Upload
linh-chi-hoang
View
212
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Châu Á đang nổi lên là châu lục phát triển năng động nhất thế giới. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ luôn được
ghi nhận thuộc vào những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Sự vươn lên
mạnh mẽ của châu lục từng bị lãng quên này được thể hiện qua nhiều khía cạnh,
trong đó sự phát triển của thị trường bán lẻ là một trong những bức tranh rõ nét
nhất minh chứng cho thời kỳ đỉnh cao của châu Á. Thị trường châu Á trong thời
đại hiện nay không chỉ đi theo những xu thế đã được tạo dựng trên thế giới mà
dần thể hiện vị thế chủ động khi tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử phát triển
của nền kinh tế toàn cầu.
Một trong những khuynh hướng nổi bật trong lĩnh vực thương mại toàn
cầu trong thế kỷ 20 chính là sự mở rộng lãnh địa kinh doanh của các tập đoàn
bán lẻ ra khỏi biên giới quốc gia. Và có thể nói rằng, sự kiện các tập đoàn bán lẻ
hàng đầu châu Âu và Bắc Mỹ đặt chân vào thị trường châu Á là một cột mốc
trong lịch sử thương mại thế giới. Thời kỳ trước những năm 1980, tầm ngắm của
các nhà bán lẻ châu Âu chỉ dừng lại ở các quốc gia châu Âu khác. Một số lượng
nhỏ chỉ bắt đầu chú ý đến thị trường Bắc Mỹ và thành công của họ ở khu vực này
khá khiêm tốn. Tương tự, sự xâm chiếm của các doanh nghiệp bán lẻ đến từ Mỹ
hay Canada vào thị trường Châu Âu không mang lại kết quả thành công như
mong đợi. Chỉ đến khi các tập đoàn bán lẻ ở hai châu lục phát triển nhất thế giới
này bắt đầu tìm kiếm cơ hội và tiến đến thị trường châu Á, khái niệm toàn cầu
hóa khu vực bán lẻ mới thực sự bước sang một trang mới.
Thị trường bán lẻ Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung. Đây là
thị trường luôn được đánh giá cao và thường xuyên nhận được những dự báo khả
quan về mức độ cũng như tốc độ phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, thị
trường bán lẻ vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển. Vì vậy, thị trường bán lẻ Việt
Nam vẫn rất cần những định hướng phát triển chi tiết, hợp lý.
1
Xuất phát từ thực tế đó, em chọn đề tài: “Thực trạng thị trường bán lẻ
châu Á và những kiến nghị đối với Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, khái quát về mặt lý luận, phân tích những đặc điểm chính của
thị trường châu Á hiện nay cũng như những xu thế phát triển mới trong tương lai.
Một số thị trường tiêu biểu cũng được phân tích nhằm rút ra những bài học cho
những thị trường phát triển sau. Bên cạnh đó, khóa luận cũng đưa ra những đánh
giá về những tập đoàn bán lẻ lớn đến từ châu lục khác hay những tập đoàn bán lẻ
mạnh nhất châu Á thông qua việc tìm hiểu những yếu tố quyết định thành công
của những tập đoàn này.
Thứ hai, từ những phân tích đánh giá rút ra trên thị trường châu Á, rút ra
những kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam trong quá
trình quy hoạch, phát triển thị trường theo hướng hiện đại hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là các hoạt động, xu hướng bán lẻ
đang diễn ra trên thị trường châu Á nói chung và thị trường bán lẻ Việt Nam nói
riêng. Đặc biệt trên thị trường Việt Nam, các nghiên cứu dành sự chú ý cho
những ảnh hưởng từ việc trở thành thành viên của WTO đến thị trường Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu tập trung nhiều vào thị trường Đông Á và Đông Nam
Á, bao gồm 10 quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn
Quốc. Nghiên cứu của bài khóa luận không bao gồm Nhật Bản do thị trường bán
lẻ ở quốc gia này đã phát triển khá lâu và hiện nay đã được xếp vào một trong
những thị trường có dấu hiệu bão hòa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp
phân tích – tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích, đánh giá nhằm rút
ra những bài học kinh nghiệm hợp lý.
2
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục thuật ngữ viết tắt và tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn của em được chia làm ba phần:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thị trường bán lẻ.
Chương 2: Thực trạng thị trường bán lẻ châu Á.
Chương 3: Thị trường bán lẻ Việt Nam và những kiến nghị nhằm phát
triển thị trường trong tương lai.
Trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự
hướng dẫn nhiệt tình cũng như những ý kiến đóng góp vô cùng quý giá của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Xuân Hường. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu
sắc nhất. Luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót do đề tài tương đối
rộng trong khi khuôn khổ của bài khóa luận lại hạn chế. Em rất mong nhận được
sự thông cảm và góp ý từ phía các thày cô và các bạn.
3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ
TRƯỜNG BÁN LẺ
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
1. Các khái niệm về bán lẻ
1.1 Thị trường bán lẻ
Thị trường bán lẻ: được hiểu là thị trường trên đó người bán (cá nhân hay
các công ty, gọi chung là nhà bán lẻ) bán sản phẩm trực tiếp đến người mua
(người tiêu dùng cuối cùng).
Dịch vụ bán lẻ: Theo tài liệu số MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong
vòng đàm phán Urugoay dựa trên hệ thống phân loại sản phẩm của Liên Hợp
Quốc thì bán lẻ là một trong bốn nhóm dịch vụ chính của dịch vụ phân phối.
Dịch vụ phân phối được quy định bao gồm:
Dịch vụ đại lý hoa hồng
Dịch vụ bán buôn
Dịch vụ nhượng quyền thương mại
Dịch vụ bán lẻ
1.2 Nhà bán lẻ
1.2.1 Nhà bán lẻ:
Nhà bán lẻ là người bán sản phẩm (hàng hóa hay dịch vụ) đến khách hàng.
Khách hàng mua sản phẩm vì mục đích tiêu dùng của cá nhân hay gia đình mình.
Bán lẻ là khâu kinh doanh cuối cùng trong chuỗi phân phối hàng hóa/dịch vụ của
nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhà sản xuất tạo ra sản phẩm và phân phối đến
cho các nhà bán buôn. Nhà bán buôn lại phân phối sản phẩm nhận từ nhà sản
xuất đến các nhà bán lẻ khác. Cuối cùng, nhà bán lẻ sẽ bán lại sản phẩm đến
4
người tiêu dùng. Trong chuỗi phân phối, nhà bán buôn có thể đồng thời hoạt
động như nhà bán lẻ và ngược lại.
1.2.2 Chức năng của nhà bán lẻ trên thị trường:
Tập hợp và cung cấp một chuỗi các loại hàng hóa/dịch vụ khác nhau
Nhà bán lẻ sẽ gom sản phẩm từ các nhà bán buôn và bán lại cho người
tiêu dùng. Sản phẩm mang các nhãn hiệu khác nhau với số lượng, chủng loại,
kích cỡ, màu sắc đa dạng. Tuy vậy, mỗi nhà bán lẻ thường tập trung vào một số
lĩnh vực nhất định.
Chia nhỏ sản phẩm
Nhà bán buôn phân phối sản phẩm theo từng lô hàng hay kiện hàng với số
lượng lớn. Nhà bán lẻ có nhiệm vụ chia nhỏ những sản phẩm này phục vụ nhu
cầu tiêu dùng cá nhân.
Lưu trữ hàng tồn kho
Một chức năng quan trọng của nhà bán lẻ là lưu trữ hàng hóa phục vụ nhu
cầu người tiêu dùng. Thông qua chức năng này, nhà bán lẻ giúp người tiêu dùng
giảm thiểu chi phí dự trữ hàng hóa. Khoản đầu tư cho việc dự trữ hàng hóa của
người tiêu dùng do đó có thể chuyển thành các khoản đầu tư khác mà người tiêu
dùng có thể hưởng lãi suất như khoản tiền gửi tiết kiệm.
Cung cấp dịch vụ hỗ trợ
Bên cạnh chức năng chính là bán hàng hóa, nhà bán lẻ còn cung cấp cho
khách hàng những dịch vụ khiến cho việc mua sắm của họ trở nên dễ dàng và
thuận lợi hơn như việc trưng bày một số mẫu thử sản phẩm mới cho khách hàng
dùng miễn phí hay ở một tầm cao là cho khách hàng vay tiền để mua hàng của họ
Với tất cả chức năng trên của mình, nhà bán lẻ đã thực hiện được nhiệm
vụ quan trọng nhất là làm gia tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng
nhận được.
5
Từ những khía cạnh đã phân tích ở trên, chúng ta có thể định nghĩa hoạt
động bán lẻ là hoạt động kinh doanh làm gia tăng giá trị đối với hàng hóa hay
dịch vụ bán cho người tiêu dùng vì mục đích sử dụng của cá nhân hay gia đình.
Hoạt động bán lẻ không chỉ diễn ra trong các cửa hàng mà còn bao gồm các hoạt
động bán hàng qua điện thoại, qua mạng Internet, các dịch vụ chăm sóc, làm đẹp,
v.v.
2. Những đặc điểm của thị trường bán lẻ
Trên thị trường bán lẻ, hàng hóa được bán đến tay người tiêu dùng cuối
cùng. Người này mua hàng theo nhu cầu và sử dụng cho bản thân hay gia đình
mà không bán lại nhằm mục đích kinh doanh hay bất cứ mục đích sinh lời nào
khác. Đây được coi là đặc điểm cơ bản phân biệt thị trường bán lẻ với các thị
trường giao dịch hàng hóa khác.
Thị trường bán lẻ cung cấp hàng hóa với những chủng loại đa dạng, nhãn
hiệu và có thể phục vụ mọi đối tượng khách hàng sinh sống ở các vùng địa lý
khác nhau. Hàng hóa trên thị trường bán lẻ có thể được phân thành hai loại:
Nhóm các sản phẩm lương thực, thực phẩm và các loại hàng hóa liên quan
(food sector), bao gồm: lương thực (gạo, ngũ cốc, bột mì,…); thực phẩm (tươi
sống hay đã qua chế biến); đồ uống (rượu, bia, nước giải khát); .v.v.
Nhóm các sản phẩm phi thực phẩm (non-food sector), bao gồm: đồ điện tử
dân dụng hay gia dụng; hóa mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe hay sắc
đẹp; các sản phẩm thời trang: hàng dệt, may, da giày…; văn phòng phẩm;
sách báo; đồ chơi; máy tính và các phần mềm máy tính; .v.v.
3. Phân loại các loại hình thức bán lẻ trên thị trường
Cách phân chia cơ bản nhất và được sử dụng nhiều nhất khi phân tích hay
nghiên cứu thị trường bán lẻ là phân loại dựa vào mô hình kinh doanh. Theo đó
thị trường bán lẻ bao gồm hai hình thức kinh doanh chính:
6
3.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống
Biểu đồ I.1: Phân loại hệ thống bán lẻ truyền thống
Trong các mô hình bán lẻ truyền thống, chợ là hình thức bán lẻ sơ khai
nhất, tồn tại từ khi loài người bắt đầu thoát khỏi thời kỳ tự cung tự cấp và bắt đầu
biết trao đổi những thứ mình sản xuất thừa, không dùng đến. Trong xã hội hiện
đại ngày nay chợ vẫn tồn tại ở các quốc gia phát triển nhất tới các quốc gia kém
phát triển.
3.2 Hệ thống bán lẻ hiện đại
Theo công ty nghiên cứu thị trường thuộc tập đoàn IBM (Hoa Kỳ) năm
2007, Euromonitor và Nielsen 2008, hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại gồm
những mô hình chính sau:
3.2.1 Trung tâm mua sắm (department store)
Trung tâm mua sắm là một tổ hợp thương mại lớn bao gồm các gian hàng
bán lẻ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ. Tất cả những gian hàng này được bố trí
dưới cùng một mái vòm, cung cấp đa dạng các chủng loại mặt hàng từ các mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu tới các hàng hóa lâu bền, bao gồm: quần áo, sản phẩm
dệt may, giày dép, đồ điện tử, đồ chơi, nội thất, phần mềm máy tính, trang sức,
mỹ phẩm, dụng cụ thể thao, v.v. Trung tâm mua sắm lớn nhất trên thế giới hiện
7
Hệ thống bán lẻ truyền thống
ChợCác cửa hàng độc lập:
+ tiệm tạp hóa+ cửa hàng bán sỉ
Đại lý của nhà sản xuất, phân phối
nay là trung tâm Shinsegae Centum City của tập đoàn Shinsegae (Hàn Quốc) đặt
tại thành phố Busan.
3.2.2 Đại siêu thị (hypermarket)
Đại siêu thị là các mô hình kinh doanh bán lẻ có quy mô lớn nhất với tổng
diện tích sàn vào khoảng 30.000 mét vuông. Số mặt hàng bày bán có thể lên tới
25.000. Các mặt hàng lương thực, thực phẩm chiếm từ một phần ba đến hai phần
ba tổng số sản phẩm bày bán. Tại các đại siêu thị, người tiêu dùng có thể mua
sắm các mặt hàng khác không nằm trong nhóm lương thực, thực phẩm như mỹ
phẩm, các sản phẩm chăm sóc sức khỏe.
3.2.3 Siêu thị (supermarket)
Siêu thị được xây dựng trên mô hình người mua sắm tự phục vụ. Diện tích
sàn của các siêu thị nằm trong khoảng từ 5.000 đến 30.000 mét vuông. Số loại
sản phẩm bày bán vào khoảng 15.000. Khoảng hai phần ba các sản phẩm bày bán
trong siêu thị là lương thực, thực phẩm. Thông thường các siêu thị còn cung cấp
thêm quầy đồ ăn sẵn và hiệu bánh mỳ.
3.2.4 Cửa hàng tiện ích (convenience store)
Các cửa hàng tiện ích là các mô hình cửa hàng bán lẻ quy mô nhỏ. Diện
tích mỗi cửa hàng thường dưới 3000 mét vuông, số các mặt hàng bày bán dưới
5000 loại. Các cửa hàng này thường mở ở những nơi giao thông thuận lợi, tập
trung dân số, giờ hoạt động thường muộn hơn các loại hình khác. Sản phẩm bày
bán chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày và giá cả thường cao hơn so
với hàng hóa trong siêu thị.
3.2.5 Cửa hàng giảm giá (discount store):
Là hệ thống các cửa hàng cho phép khách hàng tiếp cận với những chủng
loại hàng hóa giá rẻ, ở vị trí khá thuận lợi về giao thông. Đặc điểm của mô hình
kinh doanh này là chi phí mặt bằng thấp, số lượng nhân lực giới hạn, tiết kiệm
đầu tư vào marketing. Hàng hóa được trưng bày với số lượng khá đa dạng. Mỗi
thời điểm, cửa hàng sẽ giảm giá một số loại mặt hàng nhất định. Diện tích mỗi
8
cửa hàng loại này thường từ 300 đến 1000 mét vuông sản. Mô hình kinh doanh
này có thể được tìm thấy ở những khu vực cho thuê diện tích sàn với giá rẻ hay
tầng hầm của các trung tâm mua sắm lớn.
3.2.6 Cửa hàng mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp (drugstore)
Là các cửa hàng bán lẻ chuyên bán các loại thuốc (thường là thuốc bán
không cần kèm đơn thuốc) và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe như thực phẩm
chức năng,.. Ngoài ra, ở các cửa hàng loại này, người tiêu dùng có thể tìm thấy
các loại hàng hóa mỹ phẩm như dầu gội, sữa tắm, mỹ phẩm hay các sản phẩm
làm đẹp. Ở một số nơi, bánh kẹo và báo, tạp chí cũng được trưng bày để phục vụ
khách hàng.
Ngoài ra còn có một số cách phân loại khác, như:
Dựa vào cơ sở bán lẻ thì có hai hình thức bán lẻ là:
- Bán lẻ có cửa hàng (tại các siêu thị, chợ, cửa hàng tiện ích,…)
- Bán lẻ không có cửa hàng (bán hàng qua điện thoại, catalog, internet, qua
máy bán hàng tự động,.v.v)
Dựa vào loại hình sở hữu có ba hình thức bán lẻ (theo Retailing
management – Levy):
- Hình thức bán lẻ do tư nhân làm chủ
- Hình thức bán lẻ do công ty làm chủ
- Hình thức bán lẻ nhượng quyền
II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
1. Thị trường bán lẻ đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng
Hàng hóa sản xuất ra có thể được phân phối trực tiếp đến tay người tiêu
dùng hoặc thông qua các kênh trung gian. Hình thức phân phối qua trung gian
còn gọi là phân phối gián tiếp.
9
Trong nền sản xuất chuyên môn hóa hiện nay, kênh phân phối trực tiếp
ngày càng trở nên ít phổ biến do doanh nghiệp sản xuất phải dành một khoản đầu
tư tương đối lớn cho hoạt động phân phối. Hình thức này không thể phù hợp với
các doanh nghiệp quy mô vừa hoặc nhỏ. Trong khi đó, phương thức phân phối
hàng hóa gián tiếp lại thể hiện rõ ưu thế của mình. Bằng việc đưa hàng hóa do
doanh nghiệp mình sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua các
trung gian, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí và thời gian. Nhà bán lẻ
đóng vai trò là người trung gian cuối cùng trong khâu phân phối hàng hóa đến
tay người tiêu dùng. Tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của sản phẩm, quy mô
của doanh nghiệp sản xuất, nhà bán lẻ có thể đóng vai trò là trung gian duy nhất
hay là một trong các trung gian trong quá trình phân phối hàng hóa từ khi xuất
kho nhà sản xuất đến khi bán được cho người tiêu dùng cuối cùng.
2. Thị trường bán lẻ giúp cung cấp thông tin từ người tiêu dùng đến nhà sản
xuất và ngược lại
Trên thị trường bán lẻ, người bán và người mua có mối quan hệ trực tiếp.
Họ gặp gỡ và giao dịch với nhau. Nhờ đó, người bán lẻ thu được những thông tin
sơ cấp về khách hàng của mình. Nhà bán lẻ có cơ hội tìm hiểu và nghiên cứu
những nhu cầu của người tiêu dùng qua đó tìm cách đáp ứng được những nhu cầu
đó. Thông qua việc bán hàng đến người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán lẻ có thể
thu thập được những phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm, mẫu mã,
bao bì đóng gói,… Từ đó họ có thể truyền tải đến người sản xuất
Trong quá trình tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán
lẻ hoàn toàn có khả năng tìm hiểu những nhu cầu có thể xuất hiện trong tương lai
và giúp nhà sản xuất bắt kịp được những xu hướng thị trường để lên chiến lược
mở rộng sản xuất.
Ngược lại, nhà sản xuất cũng có thể thông qua thị trường bán lẻ để nghiên
cứu thái độ của thị trường khi đón nhận một sản phẩm hay kế hoạch sản xuất mới
trong tương lai.
10
Tóm lại, thông tin chính là chìa khóa dẫn đến thành công cho bất cứ doanh
nghiệp trong bất cứ ngành nào. Và nhờ vào những thông tin trên thị trường bán
lẻ, nhà sản xuất có thể điều chỉnh kế hoạch sản xuất, cải tiến sản phẩm theo
hướng thỏa mãn tối đa thị hiếu người tiêu dùng. Người tiêu dùng, nhờ vào việc
nghiên cứu những biến động trên thị trường cũng có thể điều chỉnh hành vi mua
sắm của mình theo hướng có lợi nhất với chi phí thấp nhất và tiết kiệm được thời
gian.
3. Thị trường bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh và mức sống
của người dân trong một quốc gia
Sự tồn tại của thị trường bán lẻ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và
phát triển của các ngành sản xuất trong xã hội. Mục đích của bất cứ ngành sản
xuất nào là tạo ra sản phẩm và bán đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy, sự
hoạt động của thị trường bán lẻ tạo điều kiện cho các ngành sản xuất, kinh doanh
tồn tại và hoạt động bình thường.
Thị trường bán lẻ không chỉ giải quyết đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho quá
trình sản xuất mà còn làm gia tăng GDP của quốc gia. Doanh thu bán lẻ trên mỗi
thị trường thể hiện sức khỏe của một nền kinh tế: quy mô, tình hình phát triển
hay những xu hướng trong nền kinh tế đất nước đó. Bên cạnh đó, những chuyển
dịch trên thị trường bán lẻ còn cho thấy sự thay đổi trong mức sống của người
dân. Thị trường bán lẻ tăng trưởng tốt đồng nghĩa với thu nhập trung bình của
người dân quốc gia đó đang tăng lên, sức mua cải thiện, chất lượng đời sống
nâng cao. Ngoài ra, bán lẻ cũng là khu vực thu hút lực lượng lao động lớn, góp
phần tạo ra công ăn việc làm cho một tỷ lệ lớn người lao động trên thế giới.
4. Thị trường bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã
hội
Bốn khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội gồm: sản xuất – phân phối –
trao đổi – tiêu dùng. Thị trường bán lẻ là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu
11
dùng. Do đó nó đảm bảo một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất trên.
Không có các hoạt động của thị trường bán lẻ thì quá trình tái sản xuất không thể
diễn ra được do đó không thể mở rộng phát triển nền kinh tế.
12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
CHÂU Á
I. CÁC XU THẾ NỔI BẬT TRÊN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á HIỆN
NAY
1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống
1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của người dân châu Á
Sự phát triển của hệ thống bán lẻ hiện đại xuất phát từ những thay đổi sâu
sắc trong xã hội các quốc gia châu Á.
Thứ nhất, thu nhập trung bình của châu lục này đã tăng lên một cách đáng
kể kéo theo sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu và thượng lưu với số lượng ngày
càng lớn.
Thứ hai, và cũng là nguyên nhân quan trọng hơn cả chính là sự thay đổi về
vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nếu những năm đầu của thế kỷ 20, tỷ lệ
phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động trên cả châu Á chưa đến 20% thì trong
thập kỷ đầu của thế kỷ 21, số lượng phụ nữ làm việc đã xấp xỉ số lượng nam giới.
Ở một số nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, … trung bình tỷ lệ nữ giới trên
nam giới trong lực lượng lao động là khoảng 91-93/100. Chính vì sự thay đổi
mang tính cách mạng đó, xu hướng tiêu dùng trong xã hội châu Á cũng thay đổi
mạnh mẽ. Khi ngày càng nhiều phụ nữ đi làm, họ có khuynh hướng tiết kiệm thời
gian mua sắm và nấu nướng của mình. Do vậy, những thực phẩm đã qua chế biến
ngày càng trở nên phổ biến.
Bên cạnh đó, việc sử dụng rộng rãi của tủ lạnh và các dụng cụ điện tử hiện
đại khác trong gia đình cho phép người dân có thể đi chợ hàng tuần, thay vì hàng
ngày như thời kỳ trước đây. Hơn nữa, do sự phát triển của các phương tiện cá
nhân và hệ thống đường xá, cơ sở hạ tầng được xây dựng và nâng cấp đã tạo điều
13
kiện cho người tiêu dùng, đặc biệt là phụ nữ có thể lựa chọn mua sắm ở các khu
vực xa trung tâm với số lượng hàng hóa mua sắm lớn hơn nhiều lần.
