181
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH NGUYN TRN ĐIN THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LμNG NGHÒ ë C¸C TØNH §åNG B»NG S¤NG HåNG VIÖT NAM LUN ÁN TIN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUN VÀ LCH SNHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUT HÀ NI - 2016

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRẦN ĐIỆN

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë C¸C TØNH

§åNG B»NG S¤NG HåNG VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2016

Page 2: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRẦN ĐIỆN

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë C¸C TØNH

§åNG B»NG S¤NG HåNG VIÖT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM VĂN LỢI

HÀ NỘI - 2016

Page 3: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Trần Điện

Page 4: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6 1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài 6 1.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài 14 1.3. Những nhận xét đánh giá và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 17 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM 20 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề và thực hiện

pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề 20 2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường

làng nghề 26 2.3. Vai trò và điều kiện bảo đảm việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường

làng nghề 39 2.4. Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của một số nước trên thế giới và

kinh nghiệm có thể vận dụng ở các làng nghề Việt Nam 45 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 54 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, sự phát triển về làng nghề và tình hình

ô nhiễm về môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng 54 3.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường

làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nguyên nhân 63 3.3. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và nguyên nhân 90 Chương 4: DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 118 4.1. Dự báo và quan điểm thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng 118 4.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường

làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng 123 KẾT LUẬN 154 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ ĐỀ TÀI CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 156 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 157 PHỤ LỤC 171

Page 5: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTNMT Bộ Tài nguyên và Môi trường

BVMT Bảo vệ môi trường

CBLTTP Chế biến lương thực thực phẩm

CNH Công nghiệp hóa

CTR Chất thải rắn

DTLS Di tích lịch sử

ĐBSH Đồng bằng sông Hồng

ĐTM Đánh giá tác động môi trường

HĐH Hiện đại hóa

HĐND Hội đồng nhân dân

HTX Hợp tác xã

KHCN Khoa học và Công nghệ

LNTT Làng nghề truyền thống

MTLN Môi trường làng nghề

ONKK Ô nhiễm không khí

ONMT Ô nhiễm môi trường

PTBV Phát triển bền vững

QCKT Quy chuẩn kỹ thuật

QPPL Quy phạm pháp luật

SXLN Sản xuất làng nghề

TCCP Tiêu chuẩn cho phép

TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam

THPL Thực hiện pháp luật

TTCN Tiểu thủ công nghiệp

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

Page 6: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 về tăng

cường công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước [6], Đảng ta đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của BVMT, đó là “Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc”. Làng nghề là một trong những nét đặc thù của nông thôn Việt Nam, nhất là ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), bởi đây là vùng đất có lịch sử tồn tại từ hàng trăm năm nay, tập trung nhiều nhất các làng nghề ở Việt Nam và hoạt động hầu hết ở các ngành kinh tế chủ yếu. Trong những năm qua, hoạt động làng nghề ở làng nghề ĐBSH đã có bước nhảy vọt lớn, sôi động chưa từng thấy. Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân trong tỉnh, giảm tỷ lệ đói nghèo trong vùng, góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Gần đây, số hộ sản xuất và cơ sở ngành nghề nông thôn đang ngày một tăng lên trong khi trang thiết bị, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu đã gây ra ô nhiễm môi trường (ONMT) làng nghề trầm trọng. Từ đó, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối về những vấn đề liên quan đến quản lý việc thực hiện pháp luật (THPL) về BVMT nói chung, THPL về BVMT làng nghề nói riêng, đáng chú ý là Nghị quyết số 41-NQ/TƯ ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong đó đã xác định một trong các nhiệm vụ cụ thể là: “Khắc phục cơ bản nạn ONMT làng nghề, các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đi đôi với hình thành các cụm công nghiệp bảo đảm các điều kiện về xử lý môi trường; chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý khối lượng rác thải ngày càng tăng lên”. Đây là cơ sở để các cơ quan nhà nước cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) và tổ chức THPL về BVMT làng nghề, đồng thời cũng là cơ sở để Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH có sự chỉ đạo cụ thể, sát và đúng với điều kiện địa phương mình.

Việc THPL về BVMT làng nghề có vai trò vô cùng quan trọng, cụ thể là: góp phần đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn và ngăn ngừa, hạn chế các vi phạm pháp luật về môi trường làng nghề (MTLN); góp phần phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường lành mạnh; đảm bảo sự phát triển bền vững (PTBV). Việc THPL về BVMT làng nghề vì vậy phải quán triệt theo đường lối, chủ trương của Đảng và các nghị quyết của Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH, phải gắn với PTBV làng nghề và là

Page 7: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

2

trách nhiệm chung của chính quyền ở Trung ương; địa phương, cộng đồng sản xuất, kinh doanh và của cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao công tác THPL về BVMT làng nghề, do đó đã và đang làm chuyển biến đáng kể nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, nhân dân và các cơ sở, hộ gia đình sản xuất làng nghề ở các tỉnh ĐBSH về vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về BVMT làng nghề, góp phần tích cực vào việc giảm thiểu ONMT ở các làng nghề vùng ĐBSH.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc THPL về BVMT làng nghề trên phạm vi cả nước nói chung, ở các tỉnh ĐBSH nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trên nhiều phương diện: pháp luật - chính sách, cán bộ, thể chế và bộ máy, đầu tư,... do nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc tuân thủ các văn bản QPPL về BVMT trong hoạt động sản xuất làng nghề chỉ dừng lại ở mức độ rất khiêm tốn. Kết quả là vẫn còn nhiều bất cập trong việc quán triệt và triển khai các văn bản QPPL của các cán bộ làm công tác môi trường các cấp từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH; các đơn vị, cá nhân thi hành luật còn nhiều lúng túng, gây nên nhiều hiện tượng tiêu cực, làm ngơ trước pháp luật của một số bộ phận người dân trong làng nghề cũng như cán bộ quản lý. Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và các tỉnh ĐBSH về môi trường cũng như thanh tra việc thi hành luật tại các làng nghề chưa được thường xuyên và triệt để, tạo ra những khe hở trong việc thực hiện luật BVMT. Các cơ sở trong làng nghề tại các tỉnh ĐBSH không thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; không phân loại, xử lý chất thải; trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội, cộng đồng. Công tác xử lý vi phạm pháp luật các cơ sở trong làng nghề tại các tỉnh ĐBSH cũng gần như bị “bỏ trống” trong khi các hành vi vi phạm lại rất phổ biến. Hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, chưa xử lý hành chính cũng như áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung khác. Điều đó dẫn đến việc hầu hết các cơ sở sản xuất làng nghề đều xem nhẹ công tác an toàn vệ sinh lao động và THPL về BVMT làng nghề.

Thực trạng trên đây đã và đang gây ra những khó khăn cho việc tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, tác động tiêu cực tới sức khỏe của cộng đồng, tới tiến trình PTBV làng nghề mà Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng. Trước thực trạng đó, từ nhiều năm nay đã có nhiều các công trình nghiên cứu về làng nghề, về ONMT làng nghề, nhưng chưa có một công trình nào phân tích và đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH từ góc độ lý luận, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá

Page 8: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

3

trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề.

Từ những lý do trên cho thấy, việc củng cố, phát triển các vấn đề lý luận về THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đánh giá thực trạng, nguyên nhân để từ đó đề ra các giải pháp bảo đảm THPL về BVMT làng nghề vùng ĐBSH là một vấn đề có tầm quan trọng và mang tính cấp thiết. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam” làm đề tài luận án Tiến sỹ luật học.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về THPL về BVMT làng

nghề; phân tích đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và đưa ra dự báo, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ sau: Một là, xây dựng các khái niệm về làng nghề; pháp luật BVMT làng nghề và

THPL về BVMT làng nghề; xác định chủ thể, các nội dung và hình thức THPL về BVMT làng nghề; luận giải vai trò của việc THPL về BVMT làng nghề và các điều kiện bảo đảm việc THPL về BVMT làng nghề; nghiên cứu việc THPL về BVMT làng nghề ở một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể vận dụng cho việc THPL về BVMT làng nghề ở Việt Nam, trong đó có ĐBSH.

Hai là, phân tích, làm rõ tình hình ONMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, rút ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan của những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập.

Ba là, dự báo và xây dựng các quan điểm về THPL về BVMT ở các tỉnh ĐBSH; Luận giải và đề xuất hai nhóm giải pháp, với nhiều giải pháp cụ thể có tính khả thi đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về THPL về BVMT

làng nghề ở Việt Nam trong đó có các tỉnh ĐBSH (gồm 11 tỉnh vùng ĐBSH) và quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Page 9: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng

nghề ở các cấp: tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường, thôn trên địa bàn 11 tỉnh vùng ĐBSH bao gồm: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Ninh.

- Về thời gian: luận án nghiên cứu pháp luật và đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng nghề từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 ra đời đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà

nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật nói chung và quan điểm BVMT làng nghề nói riêng. Bên cạnh đó, luận án cũng kế thừa và tiếp thu quan điểm, kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về BVMT và THPL về BVMT nói chung; BVMT làng nghề và THPL về BVMT làng nghề nói riêng của các nhà nghiên cứu đi trước.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử

kết hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, thống kê - so sánh. Các phương pháp nghiên cứu nói trên được sử dụng cụ thể trong các chương của luận án như sau:

Trong Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài liệu thứ cấp nhằm tham khảo, đánh giá và chọn lọc kế thừa các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến lĩnh vực đề cập; đồng thời xác định được những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu của luận án.

Trong Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, phương pháp logic và so sánh để nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở lý luận của luận án; nghiên cứu vấn đề THPL về BVMT làng nghề và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, từ đó chỉ ra những giá trị tham khảo cho các tỉnh ĐBSH.

Trong Chương 3, tác giả sử dụng phương pháp so sánh - thống kê, phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể để phân tích hiện trạng ONMT làng nghề; đánh giá, phân tích những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Trong Chương 4, tác giả sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể, logic, để phân tích và làm sáng tỏ các quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Page 10: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

5

Có thể nói Luận án đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và đã kết hợp, sử dụng linh hoạt nhiều phương phương pháp trong các chương để giải quyết các vấn đề trong Luận án một cách khách quan toàn diện.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Luận án là công trình đầu

tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Việt Nam. Luận án có những đóng góp về mặt khoa học đó là:

Thứ nhất, luận án đã xây dựng được khái niệm pháp luật BVMT làng nghề và khái niệm THPL về BVMT làng nghề; phân tích làm rõ chủ thể, nội dung, hình thức, vai trò, các điều kiện đảm bảo THPL về BVMT làng nghề; phân tích làm rõ việc THPL về BVMT làng nghề một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm có thể vận dụng.

Thứ hai, luận án đã chỉ rõ tình trạng ô nhiễm làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách hệ thống thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế bất cập, nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như của những hạn chế, bất cập đó.

Thứ ba, luận án nêu lên được các quan điểm và đề xuất giải pháp có tính khả thi về bảo đảm THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, nhằm bảo vệ môi trường trong các làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, kết quả và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và

phong phú thêm những vấn đề lý luận THPL về BVMT làng nghề trên cả nước nói chung và vùng ĐBSH nói riêng.

Về mặt thực tiễn, luận án là tài liệu có giá trị tham khảo cho cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền nhằm nâng cao chất lượng công tác THPL về BVMT làng nghề nói chung, đặc biệt phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước ở các tỉnh ĐBSH trong công tác THPL về BVMT làng nghề của tỉnh trong thời gian tới. Luận án cũng là tài liệu bổ ích trong nghiên cứu và giảng dạy của các cơ sở đào tạo luật và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

7. Kết cấu của luận án Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học và đề tài của tác giả

đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.

Page 11: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

6

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về môi trường làng nghề Hiện nay có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, các luận án, luận văn hay

các bài viết được công bố trên các trang báo, báo điện tử, các tạp chí hay các phương tiện thông tin đại chúng,... về vấn đề làng nghề và ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này rất phong phú và đa dạng, liên quan đến đề tài luận án tiêu biểu có các công trình:

* Về đề tài nghiên cứu: Điển hình trong các nghiên cứu về ONMT làng nghề là “Nghiên cứu cơ sở khoa

học và thực tiễn nhằm xây dựng các chính sách và giải pháp cải thiện môi trường các làng nghề nông thôn Việt Nam" của Đặng Kim Chi [38]. Đề tài đã tập trung nghiên cứu định hướng các chính sách nhằm PTBV làng nghề phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đề xuất các nhóm giải pháp cải thiện môi trường ở các làng nghề Việt Nam như: giải pháp công nghệ xử lý môi trường cho các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, làng nghề tái chế kim loại; các giải pháp sản xuất sạch hơn cho làng nghề tái chế kim loại đem lại hiệu quả to lớn về mặt sinh thái, môi trường và xã hội. Đề tài nghiên cứu cũng đã thiết kế xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu và website MTLN, băng hình, áp phích,... giúp cho công tác quản lý môi trường ở làng nghề hiệu quả hơn, góp phần cung cấp thông tin, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về BVMT làng nghề.

“Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng” của Nguyễn Trí Dĩnh [69], đã chỉ ra rằng môi trường ở các làng nghề vùng ĐBSH ngày càng bị ô nhiễm nặng nề do các hộ sản xuất nghề thiếu ý thức BVMT và hạn chế về điều kiện vốn, kỹ thuật, thiếu quy hoạch tổng thể và hầu như không đầu tư xử lý chất thải, vi phạm nghiêm trọng Luật BVMT; từ đó đề xuất các giải pháp BVMT làng nghề như: cần xây dựng và hoàn thiện chính sách ngăn ngừa ONMT đồng bộ; quy hoạch và xây dựng khu, cụm công nghiệp làng nghề đạt tiêu chuẩn môi trường; kiện toàn các cơ quan quản lý môi trường ở tỉnh và huyện đủ mạnh để thực thi các nhiệm vụ BVMT nói chung và MTLN nói riêng; tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức của người dân nói chung và ở làng nghề nói riêng về môi trường; chú trọng đầu tư cho công tác BVMT làng nghề một cách thỏa đáng.

“Khôi phục và phát triển làng nghề ở vùng đồng bằng sông Hồng nước ta hiện nay” của Đỗ Thị Thạch [106], đã chỉ ra rằng môi trường đất, nước, không khí ở các làng

Page 12: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

7

nghề vùng ĐBSH đang bị ô nhiễm trầm trọng, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe của người dân nơi đây. Nguyên nhân là do: sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề chưa đồng bộ với các biện pháp xử lý, BVMT; các làng nghề chưa có thói quen quan tâm đến môi trường khi sản xuất, ít đầu tư chi phí cho BVMT. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp phát triển làng nghề vùng ĐBSH, trong đó có ‘Phát huy tốt vai trò của cấp chính quyền, đoàn thể cấp xã trong việc xử lý phạt những người gây ô nhiễm trong các làng nghề; dành thêm kinh phí hoạt động môi trường cho cấp xã để họ có điều kiện theo dõi sát sao hơn, có trách nhiệm hơn đối với môi trường địa phương và trong các làng nghề’.

“Nghiên cứu phát triển làng nghề tỉnh Quảng Ngãi” của Hồ Kỳ Minh [91], đã chỉ ra rằng nguồn nước, không khí tại 10 làng nghề tỉnh Quảng Ngãi được khảo sát đang bị ô nhiễm và mức độ ô nhiễm ngày càng gia tăng. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp khắc phục và cải thiện tình trạng ONMT tại các làng nghề nơi đây như: tăng cường công tác tuyên truyền Luật BVMT và các văn bản chỉ đạo của các cơ quan ban ngành nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm cộng đồng về công tác BVMT, tuân thủ việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hoặc cam kết BVMT tùy theo quy mô sản xuất; tuân thủ quy trình xử lý khí thải, nước thải và thu gom rác thải, chất rắn trong làng nghề; đưa các quy định cụ thể về môi trường vào hương ước, chỉ tiêu xây dựng Làng văn hoá để mọi người thực hiện. Đối với cơ quan quản lý MTLN: thực hiện quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề; giám sát chất lượng môi trường, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện Luật BVMT, các quy định về môi trường; có chính sách hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động di dời và các dự án cải tạo, xử lý ONMT ở các làng nghề,…

* Về sách: “Làng nghề Việt Nam và môi trường” của Đặng Kim Chi [37] là công trình

nghiên cứu tổng quát nhất về vấn đề làng nghề và thực trạng ONMT các làng nghề hiện nay. Tác giả nêu rõ từ lịch sử phát triển, phân loại, các đặc điểm cơ bản làng nghề, hiện trạng kinh tế, xã hội của các làng nghề Việt Nam hiện nay. Cùng với đó là hiện trạng môi trường các làng nghề (có phân loại cụ thể 5 nhóm ngành nghề chính). Qua đó cũng nêu rõ các tồn tại ảnh hưởng tới phát triển kinh tế và BVMT của làng nghề, nêu dự báo phát triển và mức độ ô nhiễm đến năm 2010, một số định hướng xây dựng chính sách đảm bảo phát triển làng nghề bền vững và đề xuất các giải pháp cải thiện môi trường cho từng loại hình làng nghề của Việt Nam.

* Về luận văn, luận án: “Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ"

của Bạch Thị Lan Anh [2] đã chỉ ra thách thức từ vấn đề ONMT do sự phát triển tự phát, thiếu quy hoạch của các làng nghề, trên cơ sở phân tích, đưa ra một số giải pháp

Page 13: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

8

khắc phục trong đó có giải pháp quy hoạch gắn với BVMT và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các LNTT: tập trung phát triển hệ thống xử lý chất thải, hệ thống thoát nước, có kế hoạch di dời các ngành nghề sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi cộng đồng dân cư; nhà nước đặt hàng các trung tâm khoa học nghiên cứu chuyển giao công nghệ thích hợp và cải tiến công nghệ sản xuất phù hợp từng loại hình sản xuất, đổi mới trang thiết bị,.. để hạn chế ONMT; tăng cường tuyên truyền cho người dân trong khu vực làng nghề về Luật BVMT và các phương pháp giảm thiểu ONMT; xây dựng hương ước trong việc đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp nhằm giảm ONMT và PTBV…

“Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý sử dụng đất tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh theo quan điểm phát triển bền vững" của Nguyễn Thị Ngọc Lanh [88], đã tiến hành đánh giá tác động của hoạt động sản xuất làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến môi trường và kết quả cho thấy các hoạt động sản xuất làng nghề ở đây đã gây ra ONMT đất, nước, không khí, môi trường sinh thái- cảnh quan. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp quản lý, sử dụng đất đai tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh theo quan điểm PTBV, trong đó có nhóm giải pháp về BVMT làng nghề: quy hoạch lại không gian làng nghề; bố trí, sắp xếp lại đất đai trong làng nghề, bố trí đất để xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải, xử lý, chôn lấp rác thải; quan tâm đến môi trường lao động, cải tiến công nghệ sản xuất, tuyên truyền phổ biến pháp luật về môi trường và chính sách kèm theo; quản lý môi trường thông qua hương ước làng xã.

“Nghiên cứu phát triển làng nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh" của Lê Xuân Tâm [104], đã tiến hành đánh giá thực trạng phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó hiện trạng ONMT nước, đất, CTR ở các làng nghề có xu hướng ngày càng gia tăng mức độ trầm trọng mặc dù các ban ngành địa phương đã triển khai một số biện pháp BVMT. Một số nguyên nhân được chỉ ra trong đó có việc chức năng, nhiệm vụ BVMT còn chồng chéo và không rõ ràng giữa các bộ, ngành, địa phương; máy móc thiết bị cũ kĩ, chắp vá, tỷ lệ tự chế rất cao, công nghệ sản xuất lạc hậu; sản xuất mang tính cá thể là phổ biến, chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; trình độ học vấn, năng lực quản lý của người chủ sản xuất hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm; thiếu mặt bằng sản xuất và vốn đầu tư còn hạn hẹp,…Cuối cùng, tác giả đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề Bắc Ninh gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 của tỉnh.

“Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế" của Nguyễn Lê Thu Hiền [76], đã nêu lên thực trạng môi trường sinh thái ở một số LNTT phục vụ du lịch ngày càng xuống cấp, ô nhiễm trầm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và đến quá trình phát triển du lịch nơi đây. Trong số các giải pháp cơ bản mà tác giả đề xuất nhằm phát triển LNTT phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế, bao gồm cả nhóm

Page 14: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

9

giải pháp ‘phát triển LNTT phục vụ du lịch bền vững gắn với BVMT’, cụ thể: xây dựng quy hoạch không gian LNTT hợp lý; trang bị các thiết bị thu gom phế thải, thay thế các công nghệ cũ, lạc hậu, xây dựng mương thu gom nước thải kiên cố; trồng cây xanh; giáo dục ý thức vệ sinh môi trường cho toàn bộ nhân viên,…

“Đánh giá thiệt hại kinh tế do chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất tại làng nghề chế biến nông sản vùng đồng bằng sông Hồng" của Trần Văn Thể [110], đã phân tích các đặc điểm sản xuất ở làng nghề chế biến nông sản làm phát sinh chất thải, từ đó lựa chọn các phương pháp phù hợp để đánh giá thiệt hại kinh tế do chất thải phát sinh tại các làng nghề này. Trên cơ sở rà soát những vướng mắc, bất cập về công tác quản lý kết hợp với hiện trạng về ONMT và thiệt hại kinh tế, luận án đã đề xuất một số giải pháp có tính khả thi, thực tiễn để quản lý làng nghề theo hướng giảm thiểu thiệt hại kinh tế hướng tới PTBV và BVMT làng nghề.

“Phát triển bền vững làng nghề ở Bắc Ninh” của Nguyễn Thị Mai Hương [83], đã đánh giá thực trạng của PTBV làng nghề trong những năm gần đây ở Bắc Ninh và đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy PTBV làng nghề, trong đó có nhóm giải pháp để cải thiện môi trường như: có các biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu ONMT; có kế hoạch, lộ trình để từng bước tiến tới thực hiện triệt để việc tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư, quy hoạch các LNTT và xây dựng hợp lý khu công nghiệp làng nghề mới và có kế hoạch quản lý tốt môi trường; triển khai áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng chất thải; tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm BVMT cho các chủ sản xuất, người lao động và nhân dân, kết hợp với thanh tra xử phạt thích đáng đối với những trường hợp vi phạm các quy định về MTLN.

* Về các bài báo, tạp chí: “Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững” của Lê Hải [74] đã

đề một số giải pháp giảm thiểu ONMT làng nghề có tính khả thi và có hiệu quả trong điều kiện của Việt Nam hiện nay đó là giải pháp có sự tham gia của cộng đồng và phát triển làng nghề gắn với phát triển du lịch.

“Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường trước hết là nước sạch” của Ngô Thái Hà [73] đã chỉ rõ vai trò ích lợi của sự phát triển làng nghề; vấn đề kiểm soát và xử lý rác thải môi trường hiện nay ở các làng nghề; chỉ ra các nguyên nhân gây ô nhiễm trong làng nghề và đề xuất các giải pháp cải thiện tình hình ONMT ở các làng nghề như: tập trung các làng nghề theo hướng chuyên môn hóa để xử lý ô nhiễm; đề cao vai trò giám sát của chính quyền cơ sở và Nhà nước và giải pháp quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề.

Page 15: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

10

“Làng nghề và bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững” của Chu Thái Thành [108] đã chỉ ra những thách thức trong sự phát triển làng nghề hiện nay đó là hiện trạng ONMT gây ra bởi các hoạt động sản xuất làng nghề. Để giải quyết hậu quả ô nhiễm, tác giả đề xuất giải pháp: chú trọng chính sách PTBV làng nghề; quy hoạch không gian làng nghề; tăng cường quản lý môi trường tại các làng nghề; phát hiện và xử lý làng nghề gây ô nhiễm; tổ chức thí điểm triển khai áp dụng sản xuất sạch tại các làng nghề.

“Hiện trạng và các giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Tạ Hoàng Tùng Bắc [5] đã chỉ ra rằng hầu hết các làng nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đều chưa có biện pháp thu gom, xử lý khí thải tập trung, chưa được đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, nước thải chưa được thu gom xử lý hoặc chưa qua xử lý thải trực tiếp ra môi trường; chất thải rắn phát sinh từ quá trình sản xuất chưa được xử lý hoặc xử lý không triệt để,… đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề ONMT nông thôn, tác động xấu đến môi trường đất, nước, không khí và sức khỏe của người dân trong các làng nghề. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp giảm thiểu ONMT làng nghề đối với cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở sản xuất trong làng nghề.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề

Thứ nhất là, nhóm các công trình nghiên cứu về THPL nói chung: là một trong những nội dung quan trọng của khoa học Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật. Nội dung này được các nhà Luật học, các nhà lý luận đề cập, nghiên cứu, bàn luận phân tích trên nhiều diễn đàn, song chủ yếu nhất là trong các cuốn giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên khảo của các cơ sở chuyên ngành luật ở nước ta. Có thể kể một vài công trình tiêu biểu như:

* Về sách: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật”, của Nguyễn Văn

Mạnh [90] đã nêu lên những điểm hạn chế trong lý luận về THPL mà các giáo trình hiện đang sử dụng trong các trường học, trên cơ sở đó đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong việc THPL và nêu lên những điểm cần bổ sung, những định hướng đổi mới, hoàn thiện hoạt động THPL. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nêu lên thực trạng THPL trong một số lĩnh vực của Quốc hội với việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; THPL của HĐND trong việc thực hiện chức năng giám sát, ban hành Nghị quyết và việc UBND các tổ chức thực hiện các Nghị quyết HĐND đã ban hành.

“Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam”, của Nguyễn Minh Đoan [71], gồm 05 chương bàn sâu về THPL. Chương 1 được tác giả dành nghiên cứu về khái niệm,

Page 16: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

11

mục đích, ý nghĩa và các hình thức THPL như: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Chương 2 đi sâu nghiên cứu về áp dụng pháp luật, những trường hợp cần áp dụng pháp luật, đặc điểm và các nguyên tắc cơ bản của áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật. Chương 3 nghiên cứu về quy trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Chương 4 được dành để phân tích một số yếu tố và điều kiện cơ bản bảo đảm THPL. Chương 5 nghiên cứu về các tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL, thực trạng THPL ở Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THPL ở Việt Nam.

“Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật” của Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung giáo trình đã dành chương X “Thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật và giải thích pháp luật” [117, tr.181-208] để nghiên cứu về THPL và áp dụng pháp luật. Giáo trình đã nêu lên THPL là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ thể nhằm hiện thực hoá các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống. Giáo trình cũng đã nêu lên 04 hình thức THPL đó là, tuân thủ pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó áp dụng pháp luật là một hình thức của THPL song nó có đặc điểm riêng so với các hình thức khác nên các tác giả dành nhiều trang sách để viết về vấn đề này [117, tr.184-204].

Thứ hai là, Nhóm các công trình nghiên cứu về THPL về BVMT: xuất phát từ thực tiễn, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề môi trường dưới góc độ quản lý kinh tế môi trường và pháp luật về môi trường như:

* Về đề tài nghiên cứu: “Xây dựng thí điểm mô hình quản lý môi trường cộng đồng” của Cục môi trường

- Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường [67] trên 07 điểm thuộc ba miền. Kết quả nghiên cứu đến nhiều khía cạnh liên quan đến môi trường như hiện trạng sản xuất, hiện trạng môi trường, nguyên nhân gây ô nhiễm, ảnh hưởng của các chất ô nhiễm đến đời sống cộng đồng, việc BVMT tại các làng nghề. Tuy nhiên, nghiên cứu triển khai trên quy mô rộng trong thời gian ngắn nên tính định lượng, định tính thấp, thiên về nghiên cứu kĩ thuật môi trường.

“Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường” của Cục Môi trường đã chỉ ra những mâu thuẫn tồn tại trong môi trường và hướng giải quyết các tranh chấp môi trường [66].

“Crafting sustainability: managing water pollution in Vietnam’s craft villages” (Phát triển bền vững nghề: quản lý ô nhiễm nguồn nước ở các làng nghề Việt Nam) của Sango Mahanty và cộng sự [153], đề cập đến sự phát triển nhanh chóng của 2.790 làng nghề nông thôn Việt Nam kể từ năm 1980, khi Việt Nam thông qua chính sách “đổi mới", đã đe dọa tới môi trường và sức khỏe con người. Bản chất quy mô nhỏ và

Page 17: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

12

phân tán của sản xuất thủ công đã thách thức Nhà nước trong việc kiểm soát ONMT và mức độ ô nhiễm ở các làng nghề vẫn gia tăng một cách đáng báo động. Các dự án PTBV có thể là phương pháp tiếp cận tốt hơn để giải quyết các vấn đề ONMT nan giải. Ngoài ra, công trình này đã tổng hợp những kết quả nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị cho việc xây dựng chính sách tương lai về kiểm soát ô nhiễm ở các làng nghề.

* Về luận án, luận văn: “Xậy dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi

trường tại Việt Nam” của Vũ Thu Hạnh [75] đã trình bày những vấn đề lý luận về tranh chấp môi trường và phân tích một cách toàn diện về cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường ở Việt Nam, những đòi hỏi riêng của việc giải quyết tranh chấp môi trường, từ đó tìm kiếm cách thức giải quyết hợp lý những xung đột lợi ích trong lĩnh vực này.

“Pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay” của Lê Kim Nguyệt [93] đã đi sâu nghiên cứu về kiểm soát ONMT làng nghề, một khía cạnh trong THPL về BVMT làng nghề. Luận án đã nêu lên những nội dung cơ bản của pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam; các nhân tố tác động đến pháp luật kiểm soát ONMT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; phân tích những điểm đã đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc của thực trạng pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam, chỉ ra nguyên nhân của những ưu khuyết điểm đó; phân tích và đưa ra những bình luận về một số quan điểm hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam. Cuối cùng tác giả phân tích những quan điểm đề xuất và những giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam.

“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường” của Nguyễn Duy Hà [72], đã làm sáng tỏ vấn đề Quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường, một lĩnh vực còn mới so với các lĩnh vực khác; xây dựng và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường; nêu những kết quả đạt được; những mặt hạn chế; chỉ ra nguyên nhân đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường ở địa phương Bình Thuận trong thời gian tới.

“Thực hiện pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định” của Nguyễn Thị Thu Hường [84], bước đầu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của THPL môi trường, những yếu tố tác động đến THPL môi trường góp phần ngăn ngừa hạn chế các vi phạm pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định; đánh giá thực trạng, việc THPL môi trường và đưa ra một số giải pháp ở tỉnh Nam Định.

“Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương” của Phạm Thị Thanh Xuân [144], đã phân tích, đưa ra khái niệm về pháp luật

Page 18: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

13

và THPL về BVMT ở các khu công nghiệp. Đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm THPL về BVMT ở các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương và đưa ra một số giải pháp.

“Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt Nam” của Lưu Việt Hùng [82], đã làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về CTR thông thường; nghiên cứu nhu cầu điều chỉnh pháp luật, các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý chất thải; phân tích, đánh giá thực tiễn THPL để tìm ra những sai sót, vướng mắc, những vấn đề phát sinh, các vi phạm pháp luật để từ đó phân tích nguyên nhân của tình trạng này; đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện, cơ chế THPL về quản lý CTR thông thường.

* Về các bài báo, tạp chí: “Environmental Management for Traditional Craft Villages in Viet Nam” (Quản

lý môi trường ở các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam) của Viện nghiên cứu môi trường Hàn Quốc và Ngân hàng thế giới [149] cho biết: 1450 làng nghề thủ công ở Việt Nam đã gây ra ONMT nghiêm trọng và lãng phí tài nguyên. Các làng nghề này thường thải trực tiếp các khí thải vào không khí, các chất chưa qua xử lý ra sông hồ với lượng chất ô nhiễm khổng lồ và mức độ ONMT ở vùng nông thôn không giảm mà ngày càng trở nên trầm trọng. Mặc dù nhà nước và chính quyền địa phương cũng đã quan tâm đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn những khó khăn về khả năng quản lý hành chính, con người cũng như nguồn lực tài chính. Bài viết này cũng nhìn thẳng vào những thách thức về môi trường mà các LNTT Việt Nam đang phải đương đầu và đề ra những kiến nghị, cũng như gợi ý cho việc xây dựng pháp luật về quản lý môi trường ở vùng nông thôn Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc.

“Rà soát thực hiện luật môi trường tại các làng nghề” của Phương Thanh [107] báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp và làng nghề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ cuối năm 2010 đến đầu năm 2011, chất thải từ các làng nghề đa phần không nhiều nhưng việc thải bỏ không đúng có thể dẫn đến mất mỹ quan, văn hóa và gây ONMT nghiêm trọng. Bài viết cũng đưa ra những kiến nghị với Bộ TNMT về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề”

“Ô nhiễm môi trường làng nghề: Cần có chế tài đủ mạnh” của Linh Lan [87] cho rằng để các làng nghề PTBV và giảm thiểu ONMT, các Bộ, ngành chức năng cần sớm hoàn thiện các văn bản hướng dẫn các địa phương gắn phát triển làng nghề với giữ gìn môi trường; vận động các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đầu tư công nghệ hiện đại, kết hợp xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải. Bên cạnh đó, các địa phương cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân làng nghề để BVMT và đặc biệt phải có chế tài xử phạt đủ mạnh để ngăn chặn các hành vị gây tổn hại MTLN.

Page 19: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

14

“Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam” của Lê Kim Nguyệt [92] đã nêu lên hiện trạng ONMT tại các làng nghề ở Việt Nam, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục như: hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL BVMT đối với các làng nghề; nhà nước cần tiến hành quy hoạch, tổ chức, phân bố lại sản xuất tại các làng nghề cho phù hợp với tính chất đặc thù của từng loại hình làng nghề; kết hợp sản xuất hàng hóa của các làng nghề với việc truyền bá văn hóa, phát triển du lịch; tăng cường đầu tư, hỗ trợ về tài chính để các làng nghề sản xuất đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất, thay thế dần công cụ thủ công lạc hậu; tăng cường công tác phổ biến, giáo dục, tuyên truyền vận động đến tận hộ sản xuất cá thể và tổ chức sản xuất nhằm nâng cao ý thức BVMT của người dân.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về ô nhiễm môi trường làng nghề

Năm 1964, Hội đồng Quốc tế về nghề thủ công thế giới (World crafts council International) được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi ích chung của các quốc gia có nghề thủ công truyền thống [89]. Trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến ONMT làng nghề như:

* Về sách: “The costs of soil erosion on Java” (Chi phí do tác động của xói mòn đất ở Java)

của William và Arens [152] đã chỉ ra rằng ONMT do hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề ở nông thôn đã gây thiệt hại khoảng 411,2 triệu đô la Mỹ/năm, tương đương 4% GDP ngành nông nghiệp của Java, In-đô-nê-xi-a (315 triệu đô la Mỹ đối với vùng sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp và 96,2 triệu đô la Mỹ đối với các vùng sản xuất nông nghiệp lân cận) và khuyến cáo cần có giải pháp chia sẻ lợi ích giữa hộ làm nghề và hộ bị ảnh hưởng bởi chất thải phát sinh từ làng nghề và các khu vực phụ cận làng nghề.

“Conservation or conversion of mangrove in Fiji: an ecological economic analysis” (Bảo tồn hay chuyển đổi rừng ngập mặn ở Fiji: phân tích kinh tế sinh thái) của Lal [150] đã chỉ ra rằng ONMT do các hoạt động sản xuất ngành nghề nông thôn gây thiệt hại kinh tế nuôi trồng thủy sản tại chỗ là 9 đô la Mỹ/ha nhưng lại gây thiệt hại 150 đô la Mỹ/ha cho hoạt động thủy sản ở các vùng phụ cận ở đảo Fiji.

* Về tạp chí, báo cáo tham luận: “An assessment of paper mill wastewater impacts and treatment options in

Vientiane Capital City, Lao" (Đánh giá tác động của nước thải nhà máy giấy và các giải pháp xử lý ở thủ đô Viêng Chăn, Lào) của Kaisorn và Phousavanh [148] đã chỉ ra

Page 20: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

15

rằng chi phí phòng ngừa rủi ro do ONMT ở các làng nghề chế biến bột giấy tại Viêng Chăn, Lào là từ 60 đến 90 USD/kilogam độc chất ô nhiễm BOD.

“Marginal Opportunity Cost Pricing for Wastewater Disposal: A case study of Wuxi, China" (Chi phí cơ hội ngoài lề để xử lý nước thải: nghiên cứu trường hợp của Vô Tích, Trung Quốc) của Fan [147] tại hội nghị các báo cáo khoa học của tổ chức EEPSEA đã ước tính tổng lượng nước tiêu tốn cho hoạt động sản xuất làng nghề và tiểu thủ công nghiệp là khoảng 59,04 ngàn km3 nước/ngày và thải ra môi trường khoảng 34,09 km3 nước thải/ngày, gây thiệt hại kinh tế cho Trung Quốc khoảng 27,7 triệu đô la/ngày, tương đương 8,8 tỷ đô la/năm.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường

Thứ nhất là, Nhóm các công trình nghiên cứu về THPL nói chung: Pháp luật được ban hành, có hiệu lực pháp lý nhưng có được đảm bảo thi hành trong thực tiễn đời sống xã hội hay không lại là vấn đề mà tất cả các nước phải quan tâm. Chính vì vậy, có nhiều công trình nghiên cứu về THPL dưới nhiều góc độ khác nhau, được đưa vào giáo trình giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các trường đại học, sách giáo khoa, sách chuyên khảo của các chuyên ngành luật. Đáng chú ý có các công trình sau:

* Về sách: “Lý luận về nhà nước và pháp luật” (tiếng Nga) của Bộ Đại học và Trung học

chuyên nghiệp Liên Xô [165] đã dành chương XIII - Áp dụng QPPL xã hội chủ nghĩa (trang 558-568) - để đề cập, phân tích nội dung các hình thức THPL. Theo đó, các hình thức THPL thực chất là những hành vi pháp luật được các chủ thể thực hiện, bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức THPL đặc biệt. Ngoài ra, cuốn sách còn đưa ra những yêu cầu đối với văn bản áp dụng pháp luật, trong văn bản phải chỉ rõ: cơ quan ban hành, ngày, tháng, năm ban hành, đối tượng thực hiện, quyết định giải quyết vấn đề gì, căn cứ thực tế và căn cứ pháp lý để ra quyết định, người ký văn bản, các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật…

“Cơ sở xã hội học pháp luật” của Kulcsar Kalman [86], đã đề cập những khía cạnh xã hội của việc thi hành pháp luật để nghiên cứu về vấn đề tuân theo pháp luật, chính trị và sự áp dụng pháp luật, chuẩn mực pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật, vai trò của các nhân tố chủ quan trong quyết định áp dụng pháp luật, ra quyết định và tính hiệu lực của pháp luật.

“Lý luận nhà nước và pháp luật” (tiếng Nga) [166] đã dành chuyên đề 20 (trang 453-477) để bàn về THPL. Theo quan niệm của tác giả, THPL là việc hiện thực hóa những yêu cầu, quy định của pháp luật bằng những hành động thực tế của các chủ thể

Page 21: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

16

pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân). THPL luôn gắn với hành vi pháp luật của con người. THPL được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau: theo thành phần chủ thể thì THPL được chia thành THPL của cá nhân và THPL của tập thể. Theo tính chất tác động của các chủ thể, mức độ tích cực và định hướng của chủ thể thực hiện thì THPL được chia thành bốn hình thức thực hiện, bao gồm: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Như vậy, trong các công trình nghiên cứu cơ bản nói trên, các tác giả chỉ đề cập đến những vấn đề lý thuyết cơ bản về THPL và các hình thức THPL. Tuy được trình bày, diễn đạt theo cách khác nhau, nhưng những triết lý cơ bản về THPL là tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật…

Thứ hai là, nhóm các công trình nghiên cứu về THPL về BVMT: Vấn đề THPL về BVMT nói chung, BVMT làng nghề nói riêng ít được đề cập một cách trực tiếp. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kiểm soát ONMT và kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra thì lại được nghiên cứu tương đối nhiều và khá cụ thể. Liên quan đến vấn đề này có một số công trình tiêu biểu:

“Environment Pollution Control in Janpan-Development and Characteristics” (Kiểm soát ô nhiễm môi trường ở Nhật Bản - đặc trưng và phát triển) của Tsumor Ushiyama [167], đã chỉ ra vai trò của chính quyền tự quản địa phương và hoạt động phong trào của người dân địa phương trong việc hình thành và thực hiện Luật kiểm soát ONMT ở Nhật Bản. Pháp luật BVMT áp dụng cho các quận của Tokyo có quy định: người dân được tham gia vào công tác quản lý hành chính, bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của mình; các nhà lãnh đạo phải có nhiệm vụ điều tra, giám sát nguồn gốc, nguyên nhân, tình trạng ONMT và các vấn đề khác, phải công khai cho người dân các quận, huyện biết về tình trạng ô nhiễm như đã điều tra. Bên cạnh đó, một hội đồng giám sát ONMT (có sự tham gia của người dân) được thành lập để điều tra và cân nhắc các biện pháp giám sát các nguồn gây ONMT (được thực hiện bởi nhà quản lý và các cơ quan hành chính). Có thể thấy công trình nghiên cứu này rất có giá trị tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở các tỉnh ĐBSH.

“The experience of Singapore in the control of pollution" (Kinh nghiệm của Singapore trong việc kiểm soát ô nhiễm) của Loh Ah Tuan [151] đã đề cập tới kinh nghiệm kiểm soát ONMT biển ở Sigapore. Bài viết đã chỉ ra rằng hơn ba phần tư tổng lượng ô nhiễm mà các đại dương và vùng biển trong khu vực Đông Á phải hứng chịu là đến từ các nguồn trên đất liền. Các nguồn chính gây ô nhiễm bao gồm chất thải sinh hoạt từ các thành phố, chất thải công nghiệp và nông nghiệp. Ngoài ra, tàu xả chất thải ra biển từ một quốc gia này sẽ nhanh chóng tìm đường vào vùng biển và những bãi

Page 22: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

17

biển của các nước láng giềng. Do đó mỗi quốc gia đều đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát chất thải gây ô nhiễm vào vùng biển ven bờ.

“Судебная защита права на благоприятную окружающую среду: проблемы теории и практики” của С.А.Балашенко, Е.В. Лаевская [146] đã chỉ ra rằng để thực hiện tốt pháp luật BVMT không chỉ có vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường mà vai trò của từng cá nhân trong cộng đồng cũng rất quan trọng.

1.3. NHỮNG NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những nhận xét đánh giá về các công trình nghiên cứu Sau khi tham khảo một số công trình nghiên cứu có liên quan đặc biệt đến đề tài

luận án trong và ngoài nước tác giả có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, nhóm nghiên cứu về THPL: đa số các nghiên cứu chỉ tập trung nghiên

cứu các vấn đề lý thuyết cơ bản về THPL và các hình thức THPL, những khía cạnh xã hội của việc thi hành pháp luật.

Thứ hai, nhóm nghiên cứu về làng nghề đa số đều tập trung vào khía cạnh kinh tế; văn hóa; xã hội; CNH, HĐH nông thôn; môi trường và sức khỏe.

Thứ ba, nhóm nghiên cứu về THPL về BVMT chỉ tập trung vào THPL về BVMT ở các khu công nghiệp của một tỉnh, THPL môi trường ở tỉnh hoặc chỉ tập trung vào 1 khía cạnh của việc THPL về BVMT như pháp luật về quản lý CTR thông thường tại Việt Nam, pháp luật về kiểm soát ONMT, đặc biệt là kiểm soát ONMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam và chủ yếu là đưa ra các giải pháp về công nghệ, về khoa học kỹ thuật trong kiểm soát ONMT.

Thứ tư, nhóm nghiên cứu ở các tỉnh ĐBSH chủ yếu tập trung vào nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về PTBV làng nghề ở Việt Nam, đánh giá thực trạng của PTBV làng nghề trong những năm gần đây ở các tỉnh ĐBSH.

Như vậy, cho đến thời điểm này chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sỹ nào đi sâu phân tích và đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH từ góc độ luật học; chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, chỉ ra những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề.

Tuy nhiên, qua tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đặc biệt đến đề tài, luận án có thể kế thừa được một số nội dung nghiên cứu sau:

Thứ nhất là kế thừa các kết quả nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các làng nghề vùng ĐBSH bởi các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến việc THPL về BVMT ở các làng nghề, do đó giúp tác giả luận án lý giải nguyên nhân của

Page 23: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

18

những kết quả đạt được cũng như những bất cập trong việc THPL về BVMT làng nghề của các tỉnh ĐBSH.

Thứ hai là kế thừa các kết quả nghiên cứu về giải pháp BVMT làng nghề và phát triển bền vững làng nghề, bởi các kết quả nghiên cứu này sẽ giúp tác giả luận án tham khảo và đề xuất các giải pháp phù hợp để đảm bảo việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ ba là kế thừa các công trình nghiên cứu về THPL và BVMT ở các khu công nghiệp, kinh tế và các công trình nghiên cứu về kiểm soát ONMT ở các làng nghề bởi đây sẽ là những thông tin tham khảo quý giá giúp tác giả luận án xây dựng cơ sở lý luận và quan điểm về THPL và BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Với những nhận định trên, người thực hiện luận án quyết định lựa chọn vấn đề

nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông hồng Việt Nam” nhằm giải quyết khoảng trống nêu trên, nghĩa là đi sâu phân tích và làm rõ một cách toàn diện, có hệ thống về thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề, cụ thể như sau:

Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc THPL về BVMT làng nghề ở Việt Nam: trong đó khái quát hóa, xây dựng khái niệm THPL về BVMT làng nghề, từ đó tập trung phân tích, làm sáng tỏ về mặt lý luận các chủ thể, năm nội dung và bốn hình thức THPL về BVMT làng nghề; phân tích vai trò của việc THPL về BVMT làng nghề và các yếu tố ảnh hưởng đến việc THPL về BVMT làng nghề. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng cho việc đánh giá tình hình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và đề xuất giải pháp. Các cơ sở lý luận này chưa được các nhóm nghiên cứu trước đây đề cập đến, đi sâu phân tích, đánh giá và khái quát hóa.

Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích tình hình THPL về BVMT của một số nước trên thế giới, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có thể áp dụng cho các tỉnh ĐBSH.

Hai là, đánh giá thực trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Phần này tập trung đánh giá thực trạng ONMT làng nghề và tình hình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, phân tích những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong việc THPL về BVMT làng nghề trên năm phương diện nội dung (bảo vệ nguồn nước, đất đai và tài nguyên đất, môi trường không khí, quản lý chất thải và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử) và bốn hình thức THPL (tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật). Trong đó, việc phân tích, đánh giá hiện trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH là hoàn toàn mới, chưa có nhóm nghiên cứu nào trước đây thực hiện hoặc hệ thống hóa.

Page 24: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

19

Đồng thời luận án sẽ đi sâu phân tích nguyên nhân của những thành tựu, bất cập này. Đây sẽ là những cơ sở để tác giả đề xuất các nhóm giải pháp khắc phục hiện trạng THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.

Ba là, xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi để đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Việt Nam, tập trung giải quyết các vấn đề sau:

Đề xuất, phân tích, luận chứng các quan điểm có tính chất nguyên tắc phương pháp luận chỉ đạo quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Đề xuất các giải pháp cụ thể để đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Những giải pháp này phải bám sát các quan điểm chỉ đạo, có tính khả thi, có giá trị tham khảo cho các địa phương trong THPL về BVMT làng nghề; góp phần giảm thiểu và giải quyết tình trạng ONMT ở các làng nghề vùng ĐBSH hiện nay.

Kết luận chương 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, ngoài một số sách chuyên khảo hay giáo trình bàn về vấn đề THPL nói chung hầu như không có cuốn sách, bài viết nào đề cập đến vấn đề pháp luật MTLN. Ngay ở các nước Châu Á, là các nước có phong tục, tập quán, đặc thù dân tộc khá tương đồng với nước ta, cũng chưa thấy có công trình nào nghiên cứu về thực thi pháp luật MTLN. Nguyên nhân có thể do loại hình sản xuất làng nghề ở các nước trên thế giới chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong nền kinh tế quốc gia nên các nhà nước đương đại trên thế giới đã không xây dựng, ban hành các đạo luật riêng cho việc THPL môi trường của hoạt động sản xuất làng nghề.

Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước cho thấy từng vấn đề riêng rẽ như THPL nói chung, nghiên cứu về ONMT làng nghề, về đặc điểm MTLN,... đều đã được các nhà nghiên cứu, các tác giả đề cập, phân tích, bàn luận khá đầy đủ. Song trên một tổng thể ‘THPL về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam’ ở quy mô một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống thì các công trình của các tác giả, các nhà nghiên cứu trước đây vẫn chưa đáp ứng được. Do đó, đây vẫn còn là một vấn đề mới, đang rất được quan tâm từ cả phía nhà quản lý và phía những người hoạt động trong lĩnh vực làng nghề ở Việt Nam.

Từ đó có thể khẳng định rằng cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện có hệ thống về mặt lý luận cũng như khảo sát thực tiễn vấn đề thực thi pháp luật MTLN. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề "Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ luật học với mong muốn giải quyết được vấn đề nêu trên.

Page 25: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

20

Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM

2.1. KHÁI NIỆM LÀNG NGHỀ, PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ

2.1.1. Khái niệm làng nghề Ở nước ta, làng nghề đã được hình thành từ rất lâu, là một nét đặc trưng của

người Việt ở các vùng nông thôn. Theo lịch sử phát triển, trước đây chỉ có các làng nghề truyền thống (LNTT), được hình thành từ lâu đời, thường tập trung gần các con sông, thuận lợi cho vận chuyển nguyên vật liệu, giao thương buôn bán sản phẩm, trải qua thời gian vẫn duy trì, phát triển và được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo tinh thần ‘bí truyền’, sản phẩm được tạo ra bởi các bí quyết sản xuất và đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao. Nổi bật là các LNTT như: gốm sứ Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nội), chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình),... Tuy nhiên, những năm gần đây đã xuất hiện thêm các làng nghề mới, chủ yếu do sự du nhập trong quá trình hội nhập giữa các vùng và cả nước. Làng nghề mới đang có xu hướng phát triển mạnh ở nhiều địa phương vùng ĐBSH, đặc trưng bởi sự phát triển kinh doanh dịch vụ và xây dựng, kinh doanh đa ngành nghề.

Theo loại hình sản xuất, loại hình sản phẩm, có thể chia các làng nghề ở nước ta thành 8 loại hình: chế biến lương thực, thực phẩm; ươm tơ, dệt vải, nhuộm, thuộc da; sản xuất vật liệu xây dựng; gia công cơ khí; chăn nuôi, giết mổ gia súc; thủ công mỹ nghệ; tái chế chất thải phế liệu (giấy, nhựa, kim loại,...) và các loại hình khác [59]. Mỗi loại hình làng nghề có những nét đặc thù riêng nhưng đều có chung các đặc điểm sau:

Một là, phân bố không đồng đều trong cả nước, tập trung nhiều ở miền Bắc (chiếm gần 70%) đặc biệt là vùng ĐBSH, trong đó một số tỉnh thành có số lượng các làng nghề rất lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên.

Hai là, trình độ công nghệ ở hầu hết các cơ sở sản xuất nghề còn lạc hậu, mức độ cơ khí hóa thấp, nhất là ở khu vực các hộ tư nhân, sử dụng các công cụ đã cũ kĩ, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Gần đây, một số làng nghề đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc cũ bằng máy móc mới, hiện đại nhờ đó mà năng suất và chất lượng sản phẩm cũng được nâng cao rõ rệt, điển hình như làng gốm Bát Tràng, làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ Bắc Ninh,... [38].

Ba là, mặt bằng cho sản xuất ở các làng nghề hiện còn rất eo hẹp, thường sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thì thường chỉ có lán che lợp fibrô xi măng, rơm rạ, lá mía, căng bạt,... mang tính chất tạm bợ, chỉ có số rất ít các nhà xưởng là kiên cố. Các bãi tập kết nguyên liệu, kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu

Page 26: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

21

dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn môi trường (ví dụ như làng tái chế nhựa Minh Khai, Hưng Yên; làng nghề tái chế chì Chỉ Đạo, Hưng Yên,...) [38].

Bốn là, lực lượng lao động tham gia sản xuất trong các làng nghề khá đông đảo, chiếm gần 30% lao động nông thôn, tuy nhiên, chất lượng lao động và trình độ chuyên môn lại thấp, chủ yếu là lao động phổ thông (trong đó gần 30% chưa tốt nghiệp cấp 3), lao động có tay nghề chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Trình độ học vấn, chuyên môn của các chủ hộ và chủ doanh nghiệp cũng còn rất hạn chế, bình quân mới đạt lớp 7-8/12, thậm chí 1,3-1,6% trong số họ không biết chữ [145].

Năm là, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.

Sáu là, quy hoạch các làng nghề nước ta diễn ra còn manh mún, chưa có kế hoạch cụ thể ở cấp tỉnh, thành phố. Hiện nay, đang có xu hướng quy hoạch đưa các khu vực sản xuất nghề ra khỏi nơi sinh hoạt của gia đình, điển hình là khu quy hoạch làng sản xuất giấy Phong Khê- Bắc Ninh.

Từ những đặc điểm trên, một số khái niệm về làng nghề đã ra đời như: Theo Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011 của Bộ TNMT Quy

định về BVMT làng nghề thì “Làng nghề” được định nghĩa là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, phường, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất tiểu thủ công nghiệp sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau [22].

Theo Thông tư 116/2006/TT-BNN của Bộ NNPTNT [9], làng nghề được công nhận phải đảm bảo ba tiêu chí sau:

1- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn.

2- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm được công nhận.

3- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước. Trên cơ sở đó, tác giả luận án đưa khái niệm về làng nghề như sau: Làng nghề là

những làng có các ngành nghề không phải là nông nghiệp nhưng lại chiếm trên 30% tổng số hộ lao động, hoặc có ít nhất 300 lao động, có giá trị sản xuất và thu nhập đạt trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm; hoặc doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng.

2.1.2. Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề * Khái niệm về môi trường: Môi trường là khái niệm rộng và đa dạng, tùy thuộc vào cách tiếp cận, phạm vi

xem xét, nghiên cứu để xây dựng khái niệm môi trường. Do đó, các định nghĩa, khái

Page 27: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

22

niệm môi trường không hoàn toàn đồng nhất mà được thể hiện dưới những góc độ, phạm vi khác nhau, nhưng đều hướng tới việc nhận rõ môi trường trong thế giới xung quanh ta là gì, bao gồm những yếu tố nào hợp thành. Theo đó, môi trường là tổng hợp các điều kiện bao quanh, có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các vật thể, sinh vật hoặc sự kiện. Khi nghiên cứu về cơ thể sống, chúng ta thường quan tâm đến “môi trường sống”, bao gồm các điều kiện vật lý, hóa học, sinh học, xã hội bao quanh, có ảnh hưởng đến sự sống và phát triển ở mỗi cá nhân, cộng đồng người [81].

Môi trường sử dụng trong lĩnh vực khoa học pháp lý là khái niệm được hiểu như là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Vì thế, sự suy thoái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến suy thoái và ONMT tự nhiên, gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của con người [64].

Từ những phân tích nêu trên tác giả đưa ra khái niệm về môi trường như sau: Môi trường là các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, phát triển của con người và sinh vật.

Môi trường quan trọng là vậy nhưng hiện tại đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những yếu tố mang tính tự nhiên như đất, nước, không khí, hệ động, thực vật,... và đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng như trong phạm vi mỗi quốc gia. Việc môi trường bị hủy hoại diễn ra do nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường sống của con người, cần phải kể đến việc gây ô nhiễm do hoạt động sản xuất của các làng nghề. Nguy cơ môi trường bị hủy hoại với những hậu quả nghiêm trọng của nó đã buộc các quốc gia phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm BVMT như: biện pháp chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học công nghệ, biện pháp giáo dục, biện pháp pháp lý. Trong các biện pháp BVMT thì biện pháp pháp lý có vai trò vô cùng quan trọng.

* Khái niệm về pháp luật bảo vệ môi trường: Theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và

phát triển trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, tồn tại nhiều loại quy phạm khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn xã hội. Pháp luật do đó là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính xã hội. Tuy nhiên, mức độ đậm, nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất định.

Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự,

Page 28: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

23

thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước XHCN ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.

Pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc BVMT, chính con người trong quá trình khai thác các yếu tố trong môi trường đã làm mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh cách xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc BVMT. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường; quy định các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính để buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức BVMT. Đồng thời pháp luật còn quyết định các tiêu chuẩn môi trường, là cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm đối với những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT.

Pháp luật có vai trò BVMT trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến BVMT, có thể xảy ra giữa các cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân với các doanh nghiệp hoặc các cơ quan nhà nước. Tranh chấp môi trường là tranh chấp liên quan tới việc khai thác, sử dụng các yếu tố trong môi trường.

Từ những phân tích và luận giải trên, tác giả luận án đưa ra khái niệm về pháp luật BVMT như sau: Pháp luật về BVMT là hệ thống các QPPL do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc khai thác sử dụng, bảo vệ, giữ gìn, quản lý tài nguyên thiên nhiên nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành.

* Khái niệm về pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề: Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta đã

khẳng định vai trò, tầm quan trọng của BVMT nói chung, BVMT làng nghề ở các vùng nông thôn nói riêng, đó là “một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc”. Do đó, nội dung và quy tắc thực hành BVMT làng nghề phải được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ BVMT làng nghề của công dân.

Trên cơ sở khái niệm pháp luật về BVMT đã được xây dựng ở trên, tác giả luận án đưa ra khái niệm về Pháp luật về BVMT làng nghề như sau: Pháp luật về BVMT làng nghề là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước xây dựng, ban hành, hướng tới điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước, các cơ quan quản lý các cấp về BVMT làng nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh làng nghề và công dân nhằm đảm bảo cho các chủ thể pháp luật phát huy quyền và thực hiện nghĩa vụ về BVMT ở các làng nghề địa phương.

Page 29: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

24

Như vậy, pháp luật về BVMT làng nghề là tổng thể các quy định về BVMT trong các làng nghề; bao gồm các văn bản QPPL của Quốc hội, Chính phủ, Thông tư của các bộ ngành liên quan, các văn bản pháp quy của chính quyền địa phương nhằm cụ thể hóa các quy định về BVMT trong các làng nghề sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng loại hình làng nghề, ở từng địa phương; điều chỉnh các hành vi của xã hội nhằm giải quyết tình trạng ONMT làng nghề, suy thoái đa dạng sinh học, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên; là một trong các biện pháp hữu hiệu như: kinh tế, kỹ thuật, xã hội, văn hóa, sinh thái, hành chính pháp chế; là quá trình tiếp cận giải quyết các vấn đề về MTLN. Pháp luật về BVMT làng nghề chủ yếu nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phức tạp giữa hoạt động của con người sao cho có lợi cho sức khỏe và đời sống, sự phát triển toàn diện của con người, đồng thời gắn kết hài hòa giữa phát triển và bền vững môi trường.

