng ba thứ bơ, sửa,
đường phèn hiệp lại bảo cho đúa trẻ uống. Y sĩ dặn cho cô gái, đứa trẻ
sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải chờ thuốc tiêu hóa rồi mới được
cho bú.
Cô gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa trẻ: “Vú
của mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ chạm đến.”
Đức bé đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn
chẳng dám gần. Thời gian sau, thuốc uống đã tiêu hóa, người mẹ lấy
nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú.
Lúc đó, đứa trẻ mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên
chẳng dám đến bú.
62 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Người me bảo: “Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng
thoa trên vú. Thuốc con uống đã tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch,
giờ đây con có thể đến bú không hại gì.”
Đứa trẻ nghe mẹ bảo lần lần đến bú.
Này Thiện nam tử! Đức Như Lai cũng vậy. Vì độ tất cả
chúng sanh nên dạy tu pháp vô ngã. Nhờ tu pháp đó, dứt hẳn tâm chấp
ngã, được nhập Niết bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời, nên thị hiện
pháp xuất thế gian. Lại chỉ rỏ quan niệm chấp ngã của người đời là hư
vọng chẳng phải chơn thật, nên dạy tu pháp vô ngã để được thân thanh
tịnh.
Như cô gái kia chửa bịnh cho con, nên lấy chất đắng thoa
trên vú. Cũng vậy, đức Như Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp
đều không có ngã. Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng
vậy, đức Phật hôm nay nói Như Lai tạng. Vì thế nên các tỳ kheo chớ có
sanh lòng kinh sợ. Như đứa trẻ kia, nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng
vậy, các tỳ kheo nên tự phân biệt Như Lai tạng, chẳng được, chẳng có.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Thiệt không có ngã. Vì
lúc đứa trẻ mới sanh không hiểu biết. Nếu mà có ngã thì ngày mới sanh
lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩ này nên định biết là không ngã. Nếu qui
định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không
hư hoại sao lai có Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Chiên Đà La, (94)
Súc Sanh v…v… sai biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên
chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả
chúng sanh lẽ ra không hơn kém.
Do những nghĩa trên đây nên định biết Phật tánh chẳng phải
là pháp thường trụ.
63 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nếu cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do
duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưõng thiệt, ác khẩu,
vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến.
Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rượu lại say
mê.
Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc
lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.
Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng cần tránh hầm lửa,
nước lụt, thuốc độc, đao gươm, kẻ ác, thú dữ.
Nếu ngã là thường trụ thời những việc đã từng nghe thấy lẽ
ra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói: tôi đã từng thấy người này
ở chỗ đó.
Nếu ngã là thường trụ thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu,
tráng niên, lão thành v…v… lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu
cùng nhớ đến việc đã qua.
Nếu ngã là thường trụ, thời nó ở chỗ nào? Nó ở trong nước
mủi, nước miếng hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư?
Nếu ngã là thường trụ, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu
mè không chỗ hở trống.
Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị
đứt!”
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ví như nhà vua có
đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ này cùng
người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong
da. Nơi đó thành vết thương, liền nhờ y sĩ cứu chữa.
Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào khuất
dưới da. Y sĩ hỏi lực sĩ: “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?”
64 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lực sĩ kinh hãi đáp: “Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi
ư? Nó rơi rớt ở đâu?” Nói xong lo rầu khóc lóc.
Y sĩ an ủi: “Nay ông chẳng nên buồn khổ, vì lúc ông đánh
vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngoài. Lúc các
ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà
chẳng hay biết.”
Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng: “Nếu hột châu ở
dưới da, máu mủ chảy tuôn, cớ sao hột châu chẳng trồi lên? Còn nếu
hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta
chăng?”
Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực sĩ. Hột châu kim
cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy ngạc nhiên mừng rở.
Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì
không được gần gủi bực thiện tri thức, dầu có Phật tánh mà đều không
nhận thấy. Bị tham, sân, si, che đậy, vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh,
ngạ quỉ, a tu la, chiên đà la, sát đế lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà. Sanh vào
trong các dòng đó, nhơn tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu
được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ các
quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si che lấp bổn tâm nên
chẳng biết Phật tánh. Như lực sĩ kia, hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã
mất.
AI TRUYỀN GIỚI CHO PHẬT?
Vua hỏi:
_ Bạch Đại Đức, hẳn là Phật phải có biết rồi mới theo đó mà phụng
hành giới luật chớ?
_ Tâu Đại Vương! Vâng.
_ Ai là Thầy truyền giới cho Phật?
65 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
_ Phật không có Thầy. Ngài không học với ai hết. Ngài tự mình tu
học cho đến khi đắc đạo dưới gốc cây bồ đề, thì hoát nhiên đại ngộ mà
tự biết các giới luật. Ngài không giống như các đệ tử của Ngài phải học
nơi Ngài rồi mới biết mà phụng hành cho đến già. Vì vậy Phật mới là
bực VÔ THƯỢNG GIÁC VƯƠNG.
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo
THỜI GIAN.
Vua hỏi:
_ Bạch Đại Đức, Đại đức vừa nói thời gian dài vô cùng vô tận, vậy
thời gian là gì?
_ Quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá khứ dài vô cùng vô tận. Vị lai
cũng dài vô cùng vô tận. Chỉ hiện tại là không dài.
_ Xét cho cùng lý, có thời gian hay không?
_ Có khi có, có khi không.
_ Khi nào thì có, và khi nào thì không?
_ Với những vị tu hành đắc đạo vào Niết Bàn thì không có thời
gian. Với những kẻ chưa đắc đạo còn vào ra trong vòng sanh tử, thì còn
có thời gian. Khi thời gian còn có, thì nếu đời này thích làm việc bố thí
và ăn ở hiếu thuận với cha mẹ, đời sau hẳn được hưởng phước báo.
_ Nguồn gốc của thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai là gì?
_ Ay là cái ngu si mê muội sanh ra nên liền sanh thần, thần sanh
thân, thân sanh danh, danh sanh sắc, sắc sanh lục trí (tức sáu cái biết):
một là biết của mắt, hai là biết của tai, ba là biết của mũi, bốn là biết của
lưởi, năm là biết của thân, sáu là biết của tâm. Cả sáu cái biết này đều
66 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hướng ngoại. Mắt hướng sắc, tai hướng thanh, mũi hướng hương, lưởi
hướng vị, thân hướng trơn nhám, tâm hướng tham dục. Liền hướng đến
là liền hiệp lại mà biết khổ biết vui. Do biết khổ biết vui mới sanh ân ái.
Do ân ái sanh tham dục. Do tham dục mới hình thành cái nguyên nhơn
tái sanh (hửu). Do tái sanh nên có già, chết, khóc lóc, lo rầu, khiến nội
tâm bi thống. Tất cả những cần khổ, bi thống ấy hiệp lại mà thành con
người. Vì vậy mà con người chết đi, sanh lại hết đời này sang đời khác,
không bao giờ chấm dứt. Trong thời gian dài vô tận và không thể phanh
ra đầu mối ấy, tìm trở lại cái bản thân trước kia của con người, quả thật
là một việc bất khả đắc.
_ Bạch Đại đức, Đại đức vừa nói không thể phanh ra đầu mối của
thời gian, vậy xin ví dụ cho nghe.
_ Như trong việc trồng lúa. Hột lúa gieo xuống đất, tự nó nẩy
mầm, đâm rễ, lên cây, trổ lá, đâm bông, ngậm sửa, phơi mao, kết hột.
Hột lúa mới gieo trở lại xuống đất, sanh ra những hột lúa mới khác nữa.
Nếu cứ gieo trồng như thế hết năm này sang năm khác, sự liên tục của
hột lúa có khi nào ngưng nghĩ được không?
_ Không.
_ Con người sanh ra qua thời gian cũng như vật đó. Trước sau triễn
chuyễn tương sanh không dứt. Trong dòng kiết sanh tương tục ấy, tìm
cho ra đầu mối sanh tử là một việc bất khả đắc.
_ Xin cho ví dụ khác.
_ Ví như gà đẻ trứng. Trứng gà ấp nở ra gà con. Gà con lớn lên lại
đẻ trứng mới, lại nở gà con. Từ trứng nở ra gà, từ gà đẻ lại trứng, cứ thế
tiếp tục mãi không bao giờ ngừng. Con người sanh ra rồi lại chết đi, chết
xong lại sanh trở lại, lộn lui lộn tới trong vòng sanh tử, cũng giống như
thế, không thể nói đâu là đầu mối, nói đâu là tận cùng.
_ Xin cho ví dụ khác.
67 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Na Tiên cúi xuống vẻ một hình bánh xe dưới đất, rồi chỉ vào
hình vẻ mà hỏi vua rằng:
_ Trên cái vòng tròn này, Đại vương có thấy đâu là điểm bắt đầu
không?
_ Thưa không.
_ Cũng như thế đó. Trong vòng sanh tử không thể nào biết được
đâu là thủy, đâu là chung. Phật dạy rằng: con người sanh tử, tử sanh, lộn
đi, lộn lại, lộn tới, lộn lui như bánh xe lăn, triễn chuyễn tương sanh,
không bao giờ dừng nghĩ, bởi thế mà đau khổ kéo dài mãi chẳng bao giờ
ngừng. Tạng Luận giải thích việc này như sau:
Do con mắt và hình sắc tiếp giáp nhau nên thức liền thấy
biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có xúc nên mới có cảm thọ khổ
vui. Bởi cảm thọ khổ vui nên sanh ra ân ái. Bởi ân ái nên sanh ra tham
dục. Bởi tham dục nên một nghiệp mới được un đúc và hình thành dần
dần: đó là hửu. Bởi hửu nên mới có sanh. Bởi có sanh nên mới có các
việc làm thiện ác. Rồi do các việc làm thiện ác cho nên mới phải tái sanh
trở lại để thọ báo.
Do lỗ tai và âm thanh tiếp giáp nhau nên thức liền nghe biết.
Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có xúc nên mới cảm thọ khổ vui như
trên và cũng trước sau tiếp nối nhau cho đến quả tái sanh.
Cũng giống như thế, với mũi và hương, lưởi và vị, thân và
vật trơn nhám, ý và điều nhớ nghĩ. Và hể có cảm thọ khổ vui thì có tác
động dây chuyền đưa đến quả tái sanh. Tất cả đều triễn chuyễn tương
sanh và trước sau tương tục, không bao giờ dứt nghĩ.
Cho nên trong thời gian dài dằng dặc, tìm cho ra đầu mối của
sanh tử là một việc bất khả đắc.
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo.
68 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Sự tích NÀNG SỰ PHỤ. (Chuyện khởi đầu từ trên cung trời Đao Lợi)
Thuở ấy trên cõi trời Đao Lợi có vị Thiên tử tên là Hoa
Quang (Mãlãbhãrĩ) dắt theo hàng ngàn ngọc nữ ngự du trong vườn
thượng uyển. Năm trăm thiên nữ trèo lên cây hái hoa ném xuống, năm
trăm ở dưới nhặt hoa đi trang điểm cho Thiên tử. Trong số thiên nữ leo
cây, có một nàng đang ngồi trên nhánh cây vừa hết tuổi thọ, ngọc thể
của nàng biến mất cũng như ngọn đèn vụt tắt. Tâm thức nàng thọ sanh
vào một gia đình khá giả trong thành Sãvatthĩ.
Khi ra đời nàng nhớ lại tiền kiếp trước kia: “Mình trước kia
là ái thiếp của Thiên tử Hoa Quang trên cung trời Đao Lợi.” Nên càng
lớn khôn, nàng đã bắt đầu dâng cúng hương hoa, lễ vật nguyện cầu được
siêu sanh trở về đoàn tụ với lang quân.
Lúc mười sáu tuổi nàng xuất giá, từ đó nàng siêng năng làm
phước cúng dường thực phẩm đến chư Tăng bằng những cách thông
thường như để bát chư tỳ khưu mà nàng rút thẻ bắt thăm được, trai tăng
ngày rằm và ngày ba mươi, hoặc hộ tăng trong ba tháng hạ. Và phát
nguyện rằng: “Xin cho sự phước thí này hãy là món duyên lành, giúp
cho con được tái sanh hội hiệp với người chồng Thiên tử ở cung trời
Đao Lợi.”
Chư tỳ khưu nghe nàng ước nguyện như thế, sáng chiều
hướng tâm đến người chồng Thiên tử, nên đã đặt cho nàng biệt hiệu là
nàng Sự Phụ (Patipũjikã). Nàng luôn chăm nom ngôi tọa đường, lo việc
dâng nước và sắp đặt chỗ ngồi. Những thiếu nữ khác khi muốn cúng
dường trai tăng cũng thường nhờ cậy nàng cho mượn chỗ và phụ tiếp
công nữa, hoặc đưa vật thực đến mượn nàng thay mặt để lo hộ độ chư
Tăng nơi ngôi tọa đường. Cứ mỗi bước đến ngôi tọa đường, nàng Sự
Phụ có được năm mươi sáu thiện pháp đều đều như vậy.
69 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nàng thọ thai mười tháng thì sanh được đứa con trai. Khi đứa
con đầu lòng biết đi, nàng sanh thêm một đưa kế, và cứ thế nàng hạ sanh
được bốn đứa con trai.
Thế rồi một hôm sau khi bố thí, cúng dường, thính pháp, thọ
giới, đến cuối ngày nàng tự nhiên lìa bỏ cõi đời mặc dù không đau bịnh
chi hết. Hồn nàng siêu sanh về tái hội với chồng Thiên tử. Khi ấy các
thiên nữ vẫn còn đang trang điểm cho Thiên tử.
Thiên tử hỏi: “Từ sáng đến giờ không ai thấy nàng, vậy nàng
đi đâu?”
“Thưa chàng, thiếp đã mệnh chung.”
“Nàng nói thật chứ?”
“Vâng! Quả đúng như thế! Thưa chàng.”
“Nàng sanh về đâu?”
“Dưới cõi ta bà trong một gia đình khá giả, thành Sãvatthĩ.
“Nàng ở đó bao lâu?”
“Ở trong bụng mẹ mười tháng thì ra đời, đến năm mười sáu tuổi
thì xuất giá, sanh được bốn con trai, rồi làm phước cúng dường và ước
nguyện được trở về với chàng. Nên giờ đây mới được thọ sanh về đây đó
chàng.”
“Tuổi thọ nhơn loại là bao nhiêu?”
“Lối một trăm năm.”
“Chỉ có bấy nhiêu ư?”
“Vâng! Thưa chàng.”
“Sanh làm con người chỉ có bao nhiêu tuổi thọ như thế, họ lại ăn
ngủ buông lung, để mặc thời gian trôi qua hay là họ cúng dường làm
phước vậy?”
“Thưa chàng! Chàng nói chi chuyện làm phước, người đời họ luôn
luôn dể duôi, buông tuồng, y như là họ sống đến hết a tăng kỳ kiếp,
không già không chết vậy.”
70 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nghe đến đây một mối kinh cảm phát sinh lên trong lòng
Thiên tử Hoa Quang. Ngài nghĩ thầm: “Sanh làm người chỉ sống có một
trăm tuổi thọ, thế mà họ vẫn sống buông lung, ăn ngủ mãi, thì biết bao
giờ họ mới thoát khổ!
Ở thiên giới, một ngày đêm ở cõi Đao Lợi này bằng một trăm
năm cõi nhơn loại. Cứ ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng
là một năm. Tuổi thọ nơi Đao Lợi Thiên cung là một ngàn tuổi, tính ra
so với tuổi nhơn loại là ba mươi sáu triệu năm. Bởi thế nàng thiên nữ khi
thác xuống cõi người rồi trở về Thiên cung chưa đến một ngày. Coi như
mới đi trong chốc lát vậy.
71 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG thứ mười sáu.
“1.- Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng:
“Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật
của Như Lai.”
“Lại bảo đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc
thật của Như Lai.”
“Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói
chắc thật của Như Lai.”
Phải ba lần, đức Thế Tôn lập đi lập lại chỉ một câu nói. Bấy
giờ toàn thể thính chúng trong đạo tràng nín lặng để chờ nghe lời giải
đáp của Phật. Chúng ta thấy đức Phật thể hiện lòng từ với chư Bồ Tát và
toàn thể đại chúng như thế nào. Và ở đây chúng ta cũng thấy đức Di Lặc
Bồ Tát đeo đuổi mục đích hoài nghi, phải ba phen cầu thỉnh đức Thế
Tôn, ngài Di Lặc chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Cúi mong nói đó,
chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”
Như Lai liền giải đáp chỗ nghi của ngài Di Lặc và đại chúng
Bồ Tát trong phẩm “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”
“2.- Bấy giờ đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát ba phen thỉnh
chẳng thôi, mà bảo đó rằng: “Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần
thông của Như Lai, tất cả trong đời, trời, người và a tu la đều cho
rằng nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách
thành Già Da chẳng bao xa ngồi nơi đạo tràng đặng Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
“Nhưng thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây
đã vô lượng, vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp. Ví như
năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên đại
thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương đông, cách
72 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một
bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.
“Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể
suy gẫm so tính biết được số đó chăng?
“Di Lặc Bồ Tát thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các
thế giới đó vô lượng, vô biên, chẳng thể tính được, đếm được, cũng
chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác
dùng trí vô lậu. Chẳng có thể suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng
con trụ bực bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.
“Thế Tôn! Các thế giới đó nhiều vô lượng, vô biên.”
“3.- Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ Tát: “Các thiện nam
tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành rỏ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc
dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần
là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó
trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta
thường ở cõi ta bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn
muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng
sanh.
“Các thiện nam tử! Nơi chặn giữa đó, ta nói Phật Nhiên
Đăng, và lại có các đức Phật nhập Niết bàn, như thế đều là dùng
phương tiện để phân biệt.”
Trong kinh đức Phật thường hay nói hai tiếng vi trần, tức là
nói con số rất nhiều, không thể đếm được, chỉ cảm thọ mà nhận biết. Vi
trần ở đây cũng nói lên một con số, còn chấp con số tức là còn vọng
niệm, còn vọng niệm thì chẳng phải là thiệt tướng. Tam thiên đại thiên
thế giới cũng chẳng phải là thiệt tướng, chỉ là một cách diễn tả con số vô
lượng vô biên. Một tam thiên đại thiên thế giới gồm có bốn trung kiếp:
1. Trung kiếp thành: Thế giới mới tạo thành.
73 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
2. Trung kiếp trụ: Thế giới có đầy đủ hinh thái, vật chất.
3. Trung kiếp hoại: Thế giới hư rả do bởi lửa, gió, nước.
4. Trung kiếp không: Tan hết, chẳng trụ lại một vết tích nào.
5.
“Nếu những vi trần ấy mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi
trần, chỉ cưởng danh là vi trần. Như Lai nói tam thiên đại thiên thế
giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưởng danh là thề giới.” Kinh Kim Cang.
Trước đây, trong phần giới thiệu bộ kinh Pháp Hoa, tôi có
nói về đức Bổn Phật và đức Tích Phật (trang 44). Sở dĩ nói về đức Bổn
Phật, vì là đức Phật đã có từ thuở khai thiên lập địa. Có nghĩa là từ thuở
hình thành trái đất này, trong đạo Phật gọi là thời kỳ “kiếp thành”. Còn
Tích Phật tức là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật lịch sử, đức Phật
hiện diện vào thời đại văn minh con người cách nay 2546 năm (2002
dương lịch). Những đức Tích Phật có trước đức Phật lịch sử Thích Ca
Mâu Ni như Phật Nhiên Đăng, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Đa
Bảo, Phật Tỳ Bà Thi v…v…các vị Phật này là hóa thân từ đức Bổn Phật.
Những đức Tích Phật còn phân thân ra hằng hà sa số chư Phật, các Ngài
tùy nhơn duyên độ sanh, còn có thể thị hiện ứng thân, hoặc hóa thân trời,
người, a tu la, súc sanh, hoặc hoá thân vào tận địa ngục, ngạ quỉ.
Đức Bổn Phật có một năng lực vô cùng, vô tận, vô thủy, vô
chung. Phật hiện diện trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, bất cứ
nơi đâu, bất cứ chỗ nào, bất cứ trong vũ trụ hư không. Ở đây không nói
đến những vật to lớn như trời, biển, đất, núi, những vật chất mà con
người cho là bao la đó, đối với Như Lai chỉ là vật vi tế, hay là một quả
cầu đặt trong lòng bàn tay.
Chúng ta phải tin vào sự thọ lượng của Như Lai, như là một
sự hiện hửu để sinh tồn mà diệu lý thâm sâu nằm trong Thập Như Thị
(tr.113). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hiện diện trong thời kỳ “kiếp
trụ” này. Chỉ bày chơn lý cho chúng sanh để chúng sanh phân biệt được
vô minh và chánh kiến.
74 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thọ mạng của Như Lai không phải tính bằng con số. Thọ
mạng của Như Lai (đức Bổn Phật) như đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói là
trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Đức Phật đã ba phen nói với tất cả
Bồ Tát và đại chúng “Thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói
chắc thật của Như Lai.”
Lời nói chắc thật được thốt ra ba lần, như trong đêm tối có
người ba lần khêu tim ngọn đèn làm cho ánh sáng bừng tỏa chung
quanh. Khiến cho chúng ta tin rằng sự thọ mạng của đức Phật vô cùng
vô tận, mới có đủ sức thần thông giáo hóa vô lượng vô biên số đại chúng
Bồ Tát đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Tin vào lời nói của
Phật là tin vào một Tôn giáo (Giáo lý chơn chánh được tôn là bậc nhất
thời bấy giờ) rốt ráo đưa chúng sanh thoát vòng sinh tử luân hồi. Sự thọ
mạng của Như Lai tính bằng lượng a tăng kỳ, con số nhiều không thể
đếm được, không thể tâm nghĩ mà được, con số đó gọi là bất khả thuyết,
bất khả thuyết. Kinh Hoa Nghiêm viết:
Bất khả ngôn thuyết, bất khả thuyết
Sung mãn tất cả bất khả thuyết
Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết
Nói bất khả thuyết chẳng hết được
Trong tám mươi bốn ngàn pháp môn đức Phật đã giảng dạy,
chỉ có kinh Pháp Hoa là đức Phật nói Như Lai hiện hửu khắp mọi nơi, vì
Như Lai là bản thể chơn như của các pháp, cho nên không có chỗ nào,
dầu nhỏ như hột cải mà Như Lai lại chẳng hiện diện để cứu độ chúng
sanh.
ĐỨC CỔ PHẬT THÍCH CA MÂU NI.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phán với Bồ Tát Quang Minh
Biên Chiếu Cao Quí Đức vương rằng:
75 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Thiện nam tử! Ta nhớ lại hồi thuở quá khứ, cách nay vô
lượng vô biên na do tha kiếp, thuở ấy có một thế giới kêu là Ta bà. Ở thế
giới ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Như Lai Ứng Cúng, Chánh
biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư Phật, Thế Tôn. Ngài tuyên thuyết
kinh Đại Bát Niết Bàn này với các hàng đại chúng.
“Thuở ấy, ta theo bạn lành nghe người này chuyền tới người
kia rằng đức Phật ấy đương thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn với đại
chúng. Nghe vậy rồi lòng ta lấy làm hoan hỷ, muốn bày việc cúng
dường. Nhưng ta ở cảnh nghèo cùng, chẳng có vật chi cả. Ta bèn muốn
tự bán mình. Bạc phước thay! Chẳng có ai mua cả. Ta muốn trở về nhà.
Trên đường, ta thấy một người, bèn nói với người ấy rằng: “Tôi muốn
bán thân, ông có thể mua hay chăng?”
“Người ấy đáp: “Nhà tôi có việc không ai làm nỗi. Như chú
có thể làm, tôi sẽ mua chú.”
“Ta liền hỏi rằng: “Ông có việc chi mà không ai làm nỗi?
“Người ấy đáp rằng: “Tôi có bịnh dữ, lương y định thuốc,
dặn mỗi ngày tôi nên ăn ba lạng thịt người. Nếu chú có thể mỗi ngày lấy
ba lạng thịt nơi mình chú mà cấp cho tôi, nếu chịu như vậy, tôi sẽ trao
cho chú năm đồng tiền vàng.”
“Ta nghe vậy rồi, lấy làm hoan hỷ nơi lòng. Ta lại nói rằng:
“Ông trao tiền đi, rồi cho tôi hẹn bảy ngày, công việc của tôi xong, tôi
sẽ trở lại.”
“Người ấy đáp: “Bảy ngày không được, hãy liệu như vầy
xem, tôi sẽ cho chú nghĩ một ngày.”
“Thiện nam tử! Thuở ấy lấy tiền của người ấy rồi, ta liền đi
đến chỗ Phật, đầu và mặt lễ sát chân Phật. Ta đem hết sở hửu mà phụng
hiến. Rồi đó, ta thành tâm mà nghe và thọ kinh Đại Bát Niết Bàn. Thuở
76 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
ấy, ta còn ngu tối, tuy được nghe kinh, mà chỉ có sức thọ trì một bài kệ
này mà thôi:
Như lai chứng Niết Bàn
Vĩnh đoạn ư sanh tử
Nhược hửu chí tâm thính
Thượng đắc vô lượng lạc.
Dịch nghĩa
Như lai chứng Niết Bàn
Dứt mãi cuộc sanh tử
Nếu ai chí tâm nghe
Thường được vui vô lượng.
“Thọ kệ ấy rồi, ta bèn trở lại nhà của bịnh nhơn.
“Tuy ngày ngày ta cho người ấy ba lạng thịt của mình,
nhưng nhờ nhơn duyên nhớ tưởng bài kệ, ta chẳng lấy làm đau đớn.
Ngày ngày chẳng phế việc ấy, cho đến trọn đủ một tháng.
“Nhờ nhơn duyên ấy, bịnh nhơn mau được lành., thân ta
cũng bình phục, không có một vết thẹo chi cả. Thuở ấy, thấy thân ta đều
đủ như trước, ta liền phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
“Sức một bài kệ còn làm được như vậy, huống chi trọn bộ
kinh mà mình thọ trì, đọc, tụng? Bởi thấy kinh này có lợi như vậy, nên ta
lại phát tâm thêm, nguyện cho về sau khi thành được Phật đạo, hiệu ta
lại cũng là Thích Ca Mâu Ni.
Trích Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 22.
Và chỉ có kinh Pháp Hoa đức Phật phán “Dược Vương ! Lại
sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thọ
ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho.” (Phẩm Pháp Sư
thứ 10).
77 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Sức bí mật thần thông của Như Lai trong đời như thế nào,
chúng ta hãy lóng tai nghe Phật nói tiếp:
“Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta
dùng Phật nhãn quan sát tín v.v.. các căn lợi độn của chúng, tùy
theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc
lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết Bàn, lại dùng các trí
phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sanh phát lòng
vui mừng.
“Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa
nơi pháp tiểu thừa, đức mỏng, tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc
trẻ xuất gia đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt
từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện
giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.
“4.- Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra
đều vì độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân
người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, các lời nói đều thiệt
chẳng dối. Vì sao? Vì đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng
của tam giới, không có sanh tử, hoặc thối, hoặc xuất cũng không ở
đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như,
chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc
như thế, Như Lai thấy rỏ, không có sai lầm.”
“Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các
món hạnh, các món nhớ tưởng, phân biệt muốn làm cho sanh các
căn lành, nên dùng bao nhiêu nhơn duyên, thí dụ ngôn từ, các cách
nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành
Phật nhẫn lại thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp,
thường còn chẳng mất.
“Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát,cảm
thành thọ mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên. Nhưng nay
chẳng phải thiệt diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ, đức Như Lai
78 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sanh. Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu
nơi đời, thời người đức mỏng chẳng trồng cội lành, nghèo cùng hèn
hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng, vọng kiến.
Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông
lung nhàm trể, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gở cùng lòng
cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ
kheo! Phải biết, các Đức Phật ra đời khó có thể gặp gở.”
“Vì sao? Những người đức mỏng trải qua trăm nghìn
muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc có người chẳng thấy,
do việc này nên ta nói rằng: “Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng
thấy.” Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó
gặp gở, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành,
cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ.
“5.- Ví như vị lương y, trí tuệ sáng suốt, khéo luyện
phương thuốc trị các bệnh. Người ấy nhiều con cái, hoặc mười, hai
mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc
đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn loạn, lăn
lộn trên đất.
“Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống
thuốc độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về,
đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An lành về an ổn. Chúng con
ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho
chúng con.”
“Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh
phương, tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm
nghiền hoà hiệp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại
lương dược này, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên
uống, mau trừ khổ não, không còn lại các bệnh hoạn.”
“Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc
lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết
79 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về, dầu
cũng vui mừng, hỏi thăm, cầu xin tri bệnh, song trao thuốc cho mà
không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn
tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha
nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên
đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như
thế mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng
uống thuốc này.
“Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già
suy, giờ chết đã đến, thuốc lương dược tốt này nay để ở đây, các con
nên lấy uống, chớ lo không lành. Bảo thế rồi, lại đến nước khác sai
sứ về nói “Cha các ngươi đã chết.”
“Bấy giờ các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ
rằng “Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm
nay bỏ ta, xa chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có
chỗ cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này,
sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha
nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.”
Trước khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa, Như Lai có nói với
ngài Tôn giả Xá Lợi Phất:
“Trí tuệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí tuệ
đó khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích chi Phật
đều không biết được. Vì sao? Phật đả từng gần gủi trăm nghìn
muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức
Phật, dõng mãnh, tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất
sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu. Từ ta
thành Phật đến nay, các món nhơn duyên, các món thí dụ, rộng nói
ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa
lìa lòng chấp.” (Phẩm Phương Tiện thứ 2).
Diễn giải :
80 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lòng chấp của chúng sanh do bởi tám cái điên đảo làm vọng
kiến cho tâm, chia ra hai bực: bực phàm phu (từ dưới bực Thanh Văn trở
xuống) vì còn chấp ngã, nên còn ham thích sắc, thọ, tưởng, hành và
thức, do ham thích nên sanh tham dục, do sanh tham dục mà còn tái
sanh, còn trở lại thế gian để trả nghiệp báo. Bực thánh (từ bực Thanh
Văn trở lên) nghe nhiều, hiểu biết nhiều, nên nhàm chán sắc, thọ, tưởng,
hành và thức, do nhàm chán mà hết tham, do hết tham mà giải thoát,
không còn trở lại thế gian nữa.
Bốn pháp điên đảo của bực phàm phu: kẻ chẳng tỏ ngộ chơn
tánh, hay vọng chấp căn trần, chìm đắm trong sáu đường nên gọi là
phàm phu :
1. Thường: Các pháp trong thế gian đều vô thường, mà cho là hửu
thường.
2. Lạc: Các pháp trong thế gian đều đau khổ, mà cho là vui sướng.
3. Ngã: Các pháp trong thế gian đều vô ngã, mà cho là hửu ngã.
4. Tịnh: Các pháp trong thế gian đều bất tịnh, mà cho là thanh tịnh.
Bốn pháp điên đảo của bực thánh: người lìa bỏ tất cả sự
tướng, ở nơi tướng mà lìa tướng, ở nơi không mà lìa không, nên gọi là
thánh nhân.
1. Vô Thường: Đối với Niết Bàn là thường, mà cho là vô thường.
2. Vô Lạc :Đối với Niết Bàn là vui, mà cho là vô lạc.
3. Vô Ngã :Đối với Niết Bàn là chơn ngã, mà cho là vô ngã.
4. Vô Tịnh :Đối với Niết bàn là thanh tịnh, mà cho là vô tịnh.
81 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Như Lai nói các đức Phật chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà
hiện ra nơi đời. Vậy nhơn duyên lớn đó là nhơn duyên gì? Đó là tri kiến
Phật. Bởi tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh thời các pháp cũng tùy
nhơn duyên khởi. Chúng sinh do có vọng tâm nên bị vô minh che khuất
và bị vướng vào ngã tướng. Vì bởi chúng sanh không từ nơi tướng lìa
được tướng, không từ nơi không lìa được không, cho nên vọng niệm, mê
chấp bùng khởi. Từ đó chúng sanh không biết rằng có Phật tại tâm. Tri
kiến Phật, phải tri kiến bổn tâm. Muốn tri kiến bổn tâm trước hết phải
khai mở tri kiến tâm, chỉ rỏ tri kiến tâm, nhận ra tri kiến tâm, cho tới lúc
tâm đã hiển bày tự tánh rồi thì nhập vào tri kiến tâm.
Tri kiến tâm, tâm thường sinh trí tuệ, chẳng sanh, chẳng diệt
có thể cầu đạo Vô thượng Bồ đề.
Trước khi chấm dứt thời thuyết pháp, Như Lai liền nói bài
kệ:
6.- Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm nghìn muôn
A tăng kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Đến nay vô lượng kiếp
Vì độ chúng sanh vậy
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thiêt chẳng diệt độ
Thường trụ đây nói pháp
Ta thường ở nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sanh điên đảo
Dầu gần mà chẳng thấy
Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
82 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sanh lòng khát ngưỡng
Chúng sanh đã tín phục
Ngay thiệt ý dịu hòa
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng
Giờ ta cùng chúng sanh
Đều ra khỏi Linh Thứu
Ta nói với chúng sanh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt chẳng diệt
Nước khác có chúng sanh
Lòng cung kính tín nhạo
Ta ở lại trong đó
Chỉ nói ta diệt độ
Ta thấy các chúng sanh
Chìm ở trong khổ não
Nên chẳng vì hiện thân
Cho kia sanh khát ngưỡng
Nhơn tâm kia luyến mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần thông như thế
Ở trong vô số kiếp
Thường tại núi Linh Thứu
Và các trụ xứ khác
Chúng sanh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây yên ổn
Trời người thường đông dầy
Vườn rừng các nhà gác
Những món báu trang nghiêm
Cây báu nhiều bông trái
Chỗ chúng sanh vui chơi
Các trời đánh trống trời
83 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thường trổi những kỷ nhạc
Rưới bông mạn đà la
Rải Phật và đại chúng
Tịnh độ ta chẳng hư
Mà chúng thấy cháy rã
Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẩy
Các chúng sanh tội đó
Vì nhơn duyên nghiệp dữ
Quá a tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam Bảo
Người nhu hòa ngay thiệt
Có tu các công đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp
Hoặc lúc vì chúng này
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
Vì nói Phật khó gặp
Trí lực ta như thế
Huệ quang soi vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Tu hành lâu cảm đặng
Các ông người có trí
Chớ ở đây sanh nghi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thiệt không dối
Như lương y chước khéo
Vì để trị cuồng tử
Thiệt còn mà nói chết
Không thể nói hư dối
Ta là cha trong đời
Cứu các người đau khổ
Vì phàm phu điên đảo
Thiệt còn mà nói diệt
84 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì cớ thường thấy ta
Mà sanh lòng kiêu tứ
Buông lung ham ngủ dục
Sa vào trong đường dữ.
CON SỐ BẤT KHẢ THUYẾT.
Một kiếp ở cõi Ta Bà (thế giới hóa độ của Phật Thích Ca)
bằng một ngày đêm ở cõi Cực Lạc (quốc độ của Phật A Di Đà).
Một kiếp ở cõi Cực Lạc bằng một ngày đêm ở thế giới Ca Sa
Tràng (quốc độ của Kim Cang Kiên Phật).
Một kiếp ở cõi Ca Sa Tràng bằng một ngày đêm ở thế giới
Bất Thối Chuyễn Am Thanh Luân (quốc độ của Thiện Thắng Quang
Minh Liên Hoa Khai Phu Phật).
Một kiếp ở cõi Bất Thối Chuyễn Am Thanh Luân bằng một
ngày đêm ở thế giới Ly Cấu (quốc độ của Pháp Tràng Phật)
Một kiếp ở cõi Ly Cấu bằng một ngày đêm ở thế giới Thiện
Đăng (quốc độ của Sư Tử Phật).
Một kiếp ở cõi Thiện Đăng bằng một ngày đêm ở thế giới
Diệu Quang Minh (quốc độ của Quang Minh Tạng Phật).
Một kiếp ở cõi Diệu Quang Minh bằng một ngày đêm ở thế
giới Nan Siêu Quá (quốc độ của Pháp Quang Minh Liên Hoa Khai Phu
Phật).
Một kiếp ở cõi Nan Siêu Quá bằng một ngày đêm ở thế giới
Trang Nghiêm Huệ (quốc độ của Nhứt Thiết Thần Thông Quang Minh
Phật).
85 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Một kiếp ở cõi Trang Nghiêm Huệ bằng một ngày đêm ở thế
giới Cảnh Quang Minh (quốc độ của Nguyệt Trí Phật).
Tuần tự như vậy cho đến một kiếp ở thế giới rốt sau bằng
một ngày một đêm ở thế giới Thắng Liên Hoa (quốc độ của Hiền Thắng
Phật, và ngài Phổ Hiền Bồ Tát và chư đại Bồ Tát đồng hạnh đông dầy
trong thế giới Thắng Liên Hoa này.
Trích Kinh Hoa Nghiêm tập 3.
Phẩm Thọ Lượng thứ ba mươi mốt.
PHƯỚC LỰC NHỜ THỌ BÁT QUAN TRAI.
Hằng năm cứ đến mùa mưa, thì có năm trăm vị đạo sĩ từ
miền tuyết sơn về thành để kiết hạ an cư. Một hôm họ đi xuyên qua một
khu rừng, thấy một cây da to, họ đến ngồi xung quanh gốc cây ấy để
nghĩ. Vị đạo sĩ trưởng đoàn nghĩ thầm: “Vị thọ thần ngụ trên cây này
không phải là hạng tầm thường thấp kém đâu? Chắc hẳn là một thiên
vương có nhiều oai lực, ước gì ngài ban cho cả đoàn đạo sĩ nước uống
giải khát.”
Quả nhiên, thọ thần ban cho họ nước uống giải khát. Vị
trưởng đoàn ước muốn có nước để tắm, thọ thần ban cho họ nước tắm.
Đạo sĩ ước muốn có cơm ăn, thọ thần cũng cho họ cơm ăn. Kế đó đạo sĩ
trưởng đoàn nói thầm: “Ta mong ước vật kia vật nọ, Thiên vương này
đều ban cho tất cả, ước gì chúng ta được giáp mặt Thiên vương.”
Thọ thần làm cho cây nứt đôi và hiện hình trong chỗ nứt ấy.
Các đạo sĩ xúm nhau hỏi:
“Tâu Thiên vương! Quyền lực của ngài thật to tát, chẳng hay
ngài đã tạo nghiệp gì mà được hưởng phước ấy?”
86 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thọ thần lễ phép nói: “Bạch, xin các ngài đừng tra hỏi tôi.”
Các đạo sĩ nói: “Tâu Thiên vương! Xin ngài hoan hỷ trả lời.”
Hỗ thẹn vì tiền nghiệp của mình quá nhỏ nhen, thọ thần
không muốn phô trương ra, nhưng bị các đạo sĩ nài ép, yêu cầu mãi, thọ
thần phải chìu theo.
“Thôi vậy! Xin các ngài lắng nghe”.
Thiên vương bắt đầu kể chuyện. Theo lời tự thuật, thọ thần
kiếp trước là một người đàn ông nghèo khó, đi xin việc làm để kiếm ăn,
may được ông A Nhã Binh Đi Ka (Anãthapindika) thu nhận làm công
việc lặt vặt trong nhà, hoặc có khi lên rừng đốn củi, nhờ đó mà yên thân,
tạm sống qua ngày.
Một hôm nhằm ngày bát quan trai, ông Anãthapindika đi
chùa về, hỏi gia nhân:
“Có ai nói cho chú mới đến ở mướn biết rằng cả nhà ta hôm
nay giữ bát quan trai không?”
“Dạ thưa ông chủ, chưa có ai nói cả. Chú ấy cũng đã đi lên
rừng rồi.”
“Vậy thì hãy lo nấu nướng cơm chiều cho chú ấy ăn đi, chú
ấy lên rừng về chắc phải đói lắm.”
Vâng lệnh chủ, người nhà lo nấu cơm chiều. Người làm công
vác củi từ trên rừng về kêu đói:
“Nấu cơm rồi thì dọn cho tôi ăn, tôi đói bụng lắm.”
Gia nhân dọn cơm ra, chú ấy vô cùng ngạc nhiên vì sao hôm
nay nhà bếp vắng tanh, nên chú ấy dừng lại chưa vội ăn, trong bụng nghĩ
87 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thầm: “Mọi bửa thì giờ này trong nhà rần rần, đầu này kêu cơm, đầu kia
gọi canh, đầu nọ xin thêm đồ ăn, om xòm tở lở, bửa nay ai nấy đều nằm
ngủ im lìm. Mà tại sao họ dọn cơm chỉ cho một mình ta ăn thôi?”
Chú làm mướn quay lại hỏi gia nhân: “Mấy người kia ăn cơm rồi phải
không?”
“Họ không ăn”
“Tại vì lý do gì vậy?”
“Cả nhà hôm nay thọ bát quan trai, chỉ ăn bửa cơm trưa, buổi chiều
không ăn. Cho đến trẻ con còn bú, ông chủ nhà cũng bắt sút miệng rồi
cho ngậm kẹo. Tối đến, khi lũ trẻ nhỏ lớn gì đi ngủ rồi, người ta đốt đèn
và hương trầm lên để ngồi tham thiền đề mục ba mươi hai thể trược. Vì
quên không nói cho chú biết trước bửa nay trong nhà giữ bát quan trai,
nên ông chủ bảo tôi nấu cơm chiều cho chú ăn. Thôi, chú cứ tùy tiện ăn
một mình cho no nê đi.”
Chú làm công nói: “Nếu bửa nay trong nhà giữ bát quan trai thì
tôi cũng xin giữ nữa.”
“Nếu muốn vậy phải bẩm lại với ông chủ biết.”
“Vậy thời tốt quá! Nhờ anh đi bẩm lại với ông chủ cho tôi được
giữ bát quan trai.”
Gia nhân liền đi bạch với ông chủ, ông đáp:
“Nếu bây giờ chú ấy chưa ăn, bảo chú ấy sút miệng cho sạch rồi
nguyện thọ trì bát quan phần, thì chú ấy sẽ hưởng được phước báu của
nửa ngày bát quan.”
Chú làm công nghe vậy, bèn làm theo cách ấy. Vì rán nhịn đói sau
một ngày làm lụng cực nhọc, chú ấy bị cảm gió đau bụng. Chú phải lấy
một dây lưng thắt chặt ngang bụng, một tay đè giữ mối thắt, nằm sấp mà
chịu.
88 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nghe tin này, ông chủ sai gia nhân cầm đuốc và đem theo kẹo mật,
bơ dầu đến thăm người bệnh. Ông hỏi:
“Con đau làm sao?”
“Con bị trúng gió đau bụng dữ lắm.”
“Không sao, con rán ngồi dậy lấy kẹo mật, bơ dầu nầy ngậm đi.”
“Nhưng mà! Ông chủ cũng ngậm kẹo nầy chứ?”
“Không. Vì ông không có bệnh, con có bệnh thì ngậm lấy kẹo cho
mau bình phục.”
Chú làm công không chịu ăn kẹo mật, bơ dầu, đáp rằng: “Dạ thưa
ông chủ! Con đã trót lỡ không thọ trì bát quan trai trọn cả ngày, thì bây
giờ con nguyện giữ đừng cho đứt giới bát quan phần trong nửa ngày còn
lại.”
“Con đừng làm vậy không nên.”
Dầu cho ông chủ nói gì thì nói, người làm công vẫn một mực từ
chối, và rồi chú ấy tắt thở vào lúc mặt trời mọc, bỏ xác nằm trơ như một
đóa hoa tàn. Tâm thức của chú thọ sanh làm vị Thiên vương, ngự trên
cây đa này đây.
Sau khi kể hết tiền nghiệp của mình, thọ thần kết luận: “Ông
trưởng giả là người tín ngưỡng Đức Phật, là người tín ngưỡng Đức
Pháp, là người tín ngưỡng Đức Tăng. Nhờ làm theo lời ông chủ biểu,
thọ trì nửa ngày Bát quan trai, ta mới tạo được phước báu là nhân
duyên sanh quyền lực của ta vậy.”
Nghe đến tiếng Đức Phật, năm trăm vị đạo sĩ đồng thời đứng lên,
chấp tay yêu cầu Thiên vương khởi xướng hồng danh đức Phật ba lần và
họ cùng đồng niệm theo. Tiếng niệm Phật vang lên rung chuyễn cả một
góc trời
89 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC thứ mười bảy.
Trước khi thẩm sâu vào phẩm Phân biệt Công đức, chúng ta
phải tự hỏi mình đã củng cố lòng tin hiểu sâu chắc chưa. Bởi phải có
lòng tin hiểu sâu chắc chúng ta mới có đức Phật thường trụ, mới có diệu
pháp thường trụ. Như Lai cũng ca ngợi công đức những hành giả thọ trì,
biên chép, giải nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa sau khi Như Lai điệt độ,
chính những người đó cầm đuốc đi soi rọi trong đêm tối, chính những
người đó bức phá vô minh phiền não, những người đó có thể chứng đắc
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ca ngợi công đức tức là ca ngợi
diệu pháp, ca ngợi công đức tức là tin chắc thật sự thọ mạng của Như
Lai, ca ngợi công đức là ngộ nhập Phật tri kiến của Pháp Hoa.
Tín tâm là không còn điều gì nghi hoặc trong lòng, hiểu biết
chắc thật, không hư dối. Chúng ta tin có Phật, có Pháp, có Tăng là ba
ngôi báu thường trụ. Chúng ta thường niệm “Nam mô thập phương
thường trụ Tam Bảo”, vậy thì ba ngôi báu này thường trụ ở khắp mười
phương.
Khi đã có lòng tin có Phật, có Pháp, có Tăng, tin có nhơn quả
luân hồi, thì cuộc sống ở trên thế gian này phải tin chắc ở hiền gặp lành,
làm ác mắc đọa, làm phước thì hưởng quả đời sau, làm công đức kiếp
sau không còn tái sanh vào biển trầm luân khổ não nữa.
Có tín tâm, con người nhờ đó mới hiểu đúng chơn lý, càng
ngày bản tâm càng trong sạch, bụi phiền não chẳng còn có chỗ nào bám
vướng. Khi tín tâm đã trong sạch, chúng ta tiêu diệt được:
a) Ba điều phạm của thân:
1- Không sát sanh.
2- Không tham dâm.
3- Không trộm cắp.
b) Bốn điều phạm của miệng:
90 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
1- Không nói dối.
2- Không nói lười hai chìêu.
3- Không nói lời thêu dệt.
4- Không nói lời độc ác.
c) Ba điều phạm của ý:
1- Không khởi ý tham.
2- Không sân nhuế.
3- Không si mê.
Thông thường người tin hiểu sâu chắc phải là người co trí
tuệ, không phải loại trí tuệ tự kỷ thấp hèn, mà là trí tuệ do nhờ công đức
tu hành tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, bởi có trí tuệ như thế mới
phân biệt được sáng tối, hư thật, thiện ác, đúng sai.
Phẩm 15, phẩm 16 và phẩm 17, nội dung ba phẩm kinh này
cho thấy uy lực thần thông của đức Phật, sự thọ mạng bất khả thuyết, bất
khả thuyết của đức Phật. Đức Phật phân biệt mười hai bực công đức và
chúng sanh nào được nghe và tin nhận sự thọ mạng dài lâu đặng vô
lượng vô biên công đức lợi ích, như:
1. Có sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa số chúng sanh đặng
“Vô sanh pháp nhẫn”. Tin vào sự thọ lượng vĩnh hằng của Như
Lai, chắc chắn không còn tái sinh nữa. Sự tin hiểu sâu chắc này
không phải nhất thời mà sẽ liên tục đến trọn đời.
2. Có đại Bồ Tát nghìn lần gắp bội đặng môn “Văn trì đà la ni”. Nghe
đức Phật thuyết pháp, liền phát sinh một năng lực bí mật ngưng dứt
mọi điều ác và phát sinh mọi điều thiện.
3. Có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng “Nhạo thuyết vô ngại
biện tài”. Thuyết giảng giáo lý của đức Phật một cách tự nguyện,
thông suốt không có điều chi cản ngại. Lại có ý nghĩa khác là vị
pháp sư thuyết giảng kinh Pháp Hoa không bị khuất phục bởi các
trở ngại bên ngoài (có kẻ cười chê, có người bày kích, bị khinh khi,
91 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
bị mắng chửi, bị ngược đải, bị mĩa mai) và ma lực bên trong (lười
biếng, thiếu tự tin, lo sợ trước thính chúng quá đông đảo, lo là
mình nói pháp không hay).
4. Có một thế giới vi trần khác số đại Bồ Tát đặng trăm nghìn muôn
ức vô lượng môn “Triền đà la ni”. Cảm thọ được một sức mạnh bí
mật thuyết phục được nhiều người ngưng dứt làm điều ác, và phát
tâm làm điều thiện. Lại có ý nghĩa người có được công đức này có
năng lực lảnh đạo trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp.
5. Có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ Tát chuyễn được
“Pháp luân bất thối”. Pháp luân là bánh xe pháp quay. Bất thối là
không chịu bước lui. Tức là không thối thất trong sự nghiệp
chuyễn pháp luân, tức là hoằng dương chánh pháp không bao giờ
biết mệt mỏi.
6. Có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ Tát chuyễn được
“Pháp luân thanh tịnh”. Các vị Bồ Tát tu tập hạnh thanh tịnh để
giảng pháp của đức Phật không hề sai lạc. Hơn nữa các ngài chỉ có
một tâm nguyện duy nhất là chỉ biết truyền giáo lý chân chánh chứ
không cần một sự báo đáp thâm ân, hoặc lợi dưỡng cúng dường.
7. Có tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ Tát tám đời sẽ đặng “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Tám đời liên tục các Bồ Tát tu
tập công đức để đat tới bực giác ngộ viên dung.
8. Có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát bốn đời sẽ đặng “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Bốn đời liên tục các Bồ Tát tu
tập công đức để đạt tới bực giác ngộ viên dung.
9. Có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát ba đời sẽ đặng “Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác”. Ba đời liên tục cũng như thế.
10. Có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát hai đời sẽ đặng “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Hai đời liên tục cũng như thế.
92 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
11. Có một tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát một đời sẽ đặng “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Một đời đủ chứng đắc bực giác
ngộ viên dung.
12. Có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều phát tâm “Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Chư vị Bồ Tát nghe Phật thuyết
sự thọ mạng dài lâu đều mong mỏi được chứng quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác như Phật.
Sau khi Như Lai dứt lời thì ở giữa không trung hàng thiên
tiên rưới xuống trăm sắc hoa trời cúng dường nghìn muôn ức các đức
Phật đang ngồi trên tòa sư tử, rải hoa cúng dường đức Đa Bảo Phật và
đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng vô lượng Bồ tát và bốn bộ chúng. Mùi
hương gổ chiên đàn cùng mùi trầm thủy thoang thoảng hòa trong không
trung, tiếng nhạc, tiếng trống trời âm vang bay xa. Chư vị Bồ Tát đó
dùng tiếng tăm hay, ca vô lượng bài tụng ngợi khen các đức Phật. Trong
đạo tràng chư vị thính chúng thấy sự lợi ích trước mắt vô cùng hoan hỷ.
Ngài Di Lặc thay mặt chư đại chúng Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch
áo bày vai hửu, chấp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:
3.- Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có sức lớn
Thọ mạng chẳng thể lường
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói đặng pháp lợi đó
Vui mừng đầy khắp thân
Hoặc trụ bực bất thối
Hoặc đặng đà la ni
Hoặc vô ngại nhạo thuyết
Muôn ức triền tổng trì
Hoặc có cõi đại thiên
Số vi trần Bồ Tát
93 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Mỗi vị đều nói được
Pháp luân bất thối chuyễn.
“5.- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Di Lặc đại Bồ Tát:“A Dật
Đa! Có chúng sanh nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế,
nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, đặng công đức không thể
hạn lượng được. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì đạo Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong tám mươi muôn ức na do tha
kiếp tu năm pháp ba la mật: bố thí ba la mật, trì giới ba la mật,
nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trừ trí
tuệ ba la mật, đem công đức này sánh với công đưc tín giải trước,
trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một,
nhẫn tính đếm thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện
nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi Vô thượng Chánh
đăng Chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.”
Chúng sanh nào được nghe nói về sự thọ mạng dài lâu của
đức Phật, hiểu ý thú của lời nói đó, hoặc rộng nói kinh này, hoặc tự thọ
trì, hoặc bảo người trọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, người đó
không những đặng công đức vô lượng mà còn thấy đức Như Lai đang ở
tại núi Linh Thứu cùng chúng đại Bồ Tát và chúng Thanh văn vây quanh
nói pháp. Người đó đầu đội đức Như Lai, người đó nếu tu pháp lục độ
thì công đức lại càng thù thắng vô lượng vô biên.
Kinh Pháp Hoa là bực nhứt trong các kinh. Giáo lý Pháp Hoa
là giáo lý rốt ráo trong các pháp. Quan điểm Pháp Hoa là quan điểm đại
thừa, hiển bày nhứt thừa thực tướng. Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa
phải có niềm tin về sự thọ mạng dài lâu của đức Phật, cũng như đã có
niềm tin về giáo lý của kinh Pháp Hoa là tât cả bốn loài chúng sanh (95)
(noãn sanh, thai sanh, hóa sanh, thấp sanh) đều có Phật tính và hết thảy
chúng sanh đều sẽ thành Phật. Chúng ta tu tập kinh Pháp Hoa trang bị
cho mình hai niềm tin trên đây, người đó sẽ đặng công đức vô lượng, vô
biên, người đó chuyễn pháp luân bất thối, người đó thuyết pháp vô ngại
biện tài, người đó luôn xây dựng cho nền Phật giáo mãi mãi trường tồn.
94 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Người giữ năm hạnh bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn
nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, ngoại trừ trí huệ
ba la mật không chịu giữ thì khó mà đạt đến cõi Niết Bàn tịch tịnh. Bởi
năm hạnh trên làm phát sinh hạnh trí huệ ba la mật. Thiếu trí huệ thì khó
nhận xét sự vật đúng sai, do đó tiềm thức dễ bị rơi vào vọng tưởng. Vì
vậy mà đức Phật dạy người tu năm hạnh ba la mật, không bằng một
phần tỉ của người thiện nam tín nữ nghe đức Phật thuyết pháp phẩm Như
Lai Thọ Lượng mà tin hiểu sâu chắc, thời công đức của những người
này không thể nào không đạt được quả Vô thượng bồ đề. Công đức của
sự tin hiểu sâu chắc này cũng được phân biệt làm bốn bực:
1. Nghe pháp liền tin nhận về sự thọ mạng dài lâu của đức Phật.
2. Hiểu rỏ ý nghĩa của niềm tin này.
3. Có niềm tin thì có tín giải, có tín giải thì có tin hiểu sâu chắc, có tin
hiểu sâu chắc thì có hành động, tức là đem công đức này truyền
giảng kinh Pháp Hoa cho những người chưa thấy, thấy rồi mà chưa
nghe, nghe rồi mà chưa hiểu, làm sao cho tất cả mọi người cùng tu,
mọi người cùng hiểu.
4. Giữ gìn, đọc tụng, biên chép, giảng giải kinh Pháp Hoa sau năm
trăm năm Như Lai diệt độ. Phải chuyên tâm tu tập đầy đủ sáu pháp
ba la mật.
Cho nên thiện nam tín nữ nào nghe đức Như Lai thọ mạng
dài lâu, hiểu ý thú của lời nói đó, những người như vậy đặng công đức
vô hạn lượng. Huống gì những người này nghe diễn nói kinh Pháp Hoa,
hoặc bảo mọi người cùng tới giảng đường ngồi nghe, hoặc chính mình
thọ trì hay khuyên bảo mọi người cùng thọ trì, hoặc tự mình chép hay
bảo người chép, hoặc cúng dường quyển kinh bằng các thứ hương hoa
chuổi ngọc, lộng nhiễu tràng phan, công đức đặng vô lượng vô biên.
Đức Phật nói:
95 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“A Dật Đa! Thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn đó chẳng
cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường, dùng bốn sự
cúng dường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử,
thiện nữ nhơn đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này, thời là đã dựng
tháp tạo lập tăng phường cúng dường chúng Tăng, thời là đã đem
xá lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời
Phạm thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoa hương, chuổi
ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống kỷ nhạc, ống tiêu,
ống địch, không hầu các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca
ngâm, khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã
làm việc cúng dường đó rồi.
“A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có
người hay thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, đó là dựng lập
tăng phường, dùng gổ chiên đàn đỏ làm các cung điện, nhà cửa ba
mươi hai sở, cao bằng tám cây đa la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm
nghìn tỳ kheo ở trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang
ngồi thiền, y phục, đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang, tất cả đồ
vui dẩy đầy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức
nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng
dường nơi ta và tỳ kheo tăng.
“Cho nên ta nói sau khi Như Lai diệt độ nếu có người thọ
trì, đọc tụng vì người khác nói, hoặc mình chép, hoặc bảo người
chép, cúng dường kinh quyển thời chẳng lại dựng chùa tháp và tạo
lập tăng phường cúng dường chúng tăng. Huống lại có người hay
thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
nhứt tâm, trí huệ công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô
biên.”
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ
rằng:
Sau khi ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
96 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Như trên đã nói rỏ
Đó thời là đầy đủ
Tất cả các cúng dường
Dùng xá lợi xây tháp
Bảy báu để trang nghiêm
Chùa chiền cất cao rộng
Nhỏ lần đến Phạm thiên
Linh báu nghìn muôn ức
Gió động vang tiếng mầu
Lại trong vô lượng kiếp
Mà cúng dường tháp đó
Hoa hương các chuổi ngọc
Thiên y các kỷ nhạc
Thắp đèn dầu nến thơm
Quanh khắp thường soi sáng
Lúc đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này
Thời là đã đầy đủ
Các cúng dường như trên
Nếu hay trì kinh này
Thời như Phật hiện tại
Dùng ngưu đầu chiên đàn
Dựng tăng phường cúng dường
Nhà ba mươi hai sở
Cao tám cây đa la
Đồ ngon y phục tốt
Giường nằm đều đầy đủ
Trăm nghìn chúng nương ở
Vườn rừng các ao tắm
Chỗ kinh hành ngồi thiền
Các món đều nghiêm tốt
Nếu có lòng tín hiểu
Thọ trì, đọc tụng, biên
Nếu lại biểu người biên
Và cúng dường kinh quyển
97 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Rải hoa hương, hương bột
Dùng tu mạn, chiêm bặc
A đề, mục đa dà
Ướp dầu thơm tốt đó
Người cúng dường như thế
Đặng công đức vô lượng
Như hư không vô biên
Phước đó cũng như thế
Huống lại trì kinh này
Gồm bố thí trì giới
Nhẫn nhục ưa thiền định.
Chẳng sân chẳng ác khẩu
Cung kính nơi tháp miếu
Khiêm hạ các tỳ kheo
Xa lìa tâm tự cao
Thường nghĩ suy trí huệ
Có gạn hỏi chẳng sân
Tùy thuận vì giải nói
Nếu làm được hạnh đó
Công đức chẳng lường được
Nếu thấy pháp sư này
Nên công đức như thế
Phải dùng hoa trời rải
Ao trời trùm thân kia
Đầu mặt tiếp chân lạy
Sanh lòng tưởng như Phật
Lại nên nghĩ thế này
Chẳng lâu đến đạo thọ
Đặng vô lậu vô vi
Rộng lợi các người trời
Chỗ trụ chỉ của kia
Kinh hành hoặc ngồi nằm
Nhẫn đến nói một kệ
Trong đây nên xây tháp
Trang nghiêm cho tốt đẹp
98 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Các món đem cúng dường
Phật tử ở chỗ này
Thời là Phật thọ dụng
Thường ờ nơi trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.
Chuyện thứ nhứt
CÚNG DƯỜNG CÁCH NÀO
ĐỂ ĐƯỢC PHƯỚC BÁO?
Một thuở nọ, hai vị Thượng Thanh văn, mỗi vị dẫn theo năm
trăm tỳ kheo và tùy tùng đến từ giả đức Bổn Sư, đảnh lễ ngài rồi cùng
nhau rời chùa Jetavana, lên đường sang thành Rãjagaha.
Dân chúng ở thành này hiệp nhau từng nhóm hai, ba người
hoặc nhiều hơn nữa, thỉnh Tăng để bát, theo phép cúng dường mỗi tỳ
99 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
kheo mới đến. Một hôm nhân cơ hội đó, đại đức Sãrĩputta trong khi hồi
hướng phước báo có thuyết giảng rằng:
“Này chư thiện tín! Một người tự mình làm phước cúng
dường không khuyên rũ ai khác, kiếp sau tái sanh ở nơi nào chỉ được
đầy đủ tiền của, chớ không được đầy đủ những người tùy thuộc. Một
người không làm phước cúng dường, lại không kêu gọi ai khác thì kiếp
sau tái sanh ở nơi nào cũng cô độc bần cùng, cơm hẩm ngày hai bửa
chẳng đủ no bụng. Còn một người vừa tự mình làm phước cúng dường,
vừa khuyến bảo nhiều người khác làm chung với mình, thì hằng trăm,
hoặc hằng ngàn, hoặc hằng trăm ngàn kiếp sau tái sanh ở nơi nào cũng
được đầy đủ cả hai phương diện tài sản dồi dào, tùy thuộc đông đảo.
Còn một người không làm phước cúng dường, nhưng lại khuyến rũ
người khác làm phước, thì tái sanh ở nơi nào cũng bần cùng, nhưng có
nhiều tùy thuộc.”
Nghe vậy, một vị trí thức nghĩ rằng:
“Bạch ngài! Thời pháp vừa thuyết thật huyền diệu làm sao,
hy hửu làm sao. Chỉ cách tạo phước lành đầy đủ cả hai chi. Ta phải
ráng thực hành để tạo phước báo đầy đủ cả hai phương diện.”
Nghĩ rồi, vị ấy bèn thỉnh đại đức:
“Bạch ngài! Chúng tôi xin thỉnh trai tăng ngày mai.”
Đại đức hỏi:
“Này ông thiện nam! Ông cần thỉnh bao nhiêu vị?”
Ông thiện nam hỏi:
“Bạch ngài! Có bao nhiêu vị tùy tùng?”
“Một ngàn.”
“Bạch ngài! Xin thỉnh ngài luôn với tất cả chư tăng ngày mai
đến nhà để thọ thực.”
100 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đại đức im lặng nhận lời.
Trên đại lộ vào thành, gặp người nào ông thiện nam ấy cũng
rũ:
“Này quí ông bà, tôi xin thỉnh trai tăng được một ngàn vị sư,
quí ông có thể hùn phước cúng dường chừng bao nhiêu vị? Quí bà
chừng bao nhiêu vị?”
Mỗi người hứa cúng nhiều ít tùy theo phương tiện của mình.
Họ nói:
“Chúng tôi xin cúng mười vị, chúng tôi hai mươi vị, chúng
tôi ba mươi vị, chúng tôi năm mươi vị, chúng tôi một trăm vị.”
Vị tri thức bèn xếp đặt tất cả câu hội tại nhà của mình, ông
nói:
“Thế là chúng ta họp nhau lại một chỗ để nấu nướng và
dâng cúng cho tiện. Quí vị hãy mang tất cả vật thực như dầu mè, gạo,
bơ, đường… đến nhà tôi.” Lúc đó có ông trưởng giả hùn phước một xấp
vải may y xứ Gandhãra, trị giá một trăm ngàn đồng và nói:
“Nếu quí vị góp vật thực còn thiếu thì hãy bán vải y này gộp
thêm cho đủ. Nếu như không thiếu thì tùy ý muốn dâng cúng đến vị đại
đức nào thì dâng.”
Sau khi mọi người chung đậu để làm phước trai tăng đủ cả,
không còn thiếu món chi, ông chủ lễ bèn hỏi phần đông rằng:
“Vải y vô giá này của ông trưởng giả hùn phước với những
lời dặn như vậy đó. Bây giờ chúng ta làm phước đầy đủ rồi, còn dư ra,
vậy chúng ta nên dâng đến vị sư nào?”
Một nhóm người đề nghị:
“Hãy dâng đến đại đức Sãrĩputta.”
Một nhóm khác nói:
101 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Đại đức chỉ đến với chúng ta một năm một kỳ trong mùa lúa
chín. Còn sư Devadatta là người bạn thường trực của chúng ta, cả trong
những ngày lễ và ngày thường, lúc nào cũng gần gủi sẳn sàng bên
chúng ta như bình nước uống. Vậy chúng ta nên dâng vải này đến sư.”
Sau khi thảo luận rất lâu, nhiều người vì chỗ cảm tình quen
biết, đồng ý chấp thuận dâng xắp vải y quí giá đến tỳ kheo Devadatta.
Đưọc vải, Devadatta cắt đôi ra làm y nội và y vai trái may,
nhuộm xong liền mặc y mới đi tới đi lui. Nhiều người thấy chướng mắt
phê bình rằng:
“Y này coi Devadatta mặc không xứng đáng. Phải đại đức
Sãrĩputta mặc mới xứng. Vậy mà Devadatta vận y vàng không xứng
đáng với mình, đi tới đi lui coi thật không được.”
Khi ấy có một vị tỳ kheo du hành từ thành Rãjagaha về thành
Sãvatthĩ, đảnh lễ đức Bổn Sư và thỉnh an ngài xong. Ngài bèn hỏi thăm
sự an vui của hai vị đại đệ tử. Vị này bèn bạch hết câu chuyện bộ y quí
về tay người không xứng đáng với đức Thế Tôn. Đức Bổn Sư nói:
“Này tỳ kheo, không phải kiếp này Devadatta mới lạm đắp y
vàng đâu. Hồi tiền kiếp ông ta cũng đã từng lạm đắp y vàng như thế
rồi.”
Nói xong, Phật liền kể luôn chuyện tiền thân của nhà sư vô
sĩ.
Chuyện thứ hai
TÊN THỢ SĂN ĐẮP Y VÀNG.
Những người có tâm cấu uế, không tự chế ngự và thiếu chân
thật. Không xứng đáng với chiếc y casa. (Kinh Pháp Cú).
102 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Xưa kia, dưới triều của quốc vương Brahmadatta đóng đô
tại thành Bãrãnasĩ, có một người thợ săn cư ngụ trong thành. Anh ta
chuyên nghề săn bắn voi lấy ngà, móng, ruột và thịt nạc voi đem bán để
chi độ nhân khẩu. Lúc ấy trong rừng già có đàn voi gồm cả ngàn thớt, về
quần tụ để kiếm ăn, đi theo đường gặp những vị Phật Độc Giác. Từ đó
về sau, mỗi khi qua lại ngang chỗ chư Phật ngồi tịnh, đàn voi quỳ gối
đảnh lễ các ngài rồi mới dậy đi.
“Một hôm tên thợ săn trông thấy hành động ấy của đàn voi
thì nghĩ thầm rằng: “Những con tượng này ta đến gần hạ chúng được rất
là khó khăn, thế mà mỗi lần qua lại chúng đều dừng chân đảnh lễ chư
Phật Độc Giác, không biết chúng nhìn thấy cái chi mà chúng đảnh lễ?”
“Sau khi suy nghĩ tên thợ săn nói thầm: “Chắc tại thấy bộ y
vàng.”
Anh ta bèn tính thầm: “Ta cần phải kiếm cho được một bộ y vàng.”
Nhơn dịp một vị Phật Độc Gíác xuống tắm dưới ao, anh ta lén lấy trộm,
rồi ra chỗ đường mà voi năng đi lại, tay lăm le cầm cây lao nhọn, đắp y
lên che kín ngồi chờ.
“Đàn voi đi tới tưởng lầm anh ta là một vị Độc Giác Phật,
nên dừng chân đảnh lễ, rồi mới đi qua. Tên thợ săn chờ cho đàn voi qua
hết, rút lao ra phóng giết con đi sau cùng, lấy ngà, móng, ruột, thịt nạc,
rồi còn dư bao nhiêu đều đào đất chôn cho mất tích, đoạn anh ta rời khỏi
rừng đi về thành.
“Thời gian sau, nhằm lúc đức Bồ Tát giáng sanh làm tượng
chúa, cầm đầu cả đàn voi, tên thợ săn vẫn còn dùng cách ấy. Đức Bồ Tát
là tượng chúa thấy đàn voi của mình ngày một hao hụt, bèn hỏi những
voi khác rằng:
“Những voi này đi đâu mất mà đàn ta ngày càng thưa thớt
vậy?”
“Thưa chúa tượng. Chúng tôi không biết.”
103 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nghe đáp như vậy, chúa tượng tự nghĩ: “Chúng đi đâu mà
chẳng hỏi xin ta kia. Chắc không phải đi đâu, có lẽ chúng đã bị tai nạn.”
“Rồi tượng chúa phát nghi rằng: “Chắc là chúng bị hại chỗ
người đắp y vàng chẳng sai.”
“Nghĩ thế tượng chúa bèn ra lệnh cho cả đàn voi đi trước, để
một mình đi đoạn hậu, vừa đi vừa quan sát.
“Tên thợ săn là vị Phật giả mạo, chờ đàn voi đảnh lễ qua hết
rồi, khi thấy Bồ Tát từ từ đi tới phía sau cùng, bèn lập tức vén y lên,
nhắm ngay chỗ nhược của tượng chúa phóng cây lao tới. Tượng chúa đã
đề phòng trước, nên thối lui tránh được cây lao, Bồ Tát liền nghĩ:” Đây
là kẻ sát hại đàn voi của ta “, nên xông tới quyết bắt cho được. Nhưng
hắn ta chạy núp sau một thân cây, Bồ Tát tính thầm “Ta sẽ lấy vòi quấn
luôn cả cây lẫn người hắn mà chà đạp xuống đất.”
“Ngay lúc ấy, tên thợ săn đã cởi tốc chiếc y vàng lên cao cho
tượng chúa thấy. Tượng chúa nghĩ thầm: “Nếu ta sát hại tên này thì ta sẽ
mất mặt đối với chư Phật Toàn Giác, Độc Giác và A La Hán chẳng sai.”
Vì thế nên tượng chúa dằn lòng nhẫn nhịn và hỏi rằng: “Chính nhà
ngươi đã sát hại những voi trong đàn của ta phải không?”
“Dạ phải, thưa ông tượng.”
“Tại sao ngươi tạo nghiệp ác nặng nề như thế? Tự mình
không xứng đáng mà dám lạm khoác bộ y vàng của bậc đã dứt trừ tham
dục, làm như vậy ngươi đã tạo nghiệp ác rất nặng nề.”
“Nói rồi Bồ Tát đọc bài kệ khuyến cáo tên thợ săn:
Cà sa mặc ở bên ngoài
Tâm còn ô nhiễm cũng hoài lá y
Buông lung giả dối hay gì
Thà rằng không mặc, mới y hợp thời
Trong tâm tẩy sạch bụi đời
Chân thành khắc kỷ, chẳng rời luật nghi
104 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Người tu y với lá y
Cà sa Tăng và từ bi khách thiền.
“Đọc kệ rồi Bồ Tát thêm câu kết luận: “Việc làm của người
thiệt không xứng đáng chút nào”, nói rồi thả hắn đi.
Khi chấm dứt thời pháp, đức Bổn Sư dẫn giải rằng: “Tên thợ
săn voi lúc trước nay là Devadatta và tượng chúa cho tên thợ săn bài học
đó chính là Như Lai vậy. Này Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên
Devadatta mặc y không xứng đáng với người của ông ta đâu. Trong tiền
kiếp ông ta cũng đã từng làm như thế đó rồi.”
Chuyện thứ ba :
CÚNG DƯỜNG Y CASA.
Những người có đạo hạnh vô nhiễm và kiên cố, tự chế ngự và
chân thật. Mới xứng đáng với chiếc y casa. (Kinh Pháp Cú.)
Ngày xưa, ở tại thành Kosambi, nhân ngày đại lễ quy y của
vua Udena và chánh hậu Sâmâvati, họ vào chùa Lôi Am (Ghositârâma)
thỉnh đức Phật và năm trăm vị đại đức vào hoàng cung thọ trai và thuyết
pháp. Liên tiếp trong bảy ngày đức Phật và đoàn tùy tùng mới từ giả về
Lôi Am Tự. Quốc vương Udena bèn đảnh lễ đức Bổn sư rồi bạch rằng:
“Bạch ngài! Trẫm xin cung thỉnh ngài với năm trăm vị tỳ
kheo hằng ngày vào thọ thực nơi đây để cho chánh hậu cùng đoàn cung
nhân được dịp đãnh lễ và thính pháp.”
Đức Phật nói:“Tâu Đại vương! Đồng danh với chư Phật Như
Lai, không nên đi mãi một chỗ nào, vì đại chúng ở khắp nơi còn đang
ngóng đợi Như Lai.”
105 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vua Udena nói:“Bạch ngài! Xin ngài hãy phái một tỳ kheo
đại diện cho ngài.”
Đức Bổn Sư bèn chỉ định đại đức A Nan (Ananda).
Từ đó về sau, mỗi ngày đại đức A Nan dắt năm trăm vị tỳ
kheo vào hoàng cung thọ thực. Chánh hậu cùng đoàn cung nữ chăm lo
sớt bát cúng dường và nghe kinh, thính pháp đều đều không ngớt.
Một hôm, sau khi nghe dứt thời pháp do đại đức A Nan
thuyết, đoàn cung nhân phát tâm thành tín hết sức trong sạch bèn dâng
năm trăm lá y vai trái để cúng dường pháp bảo. Thứ y này rất quí, mỗi lá
trị giá đến năm trăm đồng vàng. Khi vua thấy các cung nhân không còn
một lá y quí giá nào hết, quốc vương phán hỏi:
“Những y vai trái của các ái khanh để đâu?”
Đoàn cung nữ đáp:“Chúng tôi đã cúng dường cho ngài đại đức.”
Quốc vương lại hỏi:“Đại đức đã nhận hết cả ư?”
Cung nữ đáp:“Tâu chúa thượng! Đại đức đã thu nhận hết cả.”
Quốc vương đến đãnh lễ đại đức A Nan và phán hỏi về các
cung nhân cúng dường năm trăm lá y Uất đà la tăng (Uttarasangâ). Đại
đức xác nhận rằng:
“Các cung nhân có cúng dường và đại đức có thọ lảnh số y
ấy.”
Quốc vương bèn hỏi:“Bạch ngài! Bấy nhiêu y đó há chẳng
phải là quá nhiều lắm sao? Vậy ngài dùng làm gì cho hết?”
“Tâu đại vương! Ta chỉ thọ dụng vừa phải thôi, còn dư ra thì
ta bố thí cho các vị mặc y cũ rách.”
“Có y mới, các vị ấy sẽ dùng y cũ của mình làm gì?”
“Họ sẽ bố thí cho những vị có y cũ rách hơn.”
“Rồi các vị sau này sẽ làm gì với các y cũ rách của mình?”
“Chư tăng sẽ lấy làm tấm trải lót giường.”
106 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Còn những tấm trải lót giường cũ chư tăng để làm gì?”
“Chư tăng sẽ lấy làm tấm trải lót dưới đất.”
“Những tấm trải lót dưới đất cũ, chư tăng dùng để làm gì?
“Tâu đại vương! Chư tăng dùng để chùi chân.”
“Giẻ chùi chân cũ, chư tăng dùng để làm gì?”
“Chư tăng xé nhỏ ra, quết cho nhuyễn rồi nhào lộn với đất
sét để tô trên vách.”
“Bạch ngài! Nếu chư tăng làm như thế thì những vật cúng
dường cho quý ngài quả thật không uổng chút nào.”
Quốc vương phát khởi đức tin trong sạch, bèn hạ lệnh cho
quân hầu mang thêm năm trăm lá y nữa đến cúng dường, đặt xuống bên
chân đại đức A Nan.
Tương truyền rằng mỗi khi có năm trăm lá y quí giá cúng
dường, thí chủ chia ra làm năm trăm phần, dâng đến bên chân đại đức,
và đại đức thọ nhận đủ năm trăm lần. Nếu thí chủ cúng một ngàn bộ y,
đại đức phải nhận đủ một ngàn lần. Cho đến khi Như Lai Niết Bàn, đại
đức đi vân du khắp cõi ta bà, đến chùa nào đại đức cũng bố thí những y
bát của mình cho tất cả tỳ kheo trong chùa đó.
Vậy đại đức A Nan nhờ tạo nghiệp lành nào trong quá khứ
mà trong kiếp này có được y casa phát sanh dồi dào như thế?
Tương truyền rằng, xưa kia trong một kiếp làm thợ dệt, đại
đức có cúng dường một cây kim và một nắm vải vụn đến một vị Phật
Độc Giác. Nhờ quả phước của sự cúng dường cây kim cho nên kiếp này
đại đức có được trí Bát nhã. Nhờ quả phước của sự cúng dường vải vụn,
kiếp này đại đức mới có được nhiều y casa như thế.
107 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chuyện thứ tư :
PHẬT TỬ KHÔNG NÊN TỰ SÁT.
Vua phán hỏi Đại đức Na Tiên rằng:
“Bạch ngài! Phật có dạy chư tỳ kheo rằng: “Không ai được
hủy mạng mình, kẻ nào tự sát thì phải mang tội theo luật.” Nhưng chư tỳ
kheo lại nói ra một đàng khác như vầy: “Hồi Phật truyền đạo cho chư
đệ tử, Phật dạy rất nhiều cách để diệt sanh, lão, bịnh, tử, cho nên hể có
ai diệt được sanh, lão, bịnh, tử thì Phật khen lắm.”
” Bạch ngài! Nếu Phật đã dạy như trên kia mà nay lại nói
rằng Phật bảo phải diệt sanh, lão, bịnh, tử có lẽ là nói sai vậy. Còn nếu
Phật có bảo nên diệt tận, mà nói rằng Phật dạy không nên tự sát, thì
chẳng là nói sái đi vậy. Xin ngài phân biệt hai lẽ ấy cho.”
Tỳ kheo Na Tiên đáp: “Phải đó. Phật đã dạy như lời trên kia,
và khi Phật truyền đạo cho chư đệ tử, Phật dạy rất nhiều cách để diệt
sanh, lão, bịnh, tử. Ngăn cấm như thế kia là có lý, và khuyến khích như
thế nọ cũng có lý lắm vậy.”
Vua hỏi: “Bạch ngài! Ngăn cấm có lý là thế nào? Và khuyến
khích có lý là thế nào?”
“Tâu bệ hạ! Nhà hiền đức và cử chỉ tốt lành tựa hồ như món
thuốc để trừ khử đồ độc, nó làm cho bại hoại con người. Tựa hồ như
dược thảo để trị bịnh cho người. Tựa hồ như nước để tẩy sạch những đồ
bẩn trược của người. Tựa hồ như thuyền lướt khỏi bốn nguồn tật xấu
của con người mà đến mé lành. Tựa hồ như viên chủ tướng dắt đoàn
người qua khỏi đồng cát sanh khổ. Tựa hồ như ngọn gió mát làm cho
người được khoẻ trong cơn mê sốt về tham, sân, si. Tựa hồ như vầng
mây làm cho người được thỏa nguyện. Tựa hồ như một đức thầy độ
người được thêm công quả. Tựa hồ như một nhà đạo sư chỉ dạy con
đường tịnh lạc cho người.”
108 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Tâu bệ hạ! Nhà hiền đức thật có nhiều tánh hạnh tốt lành,
vô cùng, vô tận. Như vậy trong tâm chất chứa bao nhiêu tánh hạnh tốt
lành. Và nhà hiền đức là nguồn gốc các việc từ bi đối với nhơn loại. Bởi
Phật thương nhơn loại và muốn cho nhà hiền đức sống để cứu nhơn độ
thế, nên ngài có dạy chư tỳ kheo rằng: “Không ai được hủy mạng mình,
kẻ nào tự sát thì sẽ mang tội theo luật.” Ay. Phật ngăn cấm có lý là ở
chỗ đó tâu bệ hạ.
“Lại trong khi đoán vận mạng nhơn loại về sau, đức Câu Ma
La Ca Diếp (Kumârakassapa) có nói với ông Hoàng Bây giát Si
(Pâyâsi) rằng: “Bao giờ mấy nhà sư hiền đức cao thượng với các thầy
bà la môn, còn cứu giúp các ổng luôn, còn làm cho phần đông đều được
sung sướng luôn, còn lấy lòng từ bi mà bủa khắp cõi trần và tế độ cho
thần tiên với nhơn loại luôn.”
Vua hỏi nữa rằng: “Bạch ngài! Còn Phật khuyến khích có lý
là thế nào?”
“Tâu bệ hạ! Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ,
lao nhọc là khổ, than van là khổ, khổ là khổ, rầu là khổ, rủn chí là khổ,
gần người nghịch là khổ, xa người thương là khổ. Mẹ chết, cha chết, anh
chết, chị chết, con chết, vợ chết, bà con chết là khổ. Nạn đến cho cha
mẹ, cô bác là khổ. Mất sức khoẻ, mất tiền của, mất danh tiếng, mất đạo
nghĩa là khổ. Bị vua giận là khổ. Sợ trộm cướp, sợ kẻ nghịch, sợ nạn
đói, sợ hỏa hoạn, sợ chết chìm, sợ sóng, sợ trớn nước, sợ sấu, sợ cá lạ
ngòai biển là khổ. Tự mình buộc trói lấy mình là khổ. Bị người giam
cầm là khổ. Bị phạt vạ là khổ. Nghèo là khổ. Thấy kép hát mà sợ là khổ.
Thấy mấy ông sư lỏa lồ hoảng sợ là khổ. Gặp nạn e phải chết là khổ. Bị
đánh bằng mây, bằng roi, bằng hèo là khổ. Tay chân bị chặt đứt là khổ.
Lổ tai, lổ mũi bị thẻo là khổ. Bị phỏng dầu sôi là khổ. Bị chó cắn là khổ.
Bị đâm vào ruột là khổ. Bị chém đầu là khổ.
Ay là các sự khổ mà người ta phải vướng lấy trong khi sống.
Tâu bệ hạ! Nước sông Hằng Hà ơ trên Hy Mả Lạp Sơn chảy xuống, gặp
phải biết bao những đá lớn, đá nhỏ, hầm hố, chỗ xoáy, rễ cây, cành cây
109 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
và các vật khác cản ngăn. Con người cũng thế, trong vòng lưu chuyễn từ
đời sanh này đến đời sanh kia, gặp phải biết bao nạn khổ cản ngăn!
“Tâu bệ hạ! Sống là khổ, không sống là không khổ, là an lạc
vậy. Bởi Phật dạy rằng không sống là tốt, còn sống là nguy khổ lắm, cho
nên Ngài khuyến khích ta nên tầm cái không sống, là phải trị và diệt
sanh, lão, bịnh, tử.
“Ay. Phật khuyến khích có lý là ở chỗ đó vậy tâu bệ hạ.”
Vua phán: “Bạch ngài! Hay lắm! Ngài đã chỉ chỗ khó cho
trẩm rồi. Ngài đã giải đáp một cách khôn khéo, Trẫm chịu ngài nói là
đúng lắm vậy.”
110 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
PHẦN KẾT CỦA QUYỂN NĂM.
Phẩm An Lạc Hạnh. Điểm quan trọng trong phẩm kinh này
là đức Phật dạy hàng Bồ Tát ở trong đời ác sau, nếu muốn nói kinh này
phải an trụ trong bốn pháp:
1. An trụ trong hành xứ: khiêm tốn, nhẫn nhục, không nóng giận, giữ
tâm bình yên, xem mọi vật đều hư dối. Cư xử bình đẳng, ở nơi
pháp không phân biệt, quán tướng các pháp không như thiệt tướng,
tức là chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng thối, chẳng động, không
danh, không tướng, không điên đảo, không chướng, không ngại.
2. An trụ trong thân cận xứ: không gần gủi những người có quyền
thế, chức phận, không gần gủi bọn ngoại đạo phạm chí, không gần
gủi những người sống bằng nghề ác như nuôi trâu bò, gà vịt, chài
lưới, săn bắn, những người sống bằng nghề giết mổ, những bọn
hung dữ hay đánh đá giết chóc lẫn nhau, không gần gủi những phụ
nữ sống bằng thân xác, những kẻ ái nam ái nữ.
3. An trụ trong hạnh an lạc: không được phép nói sai quấy của người
và của kinh điển, không khinh rẻ, kiêu ngạo đối với những vị pháp
sư, không nói điều tốt xấu, hay dở của người khác, không vạch sai
lầm của tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di.
4. An trụ trong hạnh từ bi rộng lớn: dù là tại gia hay xuất gia đều phải
phát tâm đại bi, nếu không sẽ bị mất lợi lớn.
Người phát thệ thọ trì kinh Pháp Hoa là người tự nguyện, tự
mình phát tâm để có công đức lớn, cũng như người bệnh, thấy có đủ mọi
loại thuốc, tự biết mình bệnh gì thì cứ chọn lấy thuốc mà uống.
