437
1 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào TÔI HIU KINH PHÁP HOA NHƯ THNÀO ? TP 2 Tâm Trợ NGUYỄN NGỌC HỖ

THẾ NÀO ? TẬ P 2 - honguyen5039.files.wordpress.com · - Tụng kinh Pháp Hoa thoát nữ thân 262 - Ả ... yên sống hạnh phúc đó là một may mắn lớn của kiếp

  • Upload
    dotram

  • View
    215

  • Download
    3

Embed Size (px)

Citation preview

1 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

TÔI HIỂU KINH PHÁP HOA NHƯ

THẾ NÀO ?

TẬP 2

Tâm Trợ NGUYỄN NGỌC HỖ

2 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

3 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

M ỤC L ỤC TẬP 2

QUYỂN NĂM

* Phẩm An lạc hạnh thứ mười bốn 7

- An Lạc hạnh thứ nhứt : Hành xứ 12

- An Lạc hạnh thứ hai : Thân cận xứ 13

- An Lạc hạnh thứ ba : Tâm an lạc 18

- An Lạc hạnh thứ tư : Tâm đại bi 19

- Tình yêu tự ngã 20

- Sự tích quỷ thần Khoáng Dã 23

- Hạnh nhẫn nhục 24

- Hạt kim cương 27

- Thiện căn sanh tâm đại bi 30

- Giọt nước mát lành 41

* Phẩm Tùng địa dũng xuất thứ mười lăm 43

- Ba điều khó tin 56

- Phật tánh có hay không có 60

-Ai truyền giới cho Phật ? 64

- Thời gian 65

- Sự tích nàng Sự phụ 68

* Phẩm Như Lai thọ lượng thứ mười sáu 71

- Đức cổ Phật Thích Ca Mâu Ni 74

- Con số bất khả thuyết 84

- Phước lực nhờ thọ bát quan trai 85

* Phẩm Phân biệt công đức thứ mười bảy 89

- Cúng dường cách nào để được phước báo ? 98

- Tên thợ săn đắp y vàng 101

- Cúng dường y ca sa 104

- Phật tử không nên tự sát 107

* Phần kết của quyển V 110

QUYỂN SÁU

* Phẩm Tùy hỷ công đức thứ mười tám 120

4 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

- Những bài kệ của đức Bồ tát Di Lặc 123

- Đức Cỗ Phật Thích Ca Mâu Ni 143

- Trưởng giả A Nan hà tiện 153

* Phẩm Pháp sư công đức thứ mười chín 156

- Ngưng hơi thở 163

- Nói nhiều có hại 165

- Thân thể và tâm thức 169

- Bồ đề hành kinh 177

- Sông Hằng 180

* Phẩm Thường bất khinh Bồ tát thứ hai mươi 183

- Luận sư A đề Sa và thiền sư Lạt ma Rinchen Zangpo 190

* Phẩm Như Lai thần lực thứ hai mươi mốt 193

- Thanh tịnh sinh ra năng lượng và trí tuệ 195

* Phẩm Chúc lụy thứ hai mươi hai 201

- Bốn Diệu đế 203

- Bốn điên đảo 206

* Phẩm Dược vương Bồ tát bổn sự thứ hai mươi ba 209

- Tự đốt thân, cách cúng dương của Bồ tát 212

- Ngọn lửa Thích Quảng Đức 213

- Quả tim Thích Quảng Đức 218

- Ngọn lửa Thích Nguyên Hương 221

- Ngọn lửa Thích Thanh Tuệ 225

- Ngọn lửa Thích nữ Diệu Quang 226

- Ngọn lửa Thích Tiêu Diêu 227

- Ngọn lửa Thích Quảng Hương 228

- Ngọn lửa Thích Thiện Mỹ 229

- Công đức mười vị Thánh tăng 237

- Vua A Dục và tiền thân 247

* Phần kết của quyển sáu 254

- Tụng kinh Pháp Hoa thoát nữ thân 262

- Ả ca nhi 264

- Thất tiết với chồng 265

- Xảo ngôn với chồng 267

5 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

QUYỂN BẢY

* Phẩm Diệu Âm Bồ Tát thứ hai mươi bốn 270

- Phân biệt tà và chánh 279

* Phẩm Quán thế âm Bồ tát thứ hai mươi lăm 284

- Sự tích Quán thế âm Bồ tát 293

- Sự tích Quan Âm Nam hải 297

- Sự tích Quan âm Thị Kính 305

- Tính cách dân tộc về hai mẫu chuyện 308

* Phẩm Dà la ni thứ hai mươi sáu 310

-Năng lực bí mật của chú Đà la ni 311

- Phật thuyết Lục tự đại minh chương cú 318

- Hiển giáo và mật giáo 320

* Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự thứ 27 327

- Tính cách của nhân vật 332

* Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ 28 336

- Bốn pháp đặng kinh Pháp Hoa 337

- Đại trí, đại bi, đại hạnh 344

- Mười hai bộ kinh 352

* Phần kết của quyển bảy 356

- Thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni 362

- Phật mẩu Chuẩn Đề thần chú 385

- Bài đọc vui : Thảo am. 390

PHẦN THỨ BA

KINH QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP

PHƯƠNG PHÁP SÁM HỐI 392

- Sám hối con mắt 405

- Sám hối lổ tai 407

- Sám hối lổ mủi 408

6 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

- Sám hối cái lưỡi 409

- Sám hối thân tâm 411

MƯỜI HẠNH NGUYỆN CỦA PHỔ HIỀN 420

* Phần chú thích 426

Ngaøi Văn Thuø Sö Lôïi côõi treân con sö töû xanh, töôïng tröng

cho trí hueä saéc beùn caét ñöùt sanh töû luaân hoài.

7 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

QUYỂN NĂM.

Phẩm AN LẠC HẠNH thứ mười bốn.

An lạc hạnh có nghĩa là sống hạnh phúc, an vui. Được bình

yên sống hạnh phúc đó là một may mắn lớn của kiếp người.

Làm được kiếp con người quí báu biết bao nhiêu! Nhưng

thường ít ai quan tâm và hiểu được cuộc sống quí giá này. Thân thể con

người của chúng ta hình thành được trong kiếp này cũng là một nhơn

duyên hản hửu gieo căn lành từ bao kiếp trước. Cho nên đời nay chúng

ta được may mắn làm người, là một người Phật tử đã quy y Tam Bảo,

được hạnh phúc khi thọ trì kinh Pháp Hoa, được an lạc khi đã hiểu

những ý nghĩa thẩm sâu trong kinh thời còn gì bằng.

Như Lai cũng đã từng nói “Kinh Pháp Hoa này ở trong vô

lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà huống là

đặng thấy thọ trì, đọc tụng”. Đã biết vậy, muốn được hưởng an lạc

phải biết sống mạnh khoẻ từ thể chất đến tinh thần, phải biết nên gần gủi

người nào và không nên gần gủi người nào. Điều kiện cần và đủ cho

cuộc sống ngày hôm nay là phải biết giữ sao cho thân người trong kiếp

này trọn hưởng an vui và hạnh phúc.

Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm An Lạc Hạnh

thì cảm thấy niềm tin được củng cố, nghi ngờ được xóa sạch, phẩm hạnh

được tăng cao. Bởi vì thọ trì kinh Pháp Hoa không những đưa cái tâm vô

kỷ luật của chúng ta vào khuôn phép, mà còn đánh thức Phật tánh trong

con người của chúng ta, khiến tâm thức chúng ta nghĩ đến hướng thiện

nhiều hơn, thiền quán tốt hơn, thẩm sâu giáo lý Pháp Hoa cao hơn, xây

dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và tôi miên man nghĩ đến:

Niết Bàn nào ở đâu xa.

Bởi tâm tỉnh giác sinh ra Niết Bàn.

8 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nhớ xưa Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) vị Tổ đời thứ hai

mười tám (thế kỷ thứ mười một Phật Lịch) có nói: “Ở ngoài cái tâm

không có Phật đâu mà tầm. Có ai mà coi Niết Bàn với Đại Ngộ là

những sự ngoài cái tâm, ấy là lầm to vậy. Ngoài sự thật của cái tâm,

mọi sự vật đều giả dối. Chỉ có tư tưởng trong tâm là sốt sắng thôi. Và

khi tư tưởng ngừng nghĩ, tịch yên, ấy là Niết Bàn. Mỗi người đều thấy

Phật và tưởng Phật trong tâm mình. Mơ tưởng một vị Phật nào ở

ngoài cái tâm, cho rằng mình thấy Phật ở một chỗ nào đó, ấy là điên

cuồng lắm vậy.”

Bởi thế, không phải ngó ra ngoài, mà ngó vào trong người và

nhìn kỷ vị Phật mà ta đang có, thì sẽ thấy mỗi người đều có một tâm

thức, tâm thức đó là Phật. Chính lý do đó nên đức Phật nói “Trong mỗi

chúng sanh đều có Phật tánh, trong mỗi chúng sanh đều sẽ thành

Phật.” Cho nên muốn được hưởng bình yên, an lạc phải coi chừng cái

tâm.

Đức Phật dạy rằng: “Hãy canh giữ cái tâm cho kỷ. Hãy chú

trọng đến nó và không để cho nó tưởng quấy, nghĩ bậy, vì khi vừa

nghĩ sái đã có tội rồi. Vì cái muốn trong tâm trí nó giục người ta thi

hành. Làm sái rồi ăn năn, sám hối thì có thể làm sái nhiều lần, ăn

năn nhiều lần, sám hối nhiều lần chỉ hoài công thôi.”

Tất cả sự thanh bạch hay ô uế đều do tâm, nếu tâm rời xa cấu

nhiễm thì được an lạc, bình yên, nếu tâm gần với năm tham, mười ác thì

dầu có thọ trì ba vạn quyển Pháp Hoa Phật tánh cũng không hiện ra. Đức

Phật dạy “Người nào có hai món phước đức và trí huệ tức có Phật

tánh.”

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát,

ngài Sư Tử Hống Bồ Tát bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật tánh? Do nghĩa gì nên

gọi là Phật tánh? Có gì lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh? Nếu chúng

sanh có Phật tánh tại sao lại chẳng thấy được Phật tánh của tất cả

chúng sanh? Thập trụ Bồ Tát trụ những pháp gì mà chẳng thấy Phật

9 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tánh rỏ ràng?Phật trụ những pháp gì mà thấy được rỏ ràng? Thập trụ

Bồ Tát dùng con mắt gì mà chẳng thấy rỏ ràng? Phật dùng con mắt gì

mà thấy Phật tánh được rỏ ràng?”

Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Nếu

có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ trang nghiêm: Một là

trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm

như vậy thời biết Phật tánh, cũng lại rỏ biết gọi là Phật tánh, nhẫn

đến có thể biết thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì, chư Phật Thế Tôn

dùng con mắt gì.”

Ông hỏi thế nào là Phật tánh đó? Lóng nghe, ta sẽ phân

biệt giãi thuyết cho ông.

Này Thiện nam tử! Phật tánh đã gọi là đệ nhứt nghĩa

không, đệ nhứt nghĩa không gọi là trí huệ.

Không đây là chẳng thấy không cùng bất không. Người trí

thấy không và bất không thường cùng vô thường khổ với lạc, ngã

cùng vô ngã. Không là nói tất cả sanh tử. Bất không là nói Đại Niết

Bàn. Nhẫn đến vô ngã chính là sanh tử. Ngã đó chính là Đại Niết

Bàn.

Thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không thời chẳng gọi

là trung đạo, nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã thời

chẳng gọi là trung đạo. Trung đạo đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa này

nên Phật tánh là thường hằng không biến đổi vì vô minh che đậy làm

cho chúng sanh chẳng thấy được. Hàng Thanh Văn, Duyên giác thấy

tất cả không mà chẳng thấy bất không, nhẫn thấy tất cả vô ngã mà

chẳng thấy ngã, do đây nên chẳng được đệ nhứt nghĩa không. Vì

chẳng đặng đệ nhứt nghĩa không nên chẳng đi được nơi trung đạo. Vì

không trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh.

Này Thiện nam tử! Phàm có ba hạng chẳng thấy trung

đạo:

10 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Một là định lạc hành, chính là đại Bồ Tát vì thương xót tất cả chúng

sanh, nên dầu ở địa ngục A tỳ, nhưng an vui như đệ tam thiền.

Hai là định khổ hành, là nói đến hàng phàm phu.

Ba là khổ lạc hành, là nói đến Thanh Văn, Duyên Giác. Vì Thanh

Văn, Duyên Giác hành nơi khổ lạc mà tưởng là trung đạo, do đây nên

dầu có Phật tánh mà chẳng thấy được.

Như ông hỏi nghĩa gì gọi là Phật tánh?

Này Thiện nam tử! Phật tánh chính là Vô thượng bồ đề của tất cả chư

Phật, là chủng tử của trung đạo.”

Trong phẩm An Lạc Hạnh đức Phật chỉ rỏ những điều kiện

cần và không cần, thân cận và không thân cận cho hành giả muốn thọ trì

và đọc tụng kinh Pháp Hoa. Trước khi thẩm sâu vào phẩm kinh chúng ta

hãy cùng quán tưởng thân Phật. Chúng ta hãy tham muốn thân Phật, vì

thân Phật là Pháp thân, Pháp thân ấy do vô lượng công đức trí huệ sinh

ra, do từ bi hỷ xả sinh ra, do tu pháp trợ đạo bồ đề sinh ra. Do bởi những

công đức trí huệ ấy sinh ra Thân Như Lai. Vậy muốn được thân đó thì

phải phát tâm bồ đề, cầu được nhất thiết chủng trí thường, lạc, ngã, tịnh.

Trong sách Bồ đề tâm luận có giảng : “ Bồ Đề tâm này hàm chứa pháp

công đức của hết thảy chư Phật. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo

sư của hết thảy. Nếu quay về gốc thì là cõi Mật Nghiêm, chẳng đứng

dậy khỏi tòa mà thành tựu được hết thảy Phật sự. Nếu ai cầu Phật

huệ mà thông đạt Bồ đề tâm thì ở ngay nơi thân do cha mẹ sinh ra sẽ

mau chứng địa vị Đại Giác.” Tới đây, tâm đã thanh tịnh rồi, chúng ta

hãy bắt đầu đọc phẩm kinh.

“1. Lúc bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát bạch

Phật rằng: ”Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này thật là ít có, vì kính thuận

Phật nên phát thệ nguyện lớn: Ở nơi đời ác sau, hộ trì, đọc nói kinh

Pháp Hoa này. Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát ở đời ác sau thế nào mà có

thể nói kinh này?”

11 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: “Nều vị Đại Bồ Tát ở đời

ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp:

“2. Một, an trụ nơi “hành xứ” và nơi “thân cận xứ” của

Bồ Tát, thời có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn Thù Sư

Lợi! Thế nào gọi là chỗ “hành xứ” của Đại Bồ Tát? Nều đại Bồ Tát

an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu, khéo thuận mà không vụt chạc

lòng, cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt và quán

tưởng như thật của các pháp, cũng chẳng vịn theo, chẳng phân biệt,

đó gọi là chỗ “hành xứ” của Bồ Tát.

“Thế nào gọi là chỗ “thân cận” của Đại Bồ Tát? Vị đại Bồ

Tát chẳng gần gủi Quốc Vương, Vương Tử, Đại thần, Quan trưởng,

chẳng gần gủi các ngoại đạo phạm chí, ni kiền tử (89)

v…v… và

chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm, sách ngoại đạo cùng

với phái “lộ già da đà”, phái “nghịch lộ già da đà” (90)

, cũng chẳng

gần gủi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau và bọn na

la (91)

v…v… bày các cuộc chơi biến hiện.

“Lại chẳng gần gủi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà,

chó, săn bắn, chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người

như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ Tát vì nói pháp không có lòng

mong cầu.

“Lại chẳng gần gủi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà

tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng,

hoặc ở chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở

chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát theo cơ nghi nói

pháp không lòng mong cầu.

“Văn Thù Sư Lợi! Lại vị đại Bồ Tát chẳng nên ở thân

người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói

pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người, chẳng cùng với gái

nhỏ, gái trinh, gái góa v…v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần

năm giống người bất nam để làm thân hậu.

12 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhơn duyên

cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật.

“Nều vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười,

chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu,

huống lại là việc khác.

“Chẳng nên nuôi đệ tử sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng

chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ

vắng tu nhiếp tâm mình. Văn Thù Sư Lợi, đó là chỗ “thân cận” ban

đầu.

“3.- Lại nữa, vị đại Bồ Tát quán sát “Nhứt thiết pháp

không như thiệt tướng”, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối,

chẳng chuyễn, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô

dứt (92)

, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không

tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại,

không chướng, chỉ do nhơn duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho

nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là “chỗ thân

cận” thứ hai của vị đại Bồ Tát.”

Ba đoạn kinh văn trên, Phật dạy hàng Bồ Tát ở trong đời ác

sau muốn thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng kinh Pháp Hoa phải thực hiện

hai điều kiện: Một là ‘Hành xứ”, hai là “Thân cận xứ”.

1.- An lạc hạnh thứ nhứt: HÀNH XỨ.

An trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu.

Chẳng kinh sợ, không vụt chạc lòng.

Hành xứ là Bồ Tát phải cố hết sức mình sống trong hạnh

nhẫn nhục, chịu đựng tất cả sự ngược đãi và khinh miệt của bọn ngoại

13 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đạo. Cho dù trong bất cứ hoàn cảnh thiệt thòi nào, áp bức nào cũng

không được sân hận mà phải biểu hiện sự hoan hỷ và chấp nhận, không

tỏ ra kinh sợ hay vụt chạc lòng.

Như vậy, “hành xứ” là an trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu khéo thuận lòng.

Lòng không vụt chạc cũng chẳng kinh sợ. Ở nơi tất cả pháp không phân

biệt, quán tưởng như thật tướng của các pháp, chẳng vịn theo, chẳng

phân biệt.

Hạnh nhẫn nhục là hạnh của Bồ Tát. Hồi đức Phật còn tại

thế, một hôm Ngài đang ngồi dưới bóng mát một thân cây tàn lá sum

xuê trong một cánh rừng vắng, lúc đó có một con ác quỉ tên là Khoáng

Dã nhìn thấy đức Như Lai đang an nhiên tịnh tọa liền khởi tâm hung ác,

kéo binh tướng đến quấy phá định ăn thịt Phật. Đức Phật bèn hóa ra hình

vị Đại Lực quỉ là vua trong loại quỉ thần. Khoáng Dã quỉ lấy làm sợ sệt

bèn ngã ra bất tỉnh. Phật hiện lại nguyên hình Như Lai thuyết pháp cho

Khoáng Dã quỉ hồi tâm quy y Phật. Từ đó Khoáng Dã quỉ không còn

sinh tâm hung ác nữa, trở lại hiền lương và phát nguyện sẽ hỗ trợ chư

tăng và những người tu Phật. Đó là đức Phật dùng hạnh nhẫn nhục cứu

độ chúng sanh, trước con ác quỉ Khoáng Dã, Như Lai không vụt chạc

lòng, cũng chẳng kinh sợ.

2. An lạc hạnh thứ hai: THÂN CẬN XỨ.

Thân cận xứ được chia ra làm hai phần: Thân cận và bất thân

cận.

Những chỗ thân cận Bồ Tát nên làm:

Quán sát các pháp không như thiệt tướng.

Ở nơi pháp không phân biệt.

Thường xuyên động dụng trí huệ quán tưởng pháp không, không

có cái có, không có cái không, cũng không thể có, cũng không thể

14 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

không, cũng có thể có, cũng có thể không, tất cả đều hư vọng, giả tạo.

Bởi trong pháp, không có cái gọi là hướng Thanh văn thừa, hướng

Duyên giác thừa, hướng Bồ Tát thừa, hường Vô thượng bồ đề. Cũng

không có hướng phàm phu, hướng tục tử, hướng nhiễm, hướng tịnh,

hướng sanh tử, hướng niết bàn. Bởi vì các pháp vốn không. Vì không

cho nên mới gọi là thật tướng.

Đức Phật dạy: “Không đây là chẳng thấy không cùng bất

không. Người trí thấy không và bất không, thường cùng vô thường,

khổ với lạc, ngã cùng vô ngã. Bất không là nói Đại Niết Bàn. Nhẫn

đến vô ngã chính là sanh tử, Ngã đó chính là Đại Niết Bàn.”

Nhiều phe phái muốn bác cái thuyết Không của nhà Phật, họ

nói rằng: Nếu không có gì hết, nếu không có sanh, không có diệt, thì đức

Phật nói Tứ Diệu Đế làm chi, vì không có đau khổ, không biết nguồn

gốc cái khổ, thời làm sao mà diệt khổ. Nều không có đau khổ, không

diệt khổ, thời không có gì chứng đắc. Mà nếu không có Tứ Diệu Đế, thời

sau này sẽ không có Diệu Pháp Liên Hoa kinh.

Như vậy Thuyết không nghĩa là không có Tăng, không có

Pháp, không có Phật?

Thuyết không ở đây không phải chẳng có gì hết. Thuyết

không ở đây là luật. Thuyết không sinh ra tất cả vạn vật và làm cho vạn

vật được tồn tại theo luân hồi và nghiệp báo. Chính nghiệp báo làm cho

tất cả chúng sanh hoặc là sang cả, hoặc là thấp hèn, có kẻ sống lâu, có

người chết trẻ, có kẻ mạnh khoẻ, có người ốm đau, có kẻ tốt tướng, có

người xấu hình, có kẻ oai thế, có người yếu hèn, có kẻ khôn ngoan, có

người ngu dại.Thuyết không là chơn lý tuyệt đối. Kẻ nào bày bác thuyết

không của nhà Phật tức không hiểu chơn lý của Phật Thích Ca Mâu Ni,

cho nên đức Phật mới dạy “Hãy quán sát các pháp không như thiệt

tướng.”

Cũng như thế, khi Bồ Tát quán sát tất cả pháp đều bất khả

đắc, nhưng không phải là không có tất cả pháp. Cũng ví như nói có hư

15 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

không, trong mười phương thế giới tìm hoài, tìm mãi vẫn không thấy hư

không, nhưng không phải là không có hư không.

Bồ Tát là vị đại thí chủ, phàm có việc gì chúng sanh cần Bồ

Tát đều bố thí được cả. Lòng bình đẳng không hề hối tiếc, chẳng trông

quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi tức, chỉ một niệm cầu cứu

khổ tất cả chúng sanh. Bồ Tát vì muốn học tập theo bổn hạnh của chư

Phật, vì yêu mến bổn hạnh của chư Phật, vì bổn hạnh của chư Phật thanh

tịnh, nên hoan hỷ cứu hết chúng sanh thoát khổ, an vui.

Bồ Tát hộ trì tịnh giới, lòng không nhiễm trước sắc, thinh,

hương, vị, xúc, cùng đem sự vô trước ấy nói với chúng sanh, chẳng cầu

oai thế, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc tướng. Chỉ bền giữ một lòng

thanh tịnh như Phật.

Bồ Tát tu hành tinh tấn, tánh không tham sân si, không kiêu

mạng phú tàng. Bồ Tát chỉ vì sự khổ của chúng sanh mà tinh tấn, sự

phiền não của chúng sanh mà tinh tấn. Bồ Tát có thể vì chúng sanh trong

vô số thế giới mà chịu khổ ở vô gián địa ngục, để những chúng sanh đó

được gặp Bồ Tát như thấy được Phật mà hưởng thọ sự vui an lạc.

Bồ Tát thành tựu được hạnh chánh niệm rồi thì tâm không

tán loạn, kiên cố bất động, tối thượng thanh tịnh. Vì do chánh niệm nên

hiểu hết ngôn ngữ thế gian, hay thọ trì ngôn thuyết của các pháp xuất

thế. Vì Bồ Tát học chơn thiệt nghĩa của tam thế chư Phật, nhập chủng

tánh của tam thế chư Phật, đồng thiện căn với tam thế chư Phật.

Những chỗ bất thân cận Bồ Tát chẳng nên làm:

Những người có quyền thế trong xã hội: Quốc vương, vương tử,

đại thần, quan trưởng.

Những kẻ ngoại đạo: Phạm chí, ni kiền tử, phái thuận lộ già da đà,

phái nghịch lộ già da đà.

16 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Những kẻ viết sách thế tục ca ngâm.

Những kẻ sống với nghè ác: buôn bán hàng thịt, nuôi heo, gà, chó,

săn bắn, chài lưới.

Những kẻ hung hiểm, bày cuộc đấm đá, đâm, chém.

Những tỳ kheo, tỳ kheo ni, những ưu bà tắc, ưu bà di, hạng người

tu theo hạnh tiểu thừa. Chỉ biết độ mình mà quên độ người.

Những kẻ dể dàng sanh tư tưởng dục nhiễm: phụ nữ, bán nam bán

nữ, sa di ít tuổi.

Nói về bất thân cận xứ là những điều Bồ Tát không nên làm.

Trong phần này đức Phật có nói “Bồ Tát không được gần gủi”, phải hiểu

ý đức Phật muốn nói dẫu có thân cận nhưng đừng để bị ảnh hưởng,

không lợi dụng người, người không lợi dụng ta, nhứt là đối với những vị

quốc vương, đại thần, quan to, quan nhỏ. Bởi vì Bồ Tát gần gủi những

người này sẽ có mối hiểm nguy về phẩm hạnh, về tư chất thanh tịnh.

Chớ nên dựa dẩm vào chức vụ của họ mà thụ hưởng ân huệ, lợi dưỡng

cúng dường. Đức Phật đã từng phát đại nguyện cứu khổ hết thảy chúng

sanh, thì có đâu lại cấm tăng ni chẳng đặng gần gủi những người như đã

nêu trên thì làm sao độ cho họ thoát khổ? Như vậy chúng ta phải hiểu

như thế nào cho đúng ý của Như Lai dạy? Phải hiểu là dù cho có thân

cận với những bậc quốc vương, những người giàu có nhưng không để

cho quyền lực và tiền tài làm tha hóa con người. Cũng như chúng ta có

thân cận với những kẻ sống bằng nghề ác là để cãi hóa họ chuyễn cách

sinh sống bằng nghề khác, bỏ bớt ăn thịt mà ăn chay. Cũng như với phụ

nữ, những người đã lở sa chân vào cuộc sống đồi trụy, chúng ta có thân

cận là để chỉ cho họ con đường hoàn lương v…v… Hiểu được như vậy

sẽ tránh ngộ nhận ý nghĩa cụm từ “Chẳng đặng gần gủi.” Nhưng nếu đã

có thân cận với những hạng người trên đây, Bồ Tát tùy theo cơ nghi nói

pháp mà không có lòng mong cầu, không làm thân hậu, nhứt là đối với

phụ nữ, không hở răng cười, không bày hông ngực, chuyên một lòng

niệm Phật.

17 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chúng ta hãy đọc tiếp phần kinh văn:

“5. Lại Văn Thù Sư Lợi! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở

trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc,

hoặc miệng tuyên nói, hoặc lúc đọc kinh, đều chẳng ưa nói lỗi của

người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các pháp sư khác,

chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh

văn cũng chẳng nêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng nêu

tên khen ngợi điều tốt của người đó.

“Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiểm, vì khéo tu lòng an

lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn

hỏi, chẳng dùng pháp tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp đại thừa mà vì

đó giãi nói làm cho đặng bực “Nhứt thiết chủng trí”.

“7.- Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc

pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh

ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm

chỗ hay dở của kia. Nều hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà

di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo

đều không đặng làm nảo đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà

nói với người đó rằng: “Các người cách đạo rất xa trọn không thể

đặng bực Nhứt thiết chủng trí”.

“Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung biếng trễ đối với

đạo. Lại chẳng hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả

chúng sanh khởi tưởng đại bi, đối với các đức Như Lai sanh tưởng

như cha lành, đối với các Bồ Tát ở mười phương phải thâm tâm lễ

lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo

pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp

cũng chẳng nói nhiều.

“Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau, lúc pháp

muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói

pháp này không ai có thể não loạn, đặng bạn đồng học tốt chung

18 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

cùng đọc tụng kinh này, cũng đặng đại chúng thường đến nghe họ.

Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay

chép, hoặc bảo người chép cúng dường kinh quyển cung kính tôn

trọng ngợi khen.

“9.- Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị Bồ Tát ở đời rốt sau lúc

pháp gần diệt, có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người

tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ

Tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là

mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng

nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người

đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc Ta đặng Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, Ta dùng

sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt đó khiến trụ trong pháp này.

“Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát đó ở sau lúc Như Lai

diệt độ nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này

không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,

Ưu bà di, Quốc vương, Vương tử, Đại thần, nhân dân Bà la môn, cư

sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng, ngợi khen, hàng chư thiên

ở trên hư không vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong

xóm làng, thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi,

hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến

người nghe đều đặng vui mừng.”

3.- An lạc hạnh thứ ba: TÂM AN LẠC

Bồ Tát muốn trụ trong hạnh an lạc thứ ba này phải ghi nhớ:

Chớ ôm lòng ganh ghét, dối trá.

Chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của họ,

dù là tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc hay ưu bà di, hoặc là người cầu

bực Thanh văn, Duyên giác hay Bồ Tát đạo.

19 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chẳng nên hí luận các pháp, tranh cãi vô lý.

4.- An lạc hạnh thứ tư: TÂM ĐẠI BI.

Là tâm biết xót thương hết thảy chúng sanh, dẹp hết nỗi khổ

đau của chúng sanh, khiến cho chúng sanh được an vui, thanh tịnh, vô

nhiễm. Tâm đại bi hàm chứa hết thảy pháp công đức của chư Phật, cho

nên Bồ Tát muốn thọ trì kinh Pháp Hoa phải khởi tâm đại bi, dù tục gia

hay xuất gia, nếu không có lòng từ bao la thời sẽ mất lợi lớn.

Bồ Tát là những vị có lòng từ bi luôn phát đại nguyện cứu

khổ tất cả chúng sanh, mặc dầu các ngài đã đủ hạnh an lạc để vào cõi vô

dư Niết bàn, nhưng vì lòng thương chúng sanh vô hạn. Thấy chúng sanh

bị đọa đày trong ba cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, các ngài thương xót

muốn chịu khổ thay cho họ. Nhưng làm như vậy thì nghiệp báo không

công bằng. Những kẻ ở dưới kia đang chấp hành nghiệp quả hoặc đời

trước, hoặc đời này, họ phải trả quả hoặc bằng đủ mọi cách. Như vậy

muốn cứu khổ chúng sanh thì Bồ Tát phải dùng diệu lý phân biệt, diễn

giảng cho chúng sanh bừng tỉnh trong cơn mê đồ, mộng ảo. Các ngài

không vụt chạc lòng, cũng chẳng kinh sợ. Mục đích là cứu vớt chúng

sanh thoát khỏi nghiệp báo sanh tử. Vì còn sanh tử thì còn luân hồi.

Tóm lại, nếu có hành giả nào muốn nói kinh Pháp Hoa, phải

an trụ trong bốn pháp: Một là an trụ trong Hành Xứ: Chịu đựng nhẫn

nhục, thuận thảo, không nóng nảy. Tâm bình yên, xem muôn vật như

chơn không thiệt tướng, không phân biệt. Hai là an trụ trong Thân Cận

Xứ: Không gần gủi vua, quan các cấp, không gần gủi ngoại đạo phạm

chí, không gần gủi những bọn người hung hiểm, sống với nghề ác,

không gần gủi phụ nữ, kẻ bán nam bán nữ, trẻ nhỏ. Không điên đảo,

không động, không thối, không chướng, không ngại, chẳng sanh, chẳng

xuất. Ba là an trụ trong hạnh An Lạc: Không nên nói sai quấy của người

và kinh điển. Không khinh rẻ, kiêu ngạo đối với pháp sư. Không nói

điều tốt xấu, hay dở của người khác. Không vạch sai lầm của tỳ kheo, tỳ

kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Bốn là phát tâm Đại Bi: Dù là hàng tại gia

20 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hay xuất gia đều phải sanh lòng từ lớn, nếu không sẽ mất lợi lớn. Thấy

người cơ hàn, khổ sở thì phát khởi lòng từ. Thấy người kêu cứu giúp đở

thì phát khởi lòng từ. Thấy người rên siết, đau đớn vì mất người thân thì

phát khởi lòng từ v.v…

Nên phân biệt lòng từ khác với tình thương yêu. Thương ông,

thương bà, thương cha, thương mẹ, thương anh, thương chị, thương em,

tình yêu lứa đôi, tình yêu vợ chồng. Nhưng lòng từ lại không giống như

tình yêu thương nói trên. Tình yêu thương còn ở trong vòng tự ngã, còn

lòng từ thì đã vượt ra ngoài cái tự ngã. Xin trích ra đây một câu chuyện

trong kinh A Hàm nói về tình yêu thương còn ở trong vòng tự ngã:

TÌNH YÊU TỰ NGÃ.

Một hôm vua Ba Tư Nặc hỏi phu nhân Mạt Lợi:

- Trên đời này ái khanh yêu ai nhất?

Phu nhân Mạt Lợi đáp:

- Dĩ nhiên, người thiếp yêu chính là bệ hạ.

Vua Ba Tư Nặc nói:

- Trẫm cũng đoán rằng khánh sẽ nói như thế.

Phu nhân Mạt Lợi mĩm cười.

- Tâu bệ hạ, nếu Thánh thượng cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi

một tí, nhưng xác thực hơn.

Vua Ba Tư Nặc bảo:

- Khanh cứ nói.

Phu nhân Mạt Lợi thưa:

- Tâu bệ hạ! Người mà thần thiếp yêu nhất chính là thần thiếp.

21 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên.

- Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu khanh muốn nói gì

Phu nhân Mạt Lợi thưa:

- Tâu bệ hạ! Vì có ai trọng tự ngã mình, nên thần thiếp mới yêu

thương bệ hạ, vì bệ hạ là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã này.

Vua Ba Tư Nặc nói:

- Trẫm biết đều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rỏ ý cuả khanh.

Phu nhân Mạt Lợi dè dặt:

- Tâu bệ hạ! Thần thiếp mạng phép nêu ra một câu hỏi: ” Trên đời

này bệ hạ yêu thương ai nhất?

Vua Ba Tư Nặc cười:

- Ai khanh chớ còn ai nữa.

Phu nhân Mạt Lợi hỏi tiếp:

- Giả sử thần thiếp yêu thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ

làm gì?

Vua Ba Tư Nặc lúng túng:

- À! Trẫm sẽ …Trẫm sẽ …

Phu nhân Mạt Lợi nói tiếp:

- Bệ hạ sẽ nổi trận lôi đình chém đầu thần thiếp ngay lập tức phải

không?

Vua Ba Tư Nặc giả lả:

- Khanh hỏi rắc rối quá! Rắc rối thật!

Phu nhân Mạt Lợi hỏi:

- Tâu bệ hạ! Có đúng thế không?

22 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vua Ba tư Nặc đáp:

- À!...À!...

Phu nhân Mạt Lợi hỏi dồn:

- Đúng! Phải không bệ hạ?

Vua Ba Tư Nặc im lặng giây lâu rồi nói:

- Có lẽ khanh nói đúng.

- Thế là bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi.

Yêu người ta nhất đời, mà người ta yêu kẻ khác thì chặt đầu.

Như vậy có yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thiệt thì dù người ta có

thương ai khác, mình cũng vẫn thương người ta. Đàng này người ta

không thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là vì ai? Thương

đó là vì mình. Mình chỉ thương mình thôi. Tất cả mọi đối tượng mà

mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương mình qua tự ngã

của mình là vậy.

Hôm sau vua Ba Tư Nặc xa giá đến tịnh xá Kỳ viên thăm

Phật. Và trình bày câu chuyện đối đáp giữa vua và hoàng hậu. Phật xác

nhận ý kiến của phu nhân Mạt Lợi qua bài kệ như sau:

Tâm ta đi cùng khắp

Tất cả mọi phương trời

Cũng không tìm thấy được

Ai thân hơn tự ngã

Đi tìm khắp phương trời

Cũng không tìm đâu thấy

Ai thân hơn tự ngã

Vậy ai yêu tự ngã

Chớ hại tự ngã người.

23 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đó là lời xác nhận của đức Phật. Chúng sanh yêu thương tự

ngã mình hơn ai hết.

Tình thương tự ngã đem ra so sánh với lòng từ, thấy ngưới ta

neo đơn, nghèo khổ mình thương mình giúp đở, có ai khác giàu hơn

mình, họ thương người đó nhiều hơn mình, họ giúp đở người đó nhiều

hơn mình. Mình thấy mình vui chớ không ghen ghét.

SỰ TÍCH QUỈ THẦN KHOÁNG DÃ.

Nhà chùa có lệ, trước khi ăn ngọ trai, các thầy thường thí

thực cho vị quỉ thần Khoáng Dã cùng chư thần hộ pháp.

Đức Phật dạy:

“Thiện nam tử! Như có một lúc, ta du hành đến cụm rừng kia

thuộc về tụ lạc Khoáng Dã. Phía dưới rừng ấy có một quỉ thần, cũng tên

là Khoáng Dã, ăn ròng máu thịt, đã giết nhiều chúng sanh. Lại ở xóm ấy,

đến lượt quỉ thần Khoáng Dã ăn thịt một người.

“Thiện nam Tử! Lúc ấy ta có thuyết rộng những lẽ cốt yếu

của pháp cho quỉ thần ấy nghe. Nhưng bởi y bạo ác, ngu si, vô trí, nên

chẳng thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân làm vị Đại Lực Quỉ (vua trong các

loài quỉ) náo động cung điện của y, khiến y chẳng ở yên. Khoáng Dã bèn

dắt quyến thuộc và quân binh để chống cự lại ta. Nhưng đến khi thấy ta

(hóa hiện làm vị đại lực quỉ) quỉ liền thất lạc kinh hồn, hoảng sợ và té

xuống đất bất tỉnh như người chết.

“Ta đem lòng từ mẫn, lấy tay xoa mình y. Y tỉnh lại và ngồi

dậy nói rằng: Sung sướng thay! Hôm nay tôi sống trở lại. Vị Đại thần

vương đây có oai đức lớn. Lại có lòng từ mẫn, nên tha tội cho tôi.

24 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Liền đó ở trước mặt ta, y sanh lòng thiện tín. Ta bèn hiện trở

lại thân Như Lai, lại thuyết với y mọi lẽ pháp yếu. Khiến quỉ thần ấy thọ

giới bất sát.

“Ngay bửa ấy, trong thôn Khoáng Dã, có một vị trưởng giả

tới phiên mình phải chết. Những người trong thôn đã tống trưởng giả ấy,

phó cho quỉ thần kia ăn thịt. Khi được mạng người, quỉ thần ấy bèn đem

cúng thí cho ta. Nhận người xong, ta mới đổi danh tự cho trưởng giả,

kêu là Thủ trưởng giả (bàn tay trưởng giả).

“Lúc ấy, vị quỉ thần bạch với ta rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi và

quyến thuộc chỉ trông nhờ vào máu thịt để sống. Nay phải kiên cử, làm

sao mà sống được?

“Ta bèn đáp rằng: Từ nay ta ra lệnh cho các Thanh văn đệ tử,

hể đến tu hành Phật Pháp ở chỗ nào, trước khi thọ trai, tất phải thí món

ăn vật uống cho các ngươi.

“Thiện nam tử! Vì nhơn duyên ấy, ta có chế định cho các tỳ

kheo, tỳ kheo ni điều giới như vầy: Từ nay về sau, các ngươi nên thường

thí thực cho quỉ thần Khoáng Dã ấy. Nếu ở chỗ trụ nào mà chẳng thí như

vậy, thì nên biết rằng bọn ấy chẳng phải đệ tử của ta, mà là đồ đảng

quyến thuộc của Thiên ma.

“Thiện nam tử! Vì muốn điều phục chúng sanh, nên Như Lai thị hiện

mọi thứ phương tiện như vậy, chớ chẳng phải cố ý làm cho họ sanh sợ

sệt đâu.

HẠNH NHẪN NHỤC

Pháp nhẫn hạnh: Bồ Tát thường tu nhẫn pháp, khiêm hạ,

cung kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chỉ dụng tâm thuyết giảng

pháp diệu lý bằng bất cứ mọi phương tiện để cầu mong chúng sanh lìa

xa sự ác, thường hành bát chánh đạo. Muốn duy trì được tâm tỉnh thức

25 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

một cách toàn vẹn và bền vững, thực tập hạnh nhẫn nhục là phương

pháp hiệu quả nhất. Khi có người cố ý làm hại ta, hoặc quấy nhiễu làm

cho ta bực mình khiến ta bộc lộ thái độ không tốt, sự sân hận làm cho

tâm ta mất cảnh giác. Chỉ có hành nhẫn mới giúp được ta thoát khỏi sự

khó khăn này.

Hành nhẫn bằng cách nào? Hãy quán tưởng đến sự lợi lạc của

tánh nhẫn. Hãy so sánh sự lợi lạc của tánh nhẫn và những tác hại của

lòng sân hận. Nó cũng giống như một bên là kiến thiết, xây dựng, một

bên là hủy hoại, phá bỏ. Người tu Phật phải chọn một phương cách hiệu

quả.

Thực tập nhẫn nhục là cách hay nhứt để có cái tâm an bình.

Dù cho ta có gặp phải bao nhiêu tình huống đối nghịch làm não lòng ta,

gây thù hận với ta, hạnh nhẫn nhục giúp cái tâm ta sáng suốt, cái lòng

không vụt chạc. Người biết hành nhẫn là tự mình đã thủ sẳn một lá chắn

không cho mọi phiền não xăm nhập, không bị tám cái khổ quấy nhiễu.

Người đó có quyết tâm chấm dứt luân hồi. Cho nên đức Phật mới dạy

chúng ta phải hành nhẫn rồi mới thọ trì kinh Pháp Hoa, bởi vì kinh Pháp

Hoa có con đường dẫn chúng sanh vào cõi Niết Bàn. Sự nhẫn nhục cũng

làm tiêu tan ác nghiệp đã tạo ra từ bao đời trước.

Muốn hành nhẫn cho có kết quả phải so sánh sự nóng giận và

nhẫn nhục. Về sự nóng giận, Tổ Bụt đà gô sa (93)

(Buddhaghosa) có luận

rằng:

“Anh ơi! Anh đã xuất gia lánh tục mà anh còn giận người

kia, anh hãy nói cho tôi biết coi anh giận ở chỗ nào? Có phải anh giận

tóc, giận lông, giận móng tay, móng chân v…v… chăng? Hay anh giận

chất đất ở trong tóc, hay anh giận chất nước, chất lửa, chất khí ở trỏng

(thân tứ đại)? Hay anh giận năm phần trong người (ngủ uẩn)? Hay anh

giận sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp)? Hay anh giận sáu thức

(nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý)? Hay anh giận hình thể? Hay anh giận

những cái sắc, thọ, tưởng, hành, thức? Hay anh giận một cái quan, một

cái trần, hay một cái thức nào?

26 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Khi đã quán tưởng và phân tích được như thế thì không còn

chỗ nào để chứa chấp cái giận, cũng như không thể nào đặt hột cải trên

đầu cây kim. Bởi vì ta không còn thấy hình dạng của sự giận hiện diện

nữa rồi. Có như vậy ta mới yên tâm hành nhẫn.

Ta hãy nhìn thẳng vào tình huống làm cho ta sắp nổi cơn

thịnh nộ, hay là nhìn thẳng vào kẻ thù đã từng làm cho ta đau khổ, xong

rồi hãy quán từ bi, nhẫn nhục. Trước nhất tình huống sắp nổi cơn thịnh

nộ có quá đáng chăng, có nên bỏ qua chăng, có nên làm cho sư việc từ

nhỏ hóa lớn chăng. Kế đến quán tưởng kẻ thù có làm cho ta khiếp sợ

không, có quật ngã được ta không, có thể ta đã tạo nghiệp quả trước nay

nên họ đến đòi lại chăng v…v… Quán tưởng rồi, ta sẽ thanh lọc được

nhiều ác nghiệp đang chờ chực ta nổi giận nó sẽ xăm hai bản thân ta,

tâm hồn ta. Bởi vì trong tình huống này ta mới có cơ hội để hành nhẫn.

Kẻ thù của ta là thầy dạy ta hành nhẫn hiệu quả nhất.

Sự nhẫn nhục cũng làm cho ta biết thương người hơn thương

chính bản thân ta. Đây cũng là một yêu cầu cấp thiết cho người thọ trì,

đọc tụng kinh Pháp Hoa.

Người ta chỉ vì quá thương mình, cho nên phát lên sân hận

khi có một tình huống lấn cấn đến quyền lợi, sự sống của bản thân, họ

nổi nóng, theo sau là cuồng ngôn, loạn ngữ, kế đến là bêu xấu, đả

thương. Bằng mọi cách họ tranh giành cái lợi sao cho thuộc về họ. Cái ta

sân hận này đối nghịch với cái tâm nhẫn của Bồ Tát, tức là đối nghịch

với chúng sanh, nó làm cho chúng sanh phải chết cho cái ta được tồn tại.

Bởi vì cái ta ham lợi lộc công danh, ham quyền cao chức trọng, cái ta

xúc phạm đến cha me, phá hủy ngôi Tam bảo, làm điên đảo hòa hợp

chúng, trước sau gì cái ta này cũng phải đi xuống ba tầng cõi dưới là địa

ngục, ngạ quỉ và súc sanh.

Các nạn nguy, các đau khổ, các tai họa lớn nhỏ ở đời đều bởi

do từ cái thương thân ta mà ra. Hãy so sánh kẻ ngu muội chỉ lo thân

mình, chỉ muốn mình được sung sướng. Hãy nhìn chư vị Bồ Tát chỉ

muốn lợi cho người, làm sao cho người bớt khổ, làm sao cho người

27 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

không bị thiếu ăn. Hai đối cảnh tương phản nhau. Nhưng rốt cuộc kẻ

ham vui sướng cho mình lại là kẻ khốn khổ nhiều, còn Bồ Tát biết lấy

cái khổ của người làm cài khổ chính mình, biết lấy cái đói của người làm

chính cái đói của mình. Cho nên Bồ Tát vui nhiều.

HẠT KIM CƯƠNG.

Ngày xưa, có một thầy sa môn đến thăm viếng nhà một người

bạn cũ, vốn la thợ kim hoàn, chuyên bán đồ nữ trang. Là một thí chủ có

đạo tâm, thường hay cúng trai tăng tại các chùa, hoặc tại nhà. Cho nên

hôm nay khi thấy vị sa môn đến, chủ nhà vui vẻ làm cơm chay thết đãi.

Cơm nước xong xuôi, chủ khách còn đang ngồi nghĩ giãi lao.

Người chủ kim hoàn tánh hay hờ hửng, tay cầm hạt kim cương săm soi

qua kính hiển vi, bất ngờ có khách gọi, ông bèn bỏ lại viên kim cương

trên bàn và bước ra đón khách. Lúc bấy giờ, có một con két của chủ nhà

nuôi, nhìn thấy hột kim cương chiếu sáng lấp lánh liền bay xuống xớt

qua và nuốt luôn vô bụng. Khi người chủ nhà bước vào, nhớ tới hột kim

cương để trên bàn, giờ thì không thấy, trong lòng rối bấn lên, xụt xạo

tìm kiếm trên bàn lẫn dưới đất mà không thấy, có ý nghi ngờ thầy sa

môn lấy cắp, bèn hỏi rằng:

”Nảy giờ tôi bước ra ngoài nói chuyện với khách, vậy có ai

vào đây không?”

Thầy sa môn đáp: “Không. Chỉ có một mình bần tăng ngồi

tại đây thôi.”

Người chủ nhà nóng nảy quát lớn: “Vậy chớ hột kim cương

tôi để trên bàn đó, đâu mất rồi?”

Thầy sa môn vẫn lặng thinh.

28 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chủ nhà thấy vậy càng thêm nổi nóng và nghi quyết cho thầy

đã lấy cắp viên ngọc, bèn quơ cây đánh đập thẳng tay. Thầy nín thinh

chịu đòn, máu me lai láng. Mỗi lần đòn thù tới tấp vào thân hình gầy yếu

phẳng phiu của thầy, kèm theo những lời đe dọa: “Có lấy cắp viên ngọc

không?” thời thầy một mực nói rằng: “Bần tăng không có lấy cắp viên

ngọc.” Và cứ thế những trận đòn cứ bổ vào thầy khiến thầy chịu không

nỗi đành ngất xỉu.

Con két thấy máu liền bay xuống toan uống. Nhưng vừa lúc

ấy, người chủ nhà vun tay đánh thầy sa môn lại trúng nhằm vào con két.

Nên con két chỉ kịp dảy dụa vài cái rồi lăn ra chết tươi. Chủ nhà thấy

con két khôn ngoan của mình đã chết oan vì ông thầy tu, nên càng sôi

gan quất roi tới tấp vào đầu, vào cổ của thầy. Thầy thấy con két dảy dụa

chết tươi nên khai toạt ra:

”Tôi không lấy hột kim cương. Kẻ đánh cắp hột kim cương là

con két. Chính mắt tôi thấy con két ngậm hột kim cương và nuốt luôn

vào bụng. Không tin, cứ mổ bụng nó ra sẽ thấy”.

Chủ nhà ngừng tay đánh, lấy dao mổ bụng con két ra, quả

nhiên thấy hột kim cương của mình. Người chủ nhà vô cùng hối hận vì

cách đối xử hung bạo của mình. Ông ta chấp hai tay xin lỗi thầy, ông xin

thầy chủ trì cho ông được sám hối, và nói:

“Thầy quả là người ngay thật, sao trước lại không nói ra cho

tôi biết, để tôi phải lở tay phạm nhằm. Trước hay sau con két cũng phải

chết, thầy nói sớm thì tôi không đánh thầy.”

Thầy sa môn liền nói rằng: “Bần tăng thà giữ gìn đạo lý, dẫu

có mất thân này cũng không sao. Lở một lời nói của bần tăng làm cho

con két phải bị chết, thời bần tăng không thể nào an lòng được.Loài

động vật cũng là chúng sanh, loài thực vật cũng là chúng sanh, là chúng

sanh thì vòng đời có sanh có tử, sanh tử tự nhiên đều do quả báo luân

hồi. Ngày hôm nay ông đánh bần tăng ra cơ thể như vầy, chắc là kiếp

trước bần tăng cũng đã đánh ông ra cơ thể như vậy. Bần tăng hôm nay

29 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

trả được nợ trước của ông, nhưng con két lại chết về tay ông, chắc là

ông cũng đã trả xong thù oán kiếp trước.”

Người chủ nhà liền thưa rằng:“Hôm nay tôi giết một sinh

mạng, tôi có phạm vào điều ác không?”

Thầy sa môn đáp: “Ông biết mình phạm tội, ông liền sám hối

với chư Phật, thời tội sẽ tiêu. Biết mình phạm tội mà không chịu sám

hối, tội nhẹ cũng hóa thành nặng. Ví như có người cúng dường trai tăng,

hay làm điều thiện, lở có phạm tội mà không chịu sám hối, còn cố tình

che dấu nào có khác chi viên sỏi ném xuống nước sẽ bị chìm ngay. Còn

người sống ở đời không biết tới mười điều thiện là gì, lở có làm điều ác,

bèn nghĩ tưởng đến Phật, xin Phật chở che một lòng sám hối, nào có

khác chi một trăm viên sỏi được để trên một tấm ván bỏ xuống nước, sỏi

đâu có chìm được. Vì sao? Vì được Phật độ cho an toàn, không xuống

địa ngục mà lên cõi trời vậy.”

Chủ nhà hỏi: “Có điều tại sao thầy không phản đối khi tôi

đánh đập thầy, thậm chí làm cho thân thể thầy tóe máu?”

Thầy sa môn đáp: “Đó là pháp tu hạnh nhẫn nhục của một

sa môn. Ông dầu có đánh đập bần tăng máu me lai láng, bần tăng cũng

không oán hờn ông.Bần tăng không nói con két nuốt viên kim cương

cũng là cái cớ cho ông mắng chửi, đánh đập bần tăng. Tôi biết rằng tôi

vô tội, nhưng vì hành nhẫn mà tôi tự xét rằng có lẽ nghiệp trước của tôi

còn lấn cấn với ông chút đỉnh, nên thà để ông trút hết oán giận vào tôi,

coi như là tôi trả dứt nợ kiếp này. Đồng thời tôi cũng làm đúng theo lời

Phật dạy: “Dẫu cho có người mắng chửi mình, đánh đập mình, phá

hoại mình, mình cũng không oán ghét báo thù.”

Cũng vậy, Phật dạy các đệ tử:

“Này chư đệ tử! cho đến kẻ cường đồ hay quân bạo tợn có

cưa đứt chân cẳng của các người, nếu các người giận thì các người

không nghe theo ta vậy. Trong lúc ấy, các người phải giữ như thế

30 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

này: trí các người không kinh khủng, môi các người không thốt lời

dữ, các người cứ hiền lành, cái tâm đầy sự bác ái và chẳng chứa một

mảy may gì, các người bèn bủa giăng chúng nó bằng tư tưởng thơm

lành, quảng đại, cao thâm vô cùng, vô tận, không có chút gì giận oán

ghét hết. Ay! Các người phải giữ như vậy luôn.”

THIỆN CĂN SANH TÂM ĐẠI BI.

Xin trích ra tám mẫu chuyện tích Phật nói trong kinh Đại Bát

Niết Bàn.

Phật phán với ngài đại Ca Diếp Bồ Tát: Thiện nam tử! Lòng

từ có vô lượng môn, ấy là thần thông.

1.- Thiện nam tử! Như Đề bà đạt Đa xúi giục vua A Xà Thế

muốn hại Như Lai. Lúc ấy ta vào đại thành Vương Xá, lần lượt khất thực

từng nhà. Vua A Xà Thế liền thả con voi Hộ Tài đã bị phục rượu say

cuồng, muốn cho voi ấy hại ta và các đệ tử. Lúc đó voi đạp chết vô

lượng trăm ngàn chúng sanh. Những chúng sanh ấy chết rồi, rất nhiều

hơi máu xông lên. Voi ấy ngửi hơi máu lại hăng say thêm lên. Nó thấy

những người hầu bên ta mặc áo màu đỏ, nó ngở là máu bèn chạy theo.

Trong các đệ tử của ta, những người chưa lìa dục, thảy đều sợ chạy tứ

tán, chỉ trừ A Nan mà thôi.

Trong đại thành Vương Xá, tất cả nhơn dân đồng thời kêu

lên, khóc lóc, kể lể, nói ra mấy lời này: Tại sao chỉ trong một buổi mai,

đức Chánh Giác phải tán hoại! Lúc ấy Đề Bà Đạt Đa lấy làm vui vẻ thốt

rằng: Sa môn Cồ Đàm dứt mất là phải lắm. Từ nay trở đi, chắc thật là

ông ấy không có mặt nữa. Khoái thay cho kẻ ấy! Sở nguyện của ta được

toại rồi.

Thiện nam tử! Lúc ấy ta muốn hàng phục con voi Hộ Tài,

cho nên ta liền vào phép Định Từ, duỗi tay ra mà chỉ nó. Tức thời từ nơi

31 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

năm ngón tay của ta hiện ra năm con sư tử. Con voi ấy thấy vậy rồi, nó

bèn hoảng sợ, té cứt té đái, gieo mình xuống đất kính lễ nơi chân ta.

Thiện nam tử! Lúc ấy đàng đầu năm ngón tay thật không có

sư tử. Đó là sức thiện căn tu lòng từ của ta, khiến con voi ấy chịu điều

phục.

2.- Lại nữa. Thiện nam tử! Khi ta định vào Niết Bàn, lúc mới

cất bước, ta đi về phía thành Câu thi na. Được nửa đường ta thấy có năm

trăm người trong kiến họ lực sĩ đang dọn dẹp, quét tước, rưới nước.,

giữa lộ có một hòn đá. Họ toan bứng bỏ đá ấy, nhưng dùng hết sức mà

chẳng làm nỗi. Lúc ấy ta lấy làm thương xót, liền phát khởi lòng từ.

Những người lực sĩ liền thấy ta dùng ngón chân cái dở hòn

đá to ấy lên ném nó lên hư không, rồi ta đưa tay ra mà hứng tiếp, đặt yên

trong lòng bàn tay mặt. Ta thổi cho đá ấy tan thành bụi. Ta lại làm cho

bụi ấy hiệp trở lại thành hòn đá, khiến lòng cóng cao của những lực sĩ ấy

dứt bặt. Liền đó ta giảng sơ với họ mọi lý cốt yều của Phật Pháp, khiến

họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt Như Lai chẳng có lấy ngón chân

mà hất hòn đá to ấy lên hư không, đặt nơi lòng bàn tay, thổi cho thành

bụi, rồi làm hiệp lại như cũ.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó là sức thiện căn của lòng

từ, khiến các lực sĩ thấy việc như vậy.

3.- Lại nữa thiện nam tử! Ở Thiên Trước đây, có một đại

thành tên là Thủ ba La, trong thành ấy có một trưởng giả tên là Lư Chí,

làm đạo chủ một chúng tu hành. Ay là người đã từng trồng nhiều cội rễ

lành hồi ở quá khứ, ở trước mặt vô lượng chư Phật.

Thiện nam tử! Trong đại thành ấy tất cả nhơn dân đều tin

phục tà đạo, phụng sự phái Ni Kiền (phái thầy tu không mặc quần áo).

Lúc ấy vì muốn độ vị trưởng giả ấy, ta bèn rời khỏi thành Vương xá, đến

32 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thành ấp ấy, ở khoảng giữa đường, còn cách sáu mươi lăm do tuần, ta đi

bộ mà đến đặng hóa độ mọi người ở đó.

Bọn Ni Kiền, sau khi nghe ta sắp đến thành Thủ Ba La, liền

có ý tưởng này: Nều Sa Môn Cồ Đàm đến chốn này, ắt nhơn dân ở đây

sẽ bỏ chúng ta, họ chẳng còn cung cấp cho chúng ta nữa. Chúng ta sẽ

nghèo cùng tiều tụy, làm sao chúng ta sẽ sống nỗi đây?

Bọn Ni Kiền bèn cùng nhau bàn tán, rêu rao với nhơn dân ở

thành ấy rằng: Sa Môn Cồ Đàm nay sắp đến đây. Nhưng sa môn ấy là

người phụ rãy cha mẹ, chạy đông chạy tây. Ông ta đến đâu thì khiến đất

đai và lúa thóc ở đó mất mùa, nhơn dân nghèo đói, nhiều kẻ chết mất,

bệnh dịch xăm hại, không thể giải cứu. Cồ Đàm là kẻ vô lại. Theo sau

ông ta ròng là bọn La sát dữ, quỉ thần dữ. Những kẻ không cha, không

mẹ, cô đơn cùng quẩn đến với ông ta, hỏi han và chịu làm môn đồ của

ông ta. Những điều mà ông ta có thể dạy ròng là thuyết hư không. Ông

ta đến chỗ nào thì chỗ ấy không bao giờ được an lạc. Những người kia

nghe rồi, đem lòng sợ sệt, đầu mặt lễ kính bọn Ni kiền ấy bạch rằng: Đại

sư! Nay chúng tôi nên lập kế gì?

Bọn Ni kiền đáp: Sa Môn Cồ Đàm có tánh ưa thích rừng cây,

suối chảy, nước trong. Ở ngoài thành, nếu có những cảnh vật ấy, nên phá

hủy hết đi. Các ông nên kéo nhau đi ra khỏi thành, đến những nơi có cây

cối, vườn rừng thì chặt đốn cho hết, đừng để lại chi cả. Còn những suối,

giếng, ao thì nên trút phân dơ vào đó. Hãy đóng chặt các cửa thành. Mỗi

nơi ấy, phải sắp đặt binh khí cho nghiêm chỉnh; ở nơi vách thành nên

phòng hộ, giữ gìn cho kiên cố. Nếu người ấy đi đến, đừng cho ai tới

trước mặt người. Nếu chẳng ai tới trước mặt người, các ông sẽ an ổn,

chúng ta cũng sẽ sắp đặt mọi phương thế đặng làm cho ông

Cồ Đàm ấy cứ theo đường cũ mà trở về.

Các nhơn dân ấy nghe vậy rồi thảy đều cung kính, vâng lệnh

thi hành.. Họ bèn đốn chặt cây cối, làm ô nhiễm nguồn nước, bố trí đồ

binh khí tuần phòng và hộ vệ một cách kiên cố.

33 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thiện nam tử! Khi ta đến thành ấy thì chẳng thấy cây cối,

vườn rừng chi cả, chỉ thấy người cầm binh khí đang thủ hộ ở các vách

thành. Thấy việc ấy rồi ta lấy làm thương xót, đem lòng từ hướng về mọi

cảnh vật ở đó, cây cối bèn mọc xanh trở lại như cũ, lại còn đâm chồi nẩy

lộc thêm nữa. Ở những sông, rạch, ao, hồ, giếng, suối nước trở nên trong

sạch, đầy tràn. Nước ấy dường như lưu ly xanh, sanh ra các thứ hoa khác

nhau, che giăng trên nước. Nước ấy lại biến hóa cho vách thành trở nên

lưu ly màu da trời. Từ trong thành, nhơn dân lại thấy suốt ta và đại

chúng. Cửa thành tự nhiên mở rộng, không ai cầm chế được. Các món

binh khí đều biến thành mọi thứ hoa khác nhau.

Trưởng giả Lư Chí làm bực Thượng Thủ, có nhơn dân trong

thành theo sau, cùng đến nơi Phật ngự. Ta bèn giảng cho họ nghe mọi lẽ

cốt yếu trong Phật Pháp, khiến tất cả mọi người đều phát tâm A nậu đa

la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng hóa ra mọi thứ cây cối,

nước chảy trong sạch, đầy tràn sông rạch ao hồ. Ta cũng chẳng biến

thành ấy ra lưu ly màu da trời làm cho nhơn dân thấy suốt đến ta. Ta

chẳng có mở cửa thành biến đồ binh khí thành hoa.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều do sức Thiện căn của

lòng từ, khiến những người ấy thấy việc như vậy.

4.- Lại nữa Thiện nam tử! Trong thành Xá Vệ có một người

đàn bà Bà la môn, họ Bà tư Trá. Bà chỉ có một đứa con trai mà thôi. Bà

rất yêu thương nó, nhưng nó bị bệnh và chết.

Lúc ấy sự buồn rầu độc địa xăm nhập lòng bà, khiến bà

cuồng loạn mất trí. Bà lõa lồ hình thể không biết thẹn, đi lang thang đến

các ngã tư đường la khóc thất thanh, hô rằng: Con! Con! Con đi đến

chốn nào? Bà đi khắp trong thành ấp không biết mệt mỏi. Nhưng nữ

nhơn ấy là người đã có trồng cội đức ở nơi chư Phật thuở xưa.

34 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thiện nam tử! Ta bèn khởi lòng từ mẫn đối với bà. Ngay lúc

ấy, bà được thấy ta, tưởng rằng ta là con của bà. Bà lấy lại bổn tâm, đến

trước mặt ta và ôm lấy thân ta, hôn nút miệng ta. Ta bèn phán vời thị giả

A Nan rằng: Ngươi đem áo lại đây cho nữ nhơn này mặc. Khi bà được

áo rồi, ta bèn giảng cho bà nghe mọi lý cốt yếu trong Phật Pháp. Nghe

pháp xong rồi bà lấy làm vui vẻ thích chí, bà liền phát tâm A nậu đa la

tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng phải là con của bà ấy, bà

chẳng phải là mẹ của ta, cũng chẳng có ôm giữ ta.

Thiện nam tử! Nên nhớ rằng đó đều là do Sức Thiện căn của

lòng từ, khiến nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.

5.- Lại nữa Thiện nam tử! Tại thành Ba La nại co một người

Ưu bà di (nữ Phật tử tại gia) tên là Ma ha Tư na đạt đa, ấy là người đã có

trồng các căn lành hồi đời quá khứ, trước mặt vô lượng chư Phật xưa.

Người Ưu bà di ấy trong chín mươi ngày mùa hạ, có xin phép chúng

tăng phụng thí thuốc thang cho những thầy đau ốm. Trong chúng có một

thầy tỳ kheo thân mang bệnh nặng. Lương y chẩn mạch bảo bệnh nhơn

rằng: Nên dùng món thịt làm thuốc. Nếu ông được thịt, bệnh ông sẽ dứt.

Nếu ông chẳng được thịt, mạng ông phải mất.

Lúc ấy bà Ưu bà di nghe được lời của lương y, bèn cầm tiền

vàng đi khắp chợ và quê, rao hỏi mấy lời này: Ai có thịt bán, tôi mua

bằng vàng. Như ai có thịt, tôi sẽ trao vàng, cân lường bằng nhau.

Bà đi khắp thành thị, nhưng chẳng tìm được thịt. Người Ưu

bà di ấy tự cầm lấy dao thẻo thịt ở bắp vế của mình, cắt ra nấu cháo, gia

vị nhiều thứ hương đem dâng cho thầy tỳ kheo bệnh. Tỳ kheo ấy ăn

xong, bệnh liền được dứt.

Ưu bà di ấy, thương tích hóa thành ghẻ độc, đau đớn khổ

não. Bà chẳng chịu nỗi liền phát tiếng lớn rằng: Nam mô Phật Đà! Nam

mô Phật Đà!

35 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lúc ấy ta đang ở tại thành Xá Vệ, nghe được tiếng ấy ta liền

khởi lòng đại từ đối với nữ nhơn ấy. Tức thì người thấy ta cầm lương

dược phết lên ghẻ độc, da thịt người liền lại như cũ. Ta lại thuyết pháp

mọi lẽ với người. Nghe pháp xong người ấy lấy làm vui vẻ, liền phát tâm

A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Lúc ấy thiệt ta chẳng đến thành Ba la nại, đem

thuốc phết lên ghẻ độc của Ưu bà di ấy.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là do Sức Thiện căn của

lòng từ khiến nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.

6.- Lại nữa Thiện nam tử! Kẻ ác là Đề bà đạt Đa, lòng tham

chẳng biết đủ, ăn bơ nhiều quá nên nhức đầu, đau bụng,thọ khổ não lớn.

Người chẳng chịu nỗi mới phát ra lời này: Nam mô Phật Đà! Nam mô

Phật Đà!

Lúc đó ta đang ở tại thành Ưu thiền Ni, nghe tiếng của người

liền sanh lòng từ. Liền đó Đề Bà Đạt Đa thấy ta đến nơi, lấy tay xoa đầu,

xoa bụng người và đưa thuốc muối cho người, khiến người phải sống.

Người uống thuốc xong liền bình phục.

Thiện nam tử! Thiệt ta chẳng có đến nơi Đề bà đạt Đa xoa

đầu, xoa bụng, đưa thuốc cho người uống.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là do Sức Thiện căn của

lòng từ khiến cho Đề bà đạt Đa thấy việc như vậy.

7.- Lại nữa Thiện nam tử! Ở nước Kiều tát La, có một bọn

cướp số đếm năm trăm đứa. Bọn ấy đoạt giựt của người, gây hại vô

phương kể. Vua Ba tư Nặc đương ở ngôi tại kinh thành Xá Vệ của nước

ấy lấy làm lo ngại vì sự hoành hành bạo ngược của chúng, sai khiến binh

lính rình bắt họ. Bắt được họ rồi, binh lính bèn móc mắt họ, bỏ họ nơi

rừng rậm đen tối. Nhưng bọn cướp ấy vốn có trồng căn lành cội đức đối

diện với chư Phật đã qua. Khi mắt mất rồi, họ thọ khổ não lớn, ai nấy

36 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đều hô lên rằng: Nam mô Phật Đà! Nam mô Phật Đà! Hôm nay không ai

cứu hộ chúng tôi. Họ khóc lóc kêu than.

Lúc ấy ta ở tại Kỳ Hoàn tịnh xá gần thành Xá Vệ, nghe lời

than tiếng khóc ấy liền sanh lòng từ. Tức thời có ngọn gió lành thổi

hương vào núi. Các thứ hương dược xông đầy mí mắt họ; lần lần họ

được sáng mắt trở lại y nguyên như cũ.

Bọn cướp ấy mở mắt ra, liền thấy Như Lai đứng trước họ,

thuyết pháp với họ. Nghe pháp xong, bọn cướp đồng phát tâm A nậu đa

la tam miệu tam bồ đề.

Thiện nam tử! Bọn cướp ấy, thiệt ta chẳng có làm ra gió thổi

hương vào núi cùng mọi thứ hương dược, chẳng có đứng trước họ mà

thuyết pháp với họ.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là Sức Thiện căn của

lòng từ khiến bọn cướp ấy thấy được như vậy.

8.- Lại nữa Thiện nam tử! Thái Tử Lưu Ly, con vua Ba Tư

Nặc ở thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La, vì ngu si nên phế truất vua cha,

tự mình lên ngôi.Thái Tử nhớ tới hiềm xưa nên hại nhiều người dòng họ

Thích Ca ở thành Ca Tỳ La Vệ. Người bắt một vạn hai ngàn nữ nhơn họ

Thích mà cắt tai, thẽo mủi, chặt tiệt tay chân của họ và xô họ xuống hào

hố. Những người nữ ấy bị khổ não bèn hô lên rằng: Nam mô Phật Đà!

Nam mô Phật Đà! Nay chẳng có ai cứu hộ chúng tôi. Họ lại kêu khóc

lớn hơn nữa. Mà các nữ nhơn ấy vốn có trồng các căn lành đời trước.

Lúc ấy ta ở tại vườn Trúc Lâm, gần thành Vương Xá, nghe

tiếng khóc la của họ, ta bèn khởi lòng từ. Tức thì các người nữ ấy thấy ta

tới thành Ca Tỳ La, dùng nước mà rửa vết thương cho họ và dùng thuốc

mà đắp cho họ. Lần lần họ hết đau nhức, lổ tai, lổ mủi, tay chân họ lành

lại y nguyên như cũ.

37 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bấy giờ ta mới thuyết những lẽ cốt yếu của Pháp cho họ

nghe, khiến cả thảy đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Họ

bèn đến nơi bà tỳ kheo ni Đại Ai Đạo xin xuất gia thọ giới cụ túc.

Thiện nam tử! Lúc ấy thật Như Lai chẳng đi tới thành Ca Tỳ

La, dùng nước rửa thương tích, đắp thuốc ngăn khổ.

Thiện nam tử! Nên biết rằng đó đều là Sức Thiện căn của

lòng từ khiến các nữ nhơn ấy thấy việc như vậy.

Trở lại phần kinh văn. Sau khi đức Phật thuyết pháp cho các

đệ tử nghe về bốn hạnh của Bồ Tát thọ trì, đọc tụng, diễn giải kinh Pháp

Hoa, đức Phật phán với ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng:

“Kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở

quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy. Văn Thù Sư Lợi, kinh Pháp Hoa

này ở vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà

huống là đặng thấy thọ trì, đọc tụng.

“Văn Thù Sư Lợi! Ví như vua Chuyễn luân Thánh vương

sức lực mạnh mẻ, muốn dùng oai thế hàng phục các nước, mà các

vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh, bấy giờ Chuyễn luân Thánh vương

đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người

đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban.

Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y

phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng bạc,

lưu ly, xa cừ, mả nảo, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhơn

dân, chỉ viên minh châu trong buối tóc chẳng đem cho đó.

“Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này,

nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ.

“Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền

định trí huệ đặng cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma

vương chẳng khứng thuận phục, các tướng hiền thánh của Như Lai

38 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

cùng Ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, ở

trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho

các pháp thiền định, giãi thoát, vô lậu căn lực. Và lại ban cho thành

Niết Bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều

đặng vui mừng, mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.

“Văn Thù Sư Lợi! Như vua chuyễn luân thấy các binh

chúng, những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu

ở trong buối tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.

Đức Như Lai cũng như thế, làm vị Đại Pháp Vương trong

ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân hiền

Thánh cùng ma ngủ ấm, ma phiền não, ma chết đánh nhau có công

lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy, Như Lai cũng

rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bực”

Nhứt thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét, khó tin,

trước chưa từng nói mà nay nói đó.”

Đức Phật là một vị Đại Pháp Vương trong ba cõi, Ngài giảng

dạy và cảm hóa tất cả mọi chủng loại chúng sanh bằng pháp vi diệu.

Đức Phật là một vị Đại Y Vương, tùy theo bệnh của mọi

chủng loại chúng sanh mà cho thuốc uống trừ ba độc (tham, sân si).

Đức Phật là một vị Chuyễn Luân Thánh Vương, cầm quân ra

trận đánh bại lũ binh ma, và ban cho người thắng trận thành, ấp, xóm,

làng, ruộng, nhà, xe cộ, vàng bạc, pha lê, xa cừ, mả nảo, trân châu.

Riêng chỉ có viên minh châu trên đảnh vua là không ban cho.

Vì sao ? Vì chưa phải lúc vậy.

Dụ viên minh châu là dụ thứ sáu (từ phẩm một đến phẩm thứ

mười bốn). Viên minh châu đây ý nói là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, văn

từ ý tứ khó tin, khó hiểu, cho nên người đời sau mới đặt tên là Huyền

Nghĩa Pháp Hoa Kinh, hoặc là Mật Nghĩa Pháp Hoa Kinh, hoặc là Thâm

39 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nghĩa Pháp Hoa Kinh. Chính lúc đương thời của Như Lai còn nhiều kẻ

ghét ganh. Huống chi là…

Nhưng mà không sao! Trước khi Phật thuyết dụ viên minh

châu, Như Lai đã phán: Kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật

thuở quá khứ, hiện tại, vị lai giữ gìn. Kinh Pháp Hoa này trong vô lượng

cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe, hà huống là đặng thấy

thọ trì, đọc tụng. Vậy mà ngày hôm nay chúng ta vô cùng hạnh phúc

được cầm trên tay quyển kinh Pháp Hoa, được thọ trì, đọc tụng, giải nói

thì còn gì bằng!

Viên minh châu trên đây là ngụ ý nói kinh Pháp Hoa. Đức

Phật biết là đã đến thời cơ ban kinh Pháp Hoa cho chúng sanh, vì chúng

sanh là những binh chúng, những người có công lớn đánh dẹp được giặt

ma, phá được lưới ma để vượt ra khỏi ba cõi, khiến cho tất cả chúng

sanh đều đến được bờ “Nhứt thiết chủng trí”.

Cuối cùng đức Phật phán cho ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

rằng

“Kinh Pháp Hoa này là lời nói bực nhứt của Như Lai, ở

trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức

mạnh kia, lâu gìn viên minh châu mà nay mới cho đó.

“Văn Thù Sư Lợi!Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của

các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bực trên hết, lâu

ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông

mà bày nói đó.”

Thế Tôn liền nói kệ rằng:

10.- Thường tu hành nhẫn nhục

Thương xót tất cả chúng

Mới có thể diễn nói

Kinh của Phật khen ngợi

40 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đời mạt thế về sau

Người thọ trì kinh này

Với tại gia, xuất gia

Và chẳng phải Bồ Tát

Nên sanh lòng từ bi

Những người đó chẳng nghe

Chẳng tin kinh pháp này

Thời là mất lợi lớn

Khi ta chứng Phật đạo

Dùng các sức phương tiện

Vì nói kinh pháp này

Làm cho trụ trong đó

Thí như vua Chuyễn Luân

Thánh vương có sức mạnh

Binh tướng đánh có công

Thưởng ban những đồ vật

Voi, ngựa và xe cộ

Đồ trang nghiêm nơi thân

Và những ruộng cùng nhà

Xóm, làng, thành, ấp thảy

Hoặc ban cho y phục

Các món trân báu lạ

Tôi tớ cùng của cải

Đều vui mừng ban cho

Nều có người mạnh mẻ

Hay làm được việc khó

Vua mới mở buối tóc

Lấy minh châu cho đó

Đức Như Lai cũng thế

Là vua trong các pháp

Nhẫn nhục sức rất lớn

Tạng báu trí huệ sáng

Dùng lòng từ bi lớn

Đúng như pháp độ đời

Thấy tất cả mọi người

41 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chịu các điều khổ não

Muốn cầu được giải thoát

Cùng các ma đánh nhau

Phật vì chúng sanh đó

Nói các món kinh pháp

Dùng sức phương tiện lớn

Nói các kinh điển đó

Đã biết loài chúng sanh

Đặng sức mạnh kia rồi

Rốt sau mới vì chúng

Nói kinh Pháp Hoa này

Như vua Thánh mở tóc

Lấy minh châu cho đó

Kinh này là bực tôn

Trên hết trong các kinh

Ta thường giữ gìn luôn

Chẳng vọng vì mở bày

Nay chính đã phải lúc

Vì các ông mà nói

Sau khi ta diệt độ

Người mong cầu Phật đạo

Muốn đặng trụ an ổn

Diễn nói kinh pháp này

Phải nên thường gần gủi

Bốn pháp trên như thế.

GIỌT NƯỚC MẮT LÀNH.

Vua hỏi:

_ Bạch Đại Đức, người ta khi có cha mẹ chết thì ưu bi sầu khổ, gào

khóc thảm thê, nước mắt ràn rụa. Lại có người khi mới nghe được Pháp

Phật và nhờ đó mà tỉnh ngộ, cũng lại nước mắt đầm đìa, lệ tuông lã chã.

42 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ca hai trường hợp đều có lệ rơi. Vậy hai dòng lệ đó có khác gì nhau

không?

_Tâu Đại Vương, nước mắt tuông ra khi cha mẹ chết là nước mắt

của sầu ưu, khổ thống, do niệm ân ái gây nên. Đó là chất độc của ngu si

tiết rĩ ra. Còn nước mắt ứa trào khi nghe được pháp Phật là nước mắt của

lòng từ tâm, vì nhớ nghĩ đến đau khổ của thế gian mà tuông ra. Đây là

loại nước mắt an lạc, thanh tịnh. Cũng đồng thời là nước mắt, nhưng một

bên là nóng bức tật đố, một bên là mát mẻ an lành và tăng thêm phước

đức.

Kinh Na Tiên Tỳ Kheo.

43 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT thứ mười lăm.

Trong phần giới thiệu kinh Diệu Pháp Liên Hoa trước đây,

chúng ta đã hiểu thế nào là đức Bổn Phật, thế nào là đức Tích Phật (Phần

thứ hai – Kinh Diệu Pháp Liên Hoa). Trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất

thứ mưới lăm, phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ mười sáu, chúng ta sẽ thấy

trong kinh còn ẩn chứa nhiều Bổn Pháp và Tích Pháp.

Bổn pháp là giáo lý gốc của đức Phật, là pháp chơn chánh

của đức Phật, là môn triết lý tuyệt đối của Phật giáo, là môn học tâm linh

cứu độ hết thảy chúng sanh thoát vòng biển khổ, trầm luân.

Tích pháp là cấu trúc của chơn lý, là thể hiện sự cương quyết

tồn tại một tôn giáo sinh động nhập đời, xây dựng lại cuộc đời và làm

cho đời đẹp hơn, như hoa sen mọc từ trong bùn, vươn thẳng lên khỏi mặt

nước mà không hề nhiễm bùn. Đó mới chính là giáo thuyết của Diệu

Pháp Liên Hoa. Bây giờ chúng ta bắt đầu mở quyển kinh ra, phẩm

TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT THỨ MƯỜI LĂM để thấy toàn bộ tích pháp

tuyệt vời của phẩm kinh.

“1.- Lúc bấy giờ các vị Đại Bồ Tát ở các nước phương

khác, đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng, đứng

dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu bằng lòng

cho chuíng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi ta bà này siêng tu

tinh tấn, giữ gìn đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điễn này, thời

chúng con sẽ ở trong cõi đây mà rộng nói đó.”

“Khi đó Phật bảo các chúng đại Bồ Tát: Thiện nam tử

Thôi đi Chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì cõi ta bà của

ta tự có chúng đại Bồ Tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông

Hằng. Mỗi vị Bồ Tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc, những

người đó có thể sau khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh

này.”

44 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy rằng đức Phật từ chối công

đức tình nguyện của chư vị Bồ Tát ở các phương khác đến cõi ta bà này,

phát nguyện nếu sau khi Phật diệt độ, các ngài sẽ thay Phật thọ trì, đọc

tụng, giải nói, biên chép kinh điển này. Số lượng tình nguyện của chư vị

Bồ Tát ấy đông bằng số cát của tám sông Hằng. Nhưng tại sao đức Phật

lại từ chối?

Mật nghĩa của đoạn kinh văn trên là hàm ý đức Phật muốn

cho tất cả số Bồ Tát ở trong cõi ta bà này, nhiều bằng số cát của sáu

muôn sông Hằng được phép đi thuyết pháp ở mười phương thế giới, mà

không chấp nhận Bồ Tát ở mười phương thế giới khác hành đạo ở cõi ta

bà. Là vì mục đích của Như Lai là dạy cho chúng sanh pháp môn tự lực

giải thoát. Trong kinh Pháp Hoa và kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật

nhiều lần nói đi nói lại tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Và tât cả

chúng sanh đều sẽ thành Phật. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh làm cản trở,

che áng trí huệ và phước đức cho nên không thấy được Phật tánh. Muốn

tự lực giải thoát thì phải làm sao cho trí huệ được sáng suốt, làm nhiều

điều thiện để tăng trưởng phước đức. Mình phải tự cứu sẽ có người khác

cứu mình. Tha lực sẽ vô ích nếu không cố gắng tự lực. Tự lực giải thoát

ở đây là phải tự mình tháo gở những gút phiền não, những gút khổ trược,

và còn phải biết cái gút nào mở trước, cái gút nào mở sau. Có nghĩa là

phải tự giải thoát mình trước rồi mới giải thoát tới người khác. Phải tinh

tấn tháo gút vô minh để đạt được trí huệ sáng suốt, phước đức thành tựu.

Tôi xin trích một câu chuyện mở gút trong kinh Thủ Lăng

Nghiêm.

“Phật dùng khăn bảo hoa có thắt sáu gút để dạy đức A Nan

rằng: Sự diễn tiến của con đường giải thoát chỉ là việc tuần tự tháo gở

các gút nội tâm đó thôi. Những gút này là do chúng ta thắt lại vì bị vô

minh ám ảnh. Khi Phật lấy khăn bảo hoa thắt một gút và hỏi ngài A Nan

“Cái gì đây?”

Ngài A Nan trả lời: “Bạch Thế Tôn! Đó là khăn bảo hoa mà

Phật vừa thắt một gút.”

45 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật tiếp tục thắt gút thêm năm lần, và mỗi lần đều hỏi và

được đáp như nhau. Phật liền phán: “Khi ta thắt cái đầu tiên thì ông

bảo đó là gút. Khi ta thắt cái thứ hai thì ông cũng bảo đó là gút và ông

trả lời chỉ có một cách.”

Ngài A Nan không hiểu ý Phật muốn nói gì, rất phân vân nên

thưa rằng: “Phật thắt một gút hay cả trăm gút cũng vậy, tất cả đều là

gút, dầu cho khăn bảo hoa có nhiều màu sắc và được dệt nguyên thành

một dải.”

Phật biết A Nan chưa hiểu nên giảng rằng: “Dầu cho khăn

chỉ có một và tất cả các gút đều là gút, nhưng có một sự khác biệt, đó là

thứ lớp thắt gút, hay trật tự của các gút.”

Đồng thời Phật yêu cầu ngài A Nan tháo giúp, vì Phật lôi kéo

tứ phía nên các gút lại càng siết chặt thêm thay vì nới ra. Ngài A Nan

liền thưa rằng: “Con cần phải xem các gút thắt như thế nào cái đã.”

Phật dạy: “Đúng vậy! Ông phải biết việc đó trước. Vì ai mà

biết được duyên khởi của mọi sư sẽ hủy diệt được chúng. Nhưng ta hỏi

thêm một câu: “Vậy ông có thể tháo các gút cùng một lần không?” Ngài

A Nan trả lời: “Bạch Thế Tôn! Không. Vì các gút được thắt theo thứ tự,

con chỉ có thể tháo theo thứ tự lớp lớp ngược lại.”

Phật liền cho biết rằng sáu gút ấy là sáu căn. Nếu không lo

giải thoát những căn ấy trước mà lo giải những căn cao siêu hơn là làm

sai thứ lớp. Thay vì tháo nghiệp, chúng ta tự trói thêm vào.”

Bài giảng trên cho chúng ta thấy tích pháp nằm trong cái gút

chớ không phải khăn bảo hoa. Xin được tiếp tục phần kinh văn.

“2.- Lúc Phật nói lời đó, cõi ta bà, trong tam thiên đại

thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng nghìn

muôn ức vị đại Bồ Tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ Tát đó thân đều

sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trước

46 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đây đều ở dưới cõi ta bà này, cõi đó trụ giữa hư không. Các vị Bồ

Tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni Phật nên từ dưới

mà đến. Mỗi vị Bồ Tát đều là bực đạo thủ trong đại chúng, đều đem

theo sáu muôn hằng ha sa quyến thuộc. Huống là những vị đem năm

muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằng hà sa quyến

thuộc… Huống là những vị riêng mình ưa hạnh viễn ly, số đông vô

lượng, vô biên dường ấy, tính đếm thí dụ chẳng có thể hết được.

“3.- Các vị Bồ Tát đó từ dước đất lên, đều đến nơi tháp

đẹp bảy báu, chỗ của đức Đa Bửu Như Lai và đức Thích Ca Mâu Ni

Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế Tôn mà đầu mặt lại chân

Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cột cây báu,

cũng đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba vòng, chắp tay cung kính,

dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà ngợi khen Phật, rồi đứng

qua một phía, ưa vui chiêm ngưỡng hai đấng Thế Tôn. Từ lúc các vị

Bồ Tát từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà

khen ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu kiếp.

“Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật nín lặng ngồi yên

cùng hàng tứ chúng cũng đều nín lặng. Năm mươi tiểu kiếp vì do

sức thần của Phật, khiến hàng đại chúng cho là như nửa ngày.

“Bấy giờ hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy

các Bồ Tát đầy khắp vô lượng nghìn muôn ức cõi nước hư không.

“4.- Trong chúng Bồ Tát đó có bốn vị đạo sư:

1. Thượng Hạnh, (hạnh giải thoát của chư Phật).

2. Vô biên Hạnh, (hạnh ba la mật).

3. Tịnh Hạnh, (hạnh ly dục).

4. An Lập Hạnh, (hạnh diệt ngã tướng, chấp thủ).

“Bốn vị Bồ Tát này là bực thượng thủ Xướng đạo sư

trong chúng đó, ở trước đại chúng bốn vị đồng chắp tay nhìn đức

Thích Ca Mâu Ni Phật mà hỏi thăm rằng: Thưa Thế Tôn! Có được

47 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

ít bệnh, ít não, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ

chăng, chẳng làm cho đức Thế Tôn sanh mỏi nhọc chăng?”

Trước đây, phẩm Hiện Bửu Tháp thứ mười một, đức Phật Đa

Bảo Như Lai ở trong tháp báu từ dưới đất vọt lên giữa hư không để nghe

đức Phật Thích Ca thuyết Pháp Hoa kinh. Đến phẩm Tùng Địa Dũng

Xuất lại cũng nói hằng hà sa số chư vị Bồ Tát từ đất vọt lên. Vậy thì

chúng ta hiểu như thế nào?

Phật Đa Bảo Như Lai và chư vị Bồ Tát vì nghe kinh Pháp

Hoa nên từ dưới đất vọt lên trụ giữa hư không.

Đất ở đây tức là chữ địa. Người ta thường nói người làm ác

có “Tâm địa độc ác”, hoặc thấy có người ăn ở hiền lương, hay làm việc

thiện, người ta bảo người đó có “Tâm địa hiền lành”. Như vậy đất ở

đây phải hiểu như là cái tâm.

Từ khi sinh ra cho tới lúc chết, tâm chúng sanh thường chạy

theo vọng niệm, mỗi niệm lại sanh diệt không ngừng. Cho nên mới gọi

là “Tâm viên, ý mã”, nghĩa là cái tâm chuyền nhảy như con vượn, hay

chạy dong ruỗi như con ngựa. Vì cái tâm không đứng yên một chỗ nên

khó điều phục. Do đó Phật mới dạy rằng: “Bất kỳ trong tình huống

nào (đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, nghĩ, hành động, lời nói)

cần phải giữ gìn cái tâm, đừng để nó chạy rong theo ngoại cảnh.”

Ở đây tâm của chư vị Bồ Tát đã điều phục được rồi, tức là sẽ

sinh ra trí huệ. Tâm của các ngài là tâm đại bi, vì các ngài đã tu pháp

môn Lục Độ, cho nên tâm sinh ra phước đức vô lượng. Mà cái tâm có trí

huệ, có phước đức tức là có Phật tánh. Như trong kinh Đại Bát Niết Bàn

đức Phật dạy:

“Nếu có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ

trang nghiêm: Một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy

đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời biết Phật tánh.”

48 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bảo tháp (phẩm Hiện Bửu Tháp) là chỉ Phật tánh. Đức Đa

Bửu Như Lai là Chơn Lý Tuyệt Đối. Bởi vì y như lời đại nguyện của

Phật Đa Bửu Như Lai hồi còn tu hạnh Bồ Tát: “Nếu ta được thành

Phật, sau khi diệt độ trong cõi nước ở mười phương, có chỗ nào nói

kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi

trước để làm chứng minh khen rằng Hay thay! Hay thay!”

Trong kinh viết chư đại Bồ Tát từ các phương khác nhiều

hơn số cát của tám sông Hằng đến tại cõi ta bà này làm lễ Phật và xin

Phật nếu bằng lòng hãy để cho các ngài sẽ siêng tu tinh tấn, giữ gìn đọc

tụng, biên chép cúng dường kinh điển này, nhưng đức Phật từ chối lòng

tốt đó của các ngài. Lại còn khẳng định rằng trong cõi ta bà này hằng hà

sa số chư vị Bồ Tát còn đông hơn số cát của sáu muôn sông Hằng sẳn

sàng hộ trì, đọc tụng kinh điển này. Bây giờ chúng ta phải diễn giải từ

từ. (câu số 2)

Lúc Phật nói lời đó, cõi ta bà: (cõi ta bà có nghĩa là tâm địa

của chúng sanh);

Trong tam thiên, đại thiên cõi nước đất đều rúng nứt: (có

nghĩa là tâm đại bi của chư vị Bồ Tát đã khai thị);

Mà ở trong đó có vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ

Tát đồng thời vọt ra: (có nghĩa là đã tới lúc Phật tánh hiển lộ rỏ ràng);

Các vị Bồ Tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai

tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trước đây đều ở dưới cõi ta bà

này, cõi đó trụ giữa hư không (có nghĩa là các vị Bồ Tát trước khi

chứng đắc Phật trí, các ngài cũng là tâm địa chúng sanh, nhờ tinh tấn tu

hành pháp môn trí huệ phước đức mới được hiển lộ Phật tánh rỏ ràng,

các ngài có thể đi tới cảnh Phật trí. Bởi vì Khi còn mê thì Phật là chúng

sanh, và khi đã ngộ thì chúng sanh là Phật);

Các vị Bồ Tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni

Phật nên từ dưới mà đến (nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói

49 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

kinh Pháp Hoa ở cõi ta bà, tâm thức các ngài bổng nhiên đặng giải

thoát).

Phật tánh ở trong hằng hà sa số pháp, mà hằng hà sa số pháp

cũng chỉ nằm ở trong tự tánh. Đức Phật nói: Vì cõi ta bà của ta tự có

chúng đại bồ tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị

Bồ Tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc, những người đó có thể sau

khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này.

Cho nên khi tự tánh đã giác ngộ thời sẽ có vô lượng, vô biên

hằng hà sa chư vị Bồ Tát từ trong tâm thức xuất hiện trong hư không.

Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói: Muôn pháp đều ở nơi tự tâm.

Vậy sao chẳng tự trong tâm mình trực nhận ra bản tánh chân như?

Bồ Tát Giới Kinh nói: Tự tánh của ta vốn tự thanh tịnh. Nếu

biết tự tâm, thấy bản tánh, hết thảy đều thành Phật đạo.

Trong chúng Bồ Tát có bốn vị Xướng Đạo sư, là bực thầy hộ

trì kinh điển Diệu Pháp Liên Hoa. Người thứ nhứt tên là Thượng Hạnh:

có ý nghĩa là trí huệ quán xét, trong ngoài sáng rở, biết tự bản tâm, đã

đến cảnh Phật trí, sắp ngộ đạo Vô thượng Bồ đề. Người thư hai tên là Vô

Biên Hạnh: có ý nghĩa là trong ngoài chẳng trụ, qua lại tự do, trừ được

tâm chấp trước, thông đạt không ngại, là người đã thoát khỏi ba cõi, tu

hạnh Bồ Tát đạo. Người thứ ba tên là Tịnh Hạnh: có nghĩa là tâm địa của

Như Lai, là người dứt tuyệt phiền não, tam độc. Người thứ tư tên là An

Lập Hạnh, có nghĩa là thường làm mười điều thiện, là người hàng phục

được các chúng binh ma, phá lưới ma, dập tắt vọng tưởng, vượt ra khỏi

sinh tử, không còn luân hồi.

“5.- Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ Tát

mà nói rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Các Thiện nam tử! Đức Như Lai

an vui ít bệnh, ít não, các hàng chúng sanh hóa độ được dễ, không

có nhọc mệt.

50 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Vì sao? Vì các chúng sanh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được

ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các đức Phật quá khứ, cung kính,

tôn trọng, trồng các cội lành. Các chúng sanh đó mới vừa thấy thân

ta, nghe ta nói pháp, liền đều tín nhận, vào được trong huệ của Như

Lai, trừ người trước đã tu tập học hạnh tiểu thừa, những người như

thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong huệ của Phật.

“Khi đó, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ tát thượng

thủ: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Các ông có thể đối với đức

Như Lai mà phát lòng tùy hỷ.”

“6.- Bấy giờ ngài Di Lặc Bồ Tát cùng tám nghìn hằng hà

sa các chúng Bồ Tát đều nghĩ rằng: “Chúng ta từ xưa, nhẫn lại

chẳng thấy, chẳng nghe các đại chúng Bồ Tát mhư thế, từ dưới đất

vọt lên, đứng trước đức Thế Tôn, chấp tay cúng dường thăm hỏi

Như Lai.”

“Lúc đó ngài Di Lặc Bồ Tát biết tâm niệm của tám nghìn

hằng hà sa chúng Bồ Tát cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của

mình, bèn chấp tay hướng về phía Phật, nói kệ hỏi rằng:

Vô lượng nghìn muôn ức

Các Bồ Tát đại chúng

Từ xưa chưa từng thấy

Nguyện đấng Lưỡng túc nói

Là từ chốn nào đến

Do nhơn duyên gì nhóm

Thân lớn đại thần thông

Trí huệ chẳng nghĩ bàn

Chí niệm kia bền vững

Có sức nhẫn nhục lớn

Chúng sanh chỗ ưa thấy

Là từ chốn nào đến?

Mỗi mỗi hàng Bồ Tát

Đem theo các quyến thuộc

51 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Số đông không thể lường

Như số hằng hà sa

Hoặc có đại Bồ Tát

Đem sáu muôn hằng sa

Các đại chúng như thế

Một lòng cầu Phật đạo

Những đạo sư đó thảy

Sáu muôn hằng hà sa

Đều đến cúng dường Phật

Cùng hộ trì kinh này

Đem năm muôn hằng sa

Số này hơn số trên

Bốn muôn và ba muôn

Hai muôn đến một muôn

Một nghìn một trăm thảy

Nhẫn đến một hằng sa

Nửa và ba bốn phần

Một phần trong ức muôn

Nghìn muôn na do tha

Muôn ức các đệ tử

Nhẫn đến đem nửa ức

Số đông lại hơn trên

Trăm muôn đến một muôn

Một nghìn và một trăm

Năm mươi cùng một mươi

Nhẫn đến ba, hai, một

Riêng mình không quyến thuộc

Ưa thích ở riêng vắng

Đều đi đến chỗ Phật

Số đây càng hơn trên

Các đại chúng như thế

Nếu người phát thẻ đếm

Quá nơi kiếp hằng sa

Còn chẳng thể biết hết

Các vị oai đức lớn

52 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chúng Bồ Tát tinh tấn

Ai vì đó nói pháp

Giáo hóa cho thành tựu

Từ ai, dầu phát tâm?

Xưng dương Phật Pháp nào?

Thọ trì tu kinh gì?

Tu tập Phật đạo nào?

Các Bồ Tát như thế

Thần thông sức trí lớn

Đất bốn phương rúng nứt

Đều từ đất vọt lên

Thế Tôn! Con từ xưa

Chưa từng thấy việc đó

Xin Phật nói danh hiệu

Cõi nước của kia ở

Con thường qua các nước

Chưa từng thấy chúng này

Bèn chẳng quen một người

Thoạt vậy từ đất lên

Mong nói nhơn duyên đó

Nay trong đại hội này

Vô lượng trăm nghìn ức

Các chúng Bồ Tát đây

Đều muốn biết việc này.

“7.- Khi ấy các vị Phật của đức Thích Ca phân thân, từ vô

lượng nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng

trên tòa sư tử, dưới cội cây báu, nơi trong tám phương. Hàng thị giả

của Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát ở bốn phương cõi tam thiên

đại thiên, từ đất vọt lên trên hư không, đều bạch với Phật mình

rằng: “Thế Tôn! Các đại chúng vô lượng vô biên a tăng kỳ Bồ Tát

đó, từ chốn nào mà đến?”

“Lúc ấy các đức Phật đều bảo với thị giả: “Các Thiện

nam tử! Hãy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ Tát tên là Di Lặc, là vị

53 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc

đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhơn đây mà được nghe.”

“8.- Bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Di Lặc

Bồ Tát: “Hay thay! Hay thay! A Dật Đa! Bèn có thể hỏi Phật việc

lớn như thế, các ông phải chung một lòng mặc giáp tinh tấn, phát ý

bền vững. Nay đức Như Lai muốn hiễn phát tuyên bày trí huệ của

các đức Phật, sức sư tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức oai thế

mạnh lớn của các đức Phật.

“9.- Nay ta ở trong đại chúng này, tuyên bảo các ông A

Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát vô lượng vô số a tăng kỳ, từ dưới đất

vọt lên mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi ta bà lúc

đặng Vô thương Chánh đẳng Chánh giác rồi, giáo hóa chỉ dẩn các

Bồ Tát đó, điều phục tâm kia khiến phát đạo tâm.

“Các vị Bồ Tát đó ở giữa cõi ta bà, cõi đó trụ giữa hư

không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy gẫm rỏ hiểu,

nghĩ tưởng chơn chánh. A Dật Đa! Các Thiện nam tử đó chẳng

thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa ở chỗ vắng, siêng tu

tinh tấn, chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người, trời mà

ở, thường ưa trí huệ sâu, không có chướng ngai, cũng thường ham

nơi pháp của đức Phật, chuyên lòng tinh tấn, cầu huệ vô thượng.”

“10.- Lúc bấy giờ ngài Di Lặc Đại Bồ Tát cùng vô số

chúng Bồ Tát, lòng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ

rằng: “Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có thể

giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó, làm cho trụ

nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. “Liền bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Đức Như Lai lúc làm Thái Tử rời khỏi cung dòng Thích,

ngồi nơi đạo tràng cách thành Già Da chẳng bao xa, đặng thành Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi

năm, đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó làm nên Phật

sự lớn. Do thế lực của Phật? Do công đức của Phật? Giáo hóa vô

54 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lượng chúng Bồ Tát lớn như thế sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác?

“Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát này giả sử có người trong

nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng đặng ngằn mé, chúng

đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội

lành, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu phạm hạnh.

“Thế Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người

sắc đẹp tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con

của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ

nuôi ta thảy, việc đó khó tin, đức Phật cũng như thế.

“Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu

mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở nơi vô lượng nghìn muôn ức kiếp,

vì Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô lượng

nghìn muôn ức tam muội, đặng thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh

đã lâu, khéo hay thứ đệ, tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp là báu

quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.

“Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc đặng Phật đạo, bắt

đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy, dìu dắt, làm cho kia

hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành

Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công đức lớn này.

“Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời

Phật nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt,

nhưng các Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời

này, hoặc chẳng tin nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp phá chánh

pháp.

“Kính thưa Thế Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng

nghi của chúng con, và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi

cũng chẳng sanh nghi. Lúc đó ngài Di Lặc muốn tuyên lại nghĩa trên

mà nói kệ rằng:

55 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

11.- Phật xưa từ dòng Thích

Xuất gia gần Già Da

Ngồi dưới cây bồ đề

Đến nay còn chưa xa

Các hàng Phật tử này

Số đông không thể lường

Lâu đã tu Phật đạo

Trụ nơi sức thần thông.

Khéo học đạo Bồ Tát

Chẳng nhiễm pháp thế gian

Như hoa sen trong nước

Từ đất mà vọt ra

Đều sanh lòng cung kính

Đứng nơi trước Thế Tôn

Việc đó khó nghĩ bàn

Thế nào mà tin được

Phật đặng đạo rất gần

Chỗ thành tựu rất nhiều

Mong vì trừ lòng nghi

Như thiệt phân biệt nói

Thí như người trẻ mạnh

Tuổi mới hai mươi lăm

Chỉ người trăm tuổi già

Tóc bạc và mặt nhăn

“Bọn này của ta sanh”

Con cũng nói là cha

Cha trẻ mà con già

Mọi người đều chẳng tin

Thế Tôn cũng như thế

Đặng đạo đến nay gần

Các chúng Bồ Tát này

Chí vững không khiếp nhược

Từ vô lượng kiếp lại

Mà tu đạo Bồ Tát

56 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Giỏi nơi gạn hỏi đáp

Tâm kia không sợ sệt

Nhẫn nhục lòng quyết định

Đoan chánh có oai đức

Mười phương Phật khen ngợi

Khéo hay phân biệt nói

Chẳng thích ở trong chúng

Thường ưa ở thiền định

Vì cầu Phật đạo vậy

Trụ hư không phương dưới

Chúng con từ Phật nghe

Nơi việc này không nghi

Nguyện Phật vì người sau

Diễn nói khiến rỏ hiểu

Nếu người ở kinh này

Sinh nghi lòng chẳng tin

Liền phải đọa đường dữ

Mong nay vì giải nói

Vô lương Bồ Tát đó

Thế nào thời gian ngắn

Giáo hóa khiến phát tâm

Mà trụ bực bất thối?”

BA ĐIỀU KHÓ TIN.