Theo các bản nghiên cứu thị trường của Nielsen được tiến hành vào năm
2008 và 2009, người dân ở hầu hết các đô thị lớn của các quốc gia châu Á
thường đi mua hàng ở các đại siêu thị trung bình hai đến ba lần/tháng. Mục đích
mua sắm của họ thường phục vụ cho việc dự trữ thực phẩm, mua lương thực sử
dụng hàng ngày hay các đồ dùng, sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Theo Nielsen
2009, Hàn Quốc nơi 96% dân cư thành thị đến siêu thị mua sắm hàng tháng giữ
tỷ lệ cao nhất so với các quốc gia châu Á còn lại.
Một nguyên nhân khác tạo nên sự thay đổi trong thói quen mua sắm của
người châu Á xuất phát từ chính sự điều chỉnh của các mô hình bán lẻ hiện đại.
Người châu Á, khác với người phương Tây, vốn có thói quen sử dụng những
thực phẩm tươi sống nên mô hình bán lẻ truyền thống như chợ từ lâu đã trở thành
một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân ở đây. Nhận thức được
điều đó, các siêu thị và đại siêu thị đã dần dần giới thiệu và xây dựng các quầy
bán hàng tươi sống như thịt gia súc, gia cầm, rau xanh để đáp ứng thị hiếu tiêu
dùng ở châu lục này. Hiện nay, cũng theo Nielsen, tỷ lệ người dân Trung Quốc
mua thực phẩm tươi sống từ chuỗi các đại siêu thị đang đứng đầu toàn châu Á
khi mô hình bán lẻ này được chọn là địa điểm mua sắm thường xuyên hàng tươi
sống cho hơn 60% người dân Trung Quốc hiện đang sinh sống ở các đô thị
(Nielsen 2009).
1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mô hình bán lẻ hiện đại
1.2.1 Lịch sử ra đời của các cửa hàng bán lẻ hiện đại
Tuy thói quen tiêu dùng của người châu Á chỉ thay đổi mạnh từ khoảng
nửa sau thế kỷ 20 nhưng trên thực tế, mô hình các cửa hàng mua sắm hiện đại đã
xuất hiện ở Trung Quốc từ đầu thế kỷ 20. Cửa hiệu mua sắm đầu tiên này được
xây dựng theo ý tưởng của một thương nhân Trung Quốc sống ở Australia. Một
14
số cửa hàng mua sắm hiện đại như Wing On và Sincere ở Thượng Hải mở cửa từ
trước năm 1949 vẫn duy trì hoạt động đến thời điểm này. Các trung tâm mua sắm
hiện đại bắt đầu được xây dựng với số lượng lớn trên khắp châu lục vào khoảng
những năm 1980 và bùng nổ vào khoảng những năm 1990 của thế kỷ trước.
Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại xuất hiện ở châu Á ngày một tăng.
Đặc biệt, cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, các nền kinh tế châu Á đã
và đang đón nhận những làn sóng đầu tư nước ngoài mạnh mẽ vào khu vực bán
lẻ hiện đại. Trong ba mô hình kinh doanh bán lẻ hiện đại là đại siêu thị, siêu thị
và cửa hàng tiện ích thì mô hình thứ ba được ghi nhận là tăng trưởng mạnh nhất
trong những năm vừa qua và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần.
1.2.2 Vị trí của hệ thống bán lẻ hiện đại trên thị trường hiện nay
Hệ thống bán lẻ hiện đại ngày một thể hiện ưu thế vượt trội so với hệ
thống bán lẻ truyền thống. Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2009, theo Nielsen
2009, số lượng các cửa hàng bán lẻ hàng tiêu dùng truyền thống trên khắp châu
Á chỉ tăng 1% lên khoảng hơn 12.3 triệu. Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại
tăng đến 16% trong năm 2009. Tốc độ tăng trưởng về số lượng chuỗi cửa hàng
bán lẻ truyền thống và hiện đại ở một số quốc gia được thể hiện trong bảng sau:
QUỐC GIA
HỆ THỐNG BÁN LẺ
TRUYỀN THỐNG
HỆ THỐNG BÁN LẺ
HIỆN ĐẠI
Hàn Quốc -10 +7
Đài Loan -9,5 0
Trung Quốc -4 +13
Ấn Độ +5 +18
Singapore -6 +1
Malaysia +3 +5
Bảng II.1: Tốc độ tăng trưởng số lượng các cửa hàng bán lẻ (%) 2007 – 2008
Nguồn: Nielsen 2009
15
Thị phần hệ thống bán lẻ hiện đại giành được cũng không ngừng tăng lên.
Tính đến hết năm 2007, hệ thống bán lẻ hiện đại đã giành thị phần lớn hơn các
loại hình bán lẻ truyền thống. Cụ thể ở một số nước châu Á: ở Hàn Quốc, thị
phần của hệ thống bán lẻ truyền thống giảm xuống từ 15.9% trong năm 2008
xuống chỉ còn 13.9% năm 2009 trong khi đó ở Đài Loan, hệ thống này chỉ nắm
giữ hơn 6% thị phần. Biểu đồ sau cho thấy sự thay đổi về thị phần của hai mô
hình bán lẻ truyền thống và hiện đại trên khắp châu Á nói chung.
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
35 39 41 44 46 48 50 52 53
65 61 59 56 54 52 50 48 47
Hệ thống bán lẻ hiện đại Hệ thống bán lẻ truyền thống
Biểu đồ II.1: Thị phần (%) của hệ thống bán lẻ truyền thống và hiện đại ở
Châu Á (trừ Nhật Bản)
Nguồn: Nielsen 2009
2. Sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ
ngày càng lớn
2.1 Tình hình mở rộng của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á
Châu Á vươn lên là khu vực phát triển nhanh nhất và năng động nhất thế
giới. Khu vực này ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước
ngoài, đặt biệt là các nền kinh tế được coi là những con rồng châu Á (Hàn Quốc,
Singapo, Đài Loan, Hồng Kông). Ngành công nghiệp bán lẻ châu Á trong những
năm gần đây luôn phát triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển trung bình
16
của ngành bán lẻ toàn cầu và thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ. Thị
trường châu Á thực sự chứng kiến sự đổ bộ của những nhà bán lẻ toàn cầu vào
những năm 1980 khi tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Pháp là Carrefour bắt đầu hiện
diện ở Đài Loan. Đặc biệt từ khi chính phủ Trung Quốc bắt đầu nới lỏng những
quy định hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thương mại bán lẻ, thị trường
Châu Á liên tục đánh dấu sự có mặt của những đại gia bán lẻ hàng đầu thế giới.
Tính đến thời điểm hiện tại, cả năm tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới (xét về quy
mô doanh số) là: Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro và
Schwarz (Đức) đều đã hoạt động ở Châu Á.
Vào những năm 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, các
nước Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore luôn là
những đích ngắm hấp dẫn nhất đối với các nhà bán lẻ thế giới. Sau sự xuất hiện
của Carrefour, Trung Quốc tiếp tục là điểm đến của Wal-mart và trở thành thị
trường chính của tập đoàn bán lẻ này ở châu Á.
Sang đến những năm đầu của thế kỷ 21, xu hướng đầu tư vào Trung Quốc
vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ toàn cầu đã bắt đầu
chuyển hướng sang một số thị trường mới nổi khác: các tiểu vương quốc Ả rập
thống nhất, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á (ASEAN). Các tiểu vương quốc Ả
Rập thống nhất với thu nhập quốc dân tính trên đầu người được xếp vào loại cao
trên thế giới và các chính sách thương mại ngày càng được điều chỉnh theo
hướng mở cửa đã thu hút một số lượng không nhỏ các nhà bán lẻ phương Tây,
đặc biệt là về lĩnh vực bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ. Các tập đoàn bán lẻ từ
châu Âu và Bắc Mỹ cũng ngày càng chú trọng hơn đến thị trường Đông Nam Á
đầy tiềm năng. Khu vực này được coi là một trong những khu vực năng động
nhất trong châu lục và nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới là Wal-mart hiện đã lên kế hoạch
xâm nhập thị trường này trong khoảng thời gian 5 năm tới.
17
2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ
2.2.1 Tài chính
Các tập đoàn bán lẻ lớn nhất của thế giới hiện diện trên thị trường châu Á
đều có lợi thế vượt trội về vốn. Chỉ tính riêng 4 đại gia đứng đầu danh sách 250
nhà bán lẻ toàn cầu là Wal-mart, Carrefour, Metro và Tesco đã có tổng doanh thu
vào khoảng gần 730 tỷ đô la trong năm 2008 với lợi nhuận thuần khoảng 20,6 tỷ
đô. Chỉ riêng Wal-mart đã có doanh thu bán lẻ năm 2008 là hơn 407 tỷ đô la.
Trong khi đó, tập đoàn bán lẻ AS Watson của Hồng Kông là tập đoàn bán lẻ
đứng đầu châu Á xét về quy mô doanh số thu được từ hoạt động bán lẻ cũng chỉ
đạt 15 tỷ đô la (Deloitte 2010, tr.13). Bên cạnh lợi thế vượt trội về mặt tài chính,
các tập đoàn bán lẻ toàn cầu này còn sở hữu hàng chục năm kinh nghiệm hoạt
động trên thị trường quốc tế. Đây là điểm mà phần lớn nhà bán lẻ châu Á chưa có
được.
Tài chính và kinh nghiệm là những lợi thế cạnh tranh ban đầu mà những
đại gia bán lẻ trên thế giới sở hữu khi thâm nhập vào thị trường châu Á. Nguồn
vốn khổng lồ là điều kiện ban đầu giúp các tập đoàn bán lẻ này xây dựng các
chiến lược thôn tính các thị trường châu Á. Tiềm lực tài chính hùng hậu cho phép
những tập đoàn này có thể xác định thua lỗ từ 5 đến 7 năm, thậm chí là 10 năm
khi bắt đầu hoạt động ở một thị trường mới. Bên cạnh đó, nguồn vốn khổng lồ
giúp các tập đoàn này có thể đầu tư lớn vào các hoạt động marketing xúc tiến bán
hàng, đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao do có khả năng chi trả những
mức lương hết sức cạnh tranh và xây dựng các chương trình chăm sóc khách
hàng thực sự hấp dẫn. Nguồn lực tài chính còn cho phép các tập đoàn bán lẻ này
ứng dụng những công nghệ quản lý hàng đầu, tăng hiệu quả hoạt động. Công
nghệ hiện đại chính là lợi thế vượt trội thứ hai giúp các tập đoàn này thành công
trên thị trường châu Á.
18
2.2.2 Công nghệ
Công nghệ, cùng với kinh nghiệm quản lý tiên tiến chính là bí quyết dẫn
đến thành công của các nhà bán lẻ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ khi mở rộng địa
bàn hoạt động sang các quốc gia châu Á. Hầu hết các nhà bán lẻ, đặc biệt trong
lĩnh vực kinh doanh thời trang, đều tiến hành việc thu thập thông tin trực tiếp
ngay từ điểm bán hàng. Thông tin này ngay sau đó sẽ được nhà bán lẻ tổng hợp
và xử lý và trao đổi với chính với những nhà cung cấp sản phẩm. Các kế hoạch
sản xuất cũng như xử lý hàng tồn kho nhanh chóng được xây dựng. CPRF - một
hệ thống tân tiến được nhiều nhà bán lẻ phương Tây lựa chọn, trong đó có công
ty thời trang Zara đến từ Tây Ban Nha cho phép nhà bán lẻ hợp tác với nhà cung
ứng đưa ra những dự báo và thử nghiệm tính khả thi trước khi áp dụng.
Một công nghệ hiện đại khác được nhiều tập đoàn hàng đầu như Wal-mart
(Mỹ) hay Metro (Đức) sử dụng là RFID. Đây là một hệ thống nhận dạng tự động
từ xa được tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới này áp dụng từ năm 2006. Mọi kiện
hàng phân phối đến các trung tâm bán lẻ của Wal-mart trên khắp thế giới đều
được gắn một con chip máy tính siêu nhỏ. Con chip này cho phép truyền tải mọi
thông tin về lô hàng và từng sản phẩm trong lô hàng đến với các máy tính chủ.
Việc gắn chip này không tốn nhiều chi phí, tiết kiệm sức lao động và đặc biệt có
thể chống trộm cướp, phát hiện hàng bị hư hỏng hay những thiếu sót trong quá
trình vận chuyển.
Trong công tác quản lý khách hàng, rất nhiều nhà bán lẻ phương Tây đã
áp dụng hệ thống CRM. Hệ thống hiện đại hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp
trong việc đưa ra các chiến lược, chương trình hướng tới đội ngũ khách hàng
thân thiết, một nguồn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Ưu điểm của hệ thống này là nó thích hợp với mọi loại hình kinh
doanh, từ các hàng bán đồ ăn nhanh bình dân tới các trung tâm thương mại xa xỉ.
Ngoài ra, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu liên tục lắp đặt các thiết bị ngay
trong các khu bán hàng của mình để hỗ trợ khách hàng và nhân viên. Ở một số
địa điểm bán hàng tại châu Á, Metro đã lắp đặt những máy scan tinh vi cho phép
19
khách hàng thanh toán không cần sự có mặt của nhân viên thu ngân và tiết kiệm
thời gian chờ đợi trong những thời điểm quá đông khách đến mua sắm. Sắp tới,
tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Đức này đang lên kế hoạch sẽ thử nghiệm hỗ trợ
khách hàng trong khi mua sắm bằng cách cung cấp cho họ một máy tính nhỏ
giúp họ nhanh chóng tìm được mặt hàng cần mua và nơi đặt món hàng đó.
2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á
2.3.1 Carrefour
Người khổng lồ đến từ Pháp Carrefour là tập đoàn bán lẻ phương Tây đầu
tiên thâm nhập thị trường châu Á. Vào năm 1989, tập đoàn này đã bắt tay với
một công ty cổ phần của Đài Loan là Uni President Enterprises Corporation. Sau
khi gặt hái được những kinh nghiệm từ các hoạt động kinh doanh ở thị trường
Đài Loan, Carrefour nhanh chóng mở rộng phạm vi sang các quốc gia châu Á
khác, bao gồm các quốc gia tiểu vương quốc Ả Rập và một số nước Nam Á như
Pakistan (Wikipedia 2010).
Năm 2007 đánh dấu một cột mốc trong lịch sử phát triển của đại gia bán lẻ
lớn thứ hai thế giới này ở châu Á khi tập đoàn cho ra đời 36 đại siêu thị ở châu
lục này. Tính riêng ở Trung Quốc con số đại siêu thị được xây dựng trong năm
2007 đã là 22. Đây là số lượng lớn chưa từng thấy trong một năm (Wikipedia
2010).
Nhân tố dẫn đến thành công của nhà bán lẻ này khi mở rộng hoạt động
sang các nước khác nói chung và châu Á nói riêng chính là ở cách quản lý linh
hoạt và đặc biệt là việc phân cấp quản lý theo đó cho phép người lãnh đạo trên
mỗi thị trường được toàn quyền ra những quyết định liên quan tới việc điều chỉnh
kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp với tập quán và truyền thống của từng thị
trường cụ thể. Vì vậy, thành công của Carrefour trên thị trường châu Á theo như
quản lý tập đoàn này tổng kết là do họ đã thích nghi được với tình hình đặc trưng
của châu lục. Carrefour theo đuổi chiến lược kinh doanh với các mô hình bán lẻ
vô cùng phong phú, từ các đại siêu thị đến các cửa hàng tiện ích. Bằng cách đa
20
dạng hóa hệ thống cửa hàng bán lẻ của mình, Carrefour đã tận dụng được tính
kinh tế của chi phí bằng việc chia xẻ chi phí cho các hoạt động hậu cần,
marketing, nghiên cứu,… giữa các mô hình kinh doanh khác nhau.
2.3.2 Wal-mart
Tập đoàn bán lẻ có trụ sở đặt tại bang Arkansas (Hoa Kỳ) này là nhà bán
lẻ lớn nhất thế giới với doanh thu hàng năm lên tới 400 tỷ đô la Mỹ. Số lượng lao
động làm việc cho Wal-mart gần 2 triệu người (tính đến hết năm 2008), trong đó
có đến 500.000 lao động ở các thị trường ngoài nước Mỹ. Thông qua hơn 2500
cửa hàng của mình ở nước ngoài, Wal-mart phục vụ cho khoảng hơn 140 triệu
khách hàng mỗi tuần (Wal-mart Corporate 2010).
Trên thị trường châu Á, người khổng lồ này tập trung chính vào hai thị
trường là Nhật Bản và Trung Quốc. Wal-mart bắt đầu kinh doanh trên thị trường
quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 1996. Liên tục sau đó, tập đoàn này mở
thêm các cửa hàng bán lẻ của mình ở Hàn Quốc (1997) và Nhật Bản (2002). Và
chỉ sau 10 năm, nhà bán lẻ này đã có hơn 50 trung tâm bán lẻ (supercenter) chỉ
tính trên thị trường Trung Quốc. Cùng trong năm 2006, Wal-mart đã thành công
trong việc mua lại tập đoàn bán lẻ lớn nhất ở Trung Quốc vào thời điểm đó là
Trust-Mart và trở thành nhà bán lẻ số một trên thị trường này. Các trung tâm bán
lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc trưng bày và bán hơn 20.000 chủng loại sản
phẩm, bao gồm cả đồ điện tử, thiết bị gia dụng bên cạnh các loại lương thực, thực
phẩm khác (Wal-mart Corporate 2010). Thành công của nhà bán lẻ trên thị
trường có sức mua lớn nhất toàn cầu này là đã biết kết hợp những ưu điểm của
mô hình kinh doanh siêu thị và các khu trung tâm mua sắm. Loại hình trung tâm
bán lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc tạo cho khách hàng sự thuận lợi trong việc
mua sắm hàng hóa tiêu dùng hàng ngày cũng như những thiết bị lâu bền sử dụng
trong gia đình chỉ với việc đi đến một địa điểm trong cùng một khoảng thời gian.
Các trung tâm bán lẻ này còn giúp Wal-mart tiết kiệm được chi phí nhân công
một cách đáng kể. Thay vì phải thuê số lượng lao động tương ứng với một siêu
thị và một trung tâm mua sắm, bằng việc thiết lập các trung tâm bán lẻ, số lượng
21
nhân viên chỉ cần một phần hai trong khi doanh số vẫn được duy trì ngang với
việc mở cả hai loại hình kể trên.
Một trong những bí quyết thành công của Wal-mart khi mở rộng hoạt
động ra toàn cầu chính là việc áp dụng công nghệ cao, đặt biệt là RFID như đã
phân tích ở trên. Nhà bán lẻ này đã chọn chính châu Á để thử nghiệm cho tính
khả dụng của công nghệ này và ngay lập tức đã gặt hái được kết quả tốt đẹp. Bên
cạnh đó, thành công của Wal-mart ở châu Á đạt được còn là nhờ vào chiến lược
xây dựng niềm tin từ các nhà sản xuất bằng việc thu hút họ vào các sáng kiến
hoạt động quy mô lớn. Nhà bán lẻ này bỏ rất nhiều công sức lựa chọn một chuỗi
những nhà sản xuất và giữ quan hệ lâu bền và tốt đẹp với họ. Do đó, tập đoàn này
luôn đảm bảo nguồn hàng hóa giá rẻ nhất trên thị trường. Ở thị trường châu Á
nơi đa số người dân còn quan tâm nhiều hơn đến giá cả hàng hóa, lợi thế về giá
của Wal-mart gần như không tập đoàn nào có thể cạnh tranh được.
2.3.3 Tesco
Tesco là tập đoàn bán lẻ nằm trong top 5 nhà bán lẻ lớn nhất thế giới năm
2009 dựa trên doanh số bán lẻ đồng thời là nhà bán lẻ lớn nhất ở Anh Quốc.
Tesco bắt đầu xâm nhập thị trường châu Á vào cuối những năm 1980,
hiện nay tập đoàn này đã trở thành một trong những nhà bán lẻ phương Tây lớn
nhất trên thị trường châu lục này, là đối thủ cạnh tranh chính của Carrefour và
Walmart. Sự phát triển của Tesco ở châu Á có thể thấy qua một số biểu đồ sau:
Biểu đồ II.2: Số lượng các cơ sở bán lẻ và doanh thu của Tesco trên thị
trường châu Á 2000-2008
Nguồn: Tesco 2008, tr.17-21
Có thể thấy qua hai biểu đồ trên, quy mô hoạt động kinh doanh của Tesco
ở châu Á không ngừng tăng lên. Tesco hiện đã giành được lợi thế cạnh tranh trên
hai thị trường lớn nhất ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ. Để có được thành
công trên thị trường châu Á, Tesco đã theo đuổi chiến lược kinh doanh linh hoạt.
Tập đoàn này không chỉ tập trung vào hình thức đại siêu thị như ở khu vực Tây
22
Âu
mà
còn đa dạng hóa các mô hình kinh doanh khác, đặc biệt là các siêu thị, siêu thị
nhỏ, cửa hàng tiện ích. Các hệ thống trung tâm bán lẻ của Tesco như Home plus
hay Homever đã trở nên phổ biến cả ở các thành phố, trung tâm mua sắm mới và
về cả vùng nông thôn.
Đặc biệt, sự thành công của Tesco nằm ở chiến lược kinh doanh lấy khách
hàng bản địa là trung tâm, đặc biệt chú ý việc đáp ứng những nhu cầu mới xuất
hiện của người dân châu Á. Điều khác biệt mà tập đoàn này đang cố gắng tạo
dựng cho mình là trở thành nhà bán lẻ đầu tiên phát hiện và tìm cách thỏa mãn
thị hiếu khách hàng. Bên cạnh đó, nhà bán lẻ này cũng ngày một chú trọng hơn
vào các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, gây dựng được hình ảnh một công ty
nước ngoài kinh doanh có trách nhiệm trên mỗi thị trường mà Tesco có mặt.
3. Một số công ty bán lẻ gốc Châu Á không ngừng mở rộng phạm vi kinh
doanh vượt khỏi biên giới quốc gia, khu vực
23
2000 2004 20080
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
26
200
885
437
2847
5988
số lượng các cơ sở bán lẻ doanh số
triệ
u Eu
ro
Trong bảng xếp hạng những nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hàng năm đều
xuất hiện những tên tuổi của các nhà bán lẻ châu Á. Những nhà bán lẻ châu Á
này không những thành công trong việc giữ vững thị phần trên thị trường nội địa
trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các tập đoàn Âu Mỹ mà còn ngày
càng mở rộng sang các thị trường trong cùng khu vực, thậm chí sang cả những
thị trường vốn là sân nhà của các tập đoàn hàng đầu thế giới. Một số tên tuổi tiêu
biểu có thể kể đến tập đoàn Lotte, Shinsegae của Hàn Quốc; Dailian, Bailian,
Gome Home Aplliance của Trung Quốc;… Trong khuôn khổ có hạn của một bài
khóa luận, tôi xin được đưa ra phân tích hai tập đoàn bán lẻ của châu Á hiện đang
rất thành công và liên tục có mặt trên những bảng xếp hạng những nhà bán lẻ lớn
nhất thế giới: AS Watson và Dairy Farm.