Pháp luật BVMT làng nghề ở nước ta có một số đặc điểm cơ bản sau đây: Một là, có phạm vi và đối tượng điều chỉnh rộng, đa dạng, phức tạp, bao gồm các

quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và sản xuất ở các làng nghề; các quan hệ xã hội liên quan tới việc phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ONMT, sự cố môi trường, các quan hệ xã hội liên quan đến quản lý nhà nước về BVMT làng nghề; các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ quốc tế về BVMT làng nghề.

Hai là, chứa đựng các loại QPPL thuộc nhiều ngành luật khác nhau, như Luật BVMT, Luật Hiến Pháp, Luật hành chính, Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật đất đai, Luật hình sự,..

Ba là, có hình thức thể hiện phong phú, gồm các văn bản luật và các văn bản dưới luật do nhiều loại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

2.1.3. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trách nhiệm THPL mang tính nguyên

tắc do Hiến pháp quy định: ‘Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN’ các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp ở tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [94].

Quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải ban hành pháp luật. Nếu pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của các QPPL không cao, chứng tỏ quản lý Nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng và THPL là đòi hỏi khách quan của quản lý Nhà nước, tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Page 30: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

25

Thực hiện pháp luật là hành vi của con người được tiến hành phù hợp với yêu cầu của các QPPL. Khoa học pháp lý gọi đó là những hành vi hợp pháp. THPL là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.

Để BVMT trước nguy cơ suy thoái và ô nhiễm đang diễn ra dưới tác động của con người và thiên nhiên, để phục vụ cho nhu cầu của con người và tốc độ phát triển của các làng nghề, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống các văn bản QPPL về BVMT, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động BVMT. Tuy nhiên, để những quy định pháp luật về BVMT đi vào cuộc sống và trở thành hành vi xử sự hợp pháp của các chủ thể pháp luật về BVMT ở các làng nghề phát huy tác dụng của nó trong thực tiễn, Nhà nước phải giữ vai trò cốt yếu trong việc thực hiện và tổ chức THPL về BVMT ở các làng nghề, nhằm hạn chế tối đa sự gây ONMT do chất thải trong quá trình sản xuất, đồng thời khuyến khích tạo điều kiện để các cơ sở, hộ gia đình sản xuất nghề đầu tư cơ sở hạ tầng, tham gia THPL về BVMT ở các làng nghề.

Từ lý giải trên, tác giả luận án đưa ra khái niệm THPL về BVMT làng nghề: là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về BVMT ở các làng nghề đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật về BVMT, nhằm phát huy tích cực, chủ động trong THPL về BVMT ở các làng nghề, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về BVMT đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành và bảo đảm sự PTBV.

Nhà nước ta là nhà nước XHCN, do đó THPL về BVMT làng nghề đồng thời phải dựa trên cơ sở giáo dục thuyết phục. THPL bằng phương pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật là để mọi tổ chức, mọi người dân nâng cao ý thức pháp luật, tự giác tuân thủ chấp hành pháp luật, làm những điều pháp luật cho phép. Đối với các trường hợp vi phạm, các biện pháp tổ chức, hành chính, kinh tế sẽ được áp dụng, tùy theo mức độ vi phạm. Pháp luật nào cũng có tính cưỡng chế thi hành, vì vậy cưỡng chế thi hành pháp luật BVMT làng nghề là cần thiết. Tuy nhiên, chúng ta không tuyệt đối hóa các biện pháp cưỡng chế THPL về BVMT làng nghề. Mục đích cưỡng chế không nhằm trừng trị, trấn áp về thể xác, tinh thần mà nhằm phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có tổ chức. Cùng với việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế, Nhà nước cố gắng thể hiện trong pháp luật BVMT làng nghề những tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, làm cho pháp luật BVMT làng nghề có tính thuyết phục, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật BVMT làng nghề để mỗi người dân nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của pháp luật BVMT làng nghề và thực hiện nghiêm chỉnh nó.

Page 31: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

26

Thực hiện pháp luật về BVMT làng nghề chính là thực hiện BVMT ở các làng nghề nên có những đặc điểm khác với THPL trong các lĩnh vực khác. Nghiên cứu THPL về BVMT làng nghề là THPL về một lĩnh vực cụ thể liên quan đến nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội, kỹ thuật và công nghệ. Vì vậy, ngoài những đặc điểm THPL nói chung, còn có những đặc điểm riêng biệt, khác với THPL trong các lĩnh vực khác ở cả chủ thể, phạm vi, nội dung và hình thức thực hiện. Những đặc điểm riêng của THPL về BVMT làng nghề được tác giả luận án tách riêng thành một mục và lần lượt được trình bày ngay sau đây.

2.2. CHỦ THỂ, NỘI DUNG, HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ

2.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề Cũng như trong các quan hệ pháp luật khác, cá nhân, tổ chức để trở thành chủ thể

trong quá trình THPL về BVMT làng nghề thì cần phải có năng lực chủ thể, có nghĩa là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật dân sự.

Trong các quan hệ pháp luật, các bên chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định, quyền bên này ứng với nghĩa vụ bên kia và ngược lại. Cũng như trong các quan hệ pháp luật khác, cá nhân, tổ chức để trở thành chủ thể trong quá trình THPL về BVMT làng nghề thì cần phải có năng lực chủ thể. Các chủ thể tham gia THPL về BVMT làng nghề bao gồm:

Thứ nhất, các cơ quan quản lý nhà nước: là chủ thể được Nhà nước giao quyền quản lý và tổ chức THPL về BVMT làng nghề. Có 2 nhóm cơ quan quản lý nhà nước trong THPL về BVMT làng nghề, đó là:

Nhóm thứ nhất, các cơ quan có thẩm quyền, bao gồm Chính phủ và UBND các cấp. Chính phủ thống nhất quản lý về nhà nước THPL về BVMT làng nghề trong phạm vi cả nước. UBND các cấp chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và quản lý việc THPL về BVMT tại làng nghề.

Nhóm thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn trong THPL về BVMT làng nghề gồm có: Bộ TNMT, Sở TNMT, Phòng TNMT của UBND quận/huyện.

Sự phân cấp quản lý và chức năng của các cơ quan quản lý này trong phát triển và BVMT làng nghề được Chính phủ phân công như sau:

- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có trách nhiệm xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển ngành nghề nông thôn toàn quốc đến năm 2020 (qui định tại Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006), cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp là Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối.

- Bộ Công thương chịu trách nhiệm quản lý các cụm, điểm công nghiệp ở cấp huyện và các doanh nghiệp công nghiệp địa phương (qui định tại Nghị định

Page 32: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

27

189/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007), cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp là Cục Công nghiệp địa phương.

- Bộ TNMT chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành các chính sách liên quan đến BVMT cả nước. Tổng Cục môi trường là cơ quan quản lý, kiểm soát ONMT trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,... trong đó có MTLN (Quyết định 132/2008/QĐ-TTg ngày 30/9/2008).

- Sở TNMT: có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với UBND cấp huyện thực hiện điều tra, đánh giá mức độ ô nhiễm ở làng nghề; xây dựng kế hoạch, giải pháp, xử lý ONMT làng nghề trên địa bàn tỉnh; trình UBND cấp tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện; phối hợp với Sở Tài chính trong việc phân bố và theo dõi, kiểm tra việc sử dụng kinh phí từ sự nghiệp môi trường cho các địa phương làng nghề; phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ (KHCN), Sở Công Thương thực hiện hỗ trợ các giải pháp kỹ thuật xử lý chất thải, kỹ thuật áp dụng công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường; các giải pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng; chủ trì hoặc phối hợp các Sở Y tế, Sở Công Thương, UBND các cấp huyện, thị xã và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, đại diện cộng đồng dân cư tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức về vệ sinh môi trường, kiểm soát ô nhiễm ở làng nghề; tổ chức thu phí môi trường đối với nước thải, khí thải và CTR phát sinh từ các cơ sở trong làng nghề theo quy định; thẩm định Báo cáo ĐTM, Đề án BVMT chi tiết theo thẩm quyền đối với các cơ sở trong làng nghề; thực hiện quan trắc MTLN; chủ trì và phối hợp với UBND cấp huyện, UBND cấp xã tổ chức thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn cơ sở thực hiện các quy định pháp luật kiểm soát ô nhiễm ở làng nghề theo thẩm quyền. Giám sát thực hiện công khai thông tin về môi trường ở làng nghề trên địa bàn; Báo cáo Bộ TNMT về hiện trạng hoạt động, tình hình phát sinh và xử lý chất thải của làng nghề.

- Phòng TNMT của UBND quận/huyện: là cơ quan chuyên môn chịu sự lãnh đạo và quản lý trực tiếp, toàn diện của UBND huyện. Phòng TNMT tham mưu, giúp UBND quận/huyện thực hiện quản lý nhà nước kiểm soát ô nhiễm tại các làng nghề, đồng thời chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở TNMT.

- Cán bộ quản lý môi trường cấp xã, phường và thị trấn: hiện nay thường là cán bộ địa phương kiêm nghiệm, công việc chính là quản lý đất đai (số lượng công việc rất nhiều, chiếm gần hết thời gian), việc thực hiện trách nhiệm về quản lý môi trường, kiểm soát ô nhiễm rất khó khăn.

Thứ hai, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ làng nghề: là một trong những chủ thể trực tiếp tham gia và có vai trò rất quan trọng trong THPL về BVMT làng nghề. Chủ thể này có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về đánh giá môi trường như ĐTM, cam kết BVMT hoặc lập đề án BVMT chi tiết, đề xuất BVMT đơn giản theo

Page 33: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

28

quy định của pháp luật hiện hành,... Bên cạnh đó, chủ thể này phải thực hiện tốt các thỏa thuận trong hương ước, quy ước của địa phương. Đối với công tác quản lý chất thải, các cơ sở này phải có trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật về kiểm soát tiếng ồn, bụi, nhiệt, khí thải, nước thải và thực hiện các biện pháp xử lý tại chỗ như thu gom, xử lý toàn bộ lương nước thải phát sinh trong quá trình hoạt động và khí thải; đảm bảo nước thải, khí thải sau khi được xử lý đạt quy chuẩn xả thải theo quy định của pháp luật hiện hành; phải đảm bảo thực hiện tốt các khâu từ thu gom, phân loại, vận chuyển, tập kết CTR đúng nơi quy định. Pháp luật còn quy định các cơ sở này phải có trách nhiệm tiếp cận và vận hành đúng các quy định các hạng mục công trình xử lý chất thải nếu được chọn đầu tư; chủ động tìm hiểu, nghiên cứu, cải tiến công nghệ, áp dụng công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, các giải pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng hơn trong sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, các cơ sở này phải thực hiện di dời, chuyển đổi ngành nghề sản xuất hoặc chấp hành các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật; Trường hợp xảy ra sự cố cháy, nổ, rò rỉ hóa chất, phát tán ô nhiễm thì phải báo cáo ngay cho UBND cấp xã để chỉ đạo xử lý và khắc phục kịp thời; đóng góp kinh phí xây dựng, vận hành duy tu, bảo dưỡng và cải tạo các công trình thuộc kết cấu hạ tầng về BVMT làng nghề; nộp phí thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đầy đủ và đúng hạn; đối với chất thải nguy hại, cần phân loại, lưu giữ và chuyển cho đơn vị có giấy phép hành nghề theo quy định; nộp đủ và đúng thời hạn các loại phí BVMT đối với nước thải, khí thải và CTR cũng như các loại phí, lệ phí khác có liên quan theo quy định của pháp luật; báo cáo UBND cấp xã về tình hình phát sinh và xử lý chất thải của cơ sở mỗi năm một lần hoặc đột xuất theo yêu cầu của các cơ quan quản lý có thẩm quyền,...

Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có sự điều chỉnh các quy định về trách nhiệm THPL về BVMT làng nghề của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại làng nghề theo sát với các quy định và thông lệ quốc tế. Tuy chưa thể nói là hoàn chỉnh nhưng đó đã là một bước tiến dài và tiến bộ trong quy định về trách nhiệm THPL về BVMT làng nghề của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ so với thông lệ tốt trên thế giới.

Thứ ba, cộng đồng dân cư sinh sống ở các làng nghề cũng là chủ thể THPL về BVMT làng nghề dù không tham gia sản xuất trong các làng nghề. Các chủ thể này đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động đánh giá môi trường, cụ thể là: từ khâu lập báo cáo ĐTM, chủ dự án đã phải tổ chức tham vấn ý kiến của đại diện cộng đồng dân cư. Tiếp đó đến khâu thẩm định và giám sát sau thẩm định ĐTM, pháp luật quy định cộng đồng dân cư có quyền đưa ra ý kiến đồng ý hay không đồng ý đối với cách đặt dự án tại khu vực họ đang sinh sống hay đối với các phương án THPL về BVMT của dự án. Họ có quyền kiểm tra, giám sát và phát hiện những hành vi vi phạm trong quá trình THPL về đánh giá môi trường và các chủ thể khác...

Page 34: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

29

Đặc biệt, liên quan đến hoạt động THPL về BVMT tại các làng nghề, trách nhiệm của tổ chức tự quản về BVMT cũng được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Đây là tổ chức được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách nhiệm. Trong quá trình THPL về BVMT tại các làng nghề, Tổ chức tự quản về BVMT có trách nhiệm: bố trí lực lượng, phương tiện và thiết bị thu gom, vận chuyển CTR đến các nơi tập kết theo quy định; Thực hiện việc quản lý, vận hành, duy tu, cải tạo các công trình thuộc kết cấu hạ tầng về BVMT theo sự phân công của UBND cấp xã; Niêm yết các quy định và theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện giữ gìn vệ sinh và BVMT của cơ sở trên địa bàn theo phân công của UBND cấp xã; xây dựng và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước có nội dung THPL về BVMT làng nghề; tuyên truyền, vận động nhân dân xoá bỏ các hủ tục, thói quen mất vệ sinh, có hại cho môi trường; khi phát hiện các dấu hiệu bất thường về ONMT hoặc sự cố môi trường hoặc các hành vi vi phạm quy định pháp luật về BVMT tại địa bàn được phân công quản lý, thì xử lý đúng thẩm quyền hoặc báo cáo ngay cho UBND cấp xã; báo cáo UBND cấp xã về hiện trạng hoạt động, tình hình thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải theo quy định.

Với những quy định trên đây về trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong THPL về BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra bước đầu đã tạo được những chuyển biến đáng kể trong việc THPL về BVMT làng nghề.

2.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề Cùng với sự phát triển của làng nghề thì ONMT do làng nghề gây ra cũng ngày

càng tăng, vấn đề BVMT làng nghề ngày càng mang tính cấp bách, vì vậy mà BVMT làng nghề được đề cập ở nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước như Nghị Quyết 41-NQ/TW năm 2004 của bộ chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước [7], Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010, chương trình nghị sự 21 của Việt Nam...; hoặc trong các văn bản QPPL như Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và hàng loạt văn bản dưới luật đã ban hành như Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT của Bộ TNMT [22]. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy THPL về BVMT ở các làng nghề vùng ĐBSH bao gồm các nội dung sau:

Thứ nhất: Thực hiện pháp luật về bảo vệ nguồn nước trong môi trường làng nghề: như trên phân tích, do lịch sử phát triển, các làng nghề thường tập trung gần các con sông, do đó các chất thải của quá trình sản xuất làng nghề nếu không được kiểm soát tốt sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước trong các làng nghề. Do đó, các hành vi thải các chất độc hại, chất phóng xạ, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật vào nguồn nước bị nghiêm cấm. Đây là nội dung mà các cơ sở tham gia sản xuất ở các làng nghề phải tuân thủ khi THPL về bảo vệ nguồn nước trong môi trường làng nghề.

Page 35: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

30

- Bảo vệ môi trường nguồn nước hồ, ao, kênh, mương, rạch: nguồn nước hồ, ao, kênh, mương, rạch phải được điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng, bảo vệ để điều hòa nguồn nước. Các ao, hồ, kênh, mương, rạch phải được quy hoạch để cải tạo, bảo vệ. Các tổ chức, cá nhân sản xuất làng nghề không được lấn chiếm, xây dựng trái phép các công trình, nhà ở trên mặt nước hoặc trên bờ tiếp giáp mặt nước hồ, ao, kênh, mương, rạch; hạn chế tối đa việc san lấp hồ, ao trong đô thị, khu dân cư; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng và lập kế hoạch bảo vệ, điều hòa chế độ nước của hồ, ao, kênh, mương, rạch; lập và thực hiện kế hoạch cải tạo hoặc di dời các khu, cụm nhà ở, công trình trên hồ, ao, kênh, mương, rạch gây ONMT, tắc nghẽn dòng chảy, suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước và làm mất mỹ quan đô thị.

- Bảo vệ môi trường nguồn nước ngầm: các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có sử dụng hóa chất độc hại, chất phóng xạ phải có biện pháp bảo đảm không để rò rỉ, phát tán hóa chất độc hại và chất thải phóng xạ vào nguồn nước ngầm dưới đất. Kho chứa hóa chất, khu chôn lấp chất thải nguy hại phải được xây dựng bảo đảm an toàn kỹ thuật và có biện pháp ngăn các hóa chất độc hại ngấm vào nguồn nước dưới đất theo quy định của pháp luật; tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm nước ngầm dưới đất phải có trách nhiệm xử lý ô nhiễm.

- Đối với nước sông: các cơ quan quản lý nhà nước, cần thực hiện việc kiểm soát và xử lý ONMT nước lưu vực sông theo quy định, cụ thể: thống kê, đánh giá, giảm thiểu và xử lý chất thải đổ vào lưu vực sông; định kỳ quan trắc và đánh giá chất lượng nước sông và trầm tích; điều tra, đánh giá sức chịu tải của sông; công bố các đoạn sông, dòng sông không còn khả năng tiếp nhận chất thải; xác định hạn ngạch xả nước thải vào sông; xử lý ô nhiễm và cải thiện môi trường dòng sông, đoạn sông bị ô nhiễm; quan trắc và đánh giá chất lượng môi trường nước, trầm tích sông xuyên biên giới và chia sẻ thông tin trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế; xây dựng và tổ chức thực hiện đề án BVMT lưu vực sông; công khai thông tin về môi trường nước và trầm tích của lưu vực sông cho các tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng nước sông. UBND cấp tỉnh cần công khai thông tin các nguồn thải vào lưu vực sông, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động phòng ngừa và kiểm soát các nguồn thải vào lưu vực sông, tổ chức đánh giá sức chịu tải của sông; ban hành hạn ngạch xả nước thải vào sông; công bố thông tin về những đoạn sông không còn khả năng tiếp nhận chất thải, tổ chức đánh giá thiệt hại do ô nhiễm và xử lý ONMT lưu vực sông; chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện đề án BVMT lưu vực sông. Bộ TNMT có trách nhiệm đánh giá chất lượng môi trường nước, trầm tích ở các lưu vực sông liên tỉnh và xuyên biên giới; điều tra, đánh giá sức chịu tải, xác định hạn ngạch xả nước thải phù hợp với mục tiêu sử dụng nước và công bố thông tin; ban hành, hướng dẫn thực hiện QCKT môi trường nước và trầm tích lưu vực

Page 36: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

31

sông; ban hành, hướng dẫn việc đánh giá sức chịu tải của lưu vực sông, hạn ngạch xả nước thải vào sông liên tỉnh, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường các dòng sông, đoạn sông bị ô nhiễm; tổ chức và chỉ đạo hoạt động BVMT lưu vực sông liên tỉnh; Tổ chức đánh giá các nguồn thải gây ô nhiễm, mức độ thiệt hại và tổ chức xử lý ô nhiễm lưu vực sông liên tỉnh; tổng hợp thông tin về chất lượng môi trường nước, trầm tích các lưu vực sông, hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án BVMT lưu vực sông liên tỉnh. Ngày 18/8/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1435/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể BVMT lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020 [123], gồm 06 nhóm nhiệm vụ ưu tiên chính trong đó ưu tiên tập trung vào nhóm khắc phục ô nhiễm và nhóm ngăn ngừa ô nhiễm, cải thiện môi trường.

Thứ hai: Thực hiện pháp luật về bảo vệ không khí trong môi trường làng nghề: việc thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại chưa được xử lý vào không khí hoặc gây tiếng ồn, độ rung vượt quá QCKT môi trường là tuyệt đối bị nghiêm cấm. Do đó, các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát. Cụ thể là:

- Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở làng nghề phát thải khí tác động xấu đến môi trường cần có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất lượng môi trường không khí theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải phải kiểm soát và xử lý bụi, khí thải bảo đảm QCKT môi trường. Bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại. Tổ chức, cá nhân gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát, xử lý bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong các làng nghề gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải thực hiện biện pháp giảm thiểu, không làm ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư.

- Về phía Cơ quan quản lý nhà nước: có trách nhiệm theo dõi, đánh giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và công bố công khai thông tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo, xử lý kịp thời. Nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc điểm của khí thải. Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường.

Trong số các khí gây ONMT không khí, các khí nhà kính có thể gây ra mối nguy hiểm toàn cầu, do đó việc quản lý khí nhà kính được quy định rõ trong Luật BVMT 2014. Cụ thể là: xây dựng hệ thống quốc gia về kiểm kê khí nhà kính; thực hiện các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các-bon rừng, bảo vệ và phát triển

Page 37: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

32

các hệ sinh thái; kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; hình thành và phát triển thị trường tín chỉ các-bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các-bon thế giới. Bộ TNMT chủ trì, phối hợp với bộ, ngành có liên quan tổ chức kiểm kê khí nhà kính, xây dựng báo cáo quốc gia về quản lý phát thải khí nhà kính phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba: Thực hiện pháp luật về xử lý các chất thải trong môi trường làng nghề: Chất thải phải được quản lý trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy. Chất thải thông thường có lẫn chất thải nguy hại vượt ngưỡng quy định mà không thể phân loại được thì phải quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại. Chất thải có khả năng tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng phải được phân loại [100].

Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở các làng nghề cần bố trí mặt bằng tập kết chất thải trong phạm vi quản lý, khi làm phát sinh chất thải thì phải có trách nhiệm giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải hoặc chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng. Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổ chức việc thu gom sản phẩm thải bỏ; lập, phê duyệt, tổ chức thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật xử lý chất thải trên địa bàn; đầu tư xây dựng, tổ chức vận hành công trình công cộng phục vụ quản lý chất thải trên địa bàn; ban hành, thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động quản lý chất thải theo quy định của pháp luật. Cơ quan quản lý có trách nhiệm: đánh giá, dự báo nguồn phát thải nguy hại và lượng phát thải, khả năng thu gom, phân loại tại nguồn, khả năng tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng, vị trí, quy mô điểm thu gom, tái chế và xử lý, công nghệ xử lý chất thải nguy hại và phân công trách nhiệm cho các đơn vị dưới quyền.

- Với CTR thông thường: các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ làng nghề làm phát sinh CTR thông thường có trách nhiệm phân loại CTR thông thường tại nguồn để thuận lợi cho việc tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý cũng như là có trách nhiệm tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý CTR thông thường. Trường hợp không có khả năng tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý CTR thông thường phải chuyển giao cho cơ sở có chức năng phù hợp để tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý. CTR thông thường phải được thu gom, lưu giữ và vận chuyển đến nơi quy định bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng. Các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách nhiệm tổ chức thu gom, lưu giữ và vận chuyển CTR thông thường trên địa bàn quản lý. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm: đánh giá, dự báo nguồn phát thải rắn thông thường và lượng phát thải, khả năng thu gom, phân loại tại nguồn, khả năng tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng, xác định vị trí, quy mô

Page 38: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

33

điểm thu gom, tái chế và xử lý, công nghệ xử lý CTR thông thường và phân công trách nhiệm cho các đơn vị dưới quyền.

- Đối với chất thải nguy hại: chủ cơ sở làng nghề phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về BVMT cấp tỉnh; phải tổ chức phân loại, thu gom, lưu giữ và xử lý đạt QCKT môi trường; trường hợp không có khả năng xử lý chất thải nguy hại đạt QCKT môi trường phải chuyển giao cho cơ sở có giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại phải được lưu giữ trong phương tiện, thiết bị chuyên dụng bảo đảm không tác động xấu đến con người và môi trường. Chất thải nguy hại phải được vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng phù hợp và được ghi trong giấy phép xử lý chất thải nguy hại. Đã có các quy định về chất thải nguy hại như: Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/5/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 về phí BVMT đối với chất thải rắn [46]; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu [63]. Bộ trưởng Bộ TNMT cũng đã ban hành Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 về danh mục chất thải nguy hại [18].

- Đối với nước thải: phải được thu gom, xử lý bảo đảm QCKT môi trường. Nước thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định về chất thải nguy hại. Nước thải của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải được thu gom, xử lý đạt QCKT môi trường; Bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý CTR; bùn thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về chất thải nguy hại. Hệ thống xử lý nước thải tại các cơ sở sản xuất làng nghề phải bảo đảm các yêu cầu sau: phải được vận hành thường xuyên; có quy trình công nghệ phù hợp với loại hình nước thải cần xử lý; đủ công suất xử lý nước thải phù hợp với khối lượng nước thải phát sinh; xử lý nước thải đạt QCKT môi trường; cửa xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát. Cơ sở sản xuất làng nghề có quy mô xả thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường phải tổ chức quan trắc môi trường nước thải tự động và chuyển số liệu cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Bộ TNMT. Đã có các quy định về nước thải như: Thông tư liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTNMT ban hành ngày 15/5/2013 của liên Bộ Tài chính - Bộ TNMT có hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Nghị định số 25/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải [17].

- Các dạng thải khác: các cá nhân, hộ gia đình tham gia sản xuất kinh doanh dịch vụ làng nghề có phát tán bụi, khí thải hoặc gây tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát, xử lý bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc có biện pháp giảm thiểu, không làm ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư. Bụi, khí thải có yếu tố nguy hại vượt

Page 39: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

34

ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.

Thứ tư: Thực hiện pháp luật về bảo vệ đất đai và tài nguyên đất trong môi trường làng nghề: BVMT đất là một trong những nội dung cơ bản của quản lý tài nguyên đất. Các quy hoạch, kế hoạch, dự án và các hoạt động có sử dụng đất phải xem xét tác động đến môi trường đất và có giải pháp BVMT đất, do đó các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất có trách nhiệm BVMT đất. Việc phát thải chất thải vào môi trường đất không được vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường đất. Khi các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất nghề gây ONMT đất sẽ phải có trách nhiệm xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất. Cơ quan quản lý cần điều tra, đánh giá, phân loại chất lượng môi trường đất và công khai thông tin đối với tổ chức, cá nhân có liên quan. Các yếu tố có nguy cơ gây ONMT đất phải được xác định, thống kê, đánh giá và kiểm soát. Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT có trách nhiệm tổ chức kiểm soát ONMT đất. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện biện pháp kiểm soát ONMT đất tại cơ sở. Vùng đất, bùn bị ô nhiễm dioxin có nguồn gốc từ chất diệt cỏ dùng trong chiến tranh, thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu và chất độc hại khác phải được điều tra, đánh giá, khoanh vùng và xử lý bảo đảm yêu cầu về BVMT [100].

Thứ năm: Thực hiện pháp luật về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử trong môi trường làng nghề: đối với các làng nghề có các di tích lịch sử (DTLS), cảnh quan thiên nhiên đã được công nhận, xếp hàng, các hoạt động sản xuất làng nghề phải xem xét tác động đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS và có giải pháp bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, DTLS này. Do đó, các tổ chức và cá nhân sản xuất làng nghề phải có trách nhiệm BVMT xung quanh các khu DTLS, cảnh quan thiên nhiên. Khi các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất nghề gây ONMT ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS sẽ phải có trách nhiệm xử lý, cải tạo và phục hồi trở về hiện trạng ban đầu. Cụ thể: có phương tiện, thiết bị thu gom, lưu giữ CTR, chất thải nguy hại; thực hiện phân loại CTR, chất thải nguy hại tại nguồn; thực hiện thu gom hoặc hợp đồng với các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện để thu gom chất thải tại cơ sở và chuyển đến nơi xử lý; bảo đảm có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt QCKT về nước thải; trường hợp nước thải được chuyển về hệ thống xử lý nước thải tập trung thì phải tuân thủ các quy định của tổ chức quản lý hệ thống xử lý nước thải tập trung; đặt các thiết bị thu gom, phân nguồn rác hợp lý bảo đảm mỹ quan và tiện lợi; trong trường hợp tự xử lý CTR, lỏng thì công trình, hệ thống xử lý phải đạt QCKT môi trường, bảo đảm về mặt công nghệ và được vận hành đúng quy định; thực hiện quản lý và kiểm soát bụi, khí thải của cơ sở theo quy định; bảo đảm không để rò rỉ, phát tán khí thải, hơi, khí độc hại ra môi trường [100]. Cơ quan quản lý cần điều tra, đánh giá, chất lượng môi trường xung quanh các

Page 40: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

35

khu DTLS, cảnh quan thiên nhiên trong làng nghề, các yếu tố có nguy cơ gây ONMT ảnh hưởng đến các DTLS và cảnh quan thiên nhiên phải được xác định, đánh giá, kiểm soát và có biện pháp xử lý. Khuyến khích các hoạt động truyền thông, giáo dục và vận động mọi người tham gia BVMT, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và DTLS ở các làng nghề [35].

2.2.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề Hình thức THPL là cách thức mà các chủ thể tiến hành các hoạt động có mục

đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Các QPPL môi trường làng nghề có số lượng rất lớn với nhiều nội dung phong phú. Vì thế, hình thức THPL về BVMT làng nghề cũng rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, có thể xác định THPL về BVMT làng nghề bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, chấp hành (thi hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

- Tuân thủ pháp luật về BVMT làng nghề: là hình thức THPL về BVMT ở các làng nghề trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những quy định cấm của pháp luật môi trường. Trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nguy cơ trong sinh hoạt hàng ngày ở các cơ sở làng nghề, các chủ thể đều tác động, khai thác và sử dụng đến thành phần môi trường. Nếu như những chủ thể này do vô tình hay cố tình tác động một cách quá mức đến môi trường làm cho môi trường của chúng ta bị hủy hoại, ô nhiễm gây ra các sự cố môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng, các hoạt động không chi phối đối với chủ thể có hành vi vi phạm mà còn gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác trong xã hội.

Để bảo đảm môi trường làng nghề được bảo vệ PTBV cho thế hệ hiện tại và cả thế hệ sau này, những yêu cầu chủ thể pháp luật phải luôn luôn tự kiềm chế mình một cách chủ động và tự giác trong mọi điều kiện, hoàn cảnh tình huống luật định mà bản thân mình đang gặp phải để không thực hiện những hành vi pháp luật ngăn cấm trong lĩnh vực BVMT. Điều 7 Luật BVMT 2014 có quy định những hành vi bị nghiêm cấm: phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài nguyên thiên nhiên; vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng QCKT về BVMT; thải chất thải chưa được xử lý đạt QCKT môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí; đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật; thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá QCKT môi trường; gây tiếng ồn, độ rung vượt quá QCKT môi trường; sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá QCKT môi trường; phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên

Page 41: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

36

nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động BVMT; hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với con người; che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động BVMT, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường; lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường. Với các quy định này đòi hỏi các cơ sở sản xuất ở các làng nghề không được thực hiện những hành vi nêu trên. Việc các chủ thể đó kiềm chế, không thực hiện những hành vi trên là biểu hiện của việc tuân thủ pháp luật về BVMT. Nếu trong trường hợp có những cơ sở sản xuất vi phạm những quy định trên thì họ sẽ bị áp dụng những chế tài nhất định đối với hành vi vi phạm của mình. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự cùng với nghĩa vụ bắt buộc là phải khắc phục các biện pháp ô nhiễm, phục hồi lại hiện trạng môi trường.

- Thi hành (chấp hành) pháp luật về BVMT làng nghề: là một hình thức THPL về BVMT làng nghề, trong đó các chủ thể pháp luật tự thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của mình với hành động tích cực. Bên cạnh việc đề ra các quy định mang tính ngăn cấm nhằm hạn chế những hành vi gây ONMT, pháp luật còn có những quy định mang tính bắt buộc thể hiện ở những trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng thành phần môi trường.

Luật BVMT 2014 quy định cơ sở sản xuất thuộc làng nghề do Chính phủ quy định phải xây dựng và thực hiện các biện pháp BVMT theo quy định của pháp luật: thực hiện các biện pháp giảm thiểu tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bụi, nhiệt, khí thải, nước thải và xử lý ô nhiễm tại chỗ; thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý CTR theo quy định của pháp luật; tuân thủ kế hoạch di dời, chuyển đổi ngành nghề sản xuất theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trách nhiệm của UBND cấp xã có làng nghề cũng được pháp luật quy định như sau: Lập, triển khai thực hiện phương án BVMT cho làng nghề trên địa bàn; hướng dẫn hoạt động của tổ chức tự quản về BVMT làng nghề; hằng năm báo cáo UBND cấp huyện về công tác BVMT làng nghề. Trách nhiệm của UBND cấp huyện có làng nghề được quy định như sau: chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác BVMT làng nghề trên địa bàn; hằng năm báo cáo UBND cấp tỉnh về công tác BVMT làng nghề. Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh có làng nghề được quy định như sau: quy hoạch, xây dựng, cải tạo và phát triển làng nghề gắn với BVMT; bố trí ngân sách cho các hoạt động BVMT làng nghề; chỉ đạo, tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm và xử lý ONMT làng nghề trên địa bàn; chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải; khu tập kết, xử lý CTR thông

Page 42: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

37

thường, chất thải nguy hại cho làng nghề; quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề; có kế hoạch di dời cơ sở gây ONMT nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư. Trong khoản 1 điều 148 Luật BVMT có quy định ”Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí BVMT”. Với quy định nêu trên, các cơ sở sản xuất và cá nhân trong các làng nghề ở trong các trường hợp đó, nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ nộp phí BVMT. Như vậy, bằng hành động tích cực trong khi thực hiện các nghĩa vụ của mình, các chủ thể đã tích cực thực hiện các QPPL về BVMT.

- Sử dụng pháp luật về BVMT làng nghề: là hình thức THPL về BVMT làng nghề mà trong đó các chủ thể pháp luật sử dụng các quyền về BVMT để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí. Điều 146 Luật BVMT 2014 quy định: ”Đại diện cộng đồng dân cư trên địa bàn chịu tác động môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quyền yêu cầu chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cung cấp thông tin về BVMT thông qua đối thoại trực tiếp hoặc bằng văn bản; tổ chức tìm hiểu thực tế về công tác BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thu thập, cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin cung cấp; có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với cơ sở; tham gia đánh giá kết quả BVMT của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật”. Điều 162 của Luật BVMT cũng quy định: ”Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật BVMT theo quy định của pháp luật; cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về BVMT với cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố cáo”.

Như vậy, pháp luật cho phép các chủ thể pháp luật có quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật về BVMT làng nghề; có quyền được biết và tìm hiểu về công tác BVMT của các cơ sở sản xuất làng nghề.

Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, có thực sự đi vào cuộc sống đạt hiệu quả cao khi tất cả những quy định của nó đều được thực hiện chính xác, triệt để. Nhưng nếu chỉ thông qua các hình thức tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật thì sẽ có nhiều các QPPL không thể thực hiện bởi nó còn phụ thuộc vào sự nhận thức, ý thức chấp hành của các chủ thể THPL, hoặc họ không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Khi đó cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật. Trong lĩnh vực pháp luật môi trường cũng vậy, muốn các QPPL về BVMT

Page 43: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

38

làng nghề được thực hiện triệt để thì cũng cần phải thể hiện bằng hình thức áp dụng pháp luật.

- Áp dụng pháp luật về BVMT làng nghề: là một hình thức THPL, trong đó nhà nước thông qua hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật về BVMT làng nghề hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật ra quyết định làm phát sinh, chấm dứt những quan hệ pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước.

Áp dụng pháp luật về BVMT làng nghề cần được tiến hành trong trường hợp khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước, đối với hành vi vi phạm pháp luật về BVMT làng nghề như trong trường hợp một chủ thể nào đó xả thải những chất độc hại chưa qua xử lý làm ONMT. Áp dụng pháp luật về BVMT làng nghề còn được thực hiện trong trường hợp khi các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hay chấm dứt mà phải có sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ: trong trường hợp chủ cơ sở sản xuất làng nghề thuộc đối tượng phải lập báo cáo ĐTM. Khi đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở kết quả thẩm định báo cáo ĐTM đưa ra quyết định phê chuẩn báo cáo ĐTM, là điều kiện bắt buộc để chủ dự án được cấp phép sản xuất và đưa vào hoạt động trên thực tế.

Áp dụng pháp luật về BVMT làng nghề được tiến hành khi xảy ra các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể mà các bên không thể tự giải quyết được như trong trường hợp người dân khiếu nại với cơ quan nhà nước về hành vi xả thải những chất thải nguy hại chưa qua xử lý, gây ONMT của các cơ sở sản xuất làng nghề. Hoạt động áp dụng pháp luật về BVMT làng nghề cần phải được tiến hành trong trường hợp khi các cơ quan nhà nước cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể trong quá trình các chủ thể này khai thác, sử dụng các thành phần môi trường mà ở đây phải kể đến vai trò của Thanh tra BVMT, của các cơ quan chuyên môn về môi trường.

Áp dụng pháp luật về BVMT là hoạt động THPL của các cơ quan Nhà nước. Nó vừa là một hình thức THPL, vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể THPL nên hoạt động này luôn thể hiện quyền lực Nhà nước, có nghĩa là hoạt động này chỉ do những cơ quan Nhà nước hay những nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Hoạt động này chủ yếu được tiến hành theo ý chí đơn phương của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Một điều quan trọng trong hoạt động này là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lựa chọn các QPPL, ra các văn bản áp dụng pháp luật một cách kịp thời, chính xác và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Cần phải tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành các quyết định áp dụng pháp luật này. Đây có thể được coi là một trong những đảm bảo quan trọng để các văn bản áp dụng pháp luật về BVMT được thực hiện trong thực tế.

Page 44: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

39

Như vậy THPL về BVMT làng nghề được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức còn lại. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể THPL đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan Nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.

2.3. VAI TRÒ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ

2.3.1. Vai trò thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề Thứ nhất, góp phần đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn và ngăn ngừa, hạn chế

các vi phạm pháp luật về môi trường nói chung, góp phần phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật: một yêu cầu đặt ra với pháp luật BVMT làng nghề là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của nhà nước, pháp luật phải là công cụ giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội. Đường lối chủ trương của Đảng phải được phản ánh thông qua pháp luật. Nhưng nếu chỉ có hệ thống pháp luật thì cho dù là hoàn thiện đến mấy cũng chưa đủ bởi vì pháp luật đó mới chỉ dừng lại ở văn bản, giấy tờ, mới là ở trạng thái “tĩnh”. Muốn phát huy hết tác dụng, vai trò của pháp luật BVMT làng nghề thì đòi hỏi pháp luật phải trở thành những hành vi, những xử sự thực tế của các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước trong cuộc sống hàng ngày. Khi các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước hiểu được các quy định của pháp luật và tự giác tuân thủ các quy định đó thì việc THPL có thể nói là thành công. Qua quá trình THPL của các chủ thể này thì các QPPL về môi trường lại một lần nữa được “sống lại”, nó phát huy tác dụng không chỉ đối với chính chủ thể THPL mà còn có tác dụng điều chỉnh đối với các chủ thể khác. Một khi đã nắm được nội dung của các QPPL thì các chủ thể sẽ biết được giới hạn quyền và nghĩa vụ của mình nên sẽ thực hiện những hành vi trong khuôn khổ pháp luật và đương nhiên khi đó tình trạng vi phạm pháp luật cũng được ngăn chặn và hạn chế, ý thức pháp luật của các chủ thể dần được nâng lên.

Thứ hai, đảm bảo quyền được sống trong môi trường lành mạnh: một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc. Quyền thiêng liêng này được ghi trong Tuyên ngôn dân quyền Pháp, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và được chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại trong Tuyên ngôn độc lập của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viện Nam năm 1945. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì quyền sống của con người mặc dù được đảm bảo chắc chắn hơn về mặt pháp lý bằng các thể chế dân chủ, song lại bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường. Như chúng ta biết con người sống không thể tách rời môi trường mà ngược lại

Page 45: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

40

phải gắn chặt với môi trường. Tuyên bố của Liên hợp quốc về môi trường đã đưa quyền của con người được sống trong môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”. Tuyên bố Rio de Janeiro cũng khẳng định: “Con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”. Việt Nam đã ký cả hai công ước này, vì thế Nhà nước Việt Nam phải có trách nhiệm biến quyền được sống trong môi trường trong lành thành những nguyên tắc pháp lý và đảm bảo việc thực hiện nó trên thực tế. Việc THPL về BVMT làng nghề là một đảm bảo chắc chắn cho quyền này được tôn trọng và được thực hiện trên thực tế. Như chúng ta đã biết, THPL về BVMT làng nghề là quá trình hoạt động có mục đích nhằm làm cho các QPPL về BVMT đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính tích cực chủ động trong việc THPL, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho con người được sống trong môi trường trong lành và đảm bảo PTBV. Khi các quy phạm về BVMT đi vào thực tế cuộc sống thì các chủ thể sẽ biết được rằng quyền và nghĩa vụ của mình như thế nào trong quá trình tác động vào các thành phần của môi trường để từ đó họ tự điều chỉnh hành vi của mình, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất việc vi phạm các quy định của pháp luật về BVMT và sẽ thực hiện tốt việc BVMT.

Thứ ba, đảm bảo sự phát triển bền vững: trong thực tế nhiều khi vì lợi ích kinh tế, vì sự phát triển mà các cá nhân, tổ chức và thậm chí là các quốc gia đã hi sinh lợi ích không định lượng để đạt được những lợi ích định lượng. Họ dễ dàng chấp nhận các quy định pháp luật, các chính sách có lợi trước mắt, song lại rất tác hại tới môi trường sau này hơn là chấp nhận những chính sách mang tính ngăn chặn cho tương lai. Thậm chí có những trường hợp các quy định pháp luật đã đề cập đến các biện pháp ngăn chặn nhưng vì lợi ích kinh tế mà người ta phớt lờ những quy định đó. Ví dụ, hiện nay hầu hết cơ sở sản xuất ở nông thôn, nhất là khu vực hộ gia đình tư nhân, vì lợi ích kinh tế vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kĩ không đảm bảo yêu cầu kĩ thuật, an toàn vệ sinh môi trường, quy mô sản xuất nhỏ, hệ thống cấp nước kém, hoặc không có,... Các chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất ở các làng nghề đó đã và đang làm ONMT xung quanh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, làm suy thoái môi trường và tác động trực tiếp tới sức khỏe của người lao động và người dân. Trước thực tế đó, việc BVMT làng nghề khỏi sự phát triển một cách tùy tiện gây hậu quả xấu tới nhiều mặt của nông thôn, làm giảm năng suất nông nghiệp và ONMT đã hình thành

Page 46: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

41

nên khái niệm PTBV. Thực chất của PTBV là sự kết hợp giữa phát triển với việc duy trì môi trường hay nói cách khác yếu tố cơ bản của PTBV là quyền phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường. Theo quy định tại khoản 4 điều 3 Luật BVMT 2014 thì: “PTBV là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và BVMT”. PTBV là một trong những nguyên tắc quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc tế về môi trường. Trong tuyên bố Rio de Janeiro tại nguyên tắc thứ 4 nêu rõ: “Để thực hiện được sự PTBV, sự BVMT nhất thiết sẽ là bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và không thể xem xét tách rời quá trình đó”. Phần lớn các quốc gia đã đưa ra nguyên tắc này trong hệ thống pháp luật của nước mình. Để đảm bảo PTBV phải đáp ứng được những đòi hỏi khác nhau như đòi hỏi về mặt tài chính, về mặt pháp luật. Trong mỗi quốc gia, để đảm bảo PTBV đòi hỏi phải: coi các biện pháp BVMT là yếu tố cấu thành trong các chiến lược hoặc các chính sách phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương, của vùng và của từng tố chức; phải tạo ra bộ máy và cơ chế quản lý có hiệu quả để có thể tránh được tham nhũng và lãng phí các nguồn lực, nhất là các nguồn tài nguyên thiên nhiên; phải hoàn thiện quá trình quyết định chính sách và tăng cường tính công khai của các quá trình đó để đảm bảo cho các quyết định, chính sách ban hành nhằm vào sự PTBV; phải coi ĐTM như là một bộ phận cấu thành của các dự án đầu tư.

Tóm lại, việc THPL về BVMT làng nghề có vai trò to lớn trong chiến lược PTBV. Khi các chủ thể hiểu được các quy định pháp luật MTLN và thực hiện các quy định đó có nghĩa là họ đã góp phần vào việc đảm bảo PTBV, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và BVMT, tạo điều kiện phát triển cho thế hệ mai sau.

2.3.2. Điều kiện bảo đảm việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

Thứ nhất là, điều kiện về mặt pháp lý: hệ thống văn bản QPPL về BVMT hoàn thiện thống nhất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc THPL ở các làng nghề có hiệu quả bởi vì hệ thống văn bản QPPL về BVMT tạo cơ sở về mặt pháp lý cho việc THPL về BVMT ở các làng nghề. Thực tế cho thấy việc THPL về BVMT ở các làng nghề khó có thể đạt như kết quả mong muốn nếu như không có một cơ sở pháp lý vững chắc, cơ sở pháp lý cho việc THPL về BVMT ở các làng nghề là hệ thống pháp luật văn bản QPPL BVMT được xây dựng thống nhất từ trên xuống dưới, từ hiến pháp đến luật, đặc biệt là Luật BVMT và những văn bản có liên quan đến hoạt động của các cơ sở sản xuất trong các làng nghề vùng ĐBSH, kể cả văn bản của UBND các cấp về BVMT. Hệ thống pháp luật hoàn thiện đồng bộ và hiện đại là bảo đảm về mặt pháp lý cho việc THPL về BVMT ở các làng nghề. Để đáp ứng được yêu cầu đó cần phải tạo điều kiện

Page 47: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

42

để các cơ sở sản xuất tiếp xúc với các dự thảo môi trường, tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước về môi trường. Sau khi ban hành các văn bản QPPL về BVMT phải có các hoạt động tuyên truyền, giáo dục trên nhiều kênh thông tin khác nhau để nội dung của các quy phạm này đến được với tất cả cộng đồng dân cư và cơ sở sản xuất trong làng nghề.

Thứ hai là, điều kiện về mặt kinh tế: yếu tố kinh tế đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và ban hành pháp luật nói chung. Pháp luật BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam cũng phải phù hợp và phản ánh đúng trình độ phát triển KT-XH của đất nước. Giữa các yếu tố kinh tế và pháp luật luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa BVMT làng nghề với phát triển làng nghề cần phải được nhìn nhận, đánh giá một cách rõ ràng. BVMT làng nghề không đồng nghĩa với hạn chế phát triển làng nghề mà chính là biện pháp để thúc đẩy phát triển làng nghề tốt hơn. Phụ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH ở mức độ cao hay thấp mà pháp luật BVMT làng nghề gây ra ở Việt Nam có thể được ban hành ở mức chặt chẽ hay ở mức độ trung bình nhằm đảm bảo tính khả thi của pháp luật. Do vậy, nếu pháp luật BVMT tại các làng nghề được ban hành mà không tính đến các yếu tố kinh tế sẽ kìm hãm quá trình phát triển kinh tế làng nghề, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của người dân.

Thứ ba là, điều kiện về mặt văn hóa: tập quán là phương thức ứng xử và hành động đã định hình quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong lao động ở một cá nhân, một cộng đồng. Những hành vi “vi phạm tập quán” sẽ bị áp dụng những chế tài nhất định, đó là dư luận xã hội, do đó tính chất của chế tài này không nặng nề lắm. Có thể nhận thấy yếu tố tập quán luôn có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra. Trong điều kiện nhất định, tập quán có khả năng thay thế các quy định pháp luật này vì không phải ở bất kỳ thời điểm nào hay bối cảnh nào pháp luật BVMT cũng có thể đi vào cuộc sống thực tiễn của làng nghề được. Thực tế cho thấy, pháp luật BVMT không thể điều chỉnh hết các tình huống mới nảy sinh từ các hoạt động của làng nghề. Khi đó, tập quán sẽ bổ sung các quy định còn thiếu của pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật thực hiện vai trò BVMT tại các làng nghề có hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng. Sự ảnh hưởng của yếu tố tập quán đến pháp luật BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra như là một hiện tượng mang tính quy luật. Nếu tập quán lạc hậu, phản khoa học sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến việc tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật về BVMT làng nghề, ngược lại, các tập quán tốt đẹp, tiến bộ sẽ thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật BVMT phù hợp với điều kiện của từng

Page 48: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

43

làng nghề, bảo đảm sức khỏe cộng đồng, đồng thời sẽ hỗ trợ tích cực cho việc THPL tại các khu vực này.

Thứ tư là, điều kiện về trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý môi trường và cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc THPL về BVMT ở các làng nghề: một trong những yếu tố bảo đảm quan trọng để THPL về BVMT làng nghề vùng ĐBSH đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực quản lý, kiểm tra, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT. Mặc dù trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức trong lĩnh vực BVMT cũng được quan tâm và trình độ ngày càng nâng cao, song chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn về BVMT cũng như để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Trên thực tế, có không ít cán bộ hoạt động trong lĩnh vực BVMT nhưng trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc.

Trên thực tế, pháp luật về BVMT muốn được thực hiện trong các làng nghề đòi hỏi phải có chi phí rất lớn về sức người và các trang bị vật chất, kỹ thuật. Trong trường hợp muốn đánh giá thực trạng môi trường được chính xác, để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất THPL về BVMT ở các làng nghề có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn về kinh phí. Đối với các làng nghề phải có đầy đủ các thiết bị, dụng cụ thu gom, tập trung CTR thông thường, chất thải nguy hại. Ngoài ra phải có hệ thống quan trắc môi trường, đánh giá hiện trạng môi trường đất, nước, không khí và các tác động xấu đến môi trường. Để trang bị hệ thống này đòi hỏi phải đầu tư hàng trăm triệu đồng cho hoạt động quan trắc. Do đó việc đầu tư hệ thống quan trắc này đòi hỏi kinh phí rất tốn kém mà không phải làng nghề nào cũng có đủ khả năng trang bị hệ thống này. Theo quy định tại Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT thì việc xử phạt hành chính về BVMT do Chủ tịch UBND cấp huyện và cấp xã chịu trách nhiệm nhưng thực tế hầu như không thực hiện được bởi vì ở hai cấp này đều rất thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn về môi trường [59]. Như vậy việc đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc THPL về BVMT ở các làng nghề.

Thứ năm là, điều kiện về ý thức pháp luật của các chủ thể THPL về BVMT làng nghề: ý thức pháp luật cũng là một yếu tố bảo đảm hiệu quả THPL VỀ BVMT ở các làng nghề bởi ý thức là sự phản ánh một cách trực tiếp đời sống pháp luật, hình thành những khái niệm, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người đối với pháp luật, thể hiện sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật cần có, về quyền và nghĩa vụ của con người trong xã hội về hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của các cá nhân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.

Page 49: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

44

Không đồng nhất với pháp luật, đời sống pháp luật là tổng thể các hiện tượng pháp luật như hệ thống các văn bản pháp luật, tình trạng pháp chế, văn hóa pháp lý, hoạt động tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật, thái độ của dân đối với pháp luật, các sách báo, tài liệu về pháp luật… Các hiện tượng trên lặp đi lặp lại thường xuyên, phổ biến trong đời sống xã hội, được bộ não con người phản ánh tích cực và sáng tạo, hình thành nên ý thức pháp luật. Chính nhờ sự phản ánh và thông qua sự phản ánh này mà con người có thông tin, sự hiểu biết về việc tổ chức các quan hệ xã hội bằng phương pháp pháp luật, về thái độ của nhà nước, của xã hội đối với sự kiện pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Từ đó hình thành khái niệm, quan điểm, tư tưởng, niềm tin của con người đối với pháp luật. Chính ý thức pháp luật giúp con người tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật.

Thực tế cho thấy ở nơi nào, khi nào ý thức pháp luật của chủ thể pháp luật cao thì hiệu quả THPL nói chung rất cao và ngược lại. Như vậy dù pháp luật BVMT làng nghề được xây dựng đầy đủ đến đâu thì cũng sẽ không được thực hiện nghiêm chỉnh nếu ý thức pháp luật của các tổ chức cá nhân, cơ quan nhà nước không cao. Đối với các cá nhân thì ý thức pháp luật của họ được thể hiện ở chỗ họ nhận thức đúng quyền và nghĩa vụ của mình: họ có quyền được tác động, được khai thác, được sử dụng một hoặc nhiều thành phần môi trường đồng thời họ phải thực hiện nghĩa vụ BVMT, không được thực hiện các hành vi pháp luật bị cấm như: khai thác rừng trái phép, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng các công cụ, phương pháp hủy diệt, chôn lấp chất độc, chất thải nguy hại không đúng nơi quy định…

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra, điều tra và xử lý trong lĩnh vực BVMT làng nghề cũng được pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể. Việc các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước nắm được thông tin, hiểu biết về các quy định pháp luật về BVMT làng nghề để có được thái độ đúng đắn trong việc khai thác, sử dụng các thành phần môi trường tạo điều kiện rất lớn cho việc THPL về BVMT làng nghề có hiệu quả.

Thứ sáu là, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc THPL VỀ BVMT làng nghề: vấn đề cốt lõi của việc THPL về BVMT làng nghề là đưa các QPPL BVMT làng nghề vào cuộc sống để các cơ sở, cá nhân sản xuất trong làng nghề và cơ quan nhà nước, hiểu và tích cực thực hiện các QPPL môi trường, tiến tới giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, bảo vệ được môi trường sống của con người. Pháp luật BVMT làng nghề quy định một hệ thống các cơ quan tài phán, thanh tra, điều tra, kiểm tra. Tuy nhiên các cơ quan này nhiều khi chưa phát huy tốt vai trò và thực hiện đúng trách nhiệm của mình. Các kết luận điều tra

Page 50: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

45

về môi trường giữa các cơ quan khác nhau có lúc trái ngược nhau, gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện nghiêm chỉnh các QPPL BVMT làng nghề.

Một vấn đề cần phải đề cập đến đó là việc xử lý chưa nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật BVMT làng nghề. Nhiều khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý chậm đối với các hành vi vi phạm nên không đủ mạnh để tạo ra tính răn đe với các chủ thể vi phạm. Vấn đề mấu chốt nữa là thiếu các chế tài xử lý những hành vi chống đối, cản trở việc thực hiện kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực BVMT làng nghề, đặc biệt là thanh tra môi trường. Do đó nhiều địa phương xảy ra tình trạng coi thường pháp luật giảm hiệu lực hiệu quả của hoạt động này.

2.4. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM CÓ THỂ VẬN DỤNG Ở CÁC LÀNG NGHỀ VIỆT NAM

2.4.1. Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường của một số nước trên thế giới Thực tế cho thấy, những quốc gia mà nhận thức được vai trò to lớn của hoạt động

kiểm soát ONMT đối với sự PTBV của đất nước và con người họ và hiểu rõ những tác động của hoạt động BVMT làng nghề đối với hiệu quả cải thiện môi trường, đảm bảo an sinh xã hội cũng như phát triển kinh tế thì việc THPL về BVMT làng nghề ở những quốc gia đó đã ở mức cao, điển hình như Nhật Bản, Singapore, Mỹ hay một số nước Châu Âu…

Thứ nhất, thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề của Nhật Bản Ở Nhật Bản, các làng nghề được ra đời cách đây hàng trăm năm, thường ở các

vùng ngoại ô thành phố hoặc ở các vùng nông thôn. Tuy có quy mô nhỏ, từ 23 đến 30 lao động, nhiều nơi có số lượng còn ít hơn 10 người, nhưng bất kì ai trong số họ đều có tay nghề rất cao [137]. Việc THPL về BVMT làng nghề trong thời kỳ đầu, khi đất nước đang trong quá trình phát triển kinh tế, còn nhiều bất cập: các cơ sở sản xuất ở các LNTT Nhật Bản rất ít quan tâm đến việc BVMT làng nghề, đến việc quản lý và sử dụng chất thải trong quá trình sản xuất. Do vậy, hậu quả là môi trường ở các làng nghề Nhật Bản thời kỳ này bị ô nhiễm nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân. Trước hiện trạng đó, năm 1967, Luật cơ bản về BVMT đã được ban hành, quy định về kế hoạch kiểm soát ONMT, đặc biệt đưa ra các tiêu chuẩn môi trường và hệ thống kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm [1]. Đến năm 1974, Nghị viện Nhật Bản đã ban hành luật Phát triển nghề thủ công truyền thống, trong đó có quy định một số vấn đề về BVMT trong các làng nghề [85]. Kết quả là các làng nghề thủ công Nhật Bản có những bước phát triển mới mẻ cũng như sự chuyển biến tích cực trong việc cải thiện chất lượng môi trường tại các làng nghề. Bên cạnh đó, chính phủ Nhật Bản còn ban hành một bộ tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng sản phẩm của các làng nghề trong đó

Page 51: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

46

phân loại chất lượng sản phẩm thành 5 cấp, từ 1 sao đến 5 sao dựa trên nhiều tiêu chí đánh giá, trong đó nổi bật nhất là các quy định về kiểm soát ONMT, sử dụng chất liệu thân thiện với môi trường và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Nếu các sản phẩm không thân thiện với môi trường, hoặc việc sản xuất ra nó gây ONMT, các làng nghề phải nộp một khoản phí môi trường. Vì vậy, các làng nghề đã đầu tư vào việc xử lý chất thải và công nghệ sản xuất sạch,… để thay cho việc nộp phí môi trường. Hơn nữa, việc quy định các làng nghề sẽ được nhận hỗ trợ từ phía chính phủ nếu đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép cũng góp phần nâng cao hiệu quả THPL về BVMT ở làng nghề Nhật Bản. Pháp luật quy định chính phủ chỉ hỗ trợ cho các sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, cấp 5 sao được hỗ trợ nhiều nhất, cũng chính vì vậy các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở làng nghề Nhật Bản luôn tự phấn đấu để có các sản phẩm chất lượng cao đồng thời đảm bảo thân thiện với môi trường.