Trong các chúng đại Bồ tát, có ngài A Dật Đa làm đầu, thấy

vô lượng các Bồ Tát từ dưới đất vọt lên cõi hư không, vô cùng ngạc

nhiên, cho nên liền bạch Thế Tôn về những điều nghi hoặc của mình và

cũng là điều nghi hoặc của chư Bồ Tát.

1-/ Từ lúc Như Lai làm Thái Tử, rời khỏi cung dòng Thích, ngồi

nơi đạo tràng, đặng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chỉ hơn

57 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

có bốn mươi năm, làm sao có điều kiện để giáo hóa các chúng Bồ Tát

đặng đạo Vô thượng Bồ đề? Đó là điều khó tin thứ nhứt.

2-/ Các chúng Bồ Tát này là bực thượng thủ xướng đạo sư đông vô

xiết kể. Thường trồng các cội lành, phẩm hạnh cao quí, thành tựu đạo Bồ

Tát? Đó là điều khó tin thứ hai.

3-/ Chẳng khác nào người tóc đẹp tuổi xanh chỉ người trăm tuổi

bảo đó là con ta, còn người trăm tuổi chỉ người mới hai mươi lăm bảo đó

là cha ta. Cha trẻ mà con già. Sao lại như vậy? Đó là điều khó tin thứ ba.

Để gỉai thích phần này xin được trích ra đây những lý giải

trong “Tư tưởng kinh Pháp Hoa” của hòa thượng Thích Chơn Thiện:

“Bồ Tát Di Lặc đã giác ngộ Phật trí, đã rỏ công việc giáo

hoá của Thế Tôn, nhưng biểu lộ sư kinh ngạc trước sự kiện “Vọt mạnh

ra từ lòng đất” của chư đại Bồ Tát chỉ là để gây sự chú ý cho hàng thính

chúng hướng tâm về sự kiện này.

“Bồ Tát thắc mắc tại sao trong khoảng thời gian rất ngắn từ

ngày thành đạo đến nay (chỉ hơn bốn mươi năm trần thế) mà Thế Tôn

lại có thể giáo dục thành tựu đến vô số đại Bồ Tát như vậy, trong khi

các Bồ Tát đó phải cần đến khoảng thời gian dài, nhiều tiểu kiếp mới có

thể tu tập thành tựu tuệ giác tối thượng.

“Hình ảnh Tùng Địa Dũng Xuất kia vốn tự nó là một bài

pháp về thực tướng, về diệu dụng của thực tướng rồi. Đó là câu trả lời!

“Bất cứ thắc mắc nào về thực tướng, tương tự như thắc mắc

của Di Lặc vừa nêu, đều là sản phẩm của ngã tướng. Vướng vào ngã

tướng ấy thì thính chúng không thấy thực tướng hiển bày như chính nó

đang là. Nếu sống nắm giữ cái khái niệm về thực tướng trong tâm tưởng

mình thì tâm sẽ khởi lên nghi vấn về sự khác biệt giữa thực tướng và

khái niệm về thực tướng.

58 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Thế Tôn chỉ xác nhận đó là sự việc như thật. Lời xác nhận

ấy trước hình ảnh thực tướng “Tùng địa dũng xuất“ như là sức mạnh có

thể dập tắt hết thảy ngã tưởng về ngã tướng (tưởng thủ uẩn). Nếu ai giựt

mình buông bỏ ngã tưởng mà nhìn sự kiện kia thì bừng ngộ ngay. Nếu

còn nắm chặt ngã tưởng để nhìn sự kiện thì thắc mắc còn trổi dậy.

“Phải chăng do vì tự tánh của Đất, Bồ Tát… và hết thảy

pháp là vô tự tánh nên chúng tự tại dung nhiếp nhau? Phải chăng thời

gian là vô tự tánh nên bốn mươi năm trần thế không ngắn hơn vô lượng

kiếp của Bồ Tát? Phải chăng các vọng tâm là vô tự tánh nên tự chúng

đã là pháp tính, nếu tâm người nhìn không vướng vào ngã tưởng?

“Thấy được lẽ đó thì liền ngộ thực tướng và biết rỏ con

đường thể nhập thực tướng, và có thể tức thì thể nhập thực tướng.

“Vì thế mà đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Di Lặc rằng:

“Thời gian chư vị Bồ Tát kia đảnh lễ và xưng tán chư Phật

non nửa ngày trần gian, nhưng thực sự đã trải qua hơn năm mươi tiểu

kiếp. Và, việc giới thiệu thành quả hóa độ vô số đại Bồ Tát ở trên từ sau

ngày Thế Tôn thành đạo là sự biểu hiện uy lực, thần thông và trí tuệ của

Như Lai đó vậy.”

“Chỉ có một lằn ranh rất mỏng manh giữa ngã tưởng và

chánh tưởng vô ngã (hay giác tưởng vô ngã) mà đã tạo ra khoảng cách

xa vô cùng giữa chánh và tà, giữa sinh tử và niết bàn, giữa thánh và

phàm, giữc vọng và chân.

“Lằn ranh đó cũng chỉ do khái niệm lập ra. Đó là khoảng

cách giữa những người chưa giác ngộ với Diệu pháp.”

Đã đến lúc đức Phật phải biểu hiện thần thông, uy lực và trí

huệ cho hết thảy chúng sanh trong cõi ta bà này chiêm ngưỡng, tán thán

và ngợi khen, cho nên thời gian năm mươi tiểu kiếp dành cho các đại

chúng Bồ Tát đi nhiễu quanh hai đấng Thế Tôn chỉ thu ngắn lại có nửa

59 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

ngày trần thế. Với thần thông như vậy thì hơn bốn mươi năm đức Phật

thuyết pháp độ sanh, thời gian đó cũng tương đương với cõi tam thiên

đại thiên thế giới.

Một ngàn tiểu thế giới bằng một tiểu thiên thế giới.

Một ngàn tiểu thiên thế giới bằng một trung thiên thế giới.

Một ngàn trung thiên thế giới bằng một đại thiên thế giới.

Một đại thiên thế giới nhân lên cho ba loài hửu tình thế gian,

vô tình thế gian và khí thế gian sẽ có một đại thiên tam thiên thế giới,

tức là bằng một tỷ tiểu thế giới, là những thế giới nằm trong cõi ta bà

này, dưới quyền hóa độ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu nghĩ đến uy

lực của đức Phật, nghĩ đến thần thông của đức Phật, nghĩ đến trí huệ của

đức Phật, thì số lượng đại chúng Bồ Tát trên, đông bằng số cát của sáu

muôn sông Hằng là có thật, các vị đó là đệ tử của Phật, được Phật hóa độ

và chứng đắc đến bực Phật trí.

Nghe kinh mà lòng không thanh tịnh, để tâm rối loạn sẽ bị rơi

vào ngã tướng, thì làm sao thấy được thực tướng. Như vậy ba điều khó

tin trên đây cần sớm được giải nghi. Đừng để lòng tin làm xoáy mòn tâm

thức.

Trong kinh Kim Cang, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: “Nếu qua

đời vị lai, năm trăm năm sau, có chúng sanh đặng nghe kinh này, tin

hiểu mà thọ trì thì người ấy thiệt là đệ nhất rất ít có. Bởi cớ sao? Bởi

người ấy không ngã tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả

tướng. Ngã tướng tức chẳng phải tướng, mà nhơn tướng, chúng sanh

tướng, thọ giả tướng cũng tức là chẳng phải tướng. Lìa cả thảy tướng

tức là chư Phật.”

Thật tướng là tướng chân thật, cũng là Bình đẳng nhất tướng.

Thật tướng tức là vô tướng, nhưng chẳng phải là bất tướng.

Có tướng mà vô tướng nên gọi là thật tướng.

Vô tướng là lìa các thảy tướng hư vọng, nên còn gọi vô tướng

chính là ly tướng. Tại sao lại gọi là ly tướng ? Một ví dụ dể hiểu : Ta

60 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dùng vàng ròng chế tác ra các món vòng, xuyến, cà rá, nhẫn, dây

chuyền, bình, chén, tượng v.v… Vàng ròng đây là chỉ thật tướng đem

chế ra nhiều món sai biệt khác nhau, tên gọi khác nhau, giá trị khác

nhau. Bây giờ ta lại đem các vật đó bỏ vào nồi nung chảy ra, tất cả đều

trở lại thành vàng ròng như ban đầu. Các chế tác vốn là tướng sai biệt

đều bị tiêu diệt hết, vì đó là ly tướng, là hư vọng, nhưng bản thể các vật

là vàng ròng là bình đẳng nhất tướng, bất sanh, bất diệt, chẳng tăng,

chẳng giảm.

PHẬT TÁNH CÓ HAY KHÔNG CÓ? (Trích phẩm Như Lai Tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn)

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi có

ngã cùng chăng?”

Phật dạy: “Này Thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa Như Lai

tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của

ngã như vậy, từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế

nên chúng sanh chẳng nhận thấy được.

Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho tàng vàng vòng,

tất cả người nhà không ai biết. Một hôm có người khách lạ khéo biết

phương tiện bảo cô gái nghèo: “Nay tôi thuê cô dọn cỏ rác cho tôi”

Cô gái liền đáp: “Nếu ông có thể chỉ kho vàng cho tôi, rồi tôi

sẽ dọn cỏ rác cho ông.”

Người khách nói: “Tôi biết cách thức, có thể chỉ kho vàng

cho cô.”

Cô gái nói: “Tất cả người nhà của tôi còn chẳng biết được,

huống là ông mà có thể biết!”

61 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Khách lại nói: “Nay tôi có thể biết chắc chắn.”

Cô gái nói: “Tôi gắp muốn thấy, ông nên chỉ cho tôi.”

Người khách liền ở trong nhà cô, đào được kho vàng ròng.

Cô gái thấy kho vàng ròng rất vui mừng, ngạc nhiên lạ lùng, kính trọng

người khách.

Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy,

tất cả chúng sanh chẳng nhận thấy được. Khác nào cô gái nghèo có kho

vàng mà chẳng biết. Hôm nay, ta chỉ bày Phật tánh của tất cả chúng sanh

hiện bị các phiền não che đậy. Như cô gái nghèo kia, trong nhà sắn có

kho vàng nhưng không thấy được. Hôm nay đức Như Lai chỉ bày kho

báu giác tánh cho chúng sanh, đây chính là Phật tánh. Chúng sanh thấy

được tánh này lòng rất vui mừng quy ngưỡng đức Như Lai.

Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Như Lai, cô gái

nghèo dụ cho vô lượng chúng sanh, kho vàng ròng dụ cho Phật tánh.

Này thiện nam tử! Ví như cô gái sanh một trai. Trẻ này mắc

bịnh, cô gái buồn rầu tìm y sĩ. Y sĩ đến xem bịnh, dùng ba thứ bơ, sửa,

đường phèn hiệp lại bảo cho đúa trẻ uống. Y sĩ dặn cho cô gái, đứa trẻ

sau khi uống thuốc chớ cho nó bú, phải chờ thuốc tiêu hóa rồi mới được

cho bú.

Cô gái liền lấy chất đắng thoa trên vú rồi bảo đứa trẻ: “Vú

của mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ chạm đến.”

Đức bé đói khát muốn bú, nhưng nghe mùi đắng trên vú bèn

chẳng dám gần. Thời gian sau, thuốc uống đã tiêu hóa, người mẹ lấy

nước rửa sạch vú mình, gọi con đến bú.

Lúc đó, đứa trẻ mặc dầu đói khát nhưng nhớ mùi đắng nên

chẳng dám đến bú.

62 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Người me bảo: “Vì con uống thuốc nên mẹ lấy chất đắng

thoa trên vú. Thuốc con uống đã tiêu hóa, vú của mẹ cũng đã rửa sạch,

giờ đây con có thể đến bú không hại gì.”

Đứa trẻ nghe mẹ bảo lần lần đến bú.

Này Thiện nam tử! Đức Như Lai cũng vậy. Vì độ tất cả

chúng sanh nên dạy tu pháp vô ngã. Nhờ tu pháp đó, dứt hẳn tâm chấp

ngã, được nhập Niết bàn. Vì trừ những vọng kiến trong đời, nên thị hiện

pháp xuất thế gian. Lại chỉ rỏ quan niệm chấp ngã của người đời là hư

vọng chẳng phải chơn thật, nên dạy tu pháp vô ngã để được thân thanh

tịnh.

Như cô gái kia chửa bịnh cho con, nên lấy chất đắng thoa

trên vú. Cũng vậy, đức Như Lai vì dạy tu pháp không nên nói các pháp

đều không có ngã. Như cô gái kia rửa sạch vú rồi kêu con đến bú. Cũng

vậy, đức Phật hôm nay nói Như Lai tạng. Vì thế nên các tỳ kheo chớ có

sanh lòng kinh sợ. Như đứa trẻ kia, nghe mẹ kêu lần lần đến bú. Cũng

vậy, các tỳ kheo nên tự phân biệt Như Lai tạng, chẳng được, chẳng có.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Thiệt không có ngã. Vì

lúc đứa trẻ mới sanh không hiểu biết. Nếu mà có ngã thì ngày mới sanh

lẽ ra liền có hiểu biết. Do nghĩ này nên định biết là không ngã. Nếu qui

định có ngã, sau khi đã thọ sanh, lẽ ra không chết mất. Nếu tất cả chúng

sanh đều có Phật tánh là thường trụ, lẽ ra không hư hoại. Nếu là không

hư hoại sao lai có Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Chiên Đà La, (94)

Súc Sanh v…v… sai biệt nhau. Hiện nay thấy các thứ nghiệp duyên

chẳng đồng, các loài đều riêng khác. Nếu quyết định có ngã, thời tất cả

chúng sanh lẽ ra không hơn kém.

Do những nghĩa trên đây nên định biết Phật tánh chẳng phải

là pháp thường trụ.

63 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nếu cho rằng Phật tánh quyết định là thường trụ, thời do

duyên gì lại nói có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưõng thiệt, ác khẩu,

vọng ngôn, ỷ ngữ, tham lam, sân khuể, tà kiến.

Nếu ngã tánh là thường trụ, cớ gì sau khi uống rượu lại say

mê.

Nếu ngã tánh là thường trụ, thời kẻ mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc

lẽ ra nghe tiếng, kẻ câm lẽ ra nói được, người què lẽ ra có thể đi.

Nếu ngã tánh là thường trụ, lẽ ra chẳng cần tránh hầm lửa,

nước lụt, thuốc độc, đao gươm, kẻ ác, thú dữ.

Nếu ngã là thường trụ thời những việc đã từng nghe thấy lẽ

ra chẳng quên. Nếu chẳng quên cớ gì lại nói: tôi đã từng thấy người này

ở chỗ đó.

Nếu ngã là thường trụ thời lẽ ra chẳng nên có niên thiếu,

tráng niên, lão thành v…v… lẽ ra chẳng nên có thạnh, suy, mạnh, yếu

cùng nhớ đến việc đã qua.

Nếu ngã là thường trụ, thời nó ở chỗ nào? Nó ở trong nước

mủi, nước miếng hay ở trong các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng ư?

Nếu ngã là thường trụ, lẽ ra nó phải khắp trong thân, như dầu

mè không chỗ hở trống.

Nếu như vậy lúc chặt đứt thân thể, thời ngã đó lẽ ra cũng bị

đứt!”

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ví như nhà vua có

đại lực sĩ. Trên trán lực sĩ gắn hột châu kim cương. Lực sĩ này cùng

người đánh vật. Hột châu kim cương bị đầu kẻ địch đụng lún khuất trong

da. Nơi đó thành vết thương, liền nhờ y sĩ cứu chữa.

Y sĩ tài giỏi xem vết thương biết là do hột châu lún vào khuất

dưới da. Y sĩ hỏi lực sĩ: “Châu kim cương trên trán của ông đâu rồi?”

64 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lực sĩ kinh hãi đáp: “Hột châu trên trán của tôi đã mất rồi

ư? Nó rơi rớt ở đâu?” Nói xong lo rầu khóc lóc.

Y sĩ an ủi: “Nay ông chẳng nên buồn khổ, vì lúc ông đánh

vật, hột châu lún vào ở ẩn dưới da, bóng nó hiện ra nơi ngoài. Lúc các

ông vật đánh nhau, lòng quá giận tức, nên hột châu lún vào trán mà

chẳng hay biết.”

Lực sĩ chẳng tin lời của y sĩ. Nghĩ rằng: “Nếu hột châu ở

dưới da, máu mủ chảy tuôn, cớ sao hột châu chẳng trồi lên? Còn nếu

hột châu ở trong gân, lẽ ra không thể thấy. Hoặc giả y sĩ gạt gẫm ta

chăng?”

Bấy giờ y sĩ cầm gương soi trên mặt lực sĩ. Hột châu kim

cương hiện ánh sáng trong gương. Lực sĩ nhìn thấy ngạc nhiên mừng rở.

Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh cũng như vậy. Vì

không được gần gủi bực thiện tri thức, dầu có Phật tánh mà đều không

nhận thấy. Bị tham, sân, si, che đậy, vì thế nên đọa địa ngục, súc sanh,

ngạ quỉ, a tu la, chiên đà la, sát đế lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà. Sanh vào

trong các dòng đó, nhơn tâm tưởng mà gây ra các thứ nghiệp duyên. Dầu

được thân người, nhưng phải điếc, đui, câm, ngọng, què, thọt. Thọ các

quả báo trong hai mươi lăm cõi. Vì tham, sân, si che lấp bổn tâm nên

chẳng biết Phật tánh. Như lực sĩ kia, hột châu vẫn ở trong thân mà hô đã

mất.

AI TRUYỀN GIỚI CHO PHẬT?

Vua hỏi:

_ Bạch Đại Đức, hẳn là Phật phải có biết rồi mới theo đó mà phụng

hành giới luật chớ?

_ Tâu Đại Vương! Vâng.

_ Ai là Thầy truyền giới cho Phật?

65 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

_ Phật không có Thầy. Ngài không học với ai hết. Ngài tự mình tu

học cho đến khi đắc đạo dưới gốc cây bồ đề, thì hoát nhiên đại ngộ mà

tự biết các giới luật. Ngài không giống như các đệ tử của Ngài phải học

nơi Ngài rồi mới biết mà phụng hành cho đến già. Vì vậy Phật mới là

bực VÔ THƯỢNG GIÁC VƯƠNG.

Kinh Na Tiên Tỳ Kheo

THỜI GIAN.

Vua hỏi:

_ Bạch Đại Đức, Đại đức vừa nói thời gian dài vô cùng vô tận, vậy

thời gian là gì?

_ Quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá khứ dài vô cùng vô tận. Vị lai

cũng dài vô cùng vô tận. Chỉ hiện tại là không dài.

_ Xét cho cùng lý, có thời gian hay không?

_ Có khi có, có khi không.

_ Khi nào thì có, và khi nào thì không?

_ Với những vị tu hành đắc đạo vào Niết Bàn thì không có thời

gian. Với những kẻ chưa đắc đạo còn vào ra trong vòng sanh tử, thì còn

có thời gian. Khi thời gian còn có, thì nếu đời này thích làm việc bố thí

và ăn ở hiếu thuận với cha mẹ, đời sau hẳn được hưởng phước báo.

_ Nguồn gốc của thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai là gì?

_ Ay là cái ngu si mê muội sanh ra nên liền sanh thần, thần sanh

thân, thân sanh danh, danh sanh sắc, sắc sanh lục trí (tức sáu cái biết):

một là biết của mắt, hai là biết của tai, ba là biết của mũi, bốn là biết của

lưởi, năm là biết của thân, sáu là biết của tâm. Cả sáu cái biết này đều

66 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hướng ngoại. Mắt hướng sắc, tai hướng thanh, mũi hướng hương, lưởi

hướng vị, thân hướng trơn nhám, tâm hướng tham dục. Liền hướng đến

là liền hiệp lại mà biết khổ biết vui. Do biết khổ biết vui mới sanh ân ái.

Do ân ái sanh tham dục. Do tham dục mới hình thành cái nguyên nhơn

tái sanh (hửu). Do tái sanh nên có già, chết, khóc lóc, lo rầu, khiến nội

tâm bi thống. Tất cả những cần khổ, bi thống ấy hiệp lại mà thành con

người. Vì vậy mà con người chết đi, sanh lại hết đời này sang đời khác,

không bao giờ chấm dứt. Trong thời gian dài vô tận và không thể phanh

ra đầu mối ấy, tìm trở lại cái bản thân trước kia của con người, quả thật

là một việc bất khả đắc.

_ Bạch Đại đức, Đại đức vừa nói không thể phanh ra đầu mối của

thời gian, vậy xin ví dụ cho nghe.

_ Như trong việc trồng lúa. Hột lúa gieo xuống đất, tự nó nẩy

mầm, đâm rễ, lên cây, trổ lá, đâm bông, ngậm sửa, phơi mao, kết hột.

Hột lúa mới gieo trở lại xuống đất, sanh ra những hột lúa mới khác nữa.

Nếu cứ gieo trồng như thế hết năm này sang năm khác, sự liên tục của

hột lúa có khi nào ngưng nghĩ được không?

_ Không.

_ Con người sanh ra qua thời gian cũng như vật đó. Trước sau triễn

chuyễn tương sanh không dứt. Trong dòng kiết sanh tương tục ấy, tìm

cho ra đầu mối sanh tử là một việc bất khả đắc.

_ Xin cho ví dụ khác.

_ Ví như gà đẻ trứng. Trứng gà ấp nở ra gà con. Gà con lớn lên lại

đẻ trứng mới, lại nở gà con. Từ trứng nở ra gà, từ gà đẻ lại trứng, cứ thế

tiếp tục mãi không bao giờ ngừng. Con người sanh ra rồi lại chết đi, chết

xong lại sanh trở lại, lộn lui lộn tới trong vòng sanh tử, cũng giống như

thế, không thể nói đâu là đầu mối, nói đâu là tận cùng.

_ Xin cho ví dụ khác.

67 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Na Tiên cúi xuống vẻ một hình bánh xe dưới đất, rồi chỉ vào

hình vẻ mà hỏi vua rằng:

_ Trên cái vòng tròn này, Đại vương có thấy đâu là điểm bắt đầu

không?

_ Thưa không.

_ Cũng như thế đó. Trong vòng sanh tử không thể nào biết được

đâu là thủy, đâu là chung. Phật dạy rằng: con người sanh tử, tử sanh, lộn

đi, lộn lại, lộn tới, lộn lui như bánh xe lăn, triễn chuyễn tương sanh,

không bao giờ dừng nghĩ, bởi thế mà đau khổ kéo dài mãi chẳng bao giờ

ngừng. Tạng Luận giải thích việc này như sau:

Do con mắt và hình sắc tiếp giáp nhau nên thức liền thấy

biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có xúc nên mới có cảm thọ khổ

vui. Bởi cảm thọ khổ vui nên sanh ra ân ái. Bởi ân ái nên sanh ra tham

dục. Bởi tham dục nên một nghiệp mới được un đúc và hình thành dần

dần: đó là hửu. Bởi hửu nên mới có sanh. Bởi có sanh nên mới có các

việc làm thiện ác. Rồi do các việc làm thiện ác cho nên mới phải tái sanh

trở lại để thọ báo.

Do lỗ tai và âm thanh tiếp giáp nhau nên thức liền nghe biết.

Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có xúc nên mới cảm thọ khổ vui như

trên và cũng trước sau tiếp nối nhau cho đến quả tái sanh.

Cũng giống như thế, với mũi và hương, lưởi và vị, thân và

vật trơn nhám, ý và điều nhớ nghĩ. Và hể có cảm thọ khổ vui thì có tác

động dây chuyền đưa đến quả tái sanh. Tất cả đều triễn chuyễn tương

sanh và trước sau tương tục, không bao giờ dứt nghĩ.

Cho nên trong thời gian dài dằng dặc, tìm cho ra đầu mối của

sanh tử là một việc bất khả đắc.

Kinh Na Tiên Tỳ Kheo.

68 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Sự tích NÀNG SỰ PHỤ. (Chuyện khởi đầu từ trên cung trời Đao Lợi)

Thuở ấy trên cõi trời Đao Lợi có vị Thiên tử tên là Hoa

Quang (Mãlãbhãrĩ) dắt theo hàng ngàn ngọc nữ ngự du trong vườn

thượng uyển. Năm trăm thiên nữ trèo lên cây hái hoa ném xuống, năm

trăm ở dưới nhặt hoa đi trang điểm cho Thiên tử. Trong số thiên nữ leo

cây, có một nàng đang ngồi trên nhánh cây vừa hết tuổi thọ, ngọc thể

của nàng biến mất cũng như ngọn đèn vụt tắt. Tâm thức nàng thọ sanh

vào một gia đình khá giả trong thành Sãvatthĩ.

Khi ra đời nàng nhớ lại tiền kiếp trước kia: “Mình trước kia

là ái thiếp của Thiên tử Hoa Quang trên cung trời Đao Lợi.” Nên càng

lớn khôn, nàng đã bắt đầu dâng cúng hương hoa, lễ vật nguyện cầu được

siêu sanh trở về đoàn tụ với lang quân.

Lúc mười sáu tuổi nàng xuất giá, từ đó nàng siêng năng làm

phước cúng dường thực phẩm đến chư Tăng bằng những cách thông

thường như để bát chư tỳ khưu mà nàng rút thẻ bắt thăm được, trai tăng

ngày rằm và ngày ba mươi, hoặc hộ tăng trong ba tháng hạ. Và phát

nguyện rằng: “Xin cho sự phước thí này hãy là món duyên lành, giúp

cho con được tái sanh hội hiệp với người chồng Thiên tử ở cung trời

Đao Lợi.”

Chư tỳ khưu nghe nàng ước nguyện như thế, sáng chiều

hướng tâm đến người chồng Thiên tử, nên đã đặt cho nàng biệt hiệu là

nàng Sự Phụ (Patipũjikã). Nàng luôn chăm nom ngôi tọa đường, lo việc

dâng nước và sắp đặt chỗ ngồi. Những thiếu nữ khác khi muốn cúng

dường trai tăng cũng thường nhờ cậy nàng cho mượn chỗ và phụ tiếp

công nữa, hoặc đưa vật thực đến mượn nàng thay mặt để lo hộ độ chư

Tăng nơi ngôi tọa đường. Cứ mỗi bước đến ngôi tọa đường, nàng Sự

Phụ có được năm mươi sáu thiện pháp đều đều như vậy.

69 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nàng thọ thai mười tháng thì sanh được đứa con trai. Khi đứa

con đầu lòng biết đi, nàng sanh thêm một đưa kế, và cứ thế nàng hạ sanh

được bốn đứa con trai.

Thế rồi một hôm sau khi bố thí, cúng dường, thính pháp, thọ

giới, đến cuối ngày nàng tự nhiên lìa bỏ cõi đời mặc dù không đau bịnh

chi hết. Hồn nàng siêu sanh về tái hội với chồng Thiên tử. Khi ấy các

thiên nữ vẫn còn đang trang điểm cho Thiên tử.

Thiên tử hỏi: “Từ sáng đến giờ không ai thấy nàng, vậy nàng

đi đâu?”

“Thưa chàng, thiếp đã mệnh chung.”

“Nàng nói thật chứ?”

“Vâng! Quả đúng như thế! Thưa chàng.”

“Nàng sanh về đâu?”

“Dưới cõi ta bà trong một gia đình khá giả, thành Sãvatthĩ.

“Nàng ở đó bao lâu?”

“Ở trong bụng mẹ mười tháng thì ra đời, đến năm mười sáu tuổi

thì xuất giá, sanh được bốn con trai, rồi làm phước cúng dường và ước

nguyện được trở về với chàng. Nên giờ đây mới được thọ sanh về đây đó

chàng.”

“Tuổi thọ nhơn loại là bao nhiêu?”

“Lối một trăm năm.”

“Chỉ có bấy nhiêu ư?”

“Vâng! Thưa chàng.”

“Sanh làm con người chỉ có bao nhiêu tuổi thọ như thế, họ lại ăn

ngủ buông lung, để mặc thời gian trôi qua hay là họ cúng dường làm

phước vậy?”

“Thưa chàng! Chàng nói chi chuyện làm phước, người đời họ luôn

luôn dể duôi, buông tuồng, y như là họ sống đến hết a tăng kỳ kiếp,

không già không chết vậy.”

70 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nghe đến đây một mối kinh cảm phát sinh lên trong lòng

Thiên tử Hoa Quang. Ngài nghĩ thầm: “Sanh làm người chỉ sống có một

trăm tuổi thọ, thế mà họ vẫn sống buông lung, ăn ngủ mãi, thì biết bao

giờ họ mới thoát khổ!

Ở thiên giới, một ngày đêm ở cõi Đao Lợi này bằng một trăm

năm cõi nhơn loại. Cứ ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng

là một năm. Tuổi thọ nơi Đao Lợi Thiên cung là một ngàn tuổi, tính ra

so với tuổi nhơn loại là ba mươi sáu triệu năm. Bởi thế nàng thiên nữ khi

thác xuống cõi người rồi trở về Thiên cung chưa đến một ngày. Coi như

mới đi trong chốc lát vậy.

71 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm NHƯ LAI THỌ LƯỢNG thứ mười sáu.

“1.- Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng:

“Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật

của Như Lai.”

“Lại bảo đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc

thật của Như Lai.”

“Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói

chắc thật của Như Lai.”

Phải ba lần, đức Thế Tôn lập đi lập lại chỉ một câu nói. Bấy

giờ toàn thể thính chúng trong đạo tràng nín lặng để chờ nghe lời giải

đáp của Phật. Chúng ta thấy đức Phật thể hiện lòng từ với chư Bồ Tát và

toàn thể đại chúng như thế nào. Và ở đây chúng ta cũng thấy đức Di Lặc

Bồ Tát đeo đuổi mục đích hoài nghi, phải ba phen cầu thỉnh đức Thế

Tôn, ngài Di Lặc chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Cúi mong nói đó,

chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”

Như Lai liền giải đáp chỗ nghi của ngài Di Lặc và đại chúng

Bồ Tát trong phẩm “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”

“2.- Bấy giờ đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát ba phen thỉnh

chẳng thôi, mà bảo đó rằng: “Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần

thông của Như Lai, tất cả trong đời, trời, người và a tu la đều cho

rằng nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách

thành Già Da chẳng bao xa ngồi nơi đạo tràng đặng Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác.

“Nhưng thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây

đã vô lượng, vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp. Ví như

năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên đại

thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương đông, cách

72 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một

bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.

“Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể

suy gẫm so tính biết được số đó chăng?

“Di Lặc Bồ Tát thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các

thế giới đó vô lượng, vô biên, chẳng thể tính được, đếm được, cũng

chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác

dùng trí vô lậu. Chẳng có thể suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng

con trụ bực bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.

“Thế Tôn! Các thế giới đó nhiều vô lượng, vô biên.”

“3.- Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ Tát: “Các thiện nam

tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành rỏ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc

dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần

là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó

trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta

thường ở cõi ta bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn

muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng

sanh.

“Các thiện nam tử! Nơi chặn giữa đó, ta nói Phật Nhiên

Đăng, và lại có các đức Phật nhập Niết bàn, như thế đều là dùng

phương tiện để phân biệt.”

Trong kinh đức Phật thường hay nói hai tiếng vi trần, tức là

nói con số rất nhiều, không thể đếm được, chỉ cảm thọ mà nhận biết. Vi

trần ở đây cũng nói lên một con số, còn chấp con số tức là còn vọng

niệm, còn vọng niệm thì chẳng phải là thiệt tướng. Tam thiên đại thiên

thế giới cũng chẳng phải là thiệt tướng, chỉ là một cách diễn tả con số vô

lượng vô biên. Một tam thiên đại thiên thế giới gồm có bốn trung kiếp:

1. Trung kiếp thành: Thế giới mới tạo thành.

73 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

2. Trung kiếp trụ: Thế giới có đầy đủ hinh thái, vật chất.

3. Trung kiếp hoại: Thế giới hư rả do bởi lửa, gió, nước.

4. Trung kiếp không: Tan hết, chẳng trụ lại một vết tích nào.

5.

“Nếu những vi trần ấy mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi

trần, chỉ cưởng danh là vi trần. Như Lai nói tam thiên đại thiên thế

giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưởng danh là thề giới.” Kinh Kim Cang.

Trước đây, trong phần giới thiệu bộ kinh Pháp Hoa, tôi có

nói về đức Bổn Phật và đức Tích Phật (trang 44). Sở dĩ nói về đức Bổn

Phật, vì là đức Phật đã có từ thuở khai thiên lập địa. Có nghĩa là từ thuở

hình thành trái đất này, trong đạo Phật gọi là thời kỳ “kiếp thành”. Còn

Tích Phật tức là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đức Phật lịch sử, đức Phật

hiện diện vào thời đại văn minh con người cách nay 2546 năm (2002

dương lịch). Những đức Tích Phật có trước đức Phật lịch sử Thích Ca

Mâu Ni như Phật Nhiên Đăng, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Đa

Bảo, Phật Tỳ Bà Thi v…v…các vị Phật này là hóa thân từ đức Bổn Phật.

Những đức Tích Phật còn phân thân ra hằng hà sa số chư Phật, các Ngài

tùy nhơn duyên độ sanh, còn có thể thị hiện ứng thân, hoặc hóa thân trời,

người, a tu la, súc sanh, hoặc hoá thân vào tận địa ngục, ngạ quỉ.

Đức Bổn Phật có một năng lực vô cùng, vô tận, vô thủy, vô

chung. Phật hiện diện trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, bất cứ

nơi đâu, bất cứ chỗ nào, bất cứ trong vũ trụ hư không. Ở đây không nói

đến những vật to lớn như trời, biển, đất, núi, những vật chất mà con

người cho là bao la đó, đối với Như Lai chỉ là vật vi tế, hay là một quả

cầu đặt trong lòng bàn tay.

Chúng ta phải tin vào sự thọ lượng của Như Lai, như là một

sự hiện hửu để sinh tồn mà diệu lý thâm sâu nằm trong Thập Như Thị

(tr.113). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hiện diện trong thời kỳ “kiếp

trụ” này. Chỉ bày chơn lý cho chúng sanh để chúng sanh phân biệt được

vô minh và chánh kiến.

74 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thọ mạng của Như Lai không phải tính bằng con số. Thọ

mạng của Như Lai (đức Bổn Phật) như đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói là

trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Đức Phật đã ba phen nói với tất cả

Bồ Tát và đại chúng “Thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói

chắc thật của Như Lai.”

Lời nói chắc thật được thốt ra ba lần, như trong đêm tối có

người ba lần khêu tim ngọn đèn làm cho ánh sáng bừng tỏa chung

quanh. Khiến cho chúng ta tin rằng sự thọ mạng của đức Phật vô cùng

vô tận, mới có đủ sức thần thông giáo hóa vô lượng vô biên số đại chúng

Bồ Tát đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Tin vào lời nói của

Phật là tin vào một Tôn giáo (Giáo lý chơn chánh được tôn là bậc nhất

thời bấy giờ) rốt ráo đưa chúng sanh thoát vòng sinh tử luân hồi. Sự thọ

mạng của Như Lai tính bằng lượng a tăng kỳ, con số nhiều không thể

đếm được, không thể tâm nghĩ mà được, con số đó gọi là bất khả thuyết,

bất khả thuyết. Kinh Hoa Nghiêm viết:

Bất khả ngôn thuyết, bất khả thuyết

Sung mãn tất cả bất khả thuyết

Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết

Nói bất khả thuyết chẳng hết được

Trong tám mươi bốn ngàn pháp môn đức Phật đã giảng dạy,

chỉ có kinh Pháp Hoa là đức Phật nói Như Lai hiện hửu khắp mọi nơi, vì

Như Lai là bản thể chơn như của các pháp, cho nên không có chỗ nào,

dầu nhỏ như hột cải mà Như Lai lại chẳng hiện diện để cứu độ chúng

sanh.

ĐỨC CỔ PHẬT THÍCH CA MÂU NI.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phán với Bồ Tát Quang Minh

Biên Chiếu Cao Quí Đức vương rằng:

75 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Thiện nam tử! Ta nhớ lại hồi thuở quá khứ, cách nay vô

lượng vô biên na do tha kiếp, thuở ấy có một thế giới kêu là Ta bà. Ở thế

giới ấy có Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Như Lai Ứng Cúng, Chánh

biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,

Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư Phật, Thế Tôn. Ngài tuyên thuyết

kinh Đại Bát Niết Bàn này với các hàng đại chúng.

“Thuở ấy, ta theo bạn lành nghe người này chuyền tới người

kia rằng đức Phật ấy đương thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn với đại

chúng. Nghe vậy rồi lòng ta lấy làm hoan hỷ, muốn bày việc cúng

dường. Nhưng ta ở cảnh nghèo cùng, chẳng có vật chi cả. Ta bèn muốn

tự bán mình. Bạc phước thay! Chẳng có ai mua cả. Ta muốn trở về nhà.

Trên đường, ta thấy một người, bèn nói với người ấy rằng: “Tôi muốn

bán thân, ông có thể mua hay chăng?”

“Người ấy đáp: “Nhà tôi có việc không ai làm nỗi. Như chú

có thể làm, tôi sẽ mua chú.”

“Ta liền hỏi rằng: “Ông có việc chi mà không ai làm nỗi?

“Người ấy đáp rằng: “Tôi có bịnh dữ, lương y định thuốc,

dặn mỗi ngày tôi nên ăn ba lạng thịt người. Nếu chú có thể mỗi ngày lấy

ba lạng thịt nơi mình chú mà cấp cho tôi, nếu chịu như vậy, tôi sẽ trao

cho chú năm đồng tiền vàng.”

“Ta nghe vậy rồi, lấy làm hoan hỷ nơi lòng. Ta lại nói rằng:

“Ông trao tiền đi, rồi cho tôi hẹn bảy ngày, công việc của tôi xong, tôi

sẽ trở lại.”

“Người ấy đáp: “Bảy ngày không được, hãy liệu như vầy

xem, tôi sẽ cho chú nghĩ một ngày.”

“Thiện nam tử! Thuở ấy lấy tiền của người ấy rồi, ta liền đi

đến chỗ Phật, đầu và mặt lễ sát chân Phật. Ta đem hết sở hửu mà phụng

hiến. Rồi đó, ta thành tâm mà nghe và thọ kinh Đại Bát Niết Bàn. Thuở

76 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

ấy, ta còn ngu tối, tuy được nghe kinh, mà chỉ có sức thọ trì một bài kệ

này mà thôi:

Như lai chứng Niết Bàn

Vĩnh đoạn ư sanh tử

Nhược hửu chí tâm thính

Thượng đắc vô lượng lạc.

Dịch nghĩa

Như lai chứng Niết Bàn

Dứt mãi cuộc sanh tử

Nếu ai chí tâm nghe

Thường được vui vô lượng.

“Thọ kệ ấy rồi, ta bèn trở lại nhà của bịnh nhơn.

“Tuy ngày ngày ta cho người ấy ba lạng thịt của mình,

nhưng nhờ nhơn duyên nhớ tưởng bài kệ, ta chẳng lấy làm đau đớn.

Ngày ngày chẳng phế việc ấy, cho đến trọn đủ một tháng.

“Nhờ nhơn duyên ấy, bịnh nhơn mau được lành., thân ta

cũng bình phục, không có một vết thẹo chi cả. Thuở ấy, thấy thân ta đều

đủ như trước, ta liền phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

“Sức một bài kệ còn làm được như vậy, huống chi trọn bộ

kinh mà mình thọ trì, đọc, tụng? Bởi thấy kinh này có lợi như vậy, nên ta

lại phát tâm thêm, nguyện cho về sau khi thành được Phật đạo, hiệu ta

lại cũng là Thích Ca Mâu Ni.

Trích Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 22.

Và chỉ có kinh Pháp Hoa đức Phật phán “Dược Vương ! Lại

sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp

Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thọ

ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho.” (Phẩm Pháp Sư

thứ 10).

77 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Sức bí mật thần thông của Như Lai trong đời như thế nào,

chúng ta hãy lóng tai nghe Phật nói tiếp:

“Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta

dùng Phật nhãn quan sát tín v.v.. các căn lợi độn của chúng, tùy

theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc

lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết Bàn, lại dùng các trí

phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sanh phát lòng

vui mừng.

“Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa

nơi pháp tiểu thừa, đức mỏng, tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc

trẻ xuất gia đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt

từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện

giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.

“4.- Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra

đều vì độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân

người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, các lời nói đều thiệt

chẳng dối. Vì sao? Vì đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng

của tam giới, không có sanh tử, hoặc thối, hoặc xuất cũng không ở

đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như,

chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc

như thế, Như Lai thấy rỏ, không có sai lầm.”

“Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các

món hạnh, các món nhớ tưởng, phân biệt muốn làm cho sanh các

căn lành, nên dùng bao nhiêu nhơn duyên, thí dụ ngôn từ, các cách

nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành

Phật nhẫn lại thật là lâu xa, thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp,

thường còn chẳng mất.

“Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát,cảm

thành thọ mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên. Nhưng nay

chẳng phải thiệt diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ, đức Như Lai

78 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dùng phương tiện đó giáo hóa chúng sanh. Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu

nơi đời, thời người đức mỏng chẳng trồng cội lành, nghèo cùng hèn

hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng, vọng kiến.

Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông

lung nhàm trể, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gở cùng lòng

cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ

kheo! Phải biết, các Đức Phật ra đời khó có thể gặp gở.”

“Vì sao? Những người đức mỏng trải qua trăm nghìn

muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc có người chẳng thấy,

do việc này nên ta nói rằng: “Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng

thấy.” Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó

gặp gở, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành,

cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ.

“5.- Ví như vị lương y, trí tuệ sáng suốt, khéo luyện

phương thuốc trị các bệnh. Người ấy nhiều con cái, hoặc mười, hai

mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc

đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn loạn, lăn

lộn trên đất.

“Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống

thuốc độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về,

đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An lành về an ổn. Chúng con

ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho

chúng con.”

“Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh

phương, tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm

nghiền hoà hiệp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại

lương dược này, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên

uống, mau trừ khổ não, không còn lại các bệnh hoạn.”

“Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc

lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết

79 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về, dầu

cũng vui mừng, hỏi thăm, cầu xin tri bệnh, song trao thuốc cho mà

không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn

tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha

nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên

đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như

thế mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng

uống thuốc này.

“Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già

suy, giờ chết đã đến, thuốc lương dược tốt này nay để ở đây, các con

nên lấy uống, chớ lo không lành. Bảo thế rồi, lại đến nước khác sai

sứ về nói “Cha các ngươi đã chết.”

“Bấy giờ các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ

rằng “Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm

nay bỏ ta, xa chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có

chỗ cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này,

sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha

nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.”

Trước khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa, Như Lai có nói với

ngài Tôn giả Xá Lợi Phất:

“Trí tuệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí tuệ

đó khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích chi Phật

đều không biết được. Vì sao? Phật đả từng gần gủi trăm nghìn

muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức

Phật, dõng mãnh, tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất

sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu. Từ ta

thành Phật đến nay, các món nhơn duyên, các món thí dụ, rộng nói

ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa

lìa lòng chấp.” (Phẩm Phương Tiện thứ 2).

Diễn giải :

80 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lòng chấp của chúng sanh do bởi tám cái điên đảo làm vọng

kiến cho tâm, chia ra hai bực: bực phàm phu (từ dưới bực Thanh Văn trở

xuống) vì còn chấp ngã, nên còn ham thích sắc, thọ, tưởng, hành và

thức, do ham thích nên sanh tham dục, do sanh tham dục mà còn tái

sanh, còn trở lại thế gian để trả nghiệp báo. Bực thánh (từ bực Thanh

Văn trở lên) nghe nhiều, hiểu biết nhiều, nên nhàm chán sắc, thọ, tưởng,

hành và thức, do nhàm chán mà hết tham, do hết tham mà giải thoát,

không còn trở lại thế gian nữa.

Bốn pháp điên đảo của bực phàm phu: kẻ chẳng tỏ ngộ chơn

tánh, hay vọng chấp căn trần, chìm đắm trong sáu đường nên gọi là

phàm phu :

1. Thường: Các pháp trong thế gian đều vô thường, mà cho là hửu

thường.

2. Lạc: Các pháp trong thế gian đều đau khổ, mà cho là vui sướng.

3. Ngã: Các pháp trong thế gian đều vô ngã, mà cho là hửu ngã.

4. Tịnh: Các pháp trong thế gian đều bất tịnh, mà cho là thanh tịnh.

Bốn pháp điên đảo của bực thánh: người lìa bỏ tất cả sự

tướng, ở nơi tướng mà lìa tướng, ở nơi không mà lìa không, nên gọi là

thánh nhân.

1. Vô Thường: Đối với Niết Bàn là thường, mà cho là vô thường.

2. Vô Lạc :Đối với Niết Bàn là vui, mà cho là vô lạc.

3. Vô Ngã :Đối với Niết Bàn là chơn ngã, mà cho là vô ngã.

4. Vô Tịnh :Đối với Niết bàn là thanh tịnh, mà cho là vô tịnh.

81 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Như Lai nói các đức Phật chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà

hiện ra nơi đời. Vậy nhơn duyên lớn đó là nhơn duyên gì? Đó là tri kiến

Phật. Bởi tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh thời các pháp cũng tùy

nhơn duyên khởi. Chúng sinh do có vọng tâm nên bị vô minh che khuất

và bị vướng vào ngã tướng. Vì bởi chúng sanh không từ nơi tướng lìa

được tướng, không từ nơi không lìa được không, cho nên vọng niệm, mê

chấp bùng khởi. Từ đó chúng sanh không biết rằng có Phật tại tâm. Tri

kiến Phật, phải tri kiến bổn tâm. Muốn tri kiến bổn tâm trước hết phải

khai mở tri kiến tâm, chỉ rỏ tri kiến tâm, nhận ra tri kiến tâm, cho tới lúc

tâm đã hiển bày tự tánh rồi thì nhập vào tri kiến tâm.

Tri kiến tâm, tâm thường sinh trí tuệ, chẳng sanh, chẳng diệt

có thể cầu đạo Vô thượng Bồ đề.

Trước khi chấm dứt thời thuyết pháp, Như Lai liền nói bài

kệ:

6.- Từ ta thành Phật lại

Trải qua các kiếp số

Vô lượng trăm nghìn muôn

A tăng kỳ ức năm

Thường nói pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sanh

Khiến vào nơi Phật đạo

Đến nay vô lượng kiếp

Vì độ chúng sanh vậy

Phương tiện hiện Niết Bàn

Mà thiêt chẳng diệt độ

Thường trụ đây nói pháp

Ta thường ở nơi đây

Dùng các sức thần thông

Khiến chúng sanh điên đảo

Dầu gần mà chẳng thấy

Chúng thấy ta diệt độ

Rộng cúng dường xá lợi

82 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thảy đều hoài luyến mộ

Mà sanh lòng khát ngưỡng

Chúng sanh đã tín phục

Ngay thiệt ý dịu hòa

Một lòng muốn thấy Phật

Chẳng tự tiếc thân mạng

Giờ ta cùng chúng sanh

Đều ra khỏi Linh Thứu

Ta nói với chúng sanh

Thường ở đây chẳng diệt

Vì dùng sức phương tiện

Hiện có diệt chẳng diệt

Nước khác có chúng sanh

Lòng cung kính tín nhạo

Ta ở lại trong đó

Chỉ nói ta diệt độ

Ta thấy các chúng sanh

Chìm ở trong khổ não

Nên chẳng vì hiện thân

Cho kia sanh khát ngưỡng

Nhơn tâm kia luyến mộ

Hiện ra vì nói pháp

Sức thần thông như thế

Ở trong vô số kiếp

Thường tại núi Linh Thứu

Và các trụ xứ khác

Chúng sanh thấy tận kiếp

Lúc lửa lớn thiêu đốt

Cõi ta đây yên ổn

Trời người thường đông dầy

Vườn rừng các nhà gác

Những món báu trang nghiêm

Cây báu nhiều bông trái

Chỗ chúng sanh vui chơi

Các trời đánh trống trời

83 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thường trổi những kỷ nhạc

Rưới bông mạn đà la

Rải Phật và đại chúng

Tịnh độ ta chẳng hư

Mà chúng thấy cháy rã

Lo sợ các khổ não

Như thế đều đầy dẩy

Các chúng sanh tội đó

Vì nhơn duyên nghiệp dữ

Quá a tăng kỳ kiếp

Chẳng nghe tên Tam Bảo

Người nhu hòa ngay thiệt

Có tu các công đức

Thời đều thấy thân ta

Ở tại đây nói pháp

Hoặc lúc vì chúng này

Nói Phật thọ vô lượng

Người lâu mới thấy Phật

Vì nói Phật khó gặp

Trí lực ta như thế

Huệ quang soi vô lượng

Thọ mạng vô số kiếp

Tu hành lâu cảm đặng

Các ông người có trí

Chớ ở đây sanh nghi

Nên dứt khiến hết hẳn

Lời Phật thiệt không dối

Như lương y chước khéo

Vì để trị cuồng tử

Thiệt còn mà nói chết

Không thể nói hư dối

Ta là cha trong đời

Cứu các người đau khổ

Vì phàm phu điên đảo

Thiệt còn mà nói diệt

84 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì cớ thường thấy ta

Mà sanh lòng kiêu tứ

Buông lung ham ngủ dục

Sa vào trong đường dữ.

CON SỐ BẤT KHẢ THUYẾT.

Một kiếp ở cõi Ta Bà (thế giới hóa độ của Phật Thích Ca)

bằng một ngày đêm ở cõi Cực Lạc (quốc độ của Phật A Di Đà).

Một kiếp ở cõi Cực Lạc bằng một ngày đêm ở thế giới Ca Sa

Tràng (quốc độ của Kim Cang Kiên Phật).

Một kiếp ở cõi Ca Sa Tràng bằng một ngày đêm ở thế giới

Bất Thối Chuyễn Am Thanh Luân (quốc độ của Thiện Thắng Quang

Minh Liên Hoa Khai Phu Phật).

Một kiếp ở cõi Bất Thối Chuyễn Am Thanh Luân bằng một

ngày đêm ở thế giới Ly Cấu (quốc độ của Pháp Tràng Phật)

Một kiếp ở cõi Ly Cấu bằng một ngày đêm ở thế giới Thiện

Đăng (quốc độ của Sư Tử Phật).

Một kiếp ở cõi Thiện Đăng bằng một ngày đêm ở thế giới

Diệu Quang Minh (quốc độ của Quang Minh Tạng Phật).

Một kiếp ở cõi Diệu Quang Minh bằng một ngày đêm ở thế

giới Nan Siêu Quá (quốc độ của Pháp Quang Minh Liên Hoa Khai Phu

Phật).

Một kiếp ở cõi Nan Siêu Quá bằng một ngày đêm ở thế giới

Trang Nghiêm Huệ (quốc độ của Nhứt Thiết Thần Thông Quang Minh

Phật).

85 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Một kiếp ở cõi Trang Nghiêm Huệ bằng một ngày đêm ở thế

giới Cảnh Quang Minh (quốc độ của Nguyệt Trí Phật).

Tuần tự như vậy cho đến một kiếp ở thế giới rốt sau bằng

một ngày một đêm ở thế giới Thắng Liên Hoa (quốc độ của Hiền Thắng

Phật, và ngài Phổ Hiền Bồ Tát và chư đại Bồ Tát đồng hạnh đông dầy

trong thế giới Thắng Liên Hoa này.

Trích Kinh Hoa Nghiêm tập 3.

Phẩm Thọ Lượng thứ ba mươi mốt.

PHƯỚC LỰC NHỜ THỌ BÁT QUAN TRAI.

Hằng năm cứ đến mùa mưa, thì có năm trăm vị đạo sĩ từ

miền tuyết sơn về thành để kiết hạ an cư. Một hôm họ đi xuyên qua một

khu rừng, thấy một cây da to, họ đến ngồi xung quanh gốc cây ấy để

nghĩ. Vị đạo sĩ trưởng đoàn nghĩ thầm: “Vị thọ thần ngụ trên cây này

không phải là hạng tầm thường thấp kém đâu? Chắc hẳn là một thiên

vương có nhiều oai lực, ước gì ngài ban cho cả đoàn đạo sĩ nước uống

giải khát.”

Quả nhiên, thọ thần ban cho họ nước uống giải khát. Vị

trưởng đoàn ước muốn có nước để tắm, thọ thần ban cho họ nước tắm.

Đạo sĩ ước muốn có cơm ăn, thọ thần cũng cho họ cơm ăn. Kế đó đạo sĩ

trưởng đoàn nói thầm: “Ta mong ước vật kia vật nọ, Thiên vương này

đều ban cho tất cả, ước gì chúng ta được giáp mặt Thiên vương.”

Thọ thần làm cho cây nứt đôi và hiện hình trong chỗ nứt ấy.

Các đạo sĩ xúm nhau hỏi:

“Tâu Thiên vương! Quyền lực của ngài thật to tát, chẳng hay

ngài đã tạo nghiệp gì mà được hưởng phước ấy?”

86 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thọ thần lễ phép nói: “Bạch, xin các ngài đừng tra hỏi tôi.”

Các đạo sĩ nói: “Tâu Thiên vương! Xin ngài hoan hỷ trả lời.”

Hỗ thẹn vì tiền nghiệp của mình quá nhỏ nhen, thọ thần

không muốn phô trương ra, nhưng bị các đạo sĩ nài ép, yêu cầu mãi, thọ

thần phải chìu theo.

“Thôi vậy! Xin các ngài lắng nghe”.

Thiên vương bắt đầu kể chuyện. Theo lời tự thuật, thọ thần

kiếp trước là một người đàn ông nghèo khó, đi xin việc làm để kiếm ăn,

may được ông A Nhã Binh Đi Ka (Anãthapindika) thu nhận làm công

việc lặt vặt trong nhà, hoặc có khi lên rừng đốn củi, nhờ đó mà yên thân,

tạm sống qua ngày.

Một hôm nhằm ngày bát quan trai, ông Anãthapindika đi

chùa về, hỏi gia nhân:

“Có ai nói cho chú mới đến ở mướn biết rằng cả nhà ta hôm

nay giữ bát quan trai không?”

“Dạ thưa ông chủ, chưa có ai nói cả. Chú ấy cũng đã đi lên

rừng rồi.”

“Vậy thì hãy lo nấu nướng cơm chiều cho chú ấy ăn đi, chú

ấy lên rừng về chắc phải đói lắm.”

Vâng lệnh chủ, người nhà lo nấu cơm chiều. Người làm công

vác củi từ trên rừng về kêu đói:

“Nấu cơm rồi thì dọn cho tôi ăn, tôi đói bụng lắm.”

Gia nhân dọn cơm ra, chú ấy vô cùng ngạc nhiên vì sao hôm

nay nhà bếp vắng tanh, nên chú ấy dừng lại chưa vội ăn, trong bụng nghĩ

87 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thầm: “Mọi bửa thì giờ này trong nhà rần rần, đầu này kêu cơm, đầu kia

gọi canh, đầu nọ xin thêm đồ ăn, om xòm tở lở, bửa nay ai nấy đều nằm

ngủ im lìm. Mà tại sao họ dọn cơm chỉ cho một mình ta ăn thôi?”

Chú làm mướn quay lại hỏi gia nhân: “Mấy người kia ăn cơm rồi phải

không?”

“Họ không ăn”

“Tại vì lý do gì vậy?”

“Cả nhà hôm nay thọ bát quan trai, chỉ ăn bửa cơm trưa, buổi chiều

không ăn. Cho đến trẻ con còn bú, ông chủ nhà cũng bắt sút miệng rồi

cho ngậm kẹo. Tối đến, khi lũ trẻ nhỏ lớn gì đi ngủ rồi, người ta đốt đèn

và hương trầm lên để ngồi tham thiền đề mục ba mươi hai thể trược. Vì

quên không nói cho chú biết trước bửa nay trong nhà giữ bát quan trai,

nên ông chủ bảo tôi nấu cơm chiều cho chú ăn. Thôi, chú cứ tùy tiện ăn

một mình cho no nê đi.”

Chú làm công nói: “Nếu bửa nay trong nhà giữ bát quan trai thì

tôi cũng xin giữ nữa.”

“Nếu muốn vậy phải bẩm lại với ông chủ biết.”

“Vậy thời tốt quá! Nhờ anh đi bẩm lại với ông chủ cho tôi được

giữ bát quan trai.”

Gia nhân liền đi bạch với ông chủ, ông đáp:

“Nếu bây giờ chú ấy chưa ăn, bảo chú ấy sút miệng cho sạch rồi

nguyện thọ trì bát quan phần, thì chú ấy sẽ hưởng được phước báu của

nửa ngày bát quan.”

Chú làm công nghe vậy, bèn làm theo cách ấy. Vì rán nhịn đói sau

một ngày làm lụng cực nhọc, chú ấy bị cảm gió đau bụng. Chú phải lấy

một dây lưng thắt chặt ngang bụng, một tay đè giữ mối thắt, nằm sấp mà

chịu.

88 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nghe tin này, ông chủ sai gia nhân cầm đuốc và đem theo kẹo mật,

bơ dầu đến thăm người bệnh. Ông hỏi:

“Con đau làm sao?”

“Con bị trúng gió đau bụng dữ lắm.”

“Không sao, con rán ngồi dậy lấy kẹo mật, bơ dầu nầy ngậm đi.”

“Nhưng mà! Ông chủ cũng ngậm kẹo nầy chứ?”

“Không. Vì ông không có bệnh, con có bệnh thì ngậm lấy kẹo cho

mau bình phục.”

Chú làm công không chịu ăn kẹo mật, bơ dầu, đáp rằng: “Dạ thưa

ông chủ! Con đã trót lỡ không thọ trì bát quan trai trọn cả ngày, thì bây

giờ con nguyện giữ đừng cho đứt giới bát quan phần trong nửa ngày còn

lại.”

“Con đừng làm vậy không nên.”

Dầu cho ông chủ nói gì thì nói, người làm công vẫn một mực từ

chối, và rồi chú ấy tắt thở vào lúc mặt trời mọc, bỏ xác nằm trơ như một

đóa hoa tàn. Tâm thức của chú thọ sanh làm vị Thiên vương, ngự trên

cây đa này đây.

Sau khi kể hết tiền nghiệp của mình, thọ thần kết luận: “Ông

trưởng giả là người tín ngưỡng Đức Phật, là người tín ngưỡng Đức

Pháp, là người tín ngưỡng Đức Tăng. Nhờ làm theo lời ông chủ biểu,

thọ trì nửa ngày Bát quan trai, ta mới tạo được phước báu là nhân

duyên sanh quyền lực của ta vậy.”

Nghe đến tiếng Đức Phật, năm trăm vị đạo sĩ đồng thời đứng lên,

chấp tay yêu cầu Thiên vương khởi xướng hồng danh đức Phật ba lần và

họ cùng đồng niệm theo. Tiếng niệm Phật vang lên rung chuyễn cả một

góc trời

89 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC thứ mười bảy.

Trước khi thẩm sâu vào phẩm Phân biệt Công đức, chúng ta

phải tự hỏi mình đã củng cố lòng tin hiểu sâu chắc chưa. Bởi phải có

lòng tin hiểu sâu chắc chúng ta mới có đức Phật thường trụ, mới có diệu

pháp thường trụ. Như Lai cũng ca ngợi công đức những hành giả thọ trì,

biên chép, giải nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa sau khi Như Lai điệt độ,

chính những người đó cầm đuốc đi soi rọi trong đêm tối, chính những

người đó bức phá vô minh phiền não, những người đó có thể chứng đắc

Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ca ngợi công đức tức là ca ngợi

diệu pháp, ca ngợi công đức tức là tin chắc thật sự thọ mạng của Như

Lai, ca ngợi công đức là ngộ nhập Phật tri kiến của Pháp Hoa.

Tín tâm là không còn điều gì nghi hoặc trong lòng, hiểu biết

chắc thật, không hư dối. Chúng ta tin có Phật, có Pháp, có Tăng là ba

ngôi báu thường trụ. Chúng ta thường niệm “Nam mô thập phương

thường trụ Tam Bảo”, vậy thì ba ngôi báu này thường trụ ở khắp mười

phương.

Khi đã có lòng tin có Phật, có Pháp, có Tăng, tin có nhơn quả

luân hồi, thì cuộc sống ở trên thế gian này phải tin chắc ở hiền gặp lành,

làm ác mắc đọa, làm phước thì hưởng quả đời sau, làm công đức kiếp

sau không còn tái sanh vào biển trầm luân khổ não nữa.

Có tín tâm, con người nhờ đó mới hiểu đúng chơn lý, càng

ngày bản tâm càng trong sạch, bụi phiền não chẳng còn có chỗ nào bám

vướng. Khi tín tâm đã trong sạch, chúng ta tiêu diệt được:

a) Ba điều phạm của thân:

1- Không sát sanh.

2- Không tham dâm.

3- Không trộm cắp.

b) Bốn điều phạm của miệng:

90 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

1- Không nói dối.

2- Không nói lười hai chìêu.

3- Không nói lời thêu dệt.

4- Không nói lời độc ác.

c) Ba điều phạm của ý:

1- Không khởi ý tham.

2- Không sân nhuế.

3- Không si mê.

Thông thường người tin hiểu sâu chắc phải là người co trí

tuệ, không phải loại trí tuệ tự kỷ thấp hèn, mà là trí tuệ do nhờ công đức

tu hành tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, bởi có trí tuệ như thế mới

phân biệt được sáng tối, hư thật, thiện ác, đúng sai.

Phẩm 15, phẩm 16 và phẩm 17, nội dung ba phẩm kinh này

cho thấy uy lực thần thông của đức Phật, sự thọ mạng bất khả thuyết, bất

khả thuyết của đức Phật. Đức Phật phân biệt mười hai bực công đức và

chúng sanh nào được nghe và tin nhận sự thọ mạng dài lâu đặng vô

lượng vô biên công đức lợi ích, như:

1. Có sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa số chúng sanh đặng

“Vô sanh pháp nhẫn”. Tin vào sự thọ lượng vĩnh hằng của Như

Lai, chắc chắn không còn tái sinh nữa. Sự tin hiểu sâu chắc này

không phải nhất thời mà sẽ liên tục đến trọn đời.

2. Có đại Bồ Tát nghìn lần gắp bội đặng môn “Văn trì đà la ni”. Nghe

đức Phật thuyết pháp, liền phát sinh một năng lực bí mật ngưng dứt

mọi điều ác và phát sinh mọi điều thiện.

3. Có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng “Nhạo thuyết vô ngại

biện tài”. Thuyết giảng giáo lý của đức Phật một cách tự nguyện,

thông suốt không có điều chi cản ngại. Lại có ý nghĩa khác là vị

pháp sư thuyết giảng kinh Pháp Hoa không bị khuất phục bởi các

trở ngại bên ngoài (có kẻ cười chê, có người bày kích, bị khinh khi,

91 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

bị mắng chửi, bị ngược đải, bị mĩa mai) và ma lực bên trong (lười

biếng, thiếu tự tin, lo sợ trước thính chúng quá đông đảo, lo là

mình nói pháp không hay).

4. Có một thế giới vi trần khác số đại Bồ Tát đặng trăm nghìn muôn

ức vô lượng môn “Triền đà la ni”. Cảm thọ được một sức mạnh bí

mật thuyết phục được nhiều người ngưng dứt làm điều ác, và phát

tâm làm điều thiện. Lại có ý nghĩa người có được công đức này có

năng lực lảnh đạo trong sự nghiệp hoằng dương chánh pháp.

5. Có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ Tát chuyễn được

“Pháp luân bất thối”. Pháp luân là bánh xe pháp quay. Bất thối là

không chịu bước lui. Tức là không thối thất trong sự nghiệp

chuyễn pháp luân, tức là hoằng dương chánh pháp không bao giờ

biết mệt mỏi.

6. Có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ Tát chuyễn được

“Pháp luân thanh tịnh”. Các vị Bồ Tát tu tập hạnh thanh tịnh để

giảng pháp của đức Phật không hề sai lạc. Hơn nữa các ngài chỉ có

một tâm nguyện duy nhất là chỉ biết truyền giáo lý chân chánh chứ

không cần một sự báo đáp thâm ân, hoặc lợi dưỡng cúng dường.

7. Có tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ Tát tám đời sẽ đặng “Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Tám đời liên tục các Bồ Tát tu

tập công đức để đat tới bực giác ngộ viên dung.

8. Có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát bốn đời sẽ đặng “Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Bốn đời liên tục các Bồ Tát tu

tập công đức để đạt tới bực giác ngộ viên dung.

9. Có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát ba đời sẽ đặng “Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác”. Ba đời liên tục cũng như thế.

10. Có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát hai đời sẽ đặng “Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Hai đời liên tục cũng như thế.

92 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

11. Có một tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát một đời sẽ đặng “Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Một đời đủ chứng đắc bực giác

ngộ viên dung.

12. Có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều phát tâm “Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Chư vị Bồ Tát nghe Phật thuyết

sự thọ mạng dài lâu đều mong mỏi được chứng quả Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác như Phật.

Sau khi Như Lai dứt lời thì ở giữa không trung hàng thiên

tiên rưới xuống trăm sắc hoa trời cúng dường nghìn muôn ức các đức

Phật đang ngồi trên tòa sư tử, rải hoa cúng dường đức Đa Bảo Phật và

đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng vô lượng Bồ tát và bốn bộ chúng. Mùi

hương gổ chiên đàn cùng mùi trầm thủy thoang thoảng hòa trong không

trung, tiếng nhạc, tiếng trống trời âm vang bay xa. Chư vị Bồ Tát đó

dùng tiếng tăm hay, ca vô lượng bài tụng ngợi khen các đức Phật. Trong

đạo tràng chư vị thính chúng thấy sự lợi ích trước mắt vô cùng hoan hỷ.

Ngài Di Lặc thay mặt chư đại chúng Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch

áo bày vai hửu, chấp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:

3.- Phật nói pháp ít có

Từ xưa chưa từng nghe

Thế Tôn có sức lớn

Thọ mạng chẳng thể lường

Vô số các Phật tử

Nghe Thế Tôn phân biệt

Nói đặng pháp lợi đó

Vui mừng đầy khắp thân

Hoặc trụ bực bất thối

Hoặc đặng đà la ni

Hoặc vô ngại nhạo thuyết

Muôn ức triền tổng trì

Hoặc có cõi đại thiên

Số vi trần Bồ Tát

93 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Mỗi vị đều nói được

Pháp luân bất thối chuyễn.

“5.- Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Di Lặc đại Bồ Tát:“A Dật

Đa! Có chúng sanh nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế,

nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, đặng công đức không thể

hạn lượng được. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì đạo Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong tám mươi muôn ức na do tha

kiếp tu năm pháp ba la mật: bố thí ba la mật, trì giới ba la mật,

nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trừ trí

tuệ ba la mật, đem công đức này sánh với công đưc tín giải trước,

trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một,

nhẫn tính đếm thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện

nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi Vô thượng Chánh

đăng Chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.”

Chúng sanh nào được nghe nói về sự thọ mạng dài lâu của

đức Phật, hiểu ý thú của lời nói đó, hoặc rộng nói kinh này, hoặc tự thọ

trì, hoặc bảo người trọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, người đó

không những đặng công đức vô lượng mà còn thấy đức Như Lai đang ở

tại núi Linh Thứu cùng chúng đại Bồ Tát và chúng Thanh văn vây quanh

nói pháp. Người đó đầu đội đức Như Lai, người đó nếu tu pháp lục độ

thì công đức lại càng thù thắng vô lượng vô biên.

Kinh Pháp Hoa là bực nhứt trong các kinh. Giáo lý Pháp Hoa

là giáo lý rốt ráo trong các pháp. Quan điểm Pháp Hoa là quan điểm đại

thừa, hiển bày nhứt thừa thực tướng. Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa

phải có niềm tin về sự thọ mạng dài lâu của đức Phật, cũng như đã có

niềm tin về giáo lý của kinh Pháp Hoa là tât cả bốn loài chúng sanh (95)

(noãn sanh, thai sanh, hóa sanh, thấp sanh) đều có Phật tính và hết thảy

chúng sanh đều sẽ thành Phật. Chúng ta tu tập kinh Pháp Hoa trang bị

cho mình hai niềm tin trên đây, người đó sẽ đặng công đức vô lượng, vô

biên, người đó chuyễn pháp luân bất thối, người đó thuyết pháp vô ngại

biện tài, người đó luôn xây dựng cho nền Phật giáo mãi mãi trường tồn.

94 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Người giữ năm hạnh bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn

nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, ngoại trừ trí huệ

ba la mật không chịu giữ thì khó mà đạt đến cõi Niết Bàn tịch tịnh. Bởi

năm hạnh trên làm phát sinh hạnh trí huệ ba la mật. Thiếu trí huệ thì khó

nhận xét sự vật đúng sai, do đó tiềm thức dễ bị rơi vào vọng tưởng. Vì

vậy mà đức Phật dạy người tu năm hạnh ba la mật, không bằng một

phần tỉ của người thiện nam tín nữ nghe đức Phật thuyết pháp phẩm Như

Lai Thọ Lượng mà tin hiểu sâu chắc, thời công đức của những người

này không thể nào không đạt được quả Vô thượng bồ đề. Công đức của

sự tin hiểu sâu chắc này cũng được phân biệt làm bốn bực:

1. Nghe pháp liền tin nhận về sự thọ mạng dài lâu của đức Phật.

2. Hiểu rỏ ý nghĩa của niềm tin này.

3. Có niềm tin thì có tín giải, có tín giải thì có tin hiểu sâu chắc, có tin

hiểu sâu chắc thì có hành động, tức là đem công đức này truyền

giảng kinh Pháp Hoa cho những người chưa thấy, thấy rồi mà chưa

nghe, nghe rồi mà chưa hiểu, làm sao cho tất cả mọi người cùng tu,

mọi người cùng hiểu.

4. Giữ gìn, đọc tụng, biên chép, giảng giải kinh Pháp Hoa sau năm

trăm năm Như Lai diệt độ. Phải chuyên tâm tu tập đầy đủ sáu pháp

ba la mật.

Cho nên thiện nam tín nữ nào nghe đức Như Lai thọ mạng

dài lâu, hiểu ý thú của lời nói đó, những người như vậy đặng công đức

vô hạn lượng. Huống gì những người này nghe diễn nói kinh Pháp Hoa,

hoặc bảo mọi người cùng tới giảng đường ngồi nghe, hoặc chính mình

thọ trì hay khuyên bảo mọi người cùng thọ trì, hoặc tự mình chép hay

bảo người chép, hoặc cúng dường quyển kinh bằng các thứ hương hoa

chuổi ngọc, lộng nhiễu tràng phan, công đức đặng vô lượng vô biên.

Đức Phật nói:

95 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“A Dật Đa! Thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn đó chẳng

cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường, dùng bốn sự

cúng dường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử,

thiện nữ nhơn đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này, thời là đã dựng

tháp tạo lập tăng phường cúng dường chúng Tăng, thời là đã đem

xá lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời

Phạm thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoa hương, chuổi

ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống kỷ nhạc, ống tiêu,

ống địch, không hầu các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca

ngâm, khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã

làm việc cúng dường đó rồi.

“A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có

người hay thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, đó là dựng lập

tăng phường, dùng gổ chiên đàn đỏ làm các cung điện, nhà cửa ba

mươi hai sở, cao bằng tám cây đa la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm

nghìn tỳ kheo ở trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang

ngồi thiền, y phục, đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang, tất cả đồ

vui dẩy đầy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức

nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng

dường nơi ta và tỳ kheo tăng.

“Cho nên ta nói sau khi Như Lai diệt độ nếu có người thọ

trì, đọc tụng vì người khác nói, hoặc mình chép, hoặc bảo người

chép, cúng dường kinh quyển thời chẳng lại dựng chùa tháp và tạo

lập tăng phường cúng dường chúng tăng. Huống lại có người hay

thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,

nhứt tâm, trí huệ công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô

biên.”

Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ

rằng:

Sau khi ta diệt độ

Hay phụng trì kinh này

Người đó phước vô lượng

96 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Như trên đã nói rỏ

Đó thời là đầy đủ

Tất cả các cúng dường

Dùng xá lợi xây tháp

Bảy báu để trang nghiêm

Chùa chiền cất cao rộng

Nhỏ lần đến Phạm thiên

Linh báu nghìn muôn ức

Gió động vang tiếng mầu

Lại trong vô lượng kiếp

Mà cúng dường tháp đó

Hoa hương các chuổi ngọc

Thiên y các kỷ nhạc

Thắp đèn dầu nến thơm

Quanh khắp thường soi sáng

Lúc đời ác mạt pháp

Người hay trì kinh này

Thời là đã đầy đủ

Các cúng dường như trên

Nếu hay trì kinh này

Thời như Phật hiện tại

Dùng ngưu đầu chiên đàn

Dựng tăng phường cúng dường

Nhà ba mươi hai sở

Cao tám cây đa la

Đồ ngon y phục tốt

Giường nằm đều đầy đủ

Trăm nghìn chúng nương ở

Vườn rừng các ao tắm

Chỗ kinh hành ngồi thiền

Các món đều nghiêm tốt

Nếu có lòng tín hiểu

Thọ trì, đọc tụng, biên

Nếu lại biểu người biên

Và cúng dường kinh quyển

97 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Rải hoa hương, hương bột

Dùng tu mạn, chiêm bặc

A đề, mục đa dà

Ướp dầu thơm tốt đó

Người cúng dường như thế

Đặng công đức vô lượng

Như hư không vô biên

Phước đó cũng như thế

Huống lại trì kinh này

Gồm bố thí trì giới

Nhẫn nhục ưa thiền định.

Chẳng sân chẳng ác khẩu

Cung kính nơi tháp miếu

Khiêm hạ các tỳ kheo

Xa lìa tâm tự cao

Thường nghĩ suy trí huệ

Có gạn hỏi chẳng sân

Tùy thuận vì giải nói

Nếu làm được hạnh đó

Công đức chẳng lường được

Nếu thấy pháp sư này

Nên công đức như thế

Phải dùng hoa trời rải

Ao trời trùm thân kia

Đầu mặt tiếp chân lạy

Sanh lòng tưởng như Phật

Lại nên nghĩ thế này

Chẳng lâu đến đạo thọ

Đặng vô lậu vô vi

Rộng lợi các người trời

Chỗ trụ chỉ của kia

Kinh hành hoặc ngồi nằm

Nhẫn đến nói một kệ

Trong đây nên xây tháp

Trang nghiêm cho tốt đẹp

98 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Các món đem cúng dường

Phật tử ở chỗ này

Thời là Phật thọ dụng

Thường ờ nơi trong đó

Kinh hành và ngồi nằm.

Chuyện thứ nhứt

CÚNG DƯỜNG CÁCH NÀO

ĐỂ ĐƯỢC PHƯỚC BÁO?

Một thuở nọ, hai vị Thượng Thanh văn, mỗi vị dẫn theo năm

trăm tỳ kheo và tùy tùng đến từ giả đức Bổn Sư, đảnh lễ ngài rồi cùng

nhau rời chùa Jetavana, lên đường sang thành Rãjagaha.

Dân chúng ở thành này hiệp nhau từng nhóm hai, ba người

hoặc nhiều hơn nữa, thỉnh Tăng để bát, theo phép cúng dường mỗi tỳ

99 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

kheo mới đến. Một hôm nhân cơ hội đó, đại đức Sãrĩputta trong khi hồi

hướng phước báo có thuyết giảng rằng:

“Này chư thiện tín! Một người tự mình làm phước cúng

dường không khuyên rũ ai khác, kiếp sau tái sanh ở nơi nào chỉ được

đầy đủ tiền của, chớ không được đầy đủ những người tùy thuộc. Một

người không làm phước cúng dường, lại không kêu gọi ai khác thì kiếp

sau tái sanh ở nơi nào cũng cô độc bần cùng, cơm hẩm ngày hai bửa

chẳng đủ no bụng. Còn một người vừa tự mình làm phước cúng dường,

vừa khuyến bảo nhiều người khác làm chung với mình, thì hằng trăm,

hoặc hằng ngàn, hoặc hằng trăm ngàn kiếp sau tái sanh ở nơi nào cũng

được đầy đủ cả hai phương diện tài sản dồi dào, tùy thuộc đông đảo.

Còn một người không làm phước cúng dường, nhưng lại khuyến rũ

người khác làm phước, thì tái sanh ở nơi nào cũng bần cùng, nhưng có

nhiều tùy thuộc.”

Nghe vậy, một vị trí thức nghĩ rằng:

“Bạch ngài! Thời pháp vừa thuyết thật huyền diệu làm sao,

hy hửu làm sao. Chỉ cách tạo phước lành đầy đủ cả hai chi. Ta phải

ráng thực hành để tạo phước báo đầy đủ cả hai phương diện.”

Nghĩ rồi, vị ấy bèn thỉnh đại đức:

“Bạch ngài! Chúng tôi xin thỉnh trai tăng ngày mai.”

Đại đức hỏi:

“Này ông thiện nam! Ông cần thỉnh bao nhiêu vị?”

Ông thiện nam hỏi:

“Bạch ngài! Có bao nhiêu vị tùy tùng?”

“Một ngàn.”

“Bạch ngài! Xin thỉnh ngài luôn với tất cả chư tăng ngày mai

đến nhà để thọ thực.”

100 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đại đức im lặng nhận lời.

Trên đại lộ vào thành, gặp người nào ông thiện nam ấy cũng

rũ:

“Này quí ông bà, tôi xin thỉnh trai tăng được một ngàn vị sư,

quí ông có thể hùn phước cúng dường chừng bao nhiêu vị? Quí bà

chừng bao nhiêu vị?”

Mỗi người hứa cúng nhiều ít tùy theo phương tiện của mình.

Họ nói:

“Chúng tôi xin cúng mười vị, chúng tôi hai mươi vị, chúng

tôi ba mươi vị, chúng tôi năm mươi vị, chúng tôi một trăm vị.”

Vị tri thức bèn xếp đặt tất cả câu hội tại nhà của mình, ông

nói:

“Thế là chúng ta họp nhau lại một chỗ để nấu nướng và

dâng cúng cho tiện. Quí vị hãy mang tất cả vật thực như dầu mè, gạo,

bơ, đường… đến nhà tôi.” Lúc đó có ông trưởng giả hùn phước một xấp

vải may y xứ Gandhãra, trị giá một trăm ngàn đồng và nói:

“Nếu quí vị góp vật thực còn thiếu thì hãy bán vải y này gộp

thêm cho đủ. Nếu như không thiếu thì tùy ý muốn dâng cúng đến vị đại

đức nào thì dâng.”

Sau khi mọi người chung đậu để làm phước trai tăng đủ cả,

không còn thiếu món chi, ông chủ lễ bèn hỏi phần đông rằng:

“Vải y vô giá này của ông trưởng giả hùn phước với những

lời dặn như vậy đó. Bây giờ chúng ta làm phước đầy đủ rồi, còn dư ra,

vậy chúng ta nên dâng đến vị sư nào?”

Một nhóm người đề nghị:

“Hãy dâng đến đại đức Sãrĩputta.”

Một nhóm khác nói:

101 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Đại đức chỉ đến với chúng ta một năm một kỳ trong mùa lúa

chín. Còn sư Devadatta là người bạn thường trực của chúng ta, cả trong

những ngày lễ và ngày thường, lúc nào cũng gần gủi sẳn sàng bên

chúng ta như bình nước uống. Vậy chúng ta nên dâng vải này đến sư.”

Sau khi thảo luận rất lâu, nhiều người vì chỗ cảm tình quen

biết, đồng ý chấp thuận dâng xắp vải y quí giá đến tỳ kheo Devadatta.

Đưọc vải, Devadatta cắt đôi ra làm y nội và y vai trái may,

nhuộm xong liền mặc y mới đi tới đi lui. Nhiều người thấy chướng mắt

phê bình rằng:

“Y này coi Devadatta mặc không xứng đáng. Phải đại đức

Sãrĩputta mặc mới xứng. Vậy mà Devadatta vận y vàng không xứng

đáng với mình, đi tới đi lui coi thật không được.”

Khi ấy có một vị tỳ kheo du hành từ thành Rãjagaha về thành

Sãvatthĩ, đảnh lễ đức Bổn Sư và thỉnh an ngài xong. Ngài bèn hỏi thăm

sự an vui của hai vị đại đệ tử. Vị này bèn bạch hết câu chuyện bộ y quí

về tay người không xứng đáng với đức Thế Tôn. Đức Bổn Sư nói:

“Này tỳ kheo, không phải kiếp này Devadatta mới lạm đắp y

vàng đâu. Hồi tiền kiếp ông ta cũng đã từng lạm đắp y vàng như thế

rồi.”

Nói xong, Phật liền kể luôn chuyện tiền thân của nhà sư vô

sĩ.

Chuyện thứ hai

TÊN THỢ SĂN ĐẮP Y VÀNG.

Những người có tâm cấu uế, không tự chế ngự và thiếu chân

thật. Không xứng đáng với chiếc y casa. (Kinh Pháp Cú).

102 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Xưa kia, dưới triều của quốc vương Brahmadatta đóng đô

tại thành Bãrãnasĩ, có một người thợ săn cư ngụ trong thành. Anh ta

chuyên nghề săn bắn voi lấy ngà, móng, ruột và thịt nạc voi đem bán để

chi độ nhân khẩu. Lúc ấy trong rừng già có đàn voi gồm cả ngàn thớt, về

quần tụ để kiếm ăn, đi theo đường gặp những vị Phật Độc Giác. Từ đó

về sau, mỗi khi qua lại ngang chỗ chư Phật ngồi tịnh, đàn voi quỳ gối

đảnh lễ các ngài rồi mới dậy đi.

“Một hôm tên thợ săn trông thấy hành động ấy của đàn voi

thì nghĩ thầm rằng: “Những con tượng này ta đến gần hạ chúng được rất

là khó khăn, thế mà mỗi lần qua lại chúng đều dừng chân đảnh lễ chư

Phật Độc Giác, không biết chúng nhìn thấy cái chi mà chúng đảnh lễ?”

“Sau khi suy nghĩ tên thợ săn nói thầm: “Chắc tại thấy bộ y

vàng.”

Anh ta bèn tính thầm: “Ta cần phải kiếm cho được một bộ y vàng.”

Nhơn dịp một vị Phật Độc Gíác xuống tắm dưới ao, anh ta lén lấy trộm,

rồi ra chỗ đường mà voi năng đi lại, tay lăm le cầm cây lao nhọn, đắp y

lên che kín ngồi chờ.

“Đàn voi đi tới tưởng lầm anh ta là một vị Độc Giác Phật,

nên dừng chân đảnh lễ, rồi mới đi qua. Tên thợ săn chờ cho đàn voi qua

hết, rút lao ra phóng giết con đi sau cùng, lấy ngà, móng, ruột, thịt nạc,

rồi còn dư bao nhiêu đều đào đất chôn cho mất tích, đoạn anh ta rời khỏi

rừng đi về thành.

“Thời gian sau, nhằm lúc đức Bồ Tát giáng sanh làm tượng

chúa, cầm đầu cả đàn voi, tên thợ săn vẫn còn dùng cách ấy. Đức Bồ Tát

là tượng chúa thấy đàn voi của mình ngày một hao hụt, bèn hỏi những

voi khác rằng:

“Những voi này đi đâu mất mà đàn ta ngày càng thưa thớt

vậy?”

“Thưa chúa tượng. Chúng tôi không biết.”

103 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nghe đáp như vậy, chúa tượng tự nghĩ: “Chúng đi đâu mà

chẳng hỏi xin ta kia. Chắc không phải đi đâu, có lẽ chúng đã bị tai nạn.”

“Rồi tượng chúa phát nghi rằng: “Chắc là chúng bị hại chỗ

người đắp y vàng chẳng sai.”

“Nghĩ thế tượng chúa bèn ra lệnh cho cả đàn voi đi trước, để

một mình đi đoạn hậu, vừa đi vừa quan sát.

“Tên thợ săn là vị Phật giả mạo, chờ đàn voi đảnh lễ qua hết

rồi, khi thấy Bồ Tát từ từ đi tới phía sau cùng, bèn lập tức vén y lên,

nhắm ngay chỗ nhược của tượng chúa phóng cây lao tới. Tượng chúa đã

đề phòng trước, nên thối lui tránh được cây lao, Bồ Tát liền nghĩ:” Đây

là kẻ sát hại đàn voi của ta “, nên xông tới quyết bắt cho được. Nhưng

hắn ta chạy núp sau một thân cây, Bồ Tát tính thầm “Ta sẽ lấy vòi quấn

luôn cả cây lẫn người hắn mà chà đạp xuống đất.”

“Ngay lúc ấy, tên thợ săn đã cởi tốc chiếc y vàng lên cao cho

tượng chúa thấy. Tượng chúa nghĩ thầm: “Nếu ta sát hại tên này thì ta sẽ

mất mặt đối với chư Phật Toàn Giác, Độc Giác và A La Hán chẳng sai.”

Vì thế nên tượng chúa dằn lòng nhẫn nhịn và hỏi rằng: “Chính nhà

ngươi đã sát hại những voi trong đàn của ta phải không?”

“Dạ phải, thưa ông tượng.”

“Tại sao ngươi tạo nghiệp ác nặng nề như thế? Tự mình

không xứng đáng mà dám lạm khoác bộ y vàng của bậc đã dứt trừ tham

dục, làm như vậy ngươi đã tạo nghiệp ác rất nặng nề.”

“Nói rồi Bồ Tát đọc bài kệ khuyến cáo tên thợ săn:

Cà sa mặc ở bên ngoài

Tâm còn ô nhiễm cũng hoài lá y

Buông lung giả dối hay gì

Thà rằng không mặc, mới y hợp thời

Trong tâm tẩy sạch bụi đời

Chân thành khắc kỷ, chẳng rời luật nghi

104 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Người tu y với lá y

Cà sa Tăng và từ bi khách thiền.

“Đọc kệ rồi Bồ Tát thêm câu kết luận: “Việc làm của người

thiệt không xứng đáng chút nào”, nói rồi thả hắn đi.

Khi chấm dứt thời pháp, đức Bổn Sư dẫn giải rằng: “Tên thợ

săn voi lúc trước nay là Devadatta và tượng chúa cho tên thợ săn bài học

đó chính là Như Lai vậy. Này Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên

Devadatta mặc y không xứng đáng với người của ông ta đâu. Trong tiền

kiếp ông ta cũng đã từng làm như thế đó rồi.”

Chuyện thứ ba :

CÚNG DƯỜNG Y CASA.

Những người có đạo hạnh vô nhiễm và kiên cố, tự chế ngự và

chân thật. Mới xứng đáng với chiếc y casa. (Kinh Pháp Cú.)

Ngày xưa, ở tại thành Kosambi, nhân ngày đại lễ quy y của

vua Udena và chánh hậu Sâmâvati, họ vào chùa Lôi Am (Ghositârâma)

thỉnh đức Phật và năm trăm vị đại đức vào hoàng cung thọ trai và thuyết

pháp. Liên tiếp trong bảy ngày đức Phật và đoàn tùy tùng mới từ giả về

Lôi Am Tự. Quốc vương Udena bèn đảnh lễ đức Bổn sư rồi bạch rằng:

“Bạch ngài! Trẫm xin cung thỉnh ngài với năm trăm vị tỳ

kheo hằng ngày vào thọ thực nơi đây để cho chánh hậu cùng đoàn cung

nhân được dịp đãnh lễ và thính pháp.”

Đức Phật nói:“Tâu Đại vương! Đồng danh với chư Phật Như

Lai, không nên đi mãi một chỗ nào, vì đại chúng ở khắp nơi còn đang

ngóng đợi Như Lai.”

105 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vua Udena nói:“Bạch ngài! Xin ngài hãy phái một tỳ kheo

đại diện cho ngài.”

Đức Bổn Sư bèn chỉ định đại đức A Nan (Ananda).

Từ đó về sau, mỗi ngày đại đức A Nan dắt năm trăm vị tỳ

kheo vào hoàng cung thọ thực. Chánh hậu cùng đoàn cung nữ chăm lo

sớt bát cúng dường và nghe kinh, thính pháp đều đều không ngớt.

Một hôm, sau khi nghe dứt thời pháp do đại đức A Nan

thuyết, đoàn cung nhân phát tâm thành tín hết sức trong sạch bèn dâng

năm trăm lá y vai trái để cúng dường pháp bảo. Thứ y này rất quí, mỗi lá

trị giá đến năm trăm đồng vàng. Khi vua thấy các cung nhân không còn

một lá y quí giá nào hết, quốc vương phán hỏi:

“Những y vai trái của các ái khanh để đâu?”

Đoàn cung nữ đáp:“Chúng tôi đã cúng dường cho ngài đại đức.”

Quốc vương lại hỏi:“Đại đức đã nhận hết cả ư?”

Cung nữ đáp:“Tâu chúa thượng! Đại đức đã thu nhận hết cả.”

Quốc vương đến đãnh lễ đại đức A Nan và phán hỏi về các

cung nhân cúng dường năm trăm lá y Uất đà la tăng (Uttarasangâ). Đại

đức xác nhận rằng:

“Các cung nhân có cúng dường và đại đức có thọ lảnh số y

ấy.”

Quốc vương bèn hỏi:“Bạch ngài! Bấy nhiêu y đó há chẳng

phải là quá nhiều lắm sao? Vậy ngài dùng làm gì cho hết?”

“Tâu đại vương! Ta chỉ thọ dụng vừa phải thôi, còn dư ra thì

ta bố thí cho các vị mặc y cũ rách.”

“Có y mới, các vị ấy sẽ dùng y cũ của mình làm gì?”

“Họ sẽ bố thí cho những vị có y cũ rách hơn.”

“Rồi các vị sau này sẽ làm gì với các y cũ rách của mình?”

“Chư tăng sẽ lấy làm tấm trải lót giường.”

106 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Còn những tấm trải lót giường cũ chư tăng để làm gì?”

“Chư tăng sẽ lấy làm tấm trải lót dưới đất.”

“Những tấm trải lót dưới đất cũ, chư tăng dùng để làm gì?

“Tâu đại vương! Chư tăng dùng để chùi chân.”

“Giẻ chùi chân cũ, chư tăng dùng để làm gì?”

“Chư tăng xé nhỏ ra, quết cho nhuyễn rồi nhào lộn với đất

sét để tô trên vách.”

“Bạch ngài! Nếu chư tăng làm như thế thì những vật cúng

dường cho quý ngài quả thật không uổng chút nào.”

Quốc vương phát khởi đức tin trong sạch, bèn hạ lệnh cho

quân hầu mang thêm năm trăm lá y nữa đến cúng dường, đặt xuống bên

chân đại đức A Nan.

Tương truyền rằng mỗi khi có năm trăm lá y quí giá cúng

dường, thí chủ chia ra làm năm trăm phần, dâng đến bên chân đại đức,

và đại đức thọ nhận đủ năm trăm lần. Nếu thí chủ cúng một ngàn bộ y,

đại đức phải nhận đủ một ngàn lần. Cho đến khi Như Lai Niết Bàn, đại

đức đi vân du khắp cõi ta bà, đến chùa nào đại đức cũng bố thí những y

bát của mình cho tất cả tỳ kheo trong chùa đó.

Vậy đại đức A Nan nhờ tạo nghiệp lành nào trong quá khứ

mà trong kiếp này có được y casa phát sanh dồi dào như thế?

Tương truyền rằng, xưa kia trong một kiếp làm thợ dệt, đại

đức có cúng dường một cây kim và một nắm vải vụn đến một vị Phật

Độc Giác. Nhờ quả phước của sự cúng dường cây kim cho nên kiếp này

đại đức có được trí Bát nhã. Nhờ quả phước của sự cúng dường vải vụn,

kiếp này đại đức mới có được nhiều y casa như thế.

107 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chuyện thứ tư :

PHẬT TỬ KHÔNG NÊN TỰ SÁT.

Vua phán hỏi Đại đức Na Tiên rằng:

“Bạch ngài! Phật có dạy chư tỳ kheo rằng: “Không ai được

hủy mạng mình, kẻ nào tự sát thì phải mang tội theo luật.” Nhưng chư tỳ

kheo lại nói ra một đàng khác như vầy: “Hồi Phật truyền đạo cho chư

đệ tử, Phật dạy rất nhiều cách để diệt sanh, lão, bịnh, tử, cho nên hể có

ai diệt được sanh, lão, bịnh, tử thì Phật khen lắm.”

” Bạch ngài! Nếu Phật đã dạy như trên kia mà nay lại nói

rằng Phật bảo phải diệt sanh, lão, bịnh, tử có lẽ là nói sai vậy. Còn nếu

Phật có bảo nên diệt tận, mà nói rằng Phật dạy không nên tự sát, thì

chẳng là nói sái đi vậy. Xin ngài phân biệt hai lẽ ấy cho.”

Tỳ kheo Na Tiên đáp: “Phải đó. Phật đã dạy như lời trên kia,

và khi Phật truyền đạo cho chư đệ tử, Phật dạy rất nhiều cách để diệt

sanh, lão, bịnh, tử. Ngăn cấm như thế kia là có lý, và khuyến khích như

thế nọ cũng có lý lắm vậy.”

Vua hỏi: “Bạch ngài! Ngăn cấm có lý là thế nào? Và khuyến

khích có lý là thế nào?”

“Tâu bệ hạ! Nhà hiền đức và cử chỉ tốt lành tựa hồ như món

thuốc để trừ khử đồ độc, nó làm cho bại hoại con người. Tựa hồ như

dược thảo để trị bịnh cho người. Tựa hồ như nước để tẩy sạch những đồ

bẩn trược của người. Tựa hồ như thuyền lướt khỏi bốn nguồn tật xấu

của con người mà đến mé lành. Tựa hồ như viên chủ tướng dắt đoàn

người qua khỏi đồng cát sanh khổ. Tựa hồ như ngọn gió mát làm cho

người được khoẻ trong cơn mê sốt về tham, sân, si. Tựa hồ như vầng

mây làm cho người được thỏa nguyện. Tựa hồ như một đức thầy độ

người được thêm công quả. Tựa hồ như một nhà đạo sư chỉ dạy con

đường tịnh lạc cho người.”

108 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Tâu bệ hạ! Nhà hiền đức thật có nhiều tánh hạnh tốt lành,

vô cùng, vô tận. Như vậy trong tâm chất chứa bao nhiêu tánh hạnh tốt

lành. Và nhà hiền đức là nguồn gốc các việc từ bi đối với nhơn loại. Bởi

Phật thương nhơn loại và muốn cho nhà hiền đức sống để cứu nhơn độ

thế, nên ngài có dạy chư tỳ kheo rằng: “Không ai được hủy mạng mình,

kẻ nào tự sát thì sẽ mang tội theo luật.” Ay. Phật ngăn cấm có lý là ở

chỗ đó tâu bệ hạ.

“Lại trong khi đoán vận mạng nhơn loại về sau, đức Câu Ma

La Ca Diếp (Kumârakassapa) có nói với ông Hoàng Bây giát Si

(Pâyâsi) rằng: “Bao giờ mấy nhà sư hiền đức cao thượng với các thầy

bà la môn, còn cứu giúp các ổng luôn, còn làm cho phần đông đều được

sung sướng luôn, còn lấy lòng từ bi mà bủa khắp cõi trần và tế độ cho

thần tiên với nhơn loại luôn.”

Vua hỏi nữa rằng: “Bạch ngài! Còn Phật khuyến khích có lý

là thế nào?”

“Tâu bệ hạ! Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ,

lao nhọc là khổ, than van là khổ, khổ là khổ, rầu là khổ, rủn chí là khổ,

gần người nghịch là khổ, xa người thương là khổ. Mẹ chết, cha chết, anh

chết, chị chết, con chết, vợ chết, bà con chết là khổ. Nạn đến cho cha

mẹ, cô bác là khổ. Mất sức khoẻ, mất tiền của, mất danh tiếng, mất đạo

nghĩa là khổ. Bị vua giận là khổ. Sợ trộm cướp, sợ kẻ nghịch, sợ nạn

đói, sợ hỏa hoạn, sợ chết chìm, sợ sóng, sợ trớn nước, sợ sấu, sợ cá lạ

ngòai biển là khổ. Tự mình buộc trói lấy mình là khổ. Bị người giam

cầm là khổ. Bị phạt vạ là khổ. Nghèo là khổ. Thấy kép hát mà sợ là khổ.

Thấy mấy ông sư lỏa lồ hoảng sợ là khổ. Gặp nạn e phải chết là khổ. Bị

đánh bằng mây, bằng roi, bằng hèo là khổ. Tay chân bị chặt đứt là khổ.

Lổ tai, lổ mũi bị thẻo là khổ. Bị phỏng dầu sôi là khổ. Bị chó cắn là khổ.

Bị đâm vào ruột là khổ. Bị chém đầu là khổ.

Ay là các sự khổ mà người ta phải vướng lấy trong khi sống.

Tâu bệ hạ! Nước sông Hằng Hà ơ trên Hy Mả Lạp Sơn chảy xuống, gặp

phải biết bao những đá lớn, đá nhỏ, hầm hố, chỗ xoáy, rễ cây, cành cây

109 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

và các vật khác cản ngăn. Con người cũng thế, trong vòng lưu chuyễn từ

đời sanh này đến đời sanh kia, gặp phải biết bao nạn khổ cản ngăn!

“Tâu bệ hạ! Sống là khổ, không sống là không khổ, là an lạc

vậy. Bởi Phật dạy rằng không sống là tốt, còn sống là nguy khổ lắm, cho

nên Ngài khuyến khích ta nên tầm cái không sống, là phải trị và diệt

sanh, lão, bịnh, tử.

“Ay. Phật khuyến khích có lý là ở chỗ đó vậy tâu bệ hạ.”

Vua phán: “Bạch ngài! Hay lắm! Ngài đã chỉ chỗ khó cho

trẩm rồi. Ngài đã giải đáp một cách khôn khéo, Trẫm chịu ngài nói là

đúng lắm vậy.”

110 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

PHẦN KẾT CỦA QUYỂN NĂM.

Phẩm An Lạc Hạnh. Điểm quan trọng trong phẩm kinh này

là đức Phật dạy hàng Bồ Tát ở trong đời ác sau, nếu muốn nói kinh này

phải an trụ trong bốn pháp:

1. An trụ trong hành xứ: khiêm tốn, nhẫn nhục, không nóng giận, giữ

tâm bình yên, xem mọi vật đều hư dối. Cư xử bình đẳng, ở nơi

pháp không phân biệt, quán tướng các pháp không như thiệt tướng,

tức là chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng thối, chẳng động, không

danh, không tướng, không điên đảo, không chướng, không ngại.

2. An trụ trong thân cận xứ: không gần gủi những người có quyền

thế, chức phận, không gần gủi bọn ngoại đạo phạm chí, không gần

gủi những người sống bằng nghề ác như nuôi trâu bò, gà vịt, chài

lưới, săn bắn, những người sống bằng nghề giết mổ, những bọn

hung dữ hay đánh đá giết chóc lẫn nhau, không gần gủi những phụ

nữ sống bằng thân xác, những kẻ ái nam ái nữ.

3. An trụ trong hạnh an lạc: không được phép nói sai quấy của người

và của kinh điển, không khinh rẻ, kiêu ngạo đối với những vị pháp

sư, không nói điều tốt xấu, hay dở của người khác, không vạch sai

lầm của tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di.

4. An trụ trong hạnh từ bi rộng lớn: dù là tại gia hay xuất gia đều phải

phát tâm đại bi, nếu không sẽ bị mất lợi lớn.

Người phát thệ thọ trì kinh Pháp Hoa là người tự nguyện, tự

mình phát tâm để có công đức lớn, cũng như người bệnh, thấy có đủ mọi

loại thuốc, tự biết mình bệnh gì thì cứ chọn lấy thuốc mà uống.

Người thọ trì kinh Pháp Hoa thường hay bị nhiều tai tiếng,

làm khuynh đảo bổn tâm, có lúc khiến phải thôi bỏ, không tiếp tục thọ trì

nữa. Người phàm tục thì bảo là bị Pháp hoa chuyễn. Nhưng đức Phật

111 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dạy rằng người thọ trì kinh Pháp Hoa phải biết nhẫn nhục, hòa dịu, chớ

vụt chạc lòng, không sợ hãi, không phân biệt và hãy quán tướng các

pháp đều như thiệt tướng.

Người thọ trì kinh Pháp Hoa chớ để bị cám dỗ từ bên ngoài

(thế lực, quyền chức, tiền tài, phụ nữ, ăn mặc, ngủ nghĩ). Phải giữ tâm

tỉnh lặng ngay trong lúc có sự quấy rối do ham muốn, phiền não. Giữ

cho cuộc sống luôn được hạnh phúc, bình an. Đối với ngưới nữ, đức

Phật dạy cẫn thận hơn, vì là đối tượng có thể phát sinh tư tưởng dục

nhiễm. Nếu vì pháp mà tới, thì khi nói pháp môi chẳng hở răng cười,

thân chẳng bày hông ngực, ý chẳng làm thân hậu. Nói tóm lại, đừng để

bị ảnh hưởng đến môi trường chung quanh.

Lại nữa, người thọ trì kinh Pháp Hoa không được phê phán

phẩm chất người này, người nọ, cũng không được phê bình kinh điển

của pháp môn này, pháp môn kia hay kinh điển của các tôn giáo khác.

Cũng là bạn đồng môn đạo tràng với nhau, hãy giúp nhau cùng tu học,

chớ quấy nhiễu nhau làm sinh tâm chán nãn, lười biếng. Và sau rốt phải

phát khởi tâm đại bi, khuyến khích nhau cùng học tập mưới điều lành, rũ

ren nhau cùng làm phước thiện.

Cuối phẩm kinh đức Phật ẩn dụ về viên minh châu. Lời đức

Phật nói với ngài Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát: “Văn Thù Sư Lợi! Như

vua Chuyễn luân thánh vương, thấy các binh chúng, những người

có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong buối tóc

chẳng vọng cho người mà nay cho đó.” Là ý nói đả tới thời cơ đức

Phật đem kinh Pháp Hoa này truyền lại cho chúng sanh tinh tấn thọ trì

để vượt đến bờ “Nhứt thiết chủng trí”.