Người thọ trì kinh Pháp Hoa thường hay bị nhiều tai tiếng,
làm khuynh đảo bổn tâm, có lúc khiến phải thôi bỏ, không tiếp tục thọ trì
nữa. Người phàm tục thì bảo là bị Pháp hoa chuyễn. Nhưng đức Phật
111 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dạy rằng người thọ trì kinh Pháp Hoa phải biết nhẫn nhục, hòa dịu, chớ
vụt chạc lòng, không sợ hãi, không phân biệt và hãy quán tướng các
pháp đều như thiệt tướng.
Người thọ trì kinh Pháp Hoa chớ để bị cám dỗ từ bên ngoài
(thế lực, quyền chức, tiền tài, phụ nữ, ăn mặc, ngủ nghĩ). Phải giữ tâm
tỉnh lặng ngay trong lúc có sự quấy rối do ham muốn, phiền não. Giữ
cho cuộc sống luôn được hạnh phúc, bình an. Đối với ngưới nữ, đức
Phật dạy cẫn thận hơn, vì là đối tượng có thể phát sinh tư tưởng dục
nhiễm. Nếu vì pháp mà tới, thì khi nói pháp môi chẳng hở răng cười,
thân chẳng bày hông ngực, ý chẳng làm thân hậu. Nói tóm lại, đừng để
bị ảnh hưởng đến môi trường chung quanh.
Lại nữa, người thọ trì kinh Pháp Hoa không được phê phán
phẩm chất người này, người nọ, cũng không được phê bình kinh điển
của pháp môn này, pháp môn kia hay kinh điển của các tôn giáo khác.
Cũng là bạn đồng môn đạo tràng với nhau, hãy giúp nhau cùng tu học,
chớ quấy nhiễu nhau làm sinh tâm chán nãn, lười biếng. Và sau rốt phải
phát khởi tâm đại bi, khuyến khích nhau cùng học tập mưới điều lành, rũ
ren nhau cùng làm phước thiện.
Cuối phẩm kinh đức Phật ẩn dụ về viên minh châu. Lời đức
Phật nói với ngài Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát: “Văn Thù Sư Lợi! Như
vua Chuyễn luân thánh vương, thấy các binh chúng, những người
có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong buối tóc
chẳng vọng cho người mà nay cho đó.” Là ý nói đả tới thời cơ đức
Phật đem kinh Pháp Hoa này truyền lại cho chúng sanh tinh tấn thọ trì
để vượt đến bờ “Nhứt thiết chủng trí”.
Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm An Lạc Hạnh
thì cảm thấy niềm tin được củng cố, nghi ngờ được xóa sạch, phẩm hạnh
được tăng cao. Bởi vì thọ trì kinh Pháp Hoa không những đưa cái tâm vô
kỷ luật của chúng ta vào khuôn phép, mà còn đánh thức Phật tánh trong
con người của chúng ta, khiến tâm thức chúng ta nghĩ đến hướng thiện
112 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nhiều hơn, thiền quán tốt hơn, thẩm sâu giáo lý Pháp Hoa cao hơn, xây
dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và tôi miên man nghĩ đến:
Niết Bàn nào ở đâu xa.
Bởi tâm tỉnh giác sinh ra Niết Bàn.
Phẩm Tùng địa dũng xuất thứ 15 có liên quan đến phẩm
16. Phẩm Tùng địa dũng xuất nói về sự xuất hiện vô lượng vô biên của
chư đại Bồ Tát từ trong lòng đất vọt ra. Cả hai phẩm này đều hiển bày
uy lực thần thông của Như Lai. Trong phâm này, có năm tiêu đề chính:
Tiêu đề thứ nhứt, nói về các vị đại Bồ Tát ở cõi nước phương
khác đãnh lễ Phật và xin tình nguyện được phép ở lại cõi ta bà cùng bốn
chúng giữ gìn, đọc tụng, biên chép, rộng nói và cúng dường kinh Pháp
Hoa sau khi Như Lai diệt độ.
Tiêu đề thứ hai, đức Phật từ chối và nói rằng: “Trong cõi ta
bà này số chúng đại Bồ Tát, đông gắp mười lần số hiện diện tại đây, mỗi
vị còn có vô số đệ tử, quyến thuộc, những vị này sẽ đọc tụng hộ trì kinh
điển này sau khi ta diệt độ.” Phật nói xong thì mặt đất rúng nứt, rồi từ
trong lòng đất có vô lượng nghìn muôn ức Bồ Tát đồng thời vọt ra, thân
chói sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt, các ngài bay lên bảo tháp đãnh
lễ đức Đa Bảo Như Lai và đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Các ngài đi
quanh Phật làm lễ và ca tụng những lời lẽ hay trong đạo. Thời gian hành
lễ như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp, do sức thần của Phật khiến hàng
đại chúng cho là như nửa ngày.
Trong số các ngài có bốn vị đạo sư. Người thứ nhứt tên
Thượng Hạnh, có ý nghĩa trí huệ quán xét, trong ngoài sáng rở, biết tự
bổn tâm, đã đến cảnh Phật trí, sắp ngộ đạo Vô thượng Bồ đề. Người thứ
hai tên Vô biên Hạnh, có ý nghĩa trong ngoài chẳng trụ, qua lại tự do, trừ
tâm chấp trước, thông đạt không ngại, người đã thoát khỏi ba cõi, tu
hạnh Bồ Tát đạo. Người thứ ba tên Tịnh Hạnh, có ý nghĩa tâm địa của
Như Lai, dứt tuyệt phiền não, tam độc. Người thứ tư tên An lập Hạnh,
113 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
có ý nghĩa thường làm mười điều thiện, hàng phục được các chúng binh
ma, dập tắt vọng tưởng, vượt khỏi tử sinh, không còn luân hồi.
Bốn vị đạo sư này hỏi thăm sức khoẻ của Như Lai có được ít
bịnh, ít não, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ chăng?
Có quấy rầy làm cho Như Lai sanh mỏi nhọc chăng?
Tiêu đề thứ ba, ngài Di Lặc đại Bồ Tát cùng hằng hà sa số
chư vị Bồ tát khác bày tỏ lòng nghi hoặc. Cũng có số đông thị giả của
các đức Phật do đức Phật Thích Ca phân thân cũng hoài nghi về điều đó.
Tiêu đề thứ tư, đức Phật liền nói: “Nay ta ở trong đại chúng
này, tuyên bảo các ông A Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát, vô lượng vô
số a tăng kỳ từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy
đó, chính ta ở cõi ta bà lúc đặng Vô thương Chánh đẳng Chánh giác
rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó, điều phục tâm kia, khiến phát
đạo tâm.”
Tiêu đề thứ năm, nghe Phật nói xong ngài Di Lặc Bồ Tát
cùng vô lượng, vô số chúng đại Bồ Tát lấy làm lạ tự hỏi:
“Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian ngắn mà có thể
giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó?
Trong phần đầu, đức Phật từ chối chư vị Bồ Tát ở các cõi
nước phương khác đến cõi ta bà này tự nguyện gìn giữ, thọ trì, đọc tụng,
biên chép kinh Pháp Hoa sau khi Như Lai diệt độ. Có phải vì đã có vô
lượng vô biên a tăng kỳ chư đại Bồ Tát được sự giáo hóa của đức Phật
Thích Ca từ trong đất vọt ra đó? Về mật nghĩa chúng ta cũng có thể hiểu
như vầy, chúng ta tu kinh Pháp Hoa phải biết tự lực giải thoát. Bởi vì
đức Phật nhìn thấy hết thảy chúng sanh trong cõi ta bà này đều có Phật
tánh. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh làm cản trở, che áng trí huệ và phước
đức. Đức Phật muốn cho chúng ta phải tự lực giải thoát vòng vô minh,
phá tan phiền não, bức xiềng tam độc, làm cho trí huệ được sáng suốt,
114 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
làm cho mười điều thiện được tăng trưởng, phước đức tích lũy càng
nhiều, tự tánh càng lộ ra.
Mình phải tự cứu, rồi người khác sẽ cứu mình. Mình phải
làm sao cho cái tâm của mình được chơn thường tịch tịnh rồi đức Phật
mới tiếp độ mình. Tự lực giải thoát là tự mình tháo gở những mắt gút
phiền não, khổ trược.
Phẩm Như Lai thọ lượng. Sự thọ mạng của Như Lai vô
lượng a tăng kỳ kiếp, sự thọ mạng được coi như là thường trụ, vĩnh
hằng.
Xưa nay, chúng ta chỉ biết đức Phật sanh ra tại vườn Lâm Tỳ
Ni ở thành Ca Tỳ La Vệ, con của vua Tịnh Phạn và mẫu hậu Ma Da.
Mười chín tuổi ngài thoát ly ra khỏi hoàng cung tìm đạo, năm năm rảo
bước khắp nơi hỏi đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng sâu, bốn mươi chín
năm hoằng dương chánh pháp và Phật Niết Bàn vào lúc tám mươi tuổi.
(Chúng ta phải hiểu Niết Bàn là cõi chơn thường tịch tịnh, cõi viên mãn
vô vi, cõi chẳng sanh chẳng diệt. Như vậy Niết Bàn là cõi mà các bậc
chơn tu sau khi trả lại thân xác thế gian đều nương về đó, vì đó là chỗ rất
nhiệm mầu, là chỗ siêu thoát cảnh luân hồi, xa lìa đường sanh tử, không
phải là cõi chết. Vì không nhận rỏ nghĩa Niết Bàn, nên người đời cứ cho
là cõi chết, thiệt là sai lầm lắm thay!)
Thời gian đó chúng ta nghĩ rằng quá đủ cho một đời người,
nhưng quá ngắn đối với đức Phật. Các vị Bồ Tát thắc mắc tại sao với
thời gian như thế mà đức Phật lại có thể độ được vô số đệ tử đắc quả A
la hán trở lên? Trước khi giải thích cho đại chúng thấu tỏ lý nhiệm mầu,
đức Phật phải ba lần nói đi nói lại chỉ một câu:
“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”
“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”
“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”
115 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Và ngài Di Lặc đại Bồ Tát, đứng đầu trong hàng bốn chúng,
cũng ba lần đãnh lễ Phật và nói:
“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời
Phật”.
“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời
Phật.”
“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời
Phật.”
Vì lòng từ bi cho hết thảy chúng sanh, Như Lai liền giải đáp
những chỗ nghi của chúng đại Bồ Tát. Trong nhiều đời nhiều kiếp, đức
Phật Thích Ca tu hạnh Bồ Tát đạo, những hạnh khổ nào khó làm Bồ Tát
đạo phải làm được và phải độ được chúng sanh. Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật đã ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu Bồ Tát đạo như vậy,
kiếp còn mà nói diệt độ, cũng là một cách để tiếp độ chúng sanh. Bởi
chúng sanh phước mỏng, đức kém, có người có nhơn duyên gặp Phật, có
người không có nhơn duyên gặp Phật. Nên đức Phật mới nói: “Các Tỳ
kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng thấy.”
Nghe nói Như Lai khó đặng gặp, khiến họ mới ôm lòng khát
ngưỡng, luyến mộ nơi Phật, bèn trồng cội lành.
Ví dụ như tại một thành phố nọ, người dân nào nghe nói đến
công viên Suối Tiên mà chẳng biết, nhưng người biết rành về công viên
Suối Tiên chẳng được bao nhiêu, vì những người này họ nghĩ rằng, công
viên Suối Tiên nằm tại thành phố này, muốn đi tham quan bất cứ lúc nào
lại chẳng được, nhưng rốt cuộc họ chẳng bao giờ đi tới nơi đó, vì họ
không quan tâm tới, cũng có khi họ muốn đi ngày hôm đó, rồi bận bịu
đủ thứ công việc khiến họ không đi được, đây gọi là họ chưa có nhơn
duyên. Trái lại người ở các tỉnh xa, có dịp đi lên thành phố là họ đi tham
quan Suối Tiên. Những người này gọi là có nhơn duyên. Họ vào công
viên, đi khắp mọi ngã ngách trong đó, thấy đủ mọi thứ trò chơi trong đó,
nghe bất cứ âm thanh nào họ muốn nghe. Cho nên người đó có nhơn
duyên học hỏi nhiều, nghe thấy nhiều, hiểu biết nhiều.
116 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chúng sanh như người dân thành phố, nghĩ rằng chắc đức
Phật sẽ sống lâu hơn người đời, muốn gặp đức Phật lúc nào lại chẳng
được, hôm nay không gặp Ngài thì ngày mai cũng gặp được Ngài, từ đó
sinh ra lười biếng, giải đải, hẹn lần hẹn lựa, rốt cuộc chẳng bao giờ gặp
đặng Phật, những người này không có nhơn duyên gặp Phật.
Có người nghĩ rằng ta phải vun trồng thiện căn để cầu mong
được gặp Phật, sự khát ngưỡng đó biến thành hành động là họ luôn luôn
nghĩ đến mười điều thiện, và làm việc thiện lợi ích cho đời, những người
như thế là có nhơn duyên với Phật. Như người dân ở các tỉnh xa, muốn
có một ngày đi tham quan cảnh Suối Tiên thì ngay bây giờ phải để dành
sẳn một số tiền lộ phí.
Sự khao khát được gặp Phật tức là đã tỏ bày lòng ái mộ và
kính ngưỡng sự thọ mạng dài lâu của đức Phật. Lòng khát ngưỡng ngày
càng cao, niềm tin ngày càng sâu, vun trồng đạo đức ngày càng nhiều,
người đó sẽ thấy tâm mình trở nên thanh tịnh. Bởi vì phải giữ cho cái
tâm “Xưa nay vốn không một vật. Chỗ nào bám được bụi nhơ” dầu
không gặp đặng Phật trong hiện tiền, nhưng rồi cũng được gặp Phật
trong chiêm bao.
Thế rồi Phật diễn giải cho đại chúng Bồ Tát tỏ rỏ hơn bằng
một ẩn dụ về vị lương y và các con. Đây là ẩn dụ thứ bảy trong toàn bộ
hai mươi tám phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói về những đứa con
lầm lở uống nhầm thuốc độc, (ý nói là chúng sanh vì si mê nên chìm
đắm trong năm món dục). Vị lương y nghe tin con uống lầm thuốc, bèn
từ xứ xa trở về điều chế ra thang thuốc mùi sắc vị ngon cho các con
uống đặng tiêu trừ độc dược, (ý nói bài thuốc Tứ Thánh Đế, bài thuốc
Mười hai nhơn duyên và bài thuốc Lục độ). Trong số các con, có người
thấy thuốc có hương sắc thơm ngon liền uống ngay, bệnh đều lành, có
người thấy thuốc không chịu uống, dầu người cha năn nỉ ép uống, cũng
không chịu uống, những người này đã mất hết bổn tâm.
Vì những đúa con đáng thương này, vị lương y mới bày
chước phương tiện, liền bảo các con rằng: “Các con phải biết, nay ta
117 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tuổi đã già suy, giờ chết sắp đến. Thuốc lương dược này ta để ở đây,
các con nên lấy uống, chớ lo bệnh độc không lành.” Và rồi vị lương y
đi qua nước khác, sai sứ về nói “cha các người đã chết”.
Những đứa con trước đây không chịu uống thuốc lấy làm sầu
khổ mà than thở rằng: “Nếu cha ta còn sống, thương xót chúng ta, có
thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta, xa chết ở nước khác, bệnh trầm
trọng này ai cứu được đây?” Tự nghĩ mình nay côi cúc, không có chỗ
cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ. Biết thuốc này sắc
hương vị ngon, liền lấy uống, bệnh độc đều lành. Người cha nghe tin các
con nay đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
Tin vào sự thọ mạng dài lâu của đức Phật, tin vào giáo lý tối
thượng của đức Phật, tức là chúng ta đã tự mình trút bỏ phiền não, khổ
đau trong cõi trần thế này.
Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn
Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy,
có sanh lòng tin thiệt chăng?” Phật bảo ông Tu Bồ Đề: “Chớ có nói lời
ấy. Khi Như Lai diệt độ rồi, năm trăm năm sau có kẻ nào trì giới tu
phước mà sanh lòng tin những câu bài ấy thì lấy đó làm thiệt. Nên
biết người ấy chẳng những là gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai
kiếp Phật, ba bốn năm kiếp Phật, mà đã gieo căn lành đến vô lượng
nghìn muôn kiếp Phật rồi. Nghe những câu bài ấy, nhứt niệm sanh
lòng tin chắc, Như Lai đều biết hết, thấy hết.” (Kinh Kim Cang.)
Vị lương y thương các con mình, thấy các con mình uống
lầm thuốc độc trong lòng đau đớn biết bao, tự bào chế ra món lương
dược, sắc hương vị ngon rồi cho các con uống. Người mau tỉnh ngộ liền
uống ngay, chất độc tiêu trừ, có người thấy thuốc mà vì lạc mất chơn
tâm, nên không chịu uống thuốc, bệnh độc càng phát lên cuồng loạn.
Vị lương y là đức Bổn Sư Thích Ca Như Lai, còn các con tức
là chúng sanh vậy. Chính vì thế, Như Lai hoằng dương chánh pháp chưa
đặng năm mươi năm bèn phải vội vàng nhập Niết Bàn.
118 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đức Phật nhập Niết Bàn cũng vì lòng đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả đối với hết thảy chúng sanh phước mỏng, đức kém.
Tới đây Như Lai hỏi trong đạo tràng: “Các thiện nam tử!
Có ai nói vị lương y đó mắc tội hư dối chăng”. Cả đại chúng đồng
thanh đáp: “Thưa Thế Tôn! Không thể được.”
Phật nói: “Ta cũng như thế! Từ khi thành Phật đến nay
đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp, vì
chúng sanh dùng sức phương tiện nói “sẽ diệt độ”, cũng không ai có
thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.”
Phẩm Phân biệt công đức. Là chỉ rỏ về mỗi nhận thức của
mỗi người về sư tin hiểu sự thọ mạng dài lâu của đức Phật.
Đức Phật phân biệt mười hai bực công đức cho sự tin hiểu
nhiều ít của chúng sanh. Tin hiểu chút chút được lợi nhỏ, tin hiểu in ít
thì được lợi vừa, tin hiểu rỏ thì được lợi khá, tin hiểu rỏ kỷ thì được lợi
khá hơn, tin hiểu sâu thì được lợi nhiều, tin hiểu thâm sâu thì được lợi
lớn, tin hiểu hoàn toàn rốt ráo thì được lợi quả giác ngộ.
Chúng sanh nào tu Bồ Tát đạo chỉ với năm độ: bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. So ra với công đức người thiện nam tín
nữ tin hiểu sự thọ mạng dài lâu của Như Lai, thì người tu năm độ trên
kia không bằng trăm nghìn phần, nhẫn đến muôn ức phần cũng chẳng
kịp một, hoặc là không thể so sánh bằng tỷ lệ được. Vì sao? Vì người đó
còn thiếu hạnh trí huệ ba la mật. Không có trí huệ thì còn xa cách Phật.
Người có trí huệ chỉ cần phải tin hiểu sâu chắc Như Lai thường trụ trong
ba thời quá khứ vô tận, hiện tại vô cùng, vị lai vô chung thì công đức của
người đó không hạn lượng, có thể sanh huệ Vô thượng của Như Lai.
Huống gì là người rộng nghe nói kinh Pháp Hoa, hoặc bảo người nghe,
hoặc tự thọ trì, hoặc khuyến bảo người thọ trì, hoặc tự chép hoặc bảo
người chép, hoặc cúng dường kinh điển này, thời công đức của người đó
có thể sanh Nhứt thiết chủng trí.
119 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Muốn bày tỏ sự tin hiểu sâu chắc về sự thọ mạng của Như
Lai, chúng ta phải quán tưởng: “Tại núi Kỳ xà Quật có vô lượng chúng
đại Bồ Tát vây quanh nghe đức Phật nói pháp. Cõi ta bà này đất bằng
lưu ly bằng phẳng, dây vàng ngăn tám nẽo đường, các chúng đại Bồ Tát
ở trong các lâu đài quí báu đó…” Rồi cứ thế, chúng ta tiếp tục quán
tưởng: “Sau năm trăm năm Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này
mà không chê bai, sanh tâm tùy hỷ, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu
chắc, huống là người đọc tụng, thọ trì kinh này, những người như thế
trọn đời đầu đội đức Như Lai, phải biết người đó đã đến đạo tràng ngồi
dưới cội đạo thọ gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Tất cả chúng ta, những người đã từng thệ nguyện thọ trì, đọc
tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hãy nuôi dưỡng cho
công đức này ngày thêm tăng trưởng, tức là nuôi dưỡng trí huệ đến gần
cảnh Phật trí.
Sắc thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh chẳng nghĩ bàn
Sắc thân Phật vô tận
Trí huệ Phật cũng thế
Tất cả pháp thường trú
Cho nên con về nương
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui
Con nay sạch ba nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Đồng sanh nước cực lạc.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
120 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
QUYỂN SÁU
Phẩm TÙY HỶ CÔNG ĐỨC thứ mưới tám.
Nghe kinh Pháp Hoa, hiểu ý thú của kinh Pháp Hoa, rồi sanh
tâm tùy hỷ (thấy trong lòng tự dưng mừng vui liền tùy tâm làm theo)
diễn giảng kinh Pháp Hoa cho mọi người nghe, hoặc rũ ren bè bạn đến
cùng chung thọ trì kinh điển này. Công đức của người ấy có thể sanh trí
huệ của Như Lai, bởi vì người ấy tin đúng chánh pháp, hiểu đúng chơn
lý. Người ấy có lòng tin hiểu thẩm sâu, công đức của ngưới ấy lớn lao
vô lượng, vô biên, người ấy có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
Trên đây là phần nội dung chánh của phẩm Tùy Hỷ Công
Đức thứ mười tám.
“1.- Lúc bấy giờ ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp
Hoa này mà tùy hỷ đó, đặng bao nhiêu phước đức?”
“2.- Khi đó Phật bảo ngài Di Lặc đại Bồ Tát rằng:
“A Dật Đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ kheo, tỳ
kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và người trí khác, hoặc lớn hoặc nhỏ,
nghe kinh này mà tùy hỷ rồi, từ trong pháp hội ra đến chỗ khác,
hoặc tại tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường xá,
xóm làng, ruộng rẩy, đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha
mẹ, tôn thân, thiện hửu, trí thức tùy sức diễn nói. Các người đó nghe
rồi tùy hỷ lại đi chuyễn dạy người khác, người khác nghe rồi cũng
tùy hỷ chuyễn dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi.”
Trong đoạn kinh văn dẫn giải, chúng ta phân biệt được:
1/- Nghe kinh Pháp Hoa rồi tùy hỷ. Có nghĩa là chính tự mình đi
tới giảng đường nghe một vị pháp sư thuyết giảng kinh Pháp Hoa. Nghe
121 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
xong thời thuyết pháp, tự mình tìm hiểu, hoặc tìm hiểu qua vị pháp sư.
Hiểu thấu trọn nghĩa lý của kinh điển rồi phát tâm tùy hỷ.
2/- Truyền đạt lại giáo pháp này cho người khác. Là người có thọ
trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, truyền đạt tùy theo khả năng của mình, hay
dở không sao, miễn làm thế nào cho người được truyền đạt phải tin hiểu
giáo lý một cách sâu chắc, không sai lạc. Người này nghe rồi cũng sanh
lòng tùy hỷ nói lại cho người khác nghe. Người thứ ba này chuyễn dạy
cho người thứ tư, người thứ tư chuyễn dạy cho người thứ năm, lần lượt
như vậy cho đến nhiều người khác nữa.
3/- Cho đến người thứ năm mươi. Trong kinh đức Phật nói truyền
đạt chơn lý diệu hửu đến người thứ năm mươi. Thật ra thì con số vô
hạn, càng nhiều càng tốt. Có một điều đáng lo ngại là từ người thứ nhứt
đến đạo tràng nghe thuyết giảng kinh, người này phải tin chắc vào
những gì pháp sư đã giảng là đúng chơn lý, đúng chánh đạo. Người
trước truyền cho người sau, người sau truyền cho người sau nữa, làm thế
nào phải tùy hỷ đúng theo bát chánh đạo. Nếu người trước nói lại sai
một li, thì người thứ năm mươi cảm thọ chơn lý sai đến một dặm.
Đức Phật nói với ngài Di Lặc đại Bồ Tát:
“3/- A Dật Đa! Công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện
nữ nhơn thứ năm mươi đó, ta nay nói ông phải lóng nghe.
“Nếu bốn trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường
chúng sanh trong bốn loài sanh : noãn sanh, thai sanh, thấp sanh,
hóa sanh, hoặc có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, chẳng
phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chưn, hai chưn, bốn
chưn, nhiều chưn, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu
phước tùy theo đồ ưa thích của chúng muốn đều cung cấp cho đó.
Mỗi mỗi chúng sanh cho các trân bảo tốt: Vàng bạc, lưu ly, xa cừ,
mã nảo, san hô, hổ phách đầy cả diêm phù đề (96)
và voi ngựa, xe cộ,
bảy báu làm thành những cung điện, lầu gác “Vị đại thí chủ đó bố
thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: “Ta đã ban cho
122 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
chúng sanh những đồ ưa thích tùy theo ý muốn, những chúng sanh
này đều đã già suy tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn gần chết
chẳng lâu, ta phải dùng Phật Pháp dạy bảo dìu dắt chúng. Liền
nhóm chúng sanh đó tuyên bày pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui
mừng. Đồng thời đặng đạo Tu đà hoàn, đạo tư đà hàm, đạo A na
hàm, đạo A la hán (97)
dứt hết cả hửu lậu, với những thiền định sâu
đều đặng tự tại, đủ tám món giãi thoát. Ý ông nghĩ sao? Công đức
của vị đại thí chủ đó đặng có nhiều chăng?
4/- Hồi hướng công đức tùy hỷ. Công đức của vị thí chủ trên đây
thiệt là vô lượng vô biên, nhưng nếu đem so sánh với người thứ năm
mươi xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, thời công đức của thí chủ đó không
bằng.
Khi phát tâm tùy hỷ vì người khác mà nói kinh Pháp Hoa,
chúng ta phải hồi hướng công đức như vầy: “Mong sao sự tùy hỷ công
đức này khơi dậy tâm thức của người thứ năm mươi, khiến họ mau đặng
thành tựu Phật đạo trong hiện đời này.” Sự tùy hỷ như vậy mới đem lại
công đức thiết thực.
Đức Phật dạy chúng thiện nam, tín nữ nào nghe nói có thuyết
kinh tên Pháp Hoa liền phát tâm tùy hỷ đến nghe, hoặc ngồi, hoặc đứng
trong chốc lát để nghe nhận, công đức của người đó chuyễn thân sanh ra
voi, ngựa, xe cộ, kiệu cáng. Hoặc đang ngồi nghe pháp, thấy có người
sau đến bèn nhường chỗ cho ngồi, công đức của người đó chuyễn thân
đặng chỗ ngồi của Đế Thích, hoặc là chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc
chỗ ngồi của Chuyễn Luân Thánh Vương.
Đức Phật nói tiếp:
“5.- A Dật Đa! Nếu lại có người nói với người khác rằng
“Có kinh tên Pháp Hoa nên cùng nhau qua nghe”. Liền nhận lời
bảo, nhẫn đến nghe trong giây lát, công đức của người đó chuyễn
thân đặng với đà la ni Bồ Tát, sanh chung một chỗ, căn tánh lanh
lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đời trọn chẳng ngọng câm, hơi
123 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
miệng chẳng hôi, lưởi thường không bịnh, miệng cũng không bịnh,
răng chẳng đen dơ, chẳng vàng, chẳng thưa cũng chẳng thiếu rụng,
chẳng so le, chẳng sếu gẩy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm,
chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng sứt hư, cũng chẳng cong
vẹo, chẳng dày, chẳng lớn cũng chẳng đen nám, không có các tướng
đáng chê.
“Mũi chẳng xệp dẹp, cũng chẳng cong gảy, sắc mặt chẳng
đen, chẳng hẹp dài cũng chẳng hóm gảy, không có tất cả tướng
chẳng đáng ưa. Môi, lưỡi, răng, nướu thảy đều nghiêm tốt, mũi lớn
cao thẳng, diện mạo tròn đầy, mày cao mà dài, trán rộng bằng
thẳng, tướng ngưới đầy đủ, đời đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin
nhận lời dạy bảo.
“A Dật Đa! Ngươi hãy xem, khuyên nơi một người khiến
qua nghe pháp mà công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói,
đọc, tụng lại ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như lời dạy
mà tu hành.”
NHỮNG BÀI KỆ CỦA ĐỨC BỒ TÁT DI LẶC.
Di Lặc (Maitreya) là họ, hán dịch là Từ Thị.
A Dật Đa (Ajita) là tên, hán dịch là Vô Năng Thắng.
Sách Di Đà sớ sao giảng : « Do khi Ngài còn trong thai, mẹ
liền có tâm từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong đời quá khứ gặp Đại Từ
Như Lai, nguyện cùng mang hiệu này liền đắc Từ Tâm Tam muội. Xưa
kia Ngài làm Bà la môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám ngàn năm tu
tập hạnh từ. Trong thời Đức Phất Sa Phật lại cùng với Thích Ca Như
Lai phát tâm bồ đề, thường tu tập Từ Định, chúng sanh trông thấy Ngài
liền đắc Từ Tâm Tam Muội. »
124 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì lòng thương xót chúng sanh trong cõi đời phiền não này,
nên Ngài phát nguyện độ chúng sanh tận muôn kiếp về sau, lòng từ của
Ngài không ai qua được nên mới gọi là Vô Năng Thắng.
Hiện Ngài đang ngự trong nội viện cung trời Đâu Xuất, bốn
ngàn năm sau Ngài sẽ thị hiện trong cõi ta bà này. (Bốn ngàn năm của
trời Đâu Xuất tương đương với năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm ở
địa cầu).
Ngài được đức Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký kế đây sẽ thành
Phật hiệu là LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI
LẶC TÔN PHẬT.
Sau khi giáo pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật triệt diệt
mãn tiểu kiếp thứ chín, qua tiểu kiếp thứ mười, ngài A Dật Đa Bồ Tát
hiện thân thành Phật ở cõi đời này hiệu là Phật Di Lặc. Hình tượng của
Ngài rất dễ nhìn và rất gần gủi với chúng ta, một thân hình mập mạp,
bụng to, miệng cười rất hoan hỷ. Nhìn thấy hình tượng ngài thật vô cùng
hạnh phúc, khiến cho tất cả chúng sanh trông thấy ngài cũng tràn đầy
125 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hạnh phúc theo. Vậy Bồ Tát Di Lặc tu hạnh gì mà phước báo như thế?
Kinh nói rằng Bồ Tát tu hạnh Từ bi, Tùy hỷ và Hỷ xả.
Bồ Tát Di Lặc có lòng từ bi thấy chúng sanh khổ coi như
chính mình bị khổ, thấy chúng sanh vui coi như chính mình được vui,
cho nên nhìn thấy Phật tử đi chùa và ham làm điều phước thiện, nên ngài
vui mừng, miệng cười toe toét.
Bồ Tát Di Lặc do có lòng tùy hỷ, thấy Phật tử làm điều lành
ngài cũng vui mừng theo.
Bồ Tát Di Lặc do có lòng hỷ xả, tức là xoá bỏ hết đố kỵ,
phiền não để được vui vẻ vẹn toàn. Vì vậy ngày vía của Bồ Tát rơi trúng
vào ngày mồng một tháng giêng. Ngày mồng một Tết người ta chúc
nhau “An khang hạnh phúc”, “An khang thịnh vượng”, “Vạn sự
như ý”. Trong ngày mồng một Tết mọi người đều mừng vui, cởi mở,
xóa tan mọi hiềm khích đố kỵ, trút bỏ mọi phiền não, khổ phược, đó
cũng là biểu tượng của Bồ Tát Di Lặc.
Huyền sử viết rằng, vào hồi thế kỷ thứ tư (tây lịch), đức Bồ
Tát Di Lặc giáng xuống trần ở tiểu vương quốc Ayodhya Ấn Độ, quê
hương của hai anh em sinh đôi, Bồ Tát Vô Trước (Asanga) và Thế Thân
(Vasubandhu), vị tổ sư đời thứ hai mươi mốt của Thiền Tông An Độ, để
giáo hóa ngài Vô Trước. Ban đêm ngài Vô Trước nghe đức Di Lặc giảng
kinh, ban ngày thuyết lại cho đại chúng nghe, cứ như thế liền trong bốn
tháng. Ngài Vô Trước hoàn thành đặng hai bổn nguyện lớn.
Bổn nguyện thứ nhứt ngài viết ra thành năm bộ luận từ
những bài giảng của ngài Di Lặc Bồ Tát, mà trong đó bộ Du Già Sư Địa
Luận ngài Di Lặc là tác giả. Cả năm bộ luận này sau đó lúc ngài Huyền
Trang sang Thiên Trúc thỉnh kinh, (thế kỷ thứ bảy) mang về Trung quốc
dịch ra Hán tư.
Bổn nguyện thứ hai là ngài độ cho đứa em Thế Thân chứng
ngộ lý Duy Thức. (xem truyện Anh em sinh đôi, trang 242 tập 1).
126 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chúng ta hãy bắt chước tu theo hạnh của Bồ Tát Di Lặc. Tùy
hỷ không bao giờ làm thiệt hại cho ai, không bao giờ làm tổn thương ai,
không làm cho ai tủi lòng, phiền muộn, không đố kỵ, không giận hờn.
Nếu có ai mang sân hận trong lòng hãy nhìn hình tượng ngài sẽ tiêu tan
sân hận. Cho nên khi thấy ai tu tạo công đức, chúng ta hãy tùy hỷ làm
thêm công đức đó, thấy ai vui vẻ làm điều lành, chúng ta hãy tùy hỷ
cũng làm theo điều lành, tức là chúng ta đã sống hạnh phúc theo hạnh
của Bồ Tát Di Lặc: Từ bi, Tùy hỷ và Hỷ xả.
Trong kinh Phật dạy: “Người nào thấy ai làm điều thiện,
liền phát tâm tùy hỷ, thì người làm điều thiện được bao nhiêu công
đức, người phát tâm tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức.”
Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật: ”Bạch Thế Tôn! Nếu công
đức người phát tâm tùy hỷ bằng công đức của người làm điều thiện,
như vậy công đức của người làm điều thiện có bị hao mòn chăng?”
Đức Phật phán: “Này A Dật Đa! Giả sử một cây đuốc đang
cháy, có người đem cây đuốc khác tới mồi lửa, khi lửa bén cháy qua
cây đuốc thứ hai, cây đuốc thứ nhứt có bị lu mờ hay phụt tắt chăng ?
“Bạch Thế Tôn! Cây đuốc thứ nhứt vẫn cháy mà không bị
lu mờ, không bị tắt phụt.”
“Này A Dật Đa! Cũng vậy đó, công đức của người làm từ
thiện không bị hao mòn, không bị chia xớt.”
Qua thí dụ trên chúng ta hiểu rằng người phát tâm làm từ
thiện đặng một trăm phần công đức, người tùy hỷ làm theo cũng đặng
một trăm phần công đức.
Trong hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Di Lặc
thay mặt hội chúng đặt nhiều câu hỏi để được ngài Văn Thù Sư Lợi,
127 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hoặc khi thì đức Thế Tôn giải đáp. Nay lần lượt trích ra những bài kệ
chất vấn đức Thế Tôn theo từng phẩm kinh.
Phẩm Tựa thứ nhứt.
8.-Ngài Văn Thù Sư Lợi
Đức Đạo sư cớ chi
Lông trắng giữa chặn mày
Phóng ánh sáng khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn đà
Cùng hoa Mạn thù sa
Gió thơm mùi chiên đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
Vì nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơi thới
Đặng việc chưa từng có.
9.- Anh sáng giữa chặn mày
Soi suốt thẳng phương đông
Một muôn tám nghìn cõi
Đều ánh như sắc vàng
Từ địa ngục A Tỳ
Trên đến trời hửu đảnh
Trong các thế giới đó
Cả sáu đạo chúng sanh
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rỏ.
128 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
10.- Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh chúa sư tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bực thứ nhứt
Tiếng của ngài thanh tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ Tát
Vô số ức muôn người
Tiếng Phạm âm thâm diệu
Khiến người đều ưa nghe
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chánh pháp
Dùng nhiều món nhơn duyên
Cùng vô lượng tỉ dụ
Để soi rỏ Phật Pháp
Mà khai ngộ chúng sanh
Nếu có người bị khổ
Nhàm lìa già, bịnh, chết
Phật vì nói Niết Bàn
Để dứt các ngằn khổ
Nếu là người có phước
Đã từng cúng dường Phật
Chí cầu Pháp thù thắng
Vì nói hạnh Duyên giác
Nếu lại có Phật tử
Tu tập các công hạnh
Để cầu huệ vô thượng
Phật vì nói tịnh đạo.
11.- Ngài Văn Thù Sư Lợi
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra.
129 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
12.- Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng sa Bồ Tát
Dùng các món nhơn duyên
Mà cầu chứng Phật đạo
Hoặc có vị Bồ Tát
Vàng, bạc, ngọc, san hô
Chơn châu, ngọc như ý
Ngọc xa cừ, mã não
Kim cương các trân bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu cáng chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về Phật đạo
Nguyện đặng chứng thừa ấy
Bực nhứt của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi
Hoặc có vị Bồ Tát
Xe tứ mả, xe báu
Bao lơn che tàng đẹp
Trau tria dùng bố thí
Lại thấy có Bồ Tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chơn
Để cầu Vô thượng đạo
Lại thấy có Bồ Tát
Đầu mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí huệ Phật.
13.- Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Ta thấy các quốc vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo Vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
130 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phục
Hoặc lại thấy Bồ Tát
Mà hiện làm tỳ kheo
Một mình ở vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Cùng thấy có Bồ Tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo
Và thấy bực ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Đặng năm món thần thông
Và thấy vị Bồ Tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các pháp vương
Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỷ dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ Tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp
Cùng thấy vị Bồ Tát
Vắng bặt yên lặng ngồi
Trời rồng đều cung kính
Chẳng lấy đó làm mừng
Và thấy có Bồ Tát
131 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghĩ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo
Cũng thấy đủ giới đức
Oai nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu châu
Để cầu chứng Phật đạo
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ Tăng thượng mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạo
Lại thấy có Bồ Tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc ngu si
Ưa gần gủi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Để cầu được Phật đạo.
14.- Lại thấy vị Bồ Tát
Đồ ăn uống ngọt ngon
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và Tăng
Ao tốt đồ thường phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô giá y
Đem cúng Phật và Tăng
Dùng nghìn muôn ức thứ
132 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nhà báu bằng chiên đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng Tăng
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng dường Phật và Tăng
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Để cầu đạo Vô thượng.
15.- Lại có vị Bồ Tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
Hoặc thấy vị Bồ Tát
Quán sát các pháp tánh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
Mà cầu đạo Vô thượng.
16.- Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Lại có vị Bồ Tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường Xá lợi Phật
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số hằng sa
Nghiêm sức các cõi nước
Bửu tháp rất cao đẹp
Đều năm nghìn do tuần
133 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai nghìn do tuần
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị trời, rồng, thần
Người cùng với phi nhơn
Hương hoa cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường
Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Các hàng Phật tử kia
Vì cúng dường xá lợi
Nên trang sức tháp miếu
Cõi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên thọ vương
Bông kia đang xòe nở.
17.- Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hửu
Phóng một luồng tịnh quang
Soi khắp vô lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Đặng điều chưa từng có.
18.- Xin Phật tử Văn Thù
Giãi quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn ngài và nhìn ta
Đức Thế Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này?
134 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng
Có những lợi ích gì
Đức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng đặng pháp thâm diệu
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn Thù nên biết
Bốn chúng và Long thần
Nhìn xem xét ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm.
Ngài Di Lặc Bồ Tát cùng tám nghìn hằng ha sa các chúng Bồ
Tát khác vô cùng kinh ngạc khi thấy cõi nước đất đều rúng nứt và từ
trong đó vọt lên vô lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát thân đều sắc
vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt, trong đó có bốn vị đạo sư: Thượng
Hạnh, Vô biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An lập Hạnh, là bốn vị Bồ Tát
thượng thủ xướng đạo sư, thay mặt và hỏi thăm sức khoẻ đức Thế Tôn.
Lúc đó đại Bồ Tát Di Lặc thay mặt tám nghìn hằng hà sa các chúng Bồ
Tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chắp tay hướng về
phía Phật và nói kệ rằng:
Vô lượng nghìn muôn ức
Các Bồ Tát đại chúng
Từ xưa chưa từng thấy
Nguyện đấng Lưỡng túc (98)
nói
Là từ chốn nào đến
135 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Do nhơn duyên gì nhóm
Thân lớn đại thần thông
Trí huệ chẳng nghĩ bàn
Chí niệm kia bền vững
Có sức nhẫn nhục lớn
Chúng sanh chỗ ưa thấy
Là từ chốn nào đến?
Mỗi mỗi hàng Bồ Tát
Đem theo các quyến thuộc
Số đông không thể lường
Như số hằng hà sa
Hoặc có đại Bồ Tát
Đem sáu muôn hằng sa
Các đại chúng như thế
Một lòng cầu Phật đạo
Những đạo sư đó thảy
Sáu muôn hằng hà sa
Đều đến cúng dường Phật
Cùng hộ trì kinh này
Đem năm muôn hằng sa
Số này hơn số trên
Bốn muôn và ba muôn
Hai muôn đến một muôn
Một nghìn một trăm thảy
Nhẫn đến một hằng sa
Nửa và ba bốn phần
Một phần trong ức muôn
Nghìn muôn na do tha
Muôn ức các đệ tử
Nhẫn đến đem nửa ức
Số đông lại hơn trên
Trăm muôn đến một muôn
Một nghìn và một trăm
Năm mươi cùng một mươi
Nhẫn đến ba, hai, một
136 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Riêng mình không quyến thuộc
Ưa thích ở riêng vắng
Đều đi đến chỗ Phật
Số đây càng hơn trên
Các đại chúng như thế
Nếu người phát thẻ đếm
Quá nơi kiếp hằng sa
Còn chẳng thể biết hết
Các vị oai đức lớn
Chúng Bồ Tát tinh tấn
Ai vì đó nói pháp
Giáo hóa cho thành tựu
Từ ai? Đầu phát tâm?
Xưng dương Phật Pháp nào?
Thọ trì tu kinh gì?
Tu tập Phật đạo nào?
Các Bồ Tát như thế
Thần thông sức trí lớn
Đất bốn phương rúng nứt
Đều từ đất vọt lên
Thế tôn con từ xưa
Chưa từng thấy việc đó
Xin Phật nói danh hiệu
Cõi nước của kia ở
Con thường qua các nước
Chưa từng thấy chúng này
Con ở trong chúng đây
Bèn chẳng quen một người
Thoạt vậy từ đất lên
Mong nói nhơn duyên đó
Nay trong đại hội này
Vô lượng trăm nghìn ức
Các chúng Bồ Tát đây
Đều muốn biết việc này
Hàng Bồ Tát chúng kia
137 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Gốc ngọn nhơn duyên đó
Thế Tôn đức vô lượng
Cúi mong quyết lòng nghi.
10. Lúc bấy giờ, ngài Di Lặc Đại Bồ Tát cùng vô số chúng
Bồ Tát, lòng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng:
“Thế Tôn! Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có
thể giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó, làm cho
trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Thế Tôn! Đức Như Lai lúc làm Thái tử rời khỏi cung
dòng Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già Da chẳng bao xa,
đặng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới
hơn bốn mươi năm. Đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó
làm nên Phật sự lớn? Do thế lực của Phật? Do công đức của Phật?
Giáo hóa vô lượng chúng Bồ Tát lớn như thế?
Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát này giả sử có người trong
nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng đặng ngằn mé, chúng
đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội
lành, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu phạm hạnh.
Thế Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người
sắc đẹp tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con
của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ
nuôi ta thảy, việc đó khó tin, đức Phật cũng như thế.
Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu, mà
các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở nơi vô lượng nghìn muôn ức kiếp, vì
Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ (99)
nơi vô lượng
nghìn muôn ức tam muội, đặng thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh
đã lâu, khéo hay thứ đệ, tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp, là báu
quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.
138 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc đặng Phật đạo, bắt
đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy dìu dắt, làm cho kia hướng
về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành Phật
chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công đức lớn này.
Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật
nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đầu thông suốt, nhưng
các Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này
hoặc chẳng tin nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp, phá chánh pháp.
Kính thưa Thế Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi
của chúng con, và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng
chẳng sanh nghi.
Lúc đó, Ngài Di Lặc bèn nói bài kệ:
11.- Phật xưa từ dòng Thích
Xuất gia gần Già Da
Ngồi dưới cây Bồ đề
Đến nay còn chưa xa
Các hàng Phật tử này
Số đông không thể lường
Lâu đã tu Phật đạo
Trụ nơi sức thần thông
Khéo học đạo Bồ Tát
Chẳng nhiễm Pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Từ đất mà vọt ra
Đều sanh lòng cung kính
Đứng nơi trước Thế Tôn
Việc đó khó nghĩ bàn
Thế nào mà tin được
Phật đặng đạo rất gần
Chỗ thành tựu rất nhiều
Mong vì trừ lòng nghi
139 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Như thiệt phân biệt nói
Thí như người trẻ mạnh
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người trăm tuổi già
Tóc bạc và mặt nhăn
Bọn này của ta sanh
Con cũng nói là cha
Cha trẻ mà con già
Mọi người đều chẳng tin
Thế Tôn cũng như thế
Đặng đạo đến nay gần
Các chúng Bồ Tát này
Chí vững không khiếp nhược
Từ vô lượng kiếp lại
Mà tu đạo Bồ Tát
Giỏi nơi gạn hỏi đáp
Tâm kia không sợ sệt
Nhẫn nhục lòng quyết định
Đoan chánh có oai đức
Mười phương Phật khen ngợi
Khéo hay phân biệt nói
Chẳng thích ở trong chúng
Thường ưa ở thiền định
Vì cầu Phật đạo vậy
Trụ hư không phương dưới
Chúng con từ Phật nghe
Nơi việc này không nghi
Nguyện Phật vì người sau
Diễn nói khiến rỏ hiểu
Nếu người ở kinh này
Sanh nghi lòng chẳng tin
Liền phải đọa đường dữ
Mong nay vì giải nói
Vô lượng Bồ Tát đó?
Thế nào thời gian ngắn?
140 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Giáo hóa khiến phát tâm?
Mà trụ bực bất thối?
Phẩm Như lai thọ lượng thứ mười sáu.
“1.- Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng:
“Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của
Như Lai.”
“Lại bảo đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của
Như Lai.”
“Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật
của Như Lai.”
Phải ba lần, đức Thế Tôn lập đi lập lại chỉ một câu nói. Bấy giờ toàn
thể thính chúng trong đạo tràng nín lặng để chờ nghe lời giải đáp của Phật. Chúng
ta thấy đức Phật thể hiện lòng từ với chư Bồ Tát và toàn thể đại chúng như thế nào.
Và ở đây chúng ta cũng thấy đức Di Lặc Bồ Tát đeo đuổi mục đích hoài nghi, phải
ba phen cầu thỉnh đức Thế Tôn, ngài Di Lặc chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn!
Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”
Như Lai liền giải đáp chỗ nghi của ngài Di Lặc và đại chúng Bồ Tát
trong phẩm “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”
“2.- Bấy giờ đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát ba phen thỉnh chẳng
thôi, mà bảo đó rằng: “Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như
Lai, tất cả trong đời, trời, người và a tu la đều cho rằng nay đức Thích Ca
Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng bao xa ngồi nơi
đạo tràng đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Nhưng thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây đã vô
lượng, vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn
muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người nghiền
làm vi trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng
kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi
trần đó.
“Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy
gẫm so tính biết được số đó chăng?
141 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Di Lặc Bồ Tát thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các thế giới
đó vô lượng, vô biên, chẳng thể tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực
biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác dùng trí vô lậu. Chẳng có thể
suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng con trụ bực bất thối, ở trong việc này
cũng chẳng thông đạt.
“Thế Tôn! Các thế giới đó nhiều vô lượng, vô biên.”
“3.- Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ Tát: “Các thiện nam tử! Nay
ta sẽ tuyên nói rành rỏ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc
chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành
Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng
kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi ta bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở
trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích
chúng sanh.
“Các thiện nam tử! Nơi chặn giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng, và
lại có các đức Phật nhập Niết bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân
biệt.” Trong kinh đức Phật thường hay nói hai tiếng vi trần, tức là nói con số
rất nhiều, không thể đếm được, chỉ cảm thọ mà nhận biết. Vi trần ở đây cũng nói
lên một con số, còn chấp con số tức là còn vọng niệm, còn vọng niệm thì chẳng
phải là thiệt tướng. Tam thiên đại thiên thế giới cũng chẳng phải là thiệt tướng, chỉ
là một cách diễn tả con số vô lượng vô biên. Một tam thiên đại thiên thế giới gồm
có bốn trung kiếp:
6. Trung kiếp thành: Thế giới mới tạo thành.
7. Trung kiếp trụ: Thế giới có đầy đủ hinh thái, vật chất.
8. Trung kiếp hoại: Thế giới hư rả do bởi lửa, gió, nước.
9. Trung kiếp không: Tan hết, chẳng trụ lại một vết tích nào.
“Nếu những vi trần ấy mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trần, chỉ
cưởng danh là vi trần. Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng
phải thế giới, chỉ cưởng danh là thề giới.” Kinh Kim Cang.
Trước đây, trong phần giới thiệu bộ kinh Pháp Hoa, tôi có nói về đức
Bổn Phật và đức Tích Phật (trang 40). Sở dĩ nói về đức Bổn Phật, vì là đức Phật
đã có từ thuở khai thiên lập địa. Có nghĩa là từ thuở hình thành trái đất này, trong
142 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đạo Phật gọi là thời kỳ “kiếp thành”. Còn Tích Phật tức là đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, đức Phật lịch sử, đức Phật hiện diện vào thời đại văn minh con người cách nay
2547 năm (2003 dương lịch). Những đức Tích Phật có trước đức Phật lịch sử Thích
Ca Mâu Ni như Phật Nhiên Đăng, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Đa Bảo, Phật
Tỳ Bà Thi v…v…các vị Phật này là hóa thân từ đức Bổn Phật. Những đức Tích
Phật còn phân thân ra hằng hà sa số chư Phật, các Ngài tùy nhơn duyên độ sanh,
còn có thể thị hiện ứng thân, hoặc hóa thân trời, người, a tu la, súc sanh, hoặc hoá
thân vào tận địa ngục, ngạ quỉ.
Đức Bổn Phật có một năng lực vô cùng, vô tận, vô thủy, vô chung.
Phật hiện diện trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ
nào, bất cứ trong vũ trụ hư không. Ở đây không nói đến những vật to lớn như trời,
biển, đất, núi, những vật chất mà con người cho là bao la đó, đối với Như Lai chỉ là
vật vi tế, hay là một quả cầu đặt trong lòng bàn tay.
Chúng ta phải tin vào sự thọ lượng của Như Lai, như là một sự hiện
hửu để sinh tồn mà diệu lý thâm sâu nằm trong Thập Như Thị (tr.100). Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni đã hiện diện trong thời kỳ “kiếp trụ” này. Chỉ bày chơn lý cho
chúng sanh để chúng sanh phân biệt được vô minh và chánh kiến.
Thọ mạng của Như Lai không phải tính bằng con số. Thọ mạng của
Như Lai (đức Bổn Phật) như đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói là trăm nghìn muôn ức
a tăng kỳ kiếp. Đức Phật đã ba phen nói với tất cả Bồ Tát và đại chúng “Thiện
nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai.”
Lời nói chắc thật được thốt ra ba lần, như trong đêm tối có người ba
lần khêu tim ngọn đèn làm cho ánh sáng bừng tỏa chung quanh. Khiến cho chúng
ta tin rằng sự thọ mạng của đức Phật vô cùng vô tận, mới có đủ sức thần thông giáo
hóa vô lượng vô biên số đại chúng Bồ Tát đông bằng số cát của sáu muôn sông
Hằng. Tin vào lời nói của Phật là tin vào một Tôn giáo (Giáo lý chơn chánh được
tôn là bậc nhất thời bấy giờ) rốt ráo đưa chúng sanh thoát vòng sinh tử luân hồi. Sự
thọ mạng của Như Lai tính bằng lượng a tăng kỳ, con số nhiều không thể đếm
được, không thể tâm nghĩ mà được, con số đó gọi là bất khả thuyết, bất khả thuyết.
Kinh Hoa Nghiêm viết:
Bất khả ngôn thuyết, bất khả thuyết
Sung mãn tất cả bất khả thuyết
Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết
Nói bất khả thuyết chẳng hết được
143 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong tám mươi bốn ngàn pháp môn đức Phật đã giảng dạy, chỉ có
kinh Pháp Hoa là đức Phật nói Như Lai hiện hửu khắp mọi nơi, vì Như Lai là bản
thể chơn như của các pháp, cho nên không có chỗ nào, dầu nhỏ như hột cải mà
Như Lai lại chẳng hiện diện để cứu độ chúng sanh.
ĐỨC CỔ PHẬT THÍCH CA MÂU NI.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phán với Bồ Tát Quang Minh Biên Chiếu
Cao Quí Đức vương rằng:
“Thiện nam tử! Ta nhớ lại hồi thuở quá khứ, cách nay vô lượng vô
biên na do tha kiếp, thuở ấy có một thế giới kêu là Ta bà. Ở thế giới ấy có Phật
Thế Tôn hiệu là Thích Ca Như Lai Ứng Cúng, Chánh biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư
Phật, Thế Tôn. Ngài tuyên thuyết kinh Đại Bát Niết Bàn này với các hàng đại
chúng.
“Thuở ấy, ta theo bạn lành nghe người này chuyền tới người kia rằng
đức Phật ấy đương thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn với đại chúng. Nghe vậy rồi lòng
ta lấy làm hoan hỷ, muốn bày việc cúng dường. Nhưng ta ở cảnh nghèo cùng,
chẳng có vật chi cả. Ta bèn muốn tự bán mình. Bạc phước thay! Chẳng có ai mua
cả. Ta muốn trở về nhà. Trên đường, ta thấy một người, bèn nói với người ấy rằng:
“Tôi muốn bán thân, ông có thể mua hay chăng?”
“Người ấy đáp: “Nhà tôi có việc không ai làm nỗi. Như chú có thể
làm, tôi sẽ mua chú.”
“Ta liền hỏi rằng: “Ông có việc chi mà không ai làm nỗi?
“Người ấy đáp rằng: “Tôi có bịnh dữ, lương y định thuốc, dặn mỗi
ngày tôi nên ăn ba lạng thịt người. Nếu chú có thể mỗi ngày lấy ba lạng thịt nơi
mình chú mà cấp cho tôi, nếu chịu như vậy, tôi sẽ trao cho chú năm đồng tiền
vàng.”
“Ta nghe vậy rồi, lấy làm hoan hỷ nơi lòng. Ta lại nói rằng: “Ông
trao tiền đi, rồi cho tôi hẹn bảy ngày, công việc của tôi xong, tôi sẽ trở lại.”
“Người ấy đáp: “Bảy ngày không được, hãy liệu như vầy xem, tôi sẽ
cho chú nghĩ một ngày.”
144 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Thiện nam tử! Thuở ấy lấy tiền của người ấy rồi, ta liền đi đến chỗ
Phật, đầu và mặt lễ sát chân Phật. Ta đem hết sở hửu mà phụng hiến. Rồi đó, ta
thành tâm mà nghe và thọ kinh Đại Bát Niết Bàn. Thuở ấy, ta còn ngu tối, tuy được
nghe kinh, mà chỉ có sức thọ trì một bài kệ này mà thôi:
Như lai chứng Niết Bàn
Vĩnh đoạn ư sanh tử
Nhược hửu chí tâm thính
Thượng đắc vô lượng lạc.
Dịch nghĩa
Như lai chứng Niết Bàn
Dứt mãi cuộc sanh tử
Nếu ai chí tâm nghe
Thường được vui vô lượng.
“Thọ kệ ấy rồi, ta bèn trở lại nhà của bịnh nhơn.
“Tuy ngày ngày ta cho người ấy ba lạng thịt của mình, nhưng nhờ
nhơn duyên nhớ tưởng bài kệ, ta chẳng lấy làm đau đớn. Ngày ngày chẳng phế
việc ấy, cho đến trọn đủ một tháng.
“Nhờ nhơn duyên ấy, bịnh nhơn mau được lành., thân ta cũng bình
phục, không có một vết thẹo chi cả. Thuở ấy, thấy thân ta đều đủ như trước, ta liền
phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
“Sức một bài kệ còn làm được như vậy, huống chi trọn bộ kinh mà
mình thọ trì, đọc, tụng? Bởi thấy kinh này có lợi như vậy, nên ta lại phát tâm thêm,
nguyện cho về sau khi thành được Phật đạo, hiệu ta lại cũng là Thích Ca Mâu Ni.
Trích Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 22.
Và chỉ có kinh Pháp Hoa đức Phật phán “Dước Vương! Lại sau khi
đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến
một bài kệ, một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác cho.” (Phẩm Pháp Sư thứ 10).
Sức bí mật thần thông của Như Lai trong đời như thế nào, chúng ta
hãy lóng tai nghe Phật nói tiếp:
“Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta dùng
Phật nhãn quan sát tín v.v.. các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ,
nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói
145 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
sẽ nhập Niết Bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho
chúng sanh phát lòng vui mừng.
“Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp
tiểu thừa, đức mỏng, tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia đặng
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt từ ta thành Phật nhẫn lại,
lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật
đạo, nên nói như thế.
“4.- Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra đều vì
độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân
mình, hoặc chỉ thân người, các lời nói đều thiệt chẳng dối. Vì sao? Vì đức Như
Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không có sanh tử, hoặc thối,
hoặc xuất cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng
phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc
như thế, Như Lai thấy rỏ, không có sai lầm.”
“Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món
hạnh, các món nhớ tưởng, phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành, nên
dùng bao nhiêu nhơn duyên, thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật
sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại thật là lâu xa, thọ
mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.
“Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát,cảm thành thọ
mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên. Nhưng nay chẳng phải thiệt diệt
độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ, đức Như Lai dùng phương tiện đó giáo hóa
chúng sanh. Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng chẳng
trồng cội lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới
nhớ tưởng, vọng kiến. Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh
lòng buông lung nhàm trể, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gở cùng lòng
cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ kheo! Phải
biết, các Đức Phật ra đời khó có thể gặp gở.”
“Vì sao? Những người đức mỏng trải qua trăm nghìn muôn ức
kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc có người chẳng thấy, do việc này nên ta
nói rằng: “Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng thấy.” Các chúng sanh đó
nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó gặp gở, ôm lòng luyến mộ khát
ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà
nói diệt độ.
146 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“5.- Ví như vị lương y, trí tuệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc
trị các bệnh. Người ấy nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm,
do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc
khác, thuốc phát muộn loạn, lăn lộn trên đất.
“Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc
độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui
mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An lành về an ổn. Chúng con ngu si, lầm uống
thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho chúng con.”
“Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, tìm
cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hoà hiệp, đưa bảo
các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại lương dược này, mùi sắc vị ngon, thảy
đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại các bệnh
hoạn.”
“Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương
dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết được lành mạnh.
Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về, dầu cũng vui mừng, hỏi thăm,
cầu xin tri bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc
đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không
ngon. Người cha nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm
đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế
mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống thuốc
này.
“Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già suy, giờ
chết đã đến, thuốc lương dược tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ
lo không lành. Bảo thế rồi, lại đến nước khác sai sứ về nói “Cha các ngươi đã
chết.”
“Bấy giờ các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng
“Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta, xa
chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng
thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy
uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền
trở về cho các con đều thấy.”
Trước khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa, Như Lai có nói với ngài Tôn
giả Xá Lợi Phất: “Trí tuệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí tuệ đó
147 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích chi Phật đều không biết
được. Vì sao? Phật đả từng gần gủi trăm nghìn muôn ức vô số các đức Phật,
trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh, tinh tấn, danh tốt
đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý
thú khó hiểu. Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn duyên, các món thí dụ,
rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa
lòng chấp.” (Phẩm Phương Tiện thứ 2).
Diễn giải :
Lòng chấp của chúng sanh do bởi tám cái điên đảo làm vọng kiến cho
tâm, chia ra hai bực: bực phàm phu (từ dưới bực Thanh Văn trở xuống) vì còn chấp
ngã, nên còn ham thích sắc, thọ, tưởng, hành và thức, do ham thích nên sanh tham
dục, do sanh tham dục mà còn tái sanh, còn trở lại thế gian để trả nghiệp báo. Bực
thánh (từ bực Thanh Văn trở lên) nghe nhiều, hiểu biết nhiều, nên nhàm chán sắc,
thọ, tưởng, hành và thức, do nhàm chán mà hết tham, do hết tham mà giải thoát,
không còn trở lại thế gian nữa.
Bốn pháp điên đảo của bực phàm phu: kẻ chẳng tỏ ngộ chơn tánh, hay
vọng chấp căn trần, chìm đắm trong sáu đường nên gọi là phàm phu :
5. Thường: Các pháp trong thế gian đều vô thường, mà cho là hửu thường.
6. Lạc: Các pháp trong thế gian đều đau khổ, mà cho là vui sướng.
7. Ngã: Các pháp trong thế gian đều vô ngã, mà cho là hửu ngã.
8. Tịnh: Các pháp trong thế gian đều bất tịnh, mà cho là thanh tịnh.
Bốn pháp điên đảo của bực thánh: người lìa bỏ tất cả sự tướng, ở nơi
tướng mà lìa tướng, ở nơi không mà lìa không, nên gọi là thánh nhân.
5. Vô Thường: Đối với Niết Bàn là thường, mà cho là vô thường.
6. Vô Lạc :Đối với Niết Bàn là vui, mà cho là vô lạc.
7. Vô Ngã :Đối với Niết Bàn là chơn ngã, mà cho là vô ngã.
8. Vô Tịnh :Đối với Niết bàn là thanh tịnh, mà cho là vô tịnh.
Như Lai nói các đức Phật chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra
nơi đời. Vậy nhơn duyên lớn đó là nhơn duyên gì? Đó là tri kiến Phật. Bởi tất cả
các pháp đều do nhơn duyên sanh thời các pháp cũng tùy nhơn duyên khởi. Chúng
sinh do có vọng tâm nên bị vô minh che khuất và bị vướng vào ngã tướng. Vì bởi
chúng sanh không từ nơi tướng lìa được tướng, không từ nơi không lìa được
không, cho nên vọng niệm, mê chấp bùng khởi. Từ đó chúng sanh không biết rằng
148 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
có Phật tại tâm. Tri kiến Phật, phải tri kiến bổn tâm. Muốn tri kiến bổn tâm trước
hết phải khai mở tri kiến tâm, chỉ rỏ tri kiến tâm, nhận ra tri kiến tâm, cho tới lúc
tâm đã hiển bày tự tánh rồi thì nhập vào tri kiến tâm.
Tri kiến tâm, tâm thường sinh trí tuệ, chẳng sanh, chẳng diệt có thể
cầu đạo Vô thượng Bồ đề.
Trước khi chấm dứt thời thuyết pháp, Như Lai liền nói bài kệ:
6.- Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm nghìn muôn
A tăng kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Đến nay vô lượng kiếp
Vì độ chúng sanh vậy
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thiêt chẳng diệt độ
Thường trụ đây nói pháp
Ta thường ở nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sanh điên đảo
Dầu gần mà chẳng thấy
Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sanh lòng khát ngưỡng
Chúng sanh đã tín phục
Ngay thiệt ý dịu hòa
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng
Giờ ta cùng chúng sanh
Đều ra khỏi Linh Thứu
Ta nói với chúng sanh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt chẳng diệt
Nước khác có chúng sanh
149 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lòng cung kính tín nhạo
Ta ở lại trong đó
Chỉ nói ta diệt độ
Ta thấy các chúng sanh
Chìm ở trong khổ não
Nên chẳng vì hiện thân
Cho kia sanh khát ngưỡng
Nhơn tâm kia luyến mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần thông như thế
Ở trong vô số kiếp
Thường tại núi Linh Thứu
Và các trụ xứ khác
Chúng sanh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây yên ổn
Trời người thường đông dầy
Vườn rừng các nhà gác
Những món báu trang nghiêm
Cây báu nhiều bông trái
Chỗ chúng sanh vui chơi
Các trời đánh trống trời
Thường trổi những kỷ nhạc
Rưới bông mạn đà la
Rải Phật và đại chúng
Tịnh độ ta chẳng hư
Mà chúng thấy cháy rã
Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẩy
Các chúng sanh tội đó
Vì nhơn duyên nghiệp dữ
Quá a tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam Bảo
Người nhu hòa ngay thiệt
Có tu các công đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp
Hoặc lúc vì chúng này
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
150 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì nói Phật khó gặp
Trí lực ta như thế
Huệ quang soi vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Tu hành lâu cảm đặng
Các ông người có trí
Chớ ở đây sanh nghi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thiệt không dối
Như lương y chước khéo
Vì để trị cuồng tử
Thiệt còn mà nói chết
Không thể nói hư dối
Ta là cha trong đời
Cứu các người đau khổ
Vì phàm phu điên đảo
Thiệt còn mà nói diệt
Vì cớ thường thấy ta
Mà sanh lòng kiêu tứ
Buông lung ham ngủ dục
Sa vào trong đường dữ.
Phẩm Phân biệt công đức thứ mười bảy.
3.- Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có sức lớn
Thọ mạng chẳng thể lường
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói đặng pháp lợi đó
Vui mừng đầy khắp thân
Hoặc trụ bực bất thối (100)
Hoặc đặng đà la ni (101)
Hoặc vô ngại nhạo thuyết (102)
151 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Muôn ức triền tổng trì (103)
Hoặc có cõi đại thiên
Số vi trần Bồ Tát
Mỗi vị đều nói được
Pháp luân bất thối chuyễn
Hoặc có trung thiên giới
Số vi trần Bồ Tát
Mỗi vị đều có thể
Chuyễn pháp luân thanh tịnh
Lại có tiểu thiên giới
Số vi trần Bồ Tát
Còn dư lại tám đời
Sẽ đặng thành Phật đạo
Lại có bốn, ba, hai,
Tứ thiên hạ như thế
Số vi trần Bồ Tát
Theo số đời thành Phật
Hoặc một tứ thiên hạ
Số vi trần Bồ Tát
Còn dư có một đời
Sẽ thành Nhứt thiết trí
Hàng chúng sanh như thế
Nghe Phật thọ dài lâu
Đặng vô lượng quả báo
Vô lậu rất thanh tịnh
Lại có tám thế giới
Số vi trần chúng sanh
Nghe Phật nói thọ mạng
Đều phát tâm Vô thượng
4.- Thế Tôn nói vô lượng
Bất khả tư nghị pháp
Nhiều được có lợi ích
Như hư không vô biên
Rưới hoa thiên mạn đà
152 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Hoa ma ha mạn đà
Thích, Phạm như hằng sa
Vô số cõi Phật đến
Rưới chiên đàn, trầm thủy
Lăng xăng loạn sạ xuống
Như chim bay liệng xuống
Rải cúng các đức Phật
Trống trời trong hư không
Tự nhiên vang tiếng mầu
Ao trời nghìn muôn thứ
Xoay chuyễn mà rơi xuống
Các lò hương đẹp báu
Đốt hương quí vô giá
Tự nhiên đều cùng khắp
Cúng dường các Thế Tôn
Chúng đại Bồ Tát kia
Cầm phan lộng bảy báu
Cao đẹp muôn ức thứ
Thứ lớp đến Phạm thiên
Trước mỗi mỗi đức Phật
Tràng báu treo phan tốt
Cũng dùng nghìn muôn kệ
Ca vịnh các Như Lai
Như thế các món việc
Từ xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng
Phật tiếng đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sanh
Tất cả đủ căn lành
Để trợ tâm Vô thượng
153 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ mười tám.
Sau khi Phật diệt độ
Có người nghe kinh này
Nều hay tùy hỷ đó
Lại đặng bao nhiêu phước?
Truyện tích TRƯỞNG GIẢ A NAN. (Quả báo của kẻ hà tiện.)
Tương truyền rằng, thời ấy trong thành Sãvatthĩ có vị trưởng
giả tên là A Nan (Anandasetthivatthu), có đại gia sản đến tám trăm triệu
đồng vàng, nhưng lại có tiếng là Đại Hà Tiện.
Cứ mỗi kỳ nửa tháng, ông ta nhóm họp thân quyến một lần,
rồi trước mắt mọi người trong gia tộc, ông gọi công tử Tiền Tài
(Mũlasiri) là con trai ông, nhắc nhở rằng: “Chớ nên cho rằng tám trăm
triệu đồng vàng đây là nhiều rồi. Dầu có của cũng chẳng nên bố thí.
Hãy rán làm cho tiền của sanh lên mãi, dầu một đồng cũng chẳng nên
tiêu phí mà hao hụt gia tài.”
Ông nhắc nhở con trai ba lần như thế. Kế đó ông đọc luôn
bốn câu kệ:
Thấy những giọt thuốc hư
Mới góp chứa vào ổ
Cơm với chút mật dư
Hiền sĩ ngồi nhà độ.
Thời gian sau, không kịp chỉ năm hầm lớn tài sản của mình
cho con biết, ông trưởng giả A Nan hà tiện nhưng rất tự mãn ấy qua đời.
Tâm thức của ông tái sinh vào lòng một phụ nữ chiên đà la (giai cấp
cùng đinh ở An Độ thời xưa), cư ngụ trong một làng nhỏ ngoài cổng
thành Sãvatthĩ.
154 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Quốc vương hay tin ông A Nan từ trần, bèn triệu công tử
Mũlasari vào bệ kiến rồi phong chức trưởng giả cho công tử.
Một ngàn gia đình chiên đà la vẫn cùng nhau làm thuê, làm
mướn chung quanh để sống qua ngày. Nhưng từ lúc ông trưởng giả hà
tiện tái sinh vào giòng họ thì họ không còn tìm được việc làm như trước
nữa, dầu chỉ là một việc làm chỉ trả công bằng một bửa cơm, họ bàn
rằng: “Chúng ta ngày nay đi xin việc làm để kiếm ăn cũng không có,
chắc là trong bộ lạc của chúng ta có những kẻ xui xẻo ở chung.”
Họ bèn chia làm hai nhóm, lựa chọn lần lần để loại ra kẻ hắc
vận. Khi loại đến cặp vợ chồng là cha mẹ của đức bé ấy, thì họ biết rằng
“Trong gia đình này có kẻ xui xẻo sanh ra”. Họ bèn đuổi người đàn bà
đang mang thai ra khỏi bộ lạc. Người phụ nữ này ngày nào còn đang
mang thai thì ngày ấy công việc kiếm ăn càng vất vả, lang thang lây lất
trong cuộc sống cho đến lúc sanh ra một đứa con trai. Đứa bé này tay
chân vẹo vọ, mắt lé, mũi và miệng đều không nằm đúng vị trí thông
thường. Với hình dung cổ quái như ngạ quỉ, trông nó xấu không thể
tưởng tượng được. Tuy nhiên mẹ nó không bỏ rơi nó. Tình thương của
người mẹ đối với đứa con ruột do mình sanh ra quả thật là đậm đà, mãnh
liệt.
Phụ nữ nuôi đứa con này cũng gặp nhiều khó khăn, ngày nào
bà đem nó theo là ngày đó bà chẳng kiếm được chút chi cả. Còn bỏ nó
lại nhà đi một mình thì ngày ấy bà tìm được việc làm có miếng ăn.
Đến khi đứa bé trọng tuổi, có thể ôm bát đi xin ăn, tự nuôi
mạng sống được thì bà mẹ trao cho đứa con cái bát và bảo: “Con à, cha
mẹ vì con mà phải đau khổ ê chề, bây giờ không nuôi nỗi con nữa.
Trong thành này, người ta có thí cơm cho những người bần cùng hành
khất. Vậy con hãy vào đó đi xin ăn mà nuôi mạng.” Nói rồi bà mẹ thả
con đi một mình.
Lần theo từng nhà đi xin ăn, đứa bé đi đến xóm, nơi nó ở
trong tiền kiếp là trưởng giả A Nan. Đến đây thấy lại được cảnh cũ, nhớ
155 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lại được chuyện xưa, bèn xăm xăm đi ngay vào nhà của nó. Qua ba từng
cửa cổng, không một ai lưu ý đến nó, đến từng cổng thứ tư, đứa con trai
nhỏ của trưởng giả Mũlasari trông thấy nó hoảng sợ khóc thét lên.
Khi ấy các gia nhân của ông trưởng giả đuổi nó “Đi ra, đồ
hắc ám”.
Họ còn đánh đập và ôm đứa bé ăn mày ném lên đống rác.
Bấy giờ đức Bổn Sư cùng với Đại đức A Nan Đà là vị sa môn thị giả,
ngự đi trì bình, cũng vừa đến nơi đó. Đức Bổn Sư nhìn Đại đức, Đại đức
bạch hỏi nguyên do. Đức Bổn Sư giải rỏ câu chuyện tái sanh của ông A
Nan hà tiện.
Đại đức bảo gia đình đi mời trưởng giả Mũlasari đến. Đại
chúng thấy lạ nên tụ lại xem rất đông. Đức Bổn Sư gọi trưởng giả
Mũlasari và hỏi:
_“Ông có biết đứa bé ấy chăng?”.
_ “Thưa. Tôi không biết.”
Đức Bổn Sư chỉ ngay rằng: “Nó là trưởng giả A Nan, cha
của ông kiếp trước đó.”
Thấy trưởng giả Mũlasari chưa tin lời, đức Bổn Sư bảo đứa
bé ăn mày:
_“Này trưởng giả A Nan, ông hãy chỉ chỗ năm hầm đại tài sản đã
chôn cho con trai ông đi.”
Sau khi đứa bé chỉ năm hầm của ông đã chôn giấu, ông
Mũlasari hết sức tin tưởng nơi đức Bổn Sư, nên ông xin quy y với ngài.
Đức Bổn Sư nhân cơ hội ấy, thuyết pháp đến ông Mũlasari,
rồi Ngài đọc lên kệ ngôn rằng:
“Người ngu chấp ngã tự hào
Đây con, đây của ta đào tạo ra
Nhưng không biết chính mình ta
Còn không tự chủ, huống là của, con”.
Thời pháp vừa dứt, tám muôn bốn ngàn chúng sanh giác ngộ
chánh pháp. Đại chúng dự thính cũng được hưởng nhiều lợi ích.
Kinh Pháp Cú.
156 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC thứ mười chín.
Pháp sư không hẳn là người xuất gia, người tại gia cũng có
thể làm pháp sư. Pháp sư là người hiểu biết rộng rải về kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, là người thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn giải, ấn tống kinh
đến với mọi người. Pháp sư là người nổ lực truyền dẫn kinh Pháp Hoa từ
thấp lên cao, từ sơ đến thâm sâu, từ mê đến ngộ với mục đích là cùng
nhau tới cảnh Phật trí. Pháp sư cũng là người tùy hỷ công đức, là người
thừa hành lời Phật dạy.
Trong phẩm PHÁP SƯ thứ mười, đức Phật nói với Ngài
Dược Vương đại Bồ Tát: “Dược Vương! Có người đọc tụnh kinh
Pháp Hoa phải biết người đó dùng sức trang nghiêm của Phật tự
trang nghiêm mình, thời được Như Lai dùng vai mang vác. Người
đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chấp tay
cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Người đó hoan
hỷ nói pháp liền đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Phẩm PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC đức Phật nói với Ngài Thường
Tinh Tấn đại Bồ Tát rằng: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ
trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên
chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai
trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai
trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai
trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu
căn đều được thanh tịnh.”
Ngôn ngữ diễn tả trong đoạn kinh trên tưởng như là hư cấu,
trừu tượng. Càng thâm sâu diệu pháp, chúng ta càng thấy hiển lộ sự
“Không tướng” của bổn kinh, mà đã không tướng thì tức là thực tướng,
đã là thực tướng thì không còn hư cấu, không còn trừu tượng.
Pháp sư thọ trì, đọc tụng, diễn giải, biên chép kinh Pháp Hoa
là người giữ giới hạnh để đặng sáu căn thanh tịnh: nhãn căn thanh tịnh,
157 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nhĩ căn thanh tịnh, tỉ căn thanh tịnh, thiệt căn thanh tịnh, thân thể thanh
tịnh, tâm ý thanh tịnh. Đức Phật nói tiếp:
“Thiện nam tử và thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn thanh
tịnh của cha mẹ sinh ra thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong
ngoài có những núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A tỳ, trên
đến cõi trời Hửu đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và
nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy hết.”
Đức Thế Tôn liền tuyên đọc bài kệ:
2.- Nếu người ở trong chúng
Dùng tâm không sợ sệt
Nói kinh Pháp Hoa này
Ông nghe công đức đó
Người đó được tám trăm
Công đức thù thắng nhãn
Do dùng đây trang nghiêm
Mắt kia rất thanh tịnh
Mắt thịt cha mẹ sanh
Thấy cả cõi tam thiên
Trong ngoài núi Di Lâu
Núi Tu di Thiết vi
Và các núi rừng khác
Biển lớn nước sông ngòi
Dưới đến ngục A tỳ
Trên đến trời Hửu đảnh
Chúng sanh ở trong đó
Tất cả đều thấy rỏ
Dầu chưa đặng thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế.
Hai câu đầu của bài kệ, đức Phật nói: “Nếu người ở trong
chúng, dùng tâm không sợ sệt.” Tức là tâm vô sở úy. Có nghĩa là Bồ
Tát muốn diễn nói kinh Pháp Hoa phải dùng tâm vô sở úy, hiên ngang
158 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lên pháp đàn, trước mặt chúng không sợ, phải tự tin mình một cách
nghiêm túc, và rồi tùy phương tiện giảng nói pháp.
Cụm từ “vô sở úy” là danh hiệu của một vị Bồ Tát gồm có
bốn ý:
1. Vô sở úy tổng trì bất vọng: Không sợ thuyết giảng pháp nhờ đã
quan sát tất cả tánh, tướng, mọi vật trong ngoài, và mọi câu hỏi từ
thính chúng. Điều này quả thật không đơn giản. Bởi vì học giáo lý
đã khó, hiểu giáo lý lại càng khó, giảng giáo lý lại càng khó hơn,
nói pháp không run sợ càng khó vô cùng. Do nhờ nổ lực học tập
thông suốt, chỗ không hiểu thì tìm pháp sư giỏi hơn mình để hỏi,
kiên trì thuộc lòng bài giảng, tóm thâu các diệu lý vào tâm.
2. Vô sở úy tận tri pháp dược: Nhờ thông suốt nên mạnh dạng nói
pháp như chỗ không người. Nhờ nổ lực học hỏi nên hiểu biết các
xu hướng của mọi loài chúng sanh, mọi nguồn gốc khổ hại của
chúng sanh. Pháp sư lúc bấy giờ như một vi lương y đại tài, chỉ cần
nhìn thấy bịnh, kê toa cho thuốc, bịnh nhơn uống liền dứt hẳn.
3. Vô sở úy thiện năng vấn đáp: Pháp sư không sợ những câu hỏi từ
thính chúng. Nói pháp càng hay nhờ những câu hỏi đáp giữa pháp
sư và thính chúng. Câu hỏi đúng, lời đáp đủ và rỏ khiến cho buổi
nói pháp trở nên thân thiện và năng động, không buồn chán, cũng
nhờ pháp sư có kiến thức, năng lực thiện xảo, khéo léo dẫn dắt
những câu giải đáp trở thành bài học vào đời rất hợp với tâm thức
của thính chúng.
4. Vô sở úy năng đoạt vật nghi: Trong bài thuyết pháp có những câu,
những bài kệ, những đoạn mà thính chúng không hiểu được, còn
nghi hoặc, pháp sư tùy nghi giải đáp thoả đáng. Nhưng cũng có
trường hợp khi trả lời cho người này hiểu, thì người kia lại không
hiểu, có người cũng hiểu mà hiểu một cách khác, có người khác
hiểu mà lòng vẫn còn nghi. Pháp sư phải nhớ đến phẩm Dược
Thảo Dụ: “Pháp của Phật như nước mưa xối xuống mặt đất,
159 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
khắp nơi nhuần thấm, cây gốc nhỏ, cây gốc vừa, cây gốc lớn
đều cùng được hưởng.” Trong pháp hội cũng vậy, cũng có người
trí nhỏ, trí vừa, trí lớn, một bài pháp được giảng, mỗi người hiểu
một cách. Phải làm sao cách hiểu của mọi người tập trung vào một
đạo lý, làm sáng tỏ đạo lý của bài giảng tức là tôn trọng giáo lý
Phật đà.
Bốn vô sở úy trên dành cho bực tu hạnh Bồ Tát đạo. Biết
khiêm nhường, không hoảng sợ, lý giải lưu loát, thông suốt nội dung,
trưng bày thí dụ cụ thể rất đời thường, nổ lực không ngừng, lục căn
thanh tịnh, con đường Phật trí chỉ còn ở phía trước.
Con mắt nhờ thanh tịnh, dù là mắt thịt cha mẹ sanh ra cũng
được mở thông nhìn xa, trông rộng, thấy từ trên cõi trời Hửu đảnh, đến
dưới cảnh địa ngục A tỳ, nghiệp nhơn, quả báo bao đời trước cũng đều
thấy rỏ mà không có điều gì cản ngại. Tuy mắt nhìn xa trông rộng như
vậy, nhưng chỉ nhìn được mặt trước, mặt sau không thấy gì. Tuy là mắt
thanh tịnh nên cũng còn hạn chế tầm nhìn do bởi thiếu ánh sáng, còn hạn
chế tư duy do mắt nhìn cảnh quang không được toàn diện, đó là khuyết
điểm của mắt nên chỉ được xếp có tám trăm công đức.
Trong câu truyện tích về Lục Tổ Huệ Năng (xem tr.329 tập
1) có mẫu chuyện về gió và phướng, xin kể lại như sau: “Hôm ấy pháp
sư An Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài,
gió thổi lá phướng phất phơ qua lại. Hai ông tiểu hòa thượng lấy đó làm
đề tài tranh luận. Người bảo “phướng động”, người bảo “gió động”, bàn
qua cải lại mà không ngã lẽ, Sư đến thưa: “Có thể cho khách cư sĩ này
lạm bàn chăng?” Hai ông đồng ý. Sư bảo: “Không phải phướng động,
không phải gió động, mà tâm nhơn giả động.”
Một ông do mắt nhìn thấy lá phướng phất qua phất lại mà nói
là phướng động. Một ông do mắt nhìn thấy lá phướng phất qua phất lại
thì cho là nhờ có gió, nếu không có gió thổi lá phướng đâu phất qua phất
lại. Cả hai ông đều có nhận xét đúng theo tầm nhìn của mình, nhưng chỉ
160 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đúng ở một gốc cạnh, không đúng toàn diện, nếu không có Lục Tổ can
thiệp kịp thời, hai ông đạo này sẽ cải lý suốt đời cũng không dừng lại.
Nhục nhãn là cách nhìn sự vật của một người bình thường,
hay còn goi là phàm phu tục tử, chỉ có thể nhận thức các tướng của sự
vật qua hình thái, thường thì phiến diện và sai lầm. Ngài Lục Tổ Huệ
Năng nhờ tu nhiều kiếp căn lành, nên ngài có huệ nhãn, nhận rỏ thực
tính của sự vật và tướng trạng thực sự của nó. Một người có huệ nhãn
quán sát các sư vật để tìm thấy chân tướng của sự vật mà người thường
không thể nhìn thấy. Huệ nhãn của nhà khoa học khi nhìn vào vũ trụ
thấy mọi sự vật tồn tại đều có liên quan mật thiết với nhau. Huệ nhãn
của nhà tu hành thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều vô thường.
Đức Phật nói tiếp: “Dùng tai thanh tịnh đó nghe khắp cõi
tam thiên, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến trời Hửu đảnh, trong
ngoài các thứ, lời lẽ giọng tiếng:
- Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu.
- Tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng cười, tiếng nói, tiếng
trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi
pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng
đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa.
- Tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh.
- Tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thác bà, tiếng
A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu la già.
- Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió.
- Tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ.
- Tiếng Tỳ kheo, tiếng Tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích
chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.”
161 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ý nghĩa trên được gom lại qua bài kệ:
4.-Tai cha mẹ sanh ra
Trong sạch không đục nhơ
Dùng tai thường này nghe
Cả tiếng cõi tam thiên
Các tiếng tăm trong ngoài
Dưới đến ngục A Tỳ
Trên đến trời Hửu đảnh
Đều nghe tiếng tăm kia
Mà chẳng hư nhĩ căn
Vì tai kia sáng lẹ
Đều hay phân biệt biết
Người trì kinh Pháp Hoa
Dầu chưa đặng thiên nhĩ
Chỉ dùng tai sanh ra
Công đức đã như thế.
Lổ tai nhờ thanh tịnh nên mở thông nghe đủ các loại tiếng
tăm trên khắp hoàn cầu, tiếng các loài động vật, tiếng của người, trời,
thần, thánh, Bồ tát, Phật, tiếng rên than thảm thiết ở cõi địa ngục. Vì tai
nghe không hạn chế, nên được hưởng một ngàn hai trăm công đức.