3.1 AS Watson
Chuỗi cửa hàng bán lẻ hàng mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe
Watson là một nhãn hiệu bán lẻ hàng đầu ở châu Á. Tiền thân của chuỗi cửa
hàng này là một cửa hiệu chuyên cung cấp thuốc cho người nghèo ở tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc từ năm 1828. Sau khi trải qua một số thay đổi về mô hình
hoạt động và chủ doanh nghiệp, năm 1871, một loạt hiệu thuốc mang tên Watson
ra đời. Hiện nay, chủ sỡ hữu của hệ thống các cửa hàng bán lẻ Watson là tập
đoàn Hutchinson có trụ sở chính ở Hồng Kông.
Từ năm 2005 đến nay, tập đoàn này đã từng giữ vị trí số 1 trong lĩnh vực
bán lẻ thuốc, mỹ phẩm và các sản phẩm bảo vệ sức khỏe. Theo nghiên cứu của
tập đoàn, mỗi tuần nhà bán lẻ này phục vụ hơn 25 triệu khách hàng trên khắp thế
giới. Hiện tập đoàn này đã hoạt động ở 34 quốc gia với hơn 87.000 lao động. 10
thị trường châu Á của tập đoàn này bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông,
Đài Loan, Macau, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philipin và Hàn Quốc. Chỉ tính
riêng ở Hồng Kông, tính đến hết năm 2009, Watson đã mở cửa 150 cửa hàng và
thuê đến 2000 nhân viên. Kế hoạch trong 2 năm tới (2010 và 2011), Watson dự
24
định nâng số lượng cửa hàng của mình ở Trung Quốc lên 1000 và số lượng cửa
hàng bán lẻ toàn cầu lên 10000 (AS Watson Group 2009).
Phương châm kinh doanh của Watson là mang đến cho khách hàng trên
khắp thế giới những dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp, những kinh nghiệm mua sắm
thú vị và cam kết đem đến cho khách hàng của mình giá trị lớn nhất mỗi ngày.
Các sản phẩm bày bán trong chuỗi các cửa hàng Watson có mức độ cá biệt hóa
cao với chất lượng được chuẩn hóa và đảm bảo tối đa. Ngoài mặt hàng chính là
thuốc và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, nhà bán lẻ khổng lồ Watson còn mở
rộng kinh doanh bằng việc mở một số siêu thị chuyên bán buôn và phân phối đồ
uống: nước ngọt, rượu, bia và một số sản phẩm trà. Các cửa hàng trưng bày của
Watson cũng luôn được chú trọng về tính thẩm mỹ, và góp phần quan trọng trong
việc thu hút khách hàng.
3.2 Dairy Farm
Dairy Farm là một công ty đa quốc gia, thành viên của tập đoàn Jardine
Matheson. Nhà bán lẻ này được xếp thứ 128 trên bảng xếp hạng 250 nhà bán lẻ
toàn cầu. Lịch sử của Dairy Farm bắt đầu từ thế kỷ 19 tại Hồng Kông. Khi mới ra
đời, lĩnh vực kinh doanh chính của Dairy Farm là các sản phẩm liên quan tới sữa.
Cùng với thời gian, Dairy Farm đã mở rộng và trở thành một trong những tập
đoàn bán lẻ uy tín và năng động nhất châu Á. Doanh thu bán lẻ 2008 của Dairy
Farm đạt 6,7 tỷ đô la Mỹ và lợi nhuận gần 350 triệu đô (Deloitte 2010, tr.16).
Thành công của Dairy Farm đạt được là vì tập đoàn này đã biết cách đa
dạng hóa các mô hinh kinh doanh, bao gồm: siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng
chuyên doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, cửa hàng tiện ích, nội thất và
gần đây là cả các tiệm ăn cao cấp. Các thương hiệu quen thuộc trên các thị
trường châu Á như siêu thị Wellcome, ThreeSixty, Shop N Save, Hero; đại siêu
thị Giant; chuỗi cửa hàng chăm sóc sắc đẹp Mannings, Guardian; hàng loạt cửa
hàng tiện ích 7-Eleven (theo hợp đồng nhượng quyền của tập đoàn 7-Elenven,
Hoa Kỳ) ở Hồng Kông, Trung Quốc, Singapo hay nhãn hiệu Starmart; Cửa hàng
25
nội thất IKEA;… đều thuộc quyền sở hữu của Dairy Farm. Tập đoàn này còn
nắm giữ 50% cổ phần của chuỗi hàng ăn uống cao cấp nhất Hồng Kông là
Maxim’s.
Một chiến lược khá quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu Dairy
Farm trên thị trường châu Á là tập đoàn này rất quan tâm đến việc củng cố tên
tuổi của mình thông qua các hoạt động vì cộng đồng. Hoạt động gần đây nhất của
Dairy Farm đã hòa theo trào lưu “xanh” trên khắp thế giới. Đó là việc họ vận
động các chuỗi cửa hàng của mình cũng như khách hàng đến mua sắm không sử
dụng túi nilon mà thay vào đó là các túi vải thân thiện với môi trường. Tập đoàn
này cũng thực hiện những kế hoạch thu nhỏ kích cỡ hóa đơn và nhãn giá hàng
hóa nhằm tiết kiệm giấy cho Trái Đất. Bên cạnh đó, Dairy Farm cũng là một
trong những nhà bán lẻ châu Á hoạt động từ thiện mạnh mẽ nhất, như tham gia
ủng hộ thường niên quỹ bệnh nhân bệnh tim, trẻ em nghèo, các quỹ vì sự phát
triển của thanh thiếu niên hay chung tay trong cuộc tái thiết tỉnh Tứ Xuyên sau
vụ động đất lịch sử giữa năm 2009. Nhờ vào những hoạt động này, Dairy Farm
đã gây dựng được một hình ảnh hết sức thân thiện trong đời sống hàng ngày của
người dân châu Á.
II. TIỀM NĂNG VÀ NHỮNG KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG
TƯƠNG LAI
1. Tiềm năng
1.1 Thị trường bán lẻ châu Á vẫn đang ở giai đoạn trưởng thành trong khi
các thị trường ở Âu Mỹ đã rơi vào giai đoạn bão hòa
Thị trường bán lẻ châu Á trong những năm gần đây luôn được đánh giá là
thị trường hấp dẫn nhất trên thế giới. Các nền kinh tế được gọi là những con rồng
và những con hổ châu Á chứng kiến những bước tăng trưởng ấn tượng, đa số đều
ở mức trên 5%/năm và được dự đoán sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thời gian
26
tới. Trong khi đó, thị trường bán lẻ Tây Âu và Bắc Mỹ hầu hết đều trải qua giai
đoạn tăng trưởng từ những năm cuối thế kỷ 20 và hiện nay một số thị trường lớn
đã trở nên bão hòa.
Hậu quả từ cơn bão khủng hoảng tài chính 2008 đã đem lại cục diện mới
cho nền kinh tế thế giới. Các nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Anh, Đức đều
công bố rơi vào suy thoái. Doanh thu bán lẻ trên các thị trường phát triển nhất
toàn cầu đều sụt giảm trầm trọng. Trong khi đó, thị trường bán lẻ châu Á vẫn tiếp
tục ghi nhận tăng trưởng mạnh, đặc biệt là doanh thu từ phân đoạn các mặt hàng
tiêu dùng nhanh (FMCG). Khối lượng sản phẩm bán ra ở hầu hết các quốc gia
đều tăng vào năm 2008, cá biệt ở một số quốc gia, tỷ lệ tăng trưởng còn đạt mức
hai con số. Biểu đồ sau cho thấy tình hình tăng trưởng về khối lượng FMCG ở
một số quốc gia châu Á (Nielsen 2009).
Singapo Ấn Độ Việt Nam Trung Quốc
69
18
9
Chart Title
Biểu đồ II.3: Tỷ lệ tăng trưởng FMCG (%) tính đến tháng 3 năm 2009
Nguồn: Nielsen 2009
Theo bảng xếp hạng “chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu” - GRDI của A.T
Kearney về những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, các quốc gia châu Á
luôn giành được những thứ hạng cao trong tổng số 30 quốc gia được xếp hạng.
Những vị trí số 1 trong những năm gần đây đều thuộc về các nước châu Á (cụ thể
năm 2008, Việt Nam là thị trường hấp dẫn nhất; năm 2009: vị trí này thuộc về
Ấn Độ). Chúng ta có thể xem danh sách những quốc gia châu Á được lọt vào
bảng xếp hạng này năm 2008 và 2009:
27
QUỐC GIA
THỨ TỰ
TRÊN BẢNG
XẾP HẠNG
2009
SỐ ĐIỂM
GRDI
2009
THỨ TỰ
XẾP HẠNG
NĂM 2008
THAY
ĐỔI VỀ
THỨ
TỰ
Ấn Độ 01 68 02 +1
Trung Quốc 03 56 04 +1
Các tiểu vương quốc Ả Rập 04 56 20 +16
Ả Rập Xê Út 05 56 07 +2
Việt Nam 06 55 01 -5
Malaysia 10 51 13 +3
Indonesia 22 46 15 -7
Philipin 25 41 26 +1
Thái Lan 26 40 24 -2
Bảng II.2: Các quốc gia châu Á được xếp hạng 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn
nhất thế giới
Nguồn: A.T Kearney2009, tr.5
28
1.2 Châu lục đông dân nhất thế giới, dân số trẻ và sức mua tăng
Mặc dù diện tích châu Á chỉ chiếm chưa đến 30% diện tích lục địa song số
dân châu Á hiện nay chiếm đến 60% dân số toàn cầu và hàng năm vẫn là châu
lục có tỷ lệ tăng dân số cao nhất thế giới.
Bên cạnh Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á là khu vực có tỷ lệ tăng dân
số ở vào mức cao nhất trong châu lục và trên thế giới. Trong 5 năm vừa qua
(2004-2009) tỷ lệ này ở vào khoảng 1.2%/năm và được dự báo chỉ tăng trưởng
chậm lại trong vòng 15 đến 20 năm nữa (vào khoảng 0.7%/năm trong khoảng
2025-2050).
Khu vực Trung Đông (các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Ả Rập
Xê Út) tuy có quy mô dân số tương đối nhỏ hơn nếu so với khu vực Đông Nam
Á song có đến 80% dân số là dân thành thị, tỷ lệ dân số trẻ dưới 25 tuổi cũng ở
mức khá cao, chiếm tới 60% dân số (A.T Kearney 2009, tr.11).
Đây cũng là khu vực có dân số trẻ với nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh trong
những năm vừa qua. Lượng cầu nội địa ở châu Á đã giúp nền kinh tế châu lục
này chống chọi với khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 và đảm bảo cho
tăng trưởng kinh tế ở khu vực vẫn duy trì ở mức cao. Hầu hết các nền kinh tế
châu Á vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi và một tỷ lệ lớn các quốc gia này
đang dần điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế tập trung vào khai thác, đẩy
mạnh nhu cầu tiêu dùng nội địa của người dân. Xã hội châu Á hiện đang xuất
hiện một bộ phận không nhỏ người dân có nhu cầu và khả năng chi trả cho việc
mua sắm, tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ, những nhãn hiệu thời trang toàn cầu
ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng. Vì vậy, mảng thị trường hàng xa xỉ trong
thời gian tới được hứa hẹn sẽ chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ, là vùng đất đầy
tiềm năng cho các nhãn hiệu thời trang, hàng tiêu dùng hàng đầu thế giới.
1.3 Chính phủ các quốc gia châu Á dần điều chỉnh các chính sách thương
mại theo hướng mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ
29
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra từ Thái Lan năm 1997 và ảnh
hưởng hầu hết đến các quốc gia châu Á khác đã khiến Chính phủ các quốc gia
này từng nghĩ đến việc đóng cửa các thị trường của mình nhằm hạn chế sự tiếp
xúc với toàn cầu hóa. Tuy nhiên, quan niệm này đã nhanh chóng được loại bỏ khi
họ dần nhận thức được rằng khủng hoảng gây tác động xấu đến nền kinh tế do cơ
cấu nền kinh tế của đất nước chưa hợp lý và hiệu quả. Đồng thời, những lợi ích
to lớn mà toàn cầu hóa đem lại là không thể phủ nhận. Vì vậy, sau khi khủng
hoảng tài chính, các quốc gia châu Á lại theo đuổi các chính sách hội nhập sâu
rộng và mở cửa hầu hết các thị trường của mình, đặc biệt là thị trường bán lẻ.
Trong khu vực châu Á, khu vực Đông Á là khu vực phát triển và năng
động nhất, bao gồm 10 quốc gia ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và
Đài Loan. Cụ thể ở một số thị trường như sau: Indonesia nâng mức vốn đầu tư
nước ngoài vào khu vực bán lẻ từ 49% lên 100%. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ vốn tối thiểu
các nhà bán lẻ nước ngoài có thể đầu tư từ 15-20% hiện đã tăng lên 100%. Bên
cạnh đó, nước này còn sửa đổi Bộ Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài xóa bỏ mọi
hạn chế về việc sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực đất đai, bất động sản. Malaysia
hiện đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ của mình (World Bank 2000, tr.146-
149). Trung Quốc sau 3 năm gia nhập WTO, từ thời điểm tháng 12 năm 2004 đã
thực hiện đầy đủ cam kết mở cửa thị trường bán lẻ, cho phép các công ty bán lẻ
nước ngoài được vào thị trường nội địa. Bên cạnh đó, nước này cũng đang dần
nới lỏng những quy định yêu cầu những nhà bán lẻ nước ngoài khi vào nước này
mở các cửa hàng bán lẻ phải xin phép từ chính phủ Trung Ương (Business in
Asia 2005).
Ở khu vực Nam Á, Ấn Độ trở thành thị trường hấp dẫn nhất. Thị trường
Ấn Độ được xếp hạng nhất trong các thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới năm
2009 (A.T Kearney 2009, tr.5). Nước này đã cho phép nhà đầu tư được mở các
cơ sở bán sỉ “cash and carry” 100% vốn trực tiếp.
2. Khuynh hướng phát triển trên thị trường bán lẻ châu Á trong tương lai
30
2.1 Thương mại điện tử sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ
Cơ quan thống kê số liệu liên quan đến Internet thế giới (Internet world
stats) cho biết số lượng người sử dụng Internet hàng ngày ở châu Á tính đến thời
điểm cuối quý hai năm 2009 chiếm đến gần 43% tổng số người dùng Internet
trên toàn thế giới. Theo đó, châu Á có hơn 738,2 triệu người sử dụng Internet.
Tính từ năm 2002 đến 2009, số lượng này đã tăng 545,9%, tỷ lệ tăng nhanh nhất
toàn thế giới (Internet World Stats 2009). Đặc biệt, số lượng người dùng Internet
không chỉ tập trung ở thành thị, các thành phố lớn mà ngày càng mở rộng sang
các vùng nông thôn. Dự báo Internet ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội
châu Á.
Trước cơ hội đầy hứa hẹn về một kênh bán lẻ hiện đại và mang đến những
ưu thế vượt trội như vậy, các nhà bán lẻ châu Á vẫn chưa khai thác triệt để.
Thương mại điện tử hiện mới chỉ chiếm giữ một phần khá khiêm tốn trong hoạt
động của các doanh nghiệp bán lẻ đến từ châu Á. Theo báo cáo về bán lẻ toàn
cầu năm 2009 mà Deloitte đưa ra thì doanh thu bán lẻ từ thương mại điện tử mới
chỉ chiếm khoảng 0.6% tổng doanh thu của bán lẻ của khu vực châu Á (Deloitte
2010, tr.31). Vì vậy, chắc chắn trong thời gian tới, các doanh nghiệp bán lẻ trên
thị trường sẽ đầu tư nhiều hơn vào việc triển khai kênh bán hàng đầy tiềm năng
này vì đây là phương thức kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp bán lẻ châu Á
rất nhiều lợi ích:
Thứ nhất, trong tình hình giá thuê mặt bằng ở các nền kinh tế sôi động
nhất châu Á như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Việt Nam, .v.v. liên tục tăng
và nguồn cung còn hạn chế, việc bán hàng qua mạng giúp các doanh nghiệp bán
lẻ không phải chú ý nhiều đến việc thuê mặt bằng trưng bày hàng hóa. Chi phí
thuê cửa hàng có thể được tiết kiệm đáng kể.
Thứ hai, thương mại điện tử giúp các nhà bán lẻ có thể tiếp cận được với
nguồn khách hàng lớn hơn nhiều. Địa bàn hoạt động hoàn toàn có thể mở rộng,
không chỉ giới hạn ở một khu vực nhất định như việc bán hàng trực tiếp thông
31
qua các cửa hàng, khu mua sắm. Những nhà bán lẻ lựa chọn thêm kênh bán hàng
này thậm chí có thể vươn tới những thị trường ở ngoài quốc gia mình với chi phí
thấp nhất. Ngoài ra, thời gian hoạt động khi bán hàng qua mạng cũng sẽ linh hoạt
hơn rất nhiều, cho phép doanh nghiệp hoạt động đến 24 giờ mỗi ngày.
Thứ ba, thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp bán lẻ nhỏ có thế cân
bằng hơn với các doanh nghiệp lớn do quy mô các doanh nghiệp không phải là
nhân tố quyết định nhất đối với sự thành công của các doanh nghiệp bán lẻ
thương mại điện tử. Thương mại điện tử sẽ là một trong những lựa chọn hàng
đầu của các doanh nghiệp bán lẻ mới nổi ở châu Á trong quá trình cạnh tranh với
các đại gia bán lẻ phương Tây như Carrefour hay Wal-mart.
Một lợi ích rõ ràng mà hoạt động bán lẻ qua mạng có thể đem lại chính là
nó giúp doanh nghiệp dễ dàng tiến hành các hoạt động nghiên cứu hành vi tiêu
dùng của khách hàng, tìm hiểu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong khi đó, người tiêu dùng cũng thu được rất nhiều lợi ích khi mua
hàng qua các cửa hàng điện tử này. Người dân châu Á hiện nay, đặc biệt là người
dân ở các quốc gia công nghiệp mới phát triển hay đang phát triển đang có xu
hướng tiết kiệm tối đa thời gian mua sắm và lựa chọn hàng hóa của mình.
Thương mại điện tử cung cấp cho họ những lựa chọn tối ưu nhất trong thời gian
ngắn nhất.
2.2 Nhượng quyền thương mại trên thị trường bán lẻ sẽ ngày càng phổ biến
2.2.1 Khái niệm về nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại (thuật ngữ Tiếng Anh: franchising) có lịch sử
từ nước Mỹ. Đây là một ý tưởng kinh doanh được thực hiện giữa hai bên: phía
chuyển giao quyền và phía mua quyền. Phía chuyển giao quyền có thể là một tổ
chức: công ty sản xuất hàng hóa hay dịch vụ. Phía mua quyền thường là những
cá nhân hay cũng có thể gặp một số tổ chức kinh doanh độc lập. Hợp đồng
32
nhượng quyền được thiết lập trên cơ sở người mua quyền phải trả hai loại phí cho
bên chuyển giao: tiền bản quyền thương hiệu và phí để được thực hiện các hoạt
động kinh doanh với tên và công nghệ của phía chuyển giao (thường được tính
trên doanh số hàng tháng hoặc hàng năm). Đồng thời, bên mua cũng phải cam
kết với bên nhượng quyền phải tổ chức kinh doanh theo đúng tiêu chuẩn và quy
trình được quy định bởi phía chuyển giao.
2.2.2 Hoạt động nhượng quyền trên thị trường bán lẻ châu Á
Hoạt động nhượng quyền diễn ra khá mạnh mẽ trên thị trường bán lẻ châu
Á trong thời gian qua, đặc biệt là việc nhượng quyền các cửa hàng tiện ích
(convenience store). 7-Eleven, chuỗi cửa hàng tiện ích bán lẻ lớn nhất thế giới có
trụ sở chính đặt ở Dallas, Hoa Kỳ là thương hiệu có hoạt động chuyển nhượng
thành công nhất ở châu Á tính đến thời điểm này. 7-Eleven đã chuyển nhượng
thành công gần 30,000 cửa hàng tiện ích ở 14 quốc gia, bao gồm các thị trường
chủ yếu ở châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan.
7-Eleven hiện nay đang tiến hành hai mô hình nhượng quyền ở thị trường châu
Á: mô hình nhượng quyền truyền thống dành cho các cá nhân hay công ty bắt
đầu hoạt động và chương trình chuyển đổi mô hình kinh doanh cho các cá nhân,
tổ chức kinh doanh hiện hữu (7-Eleven 2010). Dairy Farm, một trong những nhà
bán lẻ châu Á thành công nhất cũng đang đẩy mạnh các hoạt động chuyển
nhượng của mình trên các thị trường mới nổi của châu Á. Đây là doanh nghiệp
đầu tiên và duy nhất ở châu Á thực hiện hoạt động nhượng quyền các cửa hàng
chuyên kinh doanh sản phẩm liên quan đến sữa.
Trong thời gian tới, hoạt động nhượng quyền sẽ tiếp tục phát triển trên thị
trường bán lẻ châu Á, đặc biệt là việc nhượng quyền các mô hình bán lẻ qua các
cửa hàng tiện ích do những đặc thù của thị trường này.
33
Thứ nhất, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài khi muốn đặt chân vào châu Á
nhưng chưa đủ khả năng để nghiên cứu hay chưa thực sự nắm rõ về thị trường
này có thể phát triển mạng lưới mà không phải trực tiếp điều hành hoạt động của
các cửa hàng. Hoạt động nhượng quyền cho phép họ bắt tay với các doanh
nghiệp/cá nhân ở châu Á. Phía mua quyền này thường có hiểu biết nhất định về
thị trường nội địa, dễ dàng tìm kiếm các nguồn cung hàng ổn định, giá hợp lý. Do
vậy, phía mua quyền sẽ giúp quảng bá nhãn hiệu được chuyển nhượng.
Thứ hai, đối với các nhà bán lẻ châu Á, tiến hành mua nhượng quyền tỏ ra
khá phù hợp với những doanh nghiệp vừa và nhỏ hay các cá nhân. Do đặc thù
của hoạt động nhượng quyền là chi phí bỏ ra không lớn bằng việc gây dựng
thương hiệu và cửa hàng kinh doanh hoàn toàn mới, việc mua nhượng quyền sẽ
trở nên hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, hoạt động theo các hợp đồng nhượng quyền từ
các nhà bán lẻ lớn, có tên tuổi, bên mua quyền được tiếp thu nhiều về kinh
nghiệm quản lý, tổ chức chuỗi cửa hàng. Thông thường, bên được nhượng quyền
sẽ được bên chuyển giao quyền hỗ trợ trong quá trình xây dựng, thiết kế gian
hàng hay lựa chọn danh mục hàng hóa, và kể cả việc đào tạo nhân viên. Điều này
có ý nghĩa rất quan trọng đối với những tổ chức mới hoạt động, thiếu kinh
nghiệm kinh doanh.
2.3 Xu hướng M&A ngày một gia tăng
2.3.1 Khái niệm M&A trên thị trường bán lẻ
- Mua lại (Acquisition): là việc một doanh nghiệp bán lẻ có tiềm lực tài
chính mua lại hoặc thôn tính một doanh nghiệp khác. Trong trường hợp này
không có pháp nhân mới nào ra đời và thông thường doanh nghiệp bị thôn tính sẽ
không còn tồn tại trên cơ sở pháp lý.