Chúng ta tu học kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm An Lạc Hạnh

thì cảm thấy niềm tin được củng cố, nghi ngờ được xóa sạch, phẩm hạnh

được tăng cao. Bởi vì thọ trì kinh Pháp Hoa không những đưa cái tâm vô

kỷ luật của chúng ta vào khuôn phép, mà còn đánh thức Phật tánh trong

con người của chúng ta, khiến tâm thức chúng ta nghĩ đến hướng thiện

112 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nhiều hơn, thiền quán tốt hơn, thẩm sâu giáo lý Pháp Hoa cao hơn, xây

dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Và tôi miên man nghĩ đến:

Niết Bàn nào ở đâu xa.

Bởi tâm tỉnh giác sinh ra Niết Bàn.

Phẩm Tùng địa dũng xuất thứ 15 có liên quan đến phẩm

16. Phẩm Tùng địa dũng xuất nói về sự xuất hiện vô lượng vô biên của

chư đại Bồ Tát từ trong lòng đất vọt ra. Cả hai phẩm này đều hiển bày

uy lực thần thông của Như Lai. Trong phâm này, có năm tiêu đề chính:

Tiêu đề thứ nhứt, nói về các vị đại Bồ Tát ở cõi nước phương

khác đãnh lễ Phật và xin tình nguyện được phép ở lại cõi ta bà cùng bốn

chúng giữ gìn, đọc tụng, biên chép, rộng nói và cúng dường kinh Pháp

Hoa sau khi Như Lai diệt độ.

Tiêu đề thứ hai, đức Phật từ chối và nói rằng: “Trong cõi ta

bà này số chúng đại Bồ Tát, đông gắp mười lần số hiện diện tại đây, mỗi

vị còn có vô số đệ tử, quyến thuộc, những vị này sẽ đọc tụng hộ trì kinh

điển này sau khi ta diệt độ.” Phật nói xong thì mặt đất rúng nứt, rồi từ

trong lòng đất có vô lượng nghìn muôn ức Bồ Tát đồng thời vọt ra, thân

chói sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt, các ngài bay lên bảo tháp đãnh

lễ đức Đa Bảo Như Lai và đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Các ngài đi

quanh Phật làm lễ và ca tụng những lời lẽ hay trong đạo. Thời gian hành

lễ như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp, do sức thần của Phật khiến hàng

đại chúng cho là như nửa ngày.

Trong số các ngài có bốn vị đạo sư. Người thứ nhứt tên

Thượng Hạnh, có ý nghĩa trí huệ quán xét, trong ngoài sáng rở, biết tự

bổn tâm, đã đến cảnh Phật trí, sắp ngộ đạo Vô thượng Bồ đề. Người thứ

hai tên Vô biên Hạnh, có ý nghĩa trong ngoài chẳng trụ, qua lại tự do, trừ

tâm chấp trước, thông đạt không ngại, người đã thoát khỏi ba cõi, tu

hạnh Bồ Tát đạo. Người thứ ba tên Tịnh Hạnh, có ý nghĩa tâm địa của

Như Lai, dứt tuyệt phiền não, tam độc. Người thứ tư tên An lập Hạnh,

113 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

có ý nghĩa thường làm mười điều thiện, hàng phục được các chúng binh

ma, dập tắt vọng tưởng, vượt khỏi tử sinh, không còn luân hồi.

Bốn vị đạo sư này hỏi thăm sức khoẻ của Như Lai có được ít

bịnh, ít não, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ chăng?

Có quấy rầy làm cho Như Lai sanh mỏi nhọc chăng?

Tiêu đề thứ ba, ngài Di Lặc đại Bồ Tát cùng hằng hà sa số

chư vị Bồ tát khác bày tỏ lòng nghi hoặc. Cũng có số đông thị giả của

các đức Phật do đức Phật Thích Ca phân thân cũng hoài nghi về điều đó.

Tiêu đề thứ tư, đức Phật liền nói: “Nay ta ở trong đại chúng

này, tuyên bảo các ông A Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát, vô lượng vô

số a tăng kỳ từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy

đó, chính ta ở cõi ta bà lúc đặng Vô thương Chánh đẳng Chánh giác

rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó, điều phục tâm kia, khiến phát

đạo tâm.”

Tiêu đề thứ năm, nghe Phật nói xong ngài Di Lặc Bồ Tát

cùng vô lượng, vô số chúng đại Bồ Tát lấy làm lạ tự hỏi:

“Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian ngắn mà có thể

giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó?

Trong phần đầu, đức Phật từ chối chư vị Bồ Tát ở các cõi

nước phương khác đến cõi ta bà này tự nguyện gìn giữ, thọ trì, đọc tụng,

biên chép kinh Pháp Hoa sau khi Như Lai diệt độ. Có phải vì đã có vô

lượng vô biên a tăng kỳ chư đại Bồ Tát được sự giáo hóa của đức Phật

Thích Ca từ trong đất vọt ra đó? Về mật nghĩa chúng ta cũng có thể hiểu

như vầy, chúng ta tu kinh Pháp Hoa phải biết tự lực giải thoát. Bởi vì

đức Phật nhìn thấy hết thảy chúng sanh trong cõi ta bà này đều có Phật

tánh. Chỉ vì chúng sanh bị vô minh làm cản trở, che áng trí huệ và phước

đức. Đức Phật muốn cho chúng ta phải tự lực giải thoát vòng vô minh,

phá tan phiền não, bức xiềng tam độc, làm cho trí huệ được sáng suốt,

114 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

làm cho mười điều thiện được tăng trưởng, phước đức tích lũy càng

nhiều, tự tánh càng lộ ra.

Mình phải tự cứu, rồi người khác sẽ cứu mình. Mình phải

làm sao cho cái tâm của mình được chơn thường tịch tịnh rồi đức Phật

mới tiếp độ mình. Tự lực giải thoát là tự mình tháo gở những mắt gút

phiền não, khổ trược.

Phẩm Như Lai thọ lượng. Sự thọ mạng của Như Lai vô

lượng a tăng kỳ kiếp, sự thọ mạng được coi như là thường trụ, vĩnh

hằng.

Xưa nay, chúng ta chỉ biết đức Phật sanh ra tại vườn Lâm Tỳ

Ni ở thành Ca Tỳ La Vệ, con của vua Tịnh Phạn và mẫu hậu Ma Da.

Mười chín tuổi ngài thoát ly ra khỏi hoàng cung tìm đạo, năm năm rảo

bước khắp nơi hỏi đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng sâu, bốn mươi chín

năm hoằng dương chánh pháp và Phật Niết Bàn vào lúc tám mươi tuổi.

(Chúng ta phải hiểu Niết Bàn là cõi chơn thường tịch tịnh, cõi viên mãn

vô vi, cõi chẳng sanh chẳng diệt. Như vậy Niết Bàn là cõi mà các bậc

chơn tu sau khi trả lại thân xác thế gian đều nương về đó, vì đó là chỗ rất

nhiệm mầu, là chỗ siêu thoát cảnh luân hồi, xa lìa đường sanh tử, không

phải là cõi chết. Vì không nhận rỏ nghĩa Niết Bàn, nên người đời cứ cho

là cõi chết, thiệt là sai lầm lắm thay!)

Thời gian đó chúng ta nghĩ rằng quá đủ cho một đời người,

nhưng quá ngắn đối với đức Phật. Các vị Bồ Tát thắc mắc tại sao với

thời gian như thế mà đức Phật lại có thể độ được vô số đệ tử đắc quả A

la hán trở lên? Trước khi giải thích cho đại chúng thấu tỏ lý nhiệm mầu,

đức Phật phải ba lần nói đi nói lại chỉ một câu:

“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”

“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”

“Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai!”

115 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Và ngài Di Lặc đại Bồ Tát, đứng đầu trong hàng bốn chúng,

cũng ba lần đãnh lễ Phật và nói:

“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời

Phật”.

“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời

Phật.”

“Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời

Phật.”

Vì lòng từ bi cho hết thảy chúng sanh, Như Lai liền giải đáp

những chỗ nghi của chúng đại Bồ Tát. Trong nhiều đời nhiều kiếp, đức

Phật Thích Ca tu hạnh Bồ Tát đạo, những hạnh khổ nào khó làm Bồ Tát

đạo phải làm được và phải độ được chúng sanh. Đức Bổn Sư Thích Ca

Mâu Ni Phật đã ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu Bồ Tát đạo như vậy,

kiếp còn mà nói diệt độ, cũng là một cách để tiếp độ chúng sanh. Bởi

chúng sanh phước mỏng, đức kém, có người có nhơn duyên gặp Phật, có

người không có nhơn duyên gặp Phật. Nên đức Phật mới nói: “Các Tỳ

kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng thấy.”

Nghe nói Như Lai khó đặng gặp, khiến họ mới ôm lòng khát

ngưỡng, luyến mộ nơi Phật, bèn trồng cội lành.

Ví dụ như tại một thành phố nọ, người dân nào nghe nói đến

công viên Suối Tiên mà chẳng biết, nhưng người biết rành về công viên

Suối Tiên chẳng được bao nhiêu, vì những người này họ nghĩ rằng, công

viên Suối Tiên nằm tại thành phố này, muốn đi tham quan bất cứ lúc nào

lại chẳng được, nhưng rốt cuộc họ chẳng bao giờ đi tới nơi đó, vì họ

không quan tâm tới, cũng có khi họ muốn đi ngày hôm đó, rồi bận bịu

đủ thứ công việc khiến họ không đi được, đây gọi là họ chưa có nhơn

duyên. Trái lại người ở các tỉnh xa, có dịp đi lên thành phố là họ đi tham

quan Suối Tiên. Những người này gọi là có nhơn duyên. Họ vào công

viên, đi khắp mọi ngã ngách trong đó, thấy đủ mọi thứ trò chơi trong đó,

nghe bất cứ âm thanh nào họ muốn nghe. Cho nên người đó có nhơn

duyên học hỏi nhiều, nghe thấy nhiều, hiểu biết nhiều.

116 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chúng sanh như người dân thành phố, nghĩ rằng chắc đức

Phật sẽ sống lâu hơn người đời, muốn gặp đức Phật lúc nào lại chẳng

được, hôm nay không gặp Ngài thì ngày mai cũng gặp được Ngài, từ đó

sinh ra lười biếng, giải đải, hẹn lần hẹn lựa, rốt cuộc chẳng bao giờ gặp

đặng Phật, những người này không có nhơn duyên gặp Phật.

Có người nghĩ rằng ta phải vun trồng thiện căn để cầu mong

được gặp Phật, sự khát ngưỡng đó biến thành hành động là họ luôn luôn

nghĩ đến mười điều thiện, và làm việc thiện lợi ích cho đời, những người

như thế là có nhơn duyên với Phật. Như người dân ở các tỉnh xa, muốn

có một ngày đi tham quan cảnh Suối Tiên thì ngay bây giờ phải để dành

sẳn một số tiền lộ phí.

Sự khao khát được gặp Phật tức là đã tỏ bày lòng ái mộ và

kính ngưỡng sự thọ mạng dài lâu của đức Phật. Lòng khát ngưỡng ngày

càng cao, niềm tin ngày càng sâu, vun trồng đạo đức ngày càng nhiều,

người đó sẽ thấy tâm mình trở nên thanh tịnh. Bởi vì phải giữ cho cái

tâm “Xưa nay vốn không một vật. Chỗ nào bám được bụi nhơ” dầu

không gặp đặng Phật trong hiện tiền, nhưng rồi cũng được gặp Phật

trong chiêm bao.

Thế rồi Phật diễn giải cho đại chúng Bồ Tát tỏ rỏ hơn bằng

một ẩn dụ về vị lương y và các con. Đây là ẩn dụ thứ bảy trong toàn bộ

hai mươi tám phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói về những đứa con

lầm lở uống nhầm thuốc độc, (ý nói là chúng sanh vì si mê nên chìm

đắm trong năm món dục). Vị lương y nghe tin con uống lầm thuốc, bèn

từ xứ xa trở về điều chế ra thang thuốc mùi sắc vị ngon cho các con

uống đặng tiêu trừ độc dược, (ý nói bài thuốc Tứ Thánh Đế, bài thuốc

Mười hai nhơn duyên và bài thuốc Lục độ). Trong số các con, có người

thấy thuốc có hương sắc thơm ngon liền uống ngay, bệnh đều lành, có

người thấy thuốc không chịu uống, dầu người cha năn nỉ ép uống, cũng

không chịu uống, những người này đã mất hết bổn tâm.

Vì những đúa con đáng thương này, vị lương y mới bày

chước phương tiện, liền bảo các con rằng: “Các con phải biết, nay ta

117 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tuổi đã già suy, giờ chết sắp đến. Thuốc lương dược này ta để ở đây,

các con nên lấy uống, chớ lo bệnh độc không lành.” Và rồi vị lương y

đi qua nước khác, sai sứ về nói “cha các người đã chết”.

Những đứa con trước đây không chịu uống thuốc lấy làm sầu

khổ mà than thở rằng: “Nếu cha ta còn sống, thương xót chúng ta, có

thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta, xa chết ở nước khác, bệnh trầm

trọng này ai cứu được đây?” Tự nghĩ mình nay côi cúc, không có chỗ

cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ. Biết thuốc này sắc

hương vị ngon, liền lấy uống, bệnh độc đều lành. Người cha nghe tin các

con nay đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.

Tin vào sự thọ mạng dài lâu của đức Phật, tin vào giáo lý tối

thượng của đức Phật, tức là chúng ta đã tự mình trút bỏ phiền não, khổ

đau trong cõi trần thế này.

Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn

Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy,

có sanh lòng tin thiệt chăng?” Phật bảo ông Tu Bồ Đề: “Chớ có nói lời

ấy. Khi Như Lai diệt độ rồi, năm trăm năm sau có kẻ nào trì giới tu

phước mà sanh lòng tin những câu bài ấy thì lấy đó làm thiệt. Nên

biết người ấy chẳng những là gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai

kiếp Phật, ba bốn năm kiếp Phật, mà đã gieo căn lành đến vô lượng

nghìn muôn kiếp Phật rồi. Nghe những câu bài ấy, nhứt niệm sanh

lòng tin chắc, Như Lai đều biết hết, thấy hết.” (Kinh Kim Cang.)

Vị lương y thương các con mình, thấy các con mình uống

lầm thuốc độc trong lòng đau đớn biết bao, tự bào chế ra món lương

dược, sắc hương vị ngon rồi cho các con uống. Người mau tỉnh ngộ liền

uống ngay, chất độc tiêu trừ, có người thấy thuốc mà vì lạc mất chơn

tâm, nên không chịu uống thuốc, bệnh độc càng phát lên cuồng loạn.

Vị lương y là đức Bổn Sư Thích Ca Như Lai, còn các con tức

là chúng sanh vậy. Chính vì thế, Như Lai hoằng dương chánh pháp chưa

đặng năm mươi năm bèn phải vội vàng nhập Niết Bàn.

118 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đức Phật nhập Niết Bàn cũng vì lòng đại từ, đại bi, đại hỷ,

đại xả đối với hết thảy chúng sanh phước mỏng, đức kém.

Tới đây Như Lai hỏi trong đạo tràng: “Các thiện nam tử!

Có ai nói vị lương y đó mắc tội hư dối chăng”. Cả đại chúng đồng

thanh đáp: “Thưa Thế Tôn! Không thể được.”

Phật nói: “Ta cũng như thế! Từ khi thành Phật đến nay

đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp, vì

chúng sanh dùng sức phương tiện nói “sẽ diệt độ”, cũng không ai có

thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.”

Phẩm Phân biệt công đức. Là chỉ rỏ về mỗi nhận thức của

mỗi người về sư tin hiểu sự thọ mạng dài lâu của đức Phật.

Đức Phật phân biệt mười hai bực công đức cho sự tin hiểu

nhiều ít của chúng sanh. Tin hiểu chút chút được lợi nhỏ, tin hiểu in ít

thì được lợi vừa, tin hiểu rỏ thì được lợi khá, tin hiểu rỏ kỷ thì được lợi

khá hơn, tin hiểu sâu thì được lợi nhiều, tin hiểu thâm sâu thì được lợi

lớn, tin hiểu hoàn toàn rốt ráo thì được lợi quả giác ngộ.

Chúng sanh nào tu Bồ Tát đạo chỉ với năm độ: bố thí, trì giới,

nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. So ra với công đức người thiện nam tín

nữ tin hiểu sự thọ mạng dài lâu của Như Lai, thì người tu năm độ trên

kia không bằng trăm nghìn phần, nhẫn đến muôn ức phần cũng chẳng

kịp một, hoặc là không thể so sánh bằng tỷ lệ được. Vì sao? Vì người đó

còn thiếu hạnh trí huệ ba la mật. Không có trí huệ thì còn xa cách Phật.

Người có trí huệ chỉ cần phải tin hiểu sâu chắc Như Lai thường trụ trong

ba thời quá khứ vô tận, hiện tại vô cùng, vị lai vô chung thì công đức của

người đó không hạn lượng, có thể sanh huệ Vô thượng của Như Lai.

Huống gì là người rộng nghe nói kinh Pháp Hoa, hoặc bảo người nghe,

hoặc tự thọ trì, hoặc khuyến bảo người thọ trì, hoặc tự chép hoặc bảo

người chép, hoặc cúng dường kinh điển này, thời công đức của người đó

có thể sanh Nhứt thiết chủng trí.

119 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Muốn bày tỏ sự tin hiểu sâu chắc về sự thọ mạng của Như

Lai, chúng ta phải quán tưởng: “Tại núi Kỳ xà Quật có vô lượng chúng

đại Bồ Tát vây quanh nghe đức Phật nói pháp. Cõi ta bà này đất bằng

lưu ly bằng phẳng, dây vàng ngăn tám nẽo đường, các chúng đại Bồ Tát

ở trong các lâu đài quí báu đó…” Rồi cứ thế, chúng ta tiếp tục quán

tưởng: “Sau năm trăm năm Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này

mà không chê bai, sanh tâm tùy hỷ, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu

chắc, huống là người đọc tụng, thọ trì kinh này, những người như thế

trọn đời đầu đội đức Như Lai, phải biết người đó đã đến đạo tràng ngồi

dưới cội đạo thọ gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tất cả chúng ta, những người đã từng thệ nguyện thọ trì, đọc

tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hãy nuôi dưỡng cho

công đức này ngày thêm tăng trưởng, tức là nuôi dưỡng trí huệ đến gần

cảnh Phật trí.

Sắc thân Như Lai đẹp

Trong đời không ai bằng

Không sánh chẳng nghĩ bàn

Sắc thân Phật vô tận

Trí huệ Phật cũng thế

Tất cả pháp thường trú

Cho nên con về nương

Sức trí lớn nguyện lớn

Khắp độ chúng quần sanh

Khiến bỏ thân nóng khổ

Sanh kia nước mát vui

Con nay sạch ba nghiệp

Quy y và lễ tán

Nguyện cùng các chúng sanh

Đồng sanh nước cực lạc.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo

120 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

QUYỂN SÁU

Phẩm TÙY HỶ CÔNG ĐỨC thứ mưới tám.

Nghe kinh Pháp Hoa, hiểu ý thú của kinh Pháp Hoa, rồi sanh

tâm tùy hỷ (thấy trong lòng tự dưng mừng vui liền tùy tâm làm theo)

diễn giảng kinh Pháp Hoa cho mọi người nghe, hoặc rũ ren bè bạn đến

cùng chung thọ trì kinh điển này. Công đức của người ấy có thể sanh trí

huệ của Như Lai, bởi vì người ấy tin đúng chánh pháp, hiểu đúng chơn

lý. Người ấy có lòng tin hiểu thẩm sâu, công đức của ngưới ấy lớn lao

vô lượng, vô biên, người ấy có thể chứng được Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác.

Trên đây là phần nội dung chánh của phẩm Tùy Hỷ Công

Đức thứ mười tám.

“1.- Lúc bấy giờ ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp

Hoa này mà tùy hỷ đó, đặng bao nhiêu phước đức?”

“2.- Khi đó Phật bảo ngài Di Lặc đại Bồ Tát rằng:

“A Dật Đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ kheo, tỳ

kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và người trí khác, hoặc lớn hoặc nhỏ,

nghe kinh này mà tùy hỷ rồi, từ trong pháp hội ra đến chỗ khác,

hoặc tại tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường xá,

xóm làng, ruộng rẩy, đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha

mẹ, tôn thân, thiện hửu, trí thức tùy sức diễn nói. Các người đó nghe

rồi tùy hỷ lại đi chuyễn dạy người khác, người khác nghe rồi cũng

tùy hỷ chuyễn dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi.”

Trong đoạn kinh văn dẫn giải, chúng ta phân biệt được:

1/- Nghe kinh Pháp Hoa rồi tùy hỷ. Có nghĩa là chính tự mình đi

tới giảng đường nghe một vị pháp sư thuyết giảng kinh Pháp Hoa. Nghe

121 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

xong thời thuyết pháp, tự mình tìm hiểu, hoặc tìm hiểu qua vị pháp sư.

Hiểu thấu trọn nghĩa lý của kinh điển rồi phát tâm tùy hỷ.

2/- Truyền đạt lại giáo pháp này cho người khác. Là người có thọ

trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, truyền đạt tùy theo khả năng của mình, hay

dở không sao, miễn làm thế nào cho người được truyền đạt phải tin hiểu

giáo lý một cách sâu chắc, không sai lạc. Người này nghe rồi cũng sanh

lòng tùy hỷ nói lại cho người khác nghe. Người thứ ba này chuyễn dạy

cho người thứ tư, người thứ tư chuyễn dạy cho người thứ năm, lần lượt

như vậy cho đến nhiều người khác nữa.

3/- Cho đến người thứ năm mươi. Trong kinh đức Phật nói truyền

đạt chơn lý diệu hửu đến người thứ năm mươi. Thật ra thì con số vô

hạn, càng nhiều càng tốt. Có một điều đáng lo ngại là từ người thứ nhứt

đến đạo tràng nghe thuyết giảng kinh, người này phải tin chắc vào

những gì pháp sư đã giảng là đúng chơn lý, đúng chánh đạo. Người

trước truyền cho người sau, người sau truyền cho người sau nữa, làm thế

nào phải tùy hỷ đúng theo bát chánh đạo. Nếu người trước nói lại sai

một li, thì người thứ năm mươi cảm thọ chơn lý sai đến một dặm.

Đức Phật nói với ngài Di Lặc đại Bồ Tát:

“3/- A Dật Đa! Công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện

nữ nhơn thứ năm mươi đó, ta nay nói ông phải lóng nghe.

“Nếu bốn trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường

chúng sanh trong bốn loài sanh : noãn sanh, thai sanh, thấp sanh,

hóa sanh, hoặc có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, chẳng

phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chưn, hai chưn, bốn

chưn, nhiều chưn, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu

phước tùy theo đồ ưa thích của chúng muốn đều cung cấp cho đó.

Mỗi mỗi chúng sanh cho các trân bảo tốt: Vàng bạc, lưu ly, xa cừ,

mã nảo, san hô, hổ phách đầy cả diêm phù đề (96)

và voi ngựa, xe cộ,

bảy báu làm thành những cung điện, lầu gác “Vị đại thí chủ đó bố

thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: “Ta đã ban cho

122 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

chúng sanh những đồ ưa thích tùy theo ý muốn, những chúng sanh

này đều đã già suy tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn gần chết

chẳng lâu, ta phải dùng Phật Pháp dạy bảo dìu dắt chúng. Liền

nhóm chúng sanh đó tuyên bày pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui

mừng. Đồng thời đặng đạo Tu đà hoàn, đạo tư đà hàm, đạo A na

hàm, đạo A la hán (97)

dứt hết cả hửu lậu, với những thiền định sâu

đều đặng tự tại, đủ tám món giãi thoát. Ý ông nghĩ sao? Công đức

của vị đại thí chủ đó đặng có nhiều chăng?

4/- Hồi hướng công đức tùy hỷ. Công đức của vị thí chủ trên đây

thiệt là vô lượng vô biên, nhưng nếu đem so sánh với người thứ năm

mươi xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, thời công đức của thí chủ đó không

bằng.

Khi phát tâm tùy hỷ vì người khác mà nói kinh Pháp Hoa,

chúng ta phải hồi hướng công đức như vầy: “Mong sao sự tùy hỷ công

đức này khơi dậy tâm thức của người thứ năm mươi, khiến họ mau đặng

thành tựu Phật đạo trong hiện đời này.” Sự tùy hỷ như vậy mới đem lại

công đức thiết thực.

Đức Phật dạy chúng thiện nam, tín nữ nào nghe nói có thuyết

kinh tên Pháp Hoa liền phát tâm tùy hỷ đến nghe, hoặc ngồi, hoặc đứng

trong chốc lát để nghe nhận, công đức của người đó chuyễn thân sanh ra

voi, ngựa, xe cộ, kiệu cáng. Hoặc đang ngồi nghe pháp, thấy có người

sau đến bèn nhường chỗ cho ngồi, công đức của người đó chuyễn thân

đặng chỗ ngồi của Đế Thích, hoặc là chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc

chỗ ngồi của Chuyễn Luân Thánh Vương.

Đức Phật nói tiếp:

“5.- A Dật Đa! Nếu lại có người nói với người khác rằng

“Có kinh tên Pháp Hoa nên cùng nhau qua nghe”. Liền nhận lời

bảo, nhẫn đến nghe trong giây lát, công đức của người đó chuyễn

thân đặng với đà la ni Bồ Tát, sanh chung một chỗ, căn tánh lanh

lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đời trọn chẳng ngọng câm, hơi

123 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

miệng chẳng hôi, lưởi thường không bịnh, miệng cũng không bịnh,

răng chẳng đen dơ, chẳng vàng, chẳng thưa cũng chẳng thiếu rụng,

chẳng so le, chẳng sếu gẩy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm,

chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng sứt hư, cũng chẳng cong

vẹo, chẳng dày, chẳng lớn cũng chẳng đen nám, không có các tướng

đáng chê.

“Mũi chẳng xệp dẹp, cũng chẳng cong gảy, sắc mặt chẳng

đen, chẳng hẹp dài cũng chẳng hóm gảy, không có tất cả tướng

chẳng đáng ưa. Môi, lưỡi, răng, nướu thảy đều nghiêm tốt, mũi lớn

cao thẳng, diện mạo tròn đầy, mày cao mà dài, trán rộng bằng

thẳng, tướng ngưới đầy đủ, đời đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin

nhận lời dạy bảo.

“A Dật Đa! Ngươi hãy xem, khuyên nơi một người khiến

qua nghe pháp mà công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói,

đọc, tụng lại ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như lời dạy

mà tu hành.”

NHỮNG BÀI KỆ CỦA ĐỨC BỒ TÁT DI LẶC.

Di Lặc (Maitreya) là họ, hán dịch là Từ Thị.

A Dật Đa (Ajita) là tên, hán dịch là Vô Năng Thắng.

Sách Di Đà sớ sao giảng : « Do khi Ngài còn trong thai, mẹ

liền có tâm từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong đời quá khứ gặp Đại Từ

Như Lai, nguyện cùng mang hiệu này liền đắc Từ Tâm Tam muội. Xưa

kia Ngài làm Bà la môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám ngàn năm tu

tập hạnh từ. Trong thời Đức Phất Sa Phật lại cùng với Thích Ca Như

Lai phát tâm bồ đề, thường tu tập Từ Định, chúng sanh trông thấy Ngài

liền đắc Từ Tâm Tam Muội. »

124 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì lòng thương xót chúng sanh trong cõi đời phiền não này,

nên Ngài phát nguyện độ chúng sanh tận muôn kiếp về sau, lòng từ của

Ngài không ai qua được nên mới gọi là Vô Năng Thắng.

Hiện Ngài đang ngự trong nội viện cung trời Đâu Xuất, bốn

ngàn năm sau Ngài sẽ thị hiện trong cõi ta bà này. (Bốn ngàn năm của

trời Đâu Xuất tương đương với năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm ở

địa cầu).

Ngài được đức Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký kế đây sẽ thành

Phật hiệu là LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI HẠ SANH DI

LẶC TÔN PHẬT.

Sau khi giáo pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật triệt diệt

mãn tiểu kiếp thứ chín, qua tiểu kiếp thứ mười, ngài A Dật Đa Bồ Tát

hiện thân thành Phật ở cõi đời này hiệu là Phật Di Lặc. Hình tượng của

Ngài rất dễ nhìn và rất gần gủi với chúng ta, một thân hình mập mạp,

bụng to, miệng cười rất hoan hỷ. Nhìn thấy hình tượng ngài thật vô cùng

hạnh phúc, khiến cho tất cả chúng sanh trông thấy ngài cũng tràn đầy

125 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hạnh phúc theo. Vậy Bồ Tát Di Lặc tu hạnh gì mà phước báo như thế?

Kinh nói rằng Bồ Tát tu hạnh Từ bi, Tùy hỷ và Hỷ xả.

Bồ Tát Di Lặc có lòng từ bi thấy chúng sanh khổ coi như

chính mình bị khổ, thấy chúng sanh vui coi như chính mình được vui,

cho nên nhìn thấy Phật tử đi chùa và ham làm điều phước thiện, nên ngài

vui mừng, miệng cười toe toét.

Bồ Tát Di Lặc do có lòng tùy hỷ, thấy Phật tử làm điều lành

ngài cũng vui mừng theo.

Bồ Tát Di Lặc do có lòng hỷ xả, tức là xoá bỏ hết đố kỵ,

phiền não để được vui vẻ vẹn toàn. Vì vậy ngày vía của Bồ Tát rơi trúng

vào ngày mồng một tháng giêng. Ngày mồng một Tết người ta chúc

nhau “An khang hạnh phúc”, “An khang thịnh vượng”, “Vạn sự

như ý”. Trong ngày mồng một Tết mọi người đều mừng vui, cởi mở,

xóa tan mọi hiềm khích đố kỵ, trút bỏ mọi phiền não, khổ phược, đó

cũng là biểu tượng của Bồ Tát Di Lặc.

Huyền sử viết rằng, vào hồi thế kỷ thứ tư (tây lịch), đức Bồ

Tát Di Lặc giáng xuống trần ở tiểu vương quốc Ayodhya Ấn Độ, quê

hương của hai anh em sinh đôi, Bồ Tát Vô Trước (Asanga) và Thế Thân

(Vasubandhu), vị tổ sư đời thứ hai mươi mốt của Thiền Tông An Độ, để

giáo hóa ngài Vô Trước. Ban đêm ngài Vô Trước nghe đức Di Lặc giảng

kinh, ban ngày thuyết lại cho đại chúng nghe, cứ như thế liền trong bốn

tháng. Ngài Vô Trước hoàn thành đặng hai bổn nguyện lớn.

Bổn nguyện thứ nhứt ngài viết ra thành năm bộ luận từ

những bài giảng của ngài Di Lặc Bồ Tát, mà trong đó bộ Du Già Sư Địa

Luận ngài Di Lặc là tác giả. Cả năm bộ luận này sau đó lúc ngài Huyền

Trang sang Thiên Trúc thỉnh kinh, (thế kỷ thứ bảy) mang về Trung quốc

dịch ra Hán tư.

Bổn nguyện thứ hai là ngài độ cho đứa em Thế Thân chứng

ngộ lý Duy Thức. (xem truyện Anh em sinh đôi, trang 242 tập 1).

126 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chúng ta hãy bắt chước tu theo hạnh của Bồ Tát Di Lặc. Tùy

hỷ không bao giờ làm thiệt hại cho ai, không bao giờ làm tổn thương ai,

không làm cho ai tủi lòng, phiền muộn, không đố kỵ, không giận hờn.

Nếu có ai mang sân hận trong lòng hãy nhìn hình tượng ngài sẽ tiêu tan

sân hận. Cho nên khi thấy ai tu tạo công đức, chúng ta hãy tùy hỷ làm

thêm công đức đó, thấy ai vui vẻ làm điều lành, chúng ta hãy tùy hỷ

cũng làm theo điều lành, tức là chúng ta đã sống hạnh phúc theo hạnh

của Bồ Tát Di Lặc: Từ bi, Tùy hỷ và Hỷ xả.

Trong kinh Phật dạy: “Người nào thấy ai làm điều thiện,

liền phát tâm tùy hỷ, thì người làm điều thiện được bao nhiêu công

đức, người phát tâm tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức.”

Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật: ”Bạch Thế Tôn! Nếu công

đức người phát tâm tùy hỷ bằng công đức của người làm điều thiện,

như vậy công đức của người làm điều thiện có bị hao mòn chăng?”

Đức Phật phán: “Này A Dật Đa! Giả sử một cây đuốc đang

cháy, có người đem cây đuốc khác tới mồi lửa, khi lửa bén cháy qua

cây đuốc thứ hai, cây đuốc thứ nhứt có bị lu mờ hay phụt tắt chăng ?

“Bạch Thế Tôn! Cây đuốc thứ nhứt vẫn cháy mà không bị

lu mờ, không bị tắt phụt.”

“Này A Dật Đa! Cũng vậy đó, công đức của người làm từ

thiện không bị hao mòn, không bị chia xớt.”

Qua thí dụ trên chúng ta hiểu rằng người phát tâm làm từ

thiện đặng một trăm phần công đức, người tùy hỷ làm theo cũng đặng

một trăm phần công đức.

Trong hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, Bồ Tát Di Lặc

thay mặt hội chúng đặt nhiều câu hỏi để được ngài Văn Thù Sư Lợi,

127 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hoặc khi thì đức Thế Tôn giải đáp. Nay lần lượt trích ra những bài kệ

chất vấn đức Thế Tôn theo từng phẩm kinh.

Phẩm Tựa thứ nhứt.

8.-Ngài Văn Thù Sư Lợi

Đức Đạo sư cớ chi

Lông trắng giữa chặn mày

Phóng ánh sáng khắp soi?

Trời mưa hoa Mạn đà

Cùng hoa Mạn thù sa

Gió thơm mùi chiên đàn

Vui đẹp lòng đại chúng

Vì nhơn duyên như vậy

Cõi đất đều nghiêm tịnh

Mà trong thế giới này

Sáu điệu vang động lên

Bấy giờ bốn bộ chúng

Thảy đều rất vui mừng

Thân cùng ý thơi thới

Đặng việc chưa từng có.

9.- Anh sáng giữa chặn mày

Soi suốt thẳng phương đông

Một muôn tám nghìn cõi

Đều ánh như sắc vàng

Từ địa ngục A Tỳ

Trên đến trời hửu đảnh

Trong các thế giới đó

Cả sáu đạo chúng sanh

Sống chết của kia đến

Nghiệp duyên lành cùng dữ

Thọ báo có tốt xấu

Tại đây đều thấy rỏ.

128 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

10.- Lại thấy các đức Phật

Đấng Thánh chúa sư tử

Diễn nói các kinh điển

Nhiệm mầu bực thứ nhứt

Tiếng của ngài thanh tịnh

Giọng nói ra êm dịu

Dạy bảo các Bồ Tát

Vô số ức muôn người

Tiếng Phạm âm thâm diệu

Khiến người đều ưa nghe

Các Phật ở cõi mình

Mà giảng nói chánh pháp

Dùng nhiều món nhơn duyên

Cùng vô lượng tỉ dụ

Để soi rỏ Phật Pháp

Mà khai ngộ chúng sanh

Nếu có người bị khổ

Nhàm lìa già, bịnh, chết

Phật vì nói Niết Bàn

Để dứt các ngằn khổ

Nếu là người có phước

Đã từng cúng dường Phật

Chí cầu Pháp thù thắng

Vì nói hạnh Duyên giác

Nếu lại có Phật tử

Tu tập các công hạnh

Để cầu huệ vô thượng

Phật vì nói tịnh đạo.

11.- Ngài Văn Thù Sư Lợi

Tôi ở tại nơi đây

Thấy nghe dường ấy đó

Và nghìn ức việc khác

Thấy rất nhiều như thế

Nay sẽ lược nói ra.

129 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

12.- Tôi thấy ở cõi kia

Có hằng sa Bồ Tát

Dùng các món nhơn duyên

Mà cầu chứng Phật đạo

Hoặc có vị Bồ Tát

Vàng, bạc, ngọc, san hô

Chơn châu, ngọc như ý

Ngọc xa cừ, mã não

Kim cương các trân bửu

Cùng tôi tớ, xe cộ

Kiệu cáng chưng châu báu

Vui vẻ đem bố thí

Hồi hướng về Phật đạo

Nguyện đặng chứng thừa ấy

Bực nhứt của ba cõi

Các Phật hằng khen ngợi

Hoặc có vị Bồ Tát

Xe tứ mả, xe báu

Bao lơn che tàng đẹp

Trau tria dùng bố thí

Lại thấy có Bồ Tát

Bố thí cả vợ con

Thân thịt cùng tay chơn

Để cầu Vô thượng đạo

Lại thấy có Bồ Tát

Đầu mắt và thân thể

Đều ưa vui thí cho

Để cầu trí huệ Phật.

13.- Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Ta thấy các quốc vương

Qua đến chỗ của Phật

Thưa hỏi đạo Vô thượng

Bèn bỏ nước vui vẻ

Cung điện cả thần thiếp

130 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Cạo sạch râu lẫn tóc

Mà mặc y pháp phục

Hoặc lại thấy Bồ Tát

Mà hiện làm tỳ kheo

Một mình ở vắng vẻ

Ưa vui tụng kinh điển

Cùng thấy có Bồ Tát

Dõng mãnh và tinh tấn

Vào ở nơi thâm sơn

Suy xét mối Phật đạo

Và thấy bực ly dục

Thường ở chỗ không nhàn

Sâu tu các thiền định

Đặng năm món thần thông

Và thấy vị Bồ Tát

Chắp tay trụ thiền định

Dùng nghìn muôn bài kệ

Khen ngợi các pháp vương

Lại thấy các Bồ Tát

Trí sâu chí bền chắc

Hay hỏi các đức Phật

Nghe rồi đều thọ trì

Lại thấy hàng Phật tử

Định huệ trọn đầy đủ

Dùng vô lượng tỷ dụ

Vì chúng mà giảng pháp

Vui ưa nói các pháp

Dạy bảo các Bồ Tát

Phá dẹp chúng binh ma

Mà đánh rền trống pháp

Cùng thấy vị Bồ Tát

Vắng bặt yên lặng ngồi

Trời rồng đều cung kính

Chẳng lấy đó làm mừng

Và thấy có Bồ Tát

131 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ở rừng phóng hào quang

Cứu khổ chốn địa ngục

Khiến đều vào Phật đạo

Lại thấy hàng Phật tử

Chưa từng có ngủ nghĩ

Kinh hành ở trong rừng

Siêng năng cầu Phật đạo

Cũng thấy đủ giới đức

Oai nghi không thiếu sót

Lòng sạch như bửu châu

Để cầu chứng Phật đạo

Và thấy hàng Phật tử

Trụ vào sức nhẫn nhục

Bị kẻ Tăng thượng mạn

Mắng rủa cùng đánh đập

Thảy đều hay nhẫn được

Để cầu chứng Phật đạo

Lại thấy có Bồ Tát

Xa rời sự chơi cười

Và quyến thuộc ngu si

Ưa gần gủi người trí

Chuyên tâm trừ loạn động

Nhiếp niệm ở núi rừng

Trải ức nghìn muôn năm

Để cầu được Phật đạo.

14.- Lại thấy vị Bồ Tát

Đồ ăn uống ngọt ngon

Cùng trăm món thuốc thang

Đem cúng Phật và Tăng

Ao tốt đồ thường phục

Giá đáng đến nghìn muôn

Hoặc là vô giá y

Đem cúng Phật và Tăng

Dùng nghìn muôn ức thứ

132 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nhà báu bằng chiên đàn

Các giường nằm tốt đẹp

Để cúng Phật cùng Tăng

Rừng vườn rất thanh tịnh

Bông trái đều sum sê

Suối chảy cùng ao tắm

Cúng dường Phật và Tăng

Cúng thí như thế đó

Các đồ cúng tốt đẹp

Vui vẻ không hề nhàm

Để cầu đạo Vô thượng.

15.- Lại có vị Bồ Tát

Giảng nói pháp tịch diệt

Dùng các lời dạy dỗ

Dạy vô số chúng sanh

Hoặc thấy vị Bồ Tát

Quán sát các pháp tánh

Đều không có hai tướng

Cũng như khoảng hư không

Lại thấy hàng Phật tử

Tâm không chỗ mê đắm

Dùng món diệu huệ này

Mà cầu đạo Vô thượng.

16.- Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Lại có vị Bồ Tát

Sau khi Phật diệt độ

Cúng dường Xá lợi Phật

Lại thấy hàng Phật tử

Xây dựng các tháp miếu

Nhiều vô số hằng sa

Nghiêm sức các cõi nước

Bửu tháp rất cao đẹp

Đều năm nghìn do tuần

133 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bề ngang rộng xứng nhau

Đều hai nghìn do tuần

Trong mỗi mỗi tháp miếu

Đều có nghìn tràng phan

Màn châu xen thả xuống

Tiếng linh báu hòa reo

Các vị trời, rồng, thần

Người cùng với phi nhơn

Hương hoa cùng kỹ nhạc

Thường đem đến cúng dường

Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Các hàng Phật tử kia

Vì cúng dường xá lợi

Nên trang sức tháp miếu

Cõi quốc giới tự nhiên

Thù đặc rất tốt đẹp

Như cây Thiên thọ vương

Bông kia đang xòe nở.

17.- Phật phóng một luồng sáng

Ta cùng cả chúng hội

Thấy nơi cõi nước này

Các thứ rất tốt đẹp

Thần lực của chư Phật

Trí huệ đều hi hửu

Phóng một luồng tịnh quang

Soi khắp vô lượng cõi

Chúng ta thấy việc này

Đặng điều chưa từng có.

18.- Xin Phật tử Văn Thù

Giãi quyết lòng chúng nghi

Bốn chúng đều mong ngóng

Nhìn ngài và nhìn ta

Đức Thế Tôn cớ chi

Phóng ánh quang minh này?

134 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật tử phải thời đáp

Quyết nghi cho chúng mừng

Có những lợi ích gì

Đức Phật phóng quang này?

Khi Phật ngồi đạo tràng

Chứng đặng pháp thâm diệu

Vì muốn nói pháp đó

Hay là sẽ thọ ký?

Hiện bày các cõi Phật

Các báu sạch trang nghiêm

Cùng thấy các đức Phật

Đây không phải cớ nhỏ

Ngài Văn Thù nên biết

Bốn chúng và Long thần

Nhìn xem xét ngài đó

Mong sẽ nói những gì?

Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất thứ mười lăm.

Ngài Di Lặc Bồ Tát cùng tám nghìn hằng ha sa các chúng Bồ

Tát khác vô cùng kinh ngạc khi thấy cõi nước đất đều rúng nứt và từ

trong đó vọt lên vô lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát thân đều sắc

vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt, trong đó có bốn vị đạo sư: Thượng

Hạnh, Vô biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An lập Hạnh, là bốn vị Bồ Tát

thượng thủ xướng đạo sư, thay mặt và hỏi thăm sức khoẻ đức Thế Tôn.

Lúc đó đại Bồ Tát Di Lặc thay mặt tám nghìn hằng hà sa các chúng Bồ

Tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chắp tay hướng về

phía Phật và nói kệ rằng:

Vô lượng nghìn muôn ức

Các Bồ Tát đại chúng

Từ xưa chưa từng thấy

Nguyện đấng Lưỡng túc (98)

nói

Là từ chốn nào đến

135 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Do nhơn duyên gì nhóm

Thân lớn đại thần thông

Trí huệ chẳng nghĩ bàn

Chí niệm kia bền vững

Có sức nhẫn nhục lớn

Chúng sanh chỗ ưa thấy

Là từ chốn nào đến?

Mỗi mỗi hàng Bồ Tát

Đem theo các quyến thuộc

Số đông không thể lường

Như số hằng hà sa

Hoặc có đại Bồ Tát

Đem sáu muôn hằng sa

Các đại chúng như thế

Một lòng cầu Phật đạo

Những đạo sư đó thảy

Sáu muôn hằng hà sa

Đều đến cúng dường Phật

Cùng hộ trì kinh này

Đem năm muôn hằng sa

Số này hơn số trên

Bốn muôn và ba muôn

Hai muôn đến một muôn

Một nghìn một trăm thảy

Nhẫn đến một hằng sa

Nửa và ba bốn phần

Một phần trong ức muôn

Nghìn muôn na do tha

Muôn ức các đệ tử

Nhẫn đến đem nửa ức

Số đông lại hơn trên

Trăm muôn đến một muôn

Một nghìn và một trăm

Năm mươi cùng một mươi

Nhẫn đến ba, hai, một

136 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Riêng mình không quyến thuộc

Ưa thích ở riêng vắng

Đều đi đến chỗ Phật

Số đây càng hơn trên

Các đại chúng như thế

Nếu người phát thẻ đếm

Quá nơi kiếp hằng sa

Còn chẳng thể biết hết

Các vị oai đức lớn

Chúng Bồ Tát tinh tấn

Ai vì đó nói pháp

Giáo hóa cho thành tựu

Từ ai? Đầu phát tâm?

Xưng dương Phật Pháp nào?

Thọ trì tu kinh gì?

Tu tập Phật đạo nào?

Các Bồ Tát như thế

Thần thông sức trí lớn

Đất bốn phương rúng nứt

Đều từ đất vọt lên

Thế tôn con từ xưa

Chưa từng thấy việc đó

Xin Phật nói danh hiệu

Cõi nước của kia ở

Con thường qua các nước

Chưa từng thấy chúng này

Con ở trong chúng đây

Bèn chẳng quen một người

Thoạt vậy từ đất lên

Mong nói nhơn duyên đó

Nay trong đại hội này

Vô lượng trăm nghìn ức

Các chúng Bồ Tát đây

Đều muốn biết việc này

Hàng Bồ Tát chúng kia

137 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Gốc ngọn nhơn duyên đó

Thế Tôn đức vô lượng

Cúi mong quyết lòng nghi.

10. Lúc bấy giờ, ngài Di Lặc Đại Bồ Tát cùng vô số chúng

Bồ Tát, lòng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng:

“Thế Tôn! Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có

thể giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó, làm cho

trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Thế Tôn! Đức Như Lai lúc làm Thái tử rời khỏi cung

dòng Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già Da chẳng bao xa,

đặng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới

hơn bốn mươi năm. Đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó

làm nên Phật sự lớn? Do thế lực của Phật? Do công đức của Phật?

Giáo hóa vô lượng chúng Bồ Tát lớn như thế?

Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát này giả sử có người trong

nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng đặng ngằn mé, chúng

đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội

lành, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu phạm hạnh.

Thế Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người

sắc đẹp tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con

của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ

nuôi ta thảy, việc đó khó tin, đức Phật cũng như thế.

Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu, mà

các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở nơi vô lượng nghìn muôn ức kiếp, vì

Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ (99)

nơi vô lượng

nghìn muôn ức tam muội, đặng thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh

đã lâu, khéo hay thứ đệ, tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp, là báu

quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.

138 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc đặng Phật đạo, bắt

đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy dìu dắt, làm cho kia hướng

về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành Phật

chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công đức lớn này.

Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật

nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đầu thông suốt, nhưng

các Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này

hoặc chẳng tin nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp, phá chánh pháp.

Kính thưa Thế Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi

của chúng con, và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng

chẳng sanh nghi.

Lúc đó, Ngài Di Lặc bèn nói bài kệ:

11.- Phật xưa từ dòng Thích

Xuất gia gần Già Da

Ngồi dưới cây Bồ đề

Đến nay còn chưa xa

Các hàng Phật tử này

Số đông không thể lường

Lâu đã tu Phật đạo

Trụ nơi sức thần thông

Khéo học đạo Bồ Tát

Chẳng nhiễm Pháp thế gian

Như hoa sen trong nước

Từ đất mà vọt ra

Đều sanh lòng cung kính

Đứng nơi trước Thế Tôn

Việc đó khó nghĩ bàn

Thế nào mà tin được

Phật đặng đạo rất gần

Chỗ thành tựu rất nhiều

Mong vì trừ lòng nghi

139 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Như thiệt phân biệt nói

Thí như người trẻ mạnh

Tuổi mới hai mươi lăm

Chỉ người trăm tuổi già

Tóc bạc và mặt nhăn

Bọn này của ta sanh

Con cũng nói là cha

Cha trẻ mà con già

Mọi người đều chẳng tin

Thế Tôn cũng như thế

Đặng đạo đến nay gần

Các chúng Bồ Tát này

Chí vững không khiếp nhược

Từ vô lượng kiếp lại

Mà tu đạo Bồ Tát

Giỏi nơi gạn hỏi đáp

Tâm kia không sợ sệt

Nhẫn nhục lòng quyết định

Đoan chánh có oai đức

Mười phương Phật khen ngợi

Khéo hay phân biệt nói

Chẳng thích ở trong chúng

Thường ưa ở thiền định

Vì cầu Phật đạo vậy

Trụ hư không phương dưới

Chúng con từ Phật nghe

Nơi việc này không nghi

Nguyện Phật vì người sau

Diễn nói khiến rỏ hiểu

Nếu người ở kinh này

Sanh nghi lòng chẳng tin

Liền phải đọa đường dữ

Mong nay vì giải nói

Vô lượng Bồ Tát đó?

Thế nào thời gian ngắn?

140 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Giáo hóa khiến phát tâm?

Mà trụ bực bất thối?

Phẩm Như lai thọ lượng thứ mười sáu.

“1.- Lúc bấy giờ Phật bảo các Bồ Tát và tất cả đại chúng:

“Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của

Như Lai.”

“Lại bảo đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của

Như Lai.”

“Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật

của Như Lai.”

Phải ba lần, đức Thế Tôn lập đi lập lại chỉ một câu nói. Bấy giờ toàn

thể thính chúng trong đạo tràng nín lặng để chờ nghe lời giải đáp của Phật. Chúng

ta thấy đức Phật thể hiện lòng từ với chư Bồ Tát và toàn thể đại chúng như thế nào.

Và ở đây chúng ta cũng thấy đức Di Lặc Bồ Tát đeo đuổi mục đích hoài nghi, phải

ba phen cầu thỉnh đức Thế Tôn, ngài Di Lặc chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn!

Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”

Như Lai liền giải đáp chỗ nghi của ngài Di Lặc và đại chúng Bồ Tát

trong phẩm “NHƯ LAI THỌ LƯỢNG”

“2.- Bấy giờ đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát ba phen thỉnh chẳng

thôi, mà bảo đó rằng: “Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như

Lai, tất cả trong đời, trời, người và a tu la đều cho rằng nay đức Thích Ca

Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng bao xa ngồi nơi

đạo tràng đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Nhưng thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây đã vô

lượng, vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn

muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người nghiền

làm vi trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng

kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi

trần đó.

“Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy

gẫm so tính biết được số đó chăng?

141 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Di Lặc Bồ Tát thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các thế giới

đó vô lượng, vô biên, chẳng thể tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực

biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác dùng trí vô lậu. Chẳng có thể

suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng con trụ bực bất thối, ở trong việc này

cũng chẳng thông đạt.

“Thế Tôn! Các thế giới đó nhiều vô lượng, vô biên.”

“3.- Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ Tát: “Các thiện nam tử! Nay

ta sẽ tuyên nói rành rỏ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc

chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành

Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng

kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi ta bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở

trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích

chúng sanh.

“Các thiện nam tử! Nơi chặn giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng, và

lại có các đức Phật nhập Niết bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân

biệt.” Trong kinh đức Phật thường hay nói hai tiếng vi trần, tức là nói con số

rất nhiều, không thể đếm được, chỉ cảm thọ mà nhận biết. Vi trần ở đây cũng nói

lên một con số, còn chấp con số tức là còn vọng niệm, còn vọng niệm thì chẳng

phải là thiệt tướng. Tam thiên đại thiên thế giới cũng chẳng phải là thiệt tướng, chỉ

là một cách diễn tả con số vô lượng vô biên. Một tam thiên đại thiên thế giới gồm

có bốn trung kiếp:

6. Trung kiếp thành: Thế giới mới tạo thành.

7. Trung kiếp trụ: Thế giới có đầy đủ hinh thái, vật chất.

8. Trung kiếp hoại: Thế giới hư rả do bởi lửa, gió, nước.

9. Trung kiếp không: Tan hết, chẳng trụ lại một vết tích nào.

“Nếu những vi trần ấy mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trần, chỉ

cưởng danh là vi trần. Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng

phải thế giới, chỉ cưởng danh là thề giới.” Kinh Kim Cang.

Trước đây, trong phần giới thiệu bộ kinh Pháp Hoa, tôi có nói về đức

Bổn Phật và đức Tích Phật (trang 40). Sở dĩ nói về đức Bổn Phật, vì là đức Phật

đã có từ thuở khai thiên lập địa. Có nghĩa là từ thuở hình thành trái đất này, trong

142 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đạo Phật gọi là thời kỳ “kiếp thành”. Còn Tích Phật tức là đức Phật Thích Ca Mâu

Ni, đức Phật lịch sử, đức Phật hiện diện vào thời đại văn minh con người cách nay

2547 năm (2003 dương lịch). Những đức Tích Phật có trước đức Phật lịch sử Thích

Ca Mâu Ni như Phật Nhiên Đăng, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Đa Bảo, Phật

Tỳ Bà Thi v…v…các vị Phật này là hóa thân từ đức Bổn Phật. Những đức Tích

Phật còn phân thân ra hằng hà sa số chư Phật, các Ngài tùy nhơn duyên độ sanh,

còn có thể thị hiện ứng thân, hoặc hóa thân trời, người, a tu la, súc sanh, hoặc hoá

thân vào tận địa ngục, ngạ quỉ.

Đức Bổn Phật có một năng lực vô cùng, vô tận, vô thủy, vô chung.

Phật hiện diện trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, bất cứ nơi đâu, bất cứ chỗ

nào, bất cứ trong vũ trụ hư không. Ở đây không nói đến những vật to lớn như trời,

biển, đất, núi, những vật chất mà con người cho là bao la đó, đối với Như Lai chỉ là

vật vi tế, hay là một quả cầu đặt trong lòng bàn tay.

Chúng ta phải tin vào sự thọ lượng của Như Lai, như là một sự hiện

hửu để sinh tồn mà diệu lý thâm sâu nằm trong Thập Như Thị (tr.100). Đức Phật

Thích Ca Mâu Ni đã hiện diện trong thời kỳ “kiếp trụ” này. Chỉ bày chơn lý cho

chúng sanh để chúng sanh phân biệt được vô minh và chánh kiến.

Thọ mạng của Như Lai không phải tính bằng con số. Thọ mạng của

Như Lai (đức Bổn Phật) như đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói là trăm nghìn muôn ức

a tăng kỳ kiếp. Đức Phật đã ba phen nói với tất cả Bồ Tát và đại chúng “Thiện

nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai.”

Lời nói chắc thật được thốt ra ba lần, như trong đêm tối có người ba

lần khêu tim ngọn đèn làm cho ánh sáng bừng tỏa chung quanh. Khiến cho chúng

ta tin rằng sự thọ mạng của đức Phật vô cùng vô tận, mới có đủ sức thần thông giáo

hóa vô lượng vô biên số đại chúng Bồ Tát đông bằng số cát của sáu muôn sông

Hằng. Tin vào lời nói của Phật là tin vào một Tôn giáo (Giáo lý chơn chánh được

tôn là bậc nhất thời bấy giờ) rốt ráo đưa chúng sanh thoát vòng sinh tử luân hồi. Sự

thọ mạng của Như Lai tính bằng lượng a tăng kỳ, con số nhiều không thể đếm

được, không thể tâm nghĩ mà được, con số đó gọi là bất khả thuyết, bất khả thuyết.

Kinh Hoa Nghiêm viết:

Bất khả ngôn thuyết, bất khả thuyết

Sung mãn tất cả bất khả thuyết

Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết

Nói bất khả thuyết chẳng hết được

143 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong tám mươi bốn ngàn pháp môn đức Phật đã giảng dạy, chỉ có

kinh Pháp Hoa là đức Phật nói Như Lai hiện hửu khắp mọi nơi, vì Như Lai là bản

thể chơn như của các pháp, cho nên không có chỗ nào, dầu nhỏ như hột cải mà

Như Lai lại chẳng hiện diện để cứu độ chúng sanh.

ĐỨC CỔ PHẬT THÍCH CA MÂU NI.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phán với Bồ Tát Quang Minh Biên Chiếu

Cao Quí Đức vương rằng:

“Thiện nam tử! Ta nhớ lại hồi thuở quá khứ, cách nay vô lượng vô

biên na do tha kiếp, thuở ấy có một thế giới kêu là Ta bà. Ở thế giới ấy có Phật

Thế Tôn hiệu là Thích Ca Như Lai Ứng Cúng, Chánh biến Tri, Minh Hạnh Túc,

Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư

Phật, Thế Tôn. Ngài tuyên thuyết kinh Đại Bát Niết Bàn này với các hàng đại

chúng.

“Thuở ấy, ta theo bạn lành nghe người này chuyền tới người kia rằng

đức Phật ấy đương thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn với đại chúng. Nghe vậy rồi lòng

ta lấy làm hoan hỷ, muốn bày việc cúng dường. Nhưng ta ở cảnh nghèo cùng,

chẳng có vật chi cả. Ta bèn muốn tự bán mình. Bạc phước thay! Chẳng có ai mua

cả. Ta muốn trở về nhà. Trên đường, ta thấy một người, bèn nói với người ấy rằng:

“Tôi muốn bán thân, ông có thể mua hay chăng?”

“Người ấy đáp: “Nhà tôi có việc không ai làm nỗi. Như chú có thể

làm, tôi sẽ mua chú.”

“Ta liền hỏi rằng: “Ông có việc chi mà không ai làm nỗi?

“Người ấy đáp rằng: “Tôi có bịnh dữ, lương y định thuốc, dặn mỗi

ngày tôi nên ăn ba lạng thịt người. Nếu chú có thể mỗi ngày lấy ba lạng thịt nơi

mình chú mà cấp cho tôi, nếu chịu như vậy, tôi sẽ trao cho chú năm đồng tiền

vàng.”

“Ta nghe vậy rồi, lấy làm hoan hỷ nơi lòng. Ta lại nói rằng: “Ông

trao tiền đi, rồi cho tôi hẹn bảy ngày, công việc của tôi xong, tôi sẽ trở lại.”

“Người ấy đáp: “Bảy ngày không được, hãy liệu như vầy xem, tôi sẽ

cho chú nghĩ một ngày.”

144 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Thiện nam tử! Thuở ấy lấy tiền của người ấy rồi, ta liền đi đến chỗ

Phật, đầu và mặt lễ sát chân Phật. Ta đem hết sở hửu mà phụng hiến. Rồi đó, ta

thành tâm mà nghe và thọ kinh Đại Bát Niết Bàn. Thuở ấy, ta còn ngu tối, tuy được

nghe kinh, mà chỉ có sức thọ trì một bài kệ này mà thôi:

Như lai chứng Niết Bàn

Vĩnh đoạn ư sanh tử

Nhược hửu chí tâm thính

Thượng đắc vô lượng lạc.

Dịch nghĩa

Như lai chứng Niết Bàn

Dứt mãi cuộc sanh tử

Nếu ai chí tâm nghe

Thường được vui vô lượng.

“Thọ kệ ấy rồi, ta bèn trở lại nhà của bịnh nhơn.

“Tuy ngày ngày ta cho người ấy ba lạng thịt của mình, nhưng nhờ

nhơn duyên nhớ tưởng bài kệ, ta chẳng lấy làm đau đớn. Ngày ngày chẳng phế

việc ấy, cho đến trọn đủ một tháng.

“Nhờ nhơn duyên ấy, bịnh nhơn mau được lành., thân ta cũng bình

phục, không có một vết thẹo chi cả. Thuở ấy, thấy thân ta đều đủ như trước, ta liền

phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

“Sức một bài kệ còn làm được như vậy, huống chi trọn bộ kinh mà

mình thọ trì, đọc, tụng? Bởi thấy kinh này có lợi như vậy, nên ta lại phát tâm thêm,

nguyện cho về sau khi thành được Phật đạo, hiệu ta lại cũng là Thích Ca Mâu Ni.

Trích Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 22.

Và chỉ có kinh Pháp Hoa đức Phật phán “Dước Vương! Lại sau khi

đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến

một bài kệ, một câu niệm tùy hỷ đó, ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Chánh

đẳng Chánh giác cho.” (Phẩm Pháp Sư thứ 10).

Sức bí mật thần thông của Như Lai trong đời như thế nào, chúng ta

hãy lóng tai nghe Phật nói tiếp:

“Các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta dùng

Phật nhãn quan sát tín v.v.. các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ,

nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói

145 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

sẽ nhập Niết Bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho

chúng sanh phát lòng vui mừng.

“Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp

tiểu thừa, đức mỏng, tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia đặng

Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhưng thiệt từ ta thành Phật nhẫn lại,

lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật

đạo, nên nói như thế.

“4.- Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra đều vì

độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân

mình, hoặc chỉ thân người, các lời nói đều thiệt chẳng dối. Vì sao? Vì đức Như

Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không có sanh tử, hoặc thối,

hoặc xuất cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng

phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc

như thế, Như Lai thấy rỏ, không có sai lầm.”

“Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món

hạnh, các món nhớ tưởng, phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành, nên

dùng bao nhiêu nhơn duyên, thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật

sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại thật là lâu xa, thọ

mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.

“Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát,cảm thành thọ

mạng, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên. Nhưng nay chẳng phải thiệt diệt

độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ, đức Như Lai dùng phương tiện đó giáo hóa

chúng sanh. Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng chẳng

trồng cội lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới

nhớ tưởng, vọng kiến. Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh

lòng buông lung nhàm trể, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gở cùng lòng

cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ kheo! Phải

biết, các Đức Phật ra đời khó có thể gặp gở.”

“Vì sao? Những người đức mỏng trải qua trăm nghìn muôn ức

kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc có người chẳng thấy, do việc này nên ta

nói rằng: “Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng thấy.” Các chúng sanh đó

nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó gặp gở, ôm lòng luyến mộ khát

ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà

nói diệt độ.

146 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“5.- Ví như vị lương y, trí tuệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc

trị các bệnh. Người ấy nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm,

do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc

khác, thuốc phát muộn loạn, lăn lộn trên đất.

“Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc

độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui

mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An lành về an ổn. Chúng con ngu si, lầm uống

thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho chúng con.”

“Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, tìm

cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hoà hiệp, đưa bảo

các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại lương dược này, mùi sắc vị ngon, thảy

đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại các bệnh

hoạn.”

“Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương

dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết được lành mạnh.

Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về, dầu cũng vui mừng, hỏi thăm,

cầu xin tri bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc

đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không

ngon. Người cha nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm

đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế

mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống thuốc

này.

“Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già suy, giờ

chết đã đến, thuốc lương dược tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ

lo không lành. Bảo thế rồi, lại đến nước khác sai sứ về nói “Cha các ngươi đã

chết.”

“Bấy giờ các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng

“Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta, xa

chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng

thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy

uống đó, bệnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền

trở về cho các con đều thấy.”

Trước khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa, Như Lai có nói với ngài Tôn

giả Xá Lợi Phất: “Trí tuệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí tuệ đó

147 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích chi Phật đều không biết

được. Vì sao? Phật đả từng gần gủi trăm nghìn muôn ức vô số các đức Phật,

trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh, tinh tấn, danh tốt

đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý

thú khó hiểu. Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn duyên, các món thí dụ,

rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa

lòng chấp.” (Phẩm Phương Tiện thứ 2).

Diễn giải :

Lòng chấp của chúng sanh do bởi tám cái điên đảo làm vọng kiến cho

tâm, chia ra hai bực: bực phàm phu (từ dưới bực Thanh Văn trở xuống) vì còn chấp

ngã, nên còn ham thích sắc, thọ, tưởng, hành và thức, do ham thích nên sanh tham

dục, do sanh tham dục mà còn tái sanh, còn trở lại thế gian để trả nghiệp báo. Bực

thánh (từ bực Thanh Văn trở lên) nghe nhiều, hiểu biết nhiều, nên nhàm chán sắc,

thọ, tưởng, hành và thức, do nhàm chán mà hết tham, do hết tham mà giải thoát,

không còn trở lại thế gian nữa.

Bốn pháp điên đảo của bực phàm phu: kẻ chẳng tỏ ngộ chơn tánh, hay

vọng chấp căn trần, chìm đắm trong sáu đường nên gọi là phàm phu :

5. Thường: Các pháp trong thế gian đều vô thường, mà cho là hửu thường.

6. Lạc: Các pháp trong thế gian đều đau khổ, mà cho là vui sướng.

7. Ngã: Các pháp trong thế gian đều vô ngã, mà cho là hửu ngã.

8. Tịnh: Các pháp trong thế gian đều bất tịnh, mà cho là thanh tịnh.

Bốn pháp điên đảo của bực thánh: người lìa bỏ tất cả sự tướng, ở nơi

tướng mà lìa tướng, ở nơi không mà lìa không, nên gọi là thánh nhân.

5. Vô Thường: Đối với Niết Bàn là thường, mà cho là vô thường.

6. Vô Lạc :Đối với Niết Bàn là vui, mà cho là vô lạc.

7. Vô Ngã :Đối với Niết Bàn là chơn ngã, mà cho là vô ngã.

8. Vô Tịnh :Đối với Niết bàn là thanh tịnh, mà cho là vô tịnh.

Như Lai nói các đức Phật chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra

nơi đời. Vậy nhơn duyên lớn đó là nhơn duyên gì? Đó là tri kiến Phật. Bởi tất cả

các pháp đều do nhơn duyên sanh thời các pháp cũng tùy nhơn duyên khởi. Chúng

sinh do có vọng tâm nên bị vô minh che khuất và bị vướng vào ngã tướng. Vì bởi

chúng sanh không từ nơi tướng lìa được tướng, không từ nơi không lìa được

không, cho nên vọng niệm, mê chấp bùng khởi. Từ đó chúng sanh không biết rằng

148 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

có Phật tại tâm. Tri kiến Phật, phải tri kiến bổn tâm. Muốn tri kiến bổn tâm trước

hết phải khai mở tri kiến tâm, chỉ rỏ tri kiến tâm, nhận ra tri kiến tâm, cho tới lúc

tâm đã hiển bày tự tánh rồi thì nhập vào tri kiến tâm.

Tri kiến tâm, tâm thường sinh trí tuệ, chẳng sanh, chẳng diệt có thể

cầu đạo Vô thượng Bồ đề.

Trước khi chấm dứt thời thuyết pháp, Như Lai liền nói bài kệ:

6.- Từ ta thành Phật lại

Trải qua các kiếp số

Vô lượng trăm nghìn muôn

A tăng kỳ ức năm

Thường nói pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sanh

Khiến vào nơi Phật đạo

Đến nay vô lượng kiếp

Vì độ chúng sanh vậy

Phương tiện hiện Niết Bàn

Mà thiêt chẳng diệt độ

Thường trụ đây nói pháp

Ta thường ở nơi đây

Dùng các sức thần thông

Khiến chúng sanh điên đảo

Dầu gần mà chẳng thấy

Chúng thấy ta diệt độ

Rộng cúng dường xá lợi

Thảy đều hoài luyến mộ

Mà sanh lòng khát ngưỡng

Chúng sanh đã tín phục

Ngay thiệt ý dịu hòa

Một lòng muốn thấy Phật

Chẳng tự tiếc thân mạng

Giờ ta cùng chúng sanh

Đều ra khỏi Linh Thứu

Ta nói với chúng sanh

Thường ở đây chẳng diệt

Vì dùng sức phương tiện

Hiện có diệt chẳng diệt

Nước khác có chúng sanh

149 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lòng cung kính tín nhạo

Ta ở lại trong đó

Chỉ nói ta diệt độ

Ta thấy các chúng sanh

Chìm ở trong khổ não

Nên chẳng vì hiện thân

Cho kia sanh khát ngưỡng

Nhơn tâm kia luyến mộ

Hiện ra vì nói pháp

Sức thần thông như thế

Ở trong vô số kiếp

Thường tại núi Linh Thứu

Và các trụ xứ khác

Chúng sanh thấy tận kiếp

Lúc lửa lớn thiêu đốt

Cõi ta đây yên ổn

Trời người thường đông dầy

Vườn rừng các nhà gác

Những món báu trang nghiêm

Cây báu nhiều bông trái

Chỗ chúng sanh vui chơi

Các trời đánh trống trời

Thường trổi những kỷ nhạc

Rưới bông mạn đà la

Rải Phật và đại chúng

Tịnh độ ta chẳng hư

Mà chúng thấy cháy rã

Lo sợ các khổ não

Như thế đều đầy dẩy

Các chúng sanh tội đó

Vì nhơn duyên nghiệp dữ

Quá a tăng kỳ kiếp

Chẳng nghe tên Tam Bảo

Người nhu hòa ngay thiệt

Có tu các công đức

Thời đều thấy thân ta

Ở tại đây nói pháp

Hoặc lúc vì chúng này

Nói Phật thọ vô lượng

Người lâu mới thấy Phật

150 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì nói Phật khó gặp

Trí lực ta như thế

Huệ quang soi vô lượng

Thọ mạng vô số kiếp

Tu hành lâu cảm đặng

Các ông người có trí

Chớ ở đây sanh nghi

Nên dứt khiến hết hẳn

Lời Phật thiệt không dối

Như lương y chước khéo

Vì để trị cuồng tử

Thiệt còn mà nói chết

Không thể nói hư dối

Ta là cha trong đời

Cứu các người đau khổ

Vì phàm phu điên đảo

Thiệt còn mà nói diệt

Vì cớ thường thấy ta

Mà sanh lòng kiêu tứ

Buông lung ham ngủ dục

Sa vào trong đường dữ.

Phẩm Phân biệt công đức thứ mười bảy.

3.- Phật nói pháp ít có

Từ xưa chưa từng nghe

Thế Tôn có sức lớn

Thọ mạng chẳng thể lường

Vô số các Phật tử

Nghe Thế Tôn phân biệt

Nói đặng pháp lợi đó

Vui mừng đầy khắp thân

Hoặc trụ bực bất thối (100)

Hoặc đặng đà la ni (101)

Hoặc vô ngại nhạo thuyết (102)

151 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Muôn ức triền tổng trì (103)

Hoặc có cõi đại thiên

Số vi trần Bồ Tát

Mỗi vị đều nói được

Pháp luân bất thối chuyễn

Hoặc có trung thiên giới

Số vi trần Bồ Tát

Mỗi vị đều có thể

Chuyễn pháp luân thanh tịnh

Lại có tiểu thiên giới

Số vi trần Bồ Tát

Còn dư lại tám đời

Sẽ đặng thành Phật đạo

Lại có bốn, ba, hai,

Tứ thiên hạ như thế

Số vi trần Bồ Tát

Theo số đời thành Phật

Hoặc một tứ thiên hạ

Số vi trần Bồ Tát

Còn dư có một đời

Sẽ thành Nhứt thiết trí

Hàng chúng sanh như thế

Nghe Phật thọ dài lâu

Đặng vô lượng quả báo

Vô lậu rất thanh tịnh

Lại có tám thế giới

Số vi trần chúng sanh

Nghe Phật nói thọ mạng

Đều phát tâm Vô thượng

4.- Thế Tôn nói vô lượng

Bất khả tư nghị pháp

Nhiều được có lợi ích

Như hư không vô biên

Rưới hoa thiên mạn đà

152 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Hoa ma ha mạn đà

Thích, Phạm như hằng sa

Vô số cõi Phật đến

Rưới chiên đàn, trầm thủy

Lăng xăng loạn sạ xuống

Như chim bay liệng xuống

Rải cúng các đức Phật

Trống trời trong hư không

Tự nhiên vang tiếng mầu

Ao trời nghìn muôn thứ

Xoay chuyễn mà rơi xuống

Các lò hương đẹp báu

Đốt hương quí vô giá

Tự nhiên đều cùng khắp

Cúng dường các Thế Tôn

Chúng đại Bồ Tát kia

Cầm phan lộng bảy báu

Cao đẹp muôn ức thứ

Thứ lớp đến Phạm thiên

Trước mỗi mỗi đức Phật

Tràng báu treo phan tốt

Cũng dùng nghìn muôn kệ

Ca vịnh các Như Lai

Như thế các món việc

Từ xưa chưa từng có

Nghe Phật thọ vô lượng

Tất cả đều vui mừng

Phật tiếng đồn mười phương

Rộng lợi ích chúng sanh

Tất cả đủ căn lành

Để trợ tâm Vô thượng

153 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ mười tám.

Sau khi Phật diệt độ

Có người nghe kinh này

Nều hay tùy hỷ đó

Lại đặng bao nhiêu phước?

Truyện tích TRƯỞNG GIẢ A NAN. (Quả báo của kẻ hà tiện.)

Tương truyền rằng, thời ấy trong thành Sãvatthĩ có vị trưởng

giả tên là A Nan (Anandasetthivatthu), có đại gia sản đến tám trăm triệu

đồng vàng, nhưng lại có tiếng là Đại Hà Tiện.

Cứ mỗi kỳ nửa tháng, ông ta nhóm họp thân quyến một lần,

rồi trước mắt mọi người trong gia tộc, ông gọi công tử Tiền Tài

(Mũlasiri) là con trai ông, nhắc nhở rằng: “Chớ nên cho rằng tám trăm

triệu đồng vàng đây là nhiều rồi. Dầu có của cũng chẳng nên bố thí.

Hãy rán làm cho tiền của sanh lên mãi, dầu một đồng cũng chẳng nên

tiêu phí mà hao hụt gia tài.”

Ông nhắc nhở con trai ba lần như thế. Kế đó ông đọc luôn

bốn câu kệ:

Thấy những giọt thuốc hư

Mới góp chứa vào ổ

Cơm với chút mật dư

Hiền sĩ ngồi nhà độ.

Thời gian sau, không kịp chỉ năm hầm lớn tài sản của mình

cho con biết, ông trưởng giả A Nan hà tiện nhưng rất tự mãn ấy qua đời.

Tâm thức của ông tái sinh vào lòng một phụ nữ chiên đà la (giai cấp

cùng đinh ở An Độ thời xưa), cư ngụ trong một làng nhỏ ngoài cổng

thành Sãvatthĩ.

154 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Quốc vương hay tin ông A Nan từ trần, bèn triệu công tử

Mũlasari vào bệ kiến rồi phong chức trưởng giả cho công tử.

Một ngàn gia đình chiên đà la vẫn cùng nhau làm thuê, làm

mướn chung quanh để sống qua ngày. Nhưng từ lúc ông trưởng giả hà

tiện tái sinh vào giòng họ thì họ không còn tìm được việc làm như trước

nữa, dầu chỉ là một việc làm chỉ trả công bằng một bửa cơm, họ bàn

rằng: “Chúng ta ngày nay đi xin việc làm để kiếm ăn cũng không có,

chắc là trong bộ lạc của chúng ta có những kẻ xui xẻo ở chung.”

Họ bèn chia làm hai nhóm, lựa chọn lần lần để loại ra kẻ hắc

vận. Khi loại đến cặp vợ chồng là cha mẹ của đức bé ấy, thì họ biết rằng

“Trong gia đình này có kẻ xui xẻo sanh ra”. Họ bèn đuổi người đàn bà

đang mang thai ra khỏi bộ lạc. Người phụ nữ này ngày nào còn đang

mang thai thì ngày ấy công việc kiếm ăn càng vất vả, lang thang lây lất

trong cuộc sống cho đến lúc sanh ra một đứa con trai. Đứa bé này tay

chân vẹo vọ, mắt lé, mũi và miệng đều không nằm đúng vị trí thông

thường. Với hình dung cổ quái như ngạ quỉ, trông nó xấu không thể

tưởng tượng được. Tuy nhiên mẹ nó không bỏ rơi nó. Tình thương của

người mẹ đối với đứa con ruột do mình sanh ra quả thật là đậm đà, mãnh

liệt.

Phụ nữ nuôi đứa con này cũng gặp nhiều khó khăn, ngày nào

bà đem nó theo là ngày đó bà chẳng kiếm được chút chi cả. Còn bỏ nó

lại nhà đi một mình thì ngày ấy bà tìm được việc làm có miếng ăn.

Đến khi đứa bé trọng tuổi, có thể ôm bát đi xin ăn, tự nuôi

mạng sống được thì bà mẹ trao cho đứa con cái bát và bảo: “Con à, cha

mẹ vì con mà phải đau khổ ê chề, bây giờ không nuôi nỗi con nữa.

Trong thành này, người ta có thí cơm cho những người bần cùng hành

khất. Vậy con hãy vào đó đi xin ăn mà nuôi mạng.” Nói rồi bà mẹ thả

con đi một mình.

Lần theo từng nhà đi xin ăn, đứa bé đi đến xóm, nơi nó ở

trong tiền kiếp là trưởng giả A Nan. Đến đây thấy lại được cảnh cũ, nhớ

155 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lại được chuyện xưa, bèn xăm xăm đi ngay vào nhà của nó. Qua ba từng

cửa cổng, không một ai lưu ý đến nó, đến từng cổng thứ tư, đứa con trai

nhỏ của trưởng giả Mũlasari trông thấy nó hoảng sợ khóc thét lên.

Khi ấy các gia nhân của ông trưởng giả đuổi nó “Đi ra, đồ

hắc ám”.

Họ còn đánh đập và ôm đứa bé ăn mày ném lên đống rác.

Bấy giờ đức Bổn Sư cùng với Đại đức A Nan Đà là vị sa môn thị giả,

ngự đi trì bình, cũng vừa đến nơi đó. Đức Bổn Sư nhìn Đại đức, Đại đức

bạch hỏi nguyên do. Đức Bổn Sư giải rỏ câu chuyện tái sanh của ông A

Nan hà tiện.

Đại đức bảo gia đình đi mời trưởng giả Mũlasari đến. Đại

chúng thấy lạ nên tụ lại xem rất đông. Đức Bổn Sư gọi trưởng giả

Mũlasari và hỏi:

_“Ông có biết đứa bé ấy chăng?”.

_ “Thưa. Tôi không biết.”

Đức Bổn Sư chỉ ngay rằng: “Nó là trưởng giả A Nan, cha

của ông kiếp trước đó.”

Thấy trưởng giả Mũlasari chưa tin lời, đức Bổn Sư bảo đứa

bé ăn mày:

_“Này trưởng giả A Nan, ông hãy chỉ chỗ năm hầm đại tài sản đã

chôn cho con trai ông đi.”

Sau khi đứa bé chỉ năm hầm của ông đã chôn giấu, ông

Mũlasari hết sức tin tưởng nơi đức Bổn Sư, nên ông xin quy y với ngài.

Đức Bổn Sư nhân cơ hội ấy, thuyết pháp đến ông Mũlasari,

rồi Ngài đọc lên kệ ngôn rằng:

“Người ngu chấp ngã tự hào

Đây con, đây của ta đào tạo ra

Nhưng không biết chính mình ta

Còn không tự chủ, huống là của, con”.

Thời pháp vừa dứt, tám muôn bốn ngàn chúng sanh giác ngộ

chánh pháp. Đại chúng dự thính cũng được hưởng nhiều lợi ích.

Kinh Pháp Cú.

156 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC thứ mười chín.

Pháp sư không hẳn là người xuất gia, người tại gia cũng có

thể làm pháp sư. Pháp sư là người hiểu biết rộng rải về kinh Diệu Pháp

Liên Hoa, là người thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn giải, ấn tống kinh

đến với mọi người. Pháp sư là người nổ lực truyền dẫn kinh Pháp Hoa từ

thấp lên cao, từ sơ đến thâm sâu, từ mê đến ngộ với mục đích là cùng

nhau tới cảnh Phật trí. Pháp sư cũng là người tùy hỷ công đức, là người

thừa hành lời Phật dạy.

Trong phẩm PHÁP SƯ thứ mười, đức Phật nói với Ngài

Dược Vương đại Bồ Tát: “Dược Vương! Có người đọc tụnh kinh

Pháp Hoa phải biết người đó dùng sức trang nghiêm của Phật tự

trang nghiêm mình, thời được Như Lai dùng vai mang vác. Người

đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chấp tay

cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Người đó hoan

hỷ nói pháp liền đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phẩm PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC đức Phật nói với Ngài Thường

Tinh Tấn đại Bồ Tát rằng: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ

trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên

chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai

trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai

trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai

trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu

căn đều được thanh tịnh.”

Ngôn ngữ diễn tả trong đoạn kinh trên tưởng như là hư cấu,

trừu tượng. Càng thâm sâu diệu pháp, chúng ta càng thấy hiển lộ sự

“Không tướng” của bổn kinh, mà đã không tướng thì tức là thực tướng,

đã là thực tướng thì không còn hư cấu, không còn trừu tượng.

Pháp sư thọ trì, đọc tụng, diễn giải, biên chép kinh Pháp Hoa

là người giữ giới hạnh để đặng sáu căn thanh tịnh: nhãn căn thanh tịnh,

157 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nhĩ căn thanh tịnh, tỉ căn thanh tịnh, thiệt căn thanh tịnh, thân thể thanh

tịnh, tâm ý thanh tịnh. Đức Phật nói tiếp:

“Thiện nam tử và thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn thanh

tịnh của cha mẹ sinh ra thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong

ngoài có những núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A tỳ, trên

đến cõi trời Hửu đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và

nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy hết.”

Đức Thế Tôn liền tuyên đọc bài kệ:

2.- Nếu người ở trong chúng

Dùng tâm không sợ sệt

Nói kinh Pháp Hoa này

Ông nghe công đức đó

Người đó được tám trăm

Công đức thù thắng nhãn

Do dùng đây trang nghiêm

Mắt kia rất thanh tịnh

Mắt thịt cha mẹ sanh

Thấy cả cõi tam thiên

Trong ngoài núi Di Lâu

Núi Tu di Thiết vi

Và các núi rừng khác

Biển lớn nước sông ngòi

Dưới đến ngục A tỳ

Trên đến trời Hửu đảnh

Chúng sanh ở trong đó

Tất cả đều thấy rỏ

Dầu chưa đặng thiên nhãn

Sức nhục nhãn như thế.

Hai câu đầu của bài kệ, đức Phật nói: “Nếu người ở trong

chúng, dùng tâm không sợ sệt.” Tức là tâm vô sở úy. Có nghĩa là Bồ

Tát muốn diễn nói kinh Pháp Hoa phải dùng tâm vô sở úy, hiên ngang

158 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lên pháp đàn, trước mặt chúng không sợ, phải tự tin mình một cách

nghiêm túc, và rồi tùy phương tiện giảng nói pháp.

Cụm từ “vô sở úy” là danh hiệu của một vị Bồ Tát gồm có

bốn ý:

1. Vô sở úy tổng trì bất vọng: Không sợ thuyết giảng pháp nhờ đã

quan sát tất cả tánh, tướng, mọi vật trong ngoài, và mọi câu hỏi từ

thính chúng. Điều này quả thật không đơn giản. Bởi vì học giáo lý

đã khó, hiểu giáo lý lại càng khó, giảng giáo lý lại càng khó hơn,

nói pháp không run sợ càng khó vô cùng. Do nhờ nổ lực học tập

thông suốt, chỗ không hiểu thì tìm pháp sư giỏi hơn mình để hỏi,

kiên trì thuộc lòng bài giảng, tóm thâu các diệu lý vào tâm.

2. Vô sở úy tận tri pháp dược: Nhờ thông suốt nên mạnh dạng nói

pháp như chỗ không người. Nhờ nổ lực học hỏi nên hiểu biết các

xu hướng của mọi loài chúng sanh, mọi nguồn gốc khổ hại của

chúng sanh. Pháp sư lúc bấy giờ như một vi lương y đại tài, chỉ cần

nhìn thấy bịnh, kê toa cho thuốc, bịnh nhơn uống liền dứt hẳn.

3. Vô sở úy thiện năng vấn đáp: Pháp sư không sợ những câu hỏi từ

thính chúng. Nói pháp càng hay nhờ những câu hỏi đáp giữa pháp

sư và thính chúng. Câu hỏi đúng, lời đáp đủ và rỏ khiến cho buổi

nói pháp trở nên thân thiện và năng động, không buồn chán, cũng

nhờ pháp sư có kiến thức, năng lực thiện xảo, khéo léo dẫn dắt

những câu giải đáp trở thành bài học vào đời rất hợp với tâm thức

của thính chúng.

4. Vô sở úy năng đoạt vật nghi: Trong bài thuyết pháp có những câu,

những bài kệ, những đoạn mà thính chúng không hiểu được, còn

nghi hoặc, pháp sư tùy nghi giải đáp thoả đáng. Nhưng cũng có

trường hợp khi trả lời cho người này hiểu, thì người kia lại không

hiểu, có người cũng hiểu mà hiểu một cách khác, có người khác

hiểu mà lòng vẫn còn nghi. Pháp sư phải nhớ đến phẩm Dược

Thảo Dụ: “Pháp của Phật như nước mưa xối xuống mặt đất,

159 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

khắp nơi nhuần thấm, cây gốc nhỏ, cây gốc vừa, cây gốc lớn

đều cùng được hưởng.” Trong pháp hội cũng vậy, cũng có người

trí nhỏ, trí vừa, trí lớn, một bài pháp được giảng, mỗi người hiểu

một cách. Phải làm sao cách hiểu của mọi người tập trung vào một

đạo lý, làm sáng tỏ đạo lý của bài giảng tức là tôn trọng giáo lý

Phật đà.

Bốn vô sở úy trên dành cho bực tu hạnh Bồ Tát đạo. Biết

khiêm nhường, không hoảng sợ, lý giải lưu loát, thông suốt nội dung,

trưng bày thí dụ cụ thể rất đời thường, nổ lực không ngừng, lục căn

thanh tịnh, con đường Phật trí chỉ còn ở phía trước.

Con mắt nhờ thanh tịnh, dù là mắt thịt cha mẹ sanh ra cũng

được mở thông nhìn xa, trông rộng, thấy từ trên cõi trời Hửu đảnh, đến

dưới cảnh địa ngục A tỳ, nghiệp nhơn, quả báo bao đời trước cũng đều

thấy rỏ mà không có điều gì cản ngại. Tuy mắt nhìn xa trông rộng như

vậy, nhưng chỉ nhìn được mặt trước, mặt sau không thấy gì. Tuy là mắt

thanh tịnh nên cũng còn hạn chế tầm nhìn do bởi thiếu ánh sáng, còn hạn

chế tư duy do mắt nhìn cảnh quang không được toàn diện, đó là khuyết

điểm của mắt nên chỉ được xếp có tám trăm công đức.

Trong câu truyện tích về Lục Tổ Huệ Năng (xem tr.329 tập

1) có mẫu chuyện về gió và phướng, xin kể lại như sau: “Hôm ấy pháp

sư An Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài,

gió thổi lá phướng phất phơ qua lại. Hai ông tiểu hòa thượng lấy đó làm

đề tài tranh luận. Người bảo “phướng động”, người bảo “gió động”, bàn

qua cải lại mà không ngã lẽ, Sư đến thưa: “Có thể cho khách cư sĩ này

lạm bàn chăng?” Hai ông đồng ý. Sư bảo: “Không phải phướng động,

không phải gió động, mà tâm nhơn giả động.”

Một ông do mắt nhìn thấy lá phướng phất qua phất lại mà nói

là phướng động. Một ông do mắt nhìn thấy lá phướng phất qua phất lại

thì cho là nhờ có gió, nếu không có gió thổi lá phướng đâu phất qua phất

lại. Cả hai ông đều có nhận xét đúng theo tầm nhìn của mình, nhưng chỉ

160 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đúng ở một gốc cạnh, không đúng toàn diện, nếu không có Lục Tổ can

thiệp kịp thời, hai ông đạo này sẽ cải lý suốt đời cũng không dừng lại.

Nhục nhãn là cách nhìn sự vật của một người bình thường,

hay còn goi là phàm phu tục tử, chỉ có thể nhận thức các tướng của sự

vật qua hình thái, thường thì phiến diện và sai lầm. Ngài Lục Tổ Huệ

Năng nhờ tu nhiều kiếp căn lành, nên ngài có huệ nhãn, nhận rỏ thực

tính của sự vật và tướng trạng thực sự của nó. Một người có huệ nhãn

quán sát các sư vật để tìm thấy chân tướng của sự vật mà người thường

không thể nhìn thấy. Huệ nhãn của nhà khoa học khi nhìn vào vũ trụ

thấy mọi sự vật tồn tại đều có liên quan mật thiết với nhau. Huệ nhãn

của nhà tu hành thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều vô thường.

Đức Phật nói tiếp: “Dùng tai thanh tịnh đó nghe khắp cõi

tam thiên, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến trời Hửu đảnh, trong

ngoài các thứ, lời lẽ giọng tiếng:

- Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu.

- Tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng cười, tiếng nói, tiếng

trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi

pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng

đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa.

- Tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh.

- Tiếng Trời, tiếng Rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thác bà, tiếng

A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu la già.

- Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió.

- Tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ.

- Tiếng Tỳ kheo, tiếng Tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích

chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.”

161 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ý nghĩa trên được gom lại qua bài kệ:

4.-Tai cha mẹ sanh ra

Trong sạch không đục nhơ

Dùng tai thường này nghe

Cả tiếng cõi tam thiên

Các tiếng tăm trong ngoài

Dưới đến ngục A Tỳ

Trên đến trời Hửu đảnh

Đều nghe tiếng tăm kia

Mà chẳng hư nhĩ căn

Vì tai kia sáng lẹ

Đều hay phân biệt biết

Người trì kinh Pháp Hoa

Dầu chưa đặng thiên nhĩ

Chỉ dùng tai sanh ra

Công đức đã như thế.

Lổ tai nhờ thanh tịnh nên mở thông nghe đủ các loại tiếng

tăm trên khắp hoàn cầu, tiếng các loài động vật, tiếng của người, trời,

thần, thánh, Bồ tát, Phật, tiếng rên than thảm thiết ở cõi địa ngục. Vì tai

nghe không hạn chế, nên được hưởng một ngàn hai trăm công đức.

Ngài Lục Tổ Huệ Năng nhờ đắc được pháp nhĩ, nên khi nghe

tiểu tăng đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú (Lục Tổ không biết chữ)

ngài phát hiện bài kệ có vấn đề, nên nhờ quan Biệt Giá viết giùm ngài

bài kệ khác để thay thế:

Bồ đề vốn chẳng phải cây

Gương sáng cũng chẳng phải đài

Xưa nay vốn không một vật

Chỗ nào bám được bụi nhơ.

Đức Phật nói tiếp:

162 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Dùng tỉ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi tam thiên đại

thiên, trên dưới, trong ngoài các thứ mùi:

-Mùi bông tu mạn na, mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi

bông chiêm bặt, mùi bông ba la la, mùi bông sen đỏ, mùi bông sen

xanh, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái.

- Mùi chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la bạt, mùi đa dà

la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là

hương xoa.

- Mùi dê, mùi ngựa, mùi trâu, mùi voi.

- Mùi trai, mùi gái, mùi đồng tử, mùi đồng nữ.

- Mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần hoặc xa, mùi cây ba lợi chất

đa la, cây câu bệ đà la, mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la,

bông mạn thù sa, bông đại mạn thù sa.

- Mùi các vị trời Thích Đề Hoàn Nhơn, trời Phạm thế, trời

Hửu đảnh, mùi Thanh văn, mùi Bích chi Phật, mùi Bồ tát, mùi nơi

thân các đức Phật.”

Đức Thế Tôn trùng tuyên lại bài kệ:

6.-Người đó mũi thanh tịnh

Ở trong thế giới này

Hoặc vật thơm hoặc hôi

Các thứ đều nghe biết

Người trì kinh nghe mùi

Đều biết ở tại đâu

Bồ Tát chí bền chắc

Ngồi thiền hoặc đọc tụng

Hoặc vì người nói pháp

163 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nghe mùi đều biết được

Nơi nơi chỗ Thế Tôn

Được mọi người cung kính

Thương chúng mà nói pháp

Nghe mùi đều biết được

Chúng sanh ở trước Phật

Nghe kinh đều vui mừng

Đúng pháp mà tu hành

Nghe mùi đều biết đặng

Dầu chưa đặng vô lậu

Pháp sanh tỷ Bồ Tát

Mà người trì kinh đây

Trước đặng tướng mũi này.

Người thanh tịnh có lổ mũi mở thông, nhận ra các thứ mùi

trong vũ trụ đều có thể phân biệt mà không hư tỉ căn, nhận biết các

chúng sanh đang ở đâu và làm gì mà không lầm lẫn. Đánh hơi được các

báu vật chôn giấu ở đâu, từ lòng đất hay trong biển thẩm sâu. Dùng mũi

nghe được thai nhi trong bụng mẹ là trai hay gái, sanh ra lớn lên làm gì,

mạng số cùng đinh hay giàu sang thế phiệt. Cũng với lổ mũi đó ngữi

được mùi hương các vị trời lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi,

hoặc là lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời đao lợi khác mà nói

pháp. Lổ mũi tuy cảm thọ được nhiều như vậy nhưng cũng còn hạn chế,

do hít thở có độ lượng, nhịp nhàng, không sâu hơn, không dài hơn,

không ngắt đoạn, cho nên chỉ được xếp có tám trăm công đức.

Nói về lổ mũi xin trích đăng một mẫu chuyện nhỏ trong kinh

Na Tiên Tỳ kheo:

NGƯNG HƠI THỞ.

Vua hỏi:

“Bạch Đại đức! Các sa môn trong hàng ngũ của Đại đức bảo rằng

họ có thể ngưng hơi thở. Làm sao ngưng được?”

164 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Thưa có. Tâu Đại vương! Đại vương đã từng nghe người ngũ

ngáy chưa?”

“Tôi có nghe.”

“Khi trở mình người ấy ngưng ngáy phải không?”

“Thưa phải.”

“Đấy. Đại vương thấy chưa, người thường chưa từng học đạo,

chưa chế phục được tác động của thân và khẩu, mà chỉ bằng một cái trở

mình cũng đủ ngưng được tiếng ngáy. Huống là người đã dày công tu

luyện, từng khắc phục được tác động của thân và khẩu, đã quy nhứt

được cái tâm, đã chứng được phép tứ thiền, mà lại không ngưng được

hơi thở hay sao?”

Đức Phật nói tiếp:

“Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng

thiện nữ nhơn thọ trì kinh này hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói,

hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm thiệt công đức. Những

món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát ở

trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên

trời, không món nào là chẳng ngon.

“Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ

diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng,

sướng thích.

“Lại các vị Thiên tử, Thiên nữ, các Trời Thích Phạm

nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luận thứ đệ thảy đều

đến nghe. Và các hàng Long, Long nữ, Dạ xoa, Dạ xoa nữ, Càn thác

bà, Càn thác bà nữ, A tu la, A tu la nữ, Ca lâu la, Ca lâu la nữ,

Khẩn na la, Khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hầu la dà nữ, vì để

nghe pháp mà đều đến gần gủi cung kính cúng dường.

“Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Quốc

vương, Vương tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyễn luân vương,

165 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đại Chuyễn luân vương (104)

, bảy báu, nghìn người con cùng quyến

thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.

“Vì vị Bồ Tát này khéo nói pháp, nên hàng bà la môn, cư

sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Lại các

Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy

người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phía đó nói

pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra

tiếng pháp sâu mầu.”

8.- Người đó lưỡi thanh tịnh

Trọn không thọ vị xấu

Người đó ăn uống chi

Đều biến thành cam lộ

Dùng tiếng hay thâm tịnh

Ở trong chúng nói pháp

Đem các nhơn duyên dụ

Dẫn dắt lòng chúng sanh

Người nghe đều vui mừng

Bày đồ cúng dường tốt.

Cái lưỡi nhờ thanh tịnh mà mở thông, các món ăn vật uống

khi được đưa vào miệng đều hóa ra thơm ngon, ngọt bùi. Cái lưỡi khiến

nói ra lời gì cũng là lời giáo dục cho mọi người, cái lưỡi đó nói pháp rất

thông suốt, thính chúng nghe xong thấy trong lòng được giải thoát khỏi

phiền muộn, dùng cái lưỡi để ca ngâm khen ngợi những bài kệ trong

kinh Pháp Hoa, người nghe vui mừng khôn xiết, vì vậy cái lưỡi đươc

xếp vào hạng một ngàn hai trăm công đức.

NÓI NHIỀU CÓ HẠI.

Lúc ấy Phật ngự tại xứ Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô

Độc. Nhơn chuyện thầy Kokâlika, Phật phán rằng: “Nó chết là tại nó lếu

166 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

láo đó, không phải mới lần này mà nó bị hại về cái lưỡi của nó đâu, thuở

trước, nó đã bị như vậy rồi.” Phật bèn đem truyện tích xưa thuật lại như

sau.

“Thuở xưa, lúc vua Brahmadatta ở ngôi tại thành Ba la nại.

Bồ Tát giáng sanh vào một nhà quan cận thần thế tộc. Khi đúng tuổi

ngài sung chức Đại thần Tể tướng lo về chánh trị và tôn giáo. Lúc ấy

vua có tật nói quá nhiều. Hể vua nói thì không còn biết nhường lời cho

ai nữa. Bồ Tát muốn làm cho vua hết tật ấy đi. Ngài đang suy nghĩ để

tìm phương thế chữa trị cho vua.

“Thuở ấy tại miền Hy mả lạp sơn (hymalaya) có một con rùa

ở dưới một cái hồ. Hai con vịt trời kia, nhơn khi đi kiếm ăn, làm quen và

thành ra thân thích với rùa. Cùng nhau đã thành bậu bạn, vịt nói với rùa

rằng: “Chị ơi! Trên vùng Hy mả lạp sơn có một đỉnh núi đẹp gần một hố

vàng. Ấy là chỗ hai em ở. Chỗ đó ở sướng lắm, chị hãy lên đó ở với hai

em.”

Rùa nói: “Làm sao chị đi với hai em được?”

Vịt trời kia đáp: “Hai em đem chị đi. Nhưng chị phải ngậm

miệng, không được nói năng với ai hết.”

Rùa hớn hở nói: “Được mà, chị biết giữ gìn, hai em cứ đem

chị cùng đi với.”

“Hai con vịt đưa một cái cây cho rùa ngậm, chúng nó lấy mỏ

cắn hai đầu cây và bay đi trên không. Vịt bay rất mau ngang thành Ba la

nại, một lũ trẻ thấy rùa nhờ hai con vịt đưa đi, cùng nhau la rằng: “Coi

kìa! Hai con vịt dùng một khúc cây mà đem con rùa đi.”

Rùa liền nói: “Hai em ta đưa ta đi như vầy, can hệ gì tới bây,

hởi lũ trẻ ác.”

167 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lúc ấy vịt trời bay ngang đền vua, vì rùa nhả khúc cây mở

miệng ra nói, nên bị rơi xuống trước đền vua và vở ra làm đôi. Quần

thần lấy làm lạ hô hoán lên rằng:

“Có một con rùa rớt trước đền vua và vở ra làm hai.”

Vua cùng Bồ Tát, quần thần ngự ra xem con rùa. Vua hỏi Bồ

Tát rằng:

“Này hiền thần, con rùa ấy làm gì mà rớt nằm ở đó?”

Bồ Tát nói một mình: “Lâu nay ta đương kiếm một lời hay để

thức tỉnh vua. Ta biết con rùa này làm bạn với hai con vịt trời. Hai con

ấy rũ nó đi chơi trên miền Hy mả lạp sơn. Nó nghe theo và đeo lấy một

khúc cây, nhờ vịt cắn hai đầu cây bay đưa đi.Rủi nó nghe người ta la, nó

không chịu ngậm miệng, buông khúc cây và rớt xuống chết tươi.” Đoạn

ngài tâu rằng: “Tâu bệ hạ, những kẻ không biết giữ gìn lời nói, thường

gặp nạn chết luôn.” Kế ngài ngâm bài kệ rằng:

Rùa kia số chết chỉ vì mình

Thì nói làm chi lúc nín thinh

Trước đã miệng kềm cây chắc chắn

Sau vì chút lưỡi phải tan tành

Lấy đó làm gương để giữ mình

Rày ta khéo nói hoặc làm thinh

Thân rùa đã nát danh còn xấu

Mắc bịnh, kìa ai khó giảng minh.

Vua nghe xong, tự nói thầm rằng: “Thượng quan nói thế là

nhắm ngay ta đó.”

Vua bèn phán lớn lên rằng: “Hiền thần muốn nói để ta biết

vậy.”

168 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bồ Tát giảng rằng: “Tâu bệ hạ! Dầu cho bệ hạ hay người

nào khác mà nói quá nhiều, đều phải gặp nạn như thế.”

Từ đó đến sau, vua hết ham nói và nói ít.

Phật giảng hết bài kinh Bổn Sanh, mới kết thúc rằng: “Con

rùa thửơ ấy, nay là thầy Kokâlika bây giờ. Hai con vịt là hai người đệ tử

lớn của ta. Nhà vua là A Nan đây, và hiền thần Bồ Tát chính là ta vậy.”

Trích kinh Bổn Sanh.

Đức Phật nói tiếp:

“Đặng thân thanh tịnh như lưu ly sạch, chúng sanh ưa

thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam thiên đại

thiên, lúc sanh, lúc chết, trên dưới tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ

v…v… đều hiện rỏ trong đó.”

10.- Nếu người trì Pháp Hoa

Thân thể rất thanh tịnh

Như lưu ly sạch kia

Chúng sanh đều ưa thấy

Lai như gương sáng sạch

Đều thấy các sắc tượng

Bồ Tát nơi tịnh thân

Thấy cả vật trong đời

Chỉ riêng mình thấy rỏ

Người khác không thấy được

Trong cõi nước tam thiên

Tất cả các chúng sanh

Trời, người, a tu la

Địa ngục, quỉ, súc sanh

Các sắc tượng như thế

Đều hiện rỏ trong thân.

169 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Cái thân thanh tịnh nên trong suốt như pha lê, thấy rỏ trong

đó hiện ra núi Thiết vi, núi đại Thiết vi, núi Di lâu, núi đại Di lâu, các

núi cùng chúng sanh trong đó đều hiện rỏ trong thân, dưới đến địa ngục

A tỳ, trên đến trời Hửu đảnh. Hoặc là Thanh văn. Duyên giác, Bồ tát

cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân. Dù cái thân

trong như gương đó hiện lên đủ loại chúng sanh, nhưng chỉ xếp hạng có

tám trăm công đức.

THÂN THỂ VÀ TÂM THỨC.