Ngài Lục Tổ Huệ Năng nhờ đắc được pháp nhĩ, nên khi nghe
tiểu tăng đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú (Lục Tổ không biết chữ)
ngài phát hiện bài kệ có vấn đề, nên nhờ quan Biệt Giá viết giùm ngài
bài kệ khác để thay thế:
Bồ đề vốn chẳng phải cây
Gương sáng cũng chẳng phải đài
Xưa nay vốn không một vật
Chỗ nào bám được bụi nhơ.
Đức Phật nói tiếp:
162 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Dùng tỉ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi tam thiên đại
thiên, trên dưới, trong ngoài các thứ mùi:
-Mùi bông tu mạn na, mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi
bông chiêm bặt, mùi bông ba la la, mùi bông sen đỏ, mùi bông sen
xanh, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái.
- Mùi chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la bạt, mùi đa dà
la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là
hương xoa.
- Mùi dê, mùi ngựa, mùi trâu, mùi voi.
- Mùi trai, mùi gái, mùi đồng tử, mùi đồng nữ.
- Mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần hoặc xa, mùi cây ba lợi chất
đa la, cây câu bệ đà la, mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la,
bông mạn thù sa, bông đại mạn thù sa.
- Mùi các vị trời Thích Đề Hoàn Nhơn, trời Phạm thế, trời
Hửu đảnh, mùi Thanh văn, mùi Bích chi Phật, mùi Bồ tát, mùi nơi
thân các đức Phật.”
Đức Thế Tôn trùng tuyên lại bài kệ:
6.-Người đó mũi thanh tịnh
Ở trong thế giới này
Hoặc vật thơm hoặc hôi
Các thứ đều nghe biết
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết ở tại đâu
Bồ Tát chí bền chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vì người nói pháp
163 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nghe mùi đều biết được
Nơi nơi chỗ Thế Tôn
Được mọi người cung kính
Thương chúng mà nói pháp
Nghe mùi đều biết được
Chúng sanh ở trước Phật
Nghe kinh đều vui mừng
Đúng pháp mà tu hành
Nghe mùi đều biết đặng
Dầu chưa đặng vô lậu
Pháp sanh tỷ Bồ Tát
Mà người trì kinh đây
Trước đặng tướng mũi này.
Người thanh tịnh có lổ mũi mở thông, nhận ra các thứ mùi
trong vũ trụ đều có thể phân biệt mà không hư tỉ căn, nhận biết các
chúng sanh đang ở đâu và làm gì mà không lầm lẫn. Đánh hơi được các
báu vật chôn giấu ở đâu, từ lòng đất hay trong biển thẩm sâu. Dùng mũi
nghe được thai nhi trong bụng mẹ là trai hay gái, sanh ra lớn lên làm gì,
mạng số cùng đinh hay giàu sang thế phiệt. Cũng với lổ mũi đó ngữi
được mùi hương các vị trời lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi,
hoặc là lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời đao lợi khác mà nói
pháp. Lổ mũi tuy cảm thọ được nhiều như vậy nhưng cũng còn hạn chế,
do hít thở có độ lượng, nhịp nhàng, không sâu hơn, không dài hơn,
không ngắt đoạn, cho nên chỉ được xếp có tám trăm công đức.
Nói về lổ mũi xin trích đăng một mẫu chuyện nhỏ trong kinh
Na Tiên Tỳ kheo:
NGƯNG HƠI THỞ.
Vua hỏi:
“Bạch Đại đức! Các sa môn trong hàng ngũ của Đại đức bảo rằng
họ có thể ngưng hơi thở. Làm sao ngưng được?”
164 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Thưa có. Tâu Đại vương! Đại vương đã từng nghe người ngũ
ngáy chưa?”
“Tôi có nghe.”
“Khi trở mình người ấy ngưng ngáy phải không?”
“Thưa phải.”
“Đấy. Đại vương thấy chưa, người thường chưa từng học đạo,
chưa chế phục được tác động của thân và khẩu, mà chỉ bằng một cái trở
mình cũng đủ ngưng được tiếng ngáy. Huống là người đã dày công tu
luyện, từng khắc phục được tác động của thân và khẩu, đã quy nhứt
được cái tâm, đã chứng được phép tứ thiền, mà lại không ngưng được
hơi thở hay sao?”
Đức Phật nói tiếp:
“Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng
thiện nữ nhơn thọ trì kinh này hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói,
hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm thiệt công đức. Những
món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát ở
trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên
trời, không món nào là chẳng ngon.
“Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ
diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng,
sướng thích.
“Lại các vị Thiên tử, Thiên nữ, các Trời Thích Phạm
nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luận thứ đệ thảy đều
đến nghe. Và các hàng Long, Long nữ, Dạ xoa, Dạ xoa nữ, Càn thác
bà, Càn thác bà nữ, A tu la, A tu la nữ, Ca lâu la, Ca lâu la nữ,
Khẩn na la, Khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hầu la dà nữ, vì để
nghe pháp mà đều đến gần gủi cung kính cúng dường.
“Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Quốc
vương, Vương tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyễn luân vương,
165 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đại Chuyễn luân vương (104)
, bảy báu, nghìn người con cùng quyến
thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
“Vì vị Bồ Tát này khéo nói pháp, nên hàng bà la môn, cư
sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Lại các
Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy
người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phía đó nói
pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra
tiếng pháp sâu mầu.”
8.- Người đó lưỡi thanh tịnh
Trọn không thọ vị xấu
Người đó ăn uống chi
Đều biến thành cam lộ
Dùng tiếng hay thâm tịnh
Ở trong chúng nói pháp
Đem các nhơn duyên dụ
Dẫn dắt lòng chúng sanh
Người nghe đều vui mừng
Bày đồ cúng dường tốt.
Cái lưỡi nhờ thanh tịnh mà mở thông, các món ăn vật uống
khi được đưa vào miệng đều hóa ra thơm ngon, ngọt bùi. Cái lưỡi khiến
nói ra lời gì cũng là lời giáo dục cho mọi người, cái lưỡi đó nói pháp rất
thông suốt, thính chúng nghe xong thấy trong lòng được giải thoát khỏi
phiền muộn, dùng cái lưỡi để ca ngâm khen ngợi những bài kệ trong
kinh Pháp Hoa, người nghe vui mừng khôn xiết, vì vậy cái lưỡi đươc
xếp vào hạng một ngàn hai trăm công đức.
NÓI NHIỀU CÓ HẠI.
Lúc ấy Phật ngự tại xứ Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc. Nhơn chuyện thầy Kokâlika, Phật phán rằng: “Nó chết là tại nó lếu
166 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
láo đó, không phải mới lần này mà nó bị hại về cái lưỡi của nó đâu, thuở
trước, nó đã bị như vậy rồi.” Phật bèn đem truyện tích xưa thuật lại như
sau.
“Thuở xưa, lúc vua Brahmadatta ở ngôi tại thành Ba la nại.
Bồ Tát giáng sanh vào một nhà quan cận thần thế tộc. Khi đúng tuổi
ngài sung chức Đại thần Tể tướng lo về chánh trị và tôn giáo. Lúc ấy
vua có tật nói quá nhiều. Hể vua nói thì không còn biết nhường lời cho
ai nữa. Bồ Tát muốn làm cho vua hết tật ấy đi. Ngài đang suy nghĩ để
tìm phương thế chữa trị cho vua.
“Thuở ấy tại miền Hy mả lạp sơn (hymalaya) có một con rùa
ở dưới một cái hồ. Hai con vịt trời kia, nhơn khi đi kiếm ăn, làm quen và
thành ra thân thích với rùa. Cùng nhau đã thành bậu bạn, vịt nói với rùa
rằng: “Chị ơi! Trên vùng Hy mả lạp sơn có một đỉnh núi đẹp gần một hố
vàng. Ấy là chỗ hai em ở. Chỗ đó ở sướng lắm, chị hãy lên đó ở với hai
em.”
Rùa nói: “Làm sao chị đi với hai em được?”
Vịt trời kia đáp: “Hai em đem chị đi. Nhưng chị phải ngậm
miệng, không được nói năng với ai hết.”
Rùa hớn hở nói: “Được mà, chị biết giữ gìn, hai em cứ đem
chị cùng đi với.”
“Hai con vịt đưa một cái cây cho rùa ngậm, chúng nó lấy mỏ
cắn hai đầu cây và bay đi trên không. Vịt bay rất mau ngang thành Ba la
nại, một lũ trẻ thấy rùa nhờ hai con vịt đưa đi, cùng nhau la rằng: “Coi
kìa! Hai con vịt dùng một khúc cây mà đem con rùa đi.”
Rùa liền nói: “Hai em ta đưa ta đi như vầy, can hệ gì tới bây,
hởi lũ trẻ ác.”
167 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lúc ấy vịt trời bay ngang đền vua, vì rùa nhả khúc cây mở
miệng ra nói, nên bị rơi xuống trước đền vua và vở ra làm đôi. Quần
thần lấy làm lạ hô hoán lên rằng:
“Có một con rùa rớt trước đền vua và vở ra làm hai.”
Vua cùng Bồ Tát, quần thần ngự ra xem con rùa. Vua hỏi Bồ
Tát rằng:
“Này hiền thần, con rùa ấy làm gì mà rớt nằm ở đó?”
Bồ Tát nói một mình: “Lâu nay ta đương kiếm một lời hay để
thức tỉnh vua. Ta biết con rùa này làm bạn với hai con vịt trời. Hai con
ấy rũ nó đi chơi trên miền Hy mả lạp sơn. Nó nghe theo và đeo lấy một
khúc cây, nhờ vịt cắn hai đầu cây bay đưa đi.Rủi nó nghe người ta la, nó
không chịu ngậm miệng, buông khúc cây và rớt xuống chết tươi.” Đoạn
ngài tâu rằng: “Tâu bệ hạ, những kẻ không biết giữ gìn lời nói, thường
gặp nạn chết luôn.” Kế ngài ngâm bài kệ rằng:
Rùa kia số chết chỉ vì mình
Thì nói làm chi lúc nín thinh
Trước đã miệng kềm cây chắc chắn
Sau vì chút lưỡi phải tan tành
Lấy đó làm gương để giữ mình
Rày ta khéo nói hoặc làm thinh
Thân rùa đã nát danh còn xấu
Mắc bịnh, kìa ai khó giảng minh.
Vua nghe xong, tự nói thầm rằng: “Thượng quan nói thế là
nhắm ngay ta đó.”
Vua bèn phán lớn lên rằng: “Hiền thần muốn nói để ta biết
vậy.”
168 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bồ Tát giảng rằng: “Tâu bệ hạ! Dầu cho bệ hạ hay người
nào khác mà nói quá nhiều, đều phải gặp nạn như thế.”
Từ đó đến sau, vua hết ham nói và nói ít.
Phật giảng hết bài kinh Bổn Sanh, mới kết thúc rằng: “Con
rùa thửơ ấy, nay là thầy Kokâlika bây giờ. Hai con vịt là hai người đệ tử
lớn của ta. Nhà vua là A Nan đây, và hiền thần Bồ Tát chính là ta vậy.”
Trích kinh Bổn Sanh.
Đức Phật nói tiếp:
“Đặng thân thanh tịnh như lưu ly sạch, chúng sanh ưa
thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam thiên đại
thiên, lúc sanh, lúc chết, trên dưới tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ
v…v… đều hiện rỏ trong đó.”
10.- Nếu người trì Pháp Hoa
Thân thể rất thanh tịnh
Như lưu ly sạch kia
Chúng sanh đều ưa thấy
Lai như gương sáng sạch
Đều thấy các sắc tượng
Bồ Tát nơi tịnh thân
Thấy cả vật trong đời
Chỉ riêng mình thấy rỏ
Người khác không thấy được
Trong cõi nước tam thiên
Tất cả các chúng sanh
Trời, người, a tu la
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Các sắc tượng như thế
Đều hiện rỏ trong thân.
169 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Cái thân thanh tịnh nên trong suốt như pha lê, thấy rỏ trong
đó hiện ra núi Thiết vi, núi đại Thiết vi, núi Di lâu, núi đại Di lâu, các
núi cùng chúng sanh trong đó đều hiện rỏ trong thân, dưới đến địa ngục
A tỳ, trên đến trời Hửu đảnh. Hoặc là Thanh văn. Duyên giác, Bồ tát
cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân. Dù cái thân
trong như gương đó hiện lên đủ loại chúng sanh, nhưng chỉ xếp hạng có
tám trăm công đức.
THÂN THỂ VÀ TÂM THỨC.
Cái thân này có hiệp, có tan, không thể giữ mãi được. Chúng
sanh còn trong vòng luân hồi, mất thân này liền chụp vào thân khác, tùy
theo quả báo mà thay đổi thân không nhàm chán. Người biết tu, biết cái
thân này do tứ đại kết hợp lại mà thành, lại do tiền căn kiếp trước ăn ở
lành dữ ra sao mà cho cái thân xấu hay tốt, cái thân nhìn qua đã mến
hoặc cái thân mới liếc sơ đã ghét. Đối với người tu hành phải giữ sao
cho cái thân thanh tịnh, làm sao cho cái thân này mất đi là thoát ra vĩnh
viễn, tức là không còn sanh tử.
Kinh Phật thuyết giảng rằng thân xác là bất tịnh, là vô
thường, nghe như vậy không lẽ chúng ta cho rằng thân thể không quan
trọng? Hành khổ xác thân để trở nên tiều tụy, khô héo? Quán thân bất
tịnh là sao? Chúng ta quán sát thân thể này sẽ thấy rỏ năm món không
sạch:
1. Chủng tử bất tịnh: Nghĩa là thân này được hình thành là do tinh
cha huyết mẹ, hai thứ trắng đỏ hòa hợp lại thành phôi.
2. Trụ xứ bất tịnh: Nghĩa là ở trong bụng mẹ, mười tháng tối tăm.
3. Tự thể bất tịnh: Nghĩa là có ba mươi sáu vật thể hòa hợp từ chân
tóc đến gan bàn chân đều không sạch. Bên ngoài có mười hai
phần: tóc, lông, móng, răng, mồ hôi, đại, tiểu, ghèn, mũi, đàm, dãi,
170 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nước miếng. Lại có mười hai phần bao bọc: da, da ngoài, huyết,
nhục, mở, đầu, óc, màng mỏng, xương, tủy, gân, mạch. Bên trong
gồm có mười hai phần: tim, gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ
dầy,sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng.
4. Tự tướng bất tịnh: Nghĩa là chín lổ thường chảy ra chất nhơ nhớp:
hai mắt chảy ghèn và nước mắt, hai tai đóng đầy cứt ráy, hai lổ
mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy đàm dãi, hậu môn xả ra phân
dơ, bộ sinh dục chảy ra nước khai hôi hám.
5. Cứu cánh bất tịnh: Nghĩa là khi thân hoại mạng chung thì thân thể
sình to, hôi thúi, không ai dám lại gần.
Tuy là quán sát thân thể bất tịnh như vậy, nhưng vì chúng ta là
những hành giả đã phát nguyện thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa há quên
rằng câu đức Phật phán “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, trong số chúng
sanh đó có phần của chúng ta. Cho nên khi nói đến Phật chính là chúng
ta đây, như vậy trong thân thể chúng ta đã có Phật. Vậy thì chúng ta phải
trân trọng, quí mến thân thể mình. Chúng ta phải tập yêu mình, yêu thân
thể mình, tức là ta yêu ông Phật trong thân thể mình, sau đó ta mới yêu
được người khác, giúp đở được người khác. Nhưng yêu thân mình bằng
cách nào? Không thể để nó tự do chạy theo năm món dục, làm ảnh
hưởng đến đạo đức, vì như vậy là tự hủy thân. Yêu thân mình tức là
chăm sóc sức khoẻ bản thân, có bịnh thì trị dứt, không để cho thân xanh
xao vàng vọt, bèo nhèo xơ xác. Chúng ta hãy nhìn một vị đạo cao đức
trọng, mà thân thể ốm yếu, lưng khòm, miệng móm, tay chân dẹo ngoe,
giọng nói rè rè khó nghe. Vị này vì cho xác thân là vô thường, bất tịnh,
lười biếng chăm sóc, không bằng đạo cao đức trọng mới là chính, từ đó
vị này không quan tâm chăm sóc đến thân thể, ăn ngày một bửa sơ sài,
thậm chí lười biếng ăn, vì vậy bịnh hoạn theo đó mà sinh ra, thật là đáng
tiếc!
Thân có tốt thì tâm mới sáng suốt. Chúng ta còn nhớ phẩm
Hiện Bửu Tháp thứ mười một không? Tôi xin nhắc lại:
171 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm
trăm do tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất nổi
lên trụ ở giữa hư không…Bấy giờ trong tháp báu vang ra tiếng lớn
khen rằng Hay thay! Hay thay Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Có
thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng mà nói kinh giáo Bồ Tát
Pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế Đúng thế! Đức
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Như lời Phật nói đó đều là chơn thật.”
Chúng ta phải biết rằng bửu tháp trên chính là thân tứ đại của
chúng ta, tiếng vang ra từ trong tháp báu “hay thay, hay thay” chính là
tâm Phật bên trong thân thể chúng ta, biểu tượng của tâm Phật chính là
đức Đa Bảo Như Lai. Vậy trong thân thể chúng ta tâm Phật như thế nào?
Trong mỗi tâm thức của chúng ta đều có một vị Phật, phải quán sát thật
kỷ những đặc điểm sau đây thì sẽ thấy: không có ý tưởng gì cả, không
suy nghĩ, không tính toán, không buồn cũng không vui, không giận cũng
không hờn, không hơn ai mà cũng chẳng thua ai, không thương, không
ghét, không so đo, không đố kỵ, không phân biệt, không ghen tuông,
không ngạo mạn, không ham muốn, không hành động trái lẽ thường,
không tư duy làm tổn thương đạo v.v… Đó là tâm Phật, hết sức bình
yên, hết sức tỉnh lặng.
Chăm sóc bửu tháp như là chăm sóc chính thân thể ta, ca
ngợi đức Đa Bảo Như Lai như là ca ngợi tâm Phật của chính mình.
Trong kinh A Hàm có kể chuyện ông trưởng giả Cấp Cô Độc
đau nặng sắp chết, thân tứ đại bức ngặt đau nhức. Tôn giả Xá Lợi Phất
đến thăm hỏi và khuyên ông hãy cố gắng kham nhẫn chớ có lộ vẻ lo sợ.
Vì đương thời, trưởng giả có lòng tin sâu đậm ngôi Tam Bảo, tu nhiều
pháp lành như giữ gìn năm giới của Ưu bà tắc, tu thập thiện, hiểu sâu
chắc nghĩa lý Tứ Thánh Đế. Sau khi mạng chung chắc chắn sẽ được
sanh vào cõi trời Đao Lợi.
Nhơn đây xin kể lại một truyện tích nói về thân tứ đại trong
kinh Samyyutta Nikâya.
172 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Ta có nghe như vầy. Lúc ấy Phật ngự gần thành Xá Vệ,
trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Phật phán với chư tỳ kheo rằng: “Này
chư tỳ kheo! Dầu người dốt nát hay không nhập đạo cũng có thể chán
cái thân thể tứ đại này, không thèm ham mê nó và có thể dứt ra khỏi nó.
Vì làm sao vậy? Vì cái thân thể tứ đại này nó lớn lên, rồi trụ hình, kế thì
mòn mỏi cằn cội và sau rốt thì chết mất đi vậy. Đó là bốn sự tướng hiển
nhiên. Cho nên dù người dốt nát hay không nhập đạo cũng có thể chán
nó, không thèm ham mê nó và có thể dứt ra khỏi nó.
“Này chư tỳ kheo! Nhưng về phần cái mà ta gọi là tinh thần,
trí thức, tâm ý thì người dốt nát hay không nhập đạo không có thể biết
mà chán, không có thể biết mà chẳng ham mê và không có thể biết mà
dứt ra khỏi nó. Vì làm sao vậy? Vì từ bao giờ đến bây giờ, người dốt nát
hay không nhập đạo hằng ưa thích và nhìn nhận lẽ này “Cái này là của
tôi, tôi là cái này, cái này là tôi.” Bởi thế cho nên người dốt nát hay
không nhập đạo không có thể biết mà chán, không có thể biết mà chẳng
ham mê, và không có thể biết mà dứt ra khỏi nó.
“Nhưng tốt hơn là người dốt nát hay không nhập đạo nên
nhận rằng cái thân thể tứ đại như một Cái Ta, chớ không nên nhận nó
như tinh thần, tâm ý. Vì làm sao vậy? Vì ta biết rằng thân thể tứ đại này
hoặc sống một năm, hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm, mười năm,
hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm, một trăm
năm, hoặc lâu hơn nữa. Còn cái mà ta gọi là tinh thần, trí thức hay tâm
ý thì hoặc ngày đêm và luôn luôn, nó cứ hiện ra thế này rồi lại biến đi
thế khác.
“Này chư tỳ kheo! Đến đây nhà học đạo chân chánh và cao
thượng xét rất kỷ cái thuyết nhơn và quả: “Cái kia có thì cái này có, bởi
cái này có sanh ra, cái kia mới có sanh ra; các này không có thì cái kia
không có, bởi cái này dứt, cái kia mới dứt.”
“Này chư tỳ kheo! Bởi tiếp xúc với vật ưa thích, nên sanh ra
cái thọ cảm ưa thích. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với cái ưa thích,
thì cái thọ cảm sanh ra bởi cái tiếp xúc kia cũng hết đi. Bởi tiếp xúc với
173 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
vật mình ố kỵ, nên sanh ra cái thọ cảm ố kỵ. Nhưng đến khi không còn
tiếp xúc với vật mình ố kỵ thì cái thọ cảm kia cũng dứt ngay đi. Bởi tiếp
xúc với cái vật bơ thờ, không ưa không ố, nên sanh ra cái thọ cảm bơ
thờ. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với vật ấy thì cái thọ cảm kia
cũng dứt và hết đi vậy.
“Này chư tỳ kheo! Cũng như hai miếng cây cọ nhau và chạm
nhau cho nên mới nháng ra thành lửa. Đến khi người ta đem hai miếng
cây ra và để xa cách nhau, thì lửa sanh ra bởi hai miếng cây kia cũng
dứt và hết đi. Cái thọ cảm ưa thích cũng thế, nó sanh ra là bởi tiếp xúc
với vật mình ưa thích. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với vật ấy nữa
thì cái thọ cảm kia cũng dứt đi và không còn. Cái thọ cảm ố kỵ và cái
thọ cảm bơ thờ cũng hiện ra và tiêu tan như vậy. Mình còn tiếp xúc với
vật thì còn thọ cảm, hết tiếp xúc thì hết thọ cảm.
“Này chư tỳ kheo! Nhà học đạo chân chánh và cao thượng
đã hiểu như vậy, thì lấy làm chán cái thọ cảm, lấy làm chán cái tâm ý,
trí thức. Hể chán thì không còn ham mê. Và nhờ hết ham mê nên mới dứt
bỏ và giải thoát. Đến khi được giải thoát thì biết mình đã được giải
thoát, biết mình đã hết tái sanh, biết mình đã sống một cách thanh tịnh,
biết mình làm việc đáng làm và biết mình không còn dính dấp tới cõi
trần này nữa.”
Đức Phật nói tiếp:
“Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi đức Như Lai diệt độ,
nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc,
hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép thì đặng một nghìn hai
trăm ý công đức.
“Dùng ý căn thanh tịnh đó, nhẫn đến nghe một kệ, một
câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi có thể diễn
nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng, nhẫn đến một năm.
Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều cùng thiệt tướng chẳng trái
nhau.
174 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp
nuôi sống v…v… đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh
trong cõi tam thiên đại thiên, lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng hí
luận thảy đều biết đó.
“Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như
thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là
Phật pháp cả, không có gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh
các đức Phật thuở trước nói.”
Người trì kinh Pháp Hoa
Ý căn tịnh như thế
Dầu chưa đặng vô lậu
Trước có tướng dường ấy
Người có trì kinh này
An trụ bực hi hửu
Được tất cả chúng sanh
Vui mừng mà mến kính
Hay dùng nghìn muôn ức
Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt mà nói pháp
Bởi trì kinh Pháp Hoa.
Ý là động lực tư duy. Người giữ hạnh thanh tịnh, tâm ý được
mở thông sáng suốt, nghe thấy ít mà hiểu biết nhiều, chỉ đọc thoáng qua
một câu mà hiểu ra trăm nghìn ý. Những lời nói thông dụng hằng ngày,
hoặc diễn ra câu thơ, bài tứ cú kệ, câu vè, câu ca dao đều là những lời
giáo dục có ý nghĩa, những câu bài ấy đều thâm nhập đạo lý nhà Phật,
tác động vô cùng lớn lao đến người nghe.
Xin trích dẫn một số câu:
Tỷ trước chư hương, thiệt tham vị
Nhãn minh chúng sắc nhĩ văn thanh
175 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vinh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương, vạn lý trình.
(Bài kệ Tứ Sơn của vua Trần Thái Tông.)
Nguyễn Lang dịch:
Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh lênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết, quê xa vạn lý trình.
Một ngày không đọc sách, ngu ba năm.
Một tín đồ tôn giáo một ngày không đọc tụng kinh
chú hoặc tịnh niệm thì lú lẫn nhiều đời.
Sa Môn Thích Thông Bửu.
Người học cao hiểu rộng, mà không mang trí thức giúp ích cho đời thì
cũng giống như người nông dân đã cày xới mà không gieo hạt
Khổng Tử..
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Ca dao.
Gặp được người nói lời phải như bắt được vàng ngọc, châu báu.
Thấy được người nói điều phải, thì hay hơn thơ phú văn chương.
Nghe được người nói điều phải thì vui hơn nghe chuông trống, đờn ca,
cầm sắt.
Tuân Tử.
Ai ơi ăn ở cho lành
Kiếp này chẳng đặng hãy dành kiếp sau.
Ca dao.
Người quân tử có ba điều lớn chẳng nên không biết:
1. Lúc nhỏ chẳng học để lớn lên bất tài.
176 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
2. Khi già chẳng dạy cho người để khi chết không ai thương
nhớ.
3. Có của mà không bố thí để lúc nghèo không ai đến giúp.
Khổng Tử.
Lúc giàu thời chẳng giúp ai
Tới khi hoạn nạn chẳng ai giúp mình.
Ca dao.
Trót đời làm việc thiện, việc thiện còn chẳng đủ.
Một ngày làm sự dữ, sự dữ tự có dư.
Mã Viện.
Mặt trời, mặt trăng tuy sáng, chẳng soi được dưới chậu úp.
Cây đao, cây gươm tuy bén, chẳng chém được người vô tội.
Thái Công.
Một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điếu ác tự đó dấy lên.
Trang Tử.
Ac không gì lớn bằng làm thỏa mãn cái dục vọng của mình.
Họa không gì to bằng cái tội hay nói xấu người khác.
Sách Cách ngôn.
Sư bà Đề hi ra (Dhira) là một tỳ kheo ni cần chuyên phận sự và chăm lo
đạo đức một cách vẻ vang, sau đó sư bà đã đắc đạo có để lại bài kệ sau
đây:
Tâm tình trau luyện bấy lâu nay
Đạo đức cao siêu đã đủ đầy
Còn một kiếp này mang lốt thịt
Kìa kìa giặc quỉ đã xa bay.
(giặc quỉ là các món tình dục, phiền não thường xuất hiện trong lúc
nhập định, phải kiên quyết diệt tận thời mới mong tới được bến bờ)..
177 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ni sư Sangha dứt bỏ nhà cửa, thân quyến đi tu, bà có làm bài
kệ:
Của tiền nhà cửa bỏ rồi
Thân bằng cố hửu cũng thôi chẳng gần
Con thơ đành hết quây quần
Ông bà, cha me, mộ phần đều xa
Một phen giũ sạch lòng tà
Dứt tình ham muốn, lìa mà nợ duyên
Nhờ nương đạo đức làm đèn
Tâm đà sáng rở, dục liền sạch tan
Từ đây là cảnh an nhàn
Trong lòng yên tịnh, Niết Bàn đâu xa.
BỒ ĐỀ HÀNH KINH.
Đông cung Thái tử Xăn ti đề Hoa (Cantideva) là con của đại
đế Hát sa (Harsha), thống lĩnh toàn cõi An độ vào thế kỷ thứ bảy. Lúc
bấy giở đại đế sắp sữa truyền ngôi cho vị Thái tử thông minh xuất chúng
này lên ngôi Hoàng Đế. Thái tử liền từ bỏ ngai vua, vì ngài nằm mộng
thấy đức Bồ Tát Văn Thù (Manjucri) và Phật bà Tãrâ hiện đến khuyên
ngài xuất gia. Ngài đi nhiều nơi, cố ý khảo cứu đạo đức. Ngài tu học rất
thâm diệu về lý nghĩa Đại thừa, tham thiền rất có hiệu lực. Trong lúc
thiền định, đức Bồ Tát Văn Thù thường hiện đến viếng ngài, hộ trợ ngài
và ban ân huệ cho ngài.
Sau ngài trở về xứ, lấy pháp hiệu là Cantideva. Ngài muốn
thử các vị sa môn, nên giả đò làm một thầy tăng biếng nhác, ham ăn
thích ngủ… Mọi người đều cho ngài là kẻ bất tài, nên không ai để ý tới,
lại còn coi rẻ là khác.
Một hôm, nhằm khi tăng chúng hội họp để giảng kinh, mọi
người đều phải đăng đàn thuyết pháp. Đến phiên ngài, người ta sẳn
178 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
muốn cười ngài dốt. Ngài lên pháp tòa, giữa các sư, ngài thuyết diễn Bồ
Đề Hành Kinh (Bodhicaryâvatâra), ngôn ngữ chính xác, nghĩa lý bao la,
ý tứ thâm diệu, từ bi làm sao, khiến cho mọi người đều thất kinh hồn vía,
và cảm phục, coi ngài như một vị Đại Bồ Tát.
Chính Bồ Đề Hành Kinh là một pho kinh rất huyền diệu về
Đại thừa, dắt dẫn về cách tu tâm, về sự sanh hoạt cao viễn và thanh tịnh,
và là một pho kinh có đủ những bài chỉ cho tín đồ coi theo mà thi hành
để đạt đến mục đích vẻ vang là Vô thượng Bồ đề. Kinh này dịch ra chữ
Hán hồi thế kỷ thứ mười, nhan đề Bồ Đề Hành Kinh. Học giả người
pháp tên là Louis Finot nương theo bổn chữ Phạn mà dịch ra chữ Pháp,
với tựa đề La Marche à la Lumière (bước đi đến cõi bồ đề). Sau đây xin
trích ra một ít đoạn:
*-Trong khi đêm hôm mây án làm cho cảnh trời thêm đen
mịch, nhưng một cái chớp làm cho cảnh sáng ra. Cũng như thế, nhờ oai
đức của Phật, có khi tư tưởng của con người ngừng nghĩ đến việc phải.
*-Nguyện trị cho một ít người hết bịnh nhức đầu đã được
công đức khá rồi. Huống chi muốn cứu nhơn sanh khỏi bể thảm mênh
mông và độ cho họ có tánh quí vô cùng vô tận.
*-Phiền não không ở trong vật, cũng như không ở trong ngũ
quan tri giác, hoặc trong khoảng cách hay ở chỗ nào, vậy chúng nó ở
nơi đâu mà khuấy rối cả hoàn cầu? Chẳng qua là bóng dáng đó thôi.
Tâm ơi! Ngươi đừng sợ chi hết, hãy rán mà theo trí huệ.
*-Dốc lòng thí cho chúng sanh mọi vật mình có, cho đến thí
luôn công đức của mình, như vậy mới thật là có nhơn đúng bực đó.
*-Tôi có thể làm mất gia tài, danh giá cho đến mạng sống
của tôi; chớ cái tâm lành của tôi không bao giờ tôi để cho nó mất.
*-Phiền não là lũ ăn cướp đi kiếm nẽo .Nếu kiếm được nẽo,
chúng nó sẽ bốc lột ta và phá nát phần phước của ta ở đời tới nữa. Vậy
179 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
ta phải để ý cho lắm đến chỗ cửa cái tâm mới được, cái ý chỉ ấy dang
xa, ta phải kéo nó lại liền.
*-Không nên ngó qua ngó lại vô ích, phải ngó mãi xuống
cũng như trong khi tham thiền. Phải giữ cho chính cái tâm, con voi dâm
dục ấy, đừng để nó sút dây chạy khỏi cây trụ này.
*-Một người ngủ chiêm bao, thấy mình sướng trăm năm, rồi
thức dậy. Một người khác cũng ngủ thấy mình sướng có một lát, rồi thức
dậy. Cả hai khi tỉnh giấc cái sướng đã biến mất. Cũng như vậy, đến giờ
chết, kẻ thọ và kẻ yểu đều như nhau.
*-Tinh tấn là gì? Là can đảm làm việc phải, phấn đấu,
chuyên cần, tỉnh trí giữ mình, biết mình như người, lật lấy của mình làm
của người, của người làm của mình, cái sướng của mình đem dâng cho
người, cái khổ của người mình vui lòng rước lấy, ấy là những bộ hạ của
đức tinh tấn. Những món nghịch của nó là gì Lười biếng, ham làm ác,
thối chí và tự chê mình.
*-Cũng như thuốc độc, nếu vào đến máu thì chạy khắp cả
mình, vậy cái tật xấu nếu nó gặp trớn, nó sẽ chạy khắp trong tâm.
Pháp sư trì giới, giữ hạnh thanh tịnh nghiêm túc, thời công
đức của lục căn mới phát dương viên dung. Pháp sư giữ gìn lục căn
thanh tịnh mà nhờ đó luồn điển lành trong cơ thể từ từ lướt lên, trải qua
các nơi trong thân mà làm cho sáng suốt, tinh anh có thể chứng đắc sáu
phép thần thông của chư Phật như:
- Thiên nhãn thông: Nhìn thấy thông suốt vô lượng kiếp quá khứ
của chúng sanh và con đường thác sinh ở thời tương lai, do nghiệp nào
chúng sinh sinh về cảnh giới nào.
- Thiên nhĩ thông: Nghe rỏ thông suốt không trở ngại các quốc độ
của chư Phật ở mười phương đang giảng pháp cho chư đại Bồ Tát và A
la hán.
180 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
- Tha tâm thông: Biết hết thảy không chướng ngại lòng dạ của mọi
chúng sanh.
- Thần túc thông: Cõi nào cũng đến đặng.
- Túc mạng thông: Biết rỏ vô lượng kiếp quà khứ của tự thân với
những nghiệp nhơn và nghiệp quả.
- Lậu tận thông: Đoạn tận tất cả lậu hoặc.
SÔNG HẰNG
Trong kinh Phật thường dùng cụm từ “Hằng hà sa số”,
“Nhiều như số cát sông Hằng” đế ám chỉ một con số không thể tính đếm
được. Vậy sông Hằng bắt nguồn từ đâu?
Theo thần thoại An Độ giáo, con sông Hằng chảy từ ngón
chân của thần Vishnu từ ở trên trời bị bắt buộc phải rời thượng giới
xuống trần để phục vụ cho người thế gian. Còn thực tế con sông Hằng
bắt nguồn từ dãy Hy mả lạp sơn do ba nhánh sông lớn, trong đó có một
nhánh phát xuất từ đỉnh Gangotri, cao 6771m, so với mặt nước biển, sau
đó cả ba nhánh hợp lưu tại Devaprayag thành sông Hằng vĩ đại, con
sông thiêng mà đức Phật thường nói đến trong kinh Pháp Hoa. Sông
Hằng chảy xuyên qua vùng thánh địa Bihar, nơi có nhiều thánh nhơn ra
đời hoạt động cứu nhơn loại, và chảy ra đến vịnh Bengale là điểm cuối.
Trong cuốn “Đại Đường Tây Vực Ký” ngài Huyền Trang
Đường Tam Tạng đã đến thăm sông Hằng vào năm 630, có viết một
đoạn như sau:
“Gần nguồn, sông rộng khoảng ba dặm, đến cửa sông bề
rộng khoảng mười dặm. Nước sông xanh đậm, màu nước luôn luôn thay
đổi. Dưới sông có nhiều loại tôm, cá, rắn, rồng rất lạ, nhưng hiền. Nước
181 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
sông ngọt và dịu lắm. Trong kinh sách bà la môn của người An Độ có
ghi rằng nước dưới sông này là thuốc trừ bịnh. Ai tắm sông này, người
đó sẽ rửa sạch mọi tội lỗi. Uống nước hay là rửa miệng thì không sanh
tai họa. Ai chết ở sông này, sẽ được sinh về cõi trời. Mỗi ngày người ta
lên xuống đông đặc chỗ bờ sông.
“Người đạo bà la môn quá tin như vậy, mà người đạo Phật thì
cho là những tín ngưỡng và thói tục dị đoan.
“Ngài Huyền Trang nói rằng, thuở xưa, có một lúc trai, gái,
già, trẻ đang quần tựu nhau tắm rửa dưới sông Hằng, bổng có một vị lão
tổ tên At đa Đề Hoa (Arya Deva) tổ sư thứ mưới lăm dám đến công kích
họ và cho là bọn mê tín.”
Một đoạn khác, trong cuốn ký sự du hành tại An Độ, Nguyễn
tường Bách viết:
“Đoạn này của sông Hằng mà tôi đến thăm lần đầu là thượng
nguồn sông Hằng, đó là nơi nước chảy với lưu lượng rất lớn, hai bên bờ
không hề có cát. Nước sông màu xanh lục, trên sông có chỗ nước sôi réo
bạc đầu. Đoạn sông Hằng này là nơi tấp nập người qua kẻ lại, du khách
khá nhiều. Đây được xem là một đoạn sông thiêng nhất. Hai bên bờ khá
nhiều đền thờ. Tín đồ An độ giáo tắm gội rất nhiều dù trời đang lạnh.
Thú vị thay khi thấy trẻ con bị cha mẹ dội nước lên đầu, chúng run cầm
cập. Người lớn xuống sông bơi lặn, nét mặt thành khẩn, miệng lâm râm.
Hai bên bờ sông, người ta xây kè xi măng với hàng chục dây xích sắt để
tín đồ níu lại, không bị nước cuốn trôi.
“Sau này tôi đến Varanasi, đó là một thành phố phồn vinh
suốt hai ngàn năm, nơi có sông Hằng chảy qua. Nơi đây tôi thấy cát, cát
nhiều vô tận. Có phải cát này cũng là cát mà đức Phật thấy cách đây hai
ngàn năm trăm năm không?
“Bên bờ Vanarasi người ta vẫn đốt xác, vẫn thả tro theo sông,
vẫn tắm gội, vẫn ngồi thiền định khi mặt trời vừa lên. Nơi đây chỉ cách
182 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
vườn Lộc Uyển, chỗ Phật giảng pháp lần đầu, chưa đầy chục cây số, chỗ
Phật giảng pháp lần đầu.”
183 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT thứ hai mươi.
Trước khi đức Phật thuyết phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát,
Thế Tôn nói với ngài Đắc Đại Thế đại Bồ Tát rằng:
“1.- Đắc Đại Thế! Ông nay nên biết! Nếu có tỳ kheo, tỳ
kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, đặng
công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý thanh
tịnh, như có người nói lời thô ác mắng nhiếc, chê bai, mắc tội lớn
cũng như trước đã nói.”
Thế rồi Thế Tôn liền kể lại cho ngài Đắc Đại Thế Bồ Tát
nghe qua công nghiệp quá khứ của Thế Tôn, lúc còn ẩn thân làm Bồ Tát
Thường Bất Khinh.
“2.- Đắc Đại Thế! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất
khả tư nghị vô số kiếp, có Phật hiệu là Oai Am Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giãi,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế
Tôn.
“Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại Thành. Đức
Oai Am Vương Phật trong thời đó vì hàng trời, người, a tu la mà nói
pháp, vì người cầu Thanh Văn mà nói pháp Tứ Đế, thoát khỏi sanh,
già, bịnh, chết, rốt ráo Niết Bàn; vì người cầu Bích Chi Phật mà nói
pháp Mươi Hai Nhơn Duyên; vì các Bồ Tát nhơn Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác mà nói sáu pháp Ba La Mật rốt ráo trí huệ của
Phật.
“Đắc Đại Thế! Đức Oai Am vương Phật đó sống lâu bốn
mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp trụ ở đời kiếp
số như vi trần trong một diêm phù đề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số
như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích chúng
sanh vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt hết,
trong cõi nước đó lại có Phật ra đời cũng hiệu là Oai Am Vương
184 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn
Sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều
đồng một hiệu.”
Đức Phật Oai Am Vương đầu tiên giảng pháp Tứ Thánh Đế
cho trời, người, a tu la, tất cả đều chứng ngộ bực Thanh Văn, thoát khỏi
sanh, già, bịnh, chết rốt ráo Niết Bàn. Vì người trời cầu Bích Chi Phật
nói pháp Mười Hai Nhơn Duyên, vì người trời cầu Bồ Tát đạo nói Sáu
Pháp Ba La Mật, rốt ráo đặng trí huệ của Phật. Đức Oai Am Vương Phật
thọ đến bốn mươi tỷ kiếp, trong thời gian đó đức Oai Am Vương Phật
thuyết pháp độ vô lương vô biên hằng hà sa chúng sanh đều quy về một
cội nguồn Phật trí, cho nên mới có hai mươi tỷ đức Phật lần lượt giáng
sinh cùng đồng một hiệu Oai Am Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni Phật nói tiếp:
“3.- Đức Oai Am Vương Như Lai dầu hết diệt độ rồi, sau
lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp, những tỳ kheo tăng
thượng mạn có thế lực lớn.
“Bấy giờ có vị Bồ Tát tỳ kheo tên Thường Bất Khinh. Đắc
Đại Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Khinh? Vì vị tỳ kheo đó phàm
khi ngó thấy tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni, ưu bà tắc hoặc ưu bà di thảy
đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: “Tôi rất kính quí ngài, chẳng dám
khinh mạn. Vì sao? Vì quí ngài đều tu hành đạo Bồ Tát sẽ đặng làm
Phật.”
“Mà vị tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ
đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy ngợi
khen mà nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ
thành Phật.”
185 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Trong hàng tứ chúng, có người lòng bất tịnh sanh giận
hờn buông lời ác mắng nhiếc rằng: “Ông vô trí tỳ kheo này từ đâu
đến đây tự nói ta chẳng khinh ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ đặng
làm Phật, chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế.”
Trên đây chúng ta thấy một vị Bồ Tát có tên là Thường Bất
Khinh, một vị tỳ kheo chẳng ưa thích tụng đọc kinh điển, chỉ biết long
nhong đi lễ lạy mọi người, dù là tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni, dù là ưu bà tắc
hay ưu bà di và miệng luôn khen ngợi những người này khéo tu đạo Bồ
Tát, trước sau gì họ cũng sẽ thành Phật.
Chúng ta đã tụng đọc kinh Pháp Hoa tới phẩm hai mươi, thì
nay mới thấy rỏ có một vị Bồ Tát tên là Thường bất Khinh đang hành
đạo thể nghiệm về Phật tính của chúng sanh trong kinh điển này. Chỉ có
giáo lý của kinh Pháp Hoa, đức Phật nói rỏ ràng “Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.” Do vì lòng
tin sâu chắc này chúng ta chỉ cần đi theo con đường chánh kiến, chỉ cần
thực hành sáu pháp ba la mật, từng bước, từng bước một, dốc toàn tâm
thiền quán tập trung, chúng ta sẽ lĩnh hội chơn lý này một cách hoàn
toàn đích thực. Chúng ta sẽ gặp vô số Phật, mọi người trước mắt chúng
ta đều sẽ là Phật. Ngài Bồ Tát Thường bất Khinh đã có một gốc nhìn
như thế. Đó là chuyện có thật, không hề hư vọng.
Thường Bất Khinh Bồ Tát vì cảm nhận mọi người đều có
Phật tánh, cho nên lúc gặp họ ngài nói: “Tôi chẳng dám khinh quí
ngài, quí ngài đều sẽ làm Phật.” Do từ một câu nói được lập đi lập lại
nhiều lần như thế khiến cho người tâm bất tịnh sanh ra phiền não, bực
dọc, giận hờn, buông lời nhiếc mắng thậm tệ, có khi còn bị chúng nhơn
dùng roi gậy đánh đập, dùng ngói đá chọi ném. Bồ Tát không vui khi
chúc tụng người, không buồn khi bị người nguyền rủa, đánh, đá, Bồ Tát
vẫn cố chạy thoát ra ngoài vòng vây nguy hiểm rồi tiếp tục to tiếng
xướng lên rằng: “Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ
thành Phật.” Bởi Bồ Tát thường hay nói lời ngợi khen đó, cho nên hàng
Tăng thượng mạn tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, ưu bà di mới gọi ngài
là Thường Bất Khinh. Tuy nhiên cũng có người sớm giác ngộ nhận ra
186 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lời ca ngợi như vậy là chơn thật, càng nhìn lại mình càng thấy tánh của
mình là không tướng, từ đó Phật tánh càng lộ ra. Những người này đối
xử với ngài có độ lượng, tâm thức chuyễn biến và họ cảm nhận như
chính họ là một vị Phật.
Đến khi sắp chết, vị tỳ kheo này bổng nghe từ trong hư
không hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Phật Oai
Am Vương, nghe xong, vị tỳ kheo này phát nguyện thọ trì liền đặng sáu
căn thanh tịnh. Đặng sáu căn thanh tịnh đó rồi vị tỳ kheo đó sống thêm
hai trăm muôn ức na do tha tuổi. Trong suốt thời gian này, ngài vì chúng
sinh mà rộng giảng nghĩa lý của kinh Pháp Hoa.
Nói tóm lại, vị tỳ kheo giảng giáo lý Pháp Hoa cho tứ chúng
nghe, đạo lý trong Pháp Hoa kinh dạy rằng “Mọi chúng sanh đều có
Phật Tánh. Mọi chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Vị tỳ kheo thuyết
pháp như thế, tất cả thính chúng Pháp Hoa đều sẽ thành Phật. Vị tỳ kheo
biết như vậy, cho nên hể thấy những thính chúng đó từ xa, hoặc là tỳ
kheo hay tỳ kheo ni, hoặc là ưu bà tắc hay ưu bà di, vị tỳ kheo đó đều
đến ngợi khen chúc tụng “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều
sẽ thành Phật.” Đây là tinh thần phải có của một vị tu hạnh Bồ Tát đạo,
thấy biết người đó có Phật tánh, phải biết kính trọng Phật tánh của người
ấy, vị Bồ Tát này chỉ có một suy nghĩ là cưú khổ chúng sanh thoát khỏi
khổ đau. Thế mà có một số đông Tăng thượng mạn không nắm được ý
nghĩa này, hô hoán cho vị tỳ kheo Bồ Tát trên là Thường Bất Khinh.
Trong đời, người có hạnh tu Bồ Tát đạo luôn chịu nhiều thiệt thòi oan
ức. Nhưng Thường Bất Khinh tỳ kheo luôn tinh tấn, nhẫn nhục để vượt
qua, không buồn giận, không phiền não, vị tỳ kheo vẫn thể hiện được
hạnh Bồ Tát kiên trì. Hạnh nhẫn nhục cùa người khiến cho một số đông
kẻ Tăng thượng mạn càng thêm nổi giận, càng nổi giận càng thêm chao
đảo, càng thêm mất gốc tu. Niệm tâm càng sanh nhiều tội lỗi.
Trong khi đó Thường Bất Khinh Bồ Tát vẫn tiếp tục truyền
giảng kinh Pháp Hoa mãi mãi không ngừng, càng ngày sức thần thông
càng rộng lớn, sức nhạo thuyết biện tài khiến cho thính chúng càng nghe
càng tin phục, càng theo hầu rất đông.
187 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong khi những Tăng thượng mạn trên kia vì không nghe,
không tin, không phục những thời thuyết pháp trong kinh điển này, họ
phải trải qua thời gian khá dài mang nhiều đau khổ không bao giờ được
gặp Phật, không bao giờ được nghe pháp, không bao giờ được thấy tăng,
thì Thường Bất Khinh Bồ Tát, sau khi tịch diệt lại thọ mạng sang thế
giới khác đặng gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng
Minh, vì chúng sanh ở trong thế giới đó mà nói kinh Pháp Hoa này. Do
nhơn duyên tạo lập căn lành như vậy, nên đến khi thác lại sanh vào một
thế giới lành gặp đặng Phật Vân Tự Tại Đăng Vương, trong pháp hội
của đức Phật đó, vị Bồ Tát phát nguyện thọ trì, đọc tụng vì hàng tứ
chúng mà nói kinh điển này, cho nên ngài được mắt thanh tịnh, tai, mũi,
lưỡi, thân cùng ý căn đều được thanh tịnh.
Sau rốt, đức Thích Ca Như Lai nói với ngài Đắc Đại Thế Bồ
Tát:
“Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh đại Bồ Tát đó cúng
dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính, tôn trọng, ngợi khen,
trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở
trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu
sẽ đặng làm Phật.
“5.- Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Thường Bất Khinh Bồ
Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là thân ta. Nếu ta ở đời
trước chẳng thọ trì, đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói, thì
chẳng có thể mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì ta ở
chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này, vì người
khác nói, nên mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“6.- Đắc Đại Thế! Thuở đó, bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni,
ưu bà tắc, ưu bà di do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai
trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy
tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A Tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại
gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
188 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thường khinh
vị Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là nay trong hội này
bọn ông Bạt Đà Bà La năm trăm vị Bồ Tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt
năm trăm vị tỳ kheo, bất thối chuyễn ở nơi đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
“Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích
các vị đại Bồ Tát, có thể làm cho đến nơi đạo Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Cho nên các vị Bồ Tát sau khi Phật diệt độ phải
thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.”
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài
kệ:
7.-Thuở quá khứ có Phật
Hiệu là Oai Am Vương
Sức trí thần vô lượng
Dìu dắt tất cả chúng
Hàng trời, người, long, thần
Đều chung nhau cúng dường
Sau khi Phật diệt độ
Lúc pháp muốn dứt hết
Có một vị Bồ Tát
Tên là Thường Bất Khinh
Bấy giờ hàng tứ chúng
Chấp mê nơi các pháp
Thường Bất Khinh Bồ Tát
Qua đến chỗ của họ
Mà nói với đó rằng
“Ta chẳng dám khinh ngài
“Quí ngài tu đạo nghiệp
“Đều sẽ đặng thành Phật.”
Những người đó nghe rồi
Khinh chê thêm mắng nhiếc
Thường Bất Khinh Bồ Tát
Đều hay nhẫn thọ đó
189 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tội Bồ Tát hết rồi
Đến lúc gần mạng chung
Sáu căn đều thanh tịnh
Vì sức thần thông vậy
Sống lâu thêm nhiều tuổi
Lại vì các hạng người
Rộng nói kinh pháp này.
Các chúng chấp nơi pháp
Đều nhờ Bồ Tát đó
Giáo hóa đặng thành tựu
Khiến trụ nơi Phật đạo
Thường Bất Khinh mạng chung
Gặp vô số đức Phật
Vì nói kinh này vậy
Đặng vô lượng phước đức
Lần lần đủ công đức
Mau chứng thành Phật đạo
Thuở đó Thường Bất Khinh
Thời chính là thân ta
Bốn bộ chúng khi ấy
Những người chấp nơi pháp
Nghe Thường Bất Khinh nói
“Ngài sẽ đặng làm Phật.”
Do nhờ nhơn duyên đó
Mà gặp vô số Phật
Chính trong pháp hội này
Năm trăm chúng Bồ Tát
Và cùng bốn bộ chúng
Thanh tín nam nữ thảy
Nay ở nơi nước ta
Nghe kinh Pháp Hoa đó
Ta ở trong đời trước
Khuyên những hạng người đó
Nghe thọ kinh Pháp Hoa
Là pháp bực thứ nhứt
190 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Mở bày dạy cho người
Khiến trụ nơi Niết Bàn
Đời đời thọ trì luôn
Những kinh điển như thế
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Lâu lắm mới nghe đặng
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Cho nên người tu hành
Sau khi Phật diệt độ
Nghe kinh pháp như thế
Chớ sanh lòng nghi hoặc.
Nên phải chuyên một lòng
Rộng nói kinh điển này
Đời đời đặng gặp Phật
Mau chứng thành Phật đạo.
LUẬN SƯ A ĐỀ SA (ATISHA) VÀ THIỀN SƯ
LẠT MA RINCHEN ZANGPO.
Mẫu chuyện sau đây nói về nhà luận sư Phật giáo An Độ,
ngài A Đề Sa (980-1055), chuyên nghiên cứu các phương pháp chứng
ngộ Bồ Đề tâm (boddhichitta), là ông tổ của dòng Magadha và giảng sư
tại viện đại học Vikramashila. Được vua Tây Tạng mời qua thuyết giảng
gíao lý Phật Đà, ông nguyện sống hết cuộc đời cuối cùng của mình (13
năm) ở trên vùng thảo nguyên cao ngất trái đất này. Tại đây ông lập ra
trường phái Kadampa (105),
gây ảnh hưởng rất lớn lên Phật giáo Tây Tạng
hồi đầu thế kỷ thứ mươi một, nhất là dòng Tsongkhapa, tiêu biểu là vị đệ
tử giỏi nhất của ông tên Dromton (1003-1064). Ông nghĩ đất nước Tây
Tạng có nhiều Phật sống (Lạt ma), cho nên mọi sự chuẩn bị đều rất
tươm tất, kỷ càng, nhất là với tâm thức phải vô cùng khiêm cung và mở
thông.
191 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Năm 1042, luận sư A Đề Sa đến Tây Tạng, nhà vua sắp xếp
ông sống ở Nétang và bắt đầu công nghiệp giáo hóa. Trong số những
nhà thông dịch được tuyễn chọn, nhà vua cử ra một người gioi nhất tên
là Rinchen Zangpo, một vị Lạt Ma già hơn luận sư A Đề Sa khoảng 25
tuổi, vị thiền sư cao cấp nhất nước Tây Tạng. Đức vua phán truyền cho
Lat Ma thiền sư phải dịch rỏ ràng từng lời giác ngộ của A Đề Sa từ tiếng
An Độ ra tiếng Tây Tạng, đừng quên một dấu chấm, dấu phẩy và chú ý
hết sức ý nghĩa sâu xa của những lời thuyết giảng đó. Sau những buổi trà
đạo làm quen, A Đề Sa vô cùng kính phục vị Lạt Ma thiền sư già mà đạo
hạnh cao thâm, ngài cẫn trọng nói: “Sau khi đã gặp ngài, tôi nghĩ chẳng
cần phải tới Tây Tạng hóa đạo nữa, vì duy nhất một vị đạo sư như ngài
đã quá đủ.”
Thiền sư bèn mời vị luận sư An Độ tới tham quan ngôi đền
của mình. Ngôi đền có ba tầng, trang hoàng rất mỹ thuật, thiền sư đưa
ngai A Đề Sa vào tận tâm đền, nơi đó một ngày ba lần, mỗi đêm ba lần
thiền sư tập trung thiền quán lên cảnh giới Man đa la, mà ngài đã được
ba vị thánh ban phép.
Tại Đại hùng bửu điện hai ngài bàn bạc trao đổi về kinh
nghiệm tâm linh của mình, về pháp đại thừa. Càng luận đạo, luận sư A
Đề Sa càng phát hiện thiền sư Tây Tạng là vị Lạt Ma đã đắc đạo, rất
hùng biện, thao thao bất tuyệt, giọng trầm trầm như sư tử hống. Ngài A
Đế Sa hỏi: “Theo ngài Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp theo
thứ tự có trước có sau hay có thể hành trì song song một lúc?”
Đáp :” Theo thứ tự, có trước có sau.”
Ngài A Đề Sa không đồng ý, vị luận sư nói một giọng như ra
lệnh: “Tất cả các giáo pháp cần được hành trì cùng lúc. Tất cả các vị
thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần chứng ngộ các vị đó trong
một khoảnh khắc duy nhất, tức thì. Như Dudjom Rinpoche đã nói, hoàn
toàn vô ích, nếu biết hằng ngàn sự việc và bỏ quên cái giây phút mà tất
cả đều tụ hội và tất cả đều giải thoát.”
192 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thấy vị thiền sư có vẻ chưa tin hẳn, A Đề Sa nói tiếp: “Bây
giờ tôi phải biết vì sao phải đến Tây Tạng. Các bạn tôn kính các vị thần
thánh bằng cách lập các trường phái khác nhau và bằng các giáo phái
mang đầy tính hình thức.”
Thiền sư Tây Tạng cúi đầu lỉnh hội và nói: “Ngài hãy lấy hết
những gì tôi có và hãy đưa tôi đi thẳng vào trung tâm điểm.”
Ngài luận sư từ chối, vì cảm thấy ngài trưởng lão thiền sư
Tây Tạng đã liễu ngộ tự tánh, chắc chắn bờ giác Niết Bàn sẽ đến với ông
ta trong nay mai, cho nên chỉ yêu cầu ông ta làm thông dịch cho ngài. Vị
trưởng lão thiền sư cuối đầu sát mặt đất xin A Đề Sa chỉ cho thấy gốc
cội của phép tu hành. A Đề Sa chấp nhận theo lời yêu cầu. Dưới sự
hướng dẫn chuyên cần của A Đề Sa, vị trưởng lão đó trước đây tu hạnh
thiền quán viễn ly, nay tập thiền quán trong từng bước đi. Mười năm
sau, vị trưởng lão thiền sư chứng ngộ đạo lý viên thông tự tại.
Trước khi chết, ông tập họp một số học trò giỏi và nói: “Đến
giờ phút này tuổi ta đã cao, ta vẫn kiên trì tu hành phép tập trung. Sau
khi ta gặp được ngài A Đề Sa, tâm ta mới giản ra trong phép tu thiền
quán đích thực.”
Trích truyện cổ Phật Giáo Tây Tạng .
193 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm NHƯ LAI THẦN LỰC thứ hai mươi mốt.
Đức Phật vừa kết thúc bài kệ, liền ngay đó có vô số đại Bồ
Tát nhiều bằng số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới đất vọt lên, đứng
trước đức Phật một lòng chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật
và bạch rằng:
“1.- Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của
đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì
sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh tịnh này để thọ
trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó.”
“2.- Lúc đó Thế Tôn ở trước ngài Văn Thù Sư Lợi v.v…
vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát cựu trụ ở nơi cõi Ta bà
và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, v.v…, trước tất cả
chúng hiện sức thần thông lớn: bày tướng lưỡi rộng, dài lên đến trời
Phạm thế, tất cả lổ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ
màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các
đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày
tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng.”
Các vị Bồ Tát phát nguyện ở những cõi nước nào mà Như
Lai phân thân diệt độ, họ sẽ rộng tuyên nói kinh này bất chấp mọi khó
khăn, trước là để học hỏi mong đạt đến pháp giới thanh tịnh do công
hạnh tu tập kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau là để bày tỏ sự biết ơn sâu xa
đối với đức Phật đã dày công dạy dỗ, cho nên các ngài kiên định thọ trì,
tụng đọc, giải nói, biên chép là phương cách cúng dường Như Lai tốt
nhứt.
Thần lực bày tường lưỡi rộng, dài lên đến trời Phạm thiên,
thần lực các lổ chân lông phóng ra vô lượng ánh sáng đủ màu sắc và soi
rọi khắp cả mười phương trong cõi Ta bà này, là một hiện tượng kỳ bí,
thâm sâu, có nghĩa là chơn lý diệu pháp lan toả rộng khắp vũ trụ nhân
sinh, chơn lý đi tới đâu, bóng tối vô minh bị tiêu diệt tới đó. Anh đạo
194 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
quang của đức Thích Ca Như Lai cùng vô số linh quang của chư Phật
khác hòa hợp lại như thể ánh sáng mặt trời soi rọi chỗ tối tăm.
Tất cả chúng sanh sống hoàn toàn vào chơn lý, nhờ tin tưởng
vào giáo lý của đức Thích Ca Như Lai, tin tưởng vào Diệu Pháp Liên
Hoa làm cho chúng sanh thoát khỏi vọng tưởng, khiến cho không phân
biệt đâu là cõi trời, đâu là cõi người, mà chỉ hợp nhứt lại thành một cõi
tịnh độ ở tại cõi Ta bà này.
Sức thần thông hiển bày trải qua trăm nghìn năm sau mới
nhiếp thu lại tướng lưỡi, đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung khảy
móng tay, hai thần lực đó phối hợp vang xa khắp cõi nước Phật trong
mười phương. Ở những cõi này nhìn thấy vào trong cõi Ta bà có vô
lượng vô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới
những cây báu và thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Đa Bảo
Như Lai ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên
trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát và hàng tứ chúng cung kính vây
quanh đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thần thông của Như Lai hiển bày trong phẩm kinh này là để
minh chứng cho rằng tất cả các pháp mà Như Lai đã nói, không có pháp
nào hơn được pháp này, không có kinh điển nào hơn được kinh Pháp
Hoa. Vì chỉ có kinh Pháp Hoa mới mau độ chúng sanh thoát khỏi vòng
sinh tử luân hồi, thoát cảnh vô minh tăm tối, cho nên như có người thọ
trì, đọc tụng, giải nói, biên chép thì phải biết rằng những người như thế
không rời xa cảnh Phật trí. Cho nên mới nói tất cả thần lực của Như Lai
có đều ở trong kinh Pháp Hoa, tất cả các pháp của Như Lai có để cứu độ
chúng sinh cũng ở trong kinh Pháp Hoa. Người thọ trì, đọc tụng kinh
Pháp Hoa, cho dù chỉ là một bài kệ bốn câu, tìm hiểu thẩm sâu nội dung
rồi nhiếp tâm thuộc lòng và thực hành sẽ thấy chính mình được tự độ,
công đức vô lượng.
Thân Như Lai tự tánh trong suốt vì đã xa lìa hết thảy phiền
não và các cấu uế, chẳng bị pháp thế gian làm nhiễm ô, do đó hình ảnh
vi diệu thể hiện trong tướng lưỡi rộng dài vô cùng thù thắng.
195 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
THANH TỊNH SINH RA NĂNG LƯỢNG
VÀ TRÍ TUỆ.
Vô lượng chư đại Bồ Tát bạch Phật muốn đặng pháp thanh
tịnh để thọ trì, tụng đọc, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa. Chúng ta
biết rằng hạnh thanh tịnh sẽ tương thích trong mọi hoàn cảnh để tạo ra
năng lượng và trí huệ. Tâm thanh tịnh là nguồn gốc của hạnh phúc. Vì
có thanh tịnh mới bớt khổ thêm vui. Chơn lý có tác dụng bớt khổ thêm
vui đó là những lời dạy của đức Phật.
Trong kinh Tịnh Danh đức Phật có nói: “Tánh vốn thanh
tịnh.” Khi chúng ta chưa nghe nói đến kinh Pháp Hoa có phải chúng ta
gặp khổ nhiều, vui ít? Khi đã hiểu rỏ giáo pháp của kinh điển này rồi có
phải chúng ta đặng khổ ít, vui nhiều? Cũng như thế, khi chưa có Phật thì
khổ nhiều, vui ít. Khi Phật giáng thế độ chúng sanh thì khổ ít, vui nhiều?
Như vậy trong tâm thức của chúng ta đã có sẳn một gốc
thanh tịnh. Do bởi công việc cho sư sống ngập đến đầu, chúng ta vô tình
bỏ quên gốc thanh tịnh của mình, vì thế năng lượng không những không
sinh ra thêm mà còn mòn mõi. Như vậy gốc thanh tịnh trong tâm cần
phải khơi gợi lên, đánh thức dậy, điều này không phải ai muốn cũng
được. Rỏ ràng trong tâm của chúng ta có cái thanh tịnh chưa được khai
tỏ, nhưng nếu chúng ta thường lui tới chỗ ồn ào, sôi động thì chắc chắn
không bao giờ cảm thấy được.
Niềm vui thường đi liền với sự thanh tịnh. Trong lòng có
thanh tịnh, tức không còn vướng mắc những ưu tư phiền não, thì niềm
vui và hạnh phúc sẽ đến ngay. Có niềm vui và hạnh phúc con người ta
cảm thấy khoẻ, tức là có năng lượng, sự quyết định cho mọi công việc sẽ
sáng suốt hơn, tức là có trí tuệ.
Chúng ta tự lập ra những điểm mốc để đánh thức gốc thanh
tịnh:
196 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
* Chùa viện: Phải có thời gian đến chùa lễ Phật. Cứ mỗi lần đến
chùa, dù chỉ trong chốc lát, nhưng mà khoảnh khắc quí giá đó cũng giúp
cho ta quên hết những khó khăn thực tế, nếu là người hay bị stress, cũng
giúp cho tâm thức được thư giản, và nhờ đó gốc thanh tịnh thức dậy,
năng lượng và trí tuệ sẽ tăng.
* Tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng A La Hán: Đó là những bức
tượng vô tri giác, nhưng lại tạo rất nhiều ấn tượng. Hãy tập trung nhãn
lực nhìn lên những bức tượng ấy, tắm trong ánh sáng hòa quyện của
nhiều ngọn đèn huỳnh quang trắng xanh, và hào quang ngủ sắc lung
linh, chúng ta sẽ cảm thấy gốc thanh tịnh trong tâm thức được bậc ra,
như vừa tháo chốt nén của một lò so. Những bức tượng cực kỳ thanh
tịnh đó như đang cười, một nụ cười đại từ, đại bi với chúng ta. Nếu có
người làm lỗi, tạo tội, những bức tượng đó nhìn họ một cách rất nghiêm
khắc như nhắc nhở rằng “Chớ nên gây nghiệp chướng”. Khi chúng ta
khấu đầu đảnh lễ sát đất có phải là trong lòng chúng ta vô cùng thanh
tịnh hay không, vô cùng hạnh phúc hay không?
* Tụng kinh, chuông, mỏ: Là một thể âm nhạc thuần túy nơi chốn
chùa, viện, tịnh thất. Giọng tụng kinh ê a trầm bổng, hoà cùng tiếng
chuông mỏ nhặt khoan, người nghe lúc bấy giờ cảm thấy tâm thức siêu
thoát trong khung cảnh đó, tức là người đó đã đạt đến cảnh giới thanh
tịnh hoàn toàn.
* Am nhạc: Những bản nhạc nhẹ không lời, những bài tình ca dân
gian, những câu ca dao phong hóa cũng làm cho gốc thanh tịnh của
chúng ta trổi dậy.
* Giấc ngủ: Là một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh. Sau mười sáu
tiếng lao động, ăn uống, giãi trí, thì giấc ngủ ngon lành sẽ là lều thuốc
phục hồi sức khoẻ nhanh chóng để rồi lại tiếp tục công việc cho ngày
hôm sau, nó cũng tạo thêm năng lượng, trí tuệ.
Ngoài ra còn có những chỗ thanh tịnh để mà đến như núi
non, đồng trống, rừng hoang, dòng sông êm đềm v…v… nhưng e rằng
197 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lòng không thanh tịnh, tức là gốc thanh tịnh trong tâm thức không chịu
bậc dậy thì cũng uổng công thôi.
Mọi trí tuệ siêu việt của đức Phật, của chư vị đại Bồ Tát, của
hết thảy các ngài A La Hán tuôn ra như dòng cam lồ rưới mát chúng
sanh đều phát xuất từ thanh tịnh. Cho nên trong phẩm Như Lai Thần
Lực, chư vị đại Bồ Tát nhiều như số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới
đất vọt lên đó bạch cùng Phật rằng: “Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở
nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng
nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh
tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó.”
Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng
rằng:
“Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số
thế giới có nước tên Ta bà, trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni
hiện nay vì các đại Bồ Tát nói kinh đại thừa “Diệu Pháp Liên Hoa
giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm”, các ông phải thâm tâm tùy hỷ,
cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
“Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi,
chắp tay xoay về cõi Ta bà nói thế này “Nam mô Thích Ca Mâu Ni
Phật, Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật”. Dùng các món hoa hương,
chuỗi ngọc, phan lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật
tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta bà. Các vật rải đó từ
mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm
khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bấy giờ mười phương cõi nước
thông đạt không ngại như một cõi Phật.”
Tất cả chúng sanh sống hoàn toàn vào chơn lý, nhờ tin tưởng
vào giáo lý của đức Thích Ca Như Lai, tin tưởng vào pháp diệu hửu làm
cho chúng sinh thoát khỏi tâm thức hư vọng khiến cho không còn phân
biệt được đâu là cõi trời, đâu là cõi người, mà chỉ hợp nhứt lại thành một
cõi tịnh độ ở ngay tại cõi Ta bà này.
198 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì bởi kinh điển này có công đức lực thật khó nghĩ bàn, đức
Phật bảo đại chúng bực thượng hạnh Bồ Tát:
“4.- Khi đó Phật bảo đại chúng bực Thượng Hạnh Bồ Tát
thảy: “Thần lực của các đức Phật vô lượng, vô biên bất khả tư nghì
như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn
muôn ức vô số kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này
vẫn chẳng hết được.
“Tóm nói đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực
tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất
sâu của Như Lai đều tuyên bày rỏ nói trong kinh này, cho nên các
ông sau khi Như Lai diệt độ phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói,
biên chép đúng như lời nói mà tu hành.
“Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói,
biên chép đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc
trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường,
hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống,
trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.
“Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng, các đức
Phật ở đây mà đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các đức
Phật ở đây mà Chuyễn pháp luân, các đức Phật ở đây mà Nhập Niết
Bàn.
“Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói
kệ rằng:
“5.-Các Phật đấng cứu thế
Trụ trong thần thông lớn
Vì vui đẹp chúng sanh
Hiện vô lượng thần lực
Tướng lưỡi đến Phạm Thiên
Thân phóng vô số quang
199 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này
Tiếng tằng hắng của Phật
Cùng tiếng khảy móng tay
Khắp vang mười phương cõi
Đất đều sáu món động
Sau khi Phật diệt độ
Người trì được kinh này
Các Phật đều vui mừng
Hiện vô lượng thần lực
Vì chúc lụy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Vẫn còn chẳng hết được
Công đức của người đó
Vô biên vô cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng thể đặng ngằn mé
Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân.
Cuối cùng đức Phật kết luận bài kệ và cương quyết khẳng
định rằng người nào thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa,
người đó quyết định vào cõi Phật đạo:
Sau khi Như Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhơn duyên và thứ đệ
Theo nghĩa nói như thật
Như ánh sáng nhựt nguyệt
Hay trừ các tối tăm
Người đó đi trong đời
Hay dứt tối chúng sanh
200 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Dạy vô lượng Bồ Tát
Rốt ráo trụ nhứt thừa
Cho nên người có trí
Nghe công đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Người đó ở Phật đạo
Quyết định không có nghi.
Tượng Phật lớn điêu khắc trong núi ở A Phú Hản (Afghanistan)
Nay đã bị quân Hồi giáo Taliban hủy diệt vào năm 2001.
201 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm CHÚC LỤY thứ hai mươi hai.
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp tòa
đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô
lượng đại Bồ Tát mà nói rằng:
“Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu
tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay
đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một lòng lưu bố pháp
này làm cho thêm nhiều rộng.”
Đức Phật ba phen nói như thế:
“Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu
tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay
đem phó chúc cho các ông, các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên
nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều đặng nghe biết.”
Đọc suốt hai mươi mốt phẩm kinh, từ phẩm Tựa thứ nhứt,
đức Phật phóng một luồng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn
mày chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương đông, dưới thì
chiếu đến địa ngục A Tỳ, Trên suốt trời Sắc Cứu Cánh. Đến phẩm Như
Lai Thần Lực thứ hai mươi mốt, đức Phật hiện sức thần thông lớn bày
tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thiên. Tất cả lổ chân lông phóng
ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều soi khắp cả mười
phương. Đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung tiếng khảy móng tay.
Chúng ta đã thấy nội dung tổng quát nhằm giới thiệu Phật tri
kiến của một giáo pháp diệu lý, mục đích chánh là cứu độ chúng sanh
thoát khỏi đau khổ, luân hồi, đến với cảnh giới Phật trí.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có lòng từ bi lớn vì thương chúng
sanh nên mới thị hiện ra đời, vì bởi chúng sanh thân tâm mê chấp, tham
đắm ảo giác, bị lừa chính mình, nên nhân lúc thuyết pháp, vì để muốn
202 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
cho chúng sanh mau tỏ ngộ đặng pháp Phật, từ một Phật thừa, Như Lai
phân biệt nói thành ba, dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo, lời lẽ nhơn
duyên để:
Dạy bảo cho chúng sanh được mở (Khai) tri kiến Phật.
Chỉ bày cho chúng sanh được thấy (Thị) tri kiến Phật.
Dẫn dắt cho chúng sanh được gặp gở (Ngộ) tri kiến Phật.
Giảng giải cho chúng sanh được chứng (Nhập) tri kiến Phật.
Cho nên chúng ta thấy rỏ con đường khai, thị, ngộ, nhập đều
có mặt trong các phẩm kinh. Toàn bộ hai mươi mốt phẩm kinh đầu cho
thấy được Phật tánh của chúng sanh, cho thấy được con đường ngộ nhập
Phật tri kiến.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có lòng bỏn sẽn chỉ
vì Như Lai không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh
tướng, không thọ giả tướng. Như Lai cũng không sợ ai nói xấu, khinh
chê, bày bác chơn lý của Như Lai. Bởi vì sao? Vì tất cả chơn lý diệu
pháp đó đều đưa chúng sanh đến trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai,
trí huệ tự nhiên. Trí huệ của Phật là trí huệ toàn giác, trí huệ tri kiến, trí
huệ sáng soi tất cả mười phương. Trí huệ của Như Lai là tia sáng đủ màu
sắc rọi soi trùm cả vũ trụ đem chơn lý đến khắp mọi nơi, nơi nào không
có sự sống, nơi nào chồng chất khổ đau, nơi nào còn đầy ấp phiền não,
trí huệ Như Lai sẽ tới nơi đó. Trí huệ tự nhiên tức là niềm tin phát xuất
từ trong tâm của mọi chúng sanh. Vì có lòng tin mới sanh ra trí huệ tự
nhiên.
Cho nên đức Phật khuyến bảo các vị đại Bồ Tát: “Đã nhiếp
thọ pháp của Như Lai rồi thì chớ sanh lòng bỏn sẽn, khiếp sợ. Ở đời vị
lai sau nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào có đức tin trí huệ của Như
Lai, thời chư vị hãy vì Phật mà diễn nói kinh Pháp Hoa này cho mọi
người cùng nghe biết, cho mọi người đặng trí huệ của Phật. Người nào
chưa hiểu phải diễn giải sao cho đặng hiểu. Phải làm sao cho hết thảy
chúng sanh đặng nhiếp thọ pháp vi diệu của Phật một cách đồng đều. Tất
cả hàng Bồ Tát, tất cả bốn bộ chúng, nếu có ai làm đặng điều này tức là
203 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đã báo ơn Phật vậy. Ơn đức Phật vô cùng thâm trọng, dầu cho có xả hết
thân nhiều đời nhiều kiếp làm công việc Phật sự cũng không thể nào báo
đáp ơn Phật. Nhưng nếu có người phát nguyện thọ trì, giải nói, biên chép
quảng bá kinh điển này, chỉ dạy cho chúng sanh đặng mọi sự lợi ích, tức
là đã báo được ơn của đức Phật.”
Các chúng đại Bồ Tát nghe đức Phật phán như thế trong lòng
rất vui mừng, các ngài cung kính nghiêng mình cúi đầu chấp tay hướng
Phật và lập lại câu nói ba lần bạch rằng:
“Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ,
kính xin Thế Tôn chớ có lo.”
Phần ủy thác đã xong, Phật Thích Ca Mâu Ni nói với các đức
Phật phân thân hãy trở về bổn độ ở khắp mười phương, và tháp của Đa
Bảo Như Lai cũng hườn về chỗ cũ.
BỐN DIỆU ĐẾ. (Trích kinh Đại Bát Niết Bàn tập I).
Này Ca diếp! Nói là khổ đó, chẳng gọi là thánh đế. Tại sao
vậy? Vì nếu nói “khổ” là khổ thánh đế, thời tất cả trâu, dê, lừa ngựa
cùng người địa ngục lẽ ra có thánh đế.
Này Ca Diếp! Nếu có người nào chẳng biết cảnh giới rất sâu
của Như Lai với pháp thân vi mật thường trụ không biến đổi, cho là thực
thân không phải pháp thân, chẳng biết đạo đức oai lực của Như Lai, đây
gọi là “khổ”.
Do vì chẳng biết nơi “pháp” thấy là “phi pháp”, nơi “phi
pháp” thấy là “pháp”. Phải biết người này ắt phải đọa vào ác thú mãi trôi
lăn trong vòng sanh tử, thêm lớn nghiệp hoặc chịu nhiều khổ não.
204 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nếu có người hay biết Như Lai thường trụ, không có biến
đổi, hoặc nghe tiếng nói hai chữ “thường trụ” một lần phớt qua tai, bèn
được sanh lên cõi trời. Về sau, lúc được giải thoát, mới được chứng biết
Như Lai thường trụ không có biến đổi. Khi đã chứng biết bèn tự nói:
“Ngày trước tôi thường nghe nghĩa “thường trụ” này, nay được giải
thoát mới được chứng biết. Đối với bổn tế, vì không rỏ biết, nên tôi phải
luân hồi sanh tử, xoay lăn vô cùng, ngày nay mới bắt đầu đặng chứng
biết như thật.”
Nếu người nào biết như vậy, thiệt là tu “khổ đế” được nhiều
lợi ích.Nếu người không biết,, dầu là siêng tu nhưng không được lợi ích,
đây gọi là biết “khổ”, gọi là “khổ thánh đế”.
Nếu người nào không tu tập như vậy, thời gọi là “khổ”,
chẳng phải “khổ thánh đế”.
“Khổ tập đế” là nơi trong chơn pháp chẳng sanh chơn trí.
Thọ lấy vật bất tịnh, tức là nô tỳ, hay nói phi pháp là chánh pháp, dứt
diệt chánh pháp chẳng cho còn lâu. Vì nhơn duyên này mà không biết
được pháp tánh, vì không biết mà luân hồi sanh tử chịu nhiều sự khổ
não, chẳng sanh cõi trời và chánh giải thoát. Nếu có thâm trí chẳng hoại
chánh pháp do nhơn duyên này được sanh cõi trời và chánh giải thoát.
Nếu có người không biết khổ tập đế, mà nói chánh pháp
không có thường trụ. Đây đều là diệt pháp. Vì nhơn duyên này nên trong
vô lượng kiếp lưu chuyễn sanh tử, chịu các sự khổ não.
Nếu có thể biết pháp thường trụ chẳng khác, đây gọi là biết
“tập”, gọi là “tập thánh đế”. Nếu người không thể tu tập được như vậy
thời gọi là ‘tập”, chẳng phải “tập thánh đế”.
“Khổ diệt đế” là, nếu có người tu học nhiều pháp không thời
là chẳng tốt. Bởi vì sao? Vì dứt tất cả pháp, vì hư hoại chơn pháp tạng
Như Lai. Tu học như trên đây gọi là tu pháp không. Người tu khổ diệt đế
thời nghịch lại tất cả pháp tu của ngoại đạo. Nếu nói rằng tu pháp không
205 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
là “diệt đế” đó, thời tất cả ngoại đạo cũng tu pháp không, đáng lẽ họ có
diệt đế. Nếu có người tu tập Như Lai tạng, vô ngã không tịch, người này
nơi vô lượng đời lưu chuyễn thọ khổ trong vòng sanh tử. Nếu có người
chẳng tu tập như vậy, dầu có phiền não nhưng chóng có thể diệt trừ, vì
người này biết tạng bí mật Như Lai.
Nếu có người nói rằng có tạng Như Lai, dầu chẳng thấy
được, nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não, đây thời đặng chứng
nhập. Nếu phát tâm như trên đây, nhơn duyên trong một niệm có thể
đặng tự tại đối với tất cả pháp.
Nếu người nào có thể tu tập diệt đế như vậy chính là đệ tử
của ta. Bằng không thời gọi là tu pháp không chẳng phải diệt thánh đế
vậy.
Đạo thánh đế tức là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo và chánh
giải thoát.
Có hạng chúng sanh điên đảo cho rằng không Phật, không
Pháp, không Tăng và không chánh giải thoát, sanh tử lưu chuyễn dường
như huyễn hóa. Do kiến chấp này, nên lưu chuyễn ba cõi chịu nhiều khổ
não.
Nếu có thể phát tâm thấy rằng Như Lai thường trụ không
biến đổi, Pháp, Tăng, giải thoát cũng thường trụ như vậy. Nhờ một niệm
này, trong vô lượng đời tùy ý mà đặng quả báo tự tại.
Như ta thuở trước, vì bốn thứ điên đảo, chẳng phải pháp chấp
là pháp, nên mắc lấy vô lượng nghiệp quả ác. Ngày nay ta đã diệt hết
những kiến chấp như vậy, nên đặng thành Phật Vô thượng Chánh giác.
Đây gọi là “đạo thánh đế”.
Nếu có người cho rằng Tam Bảo là vô thường, đây là lối tu
hư vọng chẳng phải đạo thánh đế.
206 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nếu người tu tập Tam Bảo là thường trụ, người này là đệ tử
của ta, chơn chánh tu tập thấy bốn pháp thánh đế.
Trên đây gọi là “bốn thánh đế”.
BỐN ĐIÊN ĐẢO. (Kinh Đại Bát Niết Bàn tập I)
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “Này Thiện nam tử! Thế nào là tứ
đảo? (bốn điều điên đảo).“Nơi chẳng phải khổ tưởng cho là khổ”, gọi là
điên đảo. Chẳng phải khổ chỉ cho Như Lai.
Tưởng cho là khổ, tức là cho rằng Như Lai là vô thường biến
đổi. Nếu có người nói Như Lai là vô thường, đây gọi là tội khổ rất lớn.
Nếu nói Như Lai khi xả thân khổ này để nhập Niết bàn như
củi hết lửa tắt, đây gọi là chẳng phải khổ mà tưởng cho là khổ. Chính đó
là điên đảo.
Nếu ta nói rằng: Như Lai là thường thời là chấp ngã, vì chấp
ngã nên có vô lượng tội, thế nên phải nói Như Lai là vô thường, nói như
thế thời ta vui thích.
Như Lai là vô thường chính đó là khổ, nếu đã là khổ thế nào
sanh vui. Bởi ở trong khổ tưởng cho là vui nên gọi là điên đảo.
Nơi vui tưởng cho là khổ, gọi đó là điên đảo. Vui tức là Như
Lai. Khổ tức là Như Lai vô thường. Nếu nói Như Lai là vô thường, đây
gọi là nơi vui tưởng cho là khổ.
Như Lai thường trụ gọi là vui.
Nếu ta nói rằng: Như Lai là thường, sao lại nhập nơi Niết
bàn. Nếu nói Như Lai chẳng phải là khổ, sao lại bỏ thân mà diệt độ. Bởi
ở trong vui tưởng cho là khổ, nên gọi đó là điên đảo.
207 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Các điều tưởng lầm như trên, gọi là sự diên đảo thứ nhứt.
“Vô thường tưởng là thường, thường tưởng là vô thường”,
đây gọi là điên đảo.
Vô thường chỉ chẳng tu pháp không, vì chẳng tu pháp không
nên thọ mạng ngắn ngủi.
Nếu có người cho rằng chẳng tu pháp không tịch thời đặng
trường thọ. Quan niệm đó gọi là điên đảo. Đây là sự điên đảo thứ hai.
“Vô ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô ngã”, đây là điên đảo.
Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.
Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây
thời gọi là nơi vô ngã mà tưởng là ngã, gọi đó là điên đảo.
Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật
pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp
quyết định vô ngã nên đức Như Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã.
Lời trên đây là điên đảo. Đây là lời điên đảo thứ ba.
“Tịnh tưởng là bất tịnh, bất tịnh tưởng là tịnh”, đây gọi là
điên đảo. Tịnh chính là Như Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực,
chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân thịt, chẳng phải là thân gân
xương ràng rịt.
Nếu có người nói rằng Như Lai là vô thường, là thân tạp
thực, là thân thịt, là thân gân xương ràng rịt, cũng cho rằng Pháp, Tăng
giải thoát đều là diệt tận, đó gọi là những quan niệm điên đảo vì tịnh mà
cho là bất tịnh. Bất tịnh tưởng cho là tịnh, gọi đó là điên đảo.
Nếu có người nói rằng trong thân của ta đây không có một
pháp nào là bất tịnh cả, bởi không có bất tịnh nên quyết định sẽ đặng vào
208 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nơi chỗ thanh tịnh. Thuyết tu bất tịnh quán của Như Lai là thuyết hư
vọng.
Trên đây là quan niệm điên đảo. Đó gọi là điều điên đảo thứ
tư.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Từ nay tôi mới
đặng chánh kiến. Bạch Thế Tôn! Trước đây chúng tôi đều là người tà
kiến cả.”
209 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ
thứ hai mươi ba.