- Sáp nhập (Merger): là việc hai hai nhiều doanh nghiệp bán lẻ kết hợp
với nhau. Trường hợp này một pháp nhân mới sẽ ra đời và đi vào hoạt động.
Pháp nhân mới này sẽ có giá trị lớn hơn từng doanh nghiệp hoạt động đơn lẻ.
2.3.2 Xu hướng M&A trên thị trường bán lẻ châu Á
34
Xu hướng M&A trên thị trường bán lẻ châu Á hiện nay diễn ra sôi nổi
nhất tập trung vào loại hình doanh nghiệp sau:
- Doanh nghiệp sở hữu các trung tâm mua sắm hay cửa hàng hạ giá: một
trong những vụ M&A lớn nhất diễn ra trong thời điểm 2008-2009 là việc công ty
bất động sản Simplex của Nhật Bản mua lại chuỗi trung tâm mua sắm
Mitsukoshi-Ikebukuro với giá 705 triệu đô la (KPMG 2009, tr.6).
- Doanh nghiệp bán hàng qua mạng hay qua catalog: vụ M&A lớn nhất
trong mảng này diễn ra khi Ebay mua lại công ty chuyên kinh doanh qua mạng
của Hàn Quốc là GMarket Inc với giá 1,2 tỷ đô la Mỹ (KPMG 2009, tr.6).
Trong năm 2008-2009, số các vụ M&A trên lĩnh vực bán lẻ châu Á đều
giảm về cả số lượng lẫn giá trị do ảnh hưởng từ suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy
nhiên, theo đánh giá của nhiều tổ chức kiểm toán, tư vấn hàng đầu trong lĩnh vực
M&A, từ sau quý 1 năm 2010, thị trường bán lẻ châu Á sẽ chứng kiến số lượng
các vụ M&A sẽ lại tăng trở lại. Công ty KPMG đã đưa ra những dự báo về tình
hình M&A trên lĩnh vực bán lẻ toàn cầu, trong đó châu Á giữ vị trí là thị trường
mục tiêu số 2 trên thế giới, được xếp trên cả thị trường châu Mỹ.
35
34.1
18.8
47.1
Chart Title
Trung Á/châu Á- Thái Bình Dươngchâu Mỹchâu Âu và Trung Đông
Biểu đồ II.4: Giá trị các hợp đồng M&A theo khu vực (6/2008-6/2009)
Nguồn: KPMG 2009, tr.6
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nằm ở hai lý do chính sau:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 đã khiến nhiều doanh
nghiệp châu Á gặp nhiều rắc rối về kinh tế và giá trị công ty liên tục sụt giảm.
Điều này sẽ tạo điều kiện cho nhiều nhà bán lẻ đến từ các quốc gia phát triển hay
chính trong cùng châu lục có kết quả kinh doanh tốt và nguồn lực tài chính ít bị
sụt giảm có cơ hội tiến hành hoạt động mua lại.
Thứ hai, trước tình hình thị trường ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn bán
lẻ khổng lồ đến từ phương Tây, các nhà bán lẻ châu Á sẽ có xu hướng liên kết lại
với nhau. Nhận thức được những lợi ích từ M&A như tiết kiệm chi phí nhân
viên, tiếp thu công nghệ mới, đạt hiệu quả của quy mô hay giành được thị phần,
tăng thế cạnh tranh, các doanh nghiệp bán lẻ có thể đẩy mạnh các hoạt động
M&A để đứng vững trong cuộc chơi ngày càng khốc liệt này.
2.4 Hệ thống bán lẻ hiện đại sẽ tiếp tục chiếm ưu thế
Trong bối cảnh hầu hết các quốc gia châu Á đều bị ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường bán lẻ của mỗi quốc gia được dự đoán
sẽ có những thay đổi đáng kể. Theo dự đoán, trong tương lai, hệ thống bán lẻ
hiện đại với ba mô hình kinh doanh: đại siêu thị, siêu thị và cửa hàng tiện ích sẽ
vẫn giữ thế vượt trội nhưng sẽ xuất hiện thêm các mô hình bán lẻ mới.
Cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra vào năm 2008 đã làm thay đổi thói
quen tiêu dùng, mua sắm có một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng châu Á. Họ
đã trở nên ngày càng quan tâm đến giá cả hàng hóa và các chương trình khuyến
mại giảm giá mà các nhà bán lẻ đưa ra. Theo thống kê của công ty nghiên cứu thị
trường Nielsen năm 2009, có đến 70% dân châu Á chú ý nhiều đến giá cả hơn so
với năm 2008 (Nielsen 2009). Kết quả là họ chỉ mua những thứ thực sự cần thiết
36
hơn là những thứ bắt mắt và cố gắng giảm số lượng hàng hóa phải mua và ngày
càng muốn tìm kiếm những sản phẩm giảm giá.
Trước tình hình đó, thị trường châu Á trong thời gian tới được dự báo sẽ
chứng kiến sự bùng nổ của một loạt các cửa hàng giảm giá (discount stores).
Các cửa hàng giá rẻ trong thời gian gần đây đã gây dựng cho mình một
khối lượng khách hàng khá đông đảo và một văn hóa mới mẻ. Rất nhiều người
tiêu dùng châu Á đã tạo ra hoặc chạy theo trào lưu “săn lùng hàng hạ giá” vào
các thời điểm nghỉ lễ, hình thành một nét sinh hoạt mới mẻ trong xã hội châu Á.
Ngoài hệ thống cửa hàng hạ giá, thị trường bán lẻ châu Á trong thời gian
tới, theo cơ quan nghiên cứu thị trường thuộc IBM (IBM 2007, tr.44-50), sẽ
chứng kiến sự ra đời và bùng nổ của một số loại hình bán lẻ hiện đại sau:
Siêu thị nhỏ (mini-mart)
Là mô hình bán lẻ tự phục vụ quy mô nhỏ hơn siêu thị, thường được đặt ở
các khu dân cư. Số lượng sản phẩm được bán trong các siêu thị với các chủng
loại chính là thực phẩm tươi sống, lương thực khô và các sản phẩm phục vụ nhu
cầu sử dụng hàng ngày của các hộ gia đình. Khác với các cửa hàng tiện ích, các
siêu thị nhỏ này không bán bánh kẹo cao cấp, thuốc lá hay báo, tạp chí. Diện tích
mỗi siêu thị khá nhỏ, chỉ từ 100 đến 300 mét vuông. Giá bán ở đây chỉ ngang
bằng giá ở các chợ truyền thống nhưng hàng hóa được trình bày có tính thẩm mỹ
cao và đảm bảo về vệ sinh.
Do ở nhiều thị trường ở các quốc gia châu Á, một tỷ lệ không nhỏ người
mua sắm thường đi bộ hay sử dụng các phương tiện giao thông công cộng nên
các đại siêu thị ở xa khu trung tâm hay các siêu thị lớn nằm trong các khu mua
sắm sầm uất thường không phù hợp. Vì vậy, mô hình nằm trong các khu dân cư
này có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai.
Đại siêu thị cỡ nhỏ (compact hypermarket)
Đây là loại hình đại siêu thị quy mô nhỏ, với số lượng, chủng loại hàng
hóa ít hơn đại siêu thị. Mô hình kinh doanh này khắc phục được những khó khăn
37
về mặt bằng kinh doanh cũng như những hạn chế về mặt pháp lý mà các đại siêu
thị thường gặp phải. Ngoài ra, do số lượng hàng hóa ít hơn, việc mua sắm ở mô
hình bán lẻ này sẽ thuận lợi và tiết kiệm đáng kể về thời gian so với mua sắm ở
các đại siêu thị. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện những đặc điểm vượt trội so với
các siêu thị như cho phép người mua sắm tiếp cận với các khu ẩm thực hay giải
trí. Diện tích mỗi cửa hàng từ 2000 đến 6000 mét vuông và thường được xây
dựng nhiều tầng.
Cửa hàng bán sản phẩm chuyên dụng (specialty store)
Mô hình cửa hàng này mục đích phục vụ cho người có thu nhập cao trong
xã hội, sản phẩm được cá biệt hóa, thường là sản phẩm sạch, nguồn gốc thiên
nhiên, sản phẩm chức năng, bổ dưỡng, chất lượng thượng hạng. Diện tích mỗi
cửa hàng từ khoảng 200 đến 500 mét vuông. Các cửa hàng này thường là các đại
lý độc quyền trong một khu vực địa lý nhất định.
Cửa hàng tiện ích kiểu mới (convenience plus)
Các cửa hàng này thường được đặt ở trung tâm, những phố mua sắm sầm
uất, hay các khu mua sắm trong các khu dân cư tập trung hay gần những trạm
xăng, điểm dừng xe buýt. Hàng hóa được bán thường là lương thực, thực phẩm
khô và thực phẩm tươi sống, bánh mỳ, thuốc lá, bánh kẹo, báo, tạp chí và các
hàng hóa thiết yếu khác. Giá hàng hóa đắt hơn siêu thị từ 10 đến 15%. Diện tích
mỗi cửa hàng từ 200 đến 800 mét vuông.
III. HAI THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ ĐIỂN HÌNH CỦA CHÂU Á GIAI ĐOẠN
2000 ĐẾN NAY
Như đã phân tích ở trên, hầu hết các quốc gia châu Á đều theo đuổi mô
hình kinh tế mở, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động trong
lĩnh vực bán lẻ. Tuy nhiên, mỗi quốc gia chọn cho mình một hướng đi riêng với
lộ trình mở cửa đặc trưng. Ở một số quốc gia sau khi thị trường bán lẻ được mở
38
cửa, thị trường đã hoàn toàn bị chi phối bởi các tập đoàn bán lẻ phương Tây. Bên
cạnh đó, cũng có những quốc gia với những chính sách thương mại khôn ngoan
đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước mình đứng vững trong cuộc cạnh tranh
với nhà đầu tư nước ngoài. Đến đây tôi xin đưa ra hai ví dụ điển hình về quá
trình mở cửa thị trường bán lẻ ở Thái Lan và Hàn Quốc.
1. Thái Lan
1.1 Chính sách mở cửa thị trường một cách ồ ạt của Chính phủ Thái Lan
Thái Lan chính thức gia nhập WTO vào năm 1995. Tuy nhiên nước này
lại không cam kết bất cứ điều khoản nào về thực hiện tự do hóa dịch vụ bán lẻ.
Chỉ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nổ ra, do thiếu vốn trầm trọng,
Chính phủ Thái Lan đã tìm mọi cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị
trường bán lẻ. Cuối những năm 1980, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép hoạt
động trên thị trường bán lẻ dưới hình thức liên doanh với doanh nghiệp nội địa và
nắm giữ không quá 49% tổng số vốn. Tuy nhiên, sau khủng hoảng 1997, Chính
phủ đã ngay lập tức cho phép các cơ sở bán lẻ 100% vốn nước ngoài được hoạt
động nếu nhà đầu tư bỏ vốn tối thiểu 2,5 triệu Euro.
1.2 Thất bại của các doanh nghiệp bán lẻ Thái Lan trên thị trường nội địa
Hệ quả của chính sách mở cửa không kiểm soát của chính phủ Thái Lan
đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới mảng bán lẻ truyền thống của quốc gia này. Hàng
loạt cửa hàng bán lẻ truyền thống ở thủ đô Băng Cốc và các tỉnh khác đã bị phá
sản, đặc biệt là ở những vùng xuất hiện các cửa hàng tiện ích hoạt động dưới
hình thức nhượng quyền thương hiệu. Trong khi đó, những nhà bán lẻ nước
ngoài bằng việc kinh doanh bán hàng qua các cửa hiệu giảm giá dần tạo vị trí độc
quyền trên thị trường nước này. Đến năm 2001, tức là chưa đầy 5 năm sau khi
mở cửa thị trường, hệ thống bán lẻ qua các cơ sở giảm giá (discount stores) đã
chiếm được 23% thị phần. 97% chuỗi các cửa hàng giảm giá thuộc sở hữu của
các nhà bán lẻ nước ngoài. Trong khi đó, thị phần của hệ thống bán lẻ truyền
39
thống sau khi giảm gần 10.000 cửa hàng đã sụt giảm mạnh, từ 74% xuống còn
46% (Macedo, Jorge và Chino, Tadao 2003, tr.31).
Tình hình còn xấu hơn khi chính những nhà cung cấp trong nước cũng bị
ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Sự ra đời của các cửa hàng giảm giá đã đẩy một số
lượng lớn nhà cung cấp Thái Lan vào thế bất lợi trong các vụ mặc cả giá bán
hàng hóa.
Sự kiện này đã gây ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Thái Lan, tạo nên làn
sóng phản đối toàn cầu hóa mạnh mẽ trong người dân nước này. Chính phủ Thái
Lan đối mặt với sức ép phải đóng cửa thị trường bán lẻ của mình. Trong tình
trạng đó, một loạt các chính sách “chữa cháy” đã được Chính phủ đưa ra, chủ yếu
là các biện pháp về mặt quản lý. Có thể kể đến một số biện pháp như việc Chính
phủ hỗ trợ cho việc thành lập các cửa hàng bán lẻ cộng đồng (community retail
shops), đào tạo đội ngũ quản lý cho những cửa hàng bán lẻ nhỏ, thiết lập bộ phận
tư vấn Retail Clinic,… (Macedo, Jorge và Chino, Tadao 2003, tr. 32-33).
Vai trò của Chính phủ tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn về mặt tài
chính cho hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống hay các siêu thị bán lẻ quy
mô nhỏ. Tuy nhiên, những biện pháp này không phát huy được tối đa tác dụng do
không được xây dựng và thực thi một cách hệ thống, tác động chỉ dừng ở mức
tạm thời. Bên cạnh đó, việc Chính phủ sửa đổi lại các bộ Luật đã làm cản trở quá
trình tự do hóa thương mại, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Doanh nghiệp
bán lẻ của Thái Lan ngày càng mất tính cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước
ngoài.
2. Hàn Quốc
2.1 Chính sách của Chính phủ Hàn Quốc về thị trường bán lẻ
Hàn Quốc bắt đầu mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ của mình vào năm
1996. Nhờ đó, ngành công nghiệp nước này chứng kiến sự xuất hiện của nhiều
40
mô hình kinh doanh mới cùng với sự lớn dần về mặt quy mô của các doanh
nghiệp bán lẻ cả trong nước lẫn nước ngoài.
Để tăng tính hiệu quả của thị trường bán lẻ, Chính phủ Hàn Quốc đã thực
hiện từng bước quá trình tự do hóa trên thị trường bán lẻ. Chính sách bán lẻ của
nước này được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: bắt đầu diễn ra vào khoảng giữa năm 1989 đến giữa năm
1991. Vào giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện nới lỏng các quy định
về việc các công ty nước ngoài có thể thiết lập các chi nhánh hay thực hiện đầu
tư trực tiếp vào đất nước.
Giai đoạn 2: tiếp nối giai đoạn 1, thực hiện trong khoảng giữa năm 1991
đến giữa năm 1993. Vào thời điểm này, các doanh nghiệp nước ngoài có thể mở
các cửa hàng ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, Chính phủ quy định diện tích của mỗi cửa
hàng không được quá 1000 mét vuông. Bên cạnh đó, số lượng cửa hàng mà mỗi
doanh nghiệp nước ngoài được mở cũng không được lớn hơn con số 10.
Giai đoạn 3: thực hiện vào giữa năm 1993 đến năm 1995. Trong thời kỳ
này, những quy định về diện tích cũng như số lượng cửa hàng các nhà bán lẻ
nước ngoài được phép mở quy định trong giai đoạn hai được nới rộng hơn.
Doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ trên thị trường Hàn
Quốc có thể mở đến 20 cửa hàng với diện tích mỗi cửa hàng có thể là 3000 mét
vuông.
Ủy ban thương mại lành mạnh Hàn Quốc (KFTC)
Thành lập từ đầu những năm 1980, Ủy ban này có 4 nhiệm vụ chính là:
khuyến khích cạnh tranh công bằng; củng cố quyền lợi khách hàng; thiết lập môi
trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp nội địa vừa và nhỏ và hạn chế sự bành
trướng, lạm dụng của các tập đoàn khổng lồ. Trong 4 chức năng này, Ủy ban đã
thực hiện mạnh mẽ nhất chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nước, đặc biệt là sau khi Hàn Quốc thực hiện những cam kết của mình trong
khuôn khổ WTO. Ủy ban này đã đưa vào thi hành 9 bộ luật trong đó có “Những
41
quy định về độc quyền (Monopoly regulation) và Luật về “Thương mại bình
đẳng” (Fair Trade Act). Cụ thể trong lĩnh vực bán lẻ, nếu bất cứ doanh nghiệp
nào đang chiếm được phần lớn thị trường lạm dụng vị trí của mình với mục đích
cạnh tranh không công bằng, KFTC sẽ ra lệnh cho doanh nghiệp phải giảm giá
hàng loạt, ngay lập tức chấm dứt hành vi của mình. Đồng thời, KFTC sẽ công bố
rộng rãi vi phạm của doanh nghiệp đó hoặc sử dụng các biện pháp theo các bộ
luật liên quan. Doanh nghiệp có thể chịu phạt lên tới 3% tổng doanh thu trong
thời kỳ xảy ra vi phạm. Chính những biện pháp này đã giúp Chính phủ tối thiểu
hóa sự bành trướng của các tập đoàn bán lẻ khổng lồ và bảo vệ các nhà bán lẻ
trong nước quy mô nhỏ không bị phá sản khi thị trường được mở cửa hoàn toàn
(KFTC 2010).
2.2 Thành công của các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc trong việc giữ thị
phần của mình trước sự xâm chiếm của các tập đoàn quốc tế
Sự thành công của các nhà bán lẻ nội địa của Hàn Quốc được đánh dấu
bằng sự kiện tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới Wal-mart phải rút khỏi thị trường
này bằng việc bán lại 16 cửa hàng trên khắp Hàn Quốc cho Shinsegae với mức
giá được cho rằng đã gây ra một khoản lỗ khổng lồ: 882 triệu đô la Mỹ vào năm
2006. Ngay trước đó, một tập đoàn bán lẻ khổng lồ khác, Carrefour cũng phải rút
khỏi thị trường Hàn Quốc bằng việc bán lại 32 cửa hàng bán lẻ của mình cho một
doanh nghiệp nội địa là E-land theo một hợp đồng trị giá 1,85 tỷ đô la Mỹ
(Renee, Kim B 2006, tr3-7). Shinsegae là nhà bán lẻ lớn nhất Hàn Quốc, chiếm
tới 30% thị phần cả thị trường bán lẻ. Tập đoàn này được xếp hạng 85 trong top
250 nhà bán lẻ lớn nhất toàn cầu xét trên doanh số bán lẻ vào năm 2008. Doanh
thu bán lẻ của Shinsegae vào khoảng trên 10 tỷ đô (Deloitte 2010, tr.13).
Đây được coi là sự thành công khá bất ngờ vì trước đó hai đại gia này gần
như chưa khi nào gặp phải thất bại khi vươn ra các thị trường quốc tế. Thành
công của những nhà bán lẻ hàng đầu Hàn Quốc có thể được giải thích bằng
những lý do sau:
42
Thứ nhất, về địa điểm kinh doanh: trong khi các doanh nghiệp bán lẻ đến
từ phương Tây lựa chọn địa điểm xây dựng cửa hàng là những khu diện tích lớn,
thường ở các vùng ngoại ô, xa trung tâm thì các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc
lại lựa chọn cho mình những cửa hiệu ở các khu trung tâm. Người dân Hàn Quốc
khác người dân phương Tây ở một điểm rất quan trọng là họ đi mua sắm thường
xuyên hơn. Vì vậy, mặc dù các cửa hàng của nhà bán lẻ trong nước diện tích nhỏ
song có thuận lợi về giao thông đã thu hút được số lượng khách nhiều hơn.
Thứ hai là về sản phẩm. Văn hóa Hàn Quốc rất ưa chuộng việc sử dụng
các sản phẩm sản xuất trong nước. Nắm bắt được tâm lý này, các nhà bán lẻ Hàn
Quốc luôn tìm cách tối đa hóa danh mục sản phẩm của mình bằng những sản
phẩm nội địa. Bên cạnh đó, người Hàn Quốc cũng rất quan trọng đến cách trưng
bày sản phẩm hay chính xác hơn chính là tính thẩm mỹ của mỗi gian hàng. Trong
khi tập đoàn bán lẻ từ phương Tây do quá chú trọng tới việc tận dụng từng
khoảng không gian nhỏ để bày được nhiều hàng hóa đã quên mất việc đầu tư vào
cách bài trí gian hàng. Ngược lại, trong các cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp
Hàn Quốc, hàng hóa được bày rất đẹp mắt, thuận tiện cho khách hàng có thể tự
tay kiểm tra thay vì phải nhờ tới sự trợ giúp của nhân viên phục vụ. Hàng hóa
bán trong các cửa hiệu như E-mart hiếm khi bị gói kỹ trong hộp kín như hàng
hóa bày bán trong chuỗi các siêu thị của Wal-mart hay Carrefour. Ngoài ra, lựa
chọn về chủng loại sản phẩm cũng được các tập đoàn bán lẻ Hàn Quốc sử dụng
để cạnh tranh với các tập đoàn châu Âu và Bắc Mỹ. Người dân Hàn Quốc thích
mua những sản phẩm tươi sống thay vì sản phẩm qua chế biến. Do đó, trong mỗi
siêu thị của Shinsegae hay Lotte, người tiêu dùng có thể dễ dàng tìm kiếm thực
phẩm theo nhu cầu của mình tại các quầy thực phẩm tươi sống trong khuôn viên
siêu thị. Trong khi đó, Wal-mart hay Carrefour lại tập trung trưng bày các sản
phẩm đóng hộp, thực phẩm khô hay đồ điện tử gia dụng.
Lý do thứ ba chính là các chương trình khuyến khích mua hàng. Các cửa
hàng của E-mart hay Lotte đã thành công bằng việc thuê những nhân viên sử
dụng các hệ thống loa cỡ lớn hay xếp hàng vào giờ mở cửa và chào đón khách
43
hàng bằng những tràng vỗ tay lớn. Phong cách này đã thu hút được sự chú ý của
một số lượng lớn khách hàng.
Lý do thứ tư khiến các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc giành được ưu thế
là ở chỗ họ đã biết xây dựng mối quan hệ mật thiết với những nhà sản xuất, cung
cấp hàng hóa nội địa. Wal-mart hay Carrefour luôn tìm cách hạ thấp giá mua
hàng để đạt được lợi thế về giá sản phẩm bán ra bằng những cách tác động lên
nhà sản xuất, phân phối sản phẩm. Nhiều trường hợp, những tập đoàn lớn này đã
tận dụng ưu thế về mặt tài chính của mình để gây sức ép với nhà cung cấp, khiến
một số lượng lớn tỏ ra hết sức bất bình. Khi xuất hiện trên thị trường Hàn Quốc,
các nhà bán lẻ phương Tây này đã gặp phải nhiều vụ khởi kiện từ nhà sản xuất,
ảnh hưởng đến uy tín của mình. Nhà sản xuất nội địa do đó khá e dè trong việc
bắt tay với những nhà bán lẻ này. Trong khi đó, những nhà bán lẻ hàng đầu Hàn
Quốc đã tận dụng cơ hội để củng cố mối quan hệ của mình với những nhà cung
cấp truyền thống. Vì vậy, họ luôn đảm bảo được nguồn hàng dồi dào, giá cả ổn
định cung cấp cho khách hàng.