Cái thân này có hiệp, có tan, không thể giữ mãi được. Chúng

sanh còn trong vòng luân hồi, mất thân này liền chụp vào thân khác, tùy

theo quả báo mà thay đổi thân không nhàm chán. Người biết tu, biết cái

thân này do tứ đại kết hợp lại mà thành, lại do tiền căn kiếp trước ăn ở

lành dữ ra sao mà cho cái thân xấu hay tốt, cái thân nhìn qua đã mến

hoặc cái thân mới liếc sơ đã ghét. Đối với người tu hành phải giữ sao

cho cái thân thanh tịnh, làm sao cho cái thân này mất đi là thoát ra vĩnh

viễn, tức là không còn sanh tử.

Kinh Phật thuyết giảng rằng thân xác là bất tịnh, là vô

thường, nghe như vậy không lẽ chúng ta cho rằng thân thể không quan

trọng? Hành khổ xác thân để trở nên tiều tụy, khô héo? Quán thân bất

tịnh là sao? Chúng ta quán sát thân thể này sẽ thấy rỏ năm món không

sạch:

1. Chủng tử bất tịnh: Nghĩa là thân này được hình thành là do tinh

cha huyết mẹ, hai thứ trắng đỏ hòa hợp lại thành phôi.

2. Trụ xứ bất tịnh: Nghĩa là ở trong bụng mẹ, mười tháng tối tăm.

3. Tự thể bất tịnh: Nghĩa là có ba mươi sáu vật thể hòa hợp từ chân

tóc đến gan bàn chân đều không sạch. Bên ngoài có mười hai

phần: tóc, lông, móng, răng, mồ hôi, đại, tiểu, ghèn, mũi, đàm, dãi,

170 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nước miếng. Lại có mười hai phần bao bọc: da, da ngoài, huyết,

nhục, mở, đầu, óc, màng mỏng, xương, tủy, gân, mạch. Bên trong

gồm có mười hai phần: tim, gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ

dầy,sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng.

4. Tự tướng bất tịnh: Nghĩa là chín lổ thường chảy ra chất nhơ nhớp:

hai mắt chảy ghèn và nước mắt, hai tai đóng đầy cứt ráy, hai lổ

mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy đàm dãi, hậu môn xả ra phân

dơ, bộ sinh dục chảy ra nước khai hôi hám.

5. Cứu cánh bất tịnh: Nghĩa là khi thân hoại mạng chung thì thân thể

sình to, hôi thúi, không ai dám lại gần.

Tuy là quán sát thân thể bất tịnh như vậy, nhưng vì chúng ta là

những hành giả đã phát nguyện thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa há quên

rằng câu đức Phật phán “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, trong số chúng

sanh đó có phần của chúng ta. Cho nên khi nói đến Phật chính là chúng

ta đây, như vậy trong thân thể chúng ta đã có Phật. Vậy thì chúng ta phải

trân trọng, quí mến thân thể mình. Chúng ta phải tập yêu mình, yêu thân

thể mình, tức là ta yêu ông Phật trong thân thể mình, sau đó ta mới yêu

được người khác, giúp đở được người khác. Nhưng yêu thân mình bằng

cách nào? Không thể để nó tự do chạy theo năm món dục, làm ảnh

hưởng đến đạo đức, vì như vậy là tự hủy thân. Yêu thân mình tức là

chăm sóc sức khoẻ bản thân, có bịnh thì trị dứt, không để cho thân xanh

xao vàng vọt, bèo nhèo xơ xác. Chúng ta hãy nhìn một vị đạo cao đức

trọng, mà thân thể ốm yếu, lưng khòm, miệng móm, tay chân dẹo ngoe,

giọng nói rè rè khó nghe. Vị này vì cho xác thân là vô thường, bất tịnh,

lười biếng chăm sóc, không bằng đạo cao đức trọng mới là chính, từ đó

vị này không quan tâm chăm sóc đến thân thể, ăn ngày một bửa sơ sài,

thậm chí lười biếng ăn, vì vậy bịnh hoạn theo đó mà sinh ra, thật là đáng

tiếc!

Thân có tốt thì tâm mới sáng suốt. Chúng ta còn nhớ phẩm

Hiện Bửu Tháp thứ mười một không? Tôi xin nhắc lại:

171 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm

trăm do tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất nổi

lên trụ ở giữa hư không…Bấy giờ trong tháp báu vang ra tiếng lớn

khen rằng Hay thay! Hay thay Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Có

thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng mà nói kinh giáo Bồ Tát

Pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế Đúng thế! Đức

Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Như lời Phật nói đó đều là chơn thật.”

Chúng ta phải biết rằng bửu tháp trên chính là thân tứ đại của

chúng ta, tiếng vang ra từ trong tháp báu “hay thay, hay thay” chính là

tâm Phật bên trong thân thể chúng ta, biểu tượng của tâm Phật chính là

đức Đa Bảo Như Lai. Vậy trong thân thể chúng ta tâm Phật như thế nào?

Trong mỗi tâm thức của chúng ta đều có một vị Phật, phải quán sát thật

kỷ những đặc điểm sau đây thì sẽ thấy: không có ý tưởng gì cả, không

suy nghĩ, không tính toán, không buồn cũng không vui, không giận cũng

không hờn, không hơn ai mà cũng chẳng thua ai, không thương, không

ghét, không so đo, không đố kỵ, không phân biệt, không ghen tuông,

không ngạo mạn, không ham muốn, không hành động trái lẽ thường,

không tư duy làm tổn thương đạo v.v… Đó là tâm Phật, hết sức bình

yên, hết sức tỉnh lặng.

Chăm sóc bửu tháp như là chăm sóc chính thân thể ta, ca

ngợi đức Đa Bảo Như Lai như là ca ngợi tâm Phật của chính mình.

Trong kinh A Hàm có kể chuyện ông trưởng giả Cấp Cô Độc

đau nặng sắp chết, thân tứ đại bức ngặt đau nhức. Tôn giả Xá Lợi Phất

đến thăm hỏi và khuyên ông hãy cố gắng kham nhẫn chớ có lộ vẻ lo sợ.

Vì đương thời, trưởng giả có lòng tin sâu đậm ngôi Tam Bảo, tu nhiều

pháp lành như giữ gìn năm giới của Ưu bà tắc, tu thập thiện, hiểu sâu

chắc nghĩa lý Tứ Thánh Đế. Sau khi mạng chung chắc chắn sẽ được

sanh vào cõi trời Đao Lợi.

Nhơn đây xin kể lại một truyện tích nói về thân tứ đại trong

kinh Samyyutta Nikâya.

172 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Ta có nghe như vầy. Lúc ấy Phật ngự gần thành Xá Vệ,

trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Phật phán với chư tỳ kheo rằng: “Này

chư tỳ kheo! Dầu người dốt nát hay không nhập đạo cũng có thể chán

cái thân thể tứ đại này, không thèm ham mê nó và có thể dứt ra khỏi nó.

Vì làm sao vậy? Vì cái thân thể tứ đại này nó lớn lên, rồi trụ hình, kế thì

mòn mỏi cằn cội và sau rốt thì chết mất đi vậy. Đó là bốn sự tướng hiển

nhiên. Cho nên dù người dốt nát hay không nhập đạo cũng có thể chán

nó, không thèm ham mê nó và có thể dứt ra khỏi nó.

“Này chư tỳ kheo! Nhưng về phần cái mà ta gọi là tinh thần,

trí thức, tâm ý thì người dốt nát hay không nhập đạo không có thể biết

mà chán, không có thể biết mà chẳng ham mê và không có thể biết mà

dứt ra khỏi nó. Vì làm sao vậy? Vì từ bao giờ đến bây giờ, người dốt nát

hay không nhập đạo hằng ưa thích và nhìn nhận lẽ này “Cái này là của

tôi, tôi là cái này, cái này là tôi.” Bởi thế cho nên người dốt nát hay

không nhập đạo không có thể biết mà chán, không có thể biết mà chẳng

ham mê, và không có thể biết mà dứt ra khỏi nó.

“Nhưng tốt hơn là người dốt nát hay không nhập đạo nên

nhận rằng cái thân thể tứ đại như một Cái Ta, chớ không nên nhận nó

như tinh thần, tâm ý. Vì làm sao vậy? Vì ta biết rằng thân thể tứ đại này

hoặc sống một năm, hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm, mười năm,

hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm, một trăm

năm, hoặc lâu hơn nữa. Còn cái mà ta gọi là tinh thần, trí thức hay tâm

ý thì hoặc ngày đêm và luôn luôn, nó cứ hiện ra thế này rồi lại biến đi

thế khác.

“Này chư tỳ kheo! Đến đây nhà học đạo chân chánh và cao

thượng xét rất kỷ cái thuyết nhơn và quả: “Cái kia có thì cái này có, bởi

cái này có sanh ra, cái kia mới có sanh ra; các này không có thì cái kia

không có, bởi cái này dứt, cái kia mới dứt.”

“Này chư tỳ kheo! Bởi tiếp xúc với vật ưa thích, nên sanh ra

cái thọ cảm ưa thích. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với cái ưa thích,

thì cái thọ cảm sanh ra bởi cái tiếp xúc kia cũng hết đi. Bởi tiếp xúc với

173 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

vật mình ố kỵ, nên sanh ra cái thọ cảm ố kỵ. Nhưng đến khi không còn

tiếp xúc với vật mình ố kỵ thì cái thọ cảm kia cũng dứt ngay đi. Bởi tiếp

xúc với cái vật bơ thờ, không ưa không ố, nên sanh ra cái thọ cảm bơ

thờ. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với vật ấy thì cái thọ cảm kia

cũng dứt và hết đi vậy.

“Này chư tỳ kheo! Cũng như hai miếng cây cọ nhau và chạm

nhau cho nên mới nháng ra thành lửa. Đến khi người ta đem hai miếng

cây ra và để xa cách nhau, thì lửa sanh ra bởi hai miếng cây kia cũng

dứt và hết đi. Cái thọ cảm ưa thích cũng thế, nó sanh ra là bởi tiếp xúc

với vật mình ưa thích. Nhưng đến khi không còn tiếp xúc với vật ấy nữa

thì cái thọ cảm kia cũng dứt đi và không còn. Cái thọ cảm ố kỵ và cái

thọ cảm bơ thờ cũng hiện ra và tiêu tan như vậy. Mình còn tiếp xúc với

vật thì còn thọ cảm, hết tiếp xúc thì hết thọ cảm.

“Này chư tỳ kheo! Nhà học đạo chân chánh và cao thượng

đã hiểu như vậy, thì lấy làm chán cái thọ cảm, lấy làm chán cái tâm ý,

trí thức. Hể chán thì không còn ham mê. Và nhờ hết ham mê nên mới dứt

bỏ và giải thoát. Đến khi được giải thoát thì biết mình đã được giải

thoát, biết mình đã hết tái sanh, biết mình đã sống một cách thanh tịnh,

biết mình làm việc đáng làm và biết mình không còn dính dấp tới cõi

trần này nữa.”

Đức Phật nói tiếp:

“Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi đức Như Lai diệt độ,

nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc,

hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép thì đặng một nghìn hai

trăm ý công đức.

“Dùng ý căn thanh tịnh đó, nhẫn đến nghe một kệ, một

câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi có thể diễn

nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng, nhẫn đến một năm.

Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều cùng thiệt tướng chẳng trái

nhau.

174 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp

nuôi sống v…v… đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh

trong cõi tam thiên đại thiên, lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng hí

luận thảy đều biết đó.

“Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như

thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là

Phật pháp cả, không có gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh

các đức Phật thuở trước nói.”

Người trì kinh Pháp Hoa

Ý căn tịnh như thế

Dầu chưa đặng vô lậu

Trước có tướng dường ấy

Người có trì kinh này

An trụ bực hi hửu

Được tất cả chúng sanh

Vui mừng mà mến kính

Hay dùng nghìn muôn ức

Lời lẽ rất hay khéo

Phân biệt mà nói pháp

Bởi trì kinh Pháp Hoa.

Ý là động lực tư duy. Người giữ hạnh thanh tịnh, tâm ý được

mở thông sáng suốt, nghe thấy ít mà hiểu biết nhiều, chỉ đọc thoáng qua

một câu mà hiểu ra trăm nghìn ý. Những lời nói thông dụng hằng ngày,

hoặc diễn ra câu thơ, bài tứ cú kệ, câu vè, câu ca dao đều là những lời

giáo dục có ý nghĩa, những câu bài ấy đều thâm nhập đạo lý nhà Phật,

tác động vô cùng lớn lao đến người nghe.

Xin trích dẫn một số câu:

Tỷ trước chư hương, thiệt tham vị

Nhãn minh chúng sắc nhĩ văn thanh

175 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vinh vi lãng đãng phong trần khách

Nhật viễn gia hương, vạn lý trình.

(Bài kệ Tứ Sơn của vua Trần Thái Tông.)

Nguyễn Lang dịch:

Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng

Mắt theo hình sắc, mũi theo hương

Lênh lênh làm khách phong trần mãi

Ngày hết, quê xa vạn lý trình.

Một ngày không đọc sách, ngu ba năm.

Một tín đồ tôn giáo một ngày không đọc tụng kinh

chú hoặc tịnh niệm thì lú lẫn nhiều đời.

Sa Môn Thích Thông Bửu.

Người học cao hiểu rộng, mà không mang trí thức giúp ích cho đời thì

cũng giống như người nông dân đã cày xới mà không gieo hạt

Khổng Tử..

Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây đức để đời về sau.

Ca dao.

Gặp được người nói lời phải như bắt được vàng ngọc, châu báu.

Thấy được người nói điều phải, thì hay hơn thơ phú văn chương.

Nghe được người nói điều phải thì vui hơn nghe chuông trống, đờn ca,

cầm sắt.

Tuân Tử.

Ai ơi ăn ở cho lành

Kiếp này chẳng đặng hãy dành kiếp sau.

Ca dao.

Người quân tử có ba điều lớn chẳng nên không biết:

1. Lúc nhỏ chẳng học để lớn lên bất tài.

176 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

2. Khi già chẳng dạy cho người để khi chết không ai thương

nhớ.

3. Có của mà không bố thí để lúc nghèo không ai đến giúp.

Khổng Tử.

Lúc giàu thời chẳng giúp ai

Tới khi hoạn nạn chẳng ai giúp mình.

Ca dao.

Trót đời làm việc thiện, việc thiện còn chẳng đủ.

Một ngày làm sự dữ, sự dữ tự có dư.

Mã Viện.

Mặt trời, mặt trăng tuy sáng, chẳng soi được dưới chậu úp.

Cây đao, cây gươm tuy bén, chẳng chém được người vô tội.

Thái Công.

Một ngày không nghĩ đến điều thiện, mọi điếu ác tự đó dấy lên.

Trang Tử.

Ac không gì lớn bằng làm thỏa mãn cái dục vọng của mình.

Họa không gì to bằng cái tội hay nói xấu người khác.

Sách Cách ngôn.

Sư bà Đề hi ra (Dhira) là một tỳ kheo ni cần chuyên phận sự và chăm lo

đạo đức một cách vẻ vang, sau đó sư bà đã đắc đạo có để lại bài kệ sau

đây:

Tâm tình trau luyện bấy lâu nay

Đạo đức cao siêu đã đủ đầy

Còn một kiếp này mang lốt thịt

Kìa kìa giặc quỉ đã xa bay.

(giặc quỉ là các món tình dục, phiền não thường xuất hiện trong lúc

nhập định, phải kiên quyết diệt tận thời mới mong tới được bến bờ)..

177 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ni sư Sangha dứt bỏ nhà cửa, thân quyến đi tu, bà có làm bài

kệ:

Của tiền nhà cửa bỏ rồi

Thân bằng cố hửu cũng thôi chẳng gần

Con thơ đành hết quây quần

Ông bà, cha me, mộ phần đều xa

Một phen giũ sạch lòng tà

Dứt tình ham muốn, lìa mà nợ duyên

Nhờ nương đạo đức làm đèn

Tâm đà sáng rở, dục liền sạch tan

Từ đây là cảnh an nhàn

Trong lòng yên tịnh, Niết Bàn đâu xa.

BỒ ĐỀ HÀNH KINH.

Đông cung Thái tử Xăn ti đề Hoa (Cantideva) là con của đại

đế Hát sa (Harsha), thống lĩnh toàn cõi An độ vào thế kỷ thứ bảy. Lúc

bấy giở đại đế sắp sữa truyền ngôi cho vị Thái tử thông minh xuất chúng

này lên ngôi Hoàng Đế. Thái tử liền từ bỏ ngai vua, vì ngài nằm mộng

thấy đức Bồ Tát Văn Thù (Manjucri) và Phật bà Tãrâ hiện đến khuyên

ngài xuất gia. Ngài đi nhiều nơi, cố ý khảo cứu đạo đức. Ngài tu học rất

thâm diệu về lý nghĩa Đại thừa, tham thiền rất có hiệu lực. Trong lúc

thiền định, đức Bồ Tát Văn Thù thường hiện đến viếng ngài, hộ trợ ngài

và ban ân huệ cho ngài.

Sau ngài trở về xứ, lấy pháp hiệu là Cantideva. Ngài muốn

thử các vị sa môn, nên giả đò làm một thầy tăng biếng nhác, ham ăn

thích ngủ… Mọi người đều cho ngài là kẻ bất tài, nên không ai để ý tới,

lại còn coi rẻ là khác.

Một hôm, nhằm khi tăng chúng hội họp để giảng kinh, mọi

người đều phải đăng đàn thuyết pháp. Đến phiên ngài, người ta sẳn

178 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

muốn cười ngài dốt. Ngài lên pháp tòa, giữa các sư, ngài thuyết diễn Bồ

Đề Hành Kinh (Bodhicaryâvatâra), ngôn ngữ chính xác, nghĩa lý bao la,

ý tứ thâm diệu, từ bi làm sao, khiến cho mọi người đều thất kinh hồn vía,

và cảm phục, coi ngài như một vị Đại Bồ Tát.

Chính Bồ Đề Hành Kinh là một pho kinh rất huyền diệu về

Đại thừa, dắt dẫn về cách tu tâm, về sự sanh hoạt cao viễn và thanh tịnh,

và là một pho kinh có đủ những bài chỉ cho tín đồ coi theo mà thi hành

để đạt đến mục đích vẻ vang là Vô thượng Bồ đề. Kinh này dịch ra chữ

Hán hồi thế kỷ thứ mười, nhan đề Bồ Đề Hành Kinh. Học giả người

pháp tên là Louis Finot nương theo bổn chữ Phạn mà dịch ra chữ Pháp,

với tựa đề La Marche à la Lumière (bước đi đến cõi bồ đề). Sau đây xin

trích ra một ít đoạn:

*-Trong khi đêm hôm mây án làm cho cảnh trời thêm đen

mịch, nhưng một cái chớp làm cho cảnh sáng ra. Cũng như thế, nhờ oai

đức của Phật, có khi tư tưởng của con người ngừng nghĩ đến việc phải.

*-Nguyện trị cho một ít người hết bịnh nhức đầu đã được

công đức khá rồi. Huống chi muốn cứu nhơn sanh khỏi bể thảm mênh

mông và độ cho họ có tánh quí vô cùng vô tận.

*-Phiền não không ở trong vật, cũng như không ở trong ngũ

quan tri giác, hoặc trong khoảng cách hay ở chỗ nào, vậy chúng nó ở

nơi đâu mà khuấy rối cả hoàn cầu? Chẳng qua là bóng dáng đó thôi.

Tâm ơi! Ngươi đừng sợ chi hết, hãy rán mà theo trí huệ.

*-Dốc lòng thí cho chúng sanh mọi vật mình có, cho đến thí

luôn công đức của mình, như vậy mới thật là có nhơn đúng bực đó.

*-Tôi có thể làm mất gia tài, danh giá cho đến mạng sống

của tôi; chớ cái tâm lành của tôi không bao giờ tôi để cho nó mất.

*-Phiền não là lũ ăn cướp đi kiếm nẽo .Nếu kiếm được nẽo,

chúng nó sẽ bốc lột ta và phá nát phần phước của ta ở đời tới nữa. Vậy

179 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

ta phải để ý cho lắm đến chỗ cửa cái tâm mới được, cái ý chỉ ấy dang

xa, ta phải kéo nó lại liền.

*-Không nên ngó qua ngó lại vô ích, phải ngó mãi xuống

cũng như trong khi tham thiền. Phải giữ cho chính cái tâm, con voi dâm

dục ấy, đừng để nó sút dây chạy khỏi cây trụ này.

*-Một người ngủ chiêm bao, thấy mình sướng trăm năm, rồi

thức dậy. Một người khác cũng ngủ thấy mình sướng có một lát, rồi thức

dậy. Cả hai khi tỉnh giấc cái sướng đã biến mất. Cũng như vậy, đến giờ

chết, kẻ thọ và kẻ yểu đều như nhau.

*-Tinh tấn là gì? Là can đảm làm việc phải, phấn đấu,

chuyên cần, tỉnh trí giữ mình, biết mình như người, lật lấy của mình làm

của người, của người làm của mình, cái sướng của mình đem dâng cho

người, cái khổ của người mình vui lòng rước lấy, ấy là những bộ hạ của

đức tinh tấn. Những món nghịch của nó là gì Lười biếng, ham làm ác,

thối chí và tự chê mình.

*-Cũng như thuốc độc, nếu vào đến máu thì chạy khắp cả

mình, vậy cái tật xấu nếu nó gặp trớn, nó sẽ chạy khắp trong tâm.

Pháp sư trì giới, giữ hạnh thanh tịnh nghiêm túc, thời công

đức của lục căn mới phát dương viên dung. Pháp sư giữ gìn lục căn

thanh tịnh mà nhờ đó luồn điển lành trong cơ thể từ từ lướt lên, trải qua

các nơi trong thân mà làm cho sáng suốt, tinh anh có thể chứng đắc sáu

phép thần thông của chư Phật như:

- Thiên nhãn thông: Nhìn thấy thông suốt vô lượng kiếp quá khứ

của chúng sanh và con đường thác sinh ở thời tương lai, do nghiệp nào

chúng sinh sinh về cảnh giới nào.

- Thiên nhĩ thông: Nghe rỏ thông suốt không trở ngại các quốc độ

của chư Phật ở mười phương đang giảng pháp cho chư đại Bồ Tát và A

la hán.

180 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

- Tha tâm thông: Biết hết thảy không chướng ngại lòng dạ của mọi

chúng sanh.

- Thần túc thông: Cõi nào cũng đến đặng.

- Túc mạng thông: Biết rỏ vô lượng kiếp quà khứ của tự thân với

những nghiệp nhơn và nghiệp quả.

- Lậu tận thông: Đoạn tận tất cả lậu hoặc.

SÔNG HẰNG

Trong kinh Phật thường dùng cụm từ “Hằng hà sa số”,

“Nhiều như số cát sông Hằng” đế ám chỉ một con số không thể tính đếm

được. Vậy sông Hằng bắt nguồn từ đâu?

Theo thần thoại An Độ giáo, con sông Hằng chảy từ ngón

chân của thần Vishnu từ ở trên trời bị bắt buộc phải rời thượng giới

xuống trần để phục vụ cho người thế gian. Còn thực tế con sông Hằng

bắt nguồn từ dãy Hy mả lạp sơn do ba nhánh sông lớn, trong đó có một

nhánh phát xuất từ đỉnh Gangotri, cao 6771m, so với mặt nước biển, sau

đó cả ba nhánh hợp lưu tại Devaprayag thành sông Hằng vĩ đại, con

sông thiêng mà đức Phật thường nói đến trong kinh Pháp Hoa. Sông

Hằng chảy xuyên qua vùng thánh địa Bihar, nơi có nhiều thánh nhơn ra

đời hoạt động cứu nhơn loại, và chảy ra đến vịnh Bengale là điểm cuối.

Trong cuốn “Đại Đường Tây Vực Ký” ngài Huyền Trang

Đường Tam Tạng đã đến thăm sông Hằng vào năm 630, có viết một

đoạn như sau:

“Gần nguồn, sông rộng khoảng ba dặm, đến cửa sông bề

rộng khoảng mười dặm. Nước sông xanh đậm, màu nước luôn luôn thay

đổi. Dưới sông có nhiều loại tôm, cá, rắn, rồng rất lạ, nhưng hiền. Nước

181 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

sông ngọt và dịu lắm. Trong kinh sách bà la môn của người An Độ có

ghi rằng nước dưới sông này là thuốc trừ bịnh. Ai tắm sông này, người

đó sẽ rửa sạch mọi tội lỗi. Uống nước hay là rửa miệng thì không sanh

tai họa. Ai chết ở sông này, sẽ được sinh về cõi trời. Mỗi ngày người ta

lên xuống đông đặc chỗ bờ sông.

“Người đạo bà la môn quá tin như vậy, mà người đạo Phật thì

cho là những tín ngưỡng và thói tục dị đoan.

“Ngài Huyền Trang nói rằng, thuở xưa, có một lúc trai, gái,

già, trẻ đang quần tựu nhau tắm rửa dưới sông Hằng, bổng có một vị lão

tổ tên At đa Đề Hoa (Arya Deva) tổ sư thứ mưới lăm dám đến công kích

họ và cho là bọn mê tín.”

Một đoạn khác, trong cuốn ký sự du hành tại An Độ, Nguyễn

tường Bách viết:

“Đoạn này của sông Hằng mà tôi đến thăm lần đầu là thượng

nguồn sông Hằng, đó là nơi nước chảy với lưu lượng rất lớn, hai bên bờ

không hề có cát. Nước sông màu xanh lục, trên sông có chỗ nước sôi réo

bạc đầu. Đoạn sông Hằng này là nơi tấp nập người qua kẻ lại, du khách

khá nhiều. Đây được xem là một đoạn sông thiêng nhất. Hai bên bờ khá

nhiều đền thờ. Tín đồ An độ giáo tắm gội rất nhiều dù trời đang lạnh.

Thú vị thay khi thấy trẻ con bị cha mẹ dội nước lên đầu, chúng run cầm

cập. Người lớn xuống sông bơi lặn, nét mặt thành khẩn, miệng lâm râm.

Hai bên bờ sông, người ta xây kè xi măng với hàng chục dây xích sắt để

tín đồ níu lại, không bị nước cuốn trôi.

“Sau này tôi đến Varanasi, đó là một thành phố phồn vinh

suốt hai ngàn năm, nơi có sông Hằng chảy qua. Nơi đây tôi thấy cát, cát

nhiều vô tận. Có phải cát này cũng là cát mà đức Phật thấy cách đây hai

ngàn năm trăm năm không?

“Bên bờ Vanarasi người ta vẫn đốt xác, vẫn thả tro theo sông,

vẫn tắm gội, vẫn ngồi thiền định khi mặt trời vừa lên. Nơi đây chỉ cách

182 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

vườn Lộc Uyển, chỗ Phật giảng pháp lần đầu, chưa đầy chục cây số, chỗ

Phật giảng pháp lần đầu.”

183 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT thứ hai mươi.

Trước khi đức Phật thuyết phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát,

Thế Tôn nói với ngài Đắc Đại Thế đại Bồ Tát rằng:

“1.- Đắc Đại Thế! Ông nay nên biết! Nếu có tỳ kheo, tỳ

kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, đặng

công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý thanh

tịnh, như có người nói lời thô ác mắng nhiếc, chê bai, mắc tội lớn

cũng như trước đã nói.”

Thế rồi Thế Tôn liền kể lại cho ngài Đắc Đại Thế Bồ Tát

nghe qua công nghiệp quá khứ của Thế Tôn, lúc còn ẩn thân làm Bồ Tát

Thường Bất Khinh.

“2.- Đắc Đại Thế! Về thuở xưa quá vô lượng vô biên bất

khả tư nghị vô số kiếp, có Phật hiệu là Oai Am Vương Như Lai, Ứng

Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giãi,

Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế

Tôn.

“Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại Thành. Đức

Oai Am Vương Phật trong thời đó vì hàng trời, người, a tu la mà nói

pháp, vì người cầu Thanh Văn mà nói pháp Tứ Đế, thoát khỏi sanh,

già, bịnh, chết, rốt ráo Niết Bàn; vì người cầu Bích Chi Phật mà nói

pháp Mươi Hai Nhơn Duyên; vì các Bồ Tát nhơn Vô thượng Chánh

đẳng Chánh giác mà nói sáu pháp Ba La Mật rốt ráo trí huệ của

Phật.

“Đắc Đại Thế! Đức Oai Am vương Phật đó sống lâu bốn

mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp trụ ở đời kiếp

số như vi trần trong một diêm phù đề; tượng pháp trụ ở đời kiếp số

như số vi trần trong bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích chúng

sanh vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt hết,

trong cõi nước đó lại có Phật ra đời cũng hiệu là Oai Am Vương

184 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,

Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn

Sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều

đồng một hiệu.”

Đức Phật Oai Am Vương đầu tiên giảng pháp Tứ Thánh Đế

cho trời, người, a tu la, tất cả đều chứng ngộ bực Thanh Văn, thoát khỏi

sanh, già, bịnh, chết rốt ráo Niết Bàn. Vì người trời cầu Bích Chi Phật

nói pháp Mười Hai Nhơn Duyên, vì người trời cầu Bồ Tát đạo nói Sáu

Pháp Ba La Mật, rốt ráo đặng trí huệ của Phật. Đức Oai Am Vương Phật

thọ đến bốn mươi tỷ kiếp, trong thời gian đó đức Oai Am Vương Phật

thuyết pháp độ vô lương vô biên hằng hà sa chúng sanh đều quy về một

cội nguồn Phật trí, cho nên mới có hai mươi tỷ đức Phật lần lượt giáng

sinh cùng đồng một hiệu Oai Am Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh

Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,

Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.

Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni Phật nói tiếp:

“3.- Đức Oai Am Vương Như Lai dầu hết diệt độ rồi, sau

lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp, những tỳ kheo tăng

thượng mạn có thế lực lớn.

“Bấy giờ có vị Bồ Tát tỳ kheo tên Thường Bất Khinh. Đắc

Đại Thế! Vì cớ gì tên là Thường Bất Khinh? Vì vị tỳ kheo đó phàm

khi ngó thấy tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni, ưu bà tắc hoặc ưu bà di thảy

đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: “Tôi rất kính quí ngài, chẳng dám

khinh mạn. Vì sao? Vì quí ngài đều tu hành đạo Bồ Tát sẽ đặng làm

Phật.”

“Mà vị tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ

đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy ngợi

khen mà nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ

thành Phật.”

185 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Trong hàng tứ chúng, có người lòng bất tịnh sanh giận

hờn buông lời ác mắng nhiếc rằng: “Ông vô trí tỳ kheo này từ đâu

đến đây tự nói ta chẳng khinh ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ đặng

làm Phật, chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế.”

Trên đây chúng ta thấy một vị Bồ Tát có tên là Thường Bất

Khinh, một vị tỳ kheo chẳng ưa thích tụng đọc kinh điển, chỉ biết long

nhong đi lễ lạy mọi người, dù là tỳ kheo hoặc tỳ kheo ni, dù là ưu bà tắc

hay ưu bà di và miệng luôn khen ngợi những người này khéo tu đạo Bồ

Tát, trước sau gì họ cũng sẽ thành Phật.

Chúng ta đã tụng đọc kinh Pháp Hoa tới phẩm hai mươi, thì

nay mới thấy rỏ có một vị Bồ Tát tên là Thường bất Khinh đang hành

đạo thể nghiệm về Phật tính của chúng sanh trong kinh điển này. Chỉ có

giáo lý của kinh Pháp Hoa, đức Phật nói rỏ ràng “Tất cả chúng sanh

đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật.” Do vì lòng

tin sâu chắc này chúng ta chỉ cần đi theo con đường chánh kiến, chỉ cần

thực hành sáu pháp ba la mật, từng bước, từng bước một, dốc toàn tâm

thiền quán tập trung, chúng ta sẽ lĩnh hội chơn lý này một cách hoàn

toàn đích thực. Chúng ta sẽ gặp vô số Phật, mọi người trước mắt chúng

ta đều sẽ là Phật. Ngài Bồ Tát Thường bất Khinh đã có một gốc nhìn

như thế. Đó là chuyện có thật, không hề hư vọng.

Thường Bất Khinh Bồ Tát vì cảm nhận mọi người đều có

Phật tánh, cho nên lúc gặp họ ngài nói: “Tôi chẳng dám khinh quí

ngài, quí ngài đều sẽ làm Phật.” Do từ một câu nói được lập đi lập lại

nhiều lần như thế khiến cho người tâm bất tịnh sanh ra phiền não, bực

dọc, giận hờn, buông lời nhiếc mắng thậm tệ, có khi còn bị chúng nhơn

dùng roi gậy đánh đập, dùng ngói đá chọi ném. Bồ Tát không vui khi

chúc tụng người, không buồn khi bị người nguyền rủa, đánh, đá, Bồ Tát

vẫn cố chạy thoát ra ngoài vòng vây nguy hiểm rồi tiếp tục to tiếng

xướng lên rằng: “Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ

thành Phật.” Bởi Bồ Tát thường hay nói lời ngợi khen đó, cho nên hàng

Tăng thượng mạn tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, ưu bà di mới gọi ngài

là Thường Bất Khinh. Tuy nhiên cũng có người sớm giác ngộ nhận ra

186 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lời ca ngợi như vậy là chơn thật, càng nhìn lại mình càng thấy tánh của

mình là không tướng, từ đó Phật tánh càng lộ ra. Những người này đối

xử với ngài có độ lượng, tâm thức chuyễn biến và họ cảm nhận như

chính họ là một vị Phật.

Đến khi sắp chết, vị tỳ kheo này bổng nghe từ trong hư

không hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Phật Oai

Am Vương, nghe xong, vị tỳ kheo này phát nguyện thọ trì liền đặng sáu

căn thanh tịnh. Đặng sáu căn thanh tịnh đó rồi vị tỳ kheo đó sống thêm

hai trăm muôn ức na do tha tuổi. Trong suốt thời gian này, ngài vì chúng

sinh mà rộng giảng nghĩa lý của kinh Pháp Hoa.

Nói tóm lại, vị tỳ kheo giảng giáo lý Pháp Hoa cho tứ chúng

nghe, đạo lý trong Pháp Hoa kinh dạy rằng “Mọi chúng sanh đều có

Phật Tánh. Mọi chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Vị tỳ kheo thuyết

pháp như thế, tất cả thính chúng Pháp Hoa đều sẽ thành Phật. Vị tỳ kheo

biết như vậy, cho nên hể thấy những thính chúng đó từ xa, hoặc là tỳ

kheo hay tỳ kheo ni, hoặc là ưu bà tắc hay ưu bà di, vị tỳ kheo đó đều

đến ngợi khen chúc tụng “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều

sẽ thành Phật.” Đây là tinh thần phải có của một vị tu hạnh Bồ Tát đạo,

thấy biết người đó có Phật tánh, phải biết kính trọng Phật tánh của người

ấy, vị Bồ Tát này chỉ có một suy nghĩ là cưú khổ chúng sanh thoát khỏi

khổ đau. Thế mà có một số đông Tăng thượng mạn không nắm được ý

nghĩa này, hô hoán cho vị tỳ kheo Bồ Tát trên là Thường Bất Khinh.

Trong đời, người có hạnh tu Bồ Tát đạo luôn chịu nhiều thiệt thòi oan

ức. Nhưng Thường Bất Khinh tỳ kheo luôn tinh tấn, nhẫn nhục để vượt

qua, không buồn giận, không phiền não, vị tỳ kheo vẫn thể hiện được

hạnh Bồ Tát kiên trì. Hạnh nhẫn nhục cùa người khiến cho một số đông

kẻ Tăng thượng mạn càng thêm nổi giận, càng nổi giận càng thêm chao

đảo, càng thêm mất gốc tu. Niệm tâm càng sanh nhiều tội lỗi.

Trong khi đó Thường Bất Khinh Bồ Tát vẫn tiếp tục truyền

giảng kinh Pháp Hoa mãi mãi không ngừng, càng ngày sức thần thông

càng rộng lớn, sức nhạo thuyết biện tài khiến cho thính chúng càng nghe

càng tin phục, càng theo hầu rất đông.

187 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong khi những Tăng thượng mạn trên kia vì không nghe,

không tin, không phục những thời thuyết pháp trong kinh điển này, họ

phải trải qua thời gian khá dài mang nhiều đau khổ không bao giờ được

gặp Phật, không bao giờ được nghe pháp, không bao giờ được thấy tăng,

thì Thường Bất Khinh Bồ Tát, sau khi tịch diệt lại thọ mạng sang thế

giới khác đặng gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng

Minh, vì chúng sanh ở trong thế giới đó mà nói kinh Pháp Hoa này. Do

nhơn duyên tạo lập căn lành như vậy, nên đến khi thác lại sanh vào một

thế giới lành gặp đặng Phật Vân Tự Tại Đăng Vương, trong pháp hội

của đức Phật đó, vị Bồ Tát phát nguyện thọ trì, đọc tụng vì hàng tứ

chúng mà nói kinh điển này, cho nên ngài được mắt thanh tịnh, tai, mũi,

lưỡi, thân cùng ý căn đều được thanh tịnh.

Sau rốt, đức Thích Ca Như Lai nói với ngài Đắc Đại Thế Bồ

Tát:

“Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh đại Bồ Tát đó cúng

dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính, tôn trọng, ngợi khen,

trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở

trong pháp hội các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu

sẽ đặng làm Phật.

“5.- Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Thường Bất Khinh Bồ

Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là thân ta. Nếu ta ở đời

trước chẳng thọ trì, đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói, thì

chẳng có thể mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì ta ở

chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này, vì người

khác nói, nên mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“6.- Đắc Đại Thế! Thuở đó, bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni,

ưu bà tắc, ưu bà di do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai

trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy

tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A Tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại

gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác.

188 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thường khinh

vị Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là nay trong hội này

bọn ông Bạt Đà Bà La năm trăm vị Bồ Tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt

năm trăm vị tỳ kheo, bất thối chuyễn ở nơi đạo Vô thượng Chánh

đẳng Chánh giác.

“Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích

các vị đại Bồ Tát, có thể làm cho đến nơi đạo Vô thượng Chánh

đẳng Chánh giác. Cho nên các vị Bồ Tát sau khi Phật diệt độ phải

thường thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.”

Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài

kệ:

7.-Thuở quá khứ có Phật

Hiệu là Oai Am Vương

Sức trí thần vô lượng

Dìu dắt tất cả chúng

Hàng trời, người, long, thần

Đều chung nhau cúng dường

Sau khi Phật diệt độ

Lúc pháp muốn dứt hết

Có một vị Bồ Tát

Tên là Thường Bất Khinh

Bấy giờ hàng tứ chúng

Chấp mê nơi các pháp

Thường Bất Khinh Bồ Tát

Qua đến chỗ của họ

Mà nói với đó rằng

“Ta chẳng dám khinh ngài

“Quí ngài tu đạo nghiệp

“Đều sẽ đặng thành Phật.”

Những người đó nghe rồi

Khinh chê thêm mắng nhiếc

Thường Bất Khinh Bồ Tát

Đều hay nhẫn thọ đó

189 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tội Bồ Tát hết rồi

Đến lúc gần mạng chung

Sáu căn đều thanh tịnh

Vì sức thần thông vậy

Sống lâu thêm nhiều tuổi

Lại vì các hạng người

Rộng nói kinh pháp này.

Các chúng chấp nơi pháp

Đều nhờ Bồ Tát đó

Giáo hóa đặng thành tựu

Khiến trụ nơi Phật đạo

Thường Bất Khinh mạng chung

Gặp vô số đức Phật

Vì nói kinh này vậy

Đặng vô lượng phước đức

Lần lần đủ công đức

Mau chứng thành Phật đạo

Thuở đó Thường Bất Khinh

Thời chính là thân ta

Bốn bộ chúng khi ấy

Những người chấp nơi pháp

Nghe Thường Bất Khinh nói

“Ngài sẽ đặng làm Phật.”

Do nhờ nhơn duyên đó

Mà gặp vô số Phật

Chính trong pháp hội này

Năm trăm chúng Bồ Tát

Và cùng bốn bộ chúng

Thanh tín nam nữ thảy

Nay ở nơi nước ta

Nghe kinh Pháp Hoa đó

Ta ở trong đời trước

Khuyên những hạng người đó

Nghe thọ kinh Pháp Hoa

Là pháp bực thứ nhứt

190 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Mở bày dạy cho người

Khiến trụ nơi Niết Bàn

Đời đời thọ trì luôn

Những kinh điển như thế

Trải ức ức muôn kiếp

Cho đến bất khả nghì

Lâu lắm mới nghe đặng

Kinh Diệu Pháp Hoa này

Cho nên người tu hành

Sau khi Phật diệt độ

Nghe kinh pháp như thế

Chớ sanh lòng nghi hoặc.

Nên phải chuyên một lòng

Rộng nói kinh điển này

Đời đời đặng gặp Phật

Mau chứng thành Phật đạo.

LUẬN SƯ A ĐỀ SA (ATISHA) VÀ THIỀN SƯ

LẠT MA RINCHEN ZANGPO.

Mẫu chuyện sau đây nói về nhà luận sư Phật giáo An Độ,

ngài A Đề Sa (980-1055), chuyên nghiên cứu các phương pháp chứng

ngộ Bồ Đề tâm (boddhichitta), là ông tổ của dòng Magadha và giảng sư

tại viện đại học Vikramashila. Được vua Tây Tạng mời qua thuyết giảng

gíao lý Phật Đà, ông nguyện sống hết cuộc đời cuối cùng của mình (13

năm) ở trên vùng thảo nguyên cao ngất trái đất này. Tại đây ông lập ra

trường phái Kadampa (105),

gây ảnh hưởng rất lớn lên Phật giáo Tây Tạng

hồi đầu thế kỷ thứ mươi một, nhất là dòng Tsongkhapa, tiêu biểu là vị đệ

tử giỏi nhất của ông tên Dromton (1003-1064). Ông nghĩ đất nước Tây

Tạng có nhiều Phật sống (Lạt ma), cho nên mọi sự chuẩn bị đều rất

tươm tất, kỷ càng, nhất là với tâm thức phải vô cùng khiêm cung và mở

thông.

191 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Năm 1042, luận sư A Đề Sa đến Tây Tạng, nhà vua sắp xếp

ông sống ở Nétang và bắt đầu công nghiệp giáo hóa. Trong số những

nhà thông dịch được tuyễn chọn, nhà vua cử ra một người gioi nhất tên

là Rinchen Zangpo, một vị Lạt Ma già hơn luận sư A Đề Sa khoảng 25

tuổi, vị thiền sư cao cấp nhất nước Tây Tạng. Đức vua phán truyền cho

Lat Ma thiền sư phải dịch rỏ ràng từng lời giác ngộ của A Đề Sa từ tiếng

An Độ ra tiếng Tây Tạng, đừng quên một dấu chấm, dấu phẩy và chú ý

hết sức ý nghĩa sâu xa của những lời thuyết giảng đó. Sau những buổi trà

đạo làm quen, A Đề Sa vô cùng kính phục vị Lạt Ma thiền sư già mà đạo

hạnh cao thâm, ngài cẫn trọng nói: “Sau khi đã gặp ngài, tôi nghĩ chẳng

cần phải tới Tây Tạng hóa đạo nữa, vì duy nhất một vị đạo sư như ngài

đã quá đủ.”

Thiền sư bèn mời vị luận sư An Độ tới tham quan ngôi đền

của mình. Ngôi đền có ba tầng, trang hoàng rất mỹ thuật, thiền sư đưa

ngai A Đề Sa vào tận tâm đền, nơi đó một ngày ba lần, mỗi đêm ba lần

thiền sư tập trung thiền quán lên cảnh giới Man đa la, mà ngài đã được

ba vị thánh ban phép.

Tại Đại hùng bửu điện hai ngài bàn bạc trao đổi về kinh

nghiệm tâm linh của mình, về pháp đại thừa. Càng luận đạo, luận sư A

Đề Sa càng phát hiện thiền sư Tây Tạng là vị Lạt Ma đã đắc đạo, rất

hùng biện, thao thao bất tuyệt, giọng trầm trầm như sư tử hống. Ngài A

Đế Sa hỏi: “Theo ngài Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp theo

thứ tự có trước có sau hay có thể hành trì song song một lúc?”

Đáp :” Theo thứ tự, có trước có sau.”

Ngài A Đề Sa không đồng ý, vị luận sư nói một giọng như ra

lệnh: “Tất cả các giáo pháp cần được hành trì cùng lúc. Tất cả các vị

thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần chứng ngộ các vị đó trong

một khoảnh khắc duy nhất, tức thì. Như Dudjom Rinpoche đã nói, hoàn

toàn vô ích, nếu biết hằng ngàn sự việc và bỏ quên cái giây phút mà tất

cả đều tụ hội và tất cả đều giải thoát.”

192 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thấy vị thiền sư có vẻ chưa tin hẳn, A Đề Sa nói tiếp: “Bây

giờ tôi phải biết vì sao phải đến Tây Tạng. Các bạn tôn kính các vị thần

thánh bằng cách lập các trường phái khác nhau và bằng các giáo phái

mang đầy tính hình thức.”

Thiền sư Tây Tạng cúi đầu lỉnh hội và nói: “Ngài hãy lấy hết

những gì tôi có và hãy đưa tôi đi thẳng vào trung tâm điểm.”

Ngài luận sư từ chối, vì cảm thấy ngài trưởng lão thiền sư

Tây Tạng đã liễu ngộ tự tánh, chắc chắn bờ giác Niết Bàn sẽ đến với ông

ta trong nay mai, cho nên chỉ yêu cầu ông ta làm thông dịch cho ngài. Vị

trưởng lão thiền sư cuối đầu sát mặt đất xin A Đề Sa chỉ cho thấy gốc

cội của phép tu hành. A Đề Sa chấp nhận theo lời yêu cầu. Dưới sự

hướng dẫn chuyên cần của A Đề Sa, vị trưởng lão đó trước đây tu hạnh

thiền quán viễn ly, nay tập thiền quán trong từng bước đi. Mười năm

sau, vị trưởng lão thiền sư chứng ngộ đạo lý viên thông tự tại.

Trước khi chết, ông tập họp một số học trò giỏi và nói: “Đến

giờ phút này tuổi ta đã cao, ta vẫn kiên trì tu hành phép tập trung. Sau

khi ta gặp được ngài A Đề Sa, tâm ta mới giản ra trong phép tu thiền

quán đích thực.”

Trích truyện cổ Phật Giáo Tây Tạng .

193 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm NHƯ LAI THẦN LỰC thứ hai mươi mốt.

Đức Phật vừa kết thúc bài kệ, liền ngay đó có vô số đại Bồ

Tát nhiều bằng số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới đất vọt lên, đứng

trước đức Phật một lòng chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật

và bạch rằng:

“1.- Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của

đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì

sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh tịnh này để thọ

trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó.”

“2.- Lúc đó Thế Tôn ở trước ngài Văn Thù Sư Lợi v.v…

vô lượng trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát cựu trụ ở nơi cõi Ta bà

và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, v.v…, trước tất cả

chúng hiện sức thần thông lớn: bày tướng lưỡi rộng, dài lên đến trời

Phạm thế, tất cả lổ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ

màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các

đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày

tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng.”

Các vị Bồ Tát phát nguyện ở những cõi nước nào mà Như

Lai phân thân diệt độ, họ sẽ rộng tuyên nói kinh này bất chấp mọi khó

khăn, trước là để học hỏi mong đạt đến pháp giới thanh tịnh do công

hạnh tu tập kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sau là để bày tỏ sự biết ơn sâu xa

đối với đức Phật đã dày công dạy dỗ, cho nên các ngài kiên định thọ trì,

tụng đọc, giải nói, biên chép là phương cách cúng dường Như Lai tốt

nhứt.

Thần lực bày tường lưỡi rộng, dài lên đến trời Phạm thiên,

thần lực các lổ chân lông phóng ra vô lượng ánh sáng đủ màu sắc và soi

rọi khắp cả mười phương trong cõi Ta bà này, là một hiện tượng kỳ bí,

thâm sâu, có nghĩa là chơn lý diệu pháp lan toả rộng khắp vũ trụ nhân

sinh, chơn lý đi tới đâu, bóng tối vô minh bị tiêu diệt tới đó. Anh đạo

194 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

quang của đức Thích Ca Như Lai cùng vô số linh quang của chư Phật

khác hòa hợp lại như thể ánh sáng mặt trời soi rọi chỗ tối tăm.

Tất cả chúng sanh sống hoàn toàn vào chơn lý, nhờ tin tưởng

vào giáo lý của đức Thích Ca Như Lai, tin tưởng vào Diệu Pháp Liên

Hoa làm cho chúng sanh thoát khỏi vọng tưởng, khiến cho không phân

biệt đâu là cõi trời, đâu là cõi người, mà chỉ hợp nhứt lại thành một cõi

tịnh độ ở tại cõi Ta bà này.

Sức thần thông hiển bày trải qua trăm nghìn năm sau mới

nhiếp thu lại tướng lưỡi, đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung khảy

móng tay, hai thần lực đó phối hợp vang xa khắp cõi nước Phật trong

mười phương. Ở những cõi này nhìn thấy vào trong cõi Ta bà có vô

lượng vô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới

những cây báu và thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Đa Bảo

Như Lai ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu. Lại thấy vô lượng vô biên

trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát và hàng tứ chúng cung kính vây

quanh đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thần thông của Như Lai hiển bày trong phẩm kinh này là để

minh chứng cho rằng tất cả các pháp mà Như Lai đã nói, không có pháp

nào hơn được pháp này, không có kinh điển nào hơn được kinh Pháp

Hoa. Vì chỉ có kinh Pháp Hoa mới mau độ chúng sanh thoát khỏi vòng

sinh tử luân hồi, thoát cảnh vô minh tăm tối, cho nên như có người thọ

trì, đọc tụng, giải nói, biên chép thì phải biết rằng những người như thế

không rời xa cảnh Phật trí. Cho nên mới nói tất cả thần lực của Như Lai

có đều ở trong kinh Pháp Hoa, tất cả các pháp của Như Lai có để cứu độ

chúng sinh cũng ở trong kinh Pháp Hoa. Người thọ trì, đọc tụng kinh

Pháp Hoa, cho dù chỉ là một bài kệ bốn câu, tìm hiểu thẩm sâu nội dung

rồi nhiếp tâm thuộc lòng và thực hành sẽ thấy chính mình được tự độ,

công đức vô lượng.

Thân Như Lai tự tánh trong suốt vì đã xa lìa hết thảy phiền

não và các cấu uế, chẳng bị pháp thế gian làm nhiễm ô, do đó hình ảnh

vi diệu thể hiện trong tướng lưỡi rộng dài vô cùng thù thắng.

195 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

THANH TỊNH SINH RA NĂNG LƯỢNG

VÀ TRÍ TUỆ.

Vô lượng chư đại Bồ Tát bạch Phật muốn đặng pháp thanh

tịnh để thọ trì, tụng đọc, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa. Chúng ta

biết rằng hạnh thanh tịnh sẽ tương thích trong mọi hoàn cảnh để tạo ra

năng lượng và trí huệ. Tâm thanh tịnh là nguồn gốc của hạnh phúc. Vì

có thanh tịnh mới bớt khổ thêm vui. Chơn lý có tác dụng bớt khổ thêm

vui đó là những lời dạy của đức Phật.

Trong kinh Tịnh Danh đức Phật có nói: “Tánh vốn thanh

tịnh.” Khi chúng ta chưa nghe nói đến kinh Pháp Hoa có phải chúng ta

gặp khổ nhiều, vui ít? Khi đã hiểu rỏ giáo pháp của kinh điển này rồi có

phải chúng ta đặng khổ ít, vui nhiều? Cũng như thế, khi chưa có Phật thì

khổ nhiều, vui ít. Khi Phật giáng thế độ chúng sanh thì khổ ít, vui nhiều?

Như vậy trong tâm thức của chúng ta đã có sẳn một gốc

thanh tịnh. Do bởi công việc cho sư sống ngập đến đầu, chúng ta vô tình

bỏ quên gốc thanh tịnh của mình, vì thế năng lượng không những không

sinh ra thêm mà còn mòn mõi. Như vậy gốc thanh tịnh trong tâm cần

phải khơi gợi lên, đánh thức dậy, điều này không phải ai muốn cũng

được. Rỏ ràng trong tâm của chúng ta có cái thanh tịnh chưa được khai

tỏ, nhưng nếu chúng ta thường lui tới chỗ ồn ào, sôi động thì chắc chắn

không bao giờ cảm thấy được.

Niềm vui thường đi liền với sự thanh tịnh. Trong lòng có

thanh tịnh, tức không còn vướng mắc những ưu tư phiền não, thì niềm

vui và hạnh phúc sẽ đến ngay. Có niềm vui và hạnh phúc con người ta

cảm thấy khoẻ, tức là có năng lượng, sự quyết định cho mọi công việc sẽ

sáng suốt hơn, tức là có trí tuệ.

Chúng ta tự lập ra những điểm mốc để đánh thức gốc thanh

tịnh:

196 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

* Chùa viện: Phải có thời gian đến chùa lễ Phật. Cứ mỗi lần đến

chùa, dù chỉ trong chốc lát, nhưng mà khoảnh khắc quí giá đó cũng giúp

cho ta quên hết những khó khăn thực tế, nếu là người hay bị stress, cũng

giúp cho tâm thức được thư giản, và nhờ đó gốc thanh tịnh thức dậy,

năng lượng và trí tuệ sẽ tăng.

* Tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng A La Hán: Đó là những bức

tượng vô tri giác, nhưng lại tạo rất nhiều ấn tượng. Hãy tập trung nhãn

lực nhìn lên những bức tượng ấy, tắm trong ánh sáng hòa quyện của

nhiều ngọn đèn huỳnh quang trắng xanh, và hào quang ngủ sắc lung

linh, chúng ta sẽ cảm thấy gốc thanh tịnh trong tâm thức được bậc ra,

như vừa tháo chốt nén của một lò so. Những bức tượng cực kỳ thanh

tịnh đó như đang cười, một nụ cười đại từ, đại bi với chúng ta. Nếu có

người làm lỗi, tạo tội, những bức tượng đó nhìn họ một cách rất nghiêm

khắc như nhắc nhở rằng “Chớ nên gây nghiệp chướng”. Khi chúng ta

khấu đầu đảnh lễ sát đất có phải là trong lòng chúng ta vô cùng thanh

tịnh hay không, vô cùng hạnh phúc hay không?

* Tụng kinh, chuông, mỏ: Là một thể âm nhạc thuần túy nơi chốn

chùa, viện, tịnh thất. Giọng tụng kinh ê a trầm bổng, hoà cùng tiếng

chuông mỏ nhặt khoan, người nghe lúc bấy giờ cảm thấy tâm thức siêu

thoát trong khung cảnh đó, tức là người đó đã đạt đến cảnh giới thanh

tịnh hoàn toàn.

* Am nhạc: Những bản nhạc nhẹ không lời, những bài tình ca dân

gian, những câu ca dao phong hóa cũng làm cho gốc thanh tịnh của

chúng ta trổi dậy.

* Giấc ngủ: Là một cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh. Sau mười sáu

tiếng lao động, ăn uống, giãi trí, thì giấc ngủ ngon lành sẽ là lều thuốc

phục hồi sức khoẻ nhanh chóng để rồi lại tiếp tục công việc cho ngày

hôm sau, nó cũng tạo thêm năng lượng, trí tuệ.

Ngoài ra còn có những chỗ thanh tịnh để mà đến như núi

non, đồng trống, rừng hoang, dòng sông êm đềm v…v… nhưng e rằng

197 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lòng không thanh tịnh, tức là gốc thanh tịnh trong tâm thức không chịu

bậc dậy thì cũng uổng công thôi.

Mọi trí tuệ siêu việt của đức Phật, của chư vị đại Bồ Tát, của

hết thảy các ngài A La Hán tuôn ra như dòng cam lồ rưới mát chúng

sanh đều phát xuất từ thanh tịnh. Cho nên trong phẩm Như Lai Thần

Lực, chư vị đại Bồ Tát nhiều như số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới

đất vọt lên đó bạch cùng Phật rằng: “Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở

nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng

nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh

tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó.”

Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng

rằng:

“Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số

thế giới có nước tên Ta bà, trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni

hiện nay vì các đại Bồ Tát nói kinh đại thừa “Diệu Pháp Liên Hoa

giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm”, các ông phải thâm tâm tùy hỷ,

cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

“Các chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi,

chắp tay xoay về cõi Ta bà nói thế này “Nam mô Thích Ca Mâu Ni

Phật, Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật”. Dùng các món hoa hương,

chuỗi ngọc, phan lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật

tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta bà. Các vật rải đó từ

mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm

khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bấy giờ mười phương cõi nước

thông đạt không ngại như một cõi Phật.”

Tất cả chúng sanh sống hoàn toàn vào chơn lý, nhờ tin tưởng

vào giáo lý của đức Thích Ca Như Lai, tin tưởng vào pháp diệu hửu làm

cho chúng sinh thoát khỏi tâm thức hư vọng khiến cho không còn phân

biệt được đâu là cõi trời, đâu là cõi người, mà chỉ hợp nhứt lại thành một

cõi tịnh độ ở ngay tại cõi Ta bà này.

198 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì bởi kinh điển này có công đức lực thật khó nghĩ bàn, đức

Phật bảo đại chúng bực thượng hạnh Bồ Tát:

“4.- Khi đó Phật bảo đại chúng bực Thượng Hạnh Bồ Tát

thảy: “Thần lực của các đức Phật vô lượng, vô biên bất khả tư nghì

như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn

muôn ức vô số kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này

vẫn chẳng hết được.

“Tóm nói đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực

tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất

sâu của Như Lai đều tuyên bày rỏ nói trong kinh này, cho nên các

ông sau khi Như Lai diệt độ phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói,

biên chép đúng như lời nói mà tu hành.

“Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói,

biên chép đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc

trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường,

hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống,

trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.

“Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng, các đức

Phật ở đây mà đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các đức

Phật ở đây mà Chuyễn pháp luân, các đức Phật ở đây mà Nhập Niết

Bàn.

“Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói

kệ rằng:

“5.-Các Phật đấng cứu thế

Trụ trong thần thông lớn

Vì vui đẹp chúng sanh

Hiện vô lượng thần lực

Tướng lưỡi đến Phạm Thiên

Thân phóng vô số quang

199 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì người cầu Phật đạo

Hiện việc ít có này

Tiếng tằng hắng của Phật

Cùng tiếng khảy móng tay

Khắp vang mười phương cõi

Đất đều sáu món động

Sau khi Phật diệt độ

Người trì được kinh này

Các Phật đều vui mừng

Hiện vô lượng thần lực

Vì chúc lụy kinh này

Khen ngợi người thọ trì

Ở trong vô lượng kiếp

Vẫn còn chẳng hết được

Công đức của người đó

Vô biên vô cùng tận

Như mười phương hư không

Chẳng thể đặng ngằn mé

Người trì được kinh này

Thời là đã thấy ta

Cũng thấy Phật Đa Bảo

Và các Phật phân thân.

Cuối cùng đức Phật kết luận bài kệ và cương quyết khẳng

định rằng người nào thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa,

người đó quyết định vào cõi Phật đạo:

Sau khi Như Lai diệt

Biết kinh của Phật nói

Nhơn duyên và thứ đệ

Theo nghĩa nói như thật

Như ánh sáng nhựt nguyệt

Hay trừ các tối tăm

Người đó đi trong đời

Hay dứt tối chúng sanh

200 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Dạy vô lượng Bồ Tát

Rốt ráo trụ nhứt thừa

Cho nên người có trí

Nghe công đức lợi này

Sau khi ta diệt độ

Nên thọ trì kinh này

Người đó ở Phật đạo

Quyết định không có nghi.

Tượng Phật lớn điêu khắc trong núi ở A Phú Hản (Afghanistan)

Nay đã bị quân Hồi giáo Taliban hủy diệt vào năm 2001.

201 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm CHÚC LỤY thứ hai mươi hai.

Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp tòa

đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô

lượng đại Bồ Tát mà nói rằng:

“Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu

tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay

đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một lòng lưu bố pháp

này làm cho thêm nhiều rộng.”

Đức Phật ba phen nói như thế:

“Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu

tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay

đem phó chúc cho các ông, các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên

nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều đặng nghe biết.”

Đọc suốt hai mươi mốt phẩm kinh, từ phẩm Tựa thứ nhứt,

đức Phật phóng một luồng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn

mày chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương đông, dưới thì

chiếu đến địa ngục A Tỳ, Trên suốt trời Sắc Cứu Cánh. Đến phẩm Như

Lai Thần Lực thứ hai mươi mốt, đức Phật hiện sức thần thông lớn bày

tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thiên. Tất cả lổ chân lông phóng

ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều soi khắp cả mười

phương. Đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung tiếng khảy móng tay.

Chúng ta đã thấy nội dung tổng quát nhằm giới thiệu Phật tri

kiến của một giáo pháp diệu lý, mục đích chánh là cứu độ chúng sanh

thoát khỏi đau khổ, luân hồi, đến với cảnh giới Phật trí.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có lòng từ bi lớn vì thương chúng

sanh nên mới thị hiện ra đời, vì bởi chúng sanh thân tâm mê chấp, tham

đắm ảo giác, bị lừa chính mình, nên nhân lúc thuyết pháp, vì để muốn

202 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

cho chúng sanh mau tỏ ngộ đặng pháp Phật, từ một Phật thừa, Như Lai

phân biệt nói thành ba, dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo, lời lẽ nhơn

duyên để:

Dạy bảo cho chúng sanh được mở (Khai) tri kiến Phật.

Chỉ bày cho chúng sanh được thấy (Thị) tri kiến Phật.

Dẫn dắt cho chúng sanh được gặp gở (Ngộ) tri kiến Phật.

Giảng giải cho chúng sanh được chứng (Nhập) tri kiến Phật.

Cho nên chúng ta thấy rỏ con đường khai, thị, ngộ, nhập đều

có mặt trong các phẩm kinh. Toàn bộ hai mươi mốt phẩm kinh đầu cho

thấy được Phật tánh của chúng sanh, cho thấy được con đường ngộ nhập

Phật tri kiến.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có lòng bỏn sẽn chỉ

vì Như Lai không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh

tướng, không thọ giả tướng. Như Lai cũng không sợ ai nói xấu, khinh

chê, bày bác chơn lý của Như Lai. Bởi vì sao? Vì tất cả chơn lý diệu

pháp đó đều đưa chúng sanh đến trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai,

trí huệ tự nhiên. Trí huệ của Phật là trí huệ toàn giác, trí huệ tri kiến, trí

huệ sáng soi tất cả mười phương. Trí huệ của Như Lai là tia sáng đủ màu

sắc rọi soi trùm cả vũ trụ đem chơn lý đến khắp mọi nơi, nơi nào không

có sự sống, nơi nào chồng chất khổ đau, nơi nào còn đầy ấp phiền não,

trí huệ Như Lai sẽ tới nơi đó. Trí huệ tự nhiên tức là niềm tin phát xuất

từ trong tâm của mọi chúng sanh. Vì có lòng tin mới sanh ra trí huệ tự

nhiên.

Cho nên đức Phật khuyến bảo các vị đại Bồ Tát: “Đã nhiếp

thọ pháp của Như Lai rồi thì chớ sanh lòng bỏn sẽn, khiếp sợ. Ở đời vị

lai sau nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào có đức tin trí huệ của Như

Lai, thời chư vị hãy vì Phật mà diễn nói kinh Pháp Hoa này cho mọi

người cùng nghe biết, cho mọi người đặng trí huệ của Phật. Người nào

chưa hiểu phải diễn giải sao cho đặng hiểu. Phải làm sao cho hết thảy

chúng sanh đặng nhiếp thọ pháp vi diệu của Phật một cách đồng đều. Tất

cả hàng Bồ Tát, tất cả bốn bộ chúng, nếu có ai làm đặng điều này tức là

203 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đã báo ơn Phật vậy. Ơn đức Phật vô cùng thâm trọng, dầu cho có xả hết

thân nhiều đời nhiều kiếp làm công việc Phật sự cũng không thể nào báo

đáp ơn Phật. Nhưng nếu có người phát nguyện thọ trì, giải nói, biên chép

quảng bá kinh điển này, chỉ dạy cho chúng sanh đặng mọi sự lợi ích, tức

là đã báo được ơn của đức Phật.”

Các chúng đại Bồ Tát nghe đức Phật phán như thế trong lòng

rất vui mừng, các ngài cung kính nghiêng mình cúi đầu chấp tay hướng

Phật và lập lại câu nói ba lần bạch rằng:

“Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ,

kính xin Thế Tôn chớ có lo.”

Phần ủy thác đã xong, Phật Thích Ca Mâu Ni nói với các đức

Phật phân thân hãy trở về bổn độ ở khắp mười phương, và tháp của Đa

Bảo Như Lai cũng hườn về chỗ cũ.

BỐN DIỆU ĐẾ. (Trích kinh Đại Bát Niết Bàn tập I).

Này Ca diếp! Nói là khổ đó, chẳng gọi là thánh đế. Tại sao

vậy? Vì nếu nói “khổ” là khổ thánh đế, thời tất cả trâu, dê, lừa ngựa

cùng người địa ngục lẽ ra có thánh đế.

Này Ca Diếp! Nếu có người nào chẳng biết cảnh giới rất sâu

của Như Lai với pháp thân vi mật thường trụ không biến đổi, cho là thực

thân không phải pháp thân, chẳng biết đạo đức oai lực của Như Lai, đây

gọi là “khổ”.

Do vì chẳng biết nơi “pháp” thấy là “phi pháp”, nơi “phi

pháp” thấy là “pháp”. Phải biết người này ắt phải đọa vào ác thú mãi trôi

lăn trong vòng sanh tử, thêm lớn nghiệp hoặc chịu nhiều khổ não.

204 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nếu có người hay biết Như Lai thường trụ, không có biến

đổi, hoặc nghe tiếng nói hai chữ “thường trụ” một lần phớt qua tai, bèn

được sanh lên cõi trời. Về sau, lúc được giải thoát, mới được chứng biết

Như Lai thường trụ không có biến đổi. Khi đã chứng biết bèn tự nói:

“Ngày trước tôi thường nghe nghĩa “thường trụ” này, nay được giải

thoát mới được chứng biết. Đối với bổn tế, vì không rỏ biết, nên tôi phải

luân hồi sanh tử, xoay lăn vô cùng, ngày nay mới bắt đầu đặng chứng

biết như thật.”

Nếu người nào biết như vậy, thiệt là tu “khổ đế” được nhiều

lợi ích.Nếu người không biết,, dầu là siêng tu nhưng không được lợi ích,

đây gọi là biết “khổ”, gọi là “khổ thánh đế”.

Nếu người nào không tu tập như vậy, thời gọi là “khổ”,

chẳng phải “khổ thánh đế”.

“Khổ tập đế” là nơi trong chơn pháp chẳng sanh chơn trí.

Thọ lấy vật bất tịnh, tức là nô tỳ, hay nói phi pháp là chánh pháp, dứt

diệt chánh pháp chẳng cho còn lâu. Vì nhơn duyên này mà không biết

được pháp tánh, vì không biết mà luân hồi sanh tử chịu nhiều sự khổ

não, chẳng sanh cõi trời và chánh giải thoát. Nếu có thâm trí chẳng hoại

chánh pháp do nhơn duyên này được sanh cõi trời và chánh giải thoát.

Nếu có người không biết khổ tập đế, mà nói chánh pháp

không có thường trụ. Đây đều là diệt pháp. Vì nhơn duyên này nên trong

vô lượng kiếp lưu chuyễn sanh tử, chịu các sự khổ não.

Nếu có thể biết pháp thường trụ chẳng khác, đây gọi là biết

“tập”, gọi là “tập thánh đế”. Nếu người không thể tu tập được như vậy

thời gọi là ‘tập”, chẳng phải “tập thánh đế”.

“Khổ diệt đế” là, nếu có người tu học nhiều pháp không thời

là chẳng tốt. Bởi vì sao? Vì dứt tất cả pháp, vì hư hoại chơn pháp tạng

Như Lai. Tu học như trên đây gọi là tu pháp không. Người tu khổ diệt đế

thời nghịch lại tất cả pháp tu của ngoại đạo. Nếu nói rằng tu pháp không

205 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

là “diệt đế” đó, thời tất cả ngoại đạo cũng tu pháp không, đáng lẽ họ có

diệt đế. Nếu có người tu tập Như Lai tạng, vô ngã không tịch, người này

nơi vô lượng đời lưu chuyễn thọ khổ trong vòng sanh tử. Nếu có người

chẳng tu tập như vậy, dầu có phiền não nhưng chóng có thể diệt trừ, vì

người này biết tạng bí mật Như Lai.

Nếu có người nói rằng có tạng Như Lai, dầu chẳng thấy

được, nhưng nếu có thể diệt trừ tất cả phiền não, đây thời đặng chứng

nhập. Nếu phát tâm như trên đây, nhơn duyên trong một niệm có thể

đặng tự tại đối với tất cả pháp.

Nếu người nào có thể tu tập diệt đế như vậy chính là đệ tử

của ta. Bằng không thời gọi là tu pháp không chẳng phải diệt thánh đế

vậy.

Đạo thánh đế tức là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo và chánh

giải thoát.

Có hạng chúng sanh điên đảo cho rằng không Phật, không

Pháp, không Tăng và không chánh giải thoát, sanh tử lưu chuyễn dường

như huyễn hóa. Do kiến chấp này, nên lưu chuyễn ba cõi chịu nhiều khổ

não.

Nếu có thể phát tâm thấy rằng Như Lai thường trụ không

biến đổi, Pháp, Tăng, giải thoát cũng thường trụ như vậy. Nhờ một niệm

này, trong vô lượng đời tùy ý mà đặng quả báo tự tại.

Như ta thuở trước, vì bốn thứ điên đảo, chẳng phải pháp chấp

là pháp, nên mắc lấy vô lượng nghiệp quả ác. Ngày nay ta đã diệt hết

những kiến chấp như vậy, nên đặng thành Phật Vô thượng Chánh giác.

Đây gọi là “đạo thánh đế”.

Nếu có người cho rằng Tam Bảo là vô thường, đây là lối tu

hư vọng chẳng phải đạo thánh đế.

206 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nếu người tu tập Tam Bảo là thường trụ, người này là đệ tử

của ta, chơn chánh tu tập thấy bốn pháp thánh đế.

Trên đây gọi là “bốn thánh đế”.

BỐN ĐIÊN ĐẢO. (Kinh Đại Bát Niết Bàn tập I)

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: “Này Thiện nam tử! Thế nào là tứ

đảo? (bốn điều điên đảo).“Nơi chẳng phải khổ tưởng cho là khổ”, gọi là

điên đảo. Chẳng phải khổ chỉ cho Như Lai.

Tưởng cho là khổ, tức là cho rằng Như Lai là vô thường biến

đổi. Nếu có người nói Như Lai là vô thường, đây gọi là tội khổ rất lớn.

Nếu nói Như Lai khi xả thân khổ này để nhập Niết bàn như

củi hết lửa tắt, đây gọi là chẳng phải khổ mà tưởng cho là khổ. Chính đó

là điên đảo.

Nếu ta nói rằng: Như Lai là thường thời là chấp ngã, vì chấp

ngã nên có vô lượng tội, thế nên phải nói Như Lai là vô thường, nói như

thế thời ta vui thích.

Như Lai là vô thường chính đó là khổ, nếu đã là khổ thế nào

sanh vui. Bởi ở trong khổ tưởng cho là vui nên gọi là điên đảo.

Nơi vui tưởng cho là khổ, gọi đó là điên đảo. Vui tức là Như

Lai. Khổ tức là Như Lai vô thường. Nếu nói Như Lai là vô thường, đây

gọi là nơi vui tưởng cho là khổ.

Như Lai thường trụ gọi là vui.

Nếu ta nói rằng: Như Lai là thường, sao lại nhập nơi Niết

bàn. Nếu nói Như Lai chẳng phải là khổ, sao lại bỏ thân mà diệt độ. Bởi

ở trong vui tưởng cho là khổ, nên gọi đó là điên đảo.

207 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Các điều tưởng lầm như trên, gọi là sự diên đảo thứ nhứt.

“Vô thường tưởng là thường, thường tưởng là vô thường”,

đây gọi là điên đảo.

Vô thường chỉ chẳng tu pháp không, vì chẳng tu pháp không

nên thọ mạng ngắn ngủi.

Nếu có người cho rằng chẳng tu pháp không tịch thời đặng

trường thọ. Quan niệm đó gọi là điên đảo. Đây là sự điên đảo thứ hai.

“Vô ngã tưởng là ngã, ngã tưởng là vô ngã”, đây là điên đảo.

Người đời cũng nói có ngã, trong Phật pháp cũng nói có ngã.

Người đời dầu nói có ngã nhưng không có Phật tánh, đây

thời gọi là nơi vô ngã mà tưởng là ngã, gọi đó là điên đảo.

Phật pháp nói có ngã tức là Phật tánh. Người đời lại nói Phật

pháp không ngã, đây gọi là nơi ngã tưởng là vô ngã. Nếu nói Phật pháp

quyết định vô ngã nên đức Như Lai dạy hàng đệ tử tu tập pháp vô ngã.

Lời trên đây là điên đảo. Đây là lời điên đảo thứ ba.

“Tịnh tưởng là bất tịnh, bất tịnh tưởng là tịnh”, đây gọi là

điên đảo. Tịnh chính là Như Lai thường trụ, chẳng phải thân tạp thực,

chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân thịt, chẳng phải là thân gân

xương ràng rịt.

Nếu có người nói rằng Như Lai là vô thường, là thân tạp

thực, là thân thịt, là thân gân xương ràng rịt, cũng cho rằng Pháp, Tăng

giải thoát đều là diệt tận, đó gọi là những quan niệm điên đảo vì tịnh mà

cho là bất tịnh. Bất tịnh tưởng cho là tịnh, gọi đó là điên đảo.

Nếu có người nói rằng trong thân của ta đây không có một

pháp nào là bất tịnh cả, bởi không có bất tịnh nên quyết định sẽ đặng vào

208 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nơi chỗ thanh tịnh. Thuyết tu bất tịnh quán của Như Lai là thuyết hư

vọng.

Trên đây là quan niệm điên đảo. Đó gọi là điều điên đảo thứ

tư.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Từ nay tôi mới

đặng chánh kiến. Bạch Thế Tôn! Trước đây chúng tôi đều là người tà

kiến cả.”

209 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ

thứ hai mươi ba.

Kinh thuyết:

“1.- Lúc bấy giờ, ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát bách Phật

rằng: “Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát dạo đi nơi cõi ta bà như

thế nào? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát đó, có bao nhiêu nghìn

muôn ức na do tha hạnh khổ khó làm? Hay thay! Thế Tôn! Nguyện

giải nói cho một ít. Các hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ xoa, Càn thác

bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi

nhơn v…v… và các vị Bồ Tát ở các nước khác đến cùng chúng

thanh văn đây nghe đều vui mừng.”

Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát hỏi Phật về thần thông đi lại ở

cõi Ta Bà của ngài Dược Vương Bồ Tát, những hạnh khổ khó làm và

phương cách cứu độ chúng sanh của ngài ra sao. Tất cà hàng trời, thần,

rồng, người và tám bộ chúng khác đều muốn biết.

“2.- Lúc đó Phật bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: “Về

thuở quá khứ vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu

Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh

Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng

Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.

“Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng

hà sa chúng đại Thanh văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp,

Bồ Tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, địa

ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la v…v… và với các khổ nạn. Đất bằng

như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu

trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương khắp cùng cả

nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều

bằng một lằng tên. Các cây báu đó đều có Bồ Tát, Thanh văn ngồi ở

210 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trổi kỷ nhạc trời,

ca khen đức Phật để làm việc cúng dường.”

Phật bèn nói về tiền thân của ngài Dược Vương Bồ Tát. Thuở

quá khứ hằng hà sa kiếp vế trước, ở vào thời kỳ đức Phật Nhựt Nguyệt

Tịnh Minh Đức Như Lai, có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng

hà sa chúng đại Thanh văn theo hầu. Phật và Bồ Tát trong quốc độ đó

sống lâu đến bốn mươi hai nghìn kiếp. Quốc độ đó không có người nữ (106)

, không có địa ngục, không có ngạ quỉ, không có súc sanh, không có

a tu la, không có các khổ nạn khác. Quốc độ đó vô cùng tráng lệ, mặt đất

bằng thẳng do lưu ly kết tạo thành, trang trí bằng nhiều cây báu trang

nghiêm, các cây báu đó đều có Bồ Tát và Thanh Văn ngồi ở dưới. Màn

báu trải trùm lên, thòng các phan báu đẹp lạ lùng, mùi hương xông thơm

khắp cùng cả nước, còn trên đài thất bảo có vô số chư thiên đang tấu

khúc nhạc trời, hòa lẫn những lời ca khen tán tụng đức Phật.

Kinh thuyết :

“3.- Bấy giờ đức Phật đó vì ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh

Hỷ Kiến Bồ Tát cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh văn nói kinh

Pháp Hoa.

“Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ưa tu tập

khổ hạnh, ở trong pháp hội của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức

Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn

hai nghìn năm đặng “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội” (tức là

tam muội tự tại, vô ngại). Đặng tam muội đó rồi lòng rất vui mừng,

liền nghĩ rằng:

“Ta đặng Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội này đều là

do sức đặng nghe kinh Pháp Hoa. Ta nên nên cúng dường Nhựt

Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp Hoa.”

ĐứcPhật nói kinh Pháp Hoa cho ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh

Hỷ Kiến Bồ Tát cùng các chúng nghe. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ

Kiến Bồ Tát nghe kinh đó rồi, quyết tâm tu tập khổ hạnh, tinh tấn kinh

211 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hành, một lòng cầu Phật đạo. Ở trong pháp hội của đức Nhựt Nguyệt

Tịnh Minh Đức Phật mãn một muôn hai nghìn năm liền đặng “Hiện nhứt

thiết sắc thân tam muội”. Đặng tam muội này ngài vô cùng mừng rở và

nghĩ đến việc đền đáp công ơn đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức

Như Lai. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát bèn nhập tam

muội đó. Rải vào trong hư không các loại bông mạn đà la, bông ma ha

mạn đà la, hòa trộn bột chiên đàn phủ kín như mây từ trên cao rưới

xuống. Lại dùng một trăm bốn mươi bốn thùng hương hải thử ngạn

chiên đàn, là loại hương báu ở cõi ta bà để cúng dường đức Phật.

Cúng dường xong, ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ

Tát từ trong tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: “Ta dù dùng thần lực cúng

dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường.”

Liền uống các chất thơm như hương chiên đàn huân lục,

hương đâu lâu bà, hương tất lực ca, trầm thủy giao hương; ngoài ra ngài

còn uống các thứ tinh dầu thơm, các thứ bông chiêm bặc… mãn một

nghìn hai trăm năm. Ngài dùng tinh dầu thơm tắm hết thân thể, và đứng

trước đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ngài dùng y báu cõi trời tự

quấn lấy thân, rưới các thứ tinh dầu lên trên y báu, dùng sức nguyện thần

thông mà tự đốt thân.

Kinh thuyết :

“Anh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới,

các đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: “Hay thay! Hay thay!

Thiện nam tử! Đó gọi là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng

dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương chuỗi ngọc, hương đốt, hương

bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và hương hải thử ngạn

chiên đàn dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng

được.

“Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện

nam tử! Đó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn, rất

thượng, bởi dùng pháp cúng dường các đức Như Lai vậy.” Các đức

212 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật nói lời đó rồi đều yên lặng. Thân của Bồ Tát lửa cháy một

nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ Tát mới hết.”

TỰ ĐỐT THÂN,

CÁCH CÚNG DƯỜNG CỦA BỒ TÁT.

Trong khi ngọn lửa đốt thân của ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh

Hỷ Kiến Bồ Tát đang âm ĩ cháy suốt một

ngàn hai trăm năm.

« Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa

Bồ Tát : Ý ông nghĩ sao ? Nhứt Thiết

Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đâu phải

người nào lạ, chính nay là ông Dược

Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí

số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na

do tha như thế.

« Tú Vương Hoa ! Nếu ngươi phát

tâm muốn đặng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể

đốt một ngón tay, nhẫn đến một ngón chưn cúng dường tháp của

Phật, hơn đem quốc thành thê tử và cõi tam thiên đại thiên : núi,

rừng, sông, ao các vật trân báu mà cúng dường. »

Bổng dưng chúng ta nhớ lại ở quốc độ Việt Nam cũng có

những ngọn lửa kỳ diệu của các thiền sư Thích Quảng Đức, Thích

Nguyên Hương, Thích Thanh Tuệ, Thích nữ Diệu Quang, Thích Tiêu

Diêu, Thích Quảng Hương, Thích Thiện Mỹ v.v… tự đốt thân mình để

cúng dường lên thập phương chư Phật, cầu nguyện thập phương chư

Phật nhiếp thọ và độ trì cho Phật Giáo Việt Nam thoát khỏi khổ nạn do

bởi một chánh quyền gia đình trị, do bởi một chánh quyền kỳ thị tôn

213 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

giáo, cầu nguyện cho Phật Giáo Việt Nam mãi mãi được trường tồn, bất

diệt.

NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG ĐỨC.

Bồ Tát Thích Quảng Đức trụ trì tại chùa Quan Am, quận

Bình Thạnh. 9 giớ sáng ngày thứ ba 11 tháng 6 năm 1963, (nhằm 20

tháng 4 nhuận năm Quí mão), từ Tổ đình chùa Ấn Quang, (đường Sư

Vạn Hạnh quận 10) ngài bước lên một chiếc xe ôtô màu xanh lá cây hiệu

Simca bốn chỗ ngồi, từ diểm phát xuất đó đến ngả tư Lê văn Duyệt –

Phan đình Phùng (nay là đường Cách Mạng tháng tám – Nguyễn đình

Chiểu quận nhứt). Tại đây ngài bước xuống xe và thiền tọa trong tư thế

kiết già, tay bắt ấn Cam Lộ. Ngài ngồi yên lặng, vững vàng như pho

tượng đá.

Đúng 10 giờ, một bình xăng tắm ướt y vàng casa, rồi một ngọn lửa

bao bọc quanh xác thân ngài. Ngọn lửa trong đỏ ngoài vàng, bập bùng

dâng cao lên gần 4m, trong đó nhìn thấy thân ngài như bức tượng đồng

đỏ, vẫn ngồi vững vàng không nghiêng ngả. Hằng ngàn cặp mắt kinh

ngạc nhìn ngài, hằng chục ngàn tiếng kêu than ai oán, hằng trăm ngàn

giọng nức nở nghẹn ngào.

Lửa vẫn cháy, người vẫn ngồi, tiếng kinh cầu nguyện hoà

quyện với tiếng niệm Phật A Di Đà trộn lẫn với lòng tín ngưỡng dâng

cao.

Lửa vẫn cháy, niềm tiếc thương vô hạn. Xe cộ dừng lại. Cả

thành phố này trước đây một phút còn đang sôi tràn huyết hận, giờ đây

cũng dừng lại. Phải dừng lại, dù là chỉ trong một giây phút hiếm hoi để

hoà chung cùng sự thương tiếc của hàng triệu triệu trái tim tin Phật.

Ngọn lửa vẫn bùng cháy. Việt Nam chấn động. Thế giới chấn

động. Những dân tộc văn minh ở phương tây vô cùng ngạc nhiên, mọi

214 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thông tin liên lạc hiện đại đều hướng về phương đông, hướng về Việt

Nam.

Ngọn lửa vẫn bùng cháy, càng cháy lửa càng mạnh, tiếng

nguyện cầu rền vang. Mãi hơn mười phút sau, thân xác ngài Thích

Quảng Đức mới ngả vật ra. Lúc đó ngài chánh thức vào cõi Niết bàn,

hưởng thọ 67 tuổi. Nhưng ngài để lại cho hàng triệu triệu Phật tử một

trái tim bất diệt, một trái tim đốt mãi, đốt hoài vẫn còn đó, nóng hổi như

đang bóp máu điều hoà cho mối đạo Phật Giáo Việt Nam vĩnh hằng,

trường tồn, bất tử. Trái tim của Bồ Tát Quảng Đức là một di vật chứa

đựng tinh hoa của Thánh nhân, chứa đựng mọi quyền lực thần bí, đã

kiểm chứng hạnh tu của Bồ Tát trở thành hoàn hảo.

Ngài chuyên trì tụng Pháp Hoa kinh, Ngài đã thẩm sâu vào

phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự, Ngải noi theo gương của đức Nhứt

Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đốt thân cúng dường Đức Phật Nhựt

Nguyệt Tịnh Minh, cho nên Ngài mới phát nguyện đốt thân để cúng

dường Đức Dược Vương.

Thiền sư Thích Quảng Đức tên thật là Lâm văn Tức, sanh

năm 1897 tại làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm

lên bảy tuổi, ngài được người cậu ruột đem về nuôi và đổi tên là Nguyễn

văn Khiết. Ngài xuất gia với thiền sư Hoằng Thâm, thọ đại giới năm hai

mươi tuổi và bắt đầu tu khổ hạnh ở núi Ninh Hòa. Trong năm năm, ngài

tu thiền và đi du hóa theo hạnh đầu đà, chỉ giữ bên mình một y và một

bát. Sau đó ngài về tịnh cư tu tập tại chùa Thiên An ở Ninh Hòa, gần

thành phố Nha Trang.

Năm 1932, ngài được Chi Hội Ninh Hòa của Hội An Nam

Phật học mời làm chứng minh đạo sư. Được ít lâu sau, ngài lại lên

đường hóa đạo ở các tỉnh miền nam Trung Việt, đóng góp vào công

cuộc kiến tạo và trùng tu của mười bốn ngôi chùa rải rác trong vùng.

Năm 1943, ngài lại đi hành hóa ở các tỉnh miền Nam như:

Saigon, Giađịnh, Bàrịa, Vũng Tàu, Long Khánh, Định Tường, Hà Tiên.

215 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Rồi ngài trở lên Kim Biên Nam Vang (Kampuchia) và dựng tích trượng

ở đây trong ba năm, vừa hóa đạo vừa học hỏi thêm các kinh điển Pâli.

Trong thời gian hành hóa ở miền Nam Việt Nam và ở Nam

Vang (Kampuchia), ngài đã góp công hoặc tạo lập, hoặc trùng tu cả thảy

mười bảy ngôi chùa. Ngôi chùa ngài thường trú lâu nhứt là chùa Long

Vĩnh, tọa lạc tại quận Phú Nhuận, Saigon. Vì vậy trước khi ngài tự đốt

thân, Phật tử thiện nam tín nữ thường gọi ngài là Hòa thượng Long

Vĩnh. Cuối cùng ngài về trụ trì tại chùa Quán Thế Am đương Nguyễn

Huệ (nay là đường Thích Quảng Đức) quận Phú Nhuận, kiêm viện chủ

chùa Long Phước tỉnh Khánh Hòa.

Năm 1953, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thỉnh ngài làm

Trưởng ban nghi lễ, và Hội Phật Học Nam Việt mời ngài làm trụ trì chùa

Phước Hòa, quận ba.

Trước khi ngọn lửa Thích Quảng Đức bùng lên rọi sáng khắp

năm châu thế giới, ngài có viết để lại một bức thư gọi là “Lời nguyện

Tâm huyết” nói rỏ chủ đích và nguyện vọng. Toàn văn bức di thư

không có chưa đựng một mảy may hận thù và tuyệt vọng, trái lại rất

thấm nhuần tình thương và đạo lý. Nguyên văn bức di thư:

“Tôi, pháp danh Thích Quảng Đức, trú trì chùa Quan Âm,

Phú Nhuận, Gia Định.

“Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngữa, tôi

là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi diềm

nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện

thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo

tồn Phật giáo.

“Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại đức Tăng Ni

chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:

216 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“1- Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho tổng thống Ngô Đình Diệm

sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam

ghi trong bản tuyên ngôn.

“2- Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được

trường tồn bất diệt.

“3- Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức

Tăng Ni Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ giam cầm

của kẻ ác gian.

“4- Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.

“Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi

lời cho tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc

dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà

muôn thuở.

“Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử nên đoàn

kết nhứt trí để bảo toàn Phật pháp.”

217 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ngọn lửa Thích Quảng Đức rọi sáng tâm người mê muội, ngã

chấp, chuyễn được lòng người khắp nơi trên thế giới, là những Phật tử

Việt Nam từ trong nước cũng như ở nước ngoài, thắt dây đoàn kết lại,

gần gủi nhau hơn để quyết tâm giữ gìn đạo pháp Việt Nam được trường

tồn theo lời mong ước của ngài.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương viết bài thơ Lửa Từ Bi để ca ngợi

ngọn lửa Thích Quảng Đức:

Lửa, lửa cháy ngất tòa sen

Tám chín phương nhục thể trần tâm niệm

Thành thơ, quỳ cả xuống

Hai vầng sáng rưng rưng

Đông tây nhòa lệ ngọc

Chấp tay đón một mặt trời mới mọc

Anh đạo vàng phơi phới đang bừng lên

Dâng lên.

Oi đích thực hôm nay trời có mặt

Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga

Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt

Nhìn nhau tình huynh đệ bao la

Nam mô Đức Phật Di Đà

Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay.

Thương chúng sanh trầm luân bể khổ

Người rẻ phăng đêm tối đất dày

Bước ra ngồi nhập định hướng về tây

Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ

Phật Pháp chẳng rời tay.

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc

Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi

Chỗ người ngồi một thiên thu tuyệt tác

Trong vô hình sáng chói nét từ bi.

Rồi đây… rồi mai sau… còn chi?

Ngọc đá cũng thành tro

Lụa tre dần mục nát

218 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Với thời gian, lê vết máu qua đi

Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát

Dọi hào quang xuống tận chốn A Tỳ

Oi! Ngọn lửa huyền vi.

QUAÛ TIM THÍCH QUAÛNG ÑÖÙC.

219 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chính trong những ngày quyết liệt nhất mà tôi nhận được thư

của Ngài. Thư viết trên miếng giấy nhỏ, dĩ nhiên để dễ mang đi cho kín

đáo. Thư do một ký giả người Việt làm cho một hảng thông tấn ngoại

quốc cẩn trọng đưa tận tay tôi. Thư viết chữ nghiêm trang. Rằng đạo

pháp trong cơn nguy khốn mà tôi tuổi già sức mọn, không làm gì được.

Nên tôi xin học đức Dược Vương, nguyện thiêu thân mình để cầu cho

đạo pháp trường tồn. Ngưỡng mong liệt vị trưởng thượng tôn túc từ bi

hứa khả, và quyết định cho lúc nào thực hiện. Xét đây là việc trọng đại

nên tôi không dám quyết định. Một cuộc họp được mở ra khẩn cấp, với

sự hiện diện của ngài Hội chủ, các Thầy Trí Thủ, Thiện Siêu, Thiện

Minh và tôi. Ai cũng xúc động nhưng không quyết định gì, chỉ giao cho

tôi xét kỹ nên chấp nhận ý nguyện của Ngài hay không, chấp nhận thì

nên thực hiện vào lúc nào, dĩ nhiên là ở Sài gòn. Được giao như vậy,

nhưng tôi trang trọng cất giữ trong người bức thư của Ngài mà chưa

quyết định gì, kể cả việc phúc đáp cho Ngài. Thế rồi trong lúc Từ Ðàm

bị bao vây dữ dằng thì tin ngài tự thiêu được ông Đằng mật báo liền cho

tôi. Liền hôm sau ông Diệm mời Phật giáo thương thuyết. Sự tự thiêu

của Ngài như vậy là cái mốc của giai đoạn mới trong cuộc vận động

1963.

Trước đây tôi không quen biết với Ngài, chỉ gặp một lần khi

Ngài trụ trì chùa Phước Hòa, biết Ngài chuyên tâm trì tụng và lễ bái

Pháp Hoa. Giai đoạn trước khi Ngài tự thiêu tôi cũng chỉ biết mỗi một

bức thư nói trên. Sau này mới biết, trước khi tự thiêu, Ngài chuẩn bị một

cách chân thành, bình dị và kín đáo. Vẫn trì tụng lễ bái Pháp Hoa hằng

ngày. Vẫn sinh hoạt bình thường. Tế nhị lắm mới thấy Ngài có vẻ như

người sắp đi xa. Quan trọng nhất là di chúc của Ngài. Một vị tân tỷ kheo

gần Ngài mà đến hôm Ngài sắp tự thiêu mới biết được ý nguyện và bản

di chúc ấy.

Bản di chúc ấy bình dị, chân thành, quan trọng nhất là ý thức

chứa đựng bên trong. Chính ý thức này chứa đựng tâm nguyện Bồ tát

của Ngài. Không oán trách đến cả ông Diệm, ngài chỉ nói tự đốt thân

mình để cầu cho ông sáng suốt...Ngoài di chúc, Ngài còn một tấm ảnh

và một quả tim. Về tấm ảnh, một ký giả chụp được lúc ngọn lửa bùng lên

220 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

gần khắp người Ngài rồi, còn lại chỉ có một bên vai, gần một nửa trên

đầu, trán cũng đã có lửa, chỉ mặt còn nguyên. Chính trong lúc như vậy

mà nét mặt Ngài hoàn toàn bình thản, siêu thoát, không một nét nhăn

hay một chút ráng sức. Bức ảnh này được giải thưởng quốc tế. Lại nghe

nói lửa bùng lên hoàn toàn mà Ngài vẫn an tọa. Cho đến lửa tắt, một

tấm hình khác cho thấy Ngài ngồi như pho tượng đồng đen. Sau đó một

lúc Ngài mới gật đầu xuống như thể cúi chào tăng ni Phật tử, rồi nhẹ

nhàng bật ngửa người ra. Ngài tự thiêu mấy hôm rồi tôi mới vào Sài

gòn. Tình trạng khi Ngài tự thiêu, nghe nói cực kỳ bi tráng, cho đến nay

vẫn là không tiền khoáng hậu.

Về đám tang của Ngài, tôi sẽ nói đến trong chương 30. Nay

hãy nói đến sự kiện quan trọng nhất là quả tim của Ngài, "quả tim

Quảng Ðức". Việc hỏa thiêu nhục thân của Ngài là do thầy Thiện Hòa

chủ trì. Thiêu rồi lấy ra, trong đống tro tàn còn một khối thịt mà vị trí

cho biết đó là quả tim. Thầy Thiện Hòa cho vào lò thiêu lại cũng vẫn

không cháy. Lại thiêu nữa nhưng xăng hết. Bấy giờ rất đông ký giả hiện

diện. Họ chạy kiếm xăng giúp. Bấy giờ chỉ họ mới đi lại được dễ dàng.

Họ kiếm được mấy can xăng super, đem thiêu kỹ, nhưng lấy ra vẫn

không cháy. Việc này làm cho tôi tin, xưa, ngài La Thập sau khi hỏa

thiêu cái lưỡi vẫn còn. Nhưng ở đây mọi thắc mắc dị nghị hoàn toàn

không có được nữa. Vì đây là việc mà trên dưới 50 ký giả, đa số là ký

giả quốc tế, không những cũng chứng kiến mà còn dự vào.

221 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Về quả tim này tôi vẫn nói đến vào gần cuối bản tự ghi này.

Ở đây chỉ nói khi hỏa thiêu ngài rồi, tôi thảo để ngài Hội chủ ký một

thông bạch. Cuối thông bạch ấy tôi viết "cầu nguyện vị nhục thân Bồ tát

gia hộ cho cuộc vận động của Phật giáo đựơc thành tựu". Và niệm.

"Nam mô đại hùng đại lực Quảng Ðức bồ tát" Hồng danh Bồ tát Quảng

Ðức khởi đầu từ đó. Hồng danh ấy, và Bồ tát Quảng Ðức, cho đến nay

chính những người duy vật cũng không thể không công nhận. Một trong

những sự bất diệt của cuộc vận động 1963 là sản xuất một vị Bồ tát.

Sự tự thiêu của Bồ tát Quảng Ðức ngay khi mới xảy ra đã

làm cho ông Diệm rụng rời. Rồi mấy giờ sau, cả thế giới, nhất là ở Mỹ,

ngọn lửa tự thiêu của Ngài rực lên trên máy truyền hình, đốt cháy tan

tành hình ảnh ông Diệm và chế độ của ông. Ngọn lửa Quảng Ðức chung

đúc và làm sáng lên cái khí thế cao độ mà ông Diệm không còn giữ được

gì về thái độ và chính sách của ông.

Dân tộc Việt Nam có lắm vỉ nhân. Nhưng Bồ tát Quảng Ðức

là vỉ nhân mà siêu nhân.

(Trích Hồi Ký chưa xuất bản của Tỷ kheo Thích Trí Quang, bản riêng

Mai Lan lệ Ấn) Nguồn Tư Liệu :

http://www.khuongviet.net/PD63/Quangduc.htm

NGỌN LỬA THÍCH NGUYÊN HƯƠNG.

Đại đức Thích Nguyên Hương, pháp hiệu Đức Phong, thế

danh là Huỳnh Văn Lễ, sinh năm Canh Thìn (1940) tại làng Long Tĩnh,

xã Liên Hương, quận Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết), thân

phụ là ông Huỳnh Thân, thân mẫu là bà Trương Thị Sang. Ngài là người

con duy nhất của ông bà.. Ông xuất gia năm mười tám tuổi, theo học với

Thiền sư Viên Trí ở chùa Bửu Tích. Năm hai mươi tuổi ông thọ cụ túc

giới và sau đó nhận chức trụ trì chùa Bửu Tạng ở Bình Thuận từ tháng

9/1962.

222 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thánh Tử Đạo Thích Nguyeên Hương

Vị Pháp Thiêu Thân ngày 15-06 Quý Mão (1963)

Năm Mậu Tuất (1958) 18 tuổi, sau bao năm tháng học hạnh

thiền môn, Ngài được Bổn sư cho đến cầu pháp thọ Sa di giới với Hòa

thượng Viên Trí tọa chủ chùa Bửu Tích, quận Hòa Đa, Phan Rí Thành.

Từ đây cuộc đời tu học của Ngài đều y chỉ vào Bổn sư truyền giới, để

chuẩn bị cho giai đoạn được dự vào hàng Thích tử sau này.

Năm Canh Tý (1960) khi vừa tròn 20 tuổi Ngài được thọ Cụ túc giới tại

giới đàn chùa Bửu Tích và được Bổn sư truyền thụ ban pháp hiệu là Đức

Phong.

Qua từng giai đoạn, kể từ lúc bước vào cuộc sống thiền gia,

Ngài đã được Bổn sư giáo dưỡng, vừa chu toàn kiến thức Phật học, vừa

hoàn tất các chương trình phổ thông thế học. Từ đó, Hòa thượng Bổn sư

223 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

an tâm cho Ngài thực hiện bước vân du học đạo nơi chư tôn đức gần xa.

Ngài đã xuôi đến các vùng đất phía Nam, đặc biệt là Sài Gòn. Trong lúc

này, Ngài đã nhìn thấy chính quyền Ngô Đình Diệm ra tay đàn áp Phật

giáo, các phong trào chống đối sự kỳ thị tôn giáo của Diệm khắp nơi nổi

lên. Là một tu sĩ Phật giáo, Ngài không khỏi chạnh lòng, bàng hoàng và

đau xót, vội quay trở về quê nhà Phan Thiết và đảm nhiệm trụ trì chùa

BửuTạng.

Năm Quý Mão (1963) khi bao dự án tái thiết và lập chương

trình tu học cho Phật tử nơi chùa Bửu Tạng chưa kịp hoàn thành, thì

ngày 11.6 ngọn lửa thiêu thân của Hòa thượng Quảng Đức đã thổi bùng,

lan tỏa khắp mọi miền đất nước, nung thêm khí thế của Tăng tín đồ vốn

đã từng sôi sục ý chí đấu tranh để bảo vệ chánh pháp. Trong chiều sâu

tâm khảm kiếp nhân sinh, đó còn là một ai tín, gây sửng sốt không riêng

gì hàng triệu Phật giáo đồ Việt Nam, mà còn cảm động loài người khắp

nămchâu.

Sự kiện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức đã đánh thức

lương tri nhân loại và hai từ “Phật Giáo” dù đối với các thế lực chính trị

chưa hoặc còn lờ mờ về tôn giáo này, phải được minh định vị trí và tôn

trọng. Chính Tổng thống Hoa Kỳ J.Kennedy trước buổi họp của Hội

đồng An ninh Quốc gia ngay sau sự kiện Hòa thượng Quảng Đức tự

thiêu, đã hỏi một câu rất ngây thơ nhưng cũng không kém phần chua xót

rằng “Phật giáo là cái gì ?”. Rõ ràng các tập đoàn lãnh đạo Pháp, Mỹ đến

xâm lược nước Việt Nam họ rất xem thường hoặc chẳng cần biết đến

Phật giáo, một tôn giáo lớn vốn gắn liền như xương với thịt, như máu

với linh hồn của dân tộcViệtNam.

Với Ngài, sự kiện đó vừa làm tăng nỗi đau vừa như dung nạp

thêm bao điều bức xúc đã dồn nén bấy lâu. Ngay tại ngôi chùa Ngài

đang trụ trì ngày 30.5.1963, đáp ứng lời kêu gọi đấu tranh của Hòa

thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết, tổ chức lễ cầu siêu cho Phật tử bị tàn

sát tại Huế ngày 8.5.1963, việc này đã bị chính quyền tỉnh Bình Thuận

buộc phải giải tán, đe dọa mọi người và bản thân Ngài bị gán cho tội

manhđộng.

224 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Hệ quả đã trở thành thảm trạng : sự lo sợ vu vơ cứ đè nặng

trong đầu những người Phật tử chơn chất chân quê; không còn ai dám

đến chùa, bàn thờ tổ tiên, thờ Phật ở gia đình cũng phải vội xếp cất !

Một số Phật tử có tâm huyết thì gạt nước mắt tạ từ Ngài, giã biệt quê

hương; lớp tránh bắt đi cải huấn, lớp tránh bị vu cáo “tay sai cộng sản”;

lớp tìm vào Sài Gòn trực tiếp hòa nhập công cuộc đấu tranh sâu rộng

hơn.