Kinh thuyết:
“1.- Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát bách Phật
rằng: “Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát dạo đi nơi cõi ta bà như
thế nào? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát đó, có bao nhiêu nghìn
muôn ức na do tha hạnh khổ khó làm? Hay thay! Thế Tôn! Nguyện
giải nói cho một ít. Các hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ xoa, Càn thác
bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi
nhơn v…v… và các vị Bồ Tát ở các nước khác đến cùng chúng
thanh văn đây nghe đều vui mừng.”
Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát hỏi Phật về thần thông đi lại ở
cõi Ta Bà của ngài Dược Vương Bồ Tát, những hạnh khổ khó làm và
phương cách cứu độ chúng sanh của ngài ra sao. Tất cà hàng trời, thần,
rồng, người và tám bộ chúng khác đều muốn biết.
“2.- Lúc đó Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: “Về
thuở quá khứ vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu
Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
“Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng
hà sa chúng đại Thanh văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp,
Bồ Tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, địa
ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la v…v… và với các khổ nạn. Đất bằng
như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu
trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương khắp cùng cả
nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều
bằng một lằng tên. Các cây báu đó đều có Bồ Tát, Thanh văn ngồi ở
210 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỷ nhạc trời,
ca khen đức Phật để làm việc cúng dường.”
Phật bèn nói về tiền thân của ngài Dược Vương Bồ Tát. Thuở
quá khứ hằng hà sa kiếp vế trước, ở vào thời kỳ đức Phật Nhựt Nguyệt
Tịnh Minh Đức Như Lai, có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng
hà sa chúng đại Thanh văn theo hầu. Phật và Bồ Tát trong quốc độ đó
sống lâu đến bốn mươi hai nghìn kiếp. Quốc độ đó không có người nữ (106)
, không có địa ngục, không có ngạ quỉ, không có súc sanh, không có
a tu la, không có các khổ nạn khác. Quốc độ đó vô cùng tráng lệ, mặt đất
bằng thẳng do lưu ly kết tạo thành, trang trí bằng nhiều cây báu trang
nghiêm, các cây báu đó đều có Bồ Tát và Thanh Văn ngồi ở dưới. Màn
báu trải trùm lên, thòng các phan báu đẹp lạ lùng, mùi hương xông thơm
khắp cùng cả nước, còn trên đài thất bảo có vô số chư thiên đang tấu
khúc nhạc trời, hòa lẫn những lời ca khen tán tụng đức Phật.
Kinh thuyết :
“3.- Bấy giờ đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh
Hỷ Kiến Bồ Tát cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh văn nói kinh
Pháp Hoa.
“Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ưa tu tập
khổ hạnh, ở trong pháp hội của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức
Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn
hai nghìn năm đặng “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội” (tức là
tam muội tự tại, vô ngại). Đặng tam muội đó rồi lòng rất vui mừng,
liền nghĩ rằng:
“Ta đặng Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội này đều là
do sức đặng nghe kinh Pháp Hoa. Ta nên nên cúng dường Nhựt
Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp Hoa.”
ĐứcPhật nói kinh Pháp Hoa cho ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh
Hỷ Kiến Bồ Tát cùng các chúng nghe. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ
Kiến Bồ Tát nghe kinh đó rồi, quyết tâm tu tập khổ hạnh, tinh tấn kinh
211 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hành, một lòng cầu Phật đạo. Ở trong pháp hội của đức Nhựt Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật mãn một muôn hai nghìn năm liền đặng “Hiện nhứt
thiết sắc thân tam muội”. Đặng tam muội này ngài vô cùng mừng rở và
nghĩ đến việc đền đáp công ơn đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức
Như Lai. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát bèn nhập tam
muội đó. Rải vào trong hư không các loại bông mạn đà la, bông ma ha
mạn đà la, hòa trộn bột chiên đàn phủ kín như mây từ trên cao rưới
xuống. Lại dùng một trăm bốn mươi bốn thùng hương hải thử ngạn
chiên đàn, là loại hương báu ở cõi ta bà để cúng dường đức Phật.
Cúng dường xong, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát từ trong tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: “Ta dù dùng thần lực cúng
dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường.”
Liền uống các chất thơm như hương chiên đàn huân lục,
hương đâu lâu bà, hương tất lực ca, trầm thủy giao hương; ngoài ra ngài
còn uống các thứ tinh dầu thơm, các thứ bông chiêm bặc… mãn một
nghìn hai trăm năm. Ngài dùng tinh dầu thơm tắm hết thân thể, và đứng
trước đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ngài dùng y báu cõi trời tự
quấn lấy thân, rưới các thứ tinh dầu lên trên y báu, dùng sức nguyện thần
thông mà tự đốt thân.
Kinh thuyết :
“Anh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới,
các đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: “Hay thay! Hay thay!
Thiện nam tử! Đó gọi là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng
dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương chuỗi ngọc, hương đốt, hương
bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và hương hải thử ngạn
chiên đàn dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng
được.
“Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện
nam tử! Đó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn, rất
thượng, bởi dùng pháp cúng dường các đức Như Lai vậy.” Các đức
212 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật nói lời đó rồi đều yên lặng. Thân của Bồ Tát lửa cháy một
nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ Tát mới hết.”
TỰ ĐỐT THÂN,
CÁCH CÚNG DƯỜNG CỦA BỒ TÁT.
Trong khi ngọn lửa đốt thân của ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh
Hỷ Kiến Bồ Tát đang âm ĩ cháy suốt một
ngàn hai trăm năm.
« Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa
Bồ Tát : Ý ông nghĩ sao ? Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đâu phải
người nào lạ, chính nay là ông Dược
Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí
số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na
do tha như thế.
« Tú Vương Hoa ! Nếu ngươi phát
tâm muốn đặng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể
đốt một ngón tay, nhẫn đến một ngón chưn cúng dường tháp của
Phật, hơn đem quốc thành thê tử và cõi tam thiên đại thiên : núi,
rừng, sông, ao các vật trân báu mà cúng dường. »
Bổng dưng chúng ta nhớ lại ở quốc độ Việt Nam cũng có
những ngọn lửa kỳ diệu của các thiền sư Thích Quảng Đức, Thích
Nguyên Hương, Thích Thanh Tuệ, Thích nữ Diệu Quang, Thích Tiêu
Diêu, Thích Quảng Hương, Thích Thiện Mỹ v.v… tự đốt thân mình để
cúng dường lên thập phương chư Phật, cầu nguyện thập phương chư
Phật nhiếp thọ và độ trì cho Phật Giáo Việt Nam thoát khỏi khổ nạn do
bởi một chánh quyền gia đình trị, do bởi một chánh quyền kỳ thị tôn
213 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
giáo, cầu nguyện cho Phật Giáo Việt Nam mãi mãi được trường tồn, bất
diệt.
NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG ĐỨC.
Bồ Tát Thích Quảng Đức trụ trì tại chùa Quan Am, quận
Bình Thạnh. 9 giớ sáng ngày thứ ba 11 tháng 6 năm 1963, (nhằm 20
tháng 4 nhuận năm Quí mão), từ Tổ đình chùa Ấn Quang, (đường Sư
Vạn Hạnh quận 10) ngài bước lên một chiếc xe ôtô màu xanh lá cây hiệu
Simca bốn chỗ ngồi, từ diểm phát xuất đó đến ngả tư Lê văn Duyệt –
Phan đình Phùng (nay là đường Cách Mạng tháng tám – Nguyễn đình
Chiểu quận nhứt). Tại đây ngài bước xuống xe và thiền tọa trong tư thế
kiết già, tay bắt ấn Cam Lộ. Ngài ngồi yên lặng, vững vàng như pho
tượng đá.
Đúng 10 giờ, một bình xăng tắm ướt y vàng casa, rồi một ngọn lửa
bao bọc quanh xác thân ngài. Ngọn lửa trong đỏ ngoài vàng, bập bùng
dâng cao lên gần 4m, trong đó nhìn thấy thân ngài như bức tượng đồng
đỏ, vẫn ngồi vững vàng không nghiêng ngả. Hằng ngàn cặp mắt kinh
ngạc nhìn ngài, hằng chục ngàn tiếng kêu than ai oán, hằng trăm ngàn
giọng nức nở nghẹn ngào.
Lửa vẫn cháy, người vẫn ngồi, tiếng kinh cầu nguyện hoà
quyện với tiếng niệm Phật A Di Đà trộn lẫn với lòng tín ngưỡng dâng
cao.
Lửa vẫn cháy, niềm tiếc thương vô hạn. Xe cộ dừng lại. Cả
thành phố này trước đây một phút còn đang sôi tràn huyết hận, giờ đây
cũng dừng lại. Phải dừng lại, dù là chỉ trong một giây phút hiếm hoi để
hoà chung cùng sự thương tiếc của hàng triệu triệu trái tim tin Phật.
Ngọn lửa vẫn bùng cháy. Việt Nam chấn động. Thế giới chấn
động. Những dân tộc văn minh ở phương tây vô cùng ngạc nhiên, mọi
214 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thông tin liên lạc hiện đại đều hướng về phương đông, hướng về Việt
Nam.
Ngọn lửa vẫn bùng cháy, càng cháy lửa càng mạnh, tiếng
nguyện cầu rền vang. Mãi hơn mười phút sau, thân xác ngài Thích
Quảng Đức mới ngả vật ra. Lúc đó ngài chánh thức vào cõi Niết bàn,
hưởng thọ 67 tuổi. Nhưng ngài để lại cho hàng triệu triệu Phật tử một
trái tim bất diệt, một trái tim đốt mãi, đốt hoài vẫn còn đó, nóng hổi như
đang bóp máu điều hoà cho mối đạo Phật Giáo Việt Nam vĩnh hằng,
trường tồn, bất tử. Trái tim của Bồ Tát Quảng Đức là một di vật chứa
đựng tinh hoa của Thánh nhân, chứa đựng mọi quyền lực thần bí, đã
kiểm chứng hạnh tu của Bồ Tát trở thành hoàn hảo.
Ngài chuyên trì tụng Pháp Hoa kinh, Ngài đã thẩm sâu vào
phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự, Ngải noi theo gương của đức Nhứt
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đốt thân cúng dường Đức Phật Nhựt
Nguyệt Tịnh Minh, cho nên Ngài mới phát nguyện đốt thân để cúng
dường Đức Dược Vương.
Thiền sư Thích Quảng Đức tên thật là Lâm văn Tức, sanh
năm 1897 tại làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm
lên bảy tuổi, ngài được người cậu ruột đem về nuôi và đổi tên là Nguyễn
văn Khiết. Ngài xuất gia với thiền sư Hoằng Thâm, thọ đại giới năm hai
mươi tuổi và bắt đầu tu khổ hạnh ở núi Ninh Hòa. Trong năm năm, ngài
tu thiền và đi du hóa theo hạnh đầu đà, chỉ giữ bên mình một y và một
bát. Sau đó ngài về tịnh cư tu tập tại chùa Thiên An ở Ninh Hòa, gần
thành phố Nha Trang.
Năm 1932, ngài được Chi Hội Ninh Hòa của Hội An Nam
Phật học mời làm chứng minh đạo sư. Được ít lâu sau, ngài lại lên
đường hóa đạo ở các tỉnh miền nam Trung Việt, đóng góp vào công
cuộc kiến tạo và trùng tu của mười bốn ngôi chùa rải rác trong vùng.
Năm 1943, ngài lại đi hành hóa ở các tỉnh miền Nam như:
Saigon, Giađịnh, Bàrịa, Vũng Tàu, Long Khánh, Định Tường, Hà Tiên.
215 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Rồi ngài trở lên Kim Biên Nam Vang (Kampuchia) và dựng tích trượng
ở đây trong ba năm, vừa hóa đạo vừa học hỏi thêm các kinh điển Pâli.
Trong thời gian hành hóa ở miền Nam Việt Nam và ở Nam
Vang (Kampuchia), ngài đã góp công hoặc tạo lập, hoặc trùng tu cả thảy
mười bảy ngôi chùa. Ngôi chùa ngài thường trú lâu nhứt là chùa Long
Vĩnh, tọa lạc tại quận Phú Nhuận, Saigon. Vì vậy trước khi ngài tự đốt
thân, Phật tử thiện nam tín nữ thường gọi ngài là Hòa thượng Long
Vĩnh. Cuối cùng ngài về trụ trì tại chùa Quán Thế Am đương Nguyễn
Huệ (nay là đường Thích Quảng Đức) quận Phú Nhuận, kiêm viện chủ
chùa Long Phước tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1953, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thỉnh ngài làm
Trưởng ban nghi lễ, và Hội Phật Học Nam Việt mời ngài làm trụ trì chùa
Phước Hòa, quận ba.
Trước khi ngọn lửa Thích Quảng Đức bùng lên rọi sáng khắp
năm châu thế giới, ngài có viết để lại một bức thư gọi là “Lời nguyện
Tâm huyết” nói rỏ chủ đích và nguyện vọng. Toàn văn bức di thư
không có chưa đựng một mảy may hận thù và tuyệt vọng, trái lại rất
thấm nhuần tình thương và đạo lý. Nguyên văn bức di thư:
“Tôi, pháp danh Thích Quảng Đức, trú trì chùa Quan Âm,
Phú Nhuận, Gia Định.
“Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngữa, tôi
là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi diềm
nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện
thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo
tồn Phật giáo.
“Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức Tăng Ni
chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
216 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“1- Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho tổng thống Ngô Đình Diệm
sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam
ghi trong bản tuyên ngôn.
“2- Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được
trường tồn bất diệt.
“3- Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức
Tăng Ni Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ giam cầm
của kẻ ác gian.
“4- Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
“Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi
lời cho tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc
dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà
muôn thuở.
“Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử nên đoàn
kết nhứt trí để bảo toàn Phật pháp.”
217 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ngọn lửa Thích Quảng Đức rọi sáng tâm người mê muội, ngã
chấp, chuyễn được lòng người khắp nơi trên thế giới, là những Phật tử
Việt Nam từ trong nước cũng như ở nước ngoài, thắt dây đoàn kết lại,
gần gủi nhau hơn để quyết tâm giữ gìn đạo pháp Việt Nam được trường
tồn theo lời mong ước của ngài.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết bài thơ Lửa Từ Bi để ca ngợi
ngọn lửa Thích Quảng Đức:
Lửa, lửa cháy ngất tòa sen
Tám chín phương nhục thể trần tâm niệm
Thành thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông tây nhòa lệ ngọc
Chấp tay đón một mặt trời mới mọc
Anh đạo vàng phơi phới đang bừng lên
Dâng lên.
Oi đích thực hôm nay trời có mặt
Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
Nhìn nhau tình huynh đệ bao la
Nam mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay.
Thương chúng sanh trầm luân bể khổ
Người rẻ phăng đêm tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định hướng về tây
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ người ngồi một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét từ bi.
Rồi đây… rồi mai sau… còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro
Lụa tre dần mục nát
218 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Với thời gian, lê vết máu qua đi
Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát
Dọi hào quang xuống tận chốn A Tỳ
Oi! Ngọn lửa huyền vi.
QUAÛ TIM THÍCH QUAÛNG ÑÖÙC.
219 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chính trong những ngày quyết liệt nhất mà tôi nhận được thư
của Ngài. Thư viết trên miếng giấy nhỏ, dĩ nhiên để dễ mang đi cho kín
đáo. Thư do một ký giả người Việt làm cho một hảng thông tấn ngoại
quốc cẩn trọng đưa tận tay tôi. Thư viết chữ nghiêm trang. Rằng đạo
pháp trong cơn nguy khốn mà tôi tuổi già sức mọn, không làm gì được.
Nên tôi xin học đức Dược Vương, nguyện thiêu thân mình để cầu cho
đạo pháp trường tồn. Ngưỡng mong liệt vị trưởng thượng tôn túc từ bi
hứa khả, và quyết định cho lúc nào thực hiện. Xét đây là việc trọng đại
nên tôi không dám quyết định. Một cuộc họp được mở ra khẩn cấp, với
sự hiện diện của ngài Hội chủ, các Thầy Trí Thủ, Thiện Siêu, Thiện
Minh và tôi. Ai cũng xúc động nhưng không quyết định gì, chỉ giao cho
tôi xét kỹ nên chấp nhận ý nguyện của Ngài hay không, chấp nhận thì
nên thực hiện vào lúc nào, dĩ nhiên là ở Sài gòn. Được giao như vậy,
nhưng tôi trang trọng cất giữ trong người bức thư của Ngài mà chưa
quyết định gì, kể cả việc phúc đáp cho Ngài. Thế rồi trong lúc Từ Ðàm
bị bao vây dữ dằng thì tin ngài tự thiêu được ông Đằng mật báo liền cho
tôi. Liền hôm sau ông Diệm mời Phật giáo thương thuyết. Sự tự thiêu
của Ngài như vậy là cái mốc của giai đoạn mới trong cuộc vận động
1963.
Trước đây tôi không quen biết với Ngài, chỉ gặp một lần khi
Ngài trụ trì chùa Phước Hòa, biết Ngài chuyên tâm trì tụng và lễ bái
Pháp Hoa. Giai đoạn trước khi Ngài tự thiêu tôi cũng chỉ biết mỗi một
bức thư nói trên. Sau này mới biết, trước khi tự thiêu, Ngài chuẩn bị một
cách chân thành, bình dị và kín đáo. Vẫn trì tụng lễ bái Pháp Hoa hằng
ngày. Vẫn sinh hoạt bình thường. Tế nhị lắm mới thấy Ngài có vẻ như
người sắp đi xa. Quan trọng nhất là di chúc của Ngài. Một vị tân tỷ kheo
gần Ngài mà đến hôm Ngài sắp tự thiêu mới biết được ý nguyện và bản
di chúc ấy.
Bản di chúc ấy bình dị, chân thành, quan trọng nhất là ý thức
chứa đựng bên trong. Chính ý thức này chứa đựng tâm nguyện Bồ tát
của Ngài. Không oán trách đến cả ông Diệm, ngài chỉ nói tự đốt thân
mình để cầu cho ông sáng suốt...Ngoài di chúc, Ngài còn một tấm ảnh
và một quả tim. Về tấm ảnh, một ký giả chụp được lúc ngọn lửa bùng lên
220 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
gần khắp người Ngài rồi, còn lại chỉ có một bên vai, gần một nửa trên
đầu, trán cũng đã có lửa, chỉ mặt còn nguyên. Chính trong lúc như vậy
mà nét mặt Ngài hoàn toàn bình thản, siêu thoát, không một nét nhăn
hay một chút ráng sức. Bức ảnh này được giải thưởng quốc tế. Lại nghe
nói lửa bùng lên hoàn toàn mà Ngài vẫn an tọa. Cho đến lửa tắt, một
tấm hình khác cho thấy Ngài ngồi như pho tượng đồng đen. Sau đó một
lúc Ngài mới gật đầu xuống như thể cúi chào tăng ni Phật tử, rồi nhẹ
nhàng bật ngửa người ra. Ngài tự thiêu mấy hôm rồi tôi mới vào Sài
gòn. Tình trạng khi Ngài tự thiêu, nghe nói cực kỳ bi tráng, cho đến nay
vẫn là không tiền khoáng hậu.
Về đám tang của Ngài, tôi sẽ nói đến trong chương 30. Nay
hãy nói đến sự kiện quan trọng nhất là quả tim của Ngài, "quả tim
Quảng Ðức". Việc hỏa thiêu nhục thân của Ngài là do thầy Thiện Hòa
chủ trì. Thiêu rồi lấy ra, trong đống tro tàn còn một khối thịt mà vị trí
cho biết đó là quả tim. Thầy Thiện Hòa cho vào lò thiêu lại cũng vẫn
không cháy. Lại thiêu nữa nhưng xăng hết. Bấy giờ rất đông ký giả hiện
diện. Họ chạy kiếm xăng giúp. Bấy giờ chỉ họ mới đi lại được dễ dàng.
Họ kiếm được mấy can xăng super, đem thiêu kỹ, nhưng lấy ra vẫn
không cháy. Việc này làm cho tôi tin, xưa, ngài La Thập sau khi hỏa
thiêu cái lưỡi vẫn còn. Nhưng ở đây mọi thắc mắc dị nghị hoàn toàn
không có được nữa. Vì đây là việc mà trên dưới 50 ký giả, đa số là ký
giả quốc tế, không những cũng chứng kiến mà còn dự vào.
221 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Về quả tim này tôi vẫn nói đến vào gần cuối bản tự ghi này.
Ở đây chỉ nói khi hỏa thiêu ngài rồi, tôi thảo để ngài Hội chủ ký một
thông bạch. Cuối thông bạch ấy tôi viết "cầu nguyện vị nhục thân Bồ tát
gia hộ cho cuộc vận động của Phật giáo đựơc thành tựu". Và niệm.
"Nam mô đại hùng đại lực Quảng Ðức bồ tát" Hồng danh Bồ tát Quảng
Ðức khởi đầu từ đó. Hồng danh ấy, và Bồ tát Quảng Ðức, cho đến nay
chính những người duy vật cũng không thể không công nhận. Một trong
những sự bất diệt của cuộc vận động 1963 là sản xuất một vị Bồ tát.
Sự tự thiêu của Bồ tát Quảng Ðức ngay khi mới xảy ra đã
làm cho ông Diệm rụng rời. Rồi mấy giờ sau, cả thế giới, nhất là ở Mỹ,
ngọn lửa tự thiêu của Ngài rực lên trên máy truyền hình, đốt cháy tan
tành hình ảnh ông Diệm và chế độ của ông. Ngọn lửa Quảng Ðức chung
đúc và làm sáng lên cái khí thế cao độ mà ông Diệm không còn giữ được
gì về thái độ và chính sách của ông.
Dân tộc Việt Nam có lắm vỉ nhân. Nhưng Bồ tát Quảng Ðức
là vỉ nhân mà siêu nhân.
(Trích Hồi Ký chưa xuất bản của Tỷ kheo Thích Trí Quang, bản riêng
Mai Lan lệ Ấn) Nguồn Tư Liệu :
http://www.khuongviet.net/PD63/Quangduc.htm
NGỌN LỬA THÍCH NGUYÊN HƯƠNG.
Đại đức Thích Nguyên Hương, pháp hiệu Đức Phong, thế
danh là Huỳnh Văn Lễ, sinh năm Canh Thìn (1940) tại làng Long Tĩnh,
xã Liên Hương, quận Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết), thân
phụ là ông Huỳnh Thân, thân mẫu là bà Trương Thị Sang. Ngài là người
con duy nhất của ông bà.. Ông xuất gia năm mười tám tuổi, theo học với
Thiền sư Viên Trí ở chùa Bửu Tích. Năm hai mươi tuổi ông thọ cụ túc
giới và sau đó nhận chức trụ trì chùa Bửu Tạng ở Bình Thuận từ tháng
9/1962.
222 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thánh Tử Đạo Thích Nguyeên Hương
Vị Pháp Thiêu Thân ngày 15-06 Quý Mão (1963)
Năm Mậu Tuất (1958) 18 tuổi, sau bao năm tháng học hạnh
thiền môn, Ngài được Bổn sư cho đến cầu pháp thọ Sa di giới với Hòa
thượng Viên Trí tọa chủ chùa Bửu Tích, quận Hòa Đa, Phan Rí Thành.
Từ đây cuộc đời tu học của Ngài đều y chỉ vào Bổn sư truyền giới, để
chuẩn bị cho giai đoạn được dự vào hàng Thích tử sau này.
Năm Canh Tý (1960) khi vừa tròn 20 tuổi Ngài được thọ Cụ túc giới tại
giới đàn chùa Bửu Tích và được Bổn sư truyền thụ ban pháp hiệu là Đức
Phong.
Qua từng giai đoạn, kể từ lúc bước vào cuộc sống thiền gia,
Ngài đã được Bổn sư giáo dưỡng, vừa chu toàn kiến thức Phật học, vừa
hoàn tất các chương trình phổ thông thế học. Từ đó, Hòa thượng Bổn sư
223 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
an tâm cho Ngài thực hiện bước vân du học đạo nơi chư tôn đức gần xa.
Ngài đã xuôi đến các vùng đất phía Nam, đặc biệt là Sài Gòn. Trong lúc
này, Ngài đã nhìn thấy chính quyền Ngô Đình Diệm ra tay đàn áp Phật
giáo, các phong trào chống đối sự kỳ thị tôn giáo của Diệm khắp nơi nổi
lên. Là một tu sĩ Phật giáo, Ngài không khỏi chạnh lòng, bàng hoàng và
đau xót, vội quay trở về quê nhà Phan Thiết và đảm nhiệm trụ trì chùa
BửuTạng.
Năm Quý Mão (1963) khi bao dự án tái thiết và lập chương
trình tu học cho Phật tử nơi chùa Bửu Tạng chưa kịp hoàn thành, thì
ngày 11.6 ngọn lửa thiêu thân của Hòa thượng Quảng Đức đã thổi bùng,
lan tỏa khắp mọi miền đất nước, nung thêm khí thế của Tăng tín đồ vốn
đã từng sôi sục ý chí đấu tranh để bảo vệ chánh pháp. Trong chiều sâu
tâm khảm kiếp nhân sinh, đó còn là một ai tín, gây sửng sốt không riêng
gì hàng triệu Phật giáo đồ Việt Nam, mà còn cảm động loài người khắp
nămchâu.
Sự kiện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức đã đánh thức
lương tri nhân loại và hai từ “Phật Giáo” dù đối với các thế lực chính trị
chưa hoặc còn lờ mờ về tôn giáo này, phải được minh định vị trí và tôn
trọng. Chính Tổng thống Hoa Kỳ J.Kennedy trước buổi họp của Hội
đồng An ninh Quốc gia ngay sau sự kiện Hòa thượng Quảng Đức tự
thiêu, đã hỏi một câu rất ngây thơ nhưng cũng không kém phần chua xót
rằng “Phật giáo là cái gì ?”. Rõ ràng các tập đoàn lãnh đạo Pháp, Mỹ đến
xâm lược nước Việt Nam họ rất xem thường hoặc chẳng cần biết đến
Phật giáo, một tôn giáo lớn vốn gắn liền như xương với thịt, như máu
với linh hồn của dân tộcViệtNam.
Với Ngài, sự kiện đó vừa làm tăng nỗi đau vừa như dung nạp
thêm bao điều bức xúc đã dồn nén bấy lâu. Ngay tại ngôi chùa Ngài
đang trụ trì ngày 30.5.1963, đáp ứng lời kêu gọi đấu tranh của Hòa
thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết, tổ chức lễ cầu siêu cho Phật tử bị tàn
sát tại Huế ngày 8.5.1963, việc này đã bị chính quyền tỉnh Bình Thuận
buộc phải giải tán, đe dọa mọi người và bản thân Ngài bị gán cho tội
manhđộng.
224 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Hệ quả đã trở thành thảm trạng : sự lo sợ vu vơ cứ đè nặng
trong đầu những người Phật tử chơn chất chân quê; không còn ai dám
đến chùa, bàn thờ tổ tiên, thờ Phật ở gia đình cũng phải vội xếp cất !
Một số Phật tử có tâm huyết thì gạt nước mắt tạ từ Ngài, giã biệt quê
hương; lớp tránh bắt đi cải huấn, lớp tránh bị vu cáo “tay sai cộng sản”;
lớp tìm vào Sài Gòn trực tiếp hòa nhập công cuộc đấu tranh sâu rộng
hơn.
Riêng Ngài, cũng đã định sẵn cho mình một hình thức đấu
tranh, hình thức đó vẫn còn trong ý niệm nếu bản thông cáo giữa Phật
giáo và chính quyền không bị biến thành kế hoãn binh của Ngô Đình
Diệm, để rồi tiếp theo sau đó là từng bước phản bội, đàn áp. Trong ba
vùng Phan Rang – Phan Rí – Phan Thiết những ngày ấy các ngôi chùa
trở nên hoang vắng, thê lương. Những đêm vắng tiếng chuông chùa,
vắng thời khóa và người qua lại, Ngài thường ngồi bên ngọn đèn dầu lạc
cháy leo lét, tâm tư luôn đè nặng bao tấm lòng thiết tha với vận mệnh
đạo pháp. Ngài đôi lần đắp y lên chánh điện lễ Phật rồi đi xuống, không
đánh một tiếng chuông, thậm chí không một bước đi mạnh, bởi mật vụ
lãng vãng chung quanh, chờ có sơ hở để phục bắt Ngài.
Tất cả những diễn biến trên xảy ra chưa đầy sáu tháng của năm 1963, đã
đưa Phật giáo Việt Nam đến bước phải khẳng định thế đứng của mình.
Thế mà vẫn chưa đủ để Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc bấy giờ là
Nolting báo cáo về Ngũ Giác Đài với ý đồ xuyên tạc, đánh lừa dư luận
và có vẻ khinh thường nỗ lực đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, nên
ngày 01.8.1963 Hòa thượng Hội chủ gởi Tổng thống Hoa Kỳ một điện
văn phản đối về hành động này một cách quyết liệt nhưng vẫn bặt vô âm
tín. Ngài quyết định thực hiện ý nguyện thiêu thân, để chứng tỏ với thế
giới rằng ở miền Nam Trung bộ lửa đấu tranh đã bùng cháy.
Đại đức Thích Nguyên Hương, tuổi đời chỉ mới hai mươi ba,
nhưng thầy đã có một định lực khá vững vàng, một đạo tâm rất cương
quyết. Ngày 4 tháng 8 năm 1963, (nhằm ngày 15 tháng 6 năm Quí mão)
trong khi chư Tăng Ni và tín đồ Phật giáo đang tọa thiền tuyệt thực tại
chùa hội quán tỉnh hội Bình Thuận, thì thầy đã tự châm lửa đốt thân
mình ngay trước tỉnh đường Phan Thiết. Thầy ngồi yên trong ngọn lửa
225 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đỏ, đồng bào Phật tử đứng chung quanh đồng niệm Nam mô A Di Đà
Phật cầu nguyện cho giác linh của thầy được siêu sinh tịnh độ, cho tới
khi thân thầy ngã quỵ xuống mặt đường. Một tốp lính địa phương quân
nổ vài phát súng chỉ thiên giải tán đồng bào Phật tử, một tốp khác dập
tắc lửa đưa thi hài của thầy vào bệnh viện Phan Thiết, tiếng loa phóng
thanh từ chùa tỉnh hội vang lên:
“Đại đức Nguyên Hương, một vị tăng sĩ của Giáo Hội Tăng
Già Bình Thuận vừa tự thiêu để phản đối chánh quyền đàn áp tôn giáo,
không chịu thực thi bản thông cáo chung.”
Đại đức Nguyên Hương tự đốt thân mình cúng dường Phật
hoàn toàn không ai hay biết. Trước khi thầy hoàn thành sự tự nguyện
này, thầy có viết để lại ba lá tâm thư: Một lá gởi cho Hòa thượng Thích
Tịnh Khiết xin sám hối về việc tự nguyện đốt thân, đó là trách nhiệm
của một tăng sĩ trong thời mạt pháp, trong tình hình Phật giáo Việt Nam
bị đàn áp, bị kỳ thị. Một lá gởi cho đệ tử bổn đạo chùa Bửu Tạng khuyến
bảo mọi tín đồ hãy an tâm tu học và cầu siêu cho thầy. Lá thư cuối cùng
gởi cho song thân, trong đó thầy khuyên hai người hãy tinh tấn niệm
Phật và đừng trách cứ vị Bổn sư của thầy là thiền sư Viên Trí, vị thiền
sư đáng kính này không hay biết về việc làm của thầy.
NGỌN LỬA THÍCH THANH TUỆ.
Ngọn lửa lần này của một vị học tăng mười tám tuổi, thế
danh là Bùi Huy Chương, pháp danh Thanh Tuệ, sinh năm 1945 tại
Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1960, thọ giới sa di với thiền sư Đảnh Lễ
tại chùa Phước Duyên, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Trước khi ông thắp lên ngọn lửa định lực để củng cố thêm
niềm tin trong giới tín đồ Phật tử và đồng bào khắp trong và ngoài nước,
vào đêm 12 tháng 8 năm 1963, ông điềm nhiên ngồi viết để lại bốn bức
226 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thư. Một bức gởi cho tổng thống Ngô Đình Diệm ông viết rất gọn gàng
và vắn tắt:
“Yêu cầu tổng thống hãy chấm dứt việc khủng bố và áp bức
Phật tử, và phóng thích ngay những người bị giam giữ. Chính sự nhục
mạ và càn rở của bà Nhu sẽ làm cho chánh quyền sụp đổ và đưa Phật
giáo đồ đến thành công.”
Một lá thư gởi tăng đồ Phật giáo, ông viết:
“Hãy tinh tấn và siết chặt tay giữ vững niềm tin tranh đấu
đưa Phật giáo Việt Nam đến đích thành công.”
Một lá thư viết gởi cho thầy bổn sư và bổn đạo chùa Phước
Duyên. Một lá viết gởi cho gia đình.
Hai giờ sáng ngày 13 tháng 8 năm 1963, tại ngôi chùa Phước
Duyên hẻo lánh, lúc bấy giờ đại đức trụ trì đi vắng, một mình ông lửng
thửng đi ra ngoài cổng tam quan chùa và ngồi xuống trong tư thế kiết
già, tẩm xăng tự đốt thân mình. Phần hồn của ông vào cõi hửu dư Niết
bàn, nhưng thân xác của ông bị cường quyến ác bá hốt đem đi mất tích.
NGỌN LỬA THÍCH NỮ DIỆU QUANG.
Ngọn lửa Thanh Tuệ tại chùa Phước Duyên còn đang âm ỉ,
ngày 15 tháng 8 năm 1963 tại thành phố Huế có khoảng một ngàn sinh
viên, học sinh tổ chức biểu tình phản đối nhà cầm quyền đàn áp đồng
bào Phật tử tại chùa Phước Duyên, buộc chánh quyền trả lại thi thể tăng
sinh Thanh Tuệ.
Một bên yêu cầu thích đáng, một bên khiêu khích lố lăng,
khác nào lửa đang âm ỉ lại chế thêm dầu. Cho nên vào tám giờ ba mươi
227 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
phút cùng ngày 15 – 8 – 1963, một ni cô tuổi đời vừa hai mươi bảy tẩm
xăng tự đốt thân mình tại huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Người đó là ni cô Thích nữ Diệu Quang, thế danh Ngô thị
Thu, sanh năm 1936 tại làng Phù Cát tỉnh Thừa Thiên. Ni cô xuất gia
năm hai mươi mốt tuổi, theo học với ni sư Diệu Hoa tại ni viện Vạn
Thạnh ở Nha Trang. Tất cả những lá tâm thư và di thể của ni cô đều bị
chánh quyến cướp mang đi mất tích.
NGỌN LỬA THÍCH TIÊU DIÊU.
Ngọn lửa này chưa tắt hẳn, ngọn lửa khác lại bùng lên. Lửa
tiếp lửa mãi mãi tiến tới không lùi. Chính nhờ những ngọn lửa thiêng
như trên mà nền phong hóa của Phật Giáo Việt Nam ngày nay mới có tư
thế vững vàng trên diễn đàn thế giới.
Chư Phật, chư đại Bồ Tát khắp mười phương đều nhìn thấy
thảm cảnh của Phật Giáo đồ vào năm 1963. Các Phật tử trên khắp năm
châu bốn biển thảy đều ủng hộ sự tranh đấu kiên định của chư vị thiền
sư lảnh đạo Phật giáo Việt Nam. Tại các chùa viện lớn tại đô thành hoa
lệ, đến các am tự hẻo lánh ở thôn quê, thảy đều vang lên tiếng kinh cầu
nguyện cho đất nước này sớm thanh bình, an lạc, cho Phật giáo đồ Việt
Nam tránh được họa diệt vong.
Tại thành phố Huế, ngày 15 tháng 8 năm 1963, tất cả chợ
búa, trường học, xí nghiệp, công sở đều nhất loạt tổng đình công theo lời
kêu gọi của giới lảnh đạo Phật Giáo. Chánh quyền thị xả ban hành lệnh
giới nghiêm và thiết quân luật toàn diện. Chùa chiền bị phong tỏa, hàng
chục ngàn người bị cô lập trong các chùa Linh Quang, Từ Đàm và Diệu
Đế.
228 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thành phố Huế cổ kính và nhân hậu kia giờ bổng trở nên
thành phố chết, thành phố ma, vì chỉ thỉnh thoảng thấy vài bóng người
lom khom chạy vụt nhanh dười
những mái hiên phố phường.
Trong lúc đó tại chùa Từ
Đàm có khoảng năm ngàn Phật tử
túc trực. Vào hồi bốn giờ sáng
ngày 16 tháng 8 năm 1963, bất
ngờ thượng tọa Tiêu Diêu tự đốt
thân mình ngay tại chùa Từ Đàm,
ngài để lại ba bức tâm thư, một
cho hòa thượng Thích Tịnh Khiết,
thầy bổn sư truyền giới của ngài,
một lá cho các đệ tử của ngài và lá
thư thứ ba viết gởi tổng thống
Ngô Đình Diệm. Ngài hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi đời, hai mươi ba
tuổi đạo.
Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, không biết thế danh, sanh năm
1892 tại làng An Truyền, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Năm ba
mươi tám tuổi (1930) ngài xin thế phát quy y với hòa thượng Thích Tịnh
Khiết ở chủa Tường Vân, năm 1952 ngài thọ đại giới và sau đó dựng
một tịnh thất gần chùa Châu Lâm để tỉnh tu. Ngài đã từng theo học Phật
tại chùa Tây Thiên và Linh Quang.
NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG HƯƠNG.
Thượng tọa Quảng Hương có thế danh là Nguyễn Ngọc Kỳ,
sinh năm 1926 tại Phú Yên. Thầy xuất gia năm 17 tuổi và sáu năm sau
tức năm 1949 thầy thọ đại giới, trụ trì tại chùa Liễu Sơn. Năm 1950 thầy
vào Nha Trang thụ huấn tại Phật học viện trung phần Hải Đức, Nha
229 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trang. Năm 1959 được cử làm giảng sư tại trường đại học Đàlạt. Năm
1960 được thỉnh về trụ trì chùa Sắc Tứ Khải Đoan.
Năm 1961 thầy được mời làm giảng sư tại tỉnh hội Phật giáo
Buôn ma Thuột. Thầy hành đạo tại đây cho đến một ngày ngọn lửa đốt
thân bùng lên.
Trưa ngày 05 tháng 10 năm 1963 tại công trường Diên Hồng,
trước chợ Bến Thành, vào cuối thu mà thời tiết Saigon vẫn còn oi bức.
Quần chúng bổng kinh hoàng khi nghe mọi người la hét thất thanh “Có
một thầy tự thiêu ở chợ Saigon”. Thầy đó là ai? Chính là Thượng tọa
Thích Quảng Hương vậy. Ngọn lửa Quảng Hương chứng tỏ cho thế giới
thấy rằng thảm họa cho Phật tử Việt Nam vẫn còn đó, vấn đế tôn giáo
Việt Nam vẫn chưa thay đổi, và đồng thời vô hiệu hóa những hình thái
giả trang của chánh quyền Saigon, những giả trang nhằm đánh lừa dư
luận quốc tế.
Năm đó, thầy hưởng dương ba mươi bảy tuổi.
NGỌN LỬA THÍCH THIỆN MỸ.
Đúng hai mươi hai ngày sau, tức là ngày 27 tháng 10 năm
1963, nhằm ngày chủ nhật, nhà thờ Đức Bà có đông đảo tín đồ Thiên
chuá giáo đi lễ. Vào lúc 10 giờ ba mươi phút tại cổng trước nhà thờ, đối
diện với bưu điện thành phố, quần chúng phát giác một ngọn đuốc sáng
rực tỏa bùng lên cao gần 3m. Đó chính là ngọn đuốc của thầy Thiện Mỹ.
Thầy có tên thế danh là Hoàng Miều sinh năm 1940 tại Bình Định. Thầy
xuất gia hồi tuổi còn thơ. Năm mười sáu tuổi thọ Sa di giới, năm hai
mươi tuổi thọ cụ túc giới. Thầy từ Dà Lạt vào Saigon giữa tháng mười
năm 1963 và tạm trú tại chùa Vạn Thọ Tân Định. Trước đó thầy định tự
thiêu tại chùa An Quang, tại đây từ trong ra ngoài cảnh sát mật vụ đen
như kiến nên thầy không thực hiện được ý mong muốn. Rốt cuộc thầy
230 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
chọn một nơi chẳng bộ phận chánh quyền nào để ý, đó là nhà thờ, mà lại
là nhà thờ chính tòa ở trung tâm thành phố mới kỳ diệu.
Ngọn lửa cuối cùng này thật là lạ lùng, thật là thiện mỹ. Có
năm điều lạ lung :
1. Lạ lùng thứ nhứt là vì đồng bào công giáo đi nhà thờ sáng hôm đó
lại là những người bảo vệ thân xác thầy Thiện Mỹ không bị chánh
quyền cướp đem đi dấu mất tích.
2. Lạ lùng thứ hai là đồng bào Phật tử phối hợp với đồng bào công
giáo làm ba vòng rào người không cho cảnh sát tiếp cận sát ngọn
lửa.
3. Lạ lùng thứ ba là khi cảnh sát tiếp cận với ngọn lửa bèn dở nón ra
quạt cho ngọn lửa bùng lên. Thấy ngọn lửa không bùng lên bèn
giựt lấy nón lá của mấy bà quạt thêm vào ngọn lửa. Càng quạt lửa
càng bùng lên cao ngọn, chẳng khác nào lấy quạt ba tiêu mà quạt
lửa Diệm sơn.
4. Lạ lùng thứ tư là trong khi đồng bào Phật tử quỳ xuống đảnh lễ
niệm Phật, thầy Thiện Mỹ từ trong ngọn lửa hồng chấp tay xá xá
lại như để chào vĩnh biệt, tức thì ký giả trong và ngoài nước vây
kín để quây phim và chụp ảnh. Trong đó có một bức ảnh cảnh sát
lấy mền chụp lên ngọn lửa, nhưng lửa không tắt mà lại cháy luôn
cả cái mền, cảnh sát giựt cái mền, thầy ngả xuống, kỳ diệu thay,
thầy gượng ngồi dậy.
5. Lạ lùng thứ năm là khoảng mười phút sau thầy mới ngả xuống hẳn,
lúc ấy xe cứu hỏa mới tới xịt nước để xóa bỏ những dấu tích của
vụ tự thiêu.
Ngọn lửa Thiện Mỹ đốt thân cúng dường chư Phật, và phản
đối bạo quyền toan tính hủy diệt Phật Giáo Việt Nam, là ngọn lửa thiêng
cuối cùng trong bảy ngọn lửa vị pháp vong thân tỏa sáng khắp năm châu
231 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
bốn biển, thiêu đốt tâm thức cuồng mê của kẻ kỳ thị tôn giáo, và đốt rụi
cả một chế độ độc tài: của chánh quyền Ngô đình Diệm vào ngày 1 -11 –
1963.
Trở lại phần kinh văn, chúng ta đọc tiếp:
“4.- Ngài Nhứt Thiết chúng sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, làm
việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh
trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ở nơi nhà vua
Tịnh Đức bổng nhiên ngồi xếp bằng hóa sanh ra, liền vì vua cha mà
nói kệ rằng:
Đại Vương nay nên biết
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời đặng nhứt thiết
Hiện chư thân tammuội
Siêng tu rất tinh tấn
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường đức Thế Tôn
Để cầu huệ vô thượng.
“Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: “Đức Nhựt Nguyệt
Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật
xong đặng “Giải Nhứt Thiết Chúng sanh ngữ ngôn đà la ni” (107)
lại
nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na do tha, chân
ca la, tần bà la, a súc bà, (108)
các bài kệ.
“Đại vương, tôi nay lại lên cúng dường đức Phật đó.
Thưa xong liền ngồi đài bảy báu bay lên hư không, cao bằng bảy cây
đa la, qua đến chỗ Phật, đầu mặt tay chân, chắp tay nòi kệ khen
Phật:
Dung nhan rất đẹp lạ
Anh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân ấy.
232 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“5.- Lúc đó ngài Nhứt Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến Bồ Tát
nói kệ xong mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Thế Tôn vẫn còn ở
đời đó ư?”
“Bấy giờ đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài
Nhứt Thiết Chúng sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử Giờ ta
nhập Niết bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên sắp đặt giường
tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết Bàn.”
“Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ
Tát rằng: “Thiện nam tử! Ta đem Phật Pháp giao phó cho ông và
các Bồ Tát đại đệ tử cùng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên, các cây báu, đài báu và
hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.
“Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá lợi cũng phó chúc cho
ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao
nhiêu nghìn tháp.”
Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức ủy thác cho ngài Nhứt
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát những việc cần làm và phải làm xong
rồi, vào khoảng nửa đêm Phật liền nhập Niết bàn. Bồ Tát Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến vô cùng buồn rầu, sầu khổ, thương tiếc bèn dùng
các chất đốt có mùi thơm như hải thử ngạn chiên đàn làm giàn để thiêu
đốt thân Phật.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá lợi đựng trong bình báu. Bồ Tát
Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến nhớ lời Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh
Đức dặn dò muốn cúng dường Phật thì phải truyền lưu xá lợi rộng khắp
trong cõi ta bà. Có một câu hỏi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức
Phật là phải xây bao nhiêu nghìn tháp? Ngài nhớ đến chư Phật trong quá
khứ diễn nói tám mươi bốn ngàn pháp môn để độ sanh, cho nên Bồ Tát
liền thu lấy xá lợi đựng trong tám mươi bốn ngàn bình báu và xây dựng
tám mươi bốn ngàn tháp báu cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm,
thòng các phan lọng, treo các linh báu để tôn thờ.
233 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự nghĩ
rằng:
“Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên
cúng dường xá lợi.”
Và tuyên nói trong hàng đệ tử là chư vị đại Bồ Tát và Trời,
Rồng, Dạ xoa v.v… cùng tất cả các đại chúng rằng:
“Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá
lợi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật.”
Tuyên bố xong liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp báu đốt
cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy mươi hai ngàn năm để cúng
dường. Khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô số người phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác đều làm cho trụ trong “Hiện nhứt thiết
sắc thân tam muội”.
Lúc đó các Bồ Tát, Trời, Người, A tu la v…v… thấy ngài
không có tay sầu khổ buồn thương mà nói rằng: “Ngài Nhứt Thiết
Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát này là Thầy của chúng ta, giáo hóa chúng
ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ.”
Lúc ấy ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong
đại chúng lập lời thệ rằng:
“Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu
thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ.”
Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước
đức trí huệ thuần hậu của Bồ Tát cảm nên. Đương lúc đó cõi tam thiên
đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới hoa báu, tất cả người và
trời đều đặng lợi ích.
Kinh thuyết :
234 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam thiên
đại thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ Tát, Duyên Giác và A la
hán, công đức của người đó đặng chẳng bằng người thọ trì kinh
Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này
rất nhiều.”
Như vậy công đức của người thọ trì kinh Pháp Hoa quả là vô
cùng thánh lạc, dù chỉ là thọ trì một bài kệ bốn câu. Đức Phật dạy:
- Đối với sông, ngòi, kinh, rạch, kinh Pháp Hoa là biển.
- Đối với các núi thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu thiết vi, núi đại thiết vi
cùng mười núi báu khác, kinh Pháp Hoa là núi Diệu cao.
- So với các vì tinh tú khác, kinh Pháp Hoa là mặt trăng.
- Kinh Pháp Hoa là mặt trời, bức phá các sự tối bất thiện.
- Đối với các bực vua quan, tể tướng, thống đốc, kinh Pháp Hoa là
Chuyễn Luân Thánh Vương.
- Đối với các vị thiên vương trong ba mươi ba cõi trời, kinh Pháp
Hoa là trời Đế Thích.
- Nếu trời Đại Phạm là cha của tất cả chúng sanh, kinh Pháp Hoa
cũng thế là cha của tất cả hiền thánh.
- Trên bực phàm phu có bực Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, Vô sanh,
Duyên Giác là nhứt, kinh Pháp Hoa là bực nhứt các bực nêu trên.
- So với các bực Thanh văn, Duyên Giác thời Bồ Tát là bực nhứt,
kinh Pháp Hoa này cũng như thế là bực nhứt trong các kinh.
- Như Phật là vua của các pháp, kinh Pháp Hoa cũng thế là vua
trong các kinh.
235 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Kinh thuyết :
“9.- Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng
sanh. Kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não.
Kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong
cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những
người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y
phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp
ghe, như người bịnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo
đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như
đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng thế, có thể làm cho chúng
sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bịnh tật đau đớn có thể mở sự trăn trối
của tất cả sanh tử.”
Tựa của phẩm kinh này là Dược Vương, có nghĩa là phương
thuốc chúa chửa trị bá bịnh, từ bịnh phong, nhọt, ung, bướu đến bịnh tà
kiến, mê tín, dị đoan; từ bịnh tim, gan, tạng, phổi đến bịnh ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả tướng; từ bịnh khổ, não, đau, buồn đến bịnh vô
minh, hư vọng v…v… tất cả những bịnh chứng đó gặp thang thuốc chúa
của ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đã tôi luyện bảy mươi
hai ngàn năm uống vào sẽ tiêu hết bịnh tật. Vì sao? Bời vì ngài Nhứt
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đã từng nghe đức Nhựt Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa suốt tám trăm nghìn muôn ức na
do tha cùng các bài kệ. Rồi sau đó ngài tái sanh vào làm con của vua
Tịnh Đức, ngài có nhơn duyên gặp lại đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức
Phật một lần nữa, và ngài lại được đức Phật này nói kinh Pháp Hoa cho
nghe, ngài phát nguyện đốt hai cánh tay hư vọng để đổi lấy Phước đức
Trí huệ trang nghiêm của Như Lai, và sau cùng ngài hóa thân là Dược
Vương Đại Bồ Tát.
Ngài Dược Vương Bồ Tát vì pháp mà quên thân mình, ngài
đã từng hy sinh thân mạng và còn làm không biết bao nhiêu chuyện khổ
khó làm mới đổi đặng thân sắc vàng của Phật bằng mười hai nguyện lớn
cứu độ chúng sanh.( Kinh Dược sư )
236 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Dược Vương là phương thuốc chúa. Phương thuốc chúa đó
chính là kinh Pháp Hoa. Cho nên hành giả nào có nhơn duyên với Phật
thì hãy phát nguyện biên chép kinh này, hoặc bảo người chép thời đặng
công đức vô lượng.
Phật dạy tiếp:
“Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này, hoặc chép,
hoặc bảo người chép đặng công đức, dùng trí huệ của Phật tính
lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép kinh này, dùng
hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan
lọng, y phục, các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm:
Đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà
lợi sư ca, đèn dầu na đà ma lợi đem cúng dường đặng công đức cũng
là vô lượng.
Trước đây đức Phật khuyến khích đệ tử học Phật hãy chuyên
cần thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là phần chính, còn phần diễn giải,
biên chép, quảng bá diệu lý là để riêng một bộ phận khác. Bây giờ đức
Phật phán cho tất cả đệ tử:
“Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này hoặc chép
hoặc bảo người chép đặng công đức vô lượng.”
Đã đến lúc mọi người trong chúng ta đều phải dốc một lòng
đền báo ân thâm trọng của đức Phật bằng cách cúng dường pháp, tức là
thực hành quảng bá diệu lý sâu rộng từ trong nhà ra ngoài xã hội, từ
trong nước ra khắp các nước lân bang. Thực hành lời Phật dạy này, hai
trăm năm mươi năm sau, có mười vị Thánh Tăng đi truyền bá giáo lý
Phật Thích Ca Mâu Ni ra ngoài nước An Độ, nhờ đó mà khắp nơi được
thấm nhuần ánh đạo.
237 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
CÔNG ĐỨC MƯỜI VỊ THÁNH TĂNG.
Hơn hai trăm năm mươi năm sau, kể từ khi Phật nhập Niết
Bàn, (tức vào năm 136 trước tây lịch) Hội Thánh kỳ ba được mở ra
nhằm củng cố lại giềng mối đạo Phật thuần túy và tuyển chọn những nhà
truyền giáo có thực tài đem truyền bá tinh hoa diệu pháp ra nước ngoài.
Trong đại hội kỳ nhứt, dưới sự chủ trì của Ngài Ma Ha Ca
Diếp, vị Tổ đời thứ nhứt, có năm trăm vị Thánh Tăng họp cùng nhau
dọn thành ba tạng kinh để dìu dắt chư Tăng tránh được sự sai lầm có thể
xảy ra. (Đọc Thị Giả A Nan, tr.314.)
Khoảng một trăm năm sau đó, đại hội kỳ hai diễn ra, người
đương thời gọi một cách cung kính là Đại Hội của các vị Trưởng lão
nhằm mục đích kềm chế sự tự do của các nhà sư tuổi trẻ, những người
này làm trái giới luật của đức Thế Tôn đã ban hành, khiến cho tám vị
trưởng lão thiền sư, trong đó đều trên 120 tuổi, lấy làm đau lòng, đứng
đầu là vị trưởng lão Da Xá (Yacas) đã trên 160 tuổi, ngài thuộc giòng
dõi quí tộc, giàu có, đã từ bỏ vinh hoa phú quí theo Phật nghe thuyết
pháp ở thành Ba la nại (Bénarès) lần đầu.
Một hôm ngài Da Xá sang thành Tỳ xá Lỵ (Vaicâli), ngài
thấy các sư sải hội họp thọ lảnh tiền bạc của bá tánh, ngài vô cùng bất
bình, bèn lên tiếng can ngăn, nhưng chẳng ai chịu nghe. Ngài nói:
“Kẻ Thích Tử đã xuất gia rồi sao lại còn nhận bạc vàng châu
báu, nhứt là những đồ vật trang điểm bằng vàng, vì đã phát nguyện xả
phú cầu bần, không còn màng của tiền chi nữa.”
Đã vậy, những sư sải này họ chia tiền cho nhau rồi còn để lại
chút đỉnh chia cho ngài Da Xá, nhưng ngài từ chối một cách khinh bỉ. Số
sư sải trẻ này có khoảng mười hai ngàn vị, họ bèn hội họp nhau lại định
phạt ngài vì đã xúc phạm đến thiện nam tín nữ có lòng từ tâm cúng
238 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dường. Họ buộc ngài Da Xá phải xin lỗi với thiện nam tín nữ. Ngài Da
Xá ưng thuận, nhưng nói thế này:
“Xưa đức Phật có ra lệnh, trong Tăng đồ ai phạm phép đi
xin lỗi thì phải có một người đi theo đặng giữ chừng.”
Các sư sải trẻ chấp nhận và cử một thầy đi theo ngài. Ngài
Da Xá đi với một thầy tới thành Tỳ xá lỵ (Vaicâli), ngài bèn thuyết pháp
trước thiện nam tín nữ như vầy:
“Kính trình quí ngài. Tôi đã nhận biết xúc phạm quí ngài là
những bậc thiện nam, tín nữ rất có từ tâm và có lòng sốt sắng cúng
dường. Thật tôi có xúc phạm, nhưng vì làm sao? Bởi vì hể sái luật, tôi
kêu là sái luật; trúng luật, tôi gọi là trúng luật; bởi vì hể sái trật tự, tôi
bảo là sái trật tự; có trật tự, tôi quyết là có trật tự.
“Này quí ngài! Có một lần Phật ngự tại xứ Xá Vệ (Crâvasti)
trong vườn Kỳ Thọ của nhà thương gia Cấp Cô Độc mua cúng. Phật
phán với Tăng chúng như vầy: “Chư đệ tử!Mặt trời với mặt trăng bị
bốn cái hại nên không sáng ra, không chiếu sáng và không soi sáng.
Bốn cái hại đó là gì? Chính là mây, sa mù, khói bụi, nhật thực nguyệt
thực. Chư đệ tử! Các sư đạo Phật với các thầy Bà la môn cũng như
thế, cũng bị bốn cái hại nên không sáng ra, không chiếu sáng và
không soi sáng. Bốn cái hại đó là gì, chính là:
1. Say sưa vì rượu mạnh.
2. Ham nguyệt hoa và mê sắc dục.
3. Thọ lảnh vàng, bạc.
4. Và chuyên nghề bất chính.
Rồi Phật xướng lên bài kệ đại ý như vầy:
“Có nhiều sư đạo Phật
Và thầy Bà la môn
Làm nô lệ cho sự thương yêu và sự oán giận,
239 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì cuồng tâm
Họ những mê mẫn với sắc đẹp phô trương ra ngoài,
Họ uống rượu mạnh với rượu trắng;
Họ ngửa tay lảnh lấy bạc vàng;
Họ thật là cuồng tâm!
Họ lại còn đuổi theo những nghiệp nghệ thấp hèn
Ay là bốn cái hại mà ta kể ra đó.
Bởi quá mê muội
Họ đâu có ánh sáng, đâu có sức nóng tinh vi
Họ ô trược, dơ dáy, chẳng khác chi loài thú
Họ những vướng trong bóng tối
Những làm nô lệ cho tình dục
Không được tự do, tự tại
Nên họ càng choán chật chỗ chôn thây
Và chìm đắm mãi trong chốn khổ hải luân hồi.”
Phật phán như vậy đó quí ngài.
Về phần tôi, tôi tự nhận đã xúc phạm quí ngài, vẫn biết quí
ngài là những bậc cư sĩ thiện tâm và có lòng tốt mà cúng dường. Nhưng
hể sái luật, tôi kêu là sái luật; trúng luật, tôi gọi là trúng luật; hể sái trật
tự tôi bảo là sái trật tự; có trật tự tôi quyết là có trật tự.”
Ngài Da Xá (Yacas) lại nhắc thêm một chuyện nữa mà ngài
đã thấy tận mắt, nghe tận tay: “Hồi Phật còn tại thế, chính có người đem
vàng bạc đến cúng dường cho Phật, song Phật đâu có nhận.”
Ngài Da Xá thuyết pháp rất bặt thiệp, thiện nam tín nữ nhiệt
liệt hoan nghinh. Họ tin rằng ngài Da Xá chính thật là đệ tử của Phật,
một bậc xuất gia chơn chính, còn các sư sải ở Tỳ xá lỵ đúng là bọn thầy
tu dối trá, chẳng xứng đáng là Thích Tử đồng môn với ngái Da Xá.
Nhờ có một thầy đi theo ngài Da Xá về kể chuyện lại, các sư
sải này nghĩ rằng ngài Da Xá chẳng chịu tội mà lại còn sĩ nhục họ và
đem chuyện trong Giáo Hội mà phanh phui ra cho người ngoài hay biết,
240 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nên họ oán giận định làm hại ngài. Nhưng ngài Da Xá biết trước, bèn cởi
mây bay qua thành Câu đàm di (Kaucâmbi) lánh nạn.
Vừa đến thành, ngài phái một vị sư đi thỉnh chư Đại đức ở
các miền Ba tây da (Pâtheya), A hoăng ti (Avanti) và Đề Căn (Dekkan)
nhóm đại hội để giải quyết vấn đề quan trọng, đặng cho chơn lý không
bị đàn áp bởi sự bất công và sai lạc.
Quí chư Tăng có học và có hạnh ở khắp cõi Thiên trúc (Inde)
đều qui tụ hướng về núi A đô găng ga (Adhoganga). Miền Ba tây da có
chín mươi vị, miền A hoăng ty có tám mươi tám vị, miền Đề căn cũng
đang lần lượt tới, tất cả đều là các thầy tỳ kheo khất thực và đã đắc quà
La hán. Riêng ngài Da Xá ôm bình bát, xách gậy đi tìm đệ tam Tổ sư
chưởng giáo Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa) đang ở trong tịnh xá trên
núi A đô găng ga (Adhoganga). Ngài Da Xá bạch với Tổ sư các hành vi
bạo ngược của sư sải ở Tỳ xá lỵ, Tổ sư đồng ý với ngài và hứa sẽ đánh
đổ bọn sư phá giới ấy.
Tổ sư chưởng giáo họp bàn với chư vị thánh tăng và cho rằng
đây là công việc hệ trọng, khá nguy hiểm, không phải toan tính mà làm
được. Phải cần có thêm người tiếp sức thì mới mong thắng được bọn sư
sải phá giới. Ai nấy cũng đồng ý nên yết kiến trưởng lão Ly Bà Đa
(Revata) là một bậc thông thái, minh mẩn, giỏi giang, khiêm nhượng và
hiểu thấu đạo đức với luật lệ trong Tăng già. Trưởng lão lại là một Đại
La Hán, đệ tử kỳ cựu của đức Phật. Nhưng bây giờ trưởng lão Ly Bà Đa
không biết tịch tịnh nơi nào?
Tất cả các tỳ kheo đang ở tại tịnh xá của Tổ sư bèn bủa ra đi
tìm, trải qua nhiều xứ mới giáp mặt ngai Ly Bà Đa. Họ bèn đem việc các
sư sải ở thành Tỳ xá lỵ có hành vi sái luật do đức Thế Tôn đã ban hành.
Ngài Ly Bà Đa hứa sẽ đứng ra công kích kịch liệt bọn sư này.
Mười điều các sư sải bên Tỳ xá lỵ vi phạm là:
1- Để dành muối trong một cái sừng đặng mấy ngày sau có
mà dùng.
241 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
2- Mặt trời đã xế, cái bóng mình đã dài quá hai ngón tay mà
còn ăn.
3- Khi đã ăn rồi, mà vì sắp đi đâu xa nên ăn thêm một lần nữa
rồi mới ra đi.
4- Chư Tăng ở cùng một xứ mà đến ngày lễ Bồ Tát (rằm và
mồng một) kẻ hành lễ ở nhà này, người hành lễ ở thất kia,
chớ không chịu họp nhau lại một chỗ có Giáo hội đông đủ.
5- Chư Tăng họp không đủ số mà cũng hành lễ nhân danh Giáo
hội, vì tưởng cho rằng dầu mấy vị khác có đến cũng đồng ý
kiến với mình thôi.
6- Cứ thấy bậc Tôn sư hay Thượng tọa làm việc chi thì mình
cũng tự tiện làm như vậy.
7- Khi ăn rồi mà còn uống sữa, thứ sữa đã cũ chứ không phải
sữa tươi.
8- Uống rượu làm bằng thốt nốt, tuy không mấy say chứ cũng
nồng.
9- Cái tọa cụ (thứ chiếu gối để ngồi) của mỗi người khác nhau hết,
chớ không theo luật là phải có bìa.
10- Thọ lảnh bạc, vàng của người cư sĩ đem cúng dường.
Các sư sải bên Tỳ xá lỵ biết ngài Da Xá vận động ngài Ly Bà
Đa đả kích họ, nên họ cũng lo kiếm người trợ sức. Họ bèn cử người sang
ra mắt ngài Ly bà Đa với lễ vật dành cho một vị cao tăng như: Một cái
bát, một bộ áo, một cái tọa cụ, một bao đựng kim, một sợi dây lưng, một
bình lọc nước. Họ đi bằng thuyền, viếng ngài Ly bà Đa và nạp lễ vật,
nhưng ngài Ly bà Đa không nhận lảnh vì đã có đủ bộ vận, không còn
cần dùng gì nữa.
242 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thương lượng với ngài Ly bà Đa không xong, họ quyết mua
lòng đệ tử của ngài là Ut ta ra (Uttara), một nhà sư tuổi chừng đôi mươi.
Họ nói:
“Này huynh! Hồi đó người ta cúng dường cho Phật, nếu
Phật thu nhận thì người ta mừng lắm, còn như Phật không nhận người
ta nhờ đại đức A Nan thu nhận cho, như vậy cũng như Phật nhận. Vậy
anh em chúng tôi xin huynh nhận giúp đồ này, cũng như Tôn sư nhận
vậy.”
Sư Ut ta ra ưng thuận, bèn nhận một bộ áo và hỏi rằng:
“Chư đại đức muốn chi?”
“Anh em muốn nhờ thầy của huynh sẽ khai giữa đại hội rằng
chư Phật đều ra đời ở miền đông trong cõi Thiên Trước (điều này đúng
thật như vậy) Tăng chúng miền đông thay mặt cho đạo Phật, còn các sư
ở Ba tây da là phường bày bố sự bất công.”
Ut ta ra hứa, liền đem lời đó bạch lại với sư phụ. Ngài Ly bà
Đa chẳng những không nghe, lại còn huở đệ tử mình muốn binh vực sự
bất công, thế là ngài Ly bà Đa bèn đuổi Ut ta ra.
Không nhờ được ngài Ly bà Đa, bọn sư sải dối trá bèn đến bệ
kiến vua Ca la A xô ca (Kâla-Acoka) và tâu rằng:
“Chúng tôi từng giữ gìn cảnh tịnh xá, nơi ấy đức Phật trụ
ngày trước, nay nghe có đám Tăng miệt đồng kéo lên toan đánh phá
đặng giựt cảnh tịnh xá của chúng tôi, nhờ bệ hã can thiệp giùm.”
Vua tin họ, hứa giúp cho. Nhưng vua ngủ nằm mộng thấy
mình lầm. Sáng ra, vua ngự đến thành Tỳ xá lỵ, sau khi nghe đôi bên
bàn cải nhau, vua hoan nghinh và ủng hộ phái Tăng già chơn chính. Vua
để cho các nhà sư thông thả nghị luận.
243 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lúc ấy trong xứ Tỳ xá lỵ có một vị sư cao học, từng làm bạn
đồng song với A Nan (Ananda) tên là Xát hoa ca manh (Sarvakâmin) và
hỏi ý kiến ngài đối với mười điều, ngài bảo rằng:
“Theo ý tôi, thì mấy nhà sư miền đông có lỗi, còn chư Tăng ở
Ba tây da thì binh vực chánh pháp. Nhưng tôi chưa thốt ra, chờ khi đại
hội sẽ nói.”
Phái Tăng già theo chánh lý được thêm một vị có uy tín giúp
sức. Gần đến ngày khai hội, ngài Ly Bà Đa bàn với ngài Xát hoa ca
manh nên nhóm nhau tại chỗ xảy ra việc lôi thôi, tức là tại thành Tỳ xá
lỵ. Như vậy đặng quyết định luôn một lần, không còn ai đem mấy điều
ấy ra mà hỏi đi hỏi lại nữa. Chư Tăng vui lòng nghe theo và cùng nhau
sang thành Tỳ xá lỵ.
Theo lời tự thuật của ngài Huyền Trang, hôm khai hội, mấy
vị trưởng lão sáng lập có qui tựu một số Thánh Tăng đếm được sáu trăm
chín mươi chín vị. Lúc ấy một vị Tăng La hán tên là Cú xa Xô bi ta
(Kubja-Côbhita) lấy mắt huệ mà dòm ra, thấy có 699 vị nhóm Đại hội.
Muốn cho đủ số bảy trăm, ngài bèn dùng phép thần thông mà hiện ra
giữa Đại hội.
Khi vừa nhóm họp, người ta bắt đầu bàn cải nhau một chặp
lâu mà không phân định được việc gì. Ngài Ly bà Đa bèn đề nghị nên
bầu ra một ban hội đồng để định đoạt. Ban hội đồng này gồm có tám vị:
bốn vị thay mặt cho chư Tăng ở Tỳ xá lỵ, và bốn vị thay mặt cho chư
Tăng ở Ba tây da. Lại có một đại đức tên A si ta (Ajita) đứng ra lo chỗ
ăn ngồi cho mỗi vị.
Muốn bàn tính Phật sự một cách gọn gàng và yên ổn, người
ta chọn nơi hội họp lâu dài là cảnh tịnh xá Sa viên (Vâhâkâ), nơi đây đẹp
đẻ và yên lặng, xa tiếng rộn rực của thị thành.
Muốn quyết định mười điều coi có thể châm chế hay không,
người ta bàn luận theo cách này:
244 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đức Ly bà Đa nhân danh Giáo hội đứng Ra hỏi luật đức Sát
hoa ca manh, vị này cũng nhân danh Giáo hội, sẳn lòng giải đáp.
-“Bạch ngài, có phép để muối trong sừng hay không?”
-“Để muối trong sừng ra làm sao?”
-“Tức là có phép để dành muối trong một cái sừng đặng về sau lúc nào
muốn dùng thì có sẳn mà dùng chăng?”
-“Không. Không được phép.”
-“Giới cấm ấy ban ra tại đâu?”
-“Tại thành Xá Vệ, và có chép trong kinh Sutta Vibhanga.”
-“Tại làm sao phải phạm giới?”
-“Vì để dành đồ để ăn mấy hôm sau”.
-“Vậy thời tôi trình đề nghị như vầy: Giáo Hội định rằng điều thứ nhứt
là sai Pháp Giới, lạc với chánh ý của đức Phật. Muốn chứng tỏ sự nhất
định ấy, tôi bỏ lá thăm đầu tiên để hủy bỏ điều thứ nhứt.”
Kế đó Giáo Hội lần lượt hủy luôn chín điều kia mà chư Tăng
ở Tỳ xá lỵ đã phạm. Giáo hội cấm chư Tăng ấy không được tái phạm.
Có lắm vị bị trục xuất ra khỏi cảnh Già lam.
Kỳ hội này có bảy trăm vị La Hán nhóm họp nên người ta gọi
là Kỳ kết tập bảy trăm, nhằm đánh đổ sự lêu lỏng của các sư ở Tỳ xá
lỵ. Giáo hội Thánh Tăng thừa dịp ấy mà dượt lại và nhuận sắc Tạng Luật
mà trong kỳ hội lần thứ nhứt của đức Ưu bà Ly (Oupali) đã dọn ra.
Kỳ hội này họp trong tám tháng thì giải tán.
Sau kỳ Hội Thánh Lần thứ hai, một trăm năm mươi năm sau
Hội Thánh Kỳ ba được mở ra nhằm củng cố lại giềng mối đạo Phật
thuần túy và tuyễn chọn những nhà truyền giáo có thực tài đem truyền
bá tinh hoa diệu pháp ra nước ngoài.
Vua A Dục (Acoka), một vị hộ pháp nhiệt thành với đạo
Phật, đứng ra bảo trợ Đại hội Thánh kỳ ba này, có hơn một ngàn vị
Thánh Tăng, dưới quyền chủ tọa của ngài Tích Ha (Tisya), pháp danh
245 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Mục ga li bu tra (Maudgaliputra). Thời bấy giờ người ta nói rằng ngài
Maudgaliputra là hậu thân của đức Mục Kiền Liên (Maudgayâyana),
hiện thân làm Maudgaliputra là để kết hợp cùng với vua A Dục bảo tồn
chính giáo Phật đà và truyền bá mối đạo ra nước ngoài. Cũng trong lần
đại hội kỳ ba này mục đích là lập lại trật tự trong Giáo Hội.
Số là ngài Maudgaliputra thấy các thầy tu hành ngày càng ỷ
lại, giải đải và lười biếng, ham thích tịnh tài, tịnh vật của đàn na tín thí
mang tới cúng dường. Lúc bấy giờ dân chúng quy y theo đạo Phật rất
đông, kẻ xin thọ giới tại gia, người nguyện lảnh thọ cụ túc. Những bực
cao sang như là hàng Bà la môn, danh gia, quí chức, trưởng giả, phú
hào, các nhà thương mại, kỷ nghệ cũng xin thọ trí tam quy ngủ giới. Lại
cũng có các nhà ngoại đạo, nào là sư khổ hạnh, bôi lem mặt mày, nào là
sư để chớp, áo quần nhếch nhác họ đồng rủ nhau vào đạo Phật, trước là
được hưởng các sự cung kính, tôn trọng, sau là đặng lợi dưỡng cúng
dường.
Cũng là do bởi Giáo Hội Tăng Già vì quá đại bi, hỷ xả nên cứ
để mặc nhiên cho các thầy Trưởng tử tự do thu nhận đệ tử. Do đó đối
với Tăng đồ không có thành tâm với Phật Pháp, đối với Giáo Hội có
nhiều việc lủng củng xảy ra, một mối đạo mà chia ra làm tám phái, phái
nào ngồi theo phái nấy, lá y cà sa cũng mặc tùy tiện, làm thiếu tình đoàn
kết gắn bó nội bộ. Cho nên trong lần Đại hội kỳ ba, chủ tọa phải nghe
lần lượt ý kiến của tám phái lý giải rỏ về giáo lý của mình. Phái nào bị
phát hiện là ngoại đạo tà giáo liền bị bác bỏ, Giáo hội buộc họ phải từ bỏ
phái đạo của họ và cho phép được mặc y vàng, sinh hoạt cộng đồng theo
đúng với Tăng đồ chính giáo nhà Phật.
Gạn lọc xong tám phái bây giờ chỉ còn lại một Giáo Hội
Tăng Già thống nhất, ngài Maudgaliputra mới nghĩ đến việc truyến bá
đạo Phật ra nước ngoài. Đây là một công trình vĩ đại. Cuối cùng ngài
Maudgaliputra cũng tuyển chọn xong mười vị có định lực tinh tấn và là
nhà truyền đạo chính thống thực tài của đạo Phật. Mười vị đó là:
246 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
1.- Ngài Madhyântika, ra đi trong mùa bảo dậy tuyết sa, nhưng
ngài cố sức hành đạo và khuyến thiện rất nhiệt thành tại hai xứ Gândhara
và Kastmir. Dân chúng trong hai xứ này quy y theo đạo rất đông. Trong
sinh hoạt hằng ngày người dân đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo chính
là nhờ tài đức cùa ngài vậy.
2.- Ngài Mahadeva xuống miền bán đảo Dekkan tại xứ Maisore.
Một hôm ngài đang thuyết kinh “Deva Sutta”, giảng về sự mắc đọa ở địa
ngục, ngài độ tại chỗ được bốn trăm người tin đạo, và thu nhận bốn
mươi ngàn người vào hàng xuất gia.
3.- Ngài Rakshita sang xứ Vanavâsi, về hướng tây bắc xứ Maisore,
ngài hóa mây lành mà bay lên và thuyết pháp được kết quả đích đáng
lắm. Sau khi đó có sáu mươi ngàn người phát nguyện quy y Tam Bảo,
ba mươi bảy ngàn người thọ giới xuất gia và bổn đạo đồng tâm xây dựng
lên năm trăm ngôi chùa tháp.
4.- Ngài Dharmarakshita người gốc Hy Lạp khuyến đạo ở vùng đất
biên thùy Takjikistan. Dù xa xôi nhưng ngài cũng thu nhặt thành tựu rực
rở. Có ba mươi bảy ngàn người thọ giới quy y làm cư sĩ tại gia, một
ngàn người trong hoàng tộc và sáu ngàn tín nữ xin thọ giới xuất gia.
5.- Ngài Dharmarakshita (hai người cùng tên, vị thứ năm này lớn
tuổi hơn vị thứ tư) truyền giáo ở xứ Mahrattes, về phía bắc xứ Vanavasi.
Ngài thuyết giảng bằng những bài pháp thí dụ mà cũng thu thập rất
nhiều kết quả, quần chúng xin theo thọ giới rất đông.
6.- Ngài Rakshita sang hai xứ Afghanistan và Bactriane giảng một
thời kinh Phật và cũng được lắm người quy y.
7.- Ngài Madhyama có dắt theo bốn vị sư lên phía Tuyết sơn và
thu phục rất nhiều vị thần tiên trên miền Hy Mã.
8 và 9.- Hai ngài Sona và Uttara đi về phía đông Suvarnabhum,
dùng phép huyền diệu mà trừ nhiều hung thần.
247 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
10.- Ngài Mahendra, xuống đảo Tích Lan (Xrilanka) và lập nên
mối đạo ở đó một cách linh diệu, vững vàng, nơi đây là quốc độ xa xưa
của công chúa Da Du Đà La, cho nên phải nói rằng miền này đạo Phật từ
xưa đến nay vẫn thịnh hành đạo chính giáo.
Mười nhà truyền đạo trên đây là bực Thánh Tăng, các ngài có
tấm lòng cao thượng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, biết tùy phương tiện
thuyết pháp độ sanh, đem đèn huệ soi sáng vô minh, tăm tối. Phật pháp
chính thống của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai đặng xiễng dương không
hề có một chút sai lệch chính là nhờ mười vị Thánh Tăng này. Trong đó
cũng có công của vua A Dục.
VUA A DỤC (ACOKA) VÀ TIỀN THÂN.
Người ta nói rằng vua A Dục là một nhà chánh trị biết lấy
đạo đức mà cai trị dân của mình trên khắp miền An Độ, nhưng đối với
Phật Giáo, vua A Dục là một đại thí chủ, một ân nhân, một nhà truyền
giáo, một người có công trong lịch sử tiến thoái của đạo Phật. Trải qua
hai mươi lăm thập kỷ, những dấu tích ngày xưa của A Dục Vương vẫn
còn in hằn sâu trên các núi đá ở An Độ. Lúc đó vua A Dục thường ban
hành những săc lệnh cho khắc vào bia đá, trong đó có một sắc lệnh vua
phán rằng: “Chẳng những trẫm trồng cây, đào giếng giúp cho dân
chúng và thú vật, trẫm lại còn cho trồng nhiều các loại dược thảo để
dùng làm thuốc trị bịnh.”
Một sắc lệnh ghi vào đá khác phán rằng: “Trước kia mỗi
ngày, người ta giết cả trăm ngàn con thú mà cung phụng vào việc ăn
uống trong đền vua Pivadassi. Nhưng hiện nay, mỗi ngày người ta chỉ
hạ có ba con thú mà thôi, hai con công với một con dê rừng. Sau này,
người ta sẽ không còn hạ sát ba con thú ấy, bây giờ cả đền vua đều ăn
chay trường.”
248 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đây kể về chuyện tiền thân của vua A Dục. Một hôm đức
Phật ngự gần thành Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Vào một
buổi sáng ngài vào thành hóa trai, có thị giả A Nan theo hầu. Ngài và
đoàn tùy tùng thấy một nhóm trẻ đang vui đùa bên đống cát, chúng xây
nhà, đền đài, lăng tẩm, kho bải bằng cát, chúng bỏ vào kho những bụm
bụi cát giả đò làm lương thực. Đức Phật đi ngang qua, một đứa trẻ trong
bọn vừa thấy Phật liền vội vã hốt một bụm lương thực (bụi cát) trong
kho bày tỏ cung kính dâng lên cúng dường đức Phật. Ngài nhận lấy, cúi
đầu tỏ vẻ rất hài lòng. Phật liền phán bảo A Nan: “Đệ tử hãy đem chút
bụi cát này về và tô vào trong phòng của Thầy. Này A Nan! Đứa trẻ ấy
nhờ cúng cho Ta chút bụi cát, hai trăm năm mươi năm sau khi ta
nhập Niết Bàn, nó sẽ sanh ra làm vua, lấy tên là A Dục. Còn nhóm trẻ
chơi với nó ngày hôm nay, về sau sẽ đầu thai làm đình thần quan lại
theo hầu vua A Dục. Vua ấy sẽ hoan nghinh đạo ta, lấy cả đất nước
mà dâng lên ngôi Tam Bảo, lại truyền bá đạo ta và lập ra vô số chùa
tháp.”
A Nan bạch hỏi rằng: “Chỉ cúng có một chút bụi cát, sao lại
được hân hạnh mà lập vô số chùa?”
Phật phán: “Vì trẻ ấy có tiền phúc. Thuở xưa hồi đức Phật
Pyshya, nó là một nhà vua, rất sốt sắng với đạo Phật và sẳn lòng
khuyên nhơn dân tu luyện, có thượng nhiều tượng cốt Phật. Nhờ quả
ấy sau này nó sẽ làm vua hiệu là A Dục và cất nhiều cảnh chùa tháp
để thờ đạo ta và tro tàn xá lợi của ta.”
A Dục là con của vua Vindusâra, văn võ song toàn. Một
mình ngài chinh đông phạt bắc, đi tới đâu đều bắt bè lũ phản loạn hàng
phục, bắt đem về vua cha trị tội. Năm 273 trước tây lịch, vua Vidusâra
băng hà, đình thần, tướng sĩ liền tôn a Dục lên ngôi thiên tử.
ACOKA BẠO CHÚA.
Có sách ghi rằng, lúc mới lên ngôi vua, A Dục là một bạo
chúa, mỗi lần xử trảm đến năm trăm quan lại về tội khi quân, một lần
249 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
khác ngài cho thiêu sống năm trăm cung phi về tội nghịch ý với ngài.
Thiên hạ đều kinh sợ nên đặt tên cho ngài là “Ac A Dục” (candacoka).
Ngài cất riêng một tòa nhà trừng trị, một khám đường độc địa, tiếng
thông thường thời ấy gọi là “Địa ngục của A Dục, địa ngục trần gian”.
Ngài phái một tên hung ác, bạo tàn làm chủ ngục và ra lệnh cho hắn bất
cứ ai bước vảo cổng địa ngục này sẽ mãi mãi không bao giờ được trở ra.
Một hôm có một vị sa môn nghe nói đến địa ngục trần gian
này, định bước vào xem thử, ông liền bị chủ ngục bắt nhốt. Vị sa môn
than khóc và nói rằng:
“Không phải vì sợ chết mà bần tăng khóc, nhưng tiếc vì mới
nhập đạo, cho nên bần tăng chưa hiểu hết diệu lý của kinh Pháp Hoa,
bởi đức Phật có nói “Sinh ra làm người đã khó, niệm được hồng danh
của Phật lại càng khó hơn, hiểu được đạo lý lại càng khó vô cùng” bần tăng nghĩ tũi mà khóc vậy thôi”.
Chủ ngục định ra tay giết, nhưng vị sa môn xin được sống
bảy ngày. Lúc ấy trong đền vua có một bà phi phạm tội ngoại tình với
một ông hoàng. Vua bắt cả hai bỏ vào địa ngục trần gian, chủ ngục liền
quăng cặp nhân tình vào cối mà giả. Chày vừa mổ xuống đầu, thì cặp
mắt của họ văng ra. Vị sa môn thấy vậy làm như hoảng sợ và lớn tiếng
nói rằng:
“Hèn chi Phật dạy rằng hình sắc không cứng cát, không
vững bền, có khác bọt nước đâu. Nó tan nhanh như khói, bây giờ cái
hình hài tốt đẹp kia đâu rồi? Gương mặt sắc sảo, nước da mịn màng kia
đâu rồi? Chúng tan đi hết vì chúng là hư vọng. Những phường ngu dốt
mà tâm phải chết đi sống lại mãi, những kẻ ác tâm, hung bạo nào được
hưởng đạo lành.”
Liền đó vị sa môn tham thiền, nhập định suốt đêm, dứt tuyệt
các dây luyến ái, ông đắc quả Tu đà hoàn, rồi quả Tư đà hàm, đến quả A
na hàm, vừa đến đêm thứ bảy ông đắc quả La Hán.
250 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bảy ngày đêm đã mãn, đến ngày thứ tám, chủ ngục nấu một
chảo dầu sôi bắt bỏ ông sư vào chảo, phía dưới chụm lửa đỏ rực. Vị sa
môn vẫn tọa thiền trong dáng điềm nhiên tự tại, không sợ nóng, không
sợ hải, không ưu sầu, không hoảng loạn. Chủ ngục thấy vậy trố mắt ngạc
nhiên nhìn, trong lòng vô cùng lo sợ, liền chạy đi báo vua. Vua A Dục
ngự tới, đình thần, quan lại, hoàng thân quốc thích trong gia đình, cung
tần mỹ nữ đi theo coi rất đông. Phong cách thư thả, vị sa môn đứng dậy
bước ra khỏi chảo, quần áo không dính một giọt dầu. Vị sa môn ứng
dụng thần thông bay lên hư không hóa nhiều phép mầu. Vua thấy rồi,
chấp tay vái chào một cách cung kính. Vị sa môn hạ xuống, ngồi kiết già
và thuyết pháp cho vua nghe, ông lập lại lời tiên tri của đức Phật dạy
rằng:
“Hai trăm năm mươi năm, sau khi Phật nhập Niết Bàn, có
vua A Dục ra đời và lảnh trách nhiệm truyền bá đạo của ta và xây
dựng tám mươi bốn ngàn cảnh chùa tháp.”
Vua liền quỳ phục trước vị sa môn xin sám hối, và nguyện ở
theo pháp giới nhà Phật, gìn lòng thanh tịnh, giữ hạnh nhân từ. Đồng
thời ban lệnh phá ngay cái địa ngục trần gian kia.
ACOKA NHÂN TỪ.
Như vậy kể từ lúc lên ngôi hoàng đế (273 tr.TL) mãi đến
mười hai năm sau (261 tr TL) ngài phát tâm quy y Tam Bảo. Hai năm
sau đó (259 tr TL) đạo lý của Phật Tổ Thích Ca Như Lai được truyền bá
khắp trên đất nước An Độ. Từ đó dân chúng gọi ngài là Thiện Pháp A
Dục (Dharma Acoka).
Từ đó về sau ngài hiến thân cho Phật pháp, chỗ nào trước đây
Phật có ngự qua ngài tới tận nơi tham quan vãng cảnh và tại đó có ghi lại
bút tích khắc trên bia đá. Vua A Dục rất thương dân và ngài muốn thần
dân của ngài phải học làm những điều lành, tránh làm điều ác, và để cho
mọi người dể nhớ, ngài cho khắc những lời răn trên bia đá. Nhờ vậy
Phật giáo vào thời kỳ đó rất thịnh hành.
251 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Những nhà khảo cổ học đã tìm thấy một sắc lệnh khắc trên
bia đá nói rằng vua A Dục ở trên ngai vàng được ba mươi bảy năm. Lúc
ngài tịch tính ra được hai trăm sáu mươi ba năm kể từ ngày Phật nhập
Niết Bàn.