Năm 1979, Nhật Bản phát triển phong trào mỗi làng một sản phẩm và gắn với mô hình du lịch làng nghề, sử dụng nguồn tài nguyên hiệu quả [143]. Kết quả của phong trào này là làm sống lại các ngành nghề thủ công truyền thống Nhật Bản và việc THPL về bảo vệ tài nguyên đất và nước trong các làng nghề đã có những chuyển biến tích cực, những thành tựu nhất định.

Cho đến nay, Nhật Bản đã rất thành công trong việc THPL về BVMT làng nghề với việc ban hành đẩy đủ, kịp thời các văn bản QPPL, các tiêu chuẩn môi trường phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả THPL về BVMT làng nghề. Vấn đề kiểm soát ONMT ở làng nghề không chỉ được quy định trong những văn bản pháp luật chung về môi trường mà còn được thể hiện trong những đạo luật riêng về làng nghề. Việc khéo léo lồng ghép các ưu đãi về phí BVMT trong các quy định về bộ đánh giá chất lượng sản phẩm cũng là một nét độc đáo, mang lại hiệu quả cao. Cuối cùng phải kể đến là con người Nhật Bản cũng luôn có tinh thần, trách nhiệm cao trong việc THPL về BVMT làng nghề và sử dụng tài nguyên thiên nhiên rất tiết kiệm. Qua những việc làm và thành tựu đạt được của Nhật Bản, các tỉnh ĐBSH nên học hỏi và áp dụng một số cách làm phù hợp để cái thiện tình hình THPL về BVMT làng nghề nơi đây.

Thứ hai, thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề của Trung Quốc Các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường của Trung Quốc đã ban hành các

văn bản QPPL quy định khá cụ thể việc THPL về BVMT, trong đó Luật BVMT năm 1979 (sửa đổi năm 1989) được coi là “luật khung” khi chỉ quy định những vấn đề chung, cơ bản và khái quát [154, 155]. Còn việc bảo vệ, quản lý các thành phần quan trọng của môi trường như nước, không khí, quản lý CTR và tiếng ồn được quy định trong các đạo luật riêng, đó là: Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước sửa đổi 1996 [157] được kết cấu và điều chỉnh theo hướng phân loại thành phần môi trường

Page 52: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

47

nước như nước mặt, nước ngầm; Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm CTR sửa đổi 2004 [159] được kết cấu và điều chỉnh theo hai tiêu chí gồm mức độ nguy hại của chất thải và nguồn phát thải; Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ONKK (1995, sửa đổi 2000) [158] được kết cấu và điều chỉnh theo nguồn gây ô nhiễm (như ONKK gây ra bởi hoạt động đốt than, bởi các phương tiện giao thông và chất thải khí, bụi, mùi…); Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn (1996) [156] được kết cấu và điều chỉnh theo từng hoạt động kinh tế - xã hội là nguồn gây ô nhiễm như ô nhiễm tiếng ồn nói chung, tiếng ồn công nghiệp, tiếng ồn xây dựng, tiếng ồn giao thông, tiếng ồn các hoạt động khác [126]. Ngoài ra, gần đây Hội đồng nhà nước và Bộ xây dựng Trung Quốc cũng đã ban hành một loạt chỉ tiêu kỹ thuật môi trường về khí thải, nước thải. Hiện Trung Quốc đang có 4 đạo luật liên quan đến lĩnh vực thuế BVMT đó là Thuế tài nguyên, Thuế tiêu thụ, Thuế đối với các phương tiện giao thông, tàu bè và Thuế mua các phương tiện giao thông. Các loại thuế này được ban hành nhằm định hướng cho các chủ thể sử dụng và khai thác tiết kiệm nguồn tài nguyên. Các sản phẩm từ các LNTT bị đánh thuế 5%, bất kể hàng hóa loại nào [65].

Trong lĩnh vực bảo vệ nguồn tài nguyên nước, phí nước thải được quy định tại Điều 18 Luật BVMT 1979 [154]. Trong những năm 1979-1981, phí ô nhiễm được áp dụng thử nghiệm ở 27 tỉnh, thành phố dưới sự giám sát trực tiếp của chính phủ. Năm 2003, hệ thống tính phí nước thải của Trung Quốc đã có một số thay đổi: việc tính phí được dựa trên tải lượng chứ không chỉ dựa trên nồng độ, phí được tính với tất cả các đơn vị ô nhiễm, phí được tính với hơn 100 thông số ô nhiễm trong nước thải. Các tiêu chuẩn do Bộ Môi trường quy định thay đổi, tùy thuộc vào ngành nghề và mức phí thay đổi tùy theo loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, các địa phương có thể tự đặt ra các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ hơn tiêu chuẩn môi trường quốc gia và có thể đưa ra mức phí cao hơn mức phí do Bộ Môi trường Trung Quốc quy định [109]. Bên cạnh đó một số chính sách ưu đãi thuế cũng được Trung Quốc áp dụng với mục đích kêu gọi tiết kiệm năng lượng ở các làng nghề như thực hiện ưu đãi thuế giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng sử dụng năng lượng sạch, khuyến khích tái sử dụng chất thải và phế liệu trong sản xuất. Đối với những cơ sở sản xuất ở làng nghề có chuyển giao công nghệ BVMT hay công nghệ tiết kiệm nguồn tài nguyên cũng được miễn thuế thu nhập. Những chính sách nêu trên đã góp phần nâng cao nhận thức về BVMT làng nghề của các địa phương. Phong trào sử dụng công nghệ phát triển sạch trong sản xuất thủ công của các làng nghề hiện nay trở nên tích cực hơn. Năm 2006, lãnh đạo thôn Ái Dân, thành phố Du Thụ nơi có làng nghề trồng rau củ lớn nhất ở vùng Hoa Bắc đã thí điểm thực hiện mô hình cải thiện môi trường xanh nông thôn thu gom rác thải “phân loại, tập trung ủ phân, thống nhất bón trên ruộng”. Trên cơ sở trưng cầu ý dân, Đảng ủy thị trấn đã hướng dẫn thôn Ái Dân ban

Page 53: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

48

hành “Quy định thôn” và “Quy ước hộ nông dân”, quy định đối với người dân trong thôn. Theo đó, thị trấn đã tổ chức thực hiện: “Một là, mỗi làng chọn ra hai khu vực tập kết rác thải làm phân bón, rác thải của các hộ gia đình do các hộ tự thu gom và vận chuyển; rác thải công cộng do nhân viên chuyên thu gom và vận chuyển. Các hộ nuôi lợn lắp đặt hệ thống Bi-ô-ga để tận dụng nguồn phân lợn tại chỗ, sản xuất khí ga phục vụ sinh hoạt; dùng nước tiểu pha loãng rồi định kỳ tưới lên bãi rác thải nơi làm phân bón chôn tập trung. Hai là, Phó Bí thư chi bộ các thôn phụ trách quản lý công tác thu gom rác thải của toàn thôn, định kỳ kiểm ra hoạt động làm sạch môi trường. Rác thải do các hộ tự vận chuyển sẽ do nhân viên thu gom rác phân loại quản lý và ủ tập trung. Ba là, rác thải không xử lý được sẽ để riêng và chôn tập trung”. Sở Bảo vệ môi trường và Sở Nông nghiệp thành phố sẽ tổ chức tập huấn cho nhận viên thu gom rác thải làm phân bón, tiền lương sẽ được giải quyết theo cơ chế làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, con số cụ thể sẽ tính theo số lượng thu gom được. Việc tuyên truyền phổ biến kiến thức về BVMT làng nghề cho người dân làng nghề cũng đã được thực hiện và không ngừng đổi mới, hoàn thiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, BVMT trong toàn thị trấn, công tác xử lý và cải thiện môi trường được tăng cường hơn [40].

Tuy nhiên, việc THPL về BVMT ở một số làng nghề vẫn còn chưa nghiêm, điển hình là các làng nghề thủ công truyền thống ở hai bên sông Trường Giang, có quy mô nhỏ, hộ gia đình và không theo quy hoạch: các làng nghề không được trang bị hệ thống xử lý nước thải, chất thải nguy hại… nên hầu hết chất thải được xả trực tiếp ra môi trường, vi phạm pháp luật môi trường. Điển hình là các làng nghề tuyển sắt và chế biến nhựa ở Mã Yên Sơn, mỗi năm đổ xuống sông khoảng 14 tỷ tấn rác thải làm cho đời sống thủy sinh ở đây bị ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn đến sản lượng đánh bắt giảm mạnh [103, 106]. Tình hình vi phạm là vậy, tuy nhiên, chính quyền tại một số địa phương không chú ý nhiều, chỉ khi nào xảy ra xô xát, người dân biểu tình mạnh mẽ thì chính quyền mới thực thi pháp luật hay thực hiện đóng cửa các cơ sở sản xuất, kinh doanh đó.

Tóm lại, Trung Quốc đã thành công trong việc ban hành đầy đủ các văn bản QPPL về BVMT trong đó có BVMT làng nghề. Từng lĩnh vực đều có một bộ luật riêng quy định việc THPL về BVMT, tài nguyên. Tuy nhiên, trong thực tế, khi triển khai thực hiện thì vẫn còn những bất cập. Đây cũng là một kinh nghiệm cho các tỉnh ĐBSH khi việc ban hành đầy đủ các văn bản QPPL chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo việc thực hiện tốt pháp luật về BVMT làng nghề.

Thứ ba, thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại Singapore Chính phủ Singapore đã ban hành các đạo luật về môi trường và quy định rõ các

biện pháp thi hành, các chế tài dân sự, hành chính hay tăng cường áp dụng các biện pháp hình sự đối với các chủ thể vi phạm pháp luật môi trường [101]. Bên cạnh Luật

Page 54: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

49

Quản lý và BVMT năm 1999, sửa đổi năm 2002 [164, 126], được coi là một đạo luật khung, một loạt các văn bản liên quan đến pháp luật môi trường đã được ban hành, gồm: Luật không khí sạch [160], Luật chất thải nguy hại [161], Luật hệ thống thoát nước [162], Luật về môi trường và sức khỏe cộng đồng [163],... quy định các vấn đề về tiếng ồn, vệ sinh công cộng, quản lý CTR, chất thải nguy hại cũng như các vấn đề liên quan khác.

Singapore đề ra chiến lược THPL về BVMT bao gồm 04 yếu tố: Phòng chống - Thực thi - Giám sát và Giáo dục. Vấn đề phòng ngừa ONMT sẽ có hiệu quả cao nếu kế hoạch sử dụng đất được lập một cách hợp lý; xây dựng kế hoạch kiểm soát ô nhiễm đồng thời cung cấp các thiết bị thu gom, xử lý chất thải phù hợp; giám sát thường xuyên để đánh giá đầy đủ và chính xác các hoạt động kiểm soát ONMT. Các dữ liệu về chất lượng môi trường cũng được sử dụng để phục vụ cho hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật về kiểm soát ONMT. Tiếp đến là tiến hành giáo dục công chúng về kiểm soát ô nhiễm và BVMT. Ngày càng có nhiều chất thải, chất thải nguy hại phát sinh gây ra ONMT do sự gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế. Do vậy, Singapore không thể dựa hoàn toàn vào sự mở rộng cơ sở hạ tầng để đối phó lượng chất thải ngày càng gia tăng; cũng không dựa hết vào việc cưỡng chế để chống lại ONMT. Cần phải tăng cường hoạt động giảm thiểu phát sinh chất thải cũng như hạn chế tác động của chất thải và chất ONMT. Phương pháp hữu hiệu lại là đánh giá từ phía người sử dụng các thành phần môi trường nhiều hơn, tức là áp dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng và sử dụng tài nguyên hiệu quả sẽ giúp giảm thiểu các chất thải và hạn chế ô nhiễm. Hướng tới những mục tiêu này, hi vọng nuôi dưỡng một quốc gia là chủ động theo đuổi lối sống thân thiện với môi trường, thói quen và công nghệ. Cần phải nhận thức tốt và quan tâm nhiều hơn nữa đến THPL về BVMT. Cũng phải nhấn mạnh rằng chiến lược thiết yếu vì môi trường bao gồm: Đạt được mức độ nhận thức cao về môi trường, Thúc đẩy công nghệ làm sạch môi trường và bảo tồn tài nguyên, BVMT địa phương cũng như môi trường toàn cầu [151].

Bên cạnh đó, để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật môi trường, Singapore đã quy định các biện pháp cưỡng chế khác nhau, bao gồm cả biện pháp xử lý hình sự, biện pháp hành chính và biện pháp dân sự.

- Biện pháp xử lý hình sự: áp dụng đối với những người bị kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc (chỉ áp dụng đối với những bị cáo từ 16 tuổi trở lên). Cụ thể, hình thức phạt tiền, là hình thức phổ biến nhất được quy định trong các đạo luật về môi trường, bao gồm nhiều mức độ phạt tiền khác nhau, tùy thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của hành vi gây ra. Hình thức phạt tiền được quy định một cách rất linh hoạt đối

Page 55: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

50

với các vi phạm ít nghiêm trọng như cho phép người vi phạm trả một khoản tiền thích hợp cho Bộ Môi trường Singapore và vụ việc sẽ được tự kết thúc mà không phải đưa ra Tòa. Hình thức phạt tù, là chế tài nghiêm khắc nhất áp dụng đối với những người vi phạm ở mức độ nghiêm trọng. Theo quy định tại Luật về môi trường sức khỏe cộng đồng và Luật kiểm soát ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể phạt tù đến 12 tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng; hình thức tạm giữ và tịch thu: đối với các công cụ, phương tiện được sử dụng vào việc phạm tội. Ví dụ, trường hợp thực phẩm không phù hợp cho con người có thể bị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại Luật về môi trường và sức khỏe cộng đồng. Hình thức lao động cải tạo bắt buộc: cũng là một biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn các vi phạm nhỏ, những người vi phạm đã bị áp dụng hình phạt này rất ít khi lặp lại hành vi đã vi phạm.

- Biện pháp hành chính: thường xuyên sử dụng những chế tài hành chính rất hiệu quả như kế hoạch sử dụng đất, cấp giấy phép và việc ban hành các mệnh lệnh thông báo. Cụ thể, lập kế hoạch sử dụng đất: là biện pháp mang tính phòng ngừa cao. Các khu vực dành cho công nghiệp nặng, công nghiệp vừa và công nghiệp làm sạch được phân ranh giới rõ ràng. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Môi trường và các cơ quan liên quan như Ủy ban tái phát triển đô thị và Cục kiểm soát xây dựng. Cấp giấy phép và giấy chứng nhận: thuộc thẩm quyền của Bộ Môi trường nhằm đảm bảo kiểm soát và quản lý chặt chẽ các hoạt động có khả năng gây ONMT. Trước khi một hoạt động phát triển được phép tiến hành, Bộ Môi trường phải đảm bảo là hoạt động đó sẽ không gây ảnh hưởng xấu cho môi trường và con người. Thông báo và lệnh: áp dụng trong trường hợp người chủ sở hữu hoặc quản lý một tài sản không tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn môi trường hay các điều kiện khác về môi trường. Thông báo và lệnh này sẽ yêu cầu chủ thể này phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong đó. Nếu không thực hiện các yêu cầu đó, chủ sở hữu hoặc quản lý tài sản đó phải chịu trách nhiệm trước tòa án và phải chịu hình phạt. Bên cạnh đó, để đảm bảo yếu tố dân chủ, pháp luật Singapore còn quy định người nhận được lệnh hoặc thông báo nếu không đồng ý với yêu cầu đề ra trong đó thì có thể nộp đơn phản đối. Đơn phản đối đó sẽ được Bộ trưởng Bộ có liên quan quyết định là giữ nguyên, thay đổi hoặc bãi bỏ lệnh hoặc thông báo. Quyết định của Bộ trưởng là quyết định cuối cùng. Do tính cấp thiết của pháp luật môi trường nên trong các đạo luật về môi trường của Singapore cũng đã trao cho Bộ trưởng một số quyền hạn chế để thực thi các công việc khẩn cấp, nhằm thi hành ngay bất kỳ nhiệm vụ nào nếu nhiệm vụ đó là cấp bách đối với sự an toàn xã hội, sức khỏe hay dịch vụ cộng đồng.

Page 56: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

51

- Biện pháp dân sự: Pháp luật Singapore yêu cầu cá nhân gây ô ONMT phải nộp phạt, bồi thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu để làm sạch môi trường. Trong vòng 14 ngày theo quy định, nếu chi phí này chưa được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra Tòa [101].

Như vậy, có thể thấy ở Singapore, các văn bản QPPL về BVMT được ban hành khá đầy đủ, việc áp dụng pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT được thực hiện rất nghiêm minh, đặc biệt là việc áp dụng các chế tài, các hình thức xử lý khắt khe các đối tượng vi phạm pháp luật về BVMT nhằm răn đe và có tính chất ngăn ngừa cao. Do đó, việc tuân thủ pháp luật về BVMT của người dân, các cơ sở sản xuất, kinh doanh là rất nghiêm túc. Đây sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện quá trình xây dựng và tổ chức THPL về BVMT làng nghề ở nước ta.

2.4.2. Một số kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam Đứng trước những thách thức về môi trường, trước thực trạng về THPL về BVMT

làng nghề ở Việt Nam, chúng ta cần phải có những cải cách ngay trong những quy định của pháp luật, trong hành động cũng như trong nhận thức của người dân. Các nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore đã từng rơi vào tình trạng ONMT nghiêm trọng, nhưng sau đó họ đã có những biện pháp vô cùng hữu hiệu để kiểm soát và BVMT, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế. Những hành động của Nhật Bản, Singgapore và Trung Quốc… đã mang lại những gợi mở vô cùng quý giá cho Việt Nam trong việc THPL về BVMT làng nghề ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:

Thứ nhất là, cần ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản QPPL về BVMT làng nghề. Các biện pháp được quy định trong các văn bản QPPL thường xuyên được xem xét định kỳ để bổ sung cho chặt chẽ và hợp lý hơn. Học tập kinh nghiệm Nhật Bản, Trung Quốc đã rất thành công trong việc ban hành kịp thời và cụ thể cho từng đối tượng (đất, nước, không khí, tiếng ồn, chất thải) các văn bản QPPL phù hợp, ban hành đầy đủ các quy định, các tiêu chuẩn kiểm soát ONMT ở các làng nghề. Ngoài ra, vấn đề THPL về BVMT ở làng nghề không chỉ được quy định trong những văn bản pháp luật chung về môi trường mà còn cần được thể hiện trong một đạo luật riêng về làng nghề.

Thứ hai là, học tập kinh nghiệm của Nhật Bản, đề cao các sáng kiến của chính quyền địa phương ở các tỉnh ĐBSH trong việc THPL về BVMT làng nghề bởi chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kiểm soát ONMT. Họ đã đưa ra được những sáng kiến tích cực, thích ứng riêng với điều kiện đặc thù của địa phương mình và kết hợp với các biện pháp của chính quyền Trung ương như tăng cường các quy định về kiểm soát ô nhiễm, hỗ trợ tài chính và bổ sung các biện pháp từ khu vực tư nhân… Điều đó đã mang lại những hiệu quả to lớn trong phát triển kinh tế

Page 57: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

52

và đã đi đầu trong việc thúc đẩy các chính sách môi trường trên khắp đất nước Nhật Bản. Đây sẽ là một gợi mở tốt cho vùng ĐBSH trong quá trình xây dựng và tổ chức THPL về BVMT do các hoạt động ONMT làng nghề gây ra ở Việt Nam.

Thứ ba là, khuyến khích các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất làng nghề tham gia trực tiếp vào THPL về BVMT làng nghề bởi việc THPL về BVMT làng nghề là trách nhiệm của toàn xã hội và nếu thực hiện có hiệu quả thì có thể nâng cao doanh số kinh doanh của họ một cách nhanh chóng. Điều này được minh chứng bởi kết quả của nền công nghiệp Nhật Bản đã dẫn đầu thế giới về công nghệ môi trường trong giai đoạn vừa qua. Gợi mở này sẽ rất giá trị để các nhà lập pháp Việt Nam có thể tham khảo giải quyết các vấn đề vướng mắc cụ thể trong quá trình tổ chức THPL về BVMT tại khu vực làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ tư là, quản lý và xử lý chất thải toàn diện ở các làng nghề. Học tập kinh nghiệm ở Singapore, công tác quản lý chất thải của chúng ta ở các khu vực làng nghề nên đặt sẵn mục tiêu ngăn ngừa và hạn chế chất thải ngay từ nguồn thải là ưu tiên số một. Sau đó mới tính đến việc giảm thiểu chất thải phát sinh bằng các biện pháp xử lý làm biến đổi những đặc tính có hại của chất thải hoặc áp dụng các công nghệ sản xuất sạch trong sản xuất ở làng nghề. Đối với các chất thải thì cố gắng tái sử dụng, tái chế lại ở một mức độ cho phép. Giải pháp tiếp theo là xử lý chất thải bằng các công nghệ tiên tiến và cuối cùng khi tất cả các giải pháp đã được khai thác triệt để rồi mới tính đến phương pháp tiêu hủy cuối cùng.

Thứ năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở địa phương và giáo dục nghiêm về BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở các tỉnh ĐBSH bởi sự nhận thức của người dân ở làng nghề về môi trường là yếu tố quan trọng, là cơ sở để duy trì và đảm bảo môi trường trong lành. Việc thực hiện nhiều chương trình tuyên truyền giáo dục về BVMT làng nghề sẽ thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức xã hội dân sự vào hoạt động BVMT làng nghề. Các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cần thường xuyên làm việc với các tổ chức xã hội để thực hiện những chiến dịch giáo dục tới các cộng đồng dân cư ở làng nghề. Trung Quốc là một trong những nước đã làm rất tốt công tác này.

Hiện nay, hầu hết các làng nghề Việt Nam đều chưa quan tâm được nhiều đến mục tiêu PTBV, mới chỉ chú ý đến việc sinh lời nhanh, thiếu các biện pháp kiểm soát, BVMT, do đó hiệu quả THPL về BVMT ở làng nghề chưa cao. Nhưng khi các vấn đề môi trường ngày càng trở nên phức tạp, xung đột lợi ích giữa các chủ thể phát sinh ngày càng nhiều, BVMT ở các làng nghề sẽ trở thành hoạt động không thể thiếu được. Chính bới vậy, việc nâng cao hiệu quả THPL về BVMT ở làng nghề đang là yêu cầu

Page 58: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

53

được đặt ra đối với các nhà lập pháp ở Việt Nam. Hoàn chỉnh các quy định về BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra cần phải bắt đầu từ khía cạnh pháp luật, bằng sự tham khảo từ những gợi mở mang tính định hướng trên đây cho Việt Nam.

Kết luận chương 2

Trong chương 2, luận án đã đưa ra các khái niệm cơ bản về làng nghề, pháp luật BVMT làng nghề,... từ đó đưa ra được khái niệm cơ bản về THPL về BVMT làng nghề: THPL về BVMT ở các làng nghề là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về BVMT đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật về BVMT, nhằm phát huy tích cực, chủ động trong THPL về BVMT ở các làng nghề, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về BVMT đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành và bảo đảm sự phát triển bền vững. Luận án cũng đi sâu phân tích các đặc điểm về THPL về BVMT làng nghề như: chủ thể, nội dung, hình thức THPL về BVMT làng nghề.

Việc THPL về BVMT tại các làng nghề phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống văn bản QPPL về môi trường, ý thức pháp luật của các chủ thể THPL, cơ sở vật chất, kỹ thuật và nguồn lực, vai trò, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc THPL môi trường,

Một số kinh nghiệm học tập từ các nước trên thế giới có thể áp dụng cho sự nghiệp BVMT làng nghề ở Việt Nam, đó là:

- Cần thiết lập, hoạch định một chiến lược THPL về BVMT do các hoạt động làng nghề gây ra một cách tổng thể, toàn diện, hợp lý và nhất quán.

- Đề cao các sáng kiến của chính quyền địa phương trong THPL về BVMT làng nghề bởi chính quyền địa phương đóng vai trò vô cùng quan trọng.

- Khuyến khích các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở làng nghề tham gia trực tiếp vào quá trình THPL về BVMT làng nghề.

- Quản lý và xử lý chất thải toàn diện ở các làng nghề: ngăn ngừa và hạn chế chất thải ngay từ nguồn thải là ưu tiên số một, sau đó mới tính đến việc giảm thiểu chất thải phát sinh bằng các biện pháp xử lý chất thải hoặc áp dụng các công nghệ sản xuất sạch trong sản xuất ở làng nghề.

- Ban hành pháp luật và giáo dục nghiêm trong THPL về BVMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở các tỉnh ĐBSH.

Page 59: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

54

Chương 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI, SỰ PHÁT TRIỂN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ TÌNH HÌNH Ô NHIỄM VỀ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của các tỉnh đồng Bằng sông Hồng tác động đến tình hình phát triển làng nghề và việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề

Đồng bằng sông Hồng là vùng đất có lịch sử lâu đời ở nước ta. Phong tục, tập quán, tính cách của người dân nơi đây được định hình dưới tác động của điều kiện tự nhiên và vị trí địa lí, là những thứ có ảnh hưởng và chi phối hoạt động SXLN trong vùng, cụ thể:

- Điều kiện tự nhiên: Vùng ĐBSH là một vùng đất rộng lớn nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng thuộc miền bắc Việt Nam, ở vị trí chuyển tiếp giữa trung du miền núi phía Bắc và Tây Bắc, với vùng biển ở phía Đông, diện tích khoảng 21.059,3 km2, gồm 11 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương là: Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Ninh Bình và Quảng Ninh [121]. Dân số trung bình năm 2013 của vùng là 20.439,4 nghìn người, với mật độ trung bình 971 người/km2, trong đó 11.984 nghìn người đang ở độ tuổi lao động [125]. Diện tích đất nhỏ hẹp nhưng lại có mật độ dân số cao nhất cả nước, đó cũng là một điều kiện thúc đẩy cho mô hình làng nghề phát triển bởi vì dân số đông, sức ép việc làm gia tăng nên người dân ở đây phải tìm kiếm các nghề phụ bên cạnh các nghề chính như nông nghiệp,… phục vụ cho cuộc sống của mình. Bên cạnh đó, vùng còn có rất nhiều những ưu thế tạo điều kiện cho việc phát triển làng nghề như: hệ thống giao thông - vận tải thuận tiện (sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi, các đường quốc lộ 1A, quốc lộ 5, các đường cao tốc: Pháp Vân - Ninh Bình, Thăng Long - Nội Bài, Hà Nội-Quảng Ninh, Hà Nội - Hải Phòng,...); tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản tương đối dồi dào (than nâu, mỏ đá, đất sét cao lanh, khí tự nhiên,...), là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển sản xuất của các làng nghề.

- Điều kiện kinh tế: vùng ĐBSH là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với quy mô GDP khoảng 32,2 tỷ USD (năm 2011), chiếm 26,7% và đứng thứ 2 trong cả nước; kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt khoảng 96,9 tỷ USD, chiếm 26% so với cả nước [68]. Trong vùng có các tam giác kinh tế trọng điểm: Hà Nội- Hải Phòng - Quảng Ninh, cửa khẩu Móng Cái - Bình Liêu - cửa khẩu quan trọng thông thương với Trung Quốc. Đặc biệt có một lợi thế là trong vùng có thủ đô Hà Nội: là

Page 60: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

55

trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội của cả nước, có trình độ phát triển cao nhất vùng về đội ngũ nhân lực, tiềm lực KHCN, cơ sở vật chất thiết bị hiện đại, giúp tạo động lực mạnh mẽ, mở ra cơ hội giao lưu thị trường sản phẩm làng nghề. Điều kiện kinh tế khá phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp nhân dân vùng ĐBSH nói chung, của những người làm nghề, của đội ngũ cán bộ quản lý địa phương nói riêng, được đảm bảo, từ đó họ tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế, chính sách pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Điều đó tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ quản lý ở địa phương vùng ĐBSH yên tâm công tác, làm tốt chuyên môn, trong đó có việc THPL về BVMT làng nghề, trên tinh thần cống hiến, phục vụ nhân dân địa phương. Kinh tế phát triển, mức sống của người dân được cải thiện và nâng cao cũng đồng nghĩa với việc nhân dân tích cực tham gia THPL về BVMT ở các làng nghề với mong muốn được hưởng môi trường sống trong lành, không bị ô nhiễm. Kinh tế phát triển còn đem lại nguồn thu ngân sách dồi dào, do đó đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc THPL về BVMT làng nghề được nâng lên, chính sách đãi ngộ thỏa đáng hơn với đội ngũ quản lý môi trường địa phương, giúp họ yên tâm gắn bó lâu dài công tác chuyên môn, tích cực và chủ động hơn trong việc THPL về BVMT làng nghề.

- Điều kiện xã hội: trong những năm qua, vùng đã đạt được các bước tiến quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người dân. Cụ thể là kết cấu hạ tầng được HĐH: gần như toàn bộ các hộ gia đình ở các làng nghề trong vùng được sử dụng điện từ hệ thống điện lưới quốc gia và có đường sá giao thông thuận tiện cho các phương tiện đi lại. Giáo dục được nâng cao: mặt bằng về trình độ dân trí của vùng cao nhất so với các vùng trong cả nước (tỷ lệ số lao động đã qua đào tạo của vùng cao nhất cả nước, 21,2%; tỷ lệ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của dân số hoạt động kinh tế 15 tuổi trở lên cũng cao nhất cả nước, 25,1%). Đây chính là điểm mạnh trong sự phát triển làng nghề ở vùng ĐBSH và cũng là điểm mạnh trong việc THPL về BVMT làng nghề bởi người dân dễ dàng tiếp thu, đón nhận các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản QPPL về BVMT làng nghề; có thể dễ dàng tiếp cận với những công nghệ tiên tiến để phục vụ sản xuất làng nghề và BVMT. Công tác quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính đã có sự đổi mới, là những những dấu hiệu tích cực về việc người dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với chính quyền và các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Điều này tạo thuận lợi lớn cho các làng nghề trong việc THPL về BVMT làng nghề. Mặt khác, vùng ĐBSH có tỷ lệ thất nghiệp hơn 2,65% [125], cao hơn tỷ lệ thất nghiệp trung bình của cả nước. Đó cũng là sức ép thúc đẩy sự phát triển làng nghề.

Page 61: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

56

Với đặc trưng cơ bản của lối sống nông thôn, tức là tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể cao, giúp cho chính quyền địa phương vùng ĐBSH dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đưa pháp luật về BVMT đến với người dân nông thôn vùng ĐBSH. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp gắn kết, tạo dựng sự đồng thuận xã hội giữa chính quyền địa phương vùng ĐBSH với nhân dân trong việc bàn bạc, thống nhất các nội dung THPL về BVMT làng nghề. Đó sẽ là điều kiện thuận lợi đối với công tác THPL về BVMT làng nghề. Tuy nhiên, mối quan hệ xã hội vùng nông thôn ĐBSH theo tính chất dòng họ, tình làng nghĩa xóm có thể gây nên tình trạng cả nể, rất khó để tiến hành xử lý vi phạm và các thủ tục cưỡng chế đối với hộ sản xuất nghề vi phạm. Điều này đã và đang gây khó khăn cho việc THPL về BVMT ở làng nghề vùng ĐBSH.

3.1.2. Thực trạng phát triển làng nghề ở các tỉnh ĐBSH Nhờ có tác động tích cực của nhiều chính sách, đặc biệt là chính sách phát triển

kinh tế nhiều thành phần, nên các làng nghề ở ĐBSH trong những năm qua đang phát triển hết sức có hiệu quả, cụ thể là:

Thứ nhất: làng nghề ở ĐBSH có sự tăng lên về số lượng, đa dạng hơn về ngành nghề, giá trị sản xuất ở nhiều làng nghề đạt mức cao, sản phẩm được cải tiến, đổi mới và đa dạng hóa theo yêu cầu của thị trường. Cho đến thời điểm năm 2011, Vùng ĐBSH có 2.433 làng có nghề, chiếm tới 53,18% tổng số làng nghề của cả nước [8].

Thứ hai: đa số các làng nghề ở ĐBSH đã chuyển đổi cơ cấu sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường, chú ý đổi mới công nghệ nên chất lượng, mẫu mã đã có những tiến bộ nhất định [77]. Một số sản phẩm đã có mặt ở nước ngoài và được người tiêu dùng ở một số nước chấp nhận. Ví dụ: làng gốm sứ Bát Tràng đã cải tiến và đưa công nghệ cao vào sản xuất, tạo ra một số sản phẩm sứ cao cấp, cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Nghề chạm khắc gỗ Đồng Kỵ có khả năng cạnh tranh với một số mặt hàng cùng chủng loại của Trung Quốc…

Thứ ba: ở nhiều làng nghề, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh đã được hoàn thiện và cải tiến theo hướng chuyên môn hóa về lao động và sản phẩm [11]. Một số cụm làng nghề được hình thành tách biệt với khu dân cư nhằm tránh gây ONMT, ảnh hưởng tới đời sống dân cư, nổi bật như ở Từ Sơn, Tiên Sơn (Bắc Ninh); Hoài Đức (Hà Nội). Ngoài ra, ở một số làng nghề nông thôn, nhiều doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn đã hình thành và hoạt động khá hiệu quả, giúp cho người dân làng nghề phát triển sản xuất, đẩy mạnh hoạt động thương mại, dịch vụ. Ví dụ ở làng Đồng Kỵ có tới 50 công ty trách nhiệm hữu hạn, HTX kinh doanh đồ gỗ; làng Đình Bảng có trên 10 công ty trách nhiệm hữu hạn và một số xí nghiệp liên doanh với Đài Loan,...

Page 62: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

57

Thứ tư: trong cơ cấu ngành nghề của các làng nghề ở ĐBSH, số làng nghề chế biến nông, lâm, hải sản chiếm tỷ trọng lớn, trong đó đứng đầu là nghề chế biến nông, thủy sản. Cơ cấu này, một mặt cho thấy sự phát triển đúng thế mạnh của vùng ĐBSH vốn là chủ yếu thuần nông; mặt khác, chính quyền địa phương các tỉnh vùng ĐBSH đã sử dụng đúng lợi thế của mình và đã đề ra được những chính sách phù hợp hỗ trợ cho một số làng nghề tập trung phát huy thế mạnh này để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân [69].

Tuy nhiên, mạng lưới làng nghề ở vùng ĐBSH chưa có tính liên kết chặt chẽ giữa các làng nghề với nhau mà chỉ phát triển một cách tự phát dựa trên lợi thế của mỗi vùng là chính, nên đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các làng nghề với nhau. Đồng thời do việc phát triển làng nghề chưa có một quy hoạch tổng thể cho cả vùng, do đó sự phát triển của các làng nghề đã tạo ra nạn khai thác tài nguyên quá mức và làm ONMT ở các làng nghề. Đây đang là những vấn đề nổi cộm và mang tính thời sự nhất hiện nay ở các làng nghề trong vùng ĐBSH.

3.1.3. Tình hình ô nhiễm môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng 3.1.3.1. Ô nhiễm nguồn nước trong môi trường làng nghề - Các làng nghề CBLTTP: xả ra khối lượng nước thải rất lớn, có nơi lên tới 7.000

m3/ngày, với độ ô nhiễm hữu cơ rất cao, trong đó các làng nghề chế biến tinh bột có tải lượng các chất ô nhiễm lớn nhất, đặc biệt là COD, BOD5, SS, tổng N, tổng P vượt TCVN hàng chục lần. Nước thải này thường không được xử lý đã xả trực tiếp vào môi trường, kết quả là chất lượng nước mặt ao, hồ, kênh, ngòi ở các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng, một số nơi đang ở mức báo động với BOD5, COD, NH4

+, Coliform vượt TCVN hàng chục đến hàng trăm lần, như làng nghề chế biến tinh bột Cát Quế, Dương Liễu, Minh Khai (Hà Nội), làng nghề nấu rượu Đại Lâm, Bắc Ninh, bún Phú Đô,... Bên cạnh đó, nước ngầm dưới tầng nông ở một số nơi đã có biểu hiện ô nhiễm, cá biệt có nơi ô nhiễm nghiêm trọng như làng nghề sản xuất tinh bột Dương Liễu có hàm lượng NH4

+ trong nước dưới đất rất cao (18,48 mg/l), Coliform cao hơn TCVN từ 2-100 lần [19]. Kết quả này cho thấy việc THPL về bảo vệ nguồn nước ở các làng nghề CBLTTP vùng ĐBSH còn nhiều bất cập.

- Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: có nhu cầu hóa chất rất lớn nên thành phần các chất ô nhiễm trong nước thải thường chứa chất bẩn, dầu, sáp, hợp chất chứa nitơ, pectin, các hoá chất sử dụng trong quy trình xử lý vải như hồ tinh bột, NaOH, H2SO4, HCl, Na2CO3, các loại thuốc nhuộm, chất tẩy giặt. Tuy nhiên, do các làng nghề chưa tuân thủ nghiêm pháp luật về bảo vệ nguồn nước, đa phần nước thải chưa được xử lý đã xả thẳng ra môi trường, do đó nước mặt ở các làng nghề này bị ô nhiễm nặng: COD vượt TCVN 2-3 lần; BOD5 vượt 1,5 - 2,5 lần; SS vượt trên 3 lần,

Page 63: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

58

thậm chí tại làng nghề Ươm tơ Cổ Chất - Nam Định vượt qua tiêu chuẩn 7,6 lần. Hàm lượng Coliform trong nước mặt ở một số làng nghề khá cao, chứng tỏ bên cạnh nước thải sản xuất, nước mặt đã bị nhiễm bẩn do nước thải sinh hoạt. Các làng nghề ô nhiễm điển hình là: dệt Hòa Xá, dệt Vạn Phúc, dệt Thanh Thần, làng nghề thêu xã Thắng Lợi, dệt nhuộm Phùng Xá (Hà Nội); các làng nghề dệt nhuộm Hồi Quan và Tiêu Long, làng nghề tơ tằm Vọng Nguyệt (Bắc Ninh),... [19, 38]

- Làng nghề gia công cơ khí: có nguồn nước thải bị ô nhiễm chất rắn lơ lửng và đặc biệt là ô nhiễm kim loại nặng như Fe, Cr, Zn, với hàm lượng thường xuyên cao gấp nhiều lần TCCP. Đáng chú ý trong số này có các làng nghề ở ngoại thành Hà Nội như rèn Đa Sĩ, cơ khí Phùng Xá, luyện kim Phú Thư [25].

- Làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc: có nước thải thường chứa một lượng lớn chất hữu cơ và Nitơ và phần còn lại của các chất tẩy rửa, được tạo ra trong suốt quá trình giết mổ, cả khâu vệ sinh và rửa. Nước thải ra từ trang trại chăn nuôi do làm vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống, nước tắm rửa cho gia súc hàng ngày, nước tiểu do gia súc bài tiết ra môi trường, với thành phần biến động rất lớn, phụ thuộc vào quy mô chăn nuôi, phương pháp vệ sinh, kiểu chuồng trại và chất lượng nước vệ sinh chuồng trại... Chất thải lỏng trong chăn nuôi cả vùng ĐBSH ước tính khoảng vài chục nghìn tỷ m3/năm [19].

- Làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren: có lượng nước thải không lớn nhưng chứa hàm lượng chất ô nhiễm cao. Nước thải từ quá trình nhuộm và nhúng bóng sản phẩm mây tre đan chứa nhiều dung môi, dầu bóng, polyme hữu cơ, dư lượng các hóa chất nhuộm,... Hàm lượng COD và BOD5 trong nước thải của các làng nghề này thường vượt TCVN 2-8,5 lần. Điển hình là làng nghề sơn mài Hạ Thái (Hà Nội); các làng nghề thủ công mỹ nghệ: Bát Tràng, Tiền Phong, Thôn Ngọ, Đồng Vinh; các làng nghề mây tre đan, chế biến gỗ: Vạn Điểm, Dư Dụ, Phú Hữu, Thụy Hà, Liên Hà của Hà Nội. Nước thải chứa nhiều chất ô nhiễm như vậy nhưng các hộ sản xuất chưa tuân thủ pháp luật về BVMT, nước thải không được xử lý triệt để nên đã và đang gây ô nhiễm nước mặt sông, hồ xung quanh. Đặc biệt, đối với các làng nghề mây tre đan (như Phú Túc, Hà Nội), chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), sơn mài Hạ Thái (Hà Nội),... nước mặt ở đây có hàm lượng COD, BOD5, NH4

+, Coliform, độ màu đều ở mức cao, vượt TCVN.

- Làng nghề tái chế chất thải phế liệu: các làng tái chế kim loại có lượng nước thải không lớn, nhưng lại chứa nhiều kim loại nặng (Zn, Fe, Cr, Ni, Hg, Pb...) và dầu mỡ công nghiệp. Nước thải tại làng nghề Đa Hội và Trịnh Xá (Châu Khê, Bắc Ninh) có nhiều thành phần nguy hại gây ONMT nghiêm trọng: nồng độ Fe vượt TCCP đến 93 lần; nồng độ Zn vượt TCCP 4,7 lần,… Các thông số khác như COD, BOD, SS, độ

Page 64: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

59

màu và một số kim loại nặng khác đều vượt quá TCCP. Các làng nghề tái chế giấy thì nước thải chứa nhiều hóa chất như xút, nước giaven, phèn, nhựa thông, phẩm màu, xơ sợi, bột giấy,... lượng cặn có thể lên tới 300 - 600 mg/l. Điển hình như làng nghề tái chế giấy Minh Khai, Hà Nội, hàng năm thải ra khoảng 455.000 m3 nước thải có thành phần rất phức tạp, chứa nhiều loại hợp chất vô cơ, hữu cơ, vi sinh vật gây bệnh. Tại điểm tiếp nhận nguồn nước thải (sông Ngũ Huyện Khê), độ màu vượt TCCP 3,3 đến 4,22 lần; SS vượt TCCP từ 1,4 đến 1,6 lần tại thời điểm phân tích [25].

3.1.3.2. Ô nhiễm không khí và tiếng ồn trong môi trường làng nghề Việc tuân thủ pháp luật về BVMT không khí trong các làng nghề nhìn chung còn

nhiều bất cập, hầu như các hộ sản xuất không có biện pháp kiểm soát hoặc xử lý các khí thải và tiếng ồn, kết quả là không khí ở nhiều làng nghề bị ô nhiễm trầm trọng, cụ thể như sau:

- Làng nghề CBLTTP: sản xuất tại các làng nghề này phát sinh ONKK không chỉ do sử dụng nhiên liệu mà còn do sự phân hủy các chất hữu cơ trong nước thải, CTR tạo nên các khí như SO2, NO2, H2S, CH4 và các khí ô nhiễm gây mùi tanh thối khó chịu. Điển hình như các làng nghề: bún Phú Đô, tinh bột Tân Hòa, rượu sắn Tân Độ (Hà Nội); bún Vũ Hội (Thái Bình);...

- Làng nghề ươm tơ, dệt vải, nhuộm, thuộc da: gây ô nhiễm cục bộ bởi bụi, hơi hoá chất, tiếng ồn do các máy dệt thủ công (vượt TCVN từ 4 đến 14 dBA). Bụi bông sinh ra trong quá trình giàn sợi, đánh ống, xe sợi, dệt vải. Hơi hoá chất phát sinh trong quá trình nấu, tẩy, nhuộm, chủ yếu là xút, HCl, Cl2, CH3COOH, chất tẩy giặt. Khí thải lò đốt chứa nhiều thành phần ONMT không khí như CO2, SO2, CO, NOx và bụi. Hiện nay, chưa có cơ sở nào có hệ thống hút bụi, thông gió để giảm lượng bụi bông trong khu vực sản xuất, không có ống khói và đều không có hệ thống xử lý khí thải lò đốt và biện pháp khắc phục hơi hoá chất độc hại. Điển hình là làng nghề dệt đũi Nam Cao, dệt nhuộm Thái Phương (Thái Bình), lụa Vạn Phúc (Hà Nội) [19, 24].

- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng: phát sinh bụi do hoạt động vận chuyển, chê biến nguyên vật liệu (đất, đá, xi măng,...) và bụi xỉ than tỏa ra từ khói lò. Khí thải của các lò nung gạch ngói, gốm, sứ… gây ONMT không khí rất lớn do có chứa các loại khí độc như CO, SO2, NOx, HF,… Đối với các làng nghề khai thác đá, ô nhiễm chủ yếu là bụi từ khu vực khai thác (thường xuyên vượt TCCP từ 3 - 5 lần) và tiếng ồn do nổ mìn và hoạt động của các máy khoan, đục, máy nghiền, xay đá,... (thường xuyên ở mức cao từ 80 - 100dBA). Điển hình là một số làng nghề: nung vôi Kiện Khê (Hà Nam), gạch Khai Thái (Hà Nội), gạch Hòa Hậu (Lý Nhân, Hà Nam) [24, 25].

- Làng nghề gia công cơ khí: chủ yếu gây ra ô nhiễm bụi kim loại rất nguy hiểm, tiếng ồn, khí CO, Asen và ô nhiễm nhiệt. Ở làng nghề Đa Hội (Bắc Ninh), hàm lượng

Page 65: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

60

của CO trung bình trong 24h vượt quá tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần, tiếng ồn 70-80 dBA, vượt quá TCCP. Tại làng nghề cơ khí Phùng Xá (Hà Nội) nồng độ As vượt giới hạn QCCP 1,5-1,9 lần, nồng độ NO2 và SO2 cũng vượt quá TCCP, nhiệt độ không khí vượt quá nhiệt độ của môi trường từ 4-5°C, gần khu vực làm việc, nhiệt độ lên tới 42°C, cao hơn tiêu chuẩn cho phép trên 10°C, rất có hại đối với người và các hộ sinh hoạt gần đó [24].

- Làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc: do sự phân hủy các chất hữu cơ trong nước thải, CTR tạo nên các khí như SO2, NO2, H2S, NH3, CH4 và các khí ô nhiễm gây mùi tanh thối khó chịu phát sinh từ phân gia súc, các chất thải và lòng ruột bị đổ bỏ, cũng như từ khâu xử lý sơ bộ nước thải và từ khu nhốt gia súc. Chất thải khí do hoạt động hô hấp, tiêu hóa của vật nuôi, do ủ phân, chế biến thức ăn,... ước khoảng vài trăm triệu tấn/năm.

- Làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren: các làng nghề sản xuất gốm sứ và chế tác đá mỹ nghệ gây ô nhiễm bụi do sử dụng nguyên liệu đất đá, ô nhiễm các khí thải lò đốt như CO, CO2, SO2, NOx… Đối với các làng nghề sơn mài, mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, không khí chứa nhiều các hóa chất, dung môi hữu cơ độc hại. Điển hình là các làng nghề thủ công mỹ nghệ Đồng Vinh, Thôn Ngọ, Sơn Đồng, Tiền Phong trên địa bàn Hà Nội. Ở các làng nghề mộc, chạm khắc, không khí bị ô nhiễm nặng bởi tiếng ồn (vượt 85dB) phát sinh từ các máy xẻ gỗ, máy cưa, máy tiện, máy bào, máy chuốt, xé mây song… Tại chỗ làm bên cạnh các máy xẻ gỗ, chuốt, xẻ mây song, tiếng ồn vượt 95dB. Điển hình là các làng mộc Bích Chu, Minh Tân (Vĩnh Phúc), làng mộc khắc gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh) [19, 24].

- Làng nghề tái chế chất thải phế liệu: không khí bị ô nhiễm nặng nề bởi bụi kim loại (chủ yếu là oxit sắt), nồng độ lên tới 0,5mg/m3 làm cho không khí có mùi tanh. Đặc biệt là khu vực bên cạnh các lò đúc thép, hàm lượng bụi vượt quá TCCP tới 10-15 lần. Hơi hóa chất độc hại như Cl2, HCN, HCl, H2SO4, SO2, CO, NO,... phát sinh từ khâu phân loại, gia công sơ bộ, tẩy gỉ, nấu, kéo. Tại các làng nghề tái chế nhựa, khí ô nhiễm phát sinh từ công đoạn gia nhiệt trong quá trình tạo hạt, đùn túi, làm nhựa cháy sinh khí độc như HCl, HCN, CO,... Điển hình là các làng nghề Vân Chàng, Xuân Tiến (Nam Định), nhựa Minh Khai (Hưng Yên) [24].

3.1.3.3. Ô nhiễm chất thải rắn trong môi trường làng nghề - Làng nghề CBLTTP: phát sinh CTR giàu chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học,

gây mùi xú uế, khó chịu, hầu hết chưa được quan tâm xử lý, cũng không được tận thu và xả thải bừa bãi vào môi trường. Với sản lượng 52.000 tấn tinh bột/năm, làng nghề Dương Liễu hàng năm phát sinh tới 105.768 tấn bã thải và một phần không nhỏ bị

Page 66: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

61

cuốn theo nước thải gây tắc nghẽn hệ thống thu gom cũng như các ao hồ trong khu vực, gây ô nhiễm nghiêm trọng nước mặt, nước ngầm. Ngoài ra, việc đốt than cũng tạo ra lượng lớn xỉ. Các làng nghề khác như bún Phú Đô, Ninh Hồng, Vũ Hội (Hà Nội) cũng trong tình trạng tương tự [21].

- Làng nghề ươm tơ, dệt vải, nhuộm, thuộc da: các làng nghề may gia công, da giầy tạo ra CTR như vải vụn, da vụn, cao su, chất dẻo,... với lượng thải lên tới 2-5 tấn/ngày (làng nghề Hoàng Diệu, Gia Lộc, Hải Dương: 4-5 tấn/ngày; nghề may gia công tại làng nghề mây tre đan Xuân Lai - Bắc Ninh: 3-4 tấn vải vụn/ngày). Đây là loại chất thải rất khó phân hủy nên không thể xử lý bằng chôn lấp, không được thu gom xử lý mà được người dân địa phương đổ khắp nơi trong làng, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Điển hình là các làng nghề: Hoàng Diệu (Gia Lộc, Hải Dương), mây tre đan Xuân Lai (Bắc Ninh) [19].

- Làng nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc: tạo ra một lượng chất thải hữu cơ, chất dinh dưỡng,… dạng rắn và lỏng rất lớn, hầu như không được xử lý và xả trực tiếp ra các kênh mương và ao làng, gây ONMT nước và không khí trầm trọng, phá hủy cảnh quan nông thôn và đặc biệt là ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng. Trong giết mổ, một lượng lớn CTR là phân gia súc, các thứ chứa trong dạ dày, ruột, các phủ tạng, da, máu, lông lợn... Trong CTR thường chứa nhiều loại vi khuẩn, virus, trứng giun sán gây bệnh cho người và động vật. Điển hình là làng nghề giết mổ gia súc ở thị xã Tam Điệp, Ninh Bình, giết mổ gia súc ở thôn Văn Thai, Cẩm Giàng, Hải Dương.

- Làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren: làng nghề mây tre đan, CTR chủ yếu là xơ, phế phẩm và phế liệu (gốc, ngọn mây tre, lõi, đốt mấu,...), giẻ lau chứa dung môi hữu cơ. Tuy nhiên, lượng thải không lớn, khoảng 20-30 kg/cơ sở/tháng. Hầu hết CTR ở đây được tận dụng làm nhiên liệu trong sinh hoạt hàng ngày ở các hộ gia đình.

- Làng nghề tái chế chất thải phế liệu: Làng nghề tái chế kim loại với nguồn CTR phát sinh bao gồm bụi kim loại, phoi, rỉ sắt, lượng phát sinh khoảng 1-7 tấn/ngày (Vân Chàng - Nam Định, Đa Hội, Đình Bảng - Bắc Ninh). Làng nghề tái chế giấy, nhựa thải ra các CTR gồm: nhãn mác, bột giấy, băng ghim, băng dán, tạp chất không tái sinh được, các chi tiết bằng kim loại, cao su. Một số làng nghề thải ra lượng CTR khá lớn như làng nghề tái chế giấy Dương Ổ - Bắc Ninh, tái chế nhựa Trung Văn và Triều Khúc - Hà Nội. Cho đến nay các CTR này vẫn chưa được xử lý triệt để.

Từ hiện trạng ô nhiễm CTR ở các làng nghề vùng ĐBSH có thể thấy rằng việc tuân thủ pháp luật về kiểm soát và xử lý chất thải rắn trong các làng nghề vùng ĐHSH, đặc biệt là các làng nghề CBLTTP, giết mổ gia súc, thuộc da và tái chế chất thải phế liệu hầu như còn bỏ ngỏ, nhiều bất cập.

Page 67: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

62

3.1.3.4. Ô nhiễm đất đai và tài nguyên đất trong môi trường làng nghề Do nước thải, khí thải ở các làng nghề ĐBSH bị ô nhiễm nghiêm trọng, CTR

chưa được thu gom và xử lý triệt để, đặc biệt là chất thải nguy hại, đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến môi trường đất ở các làng nghề bởi vì sau khi thấm vào trong đất, chất ô nhiễm sẽ ở lại và lưu tồn trong đất, gây thoái hóa đất. Đáng chú ý là ở các làng nghề tái chế kim loại, nước thải chứa các kim loại nặng độc hại như: Cd, As, Cr, Cu, Zn, Ni, Pb và Hg đã làm cho một diện tích đáng kể đất nông nghiệp ở các làng nghề bị ô nhiễm kim loại nặng. Các chất khí độc hại trong không khí như ôxit lưu huỳnh, các hợp chất nitơ... kết tụ hoặc hình thành mưa axit rơi xuống đất làm chua đất. Một số loại khói bụi có hại ngưng tụ cũng gây ra ô nhiễm đất, ví dụ như ở gần các xưởng nghề luyện kim, vì trong khí thải có chứa lượng lớn các chất chì, cadimi, crom, đồng... nên vùng đất xung quanh sẽ bị ô nhiễm bởi những chất này. Trong CTR có chứa nhiều hàm lượng các nguyên tố độc khác nhau, các loại vi khuẩn gây bệnh và ký sinh trùng, các chất hữu cơ thối rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại,... Những CTR này do được vứt bừa bãi, sẽ ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng.

Điển hình như làng nghề Đa Hội (Bắc Ninh), hiện nay, tình trạng ô nhiễm đất đang có chiều hướng gia tăng do đất tiếp nhận nước thải và CTR tại các làng nghề không được thu gom và xử lý. Từ kết quả phân tích cho thấy: độ pH đất ở khu vực dân cư sinh sống (đất ruộng) và ở khu vực sản xuất đều có tính chua nhẹ, chứa một hàm lượng không nhỏ các kim loại Zn, Pb, Cu. Tại làng nghề đúc nhôm chì Văn Môn, đất ở khu dân cư và khu vực phía bờ sông đều có tính axit và tích tụ các kim loại Zn, Pb, Cu. Ở làng nghề tái chế giấy Phong Khê, hiện tại chất lượng đất đang có dấu hiệu ô nhiễm. Nước thải cùng với rác thải chất đống tại các thửa ruộng đã làm mất khả năng canh tác, nhiều thửa ruộng gần các cơ sở sản xuất xuất hiện tượng lúa non chết hàng loạt. Nguyên nhân chính vẫn là nước thải bị ô nhiễm ngấm vào đất đã làm giảm độ xốp của đất, ngăn cản quá trình hô hấp, quang hợp, dinh dưỡng của cây [25].

Làng nghề gỗ Đồng Kỵ, đất tại vị trí có thải bỏ chất thải từ hoạt động sản xuất (như bờ mương, cống thải chung) đều có các giá trị tổng N, tổng P, mùn tổng số thấp hơn khu vực không chịu tác động của hoạt động sản xuất (đình làng, đường làng), điều đó cho thấy hoạt động sản xuất có tác động đến chất lượng đất tại Đồng Kỵ. Một số nơi ở làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) đất bị ô nhiễm các kim loại nặng như đồng, chì, thủy ngân, vượt mức TCCP [25].

Page 68: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

63

3.1.3.5. Cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử trong môi trường làng nghề Việc nước thải, khí thải tại các làng nghề vùng ĐBSH bị ô nhiễm nghiêm trọng,

CTR chưa được thu gom và xử lý triệt để đã ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và DTLS trong các làng nghề. Tại nhiều nơi, CTR, rác thải của sản xuất nghề không được thu gom, tập trung đúng nơi quy định mà người dân địa phương đổ khắp nơi trong làng, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Ngoài ra, rác thải không được chôn lấp, xử lý đúng quy cách, mùi xú uế, hôi thối bốc lên từ các cống, rãnh nước thải ở các làng nghề cũng góp phần làm giảm cảnh quan thiên nhiên, làm xấu đi hình ảnh của làng nghề du lịch truyền thống, gây phản cảm đối với khách du lịch. Không khí tại một số làng nghề bị ô nhiễm, nhất là ô nhiễm khí SO2, H2S, các oxit nitơ sẽ hình thành mưa axit, làm ăn mòn các công trình nghệ thuật, lịch sử, làm hỏng các DTLS. Điển hình như làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân (Hoa Lư), nằm trong quần thể khu danh thắng Tràng An, Ninh Bình, thường xuyên thải khí thải, bụi đá, gây tiếng ồn,... trong một thời gian dài gây ô nhiễm và ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS của quần thể khu danh thắng.

Một số LNTT kết hợp phát triển du lịch như gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, Nón Chuông, mây tre đan Phú Vinh (Hà Nội), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh),... do hiện tượng ô nhiễm CTR, nước thải, khí thải mà kinh doanh du lịch bị ảnh hưởng, sức hút đối với khách du lịch bị giảm, điển hình là một số LNTT ở Hà Tây cũ. Ngay cả những làng nghề mới, có trưng biển “Du lịch làng nghề” như làng may Thượng Hiệp (Phúc Thọ) thì chất thải từ sản xuất cũng làm cho nguồn nước và không khí bị ô nhiễm, vào ngày mưa, bùn đất ngập đến nửa bánh xe, ngày nắng ráo thì đường bụi mù mịt [19, 25].

3.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Mặc dù có nhiều khó khăn, vướng mắc, nhưng công tác THPL về BVMT đối với làng nghề vùng ĐBSH đã đạt được một số kết quả nhất định.

3.2.1.1. Thực hiện pháp luật về bảo vệ nguồn nước trong môi trường làng nghề * Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, trong công tác quy hoạch tài nguyên nước: Vùng ĐBSH đã hoàn thành lập đề cương đề án Chính phủ “Quy hoạch tài

nguyên nước các lưu vực sông liên tỉnh”. Từ năm 2011 đến nay, cơ bản hoàn thành dự án “Quy hoạch Quản lý sử dụng tài nguyên nước và BVMT lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2015 và định hướng đến 2020”; ở địa phương các tỉnh ĐBSH, công tác

Page 69: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

64

quy hoạch tài nguyên nước đã từng bước được triển khai và đáp ứng được yêu cầu quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước. Tính đến nay đã có 10/11 tỉnh ĐBSH ban hành quy hoạch tài nguyên nước cấp tỉnh [30].