Riêng Ngài, cũng đã định sẵn cho mình một hình thức đấu

tranh, hình thức đó vẫn còn trong ý niệm nếu bản thông cáo giữa Phật

giáo và chính quyền không bị biến thành kế hoãn binh của Ngô Đình

Diệm, để rồi tiếp theo sau đó là từng bước phản bội, đàn áp. Trong ba

vùng Phan Rang – Phan Rí – Phan Thiết những ngày ấy các ngôi chùa

trở nên hoang vắng, thê lương. Những đêm vắng tiếng chuông chùa,

vắng thời khóa và người qua lại, Ngài thường ngồi bên ngọn đèn dầu lạc

cháy leo lét, tâm tư luôn đè nặng bao tấm lòng thiết tha với vận mệnh

đạo pháp. Ngài đôi lần đắp y lên chánh điện lễ Phật rồi đi xuống, không

đánh một tiếng chuông, thậm chí không một bước đi mạnh, bởi mật vụ

lãng vãng chung quanh, chờ có sơ hở để phục bắt Ngài.

Tất cả những diễn biến trên xảy ra chưa đầy sáu tháng của năm 1963, đã

đưa Phật giáo Việt Nam đến bước phải khẳng định thế đứng của mình.

Thế mà vẫn chưa đủ để Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc bấy giờ là

Nolting báo cáo về Ngũ Giác Đài với ý đồ xuyên tạc, đánh lừa dư luận

và có vẻ khinh thường nỗ lực đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, nên

ngày 01.8.1963 Hòa thượng Hội chủ gởi Tổng thống Hoa Kỳ một điện

văn phản đối về hành động này một cách quyết liệt nhưng vẫn bặt vô âm

tín. Ngài quyết định thực hiện ý nguyện thiêu thân, để chứng tỏ với thế

giới rằng ở miền Nam Trung bộ lửa đấu tranh đã bùng cháy.

Đại đức Thích Nguyên Hương, tuổi đời chỉ mới hai mươi ba,

nhưng thầy đã có một định lực khá vững vàng, một đạo tâm rất cương

quyết. Ngày 4 tháng 8 năm 1963, (nhằm ngày 15 tháng 6 năm Quí mão)

trong khi chư Tăng Ni và tín đồ Phật giáo đang tọa thiền tuyệt thực tại

chùa hội quán tỉnh hội Bình Thuận, thì thầy đã tự châm lửa đốt thân

mình ngay trước tỉnh đường Phan Thiết. Thầy ngồi yên trong ngọn lửa

225 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đỏ, đồng bào Phật tử đứng chung quanh đồng niệm Nam mô A Di Đà

Phật cầu nguyện cho giác linh của thầy được siêu sinh tịnh độ, cho tới

khi thân thầy ngã quỵ xuống mặt đường. Một tốp lính địa phương quân

nổ vài phát súng chỉ thiên giải tán đồng bào Phật tử, một tốp khác dập

tắc lửa đưa thi hài của thầy vào bệnh viện Phan Thiết, tiếng loa phóng

thanh từ chùa tỉnh hội vang lên:

“Đại đức Nguyên Hương, một vị tăng sĩ của Giáo Hội Tăng

Già Bình Thuận vừa tự thiêu để phản đối chánh quyền đàn áp tôn giáo,

không chịu thực thi bản thông cáo chung.”

Đại đức Nguyên Hương tự đốt thân mình cúng dường Phật

hoàn toàn không ai hay biết. Trước khi thầy hoàn thành sự tự nguyện

này, thầy có viết để lại ba lá tâm thư: Một lá gởi cho Hòa thượng Thích

Tịnh Khiết xin sám hối về việc tự nguyện đốt thân, đó là trách nhiệm

của một tăng sĩ trong thời mạt pháp, trong tình hình Phật giáo Việt Nam

bị đàn áp, bị kỳ thị. Một lá gởi cho đệ tử bổn đạo chùa Bửu Tạng khuyến

bảo mọi tín đồ hãy an tâm tu học và cầu siêu cho thầy. Lá thư cuối cùng

gởi cho song thân, trong đó thầy khuyên hai người hãy tinh tấn niệm

Phật và đừng trách cứ vị Bổn sư của thầy là thiền sư Viên Trí, vị thiền

sư đáng kính này không hay biết về việc làm của thầy.

NGỌN LỬA THÍCH THANH TUỆ.

Ngọn lửa lần này của một vị học tăng mười tám tuổi, thế

danh là Bùi Huy Chương, pháp danh Thanh Tuệ, sinh năm 1945 tại

Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1960, thọ giới sa di với thiền sư Đảnh Lễ

tại chùa Phước Duyên, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Trước khi ông thắp lên ngọn lửa định lực để củng cố thêm

niềm tin trong giới tín đồ Phật tử và đồng bào khắp trong và ngoài nước,

vào đêm 12 tháng 8 năm 1963, ông điềm nhiên ngồi viết để lại bốn bức

226 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thư. Một bức gởi cho tổng thống Ngô Đình Diệm ông viết rất gọn gàng

và vắn tắt:

“Yêu cầu tổng thống hãy chấm dứt việc khủng bố và áp bức

Phật tử, và phóng thích ngay những người bị giam giữ. Chính sự nhục

mạ và càn rở của bà Nhu sẽ làm cho chánh quyền sụp đổ và đưa Phật

giáo đồ đến thành công.”

Một lá thư gởi tăng đồ Phật giáo, ông viết:

“Hãy tinh tấn và siết chặt tay giữ vững niềm tin tranh đấu

đưa Phật giáo Việt Nam đến đích thành công.”

Một lá thư viết gởi cho thầy bổn sư và bổn đạo chùa Phước

Duyên. Một lá viết gởi cho gia đình.

Hai giờ sáng ngày 13 tháng 8 năm 1963, tại ngôi chùa Phước

Duyên hẻo lánh, lúc bấy giờ đại đức trụ trì đi vắng, một mình ông lửng

thửng đi ra ngoài cổng tam quan chùa và ngồi xuống trong tư thế kiết

già, tẩm xăng tự đốt thân mình. Phần hồn của ông vào cõi hửu dư Niết

bàn, nhưng thân xác của ông bị cường quyến ác bá hốt đem đi mất tích.

NGỌN LỬA THÍCH NỮ DIỆU QUANG.

Ngọn lửa Thanh Tuệ tại chùa Phước Duyên còn đang âm ỉ,

ngày 15 tháng 8 năm 1963 tại thành phố Huế có khoảng một ngàn sinh

viên, học sinh tổ chức biểu tình phản đối nhà cầm quyền đàn áp đồng

bào Phật tử tại chùa Phước Duyên, buộc chánh quyền trả lại thi thể tăng

sinh Thanh Tuệ.

Một bên yêu cầu thích đáng, một bên khiêu khích lố lăng,

khác nào lửa đang âm ỉ lại chế thêm dầu. Cho nên vào tám giờ ba mươi

227 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

phút cùng ngày 15 – 8 – 1963, một ni cô tuổi đời vừa hai mươi bảy tẩm

xăng tự đốt thân mình tại huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Người đó là ni cô Thích nữ Diệu Quang, thế danh Ngô thị

Thu, sanh năm 1936 tại làng Phù Cát tỉnh Thừa Thiên. Ni cô xuất gia

năm hai mươi mốt tuổi, theo học với ni sư Diệu Hoa tại ni viện Vạn

Thạnh ở Nha Trang. Tất cả những lá tâm thư và di thể của ni cô đều bị

chánh quyến cướp mang đi mất tích.

NGỌN LỬA THÍCH TIÊU DIÊU.

Ngọn lửa này chưa tắt hẳn, ngọn lửa khác lại bùng lên. Lửa

tiếp lửa mãi mãi tiến tới không lùi. Chính nhờ những ngọn lửa thiêng

như trên mà nền phong hóa của Phật Giáo Việt Nam ngày nay mới có tư

thế vững vàng trên diễn đàn thế giới.

Chư Phật, chư đại Bồ Tát khắp mười phương đều nhìn thấy

thảm cảnh của Phật Giáo đồ vào năm 1963. Các Phật tử trên khắp năm

châu bốn biển thảy đều ủng hộ sự tranh đấu kiên định của chư vị thiền

sư lảnh đạo Phật giáo Việt Nam. Tại các chùa viện lớn tại đô thành hoa

lệ, đến các am tự hẻo lánh ở thôn quê, thảy đều vang lên tiếng kinh cầu

nguyện cho đất nước này sớm thanh bình, an lạc, cho Phật giáo đồ Việt

Nam tránh được họa diệt vong.

Tại thành phố Huế, ngày 15 tháng 8 năm 1963, tất cả chợ

búa, trường học, xí nghiệp, công sở đều nhất loạt tổng đình công theo lời

kêu gọi của giới lảnh đạo Phật Giáo. Chánh quyền thị xả ban hành lệnh

giới nghiêm và thiết quân luật toàn diện. Chùa chiền bị phong tỏa, hàng

chục ngàn người bị cô lập trong các chùa Linh Quang, Từ Đàm và Diệu

Đế.

228 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thành phố Huế cổ kính và nhân hậu kia giờ bổng trở nên

thành phố chết, thành phố ma, vì chỉ thỉnh thoảng thấy vài bóng người

lom khom chạy vụt nhanh dười

những mái hiên phố phường.

Trong lúc đó tại chùa Từ

Đàm có khoảng năm ngàn Phật tử

túc trực. Vào hồi bốn giờ sáng

ngày 16 tháng 8 năm 1963, bất

ngờ thượng tọa Tiêu Diêu tự đốt

thân mình ngay tại chùa Từ Đàm,

ngài để lại ba bức tâm thư, một

cho hòa thượng Thích Tịnh Khiết,

thầy bổn sư truyền giới của ngài,

một lá cho các đệ tử của ngài và lá

thư thứ ba viết gởi tổng thống

Ngô Đình Diệm. Ngài hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi đời, hai mươi ba

tuổi đạo.

Thượng tọa Thích Tiêu Diêu, không biết thế danh, sanh năm

1892 tại làng An Truyền, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Năm ba

mươi tám tuổi (1930) ngài xin thế phát quy y với hòa thượng Thích Tịnh

Khiết ở chủa Tường Vân, năm 1952 ngài thọ đại giới và sau đó dựng

một tịnh thất gần chùa Châu Lâm để tỉnh tu. Ngài đã từng theo học Phật

tại chùa Tây Thiên và Linh Quang.

NGỌN LỬA THÍCH QUẢNG HƯƠNG.

Thượng tọa Quảng Hương có thế danh là Nguyễn Ngọc Kỳ,

sinh năm 1926 tại Phú Yên. Thầy xuất gia năm 17 tuổi và sáu năm sau

tức năm 1949 thầy thọ đại giới, trụ trì tại chùa Liễu Sơn. Năm 1950 thầy

vào Nha Trang thụ huấn tại Phật học viện trung phần Hải Đức, Nha

229 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trang. Năm 1959 được cử làm giảng sư tại trường đại học Đàlạt. Năm

1960 được thỉnh về trụ trì chùa Sắc Tứ Khải Đoan.

Năm 1961 thầy được mời làm giảng sư tại tỉnh hội Phật giáo

Buôn ma Thuột. Thầy hành đạo tại đây cho đến một ngày ngọn lửa đốt

thân bùng lên.

Trưa ngày 05 tháng 10 năm 1963 tại công trường Diên Hồng,

trước chợ Bến Thành, vào cuối thu mà thời tiết Saigon vẫn còn oi bức.

Quần chúng bổng kinh hoàng khi nghe mọi người la hét thất thanh “Có

một thầy tự thiêu ở chợ Saigon”. Thầy đó là ai? Chính là Thượng tọa

Thích Quảng Hương vậy. Ngọn lửa Quảng Hương chứng tỏ cho thế giới

thấy rằng thảm họa cho Phật tử Việt Nam vẫn còn đó, vấn đế tôn giáo

Việt Nam vẫn chưa thay đổi, và đồng thời vô hiệu hóa những hình thái

giả trang của chánh quyền Saigon, những giả trang nhằm đánh lừa dư

luận quốc tế.

Năm đó, thầy hưởng dương ba mươi bảy tuổi.

NGỌN LỬA THÍCH THIỆN MỸ.

Đúng hai mươi hai ngày sau, tức là ngày 27 tháng 10 năm

1963, nhằm ngày chủ nhật, nhà thờ Đức Bà có đông đảo tín đồ Thiên

chuá giáo đi lễ. Vào lúc 10 giờ ba mươi phút tại cổng trước nhà thờ, đối

diện với bưu điện thành phố, quần chúng phát giác một ngọn đuốc sáng

rực tỏa bùng lên cao gần 3m. Đó chính là ngọn đuốc của thầy Thiện Mỹ.

Thầy có tên thế danh là Hoàng Miều sinh năm 1940 tại Bình Định. Thầy

xuất gia hồi tuổi còn thơ. Năm mười sáu tuổi thọ Sa di giới, năm hai

mươi tuổi thọ cụ túc giới. Thầy từ Dà Lạt vào Saigon giữa tháng mười

năm 1963 và tạm trú tại chùa Vạn Thọ Tân Định. Trước đó thầy định tự

thiêu tại chùa An Quang, tại đây từ trong ra ngoài cảnh sát mật vụ đen

như kiến nên thầy không thực hiện được ý mong muốn. Rốt cuộc thầy

230 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

chọn một nơi chẳng bộ phận chánh quyền nào để ý, đó là nhà thờ, mà lại

là nhà thờ chính tòa ở trung tâm thành phố mới kỳ diệu.

Ngọn lửa cuối cùng này thật là lạ lùng, thật là thiện mỹ. Có

năm điều lạ lung :

1. Lạ lùng thứ nhứt là vì đồng bào công giáo đi nhà thờ sáng hôm đó

lại là những người bảo vệ thân xác thầy Thiện Mỹ không bị chánh

quyền cướp đem đi dấu mất tích.

2. Lạ lùng thứ hai là đồng bào Phật tử phối hợp với đồng bào công

giáo làm ba vòng rào người không cho cảnh sát tiếp cận sát ngọn

lửa.

3. Lạ lùng thứ ba là khi cảnh sát tiếp cận với ngọn lửa bèn dở nón ra

quạt cho ngọn lửa bùng lên. Thấy ngọn lửa không bùng lên bèn

giựt lấy nón lá của mấy bà quạt thêm vào ngọn lửa. Càng quạt lửa

càng bùng lên cao ngọn, chẳng khác nào lấy quạt ba tiêu mà quạt

lửa Diệm sơn.

4. Lạ lùng thứ tư là trong khi đồng bào Phật tử quỳ xuống đảnh lễ

niệm Phật, thầy Thiện Mỹ từ trong ngọn lửa hồng chấp tay xá xá

lại như để chào vĩnh biệt, tức thì ký giả trong và ngoài nước vây

kín để quây phim và chụp ảnh. Trong đó có một bức ảnh cảnh sát

lấy mền chụp lên ngọn lửa, nhưng lửa không tắt mà lại cháy luôn

cả cái mền, cảnh sát giựt cái mền, thầy ngả xuống, kỳ diệu thay,

thầy gượng ngồi dậy.

5. Lạ lùng thứ năm là khoảng mười phút sau thầy mới ngả xuống hẳn,

lúc ấy xe cứu hỏa mới tới xịt nước để xóa bỏ những dấu tích của

vụ tự thiêu.

Ngọn lửa Thiện Mỹ đốt thân cúng dường chư Phật, và phản

đối bạo quyền toan tính hủy diệt Phật Giáo Việt Nam, là ngọn lửa thiêng

cuối cùng trong bảy ngọn lửa vị pháp vong thân tỏa sáng khắp năm châu

231 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

bốn biển, thiêu đốt tâm thức cuồng mê của kẻ kỳ thị tôn giáo, và đốt rụi

cả một chế độ độc tài: của chánh quyền Ngô đình Diệm vào ngày 1 -11 –

1963.

Trở lại phần kinh văn, chúng ta đọc tiếp:

“4.- Ngài Nhứt Thiết chúng sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, làm

việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh

trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ở nơi nhà vua

Tịnh Đức bổng nhiên ngồi xếp bằng hóa sanh ra, liền vì vua cha mà

nói kệ rằng:

Đại Vương nay nên biết

Tôi kinh hành chốn kia

Tức thời đặng nhứt thiết

Hiện chư thân tammuội

Siêng tu rất tinh tấn

Bỏ thân thể đáng yêu

Cúng dường đức Thế Tôn

Để cầu huệ vô thượng.

“Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: “Đức Nhựt Nguyệt

Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật

xong đặng “Giải Nhứt Thiết Chúng sanh ngữ ngôn đà la ni” (107)

lại

nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na do tha, chân

ca la, tần bà la, a súc bà, (108)

các bài kệ.

“Đại vương, tôi nay lại lên cúng dường đức Phật đó.

Thưa xong liền ngồi đài bảy báu bay lên hư không, cao bằng bảy cây

đa la, qua đến chỗ Phật, đầu mặt tay chân, chắp tay nòi kệ khen

Phật:

Dung nhan rất đẹp lạ

Anh sáng soi mười phương

Con vừa từng cúng dường

Nay lại về thân ấy.

232 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“5.- Lúc đó ngài Nhứt Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến Bồ Tát

nói kệ xong mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Đức Thế Tôn vẫn còn ở

đời đó ư?”

“Bấy giờ đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo ngài

Nhứt Thiết Chúng sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử Giờ ta

nhập Niết bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên sắp đặt giường

tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết Bàn.”

“Phật lại bảo ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ

Tát rằng: “Thiện nam tử! Ta đem Phật Pháp giao phó cho ông và

các Bồ Tát đại đệ tử cùng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,

cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên, các cây báu, đài báu và

hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.

“Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá lợi cũng phó chúc cho

ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao

nhiêu nghìn tháp.”

Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức ủy thác cho ngài Nhứt

Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát những việc cần làm và phải làm xong

rồi, vào khoảng nửa đêm Phật liền nhập Niết bàn. Bồ Tát Nhứt Thiết

Chúng Sanh Hỷ Kiến vô cùng buồn rầu, sầu khổ, thương tiếc bèn dùng

các chất đốt có mùi thơm như hải thử ngạn chiên đàn làm giàn để thiêu

đốt thân Phật.

Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá lợi đựng trong bình báu. Bồ Tát

Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến nhớ lời Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh

Đức dặn dò muốn cúng dường Phật thì phải truyền lưu xá lợi rộng khắp

trong cõi ta bà. Có một câu hỏi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức

Phật là phải xây bao nhiêu nghìn tháp? Ngài nhớ đến chư Phật trong quá

khứ diễn nói tám mươi bốn ngàn pháp môn để độ sanh, cho nên Bồ Tát

liền thu lấy xá lợi đựng trong tám mươi bốn ngàn bình báu và xây dựng

tám mươi bốn ngàn tháp báu cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm,

thòng các phan lọng, treo các linh báu để tôn thờ.

233 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự nghĩ

rằng:

“Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên

cúng dường xá lợi.”

Và tuyên nói trong hàng đệ tử là chư vị đại Bồ Tát và Trời,

Rồng, Dạ xoa v.v… cùng tất cả các đại chúng rằng:

“Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá

lợi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật.”

Tuyên bố xong liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp báu đốt

cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy mươi hai ngàn năm để cúng

dường. Khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô số người phát tâm Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác đều làm cho trụ trong “Hiện nhứt thiết

sắc thân tam muội”.

Lúc đó các Bồ Tát, Trời, Người, A tu la v…v… thấy ngài

không có tay sầu khổ buồn thương mà nói rằng: “Ngài Nhứt Thiết

Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát này là Thầy của chúng ta, giáo hóa chúng

ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ.”

Lúc ấy ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong

đại chúng lập lời thệ rằng:

“Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu

thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ.”

Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước

đức trí huệ thuần hậu của Bồ Tát cảm nên. Đương lúc đó cõi tam thiên

đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới hoa báu, tất cả người và

trời đều đặng lợi ích.

Kinh thuyết :

234 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam thiên

đại thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ Tát, Duyên Giác và A la

hán, công đức của người đó đặng chẳng bằng người thọ trì kinh

Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này

rất nhiều.”

Như vậy công đức của người thọ trì kinh Pháp Hoa quả là vô

cùng thánh lạc, dù chỉ là thọ trì một bài kệ bốn câu. Đức Phật dạy:

- Đối với sông, ngòi, kinh, rạch, kinh Pháp Hoa là biển.

- Đối với các núi thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu thiết vi, núi đại thiết vi

cùng mười núi báu khác, kinh Pháp Hoa là núi Diệu cao.

- So với các vì tinh tú khác, kinh Pháp Hoa là mặt trăng.

- Kinh Pháp Hoa là mặt trời, bức phá các sự tối bất thiện.

- Đối với các bực vua quan, tể tướng, thống đốc, kinh Pháp Hoa là

Chuyễn Luân Thánh Vương.

- Đối với các vị thiên vương trong ba mươi ba cõi trời, kinh Pháp

Hoa là trời Đế Thích.

- Nếu trời Đại Phạm là cha của tất cả chúng sanh, kinh Pháp Hoa

cũng thế là cha của tất cả hiền thánh.

- Trên bực phàm phu có bực Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, Vô sanh,

Duyên Giác là nhứt, kinh Pháp Hoa là bực nhứt các bực nêu trên.

- So với các bực Thanh văn, Duyên Giác thời Bồ Tát là bực nhứt,

kinh Pháp Hoa này cũng như thế là bực nhứt trong các kinh.

- Như Phật là vua của các pháp, kinh Pháp Hoa cũng thế là vua

trong các kinh.

235 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Kinh thuyết :

“9.- Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng

sanh. Kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não.

Kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong

cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những

người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y

phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp

ghe, như người bịnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo

đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như

đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng thế, có thể làm cho chúng

sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bịnh tật đau đớn có thể mở sự trăn trối

của tất cả sanh tử.”

Tựa của phẩm kinh này là Dược Vương, có nghĩa là phương

thuốc chúa chửa trị bá bịnh, từ bịnh phong, nhọt, ung, bướu đến bịnh tà

kiến, mê tín, dị đoan; từ bịnh tim, gan, tạng, phổi đến bịnh ngã, nhơn,

chúng sanh, thọ giả tướng; từ bịnh khổ, não, đau, buồn đến bịnh vô

minh, hư vọng v…v… tất cả những bịnh chứng đó gặp thang thuốc chúa

của ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đã tôi luyện bảy mươi

hai ngàn năm uống vào sẽ tiêu hết bịnh tật. Vì sao? Bời vì ngài Nhứt

Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đã từng nghe đức Nhựt Nguyệt Tịnh

Minh Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa suốt tám trăm nghìn muôn ức na

do tha cùng các bài kệ. Rồi sau đó ngài tái sanh vào làm con của vua

Tịnh Đức, ngài có nhơn duyên gặp lại đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức

Phật một lần nữa, và ngài lại được đức Phật này nói kinh Pháp Hoa cho

nghe, ngài phát nguyện đốt hai cánh tay hư vọng để đổi lấy Phước đức

Trí huệ trang nghiêm của Như Lai, và sau cùng ngài hóa thân là Dược

Vương Đại Bồ Tát.

Ngài Dược Vương Bồ Tát vì pháp mà quên thân mình, ngài

đã từng hy sinh thân mạng và còn làm không biết bao nhiêu chuyện khổ

khó làm mới đổi đặng thân sắc vàng của Phật bằng mười hai nguyện lớn

cứu độ chúng sanh.( Kinh Dược sư )

236 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Dược Vương là phương thuốc chúa. Phương thuốc chúa đó

chính là kinh Pháp Hoa. Cho nên hành giả nào có nhơn duyên với Phật

thì hãy phát nguyện biên chép kinh này, hoặc bảo người chép thời đặng

công đức vô lượng.

Phật dạy tiếp:

“Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này, hoặc chép,

hoặc bảo người chép đặng công đức, dùng trí huệ của Phật tính

lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép kinh này, dùng

hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan

lọng, y phục, các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm:

Đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà

lợi sư ca, đèn dầu na đà ma lợi đem cúng dường đặng công đức cũng

là vô lượng.

Trước đây đức Phật khuyến khích đệ tử học Phật hãy chuyên

cần thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa là phần chính, còn phần diễn giải,

biên chép, quảng bá diệu lý là để riêng một bộ phận khác. Bây giờ đức

Phật phán cho tất cả đệ tử:

“Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này hoặc chép

hoặc bảo người chép đặng công đức vô lượng.”

Đã đến lúc mọi người trong chúng ta đều phải dốc một lòng

đền báo ân thâm trọng của đức Phật bằng cách cúng dường pháp, tức là

thực hành quảng bá diệu lý sâu rộng từ trong nhà ra ngoài xã hội, từ

trong nước ra khắp các nước lân bang. Thực hành lời Phật dạy này, hai

trăm năm mươi năm sau, có mười vị Thánh Tăng đi truyền bá giáo lý

Phật Thích Ca Mâu Ni ra ngoài nước An Độ, nhờ đó mà khắp nơi được

thấm nhuần ánh đạo.

237 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

CÔNG ĐỨC MƯỜI VỊ THÁNH TĂNG.

Hơn hai trăm năm mươi năm sau, kể từ khi Phật nhập Niết

Bàn, (tức vào năm 136 trước tây lịch) Hội Thánh kỳ ba được mở ra

nhằm củng cố lại giềng mối đạo Phật thuần túy và tuyển chọn những nhà

truyền giáo có thực tài đem truyền bá tinh hoa diệu pháp ra nước ngoài.

Trong đại hội kỳ nhứt, dưới sự chủ trì của Ngài Ma Ha Ca

Diếp, vị Tổ đời thứ nhứt, có năm trăm vị Thánh Tăng họp cùng nhau

dọn thành ba tạng kinh để dìu dắt chư Tăng tránh được sự sai lầm có thể

xảy ra. (Đọc Thị Giả A Nan, tr.314.)

Khoảng một trăm năm sau đó, đại hội kỳ hai diễn ra, người

đương thời gọi một cách cung kính là Đại Hội của các vị Trưởng lão

nhằm mục đích kềm chế sự tự do của các nhà sư tuổi trẻ, những người

này làm trái giới luật của đức Thế Tôn đã ban hành, khiến cho tám vị

trưởng lão thiền sư, trong đó đều trên 120 tuổi, lấy làm đau lòng, đứng

đầu là vị trưởng lão Da Xá (Yacas) đã trên 160 tuổi, ngài thuộc giòng

dõi quí tộc, giàu có, đã từ bỏ vinh hoa phú quí theo Phật nghe thuyết

pháp ở thành Ba la nại (Bénarès) lần đầu.

Một hôm ngài Da Xá sang thành Tỳ xá Lỵ (Vaicâli), ngài

thấy các sư sải hội họp thọ lảnh tiền bạc của bá tánh, ngài vô cùng bất

bình, bèn lên tiếng can ngăn, nhưng chẳng ai chịu nghe. Ngài nói:

“Kẻ Thích Tử đã xuất gia rồi sao lại còn nhận bạc vàng châu

báu, nhứt là những đồ vật trang điểm bằng vàng, vì đã phát nguyện xả

phú cầu bần, không còn màng của tiền chi nữa.”

Đã vậy, những sư sải này họ chia tiền cho nhau rồi còn để lại

chút đỉnh chia cho ngài Da Xá, nhưng ngài từ chối một cách khinh bỉ. Số

sư sải trẻ này có khoảng mười hai ngàn vị, họ bèn hội họp nhau lại định

phạt ngài vì đã xúc phạm đến thiện nam tín nữ có lòng từ tâm cúng

238 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dường. Họ buộc ngài Da Xá phải xin lỗi với thiện nam tín nữ. Ngài Da

Xá ưng thuận, nhưng nói thế này:

“Xưa đức Phật có ra lệnh, trong Tăng đồ ai phạm phép đi

xin lỗi thì phải có một người đi theo đặng giữ chừng.”

Các sư sải trẻ chấp nhận và cử một thầy đi theo ngài. Ngài

Da Xá đi với một thầy tới thành Tỳ xá lỵ (Vaicâli), ngài bèn thuyết pháp

trước thiện nam tín nữ như vầy:

“Kính trình quí ngài. Tôi đã nhận biết xúc phạm quí ngài là

những bậc thiện nam, tín nữ rất có từ tâm và có lòng sốt sắng cúng

dường. Thật tôi có xúc phạm, nhưng vì làm sao? Bởi vì hể sái luật, tôi

kêu là sái luật; trúng luật, tôi gọi là trúng luật; bởi vì hể sái trật tự, tôi

bảo là sái trật tự; có trật tự, tôi quyết là có trật tự.

“Này quí ngài! Có một lần Phật ngự tại xứ Xá Vệ (Crâvasti)

trong vườn Kỳ Thọ của nhà thương gia Cấp Cô Độc mua cúng. Phật

phán với Tăng chúng như vầy: “Chư đệ tử!Mặt trời với mặt trăng bị

bốn cái hại nên không sáng ra, không chiếu sáng và không soi sáng.

Bốn cái hại đó là gì? Chính là mây, sa mù, khói bụi, nhật thực nguyệt

thực. Chư đệ tử! Các sư đạo Phật với các thầy Bà la môn cũng như

thế, cũng bị bốn cái hại nên không sáng ra, không chiếu sáng và

không soi sáng. Bốn cái hại đó là gì, chính là:

1. Say sưa vì rượu mạnh.

2. Ham nguyệt hoa và mê sắc dục.

3. Thọ lảnh vàng, bạc.

4. Và chuyên nghề bất chính.

Rồi Phật xướng lên bài kệ đại ý như vầy:

“Có nhiều sư đạo Phật

Và thầy Bà la môn

Làm nô lệ cho sự thương yêu và sự oán giận,

239 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì cuồng tâm

Họ những mê mẫn với sắc đẹp phô trương ra ngoài,

Họ uống rượu mạnh với rượu trắng;

Họ ngửa tay lảnh lấy bạc vàng;

Họ thật là cuồng tâm!

Họ lại còn đuổi theo những nghiệp nghệ thấp hèn

Ay là bốn cái hại mà ta kể ra đó.

Bởi quá mê muội

Họ đâu có ánh sáng, đâu có sức nóng tinh vi

Họ ô trược, dơ dáy, chẳng khác chi loài thú

Họ những vướng trong bóng tối

Những làm nô lệ cho tình dục

Không được tự do, tự tại

Nên họ càng choán chật chỗ chôn thây

Và chìm đắm mãi trong chốn khổ hải luân hồi.”

Phật phán như vậy đó quí ngài.

Về phần tôi, tôi tự nhận đã xúc phạm quí ngài, vẫn biết quí

ngài là những bậc cư sĩ thiện tâm và có lòng tốt mà cúng dường. Nhưng

hể sái luật, tôi kêu là sái luật; trúng luật, tôi gọi là trúng luật; hể sái trật

tự tôi bảo là sái trật tự; có trật tự tôi quyết là có trật tự.”

Ngài Da Xá (Yacas) lại nhắc thêm một chuyện nữa mà ngài

đã thấy tận mắt, nghe tận tay: “Hồi Phật còn tại thế, chính có người đem

vàng bạc đến cúng dường cho Phật, song Phật đâu có nhận.”

Ngài Da Xá thuyết pháp rất bặt thiệp, thiện nam tín nữ nhiệt

liệt hoan nghinh. Họ tin rằng ngài Da Xá chính thật là đệ tử của Phật,

một bậc xuất gia chơn chính, còn các sư sải ở Tỳ xá lỵ đúng là bọn thầy

tu dối trá, chẳng xứng đáng là Thích Tử đồng môn với ngái Da Xá.

Nhờ có một thầy đi theo ngài Da Xá về kể chuyện lại, các sư

sải này nghĩ rằng ngài Da Xá chẳng chịu tội mà lại còn sĩ nhục họ và

đem chuyện trong Giáo Hội mà phanh phui ra cho người ngoài hay biết,

240 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nên họ oán giận định làm hại ngài. Nhưng ngài Da Xá biết trước, bèn cởi

mây bay qua thành Câu đàm di (Kaucâmbi) lánh nạn.

Vừa đến thành, ngài phái một vị sư đi thỉnh chư Đại đức ở

các miền Ba tây da (Pâtheya), A hoăng ti (Avanti) và Đề Căn (Dekkan)

nhóm đại hội để giải quyết vấn đề quan trọng, đặng cho chơn lý không

bị đàn áp bởi sự bất công và sai lạc.

Quí chư Tăng có học và có hạnh ở khắp cõi Thiên trúc (Inde)

đều qui tụ hướng về núi A đô găng ga (Adhoganga). Miền Ba tây da có

chín mươi vị, miền A hoăng ty có tám mươi tám vị, miền Đề căn cũng

đang lần lượt tới, tất cả đều là các thầy tỳ kheo khất thực và đã đắc quà

La hán. Riêng ngài Da Xá ôm bình bát, xách gậy đi tìm đệ tam Tổ sư

chưởng giáo Thương Na Hòa Tu (Sanakavasa) đang ở trong tịnh xá trên

núi A đô găng ga (Adhoganga). Ngài Da Xá bạch với Tổ sư các hành vi

bạo ngược của sư sải ở Tỳ xá lỵ, Tổ sư đồng ý với ngài và hứa sẽ đánh

đổ bọn sư phá giới ấy.

Tổ sư chưởng giáo họp bàn với chư vị thánh tăng và cho rằng

đây là công việc hệ trọng, khá nguy hiểm, không phải toan tính mà làm

được. Phải cần có thêm người tiếp sức thì mới mong thắng được bọn sư

sải phá giới. Ai nấy cũng đồng ý nên yết kiến trưởng lão Ly Bà Đa

(Revata) là một bậc thông thái, minh mẩn, giỏi giang, khiêm nhượng và

hiểu thấu đạo đức với luật lệ trong Tăng già. Trưởng lão lại là một Đại

La Hán, đệ tử kỳ cựu của đức Phật. Nhưng bây giờ trưởng lão Ly Bà Đa

không biết tịch tịnh nơi nào?

Tất cả các tỳ kheo đang ở tại tịnh xá của Tổ sư bèn bủa ra đi

tìm, trải qua nhiều xứ mới giáp mặt ngai Ly Bà Đa. Họ bèn đem việc các

sư sải ở thành Tỳ xá lỵ có hành vi sái luật do đức Thế Tôn đã ban hành.

Ngài Ly Bà Đa hứa sẽ đứng ra công kích kịch liệt bọn sư này.

Mười điều các sư sải bên Tỳ xá lỵ vi phạm là:

1- Để dành muối trong một cái sừng đặng mấy ngày sau có

mà dùng.

241 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

2- Mặt trời đã xế, cái bóng mình đã dài quá hai ngón tay mà

còn ăn.

3- Khi đã ăn rồi, mà vì sắp đi đâu xa nên ăn thêm một lần nữa

rồi mới ra đi.

4- Chư Tăng ở cùng một xứ mà đến ngày lễ Bồ Tát (rằm và

mồng một) kẻ hành lễ ở nhà này, người hành lễ ở thất kia,

chớ không chịu họp nhau lại một chỗ có Giáo hội đông đủ.

5- Chư Tăng họp không đủ số mà cũng hành lễ nhân danh Giáo

hội, vì tưởng cho rằng dầu mấy vị khác có đến cũng đồng ý

kiến với mình thôi.

6- Cứ thấy bậc Tôn sư hay Thượng tọa làm việc chi thì mình

cũng tự tiện làm như vậy.

7- Khi ăn rồi mà còn uống sữa, thứ sữa đã cũ chứ không phải

sữa tươi.

8- Uống rượu làm bằng thốt nốt, tuy không mấy say chứ cũng

nồng.

9- Cái tọa cụ (thứ chiếu gối để ngồi) của mỗi người khác nhau hết,

chớ không theo luật là phải có bìa.

10- Thọ lảnh bạc, vàng của người cư sĩ đem cúng dường.

Các sư sải bên Tỳ xá lỵ biết ngài Da Xá vận động ngài Ly Bà

Đa đả kích họ, nên họ cũng lo kiếm người trợ sức. Họ bèn cử người sang

ra mắt ngài Ly bà Đa với lễ vật dành cho một vị cao tăng như: Một cái

bát, một bộ áo, một cái tọa cụ, một bao đựng kim, một sợi dây lưng, một

bình lọc nước. Họ đi bằng thuyền, viếng ngài Ly bà Đa và nạp lễ vật,

nhưng ngài Ly bà Đa không nhận lảnh vì đã có đủ bộ vận, không còn

cần dùng gì nữa.

242 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thương lượng với ngài Ly bà Đa không xong, họ quyết mua

lòng đệ tử của ngài là Ut ta ra (Uttara), một nhà sư tuổi chừng đôi mươi.

Họ nói:

“Này huynh! Hồi đó người ta cúng dường cho Phật, nếu

Phật thu nhận thì người ta mừng lắm, còn như Phật không nhận người

ta nhờ đại đức A Nan thu nhận cho, như vậy cũng như Phật nhận. Vậy

anh em chúng tôi xin huynh nhận giúp đồ này, cũng như Tôn sư nhận

vậy.”

Sư Ut ta ra ưng thuận, bèn nhận một bộ áo và hỏi rằng:

“Chư đại đức muốn chi?”

“Anh em muốn nhờ thầy của huynh sẽ khai giữa đại hội rằng

chư Phật đều ra đời ở miền đông trong cõi Thiên Trước (điều này đúng

thật như vậy) Tăng chúng miền đông thay mặt cho đạo Phật, còn các sư

ở Ba tây da là phường bày bố sự bất công.”

Ut ta ra hứa, liền đem lời đó bạch lại với sư phụ. Ngài Ly bà

Đa chẳng những không nghe, lại còn huở đệ tử mình muốn binh vực sự

bất công, thế là ngài Ly bà Đa bèn đuổi Ut ta ra.

Không nhờ được ngài Ly bà Đa, bọn sư sải dối trá bèn đến bệ

kiến vua Ca la A xô ca (Kâla-Acoka) và tâu rằng:

“Chúng tôi từng giữ gìn cảnh tịnh xá, nơi ấy đức Phật trụ

ngày trước, nay nghe có đám Tăng miệt đồng kéo lên toan đánh phá

đặng giựt cảnh tịnh xá của chúng tôi, nhờ bệ hã can thiệp giùm.”

Vua tin họ, hứa giúp cho. Nhưng vua ngủ nằm mộng thấy

mình lầm. Sáng ra, vua ngự đến thành Tỳ xá lỵ, sau khi nghe đôi bên

bàn cải nhau, vua hoan nghinh và ủng hộ phái Tăng già chơn chính. Vua

để cho các nhà sư thông thả nghị luận.

243 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lúc ấy trong xứ Tỳ xá lỵ có một vị sư cao học, từng làm bạn

đồng song với A Nan (Ananda) tên là Xát hoa ca manh (Sarvakâmin) và

hỏi ý kiến ngài đối với mười điều, ngài bảo rằng:

“Theo ý tôi, thì mấy nhà sư miền đông có lỗi, còn chư Tăng ở

Ba tây da thì binh vực chánh pháp. Nhưng tôi chưa thốt ra, chờ khi đại

hội sẽ nói.”

Phái Tăng già theo chánh lý được thêm một vị có uy tín giúp

sức. Gần đến ngày khai hội, ngài Ly Bà Đa bàn với ngài Xát hoa ca

manh nên nhóm nhau tại chỗ xảy ra việc lôi thôi, tức là tại thành Tỳ xá

lỵ. Như vậy đặng quyết định luôn một lần, không còn ai đem mấy điều

ấy ra mà hỏi đi hỏi lại nữa. Chư Tăng vui lòng nghe theo và cùng nhau

sang thành Tỳ xá lỵ.

Theo lời tự thuật của ngài Huyền Trang, hôm khai hội, mấy

vị trưởng lão sáng lập có qui tựu một số Thánh Tăng đếm được sáu trăm

chín mươi chín vị. Lúc ấy một vị Tăng La hán tên là Cú xa Xô bi ta

(Kubja-Côbhita) lấy mắt huệ mà dòm ra, thấy có 699 vị nhóm Đại hội.

Muốn cho đủ số bảy trăm, ngài bèn dùng phép thần thông mà hiện ra

giữa Đại hội.

Khi vừa nhóm họp, người ta bắt đầu bàn cải nhau một chặp

lâu mà không phân định được việc gì. Ngài Ly bà Đa bèn đề nghị nên

bầu ra một ban hội đồng để định đoạt. Ban hội đồng này gồm có tám vị:

bốn vị thay mặt cho chư Tăng ở Tỳ xá lỵ, và bốn vị thay mặt cho chư

Tăng ở Ba tây da. Lại có một đại đức tên A si ta (Ajita) đứng ra lo chỗ

ăn ngồi cho mỗi vị.

Muốn bàn tính Phật sự một cách gọn gàng và yên ổn, người

ta chọn nơi hội họp lâu dài là cảnh tịnh xá Sa viên (Vâhâkâ), nơi đây đẹp

đẻ và yên lặng, xa tiếng rộn rực của thị thành.

Muốn quyết định mười điều coi có thể châm chế hay không,

người ta bàn luận theo cách này:

244 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đức Ly bà Đa nhân danh Giáo hội đứng Ra hỏi luật đức Sát

hoa ca manh, vị này cũng nhân danh Giáo hội, sẳn lòng giải đáp.

-“Bạch ngài, có phép để muối trong sừng hay không?”

-“Để muối trong sừng ra làm sao?”

-“Tức là có phép để dành muối trong một cái sừng đặng về sau lúc nào

muốn dùng thì có sẳn mà dùng chăng?”

-“Không. Không được phép.”

-“Giới cấm ấy ban ra tại đâu?”

-“Tại thành Xá Vệ, và có chép trong kinh Sutta Vibhanga.”

-“Tại làm sao phải phạm giới?”

-“Vì để dành đồ để ăn mấy hôm sau”.

-“Vậy thời tôi trình đề nghị như vầy: Giáo Hội định rằng điều thứ nhứt

là sai Pháp Giới, lạc với chánh ý của đức Phật. Muốn chứng tỏ sự nhất

định ấy, tôi bỏ lá thăm đầu tiên để hủy bỏ điều thứ nhứt.”

Kế đó Giáo Hội lần lượt hủy luôn chín điều kia mà chư Tăng

ở Tỳ xá lỵ đã phạm. Giáo hội cấm chư Tăng ấy không được tái phạm.

Có lắm vị bị trục xuất ra khỏi cảnh Già lam.

Kỳ hội này có bảy trăm vị La Hán nhóm họp nên người ta gọi

là Kỳ kết tập bảy trăm, nhằm đánh đổ sự lêu lỏng của các sư ở Tỳ xá

lỵ. Giáo hội Thánh Tăng thừa dịp ấy mà dượt lại và nhuận sắc Tạng Luật

mà trong kỳ hội lần thứ nhứt của đức Ưu bà Ly (Oupali) đã dọn ra.

Kỳ hội này họp trong tám tháng thì giải tán.

Sau kỳ Hội Thánh Lần thứ hai, một trăm năm mươi năm sau

Hội Thánh Kỳ ba được mở ra nhằm củng cố lại giềng mối đạo Phật

thuần túy và tuyễn chọn những nhà truyền giáo có thực tài đem truyền

bá tinh hoa diệu pháp ra nước ngoài.

Vua A Dục (Acoka), một vị hộ pháp nhiệt thành với đạo

Phật, đứng ra bảo trợ Đại hội Thánh kỳ ba này, có hơn một ngàn vị

Thánh Tăng, dưới quyền chủ tọa của ngài Tích Ha (Tisya), pháp danh

245 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Mục ga li bu tra (Maudgaliputra). Thời bấy giờ người ta nói rằng ngài

Maudgaliputra là hậu thân của đức Mục Kiền Liên (Maudgayâyana),

hiện thân làm Maudgaliputra là để kết hợp cùng với vua A Dục bảo tồn

chính giáo Phật đà và truyền bá mối đạo ra nước ngoài. Cũng trong lần

đại hội kỳ ba này mục đích là lập lại trật tự trong Giáo Hội.

Số là ngài Maudgaliputra thấy các thầy tu hành ngày càng ỷ

lại, giải đải và lười biếng, ham thích tịnh tài, tịnh vật của đàn na tín thí

mang tới cúng dường. Lúc bấy giờ dân chúng quy y theo đạo Phật rất

đông, kẻ xin thọ giới tại gia, người nguyện lảnh thọ cụ túc. Những bực

cao sang như là hàng Bà la môn, danh gia, quí chức, trưởng giả, phú

hào, các nhà thương mại, kỷ nghệ cũng xin thọ trí tam quy ngủ giới. Lại

cũng có các nhà ngoại đạo, nào là sư khổ hạnh, bôi lem mặt mày, nào là

sư để chớp, áo quần nhếch nhác họ đồng rủ nhau vào đạo Phật, trước là

được hưởng các sự cung kính, tôn trọng, sau là đặng lợi dưỡng cúng

dường.

Cũng là do bởi Giáo Hội Tăng Già vì quá đại bi, hỷ xả nên cứ

để mặc nhiên cho các thầy Trưởng tử tự do thu nhận đệ tử. Do đó đối

với Tăng đồ không có thành tâm với Phật Pháp, đối với Giáo Hội có

nhiều việc lủng củng xảy ra, một mối đạo mà chia ra làm tám phái, phái

nào ngồi theo phái nấy, lá y cà sa cũng mặc tùy tiện, làm thiếu tình đoàn

kết gắn bó nội bộ. Cho nên trong lần Đại hội kỳ ba, chủ tọa phải nghe

lần lượt ý kiến của tám phái lý giải rỏ về giáo lý của mình. Phái nào bị

phát hiện là ngoại đạo tà giáo liền bị bác bỏ, Giáo hội buộc họ phải từ bỏ

phái đạo của họ và cho phép được mặc y vàng, sinh hoạt cộng đồng theo

đúng với Tăng đồ chính giáo nhà Phật.

Gạn lọc xong tám phái bây giờ chỉ còn lại một Giáo Hội

Tăng Già thống nhất, ngài Maudgaliputra mới nghĩ đến việc truyến bá

đạo Phật ra nước ngoài. Đây là một công trình vĩ đại. Cuối cùng ngài

Maudgaliputra cũng tuyển chọn xong mười vị có định lực tinh tấn và là

nhà truyền đạo chính thống thực tài của đạo Phật. Mười vị đó là:

246 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

1.- Ngài Madhyântika, ra đi trong mùa bảo dậy tuyết sa, nhưng

ngài cố sức hành đạo và khuyến thiện rất nhiệt thành tại hai xứ Gândhara

và Kastmir. Dân chúng trong hai xứ này quy y theo đạo rất đông. Trong

sinh hoạt hằng ngày người dân đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo chính

là nhờ tài đức cùa ngài vậy.

2.- Ngài Mahadeva xuống miền bán đảo Dekkan tại xứ Maisore.

Một hôm ngài đang thuyết kinh “Deva Sutta”, giảng về sự mắc đọa ở địa

ngục, ngài độ tại chỗ được bốn trăm người tin đạo, và thu nhận bốn

mươi ngàn người vào hàng xuất gia.

3.- Ngài Rakshita sang xứ Vanavâsi, về hướng tây bắc xứ Maisore,

ngài hóa mây lành mà bay lên và thuyết pháp được kết quả đích đáng

lắm. Sau khi đó có sáu mươi ngàn người phát nguyện quy y Tam Bảo,

ba mươi bảy ngàn người thọ giới xuất gia và bổn đạo đồng tâm xây dựng

lên năm trăm ngôi chùa tháp.

4.- Ngài Dharmarakshita người gốc Hy Lạp khuyến đạo ở vùng đất

biên thùy Takjikistan. Dù xa xôi nhưng ngài cũng thu nhặt thành tựu rực

rở. Có ba mươi bảy ngàn người thọ giới quy y làm cư sĩ tại gia, một

ngàn người trong hoàng tộc và sáu ngàn tín nữ xin thọ giới xuất gia.

5.- Ngài Dharmarakshita (hai người cùng tên, vị thứ năm này lớn

tuổi hơn vị thứ tư) truyền giáo ở xứ Mahrattes, về phía bắc xứ Vanavasi.

Ngài thuyết giảng bằng những bài pháp thí dụ mà cũng thu thập rất

nhiều kết quả, quần chúng xin theo thọ giới rất đông.

6.- Ngài Rakshita sang hai xứ Afghanistan và Bactriane giảng một

thời kinh Phật và cũng được lắm người quy y.

7.- Ngài Madhyama có dắt theo bốn vị sư lên phía Tuyết sơn và

thu phục rất nhiều vị thần tiên trên miền Hy Mã.

8 và 9.- Hai ngài Sona và Uttara đi về phía đông Suvarnabhum,

dùng phép huyền diệu mà trừ nhiều hung thần.

247 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

10.- Ngài Mahendra, xuống đảo Tích Lan (Xrilanka) và lập nên

mối đạo ở đó một cách linh diệu, vững vàng, nơi đây là quốc độ xa xưa

của công chúa Da Du Đà La, cho nên phải nói rằng miền này đạo Phật từ

xưa đến nay vẫn thịnh hành đạo chính giáo.

Mười nhà truyền đạo trên đây là bực Thánh Tăng, các ngài có

tấm lòng cao thượng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, biết tùy phương tiện

thuyết pháp độ sanh, đem đèn huệ soi sáng vô minh, tăm tối. Phật pháp

chính thống của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai đặng xiễng dương không

hề có một chút sai lệch chính là nhờ mười vị Thánh Tăng này. Trong đó

cũng có công của vua A Dục.

VUA A DỤC (ACOKA) VÀ TIỀN THÂN.

Người ta nói rằng vua A Dục là một nhà chánh trị biết lấy

đạo đức mà cai trị dân của mình trên khắp miền An Độ, nhưng đối với

Phật Giáo, vua A Dục là một đại thí chủ, một ân nhân, một nhà truyền

giáo, một người có công trong lịch sử tiến thoái của đạo Phật. Trải qua

hai mươi lăm thập kỷ, những dấu tích ngày xưa của A Dục Vương vẫn

còn in hằn sâu trên các núi đá ở An Độ. Lúc đó vua A Dục thường ban

hành những săc lệnh cho khắc vào bia đá, trong đó có một sắc lệnh vua

phán rằng: “Chẳng những trẫm trồng cây, đào giếng giúp cho dân

chúng và thú vật, trẫm lại còn cho trồng nhiều các loại dược thảo để

dùng làm thuốc trị bịnh.”

Một sắc lệnh ghi vào đá khác phán rằng: “Trước kia mỗi

ngày, người ta giết cả trăm ngàn con thú mà cung phụng vào việc ăn

uống trong đền vua Pivadassi. Nhưng hiện nay, mỗi ngày người ta chỉ

hạ có ba con thú mà thôi, hai con công với một con dê rừng. Sau này,

người ta sẽ không còn hạ sát ba con thú ấy, bây giờ cả đền vua đều ăn

chay trường.”

248 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đây kể về chuyện tiền thân của vua A Dục. Một hôm đức

Phật ngự gần thành Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Vào một

buổi sáng ngài vào thành hóa trai, có thị giả A Nan theo hầu. Ngài và

đoàn tùy tùng thấy một nhóm trẻ đang vui đùa bên đống cát, chúng xây

nhà, đền đài, lăng tẩm, kho bải bằng cát, chúng bỏ vào kho những bụm

bụi cát giả đò làm lương thực. Đức Phật đi ngang qua, một đứa trẻ trong

bọn vừa thấy Phật liền vội vã hốt một bụm lương thực (bụi cát) trong

kho bày tỏ cung kính dâng lên cúng dường đức Phật. Ngài nhận lấy, cúi

đầu tỏ vẻ rất hài lòng. Phật liền phán bảo A Nan: “Đệ tử hãy đem chút

bụi cát này về và tô vào trong phòng của Thầy. Này A Nan! Đứa trẻ ấy

nhờ cúng cho Ta chút bụi cát, hai trăm năm mươi năm sau khi ta

nhập Niết Bàn, nó sẽ sanh ra làm vua, lấy tên là A Dục. Còn nhóm trẻ

chơi với nó ngày hôm nay, về sau sẽ đầu thai làm đình thần quan lại

theo hầu vua A Dục. Vua ấy sẽ hoan nghinh đạo ta, lấy cả đất nước

mà dâng lên ngôi Tam Bảo, lại truyền bá đạo ta và lập ra vô số chùa

tháp.”

A Nan bạch hỏi rằng: “Chỉ cúng có một chút bụi cát, sao lại

được hân hạnh mà lập vô số chùa?”

Phật phán: “Vì trẻ ấy có tiền phúc. Thuở xưa hồi đức Phật

Pyshya, nó là một nhà vua, rất sốt sắng với đạo Phật và sẳn lòng

khuyên nhơn dân tu luyện, có thượng nhiều tượng cốt Phật. Nhờ quả

ấy sau này nó sẽ làm vua hiệu là A Dục và cất nhiều cảnh chùa tháp

để thờ đạo ta và tro tàn xá lợi của ta.”

A Dục là con của vua Vindusâra, văn võ song toàn. Một

mình ngài chinh đông phạt bắc, đi tới đâu đều bắt bè lũ phản loạn hàng

phục, bắt đem về vua cha trị tội. Năm 273 trước tây lịch, vua Vidusâra

băng hà, đình thần, tướng sĩ liền tôn a Dục lên ngôi thiên tử.

ACOKA BẠO CHÚA.

Có sách ghi rằng, lúc mới lên ngôi vua, A Dục là một bạo

chúa, mỗi lần xử trảm đến năm trăm quan lại về tội khi quân, một lần

249 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

khác ngài cho thiêu sống năm trăm cung phi về tội nghịch ý với ngài.

Thiên hạ đều kinh sợ nên đặt tên cho ngài là “Ac A Dục” (candacoka).

Ngài cất riêng một tòa nhà trừng trị, một khám đường độc địa, tiếng

thông thường thời ấy gọi là “Địa ngục của A Dục, địa ngục trần gian”.

Ngài phái một tên hung ác, bạo tàn làm chủ ngục và ra lệnh cho hắn bất

cứ ai bước vảo cổng địa ngục này sẽ mãi mãi không bao giờ được trở ra.

Một hôm có một vị sa môn nghe nói đến địa ngục trần gian

này, định bước vào xem thử, ông liền bị chủ ngục bắt nhốt. Vị sa môn

than khóc và nói rằng:

“Không phải vì sợ chết mà bần tăng khóc, nhưng tiếc vì mới

nhập đạo, cho nên bần tăng chưa hiểu hết diệu lý của kinh Pháp Hoa,

bởi đức Phật có nói “Sinh ra làm người đã khó, niệm được hồng danh

của Phật lại càng khó hơn, hiểu được đạo lý lại càng khó vô cùng” bần tăng nghĩ tũi mà khóc vậy thôi”.

Chủ ngục định ra tay giết, nhưng vị sa môn xin được sống

bảy ngày. Lúc ấy trong đền vua có một bà phi phạm tội ngoại tình với

một ông hoàng. Vua bắt cả hai bỏ vào địa ngục trần gian, chủ ngục liền

quăng cặp nhân tình vào cối mà giả. Chày vừa mổ xuống đầu, thì cặp

mắt của họ văng ra. Vị sa môn thấy vậy làm như hoảng sợ và lớn tiếng

nói rằng:

“Hèn chi Phật dạy rằng hình sắc không cứng cát, không

vững bền, có khác bọt nước đâu. Nó tan nhanh như khói, bây giờ cái

hình hài tốt đẹp kia đâu rồi? Gương mặt sắc sảo, nước da mịn màng kia

đâu rồi? Chúng tan đi hết vì chúng là hư vọng. Những phường ngu dốt

mà tâm phải chết đi sống lại mãi, những kẻ ác tâm, hung bạo nào được

hưởng đạo lành.”

Liền đó vị sa môn tham thiền, nhập định suốt đêm, dứt tuyệt

các dây luyến ái, ông đắc quả Tu đà hoàn, rồi quả Tư đà hàm, đến quả A

na hàm, vừa đến đêm thứ bảy ông đắc quả La Hán.

250 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bảy ngày đêm đã mãn, đến ngày thứ tám, chủ ngục nấu một

chảo dầu sôi bắt bỏ ông sư vào chảo, phía dưới chụm lửa đỏ rực. Vị sa

môn vẫn tọa thiền trong dáng điềm nhiên tự tại, không sợ nóng, không

sợ hải, không ưu sầu, không hoảng loạn. Chủ ngục thấy vậy trố mắt ngạc

nhiên nhìn, trong lòng vô cùng lo sợ, liền chạy đi báo vua. Vua A Dục

ngự tới, đình thần, quan lại, hoàng thân quốc thích trong gia đình, cung

tần mỹ nữ đi theo coi rất đông. Phong cách thư thả, vị sa môn đứng dậy

bước ra khỏi chảo, quần áo không dính một giọt dầu. Vị sa môn ứng

dụng thần thông bay lên hư không hóa nhiều phép mầu. Vua thấy rồi,

chấp tay vái chào một cách cung kính. Vị sa môn hạ xuống, ngồi kiết già

và thuyết pháp cho vua nghe, ông lập lại lời tiên tri của đức Phật dạy

rằng:

“Hai trăm năm mươi năm, sau khi Phật nhập Niết Bàn, có

vua A Dục ra đời và lảnh trách nhiệm truyền bá đạo của ta và xây

dựng tám mươi bốn ngàn cảnh chùa tháp.”

Vua liền quỳ phục trước vị sa môn xin sám hối, và nguyện ở

theo pháp giới nhà Phật, gìn lòng thanh tịnh, giữ hạnh nhân từ. Đồng

thời ban lệnh phá ngay cái địa ngục trần gian kia.

ACOKA NHÂN TỪ.

Như vậy kể từ lúc lên ngôi hoàng đế (273 tr.TL) mãi đến

mười hai năm sau (261 tr TL) ngài phát tâm quy y Tam Bảo. Hai năm

sau đó (259 tr TL) đạo lý của Phật Tổ Thích Ca Như Lai được truyền bá

khắp trên đất nước An Độ. Từ đó dân chúng gọi ngài là Thiện Pháp A

Dục (Dharma Acoka).

Từ đó về sau ngài hiến thân cho Phật pháp, chỗ nào trước đây

Phật có ngự qua ngài tới tận nơi tham quan vãng cảnh và tại đó có ghi lại

bút tích khắc trên bia đá. Vua A Dục rất thương dân và ngài muốn thần

dân của ngài phải học làm những điều lành, tránh làm điều ác, và để cho

mọi người dể nhớ, ngài cho khắc những lời răn trên bia đá. Nhờ vậy

Phật giáo vào thời kỳ đó rất thịnh hành.

251 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Những nhà khảo cổ học đã tìm thấy một sắc lệnh khắc trên

bia đá nói rằng vua A Dục ở trên ngai vàng được ba mươi bảy năm. Lúc

ngài tịch tính ra được hai trăm sáu mươi ba năm kể từ ngày Phật nhập

Niết Bàn.

Đến đây chúng ta trở lại phần kinh văn, đức Phật phán cho

ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát:

“10.- Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm Dược

Vương Bồ Tát Bổn Sự này cũng đặng vô lượng vô biên công đức.

“Nếu có người nữ nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn

Sự này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không

còn thọ lại nữa. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau nếu có

người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở

đây chết liền qua cõi an lạc, chỗ trụ xứ của đức A Di Đà Phật cùng

chúng đại Bồ Tát vây quanh mà sanh trên tòa báu trong hoa sen.

“Người đó chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại

chẳng bị lòng giận giũi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu

mạng ganh ghét các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông vô sanh

pháp nhẫn của Bồ Tát, đặng pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh

tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức

na do tha hằng hà sa các đức Phật Như Lai.”

“Bấy giờ các đức Phật đồng nói khen rằng: “Hay thay

Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội cửa đức

Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì, đọc tụng, suy gẫm kinh này vì

người khác nói, ông đặng công đức vô lượng, vô biên, lửa chẳng đốt

đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông nghìn Phật chung nói

chẳng thể hết đặng. Ông nay đã có thể phá các giặc ma, hoại quân

sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt.

“Thiện nam tử! Trăm nghìn các đức Phật dùng sức thần

thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai

252 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai, bao nhiêu thiền định, trí huệ

của các Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến Bồ Tát không có ai bằng

ông.

“11.- Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát bổn

sự này mà có thể tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong đời hiện tại

trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh, trong lổ

chân lông nơi thân thường thoảng ra mùi thơm ngưu đầu chiên đàn,

đặng công đức như đã nói ở trên.

“Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm Dược Vương Bồ

Tát Bổn Sự này chúc lụy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ

phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở cõi Diêm Phù Đề, chớ để dứt

mất, chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trời, rồng, dạ xoa, cưu bàn

trà v.v… phá khuấy đặng.

“Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn

kinh này. Vì sao? Vì kinh này là món lương dược của người bịnh

trong cõi Diêm phù Đề; nếu người có bịnh đặng nghe kinh này bịnh

liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.

“Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này,

phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người đó. Rải

xong nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ (109)

trải

ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống

pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, chết.

Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này,

nên phải sanh lòng cung kính như thế.”

Lúc Phật nói phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổ Sự này, có tám

muôn bốn nghìn Bồ Tát đặng pháp “Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ

ngôn đà la ni.”

Đức Đa Bửu Như Lai ở trong tháp báu khen ngài Tú Vương

Hoa Bồ Tát rằng:

253 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất

khả tư nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc

như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh.”

Tháp Thích Quảng Đức tại góc ngả tư

đường Lê văn Duyệt –Phan đình Phùng

254 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

PHẦN KẾT CỦA QUYỂN SÁU.

Phẩm Tùy hỷ công đức. Thấy người ta làm điều tốt, rồi

mình vui mừng ưng thuận làm theo, đó gọi là tùy hỷ công đức.

Kinh Hồng Danh viết: “Nhược ngã thử sanh, nhược ngã tiền

sanh, tùng vô thỉ sanh tử dĩ lai, sở tác chúng tội, nhược tự tác, nhược

giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ. Nhược tháp, nhược tăng, nhược tứ phương

tăng vật, nhược tự thủ, nhược giáo tha thủ, kiến thủ tùy hỷ. Ngũ vô gián

tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ. Thập bất thiện đạo,

nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ.”

Là những tùy hỷ không nên làm mà mắc tội lớn. Trong phẩm

kinh ghi rỏ là tùy hỷ công đức, tức là thiện nam tín nữ nên đi nghe giảng

kinh Pháp Hoa, rồi đem pháp nghe đó mà truyền lại cho đúng, hết người

này đến người khác, người khác nghe rồi lại đem pháp đúng đó chuyễn

dạy cho người khác nữa, cứ xoay vần như thế cho đến người thứ năm

mươi.

Đây là lời dạy của đức Phật, đã là thiện nam tín nữ, chúng ta

phát nguyện tu học kinh Pháp Hoa là phải đi cho tới bến, không có

chểnh mảng, không giải đải, không lười biếng, cứ thẳng con đường bát

chánh đạo mà tiến, không thụt lùi. Bởi vì giá trị công đức ở đây không

phải là người thứ năm mươi, nhưng ở đây người thứ năm mươi là mục

đích để tới, con số năm mươi chỉ là để nhấn mạnh sự ngộ nhập Phật tri

kiến, sự giác ngộ hoàn toàn, sự chứng đắc trí huệ của chư Phật.

Tùy hỷ công đức là thể hiện lòng tin tu tập kinh đại thừa Diệu

Pháp Liên Hoa là con đường đưa tới Niết Bàn, vì kinh điển này chỉ có

nhứt thừa thực tường, không có hai, không có ba, như lời đức Thế Tôn

nói:

Các pháp từ bổn lai

Tướng thường tự vắng lặng

Phật tử hành đạo rồi

255 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đời sau đặng thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày khắp ba thừa

Tất cả các Thế Tôn

Đều nói đạo nhứt thừa

Nay trong đại chúng này

Đều nên trừ nghi lầm

Lời Phật nói không khác

Chỉ một không hai thừa.

(Phẩm Phương tiện)

Đức Phật dạy rằng dẫu có người trong vô lượng số kiếp phát

tâm bố thí tài vật trong sáu đường chúng sanh và chứng đắc quả vị A La

Hán, so ra cũng không bằng công đức của người thứ năm mươi kia nghe

một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Hoặc có người đang ngồi nghe

giảng kinh Pháp Hoa, mà chợt thấy có người mới đến liền mời ngồi,

hoặc chia chỗ cho ngồi, công đức tùy hỷ của người đó đặng chỗ ngồi của

Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của Chuyễn

Luân Thánh Vương.

Tóm lại, người hay thọ trì kinh Pháp Hoa, gồm cả tu hạnh bố

thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhứt tâm, lại có lòng tùy hỷ khuyến bảo

mọi người cùng làm việc như mình, công đức của người đó rất thù thắng

vô lượng, vô biên.

Phẩm Pháp sư công đức, tức là nói về công đức của pháp sư

có lục căn thanh tịnh, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý này có phần khác với

người thường. Như lời đức Phật dạy, những thiện nam tín nữ đó, dù là

sáu căn trần của cha mẹ sanh ra, cũng đặng:

Tám trăm công đức nhãn căn thanh tịnh, dùng mắt thịt này vẫn có

thể nhìn thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những

núi, rừng, sông, biển; dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời

Hửu Đảnh.

256 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Một nghìn hai trăm công đức nhĩ căn thanh tịnh, dùng tai này nghe

khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục Vô Gián, trên đến trời Hửu

Đảnh.

Tám trăm công đức tỷ căn thanh tịnh, dùng mũi ngửi được trăm

mùi hương từ động thực vật đến loài người, từ những mùi hương

thơm lạ lẫm trên trời đến các mùi hương kỳ diệu khác trong vũ trụ.

Một nghìn hai trăm công đức thiệt căn thanh tịnh, dùng lưỡi này

nếm đủ món ngon, món dở ở trần gian, dùng lưỡi này để nói kinh

Pháp Hoa cứu chúng sanh thoát khỏi nhục dục, phiền não, dùng

lưỡi này diễn tả pháp lý huyền nghĩa đến tâm thức mọi loài chúng

sanh đều tin hiểu tu học.

Tám trăm công đức thân căn thanh tịnh, cái thân thịt này khiến mọi

người ưa nhìn vì nó trong sạch như lưu ly, sáng tỏ như pha lê .

Một nghìn hai trăm công đức ý căn thanh tịnh, ý này khi nói năng

điều chi đều phù hợp với Phật Pháp cả, dùng ý này để diễn giải

kinh Pháp Hoa cho hết thảy mọi chúng sanh đều ngộ nhập Phật tri

kiến.

Phẩm Thường bất khinh, là tên của một vị Bồ Tát tiền thân

của đức Thích Ca Mâu Ni. Đời đời kiếp kiếp, đức Phật luôn chỉ cho

chúng sanh thấy cái Phật tánh. Mọi chúng sanh đều có Phật tánh, cho

nên hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật.

Trong phẩm này có nói đến bốn chúng tăng thượng mạn: tỳ

kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Đó là hạng người học đạo chưa tới,

chỉ vừa thấy một lý thuyết đơn sơ, chưa đi sâu vào mặt siêu hình học, sự

lý đòi hỏi người học đạo giáo của Thích Ca Mâu Ni đều phải có. Mặc dù

Thường bất khinh Bồ Tát nhìn xa thấy rộng, muốn nhắc nhở cho bốn

chúng đó biết là “Các ngài đều sẽ thành Phật”. Nhưng rồi họ không

hiểu, họ nghĩ rằng “Ông tỳ kheo điên khùng này bêu rêu việc tu hành

của họ”. Bởi thế họ nhẫn nhịn không được đành buông lời ác mắng

257 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

rằng: “Ông vô trí tỳ kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng dám

khinh ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ làm Phật, chúng ta chẳng dùng

lời thọ ký hư dối như thế!”

Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc mà trong

lòng Thường Bất Khinh chẳng sanh phiền muộn, giận hờn, vẫn giữ quan

điểm mà nói với họ rằng: “Các ngài sẽ thành Phật!”

Thường bất khinh Bồ Tát chúc tụng bốn lần ứng vào bốn thời

kỳ khai, thị, ngộ, nhập.

Lần thứ nhứt: “Tôi rất kính quí ngài, chẳng dám khinh

mạn. Vì sao? Vì quí ngài đều tu hành đạo Bồ Tát sẽ đặng làm Phật.” Đây là thời kỳ đầu Phật tuyên thuyết kinh Pháp Hoa, chủ yếu là để khai

phá tâm chúng sanh, nhận biết con đường bát chánh đạo. Song Thường

bất khinh Bồ Tát thấy họ không hiểu. Con mắt yếu ớt của họ lúc ban sơ

không trông được một cái ánh sáng hoàn toàn như vậy. Nên ngài định

lần lần mở ánh sáng ra từng chút. Và ngài giữ chừng đặng cho người ta

lướt tới cho đễ dàng, cho quen dần, tùy cở và tùy sức của mỗi người.

Lần thứ nhì: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều

sẽ thành Phật.” Lần này có nhiều người lòng bất tịnh sanh giận hờn

buông lời ác mắng. Nhưng ngài vẫn giữ lòng thanh tịnh, không phiền

não, buồn lo, vì đối với những tín đồ mới học qua những lý lẽ đơn sơ,

chẳng có pha chút siêu hình học mà vì họ buồn lo thì chẳng có ích gì, có

điều những quy luật hằng ngày họ đều tỏ ra thông suốt.

Lần thứ ba: “Ngài sẽ làm Phật!” Lần này khi nói xong lời

đó, Thường Bất khinh Bồ Tát bị chúng nhơn lấy gậy, cây, ngói, đá để

đánh ném, ngài nhận ra rằng chúng nhơn chưa giết ngài là vì những tăng

thượng mạn kia đã thâm nhập vào giáo lý đại thừa, song hãy còn bỡ ngỡ

chưa dám vượt lên các đảnh cao nghiêm. Vì họ nghĩ rằng họ hãy còn

kém. Con người chưa tự bước lên con đường Tứ Thánh Đế và Mười Hai

Nhơn Duyên mà Phật vì lòng từ đã dọn sẳn cho họ, trong bụng họ thì có

ý muốn, mà mặt ngoài họ vẫn còn e ngại.

258 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lần thứ tư: Lần này Thường bất khinh Bồ Tát đứng đàng xa

mà vẫn to tiếng nói rằng: “Ta chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều

sẽ thành Phật.” Bây giờ ánh sáng linh quang đã tỏa rộng, Phật tánh của

con người hiển bày, chúng sanh sẳn sàng bước lên bực Bồ Tát. Và xin

thệ trước Phật sẽ thọ trì, đọc tụng, diễn giải, biên chép và phổ truyền

kinh Pháp Hoa rộng rải trong cõi diêm phù đề.

Phẩm Như Lai thần lực. Nói về chư đại Bồ Tát như số vi

trần trong thế giới phát nguyện trước Phật Thế Tôn rằng: “Sau khi Phật

diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con

sẽ rộng nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn

thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường

đó.”

Đức Phật hiện sức thần thông lớn, bày tướng lưỡi rộng dài

lên đến trời Phạm Thế, tất cả lổ chân lông phóng ra vô lượng vô số tia

sáng đủ màu sắc. Đồng thời tiếng tằng hắng cùng chung tiếng khảy

móng tay, hai tiếng đó vang khắp ở cõi nước mười phương chư Phật.

Rồi hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: “Khỏi đây vô

lượng vô biên trăm ngàn muôn ức vô số thế giới có cõi nước tên là Ta

bà, trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni hiện nay vì các đại Bồ Tát

nói kinh đại thừa tên Diệu Pháp liên hoa giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ

niệm, các ông phải thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ bái cúng dường đức

Thích Ca Mâu Ni Phật.”

Khi đó Phật bảo Thượng hạnh Bồ Tát thảy: “Thần lực của

các đức Phật vô lượng, vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng

thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp, vì

để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.

“Tóm nói đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự

tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của

Như Lai đều tuyên bày rỏ nói trong kinh này, cho nên các ông sau khi

Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép

đúng như lời nói mà tu hành.

259 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói,

biên chép đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc

trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc

nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó

đều nên dựng tháp cúng dường.

“Vì sao? phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng, các đức Phật

ở đây mà đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở

đây mà chuyễn pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập Niết bàn.”

Nói tóm lại, trong phẩm này thể hiện bốn quan điểm:

1. Người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, phổ truyền được kinh

điển này, Phật vui mừng hiện thần thông.

2. Người thọ trì, đọc tụng kinh điển này như thấy Phật Đa Bảo Như

Lai, là chứng nhân lịch sử xác quyết rằng người tu kinh Pháp Hoa

rốt ráo ắt sẽ đặng pháp khí, sẽ hiển lộ pháp tánh.

3. Người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói, phổ truyền kinh điển

này sẽ được Phật Đa Bảo Như Lai và chư Phật phân thân thảy đều

hoan hỷ.

4. Quyết tâm tu học kinh Pháp Hoa, trước sau gì cũng sẽ đặng làm

Phật.

Phẩm Chúc Lụy. Có nghĩa là ủy thác trọng trách cho chư vị

đại Bồ Tát nghiêm túc phụng hành những công việc Phật sự lớn lao, để

cho Phật an nhiên vào Niết bàn mà không lo ngại thất truyền chơn lý.

Những điều gì màThế Tôn đã chứng ngộ được trong suốt gần

năm mươi năm đức Phật hoằng dương đạo pháp, những chơn lý đã có

được ngày hôm nay là nhờ vô lượng hằng ha sa số kiếp tu hành mới có

đặng. Chư Phật thể hiện lòng từ bi bằng cách hiện sức thần thông lớn,

dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng đại Bồ Tát mà nói rằng: “Ta ở

260 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, các ông nên phải một lòng lưu

bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng.”

Thế Tôn ba phen xoa đảnh chư vị Bồ Tát và nói như thế ba

lần và khuyên bảo mọi người hãy học tập pháp của Như Lai và phổ

truyền đúng pháp của Như Lai, vì đức Thế Tôn muốn tất cả mọi chúng

sanh đều đặng nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hiểu kinh Diệu Pháp

Liên Hoa và đều đặng trí huệ của Diệu Pháp Liên Hoa, tức là trí huệ của

Phật vậy. Vì sao? Vì oai lực của kinh Pháp Hoa ngang bằng với quả Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên nếu có Bồ Tát, tỳ kheo, tỳ

kheo ni, thiện nam, tín nữ phát nguyện thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên

chép, truyền bá kinh Pháp Hoa thì trước sau gì cũng sẽ thành Phật. Vì lợi

ích của chúng sanh mà làm đặng điều như thế khiến cho đức Phật vui

mừng, thời là đã báo được ân đức của Phật rồi vậy.

Các chúng đại Bồ Tát nghe lời đức Phật dạy trong lòng vô

cúng phấn khởi, nghiêng mình cung kính, cúi đầu chấp tay hướng về

phía Phật đồng lên tiếng bạch rằng: “Như lời Thế Tôn dạy, chúng con

sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ có lo.”

Bạch lần thứ hai, bạch lần thứ ba cùng một lời như thế: “Như

lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vưng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ

có lo,”

Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự. Là nói về sự tích tiền

thân của Bồ Tát Dược Vương. Trong đạo tràng hội Pháp Hoa, trước mặt

trời, rồng, thần, dạ xoa, càn thác bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu

la dà, nhơn cùng phi nhơn, Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát thỉnh cầu Phật

nói về công đức của ngài Dược Vương Bồ Tát, những hạnh khổ khó làm

và công việc hóa đạo của Bồ Tát Dược Vương ra sao.

Đức Phật trước đây từng nói rằng kinh Pháp Hoa là phương

thuốc chúa (dược vương) có thể trừ hết mọi bịnh tật của chúng sanh, mọi

khổ lụy phiền não của chúng sanh, không sợ già, không sợ chết.

261 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm này thuật lại trong kiếp quá khứ của ngài Dược Vương,

vào thời kỳ đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai vì ngài Nhứt

Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát và tứ chúng mà nói kinh đại thừa

Diệu Pháp Liên Hoa. Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát tu

luyện khổ hạnh, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật suốt mười

hai ngàn năm mới đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội” . Đặng

tam muội này đều do nhờ quá trình tu học kinh Pháp Hoa mà thành.

Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nghĩ đến báo ân Phật

bằng cách đốt thân để cúng dường, liền uống đủ các chất thơm như

chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy giao hương, bông

chiêm bặc. Dùng dầu thơm xoa thân, dùng y báu cõi trời quấn thân, và ở

trước đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức dùng sức nguyện thần

thông mà tự đốt thân. Đó là món thí thứ nhứt rất tôn, rất thượng. Đó là

hạnh khổ khó làm trong kiếp quá khứ của ngài Dược Vương Bồ Tát.

Thiện nam, tín nữ phát lời nguyện thọ trì, đọc tụng kinh Pháp

Hoa sẽ thấy đặng nhiều lợi ích như:

Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh xa rời khổ não.

Kinh này có thể lợi ích cho chúng sanh đầy mãn chỗ mong cầu.

Kinh này như ao nước trong mát cho những người khát nước.

Kinh này như kẻ lạnh được lửa, kẻ trần truồng đặng y phục, như

người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như

người bịnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của

báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối.

Kinh này làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bịnh tật đau

đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.

Riêng đối với người nữ (là hiện thân của ba độc, phiền não

do tham dục, phiền não do sân hận, phiền não do si mê, phiền não do sự

kiêu mạn, phiền não do sự ganh ghét, phiền não do các tánh xấu) mà

262 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

được nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này, rồi thọ trì, đọc tụng,

biên chép thì sau khi dứt bỏ thân hiện tại, sau này tái sanh không còn thọ

báo thân đàn bà nữa. Người nữ nghe kinh điển này đúng như lời mà tu

hành thì khi thác sanh sẽ qua cõi an lạc, chỗ trú xứ của đức A Di Dà

Phật cùng chúng Bồ Tát vây quanh, sanh trên tòa báu hoa sen.

Bốn truyện nói về người nữ. Truyện thứ nhứt :

TỤNG KINH PHÁP HOA THOÁT NỮ THÂN.

Đời nhà Tùy, ở huyện Bác Lăng, có ông Thôi Ngạn Võ, niên

hiệu Khai Hoàng làm quan Thứ sử Châu Ngụy. Một hôm nhơn đi thanh

tra trong địa phận mình quản trị, đến một ấp nọ, bổng ngạc nhiên vừa sợ

vừa mừng, bảo kẻ tùng giả rằng: “Ta xưa nay từng làm vợ người ở trong

ấp này, nay vẫn biết nhà cũ.” Liền cởi ngựa di vào đường hẻm trong ấp,

quanh quẹo đến một nhà, sai người gỏ cửa. Ông chủ nhà đó đã già, chạy

ra lạy chào.

Ông Ngạn Võ vào nhà chỉ trên vách phía đông cách đất

chừng năm, sáu thước (thước tàu), có chỗ lồi cao lên mà bảo chủ nhà

rằng: “Chỗ trên cao đó là chỗ ngày xưa kia ta cất năm đôi thoa vàng,

với bộ kinh Pháp Hoa của ta đọc hằng ngày. Bộ kinh ấy, cuối quyển bảy,

lửa cháy xém mất chữ hết một tờ. Vì cớ đó nên hiện nay mỗi khi ta tụng

kinh Pháp Hoa đến chương đó thường quên lãng, không ghi nhớ đặng.”

Nói xong sai người đục chỗ vách đó ra, quả thiệt đặng hộp đựng kinh,

thoa vàng cùng quyển sách thứ bảy cháy xém một tờ cuối quyển như lời

nói trước.

Ông chủ nhà rơi nước mắt khóc rằng:

“Thoa vàng cùng kinh quả thiệt là vật của vợ tôi ngày còn

sanh tiền, vợ tôi thường đọc bộ kinh Pháp Hoa này.”

Ông Ngạn Võ lại nói:

263 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Cây hoè trước sân kia ngày trước khi ta sắp đẻ, tự cởi đầu

tóc mượn để vào bọng cây đó.” Nói xong bảo người thử lại tìm, thật quả

đặng tóc.

Chủ nhà biết việc như thế biết chính quan Thứ sử hiện nay là

vợ của mình ngày trước tái sanh vừa buồn, vừa mừng.

Thôi Ngạn Võ để vật vàng bạc lại, hậu cấp cho ông chủ nhà

mà đi.

(Lại bộ Thượng Thơ Đường Lâm biên).

Trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự có nói: “Nếu có

người nữ nào nghe kinh này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo

thân đàn bà đó, không còn thọ lại nữa.” Chuyện của ông Thôi Ngạn

Võ trên đây đã chứng thật lời trong kinh nói, làm cho chúng ta lại càng

kính tin đức Như Lai là Đấng Chơn Thật Ngữ.

Xét nghĩ lại một người đàn bà chân quê ở trong ấp nhờ thọ trì

đọc kinh Pháp Hoa mà đã sớm khỏi thân hèn khổ, chuyễn thân thành

quan cao tước lớn, trong khi ấy, người chồng vẫn còn là tên chân quê.

Chồng lạy rước vợ, nào biết đó là vợ cũ của mình ngày xưa.

Tên dân quê đó, cũng một ít kẻ lân cận, khi người đàn bà đọc

kinh Pháp Hoa chết, họ sĩ vả và có niệm xấu nghĩ rằng: “Tụng kinh

không phước, trái lại còn chết yểu.” Đáng tiếc thay! Một niệm ngu si,

lòng chê kinh ấy, khi gặp Thôi Ngạn Võ như tuyết gặp nước sôi vậy.

Ôi công đức bất khả tư nghì của người trì kinh diệu dụng bất

khả tư nghì của kinh, cùng lý nhơn quả nhiệm mầu, kẻ tâm vụng về, trí

thức thô thiển có thể nào mà thấu đáo được. Chúng ta rất lo ngại cho

hạng người bày bác nhơn quả, hủy báng kinh đại thừa, và thiết tha mong

sao những hạng người ấy không nên quá nông nỗi.

264 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì khổ báo của người hủy báng kinh, đức Phật Thế Tôn,

đấng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như thật ngữ đã có huyền ký rỏ

ràng.

Như vậy phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn sự này rất quan

trọng đối với phụ nữ, chuyên cần thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì lợi

ích của kiếp tái sanh đã rỏ ràng trước mắt. Đây là điều khích lệ và rất

mong nguyên lý này được phổ truyền rộng rải trong giới thiện nữ.

Truyện thứ hai :

Ả CA NHI.

Phật thành đạo và đi thuyết pháp được mười bảy năm. Ở tại

thành Vương Xá cò một ả ca nhi nổi danh tài sắc. Bấy giờ Phật và đệ tử

ngụ tại vườn tre.

Hàng ngày đệ tử ôm bát đi hóa trai, có một ả tên là Ri ma ti

(Crimati), tuy là người giang hồ phong nguyệt, từng làm chìm đắm

nhiều khách tài hoa, nhưng ả có lòng từ, thường dâng cơm cúng dường

chư Tăng và Phật tử. Mấy vị sa môn quen đến nhà cô, mỗi khi đến thì

lảnh rất nhiều của lễ.

Một hôm, có một thầy, nhân phải một lúc quên mình, bèn

ngó ngay cô. Từ đó về sau, thầy lại mang nặng khối tình tương tư cô.

Một bửa kia cô đau, nhưng cũng gượng dậy mà cúng dường cho các sư.

Cô tuy ốm và không ăn mặc trang hoàng, song cũng tiếp rước mấy sư,

nên cho thỉnh vào nhà để cô dâng đồ lễ. Lúc ấy cũng có vị sa môn si tình

đi chung, nhác thấy cô y phục không kỷ lưởng, càng trông càng lộ vẻ

xinh xinh. Tâm thần thầy càng thêm say đắm. Thầy bị dằn vật vì không

lướt qua khỏi sức mạnh của hai chữ ái tình. Thầy về đến tịnh xá không

ăn uống nữa và tách riêng một mình, luống những thầm thương trộm

nhớ đến ả ca nhi.

265 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đức Phật hiểu hết tâm tư của đệ tử, nhưng chưa vội khuyên

bảo. Chẳng bao lâu, ả ca nhi chết, nhân cơ hội này, Phật muốn làm cho

thầy không còn say mê, chờ đến bốn hôm, bèn dẫn thầy đến nhà ả ca

nhi, lúc ấy thân thể sình ương hôi thối.

Phật chỉ cái thây ương dưới đất và hỏi thầy: “Một đống dưới

đất là vật gì vậy?”

Thầy đáp: “Đó là cái xác của ả ca nhi Rimati.”

Phật phán: “Đó, hồi ả ấy còn sanh tiền, người ta dám phí bạc

trăm, bạc ngàn ra để chung vui trong một đêm. Bây giờ có ai dám trả

chừng một nửa để mua vui với ả chăng? Hồi ả còn sống, nhiều người

chết mê chết mệt vì ả, si tình vì ả, bây giờ có ai đó còn thầm thương

trộm nhớ ả nữa chăng?”

Liền đó Phật liền phán trong đại chúng đang bao chung

quanh ngài rằng: “Cái thây này, xưa nổi danh là tay ca nhi đúng bực, đẹp

đẻ hơn người, cái sắc đẹp ấy đã làm cho không biết bao nhiêu người yêu

thương, bây giờ không ai đoái hoài. Trong trần gian, cái gì cũng tan rả,

cái gì cũng giả dối hết.”

Nghe Phật thuyết pháp, chín mươi hai ngàn người được hiểu

biết bốn nền diệu lý, và vị sa môn kia được giải thoát khỏi bẩy dục lưới

tình.

Truyện thứ ba :

THẤT TIẾT VỚI CHỒNG.

Thuở xưa, có một chàng thiếu niên con nhà quí phái, đẹp đẻ

vô cùng. Chàng đúc một tượng mỹ nữ bằng vàng va thưa với cha mẹ

rằng: “Chỗ nào có con gái đẹp như tượng này, con xin cưới về làm vợ.”

266 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lúc đó trong một nước khác, có một nàng tuyệt sắc, giai

nhân, cũng đúc một tượng bằng vàng, hình một chàng trai khôi ngô tuấn

tú, và cũng thưa với cha mẹ mình rằng: “Chỗ nào có người trai đẹp như

tượng này, con xin thờ làm chồng.”

Khi cha mẹ hai bên hay chuyện ấy, mới định hôn cho hai trẻ

và cưới gả cho nhau. Cũng trong lúc ấy, một nhà vua lấy gương soi mặt,

phán với bá quan rằng: “Trong đời còn ai đẹp bằng quả nhơn chăng?”

Một vị quan đáp: “Kẻ hạ thần có nghe rằng ở nước kia có

một chàng trai đẹp khôi ngô tuấn tú chẳng ai bằng.”

Vua phái sứ đi mời chàng trai đó. Sứ đến nhà, nói với chàng

trai rằng: “Nhà vua nghe danh ngài là bực hiền nhơn, nên muốn thỉnh

ngài về triều.”

Chàng sửa soạn đồ đạc, ngựa xe và lên đường. Đi được một

đổi, chàng nghĩ rằng: “Vua dời ta đến có lẽ yêu sự học thức của ta

chăng?”

Chàng quay xe trở lại đặng đem theo ít pho kinh sử để coi

thêm. Về đến nhà, chàng thấy vợ mình đang phạm tội tà dâm với một kẻ

lạ mặt. Chàng ngạc nhiên, giận và thẹn làm cho gương mặt chàng biến

đổi ra trông thật kỳ dị, xấu xa lắm. Quan thấy chàng như vậy, ngỡ là vì

đường xá xa xôi mệt nhọc nên mặt mày gầy ốm, bèn cho tạm nghĩ phía

ngoài cung thành, chớ chưa vội trình vua.

Đến lúc nửa đêm, chàng thấy hoàng hậu đi từ trong hậu cung

ra mà tư tình với quan giữ ngựa. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ và nói

thầm trong bụng rằng: “Hoàng hậu mà còn đi ngoại tình, huống hồ là vợ

ta? Ay chẳng qua là việc thường lắm ru!”

Chàng quên hết sự rầu buồn và gương mặt liền đẹp lại như

xưa. Sáng ra, chàng vào chầu vua.

267 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vua hỏi: “Khanh đến đã ba ngày sao nay mới bệ kiến?”

Chàng đáp: “Khi sứ đến rước tôi đi, tôi bỏ quên sách nên quay trở lại

lấy sách. Khi bước vào nhà thấy vợ tôi đang tư tình với một kẻ lạ mặt.

Tôi giận lắm, nên gương mặt liền mất vẻ đẹp. Trở lại hoàng cung tôi

phải ở ngoài đến ba ngày. Hồi hôm này tôi thấy hoàng hậu đi ra ngoại

tình với quan giữ ngựa. Đã là vợ vua mà còn làm chuyện như vậy,

huống là nhi nữ tầm thường. Tôi liền bỏ hết sự rầu buồn, cho nên gương

mặt tôi tươi tốt lại như xưa.”

Vua cũng phê nhận lời ấy mà rằng: “Tình dâm dục không kể

là vua chúa hay thứ dân, giàu sang hay nghèo hèn, vợ trẫm mà còn lang

chạ, thì vợ của bá tánh thất tiết là sự thường.”

Hai người đàn ông hiểu nhau, đồng dắt nhau vào núi, xuống

tóc, cạo râu và làm thầy tu khổ hạnh trên rừng. Cả hai đều tưởng rằng:

“Gần với đàn bà, thì không khi nào làm nên việc hiền lành cao thượng

được.”

Nhờ dứt bỏ đường tình ái, hai người càng thông hiểu đạo lý

và tấn đức đắc quả rất mau.

Truyện thứ tư :

XẢO NGÔN VỚI CHỒNG.

Thuở xưa, có một người kia, giòng dõi quí phái, thường nhốt

vợ trong một nơi kín đáo, không cho ai thấy được. Người vợ sai đứa ở

đào một cái ngách thông ra ngoài và thường thông dâm với anh thợ bạc.

Về sau chồng nghe phong phanh mới sanh nghi. Nhưng vợ cải rằng:

“Cả đời em, em không làm chuyện nhơ nhuốc ấy. Sao anh lại nói oan

cho em.”

Chồng đáp: “Oan hay không, đây rồi sẽ biết. Để ta dẫn mình

lại chỗ cây bồ đề mà thề.”

268 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Người vợ chịu, cả hai đều vào phòng vắng và ăn chay bảy

ngày. Lúc ấy chị ta nói lén với anh thợ bạc rằng: “Bây giờ biết tính thế

nào? Em có kế này chắc tiện. Anh nên giả điên, bỏ xũ tóc tai rồi ra chợ

đụng ai ôm nấy.”

Khi hai vợ chồng ăn chay được bảy ngày, người chồng dắt vợ

ra, cô mới nói rằng: “Thuở nay em chưa biết chợ búa, vậy xin anh dắt

em lại đó cho biết.”

Khi đi tới chợ, thình lình cô ta bị anh thợ bạc chạy ra ôm lấy

mình và đè trên đất. Cô kêu chồng mà la rằng: “Sao anh để người ta

hảm hiếp em?”

Người chồng nói: “Nó là thằng điên.”

Hai vợ chồng đi tới chỗ cây bồ đề có đức Phật ngự nơi đó.

Người vợ quỳ xuống lạy bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thuở nay con

không làm chuyện gì nhơ nhuốc. Chỉ có người điên khi nảy là ôm được

con mà thôi.”

Nhờ vậy cô ta khỏi chết. Người chồng thẹn thuồng, nên nín

thinh. Ấy đàn bà thật xảo ngữ với chồng.

Người đàn ông thường tưởng cho mình là hạng người trí

thức, khỏi bị lầm, thế mà thường gặp phải đàn bà trắc nết qua mặt luôn,

hay bị vợ nhà gạt gẫm mà nào có hay biết gì.

269 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

QUYỂN BẢY

Phẩm DIỆU ÂM BỒ TÁT thứ hai mươi bốn.

Chúng ta lại thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một lần nữa

phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày, soi rọi ánh

sáng khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng ha sa các cõi Phật ở phương

Đông. Theo luồng hào quang đó, có một thế giới tên là Tịnh Quang

Trang Nghiêm (là một quốc độ thường phát ra ánh sáng thuần khiết,

trang nghiêm). Trong quốc độ đó có đức Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú

Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện

Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên, Nhân

Sư, Phật Thế Tôn, có vô lượng vô biên chúng đại Bồ Tát vây quanh.

Anh sáng lông trắng của đức Thích ca Mâu Ni Phật soi khắp

cõi nước đó, khiến cho trăm ngàn muôn ức chúng sanh đặng thấy tại cõi

nước Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị đại Bồ Tát hiệu là Diệu Am,

(âm thanh tuyệt diệu nhiệm mầu) ; Bồ Tát Diệu Am là tiêu biểu của

chơn tâm thanh tịnh, là lý tưởng được biểu thị bằng thân tướng cao lớn,

tốt đẹp, ánh sáng vàng chói, từ lâu đã trồng các cội công đức, cúng

dường gần gủi vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật, cho nên ngài

Diệu Am đại Bồ Tát đặng trọn nên trí huệ rất sâu và chứng đắc mười sáu

môn tam muội:

1. Diệu tràng tướng tam muội: tướng thiền định ngộ nhập kỳ diệu vào

kinh Pháp Hoa.

2. Pháp Hoa tam muội: tin chắc rằng kinh Pháp Hoa là vua của càc

kinh.

3. Tịnh đức tam muội: đức hạnh thiền định thanh tịnh, diệt hẳn gốc

tam độc, không còn chìm đắm trong lục dục thất tình.

270 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

4. Tú vương hý tam muội: sự vui chơi thiền định của chòm sao vua,

có nghĩa là chơn tâm tự tại của vị Bồ Tát đầy đủ đức hạnh độ thoát

chúng sanh.

5. Vô duyên tam muội: sự thiền định không có duyên cớ, chỉ nhất

tâm làm tròn nghĩa vụ cứu độ chúng sanh dù người đó có thân thiết

với mình hoặc là không thân thiết với minh, tất cả đều vô tư.

6. Trí ấn tam muội: sự thiền định của dấu ấn trí tuệ, có nghĩa là tập

trung tâm thức vào thiền định tạo ra linh ảnh thuần khiết, rồi truyền

dẫn linh ảnh đó vào những người cùng thiền định gần gủi với

mình.

7. Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn tam muội: sự thiền định hiểu

hết ngôn ngữ của chúng sanh, hiểu thấu đáo tư duy của họ để giảng

giải kinh Pháp Hoa cho thích hợp với sự hiểu biết của họ.

8. Tập nhứt thiết công đức tam muội: thiền định để thu góp hết thảy

mọi công đức, công đức ở đây có nghĩa là tất cả thiện nam tín nữ

học tập, thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, lần lượt sẽ hiển lộ pháp

tánh và hết thảy mọi người đều sẽ thành Phật.

9. Thanh tịnh tam muội: thiền định giữ cho thân tâm trong sạch, đặng

tam muội này thân thể trong sạch, chơn tâm sẽ không còn ảo giác.

10. Thần thông du hý tam muội: thiền định để khắp dạo chơi hân

hoan, hỷ lạc bằng sức thần thông.

11. Huệ cự tam muội: thiền định tăng trưởng trí tuệ, phóng ánh

sáng trí tuệ của mình cho những người chung quanh, như một ngọn

đuốc tỏ đi trong đêm, mọi vật chung quanh đều hưởng được ánh

sáng.

271 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

12. Trang nghiêm vương tam muội: vị vua có hình tướng tốt đẹp,

trang nghiêm, đức hạnh, có nghĩa là người có đức hạnh trang

nghiêm dễ gây ảnh hưởng tốt đẹp với mọi người.

13. Tịnh quang minh tam muội: ánh sáng thuần khiết, có nghĩa là

chơn tâm mình thanh tịnh, và mong muốn mọi người đều có chơn

tâm như mình.

14. Tịnh tạng tam muội: thiền định để tư duy những tạng kinh kỳ

bí, vi diệu.

15. Bất cộng tam muội: như thể độc giác, duy chỉ có một, không

có hai, có nghĩa là kinh Pháp Hoa biểu thị nhứt thừa thực tướng,

không có hai thừa, không có ba thừa.

16. Nhựt triền tam muội: sự xoay chuyễn của mặt trời, thực ra

mặt trời không có xoay chuyễn, bởi vì nói mặt trời xoay chuyễn có

nghĩa là tâm còn dao động, nhưng ở đây là muốn nói đến ý nghĩa

cuộc sống thiên hình vạn trạng của chúng sinh dưới ánh sáng mặt

trời.

Ngài Diệu Am đại Bồ Tát còn chứng đắc hằng hà trăm nghìn

muôn ức môn tam muội như thế. Bởi Diệu Am là biểu tượng của chơn

tâm, cho nên dù bất cứ tam muội nào hòa hợp vời diệu âm đều tượng

trưng cho thanh tịnh, trang nghiêm, tốt đẹp, trong sạch, đức hạnh, trí tuệ,

ánh sáng, thuần khiết. Bởi tam muội có ý nghĩa như là thiền định, tập

trung chơn tâm vào một đối tượng như linh ảnh, linh vật, có quan hệ hay

không quan hệ, chỉ với một yêu cầu chánh đáng là tận lực cứu độ mọi

chúng sinh thoát khỏi phiền não, sanh tử.

Khi hào quang của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi rọi đến

thân của vị Bồ Tát đó, vị Bồ Tát đó liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú

Vương Trí Phật rằng:

272 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Bạch đức Thế Tôn! Con phải qua cõi ta bà để lễ lạy, gần

gủi cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật, và cũng để ra mắt chư

đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử, Dược Vương Bồ Tát,

Dõng Thí Bồ Tát, Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Y Bồ Tát,

Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát.”

Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí liền bảo ngài Diệu Am Bồ

Tát như thế này:

“Ông chớ có khinh nước ta bà sanh lòng tưởng là hạ liệt.

Thiện nam tử! Cõi ta bà kia cao thấp không bằng, các núi đất đá

đầy dẩy sự dơ xấu. Thân Phật kém nhỏ, các chúng Bồ Tát thân

mình cũng nhỏ, mà thân hình của ông cao đến bốn muôn hai nghìn

do tuần, thân của ta cao đến sáu trăm tám mươi muôn do tuần.

Thân của ông tốt đẹp thứ nhứt, trăm nghìn muôn phước sáng rở,

đẹp lạ, cho nên ông chớ khinh nước kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ Tát

cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho là hạ liệt.”

Tại nước Tịnh Quang Trang nghiêm, Phật và Bồ Tát đều có

thân tướng cao lớn. Như thân tướng của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí

Như Lai cao sáu trăm tám chục ngàn do tuần, còn thân tướng của Diệu

Am Bồ Tát cao bốn mươi hai ngàn do tuần. Thân tướng Phật và Bồ Tát

cao lớn, đẹp lạ, so với thân tướng Phật và Bồ Tát tại cõi ta bà này thì quá

bé nhỏ. Cứ thử nghĩ rằng một người đứng trên lầu cao ba trăm tầng (gần

một ngàn mét) nhìn xuống một người đang đứng trên mặt đất. Đó là sự

so sánh của tâm tánh phàm phu, trí căn hạ liệt. Còn như Phật Thích Ca

Mâu Ni ở cõi ta bà này và Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí ở cõi nước Tịnh

quang trang nghiêm, không có sự so sánh cao, lùn, to, bé, lớn, nhỏ, rộng,

hẹp. Bởi vì chư Phật đã liễu ngộ bực toàn giác rồi, chư vị Bồ Tát đã

chứng đắc “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam muội” rồi thì các ngài thấu

rỏ hết thảy các pháp là vô ngã, nên đâu còn nhìn thấy ngã tướng, nhơn

tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng.

Ngài Diệu Am Bồ Tát bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí

rằng:

273 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Bạch Thế Tôn! Con nay qua cõi ta bà đều là do sức thần

của Như Lai, do thần thông du hí của Như Lai, do công đức trí huệ

trang nghiêm của Như Lai.”

Bạch Phật lời đó xong, ngài Diệu Am Bồ Tát chẳng rời khỏi

tòa, thân chẳng hề lay động, tâm tĩnh lặng sâu lắng vào trong thiền định,

dùng sức tam muội ở nơi núi Kỳ xà Quật hóa ra làm tám mươi bốn ngàn

các hoa sen báu: “vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim

cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.”

“Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thấy hoa

sen đó bèn bạch với Phật Thích Ca Mâu Ni rằng:

“Thế Tôn! Đây do nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này,

có ngần ấy nghìn vạn hoa sen: vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc

làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài?”

“Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Văn Thù

Sư Lợi rằng: “Đó là Diệu Am Đại Bồ Tát từ cõi nước của đức Tịnh

Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng tám mươi bốn ngàn Bồ Tát vây

quanh mà đến cõi ta bà này, để cúng dường gần gủi, lễ lạy nơi ta

cùng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.”

Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:“Thế Tôn! Vị Bồ

Tát đó trồng cội lành gì? Tu công đức gì mà có đặng sức thần thông

như thế? Tu tam muội gì? Mong Phật vì chúng con nói danh tự của

tam muội đó. Tu hành môn tam muội này mới thấy được sắc tướng

oai nghi tấn chỉ của vị Bồ Tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức

thần thông khi vị Bồ Tát đó đến khiến chúng con đặng thấy.”

Lúc ấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo ngài Văn Thù Sư

Lợi:“Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà

hiện bày thân tướng của Bồ Tát đó.”

274 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tức thời đức Đa Bảo Phật bảo Bồ Tát đó rằng:“Thiện

nam tử đến đây! Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử muốn thấy thân

của ông.”

4.- “Bấy giờ, ngài Diệu Am Bồ Tát nơi cõi nước kia ẩn

mặt, cùng với tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đồng nhau qua cõi ta bà,

ở các nước trải qua sáu điệu vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng

bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trổi tự kêu, mắt của vị Bồ Tát

đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hòa hiệp trăm nghìn

muôn mặt trăng, diện mạo của ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc

vàng ròng, vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất

thạnh, ánh sáng chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na la diên bền

chắc.

“Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất

bằng bảy cây đa la. Các chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, mà

đồng đến núi Kỳ xà quật ở cõi ta bà này, đến rồi xuống đài thất bảo,

dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghìn, đem đến chỗ Thích Ca Mâu Ni

Phật. Đầu mặt lễ chưn Phật dâng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng

“Thế Tôn! Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi thăm đức Thế Tôn

ít bịnh, ít khổ, đi đứng thơ thới, sở hành an vui chăng? Bốn đại điều

hòa chăng? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng?

Không có người nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn

xẻn, kiêu mạn chăng? Không kẻ chẳng thảo cha mẹ, chẳng kính sa

môn tà kiến tâm chẳng lành, chẳng nhiếp năm tình chăng?