Đến đây chúng ta trở lại phần kinh văn, đức Phật phán cho
ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát:
“10.- Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm Dược
Vương Bồ Tát Bổn Sự này cũng đặng vô lượng vô biên công đức.
“Nếu có người nữ nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn
Sự này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không
còn thọ lại nữa. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau nếu có
người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở
đây chết liền qua cõi an lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Đà Phật cùng
chúng đại Bồ Tát vây quanh mà sanh trên tòa báu trong hoa sen.
“Người đó chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại
chẳng bị lòng giận giũi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu
mạng ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông vô sanh
pháp nhẫn của Bồ Tát, đặng pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh
tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức
na do tha hằng hà sa các đức Phật Như Lai.”
“Bấy giờ các đức Phật đồng nói khen rằng: “Hay thay
Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội cửa đức
Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm kinh này vì
người khác nói, ông đặng công đức vô lượng, vô biên, lửa chẳng đốt
đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông nghìn Phật chung nói
chẳng thể hết đặng. Ông nay đã có thể phá các giặc ma, hoại quân
sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt.
“Thiện nam tử! Trăm nghìn các đức Phật dùng sức thần
thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai
252 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai, bao nhiêu thiền định, trí huệ
của các Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến Bồ Tát không có ai bằng
ông.
“11.- Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát bổn
sự này mà có thể tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong đời hiện tại
trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh, trong lổ
chân lông nơi thân thường thoảng ra mùi thơm ngưu đầu chiên đàn,
đặng công đức như đã nói ở trên.
“Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm Dược Vương Bồ
Tát Bổn Sự này chúc lụy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ
phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở cõi Diêm Phù Đề, chớ để dứt
mất, chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trời, rồng, dạ xoa, cưu bàn
trà v.v… phá khuấy đặng.
“Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn
kinh này. Vì sao? Vì kinh này là món lương dược của người bịnh
trong cõi Diêm phù Đề; nếu người có bịnh đặng nghe kinh này bịnh
liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
“Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này,
phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người đó. Rải
xong nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ (109)
trải
ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống
pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, chết.
Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này,
nên phải sanh lòng cung kính như thế.”
Lúc Phật nói phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổ Sự này, có tám
muôn bốn nghìn Bồ Tát đặng pháp “Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ
ngôn đà la ni.”
Đức Đa Bửu Như Lai ở trong tháp báu khen ngài Tú Vương
Hoa Bồ Tát rằng:
253 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất
khả tư nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc
như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh.”
Tháp Thích Quảng Đức tại góc ngả tư
đường Lê văn Duyệt –Phan đình Phùng
254 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
PHẦN KẾT CỦA QUYỂN SÁU.
Phẩm Tùy hỷ công đức. Thấy người ta làm điều tốt, rồi
mình vui mừng ưng thuận làm theo, đó gọi là tùy hỷ công đức.
Kinh Hồng Danh viết: “Nhược ngã thử sanh, nhược ngã tiền
sanh, tùng vô thỉ sanh tử dĩ lai, sở tác chúng tội, nhược tự tác, nhược
giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ. Nhược tháp, nhược tăng, nhược tứ phương
tăng vật, nhược tự thủ, nhược giáo tha thủ, kiến thủ tùy hỷ. Ngũ vô gián
tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ. Thập bất thiện đạo,
nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ.”
Là những tùy hỷ không nên làm mà mắc tội lớn. Trong phẩm
kinh ghi rỏ là tùy hỷ công đức, tức là thiện nam tín nữ nên đi nghe giảng
kinh Pháp Hoa, rồi đem pháp nghe đó mà truyền lại cho đúng, hết người
này đến người khác, người khác nghe rồi lại đem pháp đúng đó chuyễn
dạy cho người khác nữa, cứ xoay vần như thế cho đến người thứ năm
mươi.
Đây là lời dạy của đức Phật, đã là thiện nam tín nữ, chúng ta
phát nguyện tu học kinh Pháp Hoa là phải đi cho tới bến, không có
chểnh mảng, không giải đải, không lười biếng, cứ thẳng con đường bát
chánh đạo mà tiến, không thụt lùi. Bởi vì giá trị công đức ở đây không
phải là người thứ năm mươi, nhưng ở đây người thứ năm mươi là mục
đích để tới, con số năm mươi chỉ là để nhấn mạnh sự ngộ nhập Phật tri
kiến, sự giác ngộ hoàn toàn, sự chứng đắc trí huệ của chư Phật.
Tùy hỷ công đức là thể hiện lòng tin tu tập kinh đại thừa Diệu
Pháp Liên Hoa là con đường đưa tới Niết Bàn, vì kinh điển này chỉ có
nhứt thừa thực tường, không có hai, không có ba, như lời đức Thế Tôn
nói:
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
255 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đời sau đặng thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba thừa
Tất cả các Thế Tôn
Đều nói đạo nhứt thừa
Nay trong đại chúng này
Đều nên trừ nghi lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một không hai thừa.
(Phẩm Phương tiện)
Đức Phật dạy rằng dẫu có người trong vô lượng số kiếp phát
tâm bố thí tài vật trong sáu đường chúng sanh và chứng đắc quả vị A La
Hán, so ra cũng không bằng công đức của người thứ năm mươi kia nghe
một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Hoặc có người đang ngồi nghe
giảng kinh Pháp Hoa, mà chợt thấy có người mới đến liền mời ngồi,
hoặc chia chỗ cho ngồi, công đức tùy hỷ của người đó đặng chỗ ngồi của
Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của Chuyễn
Luân Thánh Vương.
Tóm lại, người hay thọ trì kinh Pháp Hoa, gồm cả tu hạnh bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhứt tâm, lại có lòng tùy hỷ khuyến bảo
mọi người cùng làm việc như mình, công đức của người đó rất thù thắng
vô lượng, vô biên.
Phẩm Pháp sư công đức, tức là nói về công đức của pháp sư
có lục căn thanh tịnh, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý này có phần khác với
người thường. Như lời đức Phật dạy, những thiện nam tín nữ đó, dù là
sáu căn trần của cha mẹ sanh ra, cũng đặng:
Tám trăm công đức nhãn căn thanh tịnh, dùng mắt thịt này vẫn có
thể nhìn thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những
núi, rừng, sông, biển; dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời
Hửu Đảnh.
256 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Một nghìn hai trăm công đức nhĩ căn thanh tịnh, dùng tai này nghe
khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục Vô Gián, trên đến trời Hửu
Đảnh.
Tám trăm công đức tỷ căn thanh tịnh, dùng mũi ngửi được trăm
mùi hương từ động thực vật đến loài người, từ những mùi hương
thơm lạ lẫm trên trời đến các mùi hương kỳ diệu khác trong vũ trụ.
Một nghìn hai trăm công đức thiệt căn thanh tịnh, dùng lưỡi này
nếm đủ món ngon, món dở ở trần gian, dùng lưỡi này để nói kinh
Pháp Hoa cứu chúng sanh thoát khỏi nhục dục, phiền não, dùng
lưỡi này diễn tả pháp lý huyền nghĩa đến tâm thức mọi loài chúng
sanh đều tin hiểu tu học.
Tám trăm công đức thân căn thanh tịnh, cái thân thịt này khiến mọi
người ưa nhìn vì nó trong sạch như lưu ly, sáng tỏ như pha lê .
Một nghìn hai trăm công đức ý căn thanh tịnh, ý này khi nói năng
điều chi đều phù hợp với Phật Pháp cả, dùng ý này để diễn giải
kinh Pháp Hoa cho hết thảy mọi chúng sanh đều ngộ nhập Phật tri
kiến.
Phẩm Thường bất khinh, là tên của một vị Bồ Tát tiền thân
của đức Thích Ca Mâu Ni. Đời đời kiếp kiếp, đức Phật luôn chỉ cho
chúng sanh thấy cái Phật tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh, cho
nên hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật.
Trong phẩm này có nói đến bốn chúng tăng thượng mạn: tỳ
kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Đó là hạng người học đạo chưa tới,
chỉ vừa thấy một lý thuyết đơn sơ, chưa đi sâu vào mặt siêu hình học, sự
lý đòi hỏi người học đạo giáo của Thích Ca Mâu Ni đều phải có. Mặc dù
Thường bất khinh Bồ Tát nhìn xa thấy rộng, muốn nhắc nhở cho bốn
chúng đó biết là “Các ngài đều sẽ thành Phật”. Nhưng rồi họ không
hiểu, họ nghĩ rằng “Ông tỳ kheo điên khùng này bêu rêu việc tu hành
của họ”. Bởi thế họ nhẫn nhịn không được đành buông lời ác mắng
257 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
rằng: “Ông vô trí tỳ kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng dám
khinh ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ làm Phật, chúng ta chẳng dùng
lời thọ ký hư dối như thế!”
Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc mà trong
lòng Thường Bất Khinh chẳng sanh phiền muộn, giận hờn, vẫn giữ quan
điểm mà nói với họ rằng: “Các ngài sẽ thành Phật!”
Thường bất khinh Bồ Tát chúc tụng bốn lần ứng vào bốn thời
kỳ khai, thị, ngộ, nhập.
Lần thứ nhứt: “Tôi rất kính quí ngài, chẳng dám khinh
mạn. Vì sao? Vì quí ngài đều tu hành đạo Bồ Tát sẽ đặng làm Phật.” Đây là thời kỳ đầu Phật tuyên thuyết kinh Pháp Hoa, chủ yếu là để khai
phá tâm chúng sanh, nhận biết con đường bát chánh đạo. Song Thường
bất khinh Bồ Tát thấy họ không hiểu. Con mắt yếu ớt của họ lúc ban sơ
không trông được một cái ánh sáng hoàn toàn như vậy. Nên ngài định
lần lần mở ánh sáng ra từng chút. Và ngài giữ chừng đặng cho người ta
lướt tới cho đễ dàng, cho quen dần, tùy cở và tùy sức của mỗi người.
Lần thứ nhì: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều
sẽ thành Phật.” Lần này có nhiều người lòng bất tịnh sanh giận hờn
buông lời ác mắng. Nhưng ngài vẫn giữ lòng thanh tịnh, không phiền
não, buồn lo, vì đối với những tín đồ mới học qua những lý lẽ đơn sơ,
chẳng có pha chút siêu hình học mà vì họ buồn lo thì chẳng có ích gì, có
điều những quy luật hằng ngày họ đều tỏ ra thông suốt.
Lần thứ ba: “Ngài sẽ làm Phật!” Lần này khi nói xong lời
đó, Thường Bất khinh Bồ Tát bị chúng nhơn lấy gậy, cây, ngói, đá để
đánh ném, ngài nhận ra rằng chúng nhơn chưa giết ngài là vì những tăng
thượng mạn kia đã thâm nhập vào giáo lý đại thừa, song hãy còn bỡ ngỡ
chưa dám vượt lên các đảnh cao nghiêm. Vì họ nghĩ rằng họ hãy còn
kém. Con người chưa tự bước lên con đường Tứ Thánh Đế và Mười Hai
Nhơn Duyên mà Phật vì lòng từ đã dọn sẳn cho họ, trong bụng họ thì có
ý muốn, mà mặt ngoài họ vẫn còn e ngại.
258 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lần thứ tư: Lần này Thường bất khinh Bồ Tát đứng đàng xa
mà vẫn to tiếng nói rằng: “Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều
sẽ thành Phật.” Bây giờ ánh sáng linh quang đã tỏa rộng, Phật tánh của
con người hiển bày, chúng sanh sẳn sàng bước lên bực Bồ Tát. Và xin
thệ trước Phật sẽ thọ trì, đọc tụng, diễn giải, biên chép và phổ truyền
kinh Pháp Hoa rộng rải trong cõi diêm phù đề.
Phẩm Như Lai thần lực. Nói về chư đại Bồ Tát như số vi
trần trong thế giới phát nguyện trước Phật Thế Tôn rằng: “Sau khi Phật
diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con
sẽ rộng nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn
thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường
đó.”
Đức Phật hiện sức thần thông lớn, bày tướng lưỡi rộng dài
lên đến trời Phạm Thế, tất cả lổ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia
sáng đủ màu sắc. Đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung tiếng khảy
móng tay, hai tiếng đó vang khắp ở cõi nước mười phương chư Phật.
Rồi hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: “Khỏi đây vô
lượng vô biên trăm ngàn muôn ức vô số thế giới có cõi nước tên là Ta
bà, trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni hiện nay vì các đại Bồ Tát
nói kinh đại thừa tên Diệu Pháp liên hoa giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ
niệm, các ông phải thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái cúng dường đức
Thích Ca Mâu Ni Phật.”
Khi đó Phật bảo Thượng hạnh Bồ Tát thảy: “Thần lực của
các đức Phật vô lượng, vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng
thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp, vì
để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.
“Tóm nói đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự
tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của
Như Lai đều tuyên bày rỏ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi
Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép
đúng như lời nói mà tu hành.
259 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói,
biên chép đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc
trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc
nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó
đều nên dựng tháp cúng dường.
“Vì sao? phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật
ở đây mà đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở
đây mà chuyễn pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập Niết bàn.”
Nói tóm lại, trong phẩm này thể hiện bốn quan điểm:
1. Người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, phổ truyền được kinh
điển này, Phật vui mừng hiện thần thông.
2. Người thọ trì, đọc tụng kinh điển này như thấy Phật Đa Bảo Như
Lai, là chứng nhân lịch sử xác quyết rằng người tu kinh Pháp Hoa
rốt ráo ắt sẽ đặng pháp khí, sẽ hiển lộ pháp tánh.
3. Người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói, phổ truyền kinh điển
này sẽ được Phật Đa Bảo Như Lai và chư Phật phân thân thảy đều
hoan hỷ.
4. Quyết tâm tu học kinh Pháp Hoa, trước sau gì cũng sẽ đặng làm
Phật.
Phẩm Chúc Lụy. Có nghĩa là ủy thác trọng trách cho chư vị
đại Bồ Tát nghiêm túc phụng hành những công việc Phật sự lớn lao, để
cho Phật an nhiên vào Niết bàn mà không lo ngại thất truyền chơn lý.
Những điều gì màThế Tôn đã chứng ngộ được trong suốt gần
năm mươi năm đức Phật hoằng dương đạo pháp, những chơn lý đã có
được ngày hôm nay là nhờ vô lượng hằng ha sa số kiếp tu hành mới có
đặng. Chư Phật thể hiện lòng từ bi bằng cách hiện sức thần thông lớn,
dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng đại Bồ Tát mà nói rằng: “Ta ở
260 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, các ông nên phải một lòng lưu
bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng.”
Thế Tôn ba phen xoa đảnh chư vị Bồ Tát và nói như thế ba
lần và khuyên bảo mọi người hãy học tập pháp của Như Lai và phổ
truyền đúng pháp của Như Lai, vì đức Thế Tôn muốn tất cả mọi chúng
sanh đều đặng nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hiểu kinh Diệu Pháp
Liên Hoa và đều đặng trí huệ của Diệu Pháp Liên Hoa, tức là trí huệ của
Phật vậy. Vì sao? Vì oai lực của kinh Pháp Hoa ngang bằng với quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên nếu có Bồ Tát, tỳ kheo, tỳ
kheo ni, thiện nam, tín nữ phát nguyện thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên
chép, truyền bá kinh Pháp Hoa thì trước sau gì cũng sẽ thành Phật. Vì lợi
ích của chúng sanh mà làm đặng điều như thế khiến cho đức Phật vui
mừng, thời là đã báo được ân đức của Phật rồi vậy.
Các chúng đại Bồ Tát nghe lời đức Phật dạy trong lòng vô
cúng phấn khởi, nghiêng mình cung kính, cúi đầu chấp tay hướng về
phía Phật đồng lên tiếng bạch rằng: “Như lời Thế Tôn dạy, chúng con
sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ có lo.”
Bạch lần thứ hai, bạch lần thứ ba cùng một lời như thế: “Như
lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ
có lo,”
Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự. Là nói về sự tích tiền
thân của Bồ Tát Dược Vương. Trong đạo tràng hội Pháp Hoa, trước mặt
trời, rồng, thần, dạ xoa, càn thác bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu
la dà, nhơn cùng phi nhơn, Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát thỉnh cầu Phật
nói về công đức của ngài Dược Vương Bồ Tát, những hạnh khổ khó làm
và công việc hóa đạo của Bồ Tát Dược Vương ra sao.
Đức Phật trước đây từng nói rằng kinh Pháp Hoa là phương
thuốc chúa (dược vương) có thể trừ hết mọi bịnh tật của chúng sanh, mọi
khổ lụy phiền não của chúng sanh, không sợ già, không sợ chết.
261 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm này thuật lại trong kiếp quá khứ của ngài Dược Vương,
vào thời kỳ đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai vì ngài Nhứt
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát và tứ chúng mà nói kinh đại thừa
Diệu Pháp Liên Hoa. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát tu
luyện khổ hạnh, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật suốt mười
hai ngàn năm mới đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội” . Đặng
tam muội này đều do nhờ quá trình tu học kinh Pháp Hoa mà thành.
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nghĩ đến báo ân Phật
bằng cách đốt thân để cúng dường, liền uống đủ các chất thơm như
chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy giao hương, bông
chiêm bặc. Dùng dầu thơm xoa thân, dùng y báu cõi trời quấn thân, và ở
trước đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức dùng sức nguyện thần
thông mà tự đốt thân. Đó là món thí thứ nhứt rất tôn, rất thượng. Đó là
hạnh khổ khó làm trong kiếp quá khứ của ngài Dược Vương Bồ Tát.
Thiện nam, tín nữ phát lời nguyện thọ trì, đọc tụng kinh Pháp
Hoa sẽ thấy đặng nhiều lợi ích như:
Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh xa rời khổ não.
Kinh này có thể lợi ích cho chúng sanh đầy mãn chỗ mong cầu.
Kinh này như ao nước trong mát cho những người khát nước.
Kinh này như kẻ lạnh được lửa, kẻ trần truồng đặng y phục, như
người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như
người bịnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của
báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối.
Kinh này làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bịnh tật đau
đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Riêng đối với người nữ (là hiện thân của ba độc, phiền não
do tham dục, phiền não do sân hận, phiền não do si mê, phiền não do sự
kiêu mạn, phiền não do sự ganh ghét, phiền não do các tánh xấu) mà
262 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
được nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này, rồi thọ trì, đọc tụng,
biên chép thì sau khi dứt bỏ thân hiện tại, sau này tái sanh không còn thọ
báo thân đàn bà nữa. Người nữ nghe kinh điển này đúng như lời mà tu
hành thì khi thác sanh sẽ qua cõi an lạc, chỗ trú xứ của đức A Di Dà
Phật cùng chúng Bồ Tát vây quanh, sanh trên tòa báu hoa sen.
Bốn truyện nói về người nữ. Truyện thứ nhứt :
TỤNG KINH PHÁP HOA THOÁT NỮ THÂN.
Đời nhà Tùy, ở huyện Bác Lăng, có ông Thôi Ngạn Võ, niên
hiệu Khai Hoàng làm quan Thứ sử Châu Ngụy. Một hôm nhơn đi thanh
tra trong địa phận mình quản trị, đến một ấp nọ, bổng ngạc nhiên vừa sợ
vừa mừng, bảo kẻ tùng giả rằng: “Ta xưa nay từng làm vợ người ở trong
ấp này, nay vẫn biết nhà cũ.” Liền cởi ngựa di vào đường hẻm trong ấp,
quanh quẹo đến một nhà, sai người gỏ cửa. Ông chủ nhà đó đã già, chạy
ra lạy chào.
Ông Ngạn Võ vào nhà chỉ trên vách phía đông cách đất
chừng năm, sáu thước (thước tàu), có chỗ lồi cao lên mà bảo chủ nhà
rằng: “Chỗ trên cao đó là chỗ ngày xưa kia ta cất năm đôi thoa vàng,
với bộ kinh Pháp Hoa của ta đọc hằng ngày. Bộ kinh ấy, cuối quyển bảy,
lửa cháy xém mất chữ hết một tờ. Vì cớ đó nên hiện nay mỗi khi ta tụng
kinh Pháp Hoa đến chương đó thường quên lãng, không ghi nhớ đặng.”
Nói xong sai người đục chỗ vách đó ra, quả thiệt đặng hộp đựng kinh,
thoa vàng cùng quyển sách thứ bảy cháy xém một tờ cuối quyển như lời
nói trước.
Ông chủ nhà rơi nước mắt khóc rằng:
“Thoa vàng cùng kinh quả thiệt là vật của vợ tôi ngày còn
sanh tiền, vợ tôi thường đọc bộ kinh Pháp Hoa này.”
Ông Ngạn Võ lại nói:
263 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Cây hoè trước sân kia ngày trước khi ta sắp đẻ, tự cởi đầu
tóc mượn để vào bọng cây đó.” Nói xong bảo người thử lại tìm, thật quả
đặng tóc.
Chủ nhà biết việc như thế biết chính quan Thứ sử hiện nay là
vợ của mình ngày trước tái sanh vừa buồn, vừa mừng.
Thôi Ngạn Võ để vật vàng bạc lại, hậu cấp cho ông chủ nhà
mà đi.
(Lại bộ Thượng Thơ Đường Lâm biên).
Trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự có nói: “Nếu có
người nữ nào nghe kinh này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo
thân đàn bà đó, không còn thọ lại nữa.” Chuyện của ông Thôi Ngạn
Võ trên đây đã chứng thật lời trong kinh nói, làm cho chúng ta lại càng
kính tin đức Như Lai là Đấng Chơn Thật Ngữ.
Xét nghĩ lại một người đàn bà chân quê ở trong ấp nhờ thọ trì
đọc kinh Pháp Hoa mà đã sớm khỏi thân hèn khổ, chuyễn thân thành
quan cao tước lớn, trong khi ấy, người chồng vẫn còn là tên chân quê.
Chồng lạy rước vợ, nào biết đó là vợ cũ của mình ngày xưa.
Tên dân quê đó, cũng một ít kẻ lân cận, khi người đàn bà đọc
kinh Pháp Hoa chết, họ sĩ vả và có niệm xấu nghĩ rằng: “Tụng kinh
không phước, trái lại còn chết yểu.” Đáng tiếc thay! Một niệm ngu si,
lòng chê kinh ấy, khi gặp Thôi Ngạn Võ như tuyết gặp nước sôi vậy.
Ôi công đức bất khả tư nghì của người trì kinh diệu dụng bất
khả tư nghì của kinh, cùng lý nhơn quả nhiệm mầu, kẻ tâm vụng về, trí
thức thô thiển có thể nào mà thấu đáo được. Chúng ta rất lo ngại cho
hạng người bày bác nhơn quả, hủy báng kinh đại thừa, và thiết tha mong
sao những hạng người ấy không nên quá nông nỗi.
264 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì khổ báo của người hủy báng kinh, đức Phật Thế Tôn,
đấng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thật ngữ đã có huyền ký rỏ
ràng.
Như vậy phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự này rất quan
trọng đối với phụ nữ, chuyên cần thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì lợi
ích của kiếp tái sanh đã rỏ ràng trước mắt. Đây là điều khích lệ và rất
mong nguyên lý này được phổ truyền rộng rải trong giới thiện nữ.
Truyện thứ hai :
Ả CA NHI.
Phật thành đạo và đi thuyết pháp được mười bảy năm. Ở tại
thành Vương Xá cò một ả ca nhi nổi danh tài sắc. Bấy giờ Phật và đệ tử
ngụ tại vườn tre.
Hàng ngày đệ tử ôm bát đi hóa trai, có một ả tên là Ri ma ti
(Crimati), tuy là người giang hồ phong nguyệt, từng làm chìm đắm
nhiều khách tài hoa, nhưng ả có lòng từ, thường dâng cơm cúng dường
chư Tăng và Phật tử. Mấy vị sa môn quen đến nhà cô, mỗi khi đến thì
lảnh rất nhiều của lễ.
Một hôm, có một thầy, nhân phải một lúc quên mình, bèn
ngó ngay cô. Từ đó về sau, thầy lại mang nặng khối tình tương tư cô.
Một bửa kia cô đau, nhưng cũng gượng dậy mà cúng dường cho các sư.
Cô tuy ốm và không ăn mặc trang hoàng, song cũng tiếp rước mấy sư,
nên cho thỉnh vào nhà để cô dâng đồ lễ. Lúc ấy cũng có vị sa môn si tình
đi chung, nhác thấy cô y phục không kỷ lưởng, càng trông càng lộ vẻ
xinh xinh. Tâm thần thầy càng thêm say đắm. Thầy bị dằn vật vì không
lướt qua khỏi sức mạnh của hai chữ ái tình. Thầy về đến tịnh xá không
ăn uống nữa và tách riêng một mình, luống những thầm thương trộm
nhớ đến ả ca nhi.
265 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đức Phật hiểu hết tâm tư của đệ tử, nhưng chưa vội khuyên
bảo. Chẳng bao lâu, ả ca nhi chết, nhân cơ hội này, Phật muốn làm cho
thầy không còn say mê, chờ đến bốn hôm, bèn dẫn thầy đến nhà ả ca
nhi, lúc ấy thân thể sình ương hôi thối.
Phật chỉ cái thây ương dưới đất và hỏi thầy: “Một đống dưới
đất là vật gì vậy?”
Thầy đáp: “Đó là cái xác của ả ca nhi Rimati.”
Phật phán: “Đó, hồi ả ấy còn sanh tiền, người ta dám phí bạc
trăm, bạc ngàn ra để chung vui trong một đêm. Bây giờ có ai dám trả
chừng một nửa để mua vui với ả chăng? Hồi ả còn sống, nhiều người
chết mê chết mệt vì ả, si tình vì ả, bây giờ có ai đó còn thầm thương
trộm nhớ ả nữa chăng?”
Liền đó Phật liền phán trong đại chúng đang bao chung
quanh ngài rằng: “Cái thây này, xưa nổi danh là tay ca nhi đúng bực, đẹp
đẻ hơn người, cái sắc đẹp ấy đã làm cho không biết bao nhiêu người yêu
thương, bây giờ không ai đoái hoài. Trong trần gian, cái gì cũng tan rả,
cái gì cũng giả dối hết.”
Nghe Phật thuyết pháp, chín mươi hai ngàn người được hiểu
biết bốn nền diệu lý, và vị sa môn kia được giải thoát khỏi bẩy dục lưới
tình.
Truyện thứ ba :
THẤT TIẾT VỚI CHỒNG.
Thuở xưa, có một chàng thiếu niên con nhà quí phái, đẹp đẻ
vô cùng. Chàng đúc một tượng mỹ nữ bằng vàng va thưa với cha mẹ
rằng: “Chỗ nào có con gái đẹp như tượng này, con xin cưới về làm vợ.”
266 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lúc đó trong một nước khác, có một nàng tuyệt sắc, giai
nhân, cũng đúc một tượng bằng vàng, hình một chàng trai khôi ngô tuấn
tú, và cũng thưa với cha mẹ mình rằng: “Chỗ nào có người trai đẹp như
tượng này, con xin thờ làm chồng.”
Khi cha mẹ hai bên hay chuyện ấy, mới định hôn cho hai trẻ
và cưới gả cho nhau. Cũng trong lúc ấy, một nhà vua lấy gương soi mặt,
phán với bá quan rằng: “Trong đời còn ai đẹp bằng quả nhơn chăng?”
Một vị quan đáp: “Kẻ hạ thần có nghe rằng ở nước kia có
một chàng trai đẹp khôi ngô tuấn tú chẳng ai bằng.”
Vua phái sứ đi mời chàng trai đó. Sứ đến nhà, nói với chàng
trai rằng: “Nhà vua nghe danh ngài là bực hiền nhơn, nên muốn thỉnh
ngài về triều.”
Chàng sửa soạn đồ đạc, ngựa xe và lên đường. Đi được một
đổi, chàng nghĩ rằng: “Vua dời ta đến có lẽ yêu sự học thức của ta
chăng?”
Chàng quay xe trở lại đặng đem theo ít pho kinh sử để coi
thêm. Về đến nhà, chàng thấy vợ mình đang phạm tội tà dâm với một kẻ
lạ mặt. Chàng ngạc nhiên, giận và thẹn làm cho gương mặt chàng biến
đổi ra trông thật kỳ dị, xấu xa lắm. Quan thấy chàng như vậy, ngỡ là vì
đường xá xa xôi mệt nhọc nên mặt mày gầy ốm, bèn cho tạm nghĩ phía
ngoài cung thành, chớ chưa vội trình vua.
Đến lúc nửa đêm, chàng thấy hoàng hậu đi từ trong hậu cung
ra mà tư tình với quan giữ ngựa. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ và nói
thầm trong bụng rằng: “Hoàng hậu mà còn đi ngoại tình, huống hồ là vợ
ta? Ay chẳng qua là việc thường lắm ru!”
Chàng quên hết sự rầu buồn và gương mặt liền đẹp lại như
xưa. Sáng ra, chàng vào chầu vua.
267 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vua hỏi: “Khanh đến đã ba ngày sao nay mới bệ kiến?”
Chàng đáp: “Khi sứ đến rước tôi đi, tôi bỏ quên sách nên quay trở lại
lấy sách. Khi bước vào nhà thấy vợ tôi đang tư tình với một kẻ lạ mặt.
Tôi giận lắm, nên gương mặt liền mất vẻ đẹp. Trở lại hoàng cung tôi
phải ở ngoài đến ba ngày. Hồi hôm này tôi thấy hoàng hậu đi ra ngoại
tình với quan giữ ngựa. Đã là vợ vua mà còn làm chuyện như vậy,
huống là nhi nữ tầm thường. Tôi liền bỏ hết sự rầu buồn, cho nên gương
mặt tôi tươi tốt lại như xưa.”
Vua cũng phê nhận lời ấy mà rằng: “Tình dâm dục không kể
là vua chúa hay thứ dân, giàu sang hay nghèo hèn, vợ trẫm mà còn lang
chạ, thì vợ của bá tánh thất tiết là sự thường.”
Hai người đàn ông hiểu nhau, đồng dắt nhau vào núi, xuống
tóc, cạo râu và làm thầy tu khổ hạnh trên rừng. Cả hai đều tưởng rằng:
“Gần với đàn bà, thì không khi nào làm nên việc hiền lành cao thượng
được.”
Nhờ dứt bỏ đường tình ái, hai người càng thông hiểu đạo lý
và tấn đức đắc quả rất mau.
Truyện thứ tư :
XẢO NGÔN VỚI CHỒNG.
Thuở xưa, có một người kia, giòng dõi quí phái, thường nhốt
vợ trong một nơi kín đáo, không cho ai thấy được. Người vợ sai đứa ở
đào một cái ngách thông ra ngoài và thường thông dâm với anh thợ bạc.
Về sau chồng nghe phong phanh mới sanh nghi. Nhưng vợ cải rằng:
“Cả đời em, em không làm chuyện nhơ nhuốc ấy. Sao anh lại nói oan
cho em.”
Chồng đáp: “Oan hay không, đây rồi sẽ biết. Để ta dẫn mình
lại chỗ cây bồ đề mà thề.”
268 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Người vợ chịu, cả hai đều vào phòng vắng và ăn chay bảy
ngày. Lúc ấy chị ta nói lén với anh thợ bạc rằng: “Bây giờ biết tính thế
nào? Em có kế này chắc tiện. Anh nên giả điên, bỏ xũ tóc tai rồi ra chợ
đụng ai ôm nấy.”
Khi hai vợ chồng ăn chay được bảy ngày, người chồng dắt vợ
ra, cô mới nói rằng: “Thuở nay em chưa biết chợ búa, vậy xin anh dắt
em lại đó cho biết.”
Khi đi tới chợ, thình lình cô ta bị anh thợ bạc chạy ra ôm lấy
mình và đè trên đất. Cô kêu chồng mà la rằng: “Sao anh để người ta
hảm hiếp em?”
Người chồng nói: “Nó là thằng điên.”
Hai vợ chồng đi tới chỗ cây bồ đề có đức Phật ngự nơi đó.
Người vợ quỳ xuống lạy bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thuở nay con
không làm chuyện gì nhơ nhuốc. Chỉ có người điên khi nảy là ôm được
con mà thôi.”
Nhờ vậy cô ta khỏi chết. Người chồng thẹn thuồng, nên nín
thinh. Ấy đàn bà thật xảo ngữ với chồng.
Người đàn ông thường tưởng cho mình là hạng người trí
thức, khỏi bị lầm, thế mà thường gặp phải đàn bà trắc nết qua mặt luôn,
hay bị vợ nhà gạt gẫm mà nào có hay biết gì.
269 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
QUYỂN BẢY
Phẩm DIỆU ÂM BỒ TÁT thứ hai mươi bốn.
Chúng ta lại thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một lần nữa
phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày, soi rọi ánh
sáng khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng ha sa các cõi Phật ở phương
Đông. Theo luồng hào quang đó, có một thế giới tên là Tịnh Quang
Trang Nghiêm (là một quốc độ thường phát ra ánh sáng thuần khiết,
trang nghiêm). Trong quốc độ đó có đức Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú
Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên, Nhân
Sư, Phật Thế Tôn, có vô lượng vô biên chúng đại Bồ Tát vây quanh.
Anh sáng lông trắng của đức Thích ca Mâu Ni Phật soi khắp
cõi nước đó, khiến cho trăm ngàn muôn ức chúng sanh đặng thấy tại cõi
nước Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị đại Bồ Tát hiệu là Diệu Am,
(âm thanh tuyệt diệu nhiệm mầu) ; Bồ Tát Diệu Am là tiêu biểu của
chơn tâm thanh tịnh, là lý tưởng được biểu thị bằng thân tướng cao lớn,
tốt đẹp, ánh sáng vàng chói, từ lâu đã trồng các cội công đức, cúng
dường gần gủi vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật, cho nên ngài
Diệu Am đại Bồ Tát đặng trọn nên trí huệ rất sâu và chứng đắc mười sáu
môn tam muội:
1. Diệu tràng tướng tam muội: tướng thiền định ngộ nhập kỳ diệu vào
kinh Pháp Hoa.
2. Pháp Hoa tam muội: tin chắc rằng kinh Pháp Hoa là vua của càc
kinh.
3. Tịnh đức tam muội: đức hạnh thiền định thanh tịnh, diệt hẳn gốc
tam độc, không còn chìm đắm trong lục dục thất tình.
270 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
4. Tú vương hý tam muội: sự vui chơi thiền định của chòm sao vua,
có nghĩa là chơn tâm tự tại của vị Bồ Tát đầy đủ đức hạnh độ thoát
chúng sanh.
5. Vô duyên tam muội: sự thiền định không có duyên cớ, chỉ nhất
tâm làm tròn nghĩa vụ cứu độ chúng sanh dù người đó có thân thiết
với mình hoặc là không thân thiết với minh, tất cả đều vô tư.
6. Trí ấn tam muội: sự thiền định của dấu ấn trí tuệ, có nghĩa là tập
trung tâm thức vào thiền định tạo ra linh ảnh thuần khiết, rồi truyền
dẫn linh ảnh đó vào những người cùng thiền định gần gủi với
mình.
7. Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn tam muội: sự thiền định hiểu
hết ngôn ngữ của chúng sanh, hiểu thấu đáo tư duy của họ để giảng
giải kinh Pháp Hoa cho thích hợp với sự hiểu biết của họ.
8. Tập nhứt thiết công đức tam muội: thiền định để thu góp hết thảy
mọi công đức, công đức ở đây có nghĩa là tất cả thiện nam tín nữ
học tập, thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, lần lượt sẽ hiển lộ pháp
tánh và hết thảy mọi người đều sẽ thành Phật.
9. Thanh tịnh tam muội: thiền định giữ cho thân tâm trong sạch, đặng
tam muội này thân thể trong sạch, chơn tâm sẽ không còn ảo giác.
10. Thần thông du hý tam muội: thiền định để khắp dạo chơi hân
hoan, hỷ lạc bằng sức thần thông.
11. Huệ cự tam muội: thiền định tăng trưởng trí tuệ, phóng ánh
sáng trí tuệ của mình cho những người chung quanh, như một ngọn
đuốc tỏ đi trong đêm, mọi vật chung quanh đều hưởng được ánh
sáng.
271 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
12. Trang nghiêm vương tam muội: vị vua có hình tướng tốt đẹp,
trang nghiêm, đức hạnh, có nghĩa là người có đức hạnh trang
nghiêm dễ gây ảnh hưởng tốt đẹp với mọi người.
13. Tịnh quang minh tam muội: ánh sáng thuần khiết, có nghĩa là
chơn tâm mình thanh tịnh, và mong muốn mọi người đều có chơn
tâm như mình.
14. Tịnh tạng tam muội: thiền định để tư duy những tạng kinh kỳ
bí, vi diệu.
15. Bất cộng tam muội: như thể độc giác, duy chỉ có một, không
có hai, có nghĩa là kinh Pháp Hoa biểu thị nhứt thừa thực tướng,
không có hai thừa, không có ba thừa.
16. Nhựt triền tam muội: sự xoay chuyễn của mặt trời, thực ra
mặt trời không có xoay chuyễn, bởi vì nói mặt trời xoay chuyễn có
nghĩa là tâm còn dao động, nhưng ở đây là muốn nói đến ý nghĩa
cuộc sống thiên hình vạn trạng của chúng sinh dưới ánh sáng mặt
trời.
Ngài Diệu Am đại Bồ Tát còn chứng đắc hằng hà trăm nghìn
muôn ức môn tam muội như thế. Bởi Diệu Am là biểu tượng của chơn
tâm, cho nên dù bất cứ tam muội nào hòa hợp vời diệu âm đều tượng
trưng cho thanh tịnh, trang nghiêm, tốt đẹp, trong sạch, đức hạnh, trí tuệ,
ánh sáng, thuần khiết. Bởi tam muội có ý nghĩa như là thiền định, tập
trung chơn tâm vào một đối tượng như linh ảnh, linh vật, có quan hệ hay
không quan hệ, chỉ với một yêu cầu chánh đáng là tận lực cứu độ mọi
chúng sinh thoát khỏi phiền não, sanh tử.
Khi hào quang của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi rọi đến
thân của vị Bồ Tát đó, vị Bồ Tát đó liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú
Vương Trí Phật rằng:
272 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Bạch đức Thế Tôn! Con phải qua cõi ta bà để lễ lạy, gần
gủi cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật, và cũng để ra mắt chư
đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử, Dược Vương Bồ Tát,
Dõng Thí Bồ Tát, Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Y Bồ Tát,
Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát.”
Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí liền bảo ngài Diệu Am Bồ
Tát như thế này:
“Ông chớ có khinh nước ta bà sanh lòng tưởng là hạ liệt.
Thiện nam tử! Cõi ta bà kia cao thấp không bằng, các núi đất đá
đầy dẩy sự dơ xấu. Thân Phật kém nhỏ, các chúng Bồ Tát thân
mình cũng nhỏ, mà thân hình của ông cao đến bốn muôn hai nghìn
do tuần, thân của ta cao đến sáu trăm tám mươi muôn do tuần.
Thân của ông tốt đẹp thứ nhứt, trăm nghìn muôn phước sáng rở,
đẹp lạ, cho nên ông chớ khinh nước kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ Tát
cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho là hạ liệt.”
Tại nước Tịnh Quang Trang nghiêm, Phật và Bồ Tát đều có
thân tướng cao lớn. Như thân tướng của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí
Như Lai cao sáu trăm tám chục ngàn do tuần, còn thân tướng của Diệu
Am Bồ Tát cao bốn mươi hai ngàn do tuần. Thân tướng Phật và Bồ Tát
cao lớn, đẹp lạ, so với thân tướng Phật và Bồ Tát tại cõi ta bà này thì quá
bé nhỏ. Cứ thử nghĩ rằng một người đứng trên lầu cao ba trăm tầng (gần
một ngàn mét) nhìn xuống một người đang đứng trên mặt đất. Đó là sự
so sánh của tâm tánh phàm phu, trí căn hạ liệt. Còn như Phật Thích Ca
Mâu Ni ở cõi ta bà này và Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí ở cõi nước Tịnh
quang trang nghiêm, không có sự so sánh cao, lùn, to, bé, lớn, nhỏ, rộng,
hẹp. Bởi vì chư Phật đã liễu ngộ bực toàn giác rồi, chư vị Bồ Tát đã
chứng đắc “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam muội” rồi thì các ngài thấu
rỏ hết thảy các pháp là vô ngã, nên đâu còn nhìn thấy ngã tướng, nhơn
tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng.
Ngài Diệu Am Bồ Tát bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí
rằng:
273 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Bạch Thế Tôn! Con nay qua cõi ta bà đều là do sức thần
của Như Lai, do thần thông du hí của Như Lai, do công đức trí huệ
trang nghiêm của Như Lai.”
Bạch Phật lời đó xong, ngài Diệu Am Bồ Tát chẳng rời khỏi
tòa, thân chẳng hề lay động, tâm tĩnh lặng sâu lắng vào trong thiền định,
dùng sức tam muội ở nơi núi Kỳ xà Quật hóa ra làm tám mươi bốn ngàn
các hoa sen báu: “vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim
cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.”
“Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thấy hoa
sen đó bèn bạch với Phật Thích Ca Mâu Ni rằng:
“Thế Tôn! Đây do nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này,
có ngần ấy nghìn vạn hoa sen: vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc
làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài?”
“Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù
Sư Lợi rằng: “Đó là Diệu Am Đại Bồ Tát từ cõi nước của đức Tịnh
Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng tám mươi bốn ngàn Bồ Tát vây
quanh mà đến cõi ta bà này, để cúng dường gần gủi, lễ lạy nơi ta
cùng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.”
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:“Thế Tôn! Vị Bồ
Tát đó trồng cội lành gì? Tu công đức gì mà có đặng sức thần thông
như thế? Tu tam muội gì? Mong Phật vì chúng con nói danh tự của
tam muội đó. Tu hành môn tam muội này mới thấy được sắc tướng
oai nghi tấn chỉ của vị Bồ Tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức
thần thông khi vị Bồ Tát đó đến khiến chúng con đặng thấy.”
Lúc ấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài Văn Thù Sư
Lợi:“Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà
hiện bày thân tướng của Bồ Tát đó.”
274 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tức thời đức Đa Bảo Phật bảo Bồ Tát đó rằng:“Thiện
nam tử đến đây! Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử muốn thấy thân
của ông.”
4.- “Bấy giờ, ngài Diệu Am Bồ Tát nơi cõi nước kia ẩn
mặt, cùng với tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đồng nhau qua cõi ta bà,
ở các nước trải qua sáu điệu vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng
bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trổi tự kêu, mắt của vị Bồ Tát
đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hòa hiệp trăm nghìn
muôn mặt trăng, diện mạo của ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc
vàng ròng, vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất
thạnh, ánh sáng chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na la diên bền
chắc.
“Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất
bằng bảy cây đa la. Các chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, mà
đồng đến núi Kỳ xà quật ở cõi ta bà này, đến rồi xuống đài thất bảo,
dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghìn, đem đến chỗ Thích Ca Mâu Ni
Phật. Đầu mặt lễ chưn Phật dâng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng
“Thế Tôn! Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn
ít bịnh, ít khổ, đi đứng thơ thới, sở hành an vui chăng? Bốn đại điều
hòa chăng? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng?
Không có người nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn
xẻn, kiêu mạn chăng? Không kẻ chẳng thảo cha mẹ, chẳng kính sa
môn tà kiến tâm chẳng lành, chẳng nhiếp năm tình chăng?
“Thế Tôn! Chúng sanh hàng phục được các ma oán
chăng? Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có
đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm đức Đa Bảo Như Lai : an ổn, ít
khổ, kham nhẫn ở lâu đặng chăng? Thế Tôn! Nay con muốn thấy
đức Đa Bảo Phật, cúi mong đức Thế Tôn chỉ bày cho con được
thấy”.
Lúc đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Phật Đa Bảo
rằng:
275 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Ông Diệu Am Bồ Tát này muốn đặng ra mắt Phật.”
Đức Đa Bảo Phật liền nói với đức Diệu Am Bồ Tát
rằng:“Hay thay! Hay thay! Ông có thể vì cúng dường đức Thích Ca
Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng ra mắt Văn Thù Sư Lợi
v…v… nên qua đến cõi này.”
“5.- Lúc bấy giờ ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Ngài Diệu Am Bồ Tát trồng cội lành gì, tu công đức gì
mà có sức thần thông như thế?”
Đức Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ Tát:“Thuở quá khứ có
Phật hiệu Vân Lôi Am Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
cõi nước tên là Hiện Nhứt thiết thế gian, kiếp tên Hỷ Kiến. Diệu Am
Bồ Tát ở trong một vạn hai nghìn năm dùng mười muôn thứ kỷ
nhạc cúng dường đức Vân Lôi Am Vương Phật cùng dưng lên tám
muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báu đó, nay
sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần
như thế.
“Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao? Thuở đó nơi chỗ đức Vân Lôi
Am Vương Phật, Diệu Am Bồ Tát cúng dường kỷ nhạc cùng dưng
bát báu lên đó, đâu phải người nào lạ, chính nay là Diệu Am đại Bồ
Tát đây.
“Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát này đã từng cúng dường gần
gủi vô lượng các đức Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng
hà sa trăm nghìn muôn ức na do tha đức Phật.
6.- “Hoa Đức! Ông chỉ thấy Diệu Am Bồ Tát thân hình ở
tại đây, mà Bồ Tát đó hiện các thứ thân hình, nơi nơi vì hàng chúng
sanh nói kinh điễn này.
“Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích,
hoặc hiện thân Tự Tại Thiên, hoặc hiện thân Đại Tự Tại Thiên, hoặc
276 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hiện thân Thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ sa môn Thiên
vương, hoặc hiện thân Chuyễn luân Thánh vương, hoặc hiện thân
các Tiểu vương, hoặc hiện thân Trưởng giả, hoặc hiện thân Cư sĩ,
hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc hiện thân phụ nữ
của tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ của Bà la môn, hoặc hiện thân
đồng nam, đồng nữ, hoặc hiện thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát
bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi
nhơn v.v… mà nói kinh này.
“Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và các chỗ nạn
đều có thể cứu giúp, nhẫn đến trong hậu cung của vua biến làm thân
người nữ mà nói kinh này.
7.- “Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát này hay cứu hộ các chúng
sanh trong cõi ta bà. Diệu Am Bồ Tát này biến hóa hiện các thứ
thân hình như thế ở tại cõi ta bà này vì chúng sanh mà nói kinh
Pháp Hoa, ở nơi trí tuệ thần thông biến hóa không hề tổn giảm. Vị
Bồ Tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi ta bà, khiến tất cả
chúng sanh đều đặng hiểu biết, ở trong hằng hà sa cõi nước trong
mười phương cũng lại như thế.
“Nếu chúng sanh đáng dùng thân hình Thanh văn đặng
độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
“Đáng dùng thân hình Duyên giác đặng độ thoát, liền
hiện thân hình Duyên giác mà vì đó nói pháp.
“Đáng dùng thân hình Bồ Tát đặng độ thoát, liền hiện
thân hình Bồ Tát mà vì đó nói pháp.
“Đáng dùng thân hình Phật đặng độ thoát, liền hiện thân
hình Phật mà vì đó nói pháp.
277 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình
như thế, nhẫn đến đáng dùng diệt độ mà đặng độ thoát liền thị hiện
diệt độ.
“Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát trọn nên sức đại thần thông
trí huệ, việc đó như thế.”
Lúc ấy ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch cùng Phật rằng:“Thế
Tôn! Ngài Diệu Am Bồ Tát sâu trồng căn lành gì? Thế Tôn! Bồ Tát
đó trụ tam muội gì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát
chúng sanh như thế?”
Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ Tát:“Thiện nam tử! Tam
muội đó tên là “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân”. Diệu Am Bồ Tát trụ
trong tam muội đó có thể nhiêu ích vô lượng chúng sanh.
“8- Lúc nói phẩm Diệu Am Bồ Tát này, những Bồ Tát
cùng đi chung với Diệu Am Bồ Tát tám muôn bốn nghìn người đều
đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội”. Vô lượng Bồ Tát trong
cõi ta bà này cũng đặng tam muội đó và đà la ni.
“Khi Ngài Diệu Am Bồ Tát cúng dường đức Thích Ca
Mâu Ni Phật và tháp của Đa Bảo Phật xong rồi, trở về bổn độ. Các
nước trải qua đều vang lên sáu điệu, rưới hoa sen báu, trổi trăm
nghìn muôn ức các thứ kỷ nhạc. Ngài Diệu Am cùng tám mươi bốn
ngàn Bồ Tát vây quanh đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật mà bạch
rằng:
“Thế Tôn! Con đến cõi ta bà lợi ích chúng sanh, ra mắt
đức Thích Ca Mâu Ni Phật và ra mắt tháp Đa Bảo Phật lễ lạy cúng
dường, lại ra mắt Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử Bồ Tát, Dược
Vương Bồ Tát, Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát, cùng làm cho tám
muôn bốn nghìn vị Bồ Tát này đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam
muội”.
278 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Lúc Phật nói phẩm Diệu Am Bồ Tát lai vãng này, có bốn
muôn hai nghìn vị thiên tử đặng vô sanh pháp nhẫn. Hoa Đức Bồ
Tát đặng Pháp Hoa Tam Muội.”
PHÂN BIỆT TÀ VÀ CHÁNH.
Trang 187 (tập 1 ) có bài viết nói về oai lực của Phật Thích
Ca và oai lực của Ma vương Ba Tuần. Sở dĩ nhắc lại là vì chúng ta tu
học kinh Pháp Hoa tức là chúng ta tu học đại thừa pháp, tức là chúng ta
phải liễu nghĩa kinh điển đại thừa, tức là chúng ta phải sáng suốt phân
biệt tà và chánh.
Lời Phật dạy: “Bảo hàng Thanh Văn chớ sợ ma Ba Tuần.
Nếu ma Ba Tuần hiện hình Phật đến trước các ông, thời các ông phải
tinh tấn gìn chánh niệm cho vững chắc, ma kia tức lo sầu mà bỏ đi.”
Người học kinh điển đại thừa, như kinh Pháp Hoa, khi đọc
tụng đến những phần thâm nghĩa, mà hiểu trọn ý từ trong kinh, trong
lòng người đó vô cùng hưng phấn, bày tỏ niềm vui và không hề kinh sợ,
cũng như người có tuệ căn nhìn thấu ruột của ma Ba Tuần đang mặc lớp
áo Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Phật dạy rằng những
người đó đã từng cúng dường, cung kính lễ bái vô lượng muôn ức đức
Phật. Dù cho có vô số loài ma đến quấy phá cũng không chút hoảng hốt.
Oai lực của người tu học kinh điển đại thừa không nhỏ, vì
người đó tin chắc rằng pháp của Như Lai là thường trụ, nên phát nguyện
thọ trì, đọc tụng kinh điển đại thừa mà chẳng sợ giặc ma nào nhũng
nhiễu, khủng bố, người đó, như lời đức Phật dạy: ”Sau khi Như Lai vào
Niết Bàn, nếu có người nghe kinh điển đại thừa mà sinh lòng kính tin,
nên biết người này trăm ngàn ức kiếp về sau không bị sa đọa vào chốn
ác đạo.”
279 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Cho nên chúng ta cần phải phân biệt tà và chánh rỏ ràng, chớ
để ma Ba Tuần lợi dụng oai lực mà khiến các loài ma giả danh biến hóa
thành hàng thiện tri thức xen lẫn vào đạo quậy phá những người học
hạnh đại thừa. Nên trích ra đây Phẩm Tà Chánh thứ chín trong kinh Đại
Bát Niết Bàn.
Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn có phải cần y
chỉ theo bốn hạng người (110)
như trên đã nói chăng?
Phật dạy: “Chính thế! Này Ca Diếp! Nên phải y chỉ như Như
Lai đã nói. Sao lại phải y chỉ với bốn bực ấy? Vì rằng có bốn thứ ma.”
Ca Diếp Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy có
bốn thứ ma, nay con phải làm thế nào để phân biệt là lời của Phật, là lời
của Ma? Có những chúng sanh chạy theo hạnh ma, cũng có nhiều người
thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai mạng ấy?”
Phật dạy: “Này Ca Diếp! Sau khi Như Lai vào Niết bàn bảy
trăm năm, ma Ba Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp, nó sẽ nói
rằng xưa kia Bồ Tát ở cung trời Đâu Xuất chết, rồi sanh nơi cung vua
Bạch Tịnh tại thành Ca Tỳ La Vệ nương sự ái dục hòa hiệp của cha mẹ
sanh dục mà có thân. Không bao giờ có người nào sanh trong loài người
mà được đại chúng cõi trời cõi người tôn kính. Và lại nói rằng xưa kia
khổ hạnh bố thí những đầu, mắt, tủy, não, bố thí những vợ, con, quốc
thành nên nay đặng thành Phật, vì thế nên được chư thiên, chư thần cùng
mọi người cung kính. Nếu có kinh luật nào nói như lời trên đây, phải
biết đó là lời của ma.
“Này Ca Diếp! Nếu kinh luật nào nói đức Như Lai Chánh
giác đã thành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sanh, nên nay mới thị
hiện thành Phật, và vì tùy thuận theo thế gian nên cũng thị hiện có cha
mẹ, nhơn nói ái dục hòa hiệp mà sanh. Phải biết kinh luật này, chính thật
là của Như Lai nói.
280 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nếu có chỗ nào nói không nên tin rằng lúc mới sanh, cả bốn
phương Như Lai đều đi bảy bước. Phải biết đây là lời của ma. Ai tùy
thuận theo lời ma thời là quyến thuộc của ma.
“Nếu nói lúc Như Lai mới ra đời cả bốn phương đều đi bảy
bước, đó là Như Lai phương tiện thị hiện. Phải biết đây là kinh luật của
Như Lai nói. Người nào tùy thuận lời Phật dạy, thời là bực Bồ Tát.
“Nếu có chỗ nói khi Bồ Tát giáng sanh, phụ vương cho người
đem đến miếu thờ Trời, tất cả chư Thiên thần, chư Đại Tự Tại Thiên,
Đại Phạm Thiên Vương, Thiên Đế Thích v…v.. thảy đều chắp tay lễ
chơn Bồ Tát. Đây là lời của Phật. Người thuận theo lời này là bực Bồ
Tát.
“Nếu gạn rằng: Trời sanh trước, Phật sanh sau, cớ sao chư
Thiên lại lễ kính Phật? Phải biết lời gạn này là lời của ma Ba Tuần. Nếu
ai thuận theo lời gạn này thời là quyến thuộc của ma.
“Nếu chỗ nào nói: lúc làm Thái tử, vì lòng tham dục, nên Bồ
Tát cưới vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung, nên biết trên đây
là lời của Ma vương, người thuận theo đây thời là quyến thuộc của ma.
“Nếu nói rằng: từ lâu Bồ Tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợ con,
cho đến sự vui vi diệu của tam thập tam thiên, như bỏ đờm mũi, huống
là sự vui ở cõi người. Bồ Tát cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo. Đây là
lời Phật nói, là kinh luật của Phật. Người thuận theo đây thời là Bồ Tát.
“Nếu có chỗ nói tại Kỳ Hoàn tịnh xá ở nước Xá Vệ, vì lòng
đại từ thương xót chúng sanh, nên Phật cho các tỳ kheo nuôi tôi tớ, voi
ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng v…v…
Phải biết đây là lời của ma. Ai thuận theo đây thời là quyến thuộc của
ma.
“Nếu nói rằng tại nước Xá Vệ nơi tịnh xá Kỳ Hoàn, trước
vua Ba Tư Nặc và Cổ Chi Đức Bà la Môn, đức Phật cấm các tỳ kheo
281 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
không được nuôi chứa và làm các điều trên. Người phạm các điều này
thời không được ở trong hàng tỳ kheo, phải hườn tục, như đám cỏ trong
ruộng lúa cần phải nhổ bỏ. Đây chính là kinh luật của Phật. Người thuận
theo đây thời là bực Bồ Tát.
“Nếu nói rằng: Thái tử Bồ Tát thị hiện vào miếu thờ Trời, ở
trong pháp ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biết tất cả oai nghi lễ tiết,
khéo hiểu tất cả văn tự, kỷ nghệ, thị hiện làm bực tôn quí nhứt trong các
giai cấp của xã hội, dầu vậy Bồ Tát chẳng có lòng luyến ái như hoa sen
không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sanh nên Bồ Tát phương tiện thị
hiện thuận theo thế pháp. Những lời trên đây là của Phật nói. Người
thuận theo đây là bực Bồ Tát. Nếu nói trái lại thời là lời của ma cùng
quyến thuộc của ma.
“Nếu có người cố chấp chín bộ kinh luật mà không chịu tin
kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằng không phải của Phật nói, vì
trong kinh luật của họ không có nói đến. Phải biết người này có tội,
không phải đệ tử của Phật.
“Nếu có người tin kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằng
vì độ chúng sanh nên Như Lai nói kinh đại thừa. Người này chính thật là
đệ tử của Phật.
“Nếu có chỗ nói Như Lai không phải là kết quả của vô lượng
công đức, là vô thường biến đổi do chứng pháp không nên tuyên nói lý
vô ngã, chẳng thuận với thế gian. Đây là lời của ma, người tin lời này
thời là quyến thuộc của ma.
“Nếu nói rằng Như Lai là bực Đẳng giác không thể nghĩ bàn,
là kết quả của vô lượng công đức, là thường trụ không biến đổi. Đây là
lời Phật nói, ai thuận theo lời này thời là bực Bồ Tát.
“Nếu có tỳ kheo thiệt không chỗ được, cùng nói được các
pháp hơn người, thời phạm tội ba la di (111)
mất pháp làm người, như
viên đá bể hai không còn liền lại được.
282 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nếu có tỳ kheo giới đức trong sạch, ít muốn biết đủ, ở nơi
vắng vẻ rảnh rang. Vua quan gặp tỳ kheo cho là bực A la hán, rồi cung
kính khen ngợi rằng Đại sư đây sau khi bỏ thân này sẽ chứng quả Vô
thượng bồ đề. Tỳ kheo nghe được liền cải chính là mình chưa chứng quả
thánh và khuyên vua quan chớ nhận lầm. Nhà vua vẫn cố kính tin và
loan truyền cho mọi người cùng tôn trọng cúng dường. Tỳ kheo này thiệt
là người giới đức trong sạch nên làm cho mọi người được phước đức
lớn. Tỳ kheo này không phạm tội ba la di vì tự mọi người sanh lòng kính
tin cúng dường. Nếu nói tỳ kheo này mắc tội, phải biết đó là lời của ma.
“Lại có tỳ kheo giảng tuyên giáo điển đại thừa rất sâu của
chư Phật rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sẽ dứt trừ vô lượng
phiền não bèn thành bực Vô thượng Chánh giác, trừ hạng nhứt xiễn đề” (112)
.
“Nếu có người hỏi tỳ kheo: “Nhà Thầy có Phật tánh chăng?
Sẽ được làm Phật hay không?” Tỳ kheo ấy đáp: “Chính tôi đây quyết
định có Phật tánh, còn thành Phật hay không chưa có thể thẩm định.”
Người lại nói: “Đại đức không phải hạng nhứt xiễn đề, tất được thành
Phật không còn nghi ngờ gì.” Tỳ kheo đáp rằng: “Vâng! Đúng như lời
người đã nói.” Dầu tỳ kheo này nói quyết định có Phật tánh, mà vẫn
không phạm tội.
“Lại có tỳ kheo lúc xuất gia tự nghĩ rằng: “Nay ta quyết định
thành bực Vô thượng Chánh giác.” Tỳ kheo này dầu chưa được thành
Phật, nhưng đã được vô lượng, vô biên phước đức. Vì xưa kia, trong tám
mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi,
khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thuở ấy ta cũng quyết định
rằng mình có Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đức đại
từ bi.
“Những điều trên đây là lời Phật nói, nếu ai thuận theo thời là
bực Bồ Tát. Còn ai không chịu thuận theo thời là quyến thuộc của ma.”
283 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
thứ hai mươi lăm.
Quán Thế Am (Avalokites Vara) tức là vị Đại Bồ Tát lắng
nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh trong cõi ta bà. Lắng nghe để tìm tới
nơi tùy phương tiện mà độ sinh.
Phổ Môn là cánh cửa chính chấp thủ sáu căn duyên hiệp với
sáu trần sinh ra tham muốn, dục vọng, tài sắc.
Quán Thế Am Bồ Tát Phổ Môn có nghĩa là ngài Quán Thế
Am nghe hết mọi nỗi khổ đau của chúng sanh, Bồ Tát khuyến tu tất cả
chúng sanh hãy gạt bỏ mọi ham mê về công danh, phú quí, coi những
thứ đó như bọt nước, sương sa, gắng công tu tập mới thấy rỏ con đường
giải thoát. Đừng để vướng mắc sắc tướng, bụi trần.
Bồ Tát Quán Thế Am còn có tên là Quán Tự Tại Bồ Tát
(Avalokitesvara). Đức Quán Thế Am nhờ quán sát ngoại giới, soi thấu
bản chất của ngũ uẩn mà đạt đến tự tại, vô ngại. Cho nên Quán Tự Tại
cũng là ngài Quán Thế Am.
Trong trí óc đa số người Việt Nam chưa quy y Tam Bảo đều
cùng chung một ý nghĩ ngài Quán Thế Am Bồ Tát là Phật bà Quan Am.
Đều nghĩ rằng Phật bà Quan Am rất hiển linh, cầu chi được nấy. Những
người đi biển, đi sông, gặp sóng to gió lớn, đều niệm danh hiệu Phật bà
Quan Am. Những người gặp trộm cướp, khổ nạn đều niệm danh hiệu
Phật bà Quan Am, vì họ nghĩ rằng Phật bà Quan Am gần gủi chúng sanh
hơn bất cứ vị Phật nào. Cho nên có người chưa quy y Tam Bảo, ở nhà
cũng có trang thờ Phật bà Quan Am. Năng lực độ trì của ngài Quán Thế
Am Bồ Tát như thế nào chúng ta đều biết.
Kinh dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều hết lòng xưng niệm
danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Am thì mọi khổ ách sẽ được tiêu diệt.”
284 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bây giớ chúng ta hãy đọc trọn phẩm kinh “Quán Thế Am Bồ
Tát Phổ Môn”.
1-“Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi
đứng dậy trịch áo bày vai hửu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng:
“Thế Tôn! Ngài Quán Thế Am Bồ Tát do nhơn duyên gì mà tên là
Quán Thế Am?”
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát:“Thiện nam tử! Nếu có
vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe
Quán Thế Am Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Am Bồ
Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.
“Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát này,
dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của
Bồ Tát này được như vậy.
“Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này
liền đặng chỗ cạn.
“Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng,
bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chơn châu, các thứ báu
nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi
tắp nơi nước quỉ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng
danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát, thời các người đó đều đặng thoát
khỏi nạn quỉ La Sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Am.
2-“Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán
Thế Am Bồ Tát thời dao gậy của người cầm liền gảy từng khúc, mà
đặng thoát khỏi.
“Nếu quỉ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại
thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế
Am Bồ Tát, thời các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà
nhìn người, huống lại làm hại đặng.
285 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm,
xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát,
thảy đều đứt rả, liền đặng thoát khỏi.
“Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một
vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua
nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện
nam tử, chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu
Quán Thế Am Bồ Tát, vị Bồ Tát hay đem pháp vô úy thí cho chúng
sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khói oán tặc
này.”
“Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng:
“Nam mô Quán Thế Am Bồ Tát”, vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền
đặng thoát khỏi.
“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Đại Bồ Tát sức oai thần cao
lớn như thế.”
Đức Bồ Tát có lòng đại từ đại bi cứu khổ chúng sanh nên
phát nguyện ở bất cứ nơi nào, thâm sơn cùng cốc nào, biển rộng núi cao
nào, chỗ nào có tiếng kêu vang cầu cứu, chỗ nào có nhiều cơ khổ hoạn
nạn, khi vừa chợt nghe là Bồ Tát thị hiện ra trước mắt để tế độ chúng
sanh cho kịp lúc, kịp thời. Muốn được như sở cầu, người xưng danh hiệu
phải nhất tâm thành khẩn, trong lòng phải giữ vững đoan chính thanh
tịnh, thời tiếng xưng tán của mình mới được vang xa. Đáng tiếc thay, có
người khi sống tạo nhiều ác nghiệp, một chút từ thiện nhỏ cũng không
làm, trong lòng toan tính chỉ biết làm lợi ích cho mình mà không nghĩ
đến cảnh đói khổ của kẻ khác. Cho nên lúc sa cơ, cầu nguyện hoài mà
không được như ý. Cũng ví như người mang nặng đi trong đầm lầy,
càng bước càng lún thêm sâu.
3-“Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường
cung kính niệm Quán Thế Am Bồ Tát, liền đặng ly dục.
286 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quan
Thế Am Bồ Tát, liền đặng lìa lòng giận.
“Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán
Thế Am Bồ Tát, liền đặng lìa ngu si.
“Vô Tận Ý, Quán Thế Am Bồ Tát có những sức oai thần
lớn nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng
tưởng nhớ.
“Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng
dường Quán Thế Am Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ;
giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước
đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.”
“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát có sức thần như thế.”
Ngài Quán Thế Am Bồ Tát luôn luôn hướng về chúng sanh,
vì ngài thệ nguyện phổ độ chúng sanh trên khắp cả mặt đất, biển cả,
rừng sâu, những người có duyên với Phật pháp thì sở cầu, sở nguyện
không bị chướng ngại. Ngài khuyên hết tất cả chúng sanh chớ coi rẻ
chính bản thân mình mà say đắm trong nhục dục, nếu lở say đắm thì
kính cẫn niệm danh hiệu ngài sẽ đặng xa lìa dâm dục.
Cũng đừng bao giờ khinh rẻ kẻ khác, hay sanh tâm giận hờn
kẻ luôn gây phiền não đến ta, nếu có hãy cung kính niệm danh hiệu ngài
thời sẽ xa lìa lòng giận.
Vì không làm lợi lạc cho chúng sanh nên ẩn chứa nhiều ngu
si, oán hận trong lòng, chỉ ham việc dễ làm mà tránh xa việc gian nan
nguy khó, cũng cứ thành khẩn niệm danh hiệu của ngài thời sẽ đặng lìa
xa ngu si, oán ghét.
Như có người nữ hiểu biết đạo pháp chân chính, thanh tịnh
thân tâm, tránh không để cho tạp niệm phát sinh, muốn cầu con trai liền
287 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
được sanh con trai khôi ngô tuấn tú, như muốn cầu con gái liền được
sanh con gái mắt đẹp mày xinh, nhờ đặng phước lực, trí lực của người
xưng danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát, nên đứa trẻ được nhiều người yêu
chuộng, mến thương.
4-“Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Am Bồ
Tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải
thọ trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát.”
“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi
hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y
phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của
người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng ?”
“Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.”
“Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế
Am Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của
hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức
kiếp không thể cùng tận.
“Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát đặng
vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”
Đức Phật dạy, một người cả đời chuyên lo phụng dưỡng cúng
dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, còn trì tụng danh
tự của sáu mươi ức hằng hà sa Bồ Tát, nếu đem ra so sánh với một người
chỉ nhất tâm xưng tụng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Am, hoặc một
thời lễ lạy cúng dường tượng Quán Thế Am Bồ Tát, thì công đức cả hai
bên đều bằng nhau.
Như vậy thần lực của câu niệm “Nam mô Đại Từ Đại Bi
cứu khổ, cứu nạn linh cảm Quán Thế Am Bồ Tát” thật là vô lượng vô
biên.
288 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đức Phật dạy, người giữ vững chơn tâm, hiểu thâm sâu đạo
lý, tự giác xa lìa mọi ảo ảnh cám dỗ, không ngã tướng, không nhơn
tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng (113)
Nhờ đó mà thấy được chơn tính, tức là Phật tánh trong tâm
thức, và dễ dàng thoát ly mọi thống khổ, tức là xa lìa tất cả mọi thân
bịnh, mọi tâm bịnh.
Chúng ta hy vọng mọi loài hửu tình trên thế gian này cố gắng
học Phật đạo, hiểu lý đạo, rộng chứa âm đức, làm nhiều điều thiện, bên
ngoài thì lợi nhân, lợi vật, bên trong tự tiết chế lòng ham muốn, thanh
tịnh tâm hồn. Nên khi lời trì niệm danh xưng “Nam mô Quán Thế Am
Bồ Tát” ắt sẽ được toại nguyện như ý mong cầu.
5-“Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn
Quán Thế Am Bồ Tát dạo đi trong cõi ta bà như thế nào? Sức
phương tiện việc đó thế nào?”
“Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam Tử! Nếu có
chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát,
thời Quán Thế Am Bồ Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Duyên Giác đặng độ thoát, liền
hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Thanh Văn đặng độ thoát, liền
hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, liền
hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện
thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.
289 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền
hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ thoát,
liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ
thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, liền
hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Tiểu Vương đặng độ thoát, liền
hiện thân tiểu vương mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Trưởng giả đặng độ thoát, liền
hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát liền hiện
thân Cư sĩ mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Tể Quan đặng độ thoát, liền hiện
thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Bà la môn đặng độ thoát, liền
hiện thân Bà la môn mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà
tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.
“Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể
quan, Bà la môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói
pháp.
“Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ
thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
290 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà,
A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn cùng phi nhơn
đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
“Ngưới đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần đặng độ
thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.
“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát đó thành tựu công đức
như thế, dùng các thân hình dạo đi trong các cõi nước để độ thoát
chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế
Am Bồ Tát.
“Quán Thế Am Đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt
hay ban sự vô úy, cho nên cõi ta bà này đều gọi ngài là vị “Thí Vô
Uy”.
Trước đây chúng ta vừa đọc qua phẩm Diệu Am Bồ Tát.
Ngài Diệu Am Bồ Tát ứng hiện vô số thân cũng như ngài Quán Thế Am,
nhưng Bồ Tát Diệu Am chỉ hành pháp thí (chuyên nói kinh Pháp Hoa
trong cõi ta bà này), khiến cho vô lượng chúng sanh đặng hiểu biết, và
tám mươi bốn ngàn vị Bồ Tát đặng chứng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam
muội”. Còn Bồ Tát Quán Thế Am cũng ứng hiện vô số thân không
những chỉ hành pháp thí, ngài còn hành tài thí và cả vô úy thí. Chỗ nào
có nạn gấp sợ sệt, liền niệm danh hiệu của ngài thì sợ sệt sẽ tiêu tan. Chỗ
nào có đầy ấp khổ đau chỉ cần niệm danh hiệu của ngài thì khổ đau sẽ
được giải thoát.
Bồ Tát Quán Thế Am thường hành hạnh thí vô úy như thế
cho nên chúng sanh cảm thấy rất gần gủi, như lúc nào cũng có bà mẹ
hiền ở luôn bên cạnh đứa con thơ, đứa trẻ không hề biết sợ sệt.
Lòng không sợ sệt cũng tương ứng với ý nghĩa tâm thanh
tịnh, do bởi giữ vững được Giới, Định, Huệ. Người học Phật mà đặng
giới, định, huệ thì trong ngoài tâm thức như nước chảy, mây trôi, mảy
may không vướng bận việc trần gian, không tham lam chấp mê thái quá,
291 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
không chìm đắm trong danh lợi ái ân, không sa chân vào vòng tửu sắc
tài khí, không phí thời giờ thả lỏng tâm hồn theo chuyện gió trăng.
Bồ Tát Quán Thế Am cũng thường khuyến bảo người học
đạo nên phát thiện niệm, nhờ phát thiện niệm nên phát sinh nhiều thiện
duyên, mà thiện thần thường theo quán sát những người có thiện tâm.
Cho nên hể phát tâm thiện niệm thì thiện thần thường gia hộ cho mọi sự
việc thành tựu như ý sở cầu.
6-“Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải
cúng dương Quán Thế Am Bồ Tát.”
“Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị
trăm nghìn lượng vàng đem trao cho ngài Quán Thế Am Bồ Tát mà
nói rằng: “Xin ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này.”
“Khi ấy Quán Thế Am Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi.
Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Am Bồ Tát rằng: “Xin ngài
vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”
“Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Am Bồ Tát: “Ông nên
thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ
xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn
và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó.”
“Tức thời Quán Thế Am Bồ Tát thương hàng tứ chúng và
Trời, rồng, nhơn, phi nhơn v…v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm
hai phần: Một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần
dâng tháp của Phật Đa Bảo.
“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát có sức thần tự tại như
thế, dạo đi nơi cõi ta bà.”
292 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
SỰ TÍCH QUÁN THẾ ÂM BỔ TÁT
(Trích Tạp chí Từ Bi Âm)
Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một
kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến
Thái Tử.
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng
ra đời.
Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng
ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: "Nếu Đạo Phật không phải chơn
chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!"
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và
chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần
cũng làm như vậy.
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lòng tin
kính, sắm đủ các món ngon, vật quý và đem những đồ trân trọng của
mình mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi
bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.
Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy
vậy khuyên rằng: "Điện hạ đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng
Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô
Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi hay là
cõi Trời Phạm Thiên làm chi.
Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhơn dân vui
sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi
tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên
thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi nhơn gian.
293 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế,
nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự
vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực
gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có
sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi
kéo vào đường nọ ngõ kia.
Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải
sanh tử luân hồi: nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng
tiêu diêu tự tại. Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước
báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi
bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về Đạo Bồ Đề
mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển
khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy,
bèn đáp rằng: "Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục
chịu sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu
nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó
mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ
là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh".
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: "Bởi chúng sanh
ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên
việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp
những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những
điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho
mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không
biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi đày đọa".
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: “ Nay
tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện
đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các
món công đức tôi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô
Thượng Bồ Đề. Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ
294 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự
khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ
ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức
thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhãn
mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi
hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng như
lời thề đó thì tôi không thành Phật.
Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà
phát lòng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh
tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng
sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc,
Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh
Pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp
gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng Đạo Bồ Đề.
Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết
lòng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười
phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa?”
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký
Bất Huyến Thái Tử rằng: " Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên
Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà
sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều
phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui.
Vì người có lòng soi xét những loài yêu cầu của loài hữu tình
trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quán Thế
Âm.
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả vô lượng
chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì cõi Cực Lạc
lại đổi tên là: "Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu", y báo càng tốt đẹp
hơn trước đến bội phần.
295 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra
đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới cây
Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: "Biến Xuất Nhất Thiết
Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai", phước tròn hạnh đủ,
muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất
quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha
kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh Pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba
ức kiếp nữa.”
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui
mừng mà thưa rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi
quả đặng hoàn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao!
Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế
giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng
thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng
ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời".
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức
thì các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa
nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng
nhiên tiêu tan cả.
Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh
thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: "Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi
Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng
sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát
tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do công đức đó, nên
trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức
Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo
Sở Thành Tựu".
Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất
vui mừng. Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải
kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo
296 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng
sanh, không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện.
Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi
Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh
trong mười phương đem về cõi ấy.
Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, thì Ngài kế ngôi Phật vị
mà giáo hóa chúng sanh.
hào quang kỳ ảo trên tượng Phật Bà cao nhất
ở chùa Linh Ứng Bãi Bụt (Đà Nẵng) VN
SỰ TÍCH QUAN ÂM NAM HẢI.
Tức là đức Quan Am trú xứ ở trong biển của Việt Nam.
Truyện Quan Am Nam Hải do một thiền sư đời nhà Nguyên (Trung
Quốc) sáng tác, được truyền vào đất nước ta vào thế kỷ thứ mười bốn.
Truyện có tính cách dân gian, cho nên đa số dân chúng nghĩ rằng Quan
297 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Am Nam Hải tức là Bồ Tát Quán Thế Am ở biển đông Việt Nam, nhất là
đối với người ở các làng chài lưới một lòng quy ngưỡng tôn kính. Mỗi
lần tàu thuyền chuẩn bị ra khơi, đều xướng tụng đến tên Ngài, mỗi năm
vào ngày hai mươi sáu tháng ba âm lịch là ngày lễ vía Quan Am Nam
Hải. Lâu dần chuyện tích Quan Am nam hải trở thành Việt hóa một cách
hoàn hảo, và nói rằng công chúa Diệu Thiện đi tu ở núi Hương Tích (Hà
Nội) và thành Phật tại đây. Dù là chuyện được sáng tác, văn phong rỏ
ràng, nhưng cũng cứ xem đây là một chuyện hóa thân của Đức Quán Tự
Tại Bồ Tát.
Quan Am Nam Hải là con gái thứ ba của vua Diệu Trang
Vương (Subhavyuha) tên là Diệu Thiện, người chị cả tên là Diệu Thanh,
người chị thứ hai tên là Diệu Âm. Cả ba chị em trong kiếp trước cùng là
ba anh em trai trong nhà họ Thi, một gia đình có tiếng giàu lòng từ thiện,
có nhơn đức.
Hai người chị Diệu Thanh và Diệu Âm vâng lời vua Diệu
Trang đi lấy chồng, công chúa Diệu Thiện thì trái lại chỉ muốn xuất gia
tu hành. Vua cha nghe vậy vô cùng tức giận, ra lệnh cho giam lỏng công
chúa trong cung lạnh. Hoàng hậu cùng hai người chị thỉnh thoảng ghé
thăm, khuyên bảo Diệu Thiện nên nghe lời cha mà đi lấy chồng. Nàng
cương quyết không chịu, nhất mực đòi đi tu.
Không dùng lời lẽ khuyên bảo được, vua bèn bày kế cho
công chúa đến tu tại một ngôi chùa lớn trong kinh thành, và mật lệnh
cho thiền sư trụ trì phải bắt công chúa làm lụng sớm khuya, công việc
nặng nhọc cũng chỉ là gánh nước, lặt rau, nấu cơm, hái thuốc để cho
công chúa thối tâm mà quay trở về hoàng cung. Nhưng Diệu Thiện
không nản chí. Bất kể đêm ngày, lợi dụng những phút giây rổi rảnh ni cô
Diệu Thiện tọa thiền, niệm Phật.
Thấm thoát tiết trời đã vào thu, bấm đốt ngón tay Diệu Thiện
đã xuống tóc quy y trong chùa này gần tròn hai tháng. Trong khi đó nhà
vua cứ sáng đợi chiều mong ni cô quay trở về. Vua ngờ rằng các vị sa
môn trong chùa vì nễ tình công chúa nên không cho làm những công
298 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
việc nặng nhọc, công chúa vì thế nên không muốn trở lại hoàng cung
chăng? Nghĩ vậy liền xuống lệnh đốt chùa. Diệu Thiện tự trách chính
nàng đã liên can đến chùa viện bị đốt, nên nàng tự cắn ngón tay và ngửa
mặt lên trời cầu nguyện. Lời cầu nguyện cảm ứng tới Long Vương, ngài
cho rồng phun nước dập tắt lửa.
Chùa không cháy, các thiền sư vẫn không ai bị thương tích
gì, ni cô Diệu Thiện vẫn không chịu hồi cung, vua Diệu Trang càng
thêm tức giận, liền cho ngự lâm quân đến bắt Diệu Thiện xử chém vào
giờ ngọ. Nhưng khi lưỡi đao vừa chạm vào cổ Diệu Thiện bổng bị gảy
làm đôi. Trời ban trưa đột nhiên tối sầm lại, sấm chớp nổi lên liên tục và
thình lình một con mãnh hổ nhảy vào mang ni cô Diệu Thiện đi mất.
Sau đó được biết mãnh hổ mang ni cô Diệu Thiện lên núi, đặt
nằm xuống rồi bỏ đi. Diệu Thiện thiêm thiếp, hồn ni cô đi xuống âm
phủ, đi qua mười tám tầng địa ngục. Cửa địa ngục nào Diệu Thiện bước
qua, ngục tốt cung kính cúi đầu đãnh lễ mà không nói điều gì cả. Diệu
Thiện nghĩ rằng mình bị vua cha xử chém, nay đã chết và linh hồn đang
phiêu bồng qua các cảnh địa ngục. Diệu Thiện vô cùng đau xót khi
chứng kiến cảnh những tội nhơn bị trừng trị tùy theo tác nghiệp đả tạo ở
dương gian.
Nào là địa ngục Phi Đao, tội nhơn chịu đau đớn vì những mũi
dao nhọn phóng tới tấp đâm lủng thịt da, nào là địa ngục kéo lưỡi tội
nhơn ra rồi cày bừa trên đó:
Kìa ngục bạt thiệt lạ sao
Cầm kìm lôi lưỡi máu đào mà kinh
Bởi vì miệng lưỡi co quanh
Đảo điên đơm đặt làm khuynh hãm người.
Nào là địa ngục Hỏa xa nghiền nát thân người tội, nào là địa
ngục cột đồng đỏ rực đốt thân người tội:
299 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Xe lửa là ngục hỏa xa
Quay đi quay lại thịt da tan tành
Bởi vì cậy thế, cậy thần
Hiếp kẻ cô quả, cướp tranh ruộng vườn
Cột đồng là ngục đốt thân
Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm.
Mỗi lần bước vào cửa địa ngục, Diệu Thiện nhất tâm trì chú,
niệm Phật, cho nên vừa thấy quỉ Dạ xoa hành hình tội nhơn, cảnh giới
liền hóa giải, tội nhơn được lệnh ân xá.
Diệu Thiện cứ nghĩ rằng mình đã chết rồi, chẳng lẽ đi lang
thang mãi thế này thì biết đường đâu mà về. Nhưng sứ giả của vua Diêm
Vương nói với Diệu Thiện: “Bồ Tát chưa chết đâu, chính Thập Điện
Minh Vương rước Bồ Tát xuống thăm địa ngục cho biết mà thôi, bây giờ
Bồ Tát hãy trở lại dương gian ngay.”
Hồn Diệu Thiện liền trở về dương gian nhập vào xác. Đang
còn phân vân không biết phải đi vế hướng nào, thì Phật Tổ Như Lai hóa
thân làm một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, bước tới gần để thử lòng Diệu
Thiện một lần nữa về chuyện kết nghĩa trăm năm. Khi thấy Diệu Thiện
tâm nguyện vững chắc, Phật liền chỉ đường cho ni cô đi về hướng núi
Hương Tích:
Đức Phật mới chỉ đường tu
Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn
Gần biển Nam Việt thanh nhàn
Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành.
Ni cô Diệu Thiện vâng lời Phật dạy, bèn nhắm hướng nam
Việt (nước Việt Nam nằm về hướng nam của Trung Quốc) vào núi
Hương Tích mà tu.
Núi cao ngân ngất mịt mù
Am thanh cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây
300 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trên thì năm sắc từng mây
Dưới thì bể nước trong rầy như gương
Cá chim chầu lại tĩnh đường
Hạc thường hiến quả, hươu thường dâng hoa.
Sau nhiều năm hành đạo, ni cô Diệu Thiện đã chứng quả Vô
thượng Chánh giác, hóa thành Phật bà Quan Am ngồi trên tòa sen báu:
Thần thông biến hóa tự nhiên
Một thân hóa được ra nghìn muôn thân
Mắt trông khắp hết cõi trần
Lắng tai nghe thấu xa gần bốn bên.
Bốn câu thơ trên nhằm diễn tả hạnh nguyện hóa thân của đức
Quán Thế Am Bồ Tát ra muôn ngàn thân để hóa độ trong ngàn muôn
trường hợp khác nhau, và cũng diễn tả khả năng nhận thức (thiên nhãn,
thiên nhĩ) và cứu độ (thiên thủ) của vị Bồ Tát này. Vì nhận thức và hành
động có trăm ngàn mắt, trăm ngàn tay, cho nên danh hiệu đức Quán Thế
Am Bồ Tát rất gần gủi với người lâm khổ nạn cần được sự cứu giúp:
Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra.
Phật Quan Am Hương Tích có hai người đệ tử: Thiện Tài,
tên của em bé trai mồ côi từ nhỏ xin theo bà, và Long Nữ, con gái của
Long Vương đội lốt cá Lý Ngư mắc nạn được bà cứu, trả về thủy đình,
sau trở lại xin theo bà để tu hành.
Sau này vua Diệu Trang bị bịnh nan y, yết bảng cầu lương y,
hứa rằng có ai chữa lành bịnh cho vua thì sẽ được truyền trao ngai vàng.
Rốt cuộc chẳng có vị thần y nào chữa được bịnh của vua. Cuối cùng
Diệu Thiện bấy giờ là Quan Am nam hải hóa thành vị lương y, giật bảng
yết đòi vào cứu vua. Xem mạch xong, lương y nói: “Bịnh này không thể
chữa trị được, nếu không xin được một mắt, một tay của tiên nữ trên núi
301 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Hương tích, và cam quyết rằng nếu vua cho người tới xin, tiên nữ đó sẽ
sẳn sàng bố thí.”
Vua giữ lương y ở lại hoàng cung và cho người qua nước Đại
Việt ở phương nam, lên chùa Hương tích, xin được ra mắt tiên nữ để xin
bố thí mắt và tay. Đem về triều, lương y điều trị nhưng bịnh chỉ hết được
phân nửa, lương y bảo phải trở lại Hương tích sơn để xin luôn con mắt
và cánh tay còn lại của tiên nữ.