Thứ hai là, trong công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước: Công tác điều tra cơ bản, xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước

đã được đẩy mạnh và tích cực triển khai, thực hiện ở các tỉnh ĐBSH, trong đó có khu vực làng nghề. Đối với lưu vực sông Cầu và lưu vực sông Nhuệ-Đáy đã tiến hành điều tra, đánh giá tài nguyên nước, tình hình khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, đánh giá, cảnh báo, dự báo tác động biến đổi khí hậu đối với tài nguyên nước. Một số chương trình, đề án chính phủ đã được thực hiện như: “Bảo vệ tài nguyên nước dưới đất ở các đô thị lớn”; “Điều tra, đánh giá quy hoạch sử dụng, nước mặt tại các thủy vực ven biển thuộc đề án “Điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển”; Triển khai nâng cấp và xây dựng mới hệ thống quan trắc, giám sát nguồn nước [30].

Thứ ba là, trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng về tài nguyên nước:

Việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức cộng đồng về tài nguyên nước được thực hiện thường xuyên với các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các hình thức xây dựng phim, ảnh, băng đĩa, các chương trình hỏi đáp, đối thoại, tọa đàm, phỏng vấn, phóng sự, tổ chức hội thảo tập huấn cho các cơ sở sản xuất làng nghề và người dân vùng ĐBSH để giải đáp pháp luật, trao đổi về những vấn đề quan trọng, cấp bách cần giải quyết trong quản lý tài nguyên nước, tuyên truyền và phổ biến pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước. Từ năm 2014, nhiều địa phương vùng ĐBSH đã tổ chức các đợt tập huấn, tuyên truyền phổ biến pháp luật về tài nguyên nước các cán bộ làm công tác quản lý tài nguyên, môi trường ở cấp xã, huyện [30].

Bên cạnh đó, hàng năm, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng ĐBSH đã tổ chức nhiều sự kiện môi trường quốc gia và quốc tế như ngày Đất ngập nước 2/2, ngày Nước thế giới 22/3, ngày Môi trường Thế giới 5/6. Các hoạt động này đã trở thành động lực cho các cấp, các ngành vùng ĐBSH triển khai các phong trào, mô hình BVMT và một số đã phát huy hiệu quả [29].

Thứ tư là, trong công tác chỉ đạo, xây dựng và triển khai thực hiện đề án BVMT lưu vực sông; chỉ đạo, tổ chức các hoạt động phòng ngừa và kiểm soát các nguồn thải vào lưu vực sông

Công tác BVMT tại 02 lưu vực sông: sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy trên địa bàn các tỉnh vùng ĐBSH đã được UBND các tỉnh quan tâm triển khai có hiệu quả. Tính đến nay, tất cả các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH trên 02 lưu vực sông đã phê duyệt và triển khai Kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể BVMT lưu vực sông tại mỗi tỉnh, thành phố.

Page 70: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

65

Nhiều địa phương trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án trên địa bàn [29]. Bên cạnh việc chủ động, tích cực hoàn thiện thể chế, chính sách BVMT lưu vực sông, nhiều quy định về hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về nước thải, chất lượng nước mặt đã được các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, ban hành góp phần BVMT lưu vực sông. Theo Luật BVMT năm 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 /4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu [47], công tác BVMT lưu vực sông đã được quy định gắn liền với việc đánh giá sức chịu tải của sông và hạn ngạch xả nước thải vào các lưu vực sông.

Đến nay, nhiều dự án khắc phục ONMT làng nghề trên 02 lưu vực sông này đã được quan tâm đầu tư thực hiện, trong đó có 04 dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012-2015 đã được triển khai là: dự án xử lý ONMT làng nghề sản xuất giấy Phong Khê (tỉnh Bắc Ninh) trên lưu vực sông Cầu; dự án xử lý ONMT nghề dệt nhuộm Nha Xá (tỉnh Hà Nam), dự án xử lý ONMT do hoá chất bảo vệ thực vật tồn lưu trên địa bàn xã Hoành Sơn, huyện Giao Thuỷ và xã Nam Phong, thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định), dự án xử lý ONMT làng nghề bún, bánh thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình) trên lưu vực sông Nhuệ -Đáy. Ngoài ra, các tỉnh, thành phố cũng đã chủ động triển khai các dự án cải tạo, nạo vét, khai thông dòng chảy và vệ sinh môi trường nước, nâng cấp các hệ thống bơm tiêu thoát nước, xử lý nước thải đồng thời phối hợp giải quyết một số vấn đề liên địa phương với kinh phí nhiều tỷ đồng [29].

Công tác BVMT tại các lưu vực sông liên tỉnh trong vùng ĐBSH cũng được đẩy mạnh thông qua việc thiết lập các chương trình kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật lưu vực sông liên tỉnh, chương trình quan trắc môi trường tại các lưu vực sông liên tỉnh.

Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội, một số địa phương đã xây dựng kế hoạch hành động nâng cao hiệu lực quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2014 - 2020 theo Quyết định số 182/QĐ-TTg ngày 23/1/2014 của Thủ tướng Chính phủ như: tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, thành phố Hải Phòng,...

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ tài

nguyên nước: Ở Trung ương, Tổng cục Môi trường trực thuộc Bộ TNMT đã được kiện toàn,

hoàn thiện với 18 đơn vị trực thuộc, trong đó có các Chi cục BVMT lưu vực sông Cầu và lưu vực sông Nhuệ - Đáy. Các Cục, Vụ chuyên môn về môi trường thuộc các Bộ quản lý, ngành tiếp tục được kiện toàn để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.

Page 71: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

66

Ở địa phương vùng ĐBSH, cơ cấu tổ chức quản lý môi trường cũng tiếp tục được kiện toàn từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tính đến tháng 6 năm 2015, đã có 11 Chi cục BVMT, 11 Trung tâm Quan trắc môi trường ở các tỉnh ĐBSH được thành lập.

Ở cấp độ liên vùng: Ủy ban BVMT các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy đã được thành lập và tiếp tục được kiện toàn [29].

Thứ hai là, hệ thống văn bản QPPL về bảo vệ tài nguyên nước đã được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện:

Cho đến nay, Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) năm 2012 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong các văn bản quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Đối với các cơ sở dịch vụ, sản xuất làng nghề, Luật cũng quy định rõ là “làng nghề phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải phù hợp với quy mô xả nước thải, khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước và phải được cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước có thẩm quyền chấp thuận trước khi trình phê duyệt” (Điều 37) và hạn chế khai thác nước dưới đất tại các khu vực làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng (khoản đ mục 4 điều 52). Từ năm 2013 đến tháng 6 năm 2015, nhiều văn bản QPPL đã được ban hành để hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL triển khai Luật tài nguyên nước, gồm: Nghị định số 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước 2012 [53], Nghị định số 43/2015/NĐ- CP về lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước [60] và Nghị định số 54/2015/NĐ- CP quy định về ưu đãi đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả [61]. Bộ TNMT ban hành Thông tư quy định về cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước thải vào nguồn nước, Thông tư quy định điều kiện năng lực của đơn vị thực hiện điều tra cơ bản về tài nguyên nước, đơn vị tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước.

Ngoài ra, yêu cầu quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả, tác hại do ô nhiễm nước gây ra còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật có liên quan như: Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thủy lợi năm 2001; Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 của Chính phủ quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước [62]. Bộ TNMT cũng ban hành thông tư số 27/2014/TT-BTNMT ngày 30/5/2014 quy định việc đăng ký khai thác nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nước trong đó cũng quy định rõ trong khoản đ) mục 1 điều 4: “làng nghề đã được đấu nối với hệ thống cấp nước tập trung và bảo đảm cung cấp nước ổn định cả về số lượng và chất lượng” là khu vực “phải đăng ký khai thác nước dưới đất” [26].

Ở các tỉnh ĐBSH, các Sở TNMT đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn quản lý tài nguyên nước ở địa phương. Điển hình như:

Page 72: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

67

UBND tỉnh Hà Nam ra quyết định số 349/2000/QĐ-UB ngày 27/4/2000 về việc ban hành quy định bảo vệ nguồn nước, các công trình cấp nước, quản lý, khai thác, cung cấp, sử dụng nước đô thị tỉnh Hà Nam [132]; Chỉ thị số 13/2006/CT-UBND ngày 18/5/2006 về việc tăng cường công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trên địa bàn tỉnh [133]. UBND tỉnh Hải Dương ra Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 19/11/2008 về việc ban hành Quy định về BVMT ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong đó điều 8 quy định rõ việc khai thác và sử dụng nguồn nước dùng cho sinh hoạt, sản xuất trên địa bàn tỉnh [136]. Hội đồng nhân dân (HĐND) thành phố Hải Phòng ban hành nghị quyết số 33/2014/NQ-HĐND về thông qua quy hoạch tài nguyên nước thành phố Hải Phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [80]; Nghị quyết số 23/2013/NQ-HĐND về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013 - 2020 [79]. UBND tỉnh Hưng Yên cũng ban hành quyết định số 07/2010/QĐ-UBND ngày 12/4/2010 về việc quy định mức thu, quản lý và sử dụng lệ phí địa chính, lệ phí cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng nước dưới đất, nước mặt, xả nước thải [137] và quyết định số 1844/QĐ-UBND ngày 19/10/2012 về việc thành lập Ban điều hành Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2012 - 2015 [132]. UBND tỉnh Ninh Bình ra công văn số 220/UBND-VP3 về việc tổ chức thực hiện Kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể BVMT lưu vực sông Nhuệ - Đáy đến năm 2020 [139]; Kế hoạch số 65/KH-UBND ngày 18/8/2015 về việc lập và quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. UBND tỉnh Quảng Ninh cũng ra quyết định số 3594/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2020, định hướng đến năm 2030 [140]. UBND tỉnh Vĩnh phúc ra quyết định số 45/2008/QĐ-UBND ngày 25/9/2008 về việc ban hành Quy định về quy mô khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trong phạm vi hộ gia đình không phải xin phép và trường hợp không phải xin phép nhưng phải đăng ký trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc [141]. Sở TNMT tỉnh Nam Định đã ra quyết định số 2352/QĐ-STNMT ngày 13/12/2013 về việc ban hành Kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2014 của Sở TNMT trong đó có kiểm tra việc thực hiện Luật Tài nguyên nước của các địa phương trên địa bàn tỉnh [102]; Kế hoạch số 30/KH-STNMT ngày 9/3/2014 về việc thực hiện công tác tuyên truyền về tài nguyên và môi trường năm 2014, trong đó có tuyên truyền phổ biến Luật Tài nguyên nước 2012, lập quy hoạch bảo vệ Tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 và tổ chức tuyên truyền việc thực hiện.

Page 73: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

68

Ở cấp độ liên vùng Ủy ban BVMT lưu vực sông Nhuệ - Đáy đã ra quyết định số 02/QĐ-UBSNĐ ngày 5/3/2013 ban hành quy chế quản lý, chia sẻ thông tin, dữ liệu môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy trên cổng thông tin điện tử [128].

Thứ ba là, trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước: Công tác thanh tra, kiểm tra được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

công tác quản lý tài nguyên nước. Hàng năm, cấp Trung ương và các tỉnh ĐBSH đều xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra định kỳ tình hình triển khai, thi hành pháp luật về tài nguyên nước, việc chấp hành các quy định của pháp luật về tài nguyên nước tại một số cơ sở làng nghề có khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước trên địa bàn các tỉnh ĐBSH. Bộ TNMT đã tổ chức đợt thanh tra các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước của các tổ chức, cá nhân có hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng nước dưới đất tại các tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định. Các địa phương tỉnh ĐBSH cũng tích cực triển khai thanh tra, kiểm tra hàng loạt các tổ chức, cá nhân, cơ sở sản xuất làng nghề trên địa bàn tỉnh. Qua công tác thanh tra đã phát hiện nhiều hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước [30].

3.2.1.2. Thực hiện pháp luật về bảo vệ đất đai và tài nguyên đất trong môi trường làng nghề

* Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, trong công tác chỉ đạo và kiểm soát ONMT đất ở các làng nghề: Cho đến nay, công tác phòng ngừa và kiểm soát ONMT đất ở các làng nghề tỉnh

ĐBSH được thực hiện tương đối tốt thông qua việc tổ chức xây dựng và hướng dẫn triển khai các văn bản về kiểm soát ONMT đất, kiểm soát phát thải hóa chất nguy hại; hướng dẫn áp dụng và đánh giá hiệu quả của hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường trên địa bàn các tỉnh ĐBSH.

Ủy ban nhân dân và Sở TNMT các tỉnh ĐBSH đã quyết liệt chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận, tập trung xây dựng hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai ở các làng nghề; đã quan tâm và kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình chuyển tiếp thi hành Luật Đất đai, không để ách tắc gây phiền hà cho các cơ sở sản xuất và người dân ở các làng nghề. Điển hình như tỉnh Bắc Ninh, thực hiện quyết định số 551/QĐ-UBND ngày 29/12/2014 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu thương mại, dịch vụ làng nghề tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 [130], Sở TNMT Bắc Ninh đã tiến hành rà soát, phân loại xử lý các khu thương mại, dịch vụ làng nghề đối với những dự án chậm tiến độ, vi phạm chỉ giới xây dựng về đất đai, quy hoạch xây dựng, môi trường và những tồn tại, vi phạm các quy định khác của pháp luật. Sở cũng đã chủ trì, hướng dẫn UBND cấp huyện lập kế hoạch sử dụng đất trong các khu dịch vụ, sản xuất làng nghề; hướng dẫn

Page 74: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

69

chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu thương mại, dịch vụ làng nghề thực hiện đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và mục đích sử dụng đất đã được giao.

Thứ hai là, trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ đất đai và tài nguyên đất:

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ đất đai và tài nguyên đất ở các tỉnh ĐBSH cũng được chú trọng. Toàn ngành đã tập trung tổ chức tuyên truyền hiệu quả pháp luật về đất đai bằng nhiều hình thức khác nhau, tạo điều kiện để đưa Luật Đất đai vào cuộc sống và nâng cao ý thức của người dân về BVMT đất và tài nguyên đất.

Tại địa phương, 11/11 tỉnh, thành phố vùng ĐBSH đã triển khai công tác phổ biến Luật Đất đai và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật rộng rãi đến mọi đối tượng trong đó có các cơ sở và cá nhân tham gia sản xuất nghề với những nội dung thiết thực và hình thức phù hợp, được các Bộ, ngành, các địa phương và được dư luận nhân dân đánh giá cao, qua đó đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật đất đai của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất [28].

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, trong công tác xây dựng thể chế và các văn bản QPPL: Từ khi Luật BVMT ra đời năm 1993 đến nay, hệ thống các văn bản QPPL về

BVMT đã liên tục được bổ sung, hoàn thiện. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cũng đã nhanh chóng được Chính phủ, các Bộ, ngành và các tỉnh ĐBSH ban hành để cụ thể hóa, tạo ra hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ về BVMT đất. Đặc biệt, sau khi Bộ TNMT được thành lập (8/2002), thì hệ thống các văn bản QPPL về BVMT được quan tâm nhiều hơn, trong đó có môi trường Đất. Nhờ vậy, pháp luật BVMT Đất đã đạt được những bước phát triển đáng kể. Cụ thể, từ năm 1993 đến nay, các văn bản QPPL đặc thù về bảo vệ tài nguyên Đất đã có bước phát triển về chất, cả về nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối đầy đủ các hành vi, mối quan hệ phát sinh trong quá trình BVMT; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; các thành tố tạo nên môi trường được đặt trong phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật BVMT. Pháp luật BVMT Đất ở nước ta đã thể hiện khá rõ nét nguyên tắc đặc thù của sự nghiệp BVMT đó là lấy thuyết phục, giáo dục, răn đe, phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường làm biện pháp chính ưu tiên áp dụng. Trong lĩnh vực BVMT đất tại các làng nghề vùng ĐBSH, để thực hiện tốt định hướng này, Nhà nước đã đề cao trách nhiệm không những của các cơ quan quản lý mà còn của các chủ thể tham gia sản xuất làng nghề và mỗi công dân trong việc BVMT, đồng thời thiết kế một hệ thống các biện pháp và trách nhiệm pháp lý mà các chủ thể phải gánh chịu khi vi phạm pháp luật về BVMT.

Page 75: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

70

Pháp luật BVMT Đất ở nước ta cũng đã giải quyết tương đối tốt mối quan hệ giữa Luật BVMT nói chung và các văn bản QPPL liên quan đến BVMT Đất, về cơ bản đã bảo đảm sự thống nhất trong đa dạng, trong sự liên kết khá chặt chẽ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ Luật BVMT năm 2014 cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã giữ được vai trò là trung tâm, là hạt nhân của hệ thống pháp luật BVMT. Luật BVMT đã quy định bao quát việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và các thành tố của môi trường nói chung mà không phụ thuộc vào các thành tố đó là loại tài nguyên thiên nhiên nào, do ai sử dụng và mục đích sử dụng của từng thành tố môi trường.

Việc trình ban hành các Nghị định, Thông tư, ngay khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành là một bước tiến quan trọng thể hiện quyết tâm cao và những cố gắng, nỗ lực của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức của Bộ TNMT nói chung, của Tổng cục Quản lý đất đai nói riêng. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 về Phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó quy định một số nội dung liên quan đến BVMT đất như: các dự án đầu tư đòi hỏi nghiêm ngặt về xử lý ONMT, bảo đảm yêu cầu nghiên cứu, sản xuất sản phẩm mới thì được ưu tiên giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất tại các khu, cụm công nghiệp tập trung; các cơ sở làng nghề ở nông thôn di dời ra khỏi khu dân cư đến địa điểm quy hoạch được ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất và hỗ trợ kinh phí để di dời [41].

Việc cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai cũng đươc quan tâm và chú trọng. Cả ở Trung ương và các tỉnh ĐBSH đã tập trung quyết liệt để xây dựng và công bố bộ thủ tục hành chính về đất đai theo hướng cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các cơ sở ở làng nghề khi thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai.

Thứ hai là, trong công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT đất và giải quyết khiếu nại, tố cáo:

Những năm gần đây, công tác kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng đất ở các làng nghề trên địa bàn các tỉnh ĐBSH đã được chú trọng, tăng cường nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật đất đai của các cơ sở được nhà nước giao đất, cho thuê đất. Ngoài các đợt thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch định kỳ, các cơ quan quản lý cũng đã tiến hành một số đợt thanh tra, kiểm tra đột xuất về BVMT đất nhằm nâng cao ý thức của người dân về BVMT. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TNMT đã quan tâm, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật về BVMT Đất, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên và đã tập trung lực lượng để giải quyết dứt điểm vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm và các vụ việc tồn đọng, kéo dài [28].

Page 76: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

71

Giữa Bộ và các tỉnh ĐBSH cũng đã có sự phối hợp tích cực trong triển khai thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra chuyên đề diện rộng việc chấp hành pháp luật BVMT đất và tài nguyên đất tại các làng nghề, qua đó đã tác động tích cực, làm chuyển biến nhận thức, nâng cao trách nhiệm trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tài nguyên và môi trường, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự và BVMT. Một số tỉnh, thành phố vùng ĐBSH đã chủ động có văn bản hoặc trực tiếp làm việc với Bộ TNMT để trao đổi, xin ý kiến về các vướng mắc trong giải quyết vụ việc phức tạp, tạo sự đồng thuận cao trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, xung đột về môi trường, đất đai.

Tại Bắc Ninh, Công văn số 2361/UBND-TNMT của UBND tỉnh Bắc Ninh ngày 31/8/2015 giao Sở TNMT xem xét, tham mưu thực hiện các nội dung về “tăng cường kiểm tra, giám sát và xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá đối với hoạt động, quản lý sử dụng đất đai” theo chỉ đạo của Bộ TNMT [131]. Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh, ngày 24/8/2006 Sở TNMT có Công văn số 360/CV-TNMT triển khai các Sở, Ngành có liên quan và UBND các huyện kiểm tra tình hình sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư theo đúng các yêu cầu và hướng dẫn của Bộ TNMT, báo cáo về UBND tỉnh và Sở TBMT để tổng hợp báo cáo Bộ TNMT.

Tại tỉnh Hà Nam, thực hiện Chỉ thị số 968/UBND-CT ngày 12/6/2013 về việc tăng cường công tác quản lý xây dựng, sử dụng đất đai tại các cụm TTCN làng nghề trên địa bàn tỉnh [134], UBND các huyện, thành phố đã tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn; tiến hành kiểm tra, xử lý kiên quyết, dứt điểm những vi phạm pháp luật đất đai và các nội dung liên quan đối với các hộ sản xuất làng nghề chậm đầu tư sản xuất kinh doanh, để đất đai lãng phí, gây ONMT đất...

3.2.1.3. Thực hiện pháp luật về bảo vệ không khí trong môi trường làng nghề * Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, từng bước khắc phụ ô nhiễm không khí từ các hoạt động sản xuất

làng nghề: Với vai trò là cơ quan đầu mối triển khai Đề án, năm 2013 Bộ TNMT đã triển

khai một số hoạt động gồm: công bố danh mục 47 làng nghề ONMT nghiêm trọng (trong đó có 34/47 làng nghề gây ô nhiễm trực tiếp tới môi trường không khí) cần xử lý; chuẩn bị xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường làng nghề; tổ chức thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất tại các làng nghề tái chế, giết mổ gia súc và làng nghề gây ONMT nghiêm trọng; xây dựng các Hướng dẫn kỹ thuật về xử lý khí thải cho các cơ sở thuộc một số loại hình làng nghề.

Page 77: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

72

Thứ hai là, triển khai các giải pháp xanh nhằm giảm thiểu khí thải hiệu ứng nhà kính, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu:

Tháng 9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh (Quyết định số 1393/QĐ-TTg) trong đó đã đề ra 3 nhiệm vụ quan trọng là: giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản xuất; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược, các chương trình, dự án ưu tiên về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2015 (ban hành kèm theo Quyết định phê duyệt Chiến lược) đã và đang được triển khai ở các làng nghề theo đúng lộ trình đặt ra như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức, khuyến khích hỗ trợ thực hiện; nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong các hoạt động sản xuất thông qua đổi mới công nghệ, áp dụng quy trình quản lý, vận hành tiên tiến; thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong sản xuất theo hướng giảm năng lượng từ nguồn nhiên liệu hóa thạch, khuyến khích sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; rà soát, điều chỉnh quy hoạch các ngành nghề sản xuất, đặc biệt là những ngành nghề tác động nhiều tới tài nguyên, môi trường;…

Cùng với tăng trưởng xanh, phát triển phát thải cacbon thấp là vấn đề căn bản và cốt lõi của phát triển phát thải thấp. Năm 2012, Việt Nam cũng là một trong 4 quốc gia được chọn tham gia dự án thúc đẩy Chiến lược phát triển Cacbon thấp. Theo Chiến lược, mục tiêu giai đoạn 2011-2020, Việt Nam sẽ giảm cường độ phát thải khí thải nhà kính từ 8 đến 10% so với năm 2010, giảm lượng phát thải khí thải nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10 đến 20%, tiến tới xây dựng một nền kinh tế cacbon thấp, phát triển kinh tế bền vững đi đôi với tăng trưởng xanh [24].

Thứ ba là, tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động quan trắc môi trường không khí: Giai đoạn 2007-2012, các chương trình quan trắc, giám sát chất lượng môi trường

không khí ở các tỉnh ĐBSH, trong đó có khu vực các làng nghề, vẫn tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh, cung cấp số liệu kịp thời, phục vụ các nhà quản lý, hoạch định chính sách ở Trung ương cũng như các tỉnh ĐBSH trong việc ban hành các quyết định, chính sách, chiến lược,…

11/11 tỉnh thành phố vùng ĐBSH đã thành lập trung tâm Quan trắc môi trường (trực thuộc sở TNMT hoặc Chi cục BVMT) với chức năng đầu mối liên khai các chương trình quan trắc của địa phương, trong đó có chương trình quan trắc môi trường không khí với tần suất 3-12 đợt/năm tùy theo kế hoạch và kinh phí của từng địa phương. Các chương trình này bước đầu cũng cho thấy những kết quả tích cực trong công tác giám sát chất lượng môi trường không khí ở các làng nghề, phục vụ công tác quản lý môi trường làng nghề của địa phương. Ngoài ra, các chương trình quan trắc

Page 78: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

73

phát thải khí cũng đã và đang được duy trì tại một số cơ sở sản xuất, làng nghề phục vụ công tác báo cáo định kỳ của cơ sở sản xuất đối với các cơ quan quản lý môi trường (sử dụng để tính toán chỉ số chất lượng không khí, phục vụ xây dựng các báo cáo đánh giá chất lượng môi trường phục vụ các đề tài nghiên cứu khoa học, sử dụng để công bố thường xuyên và rộng rãi cho cộng đồng trên các trang thông tin điện tử [24].

Cũng trong thời gian qua, hệ thống quan trắc môi trường không khí tự động liên tục đã và đang triển khai, lắp đặt và vận hành ở một số tỉnh vùng ĐBSH như Hà Nội, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc. Ngoài hệ thống trạm quan trắc không khí tự động liên tục cố định, một số địa phương cũng đã đầu tư xe quan trắc không khí tự động di động. Hệ thống này cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát chất lượng không khí đối với các khu vực không có hệ thống điểm, trạm quan trắc không khí thường xuyên như các khu dân sinh, làng nghề.

Sau một thời gian triển khai Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29/1/2007 về Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020, một số tỉnh ĐBSH đã xây dựng Quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường không khí cho địa phương, điển hình là tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh đã phê duyệt đề án điều tra, đánh giá tải lượng khí thải trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, kinh phí 1,653 tỷ đồng với mục tiêu xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia, các báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh và các báo cáo môi trường của các ngành, lĩnh vực, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược BVMT không khí từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý Nhà nước về BVMT bền vững của tỉnh hàng năm và 05 năm.

* Về sử dụng pháp luật: Trong thời gian qua, sự tham gia của cộng đồng trong quá trình ĐTM của các dự

án, nhà máy, cơ sở sản xuất làng nghề, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quản lý môi trường,... đã góp phần đáng kể trong việc củng cố ý thức của các cơ sở sản xuất trong hoạt động BVMT ở các tỉnh ĐBSH. Ở khu vực nông thôn, Chương trình BVMT trong xây dựng nông thôn mới đã được triển khai ở nhiều địa phương ĐBSH và thu hút được nhiều kết quả tích cực. Người dân tại các khu vực nông thôn khi được huy động đều tham gia nhiệt tình đối với các phong trào, tham gia xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy ước về BVMT. Các cấp Hội Nông dân tổ chức thường xuyên các cuộc thi, chương trình giao lưu, tìm hiểu, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm về: nguyên nhân và tác hại của ONMT không khí, biến đổi khí hậu, sự suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái rừng; những lợi ích mang lại từ hệ sinh thái rừng. Qua đó, hướng dẫn mọi người tự giác hạn chế sử dụng tài nguyên không tái tạo; tự giác tham gia các hoạt động phong trào BVMT trong đó có BVMT không khí...

Page 79: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

74

Việc công bố, phổ biến thông tin về chất lượng môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng cho cộng đồng cũng đã được triển khai dưới nhiều hình thức. Các hình thức công bố, phổ biến thông tin cũng được đa dạng hóa trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển như các hình thức công bố thông tin trực tuyến, bảng điện tử, các trang thông tin điện tử... Từ năm 2011, Tổng cục Môi trường đã duy trì việc công bố chất lượng môi trường không khí của thành phố Hà Nội thông qua chỉ số chất lượng không khí (AQI) trên trang thông tin điện tử và có những khyến cáo về mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe con người [24].

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về BVMT không khí: Trong hệ thống văn bản QPPL hiện hành, từ Luật cho đến các văn bản dưới Luật

đều có những nội dung quy định về bảo vệ và kiểm soát ONMT không khí. Luật BVMT 2014 và các văn bản dưới Luật đều yêu cầu các dự án phải thực hiện ĐTM, báo cáo giám sát môi trường không khí. Đối với ĐTM, đã có những hướng dẫn kỹ thuật, chi tiết đối với công tác ĐTM của một số ngành cụ thể như vật liệu xây dựng xi măng, thép,... là những ngành có lượng khí, bụi thải phát tán vào môi trường lớn. Qua đó, góp phần tăng cường kiểm soát ONMT không khí. Các văn bản dưới Luật quy định về BVMT cũng đã đề cập đến kiểm soát và bảo vệ không khí của các khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề, trong đó, có quy định đối với hoạt động quan trắc, giám sát khí thải.

Qua một thời gian thực hiện, nhiều nội dung của Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020 đã không còn phù hợp. Chính vì vậy, theo phân công nhiệm vụ cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực BVMT [57], một trong những nhiệm vụ quan trọng đó là việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg theo hướng tăng cường năng lực của các trạm quan trắc môi trường không khí và môi trường nước. Hiện nay, Quyết định sửa đổi, bổ sung cho Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng đang trong quá trình thẩm định, chuẩn bị ban hành.

Tại địa phương các tỉnh ĐBSH, ngày 23/1/2014 UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ra quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ban hành Quy định về BVMT nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc [142] trong đó có quy định rất rõ trách nhiệm của các hộ gia đình, cá nhân tham gia kinh doanh, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nhỏ (mộc, rèn, sản xuất đồ gốm,...) phải có trách nhiệm “Áp dụng các biện pháp kiểm soát hoặc thu gom, xử lý khí thải độc hại, bụi, tiến ồn đảm bảo theo quy định”.

Page 80: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

75

Thứ hai là, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về BVMT không khí đã đi vào hoạt động ổn định và không ngừng được nâng cao năng lực:

Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đã được hình thành và đi vào hoạt động ổn định nhiều năm nay từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH, trong đó bao gồm cả tổ chức quản lý môi trường không khí. Cơ cấu tổ chức quản lý đã có sự phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành và địa phương. Theo đó, Bộ TNMT đã phát huy vai trò là cơ quan đầu mối quản lý các vấn đề liên quan đến BVMT không khí; xây dựng và trình Chính phủ ban hành các Chiến lược, văn bản QPPL về BVMT, trong đó có BVMT không khí. Bộ cũng đã thực hiện vai trò đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành khác xây dựng và triển khai các đề án, chương trình khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, chương trình kinh tế xanh, sản xuất sạch hơn, sản xuất và tiêu thụ bền vững; Kế hoạch hành động quốc gia về kiểm soát ONKK; phối hợp với một số ngành ban hành các tiêu chuẩn thải; tổ chức các chương trình thanh tra, kiểm tra công tác BVMT của các chủ nguồn thải...

Vấn đề tăng cường năng lực cho hệ thống quan trắc môi trường nói chung, quan trắc tự động nói riêng cũng đã được đề cập trong các văn bản pháp lý quan trọng như Nghị quyết số 35/NQ-CP [57], Nghị quyết số 24/NQ-TW… Đặc biệt, trong năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/2013/NĐ-CP [54] nhằm đẩy mạnh việc quản lý và đảm bảo năng lực của các đơn vị, tổ chức tham gia hoạt động quan trắc môi trường trên toàn quốc.

Thứ ba là, rà soát và ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường không khí:

Theo quy định của Luật BVMT, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, từ năm 2008, Bộ TNMT cùng với các Bộ ngành có liên quan đã tiến hành rà soát, chuyển đổi hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về môi trường, trong đó bao gồm các quy chuẩn liên quan đến chất lượng không khí. Có thể đánh giá, đây là một trong số những giải pháp đề xuất đã được triển khai thực hiện và mang lại kết quả khá tốt. Năm 2011, Bộ TNMT đã ban hành quy trình kỹ thuật quan trắc môi trường không khí xung quanh nhằm thống nhất việc xây dựng và thực hiện các chương trình quan trắc môi trường không khí cấp quốc gia và địa phương. Cùng với đó, các QCKT quốc gia đã được xây dựng và ban hành, đặc biệt là quy chuẩn cho một số ngành đặc thù; các ngưỡng của quy chuẩn đã được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế và tương đồng với các tiêu chuẩn, quy chuẩn của quốc tế.

Hệ thống các quy chuẩn quốc gia mới đã bổ sung thêm một số thông số đặc trưng (như bụi PM2,5, Dioxin) trong quy chuẩn chất lượng không khí xung quanh; xây dựng quy chuẩn khí thải đối với một số lĩnh vực đặc thù như sản xuất vật liệu xây dựng xi

Page 81: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

76

măng, phân bón hóa học, rèn đúc thép, lò đốt chất thải,... Đây là một trong những bước chuyển đổi và cải thiện đáng kể đối với hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam nhằm bám sát và đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra. Hiện nay, hệ thống quy chuẩn này vẫn đang được tiếp tục xây dựng, bổ sung và rà soát điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu trong giai đoạn mới.

Nhằm thắt chặt việc kiểm soát ONMT không khí đối với Hà Nội, Luật Thủ đô (điều 14, khoản 3) cũng đã có quy định: Bộ TNMT có trách nhiệm ban hành quy chuẩn môi trường đối với nước thải, khí thải và tiếng ồn trên địa bàn Thủ đô nghiêm ngặt hơn so với QCKT môi trường quốc gia. Hiện nay, 05 bộ QCKT về môi trường áp dụng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội (trong đó có 02 quy chuẩn về khí thải đối với bụi và chất vô cơ; khí thải công nghiệp sản xuất xi măng) đã hoàn thiện và ban hành ngày 5/9/2014 (Thông tư số 51/2014/TT-BTNMT). Theo đó, các quy chuẩn này đều thắt chặt hơn so với QCKT quốc gia về ngưỡng giới hạn cho phép đối với các thông số.

Thứ tư là, trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí:

Hàng năm, từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH đều xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra định kỳ tình hình triển khai, thi hành pháp luật về BVMT không khí, việc chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT không khí tại một số cơ sở sản xuất trên địa bàn các tỉnh ĐBSH [24]. Nhìn chung, thông qua công tác thanh tra, kiểm tra cho thấy tình hình chấp hành pháp luật về BVMT của các cơ sở đã có chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn còn nhiều cơ sở vi phạm pháp luật về BVMT không khí, trong đó tập trung vào các nhóm hành vi: thực hiện không đúng các nội dung báo cáo ĐTM, cam kết BVMT đã được phê duyệt, xác nhận; xả khí thải không đạt QCKT về môi trường; kê khai thiếu hoặc trốn phí BVMT đối với chất thải gây ONMT không khí và các loại phí môi trường khác.

3.2.1.4. Thực hiện pháp luật về quản lý các chất thải trong môi trường làng nghề * Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, trong công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành đối với quản lý các chất

thải trong môi trường làng nghề: Tại các tỉnh ĐBSH, các cơ quan quản lý các cấp đã tích cực tổ chức, chỉ đạo, điều

hành việc quản lý chất thải trên địa bàn toàn tỉnh. Tiêu biểu như tại Bắc Ninh, UBND các thành phố, huyện, thị xã chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn đã tiến hành lập và phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất cấp xã và Quy hoạch nông thôn mới nhưng chưa bố trí điểm tập kết rác thải nông thôn và khu xử lý CTR sinh hoạt tập trung cấp huyện, yêu cầu lập điều chỉnh, bổ sung, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo đúng quy định; Lập dự án đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý CTR sinh hoạt - Khu xử lý CTR sinh

Page 82: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

77

hoạt tập trung, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; Lập Báo cáo ĐTM của dự án trình Sở TNMT phê duyệt. Sở Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan đã xây dựng Hướng dẫn quy trình lấy ý kiến của nhân dân đối với Quy hoạch quản lý CTR đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Các Sở TNMT, Sở Xây dựng, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở KHCN theo chức năng hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố thực hiện việc lập và điều chỉnh các quy hoạch; việc chọn công nghệ xử lý CTR sinh hoạt không ONMT; việc lập dự án đầu tư; việc lập báo cáo ĐTM theo đúng quy định. UBND tỉnh chỉ đạo Sở TNMT hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố tiến hành phun chế phẩm vi sinh để xử lý mùi, đẩy nhanh quá trình phân huỷ rác, tăng diện tích sử dụng tại điểm tập kết; Sở Tài chính hướng dẫn thanh quyết toán kinh phí phun chế phẩm vi sinh. Ngoài ra, cũng tiến hành tổ chức thu phí BVMT đối với chất thải (nước thải, CTR) theo quy định, tổ chức thu phí BVMT đối với chất thải của các cơ sở trong làng nghề theo quy định.

Thứ hai là, trong công tác kiểm soát và xử lý chất thải trong môi trường làng nghề: Quá trình kiểm soát chất thải ở các làng nghề ĐBSH, từ khâu phát sinh, thu gom,

vận chuyển, lưu giữ và xử lý chất thải, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tiêu biểu là các tỉnh thành sau:

Tại Hà Nội, rác thải sinh hoạt được thu gom bằng xe đẩy tay rồi được chuyển đến các điểm hoặc thùng chứa quy định, cuối cùng được chuyển đến các bãi chôn lấp. Ở nhiều nơi công cộng như công viên, nhà ga,... có nhiều thùng gom rác có thể tích lớn (3,5 - 6,5 m3).

Tại Bắc Ninh, các thị xã, huyện và thành phố đã tích cực chỉ đạo địa phương tổ chức phun chế phẩm vi sinh, thu gom, đánh đống rác thải tại các điểm tập kết, kéo dài được thời gian sử dụng điểm tập kết. Hiện nay, toàn tỉnh có 550 điểm tập kết, hầu hết đều hoạt động có hiệu quả, chỉ còn 09 điểm đã xây dựng xong nhưng chưa đưa vào hoạt động do đường vào khó khăn. Tỉnh cũng đã cho triển khai đầu tư xây dựng: hệ thống xử lý nước thải tập trung làng nghề sản xuất giấy Phong Khê quy mô giai đoạn 1 là 5.000 m3/ngày đêm; hệ thống xử lý nước thải đối với 03 làng nghề: tái chế nhôm Mẫn Xá, làm bún Khắc Niệm và đúc đồng Đại Bái; hệ thống xử lý nước thải tập trung làng nghề sản xuất giấy Phong Khê giai đoạn 2 là 5.000 m3/ngày đêm. Triển khai thí điểm mô hình xử lý khí thải đối với làng nghề tái chế nhôm Mẫn Xá và đúc đồng Đại Bái, lập Dự án đầu tư xử lý môi trường đối với làng nghề tái chế thép Đa Hội và đúc đồng Quảng Bố. Sở KHCN đã chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan thực hiện hỗ trợ các giải pháp kỹ thuật xử lý chất thải, áp dụng công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, các giải pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng. UBND các thành phố, huyện, thị xã đã lập và thực hiện kế hoạch di dời hoặc chuyển đổi ngành

Page 83: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

78

nghề sản xuất đối với một số cơ sở sản xuất làng nghề thuộc nhóm B và nhóm C- không đầu tư, áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt QCKT quốc gia về môi trường tương ứng; quản lý chặt chẽ hoạt động của các cơ sở trong làng nghề, không cho phép hình thành mới các cơ sở nhóm B hoặc nhóm C trong khu vực dân cư nông thôn. Định kỳ báo cáo UBND cấp tỉnh (thông qua Sở TNMT) về hiện trạng hoạt động, tình hình phát sinh và xử lý chất thải của làng nghề trên địa bàn theo quy định [129].

Tỉnh Hà Nam, sau 1 năm triển khai, thực hiện Quyết định số 26/2013/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về quy định công tác tổ chức quản lý thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh [135], đã đạt được những kết quả nhất định, cơ bản thu gom, xử lý được toàn bộ tải lượng CTR sinh hoạt phát sinh trong tỉnh. Cho đến thời điểm hiện tại, tỉnh Hà Nam đã có 02 làng nghề (Nha Xá và Hòa Hậu) đã lập dự án và đang triển khai các hoạt động xây dựng khu sản xuất tập trung và trạm xử lý nước thải tập trung (tổng kinh phí 102124,3 triệu đồng).

Thứ ba là, trong công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo về quản lý và xử lý chất thải trong môi trường làng nghề:

Để nâng cao việc xử lý chất thải trong các làng nghề, công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo về quản lý và xử lý chất thải trong môi trường làng nghề tại các tỉnh ĐBSH đã được tiến hành khá thường xuyên và bước đầu đã thu được những kết quả tích cực, tiêu biểu như một số tỉnh, thành sau:

Tại Bắc Ninh, Sở TNMT đã phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến các tổ chức và cá nhân trong các làng nghề về công tác phân loại và xử lý CTR bằng hình thức phù hợp ngay tại nguồn nhằm hạn chế phát sinh nhiều rác; phối hợp với Báo Bắc Ninh xây dựng các chuyên đề tuyên truyền về phân loại rác thải tại nguồn; phối hợp với Đài Phát thành và Truyền hình tỉnh tổ chức Tọa đàm với chủ đề “Cộng đồng tham gia phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn” với sự tham gia của lãnh đạo Ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh, Sở TNMT và UBND phường Ninh Xá. Tổ chức thường xuyên các khóa đào tạo, tập huấn về quản lý môi trường cho cán bộ các cấp làm công tác quản lý môi trường làng nghề; các khóa đào tạo, tập huấn về xử lý chất thải và BVMT cho các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất trong làng nghề.

Tại tỉnh Hà Nam, Sở TNMT phối hợp với Tổng cục Môi trường, các đơn vị ký Nghị quyết liên tịch trên địa bàn tỉnh, tiến hành tổ chức các lớp tập huấn phổ biến các văn bản liên quan đến pháp luật về BVMT cho các cơ sở sản xuất làng nghề, cán bộ phòng TNMT và các cán bộ địa chính cấp xã. Năm 2013, Chi cục BVMT đã cử cán bộ chuyên môn tham gia giảng dạy tại 07 hội nghị, hội thảo do Sở Công thương, Tỉnh Đoàn, Hội Cựu chiến binh, Ủy ban mặt trận Tổ quốc tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh chủ trì tổ chức tập huấn về công tác BVMT. Tổ chức hội nghị tập huấn Nghị định số 25/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 quy định về thu phí BVMT đối với nước thải [56] và

Page 84: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

79

các văn bản hướng dẫn thu phí cho UBND các huyện, thành phố và các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ quản lý chất thải nguy hại cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất thải nguy hại tại các bộ, ngành và các tỉnh ĐBSH cũng như tại các cơ sở có chức năng thu gom, vận chuyển, tồn trữ, xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại được chú trọng thực hiện trong thời gian qua.

Thứ tư là, sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước đã mang lại những đóng góp không nhỏ trong công tác quản lý và xử lý chất thải:

Ở hầu hết các địa phương, công ty môi trường đô thị (URENCO) là doanh nghiệp nhà nước, chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý, thu gom và xử lý CTR đô thị của địa phương. Tùy thuộc theo quy định của từng địa phương, chức năng, nhiệm vụ của URENCO có thể được quy định khác nhau. URENCO có thể chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ hoạt động quản lý CTR hoặc chỉ chuyên trách một số công đoạn như chuyên vận chuyển hoặc chuyên xử lý,...

Ngoài URENCO, tham gia công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải ở địa phương còn có các đơn vị khác dưới hình thức là các Công ty nhà nước, Công ty cổ phần hay các Hợp tác xã hoặc Xí nghiệp môi trường trực thuộc UBND các quận, huyện, hoặc các công ty tư nhân. Chính sự tham gia tích cực của khối các đơn vị này đã giúp cho công tác quản lý CTR đô thị đạt được hiệu quả khá tốt trong những năm gần đây. Điển hình như Hà Nội, công tác thu gom vận chuyển CTR do công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường đô thị quản lý chung. Công ty chịu trách nhiệm thu gom phần lớn lượng CTR của thành phố, còn lại là các đơn vị môi trường đô thị của các quận, huyện, các hợp tác xã vận tải công nông và một số công ty tư nhân thu gom vận chuyển (như Công ty cổ phần dịch vụ môi trường Thăng Long, Công ty cổ phần Tây Đô, Công ty cổ phần Xanh, Hợp tác xã Thành Công,...). Tỷ lệ tham gia vào công tác thu gom vận chuyển chất thải sinh hoạt giữa các thành phần tư nhân và nhà nước ở thành phố Hà Nội đang dần được cải thiện theo hướng sẽ giảm sức ép đến URENCO và tăng hiệu quả quản lý CTR của tư nhân [21].

* Về sử dụng pháp luật: Trong những năm gần đây, người dân đã tích cực tham gia vào các hoạt động của

quản lý môi trường, được tham gia trực tiếp vào các bước trong dự án, được chủ động đưa ra các đề xuất, được giám sát quá trình thực hiện và là người trực tiếp hưởng lời từ thành quả của dự án. Sự tham gia của cộng đồng làm tăng sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân đối với các quyết định của chính quyền, tăng cường vai trò của cộng đồng địa phương và tăng cường tính dân chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến xả thải chất thải.

Page 85: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

80

Ở các tỉnh ĐBSH, một số mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và BVMT làng nghề cũng đã được triển khai như các mô hình thu gom rác thải sinh hoạt dưới các hình thức tự quản do dân tự tổ chức, do xã, thôn tổ chức hoặc thành lập HTX dịch vụ vệ sinh môi trường. Đây là những mô hình tốt cần được tiếp tục nhân rộng để phát huy thế mạnh quản lý dựa vào cộng đồng dân cư. Một trong số những tỉnh, thành vùng ĐBSH có chính sách tốt, hỗ trợ cho các HTX môi trường triển khai việc huy động sự tham gia của cộng đồng trong BVMT, đặc biệt là trong hoạt động thu gom rác thải, tạo cảnh quan xanh cho nông thôn và đạt hiệu quả cao, phát triển mạnh mô hình HTX là tỉnh Vĩnh Phúc.

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL về quản

lý chất thải: Trong thời gian qua, các văn bản QPPL về BVMT nói chung và quản lý, xử lý

chất thải nói riêng đã được ban hành từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH và đang từng bước được hoàn thiện. Tính đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có một số lượng văn bản QPPL không nhỏ quy định về quản lý chất thải ở cấp Trung ương như: Luật BVMT 2014, Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ Tướng quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ [124], Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ban hành ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu [63], Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về việc quản lý chất thải nguy hại [31],... Các quy định được điều chỉnh đối với các vấn đề như quản lý CTR, chất thải nguy hại, nước thải, khí thải; cơ sở hạ tầng quản lý chất thải; quy hoạch quản lý CTR và nước thải; quy hoạch các công trình xử lý nước thải, khí thải, CTR; phí và lệ phí quản lý chất thải, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật và các TCVN, QCVN về môi trường. Việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn quốc gia về môi trường do Bộ KHCN chủ trì, việc xây dựng và ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải do Bộ TNMT chịu trách nhiệm. Hiện nay, Bộ TNMT đã nghiên cứu, xây dựng chuyển đổi hoặc ban hành nhiều QCKT quốc gia về môi trường, trong đó có các quy chuẩn thải và quy chuẩn chất lượng môi trường xung quanh. Bảng tổng hợp các Tiêu chuẩn/Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về môi trường được thể hiện trong phụ lục.

Đối với nước thải, ở cấp Trung ương đã ban hành các văn bản QPPL sau: Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 08/01/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải [45]; Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày 18/12/2003 của liên Bộ Tài chính - Bộ TNMT hướng dẫn thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải [16]; Thông tư liên tịch số

Page 86: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

81

106/2007/TTLT/BTC-BTNMT ngày 6/9/2007 sửa đổi, bổ sung thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày 18/12/2003 của liên Bộ Tài chính- Bộ TNMT hướng dẫn thực hiện nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải [15].

Đối với CTR và chất thải nguy hại, ở cấp Trung ương cũng đã ban hành các văn bản QPPL như: Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 về quản lý CTR [45]; Thông tư số 13/2007/TT-BXD ngày 31/12/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số điều của Nghị định số 59/2007/NĐ-CP [36]; Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí BVMT đối với CTR [46]; Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/05/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí BVMT đối với CTR [13]; Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/04/2011 của Bộ TNMT quy định về quản lý chất thải nguy hại [23].

Các tỉnh ĐBSH cũng đã triển khai những quy định tạm thời của địa phương mình về quản lý chất thải. Hầu hết các tỉnh đều đã có Quy hoạch tổng thể xây dựng bãi chôn lấp chất thải nguy hại cho các đô thị cấp tỉnh, cụ thể:

Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh ban hành: Quyết định số 31/2012/QĐ-UBND ngày 01/06/2012 Quy định quản lý CTR sinh hoạt khu vực nông thôn tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 105/2014/QĐ-UBND ngày 31/3/2014 Quy định quản lý CTR trên địa bàn tỉnh "Bắc Ninh"; Quyết định số 249/2014/QĐ-UBND ngày 03/06/2014 ban hành Quy chế BVMT làng nghề, khu dân cư, cụm công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong đó vấn đề quản lý và xử lý chất thải trong môi trường làng nghề cũng được quy định rất rõ như: UBND cấp xã có trách nhiệm quy hoạch khu tập kết CTR thông thường, chất thải nguy hại, bố trí trang thiết bị đáp ứng yêu cầu thu gom chất thải và phù hợp với việc phân loại chất thải tại nguồn phục vụ cho việc xử lý tập trung; các hộ gia đình, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong làng nghề, khu dân cư có trách nhiệm xử lý chất thải đảm bảo tiêu chuẩn thải.

Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam ban hành Quyết định số 26/2013/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về việc quy định công tác tổ chức quản lý thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 33/2010/QĐ-UBND ngày 12/10/2010 ban hành quy định về BVMT làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam, trong đó qu định rõ các cơ sở đang hoạt động trong làng nghề có phát sinh chất thải chưa có hệ thống xử lý môi trường phải xây dựng và vận hành thường xuyên hệ thống xử lý môi trường; nước thải tại các cơ sở sản xuất trong làng nghề phải được thu gom xử lý tại cơ sở đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn cho phép (hoặc chuyển về hệ thống xử lý nước thải tập trung) trước khi thải ra môi trường; CTR phải được phân loại tại nguồn và chuyển về khu tập kết CTR theo quy định về quản lý chất thải; CTR nguy hại phải được phân loại, thu gom, lưu giữ, xử lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại.

Page 87: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

82

Tại Hà Nội, UBND thành phố ban hành Quyết định số 03/2011/QĐ-UBND, ngày 25/01/2011 quy định mức hỗ trợ ảnh hưởng môi trường đối với các khu xử lý CTR trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 16/2013-QĐ-UBND ngày 3/6/2013 ban hành Quy định quản lý CTR thông thường trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 45/2014/QĐ-UBND ngày 20/8/2014 về việc thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Tại Hải Dương, UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 05/2007/CT-UBND ngày 26/02/2007 về việc nghiêm cấm xả nước thải không đạt tiêu chuẩn vào môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương; Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 19/11/2008 ban hành Quy định về BVMT ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Hải Dương, trong đó quy định rõ việc thu gom và xử lý chất thải.

Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐND về đổi mới công tác quản lý, xử lý CTR đô thị thành phố Hải Phòng giai đoạn 2005 - 2010; Nghị quyết số 09/2010/NQ-HĐND về nhiệm vụ, giải pháp thu gom, xử lý CTR ở nông thôn trên địa bàn thành phố giai đoạn 2010 – 2020.

Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 300/2QĐ-UBND ngày 1/2/2013 về việc phê duyệt quy hoạch quản lý CTR tỉnh Hưng Yên đến năm 2025; Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND ngày 16/8/2012 về việc quy định mức thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hưng Yên; Sở TNMT ra kế hoạch số 07/KH-STNMT ngày 22/4/2015 triển khai phân loại, xử lý rác thải hữu cơ tại hộ gia đình năm 2015 trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.

Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình có Công văn số 118/UBND-VP3 ngày 21/5/2014 về việc tăng cường công tác quản lý, thu gom, xử lý CTR sinh hoạt trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 245/QĐ-UBND ngày 9/4/2013 về việc phê duyệt Quy hoạch quản lý CTR tỉnh Ninh Bình đến năm 2030.

Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh ra Nghị quyết số 149/2014/NQ-HĐND ngày 31/5/2014 về việc quy định thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Quyết định số 673/QĐ-UBND ngày 11/3/2014 phê duyệt Quy hoạch quản lý CTR tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020; HĐND tỉnh Vĩnh Phúc ra Nghị quyết số 109/2013/NQ-HĐND ngày 20/12/2013 Về quy định thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

Thứ hai là, hệ thống tổ chức quản lý chất thải đang được kiện toàn và phân công trách nhiệm tương đối cụ thể từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH:

Ở cấp Trung ương, đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm đối với các bộ, ngành có liên quan đến công tác quản lý CTR, nước thải. Cụ thể là Bộ Xây dựng có trách nhiệm quản lý hoạt động xử lý CTR, nước thải tại các làng nghề và khu

Page 88: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

83

dân cư nông thôn tập trung; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành khác trong việc xử lý CTR và nước thải tại đô thị, khu sản xuất, dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn. Bộ NNPTNT có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc THPL về BVMT và các quy định có liên quan tới chất thải nông nghiệp; xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTR, nước thải cho các điểm dân cư nông thôn và làng nghề. Bộ TNMT là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý thồng nhất về MTLN, về quản lý chất thải nguy hại và phối hợp với các Bộ khác ban hành hướng dẫn, quy định, quy chuẩn về quản lý chất thải, xây dựng kế hoạch quản lý chất thải hàng năm và dài hạn, xây dựng chính sách và chiến lược, kế hoạch và phân bổ ngân sách nghiên cứu và phát triển cho các dự án xử lý chất thải và phê duyệt báo cáo ĐTM. Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong công tác đầu tư tài chính, xây dựng các cơ chế ưu đãi về kinh tế để thúc đẩy hoạt động quản lý chất thải (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính), hướng dẫn tuyên truyền phổ cập về quản lý chất thải (Bộ Thông tin và truyền thông) hay phối hợp với Bộ Xây dựng tổ chức thẩm định công nghệ xử lý CTR, nước thải mới được triển khai (Bộ KHCN). Ngoài ra, các bộ quản lý chuyên ngành còn có trách nhiệm xây dựng định hướng xã hội hóa công tác quản lý CTR, hướng dẫn các tiêu chí về quy mô tổ chức, tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động của các cơ sở thực hiện xã hội hóa.

Ở các tỉnh ĐBSH, các Sở Xây dựng chịu trách nhiệm về quản lý CTR sinh hoạt và các bãi chôn lấp rác thải gồm: giám sát việc thực hiện quy hoạch đô thị của tỉnh hoặc thành phố đã được Thủ tướng phê duyệt, tổ chức thiết kế và xây dựng các dự án chôn lấp rác thải theo tiêu chuẩn môi trường và xây dựng, hỗ trợ ra quyết định về các dự án cơ sở xử lý chất thải, phối hợp với Sở TNMT báo cáo và đề xuất quy hoạch các bãi chôn lấp rác thải, các sở, nhà máy chế biến CTR phù hợp cho UBND cấp tỉnh để phê duyệt. Sở TNMT có vai trò quan trọng trong quản lý chất thải, giám sát chất lượng môi trường, quản lý và thực hiện các chính sách và quy định về quản lý chất thải do Bộ TNMT và UBND cấp tỉnh ban hành; phê duyệt báo cáo ĐTM cho các dự án xử lý chất thải; phối hợp với Sở Xây dựng xem xét và lựa chọn các bãi chôn lấp rác thải, sau đó đề xuất với UBND tỉnh phê duyệt bãi chôn lấp phù hợp nhất. Tuy nhiên, vai trò của Sở Xây dựng và Sở TNMT trong quản lý CTR phụ thuộc vào tính chất và tổ chức của từng tỉnh thành và giữa chúng có thể có khác biệt.

Thứ ba là, trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực xử lý chất thải: Hàng năm, theo chức năng nhiệm vụ, từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH, vẫn

tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra tình hình tuân thủ quy định pháp luật BVMT nói chung và công tác quản lý chất thải nói riêng. Trong những năm qua, công tác thanh tra, giám sát tập trung vào các vấn đề môi trường bức xúc, xử lý triệt để các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 1/10/2013, công tác

Page 89: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

84

BVMT của các cơ sở làng nghề [27]. Giữa các bộ ngành và địa phương vùng ĐBSH đã thực hiện tương đối tốt việc phối hợp trong việc kiểm tra, đôn đốc và giám sát việc THPL về quản lý chất thải nguy hại ở các cơ sở; tiến hành thanh tra, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều hành vi vi phạm lĩnh vực này, trước khi hành vi đó để lại hậu quả cho môi trường và sức khỏe con người.

Tại các tỉnh ĐBSH, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm cũng được củng cố và tăng cường qua các năm. Việc xử lý những vi phạm hành chính đối với những vi phạm quy định trong quản lý CTR ở nhiều địa phương cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về công tác quản lý CTR ở nhiều cơ sở sản xuất làng nghề, đặc biệt đối với chất thải nguy hại. Điển hình là tỉnh Hà Nam, hàng năm, sở TNMT đã chủ trì, đồng thời phối hợp với các cơ quan tổ chức khác tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật về tài nguyên và môi trường, trong đó có công tác quản lý và xử lý các chất thải đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh. Năm 2013, Sở TNMT chủ trì, phối hợp tham gia 37 đoàn thanh tra, kiểm tra, đồng thời thành lập đoàn kiểm tra đột xuất đối với làng nghề Dệt Nhuộm xã Hòa Hậu (huyện Lý Nhân), các làng nghề Dũa cưa Đại Phu (xã An Đổ); làng nghề Sừng mỹ nghệ Đô Hai (xã An Lão); làng nghề Nấu rượu Vọc (xã Vũ Bản), làng nghề Tre đan Gòi Thượng (xã An Nôi), kết quả cho thấy các cơ sở sản xuất làng nghề chưa có thủ tục hành chính về pháp luật BVMT, các chỉ tiêu nước thải đều vượt giới hạn cho phép nhiều lần) [59].

3.2.1.5. Thực hiện pháp luật về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử trong môi trường làng nghề

* Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, trong công tác chỉ đạo, thực hiện việc khắc phục và ngăn ngừa

ONMT để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử ở các làng nghề: Sở TNMT ở một số tỉnh ĐBSH đã tổ chức điều tra, đánh giá hiện trạng ONMT

trong khu vực làng nghề có cảnh quan thiên nhiên, DTLS để dự báo xu thế biến động; xác định nguyên nhân vi phạm, gây ô nhiễm; xác định, khoanh vùng đệm để bảo vệ vùng di sản, đồng thời tổ chức hoạt động theo dõi, giám sát; phối hợp với các Sở, ban ngành liên quan và địa phương, xử lý kịp thời các vi phạm xảy ra, nhất là vi phạm trong lĩnh vực môi trường, tránh để xảy ra các sự cố ONMT nghiêm trọng. Sở TMTN cũng hướng dẫn UBND các huyện, thị xã trong vùng di sản thực hiện các quy định về quản lý đất đai và kiểm soát ONMT; chủ trì phối hợp cùng Sở Công thương xây dựng và triển khai các dự án xử lý ONMT làng nghề để tránh ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và các DTLS lân cận; tu bổ và tôn tạo các công trình di tích kiến trúc lịch sử, văn hóa, các công trình công cộng, bảo tồn các nhà truyền thống, nhà cổ, giữ nguyên không gian kiến trúc có giá trị với làng nghề,... Sở Văn hoá Thông tin ở các tỉnh ĐBSH phối

Page 90: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

85

hợp với các sở: Địa chính, Xây dựng, Kế hoạch & Đầu tư và UBND các huyện, thị xã, lập quy hoạch bảo tồn, tôn tạo các di tích ở các làng nghề, xác định rõ mốc giới, khoanh vùng cho từng khu vực bảo vệ các di tích theo đúng pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng DTLS, văn hoá và danh lam thắng cảnh".