“Thế Tôn! Chúng sanh hàng phục được các ma oán

chăng? Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có

đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm đức Đa Bảo Như Lai : an ổn, ít

khổ, kham nhẫn ở lâu đặng chăng? Thế Tôn! Nay con muốn thấy

đức Đa Bảo Phật, cúi mong đức Thế Tôn chỉ bày cho con được

thấy”.

Lúc đó đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Phật Đa Bảo

rằng:

275 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Ông Diệu Am Bồ Tát này muốn đặng ra mắt Phật.”

Đức Đa Bảo Phật liền nói với đức Diệu Am Bồ Tát

rằng:“Hay thay! Hay thay! Ông có thể vì cúng dường đức Thích Ca

Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng ra mắt Văn Thù Sư Lợi

v…v… nên qua đến cõi này.”

“5.- Lúc bấy giờ ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Ngài Diệu Am Bồ Tát trồng cội lành gì, tu công đức gì

mà có sức thần thông như thế?”

Đức Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ Tát:“Thuở quá khứ có

Phật hiệu Vân Lôi Am Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,

cõi nước tên là Hiện Nhứt thiết thế gian, kiếp tên Hỷ Kiến. Diệu Am

Bồ Tát ở trong một vạn hai nghìn năm dùng mười muôn thứ kỷ

nhạc cúng dường đức Vân Lôi Am Vương Phật cùng dưng lên tám

muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báu đó, nay

sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần

như thế.

“Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao? Thuở đó nơi chỗ đức Vân Lôi

Am Vương Phật, Diệu Am Bồ Tát cúng dường kỷ nhạc cùng dưng

bát báu lên đó, đâu phải người nào lạ, chính nay là Diệu Am đại Bồ

Tát đây.

“Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát này đã từng cúng dường gần

gủi vô lượng các đức Phật, từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng

hà sa trăm nghìn muôn ức na do tha đức Phật.

6.- “Hoa Đức! Ông chỉ thấy Diệu Am Bồ Tát thân hình ở

tại đây, mà Bồ Tát đó hiện các thứ thân hình, nơi nơi vì hàng chúng

sanh nói kinh điễn này.

“Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích,

hoặc hiện thân Tự Tại Thiên, hoặc hiện thân Đại Tự Tại Thiên, hoặc

276 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hiện thân Thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ sa môn Thiên

vương, hoặc hiện thân Chuyễn luân Thánh vương, hoặc hiện thân

các Tiểu vương, hoặc hiện thân Trưởng giả, hoặc hiện thân Cư sĩ,

hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân

Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc hiện thân phụ nữ

của tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ của Bà la môn, hoặc hiện thân

đồng nam, đồng nữ, hoặc hiện thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát

bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi

nhơn v.v… mà nói kinh này.

“Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và các chỗ nạn

đều có thể cứu giúp, nhẫn đến trong hậu cung của vua biến làm thân

người nữ mà nói kinh này.

7.- “Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát này hay cứu hộ các chúng

sanh trong cõi ta bà. Diệu Am Bồ Tát này biến hóa hiện các thứ

thân hình như thế ở tại cõi ta bà này vì chúng sanh mà nói kinh

Pháp Hoa, ở nơi trí tuệ thần thông biến hóa không hề tổn giảm. Vị

Bồ Tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi ta bà, khiến tất cả

chúng sanh đều đặng hiểu biết, ở trong hằng hà sa cõi nước trong

mười phương cũng lại như thế.

“Nếu chúng sanh đáng dùng thân hình Thanh văn đặng

độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn mà vì đó nói pháp.

“Đáng dùng thân hình Duyên giác đặng độ thoát, liền

hiện thân hình Duyên giác mà vì đó nói pháp.

“Đáng dùng thân hình Bồ Tát đặng độ thoát, liền hiện

thân hình Bồ Tát mà vì đó nói pháp.

“Đáng dùng thân hình Phật đặng độ thoát, liền hiện thân

hình Phật mà vì đó nói pháp.

277 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình

như thế, nhẫn đến đáng dùng diệt độ mà đặng độ thoát liền thị hiện

diệt độ.

“Hoa Đức! Diệu Am Bồ Tát trọn nên sức đại thần thông

trí huệ, việc đó như thế.”

Lúc ấy ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch cùng Phật rằng:“Thế

Tôn! Ngài Diệu Am Bồ Tát sâu trồng căn lành gì? Thế Tôn! Bồ Tát

đó trụ tam muội gì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát

chúng sanh như thế?”

Phật bảo ngài Hoa Đức Bồ Tát:“Thiện nam tử! Tam

muội đó tên là “Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân”. Diệu Am Bồ Tát trụ

trong tam muội đó có thể nhiêu ích vô lượng chúng sanh.

“8- Lúc nói phẩm Diệu Am Bồ Tát này, những Bồ Tát

cùng đi chung với Diệu Am Bồ Tát tám muôn bốn nghìn người đều

đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội”. Vô lượng Bồ Tát trong

cõi ta bà này cũng đặng tam muội đó và đà la ni.

“Khi Ngài Diệu Am Bồ Tát cúng dường đức Thích Ca

Mâu Ni Phật và tháp của Đa Bảo Phật xong rồi, trở về bổn độ. Các

nước trải qua đều vang lên sáu điệu, rưới hoa sen báu, trổi trăm

nghìn muôn ức các thứ kỷ nhạc. Ngài Diệu Am cùng tám mươi bốn

ngàn Bồ Tát vây quanh đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật mà bạch

rằng:

“Thế Tôn! Con đến cõi ta bà lợi ích chúng sanh, ra mắt

đức Thích Ca Mâu Ni Phật và ra mắt tháp Đa Bảo Phật lễ lạy cúng

dường, lại ra mắt Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử Bồ Tát, Dược

Vương Bồ Tát, Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát, cùng làm cho tám

muôn bốn nghìn vị Bồ Tát này đặng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam

muội”.

278 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Lúc Phật nói phẩm Diệu Am Bồ Tát lai vãng này, có bốn

muôn hai nghìn vị thiên tử đặng vô sanh pháp nhẫn. Hoa Đức Bồ

Tát đặng Pháp Hoa Tam Muội.”

PHÂN BIỆT TÀ VÀ CHÁNH.

Trang 187 (tập 1 ) có bài viết nói về oai lực của Phật Thích

Ca và oai lực của Ma vương Ba Tuần. Sở dĩ nhắc lại là vì chúng ta tu

học kinh Pháp Hoa tức là chúng ta tu học đại thừa pháp, tức là chúng ta

phải liễu nghĩa kinh điển đại thừa, tức là chúng ta phải sáng suốt phân

biệt tà và chánh.

Lời Phật dạy: “Bảo hàng Thanh Văn chớ sợ ma Ba Tuần.

Nếu ma Ba Tuần hiện hình Phật đến trước các ông, thời các ông phải

tinh tấn gìn chánh niệm cho vững chắc, ma kia tức lo sầu mà bỏ đi.”

Người học kinh điển đại thừa, như kinh Pháp Hoa, khi đọc

tụng đến những phần thâm nghĩa, mà hiểu trọn ý từ trong kinh, trong

lòng người đó vô cùng hưng phấn, bày tỏ niềm vui và không hề kinh sợ,

cũng như người có tuệ căn nhìn thấu ruột của ma Ba Tuần đang mặc lớp

áo Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Phật dạy rằng những

người đó đã từng cúng dường, cung kính lễ bái vô lượng muôn ức đức

Phật. Dù cho có vô số loài ma đến quấy phá cũng không chút hoảng hốt.

Oai lực của người tu học kinh điển đại thừa không nhỏ, vì

người đó tin chắc rằng pháp của Như Lai là thường trụ, nên phát nguyện

thọ trì, đọc tụng kinh điển đại thừa mà chẳng sợ giặc ma nào nhũng

nhiễu, khủng bố, người đó, như lời đức Phật dạy: ”Sau khi Như Lai vào

Niết Bàn, nếu có người nghe kinh điển đại thừa mà sinh lòng kính tin,

nên biết người này trăm ngàn ức kiếp về sau không bị sa đọa vào chốn

ác đạo.”

279 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Cho nên chúng ta cần phải phân biệt tà và chánh rỏ ràng, chớ

để ma Ba Tuần lợi dụng oai lực mà khiến các loài ma giả danh biến hóa

thành hàng thiện tri thức xen lẫn vào đạo quậy phá những người học

hạnh đại thừa. Nên trích ra đây Phẩm Tà Chánh thứ chín trong kinh Đại

Bát Niết Bàn.

Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn có phải cần y

chỉ theo bốn hạng người (110)

như trên đã nói chăng?

Phật dạy: “Chính thế! Này Ca Diếp! Nên phải y chỉ như Như

Lai đã nói. Sao lại phải y chỉ với bốn bực ấy? Vì rằng có bốn thứ ma.”

Ca Diếp Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy có

bốn thứ ma, nay con phải làm thế nào để phân biệt là lời của Phật, là lời

của Ma? Có những chúng sanh chạy theo hạnh ma, cũng có nhiều người

thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai mạng ấy?”

Phật dạy: “Này Ca Diếp! Sau khi Như Lai vào Niết bàn bảy

trăm năm, ma Ba Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hại chánh pháp, nó sẽ nói

rằng xưa kia Bồ Tát ở cung trời Đâu Xuất chết, rồi sanh nơi cung vua

Bạch Tịnh tại thành Ca Tỳ La Vệ nương sự ái dục hòa hiệp của cha mẹ

sanh dục mà có thân. Không bao giờ có người nào sanh trong loài người

mà được đại chúng cõi trời cõi người tôn kính. Và lại nói rằng xưa kia

khổ hạnh bố thí những đầu, mắt, tủy, não, bố thí những vợ, con, quốc

thành nên nay đặng thành Phật, vì thế nên được chư thiên, chư thần cùng

mọi người cung kính. Nếu có kinh luật nào nói như lời trên đây, phải

biết đó là lời của ma.

“Này Ca Diếp! Nếu kinh luật nào nói đức Như Lai Chánh

giác đã thành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sanh, nên nay mới thị

hiện thành Phật, và vì tùy thuận theo thế gian nên cũng thị hiện có cha

mẹ, nhơn nói ái dục hòa hiệp mà sanh. Phải biết kinh luật này, chính thật

là của Như Lai nói.

280 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nếu có chỗ nào nói không nên tin rằng lúc mới sanh, cả bốn

phương Như Lai đều đi bảy bước. Phải biết đây là lời của ma. Ai tùy

thuận theo lời ma thời là quyến thuộc của ma.

“Nếu nói lúc Như Lai mới ra đời cả bốn phương đều đi bảy

bước, đó là Như Lai phương tiện thị hiện. Phải biết đây là kinh luật của

Như Lai nói. Người nào tùy thuận lời Phật dạy, thời là bực Bồ Tát.

“Nếu có chỗ nói khi Bồ Tát giáng sanh, phụ vương cho người

đem đến miếu thờ Trời, tất cả chư Thiên thần, chư Đại Tự Tại Thiên,

Đại Phạm Thiên Vương, Thiên Đế Thích v…v.. thảy đều chắp tay lễ

chơn Bồ Tát. Đây là lời của Phật. Người thuận theo lời này là bực Bồ

Tát.

“Nếu gạn rằng: Trời sanh trước, Phật sanh sau, cớ sao chư

Thiên lại lễ kính Phật? Phải biết lời gạn này là lời của ma Ba Tuần. Nếu

ai thuận theo lời gạn này thời là quyến thuộc của ma.

“Nếu chỗ nào nói: lúc làm Thái tử, vì lòng tham dục, nên Bồ

Tát cưới vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung, nên biết trên đây

là lời của Ma vương, người thuận theo đây thời là quyến thuộc của ma.

“Nếu nói rằng: từ lâu Bồ Tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợ con,

cho đến sự vui vi diệu của tam thập tam thiên, như bỏ đờm mũi, huống

là sự vui ở cõi người. Bồ Tát cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo. Đây là

lời Phật nói, là kinh luật của Phật. Người thuận theo đây thời là Bồ Tát.

“Nếu có chỗ nói tại Kỳ Hoàn tịnh xá ở nước Xá Vệ, vì lòng

đại từ thương xót chúng sanh, nên Phật cho các tỳ kheo nuôi tôi tớ, voi

ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng v…v…

Phải biết đây là lời của ma. Ai thuận theo đây thời là quyến thuộc của

ma.

“Nếu nói rằng tại nước Xá Vệ nơi tịnh xá Kỳ Hoàn, trước

vua Ba Tư Nặc và Cổ Chi Đức Bà la Môn, đức Phật cấm các tỳ kheo

281 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

không được nuôi chứa và làm các điều trên. Người phạm các điều này

thời không được ở trong hàng tỳ kheo, phải hườn tục, như đám cỏ trong

ruộng lúa cần phải nhổ bỏ. Đây chính là kinh luật của Phật. Người thuận

theo đây thời là bực Bồ Tát.

“Nếu nói rằng: Thái tử Bồ Tát thị hiện vào miếu thờ Trời, ở

trong pháp ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biết tất cả oai nghi lễ tiết,

khéo hiểu tất cả văn tự, kỷ nghệ, thị hiện làm bực tôn quí nhứt trong các

giai cấp của xã hội, dầu vậy Bồ Tát chẳng có lòng luyến ái như hoa sen

không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sanh nên Bồ Tát phương tiện thị

hiện thuận theo thế pháp. Những lời trên đây là của Phật nói. Người

thuận theo đây là bực Bồ Tát. Nếu nói trái lại thời là lời của ma cùng

quyến thuộc của ma.

“Nếu có người cố chấp chín bộ kinh luật mà không chịu tin

kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằng không phải của Phật nói, vì

trong kinh luật của họ không có nói đến. Phải biết người này có tội,

không phải đệ tử của Phật.

“Nếu có người tin kinh điển phương đẳng đại thừa, cho rằng

vì độ chúng sanh nên Như Lai nói kinh đại thừa. Người này chính thật là

đệ tử của Phật.

“Nếu có chỗ nói Như Lai không phải là kết quả của vô lượng

công đức, là vô thường biến đổi do chứng pháp không nên tuyên nói lý

vô ngã, chẳng thuận với thế gian. Đây là lời của ma, người tin lời này

thời là quyến thuộc của ma.

“Nếu nói rằng Như Lai là bực Đẳng giác không thể nghĩ bàn,

là kết quả của vô lượng công đức, là thường trụ không biến đổi. Đây là

lời Phật nói, ai thuận theo lời này thời là bực Bồ Tát.

“Nếu có tỳ kheo thiệt không chỗ được, cùng nói được các

pháp hơn người, thời phạm tội ba la di (111)

mất pháp làm người, như

viên đá bể hai không còn liền lại được.

282 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nếu có tỳ kheo giới đức trong sạch, ít muốn biết đủ, ở nơi

vắng vẻ rảnh rang. Vua quan gặp tỳ kheo cho là bực A la hán, rồi cung

kính khen ngợi rằng Đại sư đây sau khi bỏ thân này sẽ chứng quả Vô

thượng bồ đề. Tỳ kheo nghe được liền cải chính là mình chưa chứng quả

thánh và khuyên vua quan chớ nhận lầm. Nhà vua vẫn cố kính tin và

loan truyền cho mọi người cùng tôn trọng cúng dường. Tỳ kheo này thiệt

là người giới đức trong sạch nên làm cho mọi người được phước đức

lớn. Tỳ kheo này không phạm tội ba la di vì tự mọi người sanh lòng kính

tin cúng dường. Nếu nói tỳ kheo này mắc tội, phải biết đó là lời của ma.

“Lại có tỳ kheo giảng tuyên giáo điển đại thừa rất sâu của

chư Phật rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sẽ dứt trừ vô lượng

phiền não bèn thành bực Vô thượng Chánh giác, trừ hạng nhứt xiễn đề” (112)

.

“Nếu có người hỏi tỳ kheo: “Nhà Thầy có Phật tánh chăng?

Sẽ được làm Phật hay không?” Tỳ kheo ấy đáp: “Chính tôi đây quyết

định có Phật tánh, còn thành Phật hay không chưa có thể thẩm định.”

Người lại nói: “Đại đức không phải hạng nhứt xiễn đề, tất được thành

Phật không còn nghi ngờ gì.” Tỳ kheo đáp rằng: “Vâng! Đúng như lời

người đã nói.” Dầu tỳ kheo này nói quyết định có Phật tánh, mà vẫn

không phạm tội.

“Lại có tỳ kheo lúc xuất gia tự nghĩ rằng: “Nay ta quyết định

thành bực Vô thượng Chánh giác.” Tỳ kheo này dầu chưa được thành

Phật, nhưng đã được vô lượng, vô biên phước đức. Vì xưa kia, trong tám

mươi ức kiếp, ta giữ giới trong sạch, ít muốn biết đủ, thành tựu oai nghi,

khéo tu vô lượng pháp tạng của chư Phật, thuở ấy ta cũng quyết định

rằng mình có Phật tánh, nhờ đó nên nay ta được thành Phật, có đức đại

từ bi.

“Những điều trên đây là lời Phật nói, nếu ai thuận theo thời là

bực Bồ Tát. Còn ai không chịu thuận theo thời là quyến thuộc của ma.”

283 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN

thứ hai mươi lăm.

Quán Thế Am (Avalokites Vara) tức là vị Đại Bồ Tát lắng

nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh trong cõi ta bà. Lắng nghe để tìm tới

nơi tùy phương tiện mà độ sinh.

Phổ Môn là cánh cửa chính chấp thủ sáu căn duyên hiệp với

sáu trần sinh ra tham muốn, dục vọng, tài sắc.

Quán Thế Am Bồ Tát Phổ Môn có nghĩa là ngài Quán Thế

Am nghe hết mọi nỗi khổ đau của chúng sanh, Bồ Tát khuyến tu tất cả

chúng sanh hãy gạt bỏ mọi ham mê về công danh, phú quí, coi những

thứ đó như bọt nước, sương sa, gắng công tu tập mới thấy rỏ con đường

giải thoát. Đừng để vướng mắc sắc tướng, bụi trần.

Bồ Tát Quán Thế Am còn có tên là Quán Tự Tại Bồ Tát

(Avalokitesvara). Đức Quán Thế Am nhờ quán sát ngoại giới, soi thấu

bản chất của ngũ uẩn mà đạt đến tự tại, vô ngại. Cho nên Quán Tự Tại

cũng là ngài Quán Thế Am.

Trong trí óc đa số người Việt Nam chưa quy y Tam Bảo đều

cùng chung một ý nghĩ ngài Quán Thế Am Bồ Tát là Phật bà Quan Am.

Đều nghĩ rằng Phật bà Quan Am rất hiển linh, cầu chi được nấy. Những

người đi biển, đi sông, gặp sóng to gió lớn, đều niệm danh hiệu Phật bà

Quan Am. Những người gặp trộm cướp, khổ nạn đều niệm danh hiệu

Phật bà Quan Am, vì họ nghĩ rằng Phật bà Quan Am gần gủi chúng sanh

hơn bất cứ vị Phật nào. Cho nên có người chưa quy y Tam Bảo, ở nhà

cũng có trang thờ Phật bà Quan Am. Năng lực độ trì của ngài Quán Thế

Am Bồ Tát như thế nào chúng ta đều biết.

Kinh dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều hết lòng xưng niệm

danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Am thì mọi khổ ách sẽ được tiêu diệt.”

284 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bây giớ chúng ta hãy đọc trọn phẩm kinh “Quán Thế Am Bồ

Tát Phổ Môn”.

1-“Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi

đứng dậy trịch áo bày vai hửu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng:

“Thế Tôn! Ngài Quán Thế Am Bồ Tát do nhơn duyên gì mà tên là

Quán Thế Am?”

Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát:“Thiện nam tử! Nếu có

vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe

Quán Thế Am Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Am Bồ

Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.

“Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát này,

dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của

Bồ Tát này được như vậy.

“Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này

liền đặng chỗ cạn.

“Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng,

bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chơn châu, các thứ báu

nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi

tắp nơi nước quỉ La Sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng

danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát, thời các người đó đều đặng thoát

khỏi nạn quỉ La Sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Am.

2-“Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán

Thế Am Bồ Tát thời dao gậy của người cầm liền gảy từng khúc, mà

đặng thoát khỏi.

“Nếu quỉ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại

thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế

Am Bồ Tát, thời các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà

nhìn người, huống lại làm hại đặng.

285 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm,

xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát,

thảy đều đứt rả, liền đặng thoát khỏi.

“Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một

vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua

nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện

nam tử, chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu

Quán Thế Am Bồ Tát, vị Bồ Tát hay đem pháp vô úy thí cho chúng

sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khói oán tặc

này.”

“Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng:

“Nam mô Quán Thế Am Bồ Tát”, vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền

đặng thoát khỏi.

“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Đại Bồ Tát sức oai thần cao

lớn như thế.”

Đức Bồ Tát có lòng đại từ đại bi cứu khổ chúng sanh nên

phát nguyện ở bất cứ nơi nào, thâm sơn cùng cốc nào, biển rộng núi cao

nào, chỗ nào có tiếng kêu vang cầu cứu, chỗ nào có nhiều cơ khổ hoạn

nạn, khi vừa chợt nghe là Bồ Tát thị hiện ra trước mắt để tế độ chúng

sanh cho kịp lúc, kịp thời. Muốn được như sở cầu, người xưng danh hiệu

phải nhất tâm thành khẩn, trong lòng phải giữ vững đoan chính thanh

tịnh, thời tiếng xưng tán của mình mới được vang xa. Đáng tiếc thay, có

người khi sống tạo nhiều ác nghiệp, một chút từ thiện nhỏ cũng không

làm, trong lòng toan tính chỉ biết làm lợi ích cho mình mà không nghĩ

đến cảnh đói khổ của kẻ khác. Cho nên lúc sa cơ, cầu nguyện hoài mà

không được như ý. Cũng ví như người mang nặng đi trong đầm lầy,

càng bước càng lún thêm sâu.

3-“Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường

cung kính niệm Quán Thế Am Bồ Tát, liền đặng ly dục.

286 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quan

Thế Am Bồ Tát, liền đặng lìa lòng giận.

“Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán

Thế Am Bồ Tát, liền đặng lìa ngu si.

“Vô Tận Ý, Quán Thế Am Bồ Tát có những sức oai thần

lớn nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng

tưởng nhớ.

“Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng

dường Quán Thế Am Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ;

giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước

đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.”

“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát có sức thần như thế.”

Ngài Quán Thế Am Bồ Tát luôn luôn hướng về chúng sanh,

vì ngài thệ nguyện phổ độ chúng sanh trên khắp cả mặt đất, biển cả,

rừng sâu, những người có duyên với Phật pháp thì sở cầu, sở nguyện

không bị chướng ngại. Ngài khuyên hết tất cả chúng sanh chớ coi rẻ

chính bản thân mình mà say đắm trong nhục dục, nếu lở say đắm thì

kính cẫn niệm danh hiệu ngài sẽ đặng xa lìa dâm dục.

Cũng đừng bao giờ khinh rẻ kẻ khác, hay sanh tâm giận hờn

kẻ luôn gây phiền não đến ta, nếu có hãy cung kính niệm danh hiệu ngài

thời sẽ xa lìa lòng giận.

Vì không làm lợi lạc cho chúng sanh nên ẩn chứa nhiều ngu

si, oán hận trong lòng, chỉ ham việc dễ làm mà tránh xa việc gian nan

nguy khó, cũng cứ thành khẩn niệm danh hiệu của ngài thời sẽ đặng lìa

xa ngu si, oán ghét.

Như có người nữ hiểu biết đạo pháp chân chính, thanh tịnh

thân tâm, tránh không để cho tạp niệm phát sinh, muốn cầu con trai liền

287 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

được sanh con trai khôi ngô tuấn tú, như muốn cầu con gái liền được

sanh con gái mắt đẹp mày xinh, nhờ đặng phước lực, trí lực của người

xưng danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát, nên đứa trẻ được nhiều người yêu

chuộng, mến thương.

4-“Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Am Bồ

Tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải

thọ trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát.”

“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi

hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y

phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của

người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng ?”

“Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.”

“Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế

Am Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của

hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức

kiếp không thể cùng tận.

“Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Am Bồ Tát đặng

vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”

Đức Phật dạy, một người cả đời chuyên lo phụng dưỡng cúng

dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, còn trì tụng danh

tự của sáu mươi ức hằng hà sa Bồ Tát, nếu đem ra so sánh với một người

chỉ nhất tâm xưng tụng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Am, hoặc một

thời lễ lạy cúng dường tượng Quán Thế Am Bồ Tát, thì công đức cả hai

bên đều bằng nhau.

Như vậy thần lực của câu niệm “Nam mô Đại Từ Đại Bi

cứu khổ, cứu nạn linh cảm Quán Thế Am Bồ Tát” thật là vô lượng vô

biên.

288 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đức Phật dạy, người giữ vững chơn tâm, hiểu thâm sâu đạo

lý, tự giác xa lìa mọi ảo ảnh cám dỗ, không ngã tướng, không nhơn

tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng (113)

Nhờ đó mà thấy được chơn tính, tức là Phật tánh trong tâm

thức, và dễ dàng thoát ly mọi thống khổ, tức là xa lìa tất cả mọi thân

bịnh, mọi tâm bịnh.

Chúng ta hy vọng mọi loài hửu tình trên thế gian này cố gắng

học Phật đạo, hiểu lý đạo, rộng chứa âm đức, làm nhiều điều thiện, bên

ngoài thì lợi nhân, lợi vật, bên trong tự tiết chế lòng ham muốn, thanh

tịnh tâm hồn. Nên khi lời trì niệm danh xưng “Nam mô Quán Thế Am

Bồ Tát” ắt sẽ được toại nguyện như ý mong cầu.

5-“Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn

Quán Thế Am Bồ Tát dạo đi trong cõi ta bà như thế nào? Sức

phương tiện việc đó thế nào?”

“Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam Tử! Nếu có

chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát,

thời Quán Thế Am Bồ Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Duyên Giác đặng độ thoát, liền

hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Thanh Văn đặng độ thoát, liền

hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, liền

hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện

thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.

289 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền

hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ thoát,

liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ

thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, liền

hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Tiểu Vương đặng độ thoát, liền

hiện thân tiểu vương mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Trưởng giả đặng độ thoát, liền

hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát liền hiện

thân Cư sĩ mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Tể Quan đặng độ thoát, liền hiện

thân Tể Quan mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Bà la môn đặng độ thoát, liền

hiện thân Bà la môn mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc,

Ưu bà di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà

tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.

“Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể

quan, Bà la môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói

pháp.

“Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ

thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.

290 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà,

A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn cùng phi nhơn

đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

“Ngưới đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần đặng độ

thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.

“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát đó thành tựu công đức

như thế, dùng các thân hình dạo đi trong các cõi nước để độ thoát

chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế

Am Bồ Tát.

“Quán Thế Am Đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt

hay ban sự vô úy, cho nên cõi ta bà này đều gọi ngài là vị “Thí Vô

Uy”.

Trước đây chúng ta vừa đọc qua phẩm Diệu Am Bồ Tát.

Ngài Diệu Am Bồ Tát ứng hiện vô số thân cũng như ngài Quán Thế Am,

nhưng Bồ Tát Diệu Am chỉ hành pháp thí (chuyên nói kinh Pháp Hoa

trong cõi ta bà này), khiến cho vô lượng chúng sanh đặng hiểu biết, và

tám mươi bốn ngàn vị Bồ Tát đặng chứng “Hiện nhứt thiết sắc thân tam

muội”. Còn Bồ Tát Quán Thế Am cũng ứng hiện vô số thân không

những chỉ hành pháp thí, ngài còn hành tài thí và cả vô úy thí. Chỗ nào

có nạn gấp sợ sệt, liền niệm danh hiệu của ngài thì sợ sệt sẽ tiêu tan. Chỗ

nào có đầy ấp khổ đau chỉ cần niệm danh hiệu của ngài thì khổ đau sẽ

được giải thoát.

Bồ Tát Quán Thế Am thường hành hạnh thí vô úy như thế

cho nên chúng sanh cảm thấy rất gần gủi, như lúc nào cũng có bà mẹ

hiền ở luôn bên cạnh đứa con thơ, đứa trẻ không hề biết sợ sệt.

Lòng không sợ sệt cũng tương ứng với ý nghĩa tâm thanh

tịnh, do bởi giữ vững được Giới, Định, Huệ. Người học Phật mà đặng

giới, định, huệ thì trong ngoài tâm thức như nước chảy, mây trôi, mảy

may không vướng bận việc trần gian, không tham lam chấp mê thái quá,

291 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

không chìm đắm trong danh lợi ái ân, không sa chân vào vòng tửu sắc

tài khí, không phí thời giờ thả lỏng tâm hồn theo chuyện gió trăng.

Bồ Tát Quán Thế Am cũng thường khuyến bảo người học

đạo nên phát thiện niệm, nhờ phát thiện niệm nên phát sinh nhiều thiện

duyên, mà thiện thần thường theo quán sát những người có thiện tâm.

Cho nên hể phát tâm thiện niệm thì thiện thần thường gia hộ cho mọi sự

việc thành tựu như ý sở cầu.

6-“Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải

cúng dương Quán Thế Am Bồ Tát.”

“Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị

trăm nghìn lượng vàng đem trao cho ngài Quán Thế Am Bồ Tát mà

nói rằng: “Xin ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này.”

“Khi ấy Quán Thế Am Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi.

Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Am Bồ Tát rằng: “Xin ngài

vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”

“Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Am Bồ Tát: “Ông nên

thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ

xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Nhơn

và phi nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó.”

“Tức thời Quán Thế Am Bồ Tát thương hàng tứ chúng và

Trời, rồng, nhơn, phi nhơn v…v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm

hai phần: Một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần

dâng tháp của Phật Đa Bảo.

“Vô Tận Ý! Quán Thế Am Bồ Tát có sức thần tự tại như

thế, dạo đi nơi cõi ta bà.”

292 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

SỰ TÍCH QUÁN THẾ ÂM BỔ TÁT

(Trích Tạp chí Từ Bi Âm)

Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một

kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến

Thái Tử.

Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng

ra đời.

Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng

ngày càng đông, bèn suy nghĩ rằng: "Nếu Đạo Phật không phải chơn

chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp xứ như vậy!"

Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và

chúng Tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần

cũng làm như vậy.

Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lòng tin

kính, sắm đủ các món ngon, vật quý và đem những đồ trân trọng của

mình mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nãi

bữa nào và cũng không món gì kém thiếu.

Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy

vậy khuyên rằng: "Điện hạ đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng

Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về Đạo Vô

Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi hay là

cõi Trời Phạm Thiên làm chi.

Bởi vì mấy cõi ấy, tuy là cảnh vật vui tốt, nhơn dân vui

sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi

tự tại, những đồ y thực sẵn có, các cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên

thọ dụng đủ đều khoái lạc, không có sự khổ như cõi nhơn gian.

293 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Cái phước báu trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế,

nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất, chắc chắn gì đâu, chính là sự

vô thường, thật là tướng vô định, như cơn gió thổi mau không có thế lực

gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn, hết sướng thì trở lại khổ, dầu có

sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi

kéo vào đường nọ ngõ kia.

Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc không thoát khỏi ải

sanh tử luân hồi: nếu đã không khỏi luân hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng

tiêu diêu tự tại. Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước

báu vô lậu, không hư không mất, đời đời kiếp kiếp vượt ra ngoài ba cõi

bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận, và hồi hướng về Đạo Bồ Đề

mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê biển

khổ. Vậy phần tự lợi đã vuông tròn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa.

Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy,

bèn đáp rằng: "Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường địa ngục

chịu sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên thượng thì đủ điều cấu

nhiễm, lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh, bởi đó

mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ

là: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh".

Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: "Bởi chúng sanh

ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhơn quân tử, khuyên

việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát, chỉ gặp

những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục những

điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho

mất cả căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không

biết đạo đức là gì, nên phải chịu nổi đày đọa".

Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: “ Nay

tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy: Tôi nguyện

đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các

món công đức tôi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo Vô

Thượng Bồ Đề. Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ

294 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có kẻ mắc sự

khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ

ai, không biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức

thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhãn

mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi

hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và đặng vui . Nếu chẳng đặng như

lời thề đó thì tôi không thành Phật.

Thưa Đức Thế Tôn! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà

phát lòng đại nguyện, tu học về Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh

tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh Niệm, trải hằng

sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc,

Thế giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh

Pháp truyền lại, thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp

gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi chứng Đạo Bồ Đề.

Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết

lòng yêu cầu các Đức Phật hiện tại ở hằng sa thế giới trong mười

phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa?”

Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện ấy, liền thọ ký

Bất Huyến Thái Tử rằng: " Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên

Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà

sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều

phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui.

Vì người có lòng soi xét những loài yêu cầu của loài hữu tình

trong thế gian mà cứu khổ như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quán Thế

Âm.

Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả vô lượng

chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.

Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì cõi Cực Lạc

lại đổi tên là: "Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu", y báo càng tốt đẹp

hơn trước đến bội phần.

295 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra

đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới cây

Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là: "Biến Xuất Nhất Thiết

Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai", phước tròn hạnh đủ,

muôn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất

quý, không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha

kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh Pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba

ức kiếp nữa.”

Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui

mừng mà thưa rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tôi

quả đặng hoàn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là hân hạnh biết bao!

Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế

giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng

thời vang ra những tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng

ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời".

Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức

thì các Thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa

nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là cho các điều dục vọng bổng

nhiên tiêu tan cả.

Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh

thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: "Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi

Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng

sanh, có con của vua Vô Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử phát

tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do công đức đó, nên

trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức

Quang Minh Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo

Sở Thành Tựu".

Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi, thì lòng rất

vui mừng. Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải

kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo

296 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng

sanh, không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện.

Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở cõi

Cực Lạc mà hầu hạ Đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh

trong mười phương đem về cõi ấy.

Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, thì Ngài kế ngôi Phật vị

mà giáo hóa chúng sanh.

hào quang kỳ ảo trên tượng Phật Bà cao nhất

ở chùa Linh Ứng Bãi Bụt (Đà Nẵng) VN

SỰ TÍCH QUAN ÂM NAM HẢI.

Tức là đức Quan Am trú xứ ở trong biển của Việt Nam.

Truyện Quan Am Nam Hải do một thiền sư đời nhà Nguyên (Trung

Quốc) sáng tác, được truyền vào đất nước ta vào thế kỷ thứ mười bốn.

Truyện có tính cách dân gian, cho nên đa số dân chúng nghĩ rằng Quan

297 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Am Nam Hải tức là Bồ Tát Quán Thế Am ở biển đông Việt Nam, nhất là

đối với người ở các làng chài lưới một lòng quy ngưỡng tôn kính. Mỗi

lần tàu thuyền chuẩn bị ra khơi, đều xướng tụng đến tên Ngài, mỗi năm

vào ngày hai mươi sáu tháng ba âm lịch là ngày lễ vía Quan Am Nam

Hải. Lâu dần chuyện tích Quan Am nam hải trở thành Việt hóa một cách

hoàn hảo, và nói rằng công chúa Diệu Thiện đi tu ở núi Hương Tích (Hà

Nội) và thành Phật tại đây. Dù là chuyện được sáng tác, văn phong rỏ

ràng, nhưng cũng cứ xem đây là một chuyện hóa thân của Đức Quán Tự

Tại Bồ Tát.

Quan Am Nam Hải là con gái thứ ba của vua Diệu Trang

Vương (Subhavyuha) tên là Diệu Thiện, người chị cả tên là Diệu Thanh,

người chị thứ hai tên là Diệu Âm. Cả ba chị em trong kiếp trước cùng là

ba anh em trai trong nhà họ Thi, một gia đình có tiếng giàu lòng từ thiện,

có nhơn đức.

Hai người chị Diệu Thanh và Diệu Âm vâng lời vua Diệu

Trang đi lấy chồng, công chúa Diệu Thiện thì trái lại chỉ muốn xuất gia

tu hành. Vua cha nghe vậy vô cùng tức giận, ra lệnh cho giam lỏng công

chúa trong cung lạnh. Hoàng hậu cùng hai người chị thỉnh thoảng ghé

thăm, khuyên bảo Diệu Thiện nên nghe lời cha mà đi lấy chồng. Nàng

cương quyết không chịu, nhất mực đòi đi tu.

Không dùng lời lẽ khuyên bảo được, vua bèn bày kế cho

công chúa đến tu tại một ngôi chùa lớn trong kinh thành, và mật lệnh

cho thiền sư trụ trì phải bắt công chúa làm lụng sớm khuya, công việc

nặng nhọc cũng chỉ là gánh nước, lặt rau, nấu cơm, hái thuốc để cho

công chúa thối tâm mà quay trở về hoàng cung. Nhưng Diệu Thiện

không nản chí. Bất kể đêm ngày, lợi dụng những phút giây rổi rảnh ni cô

Diệu Thiện tọa thiền, niệm Phật.

Thấm thoát tiết trời đã vào thu, bấm đốt ngón tay Diệu Thiện

đã xuống tóc quy y trong chùa này gần tròn hai tháng. Trong khi đó nhà

vua cứ sáng đợi chiều mong ni cô quay trở về. Vua ngờ rằng các vị sa

môn trong chùa vì nễ tình công chúa nên không cho làm những công

298 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

việc nặng nhọc, công chúa vì thế nên không muốn trở lại hoàng cung

chăng? Nghĩ vậy liền xuống lệnh đốt chùa. Diệu Thiện tự trách chính

nàng đã liên can đến chùa viện bị đốt, nên nàng tự cắn ngón tay và ngửa

mặt lên trời cầu nguyện. Lời cầu nguyện cảm ứng tới Long Vương, ngài

cho rồng phun nước dập tắt lửa.

Chùa không cháy, các thiền sư vẫn không ai bị thương tích

gì, ni cô Diệu Thiện vẫn không chịu hồi cung, vua Diệu Trang càng

thêm tức giận, liền cho ngự lâm quân đến bắt Diệu Thiện xử chém vào

giờ ngọ. Nhưng khi lưỡi đao vừa chạm vào cổ Diệu Thiện bổng bị gảy

làm đôi. Trời ban trưa đột nhiên tối sầm lại, sấm chớp nổi lên liên tục và

thình lình một con mãnh hổ nhảy vào mang ni cô Diệu Thiện đi mất.

Sau đó được biết mãnh hổ mang ni cô Diệu Thiện lên núi, đặt

nằm xuống rồi bỏ đi. Diệu Thiện thiêm thiếp, hồn ni cô đi xuống âm

phủ, đi qua mười tám tầng địa ngục. Cửa địa ngục nào Diệu Thiện bước

qua, ngục tốt cung kính cúi đầu đãnh lễ mà không nói điều gì cả. Diệu

Thiện nghĩ rằng mình bị vua cha xử chém, nay đã chết và linh hồn đang

phiêu bồng qua các cảnh địa ngục. Diệu Thiện vô cùng đau xót khi

chứng kiến cảnh những tội nhơn bị trừng trị tùy theo tác nghiệp đả tạo ở

dương gian.

Nào là địa ngục Phi Đao, tội nhơn chịu đau đớn vì những mũi

dao nhọn phóng tới tấp đâm lủng thịt da, nào là địa ngục kéo lưỡi tội

nhơn ra rồi cày bừa trên đó:

Kìa ngục bạt thiệt lạ sao

Cầm kìm lôi lưỡi máu đào mà kinh

Bởi vì miệng lưỡi co quanh

Đảo điên đơm đặt làm khuynh hãm người.

Nào là địa ngục Hỏa xa nghiền nát thân người tội, nào là địa

ngục cột đồng đỏ rực đốt thân người tội:

299 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Xe lửa là ngục hỏa xa

Quay đi quay lại thịt da tan tành

Bởi vì cậy thế, cậy thần

Hiếp kẻ cô quả, cướp tranh ruộng vườn

Cột đồng là ngục đốt thân

Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm.

Mỗi lần bước vào cửa địa ngục, Diệu Thiện nhất tâm trì chú,

niệm Phật, cho nên vừa thấy quỉ Dạ xoa hành hình tội nhơn, cảnh giới

liền hóa giải, tội nhơn được lệnh ân xá.

Diệu Thiện cứ nghĩ rằng mình đã chết rồi, chẳng lẽ đi lang

thang mãi thế này thì biết đường đâu mà về. Nhưng sứ giả của vua Diêm

Vương nói với Diệu Thiện: “Bồ Tát chưa chết đâu, chính Thập Điện

Minh Vương rước Bồ Tát xuống thăm địa ngục cho biết mà thôi, bây giờ

Bồ Tát hãy trở lại dương gian ngay.”

Hồn Diệu Thiện liền trở về dương gian nhập vào xác. Đang

còn phân vân không biết phải đi vế hướng nào, thì Phật Tổ Như Lai hóa

thân làm một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, bước tới gần để thử lòng Diệu

Thiện một lần nữa về chuyện kết nghĩa trăm năm. Khi thấy Diệu Thiện

tâm nguyện vững chắc, Phật liền chỉ đường cho ni cô đi về hướng núi

Hương Tích:

Đức Phật mới chỉ đường tu

Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn

Gần biển Nam Việt thanh nhàn

Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành.

Ni cô Diệu Thiện vâng lời Phật dạy, bèn nhắm hướng nam

Việt (nước Việt Nam nằm về hướng nam của Trung Quốc) vào núi

Hương Tích mà tu.

Núi cao ngân ngất mịt mù

Am thanh cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây

300 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trên thì năm sắc từng mây

Dưới thì bể nước trong rầy như gương

Cá chim chầu lại tĩnh đường

Hạc thường hiến quả, hươu thường dâng hoa.

Sau nhiều năm hành đạo, ni cô Diệu Thiện đã chứng quả Vô

thượng Chánh giác, hóa thành Phật bà Quan Am ngồi trên tòa sen báu:

Thần thông biến hóa tự nhiên

Một thân hóa được ra nghìn muôn thân

Mắt trông khắp hết cõi trần

Lắng tai nghe thấu xa gần bốn bên.

Bốn câu thơ trên nhằm diễn tả hạnh nguyện hóa thân của đức

Quán Thế Am Bồ Tát ra muôn ngàn thân để hóa độ trong ngàn muôn

trường hợp khác nhau, và cũng diễn tả khả năng nhận thức (thiên nhãn,

thiên nhĩ) và cứu độ (thiên thủ) của vị Bồ Tát này. Vì nhận thức và hành

động có trăm ngàn mắt, trăm ngàn tay, cho nên danh hiệu đức Quán Thế

Am Bồ Tát rất gần gủi với người lâm khổ nạn cần được sự cứu giúp:

Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra.

Phật Quan Am Hương Tích có hai người đệ tử: Thiện Tài,

tên của em bé trai mồ côi từ nhỏ xin theo bà, và Long Nữ, con gái của

Long Vương đội lốt cá Lý Ngư mắc nạn được bà cứu, trả về thủy đình,

sau trở lại xin theo bà để tu hành.

Sau này vua Diệu Trang bị bịnh nan y, yết bảng cầu lương y,

hứa rằng có ai chữa lành bịnh cho vua thì sẽ được truyền trao ngai vàng.

Rốt cuộc chẳng có vị thần y nào chữa được bịnh của vua. Cuối cùng

Diệu Thiện bấy giờ là Quan Am nam hải hóa thành vị lương y, giật bảng

yết đòi vào cứu vua. Xem mạch xong, lương y nói: “Bịnh này không thể

chữa trị được, nếu không xin được một mắt, một tay của tiên nữ trên núi

301 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Hương tích, và cam quyết rằng nếu vua cho người tới xin, tiên nữ đó sẽ

sẳn sàng bố thí.”

Vua giữ lương y ở lại hoàng cung và cho người qua nước Đại

Việt ở phương nam, lên chùa Hương tích, xin được ra mắt tiên nữ để xin

bố thí mắt và tay. Đem về triều, lương y điều trị nhưng bịnh chỉ hết được

phân nửa, lương y bảo phải trở lại Hương tích sơn để xin luôn con mắt

và cánh tay còn lại của tiên nữ.

Mọi người nhìn nhau tỏ vẻ hồ nghi và cho rằng việc đòi hỏi

này hơi quá đáng. Nhưng vị lương y (do Diệu Thiện hóa thân) nói rằng

vị Bồ Tát đó có phát nguyện xả thân bố thí để cứu người. Cuối cùng tiên

nữ cũng bố thí con mắt và cánh tay còn lại, vua khỏi bịnh, định làm lễ

truyền ngôi cho lương y, nhưng chưa kịp thi hành thì vị lương y đã biến

đi đâu mất.

Sau khi bình phục hẳn, vua và hoàng hậu lên đường qua nước

Đại Việt tìm tới núi Hương tích để tạ ơn tiên nữ.

Trong khi hoàng gia đang trên đường tới núi Hương tích, thì

tại Kinh đô có cuộc đảo chánh. Phật bà Hương tích dùng thần thông thấy

được nên sai hai đệ tử Thiện Tài và Long Nữ đem pháp thuật sang giải

cứu cho tình thế, đồng thời cứu thoát Diệu Thanh và Diệu Âm. Hai

người này từ khi bị giam, liền giác ngộ và bắt đầu tu hành, niệm Phật

ngồi thiền ngay trong ngục tối. Hai công chúa được cứu thoát liền theo

tháp tùng phái đoàn hoàng gia.

Vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, phái đoàn tới được núi

Hương tích. Cảnh tượng trang nghiêm, u nhã. Vào được tới động ngoài,

vua, hoàng hậu và hai công chúa chờ đợi để được tiếp kiến tiên nữ. Vua

Diệu Trang lên tiếng nhưng từ phía động trong không có tiếng trả lời.

Vua nghĩ mình là đàn ông, không tiện bước vào động trong, nên yêu cầu

hoàng hậu và hai công chúa bước vào trước để làm lễ ra mắt tiên nữ.

Lúc đó Phật bà hiện thân làm công chúa Diệu Thiện, đứng thẳng giữa

động, hai mắt bị móc, hai tay bị cắt, máu chảy ròng ròng. Nhận ra con

302 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

gái mình trong hóa thân ấy, hoàng hậu khóc và ngã ra bất tỉnh. Tiếp đến

là cuộc đối thoại giữa Diệu Thiện và cha mẹ. Diệu Thiện nói rằng mình

đã móc mắt và cắt tay để cứu cha, nhưng nếu cha mẹ phát nguyện bỏ ác

làm lành, tu hành theo đạo Phật thì bà sẽ có mắt và có tay nguyên lành

trở lại.

Vua và hoàng hậu liền phát nguyện tu mười điều thiện. Lập

tức tay mắt của Diệu Thiện liền trở lại nguyên lành như cũ.. Cả nhà ở lại

tu hành luôn tại núi Hương tích. Sau đó Diệu Thanh được thành Văn

Thù Sư Lợi Bồ Tát, cởi con sư tử xanh, và Diệu Âm trở thành Phổ Hiền

Bồ Tát, cởi con voi trắng.

Truyện Quan Am nam hải của Trung Quốc viết tới đoạn vua

ra lệnh chém đầu công chúa Diệu Thiện, lưỡi đao vừa chạm cổ liền gảy

làm đôi. Diệu Thiện nghĩ mình đã chết có đi thăm viếng địa phủ, vua

Diêm Vương phải sai sứ đưa hồn Diệu Thiện nhập trở lại dương gian,

rồi chấm dứt.

Truyện Quan Am nam hải của Việt Nam thì dài hơn từ ở

đoạn vua Diệu Trang lâm bịnh hiểm nghèo, cho tới lúc từ bỏ ngai vàng ở

lại núi Hương tích tu hành. Tuy câu chuyện được Việt hóa hoàn toàn,

nhưng vì có tính cách giáo dục dân gian chớ làm điều ác, nên làm điều

thiện, văn phong rất hòa hợp với đạo lý truyền thống của dân tộc Việt

Nam, phận làm con phải biết lấy chữ hiếu làm đầu, cư xử cứu nhơn, độ

thế, ăn hiền ở lành thì sẽ không gặp điều rủi ro, còn như có tâm địa ác

độc như vua Diệu Trang, ngay cả bịnh cũng không có thầy hay thuốc tốt

trị lành.

Theo chuyện Quan Am diễn ca của Huỳnh Tịnh Của (1834-

1907) in vào năm 1897 cứ tưởng như là Quan Am Nam Hải là người

Việt Nam, công chúa Diệu Thiện là con của vua Việt Nam. Sự gần gủi

ấy nói lên tính cách dân gian rất là phổ cập, người bình dân nghe qua là

hiểu ngay, không sâu sắc, không huyền bí. Có nghĩa là Phật Quan Am

nam hải cũng là con người bình thường như chúng ta, không màng sự

thế, không tranh với đời, tâm thức giác ngộ, đi tu rồi thành Phật. Còn

303 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nữa, đạo Phật lấy chữ Hiếu để, Nhân nghĩa để mở cửa vào cổng Phật trí,

Phật dạy: “Tội lỗi lớn nhứt của đời người là bất hiếu” và: “Lễ vật lớn

nhứt của đời người là lòng khoan dung, độ lượng.”

Chân như đạo Phật rất mầu

Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân

Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài

Tinh thông nghìn mắt, nghìn tay

Cũng trong một điểm linh đài hóa ra

Xem trong biển nước Nam ta

Phổ Môn có đức Phật bà Quan Am.

Phật bà phép chí vô biên

Một thân hóa mấy mươi ngàn muôn thân

Vốn là Bồ Tát thiên chân

Thác sinh công chúa nhất tâm tu hành

Trên thời Hiếu, báo sinh thành

Dưới thời Nhân, cứu chúng sinh ta bà

Cơ thần ngồi núi Phổ Đà

Thân lên trên Phật, thân qua dưới đời

Thần thông nghìn mắt, nghìn tay

Phổ Môn biến để độ người ngu mông.

Đoạn kết của chuyện Nam hải Quan Am nói rằng núi Phổ Đà

chỉ là nơi báo thân (Sambhogakaya) của Phật, còn Quan Am tọa thiền tại

núi Hương tích Việt Nam là nơi ứng thân (Nirmanakaya) của Ngài xuất

hiện, còn pháp thân (Dharmakaya) của Ngài thì đồng một thể tính với

Phật thân.

(Phỏng theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn

Lang.)

304 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

SỰ TÍCH QUAN ÂM THỊ KÍNH.

Thị Kính, pháp danh là Kính Tâm, là một trong những hóa

thân của đức Quán Thế Am Bồ Tát. Câu chuyện Quan Am Thị Kính như

sau:

Có một chàng trai xuất gia và tinh tấn tu hành trong chín

kiếp. Đến kiếp thứ mười, tức là kiếp chót mà chàng thành Phật, chàng

thác sinh làm người con gái tại nhà họ Mãng, huyện Hồ Nam, quận

Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly. Tên nàng là Thị Kính, có tài,

có sắc và đầy đủ đức hạnh. Lớn lên, nàng được cha mẹ gả cho chàng

Thiện Sĩ họ Sùng. Thiện Sĩ lo việc đèn sách, còn nàng lo việc nội trợ.

Một đêm, trong khi đọc sách, Thiện Sĩ thấy mệt liền ngã lưng

xuống ngũ. Thị Kính ngồi may áo một bên, trông thấy một sợi râu mọc

ngược bên cạnh cằm của chồng, liền cầm dao lên định cắt sợi râu.

Không ngờ trong lúc đó Thiện Sĩ tỉnh dậy, tưởng là vợ định giết mình,

bèn la lớn lên. Thị Kính cố hết sức giải bày mà nhà chồng vẫn cứ ngờ

vực, cuối cùng nàng bị đuổi về nhà cha mẹ.

Buồn chán cho tình đời, Thị Kính cải dạng nam trang xin vào

tu ở một chùa thật xa, tên là chùa Vân với pháp danh Kính Tâm.

Vâng lời lãng cảnh Ngọc Phương

Khêu đèn Bát nhã, giống chuông Tam thiền

Chân kinh ghi chữ tâm truyền

Chực tòa Long nhiễu, vui miền Hồ Khê

Đòi cơn tưởng nỗi hương quê

Người đi ngàn dặm, lòng về năm canh

Sự mình mình ngỏ với mình

Nặng tình cũng phải nên tình làm khuây

Này gươm trí huệ mài đây

Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi

Hương xông pháp giới ngùi ngùi

Thông rung trống kệ, trúc hồi mỏ kinh…

305 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Dù ăn mặc nâu sòng, vẻ tuấn tú của chú tiểu vẫn làm cho trái

tim của các cô gái trong làng thổn thức. Thị Mầu, con gái của một phú

ông trong làng, một hôm đi lễ chùa, thấy Kính Tâm liền đem lòng yêu

dấu, tìm cách quyến rũ. Kính Tâm một mực khước từ. Phẩn chí, cô con

gái nhà phú hộ một đêm kia tư thông với một người đầy tớ trai rồi chửa

hoang. Dân làng bắt khoán việc chửa hoang. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu đổ

oan cho Kính Tâm. Kính Tâm bị tra khảo, nhưng một mực không nhận

tội. Vị trụ trì chùa Vân thấy vậy xót xa liền xin bảo lảnh Kính Tâm, chịu

nộp phạt mang Kính Tâm về. Ông cho chú ở tạm ngoài cửa tam quan

chùa vì sợ người trong làng mai mĩa.

Vâng lời ra ở thiền môn

Trong tòa phương trượng, dám còn vào ra

Nương mình bên cụm cúc hoa

Một hai chồi trúc, đôi ba khóm tùng

Gương minh nguyệt, quạt thanh long

Cười cùng thiếu nữ, bạn cùng thuyền quyên

Lấy chi làm chuyện giải phiền

Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa

Bạch vân khuất nẽo xa xa

Song thân ta đấy, là nhà phải không?

Thị Mầu sinh được một trai, không biết mang đi đâu, liền

đem ra đặt ngoài tam quan chùa. Kính Tâm bối rối nhưng rồi quyết định

nhận đứa bé. Mỗi ngày chú phải đi xin sữa nuôi con, mặc cho người

trong xóm cười chê. Khi đứa bé lớn lên, biết nói, thì sức khoẻ của chú đã

mõi mòn. Chú viết một bức thư để lại cho cha mẹ, kể hết sự tình và dặn

dò con sau khi mình chết thì trao lại cho vị trụ trì. Sau đó người ta mới

biết chú là gái.

Trong lúc lập đàn làm chay cầu cho Kính Tâm siêu độ, thì

Phật Thiên Tôn hiện ra trên mây ngủ sắc truyền cho Kính Tâm thành

Phật Quan Am.

306 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nay bà Thị Kính hóa duyên

Nam mô Phật độ vô biên hằng hà

Hóa thân được cả mẹ cha

Kìa là bạn cũ, nọ là con thơ

Sau khi Thị Kính chứng quả, nàng đã độ được cha mẹ, Thiện

Sĩ và đứa con nuôi và vô biên hằng hà sa số chúng sanh khác.

Sau khi biết rỏ Thị Kính là gái giả trai, có nỗi oan tình, dân

làng bắt Thị Mầu phải để tang và chi trả mọi chi phí cho việc tổ chức

đám tang, ma chay và chôn cất.

Cha mẹ Thị Kính sau khi nhận được thư, tức tốc tới chùa vừa

kịp để dự trai đàn. Thiện Sĩ cùng đi theo với họ. Tất cả đều được trông

thấy cảnh đức Phật hiện ra và thọ ký cho Kính Tâm thành Phật Quan

Am. Ông bà họ Mãng và đứa trẻ cũng được lên tòa sen. Thiện Sĩ cũng

được hóa thành chim vẹt bay hầu một bên tòa sen.

Ai hay phép Phật nhiệm mầu

Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần

Giữa trời một đóa tường vân

Đức Thiên Tôn hiện toàn thân xuống đàn

Vầng vầng tỏ dạng tường loan

Đồng phan, bảo cái giao hoan âm thần

Truyền cho nào Tiểu Kính Tâm

Phi thăng làm Phật Quan Am tức thì

Lại thương đến đứa tiểu nhi

Lên tay cho đứng liền khi bấy giờ

Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ

Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên

Độ cho hai khóm xuân huyên

Ra tay cầm quyết, bước lên trên tòa

Siêu thăng thoát cả một nhà

Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng.

(Phỏng theo Việt Nam Phật Giáo sư luận của Nguyễn Lang.)

307 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

TÍNH CÁCH DÂN TỘC CỦA QUAN ÂM NAM HẢI

VÀ QUAN ÂM THỊ KÍNH.

Hai đức Quan Am Nam Hải và Quan Am Thị Kính chiếm

một địa vị khá quan trọng trong đức tin của người dân quê Việt Nam.

Thị Kính là hình ảnh của một lòng tha thứ bao la và một đức nhẫn nhục

không bến bờ; còn Diệu Thiện là hình ảnh của một ý chí kim cương, một

tình thương rộng lớn, bao trùm cả gia đình và nhơn loại và cả những linh

hồn đang chịu khổ đau ở cõi âm mữa.

Cả hai truyện cổ tích đều đã được trui luyện qua trí tưởng

tượng của người dân quê nên đều mang tính cách dân tộc một cách đậm

đà. Chính vì sự tưởng tượng có phần hơi lệch lạc, nghĩa là có người đang

gặp nạn khổ cứ niệm Quán Thế Am Bồ Tát thời sẽ hết nạn khổ. Nói như

vậy là quá chủ quan, phủ nhận hết công đức tu hành của càc bậc chơn tu

hay sao. Tuy nhiên hình bóng Quan Am Thị Kính và Quan Am Nam Hải

đều là những hình bóng rất quen thuộc của người dân Việt Nam. Những

tấm gương hiếu thuận, thương người, nhẫn nhục, tha thứ, những đức

tánh mà người Việt chúng ta thương mến đã được phát triễn đến mức độ

cao nhất ở hai nhân vật phụ nữ ấy.

Quan Am Nam Hải, Quan Am Thị Kính còn hằn sâu trong ý

thức của người dân quê là biểu tượng đức Quán Thế Am Bồ Tát thiên

biến, vạn hóa khi thì thân, khi thì hình ở khắp mọi nơi bên trong lẫn bên

ngoài tâm thức chúng ta. Và chúng ta nhìn nhận rằng câu chuyện tuy

không nghiêm túc nhưng dẫn đến một kết cục rất rỏ ràng, nội dung rơi

vào niềm tin dễ dải, nhưng bố cục đúng vào ý của phẩm hai mươi lăm,

đó là lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả của chư Phật, chư đại Bồ Tát.

Bồ Tát Quán Thế Am không ngại gian khổ, nghe tiếng kêu

cầu cứu của chúng sanh mà đến, để làm tròn lời đại nguyện chỉ mong

cứu hết khổ chúng sanh trong đời mạt kiếp. Vì thế, chúng ta hãy cầu

nguyện cho tất cả chúng sanh trong cõi ta bà này giữ bền tâm đạo, phát

triễn lòng từ, không bị vật chất làm tối mắt, không bị sắc tướng ràng

308 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

buộc thân, để khi cần niệm đến danh hiệu của ngài Quán Thế Am Đại

Bồ Tát sẽ được sở cầu như ý, sở nguyện viên thành.

309 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm ĐÀ LA NI thứ hai mươi sáu.

Lúc Phật vừa thuyết giảng xong phẫm Phổ Môn, liền có tám

mươi bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh

giác.

Ngài Dược Vương Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày

vai hửu chấp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng:

1-“Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn hay thọ

trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép

quyển kinh, đặng bao nhiêu phước đức?”

“Phật bảo ngài Dược Vương:

“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn cúng dường tám

trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật. Ý ông nghĩ sao?

Người đó đặng phước đức có nhiều chăng?”

“Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.”

Phật nói:

“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở nơi kinh này có

thể thọ trì, nhẫn đến một bài kệ bốn câu, đọc tụng giải nghĩa đúng

như lời mà tu hành thời công đức rất nhiều.”

2-“Lúc đó ngài Dược Vương Bồ Tát bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú

đà la ni (dhàrani) để giữ gìn đó, liền nói chú rằng:“An nhĩ, mạn nhĩ,

ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ chuyên đế, mục

đế mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý xoa duệ, a xoa duệ, a kỳ

nhị chuyên đế, xa lý, đà ra ni, a lư dà bà ta ky đá tỳ xoa nhị, nễ tỳ

310 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đàn đá ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu

lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi diệt

đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ, bà xá bà xá thâu địa,

mạn đá lã, mạn đá lã xoa dạ đa, bưu lâu đá, bưu lâu đá kiêu xá lược,

ác xoa lã, ác xoa dã đa dã, a bà lư, a ma nhã na đa dạ.”

(Nguyên âm tiếng Phạn : Anye manye mane mamnae citte

carite same samità vìsànte mukte muktame same avisshame

samasame jaye akshaye akshìne sànta samite dhàrani àlokadhàshe

pratyavekshani nidhiru abhyantaranivishte abhyantarapari sudhi

ukule mutkule arade sukànkshì asamasame buddhavilokite

dharmaparikshite samghanir ghoshani bhayabhayavi sodhani

mantre mantràkshayate rute tutakausalye akshaye

akshayavanatàye).

“Thế Tôn! Thần chú đà la ni này là của sáu mươi hai ức

hằng hà sa các đức Phật nói. Nếu có người xăm hủy vị Pháp sư này,

thời là xăm hủy các đức Phật rồi.

“Lúc đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật khen Dược

Vương Bồ Tát rằng:

“Hay thay! Hay thay! Dược Vương! Ông thương xót

muốn ủng hộ vị pháp sư đó, nên nói chú đà la ni này, được nhiều lợi

ích ở nơi các chúng sanh.”

NĂNG LỰC BÍ MẬT CỦA CHÚ ĐÀ LA NI.

Chú đa la ni có nghĩa là một năng lực bí mật để ngưng dứt

mọi điều ác và khuyến khích mọi điều thiện.

311 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phạn ngữ Dhârani, tàu dịch là tổng trì, nghĩa là giữ gìn tất cả

mọi thiện duyên, thâu hoạch những pháp lành, bảo vệ những chủng tử

tốt, bền tâm, vững chí trước mọi thử thách của kiếp sống này cũng như

của những kiếp sắp đến là ý nghĩa chánh của chữ đà la ni, lấy bốn pháp

làm thể là Giáo, Lý, Hạnh, Quả.

Đà la ni chia thành năm giáo: tiểu giáo, thĩ giáo, chung giáo,

đốn giáo và viên giáo.

1. Tiểu giáo, tức tiểu thừa giáo, chú trọng đến kinh A Hàm, nói về tất

cả các pháp từ nhơn duyên sinh, chỉ rỏ ba cõi không an như ngôi

nhà lửa, thấu rỏ chơn lý nhơn không, tu hành tự lợi, chứng quả Tu

đà hoàn, dù có nói đôi chút về pháp không cũng chẳng nói thật rỏ

ràng, do chưa tột cùng nguồn pháp. Chú trong kinh A Hàm tức là

tiểu giáo như sắt.

2. Thĩ giáo, tức đại thừa giáo, gồm có Pháp tướng tông và Vô tướng

tông. Hai tông này là sơ môn của Đại thừa, cho nên gọi là thỉ, có

nghĩa là ban sơ. Chưa dạy nghĩa lý tất cả chúng sanh đều có Phật

tánh, chẳng hứa khả định tánh xiễn đề sẽ thành Phật.

a. Pháp tướng tông có hai bộ kinh là Thâm Mật kinh và Phật

Địa kinh. Có hai bộ luận Du Già và Duy Thức, chỉ rỏ chơn lý

nhị không, tu lục độ vạn hạnh thẳng đến Đại thừa Phật quả.

Có câu luận: “Du Già diệu chỉ truyền tâm ấn

Ma ha diễn hạnh tổng trì môn.”

b. Vô tướng tông có bộ kinh Bát Nhã nói về nghĩa không của vô

tướng. Chú trong kinh Bát Nhã tức là Thĩ giáo như đồng.

3. Nhứt thừa chung giáo, gồm có hai bộ Diệu Pháp Liên Hoa kinh và

Đại Bát Niết Bàn kinh, nói vế tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.

Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rỏ thường biết, nhưng vì

vô thỉ mê vọng, điên đảo khôn lường, không tự giác ngộ. Đức Phật

dạy muốn chứng Phật quả, trước hết phải tỏ ngộ Phật tánh. Chung

312 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

giáo tức là không còn giáo lý nào hơn. Cho nên Phật thường nói

“Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh” là như vậy.

4. Nhứt thừa đốn giáo, chỉ nói chơn tánh, một niệm chẳng sanh thì

gọi là Phật, chẳng nương theo địa vị để nói theo thứ lớp nên gọi là

đốn, gồm có kinh Lăng Già nói về Ngài Đạt Ma đã truyền pháp

môn thiền tông, nói tất cả vọng tưởng bổn không, chơn tâm bổn

tịnh, nguyên không có phiền não vốn là bồ đề, chỉ nói chơn tánh

không nương cấp bực mà thành Phật, cho nên gọi là Đốn.

5. Bất tư nghì thừa viên giáo gồm có kinh Hoa Nghiêm nói về hoặc

sự, hoặc lý, hoặc nhơn, hoặc quả, trong đó có ba thế gian:

a) Khí thế gian: Bao gồm tất cả các quốc độ trong vũ trụ.

b) Chúng sanh thế gian: Là tất cả những giống hửu tình

trời, rồng, quỉ, thần, nhơn và phi nhơn.

c) Trí Chánh giác thế gian: Những bậc thánh nhơn đã

chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán.

Nói một nghĩa mà diễn ra trùng trùng vô tận, tổng hàm các

pháp, không một pháp nào mà không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại, không

chướng, không ngại nên gọi là Viên.

Trong tất cả các kinh nói về mật chú như Đại Bảo Lầu Các

kinh, Đại Bi Tâm kinh, Mâu Lê chú đều nói rằng: “Nếu có chúng sanh

được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua

trong bóng của họ, thì được tận diệt tội thập ác, ngũ nghịch, đời sau

được sanh vào các nước Phật.”

“Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc,

hết thảy loài hửu tình cũng diệt tất cả tội, đời sau sanh các nước Phật.”

313 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Những người trì chú đi đường có gió thổi, hơi gió này chạm

vào hành giả rồi cuốn đi, hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước cuốn

đi những gì kỳ cọ, hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên không trung tụng

chú, những hạt nước mưa trên không trung cũng thấm nhuần linh lực;

hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện

trên đều ảnh hưởng đến các chúng sanh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu

diệt, đời sau được sanh về cõi tịnh độ của chư Phật, hóa sanh trong hoa

sen.”

“Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió

chạm vào liền bị tổn thương, còn có công lực khó lường, huống nữa thần

chú không thể nghĩ bàn ư.”

Kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe đà la ni mà sanh hủy báng

cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm đi vào trong rừng long nảo,

chiên đàn, rồi chặt bỏ, dậm, đạp làm cho gảy ngã tất cả, chính thân thể

kẻ phá hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia.”

Kinh Vô Cấu Tịnh Quang nói: “Nếu vong nhơn đã tạo nhiều

ác nghiệp, khi chết bị đọa tam đồ. Hành giả liền xưng tên tuổi, tộc họ

của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú. Lúc bấy giờ vong ấy sẽ lìa khỏi

được ác thú và sanh vào cõi thiên thượng.

“Lại lấy chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải

trên mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh vào các cõi tịnh độ

của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhơn mà

được bóng người trì chú chiếu vào, cũng được sanh về những nước

Phật.

“Lại chép đà la ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong

đó liền sanh nơi thiên cung.”

Trong kinh nói đức Tỳ Lô Giá Na Phật vì muốn pháp môn có

lợi ích cho chúng sanh, nên Như Lai đã biến ra các loại quỉ thần mà nói

chơn ngôn, chứ không phải thập loại quỉ thần mà nói chơn ngôn được.

314 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong kinh cũng nói tất cả chư Phật đều từ đà la ni mà sanh

ra, có nghĩa là chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành chủng tử Phật, nếu

không có chơn ngôn thì không thành Chánh giác. Tất cả tam tạng giáo

điển đều do đà la ni phát xuất, nghĩa là trong chơn ngôn mỗi mỗi một

chữ toàn là Vô tướng Pháp giới. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà sanh

ra. Chơn ngôn cũng gọi là tam tạng. Có trì chú tức là có tam tạng, nghĩa

là trong chơn ngôn, mỗi mỗi một chữ đều gồm đủ Giới, Định, Huệ.

Kinh Đại Phật Đảnh đà la ni nói: “Giả sử có chúng sanh nơi

tâm tán loạn, miệng vẫn tụng thần chú, thường được tám vạn bốn ngàn

na do tha hằng hà sa cu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát chủng tộc,

mỗi mỗi đều có các kim cang chúng mà làm quyến thuộc, ngày đêm

thường theo hộ vệ người này. Dù có Ma vương phương tiện rình tìm

người kia cũng không thể được. Các tiểu quỉ thần xa lánh kẻ thiên nhơn

này ngoài mười do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến

xăm nhiễu kẻ thiên nhơn, các chúng kim cang lấy chày đập nát đầu nhỏ

như hạt bụi, hằng khiến người này làm việc như nguyện, cho nên lời

tụng kia nói:

Tám vạn bốn ngàn kim cang chúng

Đi, đứng, nằm, ngồi theo hộ thân.

Vì thần chú đà la ni hửu dụng và thâm diệu như vậy, cho nên

đức Phật thuyết giảng kinh Pháp Hoa dành riêng ra một phẩm. Chúng ta

trở lại phẩm kinh.

Lúc bấy giờ ngài Dõng Thí Bồ Tát cũng vì muốn ủng hộ

người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa nên cũng nói thần chú đà la ni và

bạch với Phật rằng:

3.- “Bạch Thế Tôn! Nếu vị pháp sư đó đặng chú đà la ni

này, hoặc Dạ xoa, La sát, hoặc Phú đơn na, hoặc Kiết giá, hoặc Cưu

bàn trà, hoặc Ngạ quỉ v…v… rình tìm chỗ dở của pháp sư không

thể đặng tiện lợi.” liền ở trước Phật mà nói chú rằng:

315 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lê, a la bà đệ niết

lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí nĩ, vi trí nĩ, chỉ tri nĩ, niết lệ trì nĩ, niết lệ

tri bà để.”

( Nguyên âm Phạn ngữ : Jvale mahàjvale ukku mukku ade adàvati

nrtye nrtỳavati ittini vittini cittini nrtyeni nrtỳavati).

“Thế Tôn! Thần chú đà ra ni này của hằng hà sa các đức

Phật nói, cũng đều tùy hỷ. Nếu có người xâm hủy vị pháp sư này,

thời là xâm hủy các đức Phật đó rồi.”

Bấy giờ Tỳ sa môn Thiên vương, vị trời hộ đời bạch Phật

rằng:

4.- “Thế Tôn! Con cũng vì thương tưởng chúng sanh ủng

hộ vị pháp sư đó mà nói đà la ni này. Liền nói chú rằng:

“A lê, na lê, nâu na lê, a na lư, na lý, câu na lý.”

(Atte natte vanatte anade nàdi kunadi).

“Thế Tôn! Dùng thần chú này ủng hộ pháp sư, con cũng

phải tự ủng hộ người trì kinh này, làm cho trong khoảng trăm do

tuần không có các điều tai hoạn.”

Đến phiên Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội này cùng

với nghìn muôn ức na do tha chúng Càn thát bà, cung kính vây

quanh đến trước chỗ Phật, chắp tay bạch Phật rằng:

5.- “Thế Tôn! Con cũng dùng thần chú đà la ni ủng hộ

người trì kinh Pháp Hoa. Liền nói chú rằng:

“A dà nể, dà nể, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đẳng

kỳ, thường cầu lợi, phù lầu tá nĩ, ác đế.”

(Agane gane gauri gandhàri candàri màtangi samkule

vrùsalisisi).

316 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Thế Tôn! Thần chú đà la ni này là của bốn mươi hai ức

các đức Phật nói, nếu có người xâm hủy vị pháp sư này thời là xâm

hủy các đức Phật đó rồi.”

Bấy giờ có mười vị La Sát nữ: một tên Lam Bà, hai tên

Tỳ Lam Bà, ba tên Khúc Xĩ, bốn tên Hoa Xĩ, năm tên Hắc Xĩ, sáu

tên Đa Phát, bảy tên Vô Yểm Túc, tám tên Trì Anh Lạc, chín tên

Cao Đế, mười tên Đoạt Nhứt Thiết Chúng Sanh Tinh Khí.

Mười vị La Sát nữ đó cùng với quỉ Tử Mẫu (114)

, con và

quyến thuộc đều đến chỗ Phật, đồng tiếng bạch Phật rằng:

6.- “Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ

trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa, trừ sự khổ hoạn cho người đó, nếu có

kẻ rình tìm chỗ dở của Pháp sư, thời làm cho chẳng đặng tiện lợi.”

Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:

“Y đề lý, y đề dẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê

lý, nê lý, nê lý, lâu hê, lâu hê, lâu hê, lâu hê, đa hê, đa hê, đa hê, đâu

hê, nâu hê.”

( Iti me, iti me, iti me, iti me, iti me, ni me, ni me, ni me, ni

me, ruhe, ruhe, ruhe, ruhe, stuhe, stuhe, stuhe, stuhe, stuhe)

“Thà trèo lên đầu chúng con, chớ đừng não hại pháp sư,

hoặc Dạ xoa, hoặc La sát, hoặc Ngạ quỉ, hoặc Phú đơn na, hoặc Kiết

giá, hoặc Tỳ đà la, hoặc Kiền đà, hoặc Ô ma lặc đà, hoặc A bạt ma

la, hoặc Dạ xoa kiết giá, hoặc Nhơn kiết giá, hoặc quỉ làm bịnh nóng,

hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc

đến bảy ngày, hoặc làm bịnh nóng luôn, hoặc hình trai, hoặc hình

gái, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, nhẫn đến trong chiêm

bao cũng lại chớ não hại.”

Mười vị La sát nữ ở nơi trước Phật mà nói kệ rằng:

317 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nếu chẳng thuận chú ta

Não loạn người nói pháp

Đầu vở làm bảy phần

Như nhánh cây A Lê

Như tội giết cha mẹ

Cũng như họa ép dầu (115)

Cân lường khi dối người

Tội Điều đạt phá Tăng

Kẻ phạm pháp sư đây

Sẽ mắc họa như thế

“Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự mình ủng hộ người thọ

trì, đọc tụng, tu hành kinh này, làm cho đặng an ổn, lìa các sự khổ

hoạn, tiêu các thuốc độc.”

Phật bảo các La sát nữ:

7.- “Hay thay! Hay thay! Các người chỉ có thể ủng hộ

người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, phước chẳng thể lường được rồi,

huống là ủng hộ người thọ trì toàn bộ cúng dường quyển kinh, hoa

hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, phan lọng, kỷ

nhạc, thắp các thứ đèn: đèn nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm,

đèn dầu bông Tô ma na, đèn dầu bông Chiêm bặc, đèn dầu bông Ba

sư ca, đèn dầu bông Ưu bát la, nghìn trăm thứ cúng dường như thế.

“Cao Đế! Các người cùng quyến thuộc phải nên ủng hộ

những pháp sư như thế.”

PHẬT thuyết

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƯƠNG CÚ.

“Tôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng

cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc. Lúc đó Thị giả A Nan đắc đại trọng bịnh,

318 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật liền đến nơi ấy trải tòa mà ngồi. Phật bảo A Nan rằng: “Ông nay

lắng nghe, ta có câu thần chú Lục Tự Đại Minh hay tiêu tai nạn, tăng ích

thọ mạng. Nếu ông thọ trì, chẳng những tự thân ông lìa khổ, mà còn

khiến cho bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đêm dài

an ổn, lìa xa sự khổ não.

“Lại vầy nữa A Nan, Lục Tự Đại Minh Thần chú này là của

bảy mươi bảy trăm ức đức Phật và sáu Đại Oai đức sư đều đồng tuyên

nói. Sáu Đại Sư ấy là: Một là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hai là Đế

Thích Thiên Chủ, ba là Đa Văn Thiên Vương, bốn là Trì Quốc Thiên

Vương, năm là Tăng Trưởng Thiên Vương, sáu là Quảng Mục Thiên

Vương. Những bực Thánh hiền như vậy, tuy khác miệng đồng lời tuyên

thuyết thần chú rằng:

“Nan để lê, nan để lê, nan đổ lị, đổ ma lị, bán noa lị, câu

quan trí, ma độ ma để ta phạ ha.”

Phật dạy A Nan:

“Lục Tự Đại Minh chương cú này có đại oai lực. Nếu lại có

người trong nạn vương pháp sợ hãi, trong nạn nước lớn sợ hãi, trong nạn

giặc cướp sợ hãi, trong nạn oan gia sợ hãi, trong chiến đấu nạn sợ hãi,

trong nạn ác diệu (sao xấu) sợ hãi, các nạn như vậy khi hại đến thân, một

lòng xưng niệm Đại Minh Chương Cú, ủng hộ đệ tử …… khiến được

giải thoát, nếu nói lời ấy rồi các thứ nạn tai liền được tiêu trừ.

“Lại nữa A Nan, nếu các hửu tình, các bịnh đau nhức, đau

đầu, đau cổ, đau mắt, tai, mũi, họng, răng nướu lưỡi đau, môi miệng má

đau, ngực hông vai đau, tim đau, bụng đau, lưng đau, háng đau, khắp

thân đau nhức, dịch tả, kiết lị, bịnh trĩ, nhọt rò, phong bịnh vàng da, đàm

suyễn khó thở, các bịnh nặng dữ. Như trước xưng niệm Đại Minh

Chương Cú, Phật đại oai đức, liền sai tất cả Nhựt, Nguyệt, Tinh tú, La

hán, Thánh hiền phát lời chơn thật. Cho đệ tử tên ………….. nên phải

ủng hộ, dứt trừ tai hoạ, khiến được an vui. Nơi có đao kiếm và các thuốc

độc, cọp, beo, sư tử, bò cạp,rắn rít, các cầm thú dữ đều chẳng dám hại;

319 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

bịnh rét chẳng bị, chẳng trúng thiên thời, cho đến A ba ta, Ma la bộ đa,

Tỳ xá tả, Cưu bàn trà, tất cả quỉ tướng đều phải xa lìa, chẳng dám gây

hoạn.

“Lại nữa A Nan, nếu các hửu tình bị loài quỉ mị, suốt năm

nhiều tháng mà chẳng bỏ rời, lấy thần chú này gia trì nơi chỉ rồi đeo tay

người bịnh, thì Kim Cang Thủ, Đại dược Xoa Chủ, dùng sức phẩn nộ

đập đầu quỉ mị khiến bể bảy phần. Lại còn sai khiến đại trí Xá Lợi Phất,

đại thần thông Mục Kiền Liên, Trì giới La Hầu La và ông A Nan Đà,

thảy đều đến ủng hộ khiến được an vui. Nếu không được vậy, thời núi

Tu Di Vương phải dời đi nơi khác, nước đại biển lớn phải liền khô cạn,

mặt trời, mặt trăng đều phải rơi rớt xuống, quả đất lớn này cũng bầm ra

từng mảnh.

“Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không vọng ngữ.

Này A Nan, Lục Tự Đại Minh đà la ni này thần thông oai đức chưa từng

có được. Nếu vui mừng nghe được, người ấy thường được sống lâu

không bịnh, các nạn tai không xâm hại. Huống gì thọ trì, đọc tụng, biên

chép, cung kính cúng dường. Chính là pháp thành tựu tối thượng tăng

ích.”

A Nan nghe Phật thuyết xong thần chú Lục Tự Đại Minh

Chương Cú, tín thọ phụng hành, thân liền xuất hạn, bịnh nặng giãi trừ.

HIỂN GIÁO VÀ MẬT GIÁO.

Từ ngày thành đạo cho đến lúc Phật nhập Niết bàn, gần năm

mươi năm đức Phật đi hóa đạo khắp miền đất nước An Độ, giáo lý của

Phật thu gọn lại trong ba tạng: kinh (sutra), luật (Vinaya) và luận

(Sastra), trong ba tạng này không ngoài hai môn Hiển giáo và Mật giáo.

320 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

1-Hiển giáo: là mở rộng tâm cho tất cả đệ tử thấy được cái

lý, cái sự của Tánh, Tướng để liễu ngộ giáo pháp nhiệm mầu, tu chứng

chơn tâm.

Nói về lý phải đọc từ phẩm một đến phẩm mười. Nói về sự

phải đọc tiếp từ phẩm mười một đến phẩm thứ hai mươi hai. Nói về Lý

Sự đến tận tâm thức giải thoát phải đọc tiếp từ phẩm Dược Vương Bồ

Tát bổn sự thứ hai mươi ba đến phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ

hai mươi tám mới thấy rỏ con đường Phật tri kiến trong từng bước Giới,

Định, Huệ.

Trong phẩm Tựa thứ nhứt, đức Phật trình bày tổng quát về sự

tướng của pháp giới.

Phẩm Phương Tiện thứ hai đức Phật mở cho chúng sanh thấy

con đường Phật tri kiến, và sự liễu ngộ lý nhiệm mầu, tu hành chứng đắc

A la hán mà tiêu biểu là ngài Tôn giả Xá Lợi Phất. (Phật thọ ký cho ngài

Xá Lợi Phất trong đời vị lai sẽ thành Phật có danh hiệu là Hoa Quang

Như Lai).

Phẩm Thí Dụ thứ ba, phẩm Tín Giải thứ tư, phẩm Dược Thảo

dụ thứ năm, phẩm Thọ Ký thứ sáu, Phật khai thị cho chúng sanh thấy rỏ

nguyên lý nhơn duyên, và tận dụng các phương tiện thiện xão giúp

chúng sanh mau chóng ngộ nhập Phật tri kiến. Tiêu biểu là các ngài

chứng bực Thanh Văn được Phật thọ ký như ngài Ma ha Ca Diếp, Thần

thông Mục Kiền Liên, ngài Tu Bồ Đề, ngài Ca Chiên Diên.

Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy, phẩm Ngũ ba đệ tử thọ ký thứ

tám, phẩm Thọ học, vô học nhơn ký thứ chín và phẩm Pháp sư thứ

mười, Phật mở rộng về pháp môn đại thừa, và quan điểm nổi bậc nhứt

của mười phẩm kinh đầu là chỉ có một thừa, không có hai, không có ba,

một thừa đó tức là đại thừa, các bực Thanh Văn tinh tấn giữ trọn lành

Giới, Định, Huệ.

321 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Từ phẩm thứ mười một Hiện bửu tháp (nhơn chứng lịch sử

của kinh Pháp Hoa) cho đến phẩm Chúc Lụy thứ hai mươi hai Phật dẫn

dắt chúng sanh từ các lý lẽ nhơn duyên, đến các lời nói phương tiện thực

hành, nhằm khuyến khích người thọ trì, đọc tụng biên chép, giải nói,

truyền bá kinh điển được nhiều sự lợi ích, tăng tấn đạo bồ đề.

Từ phẩm thứ hai mươi ba đến phẩm cuối của quyển kinh,

trình bày con đường Phật tri kiến, sự giải thoát hoàn toàn, dứt tiệt đường

sanh tử của chư vị Bồ Tát.

Phần Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa đã trình bày được quan

điểm tinh thần giáo lý chơn chánh của kinh, diễn giải bằng những lời lẽ

dễ hiểu, kết hợp lẫn cả tri và hành, kết hợp cả lời lẽ nhơn duyên, phương

tiện thiện xảo, làm cho những thâm nghĩa trong kinh dần dần lộ ra

những tinh túy cốt lõi của giáo lý, đó là thực tướng của tất cả sự vật, đó

là một chơn lý quan trọng để thâm nhập vào tất cả sự vật, đó là pháp lý

của giáo lý chơn lý.

Trong Hiển giáo còn có Tự lực môn và Tha lực môn:

- Tự lực môn: Là tự sức mình giải thoát lấy nghiệp lực không cần

ai giúp đở. Ví như có người tu pháp môn Thập Nhị Nhơn Duyên, rồi tự

chứng đắc quả vị Bích Chi Phật (116) đều nhận thấy các pháp môn trên tu

hành khó đặng thành đạo mau chóng, như người đi bộ ngàn dậm muốn

tới mục tiêu cũng phải mất thời gian khá lâu.

- Tha lực môn: Là có sự giúp sức của chư vị Bồ Tát, Thiên Long

bát bộ. Ví như người tu duy nhứt một pháp môn niệm Phật rất dễ hành

đạo, vì niệm Phật chính là Thỉ Giác, trì danh niệm Phật là hợp với trung

đạo, hoặc là chuyên trì một câu thần chú đà la ni, như người ngồi trên

thuyền thuận gió xuôi buồm, mau tới đích mà không mệt mõi.

2-Mật giáo: gồm tất cả các bộ đà la ni.

322 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đà la ni là mật chú của chư Phật, Phật Phật truyền tâm,

chúng sanh không thể hiểu được.

Hiền Thủ Bát Nhã Sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư

Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị. Chỉ tụng trì, không cần phải

gượng giải thích.”

Trong Thiên Thai chỉ quán nói rằng: “Bực Thượng Thánh có

thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm phu chỉ tuyên truyền Hiển giáo,

không thể tuyên truyền về Mật giáo.”

Các sư từ xưa đều nói: “Đà la ni nhơn vị Thánh hiền, không

thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu

phước đức.”

Kinh Quán Thế Am Bồ Tát bí mật tạng Thần chú nói:

“Nếu có người trì chú, phàm ra làm việc gì cũng được thành

tựu, chỉ cần phải thâm tín, không được sanh nghi. Người trì chú đã có

công năng lợi lạc hửu tình, cứu thoát u linh.”

Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại

Bi Tâm đà la ni nói: “Người nào trì chú sẽ không bị mười lăm món ác

tử:

1. Không khiến người kia bị chết vì đói khát, khốn khổ.

2. Không bị chết vì cột trói, đánh đập.

3. Không bị oan gia cừu đối mà chết.

4. Không bị quân trận giết nhau mà chết.

5. Không bị chết vì cọp, beo làm hại.

6. Không bị chết vì rắn, rít độc cắn.

7. Không bị chết vì nước trôi, lửa cháy.

8. Không bị chết vì trúng độc dược.

9. Không bị trúng độc hại chết.

10. Không bị cuồng loạn, thất niệm mà chết.

323 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

11. Không bị chết vì núi, cây, bờ, gộp sập đè.

12. Không bị người ác yểm mị mà chết.

13. Không chết vì tà thần, ác quỉ rình hại.

14. Không bị ác bịnh triền thân mà chết.

15. Không bị phi phản tự hại mà chết.

Tụng trì đà la ni ấy, trong miệng nói ra lời gì, hoặc thiện hay

ác, tất cả Thiên long nghe đều là pháp âm thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng:

Thí như thuốc linh đơn

Điểm sắt thành vàng báu

Tụng trì đà la ni

Biến phàm làm thánh hiền.

Kinh Bất Không Quyến Thần chú Tâm nói: “Người tụng chú

lúc lâm chung được tám món lợi thù thắng:

1.Khi mạng chung thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện ra

tướng tỳ kheo đến trước mặt an ủi.

2.Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống khổ.

3.Lúc sắp bỏ mạng, mắt không trợn lớn, miệng không hả

mép, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân dơ,

nước tiểu, không bị trụt rớt xuống đất.

4.Lúc lâm chung, an trụ nhớ chánh niệm, ý không loạn

tưởng.

5.Lúc chết không úp mặt.

6.Khi sắp chết được vô tận biện.

7.Khi đã xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các cõi tịnh độ chư

Phật.

8.Thường cùng thiện hửu không xa rời nhau.

Kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Am thần chú nói: “Người

tụng chú được bốn món công đức:

1.Khi lâm chung được thấy chư Phật.

324 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

2.Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.

3.Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.

4.Được sanh về cõi Cực lạc thế giới.

Như vậy trong chơn ngôn bí mật thần chú gồm đầy đủ hai

món tự lực và tha lực. Vì sao? Vì mỗi mỗi chữ đều là toàn thân của chư

Phật. Thần Biến Sớ nói rằng: “Lại các môn thành Phật như mài vàng đá

lấy ngọc Như Ý, tu theo chơn ngôn thành Phật như sức thần thông lấy

ngọc Như Ý.”

Trong kinh Ngũ Bí Mật Tu Hành Nghi Quỉ nói rằng: “Kim

Cang Tát Đỏa là Phổ Hiền Bồ Tát, tức là tất cả trưởng tử của Như Lai là

tâm Bồ đề của chư Phật.”

Lại nói: “Kim Cang Tát Đỏa Tam Ma Địa, gọi là pháp của

chư Phật, pháp này hay thành đạo của các Phật. Nếu lìa pháp này không

có pháp riêng để thành Phật, Kim Cang ấy tên là Bát Nhã Ba La Mật,

hay thông đạt tất cả Phật, không ngăn, không ngại, cũng như Kim Cang

xuất sanh chư Phật.”

Lại nói: “Nếu người đối với Hiển giáo mà tu hành, phải trải

qua thời gian lâu ba đại vô số kiếp, nhiên hậu mới chứng thành Vô

thượng bồ đề, trong thời gian đó mười tiến mà chín lùi. Hoặc chứng

Thất trụ, mà vì đã tu tập phước đức trí huệ hồi hướng Thanh Văn, Duyên

Giác đạo quả, nên không thể chứng Vô thượng bồ đề.

“Còn y Tỳ Lô Giá Na Phật tự thọ dụng thân, đã nói bên trong

chứng được tự giác Thánh Trí pháp, và địa vị thọ dụng thân trí của Đại

Phổ Hiền Kim Cang Tát Đỏa, cho đến ứng thời tu tập đắc thân, trong

một đại a tăng kỳ kiếp tu tập phước đức trí huệ mới sanh vào được nhà

của Phật. Người đó từ tất cả Như Lai tâm sinh, từ miệng Phật sanh, từ

pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, đắc Phật pháp tài. Từ đây về sau thọ

được pháp rộng lớn, thâm sâu không thể nghĩ bàn, vượt lên hàng Nhị

thừa Thập địa.

325 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Vậy cho nên biết yếu chỉ của Chơn Ngôn Bí Mật Thần Chú,

còn chẳng phải chỗ hiểu biết của nhơn vị Bồ Tát, huống nữa kẻ quê mùa

phàm phu tiểu trí đâu có thể so sánh thấu rỏ ư!”

326 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ

Thứ hai mươi bảy.

“1.- Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại chúng rằng: Về thuở

xưa cách đây vô lượng, vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp, có

đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng

Cúng, Chánh Biến Tri, nước đó tên Quang Minh Trang Nghiêm,

kiếp tên Hỷ Kiến.

“Trong pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu Trang

Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một tên

Tịnh Tạng, hai tên Tịnh Nhãn.. Hai người con đó có sức thần thông

lớn, phước đức, trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát, những

là: thí ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền ba la mật, trí huệ ba la

mật, phương tiện ba la mật, từ bi, hỷ xã, nhẫn đến ba mươi bảy

phẩm trợ đạo pháp thảy đều rành rẻ suốt thấu.

“Lại đặng các pháp tam muội của Bồ Tát: Nhựt tinh tú

tam muội, Tịnh quang tam muội, Tịnh sắc tam muội, Tịnh chiếu

minh tam muội, Trường trang nghiêm tam muội, Đại oai đức tạng

tam muội, ở nơi các môn tam muội này thảy đều thấu suốt.

“2.- Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Triệu

Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh

Pháp Hoa này.

“Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ

của mẹ, chắp tay thưa mẹ rằng: “Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật

Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần

gủi, cúng dường lễ lạy”.

“Vì sao? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời người

mà nói kinh Pháp Hoa, nên phải nghe và tin nhận.

327 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Mẹ bảo con rằng: “Cha con tin theo ngoại đạo, rất ham

pháp bà la môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng

đi.”

“Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ: “Chúng con là

Pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này.”

“Mẹ bảo con rằng: “Các con nên thương tưởng cha các

con, mà vì đó hiển phép thần thông biến hóa, nếu cha con đặng thấy

lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật.”

“3.- Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư

không cao bằng bảy cây đa la, hiện các món thần biến. Ở trong hư

không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa,

dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong

hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư không ẩn

mất, bổng nhiên hiện trên đất,, vào đất như vào nước, đi trên nước

như đi trên đất, hiện các món thần biến như thế làm cho vua cha

lòng thanh tịnh tin hiểu.

“Bấy giờ cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui

mừng, đặng chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng:

“Thầy các con là ai? Con là đệ tử của ai?”

“Hai người con thưa rằng: “Đại Vương! Đức Vân Lôi Am

Tú Vương Hoa Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa dưới cây

bồ đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng trời người thế gian, rộng

nói kinh Pháp Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ tử.”

“Cha nói với con rằng: “Ta nay cũng muốn ra mắt thầy

các con, nên cùng nhau đồng đi.” Khi đó hai người con từ trong hư

không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: “Phụ vương

nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác, chúng con đã vì cha làm Phật sự rồi, mong mẹ bằng

lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất gia tu hành

Phật đạo.”

328 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa

mẹ:

Mong mẹ cho các con

Xuất gia làm sa môn

Các Phật rất khó gặp

Chúng con theo Phật học

Như hoa Ưu đàm bát

Gặp Phật lại khó hơn

Khỏi các nạn cũng khó

Mong cho con xuất gia

Mẹ liền bảo con rằng: “Cho các con xuất gia. Vì sao? Vì

Phật khó gặp vậy.”

“4.- Bấy giờ hai người con thưa cha mẹ rằng: “Lành

thay! Cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa

Trí Phật để gần gủi cúng dường. Vì sao? Vì Phật khó gặp đặng, như

hoa linh thoại, lại như rùa một mắt gặp bọng cây nổi mà chúng ta

do phước đời trước sâu dầy, sanh đời này gặp Phật Pháp, xin cha

mẹ nên cho chúng con đặng xuất gia. Vì sao? Vì các đức Phật khó

gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.”

“5.- Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có

tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp

Hoa này. Tịnh Nhãn Bồ Tát từ lâu đã thông đạt nơi “Pháp Hoa Tam

Muội”. Tịnh Tạng Bồ Tát đã từ vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp

thông đạt môn “Ly Chư Ác Thú Tam Muội”, vì muốn làm cho tất cả

chúng sanh lìa các đường dữ vậy.

“Phu nhơn của vua đặng môn “Chư Phật Tập Tam

Muội”, hay biết đặng tạng pháp bí mật của các đức Phật. Hai người

con dùng sức phương tiện, khéo hóa độ vua cha như thế, khiến cho

lòng cha tin hiểu ưa mến Phật pháp.

329 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“6.- Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng chung với

quần thần, quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhơn cùng chung với thể nữ

quyến thuộc nơi hậu cung, hai người con của vua cùng chung với

bốn muôn hai nghìn người, đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Đến rồi

đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một

phía.

“Lúc đó đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm chgo

được lợi ích vui mừng. Vua rất vui đẹp.

“Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhơn mở

chuỗi chơn châu giá trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật,

chuỗi đó ở giữa hư không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có

giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên y, trên đó có đức Phật

ngồi xếp bằng phóng hào quang sáng lớn.

“7.- Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ rằng ; Thân

Phật tốt đẹp riêng lạ ít có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhứt.

Bấy giờ, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, bảo

bốn chúng rằng: “Các người thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay

đứng trước ta đó chăng? Vị vua này ở trong pháp ta làm tỳ kheo

siêng ròng tu tập các món trợ Phật đạo pháp, sẽ đặng làm Phật hiệu

là Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.

Đức Ta La Thọ Vương Phật có vô lượng chúng Bồ Tát và

vô lượng Thanh văn, nước đó bằng thẳng, công đức như thế.”

“8.- Vua Diệu Trang Nghjiêm bèn đem nước giao cho em,

rồi cùng phu nhơn, hai người con và các quyến thuộc ở trong Phật

pháp xuất gia tu hành đạo hạnh.

“Vua xuất gia rồi, trong tám muôn bốn nghìn năm

thường siêng tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa, qua sau lúc

đây, đặng môn “Nhứt Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam

330 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

muội”. Liền bay lên hư không cao bảy cây đa la mà bạch Phật rằng:

“Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng sức

thần thông biến hóa, xoay tâm tà của con, làm cho con được an trụ

trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri

thức (117)

của con, làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được

thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri thức của con, vì muốn

phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con, nên đến sanh vào nhà

con.”

“Lúc đó, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật bảo

vua Diệu Trang Nghiêm rằng: “Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông

nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trồng cội lành thời đời

đời đặng gặp thiện tri thức, vị thiện tri thức hay làm Phật sự, chỉ

dạy cho lợi ích vui mừng, khiến vào đạo Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác.

“Đại vương nên biết! Vị thiện tri thức đó là nhơn duyên

lớn, giáo hóa dìu dắt làm cho đặng thấy Phật, phát tâm Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác.

“Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng. Hai

người con này đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn

ức na do tha hằng hà sa các đức Phật, gần gủi cung kính, nơi chỗ

các đức Phật thọ trì kinh Pháp Hoa, thương tưởng những chúng

sanh tà kiến làm cho trụ trong chánh kiến.

“Diệu Trang Nghiêm Vương liền từ trong hư không

xuống mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Như Lai rất ít có do công đức

trí huệ nên nhục kế trên đảnh sáng suốt chói rở. Mắt Phật dài rộng

mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặn mày như ngọc kha nguyệt,

răng trắng bằng và khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như

trái tần bà.

“Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô

lượng trăm nghìn muôn ức công đức như thế rồi, ở trước Như Lai

331 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chưa từng có vậy.

Pháp của Như Lai đầy đủ trọn nên bất khả tư nghì công đức vi diệu,

dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay. Con từ ngày nay chẳng còn lại tự

theo tâm hành của mình chẳng sanh những lòng ác: kiêu mạn, giận

hờn và tà kiến.

“Vua thưa lời đó rồi lại bạch Phật mà ra.

“9.- Phật bảo đại chúng: “Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu

Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa Đức Bồ Tát.

Bà Tịnh Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm

tướng Bồ Tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót

vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sanh vào trong

cung vua, nay chính là Dưọc vương Bồ Tát cùng Dược Thượng Bồ

Tát.

“Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát này thành tựu các

công đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức, các

đức Phật trồng các cội công đức, thành tựu bất khả tư nghì những

công đức lành. Nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ Tát này thời

tất cả trong đời, hàng trời, nhân dân cũng nên lễ lạy.

“Lúc Phật nói phẩm “Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn

Sự” này có tám muôn bốn nghìn người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở

trong các pháp chứng được pháp nhãn tịnh.”

TÍNH CÁCH CÁC NHÂN VẬT.

1.Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng quyết tâm từ bỏ thế giới hoàng kim, mà

đúng ra hai vị hoàng tử này xứng đáng được hưởng thụ, đã nói lên sự

giác ngộ của tâm thức. Hai người đã nhìn thấy tường tận cuộc sống vật

chất đấy ấp hương vị và thoả mãn này chỉ là sợi dây ràng buộc chằn chịt

332 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

những vọng niệm và tư dục. Muốn được giải thoát thời phải nhanh chân

vượt khỏi vòng dây này. Vì vậy mà hai người đã chọn cho mình sự bình

ổn tâm linh bằng cách xin cha mẹ cho xuất gia đầu Phật.

Xét về chiều sâu, hai người không phải chỉ lo cho bản thân

mình, mục đích tương hợp là phải có sự đồng ý của hai bực sanh thành.

Hai vị này thể hiện được tâm địa Bồ Tát (tự giác, giác tha). Vì sao? Hai

người biết mẹ mình yếu lòng trước oai phong của người cha, nên không

thể vì hai người con mà tự mình quyết định được. Trong khi người cha

tin vào pháp bà la môn cho nên bị ngoại đạo ràng buộc. Trong một gia

đình vương giả mà lại có hai tín ngưỡng sao? Hai người con bị thôi thúc,

dằn vật. Làm thế nào để chuyễn hóa tâm tà của người cha?

Hai người cùng tư duy để tìm ra một phương pháp chuyễn

hóa tốt nhứt mà không làm cho người cha tức giận. Làm sao cho người

cha thấy rỏ đâu là tà, đâu là chánh. Trong trường hợp này nếu người cha

tức giận lên thì mục đích cãi tạo tâm vương của cha sẽ không được

thành tựu. Hai anh em nghĩ thế rồi bèn nhảy lên hư không, dùng phép

hóa thân nhiều thứ thần biến khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh mà

tin hiểu. Hai người con làm vậy là để cho vua cha thấy rằng giáo lý của

đức Phật là giáo lý tri hành như nhất, có tu thì tức có thành tựu, có nghĩa

là người có tâm thanh tịnh tu hành đắc lực thì sẽ được chứng quả Phật.

Cả hai người con đều có dụng tâm, không thể thuyết giáo suông để

chuyễn hóa tâm tà của cha, mà phải bằng hành động.

Khi vua cha đã tỉnh ngộ rồi, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn

đưa cha mẹ đến nơi đức Vân Lôi Am Tú Vương Hoa Trí Phật đang diễn

nói kinh Pháp Hoa. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn là thiện tri thức của vua

Diệu Trang Nghiêm và bà Tịnh Đức Phu Nhơn. Hai người đã làm công

việc đại Phật sự là cãi hóa tâm tà của vua cha trở về con đường chánh

đạo

2.Vua Diệu Trang Nghiêm không phải là người độc đoán, ngoan

cố, nhất là trong vấn đề chuyễn hóa tâm tín ngưỡng. Có thể trong nưả

đời ngừơi của nhà vua tin vào pháp bà la môn, vua đã có dành thời gian

333 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nghiên cứu giáo lý nhà Phật, cho nên khi thấy hai người con hiện sức

thần thông, vua liền quyết đoán một cách nhanh chóng, chứng tỏ ông là

một ông vua tốt, một người cha hoàn hảo. Trong tâm vương của vua

nghĩ gì khi trông thấy thần lực của hai người con ở trong hư không đi,

đứng, nằm, ngồi không khác gì ở trên mặt đất, lại còn hiện thân trên ra

nước, dưới thân ra lửa, hoặc khi thì hiện thân lớn, khi thì hiện thân nhỏ,

khi thì ở trong hư không ẩn mặt, rồi bổng nhiên hiện lại trên đất v…v…

Chắc chắn là biểu lộ sự đồng tình và bắt đầu có sự thay đổi, cuối cùng là

sự chuyễn hóa hoàn tất, nét mặt vua vui mừng liền hỏi hai người con:

“Ai là thầy các con? Các con là đệ tử của ai?”