Mọi người nhìn nhau tỏ vẻ hồ nghi và cho rằng việc đòi hỏi
này hơi quá đáng. Nhưng vị lương y (do Diệu Thiện hóa thân) nói rằng
vị Bồ Tát đó có phát nguyện xả thân bố thí để cứu người. Cuối cùng tiên
nữ cũng bố thí con mắt và cánh tay còn lại, vua khỏi bịnh, định làm lễ
truyền ngôi cho lương y, nhưng chưa kịp thi hành thì vị lương y đã biến
đi đâu mất.
Sau khi bình phục hẳn, vua và hoàng hậu lên đường qua nước
Đại Việt tìm tới núi Hương tích để tạ ơn tiên nữ.
Trong khi hoàng gia đang trên đường tới núi Hương tích, thì
tại Kinh đô có cuộc đảo chánh. Phật bà Hương tích dùng thần thông thấy
được nên sai hai đệ tử Thiện Tài và Long Nữ đem pháp thuật sang giải
cứu cho tình thế, đồng thời cứu thoát Diệu Thanh và Diệu Âm. Hai
người này từ khi bị giam, liền giác ngộ và bắt đầu tu hành, niệm Phật
ngồi thiền ngay trong ngục tối. Hai công chúa được cứu thoát liền theo
tháp tùng phái đoàn hoàng gia.
Vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, phái đoàn tới được núi
Hương tích. Cảnh tượng trang nghiêm, u nhã. Vào được tới động ngoài,
vua, hoàng hậu và hai công chúa chờ đợi để được tiếp kiến tiên nữ. Vua
Diệu Trang lên tiếng nhưng từ phía động trong không có tiếng trả lời.
Vua nghĩ mình là đàn ông, không tiện bước vào động trong, nên yêu cầu
hoàng hậu và hai công chúa bước vào trước để làm lễ ra mắt tiên nữ.
Lúc đó Phật bà hiện thân làm công chúa Diệu Thiện, đứng thẳng giữa
động, hai mắt bị móc, hai tay bị cắt, máu chảy ròng ròng. Nhận ra con
302 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
gái mình trong hóa thân ấy, hoàng hậu khóc và ngã ra bất tỉnh. Tiếp đến
là cuộc đối thoại giữa Diệu Thiện và cha mẹ. Diệu Thiện nói rằng mình
đã móc mắt và cắt tay để cứu cha, nhưng nếu cha mẹ phát nguyện bỏ ác
làm lành, tu hành theo đạo Phật thì bà sẽ có mắt và có tay nguyên lành
trở lại.
Vua và hoàng hậu liền phát nguyện tu mười điều thiện. Lập
tức tay mắt của Diệu Thiện liền trở lại nguyên lành như cũ.. Cả nhà ở lại
tu hành luôn tại núi Hương tích. Sau đó Diệu Thanh được thành Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát, cởi con sư tử xanh, và Diệu Âm trở thành Phổ Hiền
Bồ Tát, cởi con voi trắng.
Truyện Quan Am nam hải của Trung Quốc viết tới đoạn vua
ra lệnh chém đầu công chúa Diệu Thiện, lưỡi đao vừa chạm cổ liền gảy
làm đôi. Diệu Thiện nghĩ mình đã chết có đi thăm viếng địa phủ, vua
Diêm Vương phải sai sứ đưa hồn Diệu Thiện nhập trở lại dương gian,
rồi chấm dứt.
Truyện Quan Am nam hải của Việt Nam thì dài hơn từ ở
đoạn vua Diệu Trang lâm bịnh hiểm nghèo, cho tới lúc từ bỏ ngai vàng ở
lại núi Hương tích tu hành. Tuy câu chuyện được Việt hóa hoàn toàn,
nhưng vì có tính cách giáo dục dân gian chớ làm điều ác, nên làm điều
thiện, văn phong rất hòa hợp với đạo lý truyền thống của dân tộc Việt
Nam, phận làm con phải biết lấy chữ hiếu làm đầu, cư xử cứu nhơn, độ
thế, ăn hiền ở lành thì sẽ không gặp điều rủi ro, còn như có tâm địa ác
độc như vua Diệu Trang, ngay cả bịnh cũng không có thầy hay thuốc tốt
trị lành.
Theo chuyện Quan Am diễn ca của Huỳnh Tịnh Của (1834-
1907) in vào năm 1897 cứ tưởng như là Quan Am Nam Hải là người
Việt Nam, công chúa Diệu Thiện là con của vua Việt Nam. Sự gần gủi
ấy nói lên tính cách dân gian rất là phổ cập, người bình dân nghe qua là
hiểu ngay, không sâu sắc, không huyền bí. Có nghĩa là Phật Quan Am
nam hải cũng là con người bình thường như chúng ta, không màng sự
thế, không tranh với đời, tâm thức giác ngộ, đi tu rồi thành Phật. Còn
303 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nữa, đạo Phật lấy chữ Hiếu để, Nhân nghĩa để mở cửa vào cổng Phật trí,
Phật dạy: “Tội lỗi lớn nhứt của đời người là bất hiếu” và: “Lễ vật lớn
nhứt của đời người là lòng khoan dung, độ lượng.”
Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân
Hiếu là độ được đấng thân
Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài
Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước Nam ta
Phổ Môn có đức Phật bà Quan Am.
Phật bà phép chí vô biên
Một thân hóa mấy mươi ngàn muôn thân
Vốn là Bồ Tát thiên chân
Thác sinh công chúa nhất tâm tu hành
Trên thời Hiếu, báo sinh thành
Dưới thời Nhân, cứu chúng sinh ta bà
Cơ thần ngồi núi Phổ Đà
Thân lên trên Phật, thân qua dưới đời
Thần thông nghìn mắt, nghìn tay
Phổ Môn biến để độ người ngu mông.
Đoạn kết của chuyện Nam hải Quan Am nói rằng núi Phổ Đà
chỉ là nơi báo thân (Sambhogakaya) của Phật, còn Quan Am tọa thiền tại
núi Hương tích Việt Nam là nơi ứng thân (Nirmanakaya) của Ngài xuất
hiện, còn pháp thân (Dharmakaya) của Ngài thì đồng một thể tính với
Phật thân.
(Phỏng theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn
Lang.)
304 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
SỰ TÍCH QUAN ÂM THỊ KÍNH.
Thị Kính, pháp danh là Kính Tâm, là một trong những hóa
thân của đức Quán Thế Am Bồ Tát. Câu chuyện Quan Am Thị Kính như
sau:
Có một chàng trai xuất gia và tinh tấn tu hành trong chín
kiếp. Đến kiếp thứ mười, tức là kiếp chót mà chàng thành Phật, chàng
thác sinh làm người con gái tại nhà họ Mãng, huyện Hồ Nam, quận
Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly. Tên nàng là Thị Kính, có tài,
có sắc và đầy đủ đức hạnh. Lớn lên, nàng được cha mẹ gả cho chàng
Thiện Sĩ họ Sùng. Thiện Sĩ lo việc đèn sách, còn nàng lo việc nội trợ.
Một đêm, trong khi đọc sách, Thiện Sĩ thấy mệt liền ngã lưng
xuống ngũ. Thị Kính ngồi may áo một bên, trông thấy một sợi râu mọc
ngược bên cạnh cằm của chồng, liền cầm dao lên định cắt sợi râu.
Không ngờ trong lúc đó Thiện Sĩ tỉnh dậy, tưởng là vợ định giết mình,
bèn la lớn lên. Thị Kính cố hết sức giải bày mà nhà chồng vẫn cứ ngờ
vực, cuối cùng nàng bị đuổi về nhà cha mẹ.
Buồn chán cho tình đời, Thị Kính cải dạng nam trang xin vào
tu ở một chùa thật xa, tên là chùa Vân với pháp danh Kính Tâm.
Vâng lời lãng cảnh Ngọc Phương
Khêu đèn Bát nhã, giống chuông Tam thiền
Chân kinh ghi chữ tâm truyền
Chực tòa Long nhiễu, vui miền Hồ Khê
Đòi cơn tưởng nỗi hương quê
Người đi ngàn dặm, lòng về năm canh
Sự mình mình ngỏ với mình
Nặng tình cũng phải nên tình làm khuây
Này gươm trí huệ mài đây
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi
Hương xông pháp giới ngùi ngùi
Thông rung trống kệ, trúc hồi mỏ kinh…
305 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Dù ăn mặc nâu sòng, vẻ tuấn tú của chú tiểu vẫn làm cho trái
tim của các cô gái trong làng thổn thức. Thị Mầu, con gái của một phú
ông trong làng, một hôm đi lễ chùa, thấy Kính Tâm liền đem lòng yêu
dấu, tìm cách quyến rũ. Kính Tâm một mực khước từ. Phẩn chí, cô con
gái nhà phú hộ một đêm kia tư thông với một người đầy tớ trai rồi chửa
hoang. Dân làng bắt khoán việc chửa hoang. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu đổ
oan cho Kính Tâm. Kính Tâm bị tra khảo, nhưng một mực không nhận
tội. Vị trụ trì chùa Vân thấy vậy xót xa liền xin bảo lảnh Kính Tâm, chịu
nộp phạt mang Kính Tâm về. Ông cho chú ở tạm ngoài cửa tam quan
chùa vì sợ người trong làng mai mĩa.
Vâng lời ra ở thiền môn
Trong tòa phương trượng, dám còn vào ra
Nương mình bên cụm cúc hoa
Một hai chồi trúc, đôi ba khóm tùng
Gương minh nguyệt, quạt thanh long
Cười cùng thiếu nữ, bạn cùng thuyền quyên
Lấy chi làm chuyện giải phiền
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa
Bạch vân khuất nẽo xa xa
Song thân ta đấy, là nhà phải không?
Thị Mầu sinh được một trai, không biết mang đi đâu, liền
đem ra đặt ngoài tam quan chùa. Kính Tâm bối rối nhưng rồi quyết định
nhận đứa bé. Mỗi ngày chú phải đi xin sữa nuôi con, mặc cho người
trong xóm cười chê. Khi đứa bé lớn lên, biết nói, thì sức khoẻ của chú đã
mõi mòn. Chú viết một bức thư để lại cho cha mẹ, kể hết sự tình và dặn
dò con sau khi mình chết thì trao lại cho vị trụ trì. Sau đó người ta mới
biết chú là gái.
Trong lúc lập đàn làm chay cầu cho Kính Tâm siêu độ, thì
Phật Thiên Tôn hiện ra trên mây ngủ sắc truyền cho Kính Tâm thành
Phật Quan Am.
306 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nay bà Thị Kính hóa duyên
Nam mô Phật độ vô biên hằng hà
Hóa thân được cả mẹ cha
Kìa là bạn cũ, nọ là con thơ
Sau khi Thị Kính chứng quả, nàng đã độ được cha mẹ, Thiện
Sĩ và đứa con nuôi và vô biên hằng hà sa số chúng sanh khác.
Sau khi biết rỏ Thị Kính là gái giả trai, có nỗi oan tình, dân
làng bắt Thị Mầu phải để tang và chi trả mọi chi phí cho việc tổ chức
đám tang, ma chay và chôn cất.
Cha mẹ Thị Kính sau khi nhận được thư, tức tốc tới chùa vừa
kịp để dự trai đàn. Thiện Sĩ cùng đi theo với họ. Tất cả đều được trông
thấy cảnh đức Phật hiện ra và thọ ký cho Kính Tâm thành Phật Quan
Am. Ông bà họ Mãng và đứa trẻ cũng được lên tòa sen. Thiện Sĩ cũng
được hóa thành chim vẹt bay hầu một bên tòa sen.
Ai hay phép Phật nhiệm mầu
Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần
Giữa trời một đóa tường vân
Đức Thiên Tôn hiện toàn thân xuống đàn
Vầng vầng tỏ dạng tường loan
Đồng phan, bảo cái giao hoan âm thần
Truyền cho nào Tiểu Kính Tâm
Phi thăng làm Phật Quan Am tức thì
Lại thương đến đứa tiểu nhi
Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ
Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ
Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên
Độ cho hai khóm xuân huyên
Ra tay cầm quyết, bước lên trên tòa
Siêu thăng thoát cả một nhà
Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng.
(Phỏng theo Việt Nam Phật Giáo sư luận của Nguyễn Lang.)
307 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
TÍNH CÁCH DÂN TỘC CỦA QUAN ÂM NAM HẢI
VÀ QUAN ÂM THỊ KÍNH.
Hai đức Quan Am Nam Hải và Quan Am Thị Kính chiếm
một địa vị khá quan trọng trong đức tin của người dân quê Việt Nam.
Thị Kính là hình ảnh của một lòng tha thứ bao la và một đức nhẫn nhục
không bến bờ; còn Diệu Thiện là hình ảnh của một ý chí kim cương, một
tình thương rộng lớn, bao trùm cả gia đình và nhơn loại và cả những linh
hồn đang chịu khổ đau ở cõi âm mữa.
Cả hai truyện cổ tích đều đã được trui luyện qua trí tưởng
tượng của người dân quê nên đều mang tính cách dân tộc một cách đậm
đà. Chính vì sự tưởng tượng có phần hơi lệch lạc, nghĩa là có người đang
gặp nạn khổ cứ niệm Quán Thế Am Bồ Tát thời sẽ hết nạn khổ. Nói như
vậy là quá chủ quan, phủ nhận hết công đức tu hành của càc bậc chơn tu
hay sao. Tuy nhiên hình bóng Quan Am Thị Kính và Quan Am Nam Hải
đều là những hình bóng rất quen thuộc của người dân Việt Nam. Những
tấm gương hiếu thuận, thương người, nhẫn nhục, tha thứ, những đức
tánh mà người Việt chúng ta thương mến đã được phát triễn đến mức độ
cao nhất ở hai nhân vật phụ nữ ấy.
Quan Am Nam Hải, Quan Am Thị Kính còn hằn sâu trong ý
thức của người dân quê là biểu tượng đức Quán Thế Am Bồ Tát thiên
biến, vạn hóa khi thì thân, khi thì hình ở khắp mọi nơi bên trong lẫn bên
ngoài tâm thức chúng ta. Và chúng ta nhìn nhận rằng câu chuyện tuy
không nghiêm túc nhưng dẫn đến một kết cục rất rỏ ràng, nội dung rơi
vào niềm tin dễ dải, nhưng bố cục đúng vào ý của phẩm hai mươi lăm,
đó là lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả của chư Phật, chư đại Bồ Tát.
Bồ Tát Quán Thế Am không ngại gian khổ, nghe tiếng kêu
cầu cứu của chúng sanh mà đến, để làm tròn lời đại nguyện chỉ mong
cứu hết khổ chúng sanh trong đời mạt kiếp. Vì thế, chúng ta hãy cầu
nguyện cho tất cả chúng sanh trong cõi ta bà này giữ bền tâm đạo, phát
triễn lòng từ, không bị vật chất làm tối mắt, không bị sắc tướng ràng
308 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
buộc thân, để khi cần niệm đến danh hiệu của ngài Quán Thế Am Đại
Bồ Tát sẽ được sở cầu như ý, sở nguyện viên thành.
309 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm ĐÀ LA NI thứ hai mươi sáu.
Lúc Phật vừa thuyết giảng xong phẫm Phổ Môn, liền có tám
mươi bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
Ngài Dược Vương Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày
vai hửu chấp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng:
1-“Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn hay thọ
trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép
quyển kinh, đặng bao nhiêu phước đức?”
“Phật bảo ngài Dược Vương:
“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn cúng dường tám
trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật. Ý ông nghĩ sao?
Người đó đặng phước đức có nhiều chăng?”
“Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.”
Phật nói:
“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở nơi kinh này có
thể thọ trì, nhẫn đến một bài kệ bốn câu, đọc tụng giải nghĩa đúng
như lời mà tu hành thời công đức rất nhiều.”
2-“Lúc đó ngài Dược Vương Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú
đà la ni (dhàrani) để giữ gìn đó, liền nói chú rằng:“An nhĩ, mạn nhĩ,
ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ chuyên đế, mục
đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý xoa duệ, a xoa duệ, a kỳ
nhị chuyên đế, xa lý, đà ra ni, a lư dà bà ta ky đá tỳ xoa nhị, nễ tỳ
310 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn đá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu
lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi diệt
đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ, bà xá bà xá thâu địa,
mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược,
ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ.”
(Nguyên âm tiếng Phạn : Anye manye mane mamnae citte
carite same samità vìsànte mukte muktame same avisshame
samasame jaye akshaye akshìne sànta samite dhàrani àlokadhàshe
pratyavekshani nidhiru abhyantaranivishte abhyantarapari sudhi
ukule mutkule arade sukànkshì asamasame buddhavilokite
dharmaparikshite samghanir ghoshani bhayabhayavi sodhani
mantre mantràkshayate rute tutakausalye akshaye
akshayavanatàye).
“Thế Tôn! Thần chú đà la ni này là của sáu mươi hai ức
hằng hà sa các đức Phật nói. Nếu có người xăm hủy vị Pháp sư này,
thời là xăm hủy các đức Phật rồi.
“Lúc đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật khen Dược
Vương Bồ Tát rằng:
“Hay thay! Hay thay! Dược Vương! Ông thương xót
muốn ủng hộ vị pháp sư đó, nên nói chú đà la ni này, được nhiều lợi
ích ở nơi các chúng sanh.”
NĂNG LỰC BÍ MẬT CỦA CHÚ ĐÀ LA NI.
Chú đa la ni có nghĩa là một năng lực bí mật để ngưng dứt
mọi điều ác và khuyến khích mọi điều thiện.
311 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phạn ngữ Dhârani, tàu dịch là tổng trì, nghĩa là giữ gìn tất cả
mọi thiện duyên, thâu hoạch những pháp lành, bảo vệ những chủng tử
tốt, bền tâm, vững chí trước mọi thử thách của kiếp sống này cũng như
của những kiếp sắp đến là ý nghĩa chánh của chữ đà la ni, lấy bốn pháp
làm thể là Giáo, Lý, Hạnh, Quả.
Đà la ni chia thành năm giáo: tiểu giáo, thĩ giáo, chung giáo,
đốn giáo và viên giáo.
1. Tiểu giáo, tức tiểu thừa giáo, chú trọng đến kinh A Hàm, nói về tất
cả các pháp từ nhơn duyên sinh, chỉ rỏ ba cõi không an như ngôi
nhà lửa, thấu rỏ chơn lý nhơn không, tu hành tự lợi, chứng quả Tu
đà hoàn, dù có nói đôi chút về pháp không cũng chẳng nói thật rỏ
ràng, do chưa tột cùng nguồn pháp. Chú trong kinh A Hàm tức là
tiểu giáo như sắt.
2. Thĩ giáo, tức đại thừa giáo, gồm có Pháp tướng tông và Vô tướng
tông. Hai tông này là sơ môn của Đại thừa, cho nên gọi là thỉ, có
nghĩa là ban sơ. Chưa dạy nghĩa lý tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh, chẳng hứa khả định tánh xiễn đề sẽ thành Phật.
a. Pháp tướng tông có hai bộ kinh là Thâm Mật kinh và Phật
Địa kinh. Có hai bộ luận Du Già và Duy Thức, chỉ rỏ chơn lý
nhị không, tu lục độ vạn hạnh thẳng đến Đại thừa Phật quả.
Có câu luận: “Du Già diệu chỉ truyền tâm ấn
Ma ha diễn hạnh tổng trì môn.”
b. Vô tướng tông có bộ kinh Bát Nhã nói về nghĩa không của vô
tướng. Chú trong kinh Bát Nhã tức là Thĩ giáo như đồng.
3. Nhứt thừa chung giáo, gồm có hai bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh và
Đại Bát Niết Bàn kinh, nói vế tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rỏ thường biết, nhưng vì
vô thỉ mê vọng, điên đảo khôn lường, không tự giác ngộ. Đức Phật
dạy muốn chứng Phật quả, trước hết phải tỏ ngộ Phật tánh. Chung
312 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
giáo tức là không còn giáo lý nào hơn. Cho nên Phật thường nói
“Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh” là như vậy.
4. Nhứt thừa đốn giáo, chỉ nói chơn tánh, một niệm chẳng sanh thì
gọi là Phật, chẳng nương theo địa vị để nói theo thứ lớp nên gọi là
đốn, gồm có kinh Lăng Già nói về Ngài Đạt Ma đã truyền pháp
môn thiền tông, nói tất cả vọng tưởng bổn không, chơn tâm bổn
tịnh, nguyên không có phiền não vốn là bồ đề, chỉ nói chơn tánh
không nương cấp bực mà thành Phật, cho nên gọi là Đốn.
5. Bất tư nghì thừa viên giáo gồm có kinh Hoa Nghiêm nói về hoặc
sự, hoặc lý, hoặc nhơn, hoặc quả, trong đó có ba thế gian:
a) Khí thế gian: Bao gồm tất cả các quốc độ trong vũ trụ.
b) Chúng sanh thế gian: Là tất cả những giống hửu tình
trời, rồng, quỉ, thần, nhơn và phi nhơn.
c) Trí Chánh giác thế gian: Những bậc thánh nhơn đã
chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán.
Nói một nghĩa mà diễn ra trùng trùng vô tận, tổng hàm các
pháp, không một pháp nào mà không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại, không
chướng, không ngại nên gọi là Viên.
Trong tất cả các kinh nói về mật chú như Đại Bảo Lầu Các
kinh, Đại Bi Tâm kinh, Mâu Lê chú đều nói rằng: “Nếu có chúng sanh
được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua
trong bóng của họ, thì được tận diệt tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau
được sanh vào các nước Phật.”
“Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc,
hết thảy loài hửu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật.”
313 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Những người trì chú đi đường có gió thổi, hơi gió này chạm
vào hành giả rồi cuốn đi, hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn
đi những gì kỳ cọ, hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng
chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực;
hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện
trên đều ảnh hưởng đến các chúng sanh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu
diệt, đời sau được sanh về cõi tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa
sen.”
“Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió
chạm vào liền bị tổn thương, còn có công lực khó lường, huống nữa thần
chú không thể nghĩ bàn ư.”
Kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe đà la ni mà sanh hủy báng
cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long nảo,
chiên đàn, rồi chặt bỏ, dậm, đạp làm cho gảy ngã tất cả, chính thân thể
kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia.”
Kinh Vô Cấu Tịnh Quang nói: “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều
ác nghiệp, khi chết bị đọa tam đồ. Hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ
của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú. Lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi
được ác thú và sanh vào cõi thiên thượng.
“Lại lấy chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải
trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh vào các cõi tịnh độ
của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà
được bóng người trì chú chiếu vào, cũng được sanh về những nước
Phật.
“Lại chép đà la ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong
đó liền sanh nơi thiên cung.”
Trong kinh nói đức Tỳ Lô Giá Na Phật vì muốn pháp môn có
lợi ích cho chúng sanh, nên Như Lai đã biến ra các loại quỉ thần mà nói
chơn ngôn, chứ không phải thập loại quỉ thần mà nói chơn ngôn được.
314 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong kinh cũng nói tất cả chư Phật đều từ đà la ni mà sanh
ra, có nghĩa là chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành chủng tử Phật, nếu
không có chơn ngôn thì không thành Chánh giác. Tất cả tam tạng giáo
điển đều do đà la ni phát xuất, nghĩa là trong chơn ngôn mỗi mỗi một
chữ toàn là Vô tướng Pháp giới. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà sanh
ra. Chơn ngôn cũng gọi là tam tạng. Có trì chú tức là có tam tạng, nghĩa
là trong chơn ngôn, mỗi mỗi một chữ đều gồm đủ Giới, Định, Huệ.
Kinh Đại Phật Đảnh đà la ni nói: “Giả sử có chúng sanh nơi
tâm tán loạn, miệng vẫn tụng thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn
na do tha hằng hà sa cu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc,
mỗi mỗi đều có các kim cang chúng mà làm quyến thuộc, ngày đêm
thường theo hộ vệ người này. Dù có Ma vương phương tiện rình tìm
người kia cũng không thể được. Các tiểu quỉ thần xa lánh kẻ thiên nhơn
này ngoài mười do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến
xăm nhiễu kẻ thiên nhơn, các chúng kim cang lấy chày đập nát đầu nhỏ
như hạt bụi, hằng khiến người này làm việc như nguyện, cho nên lời
tụng kia nói:
Tám vạn bốn ngàn kim cang chúng
Đi, đứng, nằm, ngồi theo hộ thân.
Vì thần chú đà la ni hửu dụng và thâm diệu như vậy, cho nên
đức Phật thuyết giảng kinh Pháp Hoa dành riêng ra một phẩm. Chúng ta
trở lại phẩm kinh.
Lúc bấy giờ ngài Dõng Thí Bồ Tát cũng vì muốn ủng hộ
người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa nên cũng nói thần chú đà la ni và
bạch với Phật rằng:
3.- “Bạch Thế Tôn! Nếu vị pháp sư đó đặng chú đà la ni
này, hoặc Dạ xoa, La sát, hoặc Phú đơn na, hoặc Kiết giá, hoặc Cưu
bàn trà, hoặc Ngạ quỉ v…v… rình tìm chỗ dở của pháp sư không
thể đặng tiện lợi.” liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
315 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lê, a la bà đệ niết
lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nĩ, vi trí nĩ, chỉ tri nĩ, niết lệ trì nĩ, niết lệ
tri bà để.”
( Nguyên âm Phạn ngữ : Jvale mahàjvale ukku mukku ade adàvati
nrtye nrtỳavati ittini vittini cittini nrtyeni nrtỳavati).
“Thế Tôn! Thần chú đà ra ni này của hằng hà sa các đức
Phật nói, cũng đều tùy hỷ. Nếu có người xâm hủy vị pháp sư này,
thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi.”
Bấy giờ Tỳ sa môn Thiên vương, vị trời hộ đời bạch Phật
rằng:
4.- “Thế Tôn! Con cũng vì thương tưởng chúng sanh ủng
hộ vị pháp sư đó mà nói đà la ni này. Liền nói chú rằng:
“A lê, na lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na lý.”
(Atte natte vanatte anade nàdi kunadi).
“Thế Tôn! Dùng thần chú này ủng hộ pháp sư, con cũng
phải tự ủng hộ người trì kinh này, làm cho trong khoảng trăm do
tuần không có các điều tai hoạn.”
Đến phiên Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội này cùng
với nghìn muôn ức na do tha chúng Càn thát bà, cung kính vây
quanh đến trước chỗ Phật, chắp tay bạch Phật rằng:
5.- “Thế Tôn! Con cũng dùng thần chú đà la ni ủng hộ
người trì kinh Pháp Hoa. Liền nói chú rằng:
“A dà nể, dà nể, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đẳng
kỳ, thường cầu lợi, phù lầu tá nĩ, ác đế.”
(Agane gane gauri gandhàri candàri màtangi samkule
vrùsalisisi).
316 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Thế Tôn! Thần chú đà la ni này là của bốn mươi hai ức
các đức Phật nói, nếu có người xâm hủy vị pháp sư này thời là xâm
hủy các đức Phật đó rồi.”
Bấy giờ có mười vị La Sát nữ: một tên Lam Bà, hai tên
Tỳ Lam Bà, ba tên Khúc Xĩ, bốn tên Hoa Xĩ, năm tên Hắc Xĩ, sáu
tên Đa Phát, bảy tên Vô Yểm Túc, tám tên Trì Anh Lạc, chín tên
Cao Đế, mười tên Đoạt Nhứt Thiết Chúng Sanh Tinh Khí.
Mười vị La Sát nữ đó cùng với quỉ Tử Mẫu (114)
, con và
quyến thuộc đều đến chỗ Phật, đồng tiếng bạch Phật rằng:
6.- “Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ
trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, trừ sự khổ hoạn cho người đó, nếu có
kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp sư, thời làm cho chẳng đặng tiện lợi.”
Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
“Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê
lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu
hê, nâu hê.”
( Iti me, iti me, iti me, iti me, iti me, ni me, ni me, ni me, ni
me, ruhe, ruhe, ruhe, ruhe, stuhe, stuhe, stuhe, stuhe, stuhe)
“Thà trèo lên đầu chúng con, chớ đừng não hại pháp sư,
hoặc Dạ xoa, hoặc La sát, hoặc Ngạ quỉ, hoặc Phú đơn na, hoặc Kiết
giá, hoặc Tỳ đà la, hoặc Kiền đà, hoặc Ô ma lặc đà, hoặc A bạt ma
la, hoặc Dạ xoa kiết giá, hoặc Nhơn kiết giá, hoặc quỉ làm bịnh nóng,
hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc
đến bảy ngày, hoặc làm bịnh nóng luôn, hoặc hình trai, hoặc hình
gái, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, nhẫn đến trong chiêm
bao cũng lại chớ não hại.”
Mười vị La sát nữ ở nơi trước Phật mà nói kệ rằng:
317 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nếu chẳng thuận chú ta
Não loạn người nói pháp
Đầu vở làm bảy phần
Như nhánh cây A Lê
Như tội giết cha mẹ
Cũng như họa ép dầu (115)
Cân lường khi dối người
Tội Điều đạt phá Tăng
Kẻ phạm pháp sư đây
Sẽ mắc họa như thế
“Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng hộ người thọ
trì, đọc tụng, tu hành kinh này, làm cho đặng an ổn, lìa các sự khổ
hoạn, tiêu các thuốc độc.”
Phật bảo các La sát nữ:
7.- “Hay thay! Hay thay! Các người chỉ có thể ủng hộ
người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, phước chẳng thể lường được rồi,
huống là ủng hộ người thọ trì toàn bộ cúng dường quyển kinh, hoa
hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, phan lọng, kỷ
nhạc, thắp các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm,
đèn dầu bông Tô ma na, đèn dầu bông Chiêm bặc, đèn dầu bông Ba
sư ca, đèn dầu bông Ưu bát la, nghìn trăm thứ cúng dường như thế.
“Cao Đế! Các người cùng quyến thuộc phải nên ủng hộ
những pháp sư như thế.”
PHẬT thuyết
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƯƠNG CÚ.
“Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng
cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Lúc đó Thị giả A Nan đắc đại trọng bịnh,
318 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật liền đến nơi ấy trải tòa mà ngồi. Phật bảo A Nan rằng: “Ông nay
lắng nghe, ta có câu thần chú Lục Tự Đại Minh hay tiêu tai nạn, tăng ích
thọ mạng. Nếu ông thọ trì, chẳng những tự thân ông lìa khổ, mà còn
khiến cho bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đêm dài
an ổn, lìa xa sự khổ não.
“Lại vầy nữa A Nan, Lục Tự Đại Minh Thần chú này là của
bảy mươi bảy trăm ức đức Phật và sáu Đại Oai đức sư đều đồng tuyên
nói. Sáu Đại Sư ấy là: Một là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hai là Đế
Thích Thiên Chủ, ba là Đa Văn Thiên Vương, bốn là Trì Quốc Thiên
Vương, năm là Tăng Trưởng Thiên Vương, sáu là Quảng Mục Thiên
Vương. Những bực Thánh hiền như vậy, tuy khác miệng đồng lời tuyên
thuyết thần chú rằng:
“Nan để lê, nan để lê, nan đổ lị, đổ ma lị, bán noa lị, câu
quan trí, ma độ ma để ta phạ ha.”
Phật dạy A Nan:
“Lục Tự Đại Minh chương cú này có đại oai lực. Nếu lại có
người trong nạn vương pháp sợ hãi, trong nạn nước lớn sợ hãi, trong nạn
giặc cướp sợ hãi, trong nạn oan gia sợ hãi, trong chiến đấu nạn sợ hãi,
trong nạn ác diệu (sao xấu) sợ hãi, các nạn như vậy khi hại đến thân, một
lòng xưng niệm Đại Minh Chương Cú, ủng hộ đệ tử …… khiến được
giải thoát, nếu nói lời ấy rồi các thứ nạn tai liền được tiêu trừ.
“Lại nữa A Nan, nếu các hửu tình, các bịnh đau nhức, đau
đầu, đau cổ, đau mắt, tai, mũi, họng, răng nướu lưỡi đau, môi miệng má
đau, ngực hông vai đau, tim đau, bụng đau, lưng đau, háng đau, khắp
thân đau nhức, dịch tả, kiết lị, bịnh trĩ, nhọt rò, phong bịnh vàng da, đàm
suyễn khó thở, các bịnh nặng dữ. Như trước xưng niệm Đại Minh
Chương Cú, Phật đại oai đức, liền sai tất cả Nhựt, Nguyệt, Tinh tú, La
hán, Thánh hiền phát lời chơn thật. Cho đệ tử tên ………….. nên phải
ủng hộ, dứt trừ tai hoạ, khiến được an vui. Nơi có đao kiếm và các thuốc
độc, cọp, beo, sư tử, bò cạp,rắn rít, các cầm thú dữ đều chẳng dám hại;
319 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
bịnh rét chẳng bị, chẳng trúng thiên thời, cho đến A ba ta, Ma la bộ đa,
Tỳ xá tả, Cưu bàn trà, tất cả quỉ tướng đều phải xa lìa, chẳng dám gây
hoạn.
“Lại nữa A Nan, nếu các hửu tình bị loài quỉ mị, suốt năm
nhiều tháng mà chẳng bỏ rời, lấy thần chú này gia trì nơi chỉ rồi đeo tay
người bịnh, thì Kim Cang Thủ, Đại dược Xoa Chủ, dùng sức phẩn nộ
đập đầu quỉ mị khiến bể bảy phần. Lại còn sai khiến đại trí Xá Lợi Phất,
đại thần thông Mục Kiền Liên, Trì giới La Hầu La và ông A Nan Đà,
thảy đều đến ủng hộ khiến được an vui. Nếu không được vậy, thời núi
Tu Di Vương phải dời đi nơi khác, nước đại biển lớn phải liền khô cạn,
mặt trời, mặt trăng đều phải rơi rớt xuống, quả đất lớn này cũng bầm ra
từng mảnh.
“Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không vọng ngữ.
Này A Nan, Lục Tự Đại Minh đà la ni này thần thông oai đức chưa từng
có được. Nếu vui mừng nghe được, người ấy thường được sống lâu
không bịnh, các nạn tai không xâm hại. Huống gì thọ trì, đọc tụng, biên
chép, cung kính cúng dường. Chính là pháp thành tựu tối thượng tăng
ích.”
A Nan nghe Phật thuyết xong thần chú Lục Tự Đại Minh
Chương Cú, tín thọ phụng hành, thân liền xuất hạn, bịnh nặng giãi trừ.
HIỂN GIÁO VÀ MẬT GIÁO.
Từ ngày thành đạo cho đến lúc Phật nhập Niết bàn, gần năm
mươi năm đức Phật đi hóa đạo khắp miền đất nước An Độ, giáo lý của
Phật thu gọn lại trong ba tạng: kinh (sutra), luật (Vinaya) và luận
(Sastra), trong ba tạng này không ngoài hai môn Hiển giáo và Mật giáo.
320 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
1-Hiển giáo: là mở rộng tâm cho tất cả đệ tử thấy được cái
lý, cái sự của Tánh, Tướng để liễu ngộ giáo pháp nhiệm mầu, tu chứng
chơn tâm.
Nói về lý phải đọc từ phẩm một đến phẩm mười. Nói về sự
phải đọc tiếp từ phẩm mười một đến phẩm thứ hai mươi hai. Nói về Lý
Sự đến tận tâm thức giải thoát phải đọc tiếp từ phẩm Dược Vương Bồ
Tát bổn sự thứ hai mươi ba đến phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ
hai mươi tám mới thấy rỏ con đường Phật tri kiến trong từng bước Giới,
Định, Huệ.
Trong phẩm Tựa thứ nhứt, đức Phật trình bày tổng quát về sự
tướng của pháp giới.
Phẩm Phương Tiện thứ hai đức Phật mở cho chúng sanh thấy
con đường Phật tri kiến, và sự liễu ngộ lý nhiệm mầu, tu hành chứng đắc
A la hán mà tiêu biểu là ngài Tôn giả Xá Lợi Phất. (Phật thọ ký cho ngài
Xá Lợi Phất trong đời vị lai sẽ thành Phật có danh hiệu là Hoa Quang
Như Lai).
Phẩm Thí Dụ thứ ba, phẩm Tín Giải thứ tư, phẩm Dược Thảo
dụ thứ năm, phẩm Thọ Ký thứ sáu, Phật khai thị cho chúng sanh thấy rỏ
nguyên lý nhơn duyên, và tận dụng các phương tiện thiện xão giúp
chúng sanh mau chóng ngộ nhập Phật tri kiến. Tiêu biểu là các ngài
chứng bực Thanh Văn được Phật thọ ký như ngài Ma ha Ca Diếp, Thần
thông Mục Kiền Liên, ngài Tu Bồ Đề, ngài Ca Chiên Diên.
Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy, phẩm Ngũ ba đệ tử thọ ký thứ
tám, phẩm Thọ học, vô học nhơn ký thứ chín và phẩm Pháp sư thứ
mười, Phật mở rộng về pháp môn đại thừa, và quan điểm nổi bậc nhứt
của mười phẩm kinh đầu là chỉ có một thừa, không có hai, không có ba,
một thừa đó tức là đại thừa, các bực Thanh Văn tinh tấn giữ trọn lành
Giới, Định, Huệ.
321 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Từ phẩm thứ mười một Hiện bửu tháp (nhơn chứng lịch sử
của kinh Pháp Hoa) cho đến phẩm Chúc Lụy thứ hai mươi hai Phật dẫn
dắt chúng sanh từ các lý lẽ nhơn duyên, đến các lời nói phương tiện thực
hành, nhằm khuyến khích người thọ trì, đọc tụng biên chép, giải nói,
truyền bá kinh điển được nhiều sự lợi ích, tăng tấn đạo bồ đề.
Từ phẩm thứ hai mươi ba đến phẩm cuối của quyển kinh,
trình bày con đường Phật tri kiến, sự giải thoát hoàn toàn, dứt tiệt đường
sanh tử của chư vị Bồ Tát.
Phần Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa đã trình bày được quan
điểm tinh thần giáo lý chơn chánh của kinh, diễn giải bằng những lời lẽ
dễ hiểu, kết hợp lẫn cả tri và hành, kết hợp cả lời lẽ nhơn duyên, phương
tiện thiện xảo, làm cho những thâm nghĩa trong kinh dần dần lộ ra
những tinh túy cốt lõi của giáo lý, đó là thực tướng của tất cả sự vật, đó
là một chơn lý quan trọng để thâm nhập vào tất cả sự vật, đó là pháp lý
của giáo lý chơn lý.
Trong Hiển giáo còn có Tự lực môn và Tha lực môn:
- Tự lực môn: Là tự sức mình giải thoát lấy nghiệp lực không cần
ai giúp đở. Ví như có người tu pháp môn Thập Nhị Nhơn Duyên, rồi tự
chứng đắc quả vị Bích Chi Phật (116) đều nhận thấy các pháp môn trên tu
hành khó đặng thành đạo mau chóng, như người đi bộ ngàn dậm muốn
tới mục tiêu cũng phải mất thời gian khá lâu.
- Tha lực môn: Là có sự giúp sức của chư vị Bồ Tát, Thiên Long
bát bộ. Ví như người tu duy nhứt một pháp môn niệm Phật rất dễ hành
đạo, vì niệm Phật chính là Thỉ Giác, trì danh niệm Phật là hợp với trung
đạo, hoặc là chuyên trì một câu thần chú đà la ni, như người ngồi trên
thuyền thuận gió xuôi buồm, mau tới đích mà không mệt mõi.
2-Mật giáo: gồm tất cả các bộ đà la ni.
322 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đà la ni là mật chú của chư Phật, Phật Phật truyền tâm,
chúng sanh không thể hiểu được.
Hiền Thủ Bát Nhã Sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư
Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị. Chỉ tụng trì, không cần phải
gượng giải thích.”
Trong Thiên Thai chỉ quán nói rằng: “Bực Thượng Thánh có
thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm phu chỉ tuyên truyền Hiển giáo,
không thể tuyên truyền về Mật giáo.”
Các sư từ xưa đều nói: “Đà la ni nhơn vị Thánh hiền, không
thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu
phước đức.”
Kinh Quán Thế Am Bồ Tát bí mật tạng Thần chú nói:
“Nếu có người trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được thành
tựu, chỉ cần phải thâm tín, không được sanh nghi. Người trì chú đã có
công năng lợi lạc hửu tình, cứu thoát u linh.”
Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại
Bi Tâm đà la ni nói: “Người nào trì chú sẽ không bị mười lăm món ác
tử:
1. Không khiến người kia bị chết vì đói khát, khốn khổ.
2. Không bị chết vì cột trói, đánh đập.
3. Không bị oan gia cừu đối mà chết.
4. Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5. Không bị chết vì cọp, beo làm hại.
6. Không bị chết vì rắn, rít độc cắn.
7. Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.
8. Không bị chết vì trúng độc dược.
9. Không bị trúng độc hại chết.
10. Không bị cuồng loạn, thất niệm mà chết.
323 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
11. Không bị chết vì núi, cây, bờ, gộp sập đè.
12. Không bị người ác yểm mị mà chết.
13. Không chết vì tà thần, ác quỉ rình hại.
14. Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15. Không bị phi phản tự hại mà chết.
Tụng trì đà la ni ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay
ác, tất cả Thiên long nghe đều là pháp âm thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng:
Thí như thuốc linh đơn
Điểm sắt thành vàng báu
Tụng trì đà la ni
Biến phàm làm thánh hiền.
Kinh Bất Không Quyến Thần chú Tâm nói: “Người tụng chú
lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:
1.Khi mạng chung thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện ra
tướng tỳ kheo đến trước mặt an ủi.
2.Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống khổ.
3.Lúc sắp bỏ mạng, mắt không trợn lớn, miệng không hả
mép, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân dơ,
nước tiểu, không bị trụt rớt xuống đất.
4.Lúc lâm chung, an trụ nhớ chánh niệm, ý không loạn
tưởng.
5.Lúc chết không úp mặt.
6.Khi sắp chết được vô tận biện.
7.Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các cõi tịnh độ chư
Phật.
8.Thường cùng thiện hửu không xa rời nhau.
Kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Am thần chú nói: “Người
tụng chú được bốn món công đức:
1.Khi lâm chung được thấy chư Phật.
324 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
2.Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3.Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4.Được sanh về cõi Cực lạc thế giới.
Như vậy trong chơn ngôn bí mật thần chú gồm đầy đủ hai
món tự lực và tha lực. Vì sao? Vì mỗi mỗi chữ đều là toàn thân của chư
Phật. Thần Biến Sớ nói rằng: “Lại các môn thành Phật như mài vàng đá
lấy ngọc Như Ý, tu theo chơn ngôn thành Phật như sức thần thông lấy
ngọc Như Ý.”
Trong kinh Ngũ Bí Mật Tu Hành Nghi Quỉ nói rằng: “Kim
Cang Tát Đỏa là Phổ Hiền Bồ Tát, tức là tất cả trưởng tử của Như Lai là
tâm Bồ đề của chư Phật.”
Lại nói: “Kim Cang Tát Đỏa Tam Ma Địa, gọi là pháp của
chư Phật, pháp này hay thành đạo của các Phật. Nếu lìa pháp này không
có pháp riêng để thành Phật, Kim Cang ấy tên là Bát Nhã Ba La Mật,
hay thông đạt tất cả Phật, không ngăn, không ngại, cũng như Kim Cang
xuất sanh chư Phật.”
Lại nói: “Nếu người đối với Hiển giáo mà tu hành, phải trải
qua thời gian lâu ba đại vô số kiếp, nhiên hậu mới chứng thành Vô
thượng bồ đề, trong thời gian đó mười tiến mà chín lùi. Hoặc chứng
Thất trụ, mà vì đã tu tập phước đức trí huệ hồi hướng Thanh Văn, Duyên
Giác đạo quả, nên không thể chứng Vô thượng bồ đề.
“Còn y Tỳ Lô Giá Na Phật tự thọ dụng thân, đã nói bên trong
chứng được tự giác Thánh Trí pháp, và địa vị thọ dụng thân trí của Đại
Phổ Hiền Kim Cang Tát Đỏa, cho đến ứng thời tu tập đắc thân, trong
một đại a tăng kỳ kiếp tu tập phước đức trí huệ mới sanh vào được nhà
của Phật. Người đó từ tất cả Như Lai tâm sinh, từ miệng Phật sanh, từ
pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, đắc Phật pháp tài. Từ đây về sau thọ
được pháp rộng lớn, thâm sâu không thể nghĩ bàn, vượt lên hàng Nhị
thừa Thập địa.
325 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Vậy cho nên biết yếu chỉ của Chơn Ngôn Bí Mật Thần Chú,
còn chẳng phải chỗ hiểu biết của nhơn vị Bồ Tát, huống nữa kẻ quê mùa
phàm phu tiểu trí đâu có thể so sánh thấu rỏ ư!”
326 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ
Thứ hai mươi bảy.
“1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại chúng rằng: Về thuở
xưa cách đây vô lượng, vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp, có
đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, nước đó tên Quang Minh Trang Nghiêm,
kiếp tên Hỷ Kiến.
“Trong pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu Trang
Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một tên
Tịnh Tạng, hai tên Tịnh Nhãn.. Hai người con đó có sức thần thông
lớn, phước đức, trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát, những
là: thí ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền ba la mật, trí huệ ba la
mật, phương tiện ba la mật, từ bi, hỷ xã, nhẫn đến ba mươi bảy
phẩm trợ đạo pháp thảy đều rành rẻ suốt thấu.
“Lại đặng các pháp tam muội của Bồ Tát: Nhựt tinh tú
tam muội, Tịnh quang tam muội, Tịnh sắc tam muội, Tịnh chiếu
minh tam muội, Trường trang nghiêm tam muội, Đại oai đức tạng
tam muội, ở nơi các môn tam muội này thảy đều thấu suốt.
“2.- Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Triệu
Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh
Pháp Hoa này.
“Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ
của mẹ, chắp tay thưa mẹ rằng: “Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần
gủi, cúng dường lễ lạy”.
“Vì sao? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời người
mà nói kinh Pháp Hoa, nên phải nghe và tin nhận.
327 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Mẹ bảo con rằng: “Cha con tin theo ngoại đạo, rất ham
pháp bà la môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng
đi.”
“Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ: “Chúng con là
Pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này.”
“Mẹ bảo con rằng: “Các con nên thương tưởng cha các
con, mà vì đó hiển phép thần thông biến hóa, nếu cha con đặng thấy
lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật.”
“3.- Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư
không cao bằng bảy cây đa la, hiện các món thần biến. Ở trong hư
không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa,
dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong
hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư không ẩn
mất, bổng nhiên hiện trên đất,, vào đất như vào nước, đi trên nước
như đi trên đất, hiện các món thần biến như thế làm cho vua cha
lòng thanh tịnh tin hiểu.
“Bấy giờ cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui
mừng, đặng chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng:
“Thầy các con là ai? Con là đệ tử của ai?”
“Hai người con thưa rằng: “Đại Vương! Đức Vân Lôi Am
Tú Vương Hoa Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa dưới cây
bồ đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng trời người thế gian, rộng
nói kinh Pháp Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ tử.”
“Cha nói với con rằng: “Ta nay cũng muốn ra mắt thầy
các con, nên cùng nhau đồng đi.” Khi đó hai người con từ trong hư
không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: “Phụ vương
nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, chúng con đã vì cha làm Phật sự rồi, mong mẹ bằng
lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất gia tu hành
Phật đạo.”
328 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa
mẹ:
Mong mẹ cho các con
Xuất gia làm sa môn
Các Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật học
Như hoa Ưu đàm bát
Gặp Phật lại khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó
Mong cho con xuất gia
Mẹ liền bảo con rằng: “Cho các con xuất gia. Vì sao? Vì
Phật khó gặp vậy.”
“4.- Bấy giờ hai người con thưa cha mẹ rằng: “Lành
thay! Cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa
Trí Phật để gần gủi cúng dường. Vì sao? Vì Phật khó gặp đặng, như
hoa linh thoại, lại như rùa một mắt gặp bọng cây nổi mà chúng ta
do phước đời trước sâu dầy, sanh đời này gặp Phật Pháp, xin cha
mẹ nên cho chúng con đặng xuất gia. Vì sao? Vì các đức Phật khó
gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.”
“5.- Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có
tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp
Hoa này. Tịnh Nhãn Bồ Tát từ lâu đã thông đạt nơi “Pháp Hoa Tam
Muội”. Tịnh Tạng Bồ Tát đã từ vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp
thông đạt môn “Ly Chư Ác Thú Tam Muội”, vì muốn làm cho tất cả
chúng sanh lìa các đường dữ vậy.
“Phu nhơn của vua đặng môn “Chư Phật Tập Tam
Muội”, hay biết đặng tạng pháp bí mật của các đức Phật. Hai người
con dùng sức phương tiện, khéo hóa độ vua cha như thế, khiến cho
lòng cha tin hiểu ưa mến Phật pháp.
329 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“6.- Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng chung với
quần thần, quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhơn cùng chung với thể nữ
quyến thuộc nơi hậu cung, hai người con của vua cùng chung với
bốn muôn hai nghìn người, đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Đến rồi
đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một
phía.
“Lúc đó đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm chgo
được lợi ích vui mừng. Vua rất vui đẹp.
“Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhơn mở
chuỗi chơn châu giá trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật,
chuỗi đó ở giữa hư không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có
giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên y, trên đó có đức Phật
ngồi xếp bằng phóng hào quang sáng lớn.
“7.- Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ rằng ; Thân
Phật tốt đẹp riêng lạ ít có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhứt.
Bấy giờ, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, bảo
bốn chúng rằng: “Các người thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay
đứng trước ta đó chăng? Vị vua này ở trong pháp ta làm tỳ kheo
siêng ròng tu tập các món trợ Phật đạo pháp, sẽ đặng làm Phật hiệu
là Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.
Đức Ta La Thọ Vương Phật có vô lượng chúng Bồ Tát và
vô lượng Thanh văn, nước đó bằng thẳng, công đức như thế.”
“8.- Vua Diệu Trang Nghjiêm bèn đem nước giao cho em,
rồi cùng phu nhơn, hai người con và các quyến thuộc ở trong Phật
pháp xuất gia tu hành đạo hạnh.
“Vua xuất gia rồi, trong tám muôn bốn nghìn năm
thường siêng tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa, qua sau lúc
đây, đặng môn “Nhứt Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam
330 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
muội”. Liền bay lên hư không cao bảy cây đa la mà bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng sức
thần thông biến hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an trụ
trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri
thức (117)
của con, làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được
thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri thức của con, vì muốn
phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con, nên đến sanh vào nhà
con.”
“Lúc đó, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật bảo
vua Diệu Trang Nghiêm rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông
nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trồng cội lành thời đời
đời đặng gặp thiện tri thức, vị thiện tri thức hay làm Phật sự, chỉ
dạy cho lợi ích vui mừng, khiến vào đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác.
“Đại vương nên biết! Vị thiện tri thức đó là nhơn duyên
lớn, giáo hóa dìu dắt làm cho đặng thấy Phật, phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
“Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng. Hai
người con này đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn
ức na do tha hằng hà sa các đức Phật, gần gủi cung kính, nơi chỗ
các đức Phật thọ trì kinh Pháp Hoa, thương tưởng những chúng
sanh tà kiến làm cho trụ trong chánh kiến.
“Diệu Trang Nghiêm Vương liền từ trong hư không
xuống mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Lai rất ít có do công đức
trí huệ nên nhục kế trên đảnh sáng suốt chói rở. Mắt Phật dài rộng
mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặn mày như ngọc kha nguyệt,
răng trắng bằng và khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như
trái tần bà.
“Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô
lượng trăm nghìn muôn ức công đức như thế rồi, ở trước Như Lai
331 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chưa từng có vậy.
Pháp của Như Lai đầy đủ trọn nên bất khả tư nghì công đức vi diệu,
dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay. Con từ ngày nay chẳng còn lại tự
theo tâm hành của mình chẳng sanh những lòng ác: kiêu mạn, giận
hờn và tà kiến.
“Vua thưa lời đó rồi lại bạch Phật mà ra.
“9.- Phật bảo đại chúng: “Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu
Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa Đức Bồ Tát.
Bà Tịnh Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm
tướng Bồ Tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót
vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sanh vào trong
cung vua, nay chính là Dưọc vương Bồ Tát cùng Dược Thượng Bồ
Tát.
“Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát này thành tựu các
công đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức, các
đức Phật trồng các cội công đức, thành tựu bất khả tư nghì những
công đức lành. Nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ Tát này thời
tất cả trong đời, hàng trời, nhân dân cũng nên lễ lạy.
“Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn
Sự” này có tám muôn bốn nghìn người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở
trong các pháp chứng được pháp nhãn tịnh.”
TÍNH CÁCH CÁC NHÂN VẬT.
1.Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng quyết tâm từ bỏ thế giới hoàng kim, mà
đúng ra hai vị hoàng tử này xứng đáng được hưởng thụ, đã nói lên sự
giác ngộ của tâm thức. Hai người đã nhìn thấy tường tận cuộc sống vật
chất đấy ấp hương vị và thoả mãn này chỉ là sợi dây ràng buộc chằn chịt
332 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
những vọng niệm và tư dục. Muốn được giải thoát thời phải nhanh chân
vượt khỏi vòng dây này. Vì vậy mà hai người đã chọn cho mình sự bình
ổn tâm linh bằng cách xin cha mẹ cho xuất gia đầu Phật.
Xét về chiều sâu, hai người không phải chỉ lo cho bản thân
mình, mục đích tương hợp là phải có sự đồng ý của hai bực sanh thành.
Hai vị này thể hiện được tâm địa Bồ Tát (tự giác, giác tha). Vì sao? Hai
người biết mẹ mình yếu lòng trước oai phong của người cha, nên không
thể vì hai người con mà tự mình quyết định được. Trong khi người cha
tin vào pháp bà la môn cho nên bị ngoại đạo ràng buộc. Trong một gia
đình vương giả mà lại có hai tín ngưỡng sao? Hai người con bị thôi thúc,
dằn vật. Làm thế nào để chuyễn hóa tâm tà của người cha?
Hai người cùng tư duy để tìm ra một phương pháp chuyễn
hóa tốt nhứt mà không làm cho người cha tức giận. Làm sao cho người
cha thấy rỏ đâu là tà, đâu là chánh. Trong trường hợp này nếu người cha
tức giận lên thì mục đích cãi tạo tâm vương của cha sẽ không được
thành tựu. Hai anh em nghĩ thế rồi bèn nhảy lên hư không, dùng phép
hóa thân nhiều thứ thần biến khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh mà
tin hiểu. Hai người con làm vậy là để cho vua cha thấy rằng giáo lý của
đức Phật là giáo lý tri hành như nhất, có tu thì tức có thành tựu, có nghĩa
là người có tâm thanh tịnh tu hành đắc lực thì sẽ được chứng quả Phật.
Cả hai người con đều có dụng tâm, không thể thuyết giáo suông để
chuyễn hóa tâm tà của cha, mà phải bằng hành động.
Khi vua cha đã tỉnh ngộ rồi, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn
đưa cha mẹ đến nơi đức Vân Lôi Am Tú Vương Hoa Trí Phật đang diễn
nói kinh Pháp Hoa. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn là thiện tri thức của vua
Diệu Trang Nghiêm và bà Tịnh Đức Phu Nhơn. Hai người đã làm công
việc đại Phật sự là cãi hóa tâm tà của vua cha trở về con đường chánh
đạo
2.Vua Diệu Trang Nghiêm không phải là người độc đoán, ngoan
cố, nhất là trong vấn đề chuyễn hóa tâm tín ngưỡng. Có thể trong nưả
đời ngừơi của nhà vua tin vào pháp bà la môn, vua đã có dành thời gian
333 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nghiên cứu giáo lý nhà Phật, cho nên khi thấy hai người con hiện sức
thần thông, vua liền quyết đoán một cách nhanh chóng, chứng tỏ ông là
một ông vua tốt, một người cha hoàn hảo. Trong tâm vương của vua
nghĩ gì khi trông thấy thần lực của hai người con ở trong hư không đi,
đứng, nằm, ngồi không khác gì ở trên mặt đất, lại còn hiện thân trên ra
nước, dưới thân ra lửa, hoặc khi thì hiện thân lớn, khi thì hiện thân nhỏ,
khi thì ở trong hư không ẩn mặt, rồi bổng nhiên hiện lại trên đất v…v…
Chắc chắn là biểu lộ sự đồng tình và bắt đầu có sự thay đổi, cuối cùng là
sự chuyễn hóa hoàn tất, nét mặt vua vui mừng liền hỏi hai người con:
“Ai là thầy các con? Các con là đệ tử của ai?”
Hai người con bèn giới thiệu thầy của họ chính là đức Phật
Vân Lôi Am Tú Vương Hoa Trí đang ngồi trên pháp tòa, dưới cội cây bồ
đề bảy báu và đang giảng kinh Pháp Hoa ở giữa hội chúng Trời và
Người.
Từ đây tâm vương của vua Diệu Trang Nghiêm chuyễn hóa
thật sự, nên liền bảo các con: “Ta cũng muốn trông thấy thầy các con,
chúng ta hãy mau mau cùng đi.”
Nhà vua giao nước lại cho em cai trị, chính vua dẫn dắt vợ
con cùng thân bằng quyến thuộc trong hậu cung đến xin Phật xuất gia,
sống cuộc đời đạo hạnh.
Khi xuất gia rồi, vua tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên
Hoa và chứng đắc tam muội “Nhứt thiết tịnh công đức trang nghiêm”
Rốt sau được Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí thọ ký cho vua sẽ
đặng làm Phật hiệu là Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên
Đại Cao Vương.
3.Tịnh Đức phu nhơn là một người đàn bà hết sức hoàn hảo. Bà
tiếc rằng chồng mình là một người ngoại đạo, thường hay có những tư
tưởng lầm lạc, những hành động ngoan cố. Nhưng vì chồng bà là một
ông vua, quyền cao chức trọng, cả nước đều phục tòng mệnh lệnh của
ông, còn trong gia đình vợ con nào dám góp ý về sự tín ngưỡng của ông.
334 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Cho nên cả ba mẹ con đều cùng nhau than thở, tìm phương cách để
chuyễn hóa tâm tà của ông.
Ở đây bà có vai trò khôn ngoan, kín đáo, khéo léo, bởi vì bà
tự nghĩ chính bà là cái loa truyền đạt thông tin giữa chồng và con, và
giữa con và chồng. Bà dè dặt suy nghĩ, không dám xúi biểu con muốn
thay đổi tâm tà của cha thì cứ nói thẳng, hoặc là cứ mời cha đến tại nơi
đức Phật đang thuyết pháp mà nghe kinh. Làm vậy nhất định không ổn.
Lở ra tâm nghi của vua sẽ nổi giận lên và mọi toan tính sẽ làm đão
ngược.
Bà là một người vợ hiền, một bà mẹ gương mẩu, nhưng trong
tình thế không khuyên bảo được chồng hãy chuyễn hóa tâm vương, hãy
thay đổi tín ngưỡng, lại không có quyền quyết định cho hai con xuất gia,
cuối cùng bà than thở thử đưa ra một phương cách gở rối: “Cha các con
tin theo ngoại đạo, rất ham pháp bà la môn. Các con nên qua thưa với
cha để cùng nhau đồng đi.”
Hai người con nghe mẹ nói vậy sinh tâm bất mãn, phải thốt
ra lời: “Chúng con là pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này!”
Lúc bấy giờ, trong lòng bà có một chút nhu nhược, nhưng
chẳng lẽ để các con thốt ra lời bất hiếu, bèn cương quyết thúc giục hai
con: “Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần
thông biến hóa. Nếu cha con đặng thấy lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu
cho chúng ta qua đến chỗ Phật.”
335 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phẩm PHỔ HIỀN BỒ TÁT khuyến phát
Thứ hai mươi tám.
“1.-Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát dùng sức thần
thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng
sổ chúng đại Bồ Tát từ phương đông mà đến; các nước đi ngang qua
khắp đều rúng đông, rưới hoa sen báu, trổi vô lượng trăm nghìn
muôn ức các thứ kỹ nhạc.
“Lại cùng vô số các đại chúng: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn
thát bà, a tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn
v…v… vây quanh đều hiện sức oai đức thần thông đến cõi ta bà
trong núi Kỳ xà quật, đầu mặt lạy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi
quanh bên hửu bảy vòng bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con ở nơi
nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi ta bà
này nói kinh Pháp Hoa, nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn
muôn ức chúng Bồ Tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế
Tôn nên vì chúng con nói đó. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn sau
khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng kinh Pháp Hoa này?”
“2.-Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ
đặng kinh Pháp Hoa này:
Một là được các đức Phật hộ niệm.
Hai là trồng các cội công đức.
Ba là vào trong chánh định.
Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.
Thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn phát như thế,
sau khi Như Lai diệt độ, quyết đặng kinh này.”
336 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
BỐN PHÁP ĐẶNG KINH PHÁP HOA.
Một là được các đức Phật hộ niệm. Người thiện nam, thiện
nữ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa, không chỉ có
đức Thích Ca Mâu Ni Phật gia trì hộ niệm, mà còn có vô số chư Phật
đồng chung thủ hộ. Người đó phàm làm bất cứ việc gì cũng đặt dưới sư
giám sát của chư Phật. Vì người đó có tâm tỉnh giác, người đó giữ gìn
giới luật ba la đề mộc xoa (118)
, người đó đã tận diệt được ba chướng ác (119)
. Người đó hiểu đúng, hiểu thấu lý kinh Pháp Hoa. Người đó đã tạo
một niềm tin vững chắc, như là một chất keo làm kết dính các vật chất..
Người đó như lời đức Phật dạy: “Người thọ trì, đọc tụng,
biên chép, giải nói đúng nghĩa lý kinh mà tu hành thời chính là thấy
đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển
này. Người đó được đức Phật khen ngợi, được Phật dùng tay xoa
đầu, được Phật lấy y trùm cho. Người đó tu được hạnh Phổ Hiền.”
Hai là trồng các cội công đức. Người thiện nam, thiện nữ
thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa phải phát khởi lòng
từ thiện, vì cội công đức được ương dưỡng ngày thêm tăng trưởng tốt
đẹp nhờ thường xuyên chăm sóc thiện tâm (bón phân, tưới nước).
Tâm từ thiện tức là nuôi trồng thiện căn trong mảnh vườn địa
tâm. Cứ mỗi ngày làm một điều lành, thì thiện căn mỗi ngày mỗi thêm
tích lũy, càng làm nhiều điều lành, thì thiện căn ngày càng thêm tăng
trưởng. Người có tâm từ thiện luôn luôn gặp gở thiện tri thức, người có
tâm từ thiện thì không còn bị các món ba độc (tham, sân, si) làm não hại,
như lời đức Phật dạy: “Người đó chẳng còn ham ưa sự vui trong đời,
chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, chẳng ưa gần gủi
những kẻ ngoại đạo và kẻ ác. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng
nghĩ nhớ chơn chánh, có sức phước đức.”
337 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ba là vào trong chánh định. Người thiện nam, thiện nữ thọ
trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa, đúng như lời trong kinh
mà tu hành, tức là người đó đã hiểu và hành theo pháp thiền quán vô
ngã, tức là vô ngã tướng, không tự xem mình làm việc thiện là có sự lợi
lộc theo sau đó, hoặc làm từ thiện cho người khác chú ý đến mình, hoặc
là không muốn ai làm việc thiện chung với mình.
Người đó vào trong nhóm chánh định (làm việc thiện) (120)
là
tự tạo cho mình niềm tin mãnh liệt, như lời đức Phật dạy: “Người đó
chẳng bị ba món độc, cũng chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà
mạn, tăng thượng mạn làm não hại.”
Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh. Người thiện nam,
thiện nữ thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh điển này mà thực hành
được ba hạnh trên đây, tức là tâm đã hiển lộ Phật tánh. Vì người đó tự
giải thoát mình khỏi cảnh tam đồ khổ, thì phải phát lòng nghĩ đến giải
thoát cho người khác khỏi cảnh khổ đau. Người đó có tâm địa Bồ Tát,
người đó thiết lập được nền tảng Đại Thừa Phật Giáo, củng cố niềm tin
vững chắc vào giáo lý đại thừa, tiêu biểu là kinh Pháp Hoa. Vì giáo lý
trong kinh Pháp Hoa là giáo lý thiêng liêng nhứt của đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Cho nên khi Thế Tôn khai hội thuyết pháp kinh Diệu Pháp Liên
Hoa thì có chư Phật (dức Đa Bửu Như Lai, nhân chứng lịch sử xác minh
chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn thuyết kinh Pháp hoa), và vô số
chư đại Bồ Tát, (tiêu biểu cho trí huệ có đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát;
tiêu biểu cho đại từ đại bi có đức Di Lặc Bồ Tát, tiêu biểu cho đại hạnh
tinh tấn có đức Phổ Hiền Bồ Tát, tiêu biểu cho hiệu quả thành tựu quả
Phật nhanh nhất có đức Long Nữ Bồ Tát) và hằng hà sa số trời ngừơi và
không phải người đều đến nghe pháp.
Người thiện nam, thiện nữ tu hành đúng theo trong kinh Pháp
Hoa, người đó đã quay về với chánh định, quay về sự nguyên thủy của
con người (nhơn chi sơ tánh bổn thiện), quay về với cái ta xưa như thế
nào thì nay như thế đó (phản bổn hoàn nguyên), có nghĩa là lúc xưa
chẳng có cái gì, thì bây giờ hoàn nguyên tức là trở lại trạng thái chẳng
cái gì có.
338 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Khi tâm thấy rỏ không có cái gì sinh tồn trong cõi tam giới
này, lúc bấy giờ người đó sẽ hiển lộ tự tánh (bổn lai diện mục), coi tất cả
chúng sanh đều bình đẳng.
Kinh thuyết :
“3.- Lúc đó, ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng : “Thế
Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ kỳ
kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an
ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm làm hại, hoặc ma, hoặc con
trai của ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ xoa, hoặc La sát hoặc
Cưu bàn trà, hoặc Tỳ xá xà, hoặc Kiết Giá, hoặc Phú đơn na, hoặc
Vi đà la v.v… những kẻ làm hại người đều chẳng đặng tiện lợi.
Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cởi
tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ Tát, đều đến chỗ
người đó mà tự hiện thân ra, để cúng dường, thủ hộ, an ủi tâm
người đó, cùng để cúng dường người đó, cùng để cúng dường kinh
Pháp Hoa. Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cởi
tượng vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong
kinh Pháp Hoa co quên mất một câu, một bài kệ, con sẽ dạy đó
chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.
“Bấy giờ, người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa đặng
thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con
nên liền đặng tam muội và đà la ni tên là “Triền đà la ni”, trăm
nghìn muôn ức “Triền đà la ni”, “Pháp âm phương tiện đà la ni”,
đặng những môn đà la ni như thế.
“4.- Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm trăm trong đời
ác trược, hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, người cầu
tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập
kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng
tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cởi tượng trắng sáu
ngà, cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng
339 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi
ích vui mừng, cũng lại cho chú đà la ni.
“Đặng chú đà la ni này thời không có phi nhơn nào có thể
phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng
đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói
chú đà la ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ,
đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà
đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà
lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a
đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma
địa, già lan địa,, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà
kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.”
“ADANDE DANDAPATI DANDÀVARTANI DANDAKUSALE
DANDASUDHÀRI SUDHÀRI SUDHÀRAPATI BUDHAPA SYANE
DHÀRANI ÀVARTANI SAMVARTANI SAMGHAPARÌKSHITE
SAMGHANIR GHÀTANI DHARMAPARÌKSHTE
SARVASATTVARUTAKAU SAỲANUGATE SIMHAVIKRÌDITE.
“Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nào đặng nghe chú đà la ni này
phải biết đó là sức thần thông của Phồ Hiền.
“5.- Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong diêm phù đề, có
người thọ trì, thì nên nghĩ rằng: Đều là sức oai thần của Phổ Hiền.
“Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh, hiểu
nghĩa thú trong kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu
hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vọ biên các đức Phật, sâu trồng cội
lành, được các Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép, người
này mạng chung sẽ sanh lên trời Đao Lợi.
340 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Bấy giờ, bốn muôn tám nghìn thiên nữ trổi các kỹ nhạc
mà đến rước đó, người đó liền đội mảo bảy báu ở trong hàng thế nữ,
vui chơi khoái lạc, huống là thọ trì đọc tụng ghi nhớ chơn chánh
hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.
“Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh
này, người đó khi mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến
chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Đâu Suất,
chỗ Di Lặc Bồ Tát mà sanh vào hàng quyến thuộc trăm nghìn muôn
ức thiên nữ, đức Di Lặc Bồ Tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ
Tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên
người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc
tụng, ghi nhớ chơn chánh đúng như lời tu hành.”
Người thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chơn chánh đúng như lời
trong kinh mà tu hành, tức là người đó tu hạnh Phổ Hiền, người đó khi
mạng chung được sanh lên cõi trời Đâu Xuất, nơi trụ xứ của đức Di Lặc
Bồ Tát.
Trên đây là sức nguyện thần thông của đức Phổ Hiền Bồ Tát
về việc lưu truyền và gìn giữ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cũng như sẽ thủ
hộ cho những người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, khiến cho người đó
lòng thấy hân hoan, càng thêm tinh tấn tu hành. Trong tâm thức của
người đó như nhìn thấy có Bồ Tát Phổ Hiền cỡi tượng vương trắng sáu
ngà đi lại trong hư không, làm cho người đó chứng ngộ tam muội “triền
đà la ni”, “pháp âm phương tiện đà la ni” và trăm nghìn muôn ức đà la ni
khác. Người đặng chú đà la ni này thời không còn sợ đối nhơn hoặc phi
nhơn, hoặc người nữ làm nhiễu hại.
Đức Phỏ Hiền Bồ Tát hứa khả với Thế Tôn rằng kinh Pháp
Hoa được lưu hành trong cõi diêm phù đê đều là do sức oai thần định lực
của Phổ Hiền. Còn người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh, hiểu
nghĩa thú trong kinh để diễn giảng cho mọi người cùng nghe biết, và
đúng theo lời dạy trong kinh mà tu hành, trồng vô lượng công đức ở nơi
các đức Phật, tức là người đó tu hạnh Phổ Hiền, được các Như Lai lấy
341 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tay xoa đầu, người đó được sanh lên cõi trời Đao Lợi, có bốn mươi tám
nghìn thiên nữ trỗi kỹ nhạc đón rước. Người đó khi mạng chung không
còn sợ bị đọa lạc vào đường dữ.
Và cuối cùng, đức Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn
kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, làm cho rộng lưu bố trong Diêm
phù đề khiến chẳng dứt mất.”
“6.- Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật khen rằng:
“Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hỗ trợ kinh
này, làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu bất
khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà có thể thật hành nguyện
thần thông đó, để giữ gìn kinh này.
“Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì
danh hiệu Phổ Hiền Bồ Tát.
“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chơn
chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời
là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe
kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích Ca
Mâu Ni Phật, phải biết người đó được Phật ngài khen lành thay!
Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy tay xoa đầu.
Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy y trùm cho.
Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui sướng trong đời, chẳng
ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gủi
ngoại đạo và kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó,
hoặc thợ săn, hoặc mua bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có
lòng nghĩ nhớ chơn chánh, có sức phước đức.
342 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng
bị tánh ghen ghét, ngã man, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại.
Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.
“7.- Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm
sau nếu thấy có người nào thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ
rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma
thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chuyễn pháp luân, đánh
pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trong pháp tòa sư tử
trong đại chúng trời người.
“Phổ Hiền! Nếu ở đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh
điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm,
những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cùng ở trong hiện
đời đặng phước báo đó.
“Nếu có người khinh chê đó rằng: “Ông là người điên
cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không đặng lợi ích.” Tội báo như
thế sẽ đời đơi không mắt.
“Nếu có người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời
nay đặng quả báo hiện tại.
“Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy
của người đó, hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời
mắc bịnh bạch lại (bịnh phong cùi).
“Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa
thiếu, môi xấu, mũi xệp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ,
ghẻ dữ, máu mũ, bụng thủng hơi ngắn, bị các bịnh nặng dữ.
“Cho nên Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này
phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật.”
343 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bộ kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Phật giảng đến dây là
hết. Trong khi Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát này thì có
hằng hà sa vô lượng vô biên Bồ Tát đặng trăm nghìn muôn ức môn
“Triền đà la ni”, tam thiên đại thiên thế giới vi trần số các đại Bồ Tát đủ
đạo Phổ Hiền.
Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền v.v… các vị Bồ Tát, Xá Lợi
Phất v.v…các vị Thanh Văn và hàng trời, rồng, nhơn phi nhơn v.v…tất
cả đại chúng đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.
ĐẠI TRÍ, ĐẠI BI, ĐẠI HẠNH.
Tụng hết hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, người viết có
một nhận xét sau đây về ba vị Đại Bồ Tát đại trí Văn Thú Sư Lợi, đại bi
Di Lặc và đại hạnh Phổ Hiền.
Mở đầu phẩm TỰA thứ nhứt, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, tiêu
biểu cho trí huệ của đức Phật, trình bày trong pháp hội giảng kinh Diệu
Pháp Liên Hoa tại núi Kỳ Xà Quật (núi Linh Thứu, Linh Sơn) về sức
thần thông của đức Thế Tôn.
Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
344 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bồ Tát Văn Thù (Mânjusri)Cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi,
Tàu dịch là Diệu Thủ, Diệu Đức, Diệu Cát Tường.
Trong vô số tiền kiếp, ngài Văn Thù Sư Lợi là thầy của chư
Phật, đã từng giáo hóa các Bồ Tát thành Phật Thế Tôn, trong đó có Phật
Nhiên Đăng. Kinh Phóng Bát chép : “ Nay tôi được thành Phật đều do
ơn của Văn Thù Sư Lợi. Các vị tương lai cũng cậy sức oai thần của
Ngài. Ví như trẻ nít trong đời đều có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong
Phật đạo vậy.”
Trong kinh Pháp Hoa có chép rằng : Ngài Đại Trí Văn Thù
Sư Lợi là một vị cổ Phật, tiền kiếp của Ngài là Phật Long Chưởng
Thượng Tôn Như Lai. Hiện tại Ngài là Phật Bảo Tích Như Lai ở tại cõi
Thường Hỹ phương bắc. Ngài cũng có một thời làm sư phụ của Ngài A
Dật Đa trong kiếp quá khứ làm Diệu Quang Bồ Tát. Ngài đã độ Long
Nữ Bồ Tát thành Phật Như Lai. Còn hiện tại Ngài là đệ tử trí huệ của
Đức Phật Thích Ca. Ngài Văn Thù Sư Lợi được Phật Thích Ca thọ ký sẽ
thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như vậy trong ba đời quá khứ,
hiện tại, vị lai Ngài đều làm Phật, và hiện tại Ngài thị hiện làm bậc Đại
Trí Huệ của Phật Thích Ca.
Theo kinh Bí Hoa, Bồ Tát khi xưa là thái tử Vương Chúng,
con thứ ba của Luân vương thời đức Phật Bảo Tạng. Khi thái tử phát
hoằng thệ trước đức Phật liền được đổi tên là Văn Thù Sư Lợi và được
thọ ký về sau thành Phật hiệu Phổ Kiến ở thế giới Thanh Tịnh Vô Cấu
Bảo Chi về phương nam. Kinh Văn Thù Bát Niết Bàn nói : “Văn Thù Bồ
Tát thị hiện sanh ở nước Xá Vệ, làng Đa La, làm con của Phạm Đức Bà
la môn, Bồ Tát từ hông bên mặt của mẹ sanh ra, thân sắc tử kim, biết
nói liền lúc ấy. Lớn lên theo Phật xuất gia.”
Bai phat nguyện của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi :
345 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh an lạc sát
Ngã ký vãng sanh bỉ quốc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhất thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới.
Bồ Tát Di Lặc, (xem trang 123 Bồ Tát Di Lặc) tiêu biểu cho
lòng từ bi của đức Phật, có tên là A Dật Đa, Hán dịch là Vô Năng
Thắng, còn Di Lặc là họ, Hán dịch là Từ Thị, nơi trú xứ là cung trời Đâu
Suất, ngài được đức Thích Ca Như Lai thọ ký kế đây sẽ thành Phật hiệu
là Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, sau khi
giáo pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật triệt diệt mãn tiểu kiếp thứ
chín, qua tiểu kiếp thứ mười, ngài sẽ thị hiện thành Phật ở cõi ta bà này.
Bồ Tát Phổ Hiền, tiêu biểu cho đại hạnh của đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, là sự tinh tấn, sự thực hành của đức Phật.
Theo kinh Bí Hoa, Bồ Tát khi xưa là thái tử Văn Đồ, con thứ
tám của vua Luân Vương, thời đức Phật Bảo Tạng .(là em của thái tử
Vương Chúng, tức Ngài Văn Thù Sư Lợi) Sau khi thái tử đối trước Phật
phát đại nguyện liền được đổi tên là Phổ Hiền và được thọ ký về sau
thành Phật hiệu là Trí Cang Hầu Tự Tại Tướng Vương ở thế giới Trí
Thủy Thiện Trụ Tịnh Công Đức nơi phương bắc. Lại theo kinh Hoa
Nghiêm Bồ Tát đã là vị phụ trợ của Phật Tỳ Lô Giá Na mà còn dùng
mười đại nguyện vương khuyến dẫn hải chúng Bồ Tát trong cõi Hoa
Tạng đồng về Cực Lạc.
Kinh Hoa Nghiêm nói : “ Khi Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi
công đức thù thắng của Như Lai rồi, liền bảo các Bồ Tát và ngài Thiện
Tài rằng : “Nếu muốn thành tựu công đức ấy, phải tu mười điều hạnh
nguyện rộng lớn.”
346 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đức Phổ Hiền Bồ Tát
Chúng ta là kẻ hạ phàm há chẳng phát nguyện làm theo đó ư?
Đọc kỷ toàn bộ quyển kinh Pháp Hoa, thì sẽ thấy sự xuất
hiện của ba vị đại Bồ Tát này không phải là sự ngẫu nhiên, mà là có ý
nghĩa thẩm sâu. Như trong phẩm một, trong lúc Như Lai dùng sức thần
thông phóng một luồng hào quang từ nơi lông trắng giữa chặn mày chiếu
khắp mười tám ngàn cõi ở phương đông. Ngài Di Lặc thấy từ dưới địa
ngục A Tỳ lên đến trời Sắc Cứu Cánh, trong các thế giới đó, chúng sanh
thọ báo có tốt, có xấu trong sáu đường, lại thấy các đức Phật diễn nói
kinh điển, tiếng phạm âm thâm diệu, khiến mọi người đều ưa nghe. Ngài
Di Lặc liền hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi, vì ông pháp vương tử này đã từng
gần gủi cúng dường các đức Phật trong đời quá khứ, chắc là có thấy điều
kỳ diệu này.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã từng thấy điềm lành này,
nên nói với ngài Di Lặc và các đại sĩ: “Các thiện nam tử! Như chỗ ta
xét nghĩ thì nay đức Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn,
thổi pháp loa lớn, đánh pháp cỗ lớn, và diễn pháp nghĩa lớn.”
347 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Đến phẩm thứ mười hai, ngài Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa
sen nghìn cánh lớn như bánh xe, từ nơi cung rồng Ta kiệt La trong biển
lớn vọt lên hư không đảnh lễ hai đức Phật xong rồi luận giải đạo lý với
ngài Trí Tích Bồ Tát. Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Trí Tích: “Tôi
ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”
Ở phẩm thứ mười bốn, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch
Phật: “Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau thế nào mà có thể nói
kinh này?” Đức Phật nói có bốn pháp môn an trụ:
1. An trụ nơi hành xứ.
2. An trụ nơi thân cận xứ.
3. An trụ nơi tâm an lạc.
4. An trụ nơi tâm đại bi.
Trong khi ngài Di Lặc Bồ Tát xuất hiện ở phẩm thứ nhứt thể
hiện lòng đại bi vì bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và
của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần mà hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
”Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này.?”
Phẩm thứ mười lăm, ngài Di Lặc cùng các vị đại sĩ thấy hiện
tượng vô số Bồ Tát từ dưới đất bay lên hư không, các vị đó thân đều sắc
vàng đủ ba mươi hai tướng tốt, ngài Di Lặc một lần nữa phát tâm đại bi
thay mặt cho tám nghìn hằng hà sa các chúng Bồ Tát liền bạch Phật giải
quyết chỗ nghi của mình.
Đức Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát: “Nay ta ở trong đại
chúng này, tuyên bảo ông A Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát vô lượng
vô số a tăng kỳ từ dướt đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy
đó, chính ta ở cõi ta bà lúc đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó, điều phục tâm kia khiến phát
đạo tâm.”
Ngài Di Lặc hiểu tất cả những lời Phật dạy, nhưng trong hàng
bốn chúng số tiểu căn trí nhỏ không phải là ít, sợ những người hiểu sai,
348 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nghi lầm sẽ đọa địa ngục, nên ngài Di Lặc tiếp tục bạch Phật: “Chúng
con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng
hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, nhưng các Bồ Tát mới
phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này, hoặc chẳng tin
nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp phá chánh pháp. Kính thưa Thế
Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con và các
thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng chẳng sanh nghi.”
Vì vậy, qua phẩm thứ mười sáu, khi Thế Tôn ba lần bảo
trong đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như
Lai.” Thời đức Di Lặc Bồ Tát, đứng đầu trong đại chúng liền bạch Phật
ba lần: ”Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”
Phẩm thứ mười bảy, đức Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát: “A
Dật Đa, lúc ta nói đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu
trăm tám muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh đặng “Vô sanh
pháp nhẫn”.
Phẩm thứ mười tám, ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật: “Thế
Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp Hoa
này mà tùy hỷ đó đặng bao nhiêu phước đức?”
Phẩm thứ hai mươi tám, ngài Phổ Hiền Bồ Tát từ ở nơi nước
của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, nghe ở cõi ta bà này, đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đang thuyết kinh Pháp Hoa, nên cũng tới mà ra
mắt Phật. Ngài Phổ Hiền đưa đến vô số chư đại Bồ Tát và trời, rồng, quỉ,
thần đồng đến nghe thọ. Ngài Phổ Hiền bạch Phật: ”Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhơn sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng kinh
Pháp Hoa này?”
Phật bảo ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ
đặng kinh Pháp Hoa này:
1. Một là được các đức Phật hộ niệm.
2. Hai là trồng các cội công đức.
349 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
3. Ba là vào trong chánh định.
4. Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.”
Cho nên phải nói rằng sự xuất hiện của ba vị đại Bồ Tát này
là không phải ngẫu nhiên. Những lời bạch Phật của ba vị đại Bồ Tát này
làm cho ý nghĩa bộ kinh càng thêm thẩm sâu, càng thêm sinh động, như
lời Thế Tôn nói: “Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh.”
Đức Văn Thù Sư Lợi thể hiện cho trí huệ, vì trí huệ là thông
minh, hiểu thấu đáo mọi vấn đề một cách sáng suốt và thông đạt. Người
có trí huệ có khả năng phân biệt được tốt, xấu, đúng, sai, cho dù là trí
huệ nhơn gian, trí huệ phàm phu cũng soi rọi được lòng dạ con người ai
thẳng ngay, ai xão trá.
Người có trí huệ thấy rỏ chơn lý, biết luật nhơn quả, suy nghĩ
chơn thật. Nhưng không phải ai cũng có trí huệ hiểu biết bằng nhau, và
không phải ai cũng có trí huệ chơn thật. Phải có người ngu, kẻ trí, người
học rộng hiểu sâu, người chỉ biết qua loa nông cạn. Trong kinh Trùng
Tụng (Geya), đức Phật nói với năm thầy tỳ kheo: “Ngày xưa, ta cùng
các ông ngu si không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chơn đế đúng như
thật, nên lưu chuyễn mãi trong biển khổ sanh tử.” Đến lúc Phật nói
kinh Pháp Hoa, thời bốn chơn đế mới được đức Phật diễn giảng đúng
như thật. Trong hội chúng Pháp Hoa, đức Thế Tôn thấy căn tánh của
chúng sanh không đồng, nên Phật còn tùy phương tiện từ nhứt thừa thực
tướng phải diễn giảng làm hai, làm ba thừa.
Trong phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, đức Phật bảo ngài Phú
Lầu Na (Pùrna), một bực Thanh Văn trí huệ mà đức Phật giới thiệu trong
hội chúng như là một chuyên gia thuyết pháp, một vị siêng năng hộ trì
pháp Phật, dù mang danh Thanh Văn, nhưng thực chất bên trong là Bồ
Tát, cũng còn tùy phương tiện mà giáo hóa chúng sanh. Như bài kệ sau
đây:
Các tỳ kheo lóng nghe
Đạo của Phật tử làm
350 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì khéo học phương tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ Tát
Làm Thanh Văn Duyên Giác
Dùng vô số phương tiện
Độ các loài chúng sanh
Tự nói là Thanh Văn
Cách Phật đạo rất xa
Độ thoát vô lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ biếng lười
Sẽ khiến lần thành Phật
Trong ẩn hạnh Bồ Tát
Ngoài hiện là Thanh Văn
Ít muốn nhàm sinh tử
Thiệt tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc (121)
cho người
Lại hiện tướng tà kiến
Đệ tử ta như vậy
Phương tiện độ chúng sanh
Nếu ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúng sanh nghe đó rồi
Thời lòng sanh nghi lầm.