Bài học rút ra được từ thành công của những nhà bán lẻ Hàn Quốc là họ
đã nắm rõ tâm lý, hiểu được văn hóa, truyền thống, thói quen mua sắm của người
tiêu dùng nội địa. Từ đó, họ có thể điều chỉnh những chiến lược phù hợp với
những biến động trên thị trường.
44
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TRONG TƯƠNG LAI
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
1. Khái quát về thị trường bán lẻ Việt Nam
1.1 Các loại hình kinh doanh bán lẻ khá phong phú đa dạng
1.1.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế
Thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung là thị trường phân tán và quy mô
còn khá khiêm tốn nếu xét trên quy mô dân số. Chợ và các cửa hàng theo kiểu hộ
gia đình vẫn chi phối cả thị trường. Mặc dù quy định mới về việc cấm bán hàng
rong tại một số quận nội thành ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã được ban
hành từ tháng 2/2008, loại hình này vẫn giữ vai trò đáng kể trong thói quen mua
sắm của người Việt Nam.
Đặc biệt ở khu vực nông thôn nơi có hơn 70% dân số Việt Nam đang sinh
sống, hệ thống bán lẻ truyền thống chiếm vị trí gần như áp đảo.
Theo thống kê của RNCOS, trong thời kỳ từ 2006 đến nay, doanh thu từ
hệ thống bán lẻ truyền thống đang giữ khoảng 90% tổng doanh thu bán lẻ hàng
hóa trên thị trường. Riêng tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, nơi xuất hiện
ngày càng nhiều các mô hình bán lẻ hiện đại, thị phần của hệ thống bán lẻ truyền
thống vào khoảng 75-80% (RNCOS 2008, tr.62).
1.1.2 Các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại khá phong phú, đa dạng
Hệ thống bán lẻ hiện đại hiện đang tồn tại ở Việt Nam dưới rất nhiều hình
thức khác nhau: trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại, đại siêu thị, siêu thị,
siêu thị nhỏ, cửa hàng tiện ích, cửa hàng chuyên doanh,…
45
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi siêu thị đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam.
Tháng 10 năm 1993, siêu thị đầu tiên được mở là một siêu thị thuộc sở hữu nhà
nước. Tính từ thời điểm đó tới nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia
tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự tăng trưởng mạnh mẽ của
ngành du lịch nội địa đã thúc đẩy các mô hình bán lẻ hiện đại nở rộ ở Việt Nam.
Sự tăng lên về số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại ở 6 thành phố lớn là Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Hồ Chí Minh có thể được thể
hiện trong bảng sau trong tương quan với số lượng các cửa hàng thuộc kênh bán
lẻ truyền thống.
KÊNH BÁN LẺ 2006
2007 2008
SỐ
LƯỢNG
TỶ LỆ
TĂNG (%
SO VỚI
2006)
SỐ
LƯỢNG
TỶ LỆ
TĂNG (%
SO VỚI
2007)
Hiện đại (các loại
hình siêu thị và cửa
hàng tiện ích)
230 368 60 425 15,5
Truyền thống 88.035 96.957 10 99.687 2,8
Bảng III.1: Số lượng cửa hàng bán lẻ theo loại hình tại 6 thành phố
lớn nhất Việt Nam
Nguồn: Global Agriculture
Information Network – GAIN 2010, tr.3-11
Hệ thống bán lẻ hiện đại của Việt Nam ngoài việc phân chia dựa trên mô
hình kinh doanh còn có thể phân loại dựa trên hình thức sở hữu. Theo đó, các cửa
hàng bán lẻ hiện đại có thể được phân thành ba loại với những đặc trưng sau:
46
Thuộc sở hữu nhà nước: mặc dù siêu thị bán lẻ hiện đại đầu tiên của Việt
Nam là của nhà nước song các cửa hàng bán lẻ loại này đang ngày càng mất
dần thị phần trên thị trường bán lẻ. Tốc độ tăng trưởng của mô hình kinh
doanh bán lẻ thuộc sở hữu nhà nước cũng thấp nhất, chỉ đạt khoảng 12%/năm
trong giai đoạn từ 2002-2008 (RNCOS 2008, tr.56).
Thuộc sở hữu tư nhân hay các doanh nghiệp trong nước: loại hình này đang
dẫn đầu về số lượng các cửa hàng, chiếm vị trí áp đảo trên thị trường bán lẻ.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm đều trên 20% (RNCOS 2008, tr.56).
Sài Gòn Co.op Mart – Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam
Ví dụ thành công nhất về nhà bán lẻ Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước
là chuỗi siêu thị Co.opMart. Từ khi siêu thị đầu tiên ra đời (Co.pMart Cống
Quỳnh) năm 1996, Saigon-Co.op đã không ngừng phát triển và trở thành hệ
thống siêu thị bán lẻ lớn nhất Việt Nam với hơn 40 siêu thị. Hệ thống siêu thị
Co.opMart là một trong những hệ thống siêu thị lớn trong nước với sự đầu tư
hiện đại, công nghệ quản lý chuyên nghiệp. Thành công của chuỗi siêu thị Sài
Gòn Co.op Mart có được là do những người lãnh đạo ngay từ thời kỳ đầu đổi
mới đã nhanh chóng thay đổi tư duy, học hỏi kinh nghiệm bán lẻ từ các thị
trường phát triển trong khu vực và trên thế giới, sớm phát triển mô hình kinh
doanh theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thị trường.
Thành công của Sài Gòn Co.op Mart đáng kể nhất là doanh nghiệp bán lẻ duy
nhất của Việt Nam được bầu chọn trong top 500 nhà bán lẻ hàng đầu châu Á
trong sáu năm liên tiếp (2004-2009)
Thuộc sở hữu nước ngoài: mặc dù các mô hình kinh doanh này mới chỉ giữ
thị phần nhỏ trên thị trường nhưng tăng trưởng khá mạnh, gần 20%/năm và
dự đoán sau khi thị trường được hoàn toàn mở cửa thì sẽ đạt mức tăng lớn
hơn đáng kể (RNCOS 2008, tr.58).
47
Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, Big C và Metro là hai tập đoàn bán lẻ đến
từ nước ngoài có hoạt động rộng khắp nhất. Hai tập đoàn này sẽ được trình bày
trong phần kế tiếp khi phân tích về sự phát triển của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu.
1.2 Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động
và chiếm lĩnh thị trường
Mặc dù phải đến thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam mới mở
cửa cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo những cam kết
trong khuôn khổ WTO, trên thực tế, các cơ sở bán lẻ 100% vốn đầu tư nước
ngoài đã có mặt ở Việt Nam từ cuối những năm 1990.
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài lớn hiện đang hoạt động trên thị
trường Việt Nam gồm có chuỗi siêu thị Big C của tập đoàn Casino (Pháp), các
đại siêu thị bán buôn của Metro Cash & Carry (Đức), tập đoàn Parkson của
Malaysia, Dairy Farm của Hồng Kông, Lotte của Hàn Quốc,.v.v. Trong phần này
em xin được phân tích mô hình kinh doanh bán lẻ của một số tập đoàn nước
ngoài tại Việt Nam.
Big C
Big C thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Casino. Đây là một trong những
tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu với hơn 9.000 cửa hàng tại hàng chục các quốc
gia châu Âu và châu Á. Số lượng nhân viên của tập đoàn này lên tới 190.000.
Big C xuất hiện ở Việt Nam bằng việc mở siêu thị ở Đồng Nai vào năm
1998. Hiện nay, Big C đã mở rộng hoạt động của mình sang hầu hết các thành
phố lớn của Việt Nam, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng,
Huế, Đà Nẵng, Biên Hòa, với tổng số 10 đại siêu thị và siêu thị bán lẻ. Big C ở
Hà Nội (Bourbon Thăng Long) là đại siêu thị lớn nhất trong chuỗi 10 trung tâm.
Mỗi trung tâm mua sắm của Big C phục vụ trên 50.000 mặt hàng với chủng loại
vô cùng phong phú. Ở các siêu thị của Big C, khách hàng có thể lựa chọn thực
phẩm tươi sống, hàng tạp hóa, quần áo, đồ trang trí nội thất, cũng như các mặt
hàng điện máy như đồ gia dụng và thiết bị nghe nhìn. Giá của các mặt hàng trong
48
chuỗi các siêu thị Big C đều có giá cả cạnh tranh và một số lượng lớn được bán
với giá thấp hơn giá bán tại các chợ truyền thống.
Metro Cash & Carry
Trung tâm Metro đầu tiên khai trương ở Việt Nam vào tháng 3 năm 2002
tại thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến thời điểm cuối năm 2009, tập đoàn Metro
đã có 9 đại siêu thị hoạt động ở Việt Nam: 3 trung tâm tại thành phố Hồ Chí
Minh, 1 trung tâm tại thành phố Biên Hòa, 2 trung tâm ở thủ đô Hà Nội, và ở
thành phố khác là Cần Thơ, Đà Nẵng và Hải Phòng. Theo kế hoạch, trong năm
2010, 4 trung tâm mua sắm của Metro sẽ tiếp tục ra đời trên thị trường bán lẻ
Việt Nam.
Cash and Carry là trả tiền mặt và vận chuyển. Phương thức kinh doanh
này còn khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam nhưng đã khá phổ biển và gặt hái
được thành công trên các thị trường phát triển. Nhóm khách hàng mục tiêu là các
khách hàng chuyên nghiệp, thường xuyên mua sắm với khối lượng lớn. Nhóm
khách hàng này bao gồm các nhà bán buôn, nhà phân phối, các đại lý, chủ các
cửa hiệu tạp hóa, nhà hàng, khách sạn,… Metro chỉ phục vụ cho những khách
hàng có thẻ hội viên.
Parkson
Parkson thuộc sở hữu của công ty Malaysia hiện đang quản lý hơn 70
trung tâm ở Malaysia và Trung Quốc.
Tại Việt Nam, Parkson bắt đầu mở trung tâm mua sắm đầu tiên ở thành
phố Hồ Chí Minh vào năm 2005 và đến nay đã có tất cả 6 trung tâm mua sắm
Parkson ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Mô hình kinh doanh của
Parkson là chuỗi các trung tâm mua sắm tập trung những nhãn hiệu thời trang,
mỹ phẩm và các sản phẩm thời thượng nhất trên thế giới nhằm vào đối tượng
khách hàng mục tiêu là tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội. Phương
châm kinh doanh của Parkson là đem đến cho khách hàng những trải nghiệm
mua sắm thú vị và độc đáo bằng việc thiết kế những gian hàng có tính thẩm mỹ
49
cao, một bộ sưu tập vô cùng đa dạng những nhãn hàng nổi tiếng nhất trên thế
giới. Parkson luôn đưa ra những chương trình khuyến mại giảm giá lớn vào mỗi
dịp lễ, tết đặc trưng trên mỗi thị trường.
Best Carings
Best carings là chuỗi siêu thị chuyên kinh doanh hàng điện tử gia dụng.
Chuỗi cửa hàng này ra đời là kết quả của hợp đồng nhượng quyền thương mại
giữa công ty Tiếp thị Bến Thành và tập đoàn bán lẻ điện tử của Nhật bản là Best
Denki.
Từ năm 1999, công ty Tiếp thị Bến Thành đã kinh doanh sản phẩm điện tử
gia dụng và liên tục giữ vị trí doanh nghiệp bán buôn sản phẩm điện máy lớn
nhất Việt Nam. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty luôn tăng trưởng
ở mức trên 50% suốt từ năm 2006.
Tập đoàn bán lẻ điện tử Nhật Bản Best Denki bắt đầu hoạt động trên thị
trường quốc tế từ năm 1985. Tính đến thời điểm hết năm 2009, tập đoàn này đã
có 40 cửa hàng trên khắp châu Á.
Phương châm kinh doanh của Best Carings Việt Nam là kết hợp giữa thế
mạnh của sự hiểu biết về nhu cầu người tiêu dùng trong nước của Carings và
phương pháp tiếp cận khách hàng của doanh nghiệp Nhật Bản. Siêu thị Best
Carings đi vào hoạt động đầu tiên vào năm 2008 ở Hà Nội. Đây là siêu thị điện
máy đạt tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên ở thành phố này với công nghệ quản lý,
phong cách trưng bày và dịch vụ khách hàng đều theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Hiện
nay chuỗi siêu thị của Best Carings ở Việt Nam đã mở được 3 siêu thị ở 3 thành
phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Kế hoạch kinh doanh
của Best Carings là đến hết năm sẽ có 11 cửa hàng trên khắp Việt Nam và trở
thành nhà bán lẻ điện máy lớn nhất, hoạt động chuyên nghiệp nhất ở Việt Nam.
1.3 Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn yếu kém
50
1.3.1 Quy mô nhỏ
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nói chung đều gặp khó khăn về vốn. Có
thể lấy một ví dụ rất điển hình. Một siêu thị bán lẻ do một doanh nghiệp Việt
Nam mở thường chỉ được đầu tư số vốn chưa đến 10 tỷ trong khi đó nhà bán lẻ
nước ngoài có thể đầu tư gấp 13 lần, lên đến 130 tỷ. Một hệ quả khá rõ ràng là
doanh thu bình quân của một siêu thị Việt Nam chỉ bằng 35% một siêu thị của
nước ngoài (Hồng, Văn 2009).
Nguồn vốn hạn chế là một trong những thách thức lớn nhất mà doanh
nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong cuộc đua với những tập đoàn bán lẻ nước
ngoài. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ
nhưng còn mở rộng quy mô kinh doanh sang một số lĩnh vực khác như xuất nhập
khẩu nên vốn dành cho hoạt động bán lẻ lại càng bị hạn chế.
Do thiếu vốn, các nhà bán lẻ Việt Nam không thể đầu tư cho nghiệp vụ
hậu cần: bến bãi, kho hàng hay phương tiện chuyên chở. Điều này khiến cho các
nhà bán lẻ Việt Nam ngày càng tụt lại trong cuộc đua với những nhà bán lẻ nước
ngoài chuyên nghiệp. Vì đầu tư vào kho bãi rất nhỏ bé, họ không thể dự trữ số
lượng hàng lớn do vậy không thể nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu thị trường như các
nhà bán lẻ nước ngoài. Bên cạnh đó, phần lớn kho hàng của các doanh nghiệp
bán lẻ Việt Nam đều rơi vào tình trạng khá lạc hậu, không được trang bị đầy đủ
hệ thống làm mát. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hàng hóa bán ra.
Hạn chế về phương tiện chuyên chở cũng làm giảm tính cạnh tranh của
các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Nếu trên các thị trường phát triển và trong
các chuỗi siêu thị bán lẻ của các nhà đầu tư nước ngoài, xe chuyên chở hạng
nặng, lên tới trên 30 tấn và xe container hay pallet xuất hiện ngày càng nhiều, các
hệ thống siêu thị của nhà bán lẻ Việt Nam vẫn sử dụng hệ thống xe hạng nhẹ
dưới 7 tấn. Năng lực chuyên chở hạn chế khiến các doanh nghiệp Việt Nam tốn
nhiều thời gian hơn và không thể đưa đến khách hàng những dịch vụ nhanh nhất,
chất lượng nhất.
51
1.3.2 Trình độ quản lý lạc hậu
Do lĩnh vực bán lẻ hiện đại của Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng
những năm 1990 nên kinh nghiệm các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có được
khá hạn chế. Đội ngũ quản lý thiếu cơ hội tiếp cận với những mô hình bán lẻ đã
thành công trên thế giới. Tỷ lệ những nhà quản lý có kinh nghiệm trên thị trường
quốc tế còn ở mức rất nhỏ. Mô hình quản lý ở hầu hết các cơ sở bán lẻ của Việt
Nam đều khá cứng nhắc, kém linh hoạt.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực làm quản lý cũng rất thiếu hụt. Trên thị
trường lao động nói chung, lượng cầu về những vị trí quản lý quan trọng (từ
trưởng phòng trở lên) luôn vượt quá lượng cung. Do vậy, các công ty trên thị
trường luôn phải tìm mọi cách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bằng việc
đưa ra các ưu đãi về lương và các hình thức hỗ trợ khác. Các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam vì tiềm lực tài chính hạn chế, không có kinh nghiệm trong việc xây
dựng các chương trình đãi ngộ công nhân viên nên thường tỏ ra yếu thế trong
việc tuyển dụng những vị trí hàng đầu có khả năng chỉ đạo hoạt động kinh doanh,
vạch chiến lược dài hạn cho công ty. Đây là một cản trở rất lớn cho sự thành
công của các doanh nghiệp nước nhà.
1.3.3 Chất lượng nguồn nhân lực nói chung còn thấp
Nguồn lao động làm việc trong ngành bán lẻ hiện nay phần lớn đều không
được đào tạo bài bản. Nguyên nhân chính là do ở Việt Nam hiện chưa có một
chương trình đào tạo chính quy nào về ngành bán lẻ. Nhân viên làm việc trong
các siêu thị hầu hết chỉ tốt nghiệp phổ thông.
Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng không tỏ ra thực sự hiệu
quả trong quá trình đào tạo nhân viên của mình. Tình trạng thường thấy ở các
siêu thị, cửa hàng tiện ích do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ là hiểu biết của
nhân viên về các loại hàng hóa thường rất hạn chế. Số lượng nhân viên có đủ
kiến thức để giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ. Một
hạn chế nữa của đội ngũ nhân viên làm việc cho các nhà bán lẻ Việt Nam là trình
52
độ ngoại ngữ (tiếng Anh) rất yếu kém. Phần lớn không đủ khả năng giao tiếp với
khách hàng ngoại quốc. Điều này dẫn đến tình trạng là ngày càng nhiều khách
hàng nước ngoài e dè khi đi mua sắm trong các siêu thị của Việt Nam. Đây là
một điều rất đáng tiếc vì đối tượng này thường là những khách hàng khá tiềm
năng, sức mua trung bình lớn hơn khách hàng Việt Nam và do vậy có thể đem lại
khoản doanh thu đáng kể.
1.3.4 Hoạt động liên kết hạn chế
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vào thời điểm hiện nay vẫn chưa nhận
thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc liên kết. Trên cả nước hiện mới chỉ ghi
nhận hai tổ chức của các nhà bán lẻ trong nước. Đó là Hiệp hội các nhà bán lẻ
Việt Nam (AVR) và công ty cổ phần cổ phần Đầu tư và phát triển hệ thống phân
phối Việt Nam (VDA).
Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam – AVR.
AVR được thành lập vào tháng 7 năm 2007 sau khi Việt Nam trở thành
thành viên WTO. Trước tình hình các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài xâm nhập
vào Việt Nam với tốc độ ngày càng tăng, 100 doanh nghiệp hoạt động trong
ngành bán lẻ và các lĩnh vực liên quan đến bán lẻ đã tập hợp nhằm cùng nhau
phát triển trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Vào thời
điểm thành lập, hiệp hội có 100 thành viên. Hiện nay số lượng thành viên đã lên
hơn 150.
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam
Theo sáng kiến của 4 doanh nghiệp phân phối hàng đầu Việt Nam là Tổng
công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra),
Liên hiệp Hợp tác xã thương mại thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và
Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái (Phu Thai Group), VDA được thành lập ra
vào ngày 01 tháng 02 năm 2007. Số vốn ban đầu là 1.500 tỷ đồng để xây dựng cơ
sở hạ tầng thương mại, trong đó có hệ thống tổng kho với các trang thiết bị hiện
53
đại. Mục tiêu của công ty là trở thành tập đoàn phân phối số 1 Việt Nam (Kiều,
Hương 2007).
Lợi ích của liên kết để cạnh tranh với các công ty nước ngoài là khá rõ
ràng. Tuy nhiên, trên thị trường bán lẻ Việt Nam hiện nay, ngoài hai liên kết nói
trên thì gần như chưa xuất hiện liên minh đáng chú ý nào giữa các doanh nghiệp
nội địa hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên có
thể kể tới đầu tiên là do phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức được sức
mạnh đến từ việc liên kết. Rất nhiều doanh nghiệp lo sợ bí quyết kinh doanh của
họ có thể bị doanh nghiệp khác đánh cắp.
Do chưa hiểu rõ được vai trò của liên kết, và những liên kết trên thị trường
mới chỉ hạn chế ở mục đích hỗ trợ thành viên về vốn hay xây dựng thương hiệu,
các tổ chức liên kết của các nhà bán lẻ Việt Nam chưa phát huy được ý nghĩa to
lớn của mình.
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thị trường bán lẻ
Cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO:
Những dịch vụ phân phối Việt Nam cam kết mở cửa khi gia nhập WTO,
bao gồm dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ (kể cả
hoạt động bán hàng đa cấp) và dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Những loại hàng hóa nhà đầu tư nước ngoài được phép phân phối tại Việt
Nam:
Từ ngày 11/1/2010, không có bất cứ sự hạn chế nào về hàng hóa nhà đầu
tư nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam, miễn là hàng hóa đó được sản
xuất tại Việt Nam hoặc được nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
Các hình thức nhà đầu tư nước ngoài có thể thực hiện hoạt động phân phối ở
Việt Nam:
Lập liên doanh với đối tác Việt Nam: từ ngày 1/1/2008 không còn
bất cứ hạn chế nào về tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.
54
Lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (thực hiện từ sau
1/1/2009)
Hạn chế chung cho cả hai hình thức này là họ chỉ được phép cung cấp
dịch vụ bán lẻ thông qua các cơ sở bán lẻ (siêu thị, cửa hàng tiện ích,…). Tuy
nhiên, các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tự động mở
một cơ sở bán lẻ. Việc mở thêm cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ nhất phải được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Như vậy, kể từ thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam đã mở cửa
cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động. Quá trình thực hiện
theo đúng cam kết của WTO này đã có tác động trực tiếp và mạnh mẽ lên những
chủ thể chính trên thị trường bán lẻ Việt Nam.
2.1 Tác động tích cực
2.1.1 Đối với thị trường bán lẻ Việt Nam nói chung
Kể từ thời điểm 1/1/2009, hầu như mọi rào cản trên thị trường bán lẻ Việt
Nam đều được dỡ bỏ. Việc này đồng nghĩa với việc đầu tư của doanh nghiệp bán
lẻ nước ngoài sẽ không ngừng tăng lên. Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, cạnh
tranh sẽ trở nên sôi động hơn. Bên cạnh đó, hình thức các loại doanh nghiệp cũng
trở nên đa dạng hơn, tình hình liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và các
doanh nghiệp nội địa cũng như giữa các doanh nghiệp nội địa với nhau càng trở
nên phổ biến. Kết quả là nhiều hình thức sở hữu mới ra đời làm cho thị trường
bán lẻ của nước ta càng trở nên phong phú. Thị trường sẽ ngày càng hướng tới
các mô hình kinh doanh tiên tiến trên thế giới.
Khi thị trường bán lẻ Việt Nam được mở cửa hoàn toàn, hàng loạt các
trung tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng tiện ích,… sẽ ra đời. Điều này
chắc chắn sẽ dẫn đến nhu cầu tìm kiếm một số lượng lao động khổng lồ. Ngành
bán lẻ hiện nay vẫn dẫn đầu là ngành sử dụng lao động nhiều nhất trong nền kinh
tế toàn cầu. Việc mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam còn tạo điều kiện cho lao
55
động Việt Nam được làm việc trong môi trường có tính quốc tế cao, được đào tạo
bài bản và tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới.