Làm tương đối tốt công tác này tiêu biểu là tỉnh Ninh Bình. Khi Ban quản lý Quần thể Danh Thắng Tràng An có Báo cáo số 94/BC-BQLQTDTTA ngày 31/10/2014 về việc "đề xuất giải pháp khắc phục, vệ sinh, khơi thông dòng chảy khu vực Ngòi Cống Chẹm, Cổng chốt phía Bắc và tháo dỡ một số vật phản cảm tại chân Núi Lăng, Cổng Chốt Phía Đông, Khu Di tích Lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư", UBND tỉnh Ninh Bình ngay sau đó đã có công văn số 429/UBND-VP5 ngày 20/11/2014 về việc "khắc phục, vệ sinh, khơi thông dòng chảy khu vực Ngòi Cống Chẹm, Cổng chốt phía Bắc và tháo dỡ một số vật phản cảm tại chân Núi Lăng, Cổng Chốt Phía Đông, Khu Di tích Lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư"; đã giao Ban Quản lý Quần thể Danh Thắng Tràng An chủ động thực hiện các công việc đảm bảo vệ sinh môi trường và cảnh quan khu di tích. Làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân (Hoa Lư), nằm trong quần thể khu danh thắng Tràng An, thời gian qua, các cấp các ngành, các cơ sở sản xuất đã có nhiều giải pháp giải quyết vấn đề ONMT ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS của quần thể như: thực hiện quy hoạch và xây dựng khu làng nghề tập trung; các cơ sở sản xuất đã đầu tư trang bị máy mài bằng nước; một số cơ sở đã thực hiện biện pháp phun sương để giảm bụi đá. Hiện nay, làng nghề đá Ninh Vân cũng đã bắt đầu hình thành những vùng sản xuất tập trung.

Thứ hai là, trong công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử trong môi trường làng nghề:

Ở cấp Trung ương, Bộ TNMT đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện các quy định pháp luật về BVMT trong hoạt động du lịch, bảo vệ cảnh quan và DTLS có giá trị.

Ở một số tỉnh ĐBSH, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn các cơ sở, cá nhân trong các làng nghề bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên địa bàn; thông tin cho các cơ quan có liên quan, các tổ chức, cá nhân hoạt động du lịch, quản lý di tích, cộng đồng dân cư và du khách biết về hiện trạng môi trường tại địa phương khi có yêu cầu theo quy định. Sở TNMT các tỉnh ĐBSH đã tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các văn bản pháp luật về BVMT, quản lý tài nguyên, nâng cao nhận thức đối với các tổ chức, cá nhân làng nghề hoạt động trong khu di sản trên; in ấn, phát các tài liệu tuyên truyền, sổ tay hướng dẫn.

Một trong số các địa phương đi đầu trong công tác này là tỉnh Ninh Bình. UBND tỉnh đã tăng cường phổ biến, tuyên truyền sâu rộng tới các cấp, các ngành và các tầng

Page 91: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

86

lớp nhân dân trong tỉnh, trong đó có các hộ sản xuất LNTT (làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân, Làng nghề bún, bánh Yên Ninh), những văn bản của Nhà nước và của tỉnh về việc bảo vệ, sử dụng DTLS, văn hoá và danh lam, thắng cảnh. Các cơ quan thông tin đại chúng, nhất là Báo Ninh Bình, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Đài truyền thanh các huyện, thị xã, đã có chương trình tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích về pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng DTLS văn hoá và danh lam thắng cảnh"; thường xuyên đưa tin, hình ảnh biểu dương những cá nhân, đơn vị chấp hành tốt, đồng thời phê phán kịp thời những trường hợp có hành vi vi phạm pháp lệnh. Ngành Văn hoá - Thông tin đã phối hợp chặt chẽ với Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và chính quyền các cấp tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia học tập, tìm hiểu pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng DTLS văn hoá và danh lam thắng cảnh", để mọi người hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bảo vệ và sử dụng DTLS, văn hoá, danh lam thắng cảnh, đồng thời nâng cao trách nhiệm trong việc giữ gìn, tôn tạo và phát huy giá trị của DTLS, văn hoá. Cụ thể, ngày 26/1/2015, tại khu du lịch sinh thái Tràng An, Ban Quản lý quần thể danh thắng Tràng An đã tổ chức khai giảng lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật về môi trường, cảnh quan di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới quần thể danh thắng Tràng An, truyền đạt những kiến thức về: BVMT, cảnh quan di sản trong hoạt động du lịch, ý thức BVMT, cảnh quan Di sản ở một số khu Di sản ở Việt Nam và thế giới. Đồng thời, giới thiệu Công ước 1972 về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và các văn bản liên quan. Tham dự có gần 200 học viên là cán bộ chủ chốt cấp xã, thôn, người dân làng nghề chế tác đá xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Qua đó, góp phần tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch, BVMT, các di tích khảo cổ, di sản địa chất trong phạm vi quần thể danh thắng Tràng An. Ngày 4/8/2015, tại Khách sạn Tam Cốc (Ninh Hải, Hoa Lư), Sở Văn hóa- Thể thao & Du lịch phối hợp với Ban quản lý Dự án Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức về BVMT ở LNTT, quản lý chất thải và mức độ ô nhiễm ở các làng nghề, các bước giảm thiểu những tác động tiêu cực từ làng nghề ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS… cho 50 người là cán bộ đang phụ trách hoạt động làng nghề, đại diện các hộ gia đình, các tổ hợp, doanh nghiệp đang tham gia sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh.

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, ban hành và hoàn thiện dần các văn bản QPPL về bảo vệ cảnh quan

thiên nhiên, di tích lịch sử: Cho đến nay, một số văn bản QPPL về bảo tồn cảnh quan thiên nhiên và DTLS

đã được ban hành và dần hoàn thiện như: Luật Du lịch số 44/2005/QH11 [95]; Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) số 32/2009/QH12 ngày 18/6/2009 [96]; Nghị định số

Page 92: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

87

98/2010/NĐ-CP ngày 21/09/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa [51], Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [116]; Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 [120].

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ TNMT ra Thông tư liên tịch số 19/2013/TTLT-BVHTTDL-BTNMT ngày 30/12/2013 hướng dẫn BVMT trong hoạt động du lịch, tổ chức lễ hội, bảo vệ và phát huy giá trị di tích [35]; Quyết định số 1696/QĐ-BVHTTDL ngày 7/5/2012 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc phê duyệt nội dung đề cương ”Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH và Duyên Hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [34].

Ở các tỉnh ĐBSH, Hà Nội và Ninh Bình là 2 nơi có nhiều các hoạt động du lịch gắn với LNTT, do đó cũng đã ban hành một số văn bản QPPL về lĩnh vực này, tiêu biểu như Chương trình số 154/UBND-CT của UBND thành phố Hà Nội ban hành ngày 26/11/2012, về việc phát triển làng nghề kết hợp du lịch giai đoạn 2012 - 2015; Đề án số 19-ĐA/TU ngày 05/3/2007 của Thành ủy Hà Nội phát triển du lịch Hà Nội giai đoạn 2007 - 2015; UBND tỉnh Ninh Bình ra Chỉ thị số 03/2001/CT-UB ngày 11/4/2001 về việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với DTLS, văn hoá và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. UBND tỉnh Ninh Bình ra Quyết định số 26/2015/QĐ-UBND ngày 24/08/2015 về việc ban hành quy chế phối hợp quản lý tài nguyên và BVMT di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới quần thể Danh thắng Tràng An, trong đó nghiêm cấm thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường và các hoạt động khác xâm hại môi trường, giá trị khu di sản.

Thứ hai là, trong công tác thanh tra, kiểm tra việc THPL về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử tại các làng nghề:

Bộ TNMT đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất việc chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT trong hoạt động du lịch, bảo vệ và phát huy giá trị di tích; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm theo quy định.

Sở TNMT các tỉnh phối hợp với các cơ quan có liên quan kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về công tác BVMT trong hoạt động du lịch, quản lý di tích ở các làng nghề; xử lý hoặc kiến nghị các cơ quan có trách nhiệm xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật.

Sở Địa chính Ninh Bình đã chủ trì phối hợp với các ngành Thanh tra, Công an, Tư pháp, Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Xây dựng và UBND các huyện, thị xã, tổ chức kiểm tra tình hình vi phạm "Bảo vệ và sử dụng DTLS, văn hoá và danh lam thắng

Page 93: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

88

cảnh", tình hình lấn chiếm đất đai, xây dựng và khai thác vật liệu trái phép tại các di tích, đề xuất các phương án giải quyết và biện pháp xử lý, trình UBND tỉnh xem xét, giải quyết.

3.2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được 3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan Một là, với vai trò, tầm quan trọng của việc THPL về BVMT làng nghề đối với

PTBV làng nghề, thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đảng đã có những chủ trương, đường lối, chính sách về những vấn đề liên quan đến quản lý, kiểm soát việc thực hiện BVMT làng nghề, thể hiện trong Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, nhấn mạnh: “Tăng cường kiểm soát ONMT, đặc biệt là ONMT tại các khu, cụm công nghiệp, tụ điểm khai thác, chế biến khoáng sản, các làng nghề, lưu vực sông, các đô thị lớn và khu vực nông thôn” [4]. Đây là yếu tố khách quan, quan trọng để Nhà nước cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản QPPL và tổ chức THPL về BVMTLN.

Hai là, các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT làng nghề và các cơ quan có liên quan đã quan tâm hơn đến công tác THPL về BVMT ở các làng nghề, thông qua việc kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng số lượng cán bộ thực hiện công tác kiểm soát ONMT làng nghề, tăng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,... Các cơ quan quyền lực Nhà nước như Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, HĐND cấp tỉnh, quận, huyện, thị xã,... quan tâm hơn đến vấn đề môi trường làng nghề. Thông qua công tác thanh tra, tự kiểm tra, kiểm điểm, đã góp phần phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm và phòng ngừa vi phạm.

Ba là, các quy định của pháp luật về BVMT làng nghề ngày càng hoàn thiện, tạo căn cứ pháp lý cho các cơ quan, đơn vị THPL về BVMT làng nghề trên cơ sở quy định của pháp luật chặt chẽ hơn. Sau khi Quốc hội ban hành Luật BVMT, Chính phủ đã kịp thời ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật BVMT, các Bộ TNMT ban hành thông tư quy định về BVMT làng nghề, Bộ Tài Chính cùng với Bộ TNMT ban hành các Thông tư liên tịch quy định về phí BVMT, Thông tư liên tịch hướng dẫn việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường,... Mặc dù chưa thực sự hoàn thiện nhưng là những căn cứ quan trọng, cụ thể hóa các quy định của Luật BVMT liên quan đến THPL. Từ khi thực hiện Luật BVMT đến nay, mối quan hệ giữa các cơ quan có liên quan đến việc THPL về BVMT làng nghề đã được Luật hóa một cách cụ thể hơn, trong đó có quy định rõ nhiệm vụ và các loại việc của từng cơ quan gắn với thời hạn nhất định, là căn cứ pháp luật để tiến hành kiểm soát, đánh giá.

Bốn là, tình hình kinh tế, xã hội nước ta trong những năm gần đây đã có bước phát triển mạnh, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, các nhu cầu thiết yếu của dân về ăn, ở, đi, lại, học tập, chăm lo sức khỏe, sinh hoạt, giải trí được đáp ứng tốt hơn,

Page 94: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

89

ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân vì thế cũng ngày một nâng lên. Khi đời sống nhân dân được cải thiện thì nhu cầu được hưởng một môi trường sống trong lành, an toàn được nâng lên một mức cao hơn. Trong điều kiện chung như vậy, việc THPL về BVMT ở các làng nghề cũng được các chủ thể quan tâm thực hiện.

Năm là, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đã chủ động hội nhập với khu vực và Quốc tế cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, do đó việc thực hiện các cam kết về môi trường phải được tuân thủ nghiêm ngặt đúng theo các Công ước Quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. BVMT làng nghề là một lĩnh vực hẹp của BVMT nói chung, do đó công cuộc hội nhập với khu vực và Quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả của công tác THPL về BVMT làng nghề.

3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Việc THPL về BVMT làng nghề trong thời gian qua đã thu được những kết quả

trên là xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan sau: Một là, trên cơ sở quy định của pháp luật, đặc biệt là Nghị định số 19/2015NĐ-

CP và trước đó là Nghị định số 80/2006/NĐ-CP, Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT, Quyết định số 577/QĐ-TTg [119], các tỉnh ĐBSH đã quan tâm, chỉ đạo công tác BVMT làng nghề bằng việc ban hành các chỉ thị để chấn chỉnh hoạt động BVMT làng nghề trên địa phương, các Quy chế cụ thể hóa các quy định của pháp luật phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Bên cạnh đó, Ủy ban Nhân dân các tỉnh ĐBSH đã chỉ đạo các cơ quan, đặc biệt là Sở TNMT ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ làm cơ sở THPL về BVMT làng nghề.

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH đã bước đầu được các địa phương quan tâm chú trọng. Các phòng ban chuyên môn của Sở Tài nguyên môi trường, các cán bộ quản lý môi trường cấp xã, thôn, các cơ quan truyền thông đại chúng và các địa phương hàng năm đã xây dựng kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật, trong đó có phổ biến các văn bản pháp luật về BVMT làng nghề. Thông qua công tác này góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về BVMT làng nghề cho các chủ thể tham gia THPL về BVMT làng nghề. Từ đó nâng cao chất lượng công tác THPL về BVMT làng nghề, đưa công tác này càng đi vào nề nếp, ổn định.

Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cũng được chính quyền các cấp quan tâm chú trọng. UBND cấp tỉnh/thành phố đã chỉ đạo Sở TNMT tổ chức việc kiểm tra, thanh tra việc THPL về BVMT làng nghề. Qua thanh tra, kiểm tra để phát hiện những sai sót trong quá trình THPL về BVMT làng nghề, từ đó có sự nhắc nhở, chấn chỉnh, xử phạt hành chính,... đồng thời phát hiện những trường hợp lợi dụng việc THPL về BVMT

Page 95: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

90

làng nghề để thông đồng với chủ thể gây ô nhiễm, suy thoái MTLN và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Bên cạnh đó, qua thanh tra, kiểm tra để phát hiện những cách làm hay, sáng tạo để khen thưởng, nhân điển hình. Đây là việc làm đặc biệt quan trọng, góp phần hạn chế những khiếm khuyết trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Bốn là, sự tham gia tích cực, tâm huyết của đội ngũ cán bộ quản lý môi trường cấp xã, phường. Ở các phường xã, cán bộ quản lý cấp xã phường là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong công tác tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, vận động các tầng lớp nhân dân THPL nói chung, pháp luật về BVMT làng nghề nói riêng. Các cán bộ có nhiệm vụ tổ chức, tham gia thực hiện phải là người gương mẫu, đi đầu THPL để làm gương cho nhân dân, cho người lao động trong các làng nghề. Bởi vậy những kết quả đạt được trong THPL về BVMT làng nghề không thể tách rời vai trò tiên phong, gương mẫu của các cán bộ quản lý môi trường cấp xã, phường. Ở nhiều địa phương vùng ĐBSH, ngoài vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý môi trường cấp xã, phường, còn phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng dân phố trong công tác THPL về BVMT làng nghề.

Năm là, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của một bộ phận chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh làng nghề và người dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn vùng ĐBSH. Pháp luật về BVMT làng nghề đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống văn hóa, tinh thần ở các địa phương, nâng cao nhận thức về quyền được hưởng môi trường sống trong lành, thu hút nhân dân tham gia THPL về BVMT làng nghề. Chính vì vậy, việc triển khai THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH được sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của các tầng lớp nhân dân, mang lại những thành tựu, kết quả tích cực. Khi nhân dân đã thông suốt về tư tưởng, đồng thuận cao với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng.

3.3. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NGUYÊN NHÂN

Do năng lực, nguồn lực hạn chế, nên hầu hết các địa phương còn chậm trong việc quán triệt và triển khai các chính sách, văn bản QPPL về BVMT tới chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã, dẫn đến chính quyền địa phương cấp dưới nhiều khi không hiểu hoặc hiểu chưa đúng về quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức mình trong công tác BVMT. Chính vì vậy, ngoài rất ít số vụ vi phạm pháp luật về BVMT tại làng nghề đã được xử lý, những công cụ quản lý khác cũng triển khai rất khó khăn.

Page 96: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

91

3.3.1. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng thời gian qua

Việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH đang gặp nhiều khó khăn, bất cập trên nhiều phương diện: pháp luật - chính sách, cán bộ, thể chế và bộ máy,…Từ những phân tích, nhận định đã trình bày ở trên, có thể rút ra những hạn chế cơ bản trong công tác THPL về BVMT đối với làng nghề như sau:

3.3.1.1. Thực hiện pháp luật về bảo vệ nguồn nước trong môi trường làng nghề * Về tuân thủ pháp luật: Hầu hết các cơ sở sản xuất làng nghề không thực hiện việc quan trắc, giám sát

nguồn nước trong quá trình khai thác, sử dụng theo quy định của nội dung giấy phép và theo quy định tại Điều 16 của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ TNMT. Kết quả kiểm tra, điều tra cho thấy, các hộ sản xuất trong làng nghề hầu như không có có các hồ sơ, thủ tục về môi trường (như: ĐTM, Cam kết BVMT, Đề án BVMT); không có các hạng mục công trình xử lý nước thải, khí thải đạt QCKT quốc gia về môi trường; không nộp các khoản phí, lệ phí về BVMT và khai thác tài nguyên (trừ phí thu gom CTR); không đủ năng lực tài chính để nộp phạt vi phạm hành chính cũng như chây ỳ trong thi hành quyết định xử lý vi phạm [30]. Một số trường hợp cá biệt sẵn sàng dựa vào số đông để chống đối, thậm chí hành hung các đoàn kiểm tra, thanh tra, báo chí đến làm việc; nhiều hộ sản xuất không tiếp nhận hoặc tiếp nhận nhưng không vận hành các hạng mục công trình xử lý ONMT khi được nhà nước đầu tư, do không chịu chi trả các khoản chi phí vận hành, bảo dưỡng.

* Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, công tác chỉ đạo, quản lý tài nguyên nước, BVMT lưu vực sông còn

nhiều bất cập: Các Ủy ban BVMT lưu vực sông Cầu và sông Nhuệ - Đáy đã được hình thành và

đi vào hoạt động nhưng quyền hạn và trách nhiệm chưa được xác định rõ, chưa phát huy được vai trò chỉ đạo, điều phối hoạt động BVMT các lưu vực, dẫn đến việc triển khai các Đề án BVMT lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy còn gặp nhiều lúng túng, chậm chuyển biến trên thực tế.

Sự phối hợp trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên nước giữa các tỉnh trong lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy chưa được chặt chẽ, thống nhất. Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi tỉnh, vì lợi ích riêng của mình dẫn đến còn có những bất cập gây ảnh hưởng lẫn nhau như: các tỉnh nằm thượng lưu và trung lưu trong quá trình sử dụng nước cho công nghiệp và sản xuất làng nghề đã thải các chất độc hại và nước thải không qua xử lý làm ảnh hưởng tới chất lượng nước của các tỉnh nằm dưới hạ lưu. Các

Page 97: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

92

sông suối, kênh, mương nằm trong địa bàn nhiều tỉnh vùng ĐBSH cũng có sự quá tải khi tiếp nhận nguồn nước thải của các đô thị lớn, các khu công nghiệp và làng nghề không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và xả nước thải để điều chỉnh có tính chất vĩ mô giải quyết mâu thuẫn trong việc quản lý nước theo ranh giới hành chính và ranh giới thủy văn của hệ thống nguồn nước.

Thứ hai là, công tác điều tra cơ bản tài nguyên nước chưa tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu:

Nhìn chung, công tác điều tra cơ bản, xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước đã được tích cực triển khai thực hiện. Tuy nhiên, mạng lưới trạm quan trắc, điều tra tài nguyên nước còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu đánh giá số lượng, chất lượng và dự báo diễn biến tài nguyên nước. Công nghệ, thiết bị, kỹ thuật điều tra, đánh giá tài nguyên nước còn lạc hậu; hệ thống mạng quan trắc nguồn nước xuyên biên giới chưa được hoàn thiện để đảm bảo việc tích hợp với hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu tài nguyên nước quốc gia. Thông tin, dữ liệu, số liệu điều tra, đánh giá, quan trắc tài nguyên nước còn phân tán và chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý tài nguyên nước, nhất là phục vụ công tác chỉ đạo điều hành, công tác dự báo, thẩm định hồ sơ cấp phép ở cả cấp Trung ương và các tỉnh ĐBSH. Do đó, hầu hết làng nghề các tỉnh ĐBSH chưa thống kê đầy đủ các nguồn nước cả về số lượng và chất lượng, chưa quản lý chặt chẽ hoạt động của các cơ sở làng nghề khai thác sử dụng nước cho các mục đích sản xuất, sinh hoạt đời sống. Ngoài ra, các số liệu, thông tin về Tài nguyên nước chậm được cập nhật và không thống nhất giữa các cơ quan quản lý nhà nước về nước; hệ thống hồ sơ, thông tin về Tài nguyên nước chưa đảm bảo được tính công khai, minh bạch, nên người dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác, tra cứu, tiếp cận các thông tin về Tài nguyên nước [30].

Thứ ba là, việc thi hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước của các cá nhân, cơ sở sản xuất làng nghề vẫn còn hời hợt, thiếu tự giác:

Các cá nhân, cơ sở sản xuất làng nghề vùng ĐBSH trong quá trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước, chưa thực hiện đầy đủ quy trình, qui phạm nhằm khai thác hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ tài nguyên nước theo định hướng phát triển bền vững. Cụ thể là, không thực hiện các biện pháp bảo vệ nguồn nước dưới đất trong quá trình khai thác, sử dụng nước tại các giếng khai thác theo quy định tại Điều 15 của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ TNMT. Hầu hết cơ sở sản xuất làng nghề chưa muốn đầu tư xây dựng các công trình xử lý nước thải và bảo vệ tài nguyên nước. Không chỉ do một số làng nghề hoạt động từ thời bao cấp với công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ phát sinh nhiều chất thải gây ONMT nguồn nước mà phần lớn các làng nghề mới cũng không có

Page 98: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

93

hệ thống xử lý nước thải tập trung. Bên cạnh đó, khung pháp lý cho việc thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra vẫn còn thiếu và chưa đủ mạnh để buộc các cơ sở phải thực thi công tác BVMT.

Các hộ dân chưa thực hiện việc báo cáo định kỳ tình hình khai thác, sử dụng nước dưới đất theo quy định của nội dung giấy phép và quy định tại Điều 17 của Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ TNMT.

Thứ tư là, trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về bảo vệ tài nguyên nước còn chưa được chú trọng:

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước tại các làng nghề vùng ĐBSH chưa rộng khắp, chủ yếu tập trung cho khối cơ quan quản lý và khối doanh nghiệp, chưa phổ biến, giáo dục sâu rộng đến các đối tượng khác như người dân, học sinh. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu là tổ chức hội thảo, tập huấn, đăng tải trên trang tin điện tử nội bộ, báo, tạp chí, bản tin chuyên ngành; kinh phí thực hiện hạn chế nên khó khăn trong việc đa dạng hóa hình thức cũng như việc mở rộng đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, càng làm cho việc quản lý tài nguyên nước kém hiệu quả. Vì vậy, nhiều đối tượng vẫn chưa coi nước là một tài nguyên quan trọng. Với quan niệm "Nước là của trời cho, vô hạn" nên dùng vô tư, không cần xin phép, không cần tiết kiệm, không biết bảo vệ, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên nước còn

chưa hoàn thiện: Cơ cấu tổ chức của bộ máy tài nguyên nước từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH

còn chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ bản về tài nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các ban quản lý lưu vực sông Cầu và sông Nhuệ - Đáy cũng chưa được quy định cụ thể. Mối quan hệ giữa các ban quản lý lưu vực sông với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về Tài nguyên nước các cấp (Bộ TNMT, Cục quản lý Tài nguyên nước và UBND các tỉnh ĐBSH) trong việc phối, kết hợp quản lý, bảo vệ Tài nguyên nước, vẫn chưa xác định rõ ràng cơ chế phối hợp quản lý Tài nguyên nước theo quy hoạch lưu vực sông với quản lý theo địa giới hành chính.

Hiện nay, chúng ta vẫn thực sự thiếu nhiều cán bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý và chống suy thoái tài nguyên nước nói chung, ở các làng nghề vùng ĐBSH nói riêng. Việc quản lý chưa được gắn bó cũng gây ra lãng phí cho ngân sách nhà nước.

Page 99: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

94

Thứ hai là, hệ thống các văn bản QPPL về bảo vệ tài nguyên nước còn chưa hoàn thiện:

Hiện nay, tuy đã có rất nhiều văn bản QPPL quy định về kiểm soát ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước nhưng luật pháp và các quy định liên quan tới nguồn tài nguyên nước vẫn còn được soạn thảo một cách riêng rẽ. Về mặt tự nhiên, quản lý như thế sẽ bị tách rời nên không tránh khỏi sự chồng chéo về quyền hạn, thiếu sót trong theo dõi, sự cạnh tranh và trùng lặp giữa các cơ quan khác nhau. Trong công tác thanh tra, kiểm tra, hiện nay chỉ mới có văn bản quy định về việc thành lập hệ thống thanh tra tài nguyên môi trường nói chung mà thiếu các văn bản quy định về việc thành lập hệ thống thanh tra chuyên ngành về Tài nguyên nước cũng như các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra chuyên ngành về Tài nguyên nước.

Các Ủy ban BVMT lưu vực sông Cầu và sông Nhuệ - Đáy đã được hình thành và đi vào hoạt động, nhưng còn thiếu các văn bản chỉ đạo hướng dẫn triển khai Đề án BVMT các lưu vực sông Cầu và sông Nhuệ - Đáy đồng bộ từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH.

Thứ ba là, quy định về mức thu lệ phí nước thải chưa hợp lý: Nghị định phí nước thải có thể chưa lường trước được hậu quả của tình hình ô

nhiễm sẽ mở rộng nhanh và hậu quả ngày càng trầm trọng và sợ dân ta còn nghèo nên chưa mạnh dạn tiếp cận với quan điểm của thế giới về phí nước thải. Trước đây, Bộ Xây dựng chỉ đưa vào giá mức phụ thu là 10% để phục vụ cho việc nạo vét cống thoát nước. Khi xây dựng chính sách phí nước thải sinh hoạt, Bộ TNMT cũng đưa vào một tỷ lệ rất thấp với mức 10% của giá nước (Nghị định 25/2013/NĐ-CP) [56], trong khi thế giới thu bằng và lớn hơn cả giá nước, như Mỹ thu bằng 135% giá nước, CH Pháp thu bằng giá nước (được tính đầy đủ nguồn kinh phí để xử lý ô nhiễm, cung cấp nước sạch cho các nhu cầu sử dụng nước trên toàn lãnh thổ nước Pháp). Giá thành của một mét khối nước được tính chi tiết gồm: giá cơ bản để sản xuất một mét khối nước sạch, giá này do đơn vị sản xuất nước sạch quyết định trên cơ sở giá thành sản xuất; chi phí đầu tư cho việc thoát nước, xử lý nước thải sau khi sử dụng, giá này do đơn vị thoát nước quy định trên cơ sở chi phí đầu tư; thuế tài nguyên nước do nhà nước (Bộ Tài chính) quy định; phí ô nhiễm nguồn nước do Ủy ban lưu vực sông quyết định hàng năm căn cứ trên mức độ ô nhiễm tính trên cơ sở số lượng dân cư, mật độ khu công nghiệp, làng nghề,... Nếu tình trạng thu phí nước thải thấp như thế này thì không thể tạo ra nguồn tài chính để xử lý nước thải sinh hoạt trong khi ngân sách nhà nước của ta lại không thể có đủ để đầu tư cho xây dựng và vận hành các trạm xử lý nước thải. Điều này sẽ khiến nguồn nước ngày càng trở nên suy thoái.

Page 100: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

95

Thứ tư là, công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên nước gần như bị ‘bỏ trống’:

Nhìn chung, công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên nước của các cơ sở trong làng nghề gần như bị “bỏ trống” trong khi các hành vi vi phạm lại rất phổ biến. Việc phân công trách nhiệm thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên nước đối với đối tượng sản xuất trong làng nghề là chưa rõ. Trên cùng một địa bàn làng nghề, nếu là doanh nghiệp công nghiệp thì thuộc trách nhiệm của ngành Công Thương; hộ thuần nông, hộ sản xuất cá thể trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản thuộc ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; cơ sở gây ô ONMT, gây ONMT nghiêm trọng thuộc ngành TNMT. Như vậy, nhiều bộ/ngành được phân công như trên, nhưng trên thực tế, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tình hình thi hành pháp luật nói chung và pháp luật về BVMT nói riêng tại các làng nghề là chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Hình thức xử lý chủ yếu là nhắc nhở, chưa xử lý hành chính cũng như áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung khác.

Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý đối với việc thực hiện giấy phép sau cấp phép, tình hình khai thác sử dụng nước còn nhiều hạn chế do đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu, kinh phí cho công tác thanh, kiểm tra còn hạn hẹp dẫn đến việc chưa tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về tài nguyên nước, còn nhiều công trình đang khai thác tài nguyên nước nhưng chưa có giấy phép.

3.3.1.2. Thực hiện pháp luật về bảo vệ đất đai và tài nguyên đất trong môi trường làng nghề

* Về thi hành pháp luật: Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất ở các làng nghề vùng ĐBSH còn

chưa thực sự đồng bộ giữa các cấp, chưa gắn với quy hoạch chi tiết của các ngành nghề. Việc lập quy hoạch cấp huyện, cấp xã còn chậm, chưa bảo đảm chất lượng phân cấp. Trách nhiệm quản lý quy hoạch chưa rõ ràng. Công tác lập hồ sơ địa chính, đặc biệt là công tác chỉnh lý biến động chưa được quan tâm. Ở một số tỉnh vùng ĐBSH, việc theo dõi, cập nhật biến động về đất đai chưa được thực hiện thường xuyên. Việc kiểm tra, nghiệm thu hồ sơ địa chính chưa được coi trọng, chất lượng hồ sơ còn thấp.

Công tác tuyên truyền pháp luật về bảo vệ đất đai và môi trường cũng chưa có sự lồng ghép hợp lý (chưa có kênh thông tin đơn giản, phù hợp về yêu cầu BVMT đối với từng loại hoạt động sử dụng đất nền với từng nhóm chủ thể sử dụng đất).

Page 101: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

96

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, vấn đề môi trường chưa được lồng ghép trong quá trình xây dựng

luật đất đai: Luật đất đai sửa đổi ban hành năm 2013 [99] nhưng vẫn chưa đề cập cụ thể đến

vấn đề môi trường. Bên cạnh đó, còn nhiều loại quyết định liên quan đến sử dụng đất đai nhưng chưa có sự lồng ghép hoặc mức độ lồng ghép còn chưa hợp lý. Chẳng hạn các quyết định về kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất ở cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh, các quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển quyền sử dụng đất (nhất là các quyết định liên quan đến cá nhân, hộ gia đình), các quyết định về xử phạt, thu hồi đất. Một số quy định về lồng ghép nhưng chưa cụ thể hoặc chưa hợp lý: chẳng hạn quy định về ĐTM và đánh giá môi trường chiến lược còn chưa làm rõ vai trò, sự tham gia của cộng đồng dân cư làng nghề.

Thứ hai là, các văn bản về BVMT đất còn chưa đầy đủ và chưa phải là công cụ hữu hiệu để bảo vệ đất với tư cách là một thành phần quan trọng, không thể thiếu của môi trường:

Pháp luật đất đai hiện nay tuy đã có một số quy định về việc sử dụng đất nông nghiệp liên quan đến việc BVMT, tuy nhiên, những quy định đó mới chỉ dừng lại ở việc bảo vệ và làm tăng độ màu của đất, là những quy định mang tính chất bảo vệ đất đai với tư cách là bảo vệ tư liệu sản xuất quan trọng nhất, chứ chưa thực sự là các quy định nhằm bảo vệ đất đai với tư cách là bảo vệ yếu tố môi trường. Pháp luật cũng chưa có các quy định về quy hoạch đất đai để xây dựng các bãi xử lý rác thải sinh hoạt, dẫn đến việc rác thải sinh hoạt được vứt bừa bãi tùy tiện đã gây ô nhiễm đất sản xuất và làm mất mỹ quan cho khu vực nông thôn. Một vài quy định của Luật Đất đai khi đề cập đến khía cạnh bảo vệ đất với tư cách là thành phần môi trường thì đều dẫn chiếu sang các quy định của Luật BVMT, như "người sử dụng đất phải tuân thủ các quy định về BVMT”, tuy nhiên bảo vệ như thế nào, theo những tiêu chuẩn nào thì chưa được quy định đầy đủ. Ngoài ra, một số quy định trong Luật Đất đai và Luật BVMT trùng lặp khiến cho quá trình áp dụng trên thực tế gặp khó khăn, đặc biệt là các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật đất đai và pháp luật môi trường.

Bên cạnh đó, hệ thống văn bản QPPL hiện nay còn thiếu các quy định mang tính chất chế tài đủ mạnh đối với việc sử dụng phân bón hóa học hay thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi gây ô nhiễm đất. Các quy định này cũng chưa đủ mạnh để buộc các tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất làng nghề xử lý hoặc hạn chế các chất thải có hại trực tiếp vào đất.

Ngoài ra, pháp luật đất đai hiện hành chưa có các quy định về sử dụng đất liên quan đến việc BVMT tại các làng nghề. Luật BVMT 2014 mới đưa ra nguyên tắc

Page 102: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

97

chung về BVMT làng nghề tại điều 70 nhưng pháp luật đất đai hiện hành lại chưa có các quy định cụ thể về vấn đề này. Pháp luật đất đai hiện hành cũng chưa có quy định về quy hoạch đất đai nhằm tập trung các làng nghề thủ công truyền thống ở khu vực nông thôn nhằm BVMT. Điều này chưa đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn.

Thứ ba là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất ở các làng nghề vùng ĐBSH chưa sát với thực tế và yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai:

Các đoàn thanh tra, kiểm tra chậm triển khai theo kế hoạch đã được duyệt. Việc ban hành kết luận thanh tra một số đợt còn chậm; một số trường hợp thanh tra không đúng đối tượng. Việc thanh tra hàng năm còn ít, mang tính bị động theo các vụ việc mà báo chí, dư luận phản ánh; việc xử phạt vi phạm qua thanh tra ở cả Trung ương và các tỉnh ĐBSH còn rất ít. Hiệu quả thanh tra chưa cao do một số vụ việc thanh tra không phát hiện được vi phạm hoặc nhiều trường hợp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng việc thực hiện kết luận thanh tra còn chậm. Tỷ lệ thu hồi tiền, thu hồi đất qua thanh tra còn thấp; việc phát hiện hành vi tham nhũng qua hoạt động thanh tra chuyên ngành đất đai còn hạn chế, chưa tương xứng với thực trạng vi phạm [28].

3.3.1.3. Thực hiện pháp luật về bảo vệ không khí trong môi trường làng nghề * Về tuân thủ pháp luật: Tại các làng nghề vùng ĐBSH, vẫn còn tồn tại những ngành sản xuất gây ONKK

nặng (như tái chế nhựa, kim loại, chăn nuôi gia súc, sản xuất giấy...) không tuân thủ các quy định BVMT về xử lý khí thải, không thực hiện ĐTM, chưa có giải pháp xử lý ô nhiễm triệt để, mặc dù đã có những quy định về di dời và xử lý ô nhiễm đối với các loại hình làng nghề này. Các cơ sở sản xuất này mới chỉ quan tâm đến lợi nhuận kinh tế mà chưa quan tâm đầu tư cho công tác BVMT, không đầu tư, lắp đặt hệ thống xử lý khí thải, hoặc có đầu tư lắp đặt nhưng không hoạt động thường xuyên, hoặc chỉ hoạt động khi có các đoàn thanh tra, kiểm tra đến cơ sở. Chính sự thiếu ý thức của các chủ nguồn thải, cùng với lực lượng thanh tra, kiểm tra về môi trường còn thiếu và yếu dẫn tới việc kiểm soát ONMT nói chung, môi trường không khí nói riêng chưa hiệu quả, vẫn còn nhiều điểm nóng về ONMT do hoạt động xả thải không tuân thủ các quy định về BVMT.

* Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, tính hiệu quả, hiệu lực thực thi các chính sách, văn bản QPPL về

không khí chưa cao: Trong những năm qua, có thể thấy rằng, các chính sách, văn bản QPPL trong lĩnh

vực BVMT đã được ban hành khá nhiều, tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các quy định là chưa đầy đủ và nghiêm túc.

Ở các tỉnh ĐBSH, trách nhiệm của các đơn vị quản lý và thực thi cũng chưa cao, vẫn đặt lợi ích và phát triển kinh tế lên trên vấn đề BVMT, vì vậy, việc triển khai và

Page 103: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

98

thực thi các chính sách, văn bản về BVMT nói chung, BVMT không khí nói riêng ở các làng nghề chưa thực sự phát huy hiệu quả. Đối với hoạt động sản xuất làng nghề, hầu như chưa chú ý tới phát triển xanh. Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng, rèn, đúc, tái chế kim loại vẫn tiếp tục đầu tư sử dụng các công nghệ lạc hậu, chưa có sự đầu tư thích đáng đối với công nghệ xử lý chất thải nên đây vẫn là những ngành vừa sử dụng năng lượng không hiệu quả và là nguồn gây ONMT không khí [24].

Thứ hai là, thiếu kế hoạch quản lý chất lượng không khí: Một trong những nội dung quan trọng trong quản lý môi trường không khí là xây

dựng và thực thi kế hoạch quản lý chất lượng không khí. Vấn đề này đã được đề xuất trong Báo cáo môi trường quốc gia 2007, tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn chưa có Kế hoạch quản lý chất lượng không khí ở cấp Quốc gia cũng như ở các tỉnh ĐBSH. Hiện nay, Bộ TNMT đang triển khai xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về kiểm soát ONMT không khí. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh quản lý chất lượng không khí nói chung, Kế hoạch hành động về kiểm soát ONMT không khí mới chỉ là một nội dung nằm trong Kế hoạch quản lý chất lượng không khí. Ở các tỉnh ĐBSH, từ những năm 2007 - 2008, Chương trình không khí sạch Việt Nam - Thụy Sỹ đã hỗ trợ cho Hà Nội xây dựng Kế hoạch quản lý chất lượng không khí. Tuy nhiên, khi dự án này kết thúc năm 2009, cùng với việc mở rộng Hà Nội thì Kế hoạch này không được tiếp tục nâng cấp và trình ban hành [24].

Thứ ba là, hoạt động quan trắc môi trường không khí ở các làng nghề vùng ĐBSH còn nhiều hạn chế:

Hiện nay, các chương trình quan trắc môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng ở các tỉnh ĐBSH mới chỉ chủ yếu tập trung tại các khu vực đô thị, các khu vực gần khu công nghiệp... thiếu các chương trình quan trắc tổng thể và định kỳ cho các khu vực làng nghề. Hoạt động quan trắc chưa theo một quy trình thống nhất, rất nhiều đơn vị tham gia quan trắc hiện trường với các phương pháp lấy mẫu và phân tích khác nhau gây khó khăn cho công tác đánh giá chất lượng số liệu. Hiện nhiều đơn vị chưa có đủ năng lực thực hiện quan trắc không khí nhưng vẫn đảm nhận hoạt động này. Các thiết bị quan trắc không khí nhiều nơi yếu kém và lạc hậu, chưa tự động hoá các khâu lưu trữ, xử lý và trao đổi số liệu. Vấn đề quan trắc khí thải ống khói và quan trắc chuyên sâu về không khí còn kém, số đơn vị có thể thực hiện hoạt động này rất ít, mới chỉ có Hà Nội và Hải Dương là có đầu tư thiết bị quan trắc khí thải ống khói. Theo quy định tại quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM, các cơ sở sản xuất đều phải thực hiện quan trắc môi trường định kỳ, nhưng hầu hết các cơ sở sản xuất làng nghề đều chưa thực hiện giám sát khí thải tại các ống khói. Hệ thống quan trắc nói trên cũng chưa kết nối được với hệ thống dữ liệu của cơ quan quản lý môi trường nên việc giám sát, kiểm

Page 104: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

99

soát nguồn thải còn gặp nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, mặc dù đã được tăng cường nhưng hệ thống trạm quan trắc không khí tự động liên tục còn rất thưa, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Tại nhiều địa phương, mặc dù những năm đầu triển khai lắp đặt và vận hành các trạm tương đối hiệu quả nhưng sau đó, do thiếu kinh phí duy trì, bảo dưỡng và hiệu chuẩn, rất nhiều trạm quan trắc không khí tự động đã phải dừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, không đủ chuỗi số liệu để đánh giá, số liệu không đảm bảo độ tin cậy. Việc đầu tư xây dựng và vận hành các trạm quan trắc không khí tự động tại nhiều địa phương chưa theo quy hoạch, chưa tính đến hiệu quả sử dụng và duy trì vận hành lâu dài nên sau khi lắp đặt, một số không được vận hành hoặc chỉ vận hành khi có yêu cầu [29].

Một vấn đề khác đó là quy trình thực hiện QA/QC trong quan trắc môi trường còn yếu, thiếu quy định giám sát hoạt động quan trắc nên các kết quả quan trắc của các đơn vị thiếu độ tin cậy và không phản ánh đúng về mức độ ONMT không khí. Số liệu quan trắc môi trường không khí hiện nay còn phân tán, ít được chia sẻ, khó khăn trong việc khai thác, sử dụng.

Thứ tư là, kiểm soát nguồn thải chưa hiệu quả: Hiện nay, có khá nhiều Chương trình, Đề án về kiểm soát ONKK đã được phê

duyệt, nhưng phần lớn đều chưa được triển khai ở các tỉnh ĐBSH hoặc triển khai không hiệu quả. Tỷ lệ các cơ sở sản xuất nghề ở vùng ĐBSH có áp dụng công nghệ xử lý khí thải còn rất thấp, hầu hết chưa có các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm do khí thải. Rất nhiều địa phương gặp phải vấn đề mùi từ khí thải của cơ sở sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm, giết mổ gia súc,.. nhưng cũng chưa có những biện pháp khắc phục, giải quyết triệt để. Năng lực kỹ thuật về quản lý chất lượng không khí, kiểm soát khí thải chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Công tác kiểm tra sau thẩm định Báo cáo ĐTM còn yếu, cả về năng lực thanh tra, kiểm tra cũng như vấn đề đầu tư trang thiết bị hỗ trợ nên chưa quản lý và kiểm soát được các nguồn thải này. Công tác thanh tra mới chỉ tập trung nhiều vào nước thải; thiếu các yêu cầu bắt buộc về quan trắc, giám sát khí thải tự động nên mặc dù nhiều dự án, cơ sở sản xuất vi phạm pháp luật về BVMT hoặc không tuân thủ theo cam kết trong báo cáo ĐTM nhưng do không bị phát hiện nên vẫn sản xuất, hoạt động bình thường.

* Về sử dụng pháp luật: Mặc dù trong hầu hết các chính sách, chiến lược, văn bản QPPL về BVMT của

nước ta đều nhấn mạnh về trách nhiệm của toàn xã hội, các cấp các ngành, các tổ chức, cộng đồng và mọi người dân đều có trách nhiệm BVMT, tuy nhiên vấn đề huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc BVMT không khí ở các làng nghề vùng ĐBSH còn nhiều hạn chế. Công tác tuyên truyền đã được đẩy mạnh với nhiều hình thức mới (bảng

Page 105: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

100

thông tin điện tử tại các tuyến giao thông, các trang thông tin điện tử...) nhưng vẫn chưa thực sự đi vào cộng đồng. Tiềm năng của cộng đồng trong BVMT không khí ở các làng nghề vùng ĐBSH chưa được phát huy đầy đủ, sự tham gia của cộng đồng vào các quá trình đóng góp ý kiến ra quyết định, hoạch định chính sách và các hoạt động quản lý môi trường còn mang nhiều tính hình thức.

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, thiếu các quy định pháp luật đặc thù cho môi trường không khí: Việc xác định mức độ ô nhiễm, kiểm soát nguồn phát thải khí hoàn toàn khác

biệt, phức tạp hơn so với kiểm soát ô nhiễm do nước thải hay CTR và Việt Nam vẫn chưa có các văn bản QPPL đặc thù, chuyên biệt cho vấn đề quản lý và kiểm soát ONMT không khí. Cụ thể, Luật BVMT 2014 mới chỉ đề cập rất ít đến kiểm soát ONKK (Điều 62, 63 và 64 về kiểm soát bụi, khí thải, hạn chế tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ). Mặc dù Luật có quy định về kiểm soát ONKK nhưng thiếu các quy định cụ thể trong các văn bản quy định dưới Luật nên việc triển khai thực hiện gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề BVMT không khí và xử phạt những hành vi gây ra ONMT không khí nghiêm trọng còn chưa được đề cập chi tiết và cụ thể. Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng có điều khoản quy định việc xử lý các hành vi phạm tội trong lĩnh vực kiểm soát ONKK (Điều 182) [97]. Tuy nhiên, chưa có các tiêu chí, quy định để xác định thế nào là mức độ nghiêm trọng, gây hậu quả nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng nên rất khó để áp dụng mức phạt phù hợp. Đối với văn bản dưới Luật, hiện chưa có một văn bản QPPL đặc thù nào cho môi trường không khí... Thiếu nhiều văn bản pháp luật gắn BVMT không khí với chính sách sử dụng tiết kiệm và hợp lý tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy xã hội hoá hoạt động BVMT. Năm 2013, Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT đã được sửa đổi (Nghị định số 179/2013/NĐ-CP [55] thay thế cho Nghị định số 117/2009/NĐ-CP) với các mức phạt được quy định chi tiết hơn và tăng nặng hơn, tuy nhiên, việc xác định mức độ vi phạm còn gặp nhiều khó khăn do việc kiểm tra, giám sát phát thải chưa đáp ứng thực tế cả về nhân lực và thiết bị kiểm tra. Đến nay, chưa có kết quả thống kê về tình hình xử phạt vi phạm trong lĩnh vực BVMT không khí.

Hiện nay, nước ta cũng chưa có quy định về giám sát quá trình xử lý khí thải của cơ sở sản xuất làng nghề trong quá trình hoạt động, chưa triển khai hệ thống giấy phép khí thải... mà tất cả đều dựa vào các quy định trong ĐTM và hậu ĐTM. Các công cụ kinh tế để BVMT không khí đến thời điểm này hầu như chưa có. Mặc dù nước ta đã triển khai một số nghiên cứu như đề xuất nộp phí BVMT đối với khí thải, trao đổi hạn ngạch khí thải công nghiệp… tuy nhiên các nghiên cứu này còn tản mạn, thiếu tính hệ thống để có thể trình ban hành. Mặt khác, để có thể tính toán, lượng hóa được thực

Page 106: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

101

trạng ONMT không khí, việc tính toán đánh giá các nguồn thải khí và xây dựng các hệ số phát thải khí ô nhiễm cho các lĩnh vực cũng là một trong những thách thức để áp dụng các công cụ kinh tế đối với kiểm soát ONKK.

Thứ hai là, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường không khí chưa đáp ứng yêu cầu thực tế:

Mặc dù, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường không khí đã và đang tiếp tục được rà soát, sửa đổi, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa đồng bộ, còn thiếu những quy chuẩn đặc thù cho một số ngành và tồn tại một số vấn đề chưa phù hợp với tình hình thực tế. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của nước ta hiện nay hầu hết được xây dựng trên cơ sở kế thừa hoặc Việt Nam hóa các tiêu chuẩn, quy chuẩn của quốc tế, khu vực (tiêu chuẩn của WHO, EU, ISO...). Một số tiêu chuẩn, quy chuẩn được xây dựng và đề xuất theo kinh nghiệm chuyên gia. Chính vì vậy, tính phù hợp và tính khả thi của một số tiêu chuẩn, quy chuẩn với điều kiện thực tế của Việt Nam cũng đang là vấn đề cần được xem xét thích đáng. Một vấn đề bất cập cần được xem xét đó là việc quy định các phương pháp phân tích các chất ô nhiễm theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn đã ban hành. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn chỉ quy định ngưỡng giới hạn cho phép đối với các thông số môi trường, tuy nhiên hiện nay, nước ta vẫn đang áp dụng các tiêu chuẩn cũ quy định cho các phương pháp phân tích môi trường. Điều này không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay vì nhiều phương pháp được quy định đã quá cũ, không được cập nhật. Thêm vào đó, việc bắt buộc áp dụng các phương pháp không phù hợp với điều kiện trang thiết bị thực tế tại các trạm quan trắc cũng gây nhiều khó khăn cho các đơn vị thực hiện.

Thứ ba là, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ về quản lý môi trường không khí: Đây là vấn đề tồn tại từ nhều năm trước nhưng đến nay vẫn chưa có những cải

thiện hợp lý về mặt tổ chức. Giữa Bộ TN&MT và các Bộ, ngành khác vẫn tồn tại sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ quản lý môi trường không khí. Thêm vào đó, quan hệ giữa Bộ TN&MT và các Bộ, ngành khác là quan hệ ngang cấp nên Bộ TN&MT khó phát huy được vai trò đầu mối. Ở các Bộ, ngành, việc đảm bảo thực hiện song song nhiệm vụ phát triển và BVMT của ngành, lĩnh vực cũng khiến cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Ở các tỉnh ĐBSH, vấn đề quản lý môi trường nói chung, môi trường không khí nói riêng cũng tồn tại những vấn đề tương tự như ở cấp Trung ương. Năng lực của cơ quan quản lý môi trường ở nhiều tỉnh ĐBSH cũng chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt tại các Sở ban ngành khiến cho việc quản lý và kiểm soát ONKK chưa phát huy hiệu quả. Công tác điều phối giữa các Bộ, ngành, địa phương trong giải quyết các vấn đề ONKK cũng chưa tốt.

Page 107: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

102

3.3.1.4. Thực hiện pháp luật về quản lý các chất thải trong môi trường làng nghề

* Về tuân thủ pháp luật: Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra của Bộ TNMT cũng như chính quyền địa

phương các cấp ở các tỉnh ĐBSH cho thấy rất nhiều cơ sở sản xuất ở các làng nghề vùng ĐBSH chưa tuân thủ pháp luật về quản lý, thu gom và xử lý chất thải. Cụ thể, hầu hết các cơ sở sản xuất nghề không có cơ sở hạ tầng phù hợp để thu gom, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn, QCKT Quốc gia về môi trường. Các cơ sở sản xuất trong làng nghề không thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; không phân loại, xử lý chất thải, dẫn đến thường xuyên xả nước thải, khí thải không đạt QCVN ra môi trường xung quanh. Ngoài ra, nhiều cơ sở sản xuất thực hiện không đúng các nội dung báo cáo ĐTM, cam kết BVMT đã được phê duyệt, xác nhận; kê khai thiếu hoặc trốn phí BVMT đối với nước thải, CTR, chất thải nguy hại và các loại phí môi trường khác.

Việc áp dụng các quy định pháp luật hiện hành để xử lý vi phạm hành chính đối với các đối tượng sản xuất trong làng nghề thực sự gặp nhiều khó khăn, bất cập. Nếu áp dụng theo quy định tại Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm trong lĩnh vực BVMT [50] thì tất cả các hộ, cơ sở sản xuất đều thuộc đối tượng bị xử lý, thậm chí phải đóng cửa hoặc tạm thời dừng hoạt động để khắc phục hậu quả; số tiền phải nộp phạt được tính trên tổng mức các hành vi vi phạm nên rất cao dẫn đến cơ sở không có khả năng nộp phạt cũng như đầu tư kinh phí để xây dựng hệ thống, công trình xử lý chất thải.

* Về thi hành pháp luật: Thứ nhất là, thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các làng nghề còn nhiều

bức xúc : Trong thời gian qua, công tác thu gom CTR sinh hoạt từ khu vực làng nghề đã và

đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương vùng ĐBSH. Ở hầu hết các vùng nông thôn, CTR sinh hoạt từ các hộ gia đình và cơ sở sản xuất nghề phần lớn đều được đổ thải trực tiếp tại vườn nhà. Nhiều thôn, xã chưa có các đơn vị chuyên trách trong việc thu gom CTR sinh hoạt. Một số địa phương đã áp dụng các biện pháp thu gom rác thải sinh hoạt nhưng với quy mô nhỏ, phần lớn do HTX tự tổ chức thu gom, phương tiện thu gom còn rất thô sơ với các xe cải tiến chuyên chở về nơi tập trung rác. Mặt khác, hoạt động thu gom này không diễn ra thường xuyên mà kết hợp với các đợt nạo vét kênh mương do xã phát động. Theo thống kê, có khoảng 60% số thôn, xã tổ chức thu dọn định kỳ, trên 40% thôn, xã đã hình thành các tổ thu gom rác thải tự quản. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt tại khu vực làng nghề chỉ mới đạt khoảng 40 - 55%. Do tỷ lệ thu gom chưa đáp ứng nhu cầu, nên rác vẫn tràn ngập khắp nơi công cộng, ao, hồ [21].

Page 108: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

103

Một vấn đề khó khăn chung đối với hầu hết các mô hình thu gom rác thải đã và đang triển khai đó là việc quy hoạch các bãi rác ở xa khu dân cư làm phát sinh chi phí vận chuyển rác từ điểm trung chuyển đến bãi rác. Trong khi đó, với các mô hình hiện nay, kinh phí mới chỉ chi trả được một phần cho hoạt động thu gom, không đủ để chi trả cũng như duy trì cho hoạt động vận chuyển. Chính vì vậy, hầu hết các mô hình hiện nay chưa đảm bảo tính bền vững. Đối với công tác quản lý CTR sinh hoạt nói chung, CTR sinh hoạt ở các làng nghề nói riêng, việc phân loại rác thải tại nguồn trước khi xử lý sẽ giúp cho việc giảm thiểu chi phí xử lý, đồng thời tận thu, tái chế một khối lượng đáng kể rác thải hữu cơ làm phân bón. Tuy nhiên, vấn đề phân loại rác tại nguồn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, cũng như chưa được triển khai phổ biến. Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt, các công trình xây dựng đường giao thông nông thôn của Nhà nước cũng như công trình do dân tự xây dựng hầu hết đều không xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải. Phần lớn các loại nước thải sinh hoạt đều không được xử lý, chảy tự do, ngấm xuống đất và chảy xuống ao hồ gây ONMT [29].

Đối với công tác xử lý CTR sinh hoạt, nhiều làng nghề xử lý chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp hoặc đổ thải lộ thiên, không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, vệ sinh môi trường. Một số địa phương khác lại sử dụng phương pháp ủ phân compost. Tuy nhiên, hai phương pháp này chưa thể áp dụng rộng rãi tại khu vực nông thôn. Trong những năm gần đây, một số địa phương đã đầu tư, lắp đặt các lò đốt CTR với công suất nhỏ, phục vụ việc xử lý CTR sinh hoạt cho một vùng nông thôn hoặc cho một khu vực dân cư. Tuy nhiên, hiệu quả xử lý cũng như quá trình vận hành có đảm bảo tiêu chuẩn môi trường hay không là vấn đề chưa được kiểm tra, xác nhận.

Thứ hai là, đầu tư tài chính cho công tác xử lý chất thải và BVMT làng nghề còn thiếu và chưa cân đối:

Mặc dù được bao cấp rất lớn từ nguồn ngân sách Trung ương và các tỉnh ĐBSH và ngân sách cho quản lý chất thải tăng dần qua các năm, tuy nhiên vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng và chưa cân đối giữa các lĩnh vực. Cơ cấu phân bổ ngân sách đang dành hơn 90% cho hoạt động thu gom và vận chuyển chất thải [21]. Do vậy, chi phí dành cho xử lý, tiêu huỷ chất thải hiện nay là rất thấp, đã dẫn đến tình trạng là các khu xử lý hiện đang được vận hành, duy tu, bảo dưỡng không đúng kỹ thuật, không an toàn và tiến độ xử lý ô nhiễm đối với 15 làng nghề theo Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg; cũng như tiến độ thực hiện Dự án Kiểm soát ONMT làng nghề vùng ĐBSH của Bộ TNMT bị chậm, kéo dài,… Mặc dù được xem là một trong những biện pháp để giảm thiểu chôn lấp CTR, nhưng hầu hết các nhà máy ủ rác, một loại hình hoạt động phổ biến ở các tỉnh ĐBSH, đang gặp khó khăn trong hoạt động. Theo báo cáo, trợ cấp từ chính quyền địa phương để vận hành các nhà máy ủ rác thấp hơn khoản trợ cấp dành cho chôn lấp.

Page 109: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

104

Một trong những khó khăn mà các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động trong lĩnh vực quản lý CTR đang gặp phải là vấn đề tài chính đầu tư cho cơ sở hạ tầng xử lý CTR.Trong khi vốn đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị cũng như cơ sở hạ tầng đối với một cơ sở quản lý CTR là rất lớn nhưng thời gian thu hồi vốn lại dài, đặc biệt là vấn đề vay vốn đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung, các mức phí cho dịch vụ quản lý CTR chiếm chưa đến 0,5% chi tiêu của các hộ gia đình, đây là mức chấp nhận được đối với nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên, tổng thu từ các loại phí dịch vụ quản lý CTR chỉ đáp ứng được không quá 60% tổng chi phí vận hành, duy tu và bảo dưỡng hệ thống quản lý. Tại nhiều nơi vùng ĐBSH, tổng thu từ các loại phí dịch vụ này thậm chí chỉ chiếm khoảng 20-30%. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới.

* Về sử dụng pháp luật: Sự tham gia của cộng đồng vào các quá trình đóng góp ý kiến ra quyết định,

hoạch định chính sách và các hoạt động quản lý chất thải tại khu vực nông thôn, làng nghề vùng ĐBSH vẫn còn nhiều hạn chế. Hầu như sự tham gia của cộng đồng địa phương chỉ ở mức bày tỏ sự phản kháng khi bị ảnh hưởng do ONMT, hoặc khi các công trình vệ sinh công cộng như bãi chôn lấp dự kiến được xây dựng gần chỗ ở.

Các hoạt động tổ chức cho cộng đồng tham gia quản lý chất thải làng nghề vùng ĐBSH còn mang nặng tính phong trào, chủ yếu thực hiện trong các dịp lễ, tết mà chưa được duy trì thường xuyên, chưa trở thành nhiệm vụ của các cơ quan và các cấp chính quyền. Ở rất nhiều làng nghề đã có hương ước về làng văn hóa mới, trong đó quy định rất cụ thể về nếp sống văn hóa trong cưới hỏi, tang lễ… nhưng rất ít các hương ước đề cập đến các quy định về quản lý chất thải hoặc chỉ đề cập một cách chung chung. Nhiều nơi chưa khuyến khích và hướng dẫn cụ thể việc thực hiện và phát triển Hương ước, quy ước, hay quy chế về xây dựng làng văn hoá trong thôn xóm. Một ví dụ điển hình như Quy ước làng văn hoá Thanh Lương (Bích Hoà, Thanh Oai, Hà Nội) đã được UBND xã Bích Hoà ban hành tháng 12 năm 2001, nhưng những điều về BVMT, cảnh quan làng xóm trong Quy ước cho đến nay vẫn chưa thực hiện được. Việc phát huy sức mạnh cộng đồng trong đấu tranh với các chủ cơ sở sản xuất thực hiện các giải pháp giảm thiểu ONMT chưa được đẩy mạnh.

* Về áp dụng pháp luật: Thứ nhất là, sự phân công, phân nhiệm của các cơ quan quản lý chất thải làng

nghề còn phân tán, chồng chéo và nhiều lỗ hổng: Trong những năm qua, công tác quản lý chất thải làng nghề chưa có đơn vị đầu

mối quản lý, ngay từ cấp Trung ương. Theo phân công trách nhiệm, Bộ Xây dựng được giao thống nhất quản lý nhà nước về CTR, tuy nhiên, CTR từ hoạt động nông nghiệp

Page 110: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

105

lại được giao cho Bộ NNPTNT quản lý, chất thải nguy hại (trong đó có chất thải nguy hại từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và làng nghề) do Bộ TNMT quản lý. Về quản lý hoạt động “cấp nước, thoát nước, xử lý CTR và nước thải tại làng nghề và khu dân cư nông thôn tập trung” lại là trách nhiệm của Bộ Xây dựng. Chính sự đan xen trong phân công trách nhiệm quản lý CTR khiến cho công tác quản lý thiếu sự thống nhất, không rõ trách nhiệm của đơn vị đầu mối, chưa thấy được vai trò của các cấp trong hệ thống quản lý. Chưa kể đến, đối với công tác quản lý CTR sinh hoạt nông thôn, gần như đang bị bỏ ngỏ.

Ở các tỉnh ĐBSH, tình trạng tương tự cũng diễn ra. Theo Nghị định số 81/2007/NĐ-CP [44] thì chức năng quản lý nhà nước về BVMT nói chung (bao gồm quản lý chất thải) ở cấp địa phương được giao cho Sở TNMT. Tuy nhiên, theo Nghị định số 13/2008/ NĐ-CP8 thì chức năng quản lý nhà nước về CTR sinh hoạt đô thị lại chuyển sang Sở Xây dựng. Chính vì vậy, ở mỗi địa phương chức năng quản lý CTR được giao cho các đơn vị khác nhau. Ở mỗi địa phương, URENCO lại trực thuộc các đơn vị quản lý khác nhau (Sở Xây dựng, Sở TNMT hoặc UBND tỉnh, thành phố) dẫn tới không có đơn vị đầu mối thống nhất, công tác quản lý CTR khó tìm được tiếng nói chung. Hơn nữa với mô hình quản lý hiện nay phổ biến mang tính riêng biệt của từng vùng, chưa có sự gắn kết hợp tác giải quyết các vấn đề mang tính liên vùng, liên tỉnh.

Thứ hai là, trách nhiệm, năng lực của đơn vị quản lý và thực thi chưa cao: Ở các tỉnh ĐBSH, công tác BVMT ở nhiều vùng nông thôn chưa tốt, môi trường

vẫn đang bị ô nhiễm bởi nước thải, chất thải sinh hoạt không được thu gom, xử lý. Điều này cho thấy, trách nhiệm của các đơn vị quản lý và hiệu quả thực thi các quy định trong các văn bản QPPL chưa cao. Đặc biệt là trách nhiệm của đơn vị quản lý trực tiếp ở khu vực nông thôn là các UBND cấp xã. Thêm vào đó, công tác kiểm tra, thanh tra thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các hành vi vi phạm về BVMT đối với CTR còn chưa đủ sức răn đe, mức thi hành cưỡng chế có hiệu lực chưa cao dẫn đến hiệu quả quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Thứ ba là, thể chế, chính sách về quản lý chất thải làng nghề còn chưa hoàn thiện : Thể chế, chính sách và hệ thống văn bản QPPL trong quản lý chất thải ở nước ta

dù đã có những bước tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng còn chưa đầy đủ, đồng bộ hoặc còn chồng chéo, chưa có một quy định thống nhất, toàn diện cho công tác quy hoạch quản lý chất thải quốc gia. Một số chính sách đã được ban hành nhưng cơ chế triển khai, các văn bản hướng dẫn vẫn còn thiếu dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc không thể đi vào thực tế.

Hiện nay các văn bản QPPL quy định về một số vấn đề có tính then chốt đối với công tác quản lý CTR, CTNH, nước thải (bao gồm các vấn đề như nhân lực, bộ máy tổ

Page 111: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

106

chức, trình độ, các hướng dẫn kỹ thuật...) vẫn còn thiếu, dẫn đến các hoạt động quản lý chất thải khi triển khai trong thực tế trên cả nước nói chung, các làng nghề vùng ĐBSH nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với công tác quản lý CTNH. Do không có một tổ chức đầu mối chung về quản lý CTR nên các văn bản, quy chuẩn quy phạm, quy định về quản lý CTR do nhiều Bộ ban hành. Hàng loạt các vấn đề chưa có các văn bản quy định cụ thể như: chưa có các quy định về danh mục CTR thông thường; quy định về điều kiện năng lực cho phép các tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng, xử lý, tiêu hủy CTR thông thường; quy định thẩm định công nghệ xử lý CTR sinh hoạt do nước ngoài đầu tư. Quản lý CTR, CTNH, nước thải, khí thải của các đối tượng làng nghề cũng chưa được quy định cụ thể. Ngoài ra, hiện nay cũng chưa có cơ quan chịu trách nhiệm tập trung quản lý thông tin, dữ liệu về quản lý CTR ở cấp Trung ương, cũng như ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ tư là, thiếu các quy hoạch tổng thể quản lý chất thải rắn ở các tỉnh ĐBSH: Hiện nay, chỉ có tỉnh Quảng Ninh lập quy hoạch quản lý CTR, còn lại hầu hết các

tỉnh ĐBSH chưa xây dựng quy hoạch quản lý CTR.Nội dung chủ yếu vẫn chỉ xoay quanh vấn đề lựa chọn vị trí bãi chôn lấp/khu xử lý dẫn đến chưa xây dựng được một quy hoạch quản lý tổng thể CTR.Việc lựa chọn địa điểm công trình xử lý CTR được thực hiện lồng ghép trong quy hoạch xây dựng đã có từ lâu, tuy nhiên, việc lập luận chứng lựa chọn địa điểm các bãi chôn lấp cũng hết sức đơn giản, thiếu căn cứ khoa học và chỉ là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên liên quan nên các địa phương gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn địa điểm bãi chôn lấp theo Thông tư 01/2001/TTLT-KHCNMT-BXD. Chính vì vậy nhiều nơi vị trí các bãi chôn lấp được quy hoạch đặt ở vị trí không phù hợp như bãi rác Tràng Cát (Hải Phòng),... Trong những năm gần đây, thành công của một số nhà máy xử lý rác thải theo công nghệ trong nước với những ưu điểm như tiết kiệm diện tích đất, không cần diện tích dành cho bãi chôn lấp rác với quy mô lớn... đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn địa điểm và quy hoạch xây dựng khu xử lý do không gây ONMT xung quanh. Tuy nhiên, việc triển khai nhân rộng còn gặp nhiều khó khăn do vốn đầu tư còn hạn chế, tính đồng bộ và mức độ hiện đại hóa chưa cao, các công nghệ xử lý CTR chưa được sản xuất ở quy mô công nghiệp. Một vấn đề cần quan tâm khác, đó là quy hoạch quản lý CTR chưa đề cập tới quy hoạch, quản lý các bãi chôn lấp CTR đã đóng cửa. Hiện nay, phần lớn các bãi rác đã đóng cửa vẫn đang tiếp tục gây ONMT. Nguyên nhân là do trước đây, các bãi rác này đều là những bãi chôn lấp không hợp vệ sinh, sau khi đã đóng cửa các bãi chôn lấp, quyền quản lý được giao cho cơ quan hành chính, không đủ chức năng giám sát, kiểm soát và xử lý ô nhiễm nên vẫn là những điểm nóng, gây ONMT xung quanh.

Page 112: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

107

3.3.1.5. Thực hiện pháp luật về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử trong môi trường làng nghề

* Về tuân thủ pháp luật: Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra của chính quyền địa phương các cấp ở các

tỉnh ĐBSH cho thấy rất nhiều cơ sở sản xuất ở các làng nghề chưa tuân thủ pháp luật về quản lý, thu gom và xử lý chất thải, không thu gom, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn, QCKT Quốc gia về môi trường; thường xuyên xả nước thải, khí thải không đạt QCVN ra môi trường xung quanh ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và DTLS trong chính các làng nghề hoặc ở các vùng lân cận. Điển hình như làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân (Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), nằm trong quần thể khu danh thắng Tràng An, thường xuyên thải khí thải, bụi đá, gây tiếng ồn,... trong một thời gian dài gây ô nhiễm và ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên, DTLS của quần thể khu danh thắng, khiến các nhà chức trách phải vào cuộc tìm giải pháp khắc phục, cải thiện tình hình.

* Về thi hành pháp luật: Công tác quản lý, chỉ đạo việc THPL về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, DTLS ở

các làng nghề vùng ĐBSH chưa được quan tâm đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan với chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác DTLS, văn hoá và danh thắng trên địa bàn các tỉnh ĐBSH chưa chặt chẽ.

Quá trình triển khai thực hiện pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh" [78] ở các làng nghề vùng ĐBSH còn bộc lộ những khuyết điểm và yếu kém như: Công tác quản lý, bảo vệ và sử dụng di tích và danh thắng ở một số nơi chưa chặt chẽ, chưa đúng với pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh". Còn để tình trạng tự ý tu bổ, cơi nới, cải tạo di tích, lấn chiếm đất đai xung quanh khu vực di tích; xây dựng nhà và làm một số công trình công cộng nhưng không được ngành văn hoá thẩm định, đã làm thay đổi và giảm giá trị lịch sử, văn hoá nguyên gốc của di tích, ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường, mất đi sự tôn nghiêm của di tích.

Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, DTLS ở các làng nghề còn chưa được quan tâm. Công tác tuyên truyền vận động người dân tham gia xây dựng môi trường du lịch chưa được quan tâm làm tốt. Việc tuyên truyền giáo dục phổ biến pháp lệnh "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh" còn hạn chế.

* Về áp dụng pháp luật: Vấn đề môi trường chưa được lồng ghép trong quá trình xây dựng Luật di sản

văn hóa và Luật Du lịch. Cụ thể là, Luật di sản văn hóa sửa đổi năm 2009 không đề cập đến vấn đề môi trường. Luật Du lịch 2005 có đề cập đến vấn đề BVMT cảnh quan du

Page 113: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

108

lịch như: “UBND các cấp có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế của địa phương”; “Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm thu gom, xử lý các loại chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh; khắc phục tác động tiêu cực do hoạt động của mình gây ra đối với môi trường”; “Khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và các tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan, môi trường”,... [95]. Tuy nhiên, vấn đề BVMT được đề cập trong luật còn rất chung chung, chưa quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ cụ thể của các đơn vị cơ quan quản lý, chưa đưa ra các hình thức xử phạt cụ thể cho các đối tượng vi phạm pháp luật về BVMT cảnh quan du lịch.

Bên cạnh đó, còn nhiều loại quyết định liên quan đến sử dụng và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ, trùng tu DTLS nhưng chưa có sự lồng ghép hoặc mức độ lồng ghép còn chưa hợp lý.

Ngoài ra, công tác thanh tra, kiểm tra việc THPL về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, DTLS tại các làng nghề thời gian qua cũng chưa được chú trọng, hầu như bị bỏ ngỏ. Đây chính là nguyên nhân làm cho tình hình vi phạm "Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh", tình hình lấn chiếm đất đai, xây dựng và khai thác vật liệu trái phép tại các di tích diễn ra trong một thời gian dài.

3.3.2. Nguyên nhân hạn chế 3.3.2.1. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất là, quy định pháp luật BVMT làng nghề ở Trung ương chưa hoàn thiện,

còn nhiều thiếu sót: Mặc dù Điều 70 Luật BVMT năm 2014 sửa đổi đã nêu rõ về công tác BVMT

làng nghề và chính phủ mới ban hành Nghị Định 19/2015/NĐ-CP [59], tuy nhiên các văn bản này vẫn chưa có những hướng dẫn thực hiện cụ thể các nội dung về BVMT làng nghề, gây lúng túng cho các đơn vị, cá nhân trong quá trình THPL về BVMT làng nghề. Chính vấn đề này gây nên những bất cập,hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, đó là hiện tượng tiêu cực, làm ngơ trước pháp luật của một số bộ phận người dân trong làng nghề cũng như cán bộ quản lý môi trường làng nghề. Các văn bản dưới Luật được nêu ở trên mặc dù có đề cập đến vấn đề ONMT làng nghề nhưng chỉ dừng lại ở việc coi ONMT trong SXLN là một vấn đề cần quan tâm chứ chưa có các qui định cụ thể về THPL kiểm soát, hạn chế và xử lý ONMT làng nghề. Nhiều cơ chế, chính sách và các văn bản QPPL hiện hành không phù hợp nếu áp dụng cho SXLN trong cả nước nói chung, ở các tỉnh ĐBSH nói riêng. Cụ thể:

- Nghị định 66/2006/NĐ-CP mới dừng lại ở mức độ coi BVMT là nội dung cần quan tâm trong phát triển ngành nghề nông thôn chứ chưa có các quy định cụ thể về

Page 114: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

109

việc các làng nghề thì phải có hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung, phải có các biện pháp giảm thiểu phát sinh khí thải [41].

- Các nghị định hướng dẫn thi hành Luật BVMT 2005 (Nghị định 80/2006/NĐ-CP, Nghị định 21/2008/NĐ-CP) được quy định đối với mọi nhóm đối tượng, tuy nhiên để áp dụng được đối với làng nghề đôi khi không phù hợp. Theo Nghị định 80 và Nghị định 21, mọi đối tượng sản xuất kinh doanh đều phải lập báo cáo ĐTM hoặc cam kết BVMT (đối với các dự án đầu tư mới) và lập đề án BVMT (đối với các cơ sở đang hoạt động) [48, 43]. Tuy nhiên, hầu hết các hộ sản xuất trong làng nghề đều không thực hiện vấn đề này, và trên thực tế nội dung này rất khó có thể áp dụng được với đặc thù làng nghề, do đó việc THPL về BVMT làng nghề trong lĩnh vực này là rất hạn chế, bất cập.

- Nghị định 81/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT [43] nếu như áp dụng đối với đối tượng hoạt động trong làng nghề là không phù hợp. Vì tất cả các hộ sản xuất của làng nghề đều gây ONMT ở mức độ khác nhau, nếu áp dụng đúng qui định của Nghị định thì tất cả các hộ sản xuất đều thuộc đối tượng bị xử phạt. Nếu áp dụng xử phạt thì hầu hết các hoạt động sản xuất nghề tại làng nghề sẽ không thể tiếp tục hoạt động do hộ sản xuất nghề không có đủ khả năng nộp tiền phạt hoặc không có khả năng tự xử lý được môi trường đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra bên ngoài. Mặt khác, mối quan hệ xã hội trong làng nghề theo tính chất dòng họ, tình làng nghĩa xóm nên rất khó để tiến hành xử lý vi phạm và các thủ tục cưỡng chế đối với hộ sản xuất nghề vi phạm.

- Các Nghị định, Thông tư khác về thu phí BVMT đối với nước thải, CTR, áp dụng TCVN về môi trường hay phân loại, đăng ký chủ nguồn thải nguy hại hoặc hướng dẫn các qui định về BVMT rất khó triển khai trong hoạt động SXLN cũng như khuyến khích các hộ sản xuất nghề tự giác thực hiện các qui định về BVMT.

Các quy định, văn bản, chính sách, còn chồng chéo nhau, không phân biệt được cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cá nhân về trách nhiệm quản lý MTLN và giữa các đơn vị này chưa có sự thống nhất khi giải quyết vấn đề MTLN; thiếu một cơ quan “đầu mối”. Đây là nguyên nhân dẫn đến cơ chế phối hợp giữa các bộ/ngành và giữa các ngành ở các tỉnh ĐBSH thiếu gắn kết và nhiều bất cập, do đó việc THPL về BVMT làng nghề gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai là, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và các tỉnh đồng bằng sông Hồng còn bất cập, chồng chéo, không rõ ràng:

Các chính sách, quy định, văn bản còn chồng chéo nhau, không phân biệt được cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cá nhân về trách nhiệm quản lý MTLN và giữa các đơn vị này chưa có sự thống nhất khi THPL về BVMT làng nghề; thiếu một cơ quan “đầu mối”. Vai trò trách nhiệm trong công tác quản lý MTLN giữa các

Page 115: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

110

Bộ, ngành và giữa các Bộ, ngành với địa phương còn bất cập, chồng chéo và không rõ ràng.

Thứ ba là, bản chất và đặc thù của SXLN ở các tỉnh ĐBSH: Làng nghề ở Việt Nam nói chung, ở vùng ĐBSH nói riêng, phát triển có tính tự

phát, thiếu định hướng, hoạt động manh mún, nhỏ lẻ, biến động theo thị trường nên không ổn định về quy mô sản xuất, công suất, loại hình sản phẩm, nguyên liệu sử dụng,… nên tất yếu dẫn đến những bất cập trong công tác quản lý nói chung và THPL về BVMT làng nghề nói riêng. Ngoài những LNTT, có giá trị cần được bảo tồn và phát triển, đã xuất hiện sự phát triển hàng loạt cụm “cơ sở công nghiệp nhỏ” ở địa bàn nông thôn, thực chất là một loại “làng nghề” trá hình, lấy danh nghĩa làng nghề để trốn tránh các nghĩa vụ đối với xã hội, trốn các loại phí, thuế, lệ phí nói chung và lệ phí bị phạt khi vi phạm THPL Về BVMT làng nghề nói riêng, trốn tránh các chế tài về BVMT.

Thứ tư là, ảnh hưởng của tình hình phát triển kinh tế-xã hội đến ngân sách đầu tư cho BVMT làng nghề :

Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn thấp (nhất là các khu vực nông thôn, miền núi) nên việc kêu gọi đầu tư mà chưa chú trọng đúng mức các yêu cầu, qui định về BVMT làng nghề vẫn còn khá phổ biến. Ngoài ra, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến đầu tư cho BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH từ doanh nghiệp và xã hội giảm mà không tăng trong giai đoạn vừa qua, chỉ vừa mới có dấu hiệu được phục hồi trong một vài năm trở lại đây.

3.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất là, các quy định pháp luật của các cơ quan quản lý môi trường làng

nghề vùng đồng bằng sông Hồng còn nhiều thiếu sót: Hầu hết các làng nghề ở các tỉnh ĐBSH đều có hương ước, qui ước chung của

làng, trong đó đều có những khoản mục về BVMT, cho dù những qui định này vẫn ở mức độ đơn giản. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương ở các tỉnh ĐBSH có làng nghề cũng ban hành những qui định riêng về BVMT đối với địa phương nói chung và đối với các hoạt động sản xuất nghề nói riêng. Tuy nhiên, các qui định này thường không được thực thi một cách hiệu quả. Điều này góp phần làm giảm năng lực quản lý của chính quyền địa phương tại các tỉnh ĐBSH cũng như không có tác dụng lớn trong cố gắng giảm thiểu ONMT làng nghề. Hầu hết các làng nghề xây dựng hương ước, qui ước mang tính chất phong trào, năng lực soạn thảo hương ước, qui ước còn hạn chế. Nội dung BVMT của hương ước, qui ước còn rất đơn giản, chủ yếu tập trung vào vấn đề vệ sinh môi trường. Chưa có các qui định rõ ràng đối với các hộ sản xuất nghề trong việc hạn chế gây ONMT. Chính vì thế nội dung của các hương ước, qui ước còn nặng

Page 116: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

111

tính hình thức, dẫn đến các qui định về BVMT làng nghề còn thiếu thực tiễn, dẫn đến tình trạng bất cập trong THPL về BVMT làng nghề. Rất nhiều làng nghề ở các tỉnh ĐBSH không phổ biến rộng rãi hương ước, qui ước cho người dân làng nghề nói chung và các hộ sản xuất nghề nói riêng. Chính vì vậy tại nhiều làng nghề người dân không nắm được các qui định pháp luật về BVMT làng nghề nêu trong các hương ước, qui ước. Mặt khác, hương ước, qui ước được đề xuất của các làng nghề nên không có tính chất pháp lý, vì thế chưa phải là chế tài pháp lý để hạn chế hành vi gây ONMT của các hộ sản xuất nghề.

Ngoài ra, thủ tục đăng kí kinh doanh chưa thuận lợi, các doanh nghiệp muốn đăng kí kinh doanh phải đi qua hai cấp xã và huyện là nguyên nhân các doanh nghiệp tại làng nghề thường không muốn đăng ký kinh doanh để lẩn tránh quản lý, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ BVMT với nhà nước, gây nên tình trạng tuân thủ pháp luật về BVMT làng nghề không nghiêm.

Thứ hai là, thiếu sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và vai trò mờ nhạt của chính quyền các tỉnh ĐBSH trong công tác quản lý và THPL về BVMT làng nghề:

Các kết quả điều tra cho thấy chính quyền địa phương (cấp thôn, xã) ở nhiều nơi vùng ĐBSH còn thiếu sự quan tâm đến tình trạng ONMT làng nghề cũng như hạn chế hành vi gây ONMT của các hộ sản xuất nghề. Rõ ràng vấn đề BVMT làng nghề chưa được chính quyền địa phương xem xét như một mục tiêu quan trọng trong công tác quản lý và THPL. Chính vì thế, việc đầu tư thời gian và các nguồn lực THPL về BVMT làng nghề bị xem nhẹ, sự quan tâm trong chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền địa phương về THPL về BVMT làng nghề còn thiếu thường xuyên, kịp thời và “đủ độ”. Trừ một số làng nghề gây ONMT nghiêm trọng, còn hầu hết các làng nghề chưa được có hoặc không thường xuyên có các cán bộ quản lý môi trường thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường hoặc hỗ trợ các hộ SXLN thực hiện công tác BVMT. Nhiều lý do được nêu ra như lực lượng cán bộ quá mỏng, nhiều làng nghề vấn đề môi trường chưa đến mức bức xúc,…

Ở các tỉnh ĐBSH, vai trò của chính quyền sở tại trong công tác quản lý và THPL về BVMT làng nghề còn mờ nhạt, thiếu sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý môi trường các cấp. Ví dụ, khi xảy ra sự cố môi trường cơ quan quản lý môi trường cần khắc phục nhanh để tránh ảnh hưởng nặng nề tới môi trường, lúc này rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng, các nhà khoa học. Trên thực tế, vai trò, vị trí rất quan trọng của chính quyền địa phương các cấp, nhất là cấp xã, Trưởng thôn trong THPL về BVMT làng nghề còn bị mờ nhạt, chưa phát huy và đáp ứng được các yêu cầu của công tác THPL về BVMT làng nghề.

Page 117: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

112

Thứ ba là, nhận thức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý về môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng còn yếu:

Lực lượng cán bộ làm công tác môi trường các cấp từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH còn quá mỏng về số lượng và hạn chế về chất lượng. Hầu hết các tỉnh ĐBSH thiếu hụt cả về nhân sự, phương tiện và tài chính cho việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức về THPL về BVMT đến các hộ sản xuất nghề. Nhận thức của cán bộ địa phương (cấp phường, xã) về THPL về BVMT làng nghề cũng còn rất hạn chế, chính vì thế việc phổ biến kiến thức pháp luật trong lĩnh vực này tới các hộ sản xuất nghề không được thực thi.

Đối với cấp xã, phường và thị trấn ở các tỉnh ĐBSH, là cấp liên quan trực tiếp đến công tác BVMT làng nghề, kiến thức về môi trường là rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của làng nghề. Ở cấp này, không có cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường, phần lớn cử một cán bộ kiêm nhiệm, thường thì cán bộ địa chính không có chuyên môn về lĩnh vực môi trường kiêm nhiệm thực hiện công tác quản lý môi trường nên còn nhiều bất cập trong việc quán triệt và triển khai các văn bản QPPL về THPL về BVMT làng nghề.

Thứ tư là, ý thức về BVMT làng nghề của các cơ sở sản xuất, hộ gia đình làm nghề và nhân dân ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng còn kém:

Nhận thức về ô nhiễm trong sản xuất của các hộ nghề rất hạn chế, nhiều khi mang tính bảo thủ. Đối với các hộ sản xuất nghề nhỏ, họ cho rằng đã sản xuất thì phải gây ô nhiễm, đó là tất yếu của làng nghề. Tuy nhiên, mức độ ô nhiễm họ tự đánh giá là rất ít và không độc hại. Những hộ sản xuất này thường thoái thác trách nhiệm, họ không thừa nhận những hành vi gây ô nhiễm và thường bao biện theo những quan điểm cá nhân. Đó là lý do gây nên tình trạng tuân thủ pháp luật về BVMT làng nghề chưa nghiêm.

Đối với các hộ sản xuất lớn, tuy nhận thức về vấn đề ONMT từ quá trình sản xuất nghề đầy đủ hơn, nhưng trên thực tế, các cơ sở này vẫn thường có hành vi xả thải bừa bãi các chất thải ra môi trường nhằm tránh ô nhiễm trong khu vực sản xuất của cơ sở. Đây là hiện tượng phổ biến đối với các làng nghề tái chế, đặc biệt là xả nước thải có đặc tính ô nhiễm rất cao ra môi trường, là hình thức vi phạm nghiêm trọng việc THPL về BVMT làng nghề.

Trình độ dân trí của chủ cơ sở sản xuất nghề và người lao động còn hạn chế, chưa thực sự hiểu và nắm bắt được chính xác các văn bản QPPL, nặng tính bảo thủ và đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu. Mặt khác, tính cộng đồng của làng nghề ở các địa phương khác nhau thì khác nhau do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vì thế ở

Page 118: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

113

những nơi người dân có tính cộng đồng thấp và việc THPL về BVMT làng nghề rất khó khăn.

Sự quan tâm của các hộ sản xuất nghề trong cố gắng giảm thiểu ô nhiễm rất hạn chế, thậm chí còn cố tình gây ô nhiễm. Hầu hết các hộ sản xuất chỉ quan tâm đến kết quả sản xuất mà không chú ý đến các hành vi xả thải, cho dù hậu quả của các hành vi này là gây ô ONMT làm việc của chính cơ sở sản xuất, cho cộng đồng dân cư xung quanh và cho các thành phần môi trường chung.

Các hành vi thải trộm chất ô nhiễm, thiếu hợp tác với chính quyền địa phương, không tuân thủ các qui định pháp luật về BVMT làng nghề,… đã cho thấy sự thiếu quan tâm và tham gia của các hộ sản xuất nghề trong công tác THPL về BVMT và tập trung nhiều vào nhóm đối tượng sản xuất nghề nhỏ lẻ. Sự thiếu am hiểu về pháp luật về môi trường và thiếu thông tin tư vấn hầu hết các hộ sản xuất gây ô nhiễm chưa thực hiện các qui định pháp lý về BVMT như ĐTM, lập đề án BVMT, lập bản cam kết đạt tiêu chuẩn môi trường,... hay tuân thủ những qui định về xả thải và đảm bảo chất lượng môi trường xung quanh.

Hầu hết các cơ sở sản xuất của làng nghề đầu tư rất ít cho công tác BVMT, có tâm lý ỷ lại, chờ đợi, coi việc xử lý hậu quả ô nhiễm làng nghề là việc của nhà nước do đó chưa dành các nguồn ngân sách định kỳ trong hoạt động sản xuất cho công tác BVMT, chưa đưa vấn đề môi trường vào trong hạch toán sản xuất. Ví dụ, nhiều hộ sản xuất có doanh thu lên tới vài trăm triệu đồng một năm nhưng khi được yêu cầu đóng góp các khoản cho vệ sinh môi trường thì thoái thác trách nhiệm, chây ỳ. Nhiều hộ sản xuất được nhà nước đầu tư các công trình xử lý chất thải, sau khi nhận bàn giao thì không vận hành. Chính vì thế, công tác BVMT bị xem nhẹ trong quá trình sản xuất cũng như mức độ ô nhiễm ngày càng gia tăng theo qui mô sản xuất.

Các làng nghề thường ở các khu vực nông thôn, do đó những mối quan hệ trong cộng đồng dân cư làng nghề thường mang nặng quan điểm tỉnh cảm như quan hệ họ hàng, xóm giềng,… Chính vì vậy mà những người dân này thường bàng quan, né tránh trong việc phản ánh các hành vi gây ô nhiễm của các cơ sở sản xuất nghề, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý môi trường trong việc phát hiện, kiểm soát và xử lý, khắc phục sự cố môi trường.

Kết quả điều tra cho thấy, chỉ khi các làng nghề bị ô nhiễm nặng nề, người dân mới có những phản ứng sau khi chịu tác động tiêu cực từ ô nhiễm. Tuy nhiên những phản ứng của người dân đôi khi mang tính tiêu cực, thiếu sự xây dựng cũng như thiếu nỗ lực trong hợp tác với chính quyền và các cơ sở sản xuất nghề tìm giải pháp giảm thiểu ô nhiễm. Đối với những làng nghề có qui mô sản xuất nhỏ, mức độ ô nhiễm còn ít

Page 119: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

114

thì người dân ít tham gia trong việc phản ánh, giám sát các hành vi gây ô nhiễm của các hộ sản xuất nghề nếu khu vực họ sinh sống không hoặc ít bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm. Thiếu sự tham gia của cộng đồng dân cư khu vực làng nghề là một trong những nguyên nhân hạn chế việc thực thi pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ năm là, trình độ khoa học công nghệ áp dụng trong sản xuất làng nghề ở các tỉnh ĐBSH còn thấp, lạc hậu; trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, trình độ người lao động văn hóa thấp và chuyên môn kỹ thuật hạn chế:

Phần lớn làng nghề Việt Nam đều áp dụng các công nghệ truyền thống và chủ yếu là lao động thủ công được truyền lại từ đời này qua đời khác thông qua các thế hệ con cháu. Đa số lao động trong các hộ gia đình, hộ ngành nghề ở nông thôn nói chung cũng như ở các làng nghề, trình độ học vấn và chuyên môn, kỹ thuật thấp, kiến thức nghề nghiệp không toàn diện. Do đó, sự phát triển các công nghệ này đều dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu. Cùng với sự áp dụng công nghệ đơn giản và lạc hậu, các làng nghề cũng sử dụng phần lớn các trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Theo điều tra của Viện KHCN môi trường [38, 39] về số lượng và chủng loại các làng nghề cũng như hiện trạng thiết bị được sử dụng, hiện nay cả nước có tới 1450 làng nghề nhưng hầu hết các thiết bị để sản xuất của các làng nghề đều được chế tạo năm 1950-1960 và chủ yếu đều được mua lại từ các doanh nghiệp nhà nước đã thanh lý. Ví dụ, tại làng nghề Vạn Phúc, gần 100% là máy sản xuất và chế tạo tại Việt Nam từ những năm 1950 vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ngoài ra, rất nhiều các thiết bị sản xuất được chính các xưởng cơ khí địa phương chế tạo theo đơn đặt hàng của các nhà quản lý xưởng cho phù hợp với nhu cầu sản xuất. Hơn 60% số hộ ngành nghề sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công. Số hộ có trang bị máy móc cơ khí, công cụ cơ khí, bán cơ khí mới chiếm khoảng 40%, song phần lớn là các loại máy móc cơ khí, công cụ cơ khí nhỏ, công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu do các cơ sở công nghiệp thanh lý, thải loại hoặc máy móc thiết bị cũ chấp vá từ nhiều nguồn khác nhau. Công nghệ sản xuất lạc hậu không chỉ làm hạn chế năng suất, chất lượng sản phẩm, tiêu hao nhiều nguyên liệu, năng lượng và sức lao động cho một đơn vị sản phẩm của các cơ sở ngành nghề, mà còn trực tiếp gây ra các hệ quả xấu về môi trường. Các loại vật liệu cũng không được tận dụng, điển hình là các làng nghề chế biến lương thực và thực phẩm như Dương Liễu, Cát Quế, Minh Khai, bã thải rắn sau sản xuất vẫn chứa một lượng lớn tinh bột, vừa gây lãng phí vật liệu, vừa gây ONMT nghiêm trọng do thải ra một lượng lớn các chất hữu cơ.

Như vậy, tính khoa học, kỹ thuật và cải tiến sản xuất theo hướng tiên tiến chưa được các cơ sở sản xuất nghề nhìn nhận nghiêm túc là nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong THPL về BVMT làng nghề vùng ĐBSH.

Page 120: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

115

Thứ sáu là, công tác thông tin và chia sẻ thông tin còn yếu kém: Mặc dù còn nhiều bất cập và thiếu sót của hệ thống văn bản pháp lý trong THPL

về BVMT làng nghề, tuy nhiên, nếu áp dụng đầy đủ và nghiêm túc các văn bản pháp lý hiện có thì sẽ cải thiện đáng kể nhận thức về công tác BVMT của các hộ sản xuất nghề và hạn chế được các hành vi gây ô nhiễm. Qua khảo sát các làng nghề cho thấy hệ thống văn bản pháp lý chưa được cập nhật, phổ biến hoặc có rất ít tại các làng nghề. Ngay tại địa phương có làng nghề (cấp xã), các văn bản pháp lý này có rất ít và không được phổ biến đến các hộ sản xuất nghề.

Các văn bản pháp lý từ Trung ương thường được đăng trên công báo, nhưng hầu hết chính quyền cấp xã tại các làng nghề đều không có công báo, do đó việc cập nhật thông tin không thường xuyên. Địa phương cũng thiếu sự hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý môi trường các cấp trong công tác truyền thông môi trường.

Thứ bảy là, hoạt động thanh tra, kiểm tra không thường xuyên và thiếu nghiêm túc, sơ kết, tổng kết, giải quyết khiếu tố khiếu nại, xử lý vi phạm pháp luật còn mang tính hình thức, và khen thưởng trong việc thực hiện pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH chưa được quan tâm:

Trên thực tế, nhiều làng nghề đã xảy ra xung đột môi trường hoặc khiếu kiện kéo dài, vượt cấp nhưng chưa được chính quyền và cơ quan quản lý môi trường giải quyết kịp thời và triệt để, dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật BVMT làng nghề tiếp tục gia tăng. Tại một số làng nghề còn xảy ra hiện tượng cán bộ địa phương hoặc cán bộ quản lý môi trường có hành vi bao che, dung túng cho việc gây ô nhiễm của các cơ sở xuất nghề, không giải quyết nghiêm túc các kiến nghị, khiếu kiện của người dân đối với các hành vi gây ô nhiễm của một số cơ sở sản xuất nghề, có hành vi trù dập đối với những người phản ánh vấn đề ô nhiễm của làng nghề. Đây chính là một nguyên nhân không nhỏ khiến cho việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH không nghiêm.

Thiếu chế tài trong việc kiểm tra và xử phạt các hành vi gây ONMT của các hộ sản xuất nghề. Các qui định xử phạt các hành vi gây ONMT theo Nghị định số 81/2006/NĐ-CP đối với cấp xã còn quá hạn chế. Không có thẩm quyền kiểm tra, xử phạt đối với các cơ sở sản xuất nằm ở các cụm, khu công nghiệp liền kề địa phương gây ô nhiễm cho làng nghề.

Tuy Nhà nước đã quan tâm và có những chính sách nhất định như: ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT nói chung và làng nghề nói riêng; nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự khuyến khích; tác dụng mang tính chất “đòn bẩy” rất hạn chế;…

Page 121: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

116

Thứ tám là, khuyến khích việc xã hội hóa và đa dạng hóa đầu tư tài chính cho BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH chưa được chú trọng:

Đầu tư cho công tác xử lý chất thải và BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH chưa được chú trọng. Tỷ trọng kinh phí đầu tư cho hoạt động xử lý chất thải trong các dự án đầu tư là không đáng kể, vì vậy, cần đặc biệt quan tâm khi phê duyệt và kiểm soát việc sử dụng kinh phí cho các hạng mục công trình BVMT trong các dự án đầu tư phát triển. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà trước hết là bố trí kinh phí, nên tiến độ xử lý ô nhiễm đối với 15 làng nghề theo Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg; cũng như tiến độ thực hiện Dự án Kiểm soát ONMT làng nghề của Bộ TNMT bị chậm, kéo dài,…

Ở các tỉnh ĐBSH, ngân sách dành cho công tác BVMT rất hạn chế. Do vậy, việc xây dựng hệ thống thoát nước thải chung của làng nghề cũng như xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung không thể thực hiện được nếu không có nguồn tài chính từ Chính phủ hoặc các nhà tài trợ. Ngay cả công tác vệ sinh môi trường của làng nghề cũng thiếu hụt nguồn kinh phí để duy trì. Phần lớn các làng nghề phải thu phí từ các hộ dân để chi phí cho công tác thu gom rác thải và vệ sinh môi trường. Do thiếu kinh phí nên công tác truyền thông môi trường (thông qua hệ thống truyền thanh) và phụ cấp cho những người kiêm nhiệm công tác môi trường rất ít dẫn đến thiếu hiệu quả trong hoạt động THPL về BVMT làng nghề.

Đối với các hộ sản xuất nghề, nguồn lực tài chính sử dụng trong sản xuất chủ yếu huy động từ những mối quan hệ gia đình và sử dụng để đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị sản xuất, nhập nguyên nhiên liệu,… Mặt khác, phần lớn các hộ sản xuất nghề có qui mô sản xuất nhỏ nên không đủ nguồn lực tài chính đầu tư cho các hệ thống xử lý ô nhiễm. Sự thiếu hụt về nguồn tài chính cũng là nguyên nhân các hộ sản xuất nghề nhập những máy móc, thiết bị lạc hậu có mức độ gây ô nhiễm lớn.

Một số cơ sở sản xuất nghề ở mức độ lớn hơn có khả năng đầu tư các dây chuyền máy móc thiết bị lớn. Nhưng việc tiếp cận các nguồn thông tin mới về công nghệ sản xuất theo hướng thân thiện môi trường còn thiếu. Phần lớn các hộ sản xuất nghề mua máy móc, thiết bị thiếu đồng bộ, cải tiến theo kinh nghiệm nên quá trình sản xuất tiêu tồn nhiều hơn nguyên nhiên liệu đầu vào và hiệu quả sản xuất thấp, và lượng chất thải phát sinh sẽ nhiều hơn. Những cố gắng trong việc cung cấp thông tin về nguồn tài trợ kinh tế và kỹ thuật tới các làng nghề còn hạn chế. Chỉ có một vài làng nghề có tiếng hoặc về ô nhiễm, hoặc về sản phẩm làng nghề nhận được những tài trợ nhỏ về tài chính và hỗ trợ kỹ thuật trong xử lý ô nhiễm và truyền thông môi trường. Còn lại phần lớn các làng nghề không tiếp cận được với các nguồn thông tin này.

Page 122: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

117

Kết luận chương 3

Làng nghề ĐBSH với những điều kiện tự nhiên và xã hội đặc thù, đã tạo ra những lợi thế và động lực to lớn cho các làng nghề của vùng ĐBSH tồn tại và phát triển lâu dài, nhưng quy mô của từng cơ sở quá nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công là chính nên tình trạng ONMT ở nhiều làng nghề đã trở nên nghiêm trọng.

Hiện nay, THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH đã đạt được một số kết quả nhất định như: Hệ thống chính sách, pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về BVMT làng nghề được xây dựng và hoàn thiện từng bước. Từ cấp Trung ương đến các tỉnh ĐBSH đã bổ sung, ban hành hàng loạt văn bản, quy định về BVMT nói chung, một số văn bản quy định riêng, đặc thù cho làng nghề, tuy số lượng còn hạn chế; Nguồn lực tài chính và các điều kiện cần thiết cho BVMT làng nghề được bảo đảm ngày càng tốt hơn; Một số bộ, ngành và địa phương đã và đang tích cực, chủ động trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm soát, phát hiện, xử lý ONMT làng nghề; Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức môi trường và pháp luật về BVMT đối với làng nghề đã được quan tâm ở mức độ nhất định.

Tuy nhiên, do năng lực, nguồn lực hạn chế, nên hầu hết các tỉnh ĐBSH còn chậm trong việc quán triệt và triển khai các chính sách, văn bản QPPL về BVMT tới chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã và đặc biệt là các hộ, cơ sở sản xuất tại làng nghề. Chính vì vậy, ngoài rất ít số vụ vi phạm pháp luật về BVMT tại làng nghề đã được xử lý, những công cụ quản lý khác cũng triển khai rất khó khăn. Các quy định, văn bản, chính sách, còn chồng chéo nhau, không phân biệt được cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cá nhân liên quan đến vấn đề làng nghề và giữa các đơn vị này chưa có sự thống nhất khi giải quyết vấn đề MTLN. Còn thiếu các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết việc thực thi luật môi trường vào làng nghề, gây lúng túng cho đơn vị, cá nhân thi hành luật. Sự kết hợp giữa các bộ phận quản lý môi trường và các đơn vị, các cá nhân khác không linh hoạt và kịp thời. Chưa xây dựng được một hệ thống tiêu chuẩn môi trường hữu hiệu cho làng nghề. Việc thực thi một số chính sách mới ban hành gần đây còn chậm chạp, công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường cũng như thanh tra việc thi hành luật tại các làng nghề chưa được thường xuyên và triệt để, tạo ra những khe hở trong thực hiện luật BVMT.

Page 123: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

118

Chương 4 DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

4.1. DỰ BÁO VÀ QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

4.1.1. Dự báo tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề và áp lực lên môi trường trong những năm tới

Cùng với nhu cầu thị trường, hoạt động sản xuất tại các làng nghề đã khôi phục và phát triển mạnh mẽ tại khu vực nông thôn, đặc biệt là ở các tỉnh ĐBSH, xu hướng tăng nhiều hơn so với các khu vực khác. Tuy nhên, tùy thuộc vào mức độ phát triển, thị trường tại từng thời điểm và cạnh tranh chất lượng sản phẩm, các loại hình sẽ có sự thay đổi khác nhau. Loại hình sản xuất Vật liệu xây dựng tại các làng nghề do mâu thuẫn và khó khăn để cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp có xu hướng suy giảm, không phát triển. Loại hình sản xuất thủ công mỹ nghệ có tiềm năng phát triển lớn nhất do nhu cầu xuất khẩu và phát triển du lịch. Loại hình dệt nhuộm vẫn tiếp tục phát triển, đặc biệt là khôi phục dệt truyền thống tại các vùng ĐBSH ưu tiên phục vụ nhu cầu xuất khẩu và nhu cầu thị trường trong nước. Loại hình chế biến lương thực, thực phẩm mặc dù hiện nay đa dạng và phát triển, tuy nhiên do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô nhỏ nên chỉ có một số sản phẩm có khả năng phát triển như bún, bánh, chế biến thủy sản… còn các sản phẩm khác thì khó để cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp nên khả năng phát triển không cao.

Trên cơ sở dự báo xu hướng phát triển làng nghề trong những năm tới, thành phần chất thải phát sinh tại các làng nghề cũng có những sự thay đổi nhất định. Cụ thể, lượng chất thải tại các làng nghề thủ công mỹ nghệ, dệt nhuộm, chế biến lương thực thực phẩm khả năng tăng trong thời gian tới cao còn các nhóm loại hình khác tăng thấp, không tăng hoặc có thể giảm dần so với thời điểm hiện tại.

Do đó, nếu tình trạng THPL về quản lý và xử lý chất thải tại các làng nghề thực hiện không tốt thì lượng chất thải sẽ tăng, dẫn đến mức độ ONMT tăng, đặc biệt là đối với các làng nghề có nguy cơ ô nhiễm cao như tái chế phế liệu, chế biến lương thực, thực phẩm. Kết quả là trong thời gian tới, tình trạng ô nhiễm các nguồn tài nguyên nước, đất, không khí và cảnh quan thiên nhiên, DTLS sẽ còn tăng mạnh, khó có thể khắc phục được các sự cố môi trường, khôi phục được các nguồn tài nguyên đất, nước, không khí,... Vì vậy, việc tìm giải pháp nhằm bảo đảm việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH là rất cấp thiết.

Page 124: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

119

4.1.2. Quan điểm thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Thứ nhất là, thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và các nghị quyết của Đảng bộ ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng về phát triển làng nghề và bảo vệ môi trường:

Hiến pháp năm 2013 [98] đã quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam..., là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội bằng việc ban hành ra các chủ trương, đường lối và các cơ quan nhà nước, các tổ chức cần phải cụ thể hóa chủ trương đường lối đó.

Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Đảng ta đã nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của BVMT: “BVMT là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc”, từ đó đề ra nhiều chủ trương, đường lối liên quan đến quản lý, kiểm soát việc THPL về BVMT nói chung, THPL về BVMT làng nghề nói riêng, làm cơ sở để các cơ quan Nhà nước cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản QPPL và tổ chức THPL về BVMT làng nghề, đồng thời cũng là cơ sở để Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH có sự chỉ đạo cụ thể, sát và đúng với điều kiện địa phương mình. Vì vậy, trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở nước ta nói chung, ở các tỉnh ĐBSH nói riêng cần quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng trong việc THPL về BVMT làng nghề, đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, cụ thể:

Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn [3] và đã đề ra một số chủ trương, đường lối trong đó có khôi phục và phát triển các LNTT; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đã có nhiều nội dung về BVMT tại làng nghề như: “Khắc phục cơ bản nạn ONMT ở các làng nghề, các cơ sở công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp đi đôi với hình thành các cụm công nghiệp bảo đảm các điều kiện về xử lý môi trường; chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý khối lượng rác thải đang ngày càng tăng lên” [7]; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, trong đó tập trung nhấn mạnh: “Tăng cường kiểm soát ONMT, đặc biệt là ONMT tại các khu, cụm công nghiệp, tụ điểm khai thác, chế biến khoáng sản, các làng nghề, lưu vực sông, các đô thị lớn và khu vực nông thôn”; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực BVMT [57], trong đó nhấn mạnh: “Triển khai có hiệu quả việc xử lý các làng nghề”, “Rà soát các quy hoạch ngành nghề, làng nghề nông thôn, lập danh mục các loại hình

Page 125: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

120

và quy mô làng nghề cần được bảo tồn và phát triển; các loại hình và quy mô SXLN cần phải loại bỏ khỏi khu vực dân cư, nông thôn”,…

Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác BVMT, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 [118]; Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 ban hành định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) [111]; Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 2/2/2005 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW [113] và Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án tổng thể BVMTLN đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [119]. Các quyết định này đã chỉ rõ những định hướng phát triển, sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT, bảo đảm sự PTBV đất nước.

Trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, bên cạnh việc quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng thì cần phải thực hiện tốt các Nghị quyết của Đảng bộ địa phương vì nó là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng ta vào điều kiện cụ thể phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế, văn hóa của từng địa phương, là cơ sở để chính quyền địa phương cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản quản lý, điều hành trên các lĩnh vực trong đó có THPL về BVMT làng nghề.

Trong điều kiện hiện nay, chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì THPL về BVMT làng nghề trước hết là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng trong lĩnh vực BVMT làng nghề. Các quy định pháp luật về BVMT cũng như quá trình THPL về BVMT làng nghề nhất thiết phải phù hợp với đường lối chính sách của Đảng về BVMT. Hay nói cách khác, THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH phải quán triệt các quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và các Nghị quyết của các Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH nói riêng về BVMT ở các làng nghề.

Thứ hai là, thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng phải gắn với phát triển bền vững làng nghề:

Trong thời đại hiện nay, THPL về BVMT làng nghề và PTBV không chỉ là vấn đề của riêng một quốc gia, một khu vực, mà đó thực sự trở thành mối quan tâm toàn cầu. Thực tế cho thấy tính nguy cấp, phức tạp và nan giải của các vấn đề THPL về BVMT làng nghề đang đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn vai trò của THPL về BVMT làng nghề trong quá trình thực hiện PTBV. Có thể nói, THPL về BVMT làng nghề và PTBV là các vấn đề có tính cấp thiết, liên quan đến nhiều

Page 126: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

121

ngành, nhiều lĩnh vực và xuyên suốt qua nhiều giai đoạn. THPL về BVMT làng nghề là việc quản lý, bảo vệ, cải thiện MTLN, sử dụng hợp lý các yếu tố MTLN và các điều kiện thuận lợi của môi trường nhằm phục vụ sự tồn tại và phát triển KT-XH loài người là những nội dung quan trọng trong hoạt động hiện nay và mai sau của toàn thế giới.

Việt Nam đang thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành CNH, HĐH đất nước trên quan điểm PTBV với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ trương này cần được quán triệt và thể hiện trong các chính sách phát triển và biện pháp tổ chức thực hiện. Trong thập niên đầu của thế kỷ 21, quan điểm PTBV của Việt Nam được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng IX [70]. Theo đó, PTBV của Việt Nam là "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT" và "Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".

Đối với phát triển ngành nghề ở nông thôn, yêu cầu PTBV cũng được khẳng định trong Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ [111], trong đó THPL về BVMT làng nghề là một nội dung được nhấn mạnh trong chủ trương phát triển ngành nghề nông thôn. THPL về BVMT làng nghề phải gắn kết, hài hòa giữa tuân thủ pháp luật về BVMT với duy trì đời sống văn hóa, tinh thần và ổn định tình hình KT-XH tại địa phương, hỗ trợ làng nghề phát triển theo hướng bền vững.

Thứ ba là, thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề là trách nhiệm chung của chính quyền ở Trung ương, địa phương, cộng đồng sản xuất, kinh doanh và của cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng:

Một là, trách nhiệm chung của chính quyền ở Trung ương; địa phương, cộng đồng sản xuất, kinh doanh và cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh ĐBSH trong việc THPL về BVMT làng nghề:

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định “BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và BVMT sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia”. Đây là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về BVMT trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trong đó có trách nhiệm của chính quyền các cấp ở địa phương đóng vai trò chủ động trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, luật pháp

Page 127: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

122

và chính sách chung của Đảng và Nhà nước trong THPL về BVMT làng nghề; hỗ trợ và dẫn dắt các nỗ lực hoạt động BVMT ở làng nghề. Cũng lưu ý rằng chính quyền các cấp địa phương ở đây cũng bao hàm cả các tổ chức chính trị, xã hội ở các tỉnh ĐBSH.

Thực hiện pháp luật về BVMT làng nghề là trách nhiệm chung của các Bộ, ngành, đặc biệt là chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư. THPL về BVMT làng nghề cần phải áp dụng đồng bộ các giải pháp (luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, nâng cao nhận thức,…) và có sự chỉ đạo, thực hiện nhất quán từ Trung ương đến các tỉnh ĐBSH. Luật BVMT năm 2014 đã quy định trách nhiệm cụ thể của UBND cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh trong chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác BVMT làng nghề, tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm của các làng nghề trên địa bàn và có kế hoạch giải quyết tình trạng ONMT của làng nghề.

Trách nhiệm của cộng đồng sản xuất, kinh doanh làng nghề ở các tỉnh ĐBSH bao gồm cả trách nhiệm của bản thân cơ sở sản xuất kinh doanh đối với THPL về BVMT làng nghề theo luật định (thuế, phí BVMT, tiêu chuẩn môi trường…) và cả chia sẻ trách nhiệm đối với việc cải thiện môi trường sinh thái, môi trường sống của cộng đồng dân cư xung quanh vì sự PTBV của nông nghiệp và nông thôn.

Trách nhiệm của cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh ĐBSH không chỉ giới hạn ở sự tự giác trong ý thức, nhận thức về THPL về BVMT làng nghề mà còn trong cả hành động, trong việc tham gia mọi hoạt động BVMT, bao gồm từ việc xây dựng, đề xuất các biện pháp, các hình thức, cách thức THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cho tới việc trực tiếp thực hiện các biện pháp ấy.

Hai là, tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ quá trình sản xuất, kinh doanh từ các làng nghề tại các tỉnh ĐBSH mà gây ONMT, suy thoái tài nguyên và đa dạng sinh học thì phải trả chi phí khắc phục, cải tạo, phục hồi và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật:

Kể từ thập niên 1970 đến nay, thế giới chứng kiến những bước phát triển vượt bậc tại các quốc gia trong việc xây dựng và áp dụng các chính sách để THPL về BVMT làng nghề nhằm kiểm soát các vấn đề ONMT ở các làng nghề một cách hiệu quả. Sự tiến triển mạnh mẽ của các chính sách THPL về BVMT làng nghề trong suốt thời gian này thể hiện qua hai điểm rất đặc trưng: thứ nhất, đó là sự phát triển của một số các nguyên tắc để tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách môi trường dựa trên nền tảng vững chắc, được thừa nhận rộng rãi trên phạm vi quốc tế, mà trong số các nguyên tắc này, nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” (polluter pays principle, viết tắt là PPP) được xem là nguyên tắc quan trọng nhất; và thứ hai là sự phát triển và vận dụng của các công cụ chính sách hết sức phong phú và đa dạng bao gồm các quy định pháp

Page 128: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

123

lý và tiêu chuẩn, thuế và phí môi trường, các thỏa thuận tự nguyện, giấy phép xả thải có thể mua bán trao đổi, và các công cụ khác, nhằm triển khai và thực thi các chính sách môi trường. Nguyên tắc PPP tuy thường xuyên được đề cập đến và được sử dụng như là nguyên tắc nền tảng phổ biến trong quá trình xây dựng chính sách và triển khai vận dụng các công cụ quản lý môi trường vào thực tiễn, nhưng không phải trong mọi trường hợp, PPP đều được áp dụng một cách hoàn toàn chính xác theo đúng với ý nghĩa và bản chất của chính nó.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vấn đề THPL về BVMT làng nghề ở nước ta đang ngày càng nhận được nhiều quan tâm sâu sắc hơn từ cộng đồng. Quyết định số 166/QĐ-TTg [122] của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch thực hiện chiến lược BVMT quốc gia từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Luật BVMT sửa đổi được thông qua năm 2014 đã thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công tác THPL về BVMT làng nghề. Trong hệ thống chính sách quản lý MTLN, chúng ta đã và đang áp dụng thêm nhiều công cụ chính sách mới dựa trên những nguyên tắc tài chính môi trường đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cụ thể là người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ONMT gây ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

4.2.1. Nhóm giải pháp chung để đảm bảo thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

4.2.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở Trung ương

Một trong những nội dung quan trọng sau khi Hiến pháp 2013 ra đời là cần phải xem xét đánh giá lại toàn bộ hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về BVMT làng nghề, nhằm đảm bảo các yêu cầu về tính đồng bộ, tính thống nhất và tính khả thi. Như trong chương 3 đã phân tích, pháp luật về BVMT làng nghề ở nước ta hiện nay còn chưa hoàn thiện: nhiều văn bản còn chồng chéo, nhiều quy định không rõ ràng hoặc còn rất chung chung,... dẫn đến những khó khăn cho các chủ thể trong quá trình THPL về BVMT làng nghề. Để việc THPL về BVMT làng nghề nói chung, ở các tỉnh ĐBSH nói riêng, có hiệu quả cao thì điều kiện tiên quyết, quan trọng là phải dựa trên một hệ thống pháp luật có chất lượng cao. Do đó, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về BVMT làng nghề sẽ là rất cần thiết. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tiến hành đồng bộ theo các phương diện sau đây:

Page 129: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

124

Thứ nhất, thực hiện tốt việc rà soát, hệ thống hóa, tập hợp hóa các văn bản QPPL liên quan tới THPL về BVMT làng nghề ở Trung ương:

Trên thực tế, pháp luật về BVMT làng nghề liên quan tới nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: pháp luật môi trường, pháp luật dân sự, pháp luật thương mại, pháp luật xây dựng, pháp luật về phí, lệ phí,… nên việc có nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, ở nước ta, pháp luật về BVMT làng nghề là một lĩnh vực còn rất mới mẻ, ít được chú ý xây dựng để có tính hệ thống, các quy định còn nằm tản mạn ở nhiều văn bản QPPL khác nhau do các cơ quan khác nhau có thẩm quyền ban hành như Quốc hội, Chính phủ, Bộ TNMT, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đến chính quyền cấp tỉnh,… Do đó xảy ra tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, tính thống nhất và tính khả thi chưa cao, có khi còn bị chi phối bởi “lợi ích nhóm”, ngành, địa phương. Ngoài ra, nhiều văn bản QPPL về BVMT làng nghề được ban hành ở nhiều thời điểm khác nhau và kỹ thuật lập pháp của nhiều văn bản còn hạn chế. Đây là các lý do khách quan dẫn tới đòi hỏi tất yếu của việc rà soát, hệ thống hóa, tập hợp hóa các văn bản QPPL về làng nghề - là bước đầu tiên trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT làng nghề.