Nói tóm lại, người học Phật cần có trí huệ chơn thật.
Nếu chúng ta có được trí huệ chơn thật như lời đức Phật dạy,
thì phải nhìn lại những người trí huệ kém cõi hơn mình, hoặc còn ngu si
cho nên sanh tâm lầm lạc, thì chúng ta có nhiệm vụ cứu thoát họ không
đi trệch ra đường chánh đạo. Tinh thần này gọi là lòng từ bi.
351 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lòng từ bi cần phải thể hiện qua hành động. Trong kinh nói
Bồ Tát Di Lặc tu hạnh từ bi, hạnh tùy hỷ, hạnh hỷ xã. Người học Phật
nên tu theo hạnh của đức Di Lặc, thấy chúng sanh khổ, coi như chính
mình bị khổ, thấy chúng sanh vui coi như chính mình được vui. Ngài
thấy Phật tử đi chùa hay làm nhiệu việc phước thiện, nên ngài tùy hỷ mà
vui mừng theo. Do đó mà chúng ta thấy ai đi sai đường chánh đạo, thời
hãy giáo hóa đưa họ về đường ngay, nẽo chánh.
Chúng ta tu hành theo kinh Pháp Hoa. Đã có trí tuệ và lòng
từ rồi, phải rốt ráo tu hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là tĩnh giác, tinh
tấn và thực hành.
Khi mọi người trong chúng ta đã thành tựu ba món Trí tuệ,
Từ bi, Thực hành tức là đã thấu lý được những ý nghĩa thẩm sâu trong
kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
MƯỜI HAI BỘ KINH.
Lời Phật dạy: Bồ Tát Ma ha Tát phải biết Mười hai bộ kinh,
đó là:
1. Tu đa la (Sutra), tức là kinh Trường hàng, từ “Như thị ngã văn”
nhẫn đến câu “Hoan hỷ phụng hành”, tất cả như vậy gọi là Tu đa la
kinh.
2. Kỳ Da (Geya), tức kinh Trùng Tụng. Phật bảo các tỳ kheo: Ngày
xưa ta cùng các ông ngu si, không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chơn
đế đúng như thật, nên lưu chuyễn mãi trong biển khổ sinh tử. Bốn
chơn đế là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Ngày xưa, đức Phật
vì các tỳ kheo nói Khế kinh xong, lại có hàng chúng sanh căn trí
sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗ Phật hỏi mọi người rằng,
đức Như Lai vừa rồi nói những việc gì? Lúc ấy Phật vì hàng chúng
sanh ấy đem kinh vừa giảng nói thành kệ tụng:
352 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ta xưa cùng các ông
Chẳng thấy bốn chơn đế
Nên phải lưu chuyễn mãi
Trong biển khổ sanh tử
Nếu thấy được bốn đế
Thời dứt đặng sanh tử
Sanh tử đã hết rồi
Chẳng còn thọ thân nữa.
Kệ tụng trên đây gọi là Kỳ Dạ kinh.
3. Thọ Ký. Như có lúc đức Như Lai nói kinh hay luật, vì các hàng
trời hay người mà thọ ký sẽ làm Phật. Như nói: Đời sau có vua
hiệu là Nhương Khư, ông A Dật Đa sẽ ở cõi đời này thành bậc
Chánh giác hiệu là Di Lặc Phật. Đây gọi là Thọ Ký kinh.
4. Dà Đà kinh (Gatha) tức là kệ Cô Khởi, là những bài kệ bốn câu
như:
Các điều ác chớ làm
Phụng hành những điều lành
Lóng sạch tâm ý mình
Là lời dạy của Phật
5. Ưu đà na (Udana), tức là kinh Tự Thuyết. Như đức Phật lúc xế
chiều nhập thiền định, vì chư thiên giảng rộng các pháp yếu. Lúc
đó các tỳ kheo đều nghĩ rằng: Giờ đây đức Như Lai đang làm việc
gì. Sáng ngày sau đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùng tha
tâm trí mà tự nói rằng các tỳ kheo, tất cả chư thiên thọ mạng rất
dài. Lành thay! Các tỳ kheo biết vì người, chẳng cầu tư lợi, biết
thiểu dục, biết tri túc, được tịch tịnh.
Những kinh trên đây không ai hỏi, đức Phật tự nói, đó là Ưu đà na
kinh.
6. Ni đà na (Nidana), tức là kinh Nhơn Duyên. Như trong các kinh do
nhơn duyên Phật vì người khác diễn nói. Lệ như: Trong nước Xá
Vệ, có một chàng trai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt
353 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
trong lồng, cho ăn lúa, uống nước rồi lại thả đi. Đức Thế Tôn biết
nhơn duyên đó mà nói kệ rằng.
Chớ khinh tội nhỏ
Cho là không họa
Giọt nước dầu nhỏ
Lần đầy lu lớn.
7. A ba đà na (Avanada), tức là kinh Thí dụ. Lệ như đức Phật nói:
Này các tỳ kheo! Lúc ta xuất thế những điều ta dạy bảo gọi là giới
kinh. Lúc đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phật dạy gọi là Trống
Cam lồ. Lúc đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế lời Phật dạy
gọi là Pháp cảnh. Lúc đức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi
là Phân biệt không.
8. Y Đế Mục đà na (Itivrtaka), tức là kinh Bổn Sự.
9. Xà đà da (Jataka), tức là kinh Bổn Sanh. Lệ như xưa kia đức Phật
làm vị Bồ Tát tu khổ hạnh. Như Phật nói: Này các tỳ kheo! Thuở
quá khứ, ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ làm quốc
vương, làm Chuyễn luân Thánh vương, làm rồng, làm kim súy
điểu, như trên đây gọi là xà đà da kinh.
10. Tỳ Phật lược (Vaipulya), tức là kinh điển thuộc về Đại thừa
Phương Đẳng. Nghĩa lý rộng lớn dường như hư không.
11. A Phù Đà đạt ma (Adbhuta Dharma), tức là kinh Vị Tằng
Hửu. Lệ như lúc đức Bồ Tát mới sanh không ai đở dắt mà tự đi bảy
bước, phóng quang minh lớn ngó khắp mười phương. Lệ như con
vượn tay bưng bát mật dâng cúng đức Như Lai. Lệ như chó cổ
trắng đến bên Phật nghe pháp. Lệ như ma vương Ba Tuần biến
thành trâu xanh đi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm
lẫn nhau mà không nứt bể. Lệ như lúc Phật mới sanh lúc vào thiên
354 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
miếu làm cho thiên tượng đứng dậy bước xuống đảnh lễ. Những
đoạn kinh như trên đây gọi là Vị Tằng Hửu.
12. Ưu bà đề xa (Upadesa), tức là kinh Luận Nghị. Lệ như đức
Phật lúc nói kinh hoặc luận nghĩa cùng phân biệt giảng rộng biện
luận các tướng mạo, đây gọi là kinh Ưu ba đề xá.
Bồ Tát Ma ha tát nếu có thể rỏ biết mười hai bộ kinh
như vậy thời gọi là biết pháp.
Trích trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm Hạnh.
355 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
PHẦN KẾT CỦA QUYỂN BẢY.
Phẩm Diệu Am Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng
một luồng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày qua vô số
cõi nước ở phương Đông. Trong đó có một thế giới tên là Tịnh Quang
Trang Nghiêm, có Phật hiệu Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, có vị Bồ
Tát tên là Diệu Âm
Ngài Diệu Âm Bồ Tát từ lâu đã trồng vô lượng công đức, và
cúng dường gần gủi trăm nghìn muôn ức các đức Phật, nên đặng trí huệ
rất sâu và chứng đắc nhiều môn tam muội.
Bồ Tát Diệu Âm dùng thiên nhĩ nghe được ở cõi ta bà đức
Thích Ca Mâu Ni Phật đang thuyết giảng kinh Pháp Hoa, liền xin phép
đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật qua cõi ta bà để lễ lạy cúng dường đức
Thích Ca Mâu Ni Phật, và nhơn thể ra mắt ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp
vương tử, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Dõng Thí Bồ Tát,
Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Y Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương
Bồ Tát v.v…
Trước khi đi, đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo ngài
Diệu Am khi qua tới cõi ta bà chớ có sanh lòng khinh khi, vì cõi ta bà
đất đá đầy dẩy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các thân hình cùa Bồ Tát
cũng nhỏ, trong khi thân của Bồ Tát Diệu Am cao đến bốn mươi hai
ngàn do tuần.
Thế rồi, ngài Diệu Am Bồ Tát chẳng rời khỏi tòa ngồi, dùng
pháp ẩn thân qua cõi ta bà đến núi Ky xà Quật, hóa ra tám mươi bốn
ngàn hoa sen báu, vàng diêm phú đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim cang
làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.
Tức thời đức Đa Bảo Như Lai bảo Bồ Tát Diệu Am hãy hiễn
bày thân tướng, vì đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát muốn nhìn thấy.
356 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vâng lời đức Đa Bảo Như Lai, ngài Diệu Am Bồ Tát lộ
nguyên hình cùng với tám mươi bốn ngàn Bồ Tát khác cũng theo qua
cõi ta bà để được nghe đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa.
Trải qua các nước, quốc độ nào cũng chào đón tưng bừng, trăm nghìn
nhạc trời chẳng trổi tự kêu, trăm nghìn hoa sen bảy báu tung rơi cúng
dường. Đôi mắt của ngài Diệu Am Bồ Tát như cánh hoa sen xanh rộng
lớn, diện mạo khôi ngôi, tuấn tú, tốt đẹp lạ thường, thân sắc vàng ròng
vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng
chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na la diên bền chắc.
Ngài Diệu Âm Bồ Tát cùng tám mươi bốn ngàn vị Bồ Tát
đồng hỏi thăm sức khoẻ Phật Thích Ca và hỏi thăm đức Đa Bảo Như Lai
có thường đến thính giảng kinh Pháp Hoa không.
Ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật xin nói cho tỏ tường ngài
Diệu Am Bồ Tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà có sức thần
thông như thế.
Đức Thích Ca Mâu Ni liền dạy, thuở quá khứ có Phật hiệu
Vân Lôi Âm Vương ở trong quốc độ Hiện nhứt thiết thế gian, ngài Diệu
Âm đã từng ở trong mười hai ngàn năm chuyên dùng một trăm ngàn thứ
kỷ nhạc để cúng dường đức Vân Lôi Âm Phật, cùng dâng lên tám mươi
bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báo đó, nay ngài Diệu Âm
Bồ Tát thọ sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức
thần thông như thế. Ngài Diệu Âm Bồ Tát có thể hiện hình thân Phạm
Vương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân đại Tự Tại Thiên, thân
Thiên đại tướng quân, thân Tỳ Sa Môn Thiên vương, thân Chuyễn Luân
Thánh Vương, thân Tiểu Vương, thân Trưởng Giả, thân Cư Sĩ, thân Tể
Quan, thân Bà La Môn, hoặc thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà
di, thân phụ nữ tể quan, thân phụ nữ bà la môn, thân đồng nam, đồng nữ,
thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, ma hầu la dà,
nhơn và phi nhơn…
Chính nhờ ngài Diệu Âm Bồ Tát trụ trong tam muội “Hiện
nhứt thiết sắc thân” cho nên mới có sức thần thông biến hiện thiên hình
357 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
vạn trạng để cứu độ chúng sanh, từ trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh đến
các chỗ nạn cần cứu giúp, nhẫn đến trong hậu cung của vua hiện làm
thân người nữ mà nói kinh này.
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn. Bài kệ của Ngài Vô
Tận Ý Bồ Tát tán thán công đức vô lượng vô biên của ngài Quán Thế
Am Bồ Tát:
Thế Tôn đủ tướng tốt
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì?
Tên là Quán Thế Âm?
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp: Vô Tận Ý
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phán nguyện thanh tịnh lớn
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng
Hoặc ở chót Tu di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không
358 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Qúan Âm
Chẳng tổn dến mảy lông
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gảy từng đoạn
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chưn bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo ra đặng giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở lại nơi bổn nhơn
Hoặc gặp La sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuông giá xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
359 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Liền đặng tiêu tan cả
Chúng sanh bi khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không chỗ nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết khổ
Lần đều khiên dứt hết
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay tiêu tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Cải kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bực tịnh Thánh
360 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Đức Phật dạy, người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát
được tránh các nạn sau đây:
1. Vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng.
2. Dẫu nước lớn cuốn trôi cũng liền đặng chỗ cạn.
3. Ghe thuyền lở có tấp vào nơi quỷ La Sát trú ngụ, cũng liền đặng
giải thoát.
4. Có kẻ ác tâm sắp làm hại thời dao gậy liền gảy từng khúc.
5. Gặp bọn quỷ dạ xoa La sát muốn hại người, nhờ niệm danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát chúng liền lánh xa.
6. Bị gông cùm, xiềng xích trói buộc, phải liền đứt rả.
7. Thoát khỏi oán tặc.
8. Lìa xa tham dục.
9. Không còn giận hờn.
10. Thoát khỏi ngu si.
11. Người phụ nữ muốn cầu con trai, liền được sanh con trai khôi
ngô tuấn tú.
12. Như muốn cầu con gái, liền sanh con gái mắt đẹp mày xinh.
13. Nhờ thường xuyên cung kính niệm danh hiệu Quán Thế Am
Bồ Tát mà phước đức luôn tăng trưởng.
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thường đi lại trong cõi ta bà này
để tế độ chúng sanh thoát khỏi nạn khổ, ngài dùng hằng hà sa số phương
tiện để dộ sanh. Ngài dụng thần thông hóa hiện ba mươi hai ứng thân,
mười bốn điều vô úy, khi thì:
1. Hóa hiện thân Phật.
2. Hóa hiện thân Bồ Tát.
361 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
3. Hóa hiện thân Duyên Giác.
4. Hóa hiện thân Thanh Văn.
5. Khi thì thân Phạm Thiên Vương.
6. Khi thì thân Đế Thích.
7. Có lúc thị hiện thân Tự Tại Thiên.
8. Hoặc là thân Đại Tự Tại Thiên.
9. Thân Thiên đại tướng quân.
10. Thân Tỳ sa môn.
11. Thân Tiểu vương.
12. Thân Trưởng giả.
13. Thân cư sĩ.
14. Thân Tể quan.
15. Thân Bà la môn.
16. Thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di.
17. Thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn.
18. Thân đồng nam, đồng nữ.
19. Thân trời, rồng, dạ xoa, càn thác bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na
la, ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn.
20. Lại hiện thân Chấp Kim cang thần để độ sanh.
Cho nên trong cõi ta bà này, người ta gọi ngài là Thí Vô Uy.
Phật tử chúng ta mỗi khi tụng bài thần chú Đại Bi Tâm đều tưởng ngay
đến ngài Quán Thế Âm. Trong bài chú này có tất cả tám mươi bốn câu,
mỗi câu đều ẩn chứa thần lực vô biên, thể hiện lòng đại từ đại bi cứu độ
chúng sanh của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, mỗi câu đều phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, mỗi chữ đều mong ước tất cả chúng
sanh khi tụng đọc thần chú này đều được sanh về cảnh cực lạc quốc độ.
THẦN CHÚ ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI.
Bài thần chú này được đặt tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Thế Am Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La
Ni kinh. Tại sao bài thần chú lại có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Am Bồ Tát?
362 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong kinh Tĩnh Trú chép rằng có một hôm ngài Quán Thế
Am Bồ Tát đang đứng tại điện Thiên Quang Vương, lúc bấy giờ ngài
Quán Thế Am Bồ Tát còn trú ở nơi cảnh địa sơ khai, dức Thiên Quang
Vương Tịnh Trú Như Lai đặc biệt nói rỏ về kinh Qủang Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Đà la ni, Như Lai nói với ngài Quán Thế Am Bồ Tát
rằng:
“Hởi Thiện nam tử! Ngươi nên bền lòng trì tụng bài chú
này, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác
nghiệp của các kiếp sau.”
Căn cứ vào sự ghi chép trong kinh điển, lúc đó ngài Quán
Thế Am Bồ Tát sau khi nhận được bài chú này, ngài nhất tâm trì tụng và
chứng đắc từ Sơ địa, lên đến Bát địa và Bất động địa (122)
. Ngài liền phát
ra lời nguyện: “Cầu xin cho kiếp sau của tôi phổ độ, làm vui cho tất cả
chúng sanh. Nếu chúng sanh trì tụng bài chú Đại Bi này mà không
được điều cầu mong toại nguyện, thời tôi thề không lên cõi chánh
giác. Nếu điều chúng sanh cầu mong được toại ý thời cho tôi được
ngàn mắt ngàn tay.”
Ngài vừa phát nguyện xong, thời toàn thân ngài xuất hiện đủ
ngàn mắt, ngàn tay, đồng thời trong mười phương cõi nước đều chấn
động. Chư Phật mười phương đều phóng ra ánh sáng vô cùng rực rở soi
sáng khắp mười phương thế giới.
Có kinh chép, một hôm đức Phật Thích Ca Như Lai phán với
ngài A Nan Tôn Giả rằng:
“Bài chú này có rất nhiều danh xưng như ;
1. Quãng Đại Viên Mãn.
2. Vô Ngại Đại Bi.
3. Kinh cứu khổ Đà la ni.
4. Mãn Nguyện Đà la ni.
5. Diên Thọ Đà la ni.
363 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
6. Diệt ác thú Đà la ni.
7. Phá ác nghiệp chướng Đà la ni.
8. Tố siêu thượng Đà la ni.
Dầu có nhiều danh xưng khác nhau, để cho dễ nhớ, sau này
các kinh sách in ấn chép gọn lại là “Chú Đại Bi“. Xưng tên gọi như vậy
các Phật tử nào cũng biết.
Đại bi là nhờ vào lời thệ nguyện của ngài Quán Thế Am Bồ
Tát vì mong muốn tiếp độ chúng sanh thoát vòng khổ não. Đại bi là vì
lời hoằng nguyện ước mong tất cả chúng sanh trên thế gian này thoát
vòng luân hồi sanh tử. Đại bi là mong ước chúng sanh ngày nào cũng trì
tụng ít nhứt một thời, lần lần lên hai thời, ba thời, bốn thời, năm thời,
nhờ đọc tụng chú này có thể trừ diệt được trăm ngàn ức kiếp sanh tử
trọng tội. Cho nên trong bài kệ kinh Phổ Môn có câu:
Chơn quán, thanh tịnh quán, nghĩa là nhìn thấy các pháp hiển
bày sự thật vô tướng.
Trí huệ quán rộng lớn, nghĩa là nhìn thất tất cả các pháp với
trí huệ lớn của Bồ Tát.
Bi quán và từ quán, nghĩa là nhìn thấy tất cả các pháp, tất cả
chúng sanh với lòng đại từ, đại bi.
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng, tức là chiêm ngưỡng
hạnh lành của ngài Quán Thế Am trong mọi thời, mọi khắc.
Trước lúc lâm chung, co ai trì tụng được Đại Bi chú thời sẽ
được chư Phật mười phương tiếp độ, hoặc được người hộ niệm cho cũng
được chư vị Bồ Tát tiếp dẫn vào quốc độ Phật A Di Đà.
Còn hiện tiền, người nhất tâm trì tụng chú Đại Bi có thể tránh
được mười lăm loại ác tử. Như là:
364 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
1. Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.
2. Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.
3. Không bị chết vì thù oán.
4. Không bị chết nơi trận mạc.
5. Không bị chết vì sài lang, ác thú.
6. Không bị chết vì rắn, rết.
7. Không bị chết cháy hay chết đuối.
8. Không bị trúng độc vì ăn uống mà chết.
9. Không bị các loại trùng độc sát thương.
10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.
11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa hầm, sa hố mà chết.
12. Không bị người khác trấn yểm mà chết.
13. Không bì tà thần, ác quỉ làm cho chết.
14. Không bị chết vì bạo bịnh.
15. Không bị chết oan phi mệnh (Chết do tự tử).
Mỗi ngày mỗi tụng chú Đại Bi, tụng nhiều được lợi ích
nhiều, dầu tụng ít cũng đặng mười lăm loại thiện sinh, như là:
1. Nơi mình sinh ra thường gặp năm điều lành.
2. Thường sinh ở nước lành (thiện quốc).
3. Thường gặp việc tốt lành.
4. Thường gặp bạn hiền, người tốt.
5. Thân căn thường được đầy đủ
6. Đạo tâm thắng tấn, thuần thục.
7. Không phạm cấm giới.
8. Tình anh em quyến thuộc đều được hòa thuận.
9. Trọn đời cơm áo phong lưu.
10. Luôn luôn được mọi người cung kính giúp đở.
11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.
12. Mọi sở cầu đều được toại nguyện.
13. Luôn luôn được long thiên thiện thần hộ vệ.
14. Nơi mình sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.
15. Khi nghe được chính pháp là hiểu ngay được ý nghĩa thâm
sâu.
365 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chúng ta cần nhất tâm trì tụng bài chú Đại Bi, có thể trừ hết
thảy mọi tai nạn, như có nặng cũng trở thành nhẹ, như nhẹ thời sẽ lướt
qua luôn. Nhờ chuyên tâm trì tụng thần chú này khiến mọi bịnh tật trong
thân đều thuyên giàm, mọi tâm bịnh đều trở lại bình thường, mọi thiện
pháp đều được thành tựu, xa lánh mọi sợ hãi, có thể thoát được vòng
sinh tử luân hồi.
Tám mươi bốn câu thần chú Đại Bi như sau:
Câu số 1. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA.
NamoRatnatrayaya.
Giải nghĩa: Quy mệnh lễ kính thập phương vô tận tam bảo.
Câu số 2. NAM MÔ A LỊ DA.
366 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Namo Arya. Giải nghĩa: Kính lễ quy y, xa lánh những bực thánh hung dữ,
chẳng lành.
Câu số 3. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA.
Avalokiteshavaraya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Tự Tại Quán Thế Am.
Câu số 4. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA.
Bodhisattvaya. Giải nghĩa: Kính lễ tất cả các bực giác hửu tình.
Câu số 5. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA.
Maha Sattvaya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Đại dũng mãnh.
Câu số 6. MA HA CA LÔ NI CA DA.
Mahakarunikaya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Bồ Tát tự mình giác ngộ, tự mình cứu độ
chúng sanh, giác ngộ chúng sanh và tế độ chúng sanh.
Câu số 7. ÁN (ÚM).
Om. Giải nghĩa: Chính là gốc của chơn ngôn, hiểu thấu lý đến tận ngọn
nguồn của tất cả pháp môn. Những lời chú của mật tông thường
dùng đến chữ này. Chữ này bao gồm nhiều ý nghĩa như quy mạng,
cúng dường, kinh giác, nhiếp phục, pháp thân, hóa thân, ứng thân,
báo thân. Chỉ cần nhiếp phục được chữ ÚM là mọi đấng quỉ thần
đều chắp tay hộ vệ, tránh được nạn dữ. Muốn nhiếp phục chữ ÚM
một cách hiệu quả, người hành đạo phải giữ lòng thanh tịnh, đoan
chánh, tôn trọng mạng sống của tất cả loài giác hửu tình.
Câu số 8. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ.
Savalavati. Giải nghĩa: Kính lễ đức Tự Tại Thánh Tôn thân tâm thanh tịnh.
367 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Câu số 9. SỐ ĐÁT NA ĐÁT TỎA.
Sudhanatasya. Giải nghĩa: Kính lễ bốn vị Thiên vương bộ lạc quỉ thần.
Câu số 10. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A LỴ DA
Namaskrittva Niman Arya. Giải nghĩa: Quy mệnh kính lễ các bực Chân ngã thánh.
Câu số 11. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ.
Avalokiteshavaraya Lantabha. Giải nghĩa: Danh hiệu của đức Viên Mãn Báo Thân Lư Xá Na
Phật. Lăng đà bà cũng có nghĩa là hải đảo. Trong sách Tây vực ký
có viết: “Ở núi Thù Lạc Già, nơi biển Nam Hải có Thạch Thiên
Cung, nơi đó chính là nhà cửa của đức Quán Tự Tại Bồ Tát.”
Câu số 12. NAM MÔ NA RA CẪN TRÌ.
Namo Nilakantha. Giải nghĩa: Quy mệnh kính lễ đức Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô
Giá Na Phật, xin hãy thương yêu che chở người thiện tâm.
Câu số 13. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐÁ SA MẾ.
Sri Maha Patashami. Giải nghĩa: Kính lễ đức Đầu Thần Vương cùng chư vị thiên ma
làm quyến thuộc.
Câu số 14. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG.
Sarvadvatashubham. Giải nghĩa: Đức Quán Thế Am Bồ Tát cùng các bộ lạc được coi là
quyến thuộc. Do vì đức Quán Thế Am có lòng từ vô lượng vô biên
nên khuyến đạo tất cả mọi chúng sanh hãy gắng tu để đạt đến Phật
quả.
Câu số 15. A THỆ DỰNG.
368 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Ashiyum. Giải nghĩa: Đức Phi Bằng Dạ xoa Thiên Vương đi tuần khắp bốn
phương để xem xét mọi điều thị phi.
Câu số 16. TÁT BÀ TÁT ĐA NA MA BÀ TÁT ĐA NA MA BA DÀ.
Sarvasattva Namo Pasattva Namo Bhaga. Giải nghĩa: Đức Ba Gia Đế Thần Vương hình dáng đen lớn, mặc
áo da báo, tay cầm đao sắt.
Câu số 17. MA PHẠT ĐẠT ĐẬU.
Ma Bhate Tu. Giải nghĩa: Bản thân của Quân Trá Ly Bồ Tát, có ba con mắt,tay
cầm bánh xe sắt và dây. Từ câu một đến câu thứ mười bảy, đều
cùng có chung một ý nghĩa là cầu Phật thánh thần gia hộ,, mọi sở
cầu, sở nguyện của người có thiện tâm đều được thành tựu. Người
tu đạo cần phải loại trừ vọng niệm, danh lợi hư ảo, diệt trừ tận gốc
mọi tham sân si. Lấy gươm trí huệ chặt đứt mọi phiền não, kiên trì
giữ gìn ngũ giới, sống đoan chính và liêm khiết. Đức Phật dạy tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, người tu đạo chỉ có một con
đường đi tới Phật quả, đó là ý nghĩa chánh của mười bảy câu thần
chú Đại Bi.
Câu số 18. ĐÁT ĐIỆT THA.
Tadyatha.
Giải nghĩa: Lòng chí thành không bao giờ dứt đoạn. Tâm và đạo
cùng hợp nhứt.
Câu số 19. ÁN A BÀ LÔ HÊ.
Om! Avaloka. Giải nghĩa: Đức Quán Thế Am Bồ Tát tay để ở trước ngực.
Câu số 20. LÔ CA ĐẾ.
Lokate. Giải nghĩa: Đức Thế Tôn, Đức Quán Tự Tại.
369 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Câu số 21. CA RA ĐẾ.
Kalati. Giải nghĩa: Chính là vị Đế thần to lớn, sắc đen. Câu này cũng có ý
nghĩa là đạo tâm bền vững, được đại trí huệ, cứu nạn chúng sanh,
chấn hưng đạo nghiệp.
Câu số 22. DI HÊ LỊ.
Ishiri.
Giải nghĩa: Chính là đức Ma Tề Thủ La Thiên Thần lảnh thiên
binh sắc xanh trong ba mươi ba cõi trời.
Câu số 23. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA.
Mahabodhisattva. Giải nghĩa: Không có loạn tâm. Tâm đạo dũng mãnh. Từ câu số
18 đến câu số 23 biểu lộ đức Định Tuệ lưỡng túc của đức Quán
Thế Am Bồ Tát. Muôn ngàn đạo hạnh đều chất chứa ở trong thân,
cho nên Ngài đã hiện đủ ba mươi hai ứng thân để tế độ chúng sanh.
Câu số 24. TÁT BÀ TÁT BÀ.
Sabho Sabho. Giải nghĩa: Chính là Hương Tích Bồ Tát bắt binh quỉ năm phương
phải theo hầu. Còn có nghĩa là Phật, Pháp tay mắt đều có ấn báu.
Cho nên những kẻ có duyên với Tam Bảo đều có thể được hưởng
lợi lạc.
Câu số 25. MA RA MA RA.
Mara Mara. Giải nghĩa: Chính là đức Bạch y Bồ Tát tay cầm như ý tướng, ý
nói ngọc báu trong suốt, sáng tỏ, tròn trịa. Bồ Tát khuyến tu người
hành đạo nếu muốn được ngọc bảo châu, cần phải giữ gìn chân
ngôn về Như Ý Quả.
Câu số 26. MA HÊ MA HÊ RỊ ĐÀ DỰNG.
Mashi Mashi Ridhayu. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Bạch Phát Di Đà, thung
370 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
dung tự tại. Nhắc nhở người hành đạo khi tu chứng đặng Kim
Cang Pháp Thân chắc chắn sẽ được ngồi trên bảo tọa hoa sen.
Câu số 27. CU LÔ CU LÔ KIẾT MÔNG.
Guru Guru Ghamain. Giải nghĩa: Chính là đức Không Thân Bồ Tát Ap Thiên Đại
Tướng Quân lảnh hai mươi vạn ức thiên chúng. Khuyên người
phát tâm tu đạo có thể làm cảm động đến các vị thiên thần, nếu có
sự cầu nguyện họ sẽ đến trợ giúp ngay.
Câu số 28. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ PHẠT XÀ DA ĐẾ.
Dhuru Dhuru Bhashiyati. Giải nghĩa: Chính là đức Nghiêm Tuấn Bồ Tát vượt biển qua bờ
bên kia đo được việc lớn sinh tử.
Câu số 29. MA HA PHẠT XÀ DA ĐẾ.
Maha Bhashiyati. Giải nghĩa: Chính là đức Bảo Kích Thủ Nhãn Bồ Tát, câu này có
ý nghĩa là đạo pháp rực rở bao la không bờ bến. Cho nên Bồ Tát
khuyến tu tất cả chúng sanh “Đạo vốn không phải là khó tu, Phật
vốn không phải là khó tìm” mà điều khó ở đây là người tu hành
có chịu cắt đứt mọi tư dục vọng tưởng hay không.
Câu số 30. ĐÀ LA ĐÀ LA.
Dhara Dhara. Giải nghĩa: Chính là tấm thân trượng phu của Đức Quán Thế Am
Bồ Tát, là hóa thân của đức Tịnh Bình Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 31. ĐỊA RỊ NI.
Dhirini. Giải nghĩa: Chính là Sư Tử Vương, là hóa thân của đức Thiết Câu
Thủ Nhỡn Bồ Tát. Câu này có ý nói ngươi nữ cũng có Phật tính,
người nữ tu hành rốt ráo cũng đặng thành Phật. Bồ Tát nói câu
chơn ngôn này cố ý chuyên tâm tế độ phái nữ, khuyến khích phái
nữ siêng tu thì trời thần sẽ ủng hộ. Từ câu 24 đến câu 31 là có ý
371 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nói Bồ Tát Quán Thế Am là bực biện tài vô ngại, khuyến bảo mọi
người phải chăm lo hành thiện, vì như vậy mới mong đạt được
Như Ý Bảo Châu. Bơi lòng người chấp mê thái quá, nên đánh mất
cơ hội thành Phật. Bồ Tát khuyên mọi người nên tu đạo, chỉ cần
khởi tâm thiện niệm thì cát thần sẽ theo một bên hộ vệ. Người tu
đạo phải giữ lòng thuần khiết, phân biệt chánh tà, xét kỷ chân
ngụy, gạn hỏi minh sư. Phải luôn luôn tâm niệm, mọi chúng sanh
đều có Phật tánh. Đạo vốn không phải là khó tu, Phật vốn không
phải là khó tìm, mà điều khó là vì không diệt trừ hết vọng tưởng,
tư dục. Bụi trần là vật ngăn che bản tánh sáng láng của loài người,
tạp niệm khởi sinh làm cho không thấy rỏ đường chánh đạo, cho
nên mới sinh sinh tử tử nhiều kiếp luân hồi. Bố Tát đặc biệt chú ý
đến nữ giới, khuyên bảo nữ giới nên quyết tâm tu hành, Bồ Tát
luôn mở rộng vòng tay từ bi để tiếp độ nữ giới.
Câu số 32. THẤT PHẬT RA DA.
Shvaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Tích Lịch Bồ Tát cùng với quyến thuộc
hàng phục mọi loài ma quỉ.
Câu số 33. DÁ RA DÁ RA.
Jala Jala. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Tồi Toái Bồ Tát, tay cầm
bánh xe vàng, hiện tướng tức giận. Hàm ý nói rằng chúng sanh bị
mọi thứ ma ám,bị ràng rịt mọi sự cám dỗ, không thể tự giải thoát,
cho nên ngài mới hiện ra sắc tướng tức giận để tế độ chúng sanh.
Câu số 34. MẠ MẠ PHẠT MA RA.
Mahabhamara. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Hàng Ma Kim Vương cầm
bánh xe vàng.
Câu số 35. MỤC ĐẾ LỆ.
372 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Mudhili. Giải nghĩa: Là lời chơn ngôn của chư Phật. Chính là hóa thân của
đức Dương Chi Thủ Nhỡn.
Câu số 36. Y HÊ Y HÊ.
Ehy Ehy. Giải nghĩa: Chính là đức Ma Tề Thủ La Thiên Vương.
Câu số 37. THẤT NA THẤT NA.
Shina Shina. Giải nghĩa: Là bực đại trí hoằng thệ, chính là hóa thân của đức
Bảo Kính Thủ Nhỡn Bồ Tát, là có ý nói đạo tâm luôn luôn kiên
định sẽ sinh ra đại trí huệ. Lời Phật dạy: “Người tu đạo luôn luôn
trí huệ sáng suốt. Nếu lấy tâm làm thể, đạo làm dụng, tự nhiên
khí chất được thanh minh, nghĩa lý sáng tỏ. Nếu chí hướng
không bền vững, đạo tâm lúc còn lúc mất, hoặc bị chao đảo lúc
đông lúc tây, dao động bất định, không quét sạch mọi tư dục,
thời không có cách nào để ánh sáng trí huệ bản lai được xuất
hiện. Ví như một vầng trăng sáng, bị nhiều lớp mây đen che
khuất, mây vẫn là mây, trăng vẫn là trăng, cần phải đợi đến lúc
mây tan và trăng xuất hiện.”
Câu số 38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI.
Alashinbalashari.
Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát cầm bài, nõ, cung
tên, là Chuyễn Luân Pháp Vương, là Hóa Phật Thủ Nhỡn. Câu này
có ý nghĩa là nếu đã tu hành thanh tịnh pháp thân thì chắc sẽ được
ngọc bảo châu của nhà Phật.
Câu số 39. PHẠT SA PHẠT SÂM.
Basha Bashin. Giải nghĩa: Là tiếng nói vui, tiếng cười vui, là bực trượng phu, sĩ
phu, đó là hóa thân của đức Bảo Cung Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 40. PHẬT RA XÁ DA.
373 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bharashaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Phật A Di Đà, Bổn sư của
đức Quán Thế Am Bồ Tát.
Câu số 41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA.
Huluhulu Pra. Giải nghĩa: Chính là Bát Bộ Quỉ Thần Vương, là hóa thân của đức
Ngọc Hoàng Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỊ.
Huluhulu Shri. Giải nghĩa: Chính là Tứ Tý Tôn Thiên Thần Trứ Liễu Diệp Khải,
là hóa thân của đức Bảo Bát Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 43. TA RA TA R A.
Sara Sara. Giải nghĩa: Chính là Ngũ Trọc Ac Thế, là hóa thân của đức Kim
Cương Xử Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 44. TẤT RỊ TẤT RỊ.
Siri Siri. Giải nghĩa: Chính là hóa thân của đức Hợp Chưỡng Thủ Nhỡn Bồ
Tát. Ý nói đức Quán Thế Am làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh,
ngài không bỏ rơi một người nào.
Câu số 45. TÔ RÔ TÔ RÔ.
Suru Suru. Giải nghĩa: Nước cam lộ rưới xuống thế gian làm lợi ích cho
chúng sanh. Nước cam lộ lấy từ trong ao bát công đức thủy. Người
dụng công tu hành phải làm sao đạt tới mức làm cho nước trong ao
bát công đức thủy có thể lên xuống theo ý muốn. Lại có ý nói rằng
người tu hành dùng nước cam lộ để thấm nhuần tâm đạo, tưới khắp
muôn loài, thời hết thảy mọi sự đói khát, nóng nảy, khổ não đều
được trong mát, an vui, hạnh phúc.
374 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Câu số 46. BỒ ĐỀ DẠ BỒ ĐỀ DẠ.
Budhaya Budhaya. Giải nghĩa: Ý nói đức Quán Thế Am Bồ Tát có nhân duyên với
chúng sanh, ngài thường hóa thân làm đức Bất Khoái Kim Luân
Thủ Nhỡn Bồ Tát để giáo đạo cho chúng sanh.
Câu số 47. -BỒ ĐÀ DẠ BỒ ĐÀ DẠ.
Bodhaya Bodhaya.
Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức A Nan, là bực trí giả, bực
giác giả, là hóa thân của đức Đinh Thượng Hóa Phật Thủ Nhỡn Bồ
Tát.
Câu số 48. DI ĐẾ RỊ DẠ.
Maitriye. Giải nghĩa: Chính là đức Đại Xa Bồ Tát, tay cầm kim đao, thể
hiện lòng đại từ, đại bi, là hóa thân của đức Tích Trượng Thủ
Nhỡn Bồ Tát. Khuyên người tu đạo nên phát khởi lòng từ bi, vì có
cầu tắc ứng, nhất tâm tắc chứng.
Câu số 49. NA RA CẪN TRÌ.
Nilakansta. Giải nghĩa: Chính là nói đức Long Thọ Bồ Tát tay cầm kiếm báu,
là bực hiền giả luôn bảo vệ che chở chúng sanh, là hóa thân của
đức Bao Đính Thũ Nhỡn Bồ Tát. Là có ý nói người tu đạo khi thấy
bực hiền giả nên bảo hộ kẻ đó.
Câu số 50. ĐỊA RỊ SẮC NI NA.
TrisaRana. Giải nghĩa: chính là đức Bảo Lung Bồ Tát, tay cầm thiết xoa, là
hóa thân của đức Bảo Kiếm Thủ Nhỡn Bồ Tát. Từ câu số 32 đến
câu số 50 là có ý nói, đức Quán Thế Am Bồ Tát phóng ra ánh sáng
và hóa diệm quang khiến mọi chúng sanh đều thấy chung quanh
mình hào quang rực rở, là Bồ Tát có ý tuyên dương Pháp Phật
nhiệm mầu, huyền diệu khiến cho mọi người quyết tâm tu đạo thời
sẽ đặng Phật quả. Muốn không xa rời chánh đạo thì thường nghe
375 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
chính pháp, có nghe chính pháp thì mới nhận rỏ được thực hư, có
biết được thực hư thì mới phá tan mọi cám dỗ, phiền não, như vậy
con người mói tự giải thoát được bản thân. Tâm tướng của Bồ Tát
là tâm đại từ đại bi, mong muốn cứu vớt chúng sanh lìa xa đường
khổ, muốn hết thảy chúng sanh được sanh ra đều ở nơi cung điện
nhà Phật, nhưng tiếc thay! Lòng người ham chuộng hư danh hám
lợi, nên mãi mãi chìm nổi trong kiếp hồng trần. Nếu con người
buông bỏ mọi thứ vọng tưởng kia, nhắm mắt mà niệm chơn ngôn,
giữ lòng trong sạch thì sợ gì phiền não không trừ, hư vọng không
đoạn. Vì chơn ngôn của Bồ Tát chỉ cho mọi người thầy rỏ đâu là
chánh kiến, đâu là tà mị. Chơn ngôn làm lợi ích cho quyến thuộc
hửu tình, chơn ngôn là cam lộ thủy rưới tắt lửa dục tình, gội sạch
danh tài sắc. Chơn ngôn của Bồ Tát làm sáng tỏ chân lý của đạo
Phật. Bởi vì đức Phật có dạy “Người tu đạo chuyên chính đặng
sinh ra trí huệ sáng suốt”.
Chơn ngôn của Bồ Tát là khuyến tu mọi người nên phát
tâm bồ đề, vì có tâm bồ đề mới thấy pháp huyền diệu, thấy mọi sắc
tướng đều là không. Khi mọi sắc tướng đều không có gì cả, chỉ còn
lại một đạo tâm, tâm đó đi lại mười phương vào điện chư Phật và
thấy được mặt Phật. Có nghĩa là khi đã tu đắc đạo thời sẽ có thần
thông quảng đại, hiện thần biến tướng, ứng hóa vô cùng. Muốn tu
chứng được như vậy trước nhứt phải coi cõi trần này là mộng ảo,
sắc thân này là hư cấu, vật chất chỉ là cõi tạm, nhờ vậy tâm mới
định, thần sẻ sảng khoái, tự nhiên thấy trời, người, a tu la đều tùy
hỷ, rồng, rắn, sư tử đều cung kính ái mộ.
Cho nên Bồ Tát mới chỉ bảo người tu đạo phải tu hành
làm sao đạt đến mức điều khiển được nước trong ao bát công đức
thủy có thể lên xuống tùy theo ý muốn. Tâm lực phải tinh tấn,
không được thoái lui, vì một bước lui là tự mình rơi xuống nghìn
dặm. Người tu đạo phải khởi tâm Bồ Tát, tự mình cứu mình rồi
quay lại cứu người, đó mới chính là tinh thần đại thừa của Phật
Giáo.
Câu số 51. BA DẠ MA NA.
376 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Bhaya Mane. Giải nghĩa: chính là đức Bảo Kim Quang Luân Bồ Tát, lại có
nghĩa là danh xưng rất hoan hỷ, thành tựu viên mãn.
Câu số 52. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: chính là đức Tam Đầu Thiện Thánh Già Phu Ngãi
Long. Câu ta bà ha thường dùng khi kết thúc lời chơn ngôn, gồm
có sáu nghĩa: thành tựu, điềm lành, sự viên tịch, tiêu tai, tăng ích
và vô trú. Ta bà ha cũng có nghĩa là hết thảy các pháp là bất sinh
bất diệt, rất tịch tỉnh, có tính niết bàn.
Câu số 53. TẤT ĐÀ DẠ.
Sitaya. Giải nghĩa: Chính là ngài Xá Lợi Phất Bồ Tát, tay giữ ấn hoa sen
cai quản hết thảy pháp môn.
Câu số 54. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Câu ta bà ha này đi liền với câu số 53 là có ý chỉ hằng
hà sa số Bồ Tát đứng cao vút trên đầu cá ngao, ý nói pháp hải vô
biên. Mỗi câu chữ ta bà ha từ câu số 54 đến cuối đều có ý nghĩa
riêng.
Câu số 55. MA HA TẤT ĐÀ DẠ.
Maha Sitaya. Giải nghĩa: Chính là đức Phong Quang Bồ Tát, tay cầm phướng
đỏ.
Câu số 56. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: chính là đức Mục Kiền Liên Bồ Tát, tay cầm tích
trượng, mặc áo cà sa.
Câu số 57. TẤT ĐÀ DỦ NGHỆ.
377 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Sitayaye. Giải nghĩa: chính là chư Thiên Bồ Tát tay cầm kim đao bày trận.
Câu số 58. THẤT BÀN RA DẠ.
Shvaraya. Giải nghĩa: chính là đức A Di Đà Phật và đức Quán Thế Am Bồ
Tát An Tức Hương. Câu này ý nói là chư thiên thần nữ đếu có thể
thành đạo quả.
Câu số 59. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: chính là đức A Đổ Na Bồ Tát Cao Kình Vu Bát, là hóa
thân của đức Bảo Khiếp Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 60. NA RA CẪN TRÌ.
Nilakanthi. Giải nghĩa: chính là đức Hải Huệ Bồ Tát, tay cầm kiếm vàng, là
câu chơn ngôn nhiệm mầu chuyên về pháp đại thừa, có tác dụng
ngăn ngừa các bậc hiền giả đi lầm vào phái tiểu thừa.
Câu số 61. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Nhiễm Đà Bồ Tát, gậy vác trên vai có
móc một chiếc nón.
Câu số 62. MA RA NA RA.
Pranila. Giải nghĩa: Chính là đức Bảo An Vương Bồ Tát. Có ý nói người
quyết tâm tu đạo vượt ra khỏi vòng phiền não là một thử thách phi
thường.
Câu số 63. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Câu Hy La Bồ Tát, chân mang hài cỏ mà
vẫn vượt được sóng cao bể cả. Có ý nhắc nhở người tu hành phải
378 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
luôn luôn làm sáng đạo pháp, bằng cách tự giác ngộ, không giả dối
cầu cạnh bên ngoài, không ngại sự phiền hà quấy nhiễu.
Câu số 64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHƯ DA.
Shrisimhamukhaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu
các chứng bịnh, là hóa thân của đức Việt Phủ Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu chơn ngôn này là ý nói Bồ Tát thấy chúng sanh chìm trong bể
khổ, muốn tự thoát ra cũng không biết phải làm cách nào, cho nên
ngài bèn hiện thân Dược Vương Bồ Tát để ban cho chúng sanh
thuốc trị bịnh nhiệm mầu, đó là các chúng binh bàng môn tà đạo.
Câu số 65. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Viên Mãn Bồ Tát. Câu này bổ túc cho
câu chơn ngôn trên, ý nói Bồ Tát thấy rỏ căn nguyên bịnh lý của
chúng sanh đều do nghiệp tác tạo, bịnh khởi phát do thất tình lục
dục, do giặc tà bên ngoài xăm nhập vào trong, cho nên Bồ Tát phát
đại từ tâm nguyện cứu hết khổ chúng sanh bằng cách cho mọi
người thấy rỏ sắc thân mà tu hành.
Câu số 66. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ.
Sarvamahasastaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu
bịnh cho chúng sanh. Ý nói người tu hành cần có sự nhẫn nại, cũng
như người bịnh phải uống thuốc nhiều lần mới hết.
Câu số 67. TA BÀ HA.
Svaha.
Giải nghĩa: Chính là Xá Lợi Phất Bồ Tát, lưng đeo chân kính ngọc
trần phong, là hóa thân của đức Bồ Đào Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ĐÀ DẠ.
Chakra Astaya. Giải nghĩa: Chính là đức Hổ Hàm Thần Tướng, tay cầm búa. Có ý
379 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
nói lấy Kim Cương Pháp Luân để hàng phục oán ma và được sự
thành tựu không gì so sánh được.
Câu số 69. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là Thiên Ma Vương, tay cầm xà thương.
Câu số 70. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ.
Padmakesshaya. Giải nghĩa: Chính là đức Linh Hương Bồ Tát, tay bưng lò Như ý,
là hóa thân của đức Hồng Liên Hoa Thủ Nhỡn Bồ Tát.
Câu số 71. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Tán Hoa Thiên Bồ Tát thiên diệp bảo
liên.
Câu số 72. NA RA CẪN TRÌ BÀN ĐÀ RA DẠ.
Nilakantepantalaya. Giải nghĩa: Chính là đức Phú Lâu Na Bồ Tát, tay bưng chậu, là
hóa thân của đức Thí Vô Uy Thủ Nhỡn Bồ Tát. Ngài Quán Thế
Am thường ban sự vô úy, cho nên người đời thường gọi là là Thí
Vô Uy, trừ khử hết thảy mọi sự sợ hãi, khiến mọi người được bình
ổn an vui.
Câu số 73. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Đà La Ni Tử Bồ Tát, tay bưng quả.
Câu số 74. MA BÀ RỊ THẮNG YẾT RA DẠ.
Mopholishankaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Tam Ma Thiền La Bồ Tát Già Phu Luân
Chưởng Bảo Đăng, là hóa thân của đức Thiên Tý Thủ Nhỡn Thiên
Thủ Thiên Nhỡn Bồ Tát. Câu này có nghĩa người tu hành phải kiên
tâm đại dũng thời việc tu hành trước sau gì cũng thành tựu ngôi
380 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật quả. Rỏ ràng ngài Quán Thế Am hiện ra pháp tướng nghìn
mắt nghìn tay để soi sáng hết thảy pháp giới, nếu không quyết tâm
tu hành chẳng phải là phụ lòng đại từ bi của Bồ Tát hay sao?
Câu số 75. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Đại Ca Diếp Bồ Tát tay cầm niệm châu.
Câu số 76. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA.
Namo Ratnatrayaya. Giải nghĩa: Chính là đức Hư Không Bồ Tát ngồi trên phiến đá hái
hoa. Câu này có ý nghĩa là tu đạo phải đi đúng con đường chánh
đạo, tu đạo là đi theo con đường tắt để tự cứu khỏi ngục cảnh luân
hồi. Câu chơn ngôn này minh định cho mọi người thấy rằng muốn
tu hành đạt kết quả phải tự mình hàng phục thân tâm, gìn giữ lòng
không để bị buông thả, chuyên tâm thiền định.
Câu số 77. NAM MÔ A LỊ DA.
Namo Arya. Giải nghĩa: Chính là hương tượng của đức Phổ Hiền Bồ Tát đang
ngồi trên tọa bát bảo. Đến đây Bồ Tát muốn cho mọi người phải
thành khẩn trì tụng bài chú.
Câu số 78. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ.
Avalokite. Giải nghĩa: Chính là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang chỉ một
ngón tay lên trời. Hàm ý nói rằng đạo pháp vô cùng huyền diệu,
nếu tu được thời từ chỗ thanh tịnh có thể tới nơi cực lạc.
Câu số 79. THƯỚC BÀN RA DẠ.
Shavaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát giải nhãn căn thiên
diệp kim liên. Câu này có y nói là người tu đạo phải đóng chặt sáu
cửa, diệt trừ nhãn căn để tránh điều sắc lụy, vì mắt là sự trở ngại
381 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
lớn, mắt nhiếp thọ mọi cảnh hửu tình khiến cho tâm động, nên Bồ
Tát nhất thiết bảo phải diệt trừ nhãn căn mới tầm ra diệu cảnh.
Câu số 80. TA BÀ HA.
Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát lắng tai phân biệt
tiếng vàng rơi trên cánh tay. Nhĩ căn cũng là một trở ngại không
nhỏ, nếu nhĩ căn không thanh tịnh thời không thể nào nhiếp thọ
được pháp huyền diệu, không nghe được chánh pháp thời sao tu
chứng thành Phật quả được?
Câu số 81. ÁN TẤT ĐIỆN ĐÔ.
Om! Siddhyantu. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát đang xoè để giải
mọi mùi vị thuộc mũi.
Câu số 82. MẠN ĐÀ RA.
Mantra. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát, đưa lưỡi tay cầm
quyết Đâu La Miên Thủ, ý nói khuyên người tu đạo nên giải trừ
thiệt căn.
Câu số 83. BẠT ĐÀ DẠ.
Pataya.
Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát đang giải mọi xúc
giác tiếp nhận tâm căn ở trong người..
Câu số 84. TA BÀ HA.
Svaha. Chính là mọi phép tắc của đức Quán Thế Am phân biệt giải ý căn.
Câu ta bà ha này có ý nghĩa là kết thúc, tức là chơn ngôn đã nói
đến đây là chấm dứt, là hoàn tất, mọi người đều nên luôn luôn tụng
niệm. Nếu tụng chơn ngôn chí tâm thời mọi người không còn sợ gì
sáu cửa (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) làm quấy nhiễu tâm trong
sáng, thanh tịnh.
382 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tóm tắt từ câu số 51 đến câu số 84, Bồ Tát luôn hiển hóa mọi
pháp tướng vân du khắp mười phương không ngại gian khổ chỉ mong
cứu độ chúng sanh thoát vòng khổ lụy, phiền não, chỉ cho người đời thấy
rỏ diệu pháp để mà tu hành đúng đường chánh đạo.
Bồ Tát khuyên người đời chớ có vọng cầu mê chấp, chớ có
lộng giả thành chơn, vì danh lợi, tài sắc giết chết con người không đau
đớn như gươm đao. Gưom đao chỉ làm đau đớn xác thịt, còn tài sắc danh
lợi khiến cho tâm can sinh ra nhiều thứ bịnh không thể trị liệu được.
Nay có Bồ Tát mở rộng lòng đại từ đại bi khuyến tu mọi
người hãy mau tỉnh ngộ mà theo chân Phật Tổ, nên lấy chân ngã mà tu,
nên chọn đường bát chánh mà tu, có như vậy thời chư thiện thần mới
thường hộ vệ. Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát còn hiện ra thân người nữ là
để nhắc nhở người nữ hảy cố gắng tu hiền (hiếu với mẹ cha, thương yêu
con cháu trong nhà, hòa thuận với láng giềng hàng xóm, cung kính
người trưởng thượng, một lòng giữ tâm trong sáng) thời người nữ cũng
được thần minh gia hộ.
Mọi người hãy hướng về pháp đại thừa, pháp môn huyền
diệu tái độ chúng sanh, chớ bước sai lầm vào bàng môn tả đạo. Nếu thấy
có người tu theo phái tiểu thừa hãy khuyên lơn nhắc nhở họ sớm giác
ngộ để quay về với đại thừa mà thành tựu Phật quả. Nhớ xưa kia Phật Tổ
giáng trần cũng vì độ chúng sanh mà nói pháp ba thừa, nhưng thực thì
chỉ có một thừa pháp, tức là đại thừa pháp môn, hay là nhứt thừa thực
tướng dẫn dắt chúng sanh vào con đường Phật quả.
Bồ Tát cũng hiện ra thân Dược Vương để ban cho chúng
sanh phương thuốc thần diệu điều trị muôn nghìn chứng bịnh khó trị. Vì
Bồ Tát phát hiện con người sở dĩ mắc bịnh đều do vọng tưởng mà ra.
Trong lòng mang nhiều phiền não, cang khí không được sung mãn, vì
thế mà tóc khô, gan yếu truyền khắp ngủ tạng và đi tới cõi chết. Khi các
vọng tưởng manh động thời tức mọi bịnh tật phát sinh. Dù cho có những
bậc danh y chuyên trị thân bịnh cũng không bằng các bậc thánh trị tâm
383 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
bịnh. Vì lẽ đó mà hết thảy ma chướng đều bị tiêu diệt.Mọi thứ ma
chướng do tâm tạo, tâm sinh, nếu tâm diệt thời tất cả cũng diệt theo. Vì
vậy những người tu đạo, không những diệt tan hết mọi oan nghiệt do ma
chướng sinh ra, lại còn có thể giữ tâm thung dung tự tại, an ổn thanh tịnh
như cõi cực lạc. Nếu đem so sánh với những kẻ bị thanh sắc của cải, phú
quí lôi cuốn thì những kẻ đó không thể nào nhàn rổi được. Vì sao? Như
có kẻ dành hết tai mắt tâm tư để tính toán lợi lộc cho vợ con nào là nhà
cửa đẹp đẻ, ruộng lắm vườn nhiều thời lòng tham vẫn thấy chưa đủ, do
đó mà trong lòng không một chút an nhàn, tâm thần không một ngày yên
ổn.
Cuối cùng nên sớm trì tụng bài chú này, cầu ân Phật ban cho
thần dược trị liệu tâm bịnh, diệt trừ vọng tưởng, thanh tịnh lục căn,
thành tựu đạo quả.
Phẩm Đà la ni. Chú Đà la ni biểu hiện một năng lực bí mật,
thần thông chỉ có chư Phật với chư Phật mới hiếu thấu đáo tận tường, ý
chỉ là ngưng dứt mọi điều ác, khuyến khích mọi điều lành, là thần dược
trị bá bịnh, nhứt là tâm bịnh.
Đà la ni là Phạn ngữ, Hán dịch là tổng trì, nghĩa là giữ gìn tất
cả mọi thiện duyên, thâu hoạch tất cả những pháp lành, bảo vệ kiên cố
nguồn chủng tử tốt, là bền tâm, vững chí trước mọi thử thách của kiếp
sống.
Kinh chú đà la ni rất nhiều, năng lực vô biên, diệt trừ mọi
phiền não do thân tâm sinh ra. Người thường tụng thần chú hay tăng
trưởng phước huệ. Người thường tụng thần chú, lửa dâm sẽ tiêu trừ, tà
tâm không còn bám víu. Người thường tụng thần chú, quỉ thần cũng
khiếp đảm. Vì vậy mà trong kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Người đọc
tụng thần chú đà la ni, dù tự thân không làm nên phước nghiệp, mà
mười phương Như Lai đã có công đức, tất phải ban phước cho người
này.”
384 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong kinh Trì Cú Thần Chú có nói: “Chú đà la ni khiến cây
khô trở lại sinh hoa trái, huống chi là các bịnh hửu tình thế gian mà
không trừ diệt được hay sao?’
Trong kinh Bạch Tán Cái Đà la ni đức Thế Tôn phán: “Nếu
có túc tập tham tâm không trừ diệt, thì phải một lòng tụng thần chú
của ta. Như cô Ma Đăng Già đã cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái,
đem chú lực của ta ra mà tụng làm cho ái tâm vĩnh đoạn, trở thành A
La Hán. Còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi thần chú
thấm vào cũng mau chứng bực vô học (123)
.”
Trong sách Liệt Tử có viết: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm,
chính nhầm mùa xuân mà gảy dây Thương (124)
để đàn khúc Nam, gió
mát thổi đến, cây cỏ thành trái. Chánh mùa thu mà gảy dây Giác (125)
,
đánh khúc Giáp Chung có gió mát trở lại, cây cỏ phát sum suê. Đương
mùa Hạ mà gảy dây Vũ (126)
để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi
xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. Mùa Đông mà gảy dây
Chủy(127)
, đánh khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng
cứng bị tiêu tan.”
Trên đây chỉ là cái thuật gảy đàn của thế gian mà còn biến
mùa Thu làm Xuân, mùa Đông làm Hạ, huống chi thần chú của đức Như
Lai lại càng không thể nghĩ bàn. Và thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại
không biến cãi con đường ác khổ để được an vui ở nước Phật sao?
Bài đọc thêm
Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú.
NAM MÔ TÁT ĐA NẨM TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU
CHI NẨM ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN! CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ,
TA BÀ HA.
385 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Công năng của thần chú này là diệt tất cả tội nặng như tội
ngũ nghịch, tội thập ác, thành tựu tất cả các pháp, trì giới đầy đủ, thanh
tịnh mau chứng bồ đề.
Như người tại gia chưa dứt đoạn tình nghĩa vợ con, chỉ cần
kiên tâm trì tụng chơn ngôn này cũng sẽ được thành tựu.
Phật dạy: muốn trì chú này phải tối ngày rằm, tắm rửa sạch
sẻ, mặc y phục mới, mặt hướng về đông phương, ngồi kiết bán già,
thân thật ngay thẳng, để kính đàn (kính soi mặt còn mới chưa dùng)
trước mặt, tùy sức có` các vật hương hoa, tịnh thủy. Trong lòng phải
tuyệt dứt tư duy, giữ tâm thanh tịnh, sau đó kiết ấn để ngang ngực,
tụng chú này một trăm lẻ tám biến. Tụng chú này khiến chúng sanh
thọ mạng ngắn ngủi, trở lại được tăng tuổi thọ.
Phật dạy: Người một lòng tuyệt dứt tạp niệm, tụng mãn hai
mươi vạn biến, bốn mươi vạn biến, sáu mươi vạn biến, cầu những
pháp thế gian hay xuất thế gian đều được vừa lòng toại ý.
Phật dạy: Người ở tại gia, bình thường mỗi buổi sáng là
thời chưa ăn ngủ tân và đồ huyết nhục, dùng nước tịnh thủy súc
miệng sạch sẻ, mặt hướng về phương đông đối kính đàn kiết ấn, tụng
thần chú một trăm lẻ tám biến, cứ thường nhựt như vậy cho mãn bốn
mươi chín ngày không dứt. Sẽ có việc lành tốt đẹp, đức Chuẩn Đề Bồ
Tát khiến hai vị Thánh thường theo người ấy, tâm người ấy mong
muốn điều chi, đều ở bên tai mách nói đầy đủ.
Phật dạy: Người mang nhiều bịnh tật trong thân, tối ngày
rằm của mổi tháng, xông an tức hương, kiết ấn tụng chú một trăm lẻ
tám biến, những loài ma quỉ thất tâm, loài dã hồ ác bịnh, đều hiện
bổn thân nơi trong kính đàn, giết hay tha tùy ý, không dám tái đến,
tăng thọ vô lượng.
Phật dạy: Người muốn ra làm việc chi, trước nên nghĩ
tưởng thánh tượng Chuẩn Đề, thân ngồi ngay thẳng, chánh niệm chú
386 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
này mãn đủ bảy biến, trong chừng giây lát, thân ấy tự nhiên lay động,
tức biết công việc mình ra làm sẽ thành tựu tốt. Nếu thân cứng đơ ngả
trước hướng sau, tức biết không thành chắc có tai nạn.
Phật dạy: Muốn biết pháp này thành hay không thành.
Phải y pháp tụng chú đủ bảy ngày, liền trong chiêm bao mộng thấy
Phật và Bồ Tát ban cho hoa trái, miệng mửa ra vật đen, sau lại ăn vật
trắng, tức biết thành tựu.
Phật dạy: Đà la ni này rất có thế lực lớn, chí tâm tụng trì
quyết phải tự chứng. Có công năng khiến cây khô phát sanh hoa trái,
huống gì những quả báo ở thế gian. Nếu thường trì tụng thì thủy hỏa,
đao binh, oan gia, độc dược đều không thể hại. Nếu người bị quỉ thần
làm bịnh chết, kiết ấn tụng chú này bảy biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực
đều khiến sống trở lại. Gia đình, nhà cửa ở không yên bị quỉ thần gây
họa, trì chú, chú vào bốn hòn đất đem trấn bốn phía thì liền bỏ đi.
Phật dạy: Nếu người trong lục thân không hòa, không nghĩ
tình thương nhau, nên y pháp tụng chú hướng về lục thân thì được
hòa hợp, nghe tên thấy thân đều được hoan hỷ. Phàm cầu việc gì cũng
vừa lòng toại tâm. Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh,
y pháp tụng trì, thì nhứt định chuyễn thân này tức chứng bồ đề, có
được đại công lực.
Kính đàn pháp này không được cho người thấy, nếu thấy thì
không tốt, mất linh nghiệm. Pháp này cần giữ bí mật, không được tuyên
nói, hãy tự mình chứng biết.
Đời Đường, ngài Thiện Vô Uy
phụng chiếu dịch Độc Bộ Biệt Hành.
Dịch giả Tỳ khưu Thích Viên Đức.
Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự. Đức Phật kể
cho hàng tứ chúng nghe một câu chuyện tiền thân cách đây vô lượng vô
biên bất khả tư nghì kiếp có liên quan đến chư vị Bồ Tát hiện đang đứng
387 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
trước mặt Thế Tôn, đó là các ngài Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng
Bồ Tát, Hoa Đức Bồ Tát và Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát.
Câu chuyện nói về vua Diệu Trang Nghiêm, người theo đạo
bà la môn, Tịnh Đức phu nhơn, và hai người con trai là Tịnh Tạng và
Tịnh Nhãn, ở tại nước Quang Minh Trang Nghiêm, vào thời đức Vân
Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng cúng. Hai người con tu Phật
nên chứng đắc thần thông lớn, phước đức trí huệ. Tịnh Đức phu nhơn
cũng tin theo hai con, chỉ có điều vua Diệu Trang Nghiêm tâm còn tà
kiến ngoại đạo, sau nhờ hai người con thuyết phục hiển bày thần thông
cho vua cha thấy để tin theo. Hai người con bèn đưa cha mẹ đến chổ
pháp hội, nơi đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đang giảng kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Hai người con sau khi làm cho vua cha chịu tin theo Phật rồi
bèn xin xuất gia tu hành Phật đạo. Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cùng
chung với quần thần quyến thuộc, bà Tịnh Đức phu nhơn cùng chung
với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung đi đến chỗ Phật xin xuất gia.
Sau đó đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí liền thọ ký
cho vua Diệu Trang Nghiêm đặng làm Phật hiệu Ta La Thọ Vương,
nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.
Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng
trăm nghìn muôn ức công đức do trí huệ nên nhục kế trên đảnh sáng
suốt, chói rở. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc. Tướng lông trắng
chặn mày như ngọc kha nguyệt. Răng trắng, bằng và khít thường có ánh
sáng. Môi sắc đỏ, đẹp như trái tần bà.
Sau cùng đức Thế Tôn mới tuyên nói cho trong đại chúng rỏ:
Vua Diệu Trang Nghiêm nay chính là Hoa Đức Bồ Tát.
Tịnh Đức phu nhơn nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm
Tướng Bồ Tát.
388 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tịnh Tạng nay chính là Dược Vương Bồ Tát.
Tịnh Nhãn nay chính là Dược Thượng Bồ Tát.
Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát. Kinh Pháp Hoa mở
đầu bằng phẩm TỰA thứ nhứt, trong đó Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi giải
thích cho ngài Di Lặc Bồ Tát và hàng đại chúng hiểu về các sự việc hiện
thần biến tướng của Như Lai và kết thúc bằng phẩm Phổ Hiền Bồ Tát
khuyến phát thứ hai mươi tám.
Nếu đức Văn Thù Sư Lợi biểu trưng cho trí tuệ, thì ngài Phổ
Hiền Bồ Tát biểu trưng cho hạnh lý.
Nếu đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biểu trưng cho tri, thì ngài
Phổ Hiền Bồ Tát biểu trưng cho hành.
Nếu đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biểu trưng cho Phật trí đại
huệ giải thoát, thì ngài Phổ Hiền Bồ Tát biểu trưng cho định lực, tinh
tấn. Đây là những biểu trưng đặc thù của kinh Pháp Hoa, những biểu
trưng của đại thừa diệu pháp, giúp cho người thọ, trì, đọc, tụng, biên
chép, giải nói kinh Pháp Hoa phải tri hành hai điều kiện:
Phát triễn trí tuệ (biểu trưng cho đức Văn Thú Sư Lợi Bồ Tát).
Tu dưỡng phẩm cách đạo đức (biểu trưng cho đức Phổ Hiền Bồ Bồ
Tát).
Khi đọc đến tiêu đề của phẩm thứ hai mươi tám thì thấy rỏ
hết ý nghĩa của phẩm kinh. Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát là khuyến tu
tất cả mọi thiện nam tín nữ hãy phát khởi hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ
Hiền bao gồm Giới, Định, Huệ, Tinh tấn, Hỷ xả, Từ bi, như câu kinh
dưới đây:
389 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Đức Thế Tôn bảo ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,
thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ
được kinh Pháp Hoa này:
Một là được các đức Phật hộ niệm.
Hai là trồng các cội công đức.
Ba là vào trong chánh định.
Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.”
Đức Thế Tôn lại bảo ngài Phổ Hiền:
“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn
chánh, tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời
là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe
kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích Ca
Mâu Ni Phật. Phải biết người đó được Phật, ngài khen lành thay.
Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy tay xoa đầu.
Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy y trùm
cho.”
Tóm lại, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát là thể hiện năng
lực tinh tấn cho toàn bộ quyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh Pháp
Hoa được hoằng dương rộng rải trong cõi diêm phù đề này là do oai thần
định lực của Ngài Phổ Hiền. Chính Ngài Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện
trước Đức Thế Tôn sẽ dùng sức thần thông để gìn giữ kinh này. Cho nên
người tu kinh Pháp Hoa tức là tu hạnh Phổ Hiền.
Bài đọc vui.
THẢO AM
Nương có thảo am lúc sớm trưa
Lửa lòng đã tắt dục tâm chừa
390 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Chí tài sốt sắng, gan bền chặt
Trời muốn làm mưa thì cứ mưa
Bài kệ trên đây là của Đại Đức Tu Bồ Đề (Subhuti), quê quán
ở thành Xá Vệ, là con của một quan đại thần tên là Xu ma na (Sumana),
cháu của nhà thương gia Cấp Cô Độc, người đã mua miếng vườn Kỳ
Thọ cúng dường cho Phật và Giáo Hội. Đại đức Tu Bồ Đề là người trực
tiếp dự vào việc mua cảnh vườn này. Mọi việc cúng dường xong ngài
bèn xuất gia đầu Phật.
Ngài học khá nhiều, chẳng bao lâu ngài có được một địa vị
khá cao trong hàng các đệ tử của Phật. Một hôm ngài đến thành Vương
Xá, vua Tần Bà Sa La (Vimbasâra) có hứa dọn cho ngài một cái thất,
nhưng rồi lại quên. Ngài phải ở ngoài trời. Lúc ấy vì không muốn cho
ngài phải bị ướt át, lạnh lẽo nên mưa không đổ hột, làm cho nắng hạn
khiến cho dân sợ hoảng. Họ bèn kéo nhau tới tâu với vua. Vua hiểu tại
sao xảy ra chuyện ấy, liền ban cho đại đức một cái am cỏ. Ngài vừa
bước vào thất thì trời đổ mưa nặng hạt. Theo sử chép rằng, cái thảo am
mà vua ban cho ngài thật ra không xứng đáng gì, nhưng đại đức nghĩ
cũng vừa lòng nên mới phóng túng ngâm bài kệ trên.
391 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
PHẦN THỨ BA.
KINH QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP
Kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp được coi như là phần kết
của bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Trong kinh này Phật dạy các
đệ tử phải biết phương pháp thực hành kinh Pháp Hoa vào mọi cách ứng
xử linh động của sáu hạng người (Ưu bà tắc, Ưu bà di, Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, Thanh văn, Duyên giác) khi vào đời, khi tu tập. Phương pháp đó là
sám hối (128)
.
PHƯƠNG PHÁP SÁM HỐI.
Sám hối là bày tỏ, phát lộ những điều gì hành động trái
nghịch với chơn lý, với đạo pháp, hoặc chính mình làm, hoặc xúi biểu
người khác làm, hoặc nhớ, hoặc chẳng nhớ trước tượng chư Phật, chư
Bồ Tát, hoặc trước người giáo thọ của mình. Khi đã bày tỏ, phát lộ hết
tất cả tội lỗi thì sẽ cảm thấy trong người nhẹ hẩng lên, như người bị cảm
nặng nhờ một nồi xông hơi mà xuất hạn mồ hôi thời sẽ hết bịnh.
Sám hối là điều kiện tiên quyết của người Phật tử, vì bởi nhờ
có sám hối thì bao nhiêu tội lỗi của mình đã gây tạo từ bao đời trong quá
khứ, lại quá nhiều tội lỗi phát sinh trong đời hiện tại nhờ đó mà được
tiêu diệt, mới yên tâm thắng tấn tu hành.
Đức Phật thuyết giảng kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp tại
giảng đường Trùng Các trong tịnh xá Đại Lâm ở thành Tỳ Xá Lỵ
(Vesâli), kinh này đưa vào bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vì kinh Pháp
Hoa là kinh Phương Đẳng Đại Thừa. Kinh Pháp Hoa được coi như là
chơn lý về sự khai mở Phật tính của chúng sanh.
392 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Phật dạy “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Vậy mà
mọi người không thấy rỏ Phật tính là vì sao? Là vì trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta bị che lắp bởi nhiều ảo tưởng hư vọng, bởi nhiều
tranh chấp hơn thua, sanh ra nhiều nghiệp xấu ác, nhân lành càng ngày
càng bị phủ kín, như vậy thì còn có cơ may nào để nhận rỏ là mình có
Phật tính! Nhờ có pháp thủy của chư Phật rửa sạch lục căn, nhờ có pháp
môn sám hối, như nguồn nước sạch tẩy trần thân nhơ uế, mọi người sẽ
lột bỏ hết ảo tưởng hư vọng ra khỏi tâm thức mình thì Phật tính sẽ hiển
lộ ra, như viên đá quí được lau sạch bùn nhơ vậy.
Trong kinh Quán Phổ Hiền Bồ Tát Phật dạy: “Các đệ tử
phải biết sám hối, mà sám hối có lợi nhất là nên đọc tụng các kinh
Đại thừa Phương đẳng, tội lỗi mau chóng tiêu diệt.”
Lại nữa ở cuối phẩm kinh Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ
hai mươi tám, đức Phật có dạy: “Hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa phải
học hạnh Phổ Hiền, tu tập theo Phổ Hiền.”
Sau đó kinh quán Phổ Hiền Hạnh Pháp đức Phật dạy học
hạnh Phổ Hiền, tu tập theo Phổ Hiền tức phải chú tâm quán tưởng tư duy
về đại thừa và phải biết năm phương pháp sám hối từ trên là hàng vua
chúa, hoàng tộc, đến giai cấp cao quí của bà la môn, xuống đên hàng thứ
dân. Đó là phép tu sám hối Đệ Nhất của hàng Sát đế lợi và Cư sĩ. Năm
phương pháp sám hối như thế này:
1. Phép sám hối thứ nhứt: Không phỉ báng Tam Bảo, không gây trở
ngại cho hàng xuất gia, không làm ác đối với người thực hành
phạm hạnh. Quyết chí tu sáu phép quán niệm. Thường ủng hộ cúng
dường người trì giữ đại thừa. Thường quán niệm đến cái Không
của ý nghĩa đệ nhất của kinh pháp thâm sâu.
2. Phép sám hối thứ hai: Hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các ân sư,
thầy tổ, các vị trưởng thượng.
393 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
3. Phép sám hối thứ ba: Trị nước theo chánh pháp, không ép uổng
nhân dân một cách tà vạy.
4. Phép sám hối thứ tư: Ra lệnh khắp nước giữ sáu ngày trai giới
khiến người ta không sát sinh.
5. Phép sám hối thứ năm: Tin vào nguyên nhân và kết quả một cách
sâu đậm (luật nhân quả). Tin vào con đường của cái thực tánh duy
nhất (chúng sinh có Phật tính) và biết rằng đức Phật là bất diệt.
Tâm của chúng ta được thanh tịnh do nhờ phép sám hối.
Hành vi của chúng ta đựoc sáng tỏ do nhờ phép sám hối.
Trong thực tế có rất nhiều cách để sám hối, có nhiều phương
pháp để thực hành sám hối, nhưng tựu trung chỉ cần có chính tâm sám
hối, bày tỏ mọi lỗi lầm một cách chân thật, không che giấu, dù lỗi đó
mong manh như sợi tóc cũng phải bốc hết ra. Nếu không bốc hết ra thì
gốc sẽ còn, manh nha tội lỗi sẽ còn, hành vi tái phạm sẽ còn. Trong kinh
Pháp Cú có lời dạy:
Mái thưa mưa thấm dột lần
Tâm không tu luyện dục tham lọt vào
Mái dầy ngăn giọt mưa rào
Tâm ta luyện kỹ, tham nào lọt vô.
Đức Phật dạy rằng mọi tội lỗi đều do tâm khởi, muốn tiêu
diệt tội phải dốc hết tâm ra mà sám hối. Những tội lỗi từ bao đời trước,
kết hợp với tội lỗi phát sinh trong đời hiện tại khiến cho chúng sanh trầm
luân trong biển luân hồi sinh tử. Nay nhờ có phương pháp sám hối của
đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, Phật tử chúng ta quyết tâm y chỉ phụng
hành.
394 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Kinh thuyết :
“ Một thời đức Phật ở tại giảng đường Trùng Các trong
tịnh xá Đại Lâm ở Tỳ Xá Lỵ (Vesàli). Ngài nói với các Tỳ kheo:
“Sau ba tháng ta sẽ nhập Bát Niết Bàn (Parinirvàna).”
“ Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh đốn y
phục, chắp tay nhiễu quanh đức Phật ba vòng và đảnh lễ ngài, quỳ
gối chắp tay, chăm chú nhìn đức Như Lai, mắt không lúc nào quay
nhìn nơi khác. Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp, ngài Di Lặc Bồ Tát Ma
ha tát cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay đảnh lễ, nhìn lên tôn
nhan của đức Phật. Thế rồi ba vị đại sĩ phát ra cùng một âm thanh,
bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, sau khi đức Như Lai diệt độ, các chúng
sanh làm thế nào để có thể khởi tâm bồ đề để tu hành các kinh Đại
Phương Quảng (129)
của Đại thừa, để chánh niệm tư duy một cảnh
giới chân thật? Họ làm thế nào để không bị mất cái tâm bồ đề vô
thượng? Họ làm thế nào để không cắt đứt phiền não? Không từ bỏ
năm dục mà lại thanh tịnh được các căn và diệt trừ được các tội?
Họ làm sao để bằng con mắt vốn thanh tịnh do cha mẹ sinh ra và
không cắt đứt năm dục mà lại có thể nhìn thấy được các sự vật một
cách tự tại?”
“ Đức Phật bảo ngài A Nan: “Hãy nghe cho kỷ! Hãy nghe
cho kỷ! Hãy tư duy và nhớ kỷ! Ngày xưa tại núi Kỳ xà Quật
(Grdhrakùta) và tại các nơi khác, Như Lai đã từng rộng giảng rỏ
ràng con đường của một thực tính duy nhất. Nay tại nơi này, nhằm
cho các chúng sanh trong đời vị lai muốn tu hành pháp vô thượng
của đại thừa, muốn học hạnh Phổ Hiền và theo hạnh Phổ Hiền, ta sẽ
giảng pháp mà ta đã ấp ủ. Nay ta sẽ rộng giảng rỏ ràng cho các ông
về việc trừ khử các tội cho những ai được trông thấy Phổ Hiền hoặc
không trông thấy Phổ Hiền.”
“ Này A Nan! Bồ Tát Phổ Hiền đã sinh ra tại nước Tịnh
Diệu ở phương đông là quốc độ mà ta đã rộng giảng rỏ ràng trong
kinh Pháp Hoa. Nay trong kinh này ta sẽ giải thích lại một cách vắn
395 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tắt. Này A Nan! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di,
tám bộ Trời và Rồng và tất cả chúng sanh tụng kinh đại thừa, tu
hành theo đại thừa, khởi ý đại thừa, vui mừng được nhìn thấy sắc
thân của Bồ Tát Phổ Hiền, vui mừng được nhìn thấy tháp của đức
Phật Đa Bảo, vui mừng được nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni
và chư Phật phân thân, vui mừng được sự thanh tịnh của sáu căn,
những vị ấy cần phải học quán niệm này.”
“ Công đức của quán niệm này sẽ loại trừ cho họ các
chướng ngại, khiến họ thấy các sắc tướng vi diệu. Dù cho họ chưa
nhập được tam muội, nhưng vì họ tụng và trì đại thừa, nên họ sẽ
chuyên tâm tu tập không gián đoạn, không rời đại thừa. Sau một
ngày, hoặc ba lần bảy ngày, họ sẽ nhìn thấy được Phổ Hiền.”
“ Người có trọng chướng thì sau bảy lần bảy bốn chín
ngày sẽ nhìn thấy được ngài. Lại có người có trọng chướng nhiều
hơn thì sau một đời mới nhìn thấy được ngài. Lại có người có trọng
chướng nhiều hơn nữa thì hết hai đời mới nhìn thấy được ngài. Lại
có người có trọng chướng nhiều nhiều hơn nữa thì sau ba đời mới
nhìn thấy được ngài. Như thế các trọng chướng nghiệp báo không
giống như nhau. Vì thế nên ta giảng giáo lý theo nhiều cách khác
nhau.”
“Bồ Tát Phổ Hiền có thân thể vô biên, âm thanh vô biên.
Muốn đến cõi ta bà ngài phải nhập vào thần thông tự tại, thu nhỏ
thân lại. Vì người trong cõi Diêm phù đề có ba chướng (130)
nặng nề,
nên ngài dùng sức trí tuệ mà hóa thân cỡi trên một con voi trắng.
Voi này có sáu ngà, bảy chân đở thân mình lên trên đất. Bên dưới
bảy chân của nó là bảy hoa sen. Voi có màu trắng tươi, trắng nhất
trong những thứ có màu trắng đến nỗi pha lê và núi tuyết cũng
không sánh được. Thân voi dài bốn trăm năm mươi do tuần, cao
bốn trăm do tuần. Cuối sáu ngà có sáu ao tắm. Trong mỗi ao tắm
mọc lên mười bốn hoa sen lớn bằng ao tắm ấy. Hoa mãn khai như
vua của cây ở cõi trời. Trên mỗi hoa này có một ngọc nữ nhan sắc
hồng thắm, tươi sáng hơn các thiên nữ. Trong tay của mỗi ngọc nữ
396 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tự nhiên hóa ra năm cây đàn không hầu, mỗi cây đàn không hầu có
năm trăm nhạc khí để họa theo. Có năm trăm con chim gồm loài
nhạn, uyên ương, tất cả đều có màu sắc của các thứ báu, sinh khởi
ra trong hoa và lá. Trên vòi voi có một cái hoa, cuống hoa có màu
của một viên ngọc đỏ, hoa thì vàng, đang còn búp, chưa nở.”
“ Sau khi chứng kiến sự việc như vậy, nếu có ai sám hối
nhiều hơn nữa về tội của mình, chú tâm quán tưởng tư duy về đại
thừa, tâm không hư phế thì người ấy có thể thấy hoa nở ngay, sáng
rực sắc vàng. Đài của hoa sen ấy là một đài bằng ngọc báu chân
thúc ca (Kimsuka), nhụy hoa làm bằng ngọc phạm ma ni (Brahma)
vi diệu, tua hoa làm bằng châu báu kim cương.”
“ Người ấy trông thấy các vị hóa Phật ngồi trên đài hoa
sen, có rất nhiều Bồ Tát ngồi trên tua hoa sen. Chỗ lông mày của vị
hóa Phật cũng phát ra ánh sáng sắc vàng nhập vào vòi voi, từ vòi voi
ra rồi vào trong mắt voi, từ trong mắt voi ra rồi vào trong tai voi, từ
trong tai voi ra rồi chiếu trên đỉnh đầu voi, hóa thành một đài vàng.
Trên đầu voi ấy có ba vị hóa nhân: một vị cầm một bánh xe vàng,
một vị cầm một viên ngọc phạm ma ni, và một vị cầm một chày kim
cang. Khi vị cầm chày giơ chày lên trỏ voi thì voi liền cất bước đi.
Voi không dẫm chân lên đất, nó bay lửng cách đất bảy xích, nhưng
lại để lại các dấu chân trên đất, trong các dấu chân ấy đều có in
hình trục bánh xe ngàn căm đầy đủ. Ở đầu mỗi trục bánh xe phát
sinh một hoa sen lớn, trên hoa sen này có một hóa tượng. Hóa tượng
này cũng có bảy chân bước theo sau voi lớn. Mỗi khi hóa tượng
nhấc chân hay hạ chân, bảy ngàn con voi xuất hiện, tất cả đều bước
theo chân voi lớn làm thành một đoàn tùy tùng.”
“Vòi của các voi có màu của hoa sen đỏ, phía trên có một
vị hóa Phật phóng ánh sáng từ giữa hai mày. Anh sáng này màu
vàng như đã tả trên. Nhập vào vòi voi, từ vòi ra rồi vào trong mắt
voi, từ mắt voi ra rồi lại vào tai voi, từ tai voi ra rồi lên đến đầu voi,
dần dần lên đến lưng voi, hóa thành cái yên bằng vàng có trang
hoàng bảy báu. Ở bốn bề yên là bốn trụ bảy báu. Các thứ báu trang
397 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
hoàng ở đấy tạo thành một đài báu. Trên đài này là một hoa sen bảy
báu. Tua sen do trăm thứ báu gồm thành. Đài hoa sen ấy là một viên
ngọc ma ni lớn.”
“ Trên đài có vị Bồ Tát ngồi kiết già tên là Phổ Hiền.
Thân ngài có màu bạch ngọc phát ra năm mươi loại tia sáng, các tia
sáng này có năm mươi loại màu sắc, tạo thành vầng sáng quanh đầu
ngài. Từ các lổ chân lông của ngài phát ra các tia sáng vàng. Chỗ
tận cùng các tia sáng có vô lượng vị hóa Phật, có chư vị Bồ Tát làm
quyến thuộc.”
“ Voi bước êm và chậm rãi, mưa hoa báu lớn, đến trước
hành giả, voi mở miệng. Các ngọc nữ đang ở trên ao tắm trên các
ngà voi tấu nhạc ca hát, âm thanh vi diệu, ca ngợi con đường chân
thật độc nhất của đại thừa.”
“ Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu này, hành giả vui mừng,
kính lễ, lại càng tụng đọc kinh điển thâm sâu, đảnh lễ chư Phật
khắp mười phương, lễ tháp đức Phật Đa Bảo và đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, bái lạy Bồ Tát Phổ Hiền vá các đại Bồ Tát. Hành giả liền
phát nguyện:
“Nếu con đủ phước đức từ các đời trước, chắc chắn con
có thể gặp được ngài Phổ Hiền. Xin đấng phước lành rộng khắp thị
hiện cho con được thấy sắc thân của ngài.”
“ Sau khi đã phát nguyện, hành giả phải ngày đêm sáu
thời lễ bái chư Phật ở mười phương, thực hành pháp môn sám hối,
tụng đọc kinh đại thừa, suy nghĩ về ý nghĩa của đại thừa, nhớ niệm
đến các việc đại thừa, cung kính cúng dường những người thũ trì
đại thừa, nhìn đến tất cả mọi người như mình đang nghĩ đến Phật,
và đối đãi với các chúng sanh như mình đang nghĩ đến cha mẹ.”