2.1.2 Đối với các chủ thể trên thị trường bán lẻ trong nước
Đối với doanh nghiệp bán lẻ nội địa
Sau khi thị trường bán lẻ được mở cửa hoàn toàn, một số lượng lớn các
nhà bán lẻ toàn cầu sẽ đến Việt Nam, mang theo công nghệ mới, phong cách
quản lý hiện đại, chuyên nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam nhờ đó có cơ hội học
hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những nét tiên tiến mà các doanh nghiệp nước ngoài
mang lại. Thông qua cách thức làm việc chuyên nghiệp mà những nhà bán lẻ lớn
trên thế giới đem lại, doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp thu để không chỉ áp
dụng trên thị trường nội địa mà vươn ra quốc tế.
Do cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn, các doanh nghiệp trong
nước muốn tồn tại phải không ngừng cải thiện, loại bỏ những phong cách làm
việc quan liêu, bao cấp do ảnh hưởng từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Họ sẽ
quan tâm hơn nhiều đến việc đổi mới mình nhằm giữ thị phần trước sự đe dọa
của các tập đoàn dày dặn kinh nghiệm đến từ các nước phát triển.
Đối với nhà sản xuất trong nước
Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam chắc chắn
sẽ giúp mở rộng thị trường đầu ra cho hàng ngàn sản phẩm của các nhà sản xuất
trong nước. Mỗi hệ thống mua sắm hiện đại là nơi trưng bày và bán hàng loạt các
chủng loại sản phẩm khác nhau. Cơ hội cho nhà sản xuất trong nước hợp tác với
các nhà bán lẻ nước ngoài nhằm giới thiệu sản phẩm của mình qua các tên tuổi
hàng đầu thế giới là rất lớn.
Bên cạnh đó, nếu các nhà sản xuất trong nước khẳng định được tên tuổi
của mình bằng các sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cạnh tranh, cơ
hội trở thành nhà phân phối độc quyền cho các nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hoàn
toàn có thể. Trong trường hợp đó, sản phẩm của họ chắc chắn sẽ có cơ hội xuất
hiện tại những thị trường phát triển nhất trên thế giới.
56
Đối với người tiêu dùng
Lợi ích đầu tiên và rõ ràng nhất là người tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội lựa
chọn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia đình. Các doanh
nghiệp nước ngoài vào Việt Nam chắc chắn sẽ giới thiệu một số lượng lớn các
mặt hàng mới, hiện đại và tiện ích hơn. Do đó, người tiêu dùng có thể chọn được
những mặt hàng chất lượng tốt nhất và giá cả cạnh tranh.
Việc các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới đặt chân vào Việt Nam sau khi
Chính phủ mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ giúp người tiêu dùng dần tiếp cận
với các phương thức kinh doanh hiện đại và thay đổi thói quen mua sắm của
người dân Việt Nam. Mặc dù trong thời gian gần đây, hệ thống bán lẻ hiện đại đã
giành được thị phần không nhỏ song kênh bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế.
Vì vậy, cùng với việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ từ đầu năm 2009, số
lượng các cửa hàng, trung tâm bán lẻ hiện đại tăng lên sẽ đẩy nhanh quá trình
hiện đại hóa phong cách mua sắm của đa số người dân, kể cả người dân có mức
sống trung bình hay một bộ phận lớn người dân sống sống ở vùng nông thôn.
Bên cạnh đó, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bán lẻ Việt
Nam sẽ khiến các doanh nghiệp không ngừng đổi mới để tạo được lợi thế về giá
cũng như chất lượng sản phẩm hay dịch vụ khách hàng.
2.2 Tác động tiêu cực
Các cửa hàng bán lẻ truyền thống
Trong khi hệ thống bán lẻ truyền thống (chợ và các cửa hàng tạp hóa, cửa
hàng tư nhân) vẫn đang chiếm tỷ trọng áp đảo trên thị trường bán lẻ Việt Nam, sự
xâm nhập thị trường của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới chắc chắn sẽ đe dọa
vị trí của loại hình bán lẻ này. Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn tồn tại và phát
triển cho đến ngày nay chính là nhờ lợi thế về giá. Tuy nhiên, khi các nhà bán lẻ
nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, họ hoàn toàn có khả năng chi phối nguồn
cung đảm bảo hàng hóa của họ có giá bằng hoặc thấp hơn ngoài chợ. Thêm vào
57
đó, hàng hóa ở các trung tâm bán lẻ hiện đại thường ít biến động hơn về giá cả sẽ
thu hút một lượng lớn khách hàng. Như vậy, công việc kinh doanh của một tỷ lệ
lớn các tiểu thương Việt Nam có nguy cơ bị phá sản.
Đối với doanh nghiệp bán lẻ
Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam với các đại gia
bán lẻ toàn cầu có thể là cuộc cạnh tranh một mất một còn và phần thắng có
nhiều khả năng sẽ thuộc về những tập đoàn đa quốc gia với tài chính khổng lồ và
kinh nghiệm dạn dày.
Nhiều nhà bán lẻ nước ngoài như Wal-mart, Metro có lợi thế về giá vì họ
nắm được thế chủ động trước các nhà sản xuất, phân phối dựa vào sức mạnh tài
chính của mình nên kiểm soát được nguồn hàng và đảm giá thấp hơn đối thủ
cạnh tranh. Đây có thể là nguyên nhân khiến khách hàng từ bỏ các cửa hàng mua
sắm quen thuộc để đến với các trung tâm bán lẻ hiện đại.
Đối với nhà sản xuất nội địa
Cơ hội cho nhà sản xuất nội địa là rất lớn tuy nhiên thách thức cũng không
hề nhỏ.
Thứ nhất, để được trở thành nhà cung cấp sản phẩm cho các tập đoàn bán
lẻ hàng đầu thế giới, nhà sản xuất Việt Nam sẽ phải điều chỉnh hàng loạt các kế
hoạch sản xuất của mình để có thể cho ra những sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế. Những tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ khắt khe hơn những tiêu chuẩn mà
trong nước đang áp dụng.
Thứ hai, các nhà bán lẻ nước ngoài khi vào Việt Nam có thể sẽ mang theo
hàng hóa từ các nhà cung cấp độc quyền và lâu năm của họ từ nước ngoài.
Những hàng hóa này chưa tính đến khả năng được bán với giá thấp hơn sản phẩm
cùng loại sản xuất trong nước thì hoàn toàn có thể vượt trội về chất lượng, mẫu
mã, bao bì. Do đó, sản phẩm xuất xứ nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh
khá gay gắt và có thể sẽ đánh mất thị phần.
58
Thứ ba, nếu các nhà sản xuất nội địa có thể trở thành nhà cung cấp cho
các chuỗi cửa hàng bán lẻ hiện đại thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nước
ngoài, nguy cơ bị các doanh nghiệp này chèn ép không thể không tính đến. Các
tập đoàn bán lẻ luôn mong muốn hàng hóa bán trong chuỗi các cửa hàng của
mình có giá cả cạnh tranh nhất. Vì vậy, họ sẽ tận dụng tối đa ưu thế và tiềm lực
tài chính của mình để gây sức ép lên nhà cung cấp bằng việc ký kết các hợp đồng
dài hạn với giá cả thường bị cố định, khó thay đổi. Bên cạnh đó, nhà sản xuất
Việt Nam nói chung đều thiếu kinh nghiệm trên thị trường quốc tế và năng lực
khởi kiện khá hạn chế. Do đó họ khó có thể bảo vệ quyền lợi của mình trên thị
trường trước các nhà bán lẻ hùng mạnh.
Đối với người tiêu dùng
Mặc dù cơ hội tiếp cận với nguồn hàng phong phú hơn, giá cả cạnh tranh
và ổn định hơn là không thể phủ nhận, nguy cơ từ việc mở cửa là hoàn toàn có
thể xảy ra. Người Việt Nam từ trước đến nay vẫn coi trọng những giá trị truyền
thống phương Đông. Trong khi đó, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu đang lên kế
hoạch xâm nhập thị trường Việt Nam chủ yếu đến từ Bắc Mỹ và Tây Âu. Khi
hoạt động ở Việt Nam họ sẽ liên tục giới thiệu những mặt hàng mới, kể cả những
mặt hàng chỉ phù hợp với lối sống phương Tây nên khó tránh khỏi ảnh hưởng
đến xã hội Việt Nam, tác động tiêu cực và làm mờ đi những giá trị truyền thống
hàng ngàn năm của người Việt.
3. Thuận lợi và khó khăn trong tương lai
3.1 Thuận lợi
3.1.1 Tốc độ tăng dân số cao, cơ cấu dân số trẻ, sức mua lớn
Tốc độ tăng dân số
Việt Nam là quốc gia có số dân đông thứ ba trong khu vực ASEAN và
đứng thứ 13 thế giới. Dân số Việt Nam theo thống kê vào tháng 4 năm 2009 đã ở
mức trên 85,7 triệu người. Trong thời kỳ 10 năm từ 1999 đến 2002 dân số Việt
59
Nam tăng trung bình 1,2%/năm. Dù trong thời gian gần đây dân số Việt Nam đã
có những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại so với 50 năm cuối thế kỷ 20 song vẫn
cao hơn tỷ lệ tăng dân số thế giới 1,16% hàng năm (Tổng cục thống kê 2009).
Cùng với việc dân số tăng lên hàng năm, tốc độ đô thị hóa cũng đang diễn
ra ở Việt Nam khá mạnh mẽ, tốc độ trung bình năm 2007 và 2008 đều ở mức trên
2,5%. Chúng ta có thể thấy rõ hiện tượng gia tăng dân cư thành thị qua biểu đồ
sau:
2005 2006 2007 2008 200920
21
22
23
24
25
26
22.322.8
23.424.2
25.4
triệ
u n
gư
ời
Biểu đồ III.1: số lượng dân cư sống ở các đô thị lớn ở Việt Nam 2004-2009
Nguồn: Tổng cục thống kê 2009
Cơ cấu dân số
Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, Việt Nam vẫn là một nước có dân số
trẻ: dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người. Vì vậy, so với một số
quốc gia khác trong cùng châu lục như Singapo hay Nhật Bản, sức mua của dân
số Việt Nam được đánh giá cao hơn và đầy tiềm năng. Bên cạnh đó, tỷ lệ dân số
Việt Nam biết chữ thuộc vào khoảng 98%, đây là một trong những tỷ lệ cao nhất
thế giới. Điều này khá thuận lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ hoạt động trên thị
trường Việt Nam trong việc thực hiện các chiến lược marketing, quảng cáo, xúc
tiến mua hàng.
Sức mua hàng hóa
Thu nhập khả dụng của người dân Việt Nam liên tục tăng với tốc độ trung
bình 7%/năm trong những năm gần đây và được ước tính sẽ tiếp tục tăng trong
60
những năm tới. Sự tăng trưởng của thu nhập khả dụng tính theo đầu người của
người Việt Nam đã khiến sức mua của người dân nói chung tăng.
Bên cạnh đó, thu nhập khả dụng tăng cũng kéo theo chi tiêu của người dân
vào các loại hàng hóa bán lẻ cũng tăng mạnh, tạo đà tăng cho thị trường bán lẻ.
Theo dự báo, chi tiêu của người Việt Nam từ nay đến năm 2012 sẽ tăng khoảng
gần 15%/năm. Sự gia tăng về thu nhập khả dụng tính trên đầu người và chi tiêu
của người dân Việt Nam nói chung giai đoạn 2002-2012 sẽ được biểu hiện rõ qua
biểu đồ sau:
2004 2006 2008 2010(dự báo)
2012(dự báo)
0
100
200
300
400
500
600
700
0100002000030000400005000060000700008000090000100000
306341
426
512
615
29575 38814
53102
69511
89685
thu nhập khả dụng/đầu người chi tiêu người dân nói chung
đô la
Mỹ
triệ
u đô
la M
ỹBiểu đồ III.2 : Thu nhập khả dụng/đầu người và chi tiêu người dân
Việt Nam 2002-2012
Nguồn: RNCOS 2008, tr.12-13
3.1.2 Kinh tế tăng trưởng nhanh bậc nhất khu vực và trên thế giới
Việt Nam liên tục dẫn đầu châu Á và trên thế giới về tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Dự báo trong thời gian tới, GDP của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng
trên 5%.
Việt Nam cũng là một trong số các nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
2008 sớm nhất. Theo bảng xếp hạng các thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất của
A.T.Kearney dựa vào GRDI, trong suốt khoảng thời gian 5 năm trở lại đây, Việt
61
Nam luôn có mặt trong top 30. Đặc biệt năm 2008, thị trường bán lẻ Việt Nam
được đánh giá số 1. Mặc dù năm 2009, thứ tự về trong bảng xếp hạng của thị
trường Việt Nam bị giảm xuống vị trí thứ 6 song các nhà đầu tư thế giới vẫn
đánh giá rất cao về thị trường bán lẻ của Việt Nam. Ngoài những nguyên nhân
như lòng tin của người tiêu dùng, mức độ mở cửa của thị trường thì mức độ tăng
trưởng và tính ổn định của nền kinh tế khiến các nhà đầu tư giữ được niềm tin
khi quyết định xâm nhập thị trường Việt Nam.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa dịch vụ của Việt Nam cũng không ngừng tăng
lên trong thời gian qua. Trong đó doanh thu từ ngành bán lẻ thực phẩm tăng
mạnh nhất, khoảng 12%/năm trong khoảng thời gian từ 2003-2008. Doanh thu từ
thị trường bán lẻ của Việt Nam năm 2008 tương đương hơn 40% GDP danh
nghĩa của cả nước (RNCOS 2008, tr.27) và tỷ lệ này được xếp vào loại cao trong
khu vực châu Á, cao hơn cả Trung Quốc và Thái Lan, hai quốc gia có thị trường
bán lẻ tương đối phát triển. Các tổ chức kinh tế toàn cầu và các công ty phân tích
thị trường lớn nhất trên thế giới đều đưa ra những dự báo đầy lạc quan về thị
trường bán lẻ Việt Nam. Công ty RNCOS cho rằng doanh thu bán lẻ của Việt
Nam có thể đạt mức 85 tỷ đô la Mỹ vào năm 2012 còn phòng Thương mại của
Liên minh châu Âu Eurocham cũng dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ tăng
trên 50% trong khoảng 4-5 năm nữa.
3.1.3 Tập quán tiêu dùng thay đổi theo hướng hiện đại
Người tiêu dùng Việt Nam nói chung vẫn giữ những thói quen tiêu dùng
truyền thống. Đối với mặt hàng lương thực, thực phẩm, họ thích đi chợ hàng
ngày để mua thực phẩm cho gia đình mình. Một tỷ lệ khá lớn người Việt Nam
vẫn thích mua sắm ở các chợ hay cửa tạp hóa nhỏ do sự thuận lợi về giao thông,
tiết kiệm thời gian hoặc do mối quan hệ với người bán hàng. Trên thị trường Việt
Nam, các thực phẩm tươi sống được ưa thích hơn thực phẩm đã qua chế biến do
quan niệm về hàm lượng dinh dưỡng, độ “tươi” và đảm bảo của thực phẩm. Một
nguyên nhân nữa khiến nhiều người Việt Nam vẫn giữ thói quen mua thực phẩm
tươi hàng ngày là tỷ lệ các hộ gia đình có điều kiện sử dụng tủ lạnh và lò vi sóng
62
còn khá khiêm tốn: chỉ khoảng 13% hộ gia đình sống ở các đô thị có lò vi sóng
(GAIN 2010, tr3-11).
Đối với mặt hàng phi thực phẩm, người Việt Nam vẫn giữ thói quen mua
sắm tại các cửa hàng tư nhân nhỏ nằm trên các khu phố mua sắm ở các đô thị
lớn. Nguyên nhân cũng ở sự thuận lợi về giao thông và đặc biệt là ưu thế về giá
cả so với hàng hóa bán ở các trung tâm mua sắm lớn.
Tuy nhiên, những năm gần đây, xu hướng tiêu dùng của người Việt Nam
ở thành thị đã xuất hiện những thay đổi theo hướng tiếp nhận phong cách mua
sắm hiện đại xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, mặc dù thu nhập trung bình của quốc gia vẫn ở mức thấp song
thu nhập khả dụng của người dân, đặc biệt là dân cư sống ở các thành phố lớn
tăng lên đáng kể. Điều này khiến họ không chỉ đặt mục tiêu giá cả lên đầu mà
ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa và dịch vụ khi đi mua sắm.
Thứ hai, lo ngại về vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng gia tăng sau một
loạt những phát hiện của cơ quan nhà nước có chức năng về các loại hàng hóa
bán ở các chợ hay cửa hàng tư nhân. Bên cạnh đó, nạn hàng giả, kém chất lượng
cũng ảnh hưởng đến một tỷ lệ không nhỏ người tiêu dùng khiến họ ngày càng
nhận thức được những lợi thế của việc mua sắm trong các khu bán lẻ hiện đại
Thứ ba, cũng giống như các xã hội châu Á nói chung, người tiêu dùng ở
Việt Nam ngày càng có xu hướng giảm bớt thời gian mua sắm. Vì vậy, việc có
thể mua được hàng loạt hàng hóa khác nhau ở cùng một địa điểm thu hút ngày
càng nhiều khách hàng.
Thứ tư, người tiêu dùng Việt Nam đang có xu hướng mua sắm kết hợp
giải trí cùng gia đình. Các khu thương mại với các tiện ích khác kèm theo như
khu đồ ăn nhanh, khu vui chơi cho trẻ em, hay thậm chí là các nhà hàng sang
trọng là sự lựa chọn của một số lượng ngày càng tăng người Việt Nam mỗi dịp
cuối tuần.
63
Thứ năm, quyết định mua sắm của người Việt Nam bị chi phối nhiều bởi
các chương trình quảng cáo hay khuyến mại, đặc biệt là đối tượng khách hàng
thanh thiếu niên. Về khía cạnh này, các cửa hàng mua sắm hiện đại luôn đi trước
các cửa hiệu truyền thống nên đã giành được thị phần tăng đáng kể.
3.2 Khó khăn
3.2.1 Thị trường thiếu quản lý
Quá trình quản lý của Nhà nước về thị trường bán lẻ nói chung vẫn tồn tại
nhiều thiết sót và bất cập.
Đối với hệ thống bán lẻ truyền thống, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tỏ ra khá yếu kém trong việc quản lý cũng như quy hoạch. Chất lượng
hàng hóa bán trong những khu chợ hay cửa hàng tư nhân, tiệm tạp hóa vẫn đang
bị thả nổi. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vẫn
chưa đủ mạnh, phần lớn chỉ mang tính răn đe nên không thể phát huy hiệu quả
trong việc điều chỉnh thị trường. Tình trạng thiếu những quy hoạch cụ thể về hệ
thống bán lẻ truyền thống đã khiến hình thức này phát triển khá lộn xộn, các cơ
sở kinh doanh tồn tại tự phát, ảnh hưởng đến giao thông và kiến trúc đô thị.
Về các loại hình tổ chức thương mại hiện đại, Quy chế siêu thị, trung tâm
thương mại kèm theo Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công thương) về trung tâm thương mại và siêu thị mặc
dù đã được ban hành từ năm 2004 song những quy định chủ yếu vẫn mang tính
hình thức và không sát thực tế. Bên cạnh đó, do tính đặc thù của một quy chế nên
không có bất cứ chế tài xử phạt nào đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm.
Trong tình hình tốc độ phát triển của thị trường Việt Nam theo hướng hiện đại
hóa ngày càng tăng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều mô hình bán lẻ mới
như cửa hàng giảm giá, cửa hàng tiện ích, đại siêu thị, Quy chế đang tỏ ra lạc
hậu, không theo kịp thực tế.
64
Về việc mở cửa cơ sở thứ hai của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài,
Việt Nam đã quy định các doanh nghiệp phải chịu sự chi phối của ENT (Kiểm tra
nhu cầu kinh tế). ENT được hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tình
hình thực tế để xem xét việc cấp phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong khuôn khổ WTO, theo GATS, ENT được xây dựng dựa trên 3 tiêu
chí: số lượng các nhà bán lẻ trên một khu vực địa lý cụ thể; sự ổn định của thị
trường; quy mô địa lý của khu vực dân cư.
Tuy vậy, đến thời điểm này, sau ngày 1/1/2009 hơn một năm, Việt Nam
vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về ENT và cũng không đưa ra các tiêu chí cụ
thể để áp dụng ENT trong các văn bản pháp quy. Bên cạnh đó, một số khái niệm
như điểm bán lẻ, phân định rõ ENT và phân vùng địa lý hay đơn vị bán lẻ, người
tiêu dùng cuối cùng cũng chưa được xác định cụ thể. Vì vậy, các doanh nghiệp
khi muốn hoạt động ở Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, phức tạp do
không biết dựa vào những tiêu chí nào. Bản thân các cơ quan có thẩm quyền
cũng rất lúng túng trong công tác quản lý, hoạch địch chính sách.
Ngoài ra, trên thị trường bán lẻ Việt Nam, các hoạt động M&A hay
nhượng quyền thương mại đang diễn ra rất sôi động nhưng rất hiếm hoặc gần
như không có những luật, quy định cụ thể, chặt chẽ. Việc này đã tạo điều kiện
khiến nhiều doanh nghiệp dễ dàng lợi dụng kẽ hở để thực hiện các hành vi nhằm
giành thị phần một cách thiếu minh bạch, cạnh tranh không công bằng.
3.2.2 Lạm phát
Một trong những vấn đề đáng lo ngại trên thị trường Việt Nam chính là
tình trạng lạm phát bất thường. Việt Nam là một trong những nước trên thế giới
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 sớm nhất. Tuy nhiên, rất nhiều nhà
kinh tế dự báo nguy cơ lạm phát quay trở lại. Điều này càng thể hiện rõ ràng sau
khi những con số về tỷ lệ tăng CPI được công bố. Năm 2009, CPI của Việt Nam
tăng 6.88% so với năm 2008. Quý 1 năm 2010, chỉ số này đã tăng tới 4,12%
(Tổng cục Thống kê 2010).
65
Chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng trong năm 2009 đã khiến không ít
nhà đầu tư do dự khi tiến hành hoạt động kinh doanh tại thị trường Việt Nam.
Nguyên nhân khiến giá cả leo thang không thể không kể đến sự yếu kém của các
cơ quan có thẩm quyền trong việc điều hành giá cả. Tình trạng này dẫn đến việc
những nhà cung cấp tự ý nâng giá sản phẩm đầu ra trong khi giá cả trên thế giới
hay giá nguyên vật liệu đầu vào tương đối ổn định là một tình trạng khá phổ biến
trên thị trường bán lẻ Việt Nam, đặc biệt đối với các loại hàng hóa tiêu dùng
hàng ngày của người dân. Đáng lo ngại hơn, khi giá cả biến động, không chỉ
hàng hóa bán trong các khu chợ truyền thống hay cửa hàng tư nhân nhanh chóng
tăng theo mà cả hàng hóa bán trong siêu thị của Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu thế chung.