Hoạt động này bao gồm các hoạt động: kiểm tra, đánh giá, tập hợp hóa các văn bản QPPL thành những nhóm văn bản để phân loại, đánh giá như: pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể THPL về BVMT làng nghề; pháp luật về trình tự, thủ tục; pháp luật về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, tổ chức tham gia BVMT làng nghề… Chủ thể thực hiện bao gồm nhiều loại cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, nhưng trực tiếp là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý các hoạt động SXLN và BVMT làng nghề như: Bộ TNMT, Bộ NNPTNT, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính. Các hoạt động này cần được tiến hành thường xuyên, liên tục với chương trình và kế hoạch cụ thể để kịp thời phát hiện những văn bản không cần thiết, không còn hiệu lực hoặc mâu thuẫn, trùng lặp cần sửa đổi, bổ sung, cũng như đề xuất ban hành bổ sung những văn bản mới phù hợp với tình hình THPL về BVMT làng nghề, trong đó xác định rõ địa vị pháp lý đối với các chủ thể tham gia THPL về BVMT làng nghề, ghi nhận đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Cụ thể là: nghiên cứu, đề xuất Chính phủ xem xét và rà soát lại Nghị định số 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn và Thông tư số 116/2006/TT-BNN hướng dẫn thực hiện Nghị định số 66/2006/NĐ-CP để bổ sung các loại hình ngành nghề nông thôn vào Danh mục ngành nghề nông thôn được phép hoạt động trong khu dân cư; bổ sung các tiêu chí về BVMT trong bộ Tiêu chí công nhận làng nghề; hoàn thiện quy trình thủ tục công nhận làng nghề (bổ sung vai trò của cơ quan môi trường tại địa

Page 130: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

125

phương) và quản lý các làng nghề được công nhận; nghiên cứu, đề xuất tiêu chí “làng nghề xanh” để công nhận và triển khai các nội dung về hỗ trợ, ưu đãi,…

Như vậy, rà soát, hệ thống hóa, tập hợp hóa các văn bản QPPL về THPL về BVMT làng nghề là công việc đầu tiên, có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về BVMT làng nghề ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, góp phần xây dựng nên một hệ thống pháp luật về BVMT làng nghề đảm bảo chất lượng và tính toàn diện. Đó là việc thể chế hóa một cách đầy đủ, nhất quán đường lối của Đảng trong việc THPL về BVMT làng nghề.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL về BVMT làng nghề do các cơ quan nhà nước ở Trung ương đã ban hành và xây dựng, ban hành mới các văn bản QPPL phù hợp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH :

Sau khi rà soát, hệ thống hóa hệ thống văn bản QPPL, cần thực hiện bổ sung, hoàn thiện các văn bản này nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn đầy đủ Luật BVMT năm 2014, trong đó chú trọng việc xây dựng các văn bản QPPL để cụ thể hóa Luật BVMT. Cần xem xét, ưu tiên các nội dung có liên quan như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia THPL về BVMT làng nghề, về cách thức tổ chức việc THPL về BVMT làng nghề; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm MTLN trong Bộ luật Hình sự, quy định chế tài xử lý nghiêm các QPPL về BVMT làng nghề, xây dựng và ban hành quy định bồi thường thiệt hại về MTLN, cụ thể là:

Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí BVMT đối với CTR [54] chưa chỉ rõ cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm thu phí BVMT đối với CTR ở địa phương. Do vậy thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét quy định cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm thu phí BVMT đối với CTR ở địa phương.

Nghị định số 25/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 về phí BVMT đối với nước thải [56] chưa quy định cụ thể các đối tượng vi phạm, đã gây khó khăn trong quá trình thực hiện như: một đối tượng bị thu phí hai lần; chưa công bố định mức phát thải của chất gây ô nhiễm làm căn cứ tính toán khối lượng chất gây ô nhiễm trong nước thải công nghiệp để xác định số phí phải nộp. Vì vậy, thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét: quy định cụ thể các đối tượng phải nộp phí và xây dựng thông tư liên tịch quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường thiệt hại về môi trường và ban hành danh mục đối tượng phải mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường, quy định định mức chi phí khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường; sớm ban hành định mức phát thải của chất gây ô nhiễm; xây dựng thông tư quy định việc xác định mức độ hệ sinh thái bị suy thoái để tính toán thiệt hại với môi trường.

Page 131: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

126

Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 [50] và sau đó là Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT [61] đã quy định mức phạt đối với các hành vi vi phạm quá cao so với năng lực tài chính của các cơ sở tại các làng nghề, gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm tại địa phương. Do vậy thời gian tới, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần xem xét áp dụng mức xử phạt hợp lý hơn khi xử lý vi phạm đối với các cơ sở tại làng nghề.

Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/6/2006 về hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn đã chưa quy định rõ điều kiện về BVMT khi xem xét, công nhận làng nghề. Do đó các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sớm quy định rõ điều kiện về BVMT khi xem xét công nhận làng nghề.

Thông tư 04/2008/TT-BTNMT ngày 18/9/2008 hướng dẫn lập, phê duyệt hoặc xác nhận đề án BVMT và kiểm tra, thanh tra việc thực hiện đề án BVMT [20] hiện đã hết hiệu lực, chưa có quy định tiếp tục hướng dẫn áp dụng đối với các cơ sở đã đi vào hoạt động mà chưa có báo cáo ĐTM hoặc cam kết BVMT. Thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét ban hành quy định, hướng dẫn thực hiện với các đối tượng này.

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, đề xuất Chính phủ ban hành Quy chế quản lý làng nghề nhằm: xác định các nội dung quản lý nhà nước về BVMT làng nghề và nguồn kinh phí để tổ chức thực hiện; phân công trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý làng nghề nói chung và BVMT làng nghề nói riêng.

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề, đề xuất các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành Quy hoạch tổng thể quản lý và phát triển làng nghề trên toàn quốc gắn với các mục tiêu phù hợp với điều kiện, văn hóa vùng miền, nguồn nguyên liệu và đảm bảo về môi trường, đáp ứng yêu cầu về phát triển gắn với BVMT (theo quy định tại Nghị định số 66/2006/NĐ-CP).

Đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Bộ TNMT, Bộ KHCN, Bộ NNPTNT: xây dựng, hoàn thiện QCKT quốc gia về môi trường (nước thải sinh hoạt; nước thải chăn nuôi; nước thải sản xuất cồn nhiên liệu; nước thải sản xuất tinh bột sắn, một số chất độc hại trong không khí xung quanh, ngưỡng chất thải nguy hại,...), QCKT quốc gia về bãi chôn lấp chất thải nguy hại, lò đốt CTR sinh hoạt phù hợp với các cơ sở sản xuất tại các làng nghề.

Đề xuất với các cơ quan quản lý như Bộ TNMT, Bộ KHCN, Bộ NNPTNT, Bộ Công Thương và UBND các tỉnh ĐBSH: xây dựng kế hoạch theo dõi, giám sát và tiêu

Page 132: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

127

chí giám sát, đánh giá tình hình thực hiện các nội dung của Quyết định số 577/QĐ-TTg; tổng hợp, đánh giá tình hình triển khai thực hiện tại các Bộ, ngành và địa phương; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Đề nghị Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT, Bộ TNMT, Bộ Công Thương: Đánh giá tình hình thực hiện Thông tư 113/2006/TT-BTC [12] về ‘hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP đã được ban hành’, nhất là công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề, cụm cơ sở làng nghề nông thôn; phân tích nguyên nhân tồn tại của việc áp dụng đối với làng nghề và cơ sở trong làng nghề để đề xuất hoàn thiện văn bản và tăng cường khả năng thực thi văn bản.

Đề xuất sửa đổi hoặc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định số 58/2008/QĐ-TTg ngày 29/04/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ có mục tiêu kinh phí từ ngân sách nhà nước nhằm xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy thoái môi trường cho một số đối tượng thuộc khu vực công ích [115] và Quyết định số 38/2011/QĐ-TTg [117] về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 58/2008/QĐ-TTg phù hợp với đối tượng làng nghề nhằm giải quyết triệt để làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg; hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra tình hình thực hiện để có các giải pháp phù hợp, hiệu quả.

Bên cạnh việc đề xuất sửa đổi, bổ sung một số văn bản QPPL về BVMT làng nghề chưa phù hợp, cũng đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, ban hành các thông tư mới hướng dẫn chi tiết việc THPL về BVMT làng nghề, cụ thể là:

Thông tư quy định về BVMT cụm công nghiệp làng nghề và khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; quy định về xác nhận hệ thống quản lý môi trường, cơ sở và sản phẩm thân thiện với môi trường;

Thông tư quy định về đánh giá môi trường chiến lược, ĐTM và kế hoạch BVMT; quy định về tiêu chí phân loại khu vực ONMT và tiêu chí xác định và việc xác nhận cơ sở gây ONMT nghiêm trọng; Thông tư quy định trình tự, thủ tục chứng minh tổ chức, cá nhân không gây ONMT;

Thông tư quy định về thanh tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT và quy hoạch BVMT làng nghề; Thông tư liên tịch hướng dẫn BVMT đối với hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú ý và hướng dẫn tiêu huỷ thuốc, xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau khi sử dụng;

Các thông tư quy định về quản lý công tác báo cáo về BVMT, hướng dẫn công tác lập báo cáo hiện trạng môi trường, xây dựng báo cáo công tác BVMT, quy định công bố, cung cấp thông tin môi trường, quy định việc xây dựng và quản lý bộ chỉ thị

Page 133: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

128

môi trường quốc gia, quy định về xác nhận hệ thống quản lý môi trường, quy định chi tiết về nôi dung, hình thức các loại báo cáo về môi trường;

Thông tư quy định về kiểm soát ONMT đất; thông tư quy định về quản lý nước thải và sản phẩm thải lỏng không nguy hại; Thông tư quy định hạn ngạch xả nước thải vào sông, ngưỡng chịu tải của lưu vực sông và khắc phục, cải thiện môi trường các sông bị ô nhiễm; Thông tư quy định BVMT đối với bãi chôn lấp chất thải sinh hoạt, CTR công nghiệp thông thường và hướng dẫn xác nhận đủ điều kiện xử lý CTR sinh hoạt, CTR công nghiệp thông thường;

Các thông tư liên tịch của Bộ TNMT, Bộ Công Thương hướng dẫn đăng ký phát thải hoá chất nguy hại ra môi trường từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý an toàn và giảm phát thải các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ trong hoạt động SXLN;

Thông tư liên tịch của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ TNMT quy định chi tiết chương trình giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực BVMT.

4.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống thanh tra nhà nước cấp Trung ương nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

Để làm tốt công tác thanh tra việc THPL về BVMT làng nghề, nên hoàn thiện hệ thống thanh tra nhà nước ở cấp Trung ương, cụ thể là Thanh tra Chính phủ nên có Cục thanh tra môi trường trong đó có MTLN; Thanh tra Bộ, Ngành nên có Phòng thanh tra môi trường trong đó có MTLN.

Hệ thống thanh tra về môi trường có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, được quyền xử lý những vi phạm trong THPL về BVMT làng nghề. Để điều hành tổng thể và phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong việc THPL về BVMT trong đó có làng nghề nhà nước nên thành lập Ủy ban Nhà nước về BVMT, trong đó có MTLN. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban là giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chiến lược, chính sách về BVMT trong đó có MTLN, quy hoạch, kế hoạch, sử dụng tài nguyên, khoáng sản hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả trước mắt và lâu dài. Đề ra chương trình và giải pháp chống ONMT và biến đổi khí hậu trong đó có MTLN, xử lý các vi phạm môi trường ngoài phạm vi và quyền hạn của các ngành và địa phương; chỉ đạo, phối hợp giữa các Ngành và địa phương trong việc BVMT trong đó có MTLN, hoàn thiện hệ thống luật pháp về BVMT trong đó có BVMT làng nghề. Tổ chức Ủy ban: do một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, Bộ trưởng Bộ TNMT làm Phó Chủ tịch, các thành viên Ủy ban gồm lãnh đạo các Bộ, ngành như: Bộ KHCN, Bộ NNPTNT, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,... Giúp việc cho Ủy ban nên thành lập Vụ môi trường trực thuộc Văn phòng Chính

Page 134: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

129

phủ. Mỗi thành viên được phân công những nhiệm vụ cụ thể và được sử dụng bộ máy ngành đó để phục vụ cho công tác BVMT trong đó có BVMT làng nghề.

4.2.1.3. Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề của Việt Nam nói chung và của các tỉnh đồng bằng sông Hồng nói riêng

Vấn đề BVMT là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và liên quốc gia. Sự nghiệp BVMT làng nghề của Việt Nam nói chung, của các tỉnh ĐBSH nói riêng do đó cũng không thể tách rời sự nghiệp BVMT của khu vực và thế giới.

Trên thực tế, Việt Nam đã tham gia ký kết các Công ước quốc tế về BVMT, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế theo nhiều hình thức như hợp tác đa phương, hợp tác song phương, hợp tác khu vực và hợp tác toàn cầu với Chính phủ các nước như Thụy Điển, Canada, Ôxtrâylia, Đan Mạch, Hà Lan, Nhật Bản, Pháp v.v… nhằm thực hiện các cam kết giữa Chính phủ Việt Nam và các bên hữu quan, tranh thủ sự trợ giúp về tài chính cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực BVMT. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trong khu vực cũng bước sang giai đoạn mới, được tăng cường và mở rộng hơn. Hiện nay, Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức cấp cao về môi trường của ASEAN. Quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức quốc tế như UNEP, UNIDO, UNDP, UNICEF,WWF, IUCN, WB, ADB, GEF v.v… ngày càng phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp BVMT tại Việt Nam.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực THPL về BVMT làng nghề nói riêng, sự hợp tác quốc tế và hội nhập khu vực vẫn chưa được các cấp, các ngành quan tâm. Đây là một điều rất đáng tiếc bởi kinh nghiệm THPL về BVMT làng nghề ở các nước trong khu vực như Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc,… là rất hữu ích cho Việt Nam nói chung, các làng nghề ĐBSH nói riêng. Ngoài ra, sự hợp tác và hội nhập cũng giúp Việt Nam tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước trong khu vực và trên thế giới về tài chính, khoa học và công nghệ. Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh sự hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BVMT làng nghề trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế đã ký kết tham gia và quy định các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái của toàn cầu hóa. Ưu tiên mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong việc THPL về BVMT làng nghề dưới hình thức thiết lập các chương trình, dự án đa phương và song phương. Tuy nhiên, để thúc đẩy hội nhập, đặc biệt trong bối cảnh MTLN nổi lên như những yếu tố hết sức quan trọng, chúng ta cần có cơ chế để các doanh nghiệp, hộ gia đình tiếp cận được các chính sách cũng như các yêu cầu trong việc THPL về MTLN của Việt Nam, thúc đẩy việc áp dụng hệ thống mô hình quản lý MTLN trên thế giới và các mô hình quản lý môi trường hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc tế khác.

Page 135: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

130

4.2.1.4. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, áp dụng giải pháp kỹ thuật công nghệ và thực hiện quy hoạch hợp lý các làng nghề

Để THPL về MTLN cần tăng cường kiểm soát công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu tại các làng nghề gây ô nhiễm MTLN hiện nay. Khuyến khích loại bỏ công nghệ, máy móc, thiết bị gây ONMT đang sử dụng trong các cơ sở sản xuất. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả.

Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài để bảo đảm không nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu gây ONMT. Xử lý nghiêm các trường hợp nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Áp dụng các biện pháp sản xuất ít gây ONMT, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ sản xuất sạch hơn, ví dụ: Triển khai áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến ít gây ONMT như lò gạch tuynel, lò gạch liên tục kiểu đứng hiệu suất cao, theo đúng quy hoạch các điểm sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng và quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường,…

Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao công nghệ xử lý chất thải cho các hộ, cơ sở sản xuất quy mô nhỏ theo hướng vận hành đơn giản, ổn định, tiết kiệm chi phí và xử lý ONMT đạt hiệu quả cao. Áp dụng công nghệ xử lý môi trường đáp ứng được tiêu chuẩn, QCKT quốc gia về môi trường đã được các cơ quan có thẩm quyền chứng nhận.

Xây dựng cơ chế, chính sách định hướng phát triển thị trường KHCN cao, công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường. Hoàn thiện các cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý ô nhiễm thân thiện với môi trường.

Cải tạo, nâng cấp và hoàn thiện hoặc xây mới cơ sở hạ tầng BVMT làng nghề như hệ thống tiêu thoát nước; các điểm thu gom, xử lý CTR, chất thải nguy hại cho các làng nghề được công nhận, ưu tiên đầu tư cho các LNTT...

4.2.1.5. Đa dạng hóa và phân phối hợp lý đầu tư tài chính cho việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

Cho tới thời điểm hiện tại, Chính phủ đã và đang có nhiều giải pháp đa dạng hoá đầu tư cho BVMT, trong đó có BVMT làng nghề. Điển hình là việc Thủ tướng Chính phủ thành lập Quỹ BVMT Việt Nam ngày 26/6/2002, ban hành Quyết định số 129/2009/QĐ-TTg ngày 29/10/2009 phê duyệt Đề án “Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường”; Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 về thu phí BVMT đối với nước thải, Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT, trong đó có hoạt động xây dựng hệ thống xử lý chất thải và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng BVMT các khu, cụm công nghiệp làng nghề,… Việc thu phí BVMT

Page 136: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

131

đối với các loại chất thải khác như: CTR, khí thải, tiếng ồn v.v… cũng đang được nghiên cứu xây dựng và ban hành trong thời gian tới. Việc sử dụng các công cụ kinh tế cho công tác THPL về BVMT làng nghề sẽ tạo ra những kích thích tích cực về mặt kinh tế đối với những người sử dụng các thành phần MTLN cho hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao mức đầu tư cho công tác BVMT làng nghề ở Việt Nam và các tỉnh ĐBSH. Tuy nhiên, hiện tại mức đầu tư cho BVMT làng nghề ở Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực cũng như so với tổn thất kinh tế do ô nhiễm MTLN gây ra. Do đó, trong thời gian tới cần tích cực triển khai hơn nữa các công cụ kinh tế cho công tác THPL về BVMT làng nghề, cụ thể như sau:

Kiến nghị với Quốc hội quan tâm, xem xét việc từng bước tăng mức chi cho sự nghiệp BVMT từ Ngân sách nhà nước một cách hợp lý với định hướng tăng dần tỷ lệ phân bổ cho hoạt động sự nghiệp môi trường theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với công tác BVMT, bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc phòng ngừa là chính; ưu tiên bố trí tăng chi từ những nguồn ngân sách khác: đầu tư, phát triển các nguồn vốn sự nghiệp (trước hết là sự nghiệp khoa học, sự nghiệp kinh tế,…) cho các hoạt động THPL về BVMT làng nghề; xem xét việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Ngân sách nhà nước nhằm xác định rõ, cụ thể các hạng mục chi trực tiếp và gián tiếp cho hoạt động THPL về BVMT làng nghề để kiểm soát việc chi hiệu quả hơn; cho phép điều tiết một phần thu ngân sách từ phí BVMT ở các tỉnh ĐBSH về ngân sách Trung ương (Quỹ BVMT Việt Nam).

Kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét và chỉ đạo việc nghiên cứu sửa đổi Pháp lệnh Phí và Lệ phí cho phù hợp với yêu cầu, tình hình và những đặc thù của giai đoạn hiện nay theo hướng: Cụ thể hóa các loại phí, lệ phí theo bản chất, mục đích sử dụng, đối tượng thu, nộp và phân công trách nhiệm giữa Trung ương và các tỉnh ĐBSH; Người sản sinh ra phế thải và các tác nhân ONMT làng nghề sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm tài chính về hậu quả do mình gây ra theo mức lũy tiến tương ứng với sự gia tăng các hậu quả đó, tuy nhiên các chế tài về môi trường phải hài hòa giữa sức chịu đựng của môi trường với các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội cũng như tác động qua lại giữa môi trường tài nguyên thiên nhiên - kinh tế - dân số; các biện pháp tài chính phải khuyến khích hạn chế tiêu dùng tài nguyên không có khả năng tái tạo, tăng áp dụng công nghệ cao không có chất thải, duy trì nguyên liệu tái chế, nguyên liệu ít gây ô nhiễm.. Bổ sung thêm một số loại phí, lệ phí về BVMT làng nghề cần thiết để phục vụ cho công tác quản lý môi trường và kiểm soát ONMT làng nghề.

Đề xuất Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện bốn công việc sau: Một là, tổ chức đánh giá hiệu quả một số cơ chế, chính sách hiện hành hỗ trợ về

tài chính cho công tác xử lý ONMT. Trước mắt tập trung đánh giá một số cơ chế chính

Page 137: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

132

sách về miễn, giảm thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế đối với hoạt động BVMT được quy định tại các Thông tư số 101/2010/TT-BTC, Thông tư số 230/2009/TT-BTC; về ưu đãi, hỗ trợ BVMT tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP; về hỗ trợ công tác di dời tại Nghị định số 198/2004/NĐ-CP, Nghị định số 142/2005/NĐ-CP, Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg, Quyết định số 140/2008/QĐ-TTg.

Hai là, phối hợp với Bộ TNMT đánh giá hiệu quả việc sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp môi trường, đề xuất tăng dần nguồn chi này, đồng thời cơ cấu lại cách phân bổ phần kinh phí 1% sự nghiệp môi trường nhằm đáp ứng được nhu cầu của công tác BVMT. Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg, vốn đầu tư cho công tác xử lý triệt để cơ sở gây ONMT bao gồm: vốn từ ngân sách nhà nước ở Trung ương và địa phương, vốn vay ODA, vốn vay Quỹ BVMT Việt Nam, vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế và vốn tự có của doanh nghiệp. Triển khai chi 1% ngân sách hàng năm cho sự nghiệp môi trường phải đạt được các mục tiêu cụ thể sau: Quản lý chất thải; hạn chế, tiến tới ngăn chặn hoàn toàn mức độ gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường; từng bước xử lý các khu vực/điểm nóng về môi trường, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường; bảo đảm đạt các chỉ tiêu đặt ra đến 2010 và 2020 của Chiến lược BVMT quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức về môi trường; Nâng cao năng lực của các đơn vị sự nghiệp về môi trường phù hợp với các yêu cầu nhiệm vụ và khối lượng công tác trong việc THPL về BVMT làng nghề; Hỗ trợ và thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động BVMT làng nghề, phát triển các loại hình dịch vụ môi trường.

Ba là, đầu tư cho công tác THPL về BVMT làng nghề trong thời gian tới còn phải đảm bảo: khi xây dựng, phê duyệt các chiến lược, kế hoạch về BVMT phải bố trí được nguồn lực thực hiện; xây dựng các cơ chế chính sách để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư BVMT; đa dạng hóa nguồn đầu tư, tăng tỷ lệ đầu tư cho BVMT từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức; vận động nhân dân tham gia đầu tư cho công tác BVMT, tạo điều kiện đẩy mạnh các dịch vụ môi trường; xây dựng kế hoạch đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.

Bốn là, nên thu phí BVMT đối với các dự án đầu tư xây dựng theo tỷ lệ thích hợp đối với quy mô, tính chất của từng dự án.

Bên cạnh đó, đa dạng hóa đầu tư tài chính cho THPL về BVMT làng nghề, bố trí đủ kinh phí để triển khai các nhiệm vụ, dự án theo đúng lộ trình đề xuất nhằm tạo sự chuyển biến cả về nhận thức, hành động cũng như cải thiện tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề có vai trò quan trọng. Bốn giải pháp nhằm đa dạng hóa đầu tư tài chính là:

Một là, có các biện pháp để bổ sung, tăng cường nguồn vốn hàng năm cho Quỹ BVMT Việt Nam, từng bước để đưa Quỹ BVMT Việt Nam trở thành một nguồn vốn

Page 138: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

133

quan trọng hàng đầu cho xử lý, khắc phục ONMT ở những điểm, khu vực “nóng” và các làng nghề ở Việt Nam như kinh nghiệm một số nước trên thế giới.

Hai là, Bộ TNMT chủ trì, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp xem xét, phân bổ kinh phí sự nghiệp môi trường, sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp KHCN và các nguồn đầu tư khác chú trọng cho công tác BVMT làng nghề, khắc phục, xử lý, kiểm soát ô nhiễm MTLN. Đến năm 2020, cần xem xét phân bổ khoảng 10% tổng kinh phí sự nghiệp môi trường cho công tác BVMT làng nghề trong đó có việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Ba là, chính sách đầu tư tài chính cho công tác THPL về BVMT làng nghề cần có những thay đổi về chất như: Khuyến khích việc đầu tư tài chính ngay từ đầu, đầu tư ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ làng nghề; Đầu tư và áp dung các công nghệ sản xuất sạch hơn; Hạn chế tối đa nguồn chất thải đầu ra v.v...; khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư BVMT; Tăng tỷ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện thu phí, ký quỹ phục hồi môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế trợ giá đối với hoạt động môi trường.

Bốn là, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực BVMT làng nghề.

Sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương và của các tổ chức quốc tế về BVMT nhằm khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện MTLN. Có chính sách ưu đãi đối với các cơ sở, các làng nghề được công nhận được ưu tiên phân bổ ngân sách, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng về BVMT theo hướng dẫn tại Thông tư số 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 của Bộ Tài chính về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP [12]. Chính phủ cần chỉ đạo các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất tại các làng nghề được tiếp cận các nguồn vốn vay không bảo đảm bằng tài sản theo Nghị định 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn để phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, cũng cần dành nguồn kinh phí thích hợp để duy trì các hoạt động quan trắc môi trường nhằm tăng cường năng lực quan trắc môi trường làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; thiết lập cơ chế chia sẻ, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý và các cơ quan nghiên cứu về MTLN ở các tỉnh ĐBSH với hệ thống quan trắc quốc gia, phục vụ quản lý môi trường và phát triển KT-XH.

Xây dựng cơ chế khuyến khích thành lập các quỹ tài trợ cho các sáng kiến, mô hình dựa vào cộng đồng, các phong trào, hoạt động BVMT vì lợi ích chung của xã hội.

Page 139: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

134

4.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể đảm bảo thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề cho các tỉnh đồng bằng sông Hồng

4.2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Trên cơ sở các văn bản QPPL của Trung ương, các tỉnh ĐBSH cần quan tâm hơn đến việc ban hành các văn bản quy định về BVMT nói chung, BVMT làng nghề nói riêng áp dụng cho địa phương mình, cụ thể là:

Thứ nhất, thực hiện tốt việc rà soát, tập hợp các văn bản do chính quyền địa phương ban hành, trong đó cần chú trọng các văn bản của UBND các tỉnh đã ban hành hướng dẫn, đôn đốc nhắc nhở việc thực hiện các văn bản của Trung ương.

Thứ hai, tăng cường năng lực xây dựng và ban hành văn bản trong lĩnh vực BVMT làng nghề. Việc ban hành các văn bản QPPL về BVMT làng nghề của chính quyền địa phương ở các tỉnh ĐBSH cần chú ý tới tính cấp thiết và tính khả thi của văn bản, nghĩa là không phải Trung ương cứ ban hành văn bản gì thì địa phương cũng có văn bản cụ thể hóa hướng dẫn. Điều quan trọng là cần xem xét, nghiên cứu những vấn đề mà văn bản Trung ương yêu cầu phải hướng dẫn hoặc văn bản Trung ương chưa quy định hoặc quy định chung chung từ đó để quy định cho phù hợp. Đối với những nội dung cụ thể trong quá trình THPL về BVMT làng nghề mà nhà nước chưa có văn bản quy định hoặc quy định một cách chung chung, việc xây dựng văn bản QPPL các tỉnh ĐBSH cần phải hết sức thận trọng, tránh tình trạng mâu thuẫn với văn bản QPPL của Trung ương.

Thứ ba, khuyến khích việc xây dựng Hương ước, Quy ước trong việc THPL về BVMT làng nghề, trong đó cụ thể hóa các quy định của pháp luật về BVMT phù hợp với điều kiện của địa phương, tiến tới xây dựng thành quy định bắt buộc đối với các hộ, cơ sở SXLN. Cùng với pháp luật, Hương ước góp phần vào giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nông dân. Hương ước, quy ước của làng nghề được xây dựng và thực hiện theo Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTQVN ngày 31/3/2000 của Liên Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa Thông tin, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam về ‘hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư’ [32], trong đó có nội dung THPL về BVMT làng nghề. Như chương 2 đã phân tích, các làng nghề nông thôn vùng ĐBSH có tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể cao, mối quan hệ tình làng nghĩa xóm, Hương ước làng xã có từ lâu đời và được mọi người tôn trọng, tuân thủ, do đó đưa các quy định pháp luật về BVMT làng nghề vào trong các Hương ước của làng sẽ là một giải pháp phát huy hiệu quả tích cực.

Page 140: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

135

4.2.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc hiến định, vì vậy kiện toàn bộ máy và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH là một trong những giải pháp quan trọng, đặc biệt nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Theo nguyên tắc quản lý theo vùng lãnh thổ, các hiện tượng xâm hại đến MTLN đều phải chịu sự quản lý của một cấp chính quyền địa phương hay cơ sở nào đó, và trước hết chịu sự quản lý của các cấp chính quyền cơ sở. Cấp cơ sở là nơi có đủ khả năng xử lý trực tiếp và kịp thời nhất các hành vi vi phạm trong việc THPL về BVMT làng nghề. Về mặt không gian và thời gian, chính quyền cấp cơ sở ở các tỉnh ĐBSH là nơi gần và sát với các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân làng nghề, có đủ khả năng nắm bắt kịp thời các thông tin về vi phạm và BVMT làng nghề. Từ đó, các cấp cơ sở ở các tỉnh ĐBSH có khả năng đưa ra những biện pháp ban đầu hữu hiệu có tác dụng ngăn chặn kịp thời, tránh được những hậu quả tiêu cực lớn do để vi phạm kéo dài. Do đó, cần nhanh chóng hoàn thiện và tăng cường hệ thống cơ quan quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, cụ thể:

Một là, xây dựng và phát triển hệ thống quản lý môi trường từ tỉnh, thành phố đến quận, huyện, phường, xã; chú trọng phân công, phân cấp rõ ràng cho các sở, ban ngành liên quan và địa phương, đảm bảo không chồng chéo nhiệm vụ của nhiều cấp, nhiều ngành, đơn vị trong quản lý MTLN.

Hai là, chú trọng kiện toàn bộ máy và thành lập các bộ phận thanh tra trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các cấp như: Thanh tra tỉnh/thành nên có Phòng thanh tra môi trường trong đó có MTLN; thanh tra quận/huyện có tổ thanh tra môi trường trong đó có MTLN; cấp phường/xã có cán bộ chuyên trách về môi trường trong đó có MTLN. Hoàn thiện cơ chế tổ chức điều tra, thanh tra đối với công tác BVMT làng nghề theo tinh thần là đề cao tính sáng tạo của các cấp, các ngành phù hợp với tình hình, điều kiện, đặc điểm và yêu cầu của từng ngành, từng địa phương, khắc phục tình trạng rập khuôn máy móc, lấy mô hình của địa phương này để yêu cầu các địa phương khác thực hiện. Hệ thống thanh tra về môi trường có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, được quyền xử lý những vi phạm về THPL về BVMT làng nghề. Để điều hành tổng thể và phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong việc THPL về BVMT làng nghề các tỉnh ĐBSH nên:

* Ở cấp tỉnh/thành: Thành lập Ban BVMT, trong đó có MTLN. Chức năng, nhiệm vụ của Ban là thực hiện công tác BVMT, trong đó có MTLN; quy hoạch, kế

Page 141: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

136

hoạch, sử dụng tài nguyên, khoáng sản, kế hoạch, biện pháp chống ô nhiễm, thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về MTLN thuộc địa bàn tỉnh, hoàn thiện hệ thống văn bản về MTLN thuộc thẩm quyền của tỉnh. Tổ chức Ban do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch làm Trưởng ban, Giám đốc Sở TNMT làm Phó Ban Thường trực, các thành viên gồm lãnh đạo các ngành có liên quan: Sở KHCN, Sở Công thương, Sở Y tế, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Thanh tra tỉnh, Sở Tư pháp, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, Văn phòng Ủy ban tỉnh, Sở Xây dựng, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể.

* Cấp quận, huyện của các tỉnh ĐBSH: Thành lập Ban BVMT, trong đó có MTLN. Chức năng, nhiệm vụ là thực hiện công tác BVMT trong đó có MTLN, kiểm tra xử lý các vi phạm về ONMT trong đó có MTLN theo thẩm quyền của huyện. Thành phần: do Chủ tịch hoặc 1 Phó Chủ tịch huyện làm Trưởng ban, các thành viên là lãnh đạo các Phòng, Ban trực thuộc huyện, Công an huyện, Ban chỉ huy quân sự huyện, Lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể.

* Cấp xã, phường của các tỉnh ĐBSH: Thành lập Tổ BVMT. Chức năng, nhiệm vụ là thực hiện công tác BVMT trong đó có MTLN, kiểm tra vận động nhân dân thực hiện tốt vệ sinh MTLN trên địa bàn xã, phường, xử lý các vi phạm MTLN thuộc thẩm quyền được giao. Thành phần: do một Phó Chủ tịch UBND xã, phường làm tổ trưởng, một số cán bộ giúp việc của xã, phường, các tổ chức đoàn thể (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc,...) và lực lượng công an xã được giao thêm nhiệm vụ BVMT làng nghề.

* Thôn bản, tổ dân phố của các tỉnh ĐBSH: Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, trưởng bản, công tác mặt trận là cộng tác viên thực hiện việc tuyên truyền, đôn đốc, kiểm tra công tác BVMT làng nghề của các hộ gia đình trong phạm vi thôn bản, tổ dân phố. Là lực lượng xung kích nòng cốt tổ chức thực hiện việc BVMT làng nghề tại thôn bản, tổ dân phố.

* Thành lập các đội tình nguyện viên về THPL về BVMT làng nghề gồm các cá nhân tự nguyện cùng với dân trên địa phương thực hiện vệ sinh môi trường, làm sạch đẹp thôn, bản.

* Mỗi hộ gia đình chịu trách nhiệm THPL về BVMT làng nghề tại nơi ở, nơi sinh hoạt, nơi tăng gia sản xuất của mình.

* Các đơn vị sản xuất kinh doanh: Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm chính về THPL về BVMT làng nghề, chịu sự giám sát, kiểm tra của chính quyền các cấp theo phân cấp cụ thể (Luật BVMT 2014).

Ba là, việc kiện toàn bộ máy quản lý môi trường cần theo hướng bổ sung về số lượng và quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ; đẩy mạnh cải cách hành chính,

Page 142: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

137

ứng dụng các thành tựu KHCN trong công tác quản lý, đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong xu thế cải cách hành chính hiện nay, vừa phải giảm biên chế mạnh, tinh giảm bộ máy nhưng vừa phải tăng hiệu suất công việc là yêu cầu rất quan trọng. Do đó, song song với việc kiện toàn bộ máy ngành dọc từ cấp Trung ương tới cơ sở, thiết nghĩ cũng nên xây dựng quy chế THPL về BVMT làng nghề ở các cấp này.

Bên cạnh việc kiện toàn bộ máy quản lý về MTLN, việc tăng cường quyền lực thực sự cho các cấp cơ sở ở các tỉnh ĐBSH trong việc kiểm soát và thực thi pháp luật về BVMT làng nghề cũng thực sự cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là phải lựa chọn các hình thức cụ thể để tăng cường quyền lực ấy. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở các tỉnh ĐBSH cần được thể hiện ở các nội dung sau:

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng ở các tỉnh ĐBSH cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ các quan điểm chỉ đạo về THPL về BVMT làng nghề để có những giải pháp cụ thể đối với THPL về BVMT làng nghề. Đặt hoạt động THPL về BVMT làng nghề đúng vị trí, vai trò của nó, là nguồn lực quan trọng trong phát triển KT-XH hiện nay, để từ đó có những chủ trương, chính sách đúng đắn, đồng bộ, tạo điều kiện để THPL về BVMT làng nghề phát triển đúng hướng.

Thứ hai, các cấp ủy Đảng ở các tỉnh ĐBSH trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác THPL về BVMT làng nghề, bằng việc đề ra các chủ trương, chính sách phát triển KT-XH và các chính sách về BVMT làng nghề ở địa phương và phải xem xét đến tính phù hợp với THPL về BVMT làng nghề. Đồng thời, thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra sát sao việc thực hiện các chính sách pháp luật về BVMT làng nghề, kịp thời cụ thể hóa bằng việc ban hành các văn bản chỉ đạo việc THPL về BVMT làng nghề. Từ đó có sự chỉ đạo và xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; Các cấp ủy, đảng viên vừa sâu sát lãnh đạo vừa là tấm gương sáng THPL về BVMT làng nghề.

Thứ ba, thường xuyên sơ kết các Nghị quyết của Đảng và các văn bản QPPL của nhà nước và các văn bản khác của các cấp ủy Đảng, của chính quyền địa phương để kịp thời phát hiện những sơ hở thiếu sót, từ đó có sự chỉ đạo đảm bảo tính thống nhất trong THPL về BVMT làng nghề ở nước ta.

Thứ tư, tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với THPL về BVMT làng nghề. Trước hết cần rà soát các quy định nằm rải rác trong các văn bản QPPL khác nhau về BVMT làng nghề, từ đó để kiến nghị Chính phủ, các Bộ ngành sửa đổi, bổ sung Nghị định, Thông tư về BVMT làng nghề. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các địa phương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể như quy chế BVMT làng nghề, các quyết định, chỉ thị, công văn hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở phù hợp đặc điểm và điều kiện từng địa phương làm cơ sở cho việc THPL về BVMT làng nghề.

Page 143: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

138

Thứ năm, tăng cường năng lực các phòng tham mưu cho cơ quan quản lý nhà nước về BVMT làng nghề, bố trí biên chế chuyên trách quản lý nhà nước về BVMT làng nghề, lựa chọn những cán bộ có đầy đủ phẩm chất, năng lực có trình độ phù hợp trong quản lý nhà nước về BVMT làng nghề.

Thứ sáu, chỉ đạo xử lý kiên quyết, dứt điểm các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình THPL về BVMT làng nghề, đặc biệt là những vi phạm của những cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan thực thi pháp luật, quản lý nhà nước nhằm tác động tích cực đến việc hình thành ý thức và tự giác của cán bộ và nhân dân trong THPL về BVMT làng nghề.

4.2.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Ngày nay, xã hội không ngừng thay đổi và phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp thì các văn bản QPPL ngày càng được ban hành nhiều hơn. Do vậy việc cập nhật kiến thức pháp luật mới và nâng cao kỹ năng cho cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, vấn đề này trong thời gian qua chưa được các cấp chính quyền quan tâm, đặc biệt là các cơ quan trong hệ thống tư pháp, do đó đã góp phần tạo nên thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề ở nước ta. Bên cạnh đó, trình độ năng lực cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề cũng còn nhiều hạn chế: cán bộ có trình độ về pháp luật thì lại không có nghiệp vụ về môi trường, ngược lại, cán bộ có trình độ chuyên môn thì lại không được đào tạo về pháp luật. Do đó, việc xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý về MTLN giỏi về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, trình độ tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu về công tác BVMT làng nghề là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Để làm tốt điều đó, trong thời gian tới cần:

Thứ nhất là, tiến hành thống kê, rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ quản lý về MTLN hiện có ở các tỉnh ĐBSH nhằm xác định chính xác số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý về MTLN hiện có, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cũng như có chính sách sử dụng hợp lý.

Thứ hai là, cần có chính sách hợp lý, tạo điều kiện để những cán bộ có trình độ về pháp luật được đào tạo thêm nghiệp vụ về môi trường, các cán bộ có chuyên môn về môi trường được đào tạo thêm về pháp luật. Khuyến khích những cán bộ có kinh nghiệm ở các thành phố về công tác ở các vùng nông thôn, vùng núi bằng những chính sách cụ thể và tạo điều kiện thuận lợi để các cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề thực hiện tốt công tác BVMT làng nghề. Để làm tốt điều này, các

Page 144: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

139

cấp chính quyền cần nắm vững và bám sát Đề án phát triển và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ của các tỉnh ĐBSH.

Thứ ba là, cần tăng cường biện pháp giáo dục về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm, tận tụy với công việc trong quá trình THPL về BVMT làng nghề cho các cán bộ; Thực hiện tốt quy định về đạo đức công vụ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định tại quyết định số 468/QĐ-BTP ngày 26/2/2009 ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp [32]; cần xây dựng tiêu chí cụ thể về tôn vinh nghề nghiệp, danh dự của cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề, ban hành và thực hiện nghiêm quy chế quản lý viên chức, gắn với thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan nhà nước, nâng cao ý thức trách nhiệm.

Thứ tư là, hàng năm, cần tiến hành thanh tra, kiểm tra về tổ chức và việc hành nghề kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề, qua đó phát hiện những cán bộ có trách nhiệm, nhiệt tình nhằm khuyến khích, tuyên dương, khen thưởng và nhân rộng điển hình.

4.2.2.4. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố ĐBSH thực hiện Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011 của Bộ TNMT quy định về BVMT làng nghề trong việc chỉ đạo các Sở, ban, ngành và UBND cấp dưới phối hợp thực hiện tốt các nội dung THPL về BVMT làng nghề trên địa bàn, cụ thể là:

Uỷ ban nhân dân cấp quận/huyện: Thực hiện điều tra, thống kê, lập danh mục loại hình hoạt động của các cơ sở trong làng nghề theo các nhóm A, B và C được quy định tại khoản 1 Điều 4 của Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT; xây dựng, trình kế hoạch BVMT làng nghề của địa phương và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt; ưu tiên phân bổ kinh phí sự nghiệp môi trường cho các xã có làng nghề được công nhận để tổ chức thực hiện các hoạt động BVMT theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT ngày 30/3/2010 của Bộ Tài chính và Bộ TNMT [16]; quy hoạch, rà soát lại quy hoạch các cụm làng nghề hoặc bố trí khu chăn nuôi, khu sản xuất tập trung bên ngoài khu dân cư đáp ứng các quy định về BVMT; đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng bảo đảm việc di dời cơ sở hoặc công đoạn sản xuất gây ONMT ra khỏi khu dân cư theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT; Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc di dời này; tiến hành kiểm tra, thanh tra và tổ chức việc đăng ký hoặc ủy quyền cho UBND cấp xã tổ chức việc đăng ký Cam kết BVMT và Đề án BVMT đơn giản đối với các cơ sở trong làng nghề theo quy định; chỉ đạo xây dựng, phê duyệt và kiểm tra, theo dõi việc thực hiện nội dung BVMT trong

Page 145: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

140

Hương ước, quy ước của làng nghề; thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về BVMT cho chính quyền, tổ chức tự quản về BVMT và cộng đồng dân cư các xã có làng nghề; tổ chức các hoạt động khuyến khích các cơ sở áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn, công nghệ thân thiện môi trường, thu gom và tái chế chất thải; công bố thông tin về hiện trạng môi trường, công tác BVMT làng nghề trên các phương tiện thông tin, truyền thông của địa phương và trong các cuộc họp UBND, HĐND cấp huyện; chỉ đạo Phòng TNMT tổng hợp, báo cáo UBND cấp tỉnh (thông qua Sở TNMT) về hiện trạng hoạt động, tình hình phát sinh và xử lý chất thải của làng nghề trên địa bàn 01 lần/năm trước ngày 15/11 hàng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu.

Uỷ ban nhân dân cấp xã/phường: Thực hiện công tác quản lý nhà nước trong việc THPL về BVMT làng nghề theo sự chỉ đạo và phân công của UBND cấp huyện; Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền không cho phép thành lập mới các công đoạn sản xuất có tiềm năng gây ONMT cao đối với các cơ sở thuộc Nhóm B hoặc Nhóm C theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT trong khu vực dân cư; Tham gia thực hiện biện pháp xử lý đối với các cơ sở thuộc nhóm B và nhóm C theo quy định tại khoản 2 Điều 8 của Thông tư này; đôn đốc việc xây dựng nội dung THPL về BVMT làng nghề trong Hương ước, Quy ước của làng nghề, trình UBND cấp huyện phê duyệt; Bố trí công chức theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để hướng dẫn các cơ sở và tham mưu cho UBND cấp xã thực hiện các quy định của pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề [49]. Đồng thời, Chủ tịch UBND cấp xã ký hợp đồng lao động để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ công tác THPL về BVMT làng nghề; kinh phí cho việc thực hiện hợp đồng lao động được trích từ kinh phí sự nghiệp BVMT cấp cho các xã theo quy định tại Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/7/2007 của Chính phủ [44]; sử dụng kinh phí sự nghiệp môi trường đúng quy định, tập trung cho các hoạt động trong việc THPL về BVMT làng nghề. Bố trí kinh phí chi thường xuyên để hỗ trợ sửa chữa, cải tạo các công trình thuộc kết cấu hạ tầng về BVMT làng nghề trên địa bàn; tổ chức việc quản lý, vận hành và duy tu, bảo dưỡng theo đúng quy định khi được bàn giao, tiếp nhận, quản lý các dự án, công trình thuộc kết cấu hạ tầng về BVMT làng nghề; ban hành quy chế hoạt động và tạo điều kiện để tổ chức tự quản về BVMT làng nghề hoạt động có hiệu quả theo quy định tại khoản 4, Điều 70 Luật BVMT 2014; huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn để đầu tư, xây dựng, vận hành, duy tu và cải tạo các công trình thuộc kết cấu hạ tầng BVMT làng nghề trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra, kiểm soát

Page 146: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

141

và đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ quy định; tổ chức kiểm tra, hướng dẫn cơ sở thực hiện quy định của pháp luật về BVMT làng nghề và xử lý vi phạm theo thẩm quyền; tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở trên địa bàn theo yêu cầu của cơ quan cấp trên; thực hiện tuyên truyền, phổ biến thông tin, nâng cao nhận thức cho người dân về trách nhiệm trong việc THPL về BVMT làng nghề; khuyến khích các cơ sở tận thu, tái chế, tái sử dụng và xử lý tại chỗ các loại chất thải; công bố các thông tin về hiện trạng môi trường, công tác trong việc THPL về BVMT làng nghề trên các phương tiện thông tin, truyền thông của địa phương, thông qua các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương và trong các cuộc họp UBND, HĐND cấp xã; báo cáo UBND cấp huyện (thông qua Phòng TNMT) về hiện trạng hoạt động, tình hình phát sinh và xử lý chất thải của làng nghề trên địa bàn 01 lần/năm trước ngày 30/10 hàng năm hoặc đột xuất theo yêu cầu.

Sở TNMT: Tích cực phối hợp với Bộ TNMT xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng giai đoạn đến năm 2020; chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch trong việc THPL về BVMT làng nghề; định kỳ hàng năm tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh kết quả trong việc THPL về BVMT làng nghề; chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch tổng thể về đầu tư các công trình BVMT làng nghề trên địa bàn tỉnh, để từng bước khắc phục các suy thoái, cải tạo phục hồi môi trường chung của tỉnh; đề xuất danh mục các dự án đầu tư về các lĩnh vực trong việc THPL về BVMT làng nghề, báo cáo UBND tỉnh xem xét, phê duyệt; phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan, các tổ chức đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng và UBND các huyện, thành phố tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề cho các cơ quan, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh; phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án đã được UBND tỉnh ban hành/phê duyệt.

Sở Kế hoạch và Đầu tư: theo danh mục các dự án đầu tư về lĩnh vực BVMT làng nghề được duyệt, tổ chức hoặc tham gia thẩm định dự án và tham mưu UBND tỉnh bố trí các nguồn vốn đầu tư đảm bảo dự án được hoàn thành theo kế hoạch; lồng ghép chặt chẽ, hợp lý và hài hòa các yêu cầu THPL về BVMT làng nghề trong việc lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển trên địa bàn tỉnh.

Sở Tài chính: tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phân bổ nguồn kinh phí sự nghiệp BVMT làng nghề đảm bảo việc thực hiện các nhiệm vụ BVMT làng nghề của

Page 147: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

142

các ngành, các cấp theo quy định và thực hiện các dự án về BVMT làng nghề đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hướng dẫn, kiểm tra các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng kinh phí chi sự nghiệp MTLN cho hoạt động THPL về BVMT làng nghề theo quy định của pháp luật.

Sở Công thương: đôn đốc, chỉ đạo các làng nghề, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thực hiện nghiêm túc các quy định trong việc THPL về BVMT làng nghề, các biện pháp xử lý chất thải, hoặc có kế hoạch di rời khỏi khu vực dân cư, nông thôn; tham mưu ban hành và tổ chức thực hiện đề án tổng thể trong việc THPL về BVMT làng nghề trên địa bàn tỉnh; kiểm soát các dự án khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án đầu tư vào cụm công nghiệp nhằm hạn chế việc các cơ sở sản xuất làng nghề khai thác bừa bãi nguồn nguyên vật liệu tự nhiên, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên quốc gia, hạn chế các cơ sở làng nghề có công nghệ, thiết bị lạc hậu, dễ gây ONMT.

Sở KHCN: xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu KHCN phục vụ công tác THPL về BVMT làng nghề, tập trung nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, các mô hình phát triển kinh tế xanh; chủ trì thẩm định công nghệ các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; rà soát, bổ sung danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, danh mục công nghệ cấm chuyển giao nhằm ngăn chặn việc chuyển giao công nghệ, phương tiện, thiết bị cũ gây ONMT vào nước ta.

Sở Xây dựng: trong quá trình tham mưu, chỉ đạo lập quy hoạch xây dựng ưu tiên bố trí quỹ đất thỏa đáng và quan tâm đầu tư xây dựng các công trình xử lý rác thải, nước thải, hạ tầng kỹ thuật về MTLN; chủ trì tổ thực hiện đồ án quy hoạch quản lý CTR; tham mưu tổ chức lập, thực hiện quy hoạch hệ thống cấp, thoát nước đô thị và các khu làng nghề; tăng cường kiểm tra, thanh tra các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp, khu dân cư... xử lý nghiêm các dự án không phù hợp với quy hoạch và không đảm bảo quy định về vệ sinh môi trường trong đầu tư xây dựng.

Sở NNPTNT: tăng cường kiểm tra các hoạt động THPL về BVMT làng nghề trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản; hướng dẫn xử lý và tiêu hủy thức ăn chăn nuôi đã hết hạn sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam, dụng cụ, bao bì đựng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi sau khi sử dụng, bùn đất và thức ăn lắng đọng khi làm vệ sinh ao nuôi trồng thủy sản; phối hợp với Công an tỉnh và các cơ quan liên quan ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ trái phép các loài động, thực vật nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ; ngăn chặn và xử lý việc lạm dụng

Page 148: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

143

hóa chất trong canh tác, sử dụng thuốc thú y, hóa chất, chế phẩm sinh học, các loại giống cây trồng, vật nuôi nằm ngoài danh mục cho phép trong nông nghiệp.

Sở Giáo dục và Đào tạo: tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề đối với các cấp học theo quy định; tăng cường thời lượng giảng dạy chính khóa, hoạt động ngoại khóa trong việc THPL về BVMT làng nghề tại các cấp học.

Sở Thông tin và Truyền thông: chủ động cung cấp thông tin và định hướng công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và tăng cường công tác quản lý báo chí theo quy định nhằm nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của nhà nước về THPL về BVMT làng nghề và tầm quan trọng công tác THPL về BVMT làng nghề.

Sở Nội vụ: rà soát, xác định nhu cầu cán bộ làm công tác quản lý trong việc THPL về BVMT làng nghề ở cấp tỉnh, huyện, xã để xây dựng phương án bổ sung biên chế cán bộ làm công tác THPL về BVMT làng nghề các cấp. Rà soát bổ sung chức năng nhiệm vụ của tổ chức cá nhân THPL về BVMT làng nghề trong tỉnh.

Công an tỉnh: thực hiện đúng quy định về hoạt động tổ chức nắm tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề; tổ chức các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề; thông qua công tác đấu tranh, xử lý, phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và các vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề, đề xuất, kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kế hoạch chấn chỉnh, khắc phục, phòng ngừa, xử lý có hiệu quả; thực hiện công tác tiếp nhận, xử lý và giải quyết theo thẩm quyền các vụ việc vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề do các cơ quan, tổ chức và nhân dân cung cấp.

Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh: chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý hoàn thiện việc xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải tập trung; kiểm tra, giám sát việc THPL về BVMT làng nghề đối với các doanh nghiệp đầu tư trong khu, cụm công nghiệp do mình quản lý; yêu cầu các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp phải thực hiện đầy đủ các thủ tục về môi trường trước khi đầu tư xây dựng và thu hút đầu tư; chỉ chấp thuận đầu tư mới đối với các dự án thứ cấp vào khu, cụm công nghiệp khi khu, cụm công nghiệp đã có đầy đủ các điều kiện về môi trường.

Chi cục Hải quan khu công nghiệp: xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong kiểm soát hoạt động nhập khẩu phế liệu; phối hợp với Sở TNMT rà soát, kiểm soát chặt chẽ hoạt động tạm nhập, tái xuất, nhập khẩu phế liệu ngay từ giai đoạn cấp phép.

Page 149: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

144

Báo, Đài phát thanh truyền hình tỉnh: tăng thời lượng, nội dung các chương trình trong việc THPL về BVMT làng nghề trên các bản tin hoặc sóng phát thanh, truyền hình tỉnh; thực hiện tốt việc tuyên truyền, biểu dương những điển hình tiên tiến trong việc THPL về BVMT làng nghề, công khai thông tin về các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ chức thành viên: đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các thành viên và nhân dân tăng cường giữ gìn vệ sinh MTLN, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học; giám sát việc THPL về BVMT làng nghề của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

4.2.2.5. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, giải quyết khiếu tố khiếu nại, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Để đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH đạt hiệu quả thì một giải pháp không thể thiếu được đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm trong quá trình THPL về BVMT làng nghề; thực hiện tốt công tác sơ kết, tổng kết từ đó để đánh giá thực tiễn công tác THPL về BVMT làng nghề, có cơ sở để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật không phù hợp. Trong đó, tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, triển khai thường xuyên định kỳ, đột xuất các đợt thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm Luật BVMT và các văn bản dưới luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Trong quá trình thanh tra cần phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra, đảm bảo kết quả phản ánh trung thực, tránh hiện tượng bao che, né tránh, đồng thời xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình THPL về BVMT làng nghề, bảo đảm mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý, bất kể người vi phạm là công dân hay cán bộ, viên chức làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước hoặc cán bộ làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Kiên quyết chống mọi biểu hiện bao che, nể nang, nương nhẹ việc xử lý vi phạm pháp luật trong BVMT làng nghề. Để làm được điều đó cần có sự chỉ đạo kiên quyết, đúng đắn, sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền ở địa phương và nhân dân. Loại trừ và xử lý nghiêm những biểu hiện can thiệp, cản trở quá trình THPL về BVMT làng nghề của chính quyền các cấp trong xử lý vi phạm pháp luật về BVMT làng nghề.

Thứ hai, tích cực mở rộng các hình thức thanh tra như thanh tra định kỳ, thanh tra đột xuất, thanh tra chuyên đề, thanh tra vụ việc, tổ chức các đợt thanh tra chuyên ngành… tại các làng nghề. Qua công tác thanh tra để kịp thời phát hiện và xử lý những

Page 150: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

145

hành vi vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề và ngăn chặn kịp thời các hành vi liên kết giữa cán bộ quản lý nhà nước với người trong các cơ sở sản xuất.

Thứ ba, xử lý nghiêm đối với các vi phạm pháp luật về BVMT làng nghề được phát hiện. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, người vi phạm có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật BVMT làng nghề đủ cấu thành tội phạm. Có như vậy mới đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, phát huy tác dụng phòng ngừa vi phạm pháp luật trong quá trình THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, xử lý nghiêm đối với các cơ sở chây ỳ, chậm tiến độ xử lý triệt để theo Nghị định số 117/2009/NĐ-CP [50], thậm chí có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Chương XVII (Tội phạm về môi trường) của Bộ luật Hình sự. UBND cấp tỉnh phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác THPL về BVMT làng nghề của địa phương. Các công đoạn sản xuất gây ONMT của các cơ sở thuộc Nhóm B và các cơ sở thuộc Nhóm C không thể đầu tư, áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt QCKT quốc gia về môi trường tương ứng thì phải di dời vào khu cụm công nghiệp làng nghề hoặc khu chăn nuôi, khu sản xuất tập trung bên ngoài khu dân cư đáp ứng quy định tại Điều 36, khoản 4 Điều 46 Luật BVMT và Thông tư số 42/2006/TT-BNN ngày 01/6/2006 của Bộ NNPTNT [10]. Trước ngày 01/01/2017, nếu không thể di dời thì phải chấm dứt hoạt động.

Thứ tư, các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình THPL về BVMT làng nghề rất tinh vi, phức tạp, do vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa thanh tra Sở Tư pháp và các cơ quan hữu quan như Thanh tra tỉnh, cơ quan công an, Sở TNMT, Sở Tài chính và các huyện, thành phố, thị xã. Hiện nay đội ngũ cán bộ thanh tra của Sở Tư pháp ở các tỉnh ĐBSH còn mỏng, trong khi đó khối lượng công việc chuyên môn được giao nhiều. Do vậy thời gian đầu tư cho công tác thanh tra đối với hoạt động THPL về BVMT làng nghề đang còn ít, có Sở từ năm 2010 đến 2014 vẫn chưa tổ chức được cuộc thanh tra về BVMT làng nghề nào. Trên cơ sở đó, thời gian tới cần quan tâm, bổ sung biên chế cho thanh tra Sở Tư pháp. Mặt khác, cần nâng cao chất lượng cán bộ thanh tra, chú trọng bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ về BVMT làng nghề, nghiệp vụ thanh tra, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ thanh tra tư pháp trong hoạt động nghiệp vụ, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình THPL về BVMT làng nghề.

Thứ năm, để công tác thanh tra, kiểm tra đem lại hiệu quả, bên cạnh việc vào cuộc của các cơ quan chức năng, cần tăng cường phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đây là cơ sở vững chắc trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật,

Page 151: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

146

đồng thời cũng là lực lượng đông đảo để làm tốt công tác THPL về BVMT làng nghề ở cơ sở. Vai trò giám sát và kiểm tra của cộng đồng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện các hành vi vi phạm MTLN. Nhiều địa phương, thôn, bản sở dĩ làm tốt công tác THPL về BVMT làng nghề là do ở đó xây dựng được các Hương ước, lấy quan hệ luật tục làm cơ sở điều chỉnh hành vi, trong đó quy định rõ ràng những điều khoản cần thiết để điều tiết các hành vi của các thành viên như: xây dựng nhà vệ sinh, khu chăn nuôi, khu vực sản xuất, tiếng ồn, thu gom rác thải sinh hoạt… Kinh nghiệm cho thấy, phát động quần chúng tham gia THPL về BVMT làng nghề có thể được coi là phương pháp tốt nhất, có một ý nghĩa sâu xa và quyết định, nhất là trong điều kiện cảnh sát môi trường nước ta chưa kiện toàn và hoàn chỉnh. Biến hàng triệu tai mắt của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi rọi khắp nơi, không để cho bất kỳ một hành động nào của con người có thể làm hại đến môi trường sống, trước hết là đến môi trường không khí, môi trường nước, môi trường đất và tiếng ồn. Mọi người dân đều được huy động vào việc giám sát, phát hiện các hành vi vi phạm MTLN. "Môi trường là của mọi người" mỗi vi phạm dù nhỏ cũng ảnh hưởng đến mình và những người khác trong cộng đồng. Do đó, vai trò của cộng đồng thực sự được phát huy thông qua quy chế BVMT. Những phát hiện, cũng là nguồn thông tin kịp thời để đề ra biện pháp xử lý hiệu quả của cơ quan quản lý Nhà nước.