“ Khi vị ấy nghĩ như thế xong, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ phóng
ngay một tia sáng từ vòng lông trắng giữa đôi mày tướng của bậc
398 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đại nhân. Khi tia sáng này xuất hiện, thân tướng của Bồ Tát Phổ
Hiền đoan nghiêm như núi vàng ròng, đoan chính, vi diệu, đầy đủ
ba mươi hai tướng tốt. Các lổ chân lông trên thân ngài sẽ phát ra
ánh sáng lớn chiếu vào vòi lớn ấy khiến voi có màu của vàng ròng.
Tất cả các hóa tượng cũng được khiến có màu của vàng và tất cả các
hóa Bồ Tát cũng được khiến có màu của vàng. Khi các tia sáng này
chiếu vào vô lượng thế giới ở phương đông, các thế giới này đều sẽ
được khiến có màu của vàng. Cũng vậy, các phương nam, tây, bắc ở
bốn phương, ở giữa, các phương trên và dưới cũng đều như vậy.”
“ Bấy giờ tại mỗi phương trong mười phương đều có một
Bồ Tát cỡi trên voi chúa trắng sáu ngà giống như Bồ Tát Phổ Hiền.
Cũng thế, bằng sức thần thông, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ có thể khiến cho
người trì kinh đại thừa nhìn thấy được các hóa tượng đầy khắp
mười phương.”
“Bấy giờ hành giả sẽ hoan hỷ cả thân và tâm khi nhìn
thấy chư Bồ Tát, sẽ đảnh lễ chư vị mà thưa rằng: “Bạch chư tôn đại
từ đại bi, xin hãy thương xót con mà giảng pháp cho con.”
“Khi hành giả ấy thưa như thế, tất cả chư Bồ Tát và các
vị khác tuy khác miệng nhưng sẽ đồng thanh giải thích pháp thanh
tịnh của các kinh đại thừa và sẽ nói kệ để tán thán hành giả ấy. Đây
gọi là cảnh giới tối sơ trong quán niệm đầu tiên về Bồ Tát Phổ
Hiền.”
“Bấy giờ hành giả chứng kiến sự việc ấy xong, một lòng
nhớ nghĩ đến đại thừa, ngày đêm không xả bỏ, thậm chí cả khi ngủ,
người ấy cũng sẽ có thể trông thấy ngài Phổ Hiền giảng pháp cho
mình trong mộng, giống như khi đang thức vậy. Bồ Tát sẽ an ủi tâm
người ấy, sẽ nhắc nhở người ấy và bảo rằng: “Ông đã quên câu này,
hoặc đã quên kệ này trong các kinh mà ông đã tụng, đã trì.” Rồi
hành giả nghe được nghĩa thú thâm sâu mà Bồ Tát Phổ Hiền giảng
giải, sẽ hiểu ý nghĩa và trì kinh mà không quên.”
399 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“ Vì hành giả ngày nào cũng cứ như thế, tâm người ấy sẽ
dần dần được lợi ích. Bồ Tát Phổ Hiền sẽ khiến hành giả ấy nhớ đến
chư Phật ở mười phương. Theo giáo lý của ngài Phổ Hiền, hành giả
sẽ chánh tâm, chánh ý, dần dần với con mắt tâm, hành giả sẽ thấy
chư Phật ở phương đông thân có màu vàng của vàng và rất đoan
nghiêm, vi diệu. Sau khi nhìn thấy một đức Phật, hành giả sẽ lại
thấy một đức Phật khác. Cứ như thế, vị ấy sẽ dần dần nhìn thấy tất
cả chư Phật khắp phương đông, và do tư duy linh lợi, vị ấy sẽ nhìn
thấy chư Phật ở khắp mười phương.”
“ Sau khi thấy chư Phật, hành giả hoan hỷ trong lòng và
bảo rằng: “Nhờ đại thừa, ta đã thấy được chư Đại sĩ. Nhờ sức của
chư Đại sĩ ta đã thấy được chư Phật. Tuy ta đã thấy chư Phật,
nhưng ta vẫn còn chưa thấy chư Phật thật rỏ ràng. Nhắm mắt thì ta
thấy chư Phật, nhưng khi mở mắt ra, ta lại không còn thấy chư
Phật.”
“ Sau khi bảo như thế, hành giả gieo thân xuống đất mà
đảnh lễ chư Phật ở mười phương. Đảnh lễ chư Phật xong, hành giả
nên quỳ xuống chắp tay mà tác bạch: “Bạch chư Phật! Thế Tôn có
mười lực vô úy (131)
, mười tám tính chất đặc biệt, đại từ, đại bi (132)
,
ba niệm xứ (133)
, là những bậc thường tại thế gian, có sắc tướng tối
thượng trong các sắc tướng! Do con có tội lỗi gì mà không được nhìn
thấy chư Phật?”Tác bạch như thế xong, hành giả lại càng sám hối
nhiều hơn. Sau khi người ấy thành tựu sự thanh tịnh của sám hối,
Bồ Tát Phổ Hiền lại sẽ xuất hiện trước mặt người ấy và luôn ở bên
cạnh người ấy, thậm chí sẽ còn thuyết pháp cho người ấy khi người
ấy đang nằm mơ. Sau khi tỉnh dậy, người ấy sẽ được hỷ lạc về pháp.
Cứ như thế, sau ba lần bảy ngày đêm, người ấy sẽ đắc Triền đà la
ni. Nhờ đạt được đà la ni này, người ấy sẽ giữ mãi trong trí óc,
không quên Diệu Pháp mà chư Phật và Bồ Tát đã giảng. Trong
những giấc mơ, người ấy sẽ luôn nhìn thấy bảy vị Phật của quá khứ,
trong đó chỉ riêng đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ giảng pháp cho
người ấy.”
400 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Chư Thế Tôn này đều xưng tán kinh điển đại thừa. Bấy
giờ hành giả lại sám hối thêm nữa và lễ bái chư Phật ở khắp mười
phương. Bồ Tát Phổ Hiền đứng trước mặt người ấy, sẽ giảng dạy
cho người ấy về tất cả nghiệp và duyên của các đời trước của người
ấy, và sẽ khiến người ấy phát lồ tất cả các tội lỗi hắc ám, xấu ác đã
mắc phải.”
“ Hướng đến chư Phật, người ấy cần phải tự miệng mình
phát lồ các tội lỗi của mình.”
“ Sau khi đã phát lồ tội lỗi của mình, người ấy sẽ đạt
được tam muội chư Phật hiện tiền. Đạt tam muội này xong, người
ấy sẽ nhìn thấy đức Phật A Súc (Akshobhya) và quốc độ Diệu Hỷ
của ngài ở phương đông một cách rỏ ràng, tinh tường. Cũng như
thế, người ấy sẽ nhìn thấy rỏ ràng, tinh tường các quốc độ kỳ diệu
của chư Phật ở mười phương. Người ấy sẽ nằm mơ thấy rằng: Một
vị Kim cang cỡi trên đầu voi dùng chày kim cang trỏ vào sáu căn.
Trỏ vào sáu căn xong, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ giảng cho hành giả cách
sám hối để có được sự thanh tịnh của sáu căn. Vị ấy sám hối như
vậy trong một ngày, hoặc ba lần bảy ngày. Sau đó nhờ sức tam muội
chư Phật hiện tiền và nhờ sự trang nghiêm của sự việc Bồ Tát Phổ
Hiền thuyết pháp, tai của hành giả dần dần nghe được các âm thanh
mà không bị chướng ngại, và mũi sẽ dần dần ngữi được các mùi mà
không bị chướng ngại.”
“ Đây được giảng rộng như ở kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”
“ Sau khi đạt được sự thanh tịnh của sáu căn, người ấy có
được sự hoan hỷ về thân và tâm, không có các tướng xấu ác, tâm
thuần với pháp này, tương hợp với pháp này. Người ấy sẽ đạt được
trăm nghìn vạn ức Triên đà la ni và sẽ được rộng thấy trăm nghìn
vạn ức vô lượng chư Phật. Các đức Thế Tôn đều dùng tay phải mà
xoa đầu hành giả và dạy rằng: “Hay thay! Hay thay! Ông là một
hành giả của đại thừa, một người phát tâm đại trang nghiêm và là
một người trì giữ đại thừa trong tâm. Ngày xưa khi chúng ta phát
401 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
tâm bồ đề, chúng ta cũng giống như ông vậy, chuyên cần, không bỏ
bê. Do đã thực hành đại thừa trong các đời trước, nên nay chúng ta
thành tựu thân thanh tịnh chánh biến tri. Nay ông hãy chăm chỉ tu
tập, chớ biếng lười. Các kinh đại thừa này là kho báu của chư Phật,
là mắt của chư Phật ở mười phương trong quá khứ, hiện tại và
tương lai và cũng là hạt giống sản sinh ra chư Phật trong ba đời ấy.
Người trì các kinh này chính là trì thân của Phật, làm việc của
Phật.”
“ Nên biết rằng người ấy chính là sứ đồ của chư Phật,
được khoác áo của chư Phật, chư Thế Tôn. Ông hãy thực hành đại
thừa và chớ cắt đứt hạt giống Pháp. Nay ông hãy quán kỷ chư Phật
ở phương đông.”
“Khi chư Phật dạy như thế, hành giả liền thấy tất cả vô
lượng thế giới ở phương đông, đất bằng thẳng như bàn tay, không
có gò, đồi hay gai gốc, trái lại đất bằng lưu ly và đường lát vàng. Các
thế giới ở mười phương cũng lại như thế.”
“ Sau khi đã chứng kiến sự việc này, hành giả sẽ nhìn
thấy một cây báu, cây cao quí, kỳ diệu, cao năm ngàn do tuần. Cây
này luôn sản sinh vàng ròng và ngọc trắng và sẽ được trang hoàng
bằng bảy báu; dưới cây tự nhiên có một tòa sư tử, tòa sư tử ấy cao
hai ngàn do tuần và trên tòa phát ra ánh sáng của trăm thứ báu.
Cũng như vậy, từ tất cả các cây có các tòa báu khác và mỗi tòa sẽ lộ
ra năm trăm con voi trắng, trên đó tất cả Phổ Hiền Bồ Tát ngồi cỡi.”
“ Bấy giờ hành giả lễ bái tất cả chư Phổ Hiền và nên bảo
rằng: “Con có tội lỗi gì mà chỉ thấy được đất báu, đài báu và cây
báu nhưng không thấy được chư Phật?”
“ Khi tác bạch như thế xong, hành giả sẽ thấy rằng trên
mỗi tòa báu đều có một đức Thế Tôn đang ngồi đoan nghiêm, vi
diệu. Nhìn thấy chư Phật xong, hành giả sẽ rất vui mừng, lại càng
tụng đọc và tu tập các kinh điển đại thừa. Do năng lực của đại thừa,
402 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
từ không trung có tiếng ca ngợi rằng: “Hay thay! Hay thay! Thiện
nam tử! Do công đức thực hành đại thừa, nên ông có thể nhìn thấy
được chư Phật. Nay tuy ông có thể nhìn thấy chư Phật Thế Tôn,
nhưng ông chưa thể nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chưa thể
nhìn thấy chư Phật phân thân từ ngài và tháp của đức Phật Đa
Bảo.”
“ Sau khi nghe tiếng ấy từ không trung phát ra, hành giả
sẽ lại càng tụng đọc và tu tập các kinh điển đại thừa. Do tụng đọc và
tu tập các kinh điển đại thừa phương quảng nên ngay cả trong các
giấc mơ, người ấy cũng sẽ thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở
tại núi Kỳ xà quật cùng với đại chúng thuyết giảng kinh Pháp Hoa,
diễn giải ý nghĩa của cái chân thật duy nhất.
“ Sau khi nghe giảng về sám hối và khát khao mong mõi
được nhìn thấy đức Phật, người ấy cần chắp tay, quỳ xuống hướng
về núi Kỳ xà quật và tác bạch: “Bạch đức Như Lai, đấng Đại hùng
của thế gian, thường tại thế gian! Xin rũ lòng thương xót con mà
hiện thân cho con được trông thấy.”
“ Tác bạch như thế xong, người ấy sẽ thấy núi Kỳ xà quật
được trang hoàng bằng bảy thứ báu và đầy cả vô số tỳ kheo, thanh
văn và một đại chúng, nơi này có các cây báu xếp thành hàng và đất
báu thì bằng phẳng, có một tòa sư tử quí báu và vi diệu. Trên tòa có
đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ánh sáng giữa đôi mày chiếu sáng
khắp suốt mọi thế giới ở mười phương. Chư Phật phân thân từ đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ở mười phương mà ánh sáng ấy chiếu đến
vân tập lại cùng một lúc và rộng giảng diệu pháp như được nêu
trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị Phật phân thân này có thân
vàng ròng, thân hình lớn vô biên, ngồi trên tòa sư tử được trăm ức
vô lượng đại Bồ Tát làm quyến thuộc, Các vị Bồ Tát này có hạnh
giống như hạnh của ngài Phổ Hiền. Quyến thuộc của vô lượng chư
Phật, chư Bồ Tát ở mười phương cũng như vậy.”
403 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“ Khi đại chúng đã vân tập, chư vị sẽ thấy đức Phật
Thích Ca Mâu Ni phóng các tia sáng có màu của vàng từ các lổ chân
lông trên toàn thân ngài. Trong mỗi tia sáng này đều có một trăm ức
hóa Phật. Chư Phật phân thân sẽ phóng các tia sáng từ chòm lông
trắng, tướng của bậc đại nhân, các tia này lưu chuyễn vào đỉnh đầu
đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chứng kiến cảnh trạng này, chư Phật
phân thân cũng sẽ phóng các tia sáng có màu sắc của vàng từ các lổ
chân lông trên thân chư vị, trong mỗi tia sáng có các vị hóa Phật
nhiều như bụi cát sông Hằng.”
“ Bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền sẽ lại phóng ánh sáng từ giữa
đôi mày, tướng của bậc đại nhân, đưa vào tâm của hành giả. Sau khi
ánh sáng này vào tâm hành giả, người này sẽ nhớ lại trong thời của
vô lượng trăm ngàn đức Phật trong quá khứ, người ấy đã thọ trì
tụng đọc kinh đại thừa và người ấy sẽ thấy rỏ ràng, tinh tường các
đời trước của mình chẳng khác gì người ấy đã có các thần thông
như túc mạng thông (134)
.
“ Khoát nhiên đại ngộ, người ấy sẽ đắc Triền đà la ni và
trăm ngàn vạn ức đà la ni. Xuất khỏi định, người ấy sẽ thấy trước
mặt mình có tất cả các đức Phật phân thân đang ngồi trên các tòa sư
tử dưới các cây báu. Người ấy cũng sẽ thấy đất lưu ly từ hư không
phía dưới vọt lên giống như những khóm sen, giữa mỗi hoa có chư
Bồ Tát nhiều như bụi nhỏ đang ngồi kiết già. Người ấy cũng sẽ thấy
chư Bồ Tát phân thân từ Bồ Tát Phổ Hiền đang ca ngợi đại thừa
trong chúng hội của chư vị.
“ Bấy giờ chư Bồ Tát mỗi người một miệng nhưng đồng
thanh âm sẽ khiến hành giả thanh tịnh sáu căn.”
“Có vị sẽ bảo rằng: “Ông nên niệm Phật.”
“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Pháp.”
“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Tăng.”
“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Giới.”
“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Thí.”
404 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Thiên.”
“ Và chư Bồ Tát sẽ giảng thêm rằng: “Sáu pháp này là
tâm bồ đề, là những pháp sinh ra chư Bồ Tát. Nay trước mặt chư
Phật, ông nên phát lồ các tội lỗi đã phạm trước kia và chí thành sám
hối.”
SÁM HỐI CON MẮT.
“ Trong vô lượng đời trước, do nhãn căn ông đã tham
trước các sắc tướng. Do tham trước các sắc tướng, ông tham ái các
bụi trần. Do tham ái các bụi trần ông mang thân của người nữ và
đắm mình vào sắc tướng khắp mọi chốn mà ông thọ sinh từ đời này
sang đời khác. Sắc tướng làm hại mắt ông, khiến ông trở thành kẻ
nô lệ của ân ái. Do đó mà sắc tướng làm cho ông lang thang khắp ba
cõi. Điều tệ hại này khiến ông mù quáng chẳng thấy gì cả. Nay ông
đã tụng các kinh Phương quảng đại thừa. Trong các kinh này, chư
Phật ở mười phương giãng rằng sắc thân của chư vị là bất diệt. Nay
ông có thể nhìn thấy được chư vị ấy – chẳng thực như thế sao?”
“ Nhãn căn xấu ác thường gây hại nhiều cho ông. Vâng,
theo lời ta ông phải quy y chư Phật và đức Phật Thích Ca Mâu Ni
và phát lồ các tội lỗi do mắt gây nên. Và ông phải tác bạch như thế
này: ”Pháp thủy của tuệ nhãn của chư Phật và chư Bồ Tát! Xin
dùng nước của pháp này mà rửa sạch mắt của con, khiến con được
thanh tịnh.”
“ Sau khi nói như thế, hành giả phải bái lạy khắp chư
Phật ở mười phương, hướng về đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các
kinh điển đại thừa và nói rằng: “Các trọng tội thuộc nhãn căn của
con mà nay con sám hối là những chướng ngại và ô uế đến nỗi làm
cho con mù quáng không thể thấy được gì cả. Xin đức Phật từ bi
thương xót và che chở con! xin Bồ Tát Phổ Hiền trên thuyền đại
405 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
pháp cứu độ khắp tất cả, cùng vô lượng Bồ Tát ở mười phương của
ngài, thương xót mà hãy cho con nghe pháp sám hối các tội lỗi xấu
ác, nghiệp chướng.”
“ Nói như thế ba lần, hành giả phải sụp dưới đất, chánh
niệm đại thừa tâm không bỏ quên. Đây gọi là pháp sám hối tội lỗi về
mắt. Nếu có ai xưng danh chư Phật, đốt hương, rải hoa, phát ý đại
thừa, treo lụa, phướng, lọng, nói lên những lầm lỗi của mắt, sám hối
tội lỗi của mình thì người ấy ngay trong đời hiện tại sẽ nhìn thấy
đức Phật Thích Ca Mâu Ni và vô lượng đức Phật phân thân từ ngài,
suốt a tăng kỳ kiếp sẽ không bị rơi vào đường ác. Nhờ năng lực và
hạnh nguyện của đại thừa, người ấy sẽ trở thành quyến thuộc của
chư Phật cùng với hết thảy chư Bồ Tát đà la ni. Ai tư duy như thế,
người ấy là người có chánh niệm. Nếu ai tư duy khác đi, thì gọi là
người có tà niệm. Đây là tướng trạng của giai đoạn thứ nhất của sự
thanh tịnh nhãn căn.”
“ Sau khi thanh tịnh nhãn căn, hành giả sẽ đọc tụng các
kinh đại thừa nhiều hơn nữa, ngày đêm sáu thời quỳ mà sám hối và
nên bảo rằng: “Tại sao ta chỉ trông thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni
và chư Phật phân thân từ ngài mà lại không thể trông thấy xá lợi
của toàn thân đức Phật trong tháp của đức Đa Bảo Như Lai? Tháp
của đức Phật Đa Bảo vẫn mãi tồn tại không bị hủy diệt. Ta vì có mắt
dơ bẩn, xấu ác nên không thể nhìn thấy tháp ấy.”
“ Sau khi nói như thế, hành giả lại càng phải thực hành
sám hối thêm nữa. Sau bảy ngày sám hối của người ấy sẽ được đền
đáp như sau: “Sau bảy ngày, tháp của đức Phật Đa Bảo từ đất vọt
lên. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ dùng tay phải mở cửa tháp, trong
tháp có đức Phật Đa Bảo nhập tam muội Phổ Hiện Sắc Thân. Từ
mỗi lổ chân lông của ngài phát ra những tia sáng nhiều như bụi của
các sông Hằng. Trong mỗi tia sáng có trăm ngàn vạn ức vị hóa Phật.
Khi tướng trạng ấy xuất hiện, hành giả sẽ vui mừng, nói kệ ca ngợi
mà nhiễu quanh tháp bảy lần. Khi người ấy đã đi quanh tháp bảy
lần, đức Như Lai Đa Bảo cất tiếng ca ngợi người ấy: “Này Pháp tử!
406 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nay quả thực ông đã thực hành được pháp đại thừa và đã vâng theo
ngài Phổ Hiền mà sám hối các tội lỗi về nhãn căn. Vì lý do ấy, ta đến
đây mà chứng minh cho ông.” Nói thế xong đức Như Lai Đa Bảo ca
ngợi: “Hay thay! Hay thay! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài có thể
thuyết giảng đại pháp, tưới mưa đại pháp, khiến cho mọi chúng
sanh bị ô nhiễm thành tựu Phật tính của họ.”
SÁM HỐI LỔ TAI.
“ Bấy giờ, hành giả sau khi nhìn thấy tháp của đức Phật
Đa Bảo, lại đến chỗ Bồ Tát Phổ Hiền, chấp tay kính lễ mà tác bạch:
“Bạch Đại sư! Xin ngài chỉ dạy cho con sám hối các lỗi lầm về nhĩ
căn.”
“ Ngài Phổ Hiền lại bảo hành giả: “Trải qua nhiều kiếp,
nhĩ căn ông cứ đeo đuổi âm thanh bên ngoài, khi ông nghe được âm
thanh vi diệu thì tâm sinh cảm luyến, khi ông nghe âm thanh xấu ác
thì tâm khởi lên một trăm lẻ tám phiền não. Hậu quả ấy của sự việc
ông nghe các âm thanh xấu ác tạo ra các điều xấu ác và việc ông cứ
mãi nghe các âm thanh xấu ác sản sinh nhiều phiền toái khác nhau.
Do sự nghe điên đảo của ông, ông sẽ rơi vào các đường xấu, vào các
nơi xa xôi đầy tà kiến, tại đấy, người ta không thể nghe được chánh
pháp. Ngày nay ông đã tụng và trì đại thừa vốn là kho chứa vô biên
các công đức. Do như vậy, ông đã trông thấy chư Phật ở mười
phương và tháp của đức Phật Đa Bảo xuất hiện đã xác chứng cho
ông. Ông phải tự mình thố lộ những sai lầm, những thứ xấu ác của
chính ông và phải sám hối tất cả tội lỗi của ông.”
“ Khi hành giả nghe như vậy thì phải càng nên chắp tay,
rạp mình xuống đất lễ bái và tác bạch: “Bạch đức Thế Tôn Chánh
biến Tri! Xin ngài hiện thân mà chứng minh cho con! Các kinh
Phương Quảng là những vị chủ đạo về từ bi. Xin ngài quán xét con
407 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
mà nghe những lời nói của con. Con từ nhiều kiếp đến nay, do bởi
nhĩ căn của con, con đã bị ràng buộc vào các âm thanh xấu ác, giống
như keo dính vào cỏ. Sự việc con nghe các âm thanh xấu ác tạo ra
chất độc phiền não ràng buộc với mọi hoàn cảnh và con không thể
ngưng nghĩ trong phút chốc nào được. Sự việc con tạo nên các âm
thanh xấu ác làm mệt mỏi tinh thần con và khiến con rơi vào ba
đường xấu ác. Nay con mới hiểu được điều ấy. Con xin hướng đến
chư Thế Tôn mà phát lồ sám hối.”
“ Sau khi sám hối như thế, hành giả sẽ thấy đức Phật Đa
Bảo phóng một tia sáng lớn có màu của vàng chiếu khắp phương
đông cũng như khắp thế giới ở mười phương. Tại đấy vô lượng chư
Phật xuất hiện với thân có màu vàng ròng. Ở phương đông, trên
không trung có tiếng vang lên: “Đây là một vị Phật, hiệu là Thiện
Đức, cũng có vô số Phật phân thân đang ngồi kiết già trên các tòa sư
tử dưới các cây báu. Tất cả các đức Thế Tôn ấy nhập vào tam muội
Phổ Hiện Sắc Thân, đều nói lời tán thán hành giả rằng: “Hay thay!
Hay thay! Thiện nam tử! Nay ông đã đọc tụng các kinh điển đại
thừa, những gì ông đã tụng là cảnh giới của Phật.”
“ Sau khi sám hối như thế, hành giả càng thanh tịnh thân
mình nhiều hơn và biết chắc được rằng mình đang theo con đường
đưa đến cảnh giới tâm linh của một vị Phật, Bồ Tát Phổ Hiền
khuyến khích hành giả thực hành sám hối nhiều hơn nữa.”
SÁM HỐI LỔ MỦI.
“ Sau khi những lời ấy được nói lên, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ
lại giảng thêm cho hành giả về pháp sám hối: “Trong vô lượng đời
trước của ông, do ông tham trước vào các mùi hương, nên sự phân
biệt và nhận thức của ông bị ràng buộc vào mọi hoàn cảnh và ông bị
408 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
rơi vào sanh tử. Nay ông nên quán về nguyên nhân của đại thừa.
Nguyên nhân của đại thừa là thực tướng của các pháp.”
“ Nghe được như thế, hành giả cần phải sụp mình xuống
đất mà sám hối nhiều hơn nữa. Sau khi sám hối, người ấy nên tác
bạch rằng: ”Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam mô Đa Bảo Phật
tháp! Nam mô thập phương Thích Ca Mâu Ni Phật phân thân chư
Phật!”
“ Sau khi tác bạch như thế, vị ấy cần lễ bái khắp chư Phật
ở mười phương “Nam mô Đông Phương Phổ Đức Phật!” và đảnh lễ
chư Phật phân thân từ đức Phật Phổ Đức. Hành giả phải dốc lòng lễ
bái chư Phật ấy như chính mắt mình đang nhìn thấy chư vị và cúng
dường chư vị bằng hoa, hương. Sau khi lễ bái chư Phật ấy, vị ấy
phải chắp tay quỳ xuống tán thán chư Phật bằng nhiều bài kệ khác
nhau. Tán thán xong, vị ấy phải nói về mười nghiệp ác và sám hối
mọi tội lỗi của mình. Sám hối xong, vị ấy nên tác bạch: “Suốt vô
lượng kiếp của các đời trước của con, con đã tham đắm hương, vị,
xúc, đã tạo nhiều thứ nghiệp xấu ác. Do thế nên trong vô lượng đời
trước đến nay, con luôn phải mang những cái thân xấu ác ở các cõi
địa ngục, quỉ đói, súc sanh, chốn xa xôi của những tà kiến. Hôm nay
con xin phát lồ những nghiệp xấu ác ấy, con xin quy hướng chư
Phật, những vị vua của chánh pháp, xin nói ra các tội lỗi của con và
xin sám hối.”
SÁM HỐI CÁI LƯỠI.
“ Sám hối như thế xong, thân và tâm không biếng lười,
hành giả lại càng phải đọc tụng các kinh điển đại thừa. Do năng lực
của đại thừa, từ không trung có âm thanh vang lên: “Này Pháp tử!
Nay ông nên ca ngợi và thuyết giảng đại thừa, hướng đến chư Phật
ở mười phương và tự nói lên những lỗi lầm của mình trước mặt chư
409 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
vị ấy. Chư Phật, chư Như Lai là những đấng từ phụ của ông. Sau
đây Ông nên tự hỏi về những nghiệp xấu ác do thiệt căn gây nên.”
“ Nghe lời dạy như vậy, hành giả cần phải cúi rạp mình
xuống đất, đảnh lễ chư Phật mười phương và tác bạch: “Thiệt căn
này bị tác động bởi các nghiệp xấu ác khiến con nói bậy, nói thêu
dệt, ác khẩu, nói lời hai lưỡi, phỉ báng, nói dối, tán thán tà kiến, nói
lời vô ích. Do nhiều nghiệp xấu ác phức tạp như vậy, con đã gây ra
những đấu tranh bất đồng và con đã nói pháp thành ra không phải
pháp. Nay con xin sám hối tất cả những tội lỗi ấy của con. Các lỗi
lầm về việc nói năng này thì vô lượng vô biên. Tất cả gai của ác
nghiệp từ thiệt căn phát sinh ra, bánh xe chánh pháp bị cắt đứt do
bởi thiệt căn này. Thiệt căn này cắt đứt các hạt mầm của công đức.
Sự thuyết giảng những điều vô nghĩa thường bị áp đặt vào những
ngừơi khác. Ca ngợi tà kiến cũng giống như thêm củi vào lửa, như
càng làm hại chúng sanh vốn đã khổ vì bị lửa cháy mạnh. Đấy cũng
giống như người chết vì uống thuốc độc không để lộ vết thương hay
mụt nhọt. Kết quả của những tội lỗi như thế là ác, tà, bất thiện và
khiến cho con phải rơi vào các ác đạo suốt trăm kiếp, ngàn kiếp. Nói
dối khiến con phải rơi vào địa ngục lớn. Nay con quy hướng chư
Phật ở phương Nam mà phát lồ các sai lầm, tội lỗi của con.”
“ Khi hành giả suy nghĩ như thế, từ hư không sẽ có một
âm thanh vang lên: “Ở phương Nam có một đức Phật tên là Chiên
Đàn Đức. Đức Phật này cũng có vô lượng vị Phật phân thân. Tất cả
chư Phật này đều giảng đại thừa và diệt trừ tội lỗi xấu ác. Nay
hướng về vô lượng chư Phật và chư Thế Tôn đại từ đại bi, ông phải
phát lồ những tội lỗi, sai lầm và thành tâm sám hối.”
“ Nghe nói như vậy, hành giả lại nên sụp mình xuống đất
và lễ lạy chư Phật.”
“ Khi ấy chư Phật sẽ phóng ánh sáng chiếu vào thân hành
giả, khiến thân và tâm của hành giả tự nhiên hoan hỷ, khởi lòng đại
từ bi, nhớ tưởng đến tất cả mọi sự. Bấy giờ chư Phật sẽ rộng giảng
410 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
cho hành giả về pháp đại từ bi, hỷ xả và cũng dạy cho hành giả nói
lời nhu ái, thực hành sáu hòa kính. Thế rồi hành giả sau khi nghe lời
phán dạy ấy, tâm rất vui mừng, sẽ lại càng tụng đọc và tu tập lời
dạy ấy, không biếng lười, ngưng nghĩ.”
SÁM HỐI THÂN, TÂM.
“Từ hư không lại có âm thanh vi diệu vang lên: “Nay ông
nên thực hành sám hối về thân và tâm. Các tội lỗi về thân là sát
sanh, trộm cắp, tà dâm. Trong khi đó các tội lỗi về tâm là suy nghĩ
những điều xấu ác. Tạo ra mười nghiệp xấu ác và năm tội vô gián
thì giống như khỉ, vượn, như keo nhựa dính mắc tham trước vào
mọi chỗ, đến khắp sáu căn của chúng sanh hửu tình. Các nghiệp của
sáu căn này cùng với nhánh, cành, hoa, lá của chúng đầy khắp hai
mươi lăm trú xứ (135)
, khắp mọi nơi có chúng sanh sinh ra. Các
nghiệp ấy cũng làm tăng trưởng mười hai sự khổ (136)
gồm từ vô
minh cho đến lão tử, tám tà (137),
tám nạn (138)
, không thứ nào là
không trải qua. Nay ông nên sám hối về các nghiệp xấu ác như thế.”
“ Hành giả nghe được như thế xong liền hỏi âm thanh ở
không trung ấy rằng: “Nay con có thể thực hành pháp sám hối tại
chỗ nào?”
“ Âm thanh ở không trung liền đáp: “Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni được gọi là Tỳ Lô Gía Na Biến Nhứt Thiết Xứ và nơi ở của
ngài tên là Thường Tịch Quang, nơi này được hình thành bởi Ba la
mật Thường Hằng và được an lập bởi Ba la mật Tự Ngã, là nơi của
Ba la mật Diệt Thọ tưởng, là nơi mà Ba la mật Tịnh lạc diệt tướng
trạng của hửu và là nơi không thấy tướng trạng của các pháp Hửu
và Vô, là nơi của giải thoát tịch tịnh Ba la mật Trí tuệ. Vì đấy là
pháp thường hằng. Ông nên quán niệm chư Phật ở mười phương.”
411 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“ Bấy giờ chư Phật ở mười phương mỗi vị đều duỗi tay
phải xoa đầu hành giả mà dạy: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử!
Vì ông đã tụng đọc kinh đại thừa nên chư Phật ở mười phương sẽ
giảng pháp sám hối. Những gì chư Bồ Tát làm không phải là dứt
đoạn phiền não, cũng không trụ vào biển phiền não. Hãy quán tâm
là vô tâm. Tâm từ cái tướng điên đảo ấy mà khởi thì đấy chỉ là cái
tâm của tưởng điên đảo ấy. Tâm từ cái tưởng hư vọng mà khởi thì
đấy cũng như gió trên không trung không có chỗ tựa, chỗ dừng.
Những tướng trạng của pháp như thế thì không sinh, không diệt,
vậy cái gì là tội lỗi? Cái gì là phước đức? Tâm ta tự nó không thì tội
lỗi và phước đức cũng không có. Tất cả các pháp cũng như thế,
không ổn trụ, cũng không hư hoại. Hãy quán tâm là vô tâm, pháp
không trụ trong pháp. Các pháp đều là giải thoát, là diệt đế, tịch
tịnh. Suy tưởng như thế gọi là sư sám hối lớn lao, là sự sám hối
trang nghiêm, là sự sám hối không có tướng trạng của tội lỗi và là sự
phá hoại cái tâm phân biệt.”
“ Người thực hành sự sám hối này có thân và tâm thanh
tịnh, không bị gắn chặt vào pháp, giống như dòng nước vậy. Trong
từng ý nghĩ, người ấy đều được thấy Bồ Tát Phổ Hiền và chư Phật ở
mười phương.”
“ Bấy giờ chư Thế Tôn phóng ánh sáng đại từ bi thuyết
giảng pháp vô tướng cho hành giả. Hành giả nghe chư Thế Tôn
thuyết giảng về cái Không đệ nhất nghĩa (139)
. Khi hành giả nghe
xong, tâm không sợ hãi, ngay đó liền nhập vào địa vị của Bồ Tát.”
“ Đức Phật bảo ngài A Nan: “Thực hành như thế gọi là
sám hối. Đây là phép sám hối mà chư Phật ở mười phương và chư
Đại Bồ Tát đã thực hành. Sau khi đức Phật diệt độ, nếu các đệ tử
của đức Phật sám hối các nghiệp xấu ác của mình thì họ chỉ cần
tụng đọc kinh điển đại thừa. Các kinh Phương Đẳng này là mắt của
chư Phật.”
412 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“ Do các kinh này mà chư Phật có được năm loại mắt (140)
.
Ba loại thân (141)
của đức Phật cũng phát sinh từ các kinh Phương
Đẳng. Đây là pháp ấn to lớn, ấn vào biển Niết Bàn. Ba loại thân
thanh tịnh của đức Phật được sinh ra trong biển này. Ba loại thân
này của đức Phật là ruộng phước của Trời và Người và là thứ vô
thượng, đáng cúng dường.”
“ Nếu có ai tụng đọc các kinh Phương Đẳng đại thừa thì
ông nên biết rằng người ấy được các công đức của đức Phật, những
xấu ác vĩnh viễn bị tiêu diệt và người ấy được sinh ra từ trí huệ của
đức Phật.”
“ Bấy giờ đức Thế Tôn lập lại ý chính của giáo lý bằng
bài kệ:
Ai xấu ác về mắt
Nghiệp chướng mắt bất tịnh
Hãy nên tụng đại thừa
Suy nghĩ nghĩa thứ nhất
Đấy là sám hối mắt
Để dứt mọi nghiệp xấu
Tai nghe tiếng rối loạn
Phá rối nghĩa hòa hợp
Do đó khởi cuồng loạn
Như khỉ vượn ngu ngốc
Hãy nên tụng đại thừa
Quán pháp không vô tướng
Dứt mãi mọi xấu ác
Tai trời nghe mười phương
Mũi ngữi các mùi hương
Do nhiễm xúc gíac khởi
Như thế mũi nhiễm ô
Do nhiễm bụi trần sinh
Nếu tụng kinh đại thừa
Quán pháp là chân thật
413 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nghiệp xấu mãi xa lìa
Đời sau chẳng sinh lại
Thiệt căn khởi năm thứ
Ac khẩu, nghiệp bất thiện
Nếu muốn kiểm soát chúng
Phải cố tu lòng từ
Quán pháp nghĩa chân tịch
Không có tướng phân biệt
Ý tưởng như khỉ vượn
Chẳng có lúc tạm ngưng
Nếu muốn khuất phục nó
Phải chăm tụng đại thừa
Niệm thân Phật Đại Giác
Và năng lực, vô úy
Thân là chủ các căn
Như bụi chuyễn theo gió
Lang thang trong sáu giặc
Tự do không chướng ngại
Nếu muốn diệt ác này
Xa rời mãi trần lao
Trú mãi thành Niết Bàn
An lạc tâm bình lặng
Phải tụng kinh đại thừa
Niệm mẹ (142)
của Bồ Tát
Vô lượng cách thiện xão
Do quán thực mà được
Sáu thứ đã nêu ấy
Gọi là sáu tình căn
Biển của mọi nghiệp chướng
Đều sanh từ vọng tưởng
Nếu ai muốn sám hối
Ngồi thẳng niệm thực tướng
Mọi tội như sương, móc
Mặt trời trí làm tan
414 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Vì thế cần dốc lòng
Sám hối sáu tình căn (143)
.
“ Nói kệ xong, đức Phật lại bảo ngài A Nan: “Nay ông
nên thọ trì phương pháp sám hối về lục căn của Bồ Tát Phổ Hiền,
rồi đem giảng rỏ, phổ biến khắp chư thiên trong vũ trụ và loài
người. Sau khi đức Phật diệt độ, nếu các đệ tử của đức Phật thọ trì
tụng đọc và thuyết giảng các kinh Phương Đẳng thì nên tại chỗ yên
tịnh, hoặc chỗ nghĩa địa, hoặc dưới cội cây, hoặc chốn a lan nhã
(Aranya) (144)
, đọc tụng các kinh Phương Đẳng, nghĩ đến ý nghĩa đại
thừa. Do sức niệm tưởng mạnh mẻ, họ có thể thấy Ta, thấy tháp của
đức Phật Đa Bảo, vô lượng chư Phật phân thân ở mười phương, Bồ
Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát
Dược Thượng.”
“Do họ cung kính pháp nên chư Phật và chư Bồ Tát ấy
đứng giữa không trung, cầm các thứ hoa vi diệu mà tán thán, kính
lễ người hành trì Phật pháp. Do họ chỉ tụng các kinh Phương Đẳng
đại thừa, chư Phật và chư Bồ Tát sẽ ngày đêm cúng dường những ai
thủ trì pháp.”
“Ta cũng như chư Bồ Tát trong hiền kiếp và chư Phật ở
mười phương, nhờ nghĩ đến ý nghĩa chân thực của đại thùa nên nay
đã sạch hết mọi tội lỗi của sinh tử trong suốt trăm vạn ức a tăng kỳ
kiếp. Nhờ pháp sám hối thắng diệu này mà nay chúng ta mỗi vị đều
thành Phật. Nếu ai muốn chóng đạt trí tuệ tối thượng và muốn ngay
trong đời hiện tại thấy được chư Phật ở mười phương cùng Bồ Tát
Phổ Hiền, người ấy phải tắm gội cho sạch sẻ, mặc áo sạch sẻ, thắp
hương quý, tại chỗ thanh vắng, cần phải tụng đọc các kinh đại thừa
và nghĩ đến ý nghĩa của đại thừa. Nếu có những chúng sanh muốn
quán Bồ Tát Phổ Hiền thì nên quán như thế. Quán như thế gọi là
chánh quán. Nếu quán khác đi thì đấy gọi là tà quán.”
“Sau khi Phật diệt độ, hàng đệ tử của Phật vâng theo lời
Phật dạy mà thực hành sám hối, thì nên biết rằng những người ấy
415 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
đang thực hành hạnh Phổ Hiền. Những ai thực hành hạnh Phổ Hiền
thì không thấy các tướng ác, nghiệp ác. Nếu có chúng sanh nào ngày
đêm sáu thời lễ bái chư Phật ở mười phương, tụng kinh đại thừa, tư
duy về pháp thẩm sâu của đệ nhất nghĩa thì chỉ trong thời gian búng
ngón tay, những người ấy sẽ tiêu trừ hết mọi tội lỗi của sinh tử đã có
trong suốt trăm vạn ức a tăng kỳ kiếp. Người thực hành hạnh này là
nam tử thực sự của đức Phật, từ chư Phật mà sinh ra. Chư Phật ở
mười phương và chư Bồ Tát đều là Hòa thượng của người ấy. Đấy
gọi là người thành tựu đầy đủ giới của chư Bồ Tát. Không cần phải
qua nghi thức Yết ma (145)
, tự nhiên người ấy cũng thành tựu địa vị
Bồ Tát, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của tất cả Trời và
Người.”
“Lúc ấy hành giả muốn thành tựu Bồ Tát giới, vị ấy phải
chắp tay tại một nơi thanh vắng, lễ bái chư Phật ở mười phương mà
sám hối tội lỗi của mình. Sau đó tại mộtnơi yên tỉnh, vị đó phải bạch
chư Phật ở mười phương rằng: “Kính bạch Phật Thế Tôn thường
trụ ở thế gian! Do nghiệp chướng, tuy tin vào các kinh Phương
đẳng, con vẫn không thể thấy được chư Phật. Nay con quy y chư
Phật. Con xin Thế Tôn Chánh Biến Tri Thích Ca Mâu Ni làm Hòa
Thượng truyền giới cho con. Bạch ngài Văn Thù Sư Lợi đầy đủ trí
tuệ lớn! Xin ngài dùng trí tuệ mà truyền cho con pháp của chư Bồ
Tát thanh tịnh. Bạch Bồ Tát Di Lặc, mặt trời từ bi lớn lao và cao cả!
Xin ngài vì lòng thương xót con mà cho con được thọ nhận pháp của
chư Bồ Tát. Bạch chư Phật ở mười phương, xin chư Phật hiện thân
mà chứng giám cho con! Bạch chư Đại Bồ Tát, xin chư vị mỗi vị
xưng danh của mình, là những bực đại sĩ cao cả che chở cho chúng
sanh, hộ trợ cho chúng con.”
“Ngày nay con thọ trì các kinh Phương Đẳng, dù có mất
mạng, dù phải đọa địa ngục chịu vô lượng khổ, con cũng sẽ không
bao giờ phĩ báng Chánh pháp của chư Phật. Do sức công đức của
nhơn duyên ấy.
416 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
“Bạch đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Xin đức Phật hãy làm
Hòa Thượng truyền giới cho con.”
“Bạch ngài Văn Thù Sư Lợi! xin hãy là giáo thọ của con.”
“Bạch ngài Di Lặc của tương lai! Xin ngài truyền pháp
cho con.”
“Bạch chư Phật ở mười phương! Xin chư Phật chứng giám cho
con.”
“Bạch chư Bồ Tát đức lớn! Xin hãy làm bạn của con. Nay con
nương tựa vào ý nghĩa thâm sâu vi diệu của các kinh đại thừa mà
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.”
“ Hành giả phải nói như thế ba lần. Quy y Tam Bảo xong,
kế đến người ấy phải tự mình thệ nguyện thọ nhận sáu trọng pháp (146)
.”
“ Thọ nhận sáu trong pháp xong, kế đến người ấy phải nổ
lực tu tập. Phạm hạnh vô ngại, phát tâm cứu độ hết tất cả chúng
sanh và thọ nhận tám trọng pháp (147)
.”
“ Sau khi lập nguyện như thế tại nơi thanh vắng, người
ấy phải đốt hương quý, rải hoa cúng dường tất cả chư Phật, chư Bồ
Tát và các kinh Phương Đẳng đại thừa và tác bạch rằng: “Nay con
phát tâm bồ đề, mong công đức này cứu độ tất cả chúng sanh!”
“ Tác bạch như thế xong hành giả lại phải đảnh lễ tất cả
chư Phật, chư đại Bồ Tát, phải nghĩ đến ý nghĩa của các kinh
Phương Đẳng. Suốt một ngày hoặc ba lần bảy ngày, dù người ấy là
xuất gia hay tại gia, không cần phải có Hòa Thượng, cũng không
cần phải có các thầy y chỉ, cũng chẳng cần qua lễ yết ma, do sức
phát sinh từ vị thọ trì đọc tụng các kinh điển đại thừa và do những
công việc mà Bồ Tát Phổ Hiền khuyên bảo người ấy làm những công
việc này là những con mắt chánh pháp của chư Phật, do như vậy
nên tự nhiên người ấy thành tựu được pháp thân năm phần: giới –
417 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
định – tuệ – giải thoát và giải thoát tri kiến. Tất cả chư Phật, chư
Như Lai đều đã sinh ra từ pháp này và đã được thọ ký trong các
kinh đại thừa.
“ Cho nên, người trí giả như một Thanh văn phá bỏ tam
quy, năm giới, tám giới, các giới của tỳ kheo, các giới của sa di ni,
các giới của Thức xoa ma na và các uy nghi, và giả như do người ấy
ngu si, do tâm xấu ác, tà vạy mà phạm các giới và các uy nghi. Nếu
người ấy muốn trừ diệt khiến không còn các lầm lỗi để lại trở thành
một Tỳ kheo đầy đủ các pháp của hàng sa môn, thì người ấy phải
chăm chỉ đọc các kinh Phương Đẳng, tư duy về pháp Không (148)
thâm sâu của Đệ nhất nghĩa, khiến cái trí tuệ Không tương ứng với
tâm mình. Nên biết rằng trong mỗi một niệm, một ô nhiễm tội lỗi
của người ấy sẽ vĩnh viễn chấm dứt, không còn chút dư tàn.
Đây gọi là người đầy đủ các pháp và giới của hàng Sa môn và đầy
đủ các oai nghi. Người như thế sẽ xứng đáng được hết thảy Trời và
Người cúng dường.”
“ Giả như có ưu bà tắc vi phạm các oai nghi và làm các
việc xấu. Làm các việc xấu tức là bảo rằng Phật pháp là sai lầm, là
xấu, bàn luận những việc xấu của bốn chúng, phạm tội trộm cắp, tà
dâm mà không biết hổ thẹn. Nếu người ấy muốn sám hối và đoạn
trừ các tội lỗi thì phải chuyên đọc tụng các kinh Phương Đẳng và tư
duy về nghĩa Đệ Nhất.”
“ Giả như có một vị vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ,
trưởng giả, quan viên. Giả như những vị này mãi mê tham cầu các
dục lạc, phạm năm nghịch tội, phỉ báng các kinh Phương Đẳng, làm
đủ mười điều ác. Quả báo của những điều ác lớn lao này sẽ khiến họ
bị đọa vào các đường ác nhanh hơn mưa bảo. Chắc chắn họ sẽ bị rơi
vào địa ngục A Tỳ. Nếu họ muốn diệt trừ các nghiệp chướng này thì
họ phải khởi lòng hổ thẹn và cãi hối các tội lỗi.”
“ Tại sao gọi là pháp sám hối của các Sát đế lỵ (149)
và cư
sĩ? Pháp sám hối này nghĩa là họ phải chánh tâm, không phỉ báng
418 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tam bảo, không gây trở ngại cho hàng xuất gia, không làm ác đối
với người thực hành phạm hạnh. Họ phải quyết chí tu sáu phép
quán niệm. Họ cũng phải ủng hộ, cúng dường người trì giữ đại thừa,
lại phải nhớ niệm đến cái Không của ý nghĩa Đệ Nhất của kinh pháp
thâm sâu.”
“ Đấy gọi là phép tu sám hối đệ nhất của hàng Sát đế lỵ
và hàng cư sĩ.”
“ Phép sám hối thứ hai là hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính
các vị thầy, các vị trưởng thượng.”
“ Phép sám hối thứ ba là trị nước theo chánh pháp,
không ép uổng nhân dân một cách tà vậy.”
“ Phép sám hối thứ tư là ra lệnh khắp nước giữ sáu ngày
trai giới khiến người ta không sát sanh.”
“ Phép sám hối thứ năm là tin vào nguyên nhân và kết
quả một cách sâu đậm, tin vào con đường của cái thực tánh duy
nhất và biết rằng đức Phật là bất diệt.”
“ Đức Phật nói với ngài A Nan: “Trong tương lai nếu có
ai thực hành các phép sám hối này thì hãy nên biết rằng người ấy đã
mặc áo của hổ thẹn, được chư Phật che chở và giúp đở, chẳng bao
lâu sẽ đạt được trí tuệ tối thượng.”
“ Khi đức Phật dạy như thế xong, mười ngàn thiên tử đạt
được pháp nhãn tịnh, chư Đại Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc cùng các vị
khác trong chúng, và ngài A Nan đều hoan hỷ phụng hành.”
Kinh QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP đến đây là hết.
419 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện, (Mười điều nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền)
Mười hạnh nguyện này Phật tử đều có tụng đọc hằng ngày,
chỉ mong rằng sau khi đọc xong hết quyển Tôi hiểu kinh Pháp Hoa
như thế nào, thì Mười điều nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền sẽ là
Chánh nhân của Phật quả cùng Tịnh duyên của tịnh độ.
MƯỜI HẠNH NGUYỆN CỦA ĐỨC PHỔ HIỀN.
Nhất giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công đức
Lục giả thỉnh chuyễn pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sanh
Thập giả phổ giai hồi hướng.
“ Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu
mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?”
Một là lễ kính các đức Phật
Hai là khen ngợi đức Như Lai
Ba là rộng sắm đồ cúng dường
Bốn là sám hối các nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ các công đức
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời
Tám là thường học đòi theo Phật
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
420 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Thiện Tài bạch rằng: “Đại Thánh! Lễ kính như thế nào
cho đến hồi hướng như thế nào?”
Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng: “Này thiện nam tử!
Nói “Lễ kính các đức Phật” là như vầy:
Bao nhiêu các đức Phật Thế Tôn nhiều như số cực vi trần (150)
trong cõi Phật khắp pháp giới hư không giới, mười phương ba
đời, tôi do nơi hạnh nguyện của Phổ Hiền thâm tâm tín giải như đối
trước mắt, đều dùng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh thường tu
hạnh lễ kính. Nơi mỗi đức Phật đều hóa hiện thân nhiều như số cưc
vi trần trong bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi thân đều khắp lễ kính các
đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả
thuyết (151)
cõi Phật. Cõi hư không kia hết, sự lễ kính của tôi mới hết.
Nhưng cõi hư không chẳng cùng tận. Nhẫn đến cõi chúng sinh hết,
nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết, sự lễ kính của tôi
mới dứt.
Nhưng cõi chúng sinh cho đến phiền não chẳng hết, nên
sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không
hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Này thiện nam tử! Nói “Khen ngợi đức Như Lai” là như
vầy: Bao nhiêu số cực vi trần trong cõi nước khắp cùng hư không
pháp giới mười phương ba đời trong mỗi cực vi đều có các đức Phật
nhiều như số cực vi trong tất cả thế gian. Nơi mỗi đức Phật đều có
rất đông Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi phải trọn dùng sức thậm
thâm thắng giải tri kiến hiện tiền, đều dùng lưỡi vi diệu hơn Biện
Tài Thiên nữ. Mỗi lưỡi phát xuất vô tận âm thanh hải. Mỗi âm
thanh diễn xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi các công đức hải của
tất cả đức Như Lai, ca ngợi đến tột đời vị lai nối luôn không dứt,
khắp cả pháp giới không sót chỗ nào. Như vậy hư không giới, chúng
sinh giới, chúng sinh nghiệp, chúng sanh phiền não đều hết, thời sự
khen ngợi công đức cửa chư Phật của tôi đây mới cùng tận.
421 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Nhưng cõi hư không kia cho đến phiền não của chúng
sinh chẳng cùng tận, nên sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận,
niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề
nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Rộng sắm đồ cúng dường”
là như vầy:
Bao nhiêu số vi trần trong khắp cõi Phật cùng hư không
pháp giới mười phương ba đời, trong mỗi cực vi trần đều có chư
Phật như số cực vi trần trong tất cả thế giới, nơi mỗi đức Phật có vô
số Bồ Tát vây quanh nhóm họp.
Tôi dùng sức hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền mà khởi
lòng tín giải rất sâu và hiện tiền tri kiến, đều đem đồ cúng dường
thượng diệu mà cúng dường pháp hội của Phật. Như là: Mây hoa,
mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàng lọng cõi trời, mây y
phục cõi trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương đốt, hương bột.
Các thứ mây trên đây thảy đều nhiều lớn như núi Tu Di (152)
.
Lại thắp các thứ đèn: đèn tô lạc, đèn dầu, các thứ đèn
dầu thơm, mỗi tim đèn lớn như núi Tu Di, dầu trong đèn như nước
bể cả. Đem các thứ đồ cúng dường như trên để thường cúng dường.
Thiện nam tử! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng
dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng như lời Phật
dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường,
nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thế cho chúng sanh
để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ
hạnh Bồ Tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ Tát để cúng dường.
Thiện nam tử! Như vô lượng công đức của sự cúng
dường trước kia sánh với một niệm công đức của pháp cúng dường,
thời không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không
bằng một phần trăm ngàn, cu chi na do tha, một phần ca la, một
422 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
phần toán, một phần số, một phần dụ cũng chẳng bằng một phần ưu
ba ni sa đà. Vì sao? Vì các đức Như Lai tôn trọng chánh pháp. Vì
theo đúng như lời Phật dạy mà tu hành thì sinh ra các đức Phật.
Nếu các Bồ Tát thực hành pháp cúng dường, thì trọn nên sự cúng
dường Phật. Tu hành như vậy mới thật là cúng dường. Nên pháp
cúng dường là sự cúng dường rất rộng lớn hơn tất cả.
Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp
chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự cúng dường
của tôi mới cùng tận, nhưng cõi hư không cho đến phiền não chẳng
cùng tận, nên sự cúng dường của tôi cũng không cùng tận, niệm
niệm nối luôn không hở, thân, khẩu, ý nghiệp không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Sám hối nghiệp chướng” là
như vầy:
Bồ Tát tự nghĩ rằng: Tôi từ vô thỉ kiếp về quá khứ do
lòng tham lam, giận dỗi, ngu si khiến thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô
biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác này mà có hình tướng, thì khắp
cõi hư không cũng chẳng thể đựng chứa hết được.
Nay tôi đem trọn cả ba nghiệp trong sạch đối với trước
các đức Phật và chúng Bồ Tát khắp cực vi trần cõi nước trong pháp
giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm nữa, thường an trụ
nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành. Như vậy hư không
giới cùng tận, chúng sinh giới cùng tận, chúng sinh nghiệp cùng tận,
chúng sinh phiền não cùng tận, thì sự sám hối của tôi mới cùng tận,
nhưng hư không giới cho đến chúng sinh phiền não chẳng cùng tận,
nên sự sám hối của tôi đây cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn
không hở, thân, khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Tùy hỷ công đức”là thế này:
Bao nhiêu đức Phật như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư
không pháp giới mười phương ba đời, từ khi mới phát tâm vì muốn
chứng nhất thiết trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc thân mạng,
423 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
trải qua số kiếp như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả
thuyết cõi Phật. Mỗi kiếp đều thí xả đầu, mắt, tay, chân v.v…nhiều
như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, làm tất
cả những hạnh khó làm như vậy, đầy đủ các môn ba la mật, chứng
nhập các trí địa của Bồ Tát, trọn nên quả vô thượng bồ đề của chư
Phật, cho đến nhập Niết Bàn phân chia các xá lợi. Bao nhiêu căn
lành ấy tôi đều tùy hỷ cả.
Mười phương ba đời tất cả các vị Thanh Văn, Bích chi
Phật, hửu học và vô học có bao nhiêu công đức tôi đều tùy hỷ.
Tất cả chư Bồ Tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu quả
vô thượng Chánh đẳng bồ đề công đức rộng lớn, tôi đều tùy hỷ. Như
vậy hư không giới cùng tận, chúng sinh giới cùng tận, chúng sinh
nghiệp cùng tận, chúng sinh phiền não cùng tận, sự tùy hỷ của tôi
đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp
thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Thỉnh đức Phật thuyết
pháp” là thế này:
Trong số cực vi khắp hư không pháp giới mười phương
ba đời tất cả cõi Phật. Mỗi cực vi đều có cõi Phật rộng lớn nhiều như
số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi trong
một niệm đều có tất cả chư Phật thành Đẳng Chánh Giác số đông
như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tất cả
chúng Bồ Tát nhóm họp vây quanh. Tôi đều đem thân khẩu ý ba
nghiệp dùng những phương tiện ân cần khuyên mời tất cả Phật nói
pháp nhiệm mầu. Như vậy, hư không giới cùng tận, chúng sinh giới
cùng tận, chúng sinh nghiệp cùng tận, chúng sinh phiền não cùng
tận, tôi luôn khuyên mời tất cả các đức Phật chuyễn pháp luân chân
chánh không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp
thân khẩu ý không hề nhàm mỏi.
424 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Lại này Thiện nam tử! Nói “Thỉnh Phật ở lại đời” là như
vầy:
Các đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật
khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện
nhập Niết Bàn, cùng các Bồ Tát, Thanh Văn, duyên Giác, hửu học,
vô học, cho đến tất cả các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời xin
đừng nhập Niết bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp như vi trần trong
tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc. Như vậy
cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh
cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời của tôi đây
vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân
khẩu ý không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Thường học tập theo Phật”
là thế này:
Như đấng Tỳ Lô Giá Na Phật ở cõi ta bà đây, từ khi mới
phát tâm tinh tấn không trễ lui, đem bất khả thuyết bất khả thuyết
thân mạng ra mà bố thí. Lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích
máu làm mực, dùng biên chép kinh điển chất cao như núi Tu Di, vì
tôn trọng chánh pháp nên Phật không tiếc thân mạng, huống là ngôi
vua, thành ấp, cung điện, vườn, rừng v.v… Cùng thật hành bao
nhiêu hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành quả đại bồ
đề, thị hiện các thứ thần thông khởi các sự biến hóa, hiện các thân
Phật ở trong những chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng
của các vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thanh
Văn, Duyên Giác, hoặc ở trong đạo tràng của chuyễn Luân Vương,
các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo tràng của
chúng hội Cư sĩ, Trưởng giả, Bà la môn cùng Sát đế Lợi, nhẫn đến
hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát bộ, Nhân,
phi Nhân v.v… ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn
như đại lôi chấn tùy theo căn tánh của mỗi hạng mà giáo hóa cho
chúng sinh đều được thành thục. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn.
Cả thảy hạnh đức như thế tôi đều học tập theo. Như đức Thế Tôn
425 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Tỳ Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần trong
tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng
như thế ấy, trong mỗi niệm tôi đều học tập theo. Như vậy cõi hư
không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng
tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy học của tôi đây vẫn
không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân khẩu
ý không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Hằng thuận lợi chúng sinh”
là như thế này:
Bao nhiêu chúng sinh sai khác trong tất cả cõi ở mười
phương pháp giới, hư không giới, chính là những loài noãn sinh,
thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, các loài nương nơi chất tứ đại mà
sinh, có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sinh. Các giống
sinh loại các thứ sắc thân, các thứ hình trạng, các thứ tướng mạo,
các thứ thọ lượng, các thứ tộc loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm
tánh, các thứ tri kiến, các thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai
nghi, các thứ y phục, các thứ ăn uống ở trong các thôn dinh, thành
ấp, cung điện, nhẫn đến tất cả Thiên, Long, Bát bộ, Nhân, Phi nhân
v.v… loài không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có
hình sắc, loài không hình sắc, loài có tâm tưởng, loài không tâm
tưởng, loài chẳng phải có tâm tưởng, chẳng phải không tâm tưởng.
Các loài như vậy tôi đều tùy thuận tất cả mà thực hành các sự vâng
thờ cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ bực thầy cùng A La
Hán, nhẫn đến như đức Như Lai đồng nhau không khác.
Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm
lương y; nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường
chánh; nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng; người nghèo
thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng
sinh như vậy.
Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sinh,
thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và
426 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thừa sự chúng sinh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như
Lai. Nếu làm cho chúng sinh vui mừng thì chính là làm cho tất cả
Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi
mà làm thể. Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi lòng
đại bi mà phát tâm bồ đề, nhân nơi tâm bồ đề mà thành bực Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc
cây ấy được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum suê,
tươi tốt. Cây thọ vương bồ đề ở chốn sa mạc sinh tử rộng lớn cũng
như vậy: Tất cả chúng sinh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là quả.
Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sinh thì có thể trổ bông
Bồ Tát trí huệ và kết thành quả Phật toàn giác.
Vì sao thế? Bởi các đức Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi
ích cho chúng sinh thì có thể thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Cho nên quả bồ đề thuộc về chúng sinh, vì nếu không
chúng sinh, tất cả Bồ Tát trọn không thề thành đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Này Thiện nam tử! Ông ở nơi nghĩa ấy nên hiểu như thế.
Bởi đối với chúng sinh mà tâm bình đẳng thì có thể sinh lòng đại bi
đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sinh thì có
thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng
sinh như thế ấy.
Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp
chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận
chúng sinh của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn
không hở, thân khẩu ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.
Lại này Thiện nam tử! Nói “Hồi hướng khắp tất cả” là
như vầy:
427 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
Từ sự lễ kính ban đầu cho đến tùy thuận có bao nhiêu
công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong hư
không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được an lạc,
không các bịnh khổ, muốn thực hành pháp ác thảy đều không
thành, còn tu nghiệp lành thì mau thành tựu. Đóng chặt cửa của tất
cả ác thú, mở bày đường chánh nhân thiên Niết bàn. Nếu các chúng
sinh nhân vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất
cả quả rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sinh đều được giải
thoát, rốt ráo thành tựu quả Vô thượng bồ đề, Bồ Tát tu hạnh hồi
hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận,
nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự hồi
hướng của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không
hở, ba nghiệp thân khẩu ý không hề nhàm mỏi.
Này Thiện nam tử! Ấy là mười hai nguyện lớn đầy đủ
viên mãn của đại Bồ Tát. Nếu các vị Bồ Tát ở nơi mười điều nguyện
lớn này mà tùy thuận tu hành thì có thể thuần thục tất cả chúng
sinh, thì có thể tùy thuận đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
thì có thể trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài Phổ Hiền Bồ Tát.”
Này Thiện nam tử! Do cớ ấy ở nơi các nghĩa trên đây ông
nên hiểu biết như vậy.
Trích trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Bản dịch của Hòa Thượng Hân Tịnh Thích Trí Thủ.
428 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
PHẦN CHÚ THÍCH.
89
Ni kiền tử: Người tu khổ hạnh trần truồng, hay còn gọi là đạo không
biết hổ thẹn.
90
Lộ già da đà: Phái thuận thế ngoại đạo theo thế tục
Nghịch lộ già da đà: Trái nghịch với thuận thế.
91
Na la: kẻ múa hát rông ngoài đường phố.
92
Lời nói phô là lời nói giãn dị, dễ nghe dễ hiểu, khác với lời nói tế, ý
nghĩa thâm sâu, ke phàm phu nghe rồi không hiểu được.
93
Buddhaghosa là một vị Đại tổ sư từng làm rạng rở Phật giáo Tích Lan
(ngày nay là nước Xrilanca). Ngài sanh ở Thiên Trước, gần xứ Gaya vào
thế kỷ thứ mười Phật lịch. Vốn dòng giỏi bà la môn, ngài bỏ bà la môn
giáo theo Phật giáo và xuống đảo Xrilanca, nhằm đời vua Mahanâmân
410-432 Dương lịch trong ngôi đại tịnh xá Mahâvihâra, cảnh chùa lớn
nhất tiêu biểu của Phật Giáo Tích Lan thời đó.
94
Tổ chức xả hội gồm có năm giai cấp : 1-/ Sát Đế Lợi: Giai cấp vua
chúa, hoàng tộc, thời kỳ Phật Thích Ca còn tại thế. Bà La Môn: Giai cấp
bực thầy của quốc dân, gồm những dòng trí thức thông thái, nắm tất cả
các cơ quan văn hóa, giáo dục, lễ nghi trong nước Thiên Trúc thời bấy
giờ.Tỳ Xá: Giai cấp thương mãi, thợ thuyền.Thủ Đà, Chi ên đ à la : Giai
cap lao công , hạng bần cuùng trong xa ã hội.
95
Có bốn loài sanh : 1-/ Noãn sanh: Những loài sanh trứng lớn như chim
cánh vàng (đại bàng kim sí điểu), nhỏ như loài rận rệp.
2-/ Thai sanh: Lớn như loài voi, sư tử, trung bình
như con người, nhỏ nhít như mèo chuột.
3-/ Thấp sanh: Loài cá, ba ba, cua đinh, trùn.
429 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
4-/ Hóa sanh: Loài sâu bọ trong các thứ lương
thực như gạo, bắp, hoặc ở cõi trời, cõi địa ngục.
96
Vây quanh núi Tu Di có bốn châu: 1/ Đông Thắng thần châu. 2/ Tây
Ngưu hóa châu. 3/ Nam Thiệm Bộ châu, hay còn gọi là Nam Diêm Phù
Đề (Jampuripa), là cõi thế giới mà con người đang sống nằm về phương
nam của núi Tu Di. 4/ Bắc Cu Lô châu.
97
Có bốn bực thánh : 1-/ Tu Đà Hoàn: Gọi là quả Nhập lưu, tức là mới
bước vào dòng chảy của Niết Bàn, không nhiễm sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp. Dứt ngã chấp, phân biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu.
2-/ Tư Đà Hàm: Gọi là quả Nhất Vãng lai, nhưng thiệt
không có tướng vãng lai. Bực thánh này đã hết kiến hoặc, còn một lần
sanh lại cõi dục mới dứt hẳn luân hồi.
3-/ A Na Hàm: Gọi là quả bất lai, nhưng không chấp
cái tướng bất lai. Bực Thánh không còn trở lại cõi dục giới.
4-/ A La Hán: Gọi là quả Thanh Văn, tức là trước
tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ, giả. Bực Thánh cao nhất trong hàng
Thanh Văn của Tiểu Thừa giáo. Thoát khỏi hẳn luân hồi lục đạo, xứng
đáng thọ sự cúng dường trời người.
98
Đấng Lưởng Túc: Đấng Phước lực, Trí lực song toàn.
99
Nhập xuất trụ: Mới vào cõi định gọi là nhập, ở trong cõi định gọi là
trụ, từ cõi định dậy gọi là xuất.
100
Bất thối: Không thối lui, ý nói rằng người nói pháp không bao giờ từ
chối giãng giáo lý bất cứ chỗ nào, bất cứ nơi đâu
101
Đà la ni: tiếng Phạn dịch là tổng trì, đặng môn đà la ni này thời nghe
pháp có thể hiểu hết tất cả những ý nghĩa thâm sâu.
102
Vô ngại nhạo thuyết: nói pháp không có gí làm cản ngại, ý nói là thao
thao bất tuyệt.
430 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
103 Triền tổng trì: Người nói pháp chứng đặng môn này thời nói pháp nói
hoài, nói mãi, không nhàm chán, càng nói thì tài biện luận càng vô tận.
104
Tiểu chuyễn luân vương, cai trị từ một đến hai châu thiên hạ.
Đại chuyễn luân vương, cai trị tử ba đến bốn châu thiên hạ.Hai bực
chuyễn luân vương này do nhờ phước báo đời trước, nên lúc lên ngôi
vua có xe bảy báu tự nhiên, hoặc bằng đồng, bằng sắt, bằng bạc, bằng
vàng hiện ra. Vua dùng xe đó mà đi tuần, hoặc dẹp giặc trong cõi mình
cai trị gọi chung là “Chuyễn luân Thánh vương”.
Vua chuyễn luân thánh vương cũng có ba mươi hai tướng tốt. Cho nên
trong kinh Kim Cang đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề:
“Nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai không?” Ngài Tu bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên
dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai. Vì Chuyễn Luân Thánh
Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt.”
105
Kadampa: Khai thị bằng lời, chủ trương thiết lập lại kinh điển sau khi
thấy Phật giáo Tây Tạng bước vào cảnh suy tàn vào đầu thế kỷ thứ mười
một. Giáo pháp quan trọng nhất được gọi là sám hối (Lo-jong)
106
Nữ giới được coi là hiện thân của tội lỗi, là trở ngại vô cùng cho phái
tu hành nam giới, cho nên nơi nào có nữ giới bị coi như nơi đó là địa
ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la. Đến thời đức Phật Thích Ca, nam nữ đều
bình đẳng, bằng chứng là Phật chấp nhận lời đề nghị của thị giả A Nan
nhận bà dì của Phật là bà Ma Ha Ba Xề Ba Đề xuất gia. Từ đó mới có
cụm từ Tỳ kheo ni. Giới luật nữ giới nhiều hơn nam giới.
107
Đặng đà la ni này là có thể hiểu biết hết thảy lời nói của vô số chúng
sanh
108
Chân ca la, tần bà la, a súc bà là những con số hằng tỉ trở lên.
109
Trước khi Phật thành đạo, ngài xin một nắm cỏ mềm của người cắt cỏ
có tên Satica (Svastika), Ở đây đức Phật ngụ ý người nào trải cỏ ngồi
nhất định sẽ chứng đắc đạo Vô thượng Bồ đề.
431 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
110 Có bốn hạng người : Hạng người thứ nhứt: Y theo pháp của Phật dạy
chớ không y theo lời. Vì pháp của Phật thường trụ. Chẳng y theo lời vì
lời văn trau chuốt, bóng bẩy, chua ngoa không thật.
Hạng người thứ hai: Y theo nghĩa không y theo lời, vì lời văn còn gian
dối, nịnh bợ, mà ý nghĩa thời thường còn chẳng sai lệch.
Hạng người thứ ba: Y theo trí không y theo thức, vì Trí tức là Như Lai.
Nếu rỏ biết Như Lai là pháp thân, đó là chơn trí phải y theo, còn thức là
bộ dạng bên ngoài.
Hạng người thứ tư: Y theo kinh liễu nghĩa, không y theo kinh chẳng liễu
nghĩa.. Nghe kinh liễu nghĩa như người học cao hiểu rộng, tức là chỉ
hàng Bồ Tát. Nghe kinh không liễu nghĩa, tức là chỉ hàng Thanh Văn.
111
Ba la di, tội khoa trương, lời nói không thật, việc chưa đặng nói đặng,
chỉ làm cho người ta dể hoang mang, nghi lầm, không nhận ra đâu là
chánh, đâu là tà.
112
Nhứt xiễn đề, chỉ hạng người không có một chút thiện tâm, tức là nói
hạng người không có Phật tánh, họ thuộc vào nhóm tà định. Cõi cao
nhứt trong mười cõi của hạng này là cõi người, mà cũng chỉ là hạng thấp
hèn trong xã hội, sanh ra là đã bị dị dạng, đui, què, câm điếc là bệnh bẩm
sinh.
113
Không còn tâm thức phân biệt giữa người và ta, giữa chúng sanh vời
ta, giữa cuộc sống hư ảo.
114
Quỉ Tử Mẫu, còn gọi là Hoan Hỷ Mẫu, hay là Ai Tử Mẫu, là một nữ
La Sát sống nhờ vào ăn thịt trẻ con. Mỗi ngày phải ăn sống một đứa trẻ.
Đức Phật Thích Ca thấy vậy, bèn dụng thần thông đem giấu năm trăm
đứa con của bà và thuyết pháp cho bà nghe. Từ đó bà xin sám hối, cãi tà
bèn quy y Phật, và phát nguyện rằng từ nay về sau bà chuyên hộ trì Phật
Pháp, và nhất là hộ trì trẻ em.
115
Ep dầu làm sát hại nhiều trùng nên phải bị ương họa. Theo phong tục
của người Tây trúc, trước khi ép dầu phải giả nhỏ loại mè hoặc loại đậu
rồi ủ kín cho sanh trùng rồi mới ép.
432 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
116 Bích Chi Phật có hai hạng:
1. Ra đời không gặp Phật, không gặp chánh pháp, nhơn thấy sự biến
đổi trong đời mà tự ngộ lý vô thường, dứt kiến tư hoặc, thoát ly
sanh tử luân hồi, gọi là Độc Giác.
2. Ra đời gặp Phật, gặp chánh pháp, tu pháp Thập nhị nhân duyên
quán, chứng ngộ vô sanh, thoát ly sanh tử luân hồi, gọi là Duyên
Giác.. Độc Giác hay Duyên Giác, quả vị này ngang với A La Hán.
117
Thiện tri thức không chỉ có nghĩa là bằng hửu, mà còn có ý nghĩa là
người dẫn đạo, là người có trí huệ, có chánh kiến. Bậc thiện tri thức
dùng bốn nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh, đó là Bố thí, Ai ngữ, Lợi
hành, Đồng sự. Bốn pháp này dễ dàng hòa hợp với chúng sanh, làm cho
chúng sanh đối với Phật pháp phát tâm hứng thú, tin sâu vào đạo.
118
Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy:“Tỳ kheo các ông! Sau khi ta
nhập diệt, phải tôn trọng quý kính Ba La Đề Mộc Xoa (Giới luật)
như đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo gặp của báu. Phải biết
pháp này là Thầy của các ông, dù Ta có trụ ở đời cũng không khác
pháp này vậy”. Ba la đề mộc xoa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân,
khẩu và ý, là tri túc thành tựu oai nghi.
119
Ba chướng ác là phiền não, nghiệp chướng, quả báo, cả ba ác này là
pháp gây chướng ngại Thánh đạo, ngăn trở quả báo tốt đẹp nhơn thiên.
Ba chướng ấy mà diệt tận thì sáu căn, mưới ác cho đến tám vạn bốn
ngàn trần lao thảy đều thanh tịnh.
120
Định có ba nhóm: Chánh định là làm điều lành, Tà định là làm điều
ác, Bất định định là người lưng chừng, người xu hướng, làm điều lành
cũng tốt, làm điều ác cũng xong.
121
Tham, sân, si.
122
Từ Sơ địa lên Bát địa, Bất động địa, xem chú thích số 9.
433 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
123 Vô học, tức không còn gì để học thêm nữa. Như người đỗ tiến sĩ bây
giờ.
124
Dây Thương là âm kim thuộc mùa Thu, khúc Nam là khúc tháng tám,
nhờ đây mà được khí thu, cỏ cây ra trái.
125
Dây Giác là âm mộc, thuộc mùa xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng
hai, sinh ra được xuân khí cho nên cây cỏ đơm hoa.
126
Dây Vũ là âm thủy, thuộc về mùa Đông, khúc Hoàng Chung thuộc
tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại.
127 Dây Chủy là âm hỏa, thuộc mùa Hạ, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm
nên được Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan.
128
Âm từ chữ Sama của tiếng Phạn, Hán dịch là Hối quá. Do hai từ tiếng
Phạn và tiếng dịch ghép lại thành từ Sám Hối, có nghĩa là ăn năn lỗi
trước, ngăn ngừa lỗi sau.
129
Đại Phương Quảng (Đại Phương Đẳng) là phương pháp gìn giữ tánh
cách cho người rộng biết tột cùng trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai,
rộng khắp mười phương đông, tây, nam, bằc, thượng, hạ. Kinh Đại
Phương Quảng tức là kinh có một ý nghĩa chơn lý vĩnh hằng, bất diệt,
phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Tất cả những lời Phật dạy, tất cả
những điều Bồ Tát giảng, hoặc những câu vấn đáp được Phật ấn chứng
đều gọi là kinh.(Tudala)
Trong phẩm hai mươi tám, ngài Phổ Hiền bạch Phật “Nếu có tỳ kheo, tỳ
kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc
tụng, người biên chép mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai
mươi mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con
sẽ cỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh, dùng thân
mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ
dạy cho lợi ích vui mừng, cũng lại cho chú đà la ni.”
Trong kinh này, đức Phật dạy người có hạnh thanh tịnh, tinh tấn tu tập
theo hạnh Phổ Hiền, ca ngợi kinh điển đại thừa và tu theo pháp đại thừa,
434 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
thì hoặc một ngày, hoặc hai mưoi mốt ngày, hoặc bốn mươi chín ngày sẻ
được thấy sắc tướng của ngài Phổ Hiền. Hoặc tùy theo nghiệp chướng
nặng nhe, hoặc một đời, hoặc hai đời, hoặc ba đời rồi cũng sẽ nhìn thấy
được ngài Phổ Hiền, nếu người ấy quyết tâm tu hành theo pháp đại
thừa.. Đức Phật dạy tiếp: Cho dù người ấy chưa nhập được tam muội,
nhưng vì họ tụng và trì đại thừa, nên họ sẽ chuyên tâm tu tập không gián
đoạn, không rời đại thừa.
130
Ba chướng là ngã mạn, tật đố và tham dục, ba thứ này gây trở ngại vô
cùng cho người tu hành.
131
Mười lực vô quí, xem lại ghi chú số 6 .
132
Mười tám tính chất đặc biệt: 1/ Không sai lầm về thân thể. 2/ Chánh
ngữ. 3/ Chánh niệm. 4/ Chánh tư duy. 5/ Biết chọn lựa. 6/ Biết nhẫn
nhục. 7/ Quyết tâm cứu độ chúng sanh. 8/ Tinh tấn. 9/ Luôn nghĩ đến
giáo lý của chư Phật trong quá khứ. 10/ Quán niệm không ngừng. 11/ Trí
huệ tăng trưởng. 12/ Giãi thoát mọi phiền muộn. 13/ Thân và trí hành
động hợp nhứt. 14/ Lời và trí không xung đột. 15/ Ý nghĩ và trí tuệ phù
hợp. 16/ Trí tuệ không bị ngăn ngại về quá khứ. 17/ Trí tuệ không bị
ngăn ngại về tương lai. 18/ Trí tuệ không bị ngăn ngại về hiện tại.
133
Ba niệm xứ : Niệm xứ thứ nhứt: Có ai khen ngợi, tán thán công đức
Như Lai, Phật không lấy đó làm vui.
Niệm xứ thứ hai: Có ai phỉ báng, lăng mạ Như Lai, Phật không lấy đó
mà buồn khổ hay giận dỗi.
Niệm xứ thứ ba: Có ai quy ngưỡng Phật pháp, hoặc không quy ngưỡng
Phật pháp, Phật cũng không phân biệt hai hạng người này. Lòng đại từ
đại bi của Như Lai đều đối đãi bằng nhau với họ,
134
Nhờ sức đa văn trí huệ, nên dầu ở trong sáu loài, vẫn nhớ đến bổn
mạng, nhớ đến những hạnh nguyện đời trước của mình. Vì thấy nhớ hết
nên quyết làm lành lánh dữ để cầu giãi thoát sanh tử.
435 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
135 Hai mươi lăm trú xứ gồm có 4 cõi xấu ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh, a tu la; 4 châu lục của cõi người là: Đông Thắng Thần châu, Tây
Cu Ly châu, Nam Thiệm bộ châu, Bắc câu lô châu; 6 cõi Trời dục giới:
Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi; Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời
Hóa Lạc,Trời Tha Hóa Tự Tại; 7 cõi Trời sắc giới: Phạm Chúng, Phạm
Phụ, Đại Phạm, Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền; 4 cõi Trời
vô sắc giới: Không xứ, Thức xứ, Vô sở hửu xứ và Phi phi tưởng xứ. Chỉ
có Như Lai mới thấy đúng như thật trong trạng thái của cõi này. Cõi mà
các cư dân không có hình thể vật lý. Đây là thế giới của thuần ý thức.
136
Mười hai sự khổ tức là sáu căn xung động với sau trần mà phát sinh
ra sáu thức, do đó có sự thương yêu, oán ghét, ngũ dục tạo ra nhiều tội
lỗi.
137
Tám tà tức là tám món điên đảo : 1/ Sự vật trong thế gian là vô
thường mà chấp cho là thường, 2/ ngủ dục lạc không phải vui mà chấp
cho là vui, 3/ thân này không phải là Ta mà cho là Ta.4/ thân này nhơ
nhớp mà cho là sạch sẻ, 5/ pháp thân Phật là thường trụ mà cho là vô
thường, 6/ cảnh Niết bàn là vui mà chấp cho là không vui, 7/ đối với cái
ngã chân thật của pháp tánh mà chấp cho là vô ngã, 8/ đối với pháp thân
của Phật là thanh tịnh mà cho là bất tịnh. Trong tám món tà này, bốn
món đầu là của phàm phu, bốn món sau là của hàng nhị thừa
138
Tám nạn là tám hoàn cảnh của con người sinh ra không đựoc thấy
Phật, không được nghe chánh pháp, không được chư tăng truyền giới.
Đó là sanh trong tám hoàn cảnh 1/ địa ngục, 2/ ngạ quỉ, 3/ súc sanh, 4/
trường thọ niên, 5/ bắc câu lô châu, 6/ Đui, điếc, ngọng, liệt, 7/ thế trí
biện thông, 8/ sanh trước Phật hoặc sau Phật.
139
Ý nghĩa của Pháp Không đệ nhất là chơn lý tuyệt đích và chơn lý đối
đích, người học Phật không hiểu rỏ ý nghĩa chơn lý ấy thì không thể nào
hiểu nỗi nghĩa lý sâu xa và thâm thúy của kinh đại thừa phương đẳng
Diệu Pháp Liên Hoa. Vì không hiểu hết nghĩa của lý đối thì không thể
nào hiểu hết nghĩa của lý tuyệt, như thế thời làm sao hiểu đặng chơn lý
Niết Bàn và đắc chứng Niết Bàn.
436 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
140 Năm loại mắt:
1. Mắt của người có thân thể vật lý; còn gọi là mắt thịt, thấy gần mà
không thấy xa, thấy ngoài mà không thấy trong vì bị sắc chướng
cản ngại.
2. Mắt của chư thiên ở cõi trời Sắc giới; còn được gọi là thiên nhãn
do thiền định mà thành, mắt này thấy bao la xa, gần, trước, sau,
trên, dưới không bị sắc chướng làm cản ngại.
3. Mắt trí tuệ của Thanh văn và Duyên Giác; còn gọi là tuệ nhãn,
quán xét thấy tất cả pháp đều không.
4. Mắt pháp của Bồ Tát Ma ha tát, còn gọi là pháp nhãn, dùng pháp
nhãn thanh tịnh quán thấy hết tất cả chúng sanh trong cỏi ta bà, đâu
còn khổ thì ban pháp cứu tế. và
5. Mắt Phật., còn gọi là Phật nhãn, mắt Phật nhìn rỏ hết tất cả từ xa,
gần, trên, dưới, trong ngoài, sáng, tối.
141
Ba loại thân: Hiện thân, ứng thân, hóa thân.
142
Mẹ của Bồ Tát ở đây là kinh Đại Thừa Phương Đẳng, do nhờ tu tập
và quán niệm pháp Đại thừa mà chư Bồ Tát mau chứng ngộ Phật trí.
143
Sáu tình căn, đây chỉ sáu căn mắt, tai, mủi, lưỡi thân và ý.
144
A lan nhã: Nơi yên vắng, thanh tịnh, chỉ cảnh già lam, am, động.
145
Nghi thức Yết Ma là nghi lễ truyền giới. Vị Hòa thượng, hoặc vị
Thượng tọa, hoặc vị Giáo thọ đọc to giới luật mà đức Phật đã đặt ra cho
cho hàng cư sĩ tại gia (năm giới), hoặc cho vị tỳ kheo (250 giới), hoặc
cho tỳ kheo ni (348 giới)., trong khi đó hàng giới tử thật lòng bày tỏ,
phát lồ những tội lỗi do chính mình tự gây tạo, hoặc bảo người gây tạo,
hoặc là thấy nghe người gây tạo mà làm theo và thệ nguyện từ bỏ không
tái phạm.
146
Sáu trọng pháp tức là sáu giới quan trọng cho hàng cư sĩ: 1/ Không
sát sanh, 2/ Không trộm cắp, 3/ Không tá dâm, 4/ Không nói dối, 5/
Không uống rượu, 6/ Không nói cái lỗi của người khác.
437 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào
147 Tám trọng pháp: Gồm sáu trọng pháp trên thêm hai giới nữa là
Không che đậy lỗi của chính mình và Không coi trọng khuyết điểm của
người khác.
148
Pháp Không tức là pháp Vô Vi, an trụ trong cái tâm vắng lặng, tịch
tịnh thời sẽ hiểu rỏ các pháp đều không, dần dần thấy hiển lộ Niết Bàn.
149
Sát đế Lợi là giai cấp vua chúa, hoàng tộc.
150
Là bụi cực nhỏ, không còn có thể phân tích được nữa. Nhiều cưc vi
trần hiệp lại thành cực vi trần.
151
Là một con số rất lớn trong mười con số lớn nhất của An Độ xưa.
152
Tức là núi Diệu Cao, quả núi lớn nhứt trong các núi ở giữa bốn biển
hương thủy, cao 168000 do tuần, trầm dưới nước 84000 do tuần, nổi trên
cao 84000 do tuần, trong núi có rất nhiều châu báu: vàng, bạc, pha lê,
lưu ly, ánh sáng tỏa ra bón phía. Giữa chừng núi là cõi trời Tứ thiên
vương, trên đỉnh là ba mươ ba nước trời Đao Lợi
Rằm tháng tám năm Nhâm Ngọ (2002)
Cư sĩ TÂM TRỢ NGUYỄN NGỌC HỖ