Hai người con bèn giới thiệu thầy của họ chính là đức Phật

Vân Lôi Am Tú Vương Hoa Trí đang ngồi trên pháp tòa, dưới cội cây bồ

đề bảy báu và đang giảng kinh Pháp Hoa ở giữa hội chúng Trời và

Người.

Từ đây tâm vương của vua Diệu Trang Nghiêm chuyễn hóa

thật sự, nên liền bảo các con: “Ta cũng muốn trông thấy thầy các con,

chúng ta hãy mau mau cùng đi.”

Nhà vua giao nước lại cho em cai trị, chính vua dẫn dắt vợ

con cùng thân bằng quyến thuộc trong hậu cung đến xin Phật xuất gia,

sống cuộc đời đạo hạnh.

Khi xuất gia rồi, vua tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên

Hoa và chứng đắc tam muội “Nhứt thiết tịnh công đức trang nghiêm”

Rốt sau được Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí thọ ký cho vua sẽ

đặng làm Phật hiệu là Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên

Đại Cao Vương.

3.Tịnh Đức phu nhơn là một người đàn bà hết sức hoàn hảo. Bà

tiếc rằng chồng mình là một người ngoại đạo, thường hay có những tư

tưởng lầm lạc, những hành động ngoan cố. Nhưng vì chồng bà là một

ông vua, quyền cao chức trọng, cả nước đều phục tòng mệnh lệnh của

ông, còn trong gia đình vợ con nào dám góp ý về sự tín ngưỡng của ông.

334 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Cho nên cả ba mẹ con đều cùng nhau than thở, tìm phương cách để

chuyễn hóa tâm tà của ông.

Ở đây bà có vai trò khôn ngoan, kín đáo, khéo léo, bởi vì bà

tự nghĩ chính bà là cái loa truyền đạt thông tin giữa chồng và con, và

giữa con và chồng. Bà dè dặt suy nghĩ, không dám xúi biểu con muốn

thay đổi tâm tà của cha thì cứ nói thẳng, hoặc là cứ mời cha đến tại nơi

đức Phật đang thuyết pháp mà nghe kinh. Làm vậy nhất định không ổn.

Lở ra tâm nghi của vua sẽ nổi giận lên và mọi toan tính sẽ làm đão

ngược.

Bà là một người vợ hiền, một bà mẹ gương mẩu, nhưng trong

tình thế không khuyên bảo được chồng hãy chuyễn hóa tâm vương, hãy

thay đổi tín ngưỡng, lại không có quyền quyết định cho hai con xuất gia,

cuối cùng bà than thở thử đưa ra một phương cách gở rối: “Cha các con

tin theo ngoại đạo, rất ham pháp bà la môn. Các con nên qua thưa với

cha để cùng nhau đồng đi.”

Hai người con nghe mẹ nói vậy sinh tâm bất mãn, phải thốt

ra lời: “Chúng con là pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này!”

Lúc bấy giờ, trong lòng bà có một chút nhu nhược, nhưng

chẳng lẽ để các con thốt ra lời bất hiếu, bèn cương quyết thúc giục hai

con: “Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần

thông biến hóa. Nếu cha con đặng thấy lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu

cho chúng ta qua đến chỗ Phật.”

335 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phẩm PHỔ HIỀN BỒ TÁT khuyến phát

Thứ hai mươi tám.

“1.-Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ Tát dùng sức thần

thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng

sổ chúng đại Bồ Tát từ phương đông mà đến; các nước đi ngang qua

khắp đều rúng đông, rưới hoa sen báu, trổi vô lượng trăm nghìn

muôn ức các thứ kỹ nhạc.

“Lại cùng vô số các đại chúng: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn

thát bà, a tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn

v…v… vây quanh đều hiện sức oai đức thần thông đến cõi ta bà

trong núi Kỳ xà quật, đầu mặt lạy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi

quanh bên hửu bảy vòng bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con ở nơi

nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi ta bà

này nói kinh Pháp Hoa, nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn

muôn ức chúng Bồ Tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế

Tôn nên vì chúng con nói đó. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn sau

khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng kinh Pháp Hoa này?”

“2.-Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,

thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ

đặng kinh Pháp Hoa này:

Một là được các đức Phật hộ niệm.

Hai là trồng các cội công đức.

Ba là vào trong chánh định.

Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.

Thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn phát như thế,

sau khi Như Lai diệt độ, quyết đặng kinh này.”

336 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

BỐN PHÁP ĐẶNG KINH PHÁP HOA.

Một là được các đức Phật hộ niệm. Người thiện nam, thiện

nữ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa, không chỉ có

đức Thích Ca Mâu Ni Phật gia trì hộ niệm, mà còn có vô số chư Phật

đồng chung thủ hộ. Người đó phàm làm bất cứ việc gì cũng đặt dưới sư

giám sát của chư Phật. Vì người đó có tâm tỉnh giác, người đó giữ gìn

giới luật ba la đề mộc xoa (118)

, người đó đã tận diệt được ba chướng ác (119)

. Người đó hiểu đúng, hiểu thấu lý kinh Pháp Hoa. Người đó đã tạo

một niềm tin vững chắc, như là một chất keo làm kết dính các vật chất..

Người đó như lời đức Phật dạy: “Người thọ trì, đọc tụng,

biên chép, giải nói đúng nghĩa lý kinh mà tu hành thời chính là thấy

đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển

này. Người đó được đức Phật khen ngợi, được Phật dùng tay xoa

đầu, được Phật lấy y trùm cho. Người đó tu được hạnh Phổ Hiền.”

Hai là trồng các cội công đức. Người thiện nam, thiện nữ

thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa phải phát khởi lòng

từ thiện, vì cội công đức được ương dưỡng ngày thêm tăng trưởng tốt

đẹp nhờ thường xuyên chăm sóc thiện tâm (bón phân, tưới nước).

Tâm từ thiện tức là nuôi trồng thiện căn trong mảnh vườn địa

tâm. Cứ mỗi ngày làm một điều lành, thì thiện căn mỗi ngày mỗi thêm

tích lũy, càng làm nhiều điều lành, thì thiện căn ngày càng thêm tăng

trưởng. Người có tâm từ thiện luôn luôn gặp gở thiện tri thức, người có

tâm từ thiện thì không còn bị các món ba độc (tham, sân, si) làm não hại,

như lời đức Phật dạy: “Người đó chẳng còn ham ưa sự vui trong đời,

chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, chẳng ưa gần gủi

những kẻ ngoại đạo và kẻ ác. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng

nghĩ nhớ chơn chánh, có sức phước đức.”

337 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ba là vào trong chánh định. Người thiện nam, thiện nữ thọ

trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh Pháp Hoa, đúng như lời trong kinh

mà tu hành, tức là người đó đã hiểu và hành theo pháp thiền quán vô

ngã, tức là vô ngã tướng, không tự xem mình làm việc thiện là có sự lợi

lộc theo sau đó, hoặc làm từ thiện cho người khác chú ý đến mình, hoặc

là không muốn ai làm việc thiện chung với mình.

Người đó vào trong nhóm chánh định (làm việc thiện) (120)

tự tạo cho mình niềm tin mãnh liệt, như lời đức Phật dạy: “Người đó

chẳng bị ba món độc, cũng chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà

mạn, tăng thượng mạn làm não hại.”

Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh. Người thiện nam,

thiện nữ thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói kinh điển này mà thực hành

được ba hạnh trên đây, tức là tâm đã hiển lộ Phật tánh. Vì người đó tự

giải thoát mình khỏi cảnh tam đồ khổ, thì phải phát lòng nghĩ đến giải

thoát cho người khác khỏi cảnh khổ đau. Người đó có tâm địa Bồ Tát,

người đó thiết lập được nền tảng Đại Thừa Phật Giáo, củng cố niềm tin

vững chắc vào giáo lý đại thừa, tiêu biểu là kinh Pháp Hoa. Vì giáo lý

trong kinh Pháp Hoa là giáo lý thiêng liêng nhứt của đức Phật Thích Ca

Mâu Ni. Cho nên khi Thế Tôn khai hội thuyết pháp kinh Diệu Pháp Liên

Hoa thì có chư Phật (dức Đa Bửu Như Lai, nhân chứng lịch sử xác minh

chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn thuyết kinh Pháp hoa), và vô số

chư đại Bồ Tát, (tiêu biểu cho trí huệ có đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát;

tiêu biểu cho đại từ đại bi có đức Di Lặc Bồ Tát, tiêu biểu cho đại hạnh

tinh tấn có đức Phổ Hiền Bồ Tát, tiêu biểu cho hiệu quả thành tựu quả

Phật nhanh nhất có đức Long Nữ Bồ Tát) và hằng hà sa số trời ngừơi và

không phải người đều đến nghe pháp.

Người thiện nam, thiện nữ tu hành đúng theo trong kinh Pháp

Hoa, người đó đã quay về với chánh định, quay về sự nguyên thủy của

con người (nhơn chi sơ tánh bổn thiện), quay về với cái ta xưa như thế

nào thì nay như thế đó (phản bổn hoàn nguyên), có nghĩa là lúc xưa

chẳng có cái gì, thì bây giờ hoàn nguyên tức là trở lại trạng thái chẳng

cái gì có.

338 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Khi tâm thấy rỏ không có cái gì sinh tồn trong cõi tam giới

này, lúc bấy giờ người đó sẽ hiển lộ tự tánh (bổn lai diện mục), coi tất cả

chúng sanh đều bình đẳng.

Kinh thuyết :

“3.- Lúc đó, ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng : “Thế

Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ kỳ

kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an

ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm làm hại, hoặc ma, hoặc con

trai của ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ xoa, hoặc La sát hoặc

Cưu bàn trà, hoặc Tỳ xá xà, hoặc Kiết Giá, hoặc Phú đơn na, hoặc

Vi đà la v.v… những kẻ làm hại người đều chẳng đặng tiện lợi.

Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cởi

tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ Tát, đều đến chỗ

người đó mà tự hiện thân ra, để cúng dường, thủ hộ, an ủi tâm

người đó, cùng để cúng dường người đó, cùng để cúng dường kinh

Pháp Hoa. Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cởi

tượng vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong

kinh Pháp Hoa co quên mất một câu, một bài kệ, con sẽ dạy đó

chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.

“Bấy giờ, người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa đặng

thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con

nên liền đặng tam muội và đà la ni tên là “Triền đà la ni”, trăm

nghìn muôn ức “Triền đà la ni”, “Pháp âm phương tiện đà la ni”,

đặng những môn đà la ni như thế.

“4.- Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm trăm trong đời

ác trược, hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, người cầu

tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập

kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng

tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cởi tượng trắng sáu

ngà, cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng

339 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi

ích vui mừng, cũng lại cho chú đà la ni.

“Đặng chú đà la ni này thời không có phi nhơn nào có thể

phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng

đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói

chú đà la ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằng:

“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ,

đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà

đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà

lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a

đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma

địa, già lan địa,, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà

kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.”

“ADANDE DANDAPATI DANDÀVARTANI DANDAKUSALE

DANDASUDHÀRI SUDHÀRI SUDHÀRAPATI BUDHAPA SYANE

DHÀRANI ÀVARTANI SAMVARTANI SAMGHAPARÌKSHITE

SAMGHANIR GHÀTANI DHARMAPARÌKSHTE

SARVASATTVARUTAKAU SAỲANUGATE SIMHAVIKRÌDITE.

“Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nào đặng nghe chú đà la ni này

phải biết đó là sức thần thông của Phồ Hiền.

“5.- Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong diêm phù đề, có

người thọ trì, thì nên nghĩ rằng: Đều là sức oai thần của Phổ Hiền.

“Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh, hiểu

nghĩa thú trong kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu

hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vọ biên các đức Phật, sâu trồng cội

lành, được các Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép, người

này mạng chung sẽ sanh lên trời Đao Lợi.

340 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Bấy giờ, bốn muôn tám nghìn thiên nữ trổi các kỹ nhạc

mà đến rước đó, người đó liền đội mảo bảy báu ở trong hàng thế nữ,

vui chơi khoái lạc, huống là thọ trì đọc tụng ghi nhớ chơn chánh

hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.

“Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh

này, người đó khi mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến

chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Đâu Suất,

chỗ Di Lặc Bồ Tát mà sanh vào hàng quyến thuộc trăm nghìn muôn

ức thiên nữ, đức Di Lặc Bồ Tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ

Tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên

người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc

tụng, ghi nhớ chơn chánh đúng như lời tu hành.”

Người thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chơn chánh đúng như lời

trong kinh mà tu hành, tức là người đó tu hạnh Phổ Hiền, người đó khi

mạng chung được sanh lên cõi trời Đâu Xuất, nơi trụ xứ của đức Di Lặc

Bồ Tát.

Trên đây là sức nguyện thần thông của đức Phổ Hiền Bồ Tát

về việc lưu truyền và gìn giữ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cũng như sẽ thủ

hộ cho những người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, khiến cho người đó

lòng thấy hân hoan, càng thêm tinh tấn tu hành. Trong tâm thức của

người đó như nhìn thấy có Bồ Tát Phổ Hiền cỡi tượng vương trắng sáu

ngà đi lại trong hư không, làm cho người đó chứng ngộ tam muội “triền

đà la ni”, “pháp âm phương tiện đà la ni” và trăm nghìn muôn ức đà la ni

khác. Người đặng chú đà la ni này thời không còn sợ đối nhơn hoặc phi

nhơn, hoặc người nữ làm nhiễu hại.

Đức Phỏ Hiền Bồ Tát hứa khả với Thế Tôn rằng kinh Pháp

Hoa được lưu hành trong cõi diêm phù đê đều là do sức oai thần định lực

của Phổ Hiền. Còn người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh, hiểu

nghĩa thú trong kinh để diễn giảng cho mọi người cùng nghe biết, và

đúng theo lời dạy trong kinh mà tu hành, trồng vô lượng công đức ở nơi

các đức Phật, tức là người đó tu hạnh Phổ Hiền, được các Như Lai lấy

341 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tay xoa đầu, người đó được sanh lên cõi trời Đao Lợi, có bốn mươi tám

nghìn thiên nữ trỗi kỹ nhạc đón rước. Người đó khi mạng chung không

còn sợ bị đọa lạc vào đường dữ.

Và cuối cùng, đức Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn

kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, làm cho rộng lưu bố trong Diêm

phù đề khiến chẳng dứt mất.”

“6.- Lúc bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật khen rằng:

“Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hỗ trợ kinh

này, làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu bất

khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm

Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà có thể thật hành nguyện

thần thông đó, để giữ gìn kinh này.

“Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì

danh hiệu Phổ Hiền Bồ Tát.

“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chơn

chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời

là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe

kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích Ca

Mâu Ni Phật, phải biết người đó được Phật ngài khen lành thay!

Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy tay xoa đầu.

Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy y trùm cho.

Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui sướng trong đời, chẳng

ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gủi

ngoại đạo và kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó,

hoặc thợ săn, hoặc mua bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có

lòng nghĩ nhớ chơn chánh, có sức phước đức.

342 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng

bị tánh ghen ghét, ngã man, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại.

Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.

“7.- Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm

sau nếu thấy có người nào thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ

rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma

thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chuyễn pháp luân, đánh

pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trong pháp tòa sư tử

trong đại chúng trời người.

“Phổ Hiền! Nếu ở đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh

điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm,

những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cùng ở trong hiện

đời đặng phước báo đó.

“Nếu có người khinh chê đó rằng: “Ông là người điên

cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không đặng lợi ích.” Tội báo như

thế sẽ đời đơi không mắt.

“Nếu có người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời

nay đặng quả báo hiện tại.

“Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy

của người đó, hoặc thiệt hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời

mắc bịnh bạch lại (bịnh phong cùi).

“Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa

thiếu, môi xấu, mũi xệp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ,

ghẻ dữ, máu mũ, bụng thủng hơi ngắn, bị các bịnh nặng dữ.

“Cho nên Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này

phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật.”

343 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bộ kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Phật giảng đến dây là

hết. Trong khi Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát này thì có

hằng hà sa vô lượng vô biên Bồ Tát đặng trăm nghìn muôn ức môn

“Triền đà la ni”, tam thiên đại thiên thế giới vi trần số các đại Bồ Tát đủ

đạo Phổ Hiền.

Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền v.v… các vị Bồ Tát, Xá Lợi

Phất v.v…các vị Thanh Văn và hàng trời, rồng, nhơn phi nhơn v.v…tất

cả đại chúng đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.

ĐẠI TRÍ, ĐẠI BI, ĐẠI HẠNH.

Tụng hết hai mươi tám phẩm kinh Pháp Hoa, người viết có

một nhận xét sau đây về ba vị Đại Bồ Tát đại trí Văn Thú Sư Lợi, đại bi

Di Lặc và đại hạnh Phổ Hiền.

Mở đầu phẩm TỰA thứ nhứt, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, tiêu

biểu cho trí huệ của đức Phật, trình bày trong pháp hội giảng kinh Diệu

Pháp Liên Hoa tại núi Kỳ Xà Quật (núi Linh Thứu, Linh Sơn) về sức

thần thông của đức Thế Tôn.

Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

344 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bồ Tát Văn Thù (Mânjusri)Cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi,

Tàu dịch là Diệu Thủ, Diệu Đức, Diệu Cát Tường.

Trong vô số tiền kiếp, ngài Văn Thù Sư Lợi là thầy của chư

Phật, đã từng giáo hóa các Bồ Tát thành Phật Thế Tôn, trong đó có Phật

Nhiên Đăng. Kinh Phóng Bát chép : “ Nay tôi được thành Phật đều do

ơn của Văn Thù Sư Lợi. Các vị tương lai cũng cậy sức oai thần của

Ngài. Ví như trẻ nít trong đời đều có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong

Phật đạo vậy.”

Trong kinh Pháp Hoa có chép rằng : Ngài Đại Trí Văn Thù

Sư Lợi là một vị cổ Phật, tiền kiếp của Ngài là Phật Long Chưởng

Thượng Tôn Như Lai. Hiện tại Ngài là Phật Bảo Tích Như Lai ở tại cõi

Thường Hỹ phương bắc. Ngài cũng có một thời làm sư phụ của Ngài A

Dật Đa trong kiếp quá khứ làm Diệu Quang Bồ Tát. Ngài đã độ Long

Nữ Bồ Tát thành Phật Như Lai. Còn hiện tại Ngài là đệ tử trí huệ của

Đức Phật Thích Ca. Ngài Văn Thù Sư Lợi được Phật Thích Ca thọ ký sẽ

thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh

Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng

Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như vậy trong ba đời quá khứ,

hiện tại, vị lai Ngài đều làm Phật, và hiện tại Ngài thị hiện làm bậc Đại

Trí Huệ của Phật Thích Ca.

Theo kinh Bí Hoa, Bồ Tát khi xưa là thái tử Vương Chúng,

con thứ ba của Luân vương thời đức Phật Bảo Tạng. Khi thái tử phát

hoằng thệ trước đức Phật liền được đổi tên là Văn Thù Sư Lợi và được

thọ ký về sau thành Phật hiệu Phổ Kiến ở thế giới Thanh Tịnh Vô Cấu

Bảo Chi về phương nam. Kinh Văn Thù Bát Niết Bàn nói : “Văn Thù Bồ

Tát thị hiện sanh ở nước Xá Vệ, làng Đa La, làm con của Phạm Đức Bà

la môn, Bồ Tát từ hông bên mặt của mẹ sanh ra, thân sắc tử kim, biết

nói liền lúc ấy. Lớn lên theo Phật xuất gia.”

Bai phat nguyện của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi :

345 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời

Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại

Diện kiến bỉ Phật A Di Đà

Tức đắc vãng sanh an lạc sát

Ngã ký vãng sanh bỉ quốc dĩ

Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện

Nhất thiết viên mãn tận vô dư

Lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới.

Bồ Tát Di Lặc, (xem trang 123 Bồ Tát Di Lặc) tiêu biểu cho

lòng từ bi của đức Phật, có tên là A Dật Đa, Hán dịch là Vô Năng

Thắng, còn Di Lặc là họ, Hán dịch là Từ Thị, nơi trú xứ là cung trời Đâu

Suất, ngài được đức Thích Ca Như Lai thọ ký kế đây sẽ thành Phật hiệu

là Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, sau khi

giáo pháp của đức Thích Ca Mâu Ni Phật triệt diệt mãn tiểu kiếp thứ

chín, qua tiểu kiếp thứ mười, ngài sẽ thị hiện thành Phật ở cõi ta bà này.

Bồ Tát Phổ Hiền, tiêu biểu cho đại hạnh của đức Phật Thích

Ca Mâu Ni, là sự tinh tấn, sự thực hành của đức Phật.

Theo kinh Bí Hoa, Bồ Tát khi xưa là thái tử Văn Đồ, con thứ

tám của vua Luân Vương, thời đức Phật Bảo Tạng .(là em của thái tử

Vương Chúng, tức Ngài Văn Thù Sư Lợi) Sau khi thái tử đối trước Phật

phát đại nguyện liền được đổi tên là Phổ Hiền và được thọ ký về sau

thành Phật hiệu là Trí Cang Hầu Tự Tại Tướng Vương ở thế giới Trí

Thủy Thiện Trụ Tịnh Công Đức nơi phương bắc. Lại theo kinh Hoa

Nghiêm Bồ Tát đã là vị phụ trợ của Phật Tỳ Lô Giá Na mà còn dùng

mười đại nguyện vương khuyến dẫn hải chúng Bồ Tát trong cõi Hoa

Tạng đồng về Cực Lạc.

Kinh Hoa Nghiêm nói : “ Khi Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi

công đức thù thắng của Như Lai rồi, liền bảo các Bồ Tát và ngài Thiện

Tài rằng : “Nếu muốn thành tựu công đức ấy, phải tu mười điều hạnh

nguyện rộng lớn.”

346 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đức Phổ Hiền Bồ Tát

Chúng ta là kẻ hạ phàm há chẳng phát nguyện làm theo đó ư?

Đọc kỷ toàn bộ quyển kinh Pháp Hoa, thì sẽ thấy sự xuất

hiện của ba vị đại Bồ Tát này không phải là sự ngẫu nhiên, mà là có ý

nghĩa thẩm sâu. Như trong phẩm một, trong lúc Như Lai dùng sức thần

thông phóng một luồng hào quang từ nơi lông trắng giữa chặn mày chiếu

khắp mười tám ngàn cõi ở phương đông. Ngài Di Lặc thấy từ dưới địa

ngục A Tỳ lên đến trời Sắc Cứu Cánh, trong các thế giới đó, chúng sanh

thọ báo có tốt, có xấu trong sáu đường, lại thấy các đức Phật diễn nói

kinh điển, tiếng phạm âm thâm diệu, khiến mọi người đều ưa nghe. Ngài

Di Lặc liền hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi, vì ông pháp vương tử này đã từng

gần gủi cúng dường các đức Phật trong đời quá khứ, chắc là có thấy điều

kỳ diệu này.

Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã từng thấy điềm lành này,

nên nói với ngài Di Lặc và các đại sĩ: “Các thiện nam tử! Như chỗ ta

xét nghĩ thì nay đức Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn,

thổi pháp loa lớn, đánh pháp cỗ lớn, và diễn pháp nghĩa lớn.”

347 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Đến phẩm thứ mười hai, ngài Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa

sen nghìn cánh lớn như bánh xe, từ nơi cung rồng Ta kiệt La trong biển

lớn vọt lên hư không đảnh lễ hai đức Phật xong rồi luận giải đạo lý với

ngài Trí Tích Bồ Tát. Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Trí Tích: “Tôi

ở biển chỉ thường tuyên nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

Ở phẩm thứ mười bốn, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch

Phật: “Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau thế nào mà có thể nói

kinh này?” Đức Phật nói có bốn pháp môn an trụ:

1. An trụ nơi hành xứ.

2. An trụ nơi thân cận xứ.

3. An trụ nơi tâm an lạc.

4. An trụ nơi tâm đại bi.

Trong khi ngài Di Lặc Bồ Tát xuất hiện ở phẩm thứ nhứt thể

hiện lòng đại bi vì bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và

của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần mà hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

”Vì nhơn duyên gì mà có tướng lành thần thông này.?”

Phẩm thứ mười lăm, ngài Di Lặc cùng các vị đại sĩ thấy hiện

tượng vô số Bồ Tát từ dưới đất bay lên hư không, các vị đó thân đều sắc

vàng đủ ba mươi hai tướng tốt, ngài Di Lặc một lần nữa phát tâm đại bi

thay mặt cho tám nghìn hằng hà sa các chúng Bồ Tát liền bạch Phật giải

quyết chỗ nghi của mình.

Đức Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát: “Nay ta ở trong đại

chúng này, tuyên bảo ông A Dật Đa, các hàng đại Bồ Tát vô lượng

vô số a tăng kỳ từ dướt đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy

đó, chính ta ở cõi ta bà lúc đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó, điều phục tâm kia khiến phát

đạo tâm.”

Ngài Di Lặc hiểu tất cả những lời Phật dạy, nhưng trong hàng

bốn chúng số tiểu căn trí nhỏ không phải là ít, sợ những người hiểu sai,

348 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nghi lầm sẽ đọa địa ngục, nên ngài Di Lặc tiếp tục bạch Phật: “Chúng

con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng

hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, nhưng các Bồ Tát mới

phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này, hoặc chẳng tin

nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp phá chánh pháp. Kính thưa Thế

Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con và các

thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng chẳng sanh nghi.”

Vì vậy, qua phẩm thứ mười sáu, khi Thế Tôn ba lần bảo

trong đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như

Lai.” Thời đức Di Lặc Bồ Tát, đứng đầu trong đại chúng liền bạch Phật

ba lần: ”Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật.”

Phẩm thứ mười bảy, đức Phật bảo ngài Di Lặc Bồ Tát: “A

Dật Đa, lúc ta nói đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu

trăm tám muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh đặng “Vô sanh

pháp nhẫn”.

Phẩm thứ mười tám, ngài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật: “Thế

Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp Hoa

này mà tùy hỷ đó đặng bao nhiêu phước đức?”

Phẩm thứ hai mươi tám, ngài Phổ Hiền Bồ Tát từ ở nơi nước

của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, nghe ở cõi ta bà này, đức

Phật Thích Ca Mâu Ni đang thuyết kinh Pháp Hoa, nên cũng tới mà ra

mắt Phật. Ngài Phổ Hiền đưa đến vô số chư đại Bồ Tát và trời, rồng, quỉ,

thần đồng đến nghe thọ. Ngài Phổ Hiền bạch Phật: ”Nếu thiện nam tử,

thiện nữ nhơn sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng kinh

Pháp Hoa này?”

Phật bảo ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,

thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ

đặng kinh Pháp Hoa này:

1. Một là được các đức Phật hộ niệm.

2. Hai là trồng các cội công đức.

349 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

3. Ba là vào trong chánh định.

4. Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.”

Cho nên phải nói rằng sự xuất hiện của ba vị đại Bồ Tát này

là không phải ngẫu nhiên. Những lời bạch Phật của ba vị đại Bồ Tát này

làm cho ý nghĩa bộ kinh càng thêm thẩm sâu, càng thêm sinh động, như

lời Thế Tôn nói: “Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh.”

Đức Văn Thù Sư Lợi thể hiện cho trí huệ, vì trí huệ là thông

minh, hiểu thấu đáo mọi vấn đề một cách sáng suốt và thông đạt. Người

có trí huệ có khả năng phân biệt được tốt, xấu, đúng, sai, cho dù là trí

huệ nhơn gian, trí huệ phàm phu cũng soi rọi được lòng dạ con người ai

thẳng ngay, ai xão trá.

Người có trí huệ thấy rỏ chơn lý, biết luật nhơn quả, suy nghĩ

chơn thật. Nhưng không phải ai cũng có trí huệ hiểu biết bằng nhau, và

không phải ai cũng có trí huệ chơn thật. Phải có người ngu, kẻ trí, người

học rộng hiểu sâu, người chỉ biết qua loa nông cạn. Trong kinh Trùng

Tụng (Geya), đức Phật nói với năm thầy tỳ kheo: “Ngày xưa, ta cùng

các ông ngu si không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chơn đế đúng như

thật, nên lưu chuyễn mãi trong biển khổ sanh tử.” Đến lúc Phật nói

kinh Pháp Hoa, thời bốn chơn đế mới được đức Phật diễn giảng đúng

như thật. Trong hội chúng Pháp Hoa, đức Thế Tôn thấy căn tánh của

chúng sanh không đồng, nên Phật còn tùy phương tiện từ nhứt thừa thực

tướng phải diễn giảng làm hai, làm ba thừa.

Trong phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, đức Phật bảo ngài Phú

Lầu Na (Pùrna), một bực Thanh Văn trí huệ mà đức Phật giới thiệu trong

hội chúng như là một chuyên gia thuyết pháp, một vị siêng năng hộ trì

pháp Phật, dù mang danh Thanh Văn, nhưng thực chất bên trong là Bồ

Tát, cũng còn tùy phương tiện mà giáo hóa chúng sanh. Như bài kệ sau

đây:

Các tỳ kheo lóng nghe

Đạo của Phật tử làm

350 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì khéo học phương tiện

Chẳng thể nghĩ bàn được

Biết chúng ưa pháp nhỏ

Mà sợ nơi trí lớn

Cho nên các Bồ Tát

Làm Thanh Văn Duyên Giác

Dùng vô số phương tiện

Độ các loài chúng sanh

Tự nói là Thanh Văn

Cách Phật đạo rất xa

Độ thoát vô lượng chúng

Thảy đều được thành tựu

Dầu ưa nhỏ biếng lười

Sẽ khiến lần thành Phật

Trong ẩn hạnh Bồ Tát

Ngoài hiện là Thanh Văn

Ít muốn nhàm sinh tử

Thiệt tự tịnh cõi Phật

Bày ba độc (121)

cho người

Lại hiện tướng tà kiến

Đệ tử ta như vậy

Phương tiện độ chúng sanh

Nếu ta nói đủ cả

Các món việc hiện hóa

Chúng sanh nghe đó rồi

Thời lòng sanh nghi lầm.

Nói tóm lại, người học Phật cần có trí huệ chơn thật.

Nếu chúng ta có được trí huệ chơn thật như lời đức Phật dạy,

thì phải nhìn lại những người trí huệ kém cõi hơn mình, hoặc còn ngu si

cho nên sanh tâm lầm lạc, thì chúng ta có nhiệm vụ cứu thoát họ không

đi trệch ra đường chánh đạo. Tinh thần này gọi là lòng từ bi.

351 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lòng từ bi cần phải thể hiện qua hành động. Trong kinh nói

Bồ Tát Di Lặc tu hạnh từ bi, hạnh tùy hỷ, hạnh hỷ xã. Người học Phật

nên tu theo hạnh của đức Di Lặc, thấy chúng sanh khổ, coi như chính

mình bị khổ, thấy chúng sanh vui coi như chính mình được vui. Ngài

thấy Phật tử đi chùa hay làm nhiệu việc phước thiện, nên ngài tùy hỷ mà

vui mừng theo. Do đó mà chúng ta thấy ai đi sai đường chánh đạo, thời

hãy giáo hóa đưa họ về đường ngay, nẽo chánh.

Chúng ta tu hành theo kinh Pháp Hoa. Đã có trí tuệ và lòng

từ rồi, phải rốt ráo tu hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là tĩnh giác, tinh

tấn và thực hành.

Khi mọi người trong chúng ta đã thành tựu ba món Trí tuệ,

Từ bi, Thực hành tức là đã thấu lý được những ý nghĩa thẩm sâu trong

kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

MƯỜI HAI BỘ KINH.

Lời Phật dạy: Bồ Tát Ma ha Tát phải biết Mười hai bộ kinh,

đó là:

1. Tu đa la (Sutra), tức là kinh Trường hàng, từ “Như thị ngã văn”

nhẫn đến câu “Hoan hỷ phụng hành”, tất cả như vậy gọi là Tu đa la

kinh.

2. Kỳ Da (Geya), tức kinh Trùng Tụng. Phật bảo các tỳ kheo: Ngày

xưa ta cùng các ông ngu si, không trí huệ, chẳng thể thấy bốn chơn

đế đúng như thật, nên lưu chuyễn mãi trong biển khổ sinh tử. Bốn

chơn đế là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Ngày xưa, đức Phật

vì các tỳ kheo nói Khế kinh xong, lại có hàng chúng sanh căn trí

sáng tỏ, vì muốn nghe pháp nên đến chỗ Phật hỏi mọi người rằng,

đức Như Lai vừa rồi nói những việc gì? Lúc ấy Phật vì hàng chúng

sanh ấy đem kinh vừa giảng nói thành kệ tụng:

352 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ta xưa cùng các ông

Chẳng thấy bốn chơn đế

Nên phải lưu chuyễn mãi

Trong biển khổ sanh tử

Nếu thấy được bốn đế

Thời dứt đặng sanh tử

Sanh tử đã hết rồi

Chẳng còn thọ thân nữa.

Kệ tụng trên đây gọi là Kỳ Dạ kinh.

3. Thọ Ký. Như có lúc đức Như Lai nói kinh hay luật, vì các hàng

trời hay người mà thọ ký sẽ làm Phật. Như nói: Đời sau có vua

hiệu là Nhương Khư, ông A Dật Đa sẽ ở cõi đời này thành bậc

Chánh giác hiệu là Di Lặc Phật. Đây gọi là Thọ Ký kinh.

4. Dà Đà kinh (Gatha) tức là kệ Cô Khởi, là những bài kệ bốn câu

như:

Các điều ác chớ làm

Phụng hành những điều lành

Lóng sạch tâm ý mình

Là lời dạy của Phật

5. Ưu đà na (Udana), tức là kinh Tự Thuyết. Như đức Phật lúc xế

chiều nhập thiền định, vì chư thiên giảng rộng các pháp yếu. Lúc

đó các tỳ kheo đều nghĩ rằng: Giờ đây đức Như Lai đang làm việc

gì. Sáng ngày sau đức Như Lai xuất định, không ai hỏi, dùng tha

tâm trí mà tự nói rằng các tỳ kheo, tất cả chư thiên thọ mạng rất

dài. Lành thay! Các tỳ kheo biết vì người, chẳng cầu tư lợi, biết

thiểu dục, biết tri túc, được tịch tịnh.

Những kinh trên đây không ai hỏi, đức Phật tự nói, đó là Ưu đà na

kinh.

6. Ni đà na (Nidana), tức là kinh Nhơn Duyên. Như trong các kinh do

nhơn duyên Phật vì người khác diễn nói. Lệ như: Trong nước Xá

Vệ, có một chàng trai giăng lưới bắt chim, bắt đặng chim nhốt

353 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

trong lồng, cho ăn lúa, uống nước rồi lại thả đi. Đức Thế Tôn biết

nhơn duyên đó mà nói kệ rằng.

Chớ khinh tội nhỏ

Cho là không họa

Giọt nước dầu nhỏ

Lần đầy lu lớn.

7. A ba đà na (Avanada), tức là kinh Thí dụ. Lệ như đức Phật nói:

Này các tỳ kheo! Lúc ta xuất thế những điều ta dạy bảo gọi là giới

kinh. Lúc đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế lời Phật dạy gọi là Trống

Cam lồ. Lúc đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế lời Phật dạy

gọi là Pháp cảnh. Lúc đức Phật Ca Diếp xuất thế lời Phật dạy gọi

là Phân biệt không.

8. Y Đế Mục đà na (Itivrtaka), tức là kinh Bổn Sự.

9. Xà đà da (Jataka), tức là kinh Bổn Sanh. Lệ như xưa kia đức Phật

làm vị Bồ Tát tu khổ hạnh. Như Phật nói: Này các tỳ kheo! Thuở

quá khứ, ta từng làm nai, làm gấu, làm cheo, làm thỏ làm quốc

vương, làm Chuyễn luân Thánh vương, làm rồng, làm kim súy

điểu, như trên đây gọi là xà đà da kinh.

10. Tỳ Phật lược (Vaipulya), tức là kinh điển thuộc về Đại thừa

Phương Đẳng. Nghĩa lý rộng lớn dường như hư không.

11. A Phù Đà đạt ma (Adbhuta Dharma), tức là kinh Vị Tằng

Hửu. Lệ như lúc đức Bồ Tát mới sanh không ai đở dắt mà tự đi bảy

bước, phóng quang minh lớn ngó khắp mười phương. Lệ như con

vượn tay bưng bát mật dâng cúng đức Như Lai. Lệ như chó cổ

trắng đến bên Phật nghe pháp. Lệ như ma vương Ba Tuần biến

thành trâu xanh đi trong bát sành, làm cho các bát sành đụng chạm

lẫn nhau mà không nứt bể. Lệ như lúc Phật mới sanh lúc vào thiên

354 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

miếu làm cho thiên tượng đứng dậy bước xuống đảnh lễ. Những

đoạn kinh như trên đây gọi là Vị Tằng Hửu.

12. Ưu bà đề xa (Upadesa), tức là kinh Luận Nghị. Lệ như đức

Phật lúc nói kinh hoặc luận nghĩa cùng phân biệt giảng rộng biện

luận các tướng mạo, đây gọi là kinh Ưu ba đề xá.

Bồ Tát Ma ha tát nếu có thể rỏ biết mười hai bộ kinh

như vậy thời gọi là biết pháp.

Trích trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Phạm Hạnh.

355 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

PHẦN KẾT CỦA QUYỂN BẢY.

Phẩm Diệu Am Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng

một luồng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày qua vô số

cõi nước ở phương Đông. Trong đó có một thế giới tên là Tịnh Quang

Trang Nghiêm, có Phật hiệu Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, có vị Bồ

Tát tên là Diệu Âm

Ngài Diệu Âm Bồ Tát từ lâu đã trồng vô lượng công đức, và

cúng dường gần gủi trăm nghìn muôn ức các đức Phật, nên đặng trí huệ

rất sâu và chứng đắc nhiều môn tam muội.

Bồ Tát Diệu Âm dùng thiên nhĩ nghe được ở cõi ta bà đức

Thích Ca Mâu Ni Phật đang thuyết giảng kinh Pháp Hoa, liền xin phép

đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật qua cõi ta bà để lễ lạy cúng dường đức

Thích Ca Mâu Ni Phật, và nhơn thể ra mắt ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp

vương tử, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Dõng Thí Bồ Tát,

Tú Vương Hoa Bồ Tát, Thượng Hạnh Y Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương

Bồ Tát v.v…

Trước khi đi, đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo ngài

Diệu Am khi qua tới cõi ta bà chớ có sanh lòng khinh khi, vì cõi ta bà

đất đá đầy dẩy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các thân hình cùa Bồ Tát

cũng nhỏ, trong khi thân của Bồ Tát Diệu Am cao đến bốn mươi hai

ngàn do tuần.

Thế rồi, ngài Diệu Am Bồ Tát chẳng rời khỏi tòa ngồi, dùng

pháp ẩn thân qua cõi ta bà đến núi Ky xà Quật, hóa ra tám mươi bốn

ngàn hoa sen báu, vàng diêm phú đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim cang

làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.

Tức thời đức Đa Bảo Như Lai bảo Bồ Tát Diệu Am hãy hiễn

bày thân tướng, vì đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát muốn nhìn thấy.

356 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vâng lời đức Đa Bảo Như Lai, ngài Diệu Am Bồ Tát lộ

nguyên hình cùng với tám mươi bốn ngàn Bồ Tát khác cũng theo qua

cõi ta bà để được nghe đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa.

Trải qua các nước, quốc độ nào cũng chào đón tưng bừng, trăm nghìn

nhạc trời chẳng trổi tự kêu, trăm nghìn hoa sen bảy báu tung rơi cúng

dường. Đôi mắt của ngài Diệu Am Bồ Tát như cánh hoa sen xanh rộng

lớn, diện mạo khôi ngôi, tuấn tú, tốt đẹp lạ thường, thân sắc vàng ròng

vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng

chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na la diên bền chắc.

Ngài Diệu Âm Bồ Tát cùng tám mươi bốn ngàn vị Bồ Tát

đồng hỏi thăm sức khoẻ Phật Thích Ca và hỏi thăm đức Đa Bảo Như Lai

có thường đến thính giảng kinh Pháp Hoa không.

Ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật xin nói cho tỏ tường ngài

Diệu Am Bồ Tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà có sức thần

thông như thế.

Đức Thích Ca Mâu Ni liền dạy, thuở quá khứ có Phật hiệu

Vân Lôi Âm Vương ở trong quốc độ Hiện nhứt thiết thế gian, ngài Diệu

Âm đã từng ở trong mười hai ngàn năm chuyên dùng một trăm ngàn thứ

kỷ nhạc để cúng dường đức Vân Lôi Âm Phật, cùng dâng lên tám mươi

bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báo đó, nay ngài Diệu Âm

Bồ Tát thọ sanh tại nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức

thần thông như thế. Ngài Diệu Âm Bồ Tát có thể hiện hình thân Phạm

Vương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân đại Tự Tại Thiên, thân

Thiên đại tướng quân, thân Tỳ Sa Môn Thiên vương, thân Chuyễn Luân

Thánh Vương, thân Tiểu Vương, thân Trưởng Giả, thân Cư Sĩ, thân Tể

Quan, thân Bà La Môn, hoặc thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà

di, thân phụ nữ tể quan, thân phụ nữ bà la môn, thân đồng nam, đồng nữ,

thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, ma hầu la dà,

nhơn và phi nhơn…

Chính nhờ ngài Diệu Âm Bồ Tát trụ trong tam muội “Hiện

nhứt thiết sắc thân” cho nên mới có sức thần thông biến hiện thiên hình

357 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

vạn trạng để cứu độ chúng sanh, từ trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh đến

các chỗ nạn cần cứu giúp, nhẫn đến trong hậu cung của vua hiện làm

thân người nữ mà nói kinh này.

Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn. Bài kệ của Ngài Vô

Tận Ý Bồ Tát tán thán công đức vô lượng vô biên của ngài Quán Thế

Am Bồ Tát:

Thế Tôn đủ tướng tốt

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhơn duyên gì?

Tên là Quán Thế Âm?

Đấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp: Vô Tận Ý

Ông nghe hạnh Quán Âm

Khéo ứng các nơi chỗ

Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn ức Phật

Phán nguyện thanh tịnh lớn

Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân

Tâm niệm chẳng luống qua

Hay diệt khổ các cõi

Giả sử sanh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán Âm

Hầm lửa biến thành ao

Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỉ, cá, rồng

Do sức niệm Quán Âm

Sóng mòi chẳng chìm đặng

Hoặc ở chót Tu di

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quán Âm

Như mặt nhựt treo không

358 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Hoặc bị người dữ rượt

Rớt xuống núi Kim Cang

Do sức niệm Qúan Âm

Chẳng tổn dến mảy lông

Hoặc gặp oán tặc vây

Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán Âm

Đều liền sanh lòng lành

Hoặc bị khổ nạn vua

Khi hành hình sắp chết

Do sức niệm Quán Âm

Dao liền gảy từng đoạn

Hoặc tù cấm xiềng xích

Tay chưn bị gông cùm

Do sức niệm Quán Âm

Tháo ra đặng giải thoát

Nguyền rủa các thuốc độc

Muốn hại đến thân đó

Do sức niệm Quán Âm

Trở lại nơi bổn nhơn

Hoặc gặp La sát dữ

Rồng độc các loài quỉ

Do sức niệm Quán Âm

Liền đều không dám hại

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vút nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quán Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán Âm

Theo tiếng tự bỏ đi

Mây sấm nổ sét đánh

Tuông giá xối mưa lớn

Do sức niệm Quán Âm

359 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Liền đặng tiêu tan cả

Chúng sanh bi khổ ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không chỗ nào chẳng hiện

Các loài trong đường dữ

Địa ngục, quỉ, súc sanh

Sanh, già, bịnh, chết khổ

Lần đều khiên dứt hết

Chơn quán thanh tịnh quán

Trí huệ quán rộng lớn

Bi quán và từ quán

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Huệ nhật phá các tối

Hay tiêu tai khói lửa

Khắp soi sáng thế gian

Lòng bi răn như sấm

Ý từ diệu dường mây

Xối mưa pháp cam lồ

Dứt trừ lửa phiền não

Cải kiện qua chỗ quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quán Âm

Cừu oán đều lui tan

Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm âm, hải triều âm

Tiếng hơn thế gian kia

Cho nên thường phải niệm

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quán Âm bực tịnh Thánh

360 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh

Biển phước lớn không lường

Cho nên phải đảnh lễ.

Đức Phật dạy, người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát

được tránh các nạn sau đây:

1. Vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng.

2. Dẫu nước lớn cuốn trôi cũng liền đặng chỗ cạn.

3. Ghe thuyền lở có tấp vào nơi quỷ La Sát trú ngụ, cũng liền đặng

giải thoát.

4. Có kẻ ác tâm sắp làm hại thời dao gậy liền gảy từng khúc.

5. Gặp bọn quỷ dạ xoa La sát muốn hại người, nhờ niệm danh hiệu

Quán Thế Âm Bồ Tát chúng liền lánh xa.

6. Bị gông cùm, xiềng xích trói buộc, phải liền đứt rả.

7. Thoát khỏi oán tặc.

8. Lìa xa tham dục.

9. Không còn giận hờn.

10. Thoát khỏi ngu si.

11. Người phụ nữ muốn cầu con trai, liền được sanh con trai khôi

ngô tuấn tú.

12. Như muốn cầu con gái, liền sanh con gái mắt đẹp mày xinh.

13. Nhờ thường xuyên cung kính niệm danh hiệu Quán Thế Am

Bồ Tát mà phước đức luôn tăng trưởng.

Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thường đi lại trong cõi ta bà này

để tế độ chúng sanh thoát khỏi nạn khổ, ngài dùng hằng hà sa số phương

tiện để dộ sanh. Ngài dụng thần thông hóa hiện ba mươi hai ứng thân,

mười bốn điều vô úy, khi thì:

1. Hóa hiện thân Phật.

2. Hóa hiện thân Bồ Tát.

361 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

3. Hóa hiện thân Duyên Giác.

4. Hóa hiện thân Thanh Văn.

5. Khi thì thân Phạm Thiên Vương.

6. Khi thì thân Đế Thích.

7. Có lúc thị hiện thân Tự Tại Thiên.

8. Hoặc là thân Đại Tự Tại Thiên.

9. Thân Thiên đại tướng quân.

10. Thân Tỳ sa môn.

11. Thân Tiểu vương.

12. Thân Trưởng giả.

13. Thân cư sĩ.

14. Thân Tể quan.

15. Thân Bà la môn.

16. Thân tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di.

17. Thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn.

18. Thân đồng nam, đồng nữ.

19. Thân trời, rồng, dạ xoa, càn thác bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na

la, ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn.

20. Lại hiện thân Chấp Kim cang thần để độ sanh.

Cho nên trong cõi ta bà này, người ta gọi ngài là Thí Vô Uy.

Phật tử chúng ta mỗi khi tụng bài thần chú Đại Bi Tâm đều tưởng ngay

đến ngài Quán Thế Âm. Trong bài chú này có tất cả tám mươi bốn câu,

mỗi câu đều ẩn chứa thần lực vô biên, thể hiện lòng đại từ đại bi cứu độ

chúng sanh của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, mỗi câu đều phát tâm Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác, mỗi chữ đều mong ước tất cả chúng

sanh khi tụng đọc thần chú này đều được sanh về cảnh cực lạc quốc độ.

THẦN CHÚ ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI.

Bài thần chú này được đặt tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn

Quán Thế Am Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La

Ni kinh. Tại sao bài thần chú lại có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán

Thế Am Bồ Tát?

362 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong kinh Tĩnh Trú chép rằng có một hôm ngài Quán Thế

Am Bồ Tát đang đứng tại điện Thiên Quang Vương, lúc bấy giờ ngài

Quán Thế Am Bồ Tát còn trú ở nơi cảnh địa sơ khai, dức Thiên Quang

Vương Tịnh Trú Như Lai đặc biệt nói rỏ về kinh Qủang Đại Viên Mãn

Vô Ngại Đại Bi Đà la ni, Như Lai nói với ngài Quán Thế Am Bồ Tát

rằng:

“Hởi Thiện nam tử! Ngươi nên bền lòng trì tụng bài chú

này, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác

nghiệp của các kiếp sau.”

Căn cứ vào sự ghi chép trong kinh điển, lúc đó ngài Quán

Thế Am Bồ Tát sau khi nhận được bài chú này, ngài nhất tâm trì tụng và

chứng đắc từ Sơ địa, lên đến Bát địa và Bất động địa (122)

. Ngài liền phát

ra lời nguyện: “Cầu xin cho kiếp sau của tôi phổ độ, làm vui cho tất cả

chúng sanh. Nếu chúng sanh trì tụng bài chú Đại Bi này mà không

được điều cầu mong toại nguyện, thời tôi thề không lên cõi chánh

giác. Nếu điều chúng sanh cầu mong được toại ý thời cho tôi được

ngàn mắt ngàn tay.”

Ngài vừa phát nguyện xong, thời toàn thân ngài xuất hiện đủ

ngàn mắt, ngàn tay, đồng thời trong mười phương cõi nước đều chấn

động. Chư Phật mười phương đều phóng ra ánh sáng vô cùng rực rở soi

sáng khắp mười phương thế giới.

Có kinh chép, một hôm đức Phật Thích Ca Như Lai phán với

ngài A Nan Tôn Giả rằng:

“Bài chú này có rất nhiều danh xưng như ;

1. Quãng Đại Viên Mãn.

2. Vô Ngại Đại Bi.

3. Kinh cứu khổ Đà la ni.

4. Mãn Nguyện Đà la ni.

5. Diên Thọ Đà la ni.

363 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

6. Diệt ác thú Đà la ni.

7. Phá ác nghiệp chướng Đà la ni.

8. Tố siêu thượng Đà la ni.

Dầu có nhiều danh xưng khác nhau, để cho dễ nhớ, sau này

các kinh sách in ấn chép gọn lại là “Chú Đại Bi“. Xưng tên gọi như vậy

các Phật tử nào cũng biết.

Đại bi là nhờ vào lời thệ nguyện của ngài Quán Thế Am Bồ

Tát vì mong muốn tiếp độ chúng sanh thoát vòng khổ não. Đại bi là vì

lời hoằng nguyện ước mong tất cả chúng sanh trên thế gian này thoát

vòng luân hồi sanh tử. Đại bi là mong ước chúng sanh ngày nào cũng trì

tụng ít nhứt một thời, lần lần lên hai thời, ba thời, bốn thời, năm thời,

nhờ đọc tụng chú này có thể trừ diệt được trăm ngàn ức kiếp sanh tử

trọng tội. Cho nên trong bài kệ kinh Phổ Môn có câu:

Chơn quán, thanh tịnh quán, nghĩa là nhìn thấy các pháp hiển

bày sự thật vô tướng.

Trí huệ quán rộng lớn, nghĩa là nhìn thất tất cả các pháp với

trí huệ lớn của Bồ Tát.

Bi quán và từ quán, nghĩa là nhìn thấy tất cả các pháp, tất cả

chúng sanh với lòng đại từ, đại bi.

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng, tức là chiêm ngưỡng

hạnh lành của ngài Quán Thế Am trong mọi thời, mọi khắc.

Trước lúc lâm chung, co ai trì tụng được Đại Bi chú thời sẽ

được chư Phật mười phương tiếp độ, hoặc được người hộ niệm cho cũng

được chư vị Bồ Tát tiếp dẫn vào quốc độ Phật A Di Đà.

Còn hiện tiền, người nhất tâm trì tụng chú Đại Bi có thể tránh

được mười lăm loại ác tử. Như là:

364 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

1. Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc.

2. Không bị chết vì giam cầm, đánh đập.

3. Không bị chết vì thù oán.

4. Không bị chết nơi trận mạc.

5. Không bị chết vì sài lang, ác thú.

6. Không bị chết vì rắn, rết.

7. Không bị chết cháy hay chết đuối.

8. Không bị trúng độc vì ăn uống mà chết.

9. Không bị các loại trùng độc sát thương.

10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết.

11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa hầm, sa hố mà chết.

12. Không bị người khác trấn yểm mà chết.

13. Không bì tà thần, ác quỉ làm cho chết.

14. Không bị chết vì bạo bịnh.

15. Không bị chết oan phi mệnh (Chết do tự tử).

Mỗi ngày mỗi tụng chú Đại Bi, tụng nhiều được lợi ích

nhiều, dầu tụng ít cũng đặng mười lăm loại thiện sinh, như là:

1. Nơi mình sinh ra thường gặp năm điều lành.

2. Thường sinh ở nước lành (thiện quốc).

3. Thường gặp việc tốt lành.

4. Thường gặp bạn hiền, người tốt.

5. Thân căn thường được đầy đủ

6. Đạo tâm thắng tấn, thuần thục.

7. Không phạm cấm giới.

8. Tình anh em quyến thuộc đều được hòa thuận.

9. Trọn đời cơm áo phong lưu.

10. Luôn luôn được mọi người cung kính giúp đở.

11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt.

12. Mọi sở cầu đều được toại nguyện.

13. Luôn luôn được long thiên thiện thần hộ vệ.

14. Nơi mình sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp.

15. Khi nghe được chính pháp là hiểu ngay được ý nghĩa thâm

sâu.

365 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chúng ta cần nhất tâm trì tụng bài chú Đại Bi, có thể trừ hết

thảy mọi tai nạn, như có nặng cũng trở thành nhẹ, như nhẹ thời sẽ lướt

qua luôn. Nhờ chuyên tâm trì tụng thần chú này khiến mọi bịnh tật trong

thân đều thuyên giàm, mọi tâm bịnh đều trở lại bình thường, mọi thiện

pháp đều được thành tựu, xa lánh mọi sợ hãi, có thể thoát được vòng

sinh tử luân hồi.

Tám mươi bốn câu thần chú Đại Bi như sau:

Câu số 1. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA.

NamoRatnatrayaya.

Giải nghĩa: Quy mệnh lễ kính thập phương vô tận tam bảo.

Câu số 2. NAM MÔ A LỊ DA.

366 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Namo Arya. Giải nghĩa: Kính lễ quy y, xa lánh những bực thánh hung dữ,

chẳng lành.

Câu số 3. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA DA.

Avalokiteshavaraya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Tự Tại Quán Thế Am.

Câu số 4. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA.

Bodhisattvaya. Giải nghĩa: Kính lễ tất cả các bực giác hửu tình.

Câu số 5. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA.

Maha Sattvaya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Đại dũng mãnh.

Câu số 6. MA HA CA LÔ NI CA DA.

Mahakarunikaya. Giải nghĩa: Kính lễ đức Bồ Tát tự mình giác ngộ, tự mình cứu độ

chúng sanh, giác ngộ chúng sanh và tế độ chúng sanh.

Câu số 7. ÁN (ÚM).

Om. Giải nghĩa: Chính là gốc của chơn ngôn, hiểu thấu lý đến tận ngọn

nguồn của tất cả pháp môn. Những lời chú của mật tông thường

dùng đến chữ này. Chữ này bao gồm nhiều ý nghĩa như quy mạng,

cúng dường, kinh giác, nhiếp phục, pháp thân, hóa thân, ứng thân,

báo thân. Chỉ cần nhiếp phục được chữ ÚM là mọi đấng quỉ thần

đều chắp tay hộ vệ, tránh được nạn dữ. Muốn nhiếp phục chữ ÚM

một cách hiệu quả, người hành đạo phải giữ lòng thanh tịnh, đoan

chánh, tôn trọng mạng sống của tất cả loài giác hửu tình.

Câu số 8. TÁT BÀN RA PHẠT DUỆ.

Savalavati. Giải nghĩa: Kính lễ đức Tự Tại Thánh Tôn thân tâm thanh tịnh.

367 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Câu số 9. SỐ ĐÁT NA ĐÁT TỎA.

Sudhanatasya. Giải nghĩa: Kính lễ bốn vị Thiên vương bộ lạc quỉ thần.

Câu số 10. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A LỴ DA

Namaskrittva Niman Arya. Giải nghĩa: Quy mệnh kính lễ các bực Chân ngã thánh.

Câu số 11. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ.

Avalokiteshavaraya Lantabha. Giải nghĩa: Danh hiệu của đức Viên Mãn Báo Thân Lư Xá Na

Phật. Lăng đà bà cũng có nghĩa là hải đảo. Trong sách Tây vực ký

có viết: “Ở núi Thù Lạc Già, nơi biển Nam Hải có Thạch Thiên

Cung, nơi đó chính là nhà cửa của đức Quán Tự Tại Bồ Tát.”

Câu số 12. NAM MÔ NA RA CẪN TRÌ.

Namo Nilakantha. Giải nghĩa: Quy mệnh kính lễ đức Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô

Giá Na Phật, xin hãy thương yêu che chở người thiện tâm.

Câu số 13. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐÁ SA MẾ.

Sri Maha Patashami. Giải nghĩa: Kính lễ đức Đầu Thần Vương cùng chư vị thiên ma

làm quyến thuộc.

Câu số 14. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG.

Sarvadvatashubham. Giải nghĩa: Đức Quán Thế Am Bồ Tát cùng các bộ lạc được coi là

quyến thuộc. Do vì đức Quán Thế Am có lòng từ vô lượng vô biên

nên khuyến đạo tất cả mọi chúng sanh hãy gắng tu để đạt đến Phật

quả.

Câu số 15. A THỆ DỰNG.

368 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Ashiyum. Giải nghĩa: Đức Phi Bằng Dạ xoa Thiên Vương đi tuần khắp bốn

phương để xem xét mọi điều thị phi.

Câu số 16. TÁT BÀ TÁT ĐA NA MA BÀ TÁT ĐA NA MA BA DÀ.

Sarvasattva Namo Pasattva Namo Bhaga. Giải nghĩa: Đức Ba Gia Đế Thần Vương hình dáng đen lớn, mặc

áo da báo, tay cầm đao sắt.

Câu số 17. MA PHẠT ĐẠT ĐẬU.

Ma Bhate Tu. Giải nghĩa: Bản thân của Quân Trá Ly Bồ Tát, có ba con mắt,tay

cầm bánh xe sắt và dây. Từ câu một đến câu thứ mười bảy, đều

cùng có chung một ý nghĩa là cầu Phật thánh thần gia hộ,, mọi sở

cầu, sở nguyện của người có thiện tâm đều được thành tựu. Người

tu đạo cần phải loại trừ vọng niệm, danh lợi hư ảo, diệt trừ tận gốc

mọi tham sân si. Lấy gươm trí huệ chặt đứt mọi phiền não, kiên trì

giữ gìn ngũ giới, sống đoan chính và liêm khiết. Đức Phật dạy tất

cả chúng sanh đều có Phật tánh, người tu đạo chỉ có một con

đường đi tới Phật quả, đó là ý nghĩa chánh của mười bảy câu thần

chú Đại Bi.

Câu số 18. ĐÁT ĐIỆT THA.

Tadyatha.

Giải nghĩa: Lòng chí thành không bao giờ dứt đoạn. Tâm và đạo

cùng hợp nhứt.

Câu số 19. ÁN A BÀ LÔ HÊ.

Om! Avaloka. Giải nghĩa: Đức Quán Thế Am Bồ Tát tay để ở trước ngực.

Câu số 20. LÔ CA ĐẾ.

Lokate. Giải nghĩa: Đức Thế Tôn, Đức Quán Tự Tại.

369 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Câu số 21. CA RA ĐẾ.

Kalati. Giải nghĩa: Chính là vị Đế thần to lớn, sắc đen. Câu này cũng có ý

nghĩa là đạo tâm bền vững, được đại trí huệ, cứu nạn chúng sanh,

chấn hưng đạo nghiệp.

Câu số 22. DI HÊ LỊ.

Ishiri.

Giải nghĩa: Chính là đức Ma Tề Thủ La Thiên Thần lảnh thiên

binh sắc xanh trong ba mươi ba cõi trời.

Câu số 23. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA.

Mahabodhisattva. Giải nghĩa: Không có loạn tâm. Tâm đạo dũng mãnh. Từ câu số

18 đến câu số 23 biểu lộ đức Định Tuệ lưỡng túc của đức Quán

Thế Am Bồ Tát. Muôn ngàn đạo hạnh đều chất chứa ở trong thân,

cho nên Ngài đã hiện đủ ba mươi hai ứng thân để tế độ chúng sanh.

Câu số 24. TÁT BÀ TÁT BÀ.

Sabho Sabho. Giải nghĩa: Chính là Hương Tích Bồ Tát bắt binh quỉ năm phương

phải theo hầu. Còn có nghĩa là Phật, Pháp tay mắt đều có ấn báu.

Cho nên những kẻ có duyên với Tam Bảo đều có thể được hưởng

lợi lạc.

Câu số 25. MA RA MA RA.

Mara Mara. Giải nghĩa: Chính là đức Bạch y Bồ Tát tay cầm như ý tướng, ý

nói ngọc báu trong suốt, sáng tỏ, tròn trịa. Bồ Tát khuyến tu người

hành đạo nếu muốn được ngọc bảo châu, cần phải giữ gìn chân

ngôn về Như Ý Quả.

Câu số 26. MA HÊ MA HÊ RỊ ĐÀ DỰNG.

Mashi Mashi Ridhayu. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Bạch Phát Di Đà, thung

370 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

dung tự tại. Nhắc nhở người hành đạo khi tu chứng đặng Kim

Cang Pháp Thân chắc chắn sẽ được ngồi trên bảo tọa hoa sen.

Câu số 27. CU LÔ CU LÔ KIẾT MÔNG.

Guru Guru Ghamain. Giải nghĩa: Chính là đức Không Thân Bồ Tát Ap Thiên Đại

Tướng Quân lảnh hai mươi vạn ức thiên chúng. Khuyên người

phát tâm tu đạo có thể làm cảm động đến các vị thiên thần, nếu có

sự cầu nguyện họ sẽ đến trợ giúp ngay.

Câu số 28. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ PHẠT XÀ DA ĐẾ.

Dhuru Dhuru Bhashiyati. Giải nghĩa: Chính là đức Nghiêm Tuấn Bồ Tát vượt biển qua bờ

bên kia đo được việc lớn sinh tử.

Câu số 29. MA HA PHẠT XÀ DA ĐẾ.

Maha Bhashiyati. Giải nghĩa: Chính là đức Bảo Kích Thủ Nhãn Bồ Tát, câu này có

ý nghĩa là đạo pháp rực rở bao la không bờ bến. Cho nên Bồ Tát

khuyến tu tất cả chúng sanh “Đạo vốn không phải là khó tu, Phật

vốn không phải là khó tìm” mà điều khó ở đây là người tu hành

có chịu cắt đứt mọi tư dục vọng tưởng hay không.

Câu số 30. ĐÀ LA ĐÀ LA.

Dhara Dhara. Giải nghĩa: Chính là tấm thân trượng phu của Đức Quán Thế Am

Bồ Tát, là hóa thân của đức Tịnh Bình Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 31. ĐỊA RỊ NI.

Dhirini. Giải nghĩa: Chính là Sư Tử Vương, là hóa thân của đức Thiết Câu

Thủ Nhỡn Bồ Tát. Câu này có ý nói ngươi nữ cũng có Phật tính,

người nữ tu hành rốt ráo cũng đặng thành Phật. Bồ Tát nói câu

chơn ngôn này cố ý chuyên tâm tế độ phái nữ, khuyến khích phái

nữ siêng tu thì trời thần sẽ ủng hộ. Từ câu 24 đến câu 31 là có ý

371 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nói Bồ Tát Quán Thế Am là bực biện tài vô ngại, khuyến bảo mọi

người phải chăm lo hành thiện, vì như vậy mới mong đạt được

Như Ý Bảo Châu. Bơi lòng người chấp mê thái quá, nên đánh mất

cơ hội thành Phật. Bồ Tát khuyên mọi người nên tu đạo, chỉ cần

khởi tâm thiện niệm thì cát thần sẽ theo một bên hộ vệ. Người tu

đạo phải giữ lòng thuần khiết, phân biệt chánh tà, xét kỷ chân

ngụy, gạn hỏi minh sư. Phải luôn luôn tâm niệm, mọi chúng sanh

đều có Phật tánh. Đạo vốn không phải là khó tu, Phật vốn không

phải là khó tìm, mà điều khó là vì không diệt trừ hết vọng tưởng,

tư dục. Bụi trần là vật ngăn che bản tánh sáng láng của loài người,

tạp niệm khởi sinh làm cho không thấy rỏ đường chánh đạo, cho

nên mới sinh sinh tử tử nhiều kiếp luân hồi. Bố Tát đặc biệt chú ý

đến nữ giới, khuyên bảo nữ giới nên quyết tâm tu hành, Bồ Tát

luôn mở rộng vòng tay từ bi để tiếp độ nữ giới.

Câu số 32. THẤT PHẬT RA DA.

Shvaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Tích Lịch Bồ Tát cùng với quyến thuộc

hàng phục mọi loài ma quỉ.

Câu số 33. DÁ RA DÁ RA.

Jala Jala. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Tồi Toái Bồ Tát, tay cầm

bánh xe vàng, hiện tướng tức giận. Hàm ý nói rằng chúng sanh bị

mọi thứ ma ám,bị ràng rịt mọi sự cám dỗ, không thể tự giải thoát,

cho nên ngài mới hiện ra sắc tướng tức giận để tế độ chúng sanh.

Câu số 34. MẠ MẠ PHẠT MA RA.

Mahabhamara. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Hàng Ma Kim Vương cầm

bánh xe vàng.

Câu số 35. MỤC ĐẾ LỆ.

372 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Mudhili. Giải nghĩa: Là lời chơn ngôn của chư Phật. Chính là hóa thân của

đức Dương Chi Thủ Nhỡn.

Câu số 36. Y HÊ Y HÊ.

Ehy Ehy. Giải nghĩa: Chính là đức Ma Tề Thủ La Thiên Vương.

Câu số 37. THẤT NA THẤT NA.

Shina Shina. Giải nghĩa: Là bực đại trí hoằng thệ, chính là hóa thân của đức

Bảo Kính Thủ Nhỡn Bồ Tát, là có ý nói đạo tâm luôn luôn kiên

định sẽ sinh ra đại trí huệ. Lời Phật dạy: “Người tu đạo luôn luôn

trí huệ sáng suốt. Nếu lấy tâm làm thể, đạo làm dụng, tự nhiên

khí chất được thanh minh, nghĩa lý sáng tỏ. Nếu chí hướng

không bền vững, đạo tâm lúc còn lúc mất, hoặc bị chao đảo lúc

đông lúc tây, dao động bất định, không quét sạch mọi tư dục,

thời không có cách nào để ánh sáng trí huệ bản lai được xuất

hiện. Ví như một vầng trăng sáng, bị nhiều lớp mây đen che

khuất, mây vẫn là mây, trăng vẫn là trăng, cần phải đợi đến lúc

mây tan và trăng xuất hiện.”

Câu số 38. A RA SÂM PHẬT RA XÁ LỢI.

Alashinbalashari.

Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát cầm bài, nõ, cung

tên, là Chuyễn Luân Pháp Vương, là Hóa Phật Thủ Nhỡn. Câu này

có ý nghĩa là nếu đã tu hành thanh tịnh pháp thân thì chắc sẽ được

ngọc bảo châu của nhà Phật.

Câu số 39. PHẠT SA PHẠT SÂM.

Basha Bashin. Giải nghĩa: Là tiếng nói vui, tiếng cười vui, là bực trượng phu, sĩ

phu, đó là hóa thân của đức Bảo Cung Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 40. PHẬT RA XÁ DA.

373 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bharashaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Phật A Di Đà, Bổn sư của

đức Quán Thế Am Bồ Tát.

Câu số 41. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA.

Huluhulu Pra. Giải nghĩa: Chính là Bát Bộ Quỉ Thần Vương, là hóa thân của đức

Ngọc Hoàng Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 42. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ LỊ.

Huluhulu Shri. Giải nghĩa: Chính là Tứ Tý Tôn Thiên Thần Trứ Liễu Diệp Khải,

là hóa thân của đức Bảo Bát Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 43. TA RA TA R A.

Sara Sara. Giải nghĩa: Chính là Ngũ Trọc Ac Thế, là hóa thân của đức Kim

Cương Xử Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 44. TẤT RỊ TẤT RỊ.

Siri Siri. Giải nghĩa: Chính là hóa thân của đức Hợp Chưỡng Thủ Nhỡn Bồ

Tát. Ý nói đức Quán Thế Am làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh,

ngài không bỏ rơi một người nào.

Câu số 45. TÔ RÔ TÔ RÔ.

Suru Suru. Giải nghĩa: Nước cam lộ rưới xuống thế gian làm lợi ích cho

chúng sanh. Nước cam lộ lấy từ trong ao bát công đức thủy. Người

dụng công tu hành phải làm sao đạt tới mức làm cho nước trong ao

bát công đức thủy có thể lên xuống theo ý muốn. Lại có ý nói rằng

người tu hành dùng nước cam lộ để thấm nhuần tâm đạo, tưới khắp

muôn loài, thời hết thảy mọi sự đói khát, nóng nảy, khổ não đều

được trong mát, an vui, hạnh phúc.

374 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Câu số 46. BỒ ĐỀ DẠ BỒ ĐỀ DẠ.

Budhaya Budhaya. Giải nghĩa: Ý nói đức Quán Thế Am Bồ Tát có nhân duyên với

chúng sanh, ngài thường hóa thân làm đức Bất Khoái Kim Luân

Thủ Nhỡn Bồ Tát để giáo đạo cho chúng sanh.

Câu số 47. -BỒ ĐÀ DẠ BỒ ĐÀ DẠ.

Bodhaya Bodhaya.

Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức A Nan, là bực trí giả, bực

giác giả, là hóa thân của đức Đinh Thượng Hóa Phật Thủ Nhỡn Bồ

Tát.

Câu số 48. DI ĐẾ RỊ DẠ.

Maitriye. Giải nghĩa: Chính là đức Đại Xa Bồ Tát, tay cầm kim đao, thể

hiện lòng đại từ, đại bi, là hóa thân của đức Tích Trượng Thủ

Nhỡn Bồ Tát. Khuyên người tu đạo nên phát khởi lòng từ bi, vì có

cầu tắc ứng, nhất tâm tắc chứng.

Câu số 49. NA RA CẪN TRÌ.

Nilakansta. Giải nghĩa: Chính là nói đức Long Thọ Bồ Tát tay cầm kiếm báu,

là bực hiền giả luôn bảo vệ che chở chúng sanh, là hóa thân của

đức Bao Đính Thũ Nhỡn Bồ Tát. Là có ý nói người tu đạo khi thấy

bực hiền giả nên bảo hộ kẻ đó.

Câu số 50. ĐỊA RỊ SẮC NI NA.

TrisaRana. Giải nghĩa: chính là đức Bảo Lung Bồ Tát, tay cầm thiết xoa, là

hóa thân của đức Bảo Kiếm Thủ Nhỡn Bồ Tát. Từ câu số 32 đến

câu số 50 là có ý nói, đức Quán Thế Am Bồ Tát phóng ra ánh sáng

và hóa diệm quang khiến mọi chúng sanh đều thấy chung quanh

mình hào quang rực rở, là Bồ Tát có ý tuyên dương Pháp Phật

nhiệm mầu, huyền diệu khiến cho mọi người quyết tâm tu đạo thời

sẽ đặng Phật quả. Muốn không xa rời chánh đạo thì thường nghe

375 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

chính pháp, có nghe chính pháp thì mới nhận rỏ được thực hư, có

biết được thực hư thì mới phá tan mọi cám dỗ, phiền não, như vậy

con người mói tự giải thoát được bản thân. Tâm tướng của Bồ Tát

là tâm đại từ đại bi, mong muốn cứu vớt chúng sanh lìa xa đường

khổ, muốn hết thảy chúng sanh được sanh ra đều ở nơi cung điện

nhà Phật, nhưng tiếc thay! Lòng người ham chuộng hư danh hám

lợi, nên mãi mãi chìm nổi trong kiếp hồng trần. Nếu con người

buông bỏ mọi thứ vọng tưởng kia, nhắm mắt mà niệm chơn ngôn,

giữ lòng trong sạch thì sợ gì phiền não không trừ, hư vọng không

đoạn. Vì chơn ngôn của Bồ Tát chỉ cho mọi người thầy rỏ đâu là

chánh kiến, đâu là tà mị. Chơn ngôn làm lợi ích cho quyến thuộc

hửu tình, chơn ngôn là cam lộ thủy rưới tắt lửa dục tình, gội sạch

danh tài sắc. Chơn ngôn của Bồ Tát làm sáng tỏ chân lý của đạo

Phật. Bởi vì đức Phật có dạy “Người tu đạo chuyên chính đặng

sinh ra trí huệ sáng suốt”.

Chơn ngôn của Bồ Tát là khuyến tu mọi người nên phát

tâm bồ đề, vì có tâm bồ đề mới thấy pháp huyền diệu, thấy mọi sắc

tướng đều là không. Khi mọi sắc tướng đều không có gì cả, chỉ còn

lại một đạo tâm, tâm đó đi lại mười phương vào điện chư Phật và

thấy được mặt Phật. Có nghĩa là khi đã tu đắc đạo thời sẽ có thần

thông quảng đại, hiện thần biến tướng, ứng hóa vô cùng. Muốn tu

chứng được như vậy trước nhứt phải coi cõi trần này là mộng ảo,

sắc thân này là hư cấu, vật chất chỉ là cõi tạm, nhờ vậy tâm mới

định, thần sẻ sảng khoái, tự nhiên thấy trời, người, a tu la đều tùy

hỷ, rồng, rắn, sư tử đều cung kính ái mộ.

Cho nên Bồ Tát mới chỉ bảo người tu đạo phải tu hành

làm sao đạt đến mức điều khiển được nước trong ao bát công đức

thủy có thể lên xuống tùy theo ý muốn. Tâm lực phải tinh tấn,

không được thoái lui, vì một bước lui là tự mình rơi xuống nghìn

dặm. Người tu đạo phải khởi tâm Bồ Tát, tự mình cứu mình rồi

quay lại cứu người, đó mới chính là tinh thần đại thừa của Phật

Giáo.

Câu số 51. BA DẠ MA NA.

376 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Bhaya Mane. Giải nghĩa: chính là đức Bảo Kim Quang Luân Bồ Tát, lại có

nghĩa là danh xưng rất hoan hỷ, thành tựu viên mãn.

Câu số 52. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: chính là đức Tam Đầu Thiện Thánh Già Phu Ngãi

Long. Câu ta bà ha thường dùng khi kết thúc lời chơn ngôn, gồm

có sáu nghĩa: thành tựu, điềm lành, sự viên tịch, tiêu tai, tăng ích

và vô trú. Ta bà ha cũng có nghĩa là hết thảy các pháp là bất sinh

bất diệt, rất tịch tỉnh, có tính niết bàn.

Câu số 53. TẤT ĐÀ DẠ.

Sitaya. Giải nghĩa: Chính là ngài Xá Lợi Phất Bồ Tát, tay giữ ấn hoa sen

cai quản hết thảy pháp môn.

Câu số 54. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Câu ta bà ha này đi liền với câu số 53 là có ý chỉ hằng

hà sa số Bồ Tát đứng cao vút trên đầu cá ngao, ý nói pháp hải vô

biên. Mỗi câu chữ ta bà ha từ câu số 54 đến cuối đều có ý nghĩa

riêng.

Câu số 55. MA HA TẤT ĐÀ DẠ.

Maha Sitaya. Giải nghĩa: Chính là đức Phong Quang Bồ Tát, tay cầm phướng

đỏ.

Câu số 56. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: chính là đức Mục Kiền Liên Bồ Tát, tay cầm tích

trượng, mặc áo cà sa.

Câu số 57. TẤT ĐÀ DỦ NGHỆ.

377 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Sitayaye. Giải nghĩa: chính là chư Thiên Bồ Tát tay cầm kim đao bày trận.

Câu số 58. THẤT BÀN RA DẠ.

Shvaraya. Giải nghĩa: chính là đức A Di Đà Phật và đức Quán Thế Am Bồ

Tát An Tức Hương. Câu này ý nói là chư thiên thần nữ đếu có thể

thành đạo quả.

Câu số 59. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: chính là đức A Đổ Na Bồ Tát Cao Kình Vu Bát, là hóa

thân của đức Bảo Khiếp Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 60. NA RA CẪN TRÌ.

Nilakanthi. Giải nghĩa: chính là đức Hải Huệ Bồ Tát, tay cầm kiếm vàng, là

câu chơn ngôn nhiệm mầu chuyên về pháp đại thừa, có tác dụng

ngăn ngừa các bậc hiền giả đi lầm vào phái tiểu thừa.

Câu số 61. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Nhiễm Đà Bồ Tát, gậy vác trên vai có

móc một chiếc nón.

Câu số 62. MA RA NA RA.

Pranila. Giải nghĩa: Chính là đức Bảo An Vương Bồ Tát. Có ý nói người

quyết tâm tu đạo vượt ra khỏi vòng phiền não là một thử thách phi

thường.

Câu số 63. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Câu Hy La Bồ Tát, chân mang hài cỏ mà

vẫn vượt được sóng cao bể cả. Có ý nhắc nhở người tu hành phải

378 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

luôn luôn làm sáng đạo pháp, bằng cách tự giác ngộ, không giả dối

cầu cạnh bên ngoài, không ngại sự phiền hà quấy nhiễu.

Câu số 64. TẤT RA TĂNG A MỤC KHƯ DA.

Shrisimhamukhaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu

các chứng bịnh, là hóa thân của đức Việt Phủ Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu chơn ngôn này là ý nói Bồ Tát thấy chúng sanh chìm trong bể

khổ, muốn tự thoát ra cũng không biết phải làm cách nào, cho nên

ngài bèn hiện thân Dược Vương Bồ Tát để ban cho chúng sanh

thuốc trị bịnh nhiệm mầu, đó là các chúng binh bàng môn tà đạo.

Câu số 65. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Viên Mãn Bồ Tát. Câu này bổ túc cho

câu chơn ngôn trên, ý nói Bồ Tát thấy rỏ căn nguyên bịnh lý của

chúng sanh đều do nghiệp tác tạo, bịnh khởi phát do thất tình lục

dục, do giặc tà bên ngoài xăm nhập vào trong, cho nên Bồ Tát phát

đại từ tâm nguyện cứu hết khổ chúng sanh bằng cách cho mọi

người thấy rỏ sắc thân mà tu hành.

Câu số 66. TA BÀ MA HA A TẤT ĐÀ DẠ.

Sarvamahasastaya. Giải nghĩa: Chính là bản thân của đức Dược Vương Bồ Tát trị liệu

bịnh cho chúng sanh. Ý nói người tu hành cần có sự nhẫn nại, cũng

như người bịnh phải uống thuốc nhiều lần mới hết.

Câu số 67. TA BÀ HA.

Svaha.

Giải nghĩa: Chính là Xá Lợi Phất Bồ Tát, lưng đeo chân kính ngọc

trần phong, là hóa thân của đức Bồ Đào Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 68. GIẢ KIẾT RA A TẤT ĐÀ DẠ.

Chakra Astaya. Giải nghĩa: Chính là đức Hổ Hàm Thần Tướng, tay cầm búa. Có ý

379 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

nói lấy Kim Cương Pháp Luân để hàng phục oán ma và được sự

thành tựu không gì so sánh được.

Câu số 69. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là Thiên Ma Vương, tay cầm xà thương.

Câu số 70. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ.

Padmakesshaya. Giải nghĩa: Chính là đức Linh Hương Bồ Tát, tay bưng lò Như ý,

là hóa thân của đức Hồng Liên Hoa Thủ Nhỡn Bồ Tát.

Câu số 71. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Tán Hoa Thiên Bồ Tát thiên diệp bảo

liên.

Câu số 72. NA RA CẪN TRÌ BÀN ĐÀ RA DẠ.

Nilakantepantalaya. Giải nghĩa: Chính là đức Phú Lâu Na Bồ Tát, tay bưng chậu, là

hóa thân của đức Thí Vô Uy Thủ Nhỡn Bồ Tát. Ngài Quán Thế

Am thường ban sự vô úy, cho nên người đời thường gọi là là Thí

Vô Uy, trừ khử hết thảy mọi sự sợ hãi, khiến mọi người được bình

ổn an vui.

Câu số 73. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Đà La Ni Tử Bồ Tát, tay bưng quả.

Câu số 74. MA BÀ RỊ THẮNG YẾT RA DẠ.

Mopholishankaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Tam Ma Thiền La Bồ Tát Già Phu Luân

Chưởng Bảo Đăng, là hóa thân của đức Thiên Tý Thủ Nhỡn Thiên

Thủ Thiên Nhỡn Bồ Tát. Câu này có nghĩa người tu hành phải kiên

tâm đại dũng thời việc tu hành trước sau gì cũng thành tựu ngôi

380 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật quả. Rỏ ràng ngài Quán Thế Am hiện ra pháp tướng nghìn

mắt nghìn tay để soi sáng hết thảy pháp giới, nếu không quyết tâm

tu hành chẳng phải là phụ lòng đại từ bi của Bồ Tát hay sao?

Câu số 75. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Đại Ca Diếp Bồ Tát tay cầm niệm châu.

Câu số 76. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐÁ RA DẠ DA.

Namo Ratnatrayaya. Giải nghĩa: Chính là đức Hư Không Bồ Tát ngồi trên phiến đá hái

hoa. Câu này có ý nghĩa là tu đạo phải đi đúng con đường chánh

đạo, tu đạo là đi theo con đường tắt để tự cứu khỏi ngục cảnh luân

hồi. Câu chơn ngôn này minh định cho mọi người thấy rằng muốn

tu hành đạt kết quả phải tự mình hàng phục thân tâm, gìn giữ lòng

không để bị buông thả, chuyên tâm thiền định.

Câu số 77. NAM MÔ A LỊ DA.

Namo Arya. Giải nghĩa: Chính là hương tượng của đức Phổ Hiền Bồ Tát đang

ngồi trên tọa bát bảo. Đến đây Bồ Tát muốn cho mọi người phải

thành khẩn trì tụng bài chú.

Câu số 78. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ.

Avalokite. Giải nghĩa: Chính là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đang chỉ một

ngón tay lên trời. Hàm ý nói rằng đạo pháp vô cùng huyền diệu,

nếu tu được thời từ chỗ thanh tịnh có thể tới nơi cực lạc.

Câu số 79. THƯỚC BÀN RA DẠ.

Shavaraya. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát giải nhãn căn thiên

diệp kim liên. Câu này có y nói là người tu đạo phải đóng chặt sáu

cửa, diệt trừ nhãn căn để tránh điều sắc lụy, vì mắt là sự trở ngại

381 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

lớn, mắt nhiếp thọ mọi cảnh hửu tình khiến cho tâm động, nên Bồ

Tát nhất thiết bảo phải diệt trừ nhãn căn mới tầm ra diệu cảnh.

Câu số 80. TA BÀ HA.

Svaha. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát lắng tai phân biệt

tiếng vàng rơi trên cánh tay. Nhĩ căn cũng là một trở ngại không

nhỏ, nếu nhĩ căn không thanh tịnh thời không thể nào nhiếp thọ

được pháp huyền diệu, không nghe được chánh pháp thời sao tu

chứng thành Phật quả được?

Câu số 81. ÁN TẤT ĐIỆN ĐÔ.

Om! Siddhyantu. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát đang xoè để giải

mọi mùi vị thuộc mũi.

Câu số 82. MẠN ĐÀ RA.

Mantra. Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát, đưa lưỡi tay cầm

quyết Đâu La Miên Thủ, ý nói khuyên người tu đạo nên giải trừ

thiệt căn.

Câu số 83. BẠT ĐÀ DẠ.

Pataya.

Giải nghĩa: Chính là đức Quán Thế Am Bồ Tát đang giải mọi xúc

giác tiếp nhận tâm căn ở trong người..

Câu số 84. TA BÀ HA.

Svaha. Chính là mọi phép tắc của đức Quán Thế Am phân biệt giải ý căn.

Câu ta bà ha này có ý nghĩa là kết thúc, tức là chơn ngôn đã nói

đến đây là chấm dứt, là hoàn tất, mọi người đều nên luôn luôn tụng

niệm. Nếu tụng chơn ngôn chí tâm thời mọi người không còn sợ gì

sáu cửa (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) làm quấy nhiễu tâm trong

sáng, thanh tịnh.

382 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tóm tắt từ câu số 51 đến câu số 84, Bồ Tát luôn hiển hóa mọi

pháp tướng vân du khắp mười phương không ngại gian khổ chỉ mong

cứu độ chúng sanh thoát vòng khổ lụy, phiền não, chỉ cho người đời thấy

rỏ diệu pháp để mà tu hành đúng đường chánh đạo.

Bồ Tát khuyên người đời chớ có vọng cầu mê chấp, chớ có

lộng giả thành chơn, vì danh lợi, tài sắc giết chết con người không đau

đớn như gươm đao. Gưom đao chỉ làm đau đớn xác thịt, còn tài sắc danh

lợi khiến cho tâm can sinh ra nhiều thứ bịnh không thể trị liệu được.

Nay có Bồ Tát mở rộng lòng đại từ đại bi khuyến tu mọi

người hãy mau tỉnh ngộ mà theo chân Phật Tổ, nên lấy chân ngã mà tu,

nên chọn đường bát chánh mà tu, có như vậy thời chư thiện thần mới

thường hộ vệ. Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát còn hiện ra thân người nữ là

để nhắc nhở người nữ hảy cố gắng tu hiền (hiếu với mẹ cha, thương yêu

con cháu trong nhà, hòa thuận với láng giềng hàng xóm, cung kính

người trưởng thượng, một lòng giữ tâm trong sáng) thời người nữ cũng

được thần minh gia hộ.

Mọi người hãy hướng về pháp đại thừa, pháp môn huyền

diệu tái độ chúng sanh, chớ bước sai lầm vào bàng môn tả đạo. Nếu thấy

có người tu theo phái tiểu thừa hãy khuyên lơn nhắc nhở họ sớm giác

ngộ để quay về với đại thừa mà thành tựu Phật quả. Nhớ xưa kia Phật Tổ

giáng trần cũng vì độ chúng sanh mà nói pháp ba thừa, nhưng thực thì

chỉ có một thừa pháp, tức là đại thừa pháp môn, hay là nhứt thừa thực

tướng dẫn dắt chúng sanh vào con đường Phật quả.

Bồ Tát cũng hiện ra thân Dược Vương để ban cho chúng

sanh phương thuốc thần diệu điều trị muôn nghìn chứng bịnh khó trị. Vì

Bồ Tát phát hiện con người sở dĩ mắc bịnh đều do vọng tưởng mà ra.

Trong lòng mang nhiều phiền não, cang khí không được sung mãn, vì

thế mà tóc khô, gan yếu truyền khắp ngủ tạng và đi tới cõi chết. Khi các

vọng tưởng manh động thời tức mọi bịnh tật phát sinh. Dù cho có những

bậc danh y chuyên trị thân bịnh cũng không bằng các bậc thánh trị tâm

383 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

bịnh. Vì lẽ đó mà hết thảy ma chướng đều bị tiêu diệt.Mọi thứ ma

chướng do tâm tạo, tâm sinh, nếu tâm diệt thời tất cả cũng diệt theo. Vì

vậy những người tu đạo, không những diệt tan hết mọi oan nghiệt do ma

chướng sinh ra, lại còn có thể giữ tâm thung dung tự tại, an ổn thanh tịnh

như cõi cực lạc. Nếu đem so sánh với những kẻ bị thanh sắc của cải, phú

quí lôi cuốn thì những kẻ đó không thể nào nhàn rổi được. Vì sao? Như

có kẻ dành hết tai mắt tâm tư để tính toán lợi lộc cho vợ con nào là nhà

cửa đẹp đẻ, ruộng lắm vườn nhiều thời lòng tham vẫn thấy chưa đủ, do

đó mà trong lòng không một chút an nhàn, tâm thần không một ngày yên

ổn.

Cuối cùng nên sớm trì tụng bài chú này, cầu ân Phật ban cho

thần dược trị liệu tâm bịnh, diệt trừ vọng tưởng, thanh tịnh lục căn,

thành tựu đạo quả.

Phẩm Đà la ni. Chú Đà la ni biểu hiện một năng lực bí mật,

thần thông chỉ có chư Phật với chư Phật mới hiếu thấu đáo tận tường, ý

chỉ là ngưng dứt mọi điều ác, khuyến khích mọi điều lành, là thần dược

trị bá bịnh, nhứt là tâm bịnh.

Đà la ni là Phạn ngữ, Hán dịch là tổng trì, nghĩa là giữ gìn tất

cả mọi thiện duyên, thâu hoạch tất cả những pháp lành, bảo vệ kiên cố

nguồn chủng tử tốt, là bền tâm, vững chí trước mọi thử thách của kiếp

sống.

Kinh chú đà la ni rất nhiều, năng lực vô biên, diệt trừ mọi

phiền não do thân tâm sinh ra. Người thường tụng thần chú hay tăng

trưởng phước huệ. Người thường tụng thần chú, lửa dâm sẽ tiêu trừ, tà

tâm không còn bám víu. Người thường tụng thần chú, quỉ thần cũng

khiếp đảm. Vì vậy mà trong kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Người đọc

tụng thần chú đà la ni, dù tự thân không làm nên phước nghiệp, mà

mười phương Như Lai đã có công đức, tất phải ban phước cho người

này.”

384 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong kinh Trì Cú Thần Chú có nói: “Chú đà la ni khiến cây

khô trở lại sinh hoa trái, huống chi là các bịnh hửu tình thế gian mà

không trừ diệt được hay sao?’

Trong kinh Bạch Tán Cái Đà la ni đức Thế Tôn phán: “Nếu

có túc tập tham tâm không trừ diệt, thì phải một lòng tụng thần chú

của ta. Như cô Ma Đăng Già đã cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái,

đem chú lực của ta ra mà tụng làm cho ái tâm vĩnh đoạn, trở thành A

La Hán. Còn như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi thần chú

thấm vào cũng mau chứng bực vô học (123)

.”

Trong sách Liệt Tử có viết: “Sư Văn khéo gảy đàn cầm,

chính nhầm mùa xuân mà gảy dây Thương (124)

để đàn khúc Nam, gió

mát thổi đến, cây cỏ thành trái. Chánh mùa thu mà gảy dây Giác (125)

,

đánh khúc Giáp Chung có gió mát trở lại, cây cỏ phát sum suê. Đương

mùa Hạ mà gảy dây Vũ (126)

để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi

xuống, sông suối đông lạnh, đóng cứng. Mùa Đông mà gảy dây

Chủy(127)

, đánh khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được Hạ khí, băng

cứng bị tiêu tan.”

Trên đây chỉ là cái thuật gảy đàn của thế gian mà còn biến

mùa Thu làm Xuân, mùa Đông làm Hạ, huống chi thần chú của đức Như

Lai lại càng không thể nghĩ bàn. Và thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại

không biến cãi con đường ác khổ để được an vui ở nước Phật sao?

Bài đọc thêm

Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú.

NAM MÔ TÁT ĐA NẨM TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ, CÂU

CHI NẨM ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN! CHIẾT LỆ CHỦ LỆ CHUẨN ĐỀ,

TA BÀ HA.

385 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Công năng của thần chú này là diệt tất cả tội nặng như tội

ngũ nghịch, tội thập ác, thành tựu tất cả các pháp, trì giới đầy đủ, thanh

tịnh mau chứng bồ đề.

Như người tại gia chưa dứt đoạn tình nghĩa vợ con, chỉ cần

kiên tâm trì tụng chơn ngôn này cũng sẽ được thành tựu.

Phật dạy: muốn trì chú này phải tối ngày rằm, tắm rửa sạch

sẻ, mặc y phục mới, mặt hướng về đông phương, ngồi kiết bán già,

thân thật ngay thẳng, để kính đàn (kính soi mặt còn mới chưa dùng)

trước mặt, tùy sức có` các vật hương hoa, tịnh thủy. Trong lòng phải

tuyệt dứt tư duy, giữ tâm thanh tịnh, sau đó kiết ấn để ngang ngực,

tụng chú này một trăm lẻ tám biến. Tụng chú này khiến chúng sanh

thọ mạng ngắn ngủi, trở lại được tăng tuổi thọ.

Phật dạy: Người một lòng tuyệt dứt tạp niệm, tụng mãn hai

mươi vạn biến, bốn mươi vạn biến, sáu mươi vạn biến, cầu những

pháp thế gian hay xuất thế gian đều được vừa lòng toại ý.

Phật dạy: Người ở tại gia, bình thường mỗi buổi sáng là

thời chưa ăn ngủ tân và đồ huyết nhục, dùng nước tịnh thủy súc

miệng sạch sẻ, mặt hướng về phương đông đối kính đàn kiết ấn, tụng

thần chú một trăm lẻ tám biến, cứ thường nhựt như vậy cho mãn bốn

mươi chín ngày không dứt. Sẽ có việc lành tốt đẹp, đức Chuẩn Đề Bồ

Tát khiến hai vị Thánh thường theo người ấy, tâm người ấy mong

muốn điều chi, đều ở bên tai mách nói đầy đủ.

Phật dạy: Người mang nhiều bịnh tật trong thân, tối ngày

rằm của mổi tháng, xông an tức hương, kiết ấn tụng chú một trăm lẻ

tám biến, những loài ma quỉ thất tâm, loài dã hồ ác bịnh, đều hiện

bổn thân nơi trong kính đàn, giết hay tha tùy ý, không dám tái đến,

tăng thọ vô lượng.

Phật dạy: Người muốn ra làm việc chi, trước nên nghĩ

tưởng thánh tượng Chuẩn Đề, thân ngồi ngay thẳng, chánh niệm chú

386 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

này mãn đủ bảy biến, trong chừng giây lát, thân ấy tự nhiên lay động,

tức biết công việc mình ra làm sẽ thành tựu tốt. Nếu thân cứng đơ ngả

trước hướng sau, tức biết không thành chắc có tai nạn.

Phật dạy: Muốn biết pháp này thành hay không thành.

Phải y pháp tụng chú đủ bảy ngày, liền trong chiêm bao mộng thấy

Phật và Bồ Tát ban cho hoa trái, miệng mửa ra vật đen, sau lại ăn vật

trắng, tức biết thành tựu.

Phật dạy: Đà la ni này rất có thế lực lớn, chí tâm tụng trì

quyết phải tự chứng. Có công năng khiến cây khô phát sanh hoa trái,

huống gì những quả báo ở thế gian. Nếu thường trì tụng thì thủy hỏa,

đao binh, oan gia, độc dược đều không thể hại. Nếu người bị quỉ thần

làm bịnh chết, kiết ấn tụng chú này bảy biến, lấy ấn, ấn nơi tại ngực

đều khiến sống trở lại. Gia đình, nhà cửa ở không yên bị quỉ thần gây

họa, trì chú, chú vào bốn hòn đất đem trấn bốn phía thì liền bỏ đi.

Phật dạy: Nếu người trong lục thân không hòa, không nghĩ

tình thương nhau, nên y pháp tụng chú hướng về lục thân thì được

hòa hợp, nghe tên thấy thân đều được hoan hỷ. Phàm cầu việc gì cũng

vừa lòng toại tâm. Huống người trai giới đầy đủ, nhất tâm thanh tịnh,

y pháp tụng trì, thì nhứt định chuyễn thân này tức chứng bồ đề, có

được đại công lực.

Kính đàn pháp này không được cho người thấy, nếu thấy thì

không tốt, mất linh nghiệm. Pháp này cần giữ bí mật, không được tuyên

nói, hãy tự mình chứng biết.

Đời Đường, ngài Thiện Vô Uy

phụng chiếu dịch Độc Bộ Biệt Hành.

Dịch giả Tỳ khưu Thích Viên Đức.

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự. Đức Phật kể

cho hàng tứ chúng nghe một câu chuyện tiền thân cách đây vô lượng vô

biên bất khả tư nghì kiếp có liên quan đến chư vị Bồ Tát hiện đang đứng

387 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

trước mặt Thế Tôn, đó là các ngài Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng

Bồ Tát, Hoa Đức Bồ Tát và Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát.

Câu chuyện nói về vua Diệu Trang Nghiêm, người theo đạo

bà la môn, Tịnh Đức phu nhơn, và hai người con trai là Tịnh Tạng và

Tịnh Nhãn, ở tại nước Quang Minh Trang Nghiêm, vào thời đức Vân

Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng cúng. Hai người con tu Phật

nên chứng đắc thần thông lớn, phước đức trí huệ. Tịnh Đức phu nhơn

cũng tin theo hai con, chỉ có điều vua Diệu Trang Nghiêm tâm còn tà

kiến ngoại đạo, sau nhờ hai người con thuyết phục hiển bày thần thông

cho vua cha thấy để tin theo. Hai người con bèn đưa cha mẹ đến chổ

pháp hội, nơi đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đang giảng kinh

Diệu Pháp Liên Hoa.

Hai người con sau khi làm cho vua cha chịu tin theo Phật rồi

bèn xin xuất gia tu hành Phật đạo. Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cùng

chung với quần thần quyến thuộc, bà Tịnh Đức phu nhơn cùng chung

với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung đi đến chỗ Phật xin xuất gia.

Sau đó đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí liền thọ ký

cho vua Diệu Trang Nghiêm đặng làm Phật hiệu Ta La Thọ Vương,

nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.

Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng

trăm nghìn muôn ức công đức do trí huệ nên nhục kế trên đảnh sáng

suốt, chói rở. Mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc. Tướng lông trắng

chặn mày như ngọc kha nguyệt. Răng trắng, bằng và khít thường có ánh

sáng. Môi sắc đỏ, đẹp như trái tần bà.

Sau cùng đức Thế Tôn mới tuyên nói cho trong đại chúng rỏ:

Vua Diệu Trang Nghiêm nay chính là Hoa Đức Bồ Tát.

Tịnh Đức phu nhơn nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm

Tướng Bồ Tát.

388 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tịnh Tạng nay chính là Dược Vương Bồ Tát.

Tịnh Nhãn nay chính là Dược Thượng Bồ Tát.

Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát. Kinh Pháp Hoa mở

đầu bằng phẩm TỰA thứ nhứt, trong đó Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi giải

thích cho ngài Di Lặc Bồ Tát và hàng đại chúng hiểu về các sự việc hiện

thần biến tướng của Như Lai và kết thúc bằng phẩm Phổ Hiền Bồ Tát

khuyến phát thứ hai mươi tám.

Nếu đức Văn Thù Sư Lợi biểu trưng cho trí tuệ, thì ngài Phổ

Hiền Bồ Tát biểu trưng cho hạnh lý.

Nếu đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biểu trưng cho tri, thì ngài

Phổ Hiền Bồ Tát biểu trưng cho hành.

Nếu đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biểu trưng cho Phật trí đại

huệ giải thoát, thì ngài Phổ Hiền Bồ Tát biểu trưng cho định lực, tinh

tấn. Đây là những biểu trưng đặc thù của kinh Pháp Hoa, những biểu

trưng của đại thừa diệu pháp, giúp cho người thọ, trì, đọc, tụng, biên

chép, giải nói kinh Pháp Hoa phải tri hành hai điều kiện:

Phát triễn trí tuệ (biểu trưng cho đức Văn Thú Sư Lợi Bồ Tát).

Tu dưỡng phẩm cách đạo đức (biểu trưng cho đức Phổ Hiền Bồ Bồ

Tát).

Khi đọc đến tiêu đề của phẩm thứ hai mươi tám thì thấy rỏ

hết ý nghĩa của phẩm kinh. Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát là khuyến tu

tất cả mọi thiện nam tín nữ hãy phát khởi hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ

Hiền bao gồm Giới, Định, Huệ, Tinh tấn, Hỷ xả, Từ bi, như câu kinh

dưới đây:

389 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Đức Thế Tôn bảo ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Nếu thiện nam tử,

thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ

được kinh Pháp Hoa này:

Một là được các đức Phật hộ niệm.

Hai là trồng các cội công đức.

Ba là vào trong chánh định.

Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.”

Đức Thế Tôn lại bảo ngài Phổ Hiền:

“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn

chánh, tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời

là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe

kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích Ca

Mâu Ni Phật. Phải biết người đó được Phật, ngài khen lành thay.

Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy tay xoa đầu.

Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy y trùm

cho.”

Tóm lại, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát là thể hiện năng

lực tinh tấn cho toàn bộ quyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh Pháp

Hoa được hoằng dương rộng rải trong cõi diêm phù đề này là do oai thần

định lực của Ngài Phổ Hiền. Chính Ngài Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện

trước Đức Thế Tôn sẽ dùng sức thần thông để gìn giữ kinh này. Cho nên

người tu kinh Pháp Hoa tức là tu hạnh Phổ Hiền.

Bài đọc vui.

THẢO AM

Nương có thảo am lúc sớm trưa

Lửa lòng đã tắt dục tâm chừa

390 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Chí tài sốt sắng, gan bền chặt

Trời muốn làm mưa thì cứ mưa

Bài kệ trên đây là của Đại Đức Tu Bồ Đề (Subhuti), quê quán

ở thành Xá Vệ, là con của một quan đại thần tên là Xu ma na (Sumana),

cháu của nhà thương gia Cấp Cô Độc, người đã mua miếng vườn Kỳ

Thọ cúng dường cho Phật và Giáo Hội. Đại đức Tu Bồ Đề là người trực

tiếp dự vào việc mua cảnh vườn này. Mọi việc cúng dường xong ngài

bèn xuất gia đầu Phật.

Ngài học khá nhiều, chẳng bao lâu ngài có được một địa vị

khá cao trong hàng các đệ tử của Phật. Một hôm ngài đến thành Vương

Xá, vua Tần Bà Sa La (Vimbasâra) có hứa dọn cho ngài một cái thất,

nhưng rồi lại quên. Ngài phải ở ngoài trời. Lúc ấy vì không muốn cho

ngài phải bị ướt át, lạnh lẽo nên mưa không đổ hột, làm cho nắng hạn

khiến cho dân sợ hoảng. Họ bèn kéo nhau tới tâu với vua. Vua hiểu tại

sao xảy ra chuyện ấy, liền ban cho đại đức một cái am cỏ. Ngài vừa

bước vào thất thì trời đổ mưa nặng hạt. Theo sử chép rằng, cái thảo am

mà vua ban cho ngài thật ra không xứng đáng gì, nhưng đại đức nghĩ

cũng vừa lòng nên mới phóng túng ngâm bài kệ trên.

391 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

PHẦN THỨ BA.

KINH QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP

Kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp được coi như là phần kết

của bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Trong kinh này Phật dạy các

đệ tử phải biết phương pháp thực hành kinh Pháp Hoa vào mọi cách ứng

xử linh động của sáu hạng người (Ưu bà tắc, Ưu bà di, Tỳ kheo, Tỳ kheo

ni, Thanh văn, Duyên giác) khi vào đời, khi tu tập. Phương pháp đó là

sám hối (128)

.