Thứ sáu, các tỉnh ĐBSH cần thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết quá trình THPL về BVMT làng nghề. Hiện tại pháp luật về BVMT làng nghề chưa hoàn thiện, có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình THPL chưa được pháp luật điều chỉnh cũng như việc quy định của các văn bản còn chồng chéo, mâu thuẫn, thông qua công tác sơ kết, tổng kết để các tổ chức THPL về BVMT làng nghề phản ánh, kiến nghị. Đây là cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước như Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở TNMT,… xem xét, đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi bổ sung những văn bản không phù hợp, từ đó tạo cơ sở pháp lý cho việc THPL về BVMT làng nghề. Đồng thời, qua sơ kết, tổng kết để khuyến khích, động viên khen thưởng, nhân rộng điển hình những cá nhân, tổ chức có thành tích, có cách làm hay trong quá trình THPL về BVMT làng nghề.

Thứ bảy, cần có cơ chế khen thưởng kịp thời, thích đáng với những người có thành tích trong việc phát hiện và tố giác các hành vi vi phạm pháp luật của những người điều hành hoặc tham gia THPL về BVMT làng nghề. Phát hiện, cổ vũ và bằng nhiều phương tiện để nhân rộng các sáng kiến. Phát hiện các mô hình tiên tiến trong hoạt động THPL về BVMT làng nghề để khen thưởng, phổ biến, nhân rộng; duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm. Đưa nội dung THPL về BVMT làng nghề

Page 152: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

147

vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và vào tiêu chuẩn xét khen thưởng.

4.2.2.6. Tăng cường việc thực hiện pháp luật về quy hoạch các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng

Để thực hiện tốt pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cần di dời triệt để các cơ sở gây ONMT nằm trong khu dân cư ra các khu, cụm công nghiệp tập trung hoặc tạm dừng hoạt động cho đến khi có biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn/QCKTQG về môi trường trước ngày 01/01/2016. Để thực hiện vấn đề này công tác quy hoạch cần được triển khai theo:

Một là, quy hoạch lại sản xuất: Tùy đặc điểm hình thành và phát triển của các làng nghề, các địa phương cân nhắc và xem xét thực hiện các mô hình quy hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình, có thể áp dụng một trong ba phương thức đề xuất sau: quy hoạch tập trung theo khu, cụm công nghiệp làng nghề: quy hoạch cơ sở hạ tầng đồng bộ bao gồm hệ thống đường giao thông, hệ thống cấp điện, nước, thông tin liên lạc, hệ thống thu gom và xử lý chất thải. Quy hoạch khu sản xuất phù hợp với đặc thù loại hình làng nghề. Hình thức quy hoạch này thường được áp dụng đối với các làng nghề có cơ sở thuộc loại hình sản xuất có tiềm năng gây ONMT cao, không được phép thành lập mới trong khu dân cư; quy hoạch phân tán (quy hoạch sản xuất ngay tại hộ gia đình): với loại hình quy hoạch này cần phải tổ chức bố trí không gian nhằm cải thiện điều kiện sản xuất và vệ sinh môi trường mà không cần phải di dời, hạn chế tối đa việc cơi nới, xây nhà cao tầng… lưu giữ nét cổ truyền, văn hóa của làng nghề để kết hợp với dịch vụ du lịch. Quy hoạch này thường được áp dụng đối với các làng nghề có cơ sở thuộc loại hình sản xuất có tiềm năng gây ONMT thấp, được phép hoạt động trong khu dân cư; quy hoạch phân tán kết hợp tập trung: di dời các công đoạn gây ONMT nghiêm trọng như công đoạn tẩy, nhuộm (làng nghề dệt nhuộm), công đoạn mạ (làng nghề cơ khí),… vào khu, cụm công nghiệp làng nghề. Quy hoạch này thường được áp dụng đối với các làng nghề có cơ sở thuộc loại hình sản xuất có một hoặc một số công đoạn sản xuất có tiềm năng gây ONMT cao, không được phép thành lập mới trong khu dân cư.

Hai là, chuyển đổi ngành nghề sản xuất hoặc di dời vào khu, cụm công nghiệp tập trung, bao gồm: Lập danh mục các làng nghề cần có lộ trình chuyển đổi ngành nghề sản xuất hoặc di dời, trước mắt tập trung vào nhóm loại hình tái chế giấy, tái chế nhựa, tái chế kim loại, nhuộm, giết mổ và làng nghề gây ONMT nghiêm trọng, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch di dời hoặc chuyển đổi ngành nghề sản xuất với lộ trình phù hợp; đối với các làng nghề, các cơ sở sản xuất trong làng nghề cần chuyển đổi ngành nghề sản xuất, địa phương phải lồng ghép với ‘Chương trình mục tiêu quốc gia

Page 153: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

148

xây dựng nông thôn mới’, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững để nghiên cứu, định hướng ngành nghề chuyển đổi và tổ chức các khóa đào tạo nghề phục vụ cho việc chuyển đổi ngành nghề sản xuất. Các làng nghề, các cơ sở sản xuất gây ONMT trong khu vực dân cư nông thôn cần di dời vào khu, cụm công nghiệp làng nghề được hưởng các chính sách ưu đãi về miễn giảm tiền thuê đất, thuế sử dụng đất,… và phải tuân thủ các quy định BVMT đối với khu, cụm công nghiệp tập trung.

Ba là, lựa chọn, xây dựng và áp dụng thử nghiệm một vài mô hình LNTT gắn với du lịch.

4.2.2.7. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao nhận thức trong việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề đối với cơ sở sản xuất, hộ gia đình làm nghề và nhân dân ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật luôn có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, cũng do đặc thù của các làng nghề nông thôn vùng ĐBSH là tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể cao, sẽ giúp cho chính quyền địa phương vùng ĐBSH dễ dàng hơn trong công tác tuyên truyền này, đưa pháp luật về BVMT làng nghề đến với người dân nông thôn vùng ĐBSH.

Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng đó, Ban Bí thư khóa IX đã ban hành Chỉ thị 32 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Chính phủ ban hành Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 [112]; Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2008-2012 [114].

Thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, thực tế những năm gần đây công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhận thức trong việc THPL về BVMT làng nghề đối với cơ sở sản xuất, hộ gia đình làm nghề và nhân dân ở các tỉnh ĐBSH đã nhận được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các ngành chức năng nơi đây, nhưng vẫn chưa thật sự đạt hiệu quả như mong muốn. Để đẩy mạnh

Page 154: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

149

và nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cần thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị [7], Chỉ thị 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư khoá X, Nghị quyết số 23-NQ/TU ngày 05/5/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Chương trình hành động kèm theo Quyết định số 45/2005/QĐ-UBND ngày 15/6/2005 của UBND tỉnh, Luật BVMT năm 2014 và các văn bản hướng dẫn về BVMT tới cán bộ, đảng viên, trong các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội, nhất là trong cộng đồng dân cư; tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước trong việc THPL về BVMT làng nghề cấp huyện, cấp xã để đáp ứng yêu cầu công tác BVMT làng nghề.

Thứ hai, phát huy vai trò của cấp uỷ Đảng, chính quyền ở các tỉnh ĐBSH, đặc biệt là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục trong việc THPL về BVMT làng nghề. Mỗi cấp uỷ Đảng, chính quyền, mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở từng địa phương phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, phải có sự quan tâm và chỉ đạo thường xuyên từ việc xây dựng chương trình, kế hoạch cho đến những giải pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả, tránh hiện tượng nêu to khẩu hiệu rồi phó mặc cho cán bộ chuyên môn hoặc các ngành đoàn thể tự triển khai. Có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ, chính quyền, thì công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục trong việc THPL về BVMT làng nghề sẽ được thực hiện có hiệu quả, đồng thời luôn nhận được sự tham gia ủng hộ tích cực của các ban, ngành đoàn thể, các tầng lớp nhân dân đối với hoạt động này. Đây cũng là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhận thức trong việc THPL về BVMT làng nghề đối với cơ sở sản xuất, hộ gia đình làm nghề và nhân dân ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ ba, việc tuyên truyền phổ biến giáo dục về THPL về BVMT làng nghề phải được thực hiện có trọng điểm và gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, có thể tập trung tuyên truyền theo thời gian hoặc không gian. Ví dụ theo không gian, tuyên truyền những ảnh hưởng của ONMT đối với cuộc sống sức khỏe của người dân và pháp luật về phòng, chống ô nhiễm ở những làng nghề xảy ra ONMT. Theo thời gian, cần tuyên truyền gắn với thời điểm, có thể gắn với nhiệm vụ chính trị của địa phương hoặc của Đảng bộ ở các tỉnh ĐBSH, ví dụ thời điểm sắp diễn ra cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND.

Thứ tư, kết hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các hình thức tuyên truyền như: tuyên truyền miệng, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền thông qua các cuộc hội thảo,… Thực tế cho thấy, hiện nay việc tuyên truyền phổ biến giáo dục trong việc THPL về

Page 155: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

150

BVMT làng nghề trên địa bàn quận, huyện, tuy đã có nhiều đổi mới song còn những hạn chế nhất định, nhiều nội dung tuyên truyền, báo cáo viên chỉ đơn thuần giảng bằng lời trên nghị trường mà chưa có hình ảnh minh hoạ hoặc máy chiếu hỗ trợ điều đó làm giảm hiệu quả buổi tuyên truyền. Bên cạnh đó, để có hiệu quả cao trong tuyên truyền pháp luật cũng đòi hỏi báo cáo viên phải chuẩn bị nội dung bài giảng chu đáo, nội dung bài giảng, bài tuyên truyền, phổ biến cần đi sâu vào nhu cầu cần nắm bắt thông tin của người nghe kết hợp với những tình huống minh hoạ để phân tích chứng minh thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều. Đối với các văn bản luật sửa đổi có thay thế, bổ sung, cũng cần đi sâu làm rõ những điểm mới của văn bản.

Thứ năm, kết hợp hỏi đáp trong tuyên truyền việc THPL về BVMT làng nghề nhằm khai thông, giải đáp những thắc mắc trong nhân dân về những vấn đề đang gặp hoặc đã gặp nhưng chưa rõ. Để thực hiện có hiệu quả nội dung này, trước hết, cấp uỷ, chính quyền địa phương cần phối hợp tốt với cơ quan chức năng tuyên truyền phổ biến việc THPL về BVMT làng nghề để nhân dân có thể chuẩn bị những câu hỏi, những ý kiến thắc mắc cần được giải đáp tại hội nghị hoặc Ban tổ chức hội nghị có thể chuẩn bị một số câu hỏi thường gặp thực hiện hỏi đáp tại hội nghị, như vậy, nội dung buổi tuyên truyền vừa sôi nổi, vừa thu hút sự quan tâm của nhân dân, từ đó đưa ra những giải đáp cần thiết phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của nhân dân.

Thứ sáu, tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp, các ban, ngành đoàn thể với chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục việc THPL về BVMT làng nghề. Đối với việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật theo lĩnh vực của ngành nào thì cần có kế hoạch để có sự phối hợp chặt chẽ nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục trong việc THPL về BVMT làng nghề.

Thứ bẩy, phát hành nhiều tài liệu, tờ rơi phổ biến và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật việc THPL về BVMT làng nghề. Hàng năm nhân dịp Tuần lễ quốc gia nước sạch - vệ sinh môi trường, Tổ chức nhiều hoạt động thiết thực trong việc THPL về BVMT làng nghề như ra quân làm vệ sinh tại các thị xã, thị trấn và các khu dân cư.

Thứ tám, phát huy tối đa hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc nâng cao nhận thức THPL về BVMT làng nghề. Tổ chức biên soạn hệ thống chương trình phát thanh, truyền hình để chuyển tải đầy đủ nội dung, trách nhiệm, cung cấp thông tin trong việc THPL về BVMT làng nghề; cổ động liên tục cho các phong trào toàn dân và nêu gương điển hình trong hoạt động THPL về BVMT làng nghề. Tạo dư luận xã hội lên án nghiêm khắc các hành vi gây mất vệ sinh và gây ONMT làng nghề đi đôi với việc áp dụng các chế tài, xử phạt nghiêm minh đúng mức mọi vi phạm.

Page 156: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

151

Thứ chín, tăng cường giáo dục việc THPL về BVMT làng nghề trong các trường học: lồng ghép các kiến thức BVMT làng nghề một cách khoa học với một khối lượng hợp lý trong các chương trình giáo dục của từng cấp học.

4.2.2.8. Khuyến khích xã hội hóa bảo vệ môi trường làng nghề nhằm góp phần đảm bảo việc thực hiện pháp luật về môi trường làng nghề ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng

Hiện nay chúng ta đang thực hiện những nội dung cơ bản của xã hội hóa hoạt động BVMT làng nghề như: xác định trách nhiệm các bên tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng, xây dựng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ BVMT làng nghề, phát triển phong trào quần chúng xây dựng BVMT làng nghề, lồng ghép các mô hình KT-XH. Để công tác xã hội hóa các hoạt động BVMT làng nghề, nhằm đảm bảo tốt hơn việc THPL về bảo vệ MTLN cần thực hiện đồng bộ các giải pháp. Cụ thể là:

Một là, hoàn thiện môi trường pháp lý, ban hành các chính sách phù hợp, tăng cường các ưu đãi tài chính và tạo thuận lợi cao nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia xã hội hóa công tác BVMT; Các chủ trương, chính sách về xã hội hóa BVMT làng nghề phải được thể chế hóa bằng các quy định, QPPL cụ thể và có hiệu lực đi kèm với các chế tài nghiêm khắc cả về tài chính lẫn hành chính, đối với các hành vi vi phạm từ các phía có liên quan; các cơ quan quản lý ngân sách hoặc các quỹ tài chính có nguồn gốc ngân sách để trực tiếp hỗ trợ có thời hạn và điều kiện cho doanh nghiệp như hỗ trợ lãi biết đầu tư, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ bù giá chênh lệch trong kinh doanh và hỗ trợ sắp xếp lao động trong doanh nghiệp tham gia xã hội hóa - cần đặc biệt coi trọng việc giảm các nghĩa vụ tài chính như thuế, phí và các chi phí tham gia thị trường của doanh nghiệp tham gia xã hội hóa.

Hai là, tăng cường tuyên truyền giáo dục và thống nhất nhận thức chung về xã hội hóa BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH để tạo sự đồng thuận xã hội cao, ngăn chặn sự lệch lạc và lạm dụng trong quá trình triển khai các hoạt động xã hội hóa cung cấp dịch vụ môi trường. Ngoài việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách có liên quan đến xã hội hóa BVMT làng nghề thì cần thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về quy hoạch, kế hoạch, dự án xã hội hóa dịch vụ BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH để các doanh nghiệp và các nhà đầu tư ngoài khu vực kinh tế nhà nước tiếp cận thuận lợi, đầy đủ, từ đó hình thành các quyết định đầu tư cần thiết, đúng định hướng.

Ba là, mở rộng các hoạt động kinh doanh dịch vụ BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH và cổ phần hóa các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đang và sẽ tham gia xã hội hóa các dịch vụ BVMT làng nghề. Cần có cơ chế quản lý để tránh việc cung cấp các dịch vụ BVMT làng nghề diễn ra theo kiểu mạnh thành phần kinh tế nào thì bên ấy

Page 157: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

152

làm. Cạnh tranh tự do, tự phát, thiếu sự hợp tác, gắn kết giữa các doanh nghiệp đơn vị các thành phần kinh tế - cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng các dịch vụ MTLN và thành lập các công ty cổ phần mới tham gia cạnh tranh cung cấp các dịch vụ MTLN là khuynh hướng nên được lựa chọn trong cách tổ chức xã hội hóa các dịch vụ BVMT trong thời gian tới.

Bốn là, thực hiện dân chủ hóa quá trình xã hội hóa đầu tư BVMT làng nghề và thể chế hóa sự giám sát của xã hội về BVMT ở các tỉnh ĐBSH: quy chế dân chủ ở cơ sở thực tế đó khẳng định sự cần thiết và hiệu quả của việc tăng cường dân chủ hóa, mở rộng sự giám sát trực tiếp của người dân. Thể chế hóa việc giám sát xã hội đảm bảo dân chủ và xử lý kịp thời các phát hiện sai phạm quy định về xã hội hóa là một trong những điều kiện và động lực mạnh mẽ và quan trọng hàng đầu để quá trình xã hội hóa BVMT làng nghề đúng định hướng, đúng mục tiêu.

Năm là, khuyến khích hình thành các Hiệp hội ngành nghề nông thôn, các tổ chức Hợp tác xã, Tổ tự quản trong việc THPL về BVMT làng nghề,… để tăng cường chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, nắm bắt, phổ biến tuyên truyền văn bản QPPL.

Sáu là, chính quyền các cấp ở các tỉnh ĐBSH cần phối hợp và hỗ trợ về mọi mặt để phát huy tối đa vai trò công tác xã hội, đa dạng hoá các hoạt động BVMT làng nghề, có cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế thực hiện dịch vụ BVMT làng nghề. Tăng cường mạnh mẽ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, mà đặc biệt là Mặt trận tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh trong công tác kiểm tra, theo dõi, giám sát thực thi các quy định của pháp luật về BVMT làng nghề. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào việc giám sát công tác THPL về BVMT làng nghề bằng việc yêu cầu mỗi làng nghề phải có Hương ước, trong đó có các điều khoản cam kết BVMT để cùng thực hiện.

Kết luận chương 4

Bảo đảm THPL về BVMT làng nghề là một yêu cầu tất yếu khách quan. Để thực

hiện tốt yêu cầu này cần quán triệt các quan điểm, những tư tưởng chỉ đạo trong quá trình BVMT làng nghề. Đây là tư tưởng xuyên suốt, định hướng cho việc ban hành các chính sách, các văn bản QPPL của Nhà nước, là cơ sở quan trọng trong THPL về BVMT làng nghề.

Quán triệt các quan điểm trên, bảo đảm THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH cần được tiến hành với nhiều giải pháp đồng bộ như: hoàn thiện các quy định pháp luật về BVMT làng nghề của Trung ương và các tỉnh ĐBSH; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản lý của Nhà nước ở các tỉnh ĐBSH với với THPL

Page 158: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

153

về BVMT làng nghề; Hoàn thiện hệ thống thanh tra nhà nước cấp Trung ương nhằm đảm bảo việc THPL về BVMT làng nghề và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và các tỉnh ĐBSH; nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; tăng cường sự hợp tác Quốc tế trong việc THPL về BVMT làng nghề; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, áp dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ và thực hiện quy hoạch hợp lý các làng nghề; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về BVMT làng nghề cho các cơ sở sản xuất và nhân dân; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và xử lý nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT làng nghề; phân phối hợp lý và đa dạng hóa đầu tư tài chính cho BVMT làng nghề; khuyến khích xã hội hóa BVMT làng nghề. Các giải pháp trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất, trong đó việc xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về BVMT làng nghề của Trung ương và các tỉnh ĐBSH có ý nghĩa tạo tiền đề cho THPL về BVMT làng nghề, các giải pháp khác góp phần THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH có hiệu quả.

Để THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH có hiệu quả đòi hỏi các giải pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng bộ với quyết tâm cao của toàn xã hội. Trong đó, vai trò thực hiện chủ yếu là các cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về BVMT làng nghề. Các quan điểm chỉ phát huy hiệu quả trên thực tế khi giải pháp được thực hiện nghiêm túc và ngược lại các giải pháp chỉ đạt kết quả cao khi được chỉ đạo bởi các quan điểm đúng đắn nhằm THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH có hiệu lực, hiệu quả.

Page 159: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

154

KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu vấn đề THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH của

luận án, cho phép rút ra một số kết luận sau đây: Thứ nhất, dựa trên hệ thống các khái niệm, phạm trù khoa học Lý luận về nhà

nước và pháp luật, luận án đã xây dựng, phân tích được cơ sở lý luận của việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH như: khái niệm về làng nghề, pháp luật BVMT làng nghề và THPL về BVMT làng nghề, các chủ thể, nội dung và hình thức THPL về BVMT làng nghề, từ đó phân tích vai trò và các yếu tố đảm bảo việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Luận án cũng đã tập trung phân tích việc THPL về BVMT nói chung, về BVMT làng nghề nói riêng của một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho các tỉnh ĐBSH.

Thứ hai, luận án đã phân tích những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của các tỉnh ĐBSH ảnh hưởng đến việc THPL về BVMT làng nghề; đánh giá hiện trạng ô nhiễm đất, nước, không khí, CTR,... gây ra bởi các hoạt động sản xuất làng nghề ở các tỉnh ĐBSH. Từ cơ sở lý luận, luận án đi sâu phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng hệ thống pháp luật về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH hiện nay, chỉ ra những thành tựu và những hạn chế, bất cập trong quá trình THPL về BVMT ở các tỉnh ĐBSH nhìn từ góc độ quản lý pháp luật. Việc đánh giá thực trạng được thực hiện theo các nội dung: bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất đai và tài nguyên đất, bảo vệ môi trường không khí, quản lý chất thải và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, DTLS, trong mỗi nội dung lại đánh giá dưới 4 hình thức THPL: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Đồng thời luận án cũng đi sâu phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế bất cập này.

Thứ ba, để nâng cao hiệu quả THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, luận án đề xuất 03 quan điểm có tính chỉ đạo: 1) THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH phải quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và các nghị quyết của Đảng bộ ở các các tỉnh ĐBSH về phát triển làng nghề và bảo vệ môi trường; 2) THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH phải gắn với PTBV làng nghề; 3) BVMT làng nghề là trách nhiệm chung của chính quyền các cấp, địa phương, của cộng đồng sản xuất, kinh doanh và của cộng đồng dân cư làng nghề ở các tỉnh ĐBSH.

Thứ tư, để bảo đảm nâng cao hiệu quả THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH, luận án đưa ra và luận giải tính khả thi của 02 nhóm giải pháp cơ bản: Một là, nhóm giải pháp chung để đảm bảo THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH bao gồm các giải pháp: hoàn thiện các quy định pháp luật về BVMT làng nghề ở Trung

Page 160: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

155

ương; Hoàn thiện hệ thống thanh tra nhà nước cấp Trung ương nhằm đảm bảo việc THPL về BVMT làng nghề; tăng cường sự hợp tác quốc tế trong việc THPL về BVMT làng nghề của Việt Nam nói chung và của các tỉnh ĐBSH nói riêng; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, áp dụng giải pháp kỹ thuật công nghệ và thực hiện quy hoạch hợp lý các làng nghề; đa dạng hóa và phân phối hợp lý đầu tư tài chính cho việc THPL về BVMT làng nghề. Hai là, nhóm giải pháp cụ thể để đảm bảo thực hiện pháp luật BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH bao gồm các giải pháp: hoàn thiện các quy định pháp luật BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; tăng cường sự phối hợp giữa chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, giải quyết khiếu tố khiếu nại, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong việc THPL về BVMT làng nghề ở các tỉnh ĐBSH; tăng cường việc THPL về quy hoạch các làng nghề vùng ĐBSH; tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao nhận thức trong việc THPL về BVMT làng nghề đối với cơ sở sản xuất, hộ gia đình làm nghề và nhân dân ở các tỉnh ĐBSH; khuyến khích xã hội hóa BVMT làng nghề góp phần đảm bảo việc THPL về MTLN ở các tỉnh ĐBSH.

Page 161: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

156

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ ĐỀ TÀI CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Nguyễn Trần Điện (2012), “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (4), tr.56-62, 66.

2. Nguyễn Trần Điện (2012), “Công tác bảo vệ môi trường trong khai thác, chế biến khoáng sản”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (5), tr.58-62.

3. Nguyễn Trần Điện (2015), “Công tác quản lý bảo vệ môi trường làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng - bất cập, nguyên nhân và giải pháp đề xuất”, Tạp chí Hoạt động khoa học công nghệ, (1, 2 & 3), tr.86-93.

4. Nguyễn Trần Điện (2015), “Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ nguồn nước trong môi trường làng nghề ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Hoạt động khoa học công nghệ, (4, 5 & 6), tr.86-92.

5. Nguyễn Trần Điện (2015), “Tình hình thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề vùng đồng bằng sông hồng”, Tạp chí Giáo dục lý luận (231), tr.101-103.

6. Nguyễn Trần Điện (2015), “Thực trạng công tác quản lý và thực hiện pháp luật về môi trường ở các làng nghề khu vực Bắc Đuống”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (275), tr.33-38, 49.

7. Nguyễn Trần Điện (2015), “Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về môi trường làng nghề vùng đồng bằng sông hồng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (280), tr.45-49.

8. Nguyễn Trần Điện (2015), “Hiện trạng ô nhiễm và thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở một số làng nghề khu vực sông Nhuệ - Đáy ở Hà Nội”, Tạp chí Lao động và xã hội, (504), tr.48-50.

Page 162: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt 1. Aki Nakauchi - Cục Sức khỏe Môi trường - Bộ Môi trường Nhật Bản, (2013),

Kinh nghiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường của Nhật Bản, tại trang http://reds.vn/index.php/thoi-su/quoc-te, [truy cập ngày 20/9/2013].

2. Bạch Thị Lan Anh (2010), Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế, Hà Nội.

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1998), Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội.

4. Ban chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, Hà Nội.

5. Tạ Hoàng Tùng Bắc, Phạm Phương Hạnh (2014), “Hiện trạng và các giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Môi trường, (12).

6. Bộ chính trị (1998), Chỉ thị số 36/1998/CT-TW ngày 25/06/1998 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

7. Bộ chính trị (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP, Hà Nội.

9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.

10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Thông tư số 42/2006/TT-BNN ngày 01/06/2006 hướng dẫn thực hiện một số điều tại Quyết định số 394/QĐ-TTg ngày 13 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích đầu tư xây dựng mới, mở rộng cơ sở giết mổ, bảo quản chế biến gia súc, gia cầm và cơ sở chăn nuôi gia cầm...., Hà Nội.

11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Một số chính sách về phát triển ngành nghề nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

Page 163: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

158

12. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ, Hà Nội.

13. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/05/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí BVMT đối với CTR, Hà Nội.

14. Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày 18/12/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải, Hà Nội.

15. Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT/BTC-BTNMT ngày 6/9/2007 sửa đổi, bổ sung thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải, Hà Nội.

16. Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLT-BTC-BTNMT ngày 30/03/2010 hướng dẫn việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường, Hà Nội.

17. Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), Thông tư liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTNMT ngày 15/5/2013 hướng dẫn thực hiện nghị định số 25/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2013 của chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, Hà Nội.

18. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 về việc Ban hành Danh mục chất thải nguy hại, Hà Nội.

19. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo môi trường Quốc gia 2008 - Môi trường làng nghề Việt Nam, Hà Nội.

20. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Thông tư số 04/2008/TT-BTNMT ngày 18/09/2008 hướng dẫn lập, phê duyệt hoặc xác nhận đề án BVMT và kiểm tra, thanh tra việc thực hiện đề án bảo vệ môi trường, Hà Nội.

21. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo môi trường Quốc gia 2011 - Chất thải rắn, Hà Nội.

22. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Thông tư số 46/2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011 quy định về bảo vệ môi trường làng nghề, Hà Nội.

23. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Thông tư số số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/04/2011 quy định về quản lý chất thải nguy hại, Hà Nội.

Page 164: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

159

24. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), Báo cáo môi trường Quốc gia 2013 - Môi trường không khí, Hà Nội.

25. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo môi trường Quốc gia 2014 - Môi trường nông thôn, Hà Nội.

26. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT ngày 30/5/2014 quy định việc đăng ký khai thác nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép tài nguyên nước, Hà Nội.

27. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo chuyên đề Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra ngành tài nguyên và môi trường, giải quyết vụ việc tồn đọng, kéo dài và các vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao năm 2014, Hà Nội.

28. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về đất đai năm 2014, 6 tháng đầu năm 2015 và tình hình triển khai thi hành Luật đất đai và những vấn đề cần giải quyết tháo gỡ, Hà Nội.

29. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về môi trường 6 tháng đầu năm 2015, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2015 và tình hình triển khai Luật bảo vệ môi trường 2014, Hà Nội.

30. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước năm 2014 kết quả 6 tháng đầu năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2015, Hà Nội.

31. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về quản lý chất thải nguy hại, Hà Nội.

32. Bộ Tư pháp (2009), Quyết định số 468/QĐ-BTP ngày 26/02/2009 ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức bộ tư pháp, Hà Nội.

33. Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2000), Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-BVHTT-BTTUBTUMTTQVN ngày 31/03/2000 hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư, Hà Nội.

34. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2012), Quyết định số 1696/QĐ-BVHTTDL ngày 7/5/2012 về việc phê duyệt nội dung đề cương ”Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

35. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2013), Thông tư liên tịch số 19/2013/TTLT-BVHTTDL-BTNMT ngày 30/12/ 2013 hướng dẫn bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch, tổ chức lễ hội, bảo vệ và phát huy giá trị di tích, Hà Nội.

Page 165: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

160

36. Bộ Xây dựng (2007), Thông tư số 13/2007/TT-BXD ngày 31/12/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 59/2007/NĐ-CP, Hà Nội.

37. Đặng Kim Chi (chủ biên) (2005), Làng nghề Việt Nam và môi trường, Nxb Khoa học và Kĩ thuật, Hà Nội.

38. Đặng Thị Kim Chi (2005), Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng các chính sách và giải pháp cải thiện môi trường các làng nghề nông thôn Việt Nam, Đề tài KC 08.09, Hà Nội.

39. Đặng Kim Chi (2005), Tài liệu hướng dẫn áp dụng các biện pháp cải thiện môi trường cho làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

40. China Radio International.CRI (2011), Thành phố Du Thụ, Tỉnh Cát Lâm sáng tạo mô hình cải thiện môi trường nông thôn, tại trang http://vietnamese.cri.cn, [truy cập ngày 10/3/2012].

41. Chính phủ (2006), Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về Phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.

42. Chính phủ (2006), Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.

43. Chính phủ (2006), Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

44. Chính phủ (2007), Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/07/2007 quy định tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước, Hà Nội.

45. Chính phủ (2007), Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 08/01/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải, Hà Nội.

46. Chính phủ (2007), Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, Hà Nội.

47. Chính phủ (2007), Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 về quản lý chất thải rắn, Hà Nội.

48. Chính phủ (2008), Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, ngày 28/2/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.

Page 166: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

161

49. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Hà Nội.

50. Chính phủ (2009), Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

51. Chính phủ (2010), Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/09/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, Hà Nội.

52. Chính phủ (2011), Báo cáo số 170/BC-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ trình Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề, Hà Nội.

53. Chính phủ (2013), Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước, Hà Nội.

54. Chính phủ (2013), Nghị định số 27/2013/NĐ-CP ngày 29/3/2013 quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường, Hà Nội.

55. Chính phủ (2013), Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

56. Chính phủ (2013), Nghị định số 25/2013/NĐ-CP ngày 29/03/2013 về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, Hà Nội.

57. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 35/NQ-CP, ngày 18/03/2013 về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Hà Nội.

58. Chính phủ (2015), Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về công tác bảo vệ môi trường, Hà Nội.

59. Chính phủ (2015), Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.

60. Chính phủ (2015), Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 06/05/2015 quy định lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, Hà Nội.

61. Chính phủ (2015), Nghị định số 54/2015/NĐ-CP ngày 08/06/2015 quy định về ưu đãi đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, Hà Nội.

62. Chính phủ (2015), Nghị định số 149/204/NĐ-CP ngày 27/7/2015 quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước, hiệu quả, Hà Nội.

63. Chính phủ (2015), Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/04/2015 về quản lý chất thải và phế liệu, Hà Nội.

64. Trần Văn Chử (2006), Tài nguyên và môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 167: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

162

65. Công ty luật Minh Khuê (2014), Giới thiệu hệ thống thuế ở Trung Quốc, tại trang http://thuvienphapluat.vn, [truy cập ngày 19/1/2014].

66. Cục Môi trường (2000), Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.

67. Cục Môi trường (2015), Xây dựng thí điểm mô hình quản lý môi trường cộng đồng, Bộ Khoa học công nghệ, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

68. Cục Thống kê Hải Dương (2011), Một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu của toàn quốc và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Hà Nội.

69. Nguyễn Chí Dĩnh (2005), Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Nguyễn Minh Đoan (2010), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Nguyễn Duy Hà (2008), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về môi trường, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học Viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

73. Ngô Thái Hà (2009), “Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường trước hết là nước sạch”, Tạp chí Cộng sản, (8).

74. Lê Hải (2006), “Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (3), tr.51-52.

75. Vũ Thu Hạnh (2004), Xậy dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

76. Nguyễn Lê Thu Hiền (2014), Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừ Thiên Huế, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

77. Nguyễn Thị Hiền (2003), “Phát triển tiểu thủ công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông hồng”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (1).

78. Hội đồng Nhà nước (1984), Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh, Hà Nội.

79. Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng (2013), Nghị quyết số 23/2013/NQ-HĐND về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nguồn nước ngọt tại sông Rế, sông Giá, sông Đa Độ, sông Chanh Dương; kênh Hòn Ngọc, hệ thống trung thủy nông Tiên Lãng trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2013 - 2020, Hải Phòng.

Page 168: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

163

80. Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng (2014), Nghị quyết số 33/2014/NQ-HĐND về thông qua quy hoạch tài nguyên nước thành phố Hải Phòng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hải Phòng.

81. Học viện Tài Chính (2008), Giáo trình kinh tế môi trường, Nxb Tài chính, Hà Nội. 82. Lưu Việt Hùng (2009), Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường tại Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Lao động xã hội, Hà Nội. 83. Nguyễn Thị Mai Hương (2011), Phát triển bền vững làng nghề ở Bắc Ninh, Luận

văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Trường Đại học kinh tế, Hà Nội. 84. Nguyễn Thị Thu Hường (2008), Thực hiện pháp luật môi trường ở tỉnh Nam Định,

Luận văn thạc sĩ Luật, Học Viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

85. Phạm Thị Huyền (2013), “Mô hình mỗi làng một sản phẩm của Nhật Bản: Phiên bản nào cho Việt Nam?”, Tạp chí Công thương, (5).

86. K. Kalman (1999), Cơ sở xã hội học pháp luật, Đức Uy biên dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

87. Linh Lan (2011), Ô nhiễm môi trường làng nghề: Cần có chế tài đủ mạnh, trang http://craftb2c.com, [truy cập ngày 30/7/2014].

88. Nguyễn Thị Ngọc Lanh (2013), Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý sử dụng đất tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh theo quan điểm phát triển bền vững, Luận án tiến sĩ Luật, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nôi.

89. Ngô Trà Mai (2008), Nghiên cứu, xác lập cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo vệ môi trường một số làng nghề tỉnh Hà Tây, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Khoa học tự nhiên, Hà Nội.

90. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

91. Hồ Kỳ Minh (2011), Nghiên cứu phát triển làng nghề tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.

92. Lê Kim Nguyệt (2012), “Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, (28).

93. Lê Kim Nguyệt (2014), Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

94. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb Sự thật, Hà Nội.

Page 169: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

164

95. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Du lịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Di sản văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Luật số 37/2009/QH12, Hà Nội.

98. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo vệ môi trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. REDS.VN chuyên trang môi trường (2013), Bài học bảo vệ môi trường từ luật pháp Singapore, tại trang http://www.reds.vn, [truy cập ngày 30/9/2013].

102. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Nam Định (2013), Quyết định số 2352/QĐ-STNMT ngày 13/12/2013 về việc ban hành Kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2014, Nam Định.

103. Ngọc Sơn (theo Reuters) (2006), Sông Dương Tử sắp chết, tại trang http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi, [truy cập ngày 15/3/2013].

104. Lê Xuân Tâm (2014), Nghiên cứu phát triển làng nghề gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

105. Tân Hoa Xã Vnexpress (2007), Sông Dương Tử ô nhiễm không thể vãn hồi, tại trang http://www.khoahoc.com.vn/doisong/moi-truong/tham-hoa, [truy cập ngày 15/3/2013].

106. Đỗ Thị Thạch (2006), Khôi phục và phát triển làng nghề ở vùng Đồng bằng sông Hồng nước ta hiện nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

107. P. Thanh (2011), Rà soát thực hiện luật môi trường tại các làng nghề, tại trang http://dantri.com.vn, [truy cập ngày 31/7/2015].

108. Chu Thái Thành (2009), “Làng nghề và bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (11).

109. Đỗ Nam Thắng (2010), “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam”, Tạp chí Môi trường, (7).

Page 170: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

165

110. Trần Văn Thể (2015), Đánh giá thiệt hại kinh tế do chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất tại làng nghề chế biến nông sản vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

111. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/08/2004 ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), Hà Nội.

112. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 phê duyệt chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010, Hà Nội.

113. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 02/02/2005 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

114. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012, Hà Nội.

115. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 58/2008/QĐ-TTg ngày 29/04/2008 về việc hỗ trợ có mục tiêu kinh phí từ ngân sách nhà nước nhằm xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy thoái môi trường cho một số đối tượng thuộc khu vực công ích, Hà Nội.

116. Thủ tướng chính phủ (2011), Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

117. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 38/2011/QĐ-TTg ngày 05/07/2011 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 58/2008/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ có mục tiêu kinh phí từ ngân sách nhà nước nhằm xử lý triệt để, khắc phục ô nhiễm và giảm thiểu suy thoái môi trường cho một số đối tượng thuộc khu vực công ích, Hà Nội.

118. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05/09/2012 phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

Page 171: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

166

119. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 577/QĐ-TTg ngày 11/04/2013 phê duyệt đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

120. Thủ tướng chính phủ (2013), Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

121. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 23/5/2013 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, Hà Nội.

122. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 166/QĐ-TTg ngày 21/01/2014 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

123. Thủ tướng chính phủ (2014), Quyết định số 1435/QĐ-TTg ngày 18/08/2014 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020, Hà Nội.

124. Thủ tướng chính phủ (2015), Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ, Hà Nội.

125. Tổng cục thống kê (2013), Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2013 phân theo địa phương, Hà Nội.

126. Trung tâm Nghiên cứu khoa học - Viên Nghiên cứu lập pháp (2013), Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong xây dựng pháp luật về bảo vệ môi trường, Hà Nội.

127. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

128. Ủy ban bảo vệ môi trường sông Nhuệ - Đáy (2013), Quyết định số 02/QĐ-UBSNĐ ngày 5/3/2013 về việc ban hành quy chế quản lý, chia sẻ thông tin, dữ liệu môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy trên cổng thông tin điện tử, Hà Nội.

129. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2014), Kế hoạch số 22/KH-UBND ngày 10/4/2014 triển khai thực hiện Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh.

130. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2014), Quyết định số 551/QĐ-UBND ngày 29/12/2014 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu thương mại, dịch vụ làng nghề tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Bắc Ninh.

Page 172: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

167

131. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2015), Công văn số 2361/UBND-TNMT số 31/8/2015 về việc tăng cường kiểm tra, giám sát và xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá đối với hoạt động, quản lý sử dụng đất đai, Bắc Ninh.

132. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2000), Quyết định số 349/2000/QĐ-UB ngày 27/4/2000 về việc ban hành Quy định bảo vệ nguồn nứoc, các công trình cấp nước, quản lý, khai thác, cung cấp, sử dụng nước đô thị tỉnh Hà Nam, Hà Nam.

133. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2006), Chỉ thị số 13/2006/CT-UBND ngày 18/5/2006 về việc tăng cường công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trên địa bàn tỉnh, Hà Nam.

134. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2013), Chỉ thị số 968/UBND-CT ngày 12/6/2013 về việc tăng cường công tác quản lý xây dựng, sử dụng đất đai tại các cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh, Hà Nam.

135. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2013), Quyết định số 26/2013/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về quy định công tác tổ chức quản lý thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh, Hà Nam.

136. Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2008), Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 19/11/2008 về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi trường ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Hải Dương.

137. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2010), Quyết định số 07/2010/QĐ-UBND ngày 12/4/2010 về việc quy định mức thu, quản lý và sử dụng lệ phí địa chính, lệ phí cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng nước dưới đất, nước mặt, xả nước thải, Hưng Yên.

138. Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2012), Quyết định số 1844/QĐ-UBND ngày 19/10/2012 về việc thành lập Ban điều hành Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2012 - 2015, Hưng Yên.

139. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2014), Công văn số 220/UBND-VP3 ngày 29/8/2014 về việc tổ chức thực hiện Kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - Đáy đến năm 2020, Ninh Bình.

140. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2012), Quyết định số 3594/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010-2020, định hướng đến năm 2030, Quảng Ninh.

Page 173: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

168

141. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2008), Quyết định số 45/2008/QĐ-UBND ngày 25/9/2008 về việc ban hành Quy định về quy mô khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trong phạm vi hộ gia đình không phải xin phép và trường hợp không phải xin phép nhưng phải đăng ký trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.

142. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2014), Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 23/1/2014 ban hành Quy định về bảo vệ môi trường nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.

143. Nguyễn Vân, (2013), Từ mô hình mỗi làng một sản phẩm ở Nhật Bản, tại trang http://vanhien.vn/vi/news/dia-phuong, [truy cập ngày 15/3/2013].

144. Phạm Thị Thanh Xuân (2009), Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường ở các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Luật, Học Viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

145. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

Tài liệu tiếng nước ngoài 146. С.А.Балашенко, Е.В. Лаевская (2006), Судебная защита права на

благоприятную окружающую среду: проблемы теории и практики, Судовы веснік, 4, 34-37.

147. Z. Fan (2011), Marginal Opportunity Cost Pricing for Wastewater Disposal: A case study of Wuxi, China. EAPSEA, Manila.

148. T. Kaisorn, D. Phousavanh, K. Somphone (2009), An assessment of paper mill wastewater impacts and treatment options in Vientiane Capital City, Lao. Report in ’Economy and Environment Program for Southeast Asia’ (EEPSEA).

149. Korea - World Bank (2010), Environmental Management for Traditional Craft Villages in Vietnam, http://siteresources.worldbank.org.

150. P.N. Lal (1990), Conservation or conversion of mangrove in Fiji: an ecological economic analysis. Occational paper No. 11. Environment and Policy Institute. East West Center, Hawaii, 120p.

151. A.T. Loh (1998), The experience of Singapore in the control of pollution, Singapore Journal of International & Comparative Law, 2: 507 - 510.

Page 174: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

169

152. W. Magrath and P. Arens (1989), The costs of soil erosion on Java. Environmental Deaprtment Working paper, World Bank, Washington D.C., USA.

153. S. Mahanty, T.D. Dang and G. H. Phung (2012), Crafting sustainability: managing water pollution in Vietnam’s craft villages, Society & Natural Resources: An International Journal, 26: 717-732.

154. The National Assembly of the Republic of China (1979), Environmental Protection Law, http://www.asianlii.org/cn/legis/cen/laws/eplotproc564/, [accessed 12/07/2015].

155. The National Assembly of the Republic of China (1989), Environmental Protection Law, http://www.china.org.cn/english/environment/34356.htm, [accessed 12/07/2015].

156. The National Assembly of the Republic of China (1996), Law on Prevention and Control of environmental noise pollution, website http://www.china.org.cn/ environment/2007-08/20/content_1034448.htm, [accessed 13/07/2015].

157. The National Assembly of the Republic of China (1996), Law on Prevention and Control of water pollution, http://www.china.org.cn/government/laws/2007-04/17/content_1207459.htm, [accessed 14/07/2015].

158. The National Assembly of the Republic of China (2000), Law on Prevention and Control of atmospheric pollution, website http://www.npc.gov.cn/englishnpc/ Law/2007-12/12/content_1383930.htm, [accessed 14/07/2015].

159. The National Assembly of the Republic of China (2004), Law on Prevention and Control of environmental pollution by solid waste, website http://www.npc.gov.cn/englishnpc/Law/2007-12/12/content_1383723.htm, [accessed 13/07/2015].

160. The Singapore parliament (1971), The Clean Air Act, website http://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_2014-04-07_110024.html, [accessed 20/07/2015].

161. The Singapore parliament (1998), Hazardous Waste (Control of Export, Import and Transit) Act, website http://www.nea.gov.sg/anti-pollution-radiation-protection/chemical-safety/multilateral-environmental-agreements/hazardous-waste-(control-of-export-import-and-transit)-act-1997-and-its-regulation, [accessed 20/07/2015].

Page 175: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

170

162. The Singapore parliament (1999), Sewerage and Drainage Act, website http://faolex.fao.org/docs/pdf/sin46924.pdf, [accessed 23/07/2015].

163. The Singapore parliament (2001), Environmental Public Health Act, website http://faolex.fao.org/docs/pdf/sin27961.pdf, [accessed 23/07/2015].

164. The Singapore parliament (2002), Environmental Protection and Management Act, http://faolex.fao.org/docs/pdf/sin86441.pdf, [accessed 25/07/2015].

165. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Aлeкcaндpoв Н. Г./, изд. Юрид. Литература, Москва (1974).

166. Теория государствa и правa /Под. pедакцией Maтyзoвa Н. И., Maлыко A.B./, изд. Юристь, Москва (2001).

167. T. Ushiyama (1981), Environment Pollution Control in Japan - Development and Characteristics, Waseda Bulletin of Comparative Law, Vol1.

Page 176: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

171

PHỤ LỤC

Phụ lục 1 CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

LÀNG NGHỀ Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG - Thành phố Hà Nội: Quyết định số 16/2013/QĐ-UBND ngày 03/6/2013 ban

hành Quy định quản lý chất thải rắn thông thường trên địa bàn Thành phố Hà Nội;Quyết định số 7209/2013/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2013 phê duyệt đề án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2015; Kế hoạch số 117/KH-UBND ngày 10/7/2013 về triển khai chương trình “Hạn chế sử dụng túi nylon vì môi trường” năm 2013; Kế hoạch số 140/KH-UBND ngày 27/8/2013 tăng cường quản lý trật tự giao thông, đô thị, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường dọc tuyến sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu; Quyết định số 45/2014/QĐ-UBND ngày 20 tháng 8 năm 2014 về việc thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 4929/QĐ-UBND ngày 24 tháng 9 năm 2014 phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học thành phố Hà Nội đến năm 2030; Quyết định số 5168/QĐ-UBND ngày 08 tháng 10 năm 2014 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt chỉ giới hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi sông Nhuệ trên địa bàn thành phố Hà Nội tỷ lệ 1/500; Quyết định số 31/2014/QĐ-UBND ngày 04/8/2014 quy định về Chính sách khuyến khích phát triển làng nghề thành phố Hà Nội.

- Tỉnh Hải Dương: Quyết định số 56/2008/QĐ-ƯBND ngày 19/11/2008 về việc “Ban hành Quy định về BVMT ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Hải Dương”. (Điều 13 quy định về trách nhiệm của các cơ sở sản xuất, hộ làm nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ); Quyết định số 13/2009/QĐ-UB ngày 113/5/2009 của UBND tỉnh Hải Dương về việc ban hành "Quy định về việc công nhận làng nghề công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hải Dương".

- Tỉnh Nam Định: Chương trình hành động số 14-CTr/TU ngày 22/7/2013 của Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT; HĐND thành phố Nam Định đã ban hành Nghị quyết số 28/2013/NQ-HĐND ngày 12/12/2013 về việc quy định mức thu phí vệ sinh trên địa bàn thành phố Nam Định.

+ Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã ban hành các kế hoạch, quyết định về công tác BVMT đặc biệt là MTLN bao gồm: Kế hoạch số 24/KH-UBND ngày 26/4/2013 về

Page 177: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

172

thực hiện một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực BVMT theo Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ; Kế hoạch số 64/KH-UBND ngày 15/10/2013 Triển khai thực hiện Đề án Tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 theo Đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 557/QĐ- TTg ngày 11/4/2013; Kế hoạch số 65/KH-UBND ngày 10/10/2013 của UBND tỉnh Triển khai thực hiện Chương trình hành động số 14-CTr/TU ngày 22/7/2013 của Tỉnh ủy; Quyết định số 1011/QĐ-UBND ngày 24/6/2013 phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề cương chi tiết quy hoạch BVMT đến năm 2020 trên địa ban tỉnh Nam Định; Quyết định 533/QĐ-UBND ngày 16/4/2013 về việc phê duyệt danh sách xử lý các cơ sở gây ô nhiêm môi trường trên địa bàn tỉnh Nam Định năm 2012; Quyết định số 880/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về việc phê duyệt dự án “Xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện MTLN miến, bánh đa - Làng Phượng, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định”; Quyết định 881/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về việc phê duyệt dự án “Xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường LNTT ươm tơ, xe tơ Cổ Chất tại Thôn cổ Chất, xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”; Quyết định số 882/QĐ-UBND ngày 27/5/2013 về việc phê duyệt dự án “Xử lý, khắc phục ô nhiễm và cải thiện MTLN bún Phong Lộc, phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định”; Quyết định số 1175/QĐ-UBND ngày 19/7/2013 về việc phê duyệt dự án “Khắc phục ô nhiễm và cải thiện MTLN cơ khí Bình Yên, xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định”.

+ Sở TNMT đã ban hành 05 công văn, hướng dẫn: Công văn số 402/STNMT-CCMT ngày 05/4/2013 gửi UBND các huyện, thành phố về việc đôn đốc yêu cầu thực hiện các quy định về BVMT đối với các cơ sở đang hoạt động; Hướng dẫn 1206/HD-STNMT ngày 13/8/2013 về mội số giải pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý cục bộ nước thải, khí thải và CTR nhằm giảm thiểu ONMT làng nghề Bình Yên, xã Nam Thanh, huyện Nam Trực; Công văn số 598/STNMT-CCMT ngày 9/5/2013 gửi UBND huyện Nam Trực về việc khắc phục các vấn đề môi trường trên địa bàn huyện Nam Trực; trong đó đề nghị UBND huyện Nam Trực chỉ đạo việc hướng dẫn, tuyên truyền đối với các cơ sở trên địa bàn huyện và các hộ sản xuất trong làng nghề chấp hành các quy định của pháp luật về BVMT, lập thủ tục về môi trường; chỉ đạo kiểm tra và xử lý các trường hợp sản xuất gây ONMT theo quy định của pháp luật về BVMT; Hướng dẫn số 2275/STNMT-CCMT ngày 06/12/2013 về thu gom, phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt tại các xã chưa xây dựng BCL xử lý rác thải quy môi cấp xã; Hướng dẫn 2276/STNMYT-CCMT ngày 06/12/2013 hướng dẫn về thu gom, phân loại và vận hành bãi chôn lấp, xử lý rác thải sinh hoạt nông thôn quy mô cấp xã.

Page 178: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

173

- Tỉnh Bắc Ninh: Quyết định số 76/2000/QĐ-UBND: ban hành ngày 26/7/2000 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc tăng cường công tác BVMT trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 2218/QĐ-CT: ban hành ngày 11/11/2005 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt đề án Quy hoạch môi trường tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006-2020 và kế hoạch BVMT tỉnh giai đoạn 2006-2010; Quyết định số 404/QĐ-UBND: ban hành ngày 28/3/2007 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt kết quả điều tra đánh giá hiện trạng chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 48/2008/QĐ-UBND: ban hành ngày 09/4/2008 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành Quy chế BVMT làng nghề, khu công nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Bắc Ninh; Quyết định số 84/2008/QĐ-UBND: ban hành ngày 14/2/2009 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành Quy chế BVMT làng nghề; Công văn số 1214/UBND-NN: ngày 17/10/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh về việc xây dựng dự án cải thiện chất lượng môi trường khu vực sông Ngũ Huyện Khê; Công văn số 1874/UBND-NN: ngày 13/10/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh về việc đánh giá công tác BVMT giai đoạn 2006 - 2009.

- Tỉnh Hà Nam: Chỉ thị số 25- CT/TU ngày 30/5/2005 của Tỉnh ủy về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CHH, HĐH hóa đất nước; Kế hoạch số 453/KH - UBND ngày 31/5/2005 về Kế hoạch hành động của UBND tỉnh Hà Nam về việc thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ chính trị, chương trình hành động của Chính phủ và chỉ thị số 25 - CT/TU ngày 30/5/2005 của Tỉnh ủy về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hóa đất nước; Quyết định số 03/2008/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của UBND tỉnh về ban hành Quy định BVMT trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 33/2010/QĐ-UBND ngày 12/10/2010 về Quy định BCMT lành nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam và đã triển khai thực hiện từ đâu năm 2011; Quyết định số 26/2013/QĐ-UBND, ngày 27/5/2013 của UBND tỉnh Hà Nam về việc quy định Công tác tổ chức quản lý thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hà Nam; Kế hoạch số 992/KH-UBND ngày 05/06.2013 về việc tổ chức thực hiện Đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

- Tỉnh Hưng Yên: Quyết định số 02/2010/QĐ-UBND ngày 14/01/2010 về ban hành Quy định công nhận nghề truyền thống, làng nghề, LNTT; Quyết định số 12/2010/QĐ-UBND ngày 29/4/2010 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy định BVMT tỉnh Hưng Yên; Quyết định số 11/2010/QĐ-UBND ngày 12/4/2012 của UBND tỉnh Hưng Yên về việc phê duyêt Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2010 - 2020, định hướng 2030; Quyết định số 248/QĐ-UBND ngày 16/02/2012 của UBND tỉnh Hưng Yên phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp Tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2025; Nghị quyêt số 11-NQ /TU ngày 21/3/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường quản lý, xử lý tình trạng ONMT trên địa bàn tỉnh; Kế hoạch số 19/KH-UBND ngày 01/02/2013 của UBND tỉnh

Page 179: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

174

tăng cường quản lý, xử lý tình trạng ONMT trên địa bàn tỉnh và Chương trình hành động số 51/CTr-UBND ngày 26/4/2013 của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 21/3/2013 của UBND tỉnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 21/3/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Quyết định số 2466/QĐ-UBND ngày 23/12/2013 của UBND tỉnh Hưng Yên về việc phê duyêt Quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2013-2020.

- Hải Phòng: Quyết định số 107/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn Hải Phòng đến năm 2020; Quyết định số 1342/QĐ-UBND ngày 10/8/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Về việc phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho nông thôn thành phố Hải Phòng đến năm 2020; Công văn số 4444/UBND-NN ngày 04/8/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Về việc chủ trương xây dựng Chương trình bảo tồn và Phát triển làng nghề thành phố Hải Phòng đến năm 2020; Quyết định số 1999/QĐ-UBND ngày 15 tháng 11 năm 2012 phê duyệt Quy hoạch mạng lưới thu gom CTR nông thôn thông thường trên địa bàn thành phố Hải Phòng đến năm 2020; Nghị quyết số 16/2013/NQ-HĐND ngày 25/7/2013 về thu phí vệ sinh trên địa bàn nông thôn trực thuộc thành phố Hải Phòng.

- Ninh Bình: Quyết định số 1329/2005/QĐUB ngày 4/7/2005 của UBND tỉnh về tiêu chuẩn, trình tự và thủ tục xét, công nhận làng nghề tỉnh Ninh Bình.

- Vĩnh Phúc: Quyết định số 01/2012/QĐ - UBND ngày 10/01/2012 của UBND tỉnh VP ban hành Quy định phân vùng môi trường tiếp nhận nước thải và khí thải trên địa bàn tỉnh VP; UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 26/QĐ - UBND ngày 05/01/2013 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc phê duyệt Quy hoạch phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp Vĩnh Phúc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch số 6291/KH - UBND ngày 31/10/2013 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về thực hiện Nghị quyết số 35/NQ - CP ngày 18/3/2013 của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh BVMT. Ngoài ra, trong năm 2013, Sở TN&MT đã và đang xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 và đang triển khai xin ý kiến góp ý của các Sở Ngành, UBND các huyện, thành, thị trên địa bàn tỉnh theo nội dung Văn bản số 1616/STNMT - CCBVMT ngày 26/12/2013; Quy định về BVMT khu vực nông thôn...

- Thái Bình: UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành một số văn bản liên quan đến hoạt động quản lý làng nghề như sau: Quyết định số 17/2009/QĐ-UBND ngày 6/11/2009 quy định một số chính sách khuyến khích phát triển nghề, làng nghề trên địa bàn tỉnh Thái Bình; Chương trình hành động số 02/CTHĐ-UBND của UBND tỉnh Thái Bình ngày 10/7/2013 về việc thực hiện nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2013 của chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực BVMT.

Page 180: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

175

Phụ lục 2 KẾT QUẢ KIỂM TRA, THANH TRA, XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT

VỀ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC LÀNG NGHỀ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Phân loại cơ sở Hình thức xử lý hành chính đã áp dụng

Phạt tiền TT

Tên địa phương/bộ/

ngành

Số cơ sở

được kiểm tra

Số cơ sở

được thanh

tra

Gây ONMT

Gây ONMT nghiêm trọng

Cảnh cáo Số cơ

sở Số tiền phạt

(VNĐ)

Số cơ sở

phải di dời

Số cơ sở bị đình chỉ

hoạt động

Ghi chú

I Năm 2006

1 Bắc Ninh 35

2 Thái Bình 10

Chưa thực hiện đúng cam kết trong bản đăng ký tiêu chuẩn môi trường

II Năm 2007 Nam Định

Làng nghề Vân Chàng 05 03

1

Làng nghề Thành Lợi 01

Kết quả phân tích nằm trong giới hạn cho phép

11 06 01 03 34.000.000 2 Thái bình

16 04 09 9

Page 181: THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ M¤I TR¦êNG LµNG NGHÒ ë …hcma.vn/Uploads/2016/4/4/LA _ Nguyen Tran Dien _nop QD.pdf · 2.1. Khái niệm làng nghề, pháp luật bảo

176

Phân loại cơ sở Hình thức xử lý hành chính đã áp dụng

Phạt tiền TT

Tên địa phương/bộ/

ngành

Số cơ sở

được kiểm tra

Số cơ sở

được thanh

tra

Gây ONMT

Gây ONMT nghiêm trọng

Cảnh cáo Số cơ

sở Số tiền phạt

(VNĐ)

Số cơ sở

phải di dời

Số cơ sở bị đình chỉ

hoạt động

Ghi chú

III Năm 2008

1 Bắc Ninh 02 02 02 72.000.000 Cụm CN làng nghề giấy Phong Khê

09 09 09 Cụm CN làng nghề xã Thái Phương 2 Thái Bình

18 07 07 70.000.000 02 IV Năm 2009 1 Hà Nội 06 01 03 01 04 03 52.300.000 0 0

Nam Định CCN làng

nghề Xuân Tiến 19 02 Lấy mẫu 03 cơ sở 2 CCN làng

nghề Yên Xá 06 Không tiến hành lấy mẫu

11 01 01 27.000.000 3 Thái Bình

34 04 04 64.000.000 01 V Năm 2010 1 Hà Nội 06 0 01 01 03 03 158.000.000 0 0

Thái Bình 35 20 02 22.500.000 2

18 01 01 35.000.000 Nguồn: Báo cáo số 170/BC-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ trình Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề [52].