Nguy cơ lạm phát tăng cao gây nhiều bất lợi trong việc thu hút nhà đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực bán lẻ. Các nhà bán lẻ lớn từ nước ngoài thường theo
đuổi chiến lược cạnh tranh về giá. Họ luôn cam kết đưa đến cho khách hàng của
mình lượng hàng hóa với giá cả ổn định trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy,
ở thị trường mà giá cả liên tục thay đổi theo chiều hướng tăng lên, họ không thể
ngay lập tức điều chỉnh giá bán của mình vì hành động đó sẽ ảnh hưởng tới uy tín
kinh doanh của các cơ sở bán lẻ. Do đó, doanh thu của những nhà bán lẻ này có
nhiều khả năng sẽ bị sụt giảm. Đây là lý do các nhà bán lẻ thường ưu tiên những
thị trường có nguồn cung dồi dào, giá cả ổn định để ít xảy ra việc phải liên tục
thay đổi chiến lược kinh doanh ảnh hưởng tới lợi nhuận của mình.
3.2.3 Mặt bằng bán lẻ: giá thuê cao, nguồn cung chưa dồi dào
Vấn đề mặt bằng bán lẻ luôn là vấn đề được quan tâm nhiều nhất đối với
bất cứ nhà bán lẻ nào, cả nước ngoài lẫn trong nước khi có dự định thâm nhập thị
trường bán lẻ ở bất cứ quốc gia nào. Để bắt đầu công việc kinh doanh của mình,
tính toán đầu tiên của một doanh nghiệp sẽ dành cho việc tìm kiếm vị trí đặt cơ
sở phù hợp với mức kinh phí đã định sẵn. Đặc biệt ở Việt Nam, nơi mật độ dân
số ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là khoảng trên
66
2000-3000 người/km vuông, gấp đến 100 lần mật độ chuẩn trên thế giới thì vấn
đề tìm mặt bằng kinh doanh luôn là vấn đề số một với bất cứ doanh nghiệp nào.
Tổng diện tích mặt bằng bán lẻ của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
tính đến nay khoảng 400.000m2, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn
230.000m2 với 18 trung tâm thương mại. Tuy nhiên, con số này chưa đáp ứng đủ
nhu cầu (Ca, Hảo 2009). Nguồn cung chưa đáp ứng đủ cầu là nguyên nhân đẩy
giá cho thuê ở các trung tâm thương mại, đặc biệt là ở những khu trung tâm
thành phố lên cao. Biểu đồ sau so sánh mức giá thuê trung bình/mét vuông và giá
thuê cao nhất/mét vuông ở các trung tâm thương mại ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh với một số thành phố khác trong khu vực.
Hồng Kông
Bắc Kinh
Singa
po
Bangk
ok
Manila
Jakart
a
Hà Nội
tp Hồ Chí Minh
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
giá thuê trung bình/m2/tháng
giá thuê cao nhất/m2/tháng
Biểu đồ III.3: Mức giá thuê trung bình/m2/tháng và mức giá thuê cao
nhất/m2/tháng mặt bằng bán lẻ tại các trung tâm thương mại ở một số
thành phố châu Á.
Nguồn: CBRE Việt Nam 2008, tr.18
Có thể thấy giá thuê trung bình ở hai thành phố lớn nhất Việt Nam còn cao
hơn ba thành phố trong khu vực ASEAN là Bangkok (Thái Lan), Manila
67
(Philipin) và Jakarta (Indonesia). Mức thuê trung bình ở hai thành phố chính là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều nằm trên mức 60$/m2/tháng trong khi
một số siêu thị trên địa bàn hai thành phố này thì với mức giá trên 25$/m2/tháng
họ đã khó kinh doanh có lãi (Ca, Hảo 2009).
Theo những thống kê của công ty CBRE, một trong những công ty hàng
đầu về tư vấn, quản lý bất động sản trên thế giới, thị trường Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh hiện đang xuất hiện tình trạng dư cung mặt bằng bán lẻ hạng A
trong khi lại thiếu trầm trọng mặt bằng hạng B và C. Cũng theo công ty này, phải
đến năm 2013-2014 thì cung và cầu về bất động sản dành cho bán lẻ mới có thể
đạt mức cân bằng và giá thuê mới có hy vọng sẽ giảm xuống. Điều đó có nghĩa là
nhiều khu vực trung tâm thương mại hạng nhất, sang trọng sẽ tiếp tục được xây
dựng và bỏ không trong khi các doanh nghiệp bán lẻ vẫn gặp khó khăn trong việc
tìm cơ sở đặt các cửa hàng bán lẻ của mình.
Mặc dù giá thuê cao, các trung tâm thương mại ở nước ta thường không
đạt đủ những tiêu chuẩn quốc tế về chỗ đỗ phương tiện, tỷ lệ tối thiểu diện tích
cây xanh/tổng diện tích sàn, thiết bị chống cháy, nhà vệ sinh. Có thể lấy ví dụ
như khu trung tâm thương mại Vincom và Diamond Plaza, hai khu này được coi
là hai trung tâm lớn và hiện đại nhất thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, diện tích dành cho bãi đỗ xe ở hai khu này khá hạn chế. Vào những đợt
đông khách đến mua sắm, bãi đỗ xe thường ở vào tình trạng quá tải và nhiều
khách bị từ chối giữ xe. Đây sẽ là lý do khiến nhiều tập đoàn bán lẻ nước ngoài
sẽ phải trì hoãn kế hoạch xâm nhập thị trường bán lẻ của Việt Nam vì không thể
tìm được địa điểm kinh doanh phù hợp với quy mô thương hiệu của mình.
Ngoài ra, việc xin giấy phép xây dựng cũng gặp nhiều khúc mắc. Quy
trình giải phóng mặt bằng ở Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập. Quá trình xin
cấp đất, cấp phép xây dựng thường khá phức tạp, tốn kém thời gian, công sức
cho nhà đầu tư.
68
II. NHÓM KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ
VIỆT NAM
Mặc dù quá trình mở cửa thị trường bán lẻ sẽ gây một số tác động tiêu cực
lên các chủ thể trên thị trường song những lợi ích từ một thị trường tự do đem lại
lớn hơn nhiều lần. Tự do hóa thương mại trong đó bao gồm việc tạo điều kiện
cho những nhà bán lẻ nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư không bị hạn
chế là một xu thế tất yếu của tất cả các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Đó
cũng là cơ hội cho nhà bán lẻ trong nước có cơ hội cạnh tranh trên một sân chơi
rộng lớn và bình đẳng hơn. Để có thể tận dụng tối đa những ảnh hưởng tích cực
đồng thời giảm thiểu mặt hạn chế từ quá trình mở cửa thị trường bán lẻ, Nhà
nước cần phát huy vai trò tối quan trọng của mình. Một mặt, Nhà nước cần thực
hiện đầy đủ những cam kết mở cửa theo đúng lộ trình gia nhập WTO và hội nhập
vào xu thế phát triển chung của nền thương mại toàn cầu. Tuy nhiên quá trình mở
cửa phải thực hiện từng bước, không nên nóng vội dễ dẫn đến những thất bại như
trường hợp của Thái Lan. Mặt khác, Nhà nước cũng cần thể hiện rõ vai trò tích
cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước khắc phục những điểm yếu
còn tồn tại nhằm đứng vững trong tình hình mới. Những giải pháp mang tính vĩ
mô từ Chính phủ và Nhà nước sẽ không thể có tác dụng nếu thiếu sự đồng thuận
và hành động quyết liệt từ phía các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Bản thân các
doanh nghiệp này phải không ngừng nâng cao khả năng phân tích nắm vững tình
hình và nhanh chóng có thực hiện những thay đổi về mặt cơ cấu, tổ chức cũng
như chiến lược kinh doanh nhằm thích nghi với thị trường đổi mới. Tôi xin đưa
ra nhóm giải pháp cho Nhà nước và các doanh nghiệp như sau:
1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước
1.1 Giữ ổn định về kinh tế, chính trị
Nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những nền kinh tế
ổn định nhất thế giới. Đây là một trong những yếu tố được nhà đầu tư nước ngoài
69
quan tâm nhất khi quyết định rót vốn đầu tư vào bất cứ thị trường nào. Do vậy
trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục giữ vững ổn định nền chính trị để giữ
được niềm tin của nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, Nhà Nước cần điều chỉnh vai trò của mình trong việc điều
tiết nền kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Một trong những ưu điểm là Nhà nước có thể tham gia quản lý
kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm là nền kinh tế thường chậm trễ đón nhận những
xu hướng chung trên thế giới. Vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần thể hiện
vai trò của mình trong việc nhanh chóng phản ứng trước biến động tình hình kinh
tế thế giới. Qua đó, Chính phủ có thể ban hành những chính sách tài khóa-tiền tệ
phù hợp, tạo điều kiện cho nền kinh tế vận hành theo những quy luật của thị
trường đồng thời vẫn có thể duy trì sự ổn định của toàn nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
1.2 Hoàn thiện khung pháp lý về thương mại
Trước khi ra quyết định đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào, nhà đầu tư nước
ngoài hay trong nước đều phải dành thời gian và công sức nghiên cứu những
luật, quy định, thủ tục liên quan. Vì vậy, nếu Việt Nam có những bộ luật hoàn
chỉnh, minh bạch, công khai sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư tìm đến với thị trường
hơn. Hiện nay, Nhà nước đang cố gắng đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhiều
cấp, Bộ, ngành đã thực thi quy chế một cửa nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các
doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện các thủ tục hành chính trước cũng như
trong suốt quá trình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nói
rằng các cơ quan hành chính của Việt Nam vẫn làm việc chưa thực sự hiệu quả,
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì vậy, trong thời gian tới,
Nhà nước cần đẩy mạnh quá trình cải cách về mặt hành chính, rút ngắn thời gian
cũng như thủ tục giấy tờ cấp phép đầu tư, kinh doanh.
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành
những quy chế, quy định mới về thị trường bán lẻ, những mô hình kinh doanh
70
hiện đại thay thế cho quy chế cũ đang ngày càng tỏ ra không còn phù hợp. Sau
khi thị trường bán lẻ được mở cửa theo đúng cam kết của Việt Nam trong WTO,
trên thị trường chắc chắn sẽ xuất hiện những hệ thống bán lẻ mới ngoài trung tâm
mua sắm và hệ thống siêu thị. Những luật, quy định mới không chỉ hỗ trợ cho
Nhà nước trong việc quản lý thị trường mà còn góp phần bảo vệ doanh nghiệp
trong nước.
Về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, hiện ở Việt Nam chưa có bộ luật thống
nhất nào quy định về quyền của người tiêu dùng. Điều này là hết sức bất lợi trong
tình hình thị trường có nhiều diễn biến phức tạp. Chính phủ cần nhanh chóng xây
dựng và đưa vào thực thi những Luật, quy định phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi
tối đa cho người tiêu dùng Việt Nam.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần liên tục sửa đổi các bộ luật liên quan như
Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ cho phù hợp với tình
hình, giảm thiểu tình trạng nhiều bộ luật chồng chéo, điều chỉnh khác nhau cho
cùng một vấn đề gây không ít hiểu lầm cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính
phủ cũng cần khẩn trương soạn thảo những quy định điều chỉnh các hình thức
kinh doanh mới trên thị trường bán lẻ hiện đại như nhượng quyền, mua lại và sáp
nhập,…
Nhằm giải quyết những khó khăn về mặt bằng, Chính phủ cần hoàn thiện
Luật Đất đai và minh bạch hóa những dự án quy hoạch theo địa phương, vùng
miền nhằm rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp bán lẻ tìm được những địa điểm kinh doanh phù hợp.
Về vấn đề ENT, Chính phủ cần thúc giục cũng như hỗ trợ các địa phương
trong việc hoàn thiện những quy định liên quan theo tinh thần phù hợp với những
cam kết với WTO. Mục đích là giúp các địa phương không gặp khó khăn hay
chậm trễ trong quá trình cấp phép cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc mở các
cơ sở bán lẻ sau cơ sở thứ nhất. Việc này đòi hỏi Chính phủ cùng các địa phương
phải rà soát những đặc điểm kinh tế của từng vùng miền để đảm bảo đưa ra
71
những tiêu chí phù hợp với sự phát triển của thị trường bán lẻ, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà bán lẻ và hỗ trợ được nhà bán lẻ nội địa.
1.3 Thực hiện các biện pháp điều hành, giám sát thị trường bán lẻ, hoàn
thiện các chế tài xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xâm
phạm lợi ích người tiêu dùng
Nhà nước cần đẩy mạnh công tác giám sát, quản lý thị trường nhằm đảm
bảo các hoạt động kinh doanh diễn ra trong môi trường cạnh tranh bình đẳng,
hiện đại. Gần đây trên thị trường luôn xuất hiện các hành vi cạnh tranh thiếu lành
mạnh hay các chương trình khuyến mại, quảng cáo không phù hợp với thuần
phong mỹ tục, truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Nhà nước cần chặt chẽ
kiểm tra nhằm ngăn chặn mọi hành vi có thể gây ảnh hưởng xấu tới xã hội, đặc
biệt là hành động tuyên truyền, kích động việc sử dụng những sản phẩm làm lệch
hướng phát triển của tầng lớp thanh thiếu niên.
Hiện nay ngày càng xuất hiện những chiêu thức kinh doanh trục lợi của
một số doanh nghiệp bán lẻ gây phương hại đến người tiêu dùng như bán hàng
nhái các thương hiệu nổi tiếng, mập mờ trong việc đính nhãn mác, thời hạn sử
dụng sản phẩm,.. Nhà nước cần thể hiện vai trò của mình trong việc loại bỏ
những hành vi này nhằm đảm bảo người tiêu dùng được tiếp cận với các loại
hàng hóa chất lượng tốt, an toàn cho sức khỏe. Một trong những mối quan tâm
nhất hiện nay của người dân là chất lượng các sản phẩm thực phẩm bày bán ở các
chợ hay kể cả trong các siêu thị lớn. Các Bộ, Ban, ngành liên quan cần đặt ra
những tiêu chuẩn thống nhất trên cả nước về thực phẩm sạch. Đồng thời, Nhà
nước cũng cần mạnh tay xử lý những cơ sở vi phạm bằng những chế tài rõ ràng,
hợp lý. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của nhà nước hay từng địa phương
phải liên tục thanh kiểm tra chất lượng hàng hóa, đặc biệt là những loại hàng liên
quan trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng ở các cơ sở bán lẻ thay vì chỉ tập
trung vào một số tháng cao điểm và nới lỏng trong suốt thời gian còn lại.
72
1.4 Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động phân phối bán lẻ
Một cản trở lớn khiến các nhà đầu tư nước ngoài do dự khi đầu tư vào thị
trường bán lẻ Việt Nam hay các nhà bán lẻ trong nước ngại ngần khai thác các
thị trường mới là do hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay nói chung lạc
hậu và nhiều nơi xuống cấp trầm trọng. Vì vậy, để phát triển thị trường bán lẻ
Việt Nam, Chính phủ cần gấp rút đầu tư cải tạo các tuyến đường huyết mạch,
tuyến quốc lộ, xây mới cũng như sửa chữa cầu đường. Nhà nước có thể hỗ trợ
các doanh nghiệp trong nước bằng cách cho thuê đất làm kho bãi với giá ưu đãi
hay xây sẵn những hệ thống nhà kho hiện đại, diện tích lớn cho các doanh nghiệp
bán lẻ vừa và nhỏ thuê trong thời gian dài nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc
dự trữ nguồn hàng.
Để giúp hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ được diễn ra thuận lợi,
bên cạnh đầu tư vào hạ tầng đường xá, kho bãi, Nhà nước cần phải đảm bảo hệ
thống điện nước, viễn thông được triển khai rộng khắp. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong việc khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam mở rộng hoạt
động xuống các vùng nông thôn hay vùng miền núi xa xôi. Nó còn giải quyết
được vấn đề phát triển không cân xứng giữa các vùng miền, tăng cơ hội tiếp cận
với nguồn hàng hóa đa dạng cho người dân nông thôn và do vậy nâng cao cuộc
sống người dân ở những vùng xa đô thị.
Ngoài ra, Nhà nước cần tăng cường việc xây dựng các khu triển lãm, hội
chợ với diện tích lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tiếp
cận người tiêu dùng, quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường nội địa và
tìm kiếm được cơ hội kinh doanh tiềm năng.
1.5 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, hướng dẫn, khuyến khích người
tiêu dùng hướng tới hàng sản xuất trong nước
Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới
WTO, Việt Nam không được phép bảo hộ những ngành mà WTO quy định cho
73
các quốc gia thành viên phải mở cửa hoàn toàn. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam
không thể bảo hộ các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hay phân biệt đối xử với
các doanh nghiệp đến từ các nước khác. Tuy nhiên Chính phủ vẫn có thể hỗ trợ
các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau giúp doanh nghiệp nắm được
những quy định, bộ luật mới hay tiếp cận với các thị trường kinh doanh phát triển
trên thế giới.
Để tăng cường hiểu biết pháp luật quốc tế của các doanh nghiệp bán lẻ
trong nước, Chính phủ có thể mở các cuộc hội đàm, hội thảo hay các buổi nói
chuyện trong đó mời các chuyên gia đầu ngành làm chủ tọa về các vấn đề liên
quan đến luật quốc tế hay những cam kết trong khuôn khổ WTO mà Việt Nam
đang và sẽ áp dụng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có thể xây dựng các cổng
thông tin điện tử tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong cùng ngành trao đổi
kinh nghiệm, nâng cao hiểu biết về lĩnh vực mà họ đang kinh doanh cũng như
giới thiệu những thay đổi về chính sách, luật pháp liên quan. Chính phủ cũng có
thể khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ mở rộng hoạt động về các vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa thông qua các ưu đãi về thuế.
Đối với người tiêu dùng, Chính phủ cũng có thể tác động khuyến khích họ
sử dụng hàng hóa sản xuất tại Việt Nam cũng như đi mua sắm tại các siêu thị
Việt Nam. Rút kinh nghiệm từ thành công của các chương trình “Người Việt
Nam dùng hàng Việt Nam”, Nhà Nước có thể thiết kế những kế hoạch mới nhằm
hướng người dân Việt Nam tới những cửa hàng bán lẻ do doanh nghiệp Việt
Nam làm chủ.
2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam
2.1 Tận dụng và phát huy lợi thế trên thị trường nội địa, hiểu biết rõ về thị
trường và người tiêu dùng trong nước
Không thể phủ nhận các doanh nghiệp nước ngoài khi xâm nhập vào thị
trường bán lẻ Việt Nam sở hữu rất nhiều lợi thế cạnh tranh vượt trội như tiềm lực
74
tài chính, kinh nghiệm hoạt động quốc tế hay trang thiết bị công nghệ, quản lý tối
tân, .v.v. Tuy nhiên không phải nhà bán lẻ toàn cầu nào cũng có thể chiến thắng
các nhà bán lẻ nội địa vì trên thực tế, nhà bán lẻ nội địa cũng có những ưu thế
đáng kể trên sân nhà.
Các nhà bán lẻ Việt Nam có nguồn kiến thức khá vững vàng về khách
hàng mục tiêu của mình. Họ hoàn toàn có khả năng tìm hiểu và nghiên cứu về
truyền thống văn hóa cũng như những thị hiếu, phong cách tiêu dùng của người
dân Việt Nam. Trong hoạt động kinh doanh, việc hiểu biết sâu sắc văn hóa của
thị trường mình đang đầu tư là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại.
Nguyên nhân đại gia bán lẻ Wal-mart phải tuyên bố rút khỏi thị trường Hàn Quốc
là vì tập đoàn này không thay đổi phương cách kinh doanh phù hợp với tập quán
thị trường nội địa. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần giữ vững và khai thác
triệt để lợi thế này của mình. Trong quá trình hoạt động mở rộng thị trường, các
doanh nghiệp cần chú ý xây dựng các chính sách sản phẩm hay tiếp cận khách
hàng phù hợp với truyền thống sinh hoạt, tập quán, tín ngưỡng của người dân
Việt Nam.
2.2 Nhạy bén nắm bắt thông tin, điều chỉnh theo những biến động thị trường
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang xây dựng chiến lược kinh doanh
của mình theo hướng tập trung vào các cửa hàng bán lẻ hiện đại, và trong tương
lai có thể mở rộng hoạt động sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì
vậy, khả năng nắm bắt thông tin trên thị trường sẽ đóng vai trò là một trong
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của doanh nghiệp.
Trong tình hình thị trường bán lẻ trong nước cũng như trên thế giới liên
tục biến động, doanh nghiệp nào có được thông tin nhanh nhất và chính xác nhất,
doanh nghiệp đó sẽ vượt lên những doanh nghiệp khác và hội nhập được vào xu
thế chung. Ngược lại, những doanh nghiệp chậm trễ trong việc thu thập xử lý
thông tin sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu và tụt lại trong cuộc chơi ngày càng
khốc liệt.
75
Để có được thông tin hữu ích nhất phục vụ trực tiếp cho quá trình hoạt
động kinh doanh của mình, đầu tiên doanh nghiệp bán lẻ phải khôn khéo tiếp cận
người tiêu dùng. Nhờ đó, họ có thể hiểu được nhu cầu đang hiện hữu trên thị
trường đồng thời cũng có thể dự báo những nhu cầu chưa xuất hiện nhưng rất có
tiềm năng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ cũng cần phải chú trọng nghiên
cứu tình hình lao động cũng như thu nhập của đối tượng khách hàng mục tiêu để
ra những quyết định phân phối đúng đắn.
Ngoài việc tiếp cận người tiêu dùng, các doanh nghiệp bán lẻ cũng cần
liên tục thu thập thông tin về các doanh nghiệp cùng hoạt động trong ngành để có
thể nắm được những chiến lược mở rộng mới của đối thủ cạnh tranh, về dịch vụ
cũng như chủng loại sản phẩm mà đối thủ của mình đang cung cấp cho khách
hàng. Thông qua đó, doanh nghiệp có thể phân tích những điểm mạnh, điểm yếu
và có thể tiếp thu những nét tiến bộ từ doanh nghiệp khác hay học tập từ những
thất bại trên thị trường.
2.3 Đầu tư vào thiết lập, củng cố thương hiệu riêng, không ngừng mở rộng
danh mục sản phẩm với chất lượng đảm bảo, giá cả cạnh tranh
2.3.1 Củng cố thương hiệu
Một thương hiệu mạnh sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi
doanh nghiệp, góp phần tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững trên thị trường và
gia tăng giá trị về mặt tài chính cho bản thân doanh nghiệp. Thương hiệu của
doanh nghiệp sẽ thể hiện đầy đủ bản sắc của doanh nghiệp, tạo hình ảnh khác
biệt của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Thành công trong việc xây
dựng thương hiệu là yếu tố quyết định sự thành công của bất cứ doanh nghiệp
nào. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bán lẻ nói riêng
trong thời gian gần đây đã nhận thức rõ hơn về vị trí của thương hiệu trong hoạt
động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đầu tư vào việc xây dựng và quảng bá
thương hiệu của họ vẫn còn ở mức khiêm tốn. Vì vậy, trong thời gian tới, các
doanh nghiệp bán lẻ cần tăng cường sự hiểu biết về tầm quan trọng của thương
76
hiệu. Đồng thời, họ cần phải có những chiến lược bảo vệ thương hiệu của mình
trong bối cảnh Luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn chưa được thực thi đầy đủ và
nghiêm khắc.