PHƯƠNG PHÁP SÁM HỐI.

Sám hối là bày tỏ, phát lộ những điều gì hành động trái

nghịch với chơn lý, với đạo pháp, hoặc chính mình làm, hoặc xúi biểu

người khác làm, hoặc nhớ, hoặc chẳng nhớ trước tượng chư Phật, chư

Bồ Tát, hoặc trước người giáo thọ của mình. Khi đã bày tỏ, phát lộ hết

tất cả tội lỗi thì sẽ cảm thấy trong người nhẹ hẩng lên, như người bị cảm

nặng nhờ một nồi xông hơi mà xuất hạn mồ hôi thời sẽ hết bịnh.

Sám hối là điều kiện tiên quyết của người Phật tử, vì bởi nhờ

có sám hối thì bao nhiêu tội lỗi của mình đã gây tạo từ bao đời trong quá

khứ, lại quá nhiều tội lỗi phát sinh trong đời hiện tại nhờ đó mà được

tiêu diệt, mới yên tâm thắng tấn tu hành.

Đức Phật thuyết giảng kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp tại

giảng đường Trùng Các trong tịnh xá Đại Lâm ở thành Tỳ Xá Lỵ

(Vesâli), kinh này đưa vào bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vì kinh Pháp

Hoa là kinh Phương Đẳng Đại Thừa. Kinh Pháp Hoa được coi như là

chơn lý về sự khai mở Phật tính của chúng sanh.

392 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Phật dạy “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Vậy mà

mọi người không thấy rỏ Phật tính là vì sao? Là vì trong cuộc sống hằng

ngày của chúng ta bị che lắp bởi nhiều ảo tưởng hư vọng, bởi nhiều

tranh chấp hơn thua, sanh ra nhiều nghiệp xấu ác, nhân lành càng ngày

càng bị phủ kín, như vậy thì còn có cơ may nào để nhận rỏ là mình có

Phật tính! Nhờ có pháp thủy của chư Phật rửa sạch lục căn, nhờ có pháp

môn sám hối, như nguồn nước sạch tẩy trần thân nhơ uế, mọi người sẽ

lột bỏ hết ảo tưởng hư vọng ra khỏi tâm thức mình thì Phật tính sẽ hiển

lộ ra, như viên đá quí được lau sạch bùn nhơ vậy.

Trong kinh Quán Phổ Hiền Bồ Tát Phật dạy: “Các đệ tử

phải biết sám hối, mà sám hối có lợi nhất là nên đọc tụng các kinh

Đại thừa Phương đẳng, tội lỗi mau chóng tiêu diệt.”

Lại nữa ở cuối phẩm kinh Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát thứ

hai mươi tám, đức Phật có dạy: “Hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa phải

học hạnh Phổ Hiền, tu tập theo Phổ Hiền.”

Sau đó kinh quán Phổ Hiền Hạnh Pháp đức Phật dạy học

hạnh Phổ Hiền, tu tập theo Phổ Hiền tức phải chú tâm quán tưởng tư duy

về đại thừa và phải biết năm phương pháp sám hối từ trên là hàng vua

chúa, hoàng tộc, đến giai cấp cao quí của bà la môn, xuống đên hàng thứ

dân. Đó là phép tu sám hối Đệ Nhất của hàng Sát đế lợi và Cư sĩ. Năm

phương pháp sám hối như thế này:

1. Phép sám hối thứ nhứt: Không phỉ báng Tam Bảo, không gây trở

ngại cho hàng xuất gia, không làm ác đối với người thực hành

phạm hạnh. Quyết chí tu sáu phép quán niệm. Thường ủng hộ cúng

dường người trì giữ đại thừa. Thường quán niệm đến cái Không

của ý nghĩa đệ nhất của kinh pháp thâm sâu.

2. Phép sám hối thứ hai: Hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các ân sư,

thầy tổ, các vị trưởng thượng.

393 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

3. Phép sám hối thứ ba: Trị nước theo chánh pháp, không ép uổng

nhân dân một cách tà vạy.

4. Phép sám hối thứ tư: Ra lệnh khắp nước giữ sáu ngày trai giới

khiến người ta không sát sinh.

5. Phép sám hối thứ năm: Tin vào nguyên nhân và kết quả một cách

sâu đậm (luật nhân quả). Tin vào con đường của cái thực tánh duy

nhất (chúng sinh có Phật tính) và biết rằng đức Phật là bất diệt.

Tâm của chúng ta được thanh tịnh do nhờ phép sám hối.

Hành vi của chúng ta đựoc sáng tỏ do nhờ phép sám hối.

Trong thực tế có rất nhiều cách để sám hối, có nhiều phương

pháp để thực hành sám hối, nhưng tựu trung chỉ cần có chính tâm sám

hối, bày tỏ mọi lỗi lầm một cách chân thật, không che giấu, dù lỗi đó

mong manh như sợi tóc cũng phải bốc hết ra. Nếu không bốc hết ra thì

gốc sẽ còn, manh nha tội lỗi sẽ còn, hành vi tái phạm sẽ còn. Trong kinh

Pháp Cú có lời dạy:

Mái thưa mưa thấm dột lần

Tâm không tu luyện dục tham lọt vào

Mái dầy ngăn giọt mưa rào

Tâm ta luyện kỹ, tham nào lọt vô.

Đức Phật dạy rằng mọi tội lỗi đều do tâm khởi, muốn tiêu

diệt tội phải dốc hết tâm ra mà sám hối. Những tội lỗi từ bao đời trước,

kết hợp với tội lỗi phát sinh trong đời hiện tại khiến cho chúng sanh trầm

luân trong biển luân hồi sinh tử. Nay nhờ có phương pháp sám hối của

đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, Phật tử chúng ta quyết tâm y chỉ phụng

hành.

394 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Kinh thuyết :

“ Một thời đức Phật ở tại giảng đường Trùng Các trong

tịnh xá Đại Lâm ở Tỳ Xá Lỵ (Vesàli). Ngài nói với các Tỳ kheo:

“Sau ba tháng ta sẽ nhập Bát Niết Bàn (Parinirvàna).”

“ Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh đốn y

phục, chắp tay nhiễu quanh đức Phật ba vòng và đảnh lễ ngài, quỳ

gối chắp tay, chăm chú nhìn đức Như Lai, mắt không lúc nào quay

nhìn nơi khác. Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp, ngài Di Lặc Bồ Tát Ma

ha tát cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay đảnh lễ, nhìn lên tôn

nhan của đức Phật. Thế rồi ba vị đại sĩ phát ra cùng một âm thanh,

bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, sau khi đức Như Lai diệt độ, các chúng

sanh làm thế nào để có thể khởi tâm bồ đề để tu hành các kinh Đại

Phương Quảng (129)

của Đại thừa, để chánh niệm tư duy một cảnh

giới chân thật? Họ làm thế nào để không bị mất cái tâm bồ đề vô

thượng? Họ làm thế nào để không cắt đứt phiền não? Không từ bỏ

năm dục mà lại thanh tịnh được các căn và diệt trừ được các tội?

Họ làm sao để bằng con mắt vốn thanh tịnh do cha mẹ sinh ra và

không cắt đứt năm dục mà lại có thể nhìn thấy được các sự vật một

cách tự tại?”

“ Đức Phật bảo ngài A Nan: “Hãy nghe cho kỷ! Hãy nghe

cho kỷ! Hãy tư duy và nhớ kỷ! Ngày xưa tại núi Kỳ xà Quật

(Grdhrakùta) và tại các nơi khác, Như Lai đã từng rộng giảng rỏ

ràng con đường của một thực tính duy nhất. Nay tại nơi này, nhằm

cho các chúng sanh trong đời vị lai muốn tu hành pháp vô thượng

của đại thừa, muốn học hạnh Phổ Hiền và theo hạnh Phổ Hiền, ta sẽ

giảng pháp mà ta đã ấp ủ. Nay ta sẽ rộng giảng rỏ ràng cho các ông

về việc trừ khử các tội cho những ai được trông thấy Phổ Hiền hoặc

không trông thấy Phổ Hiền.”

“ Này A Nan! Bồ Tát Phổ Hiền đã sinh ra tại nước Tịnh

Diệu ở phương đông là quốc độ mà ta đã rộng giảng rỏ ràng trong

kinh Pháp Hoa. Nay trong kinh này ta sẽ giải thích lại một cách vắn

395 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tắt. Này A Nan! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di,

tám bộ Trời và Rồng và tất cả chúng sanh tụng kinh đại thừa, tu

hành theo đại thừa, khởi ý đại thừa, vui mừng được nhìn thấy sắc

thân của Bồ Tát Phổ Hiền, vui mừng được nhìn thấy tháp của đức

Phật Đa Bảo, vui mừng được nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni

và chư Phật phân thân, vui mừng được sự thanh tịnh của sáu căn,

những vị ấy cần phải học quán niệm này.”

“ Công đức của quán niệm này sẽ loại trừ cho họ các

chướng ngại, khiến họ thấy các sắc tướng vi diệu. Dù cho họ chưa

nhập được tam muội, nhưng vì họ tụng và trì đại thừa, nên họ sẽ

chuyên tâm tu tập không gián đoạn, không rời đại thừa. Sau một

ngày, hoặc ba lần bảy ngày, họ sẽ nhìn thấy được Phổ Hiền.”

“ Người có trọng chướng thì sau bảy lần bảy bốn chín

ngày sẽ nhìn thấy được ngài. Lại có người có trọng chướng nhiều

hơn thì sau một đời mới nhìn thấy được ngài. Lại có người có trọng

chướng nhiều hơn nữa thì hết hai đời mới nhìn thấy được ngài. Lại

có người có trọng chướng nhiều nhiều hơn nữa thì sau ba đời mới

nhìn thấy được ngài. Như thế các trọng chướng nghiệp báo không

giống như nhau. Vì thế nên ta giảng giáo lý theo nhiều cách khác

nhau.”

“Bồ Tát Phổ Hiền có thân thể vô biên, âm thanh vô biên.

Muốn đến cõi ta bà ngài phải nhập vào thần thông tự tại, thu nhỏ

thân lại. Vì người trong cõi Diêm phù đề có ba chướng (130)

nặng nề,

nên ngài dùng sức trí tuệ mà hóa thân cỡi trên một con voi trắng.

Voi này có sáu ngà, bảy chân đở thân mình lên trên đất. Bên dưới

bảy chân của nó là bảy hoa sen. Voi có màu trắng tươi, trắng nhất

trong những thứ có màu trắng đến nỗi pha lê và núi tuyết cũng

không sánh được. Thân voi dài bốn trăm năm mươi do tuần, cao

bốn trăm do tuần. Cuối sáu ngà có sáu ao tắm. Trong mỗi ao tắm

mọc lên mười bốn hoa sen lớn bằng ao tắm ấy. Hoa mãn khai như

vua của cây ở cõi trời. Trên mỗi hoa này có một ngọc nữ nhan sắc

hồng thắm, tươi sáng hơn các thiên nữ. Trong tay của mỗi ngọc nữ

396 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tự nhiên hóa ra năm cây đàn không hầu, mỗi cây đàn không hầu có

năm trăm nhạc khí để họa theo. Có năm trăm con chim gồm loài

nhạn, uyên ương, tất cả đều có màu sắc của các thứ báu, sinh khởi

ra trong hoa và lá. Trên vòi voi có một cái hoa, cuống hoa có màu

của một viên ngọc đỏ, hoa thì vàng, đang còn búp, chưa nở.”

“ Sau khi chứng kiến sự việc như vậy, nếu có ai sám hối

nhiều hơn nữa về tội của mình, chú tâm quán tưởng tư duy về đại

thừa, tâm không hư phế thì người ấy có thể thấy hoa nở ngay, sáng

rực sắc vàng. Đài của hoa sen ấy là một đài bằng ngọc báu chân

thúc ca (Kimsuka), nhụy hoa làm bằng ngọc phạm ma ni (Brahma)

vi diệu, tua hoa làm bằng châu báu kim cương.”

“ Người ấy trông thấy các vị hóa Phật ngồi trên đài hoa

sen, có rất nhiều Bồ Tát ngồi trên tua hoa sen. Chỗ lông mày của vị

hóa Phật cũng phát ra ánh sáng sắc vàng nhập vào vòi voi, từ vòi voi

ra rồi vào trong mắt voi, từ trong mắt voi ra rồi vào trong tai voi, từ

trong tai voi ra rồi chiếu trên đỉnh đầu voi, hóa thành một đài vàng.

Trên đầu voi ấy có ba vị hóa nhân: một vị cầm một bánh xe vàng,

một vị cầm một viên ngọc phạm ma ni, và một vị cầm một chày kim

cang. Khi vị cầm chày giơ chày lên trỏ voi thì voi liền cất bước đi.

Voi không dẫm chân lên đất, nó bay lửng cách đất bảy xích, nhưng

lại để lại các dấu chân trên đất, trong các dấu chân ấy đều có in

hình trục bánh xe ngàn căm đầy đủ. Ở đầu mỗi trục bánh xe phát

sinh một hoa sen lớn, trên hoa sen này có một hóa tượng. Hóa tượng

này cũng có bảy chân bước theo sau voi lớn. Mỗi khi hóa tượng

nhấc chân hay hạ chân, bảy ngàn con voi xuất hiện, tất cả đều bước

theo chân voi lớn làm thành một đoàn tùy tùng.”

“Vòi của các voi có màu của hoa sen đỏ, phía trên có một

vị hóa Phật phóng ánh sáng từ giữa hai mày. Anh sáng này màu

vàng như đã tả trên. Nhập vào vòi voi, từ vòi ra rồi vào trong mắt

voi, từ mắt voi ra rồi lại vào tai voi, từ tai voi ra rồi lên đến đầu voi,

dần dần lên đến lưng voi, hóa thành cái yên bằng vàng có trang

hoàng bảy báu. Ở bốn bề yên là bốn trụ bảy báu. Các thứ báu trang

397 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

hoàng ở đấy tạo thành một đài báu. Trên đài này là một hoa sen bảy

báu. Tua sen do trăm thứ báu gồm thành. Đài hoa sen ấy là một viên

ngọc ma ni lớn.”

“ Trên đài có vị Bồ Tát ngồi kiết già tên là Phổ Hiền.

Thân ngài có màu bạch ngọc phát ra năm mươi loại tia sáng, các tia

sáng này có năm mươi loại màu sắc, tạo thành vầng sáng quanh đầu

ngài. Từ các lổ chân lông của ngài phát ra các tia sáng vàng. Chỗ

tận cùng các tia sáng có vô lượng vị hóa Phật, có chư vị Bồ Tát làm

quyến thuộc.”

“ Voi bước êm và chậm rãi, mưa hoa báu lớn, đến trước

hành giả, voi mở miệng. Các ngọc nữ đang ở trên ao tắm trên các

ngà voi tấu nhạc ca hát, âm thanh vi diệu, ca ngợi con đường chân

thật độc nhất của đại thừa.”

“ Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu này, hành giả vui mừng,

kính lễ, lại càng tụng đọc kinh điển thâm sâu, đảnh lễ chư Phật

khắp mười phương, lễ tháp đức Phật Đa Bảo và đức Phật Thích Ca

Mâu Ni, bái lạy Bồ Tát Phổ Hiền vá các đại Bồ Tát. Hành giả liền

phát nguyện:

“Nếu con đủ phước đức từ các đời trước, chắc chắn con

có thể gặp được ngài Phổ Hiền. Xin đấng phước lành rộng khắp thị

hiện cho con được thấy sắc thân của ngài.”

“ Sau khi đã phát nguyện, hành giả phải ngày đêm sáu

thời lễ bái chư Phật ở mười phương, thực hành pháp môn sám hối,

tụng đọc kinh đại thừa, suy nghĩ về ý nghĩa của đại thừa, nhớ niệm

đến các việc đại thừa, cung kính cúng dường những người thũ trì

đại thừa, nhìn đến tất cả mọi người như mình đang nghĩ đến Phật,

và đối đãi với các chúng sanh như mình đang nghĩ đến cha mẹ.”

“ Khi vị ấy nghĩ như thế xong, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ phóng

ngay một tia sáng từ vòng lông trắng giữa đôi mày tướng của bậc

398 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đại nhân. Khi tia sáng này xuất hiện, thân tướng của Bồ Tát Phổ

Hiền đoan nghiêm như núi vàng ròng, đoan chính, vi diệu, đầy đủ

ba mươi hai tướng tốt. Các lổ chân lông trên thân ngài sẽ phát ra

ánh sáng lớn chiếu vào vòi lớn ấy khiến voi có màu của vàng ròng.

Tất cả các hóa tượng cũng được khiến có màu của vàng và tất cả các

hóa Bồ Tát cũng được khiến có màu của vàng. Khi các tia sáng này

chiếu vào vô lượng thế giới ở phương đông, các thế giới này đều sẽ

được khiến có màu của vàng. Cũng vậy, các phương nam, tây, bắc ở

bốn phương, ở giữa, các phương trên và dưới cũng đều như vậy.”

“ Bấy giờ tại mỗi phương trong mười phương đều có một

Bồ Tát cỡi trên voi chúa trắng sáu ngà giống như Bồ Tát Phổ Hiền.

Cũng thế, bằng sức thần thông, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ có thể khiến cho

người trì kinh đại thừa nhìn thấy được các hóa tượng đầy khắp

mười phương.”

“Bấy giờ hành giả sẽ hoan hỷ cả thân và tâm khi nhìn

thấy chư Bồ Tát, sẽ đảnh lễ chư vị mà thưa rằng: “Bạch chư tôn đại

từ đại bi, xin hãy thương xót con mà giảng pháp cho con.”

“Khi hành giả ấy thưa như thế, tất cả chư Bồ Tát và các

vị khác tuy khác miệng nhưng sẽ đồng thanh giải thích pháp thanh

tịnh của các kinh đại thừa và sẽ nói kệ để tán thán hành giả ấy. Đây

gọi là cảnh giới tối sơ trong quán niệm đầu tiên về Bồ Tát Phổ

Hiền.”

“Bấy giờ hành giả chứng kiến sự việc ấy xong, một lòng

nhớ nghĩ đến đại thừa, ngày đêm không xả bỏ, thậm chí cả khi ngủ,

người ấy cũng sẽ có thể trông thấy ngài Phổ Hiền giảng pháp cho

mình trong mộng, giống như khi đang thức vậy. Bồ Tát sẽ an ủi tâm

người ấy, sẽ nhắc nhở người ấy và bảo rằng: “Ông đã quên câu này,

hoặc đã quên kệ này trong các kinh mà ông đã tụng, đã trì.” Rồi

hành giả nghe được nghĩa thú thâm sâu mà Bồ Tát Phổ Hiền giảng

giải, sẽ hiểu ý nghĩa và trì kinh mà không quên.”

399 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“ Vì hành giả ngày nào cũng cứ như thế, tâm người ấy sẽ

dần dần được lợi ích. Bồ Tát Phổ Hiền sẽ khiến hành giả ấy nhớ đến

chư Phật ở mười phương. Theo giáo lý của ngài Phổ Hiền, hành giả

sẽ chánh tâm, chánh ý, dần dần với con mắt tâm, hành giả sẽ thấy

chư Phật ở phương đông thân có màu vàng của vàng và rất đoan

nghiêm, vi diệu. Sau khi nhìn thấy một đức Phật, hành giả sẽ lại

thấy một đức Phật khác. Cứ như thế, vị ấy sẽ dần dần nhìn thấy tất

cả chư Phật khắp phương đông, và do tư duy linh lợi, vị ấy sẽ nhìn

thấy chư Phật ở khắp mười phương.”

“ Sau khi thấy chư Phật, hành giả hoan hỷ trong lòng và

bảo rằng: “Nhờ đại thừa, ta đã thấy được chư Đại sĩ. Nhờ sức của

chư Đại sĩ ta đã thấy được chư Phật. Tuy ta đã thấy chư Phật,

nhưng ta vẫn còn chưa thấy chư Phật thật rỏ ràng. Nhắm mắt thì ta

thấy chư Phật, nhưng khi mở mắt ra, ta lại không còn thấy chư

Phật.”

“ Sau khi bảo như thế, hành giả gieo thân xuống đất mà

đảnh lễ chư Phật ở mười phương. Đảnh lễ chư Phật xong, hành giả

nên quỳ xuống chắp tay mà tác bạch: “Bạch chư Phật! Thế Tôn có

mười lực vô úy (131)

, mười tám tính chất đặc biệt, đại từ, đại bi (132)

,

ba niệm xứ (133)

, là những bậc thường tại thế gian, có sắc tướng tối

thượng trong các sắc tướng! Do con có tội lỗi gì mà không được nhìn

thấy chư Phật?”Tác bạch như thế xong, hành giả lại càng sám hối

nhiều hơn. Sau khi người ấy thành tựu sự thanh tịnh của sám hối,

Bồ Tát Phổ Hiền lại sẽ xuất hiện trước mặt người ấy và luôn ở bên

cạnh người ấy, thậm chí sẽ còn thuyết pháp cho người ấy khi người

ấy đang nằm mơ. Sau khi tỉnh dậy, người ấy sẽ được hỷ lạc về pháp.

Cứ như thế, sau ba lần bảy ngày đêm, người ấy sẽ đắc Triền đà la

ni. Nhờ đạt được đà la ni này, người ấy sẽ giữ mãi trong trí óc,

không quên Diệu Pháp mà chư Phật và Bồ Tát đã giảng. Trong

những giấc mơ, người ấy sẽ luôn nhìn thấy bảy vị Phật của quá khứ,

trong đó chỉ riêng đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ giảng pháp cho

người ấy.”

400 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Chư Thế Tôn này đều xưng tán kinh điển đại thừa. Bấy

giờ hành giả lại sám hối thêm nữa và lễ bái chư Phật ở khắp mười

phương. Bồ Tát Phổ Hiền đứng trước mặt người ấy, sẽ giảng dạy

cho người ấy về tất cả nghiệp và duyên của các đời trước của người

ấy, và sẽ khiến người ấy phát lồ tất cả các tội lỗi hắc ám, xấu ác đã

mắc phải.”

“ Hướng đến chư Phật, người ấy cần phải tự miệng mình

phát lồ các tội lỗi của mình.”

“ Sau khi đã phát lồ tội lỗi của mình, người ấy sẽ đạt

được tam muội chư Phật hiện tiền. Đạt tam muội này xong, người

ấy sẽ nhìn thấy đức Phật A Súc (Akshobhya) và quốc độ Diệu Hỷ

của ngài ở phương đông một cách rỏ ràng, tinh tường. Cũng như

thế, người ấy sẽ nhìn thấy rỏ ràng, tinh tường các quốc độ kỳ diệu

của chư Phật ở mười phương. Người ấy sẽ nằm mơ thấy rằng: Một

vị Kim cang cỡi trên đầu voi dùng chày kim cang trỏ vào sáu căn.

Trỏ vào sáu căn xong, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ giảng cho hành giả cách

sám hối để có được sự thanh tịnh của sáu căn. Vị ấy sám hối như

vậy trong một ngày, hoặc ba lần bảy ngày. Sau đó nhờ sức tam muội

chư Phật hiện tiền và nhờ sự trang nghiêm của sự việc Bồ Tát Phổ

Hiền thuyết pháp, tai của hành giả dần dần nghe được các âm thanh

mà không bị chướng ngại, và mũi sẽ dần dần ngữi được các mùi mà

không bị chướng ngại.”

“ Đây được giảng rộng như ở kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

“ Sau khi đạt được sự thanh tịnh của sáu căn, người ấy có

được sự hoan hỷ về thân và tâm, không có các tướng xấu ác, tâm

thuần với pháp này, tương hợp với pháp này. Người ấy sẽ đạt được

trăm nghìn vạn ức Triên đà la ni và sẽ được rộng thấy trăm nghìn

vạn ức vô lượng chư Phật. Các đức Thế Tôn đều dùng tay phải mà

xoa đầu hành giả và dạy rằng: “Hay thay! Hay thay! Ông là một

hành giả của đại thừa, một người phát tâm đại trang nghiêm và là

một người trì giữ đại thừa trong tâm. Ngày xưa khi chúng ta phát

401 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

tâm bồ đề, chúng ta cũng giống như ông vậy, chuyên cần, không bỏ

bê. Do đã thực hành đại thừa trong các đời trước, nên nay chúng ta

thành tựu thân thanh tịnh chánh biến tri. Nay ông hãy chăm chỉ tu

tập, chớ biếng lười. Các kinh đại thừa này là kho báu của chư Phật,

là mắt của chư Phật ở mười phương trong quá khứ, hiện tại và

tương lai và cũng là hạt giống sản sinh ra chư Phật trong ba đời ấy.

Người trì các kinh này chính là trì thân của Phật, làm việc của

Phật.”

“ Nên biết rằng người ấy chính là sứ đồ của chư Phật,

được khoác áo của chư Phật, chư Thế Tôn. Ông hãy thực hành đại

thừa và chớ cắt đứt hạt giống Pháp. Nay ông hãy quán kỷ chư Phật

ở phương đông.”

“Khi chư Phật dạy như thế, hành giả liền thấy tất cả vô

lượng thế giới ở phương đông, đất bằng thẳng như bàn tay, không

có gò, đồi hay gai gốc, trái lại đất bằng lưu ly và đường lát vàng. Các

thế giới ở mười phương cũng lại như thế.”

“ Sau khi đã chứng kiến sự việc này, hành giả sẽ nhìn

thấy một cây báu, cây cao quí, kỳ diệu, cao năm ngàn do tuần. Cây

này luôn sản sinh vàng ròng và ngọc trắng và sẽ được trang hoàng

bằng bảy báu; dưới cây tự nhiên có một tòa sư tử, tòa sư tử ấy cao

hai ngàn do tuần và trên tòa phát ra ánh sáng của trăm thứ báu.

Cũng như vậy, từ tất cả các cây có các tòa báu khác và mỗi tòa sẽ lộ

ra năm trăm con voi trắng, trên đó tất cả Phổ Hiền Bồ Tát ngồi cỡi.”

“ Bấy giờ hành giả lễ bái tất cả chư Phổ Hiền và nên bảo

rằng: “Con có tội lỗi gì mà chỉ thấy được đất báu, đài báu và cây

báu nhưng không thấy được chư Phật?”

“ Khi tác bạch như thế xong, hành giả sẽ thấy rằng trên

mỗi tòa báu đều có một đức Thế Tôn đang ngồi đoan nghiêm, vi

diệu. Nhìn thấy chư Phật xong, hành giả sẽ rất vui mừng, lại càng

tụng đọc và tu tập các kinh điển đại thừa. Do năng lực của đại thừa,

402 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

từ không trung có tiếng ca ngợi rằng: “Hay thay! Hay thay! Thiện

nam tử! Do công đức thực hành đại thừa, nên ông có thể nhìn thấy

được chư Phật. Nay tuy ông có thể nhìn thấy chư Phật Thế Tôn,

nhưng ông chưa thể nhìn thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chưa thể

nhìn thấy chư Phật phân thân từ ngài và tháp của đức Phật Đa

Bảo.”

“ Sau khi nghe tiếng ấy từ không trung phát ra, hành giả

sẽ lại càng tụng đọc và tu tập các kinh điển đại thừa. Do tụng đọc và

tu tập các kinh điển đại thừa phương quảng nên ngay cả trong các

giấc mơ, người ấy cũng sẽ thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang ở

tại núi Kỳ xà quật cùng với đại chúng thuyết giảng kinh Pháp Hoa,

diễn giải ý nghĩa của cái chân thật duy nhất.

“ Sau khi nghe giảng về sám hối và khát khao mong mõi

được nhìn thấy đức Phật, người ấy cần chắp tay, quỳ xuống hướng

về núi Kỳ xà quật và tác bạch: “Bạch đức Như Lai, đấng Đại hùng

của thế gian, thường tại thế gian! Xin rũ lòng thương xót con mà

hiện thân cho con được trông thấy.”

“ Tác bạch như thế xong, người ấy sẽ thấy núi Kỳ xà quật

được trang hoàng bằng bảy thứ báu và đầy cả vô số tỳ kheo, thanh

văn và một đại chúng, nơi này có các cây báu xếp thành hàng và đất

báu thì bằng phẳng, có một tòa sư tử quí báu và vi diệu. Trên tòa có

đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ánh sáng giữa đôi mày chiếu sáng

khắp suốt mọi thế giới ở mười phương. Chư Phật phân thân từ đức

Phật Thích Ca Mâu Ni ở mười phương mà ánh sáng ấy chiếu đến

vân tập lại cùng một lúc và rộng giảng diệu pháp như được nêu

trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị Phật phân thân này có thân

vàng ròng, thân hình lớn vô biên, ngồi trên tòa sư tử được trăm ức

vô lượng đại Bồ Tát làm quyến thuộc, Các vị Bồ Tát này có hạnh

giống như hạnh của ngài Phổ Hiền. Quyến thuộc của vô lượng chư

Phật, chư Bồ Tát ở mười phương cũng như vậy.”

403 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“ Khi đại chúng đã vân tập, chư vị sẽ thấy đức Phật

Thích Ca Mâu Ni phóng các tia sáng có màu của vàng từ các lổ chân

lông trên toàn thân ngài. Trong mỗi tia sáng này đều có một trăm ức

hóa Phật. Chư Phật phân thân sẽ phóng các tia sáng từ chòm lông

trắng, tướng của bậc đại nhân, các tia này lưu chuyễn vào đỉnh đầu

đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chứng kiến cảnh trạng này, chư Phật

phân thân cũng sẽ phóng các tia sáng có màu sắc của vàng từ các lổ

chân lông trên thân chư vị, trong mỗi tia sáng có các vị hóa Phật

nhiều như bụi cát sông Hằng.”

“ Bấy giờ Bồ Tát Phổ Hiền sẽ lại phóng ánh sáng từ giữa

đôi mày, tướng của bậc đại nhân, đưa vào tâm của hành giả. Sau khi

ánh sáng này vào tâm hành giả, người này sẽ nhớ lại trong thời của

vô lượng trăm ngàn đức Phật trong quá khứ, người ấy đã thọ trì

tụng đọc kinh đại thừa và người ấy sẽ thấy rỏ ràng, tinh tường các

đời trước của mình chẳng khác gì người ấy đã có các thần thông

như túc mạng thông (134)

.

“ Khoát nhiên đại ngộ, người ấy sẽ đắc Triền đà la ni và

trăm ngàn vạn ức đà la ni. Xuất khỏi định, người ấy sẽ thấy trước

mặt mình có tất cả các đức Phật phân thân đang ngồi trên các tòa sư

tử dưới các cây báu. Người ấy cũng sẽ thấy đất lưu ly từ hư không

phía dưới vọt lên giống như những khóm sen, giữa mỗi hoa có chư

Bồ Tát nhiều như bụi nhỏ đang ngồi kiết già. Người ấy cũng sẽ thấy

chư Bồ Tát phân thân từ Bồ Tát Phổ Hiền đang ca ngợi đại thừa

trong chúng hội của chư vị.

“ Bấy giờ chư Bồ Tát mỗi người một miệng nhưng đồng

thanh âm sẽ khiến hành giả thanh tịnh sáu căn.”

“Có vị sẽ bảo rằng: “Ông nên niệm Phật.”

“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Pháp.”

“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Tăng.”

“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Giới.”

“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Thí.”

404 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Có vị sẽ bảo: “Ông nên niệm Thiên.”

“ Và chư Bồ Tát sẽ giảng thêm rằng: “Sáu pháp này là

tâm bồ đề, là những pháp sinh ra chư Bồ Tát. Nay trước mặt chư

Phật, ông nên phát lồ các tội lỗi đã phạm trước kia và chí thành sám

hối.”

SÁM HỐI CON MẮT.

“ Trong vô lượng đời trước, do nhãn căn ông đã tham

trước các sắc tướng. Do tham trước các sắc tướng, ông tham ái các

bụi trần. Do tham ái các bụi trần ông mang thân của người nữ và

đắm mình vào sắc tướng khắp mọi chốn mà ông thọ sinh từ đời này

sang đời khác. Sắc tướng làm hại mắt ông, khiến ông trở thành kẻ

nô lệ của ân ái. Do đó mà sắc tướng làm cho ông lang thang khắp ba

cõi. Điều tệ hại này khiến ông mù quáng chẳng thấy gì cả. Nay ông

đã tụng các kinh Phương quảng đại thừa. Trong các kinh này, chư

Phật ở mười phương giãng rằng sắc thân của chư vị là bất diệt. Nay

ông có thể nhìn thấy được chư vị ấy – chẳng thực như thế sao?”

“ Nhãn căn xấu ác thường gây hại nhiều cho ông. Vâng,

theo lời ta ông phải quy y chư Phật và đức Phật Thích Ca Mâu Ni

và phát lồ các tội lỗi do mắt gây nên. Và ông phải tác bạch như thế

này: ”Pháp thủy của tuệ nhãn của chư Phật và chư Bồ Tát! Xin

dùng nước của pháp này mà rửa sạch mắt của con, khiến con được

thanh tịnh.”

“ Sau khi nói như thế, hành giả phải bái lạy khắp chư

Phật ở mười phương, hướng về đức Phật Thích Ca Mâu Ni và các

kinh điển đại thừa và nói rằng: “Các trọng tội thuộc nhãn căn của

con mà nay con sám hối là những chướng ngại và ô uế đến nỗi làm

cho con mù quáng không thể thấy được gì cả. Xin đức Phật từ bi

thương xót và che chở con! xin Bồ Tát Phổ Hiền trên thuyền đại

405 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

pháp cứu độ khắp tất cả, cùng vô lượng Bồ Tát ở mười phương của

ngài, thương xót mà hãy cho con nghe pháp sám hối các tội lỗi xấu

ác, nghiệp chướng.”

“ Nói như thế ba lần, hành giả phải sụp dưới đất, chánh

niệm đại thừa tâm không bỏ quên. Đây gọi là pháp sám hối tội lỗi về

mắt. Nếu có ai xưng danh chư Phật, đốt hương, rải hoa, phát ý đại

thừa, treo lụa, phướng, lọng, nói lên những lầm lỗi của mắt, sám hối

tội lỗi của mình thì người ấy ngay trong đời hiện tại sẽ nhìn thấy

đức Phật Thích Ca Mâu Ni và vô lượng đức Phật phân thân từ ngài,

suốt a tăng kỳ kiếp sẽ không bị rơi vào đường ác. Nhờ năng lực và

hạnh nguyện của đại thừa, người ấy sẽ trở thành quyến thuộc của

chư Phật cùng với hết thảy chư Bồ Tát đà la ni. Ai tư duy như thế,

người ấy là người có chánh niệm. Nếu ai tư duy khác đi, thì gọi là

người có tà niệm. Đây là tướng trạng của giai đoạn thứ nhất của sự

thanh tịnh nhãn căn.”

“ Sau khi thanh tịnh nhãn căn, hành giả sẽ đọc tụng các

kinh đại thừa nhiều hơn nữa, ngày đêm sáu thời quỳ mà sám hối và

nên bảo rằng: “Tại sao ta chỉ trông thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni

và chư Phật phân thân từ ngài mà lại không thể trông thấy xá lợi

của toàn thân đức Phật trong tháp của đức Đa Bảo Như Lai? Tháp

của đức Phật Đa Bảo vẫn mãi tồn tại không bị hủy diệt. Ta vì có mắt

dơ bẩn, xấu ác nên không thể nhìn thấy tháp ấy.”

“ Sau khi nói như thế, hành giả lại càng phải thực hành

sám hối thêm nữa. Sau bảy ngày sám hối của người ấy sẽ được đền

đáp như sau: “Sau bảy ngày, tháp của đức Phật Đa Bảo từ đất vọt

lên. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ dùng tay phải mở cửa tháp, trong

tháp có đức Phật Đa Bảo nhập tam muội Phổ Hiện Sắc Thân. Từ

mỗi lổ chân lông của ngài phát ra những tia sáng nhiều như bụi của

các sông Hằng. Trong mỗi tia sáng có trăm ngàn vạn ức vị hóa Phật.

Khi tướng trạng ấy xuất hiện, hành giả sẽ vui mừng, nói kệ ca ngợi

mà nhiễu quanh tháp bảy lần. Khi người ấy đã đi quanh tháp bảy

lần, đức Như Lai Đa Bảo cất tiếng ca ngợi người ấy: “Này Pháp tử!

406 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nay quả thực ông đã thực hành được pháp đại thừa và đã vâng theo

ngài Phổ Hiền mà sám hối các tội lỗi về nhãn căn. Vì lý do ấy, ta đến

đây mà chứng minh cho ông.” Nói thế xong đức Như Lai Đa Bảo ca

ngợi: “Hay thay! Hay thay! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài có thể

thuyết giảng đại pháp, tưới mưa đại pháp, khiến cho mọi chúng

sanh bị ô nhiễm thành tựu Phật tính của họ.”

SÁM HỐI LỔ TAI.

“ Bấy giờ, hành giả sau khi nhìn thấy tháp của đức Phật

Đa Bảo, lại đến chỗ Bồ Tát Phổ Hiền, chấp tay kính lễ mà tác bạch:

“Bạch Đại sư! Xin ngài chỉ dạy cho con sám hối các lỗi lầm về nhĩ

căn.”

“ Ngài Phổ Hiền lại bảo hành giả: “Trải qua nhiều kiếp,

nhĩ căn ông cứ đeo đuổi âm thanh bên ngoài, khi ông nghe được âm

thanh vi diệu thì tâm sinh cảm luyến, khi ông nghe âm thanh xấu ác

thì tâm khởi lên một trăm lẻ tám phiền não. Hậu quả ấy của sự việc

ông nghe các âm thanh xấu ác tạo ra các điều xấu ác và việc ông cứ

mãi nghe các âm thanh xấu ác sản sinh nhiều phiền toái khác nhau.

Do sự nghe điên đảo của ông, ông sẽ rơi vào các đường xấu, vào các

nơi xa xôi đầy tà kiến, tại đấy, người ta không thể nghe được chánh

pháp. Ngày nay ông đã tụng và trì đại thừa vốn là kho chứa vô biên

các công đức. Do như vậy, ông đã trông thấy chư Phật ở mười

phương và tháp của đức Phật Đa Bảo xuất hiện đã xác chứng cho

ông. Ông phải tự mình thố lộ những sai lầm, những thứ xấu ác của

chính ông và phải sám hối tất cả tội lỗi của ông.”

“ Khi hành giả nghe như vậy thì phải càng nên chắp tay,

rạp mình xuống đất lễ bái và tác bạch: “Bạch đức Thế Tôn Chánh

biến Tri! Xin ngài hiện thân mà chứng minh cho con! Các kinh

Phương Quảng là những vị chủ đạo về từ bi. Xin ngài quán xét con

407 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

mà nghe những lời nói của con. Con từ nhiều kiếp đến nay, do bởi

nhĩ căn của con, con đã bị ràng buộc vào các âm thanh xấu ác, giống

như keo dính vào cỏ. Sự việc con nghe các âm thanh xấu ác tạo ra

chất độc phiền não ràng buộc với mọi hoàn cảnh và con không thể

ngưng nghĩ trong phút chốc nào được. Sự việc con tạo nên các âm

thanh xấu ác làm mệt mỏi tinh thần con và khiến con rơi vào ba

đường xấu ác. Nay con mới hiểu được điều ấy. Con xin hướng đến

chư Thế Tôn mà phát lồ sám hối.”

“ Sau khi sám hối như thế, hành giả sẽ thấy đức Phật Đa

Bảo phóng một tia sáng lớn có màu của vàng chiếu khắp phương

đông cũng như khắp thế giới ở mười phương. Tại đấy vô lượng chư

Phật xuất hiện với thân có màu vàng ròng. Ở phương đông, trên

không trung có tiếng vang lên: “Đây là một vị Phật, hiệu là Thiện

Đức, cũng có vô số Phật phân thân đang ngồi kiết già trên các tòa sư

tử dưới các cây báu. Tất cả các đức Thế Tôn ấy nhập vào tam muội

Phổ Hiện Sắc Thân, đều nói lời tán thán hành giả rằng: “Hay thay!

Hay thay! Thiện nam tử! Nay ông đã đọc tụng các kinh điển đại

thừa, những gì ông đã tụng là cảnh giới của Phật.”

“ Sau khi sám hối như thế, hành giả càng thanh tịnh thân

mình nhiều hơn và biết chắc được rằng mình đang theo con đường

đưa đến cảnh giới tâm linh của một vị Phật, Bồ Tát Phổ Hiền

khuyến khích hành giả thực hành sám hối nhiều hơn nữa.”

SÁM HỐI LỔ MỦI.

“ Sau khi những lời ấy được nói lên, Bồ Tát Phổ Hiền sẽ

lại giảng thêm cho hành giả về pháp sám hối: “Trong vô lượng đời

trước của ông, do ông tham trước vào các mùi hương, nên sự phân

biệt và nhận thức của ông bị ràng buộc vào mọi hoàn cảnh và ông bị

408 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

rơi vào sanh tử. Nay ông nên quán về nguyên nhân của đại thừa.

Nguyên nhân của đại thừa là thực tướng của các pháp.”

“ Nghe được như thế, hành giả cần phải sụp mình xuống

đất mà sám hối nhiều hơn nữa. Sau khi sám hối, người ấy nên tác

bạch rằng: ”Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam mô Đa Bảo Phật

tháp! Nam mô thập phương Thích Ca Mâu Ni Phật phân thân chư

Phật!”

“ Sau khi tác bạch như thế, vị ấy cần lễ bái khắp chư Phật

ở mười phương “Nam mô Đông Phương Phổ Đức Phật!” và đảnh lễ

chư Phật phân thân từ đức Phật Phổ Đức. Hành giả phải dốc lòng lễ

bái chư Phật ấy như chính mắt mình đang nhìn thấy chư vị và cúng

dường chư vị bằng hoa, hương. Sau khi lễ bái chư Phật ấy, vị ấy

phải chắp tay quỳ xuống tán thán chư Phật bằng nhiều bài kệ khác

nhau. Tán thán xong, vị ấy phải nói về mười nghiệp ác và sám hối

mọi tội lỗi của mình. Sám hối xong, vị ấy nên tác bạch: “Suốt vô

lượng kiếp của các đời trước của con, con đã tham đắm hương, vị,

xúc, đã tạo nhiều thứ nghiệp xấu ác. Do thế nên trong vô lượng đời

trước đến nay, con luôn phải mang những cái thân xấu ác ở các cõi

địa ngục, quỉ đói, súc sanh, chốn xa xôi của những tà kiến. Hôm nay

con xin phát lồ những nghiệp xấu ác ấy, con xin quy hướng chư

Phật, những vị vua của chánh pháp, xin nói ra các tội lỗi của con và

xin sám hối.”

SÁM HỐI CÁI LƯỠI.

“ Sám hối như thế xong, thân và tâm không biếng lười,

hành giả lại càng phải đọc tụng các kinh điển đại thừa. Do năng lực

của đại thừa, từ không trung có âm thanh vang lên: “Này Pháp tử!

Nay ông nên ca ngợi và thuyết giảng đại thừa, hướng đến chư Phật

ở mười phương và tự nói lên những lỗi lầm của mình trước mặt chư

409 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

vị ấy. Chư Phật, chư Như Lai là những đấng từ phụ của ông. Sau

đây Ông nên tự hỏi về những nghiệp xấu ác do thiệt căn gây nên.”

“ Nghe lời dạy như vậy, hành giả cần phải cúi rạp mình

xuống đất, đảnh lễ chư Phật mười phương và tác bạch: “Thiệt căn

này bị tác động bởi các nghiệp xấu ác khiến con nói bậy, nói thêu

dệt, ác khẩu, nói lời hai lưỡi, phỉ báng, nói dối, tán thán tà kiến, nói

lời vô ích. Do nhiều nghiệp xấu ác phức tạp như vậy, con đã gây ra

những đấu tranh bất đồng và con đã nói pháp thành ra không phải

pháp. Nay con xin sám hối tất cả những tội lỗi ấy của con. Các lỗi

lầm về việc nói năng này thì vô lượng vô biên. Tất cả gai của ác

nghiệp từ thiệt căn phát sinh ra, bánh xe chánh pháp bị cắt đứt do

bởi thiệt căn này. Thiệt căn này cắt đứt các hạt mầm của công đức.

Sự thuyết giảng những điều vô nghĩa thường bị áp đặt vào những

ngừơi khác. Ca ngợi tà kiến cũng giống như thêm củi vào lửa, như

càng làm hại chúng sanh vốn đã khổ vì bị lửa cháy mạnh. Đấy cũng

giống như người chết vì uống thuốc độc không để lộ vết thương hay

mụt nhọt. Kết quả của những tội lỗi như thế là ác, tà, bất thiện và

khiến cho con phải rơi vào các ác đạo suốt trăm kiếp, ngàn kiếp. Nói

dối khiến con phải rơi vào địa ngục lớn. Nay con quy hướng chư

Phật ở phương Nam mà phát lồ các sai lầm, tội lỗi của con.”

“ Khi hành giả suy nghĩ như thế, từ hư không sẽ có một

âm thanh vang lên: “Ở phương Nam có một đức Phật tên là Chiên

Đàn Đức. Đức Phật này cũng có vô lượng vị Phật phân thân. Tất cả

chư Phật này đều giảng đại thừa và diệt trừ tội lỗi xấu ác. Nay

hướng về vô lượng chư Phật và chư Thế Tôn đại từ đại bi, ông phải

phát lồ những tội lỗi, sai lầm và thành tâm sám hối.”

“ Nghe nói như vậy, hành giả lại nên sụp mình xuống đất

và lễ lạy chư Phật.”

“ Khi ấy chư Phật sẽ phóng ánh sáng chiếu vào thân hành

giả, khiến thân và tâm của hành giả tự nhiên hoan hỷ, khởi lòng đại

từ bi, nhớ tưởng đến tất cả mọi sự. Bấy giờ chư Phật sẽ rộng giảng

410 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

cho hành giả về pháp đại từ bi, hỷ xả và cũng dạy cho hành giả nói

lời nhu ái, thực hành sáu hòa kính. Thế rồi hành giả sau khi nghe lời

phán dạy ấy, tâm rất vui mừng, sẽ lại càng tụng đọc và tu tập lời

dạy ấy, không biếng lười, ngưng nghĩ.”

SÁM HỐI THÂN, TÂM.

“Từ hư không lại có âm thanh vi diệu vang lên: “Nay ông

nên thực hành sám hối về thân và tâm. Các tội lỗi về thân là sát

sanh, trộm cắp, tà dâm. Trong khi đó các tội lỗi về tâm là suy nghĩ

những điều xấu ác. Tạo ra mười nghiệp xấu ác và năm tội vô gián

thì giống như khỉ, vượn, như keo nhựa dính mắc tham trước vào

mọi chỗ, đến khắp sáu căn của chúng sanh hửu tình. Các nghiệp của

sáu căn này cùng với nhánh, cành, hoa, lá của chúng đầy khắp hai

mươi lăm trú xứ (135)

, khắp mọi nơi có chúng sanh sinh ra. Các

nghiệp ấy cũng làm tăng trưởng mười hai sự khổ (136)

gồm từ vô

minh cho đến lão tử, tám tà (137),

tám nạn (138)

, không thứ nào là

không trải qua. Nay ông nên sám hối về các nghiệp xấu ác như thế.”

“ Hành giả nghe được như thế xong liền hỏi âm thanh ở

không trung ấy rằng: “Nay con có thể thực hành pháp sám hối tại

chỗ nào?”

“ Âm thanh ở không trung liền đáp: “Đức Phật Thích Ca

Mâu Ni được gọi là Tỳ Lô Gía Na Biến Nhứt Thiết Xứ và nơi ở của

ngài tên là Thường Tịch Quang, nơi này được hình thành bởi Ba la

mật Thường Hằng và được an lập bởi Ba la mật Tự Ngã, là nơi của

Ba la mật Diệt Thọ tưởng, là nơi mà Ba la mật Tịnh lạc diệt tướng

trạng của hửu và là nơi không thấy tướng trạng của các pháp Hửu

và Vô, là nơi của giải thoát tịch tịnh Ba la mật Trí tuệ. Vì đấy là

pháp thường hằng. Ông nên quán niệm chư Phật ở mười phương.”

411 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“ Bấy giờ chư Phật ở mười phương mỗi vị đều duỗi tay

phải xoa đầu hành giả mà dạy: “Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử!

Vì ông đã tụng đọc kinh đại thừa nên chư Phật ở mười phương sẽ

giảng pháp sám hối. Những gì chư Bồ Tát làm không phải là dứt

đoạn phiền não, cũng không trụ vào biển phiền não. Hãy quán tâm

là vô tâm. Tâm từ cái tướng điên đảo ấy mà khởi thì đấy chỉ là cái

tâm của tưởng điên đảo ấy. Tâm từ cái tưởng hư vọng mà khởi thì

đấy cũng như gió trên không trung không có chỗ tựa, chỗ dừng.

Những tướng trạng của pháp như thế thì không sinh, không diệt,

vậy cái gì là tội lỗi? Cái gì là phước đức? Tâm ta tự nó không thì tội

lỗi và phước đức cũng không có. Tất cả các pháp cũng như thế,

không ổn trụ, cũng không hư hoại. Hãy quán tâm là vô tâm, pháp

không trụ trong pháp. Các pháp đều là giải thoát, là diệt đế, tịch

tịnh. Suy tưởng như thế gọi là sư sám hối lớn lao, là sự sám hối

trang nghiêm, là sự sám hối không có tướng trạng của tội lỗi và là sự

phá hoại cái tâm phân biệt.”

“ Người thực hành sự sám hối này có thân và tâm thanh

tịnh, không bị gắn chặt vào pháp, giống như dòng nước vậy. Trong

từng ý nghĩ, người ấy đều được thấy Bồ Tát Phổ Hiền và chư Phật ở

mười phương.”

“ Bấy giờ chư Thế Tôn phóng ánh sáng đại từ bi thuyết

giảng pháp vô tướng cho hành giả. Hành giả nghe chư Thế Tôn

thuyết giảng về cái Không đệ nhất nghĩa (139)

. Khi hành giả nghe

xong, tâm không sợ hãi, ngay đó liền nhập vào địa vị của Bồ Tát.”

“ Đức Phật bảo ngài A Nan: “Thực hành như thế gọi là

sám hối. Đây là phép sám hối mà chư Phật ở mười phương và chư

Đại Bồ Tát đã thực hành. Sau khi đức Phật diệt độ, nếu các đệ tử

của đức Phật sám hối các nghiệp xấu ác của mình thì họ chỉ cần

tụng đọc kinh điển đại thừa. Các kinh Phương Đẳng này là mắt của

chư Phật.”

412 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“ Do các kinh này mà chư Phật có được năm loại mắt (140)

.

Ba loại thân (141)

của đức Phật cũng phát sinh từ các kinh Phương

Đẳng. Đây là pháp ấn to lớn, ấn vào biển Niết Bàn. Ba loại thân

thanh tịnh của đức Phật được sinh ra trong biển này. Ba loại thân

này của đức Phật là ruộng phước của Trời và Người và là thứ vô

thượng, đáng cúng dường.”

“ Nếu có ai tụng đọc các kinh Phương Đẳng đại thừa thì

ông nên biết rằng người ấy được các công đức của đức Phật, những

xấu ác vĩnh viễn bị tiêu diệt và người ấy được sinh ra từ trí huệ của

đức Phật.”

“ Bấy giờ đức Thế Tôn lập lại ý chính của giáo lý bằng

bài kệ:

Ai xấu ác về mắt

Nghiệp chướng mắt bất tịnh

Hãy nên tụng đại thừa

Suy nghĩ nghĩa thứ nhất

Đấy là sám hối mắt

Để dứt mọi nghiệp xấu

Tai nghe tiếng rối loạn

Phá rối nghĩa hòa hợp

Do đó khởi cuồng loạn

Như khỉ vượn ngu ngốc

Hãy nên tụng đại thừa

Quán pháp không vô tướng

Dứt mãi mọi xấu ác

Tai trời nghe mười phương

Mũi ngữi các mùi hương

Do nhiễm xúc gíac khởi

Như thế mũi nhiễm ô

Do nhiễm bụi trần sinh

Nếu tụng kinh đại thừa

Quán pháp là chân thật

413 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nghiệp xấu mãi xa lìa

Đời sau chẳng sinh lại

Thiệt căn khởi năm thứ

Ac khẩu, nghiệp bất thiện

Nếu muốn kiểm soát chúng

Phải cố tu lòng từ

Quán pháp nghĩa chân tịch

Không có tướng phân biệt

Ý tưởng như khỉ vượn

Chẳng có lúc tạm ngưng

Nếu muốn khuất phục nó

Phải chăm tụng đại thừa

Niệm thân Phật Đại Giác

Và năng lực, vô úy

Thân là chủ các căn

Như bụi chuyễn theo gió

Lang thang trong sáu giặc

Tự do không chướng ngại

Nếu muốn diệt ác này

Xa rời mãi trần lao

Trú mãi thành Niết Bàn

An lạc tâm bình lặng

Phải tụng kinh đại thừa

Niệm mẹ (142)

của Bồ Tát

Vô lượng cách thiện xão

Do quán thực mà được

Sáu thứ đã nêu ấy

Gọi là sáu tình căn

Biển của mọi nghiệp chướng

Đều sanh từ vọng tưởng

Nếu ai muốn sám hối

Ngồi thẳng niệm thực tướng

Mọi tội như sương, móc

Mặt trời trí làm tan

414 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Vì thế cần dốc lòng

Sám hối sáu tình căn (143)

.

“ Nói kệ xong, đức Phật lại bảo ngài A Nan: “Nay ông

nên thọ trì phương pháp sám hối về lục căn của Bồ Tát Phổ Hiền,

rồi đem giảng rỏ, phổ biến khắp chư thiên trong vũ trụ và loài

người. Sau khi đức Phật diệt độ, nếu các đệ tử của đức Phật thọ trì

tụng đọc và thuyết giảng các kinh Phương Đẳng thì nên tại chỗ yên

tịnh, hoặc chỗ nghĩa địa, hoặc dưới cội cây, hoặc chốn a lan nhã

(Aranya) (144)

, đọc tụng các kinh Phương Đẳng, nghĩ đến ý nghĩa đại

thừa. Do sức niệm tưởng mạnh mẻ, họ có thể thấy Ta, thấy tháp của

đức Phật Đa Bảo, vô lượng chư Phật phân thân ở mười phương, Bồ

Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát

Dược Thượng.”

“Do họ cung kính pháp nên chư Phật và chư Bồ Tát ấy

đứng giữa không trung, cầm các thứ hoa vi diệu mà tán thán, kính

lễ người hành trì Phật pháp. Do họ chỉ tụng các kinh Phương Đẳng

đại thừa, chư Phật và chư Bồ Tát sẽ ngày đêm cúng dường những ai

thủ trì pháp.”

“Ta cũng như chư Bồ Tát trong hiền kiếp và chư Phật ở

mười phương, nhờ nghĩ đến ý nghĩa chân thực của đại thùa nên nay

đã sạch hết mọi tội lỗi của sinh tử trong suốt trăm vạn ức a tăng kỳ

kiếp. Nhờ pháp sám hối thắng diệu này mà nay chúng ta mỗi vị đều

thành Phật. Nếu ai muốn chóng đạt trí tuệ tối thượng và muốn ngay

trong đời hiện tại thấy được chư Phật ở mười phương cùng Bồ Tát

Phổ Hiền, người ấy phải tắm gội cho sạch sẻ, mặc áo sạch sẻ, thắp

hương quý, tại chỗ thanh vắng, cần phải tụng đọc các kinh đại thừa

và nghĩ đến ý nghĩa của đại thừa. Nếu có những chúng sanh muốn

quán Bồ Tát Phổ Hiền thì nên quán như thế. Quán như thế gọi là

chánh quán. Nếu quán khác đi thì đấy gọi là tà quán.”

“Sau khi Phật diệt độ, hàng đệ tử của Phật vâng theo lời

Phật dạy mà thực hành sám hối, thì nên biết rằng những người ấy

415 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

đang thực hành hạnh Phổ Hiền. Những ai thực hành hạnh Phổ Hiền

thì không thấy các tướng ác, nghiệp ác. Nếu có chúng sanh nào ngày

đêm sáu thời lễ bái chư Phật ở mười phương, tụng kinh đại thừa, tư

duy về pháp thẩm sâu của đệ nhất nghĩa thì chỉ trong thời gian búng

ngón tay, những người ấy sẽ tiêu trừ hết mọi tội lỗi của sinh tử đã có

trong suốt trăm vạn ức a tăng kỳ kiếp. Người thực hành hạnh này là

nam tử thực sự của đức Phật, từ chư Phật mà sinh ra. Chư Phật ở

mười phương và chư Bồ Tát đều là Hòa thượng của người ấy. Đấy

gọi là người thành tựu đầy đủ giới của chư Bồ Tát. Không cần phải

qua nghi thức Yết ma (145)

, tự nhiên người ấy cũng thành tựu địa vị

Bồ Tát, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của tất cả Trời và

Người.”

“Lúc ấy hành giả muốn thành tựu Bồ Tát giới, vị ấy phải

chắp tay tại một nơi thanh vắng, lễ bái chư Phật ở mười phương mà

sám hối tội lỗi của mình. Sau đó tại mộtnơi yên tỉnh, vị đó phải bạch

chư Phật ở mười phương rằng: “Kính bạch Phật Thế Tôn thường

trụ ở thế gian! Do nghiệp chướng, tuy tin vào các kinh Phương

đẳng, con vẫn không thể thấy được chư Phật. Nay con quy y chư

Phật. Con xin Thế Tôn Chánh Biến Tri Thích Ca Mâu Ni làm Hòa

Thượng truyền giới cho con. Bạch ngài Văn Thù Sư Lợi đầy đủ trí

tuệ lớn! Xin ngài dùng trí tuệ mà truyền cho con pháp của chư Bồ

Tát thanh tịnh. Bạch Bồ Tát Di Lặc, mặt trời từ bi lớn lao và cao cả!

Xin ngài vì lòng thương xót con mà cho con được thọ nhận pháp của

chư Bồ Tát. Bạch chư Phật ở mười phương, xin chư Phật hiện thân

mà chứng giám cho con! Bạch chư Đại Bồ Tát, xin chư vị mỗi vị

xưng danh của mình, là những bực đại sĩ cao cả che chở cho chúng

sanh, hộ trợ cho chúng con.”

“Ngày nay con thọ trì các kinh Phương Đẳng, dù có mất

mạng, dù phải đọa địa ngục chịu vô lượng khổ, con cũng sẽ không

bao giờ phĩ báng Chánh pháp của chư Phật. Do sức công đức của

nhơn duyên ấy.

416 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

“Bạch đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Xin đức Phật hãy làm

Hòa Thượng truyền giới cho con.”

“Bạch ngài Văn Thù Sư Lợi! xin hãy là giáo thọ của con.”

“Bạch ngài Di Lặc của tương lai! Xin ngài truyền pháp

cho con.”

“Bạch chư Phật ở mười phương! Xin chư Phật chứng giám cho

con.”

“Bạch chư Bồ Tát đức lớn! Xin hãy làm bạn của con. Nay con

nương tựa vào ý nghĩa thâm sâu vi diệu của các kinh đại thừa mà

quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.”

“ Hành giả phải nói như thế ba lần. Quy y Tam Bảo xong,

kế đến người ấy phải tự mình thệ nguyện thọ nhận sáu trọng pháp (146)

.”

“ Thọ nhận sáu trong pháp xong, kế đến người ấy phải nổ

lực tu tập. Phạm hạnh vô ngại, phát tâm cứu độ hết tất cả chúng

sanh và thọ nhận tám trọng pháp (147)

.”

“ Sau khi lập nguyện như thế tại nơi thanh vắng, người

ấy phải đốt hương quý, rải hoa cúng dường tất cả chư Phật, chư Bồ

Tát và các kinh Phương Đẳng đại thừa và tác bạch rằng: “Nay con

phát tâm bồ đề, mong công đức này cứu độ tất cả chúng sanh!”

“ Tác bạch như thế xong hành giả lại phải đảnh lễ tất cả

chư Phật, chư đại Bồ Tát, phải nghĩ đến ý nghĩa của các kinh

Phương Đẳng. Suốt một ngày hoặc ba lần bảy ngày, dù người ấy là

xuất gia hay tại gia, không cần phải có Hòa Thượng, cũng không

cần phải có các thầy y chỉ, cũng chẳng cần qua lễ yết ma, do sức

phát sinh từ vị thọ trì đọc tụng các kinh điển đại thừa và do những

công việc mà Bồ Tát Phổ Hiền khuyên bảo người ấy làm những công

việc này là những con mắt chánh pháp của chư Phật, do như vậy

nên tự nhiên người ấy thành tựu được pháp thân năm phần: giới –

417 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

định – tuệ – giải thoát và giải thoát tri kiến. Tất cả chư Phật, chư

Như Lai đều đã sinh ra từ pháp này và đã được thọ ký trong các

kinh đại thừa.

“ Cho nên, người trí giả như một Thanh văn phá bỏ tam

quy, năm giới, tám giới, các giới của tỳ kheo, các giới của sa di ni,

các giới của Thức xoa ma na và các uy nghi, và giả như do người ấy

ngu si, do tâm xấu ác, tà vạy mà phạm các giới và các uy nghi. Nếu

người ấy muốn trừ diệt khiến không còn các lầm lỗi để lại trở thành

một Tỳ kheo đầy đủ các pháp của hàng sa môn, thì người ấy phải

chăm chỉ đọc các kinh Phương Đẳng, tư duy về pháp Không (148)

thâm sâu của Đệ nhất nghĩa, khiến cái trí tuệ Không tương ứng với

tâm mình. Nên biết rằng trong mỗi một niệm, một ô nhiễm tội lỗi

của người ấy sẽ vĩnh viễn chấm dứt, không còn chút dư tàn.

Đây gọi là người đầy đủ các pháp và giới của hàng Sa môn và đầy

đủ các oai nghi. Người như thế sẽ xứng đáng được hết thảy Trời và

Người cúng dường.”

“ Giả như có ưu bà tắc vi phạm các oai nghi và làm các

việc xấu. Làm các việc xấu tức là bảo rằng Phật pháp là sai lầm, là

xấu, bàn luận những việc xấu của bốn chúng, phạm tội trộm cắp, tà

dâm mà không biết hổ thẹn. Nếu người ấy muốn sám hối và đoạn

trừ các tội lỗi thì phải chuyên đọc tụng các kinh Phương Đẳng và tư

duy về nghĩa Đệ Nhất.”

“ Giả như có một vị vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ,

trưởng giả, quan viên. Giả như những vị này mãi mê tham cầu các

dục lạc, phạm năm nghịch tội, phỉ báng các kinh Phương Đẳng, làm

đủ mười điều ác. Quả báo của những điều ác lớn lao này sẽ khiến họ

bị đọa vào các đường ác nhanh hơn mưa bảo. Chắc chắn họ sẽ bị rơi

vào địa ngục A Tỳ. Nếu họ muốn diệt trừ các nghiệp chướng này thì

họ phải khởi lòng hổ thẹn và cãi hối các tội lỗi.”

“ Tại sao gọi là pháp sám hối của các Sát đế lỵ (149)

và cư

sĩ? Pháp sám hối này nghĩa là họ phải chánh tâm, không phỉ báng

418 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tam bảo, không gây trở ngại cho hàng xuất gia, không làm ác đối

với người thực hành phạm hạnh. Họ phải quyết chí tu sáu phép

quán niệm. Họ cũng phải ủng hộ, cúng dường người trì giữ đại thừa,

lại phải nhớ niệm đến cái Không của ý nghĩa Đệ Nhất của kinh pháp

thâm sâu.”

“ Đấy gọi là phép tu sám hối đệ nhất của hàng Sát đế lỵ

và hàng cư sĩ.”

“ Phép sám hối thứ hai là hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính

các vị thầy, các vị trưởng thượng.”

“ Phép sám hối thứ ba là trị nước theo chánh pháp,

không ép uổng nhân dân một cách tà vậy.”

“ Phép sám hối thứ tư là ra lệnh khắp nước giữ sáu ngày

trai giới khiến người ta không sát sanh.”

“ Phép sám hối thứ năm là tin vào nguyên nhân và kết

quả một cách sâu đậm, tin vào con đường của cái thực tánh duy

nhất và biết rằng đức Phật là bất diệt.”

“ Đức Phật nói với ngài A Nan: “Trong tương lai nếu có

ai thực hành các phép sám hối này thì hãy nên biết rằng người ấy đã

mặc áo của hổ thẹn, được chư Phật che chở và giúp đở, chẳng bao

lâu sẽ đạt được trí tuệ tối thượng.”

“ Khi đức Phật dạy như thế xong, mười ngàn thiên tử đạt

được pháp nhãn tịnh, chư Đại Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc cùng các vị

khác trong chúng, và ngài A Nan đều hoan hỷ phụng hành.”

Kinh QUÁN PHỔ HIỀN HẠNH PHÁP đến đây là hết.

419 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm

Phổ Hiền Hạnh Nguyện, (Mười điều nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền)

Mười hạnh nguyện này Phật tử đều có tụng đọc hằng ngày,

chỉ mong rằng sau khi đọc xong hết quyển Tôi hiểu kinh Pháp Hoa

như thế nào, thì Mười điều nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền sẽ là

Chánh nhân của Phật quả cùng Tịnh duyên của tịnh độ.

MƯỜI HẠNH NGUYỆN CỦA ĐỨC PHỔ HIỀN.

Nhất giả lễ kính chư Phật

Nhị giả xưng tán Như Lai

Tam giả quảng tu cúng dường

Tứ giả sám hối nghiệp chướng

Ngũ giả tùy hỷ công đức

Lục giả thỉnh chuyễn pháp luân

Thất giả thỉnh Phật trụ thế

Bát giả thường tùy Phật học

Cửu giả hằng thuận chúng sanh

Thập giả phổ giai hồi hướng.

“ Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu

mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?”

Một là lễ kính các đức Phật

Hai là khen ngợi đức Như Lai

Ba là rộng sắm đồ cúng dường

Bốn là sám hối các nghiệp chướng

Năm là tùy hỷ các công đức

Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp

Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời

Tám là thường học đòi theo Phật

Chín là hằng thuận lợi chúng sanh

Mười là hồi hướng khắp tất cả.

420 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Thiện Tài bạch rằng: “Đại Thánh! Lễ kính như thế nào

cho đến hồi hướng như thế nào?”

Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng: “Này thiện nam tử!

Nói “Lễ kính các đức Phật” là như vầy:

Bao nhiêu các đức Phật Thế Tôn nhiều như số cực vi trần (150)

trong cõi Phật khắp pháp giới hư không giới, mười phương ba

đời, tôi do nơi hạnh nguyện của Phổ Hiền thâm tâm tín giải như đối

trước mắt, đều dùng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh thường tu

hạnh lễ kính. Nơi mỗi đức Phật đều hóa hiện thân nhiều như số cưc

vi trần trong bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi thân đều khắp lễ kính các

đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả

thuyết (151)

cõi Phật. Cõi hư không kia hết, sự lễ kính của tôi mới hết.

Nhưng cõi hư không chẳng cùng tận. Nhẫn đến cõi chúng sinh hết,

nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết, sự lễ kính của tôi

mới dứt.

Nhưng cõi chúng sinh cho đến phiền não chẳng hết, nên

sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không

hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Này thiện nam tử! Nói “Khen ngợi đức Như Lai” là như

vầy: Bao nhiêu số cực vi trần trong cõi nước khắp cùng hư không

pháp giới mười phương ba đời trong mỗi cực vi đều có các đức Phật

nhiều như số cực vi trong tất cả thế gian. Nơi mỗi đức Phật đều có

rất đông Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi phải trọn dùng sức thậm

thâm thắng giải tri kiến hiện tiền, đều dùng lưỡi vi diệu hơn Biện

Tài Thiên nữ. Mỗi lưỡi phát xuất vô tận âm thanh hải. Mỗi âm

thanh diễn xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi các công đức hải của

tất cả đức Như Lai, ca ngợi đến tột đời vị lai nối luôn không dứt,

khắp cả pháp giới không sót chỗ nào. Như vậy hư không giới, chúng

sinh giới, chúng sinh nghiệp, chúng sanh phiền não đều hết, thời sự

khen ngợi công đức cửa chư Phật của tôi đây mới cùng tận.

421 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Nhưng cõi hư không kia cho đến phiền não của chúng

sinh chẳng cùng tận, nên sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận,

niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề

nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Rộng sắm đồ cúng dường”

là như vầy:

Bao nhiêu số vi trần trong khắp cõi Phật cùng hư không

pháp giới mười phương ba đời, trong mỗi cực vi trần đều có chư

Phật như số cực vi trần trong tất cả thế giới, nơi mỗi đức Phật có vô

số Bồ Tát vây quanh nhóm họp.

Tôi dùng sức hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền mà khởi

lòng tín giải rất sâu và hiện tiền tri kiến, đều đem đồ cúng dường

thượng diệu mà cúng dường pháp hội của Phật. Như là: Mây hoa,

mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàng lọng cõi trời, mây y

phục cõi trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương đốt, hương bột.

Các thứ mây trên đây thảy đều nhiều lớn như núi Tu Di (152)

.

Lại thắp các thứ đèn: đèn tô lạc, đèn dầu, các thứ đèn

dầu thơm, mỗi tim đèn lớn như núi Tu Di, dầu trong đèn như nước

bể cả. Đem các thứ đồ cúng dường như trên để thường cúng dường.

Thiện nam tử! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng

dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng như lời Phật

dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường,

nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thế cho chúng sanh

để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ

hạnh Bồ Tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ Tát để cúng dường.

Thiện nam tử! Như vô lượng công đức của sự cúng

dường trước kia sánh với một niệm công đức của pháp cúng dường,

thời không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không

bằng một phần trăm ngàn, cu chi na do tha, một phần ca la, một

422 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

phần toán, một phần số, một phần dụ cũng chẳng bằng một phần ưu

ba ni sa đà. Vì sao? Vì các đức Như Lai tôn trọng chánh pháp. Vì

theo đúng như lời Phật dạy mà tu hành thì sinh ra các đức Phật.

Nếu các Bồ Tát thực hành pháp cúng dường, thì trọn nên sự cúng

dường Phật. Tu hành như vậy mới thật là cúng dường. Nên pháp

cúng dường là sự cúng dường rất rộng lớn hơn tất cả.

Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp

chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự cúng dường

của tôi mới cùng tận, nhưng cõi hư không cho đến phiền não chẳng

cùng tận, nên sự cúng dường của tôi cũng không cùng tận, niệm

niệm nối luôn không hở, thân, khẩu, ý nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Sám hối nghiệp chướng” là

như vầy:

Bồ Tát tự nghĩ rằng: Tôi từ vô thỉ kiếp về quá khứ do

lòng tham lam, giận dỗi, ngu si khiến thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô

biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác này mà có hình tướng, thì khắp

cõi hư không cũng chẳng thể đựng chứa hết được.

Nay tôi đem trọn cả ba nghiệp trong sạch đối với trước

các đức Phật và chúng Bồ Tát khắp cực vi trần cõi nước trong pháp

giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm nữa, thường an trụ

nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành. Như vậy hư không

giới cùng tận, chúng sinh giới cùng tận, chúng sinh nghiệp cùng tận,

chúng sinh phiền não cùng tận, thì sự sám hối của tôi mới cùng tận,

nhưng hư không giới cho đến chúng sinh phiền não chẳng cùng tận,

nên sự sám hối của tôi đây cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn

không hở, thân, khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Tùy hỷ công đức”là thế này:

Bao nhiêu đức Phật như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư

không pháp giới mười phương ba đời, từ khi mới phát tâm vì muốn

chứng nhất thiết trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc thân mạng,

423 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

trải qua số kiếp như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả

thuyết cõi Phật. Mỗi kiếp đều thí xả đầu, mắt, tay, chân v.v…nhiều

như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, làm tất

cả những hạnh khó làm như vậy, đầy đủ các môn ba la mật, chứng

nhập các trí địa của Bồ Tát, trọn nên quả vô thượng bồ đề của chư

Phật, cho đến nhập Niết Bàn phân chia các xá lợi. Bao nhiêu căn

lành ấy tôi đều tùy hỷ cả.

Mười phương ba đời tất cả các vị Thanh Văn, Bích chi

Phật, hửu học và vô học có bao nhiêu công đức tôi đều tùy hỷ.

Tất cả chư Bồ Tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu quả

vô thượng Chánh đẳng bồ đề công đức rộng lớn, tôi đều tùy hỷ. Như

vậy hư không giới cùng tận, chúng sinh giới cùng tận, chúng sinh

nghiệp cùng tận, chúng sinh phiền não cùng tận, sự tùy hỷ của tôi

đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp

thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Thỉnh đức Phật thuyết

pháp” là thế này:

Trong số cực vi khắp hư không pháp giới mười phương

ba đời tất cả cõi Phật. Mỗi cực vi đều có cõi Phật rộng lớn nhiều như

số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi trong

một niệm đều có tất cả chư Phật thành Đẳng Chánh Giác số đông

như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tất cả

chúng Bồ Tát nhóm họp vây quanh. Tôi đều đem thân khẩu ý ba

nghiệp dùng những phương tiện ân cần khuyên mời tất cả Phật nói

pháp nhiệm mầu. Như vậy, hư không giới cùng tận, chúng sinh giới

cùng tận, chúng sinh nghiệp cùng tận, chúng sinh phiền não cùng

tận, tôi luôn khuyên mời tất cả các đức Phật chuyễn pháp luân chân

chánh không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp

thân khẩu ý không hề nhàm mỏi.

424 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Lại này Thiện nam tử! Nói “Thỉnh Phật ở lại đời” là như

vầy:

Các đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật

khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện

nhập Niết Bàn, cùng các Bồ Tát, Thanh Văn, duyên Giác, hửu học,

vô học, cho đến tất cả các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời xin

đừng nhập Niết bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp như vi trần trong

tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc. Như vậy

cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh

cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự khuyên mời của tôi đây

vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân

khẩu ý không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Thường học tập theo Phật”

là thế này:

Như đấng Tỳ Lô Giá Na Phật ở cõi ta bà đây, từ khi mới

phát tâm tinh tấn không trễ lui, đem bất khả thuyết bất khả thuyết

thân mạng ra mà bố thí. Lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích

máu làm mực, dùng biên chép kinh điển chất cao như núi Tu Di, vì

tôn trọng chánh pháp nên Phật không tiếc thân mạng, huống là ngôi

vua, thành ấp, cung điện, vườn, rừng v.v… Cùng thật hành bao

nhiêu hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành quả đại bồ

đề, thị hiện các thứ thần thông khởi các sự biến hóa, hiện các thân

Phật ở trong những chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng

của các vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thanh

Văn, Duyên Giác, hoặc ở trong đạo tràng của chuyễn Luân Vương,

các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo tràng của

chúng hội Cư sĩ, Trưởng giả, Bà la môn cùng Sát đế Lợi, nhẫn đến

hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát bộ, Nhân,

phi Nhân v.v… ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn

như đại lôi chấn tùy theo căn tánh của mỗi hạng mà giáo hóa cho

chúng sinh đều được thành thục. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn.

Cả thảy hạnh đức như thế tôi đều học tập theo. Như đức Thế Tôn

425 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Tỳ Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần trong

tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng

như thế ấy, trong mỗi niệm tôi đều học tập theo. Như vậy cõi hư

không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp chúng sinh cùng

tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy học của tôi đây vẫn

không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân khẩu

ý không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Hằng thuận lợi chúng sinh”

là như thế này:

Bao nhiêu chúng sinh sai khác trong tất cả cõi ở mười

phương pháp giới, hư không giới, chính là những loài noãn sinh,

thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, các loài nương nơi chất tứ đại mà

sinh, có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sinh. Các giống

sinh loại các thứ sắc thân, các thứ hình trạng, các thứ tướng mạo,

các thứ thọ lượng, các thứ tộc loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm

tánh, các thứ tri kiến, các thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai

nghi, các thứ y phục, các thứ ăn uống ở trong các thôn dinh, thành

ấp, cung điện, nhẫn đến tất cả Thiên, Long, Bát bộ, Nhân, Phi nhân

v.v… loài không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có

hình sắc, loài không hình sắc, loài có tâm tưởng, loài không tâm

tưởng, loài chẳng phải có tâm tưởng, chẳng phải không tâm tưởng.

Các loài như vậy tôi đều tùy thuận tất cả mà thực hành các sự vâng

thờ cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ bực thầy cùng A La

Hán, nhẫn đến như đức Như Lai đồng nhau không khác.

Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm

lương y; nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường

chánh; nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng; người nghèo

thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng

sinh như vậy.

Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sinh,

thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và

426 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thừa sự chúng sinh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như

Lai. Nếu làm cho chúng sinh vui mừng thì chính là làm cho tất cả

Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi

mà làm thể. Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi lòng

đại bi mà phát tâm bồ đề, nhân nơi tâm bồ đề mà thành bực Vô

thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc

cây ấy được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều sum suê,

tươi tốt. Cây thọ vương bồ đề ở chốn sa mạc sinh tử rộng lớn cũng

như vậy: Tất cả chúng sinh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là quả.

Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sinh thì có thể trổ bông

Bồ Tát trí huệ và kết thành quả Phật toàn giác.

Vì sao thế? Bởi các đức Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi

ích cho chúng sinh thì có thể thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác. Cho nên quả bồ đề thuộc về chúng sinh, vì nếu không

chúng sinh, tất cả Bồ Tát trọn không thề thành đạo Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác.

Này Thiện nam tử! Ông ở nơi nghĩa ấy nên hiểu như thế.

Bởi đối với chúng sinh mà tâm bình đẳng thì có thể sinh lòng đại bi

đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sinh thì có

thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng

sinh như thế ấy.

Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận, nghiệp

chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự tùy thuận

chúng sinh của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn

không hở, thân khẩu ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này Thiện nam tử! Nói “Hồi hướng khắp tất cả” là

như vầy:

427 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

Từ sự lễ kính ban đầu cho đến tùy thuận có bao nhiêu

công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong hư

không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được an lạc,

không các bịnh khổ, muốn thực hành pháp ác thảy đều không

thành, còn tu nghiệp lành thì mau thành tựu. Đóng chặt cửa của tất

cả ác thú, mở bày đường chánh nhân thiên Niết bàn. Nếu các chúng

sinh nhân vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất

cả quả rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sinh đều được giải

thoát, rốt ráo thành tựu quả Vô thượng bồ đề, Bồ Tát tu hạnh hồi

hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sinh cùng tận,

nghiệp chúng sinh cùng tận, phiền não chúng sinh cùng tận, sự hồi

hướng của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không

hở, ba nghiệp thân khẩu ý không hề nhàm mỏi.

Này Thiện nam tử! Ấy là mười hai nguyện lớn đầy đủ

viên mãn của đại Bồ Tát. Nếu các vị Bồ Tát ở nơi mười điều nguyện

lớn này mà tùy thuận tu hành thì có thể thuần thục tất cả chúng

sinh, thì có thể tùy thuận đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,

thì có thể trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài Phổ Hiền Bồ Tát.”

Này Thiện nam tử! Do cớ ấy ở nơi các nghĩa trên đây ông

nên hiểu biết như vậy.

Trích trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện

Bản dịch của Hòa Thượng Hân Tịnh Thích Trí Thủ.

428 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

PHẦN CHÚ THÍCH.

89

Ni kiền tử: Người tu khổ hạnh trần truồng, hay còn gọi là đạo không

biết hổ thẹn.

90

Lộ già da đà: Phái thuận thế ngoại đạo theo thế tục

Nghịch lộ già da đà: Trái nghịch với thuận thế.

91

Na la: kẻ múa hát rông ngoài đường phố.

92

Lời nói phô là lời nói giãn dị, dễ nghe dễ hiểu, khác với lời nói tế, ý

nghĩa thâm sâu, ke phàm phu nghe rồi không hiểu được.

93

Buddhaghosa là một vị Đại tổ sư từng làm rạng rở Phật giáo Tích Lan

(ngày nay là nước Xrilanca). Ngài sanh ở Thiên Trước, gần xứ Gaya vào

thế kỷ thứ mười Phật lịch. Vốn dòng giỏi bà la môn, ngài bỏ bà la môn

giáo theo Phật giáo và xuống đảo Xrilanca, nhằm đời vua Mahanâmân

410-432 Dương lịch trong ngôi đại tịnh xá Mahâvihâra, cảnh chùa lớn

nhất tiêu biểu của Phật Giáo Tích Lan thời đó.

94

Tổ chức xả hội gồm có năm giai cấp : 1-/ Sát Đế Lợi: Giai cấp vua

chúa, hoàng tộc, thời kỳ Phật Thích Ca còn tại thế. Bà La Môn: Giai cấp

bực thầy của quốc dân, gồm những dòng trí thức thông thái, nắm tất cả

các cơ quan văn hóa, giáo dục, lễ nghi trong nước Thiên Trúc thời bấy

giờ.Tỳ Xá: Giai cấp thương mãi, thợ thuyền.Thủ Đà, Chi ên đ à la : Giai

cap lao công , hạng bần cuùng trong xa ã hội.

95

Có bốn loài sanh : 1-/ Noãn sanh: Những loài sanh trứng lớn như chim

cánh vàng (đại bàng kim sí điểu), nhỏ như loài rận rệp.

2-/ Thai sanh: Lớn như loài voi, sư tử, trung bình

như con người, nhỏ nhít như mèo chuột.

3-/ Thấp sanh: Loài cá, ba ba, cua đinh, trùn.

429 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

4-/ Hóa sanh: Loài sâu bọ trong các thứ lương

thực như gạo, bắp, hoặc ở cõi trời, cõi địa ngục.

96

Vây quanh núi Tu Di có bốn châu: 1/ Đông Thắng thần châu. 2/ Tây

Ngưu hóa châu. 3/ Nam Thiệm Bộ châu, hay còn gọi là Nam Diêm Phù

Đề (Jampuripa), là cõi thế giới mà con người đang sống nằm về phương

nam của núi Tu Di. 4/ Bắc Cu Lô châu.

97

Có bốn bực thánh : 1-/ Tu Đà Hoàn: Gọi là quả Nhập lưu, tức là mới

bước vào dòng chảy của Niết Bàn, không nhiễm sắc, thinh, hương, vị,

xúc, pháp. Dứt ngã chấp, phân biệt hết kiến hoặc, ra khỏi phàm phu.

2-/ Tư Đà Hàm: Gọi là quả Nhất Vãng lai, nhưng thiệt

không có tướng vãng lai. Bực thánh này đã hết kiến hoặc, còn một lần

sanh lại cõi dục mới dứt hẳn luân hồi.

3-/ A Na Hàm: Gọi là quả bất lai, nhưng không chấp

cái tướng bất lai. Bực Thánh không còn trở lại cõi dục giới.

4-/ A La Hán: Gọi là quả Thanh Văn, tức là trước

tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ, giả. Bực Thánh cao nhất trong hàng

Thanh Văn của Tiểu Thừa giáo. Thoát khỏi hẳn luân hồi lục đạo, xứng

đáng thọ sự cúng dường trời người.

98

Đấng Lưởng Túc: Đấng Phước lực, Trí lực song toàn.

99

Nhập xuất trụ: Mới vào cõi định gọi là nhập, ở trong cõi định gọi là

trụ, từ cõi định dậy gọi là xuất.

100

Bất thối: Không thối lui, ý nói rằng người nói pháp không bao giờ từ

chối giãng giáo lý bất cứ chỗ nào, bất cứ nơi đâu

101

Đà la ni: tiếng Phạn dịch là tổng trì, đặng môn đà la ni này thời nghe

pháp có thể hiểu hết tất cả những ý nghĩa thâm sâu.

102

Vô ngại nhạo thuyết: nói pháp không có gí làm cản ngại, ý nói là thao

thao bất tuyệt.

430 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

103 Triền tổng trì: Người nói pháp chứng đặng môn này thời nói pháp nói

hoài, nói mãi, không nhàm chán, càng nói thì tài biện luận càng vô tận.

104

Tiểu chuyễn luân vương, cai trị từ một đến hai châu thiên hạ.

Đại chuyễn luân vương, cai trị tử ba đến bốn châu thiên hạ.Hai bực

chuyễn luân vương này do nhờ phước báo đời trước, nên lúc lên ngôi

vua có xe bảy báu tự nhiên, hoặc bằng đồng, bằng sắt, bằng bạc, bằng

vàng hiện ra. Vua dùng xe đó mà đi tuần, hoặc dẹp giặc trong cõi mình

cai trị gọi chung là “Chuyễn luân Thánh vương”.

Vua chuyễn luân thánh vương cũng có ba mươi hai tướng tốt. Cho nên

trong kinh Kim Cang đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề:

“Nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai không?” Ngài Tu bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên

dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai. Vì Chuyễn Luân Thánh

Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt.”

105

Kadampa: Khai thị bằng lời, chủ trương thiết lập lại kinh điển sau khi

thấy Phật giáo Tây Tạng bước vào cảnh suy tàn vào đầu thế kỷ thứ mười

một. Giáo pháp quan trọng nhất được gọi là sám hối (Lo-jong)

106

Nữ giới được coi là hiện thân của tội lỗi, là trở ngại vô cùng cho phái

tu hành nam giới, cho nên nơi nào có nữ giới bị coi như nơi đó là địa

ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la. Đến thời đức Phật Thích Ca, nam nữ đều

bình đẳng, bằng chứng là Phật chấp nhận lời đề nghị của thị giả A Nan

nhận bà dì của Phật là bà Ma Ha Ba Xề Ba Đề xuất gia. Từ đó mới có

cụm từ Tỳ kheo ni. Giới luật nữ giới nhiều hơn nam giới.

107

Đặng đà la ni này là có thể hiểu biết hết thảy lời nói của vô số chúng

sanh

108

Chân ca la, tần bà la, a súc bà là những con số hằng tỉ trở lên.

109

Trước khi Phật thành đạo, ngài xin một nắm cỏ mềm của người cắt cỏ

có tên Satica (Svastika), Ở đây đức Phật ngụ ý người nào trải cỏ ngồi

nhất định sẽ chứng đắc đạo Vô thượng Bồ đề.

431 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

110 Có bốn hạng người : Hạng người thứ nhứt: Y theo pháp của Phật dạy

chớ không y theo lời. Vì pháp của Phật thường trụ. Chẳng y theo lời vì

lời văn trau chuốt, bóng bẩy, chua ngoa không thật.

Hạng người thứ hai: Y theo nghĩa không y theo lời, vì lời văn còn gian

dối, nịnh bợ, mà ý nghĩa thời thường còn chẳng sai lệch.

Hạng người thứ ba: Y theo trí không y theo thức, vì Trí tức là Như Lai.

Nếu rỏ biết Như Lai là pháp thân, đó là chơn trí phải y theo, còn thức là

bộ dạng bên ngoài.

Hạng người thứ tư: Y theo kinh liễu nghĩa, không y theo kinh chẳng liễu

nghĩa.. Nghe kinh liễu nghĩa như người học cao hiểu rộng, tức là chỉ

hàng Bồ Tát. Nghe kinh không liễu nghĩa, tức là chỉ hàng Thanh Văn.

111

Ba la di, tội khoa trương, lời nói không thật, việc chưa đặng nói đặng,

chỉ làm cho người ta dể hoang mang, nghi lầm, không nhận ra đâu là

chánh, đâu là tà.

112

Nhứt xiễn đề, chỉ hạng người không có một chút thiện tâm, tức là nói

hạng người không có Phật tánh, họ thuộc vào nhóm tà định. Cõi cao

nhứt trong mười cõi của hạng này là cõi người, mà cũng chỉ là hạng thấp

hèn trong xã hội, sanh ra là đã bị dị dạng, đui, què, câm điếc là bệnh bẩm

sinh.

113

Không còn tâm thức phân biệt giữa người và ta, giữa chúng sanh vời

ta, giữa cuộc sống hư ảo.

114

Quỉ Tử Mẫu, còn gọi là Hoan Hỷ Mẫu, hay là Ai Tử Mẫu, là một nữ

La Sát sống nhờ vào ăn thịt trẻ con. Mỗi ngày phải ăn sống một đứa trẻ.

Đức Phật Thích Ca thấy vậy, bèn dụng thần thông đem giấu năm trăm

đứa con của bà và thuyết pháp cho bà nghe. Từ đó bà xin sám hối, cãi tà

bèn quy y Phật, và phát nguyện rằng từ nay về sau bà chuyên hộ trì Phật

Pháp, và nhất là hộ trì trẻ em.

115

Ep dầu làm sát hại nhiều trùng nên phải bị ương họa. Theo phong tục

của người Tây trúc, trước khi ép dầu phải giả nhỏ loại mè hoặc loại đậu

rồi ủ kín cho sanh trùng rồi mới ép.

432 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

116 Bích Chi Phật có hai hạng:

1. Ra đời không gặp Phật, không gặp chánh pháp, nhơn thấy sự biến

đổi trong đời mà tự ngộ lý vô thường, dứt kiến tư hoặc, thoát ly

sanh tử luân hồi, gọi là Độc Giác.

2. Ra đời gặp Phật, gặp chánh pháp, tu pháp Thập nhị nhân duyên

quán, chứng ngộ vô sanh, thoát ly sanh tử luân hồi, gọi là Duyên

Giác.. Độc Giác hay Duyên Giác, quả vị này ngang với A La Hán.

117

Thiện tri thức không chỉ có nghĩa là bằng hửu, mà còn có ý nghĩa là

người dẫn đạo, là người có trí huệ, có chánh kiến. Bậc thiện tri thức

dùng bốn nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh, đó là Bố thí, Ai ngữ, Lợi

hành, Đồng sự. Bốn pháp này dễ dàng hòa hợp với chúng sanh, làm cho

chúng sanh đối với Phật pháp phát tâm hứng thú, tin sâu vào đạo.

118

Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy:“Tỳ kheo các ông! Sau khi ta

nhập diệt, phải tôn trọng quý kính Ba La Đề Mộc Xoa (Giới luật)

như đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo gặp của báu. Phải biết

pháp này là Thầy của các ông, dù Ta có trụ ở đời cũng không khác

pháp này vậy”. Ba la đề mộc xoa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân,

khẩu và ý, là tri túc thành tựu oai nghi.

119

Ba chướng ác là phiền não, nghiệp chướng, quả báo, cả ba ác này là

pháp gây chướng ngại Thánh đạo, ngăn trở quả báo tốt đẹp nhơn thiên.

Ba chướng ấy mà diệt tận thì sáu căn, mưới ác cho đến tám vạn bốn

ngàn trần lao thảy đều thanh tịnh.

120

Định có ba nhóm: Chánh định là làm điều lành, Tà định là làm điều

ác, Bất định định là người lưng chừng, người xu hướng, làm điều lành

cũng tốt, làm điều ác cũng xong.

121

Tham, sân, si.

122

Từ Sơ địa lên Bát địa, Bất động địa, xem chú thích số 9.

433 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

123 Vô học, tức không còn gì để học thêm nữa. Như người đỗ tiến sĩ bây

giờ.

124

Dây Thương là âm kim thuộc mùa Thu, khúc Nam là khúc tháng tám,

nhờ đây mà được khí thu, cỏ cây ra trái.

125

Dây Giác là âm mộc, thuộc mùa xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng

hai, sinh ra được xuân khí cho nên cây cỏ đơm hoa.

126

Dây Vũ là âm thủy, thuộc về mùa Đông, khúc Hoàng Chung thuộc

tháng mười một, nên băng tuyết đóng lại.

127 Dây Chủy là âm hỏa, thuộc mùa Hạ, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm

nên được Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan.

128

Âm từ chữ Sama của tiếng Phạn, Hán dịch là Hối quá. Do hai từ tiếng

Phạn và tiếng dịch ghép lại thành từ Sám Hối, có nghĩa là ăn năn lỗi

trước, ngăn ngừa lỗi sau.

129

Đại Phương Quảng (Đại Phương Đẳng) là phương pháp gìn giữ tánh

cách cho người rộng biết tột cùng trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai,

rộng khắp mười phương đông, tây, nam, bằc, thượng, hạ. Kinh Đại

Phương Quảng tức là kinh có một ý nghĩa chơn lý vĩnh hằng, bất diệt,

phù hợp với căn cơ của chúng sanh. Tất cả những lời Phật dạy, tất cả

những điều Bồ Tát giảng, hoặc những câu vấn đáp được Phật ấn chứng

đều gọi là kinh.(Tudala)

Trong phẩm hai mươi tám, ngài Phổ Hiền bạch Phật “Nếu có tỳ kheo, tỳ

kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc

tụng, người biên chép mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai

mươi mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con

sẽ cỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh, dùng thân

mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ

dạy cho lợi ích vui mừng, cũng lại cho chú đà la ni.”

Trong kinh này, đức Phật dạy người có hạnh thanh tịnh, tinh tấn tu tập

theo hạnh Phổ Hiền, ca ngợi kinh điển đại thừa và tu theo pháp đại thừa,

434 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

thì hoặc một ngày, hoặc hai mưoi mốt ngày, hoặc bốn mươi chín ngày sẻ

được thấy sắc tướng của ngài Phổ Hiền. Hoặc tùy theo nghiệp chướng

nặng nhe, hoặc một đời, hoặc hai đời, hoặc ba đời rồi cũng sẽ nhìn thấy

được ngài Phổ Hiền, nếu người ấy quyết tâm tu hành theo pháp đại

thừa.. Đức Phật dạy tiếp: Cho dù người ấy chưa nhập được tam muội,

nhưng vì họ tụng và trì đại thừa, nên họ sẽ chuyên tâm tu tập không gián

đoạn, không rời đại thừa.

130

Ba chướng là ngã mạn, tật đố và tham dục, ba thứ này gây trở ngại vô

cùng cho người tu hành.

131

Mười lực vô quí, xem lại ghi chú số 6 .

132

Mười tám tính chất đặc biệt: 1/ Không sai lầm về thân thể. 2/ Chánh

ngữ. 3/ Chánh niệm. 4/ Chánh tư duy. 5/ Biết chọn lựa. 6/ Biết nhẫn

nhục. 7/ Quyết tâm cứu độ chúng sanh. 8/ Tinh tấn. 9/ Luôn nghĩ đến

giáo lý của chư Phật trong quá khứ. 10/ Quán niệm không ngừng. 11/ Trí

huệ tăng trưởng. 12/ Giãi thoát mọi phiền muộn. 13/ Thân và trí hành

động hợp nhứt. 14/ Lời và trí không xung đột. 15/ Ý nghĩ và trí tuệ phù

hợp. 16/ Trí tuệ không bị ngăn ngại về quá khứ. 17/ Trí tuệ không bị

ngăn ngại về tương lai. 18/ Trí tuệ không bị ngăn ngại về hiện tại.

133

Ba niệm xứ : Niệm xứ thứ nhứt: Có ai khen ngợi, tán thán công đức

Như Lai, Phật không lấy đó làm vui.

Niệm xứ thứ hai: Có ai phỉ báng, lăng mạ Như Lai, Phật không lấy đó

mà buồn khổ hay giận dỗi.

Niệm xứ thứ ba: Có ai quy ngưỡng Phật pháp, hoặc không quy ngưỡng

Phật pháp, Phật cũng không phân biệt hai hạng người này. Lòng đại từ

đại bi của Như Lai đều đối đãi bằng nhau với họ,

134

Nhờ sức đa văn trí huệ, nên dầu ở trong sáu loài, vẫn nhớ đến bổn

mạng, nhớ đến những hạnh nguyện đời trước của mình. Vì thấy nhớ hết

nên quyết làm lành lánh dữ để cầu giãi thoát sanh tử.

435 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

135 Hai mươi lăm trú xứ gồm có 4 cõi xấu ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc

sanh, a tu la; 4 châu lục của cõi người là: Đông Thắng Thần châu, Tây

Cu Ly châu, Nam Thiệm bộ châu, Bắc câu lô châu; 6 cõi Trời dục giới:

Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi; Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời

Hóa Lạc,Trời Tha Hóa Tự Tại; 7 cõi Trời sắc giới: Phạm Chúng, Phạm

Phụ, Đại Phạm, Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền; 4 cõi Trời

vô sắc giới: Không xứ, Thức xứ, Vô sở hửu xứ và Phi phi tưởng xứ. Chỉ

có Như Lai mới thấy đúng như thật trong trạng thái của cõi này. Cõi mà

các cư dân không có hình thể vật lý. Đây là thế giới của thuần ý thức.

136

Mười hai sự khổ tức là sáu căn xung động với sau trần mà phát sinh

ra sáu thức, do đó có sự thương yêu, oán ghét, ngũ dục tạo ra nhiều tội

lỗi.

137

Tám tà tức là tám món điên đảo : 1/ Sự vật trong thế gian là vô

thường mà chấp cho là thường, 2/ ngủ dục lạc không phải vui mà chấp

cho là vui, 3/ thân này không phải là Ta mà cho là Ta.4/ thân này nhơ

nhớp mà cho là sạch sẻ, 5/ pháp thân Phật là thường trụ mà cho là vô

thường, 6/ cảnh Niết bàn là vui mà chấp cho là không vui, 7/ đối với cái

ngã chân thật của pháp tánh mà chấp cho là vô ngã, 8/ đối với pháp thân

của Phật là thanh tịnh mà cho là bất tịnh. Trong tám món tà này, bốn

món đầu là của phàm phu, bốn món sau là của hàng nhị thừa

138

Tám nạn là tám hoàn cảnh của con người sinh ra không đựoc thấy

Phật, không được nghe chánh pháp, không được chư tăng truyền giới.

Đó là sanh trong tám hoàn cảnh 1/ địa ngục, 2/ ngạ quỉ, 3/ súc sanh, 4/

trường thọ niên, 5/ bắc câu lô châu, 6/ Đui, điếc, ngọng, liệt, 7/ thế trí

biện thông, 8/ sanh trước Phật hoặc sau Phật.

139

Ý nghĩa của Pháp Không đệ nhất là chơn lý tuyệt đích và chơn lý đối

đích, người học Phật không hiểu rỏ ý nghĩa chơn lý ấy thì không thể nào

hiểu nỗi nghĩa lý sâu xa và thâm thúy của kinh đại thừa phương đẳng

Diệu Pháp Liên Hoa. Vì không hiểu hết nghĩa của lý đối thì không thể

nào hiểu hết nghĩa của lý tuyệt, như thế thời làm sao hiểu đặng chơn lý

Niết Bàn và đắc chứng Niết Bàn.

436 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

140 Năm loại mắt:

1. Mắt của người có thân thể vật lý; còn gọi là mắt thịt, thấy gần mà

không thấy xa, thấy ngoài mà không thấy trong vì bị sắc chướng

cản ngại.

2. Mắt của chư thiên ở cõi trời Sắc giới; còn được gọi là thiên nhãn

do thiền định mà thành, mắt này thấy bao la xa, gần, trước, sau,

trên, dưới không bị sắc chướng làm cản ngại.

3. Mắt trí tuệ của Thanh văn và Duyên Giác; còn gọi là tuệ nhãn,

quán xét thấy tất cả pháp đều không.

4. Mắt pháp của Bồ Tát Ma ha tát, còn gọi là pháp nhãn, dùng pháp

nhãn thanh tịnh quán thấy hết tất cả chúng sanh trong cỏi ta bà, đâu

còn khổ thì ban pháp cứu tế. và

5. Mắt Phật., còn gọi là Phật nhãn, mắt Phật nhìn rỏ hết tất cả từ xa,

gần, trên, dưới, trong ngoài, sáng, tối.

141

Ba loại thân: Hiện thân, ứng thân, hóa thân.

142

Mẹ của Bồ Tát ở đây là kinh Đại Thừa Phương Đẳng, do nhờ tu tập

và quán niệm pháp Đại thừa mà chư Bồ Tát mau chứng ngộ Phật trí.

143

Sáu tình căn, đây chỉ sáu căn mắt, tai, mủi, lưỡi thân và ý.

144

A lan nhã: Nơi yên vắng, thanh tịnh, chỉ cảnh già lam, am, động.

145

Nghi thức Yết Ma là nghi lễ truyền giới. Vị Hòa thượng, hoặc vị

Thượng tọa, hoặc vị Giáo thọ đọc to giới luật mà đức Phật đã đặt ra cho

cho hàng cư sĩ tại gia (năm giới), hoặc cho vị tỳ kheo (250 giới), hoặc

cho tỳ kheo ni (348 giới)., trong khi đó hàng giới tử thật lòng bày tỏ,

phát lồ những tội lỗi do chính mình tự gây tạo, hoặc bảo người gây tạo,

hoặc là thấy nghe người gây tạo mà làm theo và thệ nguyện từ bỏ không

tái phạm.

146

Sáu trọng pháp tức là sáu giới quan trọng cho hàng cư sĩ: 1/ Không

sát sanh, 2/ Không trộm cắp, 3/ Không tá dâm, 4/ Không nói dối, 5/

Không uống rượu, 6/ Không nói cái lỗi của người khác.

437 Tôi hiểu kinh Pháp Hoa như thế nào

147 Tám trọng pháp: Gồm sáu trọng pháp trên thêm hai giới nữa là

Không che đậy lỗi của chính mình và Không coi trọng khuyết điểm của

người khác.

148

Pháp Không tức là pháp Vô Vi, an trụ trong cái tâm vắng lặng, tịch

tịnh thời sẽ hiểu rỏ các pháp đều không, dần dần thấy hiển lộ Niết Bàn.

149

Sát đế Lợi là giai cấp vua chúa, hoàng tộc.

150

Là bụi cực nhỏ, không còn có thể phân tích được nữa. Nhiều cưc vi

trần hiệp lại thành cực vi trần.

151

Là một con số rất lớn trong mười con số lớn nhất của An Độ xưa.

152

Tức là núi Diệu Cao, quả núi lớn nhứt trong các núi ở giữa bốn biển

hương thủy, cao 168000 do tuần, trầm dưới nước 84000 do tuần, nổi trên

cao 84000 do tuần, trong núi có rất nhiều châu báu: vàng, bạc, pha lê,

lưu ly, ánh sáng tỏa ra bón phía. Giữa chừng núi là cõi trời Tứ thiên

vương, trên đỉnh là ba mươ ba nước trời Đao Lợi

Rằm tháng tám năm Nhâm Ngọ (2002)

Cư sĩ TÂM TRỢ NGUYỄN NGỌC HỖ