2.3.2 Mở rộng danh mục hàng hóa, khách hàng mục tiêu
Bên cạnh việc đầu tư củng cố phát triển thương hiệu của mình, các doanh
nghiệp cũng cần liên tục đổi mới, đa dạng hóa danh mục sản phẩm. Các trung
tâm bán lẻ nước ngoài luôn vượt trội về chủng loại hàng hóa rất phong phú, tạo
điều kiện cho khách hàng thỏa sức lựa chọn. Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải
nghiên cứu thị hiếu khách hàng, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu xuất hiện trên
thị trường bằng việc đem đến những mặt hàng mới nhất, phong phú về mẫu mã,
đa dạng về giá cả. Đặc biệt, các doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục hàng hóa
bằng việc đưa vào giới thiệu nhiều mặt hàng xa xỉ, giá cao, chất lượng thượng
hạng đáp ứng nhu cầu của một bộ phận dân cư giàu có ngày càng tăng trong xã
hội. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên mở rộng đối tượng khách hàng mục
tiêu thay vì chỉ tập trung vào một nhóm cụ thể. Các doanh nghiệp nên chú trọng
hơn tới tầng lớp khách hàng thanh thiếu niên (độ tuổi dưới 20) vì phân đoạn này
hiện đang xuất hiện phong cách tiêu dùng hiện đại, khối lượng tiêu dùng lớn và
yêu cầu thường không quá khắt khe.
2.3.3 Chú trọng đầu tư nghiên cứu đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường
Một điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp bán lẻ cần nắm rõ tâm lý thích
các chương trình khuyến mại, quảng cáo của khách hàng Việt Nam và liên tục
đưa ra các chương trình hấp dẫn. Chuỗi siêu thị Big C cứ mỗi 3 tuần lại đưa ra
những tờ rơi quảng cáo rầm rộ cho hàng trăm mặt hàng giảm giá trong một thời
điểm nhất định. Giá cả của những mặt hàng này thậm chí còn thấp hơn những
mặt hàng tương tự bán trong chợ truyền thống. Đây là một ví dụ điển hình mà
các doanh nghiệp Việt Nam nên tiếp thu.
2.4 Đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, hiệu quả
77
Một trong những cách tốt nhất để tăng doanh thu từ hoạt động bán lẻ
chính là thành công trong việc thiết lập các mối quan hệ bền chặt với khách hàng.
Để có thể giữ chân khách hàng, bên cạnh lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất
lượng, cung cách phục vụ của người bán hàng là yếu tố vô cùng quan trọng. Tuy
nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng của các doanh nghiệp Việt Nam như đã
phân tích ở trên là một cản trở lớn giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp
này trong cuộc đua với các tập đoàn bán lẻ khổng lồ dày dặn kinh nghiệm của thế
giới. Chính vì vậy, tìm cách khắc phục điểm yếu này sẽ là chìa khóa giúp các
doanh nghiệp Việt Nam cải thiện được vị trí của mình trên thị trường.
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam nên xây dựng các chương trình
tuyển dụng lao động một cách khách quan, minh bạch nhằm tìm kiếm những
người có năng lực thực sự, phù hợp với văn hóa doanh nghiệp, có tâm huyết với
nghề và có thể gắn bó lâu dài.
Thứ hai, do hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có trường đại học hay cao đẳng
nào đào tạo chuyên nghiệp về nhân viên bán lẻ hay chăm sóc khách hàng nên sau
tuyển dụng, việc cần thiết nhất là phải đầu tư cho quá trình đào tạo đội ngũ nhân
viên. Doanh nghiệp có thể mời những chuyên gia bán lẻ trong nước hay nước
ngoài thiết kế các khóa học nâng cao kiến thức cơ bản cũng như chuyên sâu cho
nhân viên của mình tùy thuộc vào vị trí trong hệ thống bán lẻ. Điều quan trọng
đầu tiên là phải hướng những nhân viên này thay đổi thái độ làm việc theo hướng
lấy khách hàng làm trung tâm. Những nhân viên có hiểu biết sâu rộng có khả
năng giải đáp mọi thắc mắc khách hàng, trợ giúp khách hàng một cách nhiệt tình,
niềm nở trong quá trình mua sắm sẽ đóng vai trò trực tiếp khuyến khích nhiều
khách hàng tìm đến cửa hàng và mua sắm nhiều hơn.
Thứ ba, vì những nhân viên có kinh nghiệm sẽ trở thành tài sản vô cùng
có giá trị đối với bất cứ doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực nên việc giữ
chân họ cùng có ý nghĩa rất lớn. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, các công ty
luôn tìm cách thu hút những nhân viên có tài bằng những chế độ hết sức hấp dẫn,
nhất là các doanh nghiệp nước ngoài. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp Việt
78
Nam cần khôn khéo giữ chân nhân viên lâu năm của mình bằng mức lương,
thưởng hấp dẫn và các chương trình đãi ngộ hợp lý.
2.5 Đẩy mạnh đầu tư, áp dụng công nghệ cao để quản lý mọi khâu của hoạt
động kinh doanh
Công nghệ có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho bất cứ doanh nghiệp hoạt
động trên lĩnh vực nào. Đặc biệt trong tình hình cạnh tranh với các tập đoàn bán
lẻ khổng lồ đang sử dụng những phần mềm quản lý bán hàng hiện đại nhất thế
giới, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng đầu tư cải tiến công nghệ.
Nhà bán lẻ Việt Nam có thể nghiên cứu tính khả thi của việc áp dụng công nghệ
RFID (như đã phân tích ở chương II) để chuyên nghiệp hóa các công đoạn phân
phối, quản lý bán hàng và khách hàng. Công nghệ này đã được hầu hết những tập
đoàn bán lẻ lớn trên thế giới áp dụng và ngày càng chứng minh tính ưu việt của
nó.
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nên đa dạng hóa các kênh bán lẻ của mình
và cần đẩy mạnh việc triển khai kênh bán hàng qua mạng. Số người Việt Nam sử
dụng Internet hiện đang tăng lên nhanh chóng, nhất là ở các vùng nông thôn. Con
số này tính đến thời điểm tháng 12 năm 2009 đã là 22,8 triệu người và được dự
tính sẽ lên tới gần 27 triệu trong vòng 2 năm tới (Internet World Stats 2009).
Như vậy tiềm năng để có thể triển khai kênh bán hàng này là rất lớn. Các
nhà bán lẻ Việt Nam cần chuẩn bị kiến thức, nguồn tài chính cũng như nhân lực
cho mảng kinh doanh này.
Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ Việt Nam cần mở rộng việc lắp đặt các máy
POS phục vụ khách hàng thanh toán trực tiếp tại quầy thông qua các loại thẻ.
Ngoài ra, doanh nghiệp bán lẻ cũng nên chú trọng hợp tác với các ngân hàng để
giới thiệu các gói tín dụng khuyến khích mua hàng như mua hàng trả góp, chiết
khấu cho chủ thẻ của các ngân hàng liên kết hay tăng cường hệ thống bảo mật
khi khách hàng mua sắm qua mạng,...
79
2.6 Thực hiện các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp bán lẻ khác và các
nhà sản xuất
Trước cuộc đua ngày càng quyết liệt trên thị trường bán lẻ Việt Nam giữa
các doanh nghiệp trong nước và các tập đoàn bán lẻ khổng lồ, doanh nghiệp Việt
Nam sẽ gặp rất nhiều thách thức để có thể đứng vững nếu họ không nhận ra được
yêu cầu cấp bách là phải thực hiện các hoạt động liên kết, cả chiều ngang và
chiều dọc.
- Liên kết theo chiều ngang là liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành,
trực tiếp cạnh tranh với nhau và chia sẻ cùng dòng sản phẩm trên thị trường.
Cụ thể trong ngành bán lẻ liên kết chiều ngang là liên kết giữa các nhà bán lẻ
cùng kinh doanh trên một thị trường cụ thể.
- Liên kết theo chiều dọc là liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung
ứng. Liên kết trong chiều dọc trong ngành bán lẻ có thể là giữa một (hay
nhiều nhà bán lẻ) với các công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải, kho bãi.
Thực chất, ở hầu hết các nước phát triển, việc liên kết giữa các doanh
nghiệp cùng ngành luôn được chủ các doanh nghiệp chú trọng do những ưu thế
vượt trội mà nó mang lại. Vì vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam cần tìm kiếm cơ hội liên kết với nhau để xây dựng những tổ chức vững
mạnh có tính cạnh tranh cao. Mỗi doanh nghiệp, tùy thuộc vào thị trường mục
tiêu, quy mô doanh nghiệp và chiến lược phát triển trong tương lai có thể lựa
chọn cho mình con đường liên kết phù hợp.
Gần đây, có một xu hướng được nhiều chuyên gia kinh tế đề xuất cho các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Đó là việc thành lập các liên minh mua hàng. Các liên minh này thực tế đã ra đời
và khá thành công trên các thị trường bán lẻ của các quốc gia phát triển. Tại đó,
các doanh nghiệp bán lẻ lớn thường chiếm lĩnh thị trường nhờ tính kinh tế của
quy mô. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ, để sống sót trên thị trường cạnh tranh
khốc liệt đã liên minh lại với nhau để thành lập các liên minh mua hàng, nhằm
80
giảm chi phí một cách tối đa. Bên cạnh chức năng cơ bản nhất là cung cấp cho
các doanh nghiệp thành viên những thông tin cập nhật về tình hình thị trường,
biến động giá cả, những liên minh này cho phép các thành viên tập trung các đơn
hàng cùng loại thành một đơn hàng thống nhất với số lượng lớn. Nhờ đó, liên
minh có thể được hưởng chiết khấu và kết quả là các doanh nghiệp tham gia có
thể tiết kiệm chi phí mua hàng. Bên cạnh đó, những liên minh này có thể đại diện
cho các thành viên của mình để tham gia vào các cuộc đàm phán với nhà phân
phối hay sản xuất nhằm mục đích đạt được những điều khoản có lợi nhất.
Các tổ chức liên kết giữa các nhà bán lẻ còn có khả năng hỗ trợ thành viên
nâng cao kinh nghiệm và kiến thức pháp luật, đặc biệt là khả năng khởi kiện.
Trong tình hình đa số các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, việc những doanh nghiệp này tập hợp lại thành một tổ chức lớn có
thể tăng sức mạnh trong quá trình ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong
trường hợp có tranh chấp xảy ra, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các
liên kết này hoàn toàn có khả năng thuê những luật sư nhiều kinh nghiệm và có
uy tín để bảo vệ quyền lợi tối đa cho các thành viên.
81
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, thị trường bán lẻ châu Á đang dần trở thành thị trường
hấp dẫn nhất thế giới, là điểm đến số một của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu. Trong
thời gian tới, khu vực bán lẻ của châu lục này sẽ tiếp tục là một trong những khu
vực diễn ra quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất trên thế giới. Bên cạnh sự xuất
hiện của các nhà bán lẻ khổng lồ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ, châu Á sẽ chứng
kiến sự lớn mạnh không ngừng của chính những nhà bán lẻ nội địa. Một số lượng
lớn các tập đoàn bán lẻ đến từ châu Á sẽ không ngừng phát triển để cạnh tranh
với các tập đoàn Âu Mỹ trên sân nhà đồng thời nhanh chóng vươn ra cả những
thị trường khác khắp toàn cầu.
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập sâu rộng đang diễn ra
trên thế giới và trong khu vực, thị trường bán lẻ Việt Nam dù phát triển muộn
hơn song đang tích cực đón nhận và tiếp thu những xu thế chung. Sau khi trở
thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đang dần từng bước thực hiện
quá trình mở cửa thị trường bán lẻ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm đưa thị
trường phát triển theo hướng hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong thời gian tới, thị
trường bán lẻ Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề phải giải quyết dứt điểm. Một
trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là việc các cơ quan nhà nước phải đẩy
nhanh quá trình hoàn thiện định hướng phát triển phù hợp, rõ ràng cho hệ thống
bán lẻ hiện đại cùng với việc quy hoạch cụ thể hệ thống truyền thống. Cùng với
việc thực hiện những cam kết mở cửa trong khuôn khổ WTO, Đảng và Chính
phủ cần nghiên cứu và áp dụng những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp trong nước tồn tại và phát triển được trong tình hình mới.
82
83
HỆ THỐNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT THUẬT NGỮ ĐẦY ĐỦ NGHĨA TIẾNG VIỆT
CPFRCollaborative Planning, Forecasting
and ReplenishmentHoạch định, dự báo và bổ sung theo
mô hình cộng tác
CRM Customer Relationship Management Quản lý quan hệ với khách hàng
ENT Economic Needs Test Kiểm tra nhu cầu kinh tế
FMCG Fast moving consumer goods Hàng hóa tiêu dùng nhanh
GATSGeneral Agreement on Trade in
ServicesHiệp định chung về thương mại dịch
vụ
GRDI Global Retail Development Index Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu
KFTC Korean Fair Trade CommissionỦy ban thương mại lành mạnh Hàn
Quốc
M&A Merger and Acquisition Mua lại và sáp nhập
RFID Radio-Frequency Identification Hệ thống nhận dạng tự động từ xa
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.T.Kearney (2009), 2009 Global Retail Development Index, USA
2. AS Watson Group (2009), A.S Watson Group Announces Acceleration of
Global Expansion Plan, truy cập ngày 28/2/2010 từ trang web:
http://www.aswatson.com/eng/news_Nov24_2009.htm
3. Business in Asia (2005), China in Major Change: Opens Retail, Distribution
Sectors to Foreign Businesses truy cập ngày 21/3/2010 từ trang web
http://www.business-in-asia.com/china_retail.html
4. Ca, Hảo (2009), Sôi sục giá thuê mặt bằng bán lẻ, truy cập ngày 02/03/2010 từ
trang web: http://vietnamnet.vn/kinhte/thitruong/200910/Soi-suc-gia-thue-
mat-bang-ban-le-873948/.
5. CB Richard Ellis (CBRE) Việt Nam (2008), Thị trường bất động sản bán lẻ Việt
Nam, Hà Nội.
6. Dawson, John và các cộng sự (2003), The internalization of retailing in Asia,
RoutledgeCurzon, Japan.
7. Dawson, John và Lee, Jung-Hee (2004), International retailing plans and
strategies in Asia, International Business Press, NY, USA, tr. 1-5 và 121-
132.
8. Deloitte (2010), Global Powers of retailing 2010, London.
9. Dennis, Charles; Fenech, Tino; và Merriless Bill (2004), E-retailing,
Routledge Business, USA.
10. Global Agriculture Information Network – GAIN (2010), Vietnam retail
food sector 2010, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 3-11
11. Hồng Văn (2009), Nhà bán lẻ nội yếu vốn, thiếu liên kết, Thời báo Kinh tế
Sài Gòn, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang web:
http://www.thesaigontimes.vn/Home/kinhdoanh/thuongmai/14160/.
12. IBM (2007), Food retail format in Asia – Understanding Format Success,
tr. 44-50, [bản nghiên cứu cho Coca Cola Retailing Research Council
Asia].
13. Internet World Stats (2009), Asia Marketing Research, Internet Usage,
Population Statistics and Information, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang
web: http://www.internetworldstats.com/asia.htm
14. Kiều Hương, (2007), Ra mắt hệ thống phân phối lớn nhất Việt Nam , Trung
tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Cục phát
triển doanh nghiệp, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang web:
http://www.hotrodoanhnghiep.gov.vn/Default.asp?mod=News&action=list
&NewsID=4233&temp=HTDN_vn&Object=1&ItemID=102&Language=vn
15. Korean Fair Trade Commission, About KFTC – Who we are, truy cập ngày
20/2/2010 từ trang web http://eng.ftc.go.kr/about/overview.jsp.
16. KPMG (2009), Global M&A outlook for retail, international.
17. Levy, Micheal và Weitz, Barton(2001), Retailing management, McGraw
Hill.
18. Macedo, Jorge và Chino, Tadao (2003), Asia and Europe: services
liberalization, Asian Development Bank, Organisation for Economic
Co-operation and Development. Development Centre.
19. Nguyễn, Thị Thu Trang (2009), Cẩm nang doanh nghiệp về WTO và cam
kết WTO của Việt nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, tr.428-439.
20. Nielsen (2008), Retail and shopper trend in Asia-Pacific 2008, Australia.
21. Nielsen (2009), A Challenging Year For Asian Shoppers, But Growth
Continues Unabated, truy cập ngày 25/02/2010 từ trang web
http://blog.nielsen.com/nielsenwire/consumer/a-challenging-year-for-asian-
shoppers-but-growth-continues-unabated/.
22. Nielsen (2009), Vietnam Pocket reference book 2009, HCM, Việt Nam.
23. Renee, Kim B (2006), Wal-Mart in Korea: Challenges of Entering a Foreign
Market, Hanyang University, School of Business, Seoul Korea, tr. 3 – 7.
24. RNCOS (2008), Vietnam retail analysis 2008-2012, HCM, Việt Nam.
25. Tesco (2008), Tesco in Asia 2008, Korea.
26. Tổng cục Thống Kê (2009), Dân số và lao động 2009
27. Tổng cục thống kê (2010), Tình hình kinh tế xã hội quý I – 2010, truy cập
ngày 17/4/2010 từ trang web: http://www.gso.gov.vn/default.aspx?
tabid=413&thangtk=03/2010
28. Wal-mart Corporate (2010) truy cập ngày 20/02/2010 từ trang web
http://walmartstores.com/AboutUs
29. Wikipedia, Carrefour, truy cập ngày 25/2/2010 từ trang web
http://en.wikipedia.org/wiki/Carrefour#Asia
30. World Bank (2000), East Asia – recovery and beyond, Washington D.C, tr.
146-149
31. 7-Eleven (2010), truy cập ngày 05/02/2010 từ trang web
http://www.franchise.7-eleven.com
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN
LẺ................................................................................................................................4
I. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thị trường bán lẻ.......................................4
1. Các khái niệm về bán lẻ.......................................................................................4
1.1 Thị trường bán lẻ................................................................................................4
1.2 Nhà bán lẻ...........................................................................................................4
2. Những đặc điểm của thị trường bán lẻ.................................................................6
3. Phân loại các loại hình thức bán lẻ trên thị trường...............................................6
3.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống.............................................................................7
3.2 Hệ thống bán lẻ hiện đại.....................................................................................7
II. Vai trò của thị trường bán lẻ............................................................................9
1. Thị trường bán lẻ đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.9
2. Thị trường bán lẻ giúp cung cấp thông tin từ người tiêu dùng đến nhà sản xuất
và ngược lại............................................................................................................10
3. Thị trường bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh và mức sống của
người dân trong một quốc gia................................................................................11
4. Thị trường bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội...11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á....................13
I. Các xu thế nổi bật trên thị trường bán lẻ Châu Á hiện nay.........................13
1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống.....................13
1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của người dân châu Á.................................13
1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mô hình bán lẻ hiện đại.............................14
2. Sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ ngày
càng lớn..................................................................................................................16
2.1 Tình hình mở rộng của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á..............16
2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ...........................................................18
2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á..............20
3. Một số công ty bán lẻ gốc Châu Á không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh
vượt khỏi biên giới quốc gia, khu vực....................................................................24
3.1 AS Watson........................................................................................................24
3.2 Dairy Farm.......................................................................................................25
II. Tiềm năng và những khuynh hướng phát triển trong tương lai................27
1. Tiềm năng...........................................................................................................27
1.1 Thị trường bán lẻ châu Á vẫn đang ở giai đoạn trưởng thành trong khi các thị
trường ở Âu Mỹ đã rơi vào giai đoạn bão hòa.......................................................27
1.2 Châu lục đông dân nhất thế giới, dân số trẻ và sức mua tăng..........................29
1.3 Chính phủ các quốc gia châu Á dần điều chỉnh các chính sách thương mại
theo hướng mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ.....................................................30
2. Khuynh hướng phát triển trên thị trường bán lẻ châu Á trong tương lai...........31
2.1 Thương mại điện tử sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ....................................31
2.2 Nhượng quyền thương mại trên thị trường bán lẻ sẽ ngày càng phổ biến.......33
2.3 Xu hướng M&A ngày một gia tăng.................................................................35
2.4 Hệ thống bán lẻ hiện đại sẽ tiếp tục chiếm ưu thế............................................37
III. Hai thị trường bán lẻ điển hình của châu Á giai đoạn từ 2000 đến nay...39
1. Thái Lan.............................................................................................................40
1.1 Chính sách mở cửa thị trường một cách ồ ạt của chính phủ Thái Lan.............40
1.2 Thất bại của các doanh nghiệp bán lẻ Thái Lan trên thị trường nội địa...........40
2. Hàn Quốc............................................................................................................41
2.1 Chính sách của chính phủ Hàn Quốc về thị trường bán lẻ...............................41
2.2 Thành công của các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc trong việc giữ thị phần
của mình trước sự xâm chiếm của các tập đoàn quốc tế........................................43
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRONG
TƯƠNG LAI.............................................................................................................46
I. Thực trạng về thị trường bán lẻ Việt Nam.....................................................46
1. Khái quát về thị trường bán lẻ Việt Nam...........................................................46
1.1 Các loại hình kinh doanh bán lẻ khá phong phú đa dạng.................................46
1.2 Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động và
chiếm lĩnh thị trường..............................................................................................49
1.3 Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn yếu kém..........................................52
2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thị trường bán lẻ.............55
2.1 Tác động tích cực.............................................................................................56
2.2 Tác động tiêu cực.............................................................................................58
3. Thuận lợi và khó khăn trong tương lai...............................................................60
3.1 Thuận lợi..........................................................................................................60
3.2 Khó khăn..........................................................................................................65
II. Nhóm kiến nghị nhằm phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam...................70
1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước.....................................................................70
1.1 Giữ ổn định về kinh tế, chính trị......................................................................70
1.2 Hoàn thiện khung pháp lý về thương mại........................................................71
1.3 Thực hiện các biện pháp điều hành, giám sát thị trường bán lẻ, hoàn thiện các
chế tài xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xâm phạm lợi ích
người tiêu dùng.......................................................................................................73
1.4 Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động phân phối bán lẻ......................74
1.5 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, hướng dẫn, khuyến khích người tiêu
dùng hướng tới hàng trong sản xuất trong nước....................................................74
2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam.......................75
2.1 Tận dụng và phát huy lợi thế trên thị trường nội địa, hiểu biết rõ về thị trường
và người tiêu dùng trong nước...............................................................................75
2.2 Nhạy bén nắm bắt thông tin, điều chỉnh theo những biến động thị trường......76
2.3 Đầu tư vào thiết lập, củng cố thương hiệu riêng, không ngừng mở rộng danh
mục sản phẩm với chất lượng đảm bảo, giá cả cạnh tranh.....................................77
2.4 Đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, hiệu quả.........................................78
2.5 Đẩy mạnh đầu tư, áp dụng công nghệ cao để quản lý mọi khâu của hoạt động
kinh doanh..............................................................................................................80
2.6 Thực hiện các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp bán lẻ khác và các nhà
sản xuất...................................................................................................................81
KẾT LUẬN...............................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO