40
Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---- ----- Đề áN môn học KINH Tế và quản lí công nghiệp Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU Sinh viên thực hiện : Phan Thu Hiền Lớp : QTKD CN và XD 43B Hà Nội, 4/2004 http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Download đề án, luận văn, báo cáo tốt nghiệp tại http://luanvan84.com

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

---- -----

Đề áN môn học KINH Tế và

quản lí công nghiệp

Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may

sang thị trường EU

Sinh viên thực hiện : Phan Thu Hiền

Lớp : QTKD CN và XD 43B

Hà Nội, 4/2004

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Page 2: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

MỤC LỤC

Mục lục ......................................................................... 1

Lời nói đầu.................................................................... 2

I. Yêu cầu của thị trường EU với hàng dệt may............ 4

1.1 Đặc điểm của thị trương EU đối với hàng dệt

may......................................................................................... 4

1.2 Những yêu cầu đặt ra với sản phẩm dệt may nhập

khẩu vào EU............................................................................ 7

II. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang

EU........................................................................................... 8

2.1 Những cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước với

xuất khẩu hàng dệt may.......................................................... 9

2.2 Kết quả của hoạt động xuất khẩu sang EU thời gian

qua.......................................................................................... 11

2.3 Một số yếu kém của hoạt động xuất khẩu sản phẩm

dệt may.................................................................................... 15

2.3.1 Sức cạnh tranh chưa cao ......................... 15

2.3.2 Giá trị hàng dệt may xuất khẩu chưa tương xứng

với tiềm năng của các doanh nghiệp....................................... 18

2.3.3 Một số tồn tại........................................... 18

III. Một số mục tiêu và giải pháp cho hàng dệt may xuất

khẩu trong thời gian tới........................................................... 20

3.1 Những mục tiêu cần đạt được với thị trường EU

................................................................................................ 20

3.2 Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt

may vào thị trường EU............................................................ 21

3.2.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp dệt may. . 21

3.2.2 Giải pháp đối với nhà nước........................ 26

2

Page 3: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Kết luận......................................................................... 30

Tài liệu tham khảo ........................................................ 31

3

Page 4: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

LỜI NÓI ĐẦU

Qúa trình quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở các châu

lục, các khu vực trên thế giới, với sự tham gia ngày càng rộng rãi

của tất cả các nước chậm phát triển. Những lợi ích to lớn của hội

nhập kinh tế mang lại cho mỗi quốc gia là rất rõ ràng và khó có

thể bác bỏ.

Con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu

cô lập với bên ngoài ngày nay không còn sức thuyết phục và hầu

như không còn một quốc gia nào hướng tới nữa. Do vậy vấn đề

đạt ra cho mỗi quốc gia là hội nhập kinh tế quốc tế với những

bước đi như thế nào để có thể mang lại lợi ích tối đa với một

mức giá tối thiểu qủa là một thách thức không nhỏ.

Sự hội nhập tất yếu của nước ta vào hợp tác khu vực và

quốc tế cũng đặt ra nhiệm vụ hết sức to lớn cho nền kinh tế. Một

trong những bước của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là

xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tiến hành tự do hoá

thương mại và tham gia vào các định chế liên kết khu vực và

toàn cầu. Định hướng này đã được Đảng và Nhà nước ta lựa

chọn từ Đại hội Đảng lần thứ VI ( năm 1986) và được cụ thể hoá,

phát triển lên tại Đại hội Đảng lần thứ VIII ( năm 1996).

Ngành dệt may Việt Nam ra đời từ năm 1958, cùng với xu

thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế ngành dệt may Việt Nam đã

nhanh chóng tìm ra và khẳng định được những ưu thế của mình

trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc cho thị

trường thế giới. Hàng dệt may đã trở thành một mặt hàng xuất

khẩu chủ lực của Việt Nam cùng với gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu,

v.v. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may không ngừng tăng

4

Page 5: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

và hàng năm mang về cho đất nước một nguồn thu ngoại tệ lớn

khoảng 1 tỷ USD/năm.

Tuy nhiên, việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam

cũng gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân như: hàng dệt

may của Việt Nam bị canh tranh quyết liệt bởi hàng dệt may của

các nước khác, do chất lượng, mẫu mã, v.v. Đặc biệt, việc xuất

khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, một thị trường truyền

thống của Việt Nam cũng đang phải đối đầu với nhiều thách thức

và khó khăn. Với bài viết này, em muốn trình bày cách nhìn của

mình về sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị

trường EU và một số giải pháp thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu

hàng dệt may sang thị trường này. Do vậy, em chọn đề tàI: Đẩy

mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU. Đề

án gồm 3 phần:

I. Yêu cầu của thị trường EU với hàng dệt may.

II. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang

EU trong thời gian qua.

III. Một số mục tiêu và giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu

hàng dệt may.

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Xuân Được đã

hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề án này.

Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm

2004

Sinh viên

Phan Thu Hiền

5

Page 6: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

I. YÊU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG EU VỚI HÀNG

DỆT MAY

1.1 Đặc điểm của thị trường EU đối với hàng dệt may

1.1.1 EU là một thị trường rộng lớn với nhu cầu đa dạng,

phong phú:

Với 15 quốc gia với khoảng 375 triệu người tiêu dùng nên

nhu cầu về hàng hoá rất đa dạng, phong phú. Đặc biệt là, với mặt

hàng dệt may là mặt hàng có tính mùa vụ và thời trang cao thì

nhu cầu càng đa dạng. Tuy vậy thị trường EU không hoàn toàn

đồng nhất, 15 quốc gia trong EU với ngôn ngữ, phong tục tập

quán, tôn giáo khác nhau, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu,

giới tính, tuổi tác,sở thích ... sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang

phục. Sắp tới khi EU kết nạp thêm 10 thành viên mới, dân số EU

sẽ tăng thêm 100 triệu người do đó yêu cầu về sản phẩm dệt may

sẽ đa dạng và phong phú hơn nữa. Thị trường EU chỉ thống nhất

về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế là nhóm thị trường quốc gia và

khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đặc trưng riêng. Mỗi nước

thành viên tạo ra các cơ hội khác nhau và yêu cầu của họ cũng

khác nhau. Trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn, khí hậu

thay đổi từ nước này sang nước khác nên trang phục của người

6

Page 7: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

dân EU cũng khác nhau. Trong mỗi nước lại có những dân tộc

với những truyền thống văn hoá khác nhau đây cũng là một yếu

tố tạo nên tính đa dạng về nhu cầu với sản phẩm dệt may. Lứa

tuổi, giới tính, công việc của mỗi cá nhân cũng yêu cầu sản phẩm

dệt may phù hợp với những người làm việc trong công sở họ có

nhu cầu lớn với mặt hàng sơ mi, comple. Trong khi đó với những

người nông dân lại yêu cầu những mặt hàng quần áo gọn nhẹ phù

hợp với công việc đồng áng. Trong những buổi dạ tiệc họ lại cần

những bộ quần áo làm cho họ nổi bật. Với những doanh nhân

trang phục của họ phải thể hiện tình năng động trong công việc.

Yêu cầu của họ đa dạng không chỉ về mẫu mã, chất liệu màu sắc,

kiểu dáng, kích cỡ mà còn về tính thời trang. Nghiên cứu thị

trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm người tiêu dùng

trong khu vực thị trường EU có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong

việc tiêu thụ sản phẩm.

1.1.2 Tập quán tiêu dùng của người dân EU:

Đây cũng là một đặc điểm cần lưu ý vì nó ảnh hưởng trực

tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm.Tuy có sự

khác biệt về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa thị trường các

quốc gia song 15 nước trong khối EU đều nằm ở khu vực Tây và

Bắc Âu nên có những nét tương đồng về kinh tế văn hoá. Trình

độ phát triển kinh tế của những nước này khá đồng đều nên

người dân EU có một số điểm chung về sở thích thói quen tiêu

dùng. Đối với mặt hàng dệt may, khách hàng EU rất quan tâm

đến chất lượng và thời trang, do đó yếu tố này có khi lại quan

trọng hơn yếu tố về giá cả. EU là nơi hội tụ của những kinh đô

thời trang thế giới nên họ đòi hỏi khắt khe về kiểu dáng và mẫu

mốt. Sản phẩm dệt may tiêu thụ ở thị trường này mang tính thời

7

Page 8: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

trang cao, luôn thay đổi mẫu mã kiểu dáng, màu sắc chất liệu để

đáp ứng được tâm lý thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của

người tiêu dùng. Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử

dụng hàng của những hãng nổi tiếng thế giới vì họ cho rằng

những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng và uy tín lâu đời

nên sử dụng những mặt hàng này có thể yên tâm về chất lượng

và an toàn cho người sử dụng.

1.1.3 Do mức sống cao nên người dân EU yêu cầu khắt

khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm dệt may.

Mức sống của người dân trong cộng đồng EU tương đối

đồng đều và ở mức cao nên tiêu dùng của họ rất cao cấp, yêu cầu

khắt khe về chất lượng và độ an toàn giá cả không phải là vấn đề

quyết định nhất đối với thị trường này. Vì thế cạnh tranh về giá

không hẳn là biện pháp tối ưu khi xâm nhập thị trường EU. Thu

nhập bình quân đầu người của người dân EU ở mức khá cao, và

tỉ lệ chi tiêu cho hàng may trong tổng thu nhập dân cư lớn. Bên

cạnh đó người tiêu dùng EU có xu hướng chi tiêu nhiều hơn cho

những mặt hàng dệt may cao cấp với yêu cầu về đa dạng về kiểu

dáng, mẫu mã, chất lượng cao. Người dân EU cũng đòi hỏi sản

phẩm dệt may phải an toàn cho người sử dụng không gây dị ứng,

tạo cảm giác khó chịu cho người mặc không có một số hoá chất

mà hiệp hội dệt may Châu Âu cấm sử dụng. Thị trường Châu Âu

còn sử dụng những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng rất khắt khe

như: tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000.

1.1.4 Các hãng, công ty có tên tuổi trong làng dệt may

Châu Âu lại là khách hàng của doanh nghiệp dệt may ở nước

khác.

8

Page 9: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Hàng ngàn các hãng có tên tuổi của các nước Châu Âu là

những người bán hàng cho các nhà bán lẻ, nhưng sau khi tập hợp

các đơn hàng họ lại là người đi đặt hàng ở các nước khác, trừ

những mặt hàng cao cấp sản xuất tại Châu Âu. Họ có thể đưa

nguyên liêu sang và đặt các doanh nghiệp dệt may ở nước khác

gia công chế biến cho họ sau đó sản phẩm được nhập về và dán

nhãn mác của họ. Làm như vậy họ vừa tận dụng được nguồn

nhân công rẻ hơn ở các nước đang phát triển từ đó làm giảm chi

phí sản xuất và giúp họ thu được nhiều lợi nhuận hơn và làm

giảm ô nhiễm môi trường do chất thải của ngành công nghiệp dệt

may gây ra. Việc làm này giúp họ chỉ cần tập trung vào sản xuất

những mặt hàng cao cấp. Các nhãn hiệu nổi tiếng của các nhà

sản xuất Châu Âu đã tạo được uy tín lớn đối với người tiêu dùng,

đây cũng là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá. Vì vậy

người tiêu dùng Châu Âu luôn cảm thấy yên tâm khi mua hàng

hoá của họ cho dù hàng hoá này được chính họ sản xuất hay thuê

gia công chế biến ở nơi khác.

1.2 Những yêu cầu đặt ra với sản phẩm dệt may nhập

khẩu vào EU

1.2.1 Thị trường EU đặt ra những tiêu chuẩn về đạo đức

cho tất cả các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển.

Do ở các nước đang phát triển, nhiều nhà sản xuất sử dụng

lao động trẻ em trong sản xuất công nghiệp đặc biệt là trong lĩnh

vực dệt may bởi lực lượng lao động này vừa rẻ tiền vừa dễ bóc

lột sức lao động. Mối lo ngại về việc sử dụng lao động trẻ em

đang ngày một lan rộng làm cho các nhà hoạt động xã hội lo

ngại. Các tổ chức phi chính phủ ở phương tây, các phương tiện

9

Page 10: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

truyền thông và các tổ chức công đoàn ủng hộ các nhà cung cấp

không sử dụng lao động trẻ em thông qua việc nâng cao nhận

thức cho người tiêu dùng ở thị trường này. Điều này đang tạo ra

áp lực cho nhà nhập khẩu nước ngoài khi mua hàng phải đảm

bảo nguồn cung cấp không sử dụng lao động trẻ em. Những quy

định về việc nguồn cung cấp phải đảm bảo tính đạo đức áp dụng

cho tất cả các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển và thậm

chí áp dụng cho cả đối với các nhà thầu phụ. Các nhà nhập khẩu

lớn trên thế giới đang áp dụng những qui tắc chặt chẽ này nếu

không họ sẽ bị công chúng tẩy chay.

1.2.2 Sản phẩm dệt may khi nhập khẩu vào EU phải

dán nhãn môi trường.

Các nhà sản xuất hàng dệt may từ các nước đang phát triển

đang ngày càng đối mặt với yêu cầu dán nhãn môi trường. Dán

nhãn môi trường hiện được coi là một công cụ marketing và các

sản phẩm có dán nhãn môi trường thường dành cho các thị

trường phát triển. Yêu cầu dán nhãn môi trường được các nhà

bảo vệ môi trường đưa ra và cũng một phần là do tác động của

chiến dịch quảng cáo quá khích của các ngành bảo hộ sản xuất

của các nước trong EU. Các sản phẩm dệt may của EU đang bị

cạnh tranh gay gắt bởi hàng dệt may của các nước đang phát

triển như Trung Quốc, một số nước ASEAN nhập khẩu vào EU

với giá rẻ mẫu mã đa dạng lại phù hợp với nhu cầu luôn luôn

thay đổi. Vì vậy để bảo hộ sản xuất trong nước khỏi nguy cơ mất

thị phần ngay tại thị trường EU các nhà sản xuất đã đưa ra tiêu

chuẩn dán nhãn môi trường. Việc dán nhãn môi trường sẽ làm

cho việc tiếp cận các thị trường phát triển sẽ bị giảm đáng kể nếu

người tiêu dùng tẩy chay hàng hoá không dán nhãn sinh thái.

10

Page 11: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

1.2.3 Sản phẩm dệt may nhập khẩu vào EU phải chú

trọng yếu tố thời vụ.

Các nhà sản xuất phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi của thời

tiét trong năm ở từng khu vực của thị trường EU mà cung cấp

hàng hoá cho phù hợp. Nếu không chú trọng đến vấn đề này thì

hàng hoá của các nước xuất khẩu sang EU không đáp ứng kịp

thời nhu cầu thậm chí là không bán được hàng. Các nhà nhập

khẩu Châu Âu luôn chú ý đến thời hạn giao hàng. Nếu các nước

xuất khẩu không giao hàng kịp thời đúng như trong hợp đồng thì

họ có thể mất đi những đơn đặt hàng lớn từ thị trường EU. Trong

kinh doanh các doanh nghiệp của Châu Âu luôn coi trọng chữ

tín, hiểu được điều này thì doanh nghiệp của nước xuất khẩu và

nước nhập khẩu mới có thể hợp tác làm ăn lâu dài với nhau.

11

Page 12: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA

VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN

QUA

1.1 Những cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước

với xuất khẩu hàng dệt may.

Trong thời gian gần đây Đảng và Nhà nước đã tạo mọi

điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp

dệt may nói riêng trong hoạt động xuất khẩu. Đường lối của

Đảng được thể chế hoá bằng các chính sách, cơ chế xuất nhập

khẩu theo hướng tự do hoá thương mại. Quốc hội đã xây dựng và

ban hành nhiều luật như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,

luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luật Thương mại. Chính phủ

đã có nhiều Nghị định nhằm chuyển căn bản hoạt động xuất nhập

khẩu từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày

31/7/1998 của chính phủ đã cho phép tất cả các doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế được phép xuất nhập khẩu trực

tiếp, nhận gia công và làm đại lý bán cho nước ngoài hầu hết các

loại hàng hoá ( trừ một số loại hàng hoá cấm nhập khẩu, xuất

khẩu và xuất nhập khẩu có điều kiện) và trước khi tién hành kinh

doanh xuất nhập khẩu chỉ phải đăng kí mã số doanh nghiệp xuất

nhập khẩu với cơ quan hải quan tỉnh, thành phố nơi doanh

nghiệp đóng trụ sở chính.

Trong quá trình thực hiện, Nhà nước đã thường xuyên

hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và đổi mới

cơ chế điều hành xuất nhập khẩu nhằm khuyến khích mạnh mẽ

xuất khẩu. Chính phủ đã thực hiện chính sách hoàn thuế, trợ giá,

12

Page 13: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

bù lãi suất cho hoạt động xuất khẩu và thưởng xuất khẩu …. Để

khuyến khích xuất khẩu Nhà nước ta đã giảm bớt hàng rào thuế

quan đối với nhập khẩu. Việc giảm thuế xuống còn 0-5% có ý

nghĩa lớn khi Việt Nam tham gia vào ASEAN và sắp tới tham

gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trên cở sở nguyên

tắc chung là “có đi, có lại” trong buôn bán quốc tế, việc cắt giảm

thuế nhập khẩu với hang hoá nước ngoài của Việt Nam tạo điều

kiện cho hàng hoá Việt Nam và đặc biệt là hàng dệt may có thể

dễ dàng xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên của

ASEAN và WTO mà không gặp phải trở ngại lớn từ hàng rào

thuế quan và phi thuế quan của nước nhập khẩu. Cùng với việc

phê duyệt chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt - May đến

năm 2010 Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi để phát triển

ngành Dệt – May thành một trong những ngành công nghiệp mũi

nhọn, nâng cao khả năng cạnh tranh và năng lực xuất khẩu của

ngành.

Để giảm tối đa chi phí cho sản phẩm dệt may xuất khẩu,

tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị

trường thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nước ta đã có

nhiều ưu đãi cho ngành dệt may như: áp dụng thuế suất 0% đối

với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng được

áp thuế suất 0%; đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản

xuất hàng xuất khẩu trong thới hạn 275 ngày không phải nộp

thuế nhập khẩu, nêu ngoài thời hạn trên doanh nghiệp phải nộp

thuế nhập khẩu nhưng nhưng sẽ được hoàn trả sau khi sản phẩm

được xuất khẩu. Miễn thuế đối vớivật tư nguyên liệu nhập khẩu

để gia công hàng cho nước ngoài.

13

Page 14: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Chính phủ thực hiện một số chính sách, biện pháp khuyến

khích xuất khẩu theo kiến nghị của Bộ Thương mại. Tiếp tục đẩy

mạnh biện pháp hỗ trợ tài chính, áp dụng các chính sách thưởng

theo kim ngạch xuất khẩu và đơn giản hoá thủ tục xét thưởng.

Ưu tiên những mặt hàng có giá trị gia tăng cao.Tăng cường các

biện pháp hạ giá thành cũng như chi phí ngoài giá thành, ưu đãi

về thuế cho các doanh nghiệp vệ tinh như đối với các doanh

nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, kiểm soát và giảm tới mức hợp

lý các chi phí và giá cả của các nhà cung ứng dịch vụ độc quyền.

Điều chỉnh thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp trong nước

sản xuất hàng xuất khẩu (hiện ở mức 32%) như đang áp dụng với

các donah nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(25%).

Đẩy mạnh xúc tiến thương mại qua việc tăng cường tổ

chức các đoàn doanh nghiệp thực hiện công tác xúc tiến thương

mại với sự bảo trợ của Nhà nước, cải tiến việc chi hỗ trợ phát

triển thị trường và xúc tiến thương mại theo hướng không dàn

trải, ưu tiên danh một tỷ lệ thích hợp cho các chương trình xuất

khẩu trọng điểm. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ

các rào cản bất hợp lý. Tập trung đơn giản hoá thủ tịc hải quan,

tăng diện hàng hoá xuất nhập khẩu được miễn kiểm tra hải quan

cải tiến quy trình nghiệp vụ để doanh nghiệp có thể kiểm tra

hàng hoá xuất khẩu bất kỳ lúc nào nếu có đăng ký trước. EU là

thị trường mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam, do đó Chính phủ

đang xem xét nhượng bộ một số yêu cầu mở cửa thị trường để

đổi lấy việc gia tăng hạn ngạch dệt may

Để khai thác tối đa thị trường EU và đảm bảo tính linh hoạt

trong việc triển khai thực hiện hạn ngạch, năm 2002 Bộ Thương

mại đã ban hành một cơ chế mới gọi là cơ chế cấp giấy phép xuất

14

Page 15: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

khẩu tự động. Cơ chế này được đánh giá là sẽ giúp khắc phục

được nhiều nhược điểm của cơ chế cũ mà quan trọng là nó giải

quyết cơ bản tình trạng đầu cơ hạn ngạch, tạo sân chơi bình

đẳng, tạo cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất hàng chất

lượng tốt, có khách hàng đều có cơ hội xuất khẩu.

2.2 Kết quả của hoạt động xuất khẩu sang EU trong

thời gian qua.

Thị trường EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn

ngạch chủ yếu của Việt Nam. EU được coi là thị trường xuất

khẩu trọng điểm của nước ta và đang được các doanh nghiệp dệt

may tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường

này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại

và trong đó chỉ có khoang 10 – 15% là tiêu dùng bình thường

còn lại là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, chúng ta đã xuất khẩu

hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Anh,

Pháp … nhưng chỉ từ năm 1993 xuất hàng dệt may sang EU mới

thực sự khởi sắc.

Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt

phát triển mạnh kể từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may.

Cụ thể, sau khi hiệp định này được ký kết ngày 15/2/1992 và có

hiệu lực và năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý và kinh tế vững chắc

đưa ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam bước vào giai đoạn

tăng trưởng nhanh chóng, từ chỗ hầu như bị cấm vận nhóm hàng

này của Việt Nam xuất khẩu sang EU có tốc độ tăng trưởng kim

ngạch 23%/năm trong thời kỳ 1993 – 1997. Theo Hiệp định năm

1992, Việt Nam được phép xuất khẩu sang EU 151 chủng loại

mặt hàng (cat) trong đó có 46 loại không bị hạn ngạch. Tổng số

15

Page 16: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

hạn ngạch thao hiệp định này là 21298 tấn với kim ngạch khoản

450 triệu$. Tuy nhiên nếu nhìn từ phía EU thì Việt Nam chỉ là

nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0.5% kim ngạch nhập khẩu

hàng dệt may của EU. Điều đó chứng tỏ rằng hàng may mặc của

Việt Nam vào EU là quá nhỏ so với nhu cầu. Trong số các nước

thuộc EU thì Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhát của

Việt Nam chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là Pháp

14%, Hà Lan 12%, Italia 9% và các nước khác chiếm 8%. Từ

1993 đến năm 1999 xuất khẩu hàng dệt may sang EU đạt gần

700 triệu USD và năm 2000 tăng thêm khoảng 150 triệu USD.

Hiện nay xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chiếm 34 –

38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt

Nam. Hiệp định buôn bán hàng dệt may, dệt kim từ khi thực hiện

cho đến nay đã 2 lần được gia hạn và điều chỉnh tăng hạn ngạch.

Tháng 8/1995, Hiệp định lần đầu tiên sửa đổi tăng hạn ngạch ở

23 cat nóng tử 20 - 25%, giảm số cat có hạn ngạch từ 105 xuống

còn 54, tăng hạn ngạch gia công thuần tuý lên gấp đôi, ước tính

sẽ tăng bổ sung hạn ngạch lên 250 tấn tương đương với 100

triệu$ nâng tổng giá trị hạn ngạch vào EU là 550 triệu$. Hiệp

định dệt may sửa đổi lần thứ 2 cho giai đoạn 1998 - 2000 đã

được ký ngày 7/11/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998 tăng

40% khối lượng so với giai đoạn trước tạo cơ hội mới thúc đẩy

hàng dệt may Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh hơn. So với

giai đoạn 1993 - 1997, Hiệp định sửa đổi này có những bổ sung

quan trọng tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam như

được tăng mức tự do chuyển đổi hạn ngạch giữa các mặt hàng

một cách đễ dàng hơn, được hưởng ưu đãi GSP. Theo hiệp định

này hàng năm Việt Nam được xuất khẩu hàng đệt may vào thị

trường EU với lượng hàng 21938 tấn. Số cat chịu sự quản lý

16

Page 17: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

bằng hạn

ngạch giảm từ 106 xuống còn 29, tăng hạn ngạch một số

cat “nóng” và nâng mức chuyển đổi hạn ngạch giữa các cat lên

27%. Tháng 3/2000, Việt Nam đàm phán với với EU thay đổi

thời hạn điều chỉnh Hiệp định dệt may đến hết năm 2002 thay vì

năm 2000. Đồng thời tăng hạn hạn hàng dệt may 16 cat của Việt

Nam xuất khẩu vào EU: trọng lượng tăng 4324 tấn đạt mức trên

26% so với hạn ngạch cơ sở của 16 cat, đơn vị sản phẩm tăng 15

triệu, đạt mức tăng 25%, trị giá sản phẩm tăng khoảng 120 triệu

USD đạt khoảng 20% so với năm 1999. Đàm phán tăng hạn

ngạch dệt may và mở cửa thị trường giữa Việt Nam và EU được

tiến hành gần đây nhất là giữa tháng 2/2003 áp dụng cho giai

đoạn 2003 - 2005. Theo bản sửa đổi này, Việt Nam sẽ mở cửa thị

trường cho một số lĩnh vực như bảo hiểm, rượu, xe máy, dược

phẩm, dịch vụ vận tải biển cũng như thuế nhập khẩu hàng dệt

may và nguyên liệu nhập khẩu từ EU. Đổi lại EU sẽ tăng hạn

ngạch dệt may cho Việt Nam mỗi năm lên khoảng 20% tức tổng

cộng 3 năm tăng khoảng 600 triệu$. Đặc biệt một số cat Việt

Nam cho là nóng có mức tăng từ 50 đến 75%. Nếu Việt Nam sử

dụng hết hạn ngạch cho phép thì giá trị xuất khẩu hàng dệt may

của Việt Nam năm 2003 và các năm sau sang EU sẽ tăng lên 800

- 850 triệu$/năm, giải quyết việc làm thêm cho trên 100 ngàn lao

động. Đây là một bước tiến đáng kể đối với ngành dệt may Viẹt

Nam trong quan hệ với EU trong thời kỳ quá độ tiến tới tự do

hoá hoàn toàn. Trong mấy năm vừa qua tỷ trọng kim ngạch hàng

dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU luôn chiếm xấp xỉ

30% tổng trị giá xuất khẩu ra thế giới của toàn ngành may mặc,

có năm cao nhất là 31%

17

Page 18: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thể

hiện trong biểu đồ sau:

Đơn vị: triệu USD. N

ăm

1

994

1

995

1

996

1

997

1

998

1

999

2

000

2

001

2

002

2

003K

im ngạch

285

350

420

450

580

620

590

631

575

610

Nguồn của Bộ Thương mại (1/2004).

285

350

420450

580620

590

631

575610

0

100

200

300

400

500

600

700

1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003N̈ m

Kim ng ch¹

Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang

EU, hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào một số sản

phẩm dễ làm, các mã hàng cho mùa đông như áo Jacket hai lớp

hoặc ba lớp, áo sơ mi, áo váy, quần âu, áo len và áo dệt kim, áo

T.shirt và polo shirt, quần dệt kim, bộ quần áo bảo hộ lao động,

áo sơ mi nữ… Mặt hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu

trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997 Việt

Nam xuất khẩu sang EU gần 11 triệu chiếc tăng gần 5 triệu chiếc

18

Page 19: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

so với năm 1993 chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may

sang EU.

Theo nguồn tin của Bộ Thương mại trong tháng 1-2/2004

kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU tăng rất mạnh từ 28

– 30% so với cùng kỳ năm 2003. Những cat được cấp giấy phép

xuất khẩu là cat 4, cat 7, cat 9, cat10, cat 14, cat 18, cat 20, cat

21, cat 28, cat 41, cat 78; trong số những cat được cấp giấy phép

thì cat 4, 6, 41, 78 có tốc độ tăng cao và cat 21 áo jacket vẫn là

mặt hàng chủ lực trong cơ cấu hàng xuất khẩu.

Hình thức xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam

vào thị trường EU là hình thức gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng

đến trên 80% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế hiệu quả

thực của xuất khẩu dệt may là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn

ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU thông qua

các thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các

nước này thường nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái

xuất sang thị trường EU. Nếu làm phép tính so sánh thì xuất khẩu

trọn gói theo giá FOB sẽ lãi gấp 2 lần so với may gia công.

Trung bình các nhà gia công Việt Nam chỉ nhận được khoảng

20% giá thnhf xuất khẩu, chủ yếu là gia công. Còn lại 80% là của

chủ đặt hàng và các công ty trung gian cung cấp nguyên phụ liệu,

mẫu mã. Nếu tính trên giá bán lẻ chỉ nhận được 4%cho một áo sơ

mi.

2.3 Một ta còn thiếu vốn và trình độ quản lý. Để thực hiện

biện pháp này nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho các nhà

đầu tư EU. Những ưu đãi này có thể là ưu đãi về thuế nhập khẩu

công nghệ, kết hối ngoại tệ, chuyển lợi nhuận… Cần thể chế hoá

19

Page 20: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

và quy định cụ thể để hấp dẫn các nhà đầu tư số yếu kém của

hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may.

2.3.1 Sức cạnh tranh chưa cao

Tại thị trường EU thị trường được đánh giá là có nhiều lợi

thế nhất trong số các thị trường hạn ngạch, đây là thị trường

được đánh giá là Việt Nam có nhiều lợi thế nhất nhưng hàng dệt

may Việt Nam lại đang mất dần lợi thế tại thị trường này. Bị

cạnh tranh gay gắt bởi nhà xuất khẩu dệt may lớn khác là Trung

Quốc, thêm vào đó EU bắt đầu nới lỏng các biện pháp hạn chế

hàng Trung Quốc vào thị trường này bằng cách bỏ dần hạn

ngạch, thuế chống phá giá … Hàng Việt Nam không còn ưu thế

về chất lượng bởi Trung Quốc đã giải quyết cơ bản vấn đề này

hơn thế nữa giá gia công một số sản phẩm may của nước này

thấp hơn của Việt Nam tới 20%. Không chỉ với Trung Quốc,

hàng dệt may của Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng dệt

may từ nhiều nước khác nhất là khi EU bỏ hạn ngạch nhập khẩu

hàng dệt may từ các nước thành viên của Tổ chức thương mại thế

giới WTO.

Trong cạnh tranh yếu tố trước hết và quyết định nhất là giá

nhưng giá thành hàng dệt may của ta lại cao hơn của đối thủ cạnh

tranh đặc biệt là Trung Quốc. Một số ưu đãi về thuế được Chính

phủ áp dụng cho hàng dệt may xuất khẩu để giảm giá thành sản

phẩm xuống gần bằng mức giá của các đối thủ. Nhưng những

quy định về thuế và sự tăng giá nhiều loại phí như phí cầu

đường, cảng, giá điện nước, bưu chính viễn thông liên tục tăng

làm cho giá thành hàng dệt may không những không hạ mà còn

cao hơn của đối thủ. Điều này làm cho hàng hoá của ta khó có

thể cạnh tranh.

20

Page 21: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

♦ Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do:

+ Thứ nhất là, số lượng hạn ngạch Việt Nam được hưởng

còn rất thấp so với nhiều nước chỉ bằng 5% của Trung Quốc và

10 - 20% của các nước ASEAN. Số mặt hàng bị hạn chế bằng

hạn ngạch lớn hơn so với các nước khác của Vịêt Nam là 29

nhóm trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm, của Singapore là 8

nhóm.

+ Thứ hai là, do hàng của ta không rẻ bằng hàng hoá

của nước khác như Trung Quốc, bên cạnh đó mẫu mã của họ lại

phong phú hơn hàng của ta nhiều. Khách hàng yêu cầu thay đổi

mẫu mã trong khi đó các các doanh nghiệp, nhà sản xuất lại

không thay đổi được mẫu mã thành ra họ không mua nữa. Nhà

thiết kế Việt Nam cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

của thời trang công nghiệp nên sản phẩm chủ yếu của ta xuất

sang EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống còn những

sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch

được cấp. Thực tế cho thấy còn nhiều chủng loại mặt hàng có

hạn ngạch nhưng hiện nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào sản

xuất, đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ

thuật cao, công nhân lành nghề mà các doanh nghiệp Việt Nam

chưa đáp ứng được.

+ Thứ ba là, chi phí vận chuyển các sản phẩm dệt may

của Việt Nam sang thị trương EU khá lớn điều đó làm tăng chi

phí sản xuất, giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt

Nam.

+ Thứ tư là, các doanh nghiệp Việt Nam có quá ít

thông tin về thị trường, về các đối tác nước ngoài mà họ hợp tác

sản xuất. Do ít thông tin nên các doanh nghiẹp không thể tiếp

21

Page 22: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

xúc trực tiếp được với nhiều khách hàng, tỷ trọng sản phẩm xuất

khẩu qua khâu trung gian, gia công còn cao. Tuy mạng lưới

thương vụ của ta hầu như có mặt ở mọi nơi trên thế giới song

những thông tin về thị trường nói chung và thị trường buôn bán

hàng dệt may nói riêng được họ quan tâm cung cấp về nước quá

ít kể cả một số thị trường lớn và truyền thống của Việt Nam như

EU. Các doanh nghiệp Việt Nam lại nghèo không có đủ chi phí

để thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc xúc

tiến mậu dịch ở nước ngoài, hoặc lập các văn phòng đại diện ở

nước ngoài nên thông tin quốc tế càng bị hạn chế. Những thay

đổi về mẫu mã, những khuynh hướng thời trang mới chúng ta

hoàn toàn không nắm được trước để chuẩn bị cho sản xuất.

+ Thứ năm là, hầu hết các loại chi phí cho một đơn vị sản

phẩm của ta đều cao hơn so với các nước trong khu vực và năng

suất lao động nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của

các nước ASEAN. Nhà xưởng, thiết bị công nghệ của ngành dệt

may còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu mới.

2.3.2 Giá trị hàng dệt may xuất khẩu chưa tương xứng

với tiềm năng của các doanh nghiệp.

Bộ Thương mại cho biết hạn ngạch của thị trường EU mới

chỉ đáp ứng được đáp ứng được 30- 35% năng lực sản xuất của

toàn ngành. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp ký được đơn hàng xuất

khẩu lại không có hạn ngạch để xuất trong khi tỷ lệ sử dụng hạn

ngạch lại rất thấp. Điều này nói lên thực trạng có một lượng hạn

ngạch rất lớn chưa xuất đang bị găm, giữ lại ở các doanh nghiệp.

Do được xuất khẩu tự động trong một thời hạn nhất định nên các

doanh nghiệp đã ký nhiều đơn hàng xuất khẩu lớn với khách

hàng nhưng do không có thông tin nên khi hết hạn ngạch vẫn tiếp

22

Page 23: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

tục ký hợp đồng với đối tác dẫn đến tình trạng cháy hạn nghạch

và mất khách hàng. Chúng ta chưa giải quyết được vấn đề điều

phối lượng hạn ngạch của doanh nghiệp không có đơn hàng xuất

khẩu cho các doanh nghiệp có đơn hàng nhưng không có hạn

ngạch để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này xuất khẩu.

Các doanh nghiệp hiện đang tập trung vào những cat nóng

trong khi những cat nguội và các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật

phức tạp, chất lượng cao chưa được quan tâm nhiều. Nếu mở

rộng sang sản xuất những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp

thì các doanh nghiệp có thể tăng được lượng hàng xuất khẩu lên

một cách đáng kể.

2.3.2 Một số tồn tại:

- Sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì

trong một thời gian khá lâu trên thị trường, chỉ khi nào người

tiêu dùng đã chán sản phẩm đó doanh nghiệp mới thôi không sản

xuất nữa.Điều này có tác hại lớn là mặc dầu khi doanh nghiệp

phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm và

dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra trên thị trường vẫn

tồn đọng một khối lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với

doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc

sản phẩm ngay khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và

đưa ra ngay sản phẩm mới khác. Cách làm này giúp cho doanh

nghiệp luôn có sản phẩm mới đề phục vụ kịp thời với nhu cầu

hay đổi của khách hàng.

- Tác động xấu đến hàng dệt may xuất khẩu còn là do sản

xuất nguyên phụ liệu như: xơ, sợi tổng hợp, bông vải

thành phẩm, dây khoá kéo, cúc … chỉ mới đáp ứng

được 10-15% nhu cầu. Khâu thiết kế và sản phẩm may

23

Page 24: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

mặc còn nhiều hạn chế mẫu mã nghèo nàn, giá thành

cao chưa xây dựng được một thương hiệu mang nét đặc

trưng và đạt tầm cỡ quốc tế.

- Bên cạnh những đối thủ mạnh, thị trường EU cũng

đặt ra những tiêu chuẩn về sản phẩm cao đòi hỏi phải có máy

móc hiện đại. Thiết bị của ngành may đã đổi mới được khoảng

90 – 95% nhưng khả năng tự động hoá còn yếu. Công nghệ cắt

may lạc hậu so với các nước trong khu vực.

- Cái yếu của ngành may xuất khẩu chính là do các

doanh nghiệp chưa có hình thức mua đứt bán đoạn, chưa có sản

phẩm tự thiết kế sản phẩm hoàn chỉnh để đi chào hàng cho các

khách hàng EU.

- Nhiều doanh nghiệp chưa áp dụng hệ thống quản lý chất

lượng ISO 9000 và ISO 14000 một tiêu chuẩn gần như bắt buộc

với tất cả các mặt hàng dệt may nhập khẩu vào EU.

- Chính sách đầu tư phát triển ngành dệt may chưa hợp lý

như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư phát triển cho

ngành dệt từ 7 – 10 năm, ngành may từ 5 – 7 năm. Thực tế ở Việt

Nam đầu tư vào ngành dệt phải từ 12 – 15 năm, ngành may từ 10

– 12 năm mới thu hồi được hết vốn. Các thủ tục triển khai vốn

đầu tư xây dựng thường kéo dài, và chưa có chính sách cụ thể

thích hợp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư trong

nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào ngành dệt may.

- Vốn đầu tư phát triển ngành dệt may còn thiếu, đặc biệt

ở các doanh nghiệp nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn trải, manh

mún theo hướng tự cân đối khép kín ở nhiều doanh nghiệp làm

cho ngành dệt may ở tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa

các khâu trong sản xuất.

24

Page 25: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

- Doanh nghiệp Việt Nam chưa biết tận dụng lợi thế của

cộng đồng các doanh nghiệp người Việt kinh doanh hàng dệt

may tại EU. Chỉ riêng ở Đức có 50000 người Việt sinh sống đã

có 20000 chuyên kinh doanh trong lĩnh vực may mặc trong số họ

cũng có khoảng 100 ông chủ lớn là những doanh nghiệp dệt may

người Việt có tiếng và có tiềm lực. Trong khi các doanh nghiệp

Trung Quốc tại thị trường này biết tập hợp nhau lại thành Hiệp

hội kinh doanh hàng dệt may người Trung Quốc và nỗ lực đưa

hàng Trung Quốc với giá rẻ tấn công áp đảo các đối thủ tại thị

trường EU thì ta lại chưa biết khai thác lợi thế này để giúp các

doanh nghiệp ngồi lại với nhau tránh cạnh tranh không lành

mạnh và quan trọng hơn là tạo thành một kênh tiêu thụ hàng dệt

may Việt Nam rất lớn tại đây.

III. MỘT SỐ MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CHO

HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU TRONG THỜI GIAN

TỚI.

3.1 Những mục tiêu cần đạt được với thị trường EU

- Duy trì và phát triển thị trường EU mở rộng mặt hàng

xuất khẩu trên cơ sở nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi

phí, cải tiến mẫu mã tạo ra mặt hàng mới, kết hợp các hình thức

kinh doanh linh hoạt nhằm tăng thị phần tại thị trường EU một

cách ổn định vững chắc, cố gắng đạt được kim ngạch xuất khẩu

sang EU từ 600 – 700 triệu USD.

- Tiếp tục đàm phán ở cấp nhà nước để tăng lượng hạn

ngạch dệt may.

25

Page 26: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

- Tìm cách cắt giảm chi phí lưu thông, chi phí hành chính

để hạ giá sản phẩm xuống để có thể cạnh tranh về giá khi EU

bãi bỏ hạn ngạch vào năm 2005

- Tận dụng ưu thế về giá nhân công, kỹ năng lao động và

cải cách phương thức quản lý hạn ngạch và tìm cách giảm thời

gian chờ đợi khách hàng đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất

lượng sản phẩm để tạo lợi thế lấn át các đối thủ cạnh tranh trong

khu vực kể cả Trung Quốc và Inđônêxia và tăng nhanh thị phần

trên thị trường EU.

- Cố gắng tìm kiếm những đơn hàng xuất khẩu trực tiếp

nhưng vẫn duy trì hình thức gia công xuất khẩu

3.2 Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may

vào thị trường EU.

3.2.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp dệt may

- Nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất

khẩu sang EU. Để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm

các doanh nghiệp Việt Nam phải chú trọng đến đổi mới thiết bị

công nghệ, thay thế máy móc thiết bị lạc hậu nhằm nâng cao

năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Để khắc

phục tình trạng lạc hậu của máy móc thiết bị công nghệ phương

án tối ưu với các doanh nghiệp Việt Nam là nhập khẩu máy móc

công nghệ dệt may nguồn từ EU. Nhập khẩu máy móc công nghệ

nguồn từ EU sẽ giúp giải quyết được vấn đề phương tiện sản

xuất hiện đại, giải quyết khó khăn do yêu cầu khắt khe về chất

lượng sản phẩm từ EU.

26

Page 27: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

- Đẩy mạnh áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO

14000, SA 8000 trong quản lý sản xuất để vượt rào cản vào thị

trường EU. Thị trường EU có hệ thống quản lý chất lượng hàng

nhập khẩu khá chặt chẽ. Hàng hoá từ bên ngoài muốn vào thị

trường này phải vượt qua rào cản kỹ thuật của EU gồm yêu cầu

về chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng và tiêu

chuẩn về môi trường. Đối với tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống

quản lý chât lượng ISO 9000 là yêu cầu bắt buộc đối với các

doanh nghệp xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang

phát triển; ISO 9000 được coi như chữ tín giữa người sản xuất

với người tiêu dùng, giữa các doanh nghiệp với nhau. Chất lượng

của sản phẩm khong chỉ đơn thuần là các yêu cầu về mặt phẩm

chất bên trong mà còn đảm bảo cả yêu cầu về mặt thẩm mỹ, tiện

dụng và an toàn cho người sử dụng. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 quy

tụ kinh nghiệm của quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo

chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người sử dụng

và người cung ứng. Đây chính là phương tiện hiệu quả giúp cho

các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống bảo đảm chất

lượng ở cơ sở mình, đồng thời là phương tiện để bên mua có thể

căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn

định của sản xuất và chất lượng trước khi ký hợp đồng. ISO 9000

đưa ra các chuẩn mực một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng

rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. ISO

9000 hướng dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây

dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố

của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn. ISO 9000 không

phải là tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm mà là tiêu chuẩn về hệ

thống quản lý chất lượng. Hệ thống quản lý của một doanh

27

Page 28: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

nghiệp có tốt mới cho ra sản phẩm chất lượng cao. Do đó hàng

của doanh nghiệp có chứng chỉ ISO thì thâm nhập vào thị trường

EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng của doanh nghiệp khác không

có chứng chỉ này. Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng

ký mã hiệu trở nên quan trọng số một trong lưu thông hàng hoá

trên thị trường EU và là yếu tố bắt buộc đối với hàng hoá nhập

khẩu vào EU. Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 càng trở

nên quan trọng với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Các

doanh nghiệp Việt Nam phải chú ý đến vấn đề dán nhãn môi

trường cho sản phẩm dệt, thị trường EU cấm nhập sản phẩm dệt

có thuốc nhuộm azo. Chứng chỉ ISO 14000 sẽ là phương tiện và

thước đo để khách hàng EU có thể an tâm về phương diện bảo vệ

môi trường của sản phẩm. Việc thừa nhận và cam kết áp dụng

ISO đã trở thành một tiêu chí để duy trì sự cạnh tranh trên thị

trường EU. Bằng phương pháp này các doanh nghiệp Việt Nam

tăng dược khả năng cạnh tranh và uy tín trên thị trường EU

- Lựa chọn phương thức xâm nhập thị trường EU có

hiệu quả. Có nhiều hình thức để các doanh nghiệp Việt Nam có

thể thâm nhập vào thị trường EU như xuất khẩu qua trung gian,

xuất khẩu trực tiếp, thực hiện liên doanh, thực hiện đầu tư trực

tiếp. Mỗi phương thức thâm nhập thị trường trên đây có những

ưu thế và hạn chế riêng. Xuất khẩu qua trung gian là con đường

mòn mà rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhất là đối với hai

ngành dệt may và da giầy đã áp dụng để thâm nhập thị trường

EU. Do thị trường này còn rất mới mẻ và do các doanh nghiệp

thiếu kinh nghiệm về thương trường nên ít công ty thiết lập được

quan hệ bạn hàng trực tiếp với đối tác EU do đó chỉ có thể xuất

khẩu qua trung gian là các công ty Châu á có quan hệ trực tiếp

28

Page 29: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

với đối tác EU. Về chiến lược các doanh nghiệp Việt Nam chỉ

nên lấy đó làm bước đệm nhằm làm quen với thị trường và rút

kinh nghiệm nhằm tự mình xây dựng chỗ đứng riêng cho mình

trên thị trường.

Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính, lâu dài để các

doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU hiện nay.

Cần áp dụng hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh; tuy nhiên

đầu tư trực tiếp không phải là hướng chính trong thời gian trước

mắt nhưng chí ít nó cũng cần thiết trong một số lĩnh vực như các

cơ sở tiếp thị và dịch vụ. Liên doanh có thể dưới hình thức sử

dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá bởi vì người tiêu dùng EU

có sở thích và thói quan sử dụng những sản phẩm có nhãn hiệu

nổi tiếng, chất lượng là yếu tố quyết định tiêu dùng đối với phần

lớn mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này chứ không phải là

giá cả. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam chưa có danh tiếng,

năng lực cạnh tranh còn yếu nên khó thâm nhập vào EU nếu liên

doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép nhãn hiệu hàng hoá tên

thương phẩm có thể là biện pháp trung gian để các nhà xuất khẩu

thâm nhập vào thị trường này. Phấn đấu tăng tỷ trọng xuất khẩu

trực tiếp giảm dần hình thức gia công và xuất khẩu qua nước thứ

ba và chuyển từ gia công sang mua nguyên liệu bán thành phẩm.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, thiết kế,

kinh doanh, công nhân có tay nghề cao, có đủ trình độ để đáp

ứng yêu cầu kinh doanh quốc tế trong tình hình mới và thực hiện

được các mục tiêu trong thời gian ngắn nhất. Phối hợp với các

trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp

dệt may ưu tiên học bổng cho sinh viên để thu hút số học viên và

29

Page 30: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

mở thêm chương trình sau đại học để đào tạo chuyên sâu trong

nước cũng như gửi đi thực tập nghiên cứu ở ngoài nước.

- Từng bước tạo dựng tên tuổi doanh nghiệp, thương

hiệu sản phẩm, khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế đặc biệt

là trên thị trường EU. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu ứng

dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện những mặt hàng mới

có khả năng tiêu thụ ở thị trường EU, cho ra đời và thực hiện

những hoạt động khuếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng

mới tìm được chỗ đứng, duy trì và phát triển trên thị trường này.

Cung ứng tốt các dịch vụ sau bán hàng để duy trì củng cố uy tín

sản phẩm đối với người tiêu dùng về những sản phẩm cần có

dịch vụ sau bán hàng

- Tăng cường thu hút vốn đầu tư huy động mọi nguồn

lực trong và ngoài nước, kêu gọi đầu tư nước ngoài (trực tiếp

hoặc gián tiếp) để tập trung đầu tư cơ cở hạ tầng và đầu tư trang

thiết bị hiện đại theo hướng tiếp cận với công nghệ cao trong

thiết kế mẫu, trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm

và tăng sức cạnh tranh trên thị trường thé giới và trong nước.

Nâng cao trình độ công nghệ thiết bị cho các doanh nghiệp dệt,

may. Liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt và may, may

xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần

kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư sản xuất hàng dệt

may xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

tham gia sản xuất và kinh doanh xuất nhâp khẩu là những doanh

nghiệp vừa và nhỏ, vốn kinh doanh ít, lại chưa có nhiều kinh

nghiệm trong thương trường của một nền kinh tế thị trường nên

gặp nhiều hạn chế trong việc xúc tiến thương mại cũng như việc

đề ra chiến lược lâu dài vươn ra thị trường nước ngoài. Để hạn

30

Page 31: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

chế bớt những khó khăn về vốn, các doanh nghiệp cần tiếp cận

các nguồn vốn của các ngân hàng hay các quỹ tín dụng trong khi

nhà nước chưa có ngân hàng chuyên doanh hay quỹ bảo lãnh tín

dụng.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cần khai thác tác dụng tích

cực của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tìm kiếm sự hỗ trợ của nhà nước,

các tổ chức quốc tế hay các hiệp hội ngành hàng để tham gia

triển lãm, hội chợ, hội thảo ở trong nước hoặc ở nước ngoài, tìm

kiếm sự hỗ trợ trong và ngoài nước để lập văn phòng, phòng

trưng bày, lập kho ngoại quan hay chi nhánh công ty tại nước

ngoài để thực hiện công tác xúc tiến thương mại cho sản phẩm

hay dịch vụ của mình

- Mỗi doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm và mở rộng

thị trường nhưng cũng xác định rõ sản phẩm và thị trường chủ

lực của mình để có chiến lược đầu tư và tiếp thị phù hợp trên cơ

sở đó để tích cực đầu tư củng cố và mở rộng sản xuất. Thực hiện

phối hợp giữa chuyên môn hoá cao giữa các doanh nghiệp, tìm

mọi cách để tăng năng suất lao động triệt để tiết kiệm chi phí

nhằm giảm giá thành một cách đáng kể so với hiện nay. Đây là

giải pháp chủ yếu để tăng sức cạnh tranh sản phẩm.

- Chủ động tìm kiếm khách hàng bằng mọi biện pháp như

qua internet, hội chợ thơng mại, qua các đại lý. Đặc biệt các

doanh nghiệp cần phát triển hệ thống kênh phân phối, tiêu thụ ở

nước ngoài một vũ khí cạnh tranh dặc biệt vì phân phối là yếu tố

chủ yếu đem đến cho khách hàng những giá trị gia tăng và đem

đến cho khách hàng sự hài lòng. Mức độ hài lòng của khách hàng

với sản phẩm sản phẩm của công ty cao hơn so với hàng của đối

thủ cạnh tranh sẽ quyết định cuối cùng khả năng chiếm lĩnh thị

31

Page 32: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

trường của doanh nghiệp tức là quyết định sự thắng lợi trong

cạnh tranh. Cộng đồng người Việt Nam sinh sống tại EU rất lớn,

các doanh nghiệp cần quan tâm hợp tác với những ông chủ dệt

may lớn người Việt ở đây để hợp tác tạo thành hệ thống kênh

phân phối và tiêu thụ sản phẩm hữu hiệu. Doanh nghiệp cũng cần

tích cực chủ động phối hợp với các thương vụ tại các nước thành

viên EU để thường xuyên nắm bắt tình hình về nhu cầu thị hiếu

của thị trường về nhu cầu hàng hoá, giá cả và mọi biến động của

thị trường. Thông qua thương vụ để giới thiệu sản phẩm tìm đối

tác tin cậy.

3.2.2 Giải pháp đối với Nhà nước.

- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại như khuyến

khích và hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp mở văn phòng đại

diện, chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến

thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm, giới thiệu hàng hoá, thời

trang. Phát huy vai trò của tích cực của các cơ quan thương vụ,

tham tán thương mại ở các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước

trong việc tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành dệt

may nước ta trong thời gian tới. Bộ Thương mại cần mở rộng

trang web đưa lên mạng tất thông tin về luật pháp, cơ chế chính

sách thương mại của Việt Nam về nhu cầu thị trường vốn, đầu

tư, nhu cầu quảng bá và tiêu thụ sản phẩm. Các thương vụ Việt

Nam ở nước ngoài nói chung và ở các nước thành viên EU nói

riêng tận dụng trang web này giớithiệu về thị trường Việt Nam

về sản phẩm dệt may của Việt Nam. đồng thời cũng trên trang

web đó thương vụ sẽ đưa lên mạng những thông tin cần thiết về

thị trường để các doanh nghiệp trong nước cập nhật và xử lý

thông tin theo nhu cầu của doanh nghiệp mình.

32

Page 33: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

Thành lập câu lạc bộ 100 doanh nghiệp hàng dệt may xuất

khẩu hàng đầu của Việt Nam để cổ vũ tập hợp những điển hình

xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ đó giới thiệu với khách

hàng trong và ngoài nước. Thành lập trung tâm xúc tiến xuất

khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng môi giới giúp cho

doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu, đầu tư với các

doanh nghiệp EU, thu thập xử lý thông tin về thị trường, khách

hàng EU, khảo sát thị trường thực tế. Khuyến khích và có cơ chế

hỗ trợ để các doanh nghiệp chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị

trường xác lập kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm tại các thị

trường lớn như EU.

- Xây dựng chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đặc

biệt các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất

khẩu của Việt Nam. Cần miễn giảm thuế và hoàn lại thuế cho

một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong những bước đầu ra thị

trường còn ít bạn hàng kinh doanh nhưng sản phẩm có chất

lượng và có tiềm năng chiếm được một vị trí nhất định trong

tương lai. Ngoài ra Chính phủ cũng nên xem xét kéo dài thời hạn

thu hồi vốn mà các doanh nghiệp vay để đầu tư cho sản xuất.

Đồng thời khuyến khích mạnh hơn nữa các doanh nghiệp Việt

Nam trực tiếp xuất khẩu cũng như cung cấp thông tin về thị

trường và tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, cải tiến thủ tục

xuất khẩu, nhập khẩu hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp

xuất khẩu.

- Trong những năm qua chúng ta nhập khẩu máy móc thiết

bị chủ yếu từ Châu á với giá rẻ nhưng không phải là công nghệ

nguồn mà là máy móc thiết bị hạng hai. Máy móc thiết bị tốt sẽ

sản xuất ra hàng hoá chất lượng cao cạnh tanh được trên thị

33

Page 34: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

trường. Trong cán cân thương mại với EU chúng ta xuất siêu khá

lớn nếu chúng ta tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU

sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán có lợi cho cả hai bên, đồng

thời nhập khẩu được công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất

hàng xuất khẩu giúp thay đổi cho cơ cấu hàng xuất khẩu nâng

cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nói chung, sang

thị trường EU nói riêng. Đây sẽ là một phương pháp hữu hiệu hỗ

trợ và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU

có thể dược thực hiện bằng hai biện pháp: đầu tư của Chính phủ

và thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất

hàng xuất khẩu. Công nghệ nguồn của EU tiên tiến hiện đại chất

lượng cao dịch vụ bán hàng tốt song nhìn chung giá cả lại cao so

với khả năng thanh toán của đối tác Việt Nam, phương thức

thanh toán lại không linh hoạt như một số đối tác ở khu vực

Châu á nên khi có nhu cầu đầu tư doanh nghiệp Việt Nam

thường nghĩ tới công nghệ của khu vực khác có giá thấp hơn mặc

dù chất lượng kém hơn và trình độ công nghệ thấp hơn. Đầu tư

Chính phủ là giải pháp lâu dài để nhập khẩu công nghệ hiện đại

một cách nhanh nhất và đúng yêu cầu. Trước mắt do khó khăn về

tài chính Chính phủ có thể đầu tư vào những công trình trọng

điểm quốc gia còn doanh nghiệp phải tự chủ kinh doanh.

Thu hút nhà đầu tư tham gia vào quá trình sản xuất hàng

xuất khẩu là giải pháp có hiệu quả trước mắt để nhập khẩu được

công nghệ nguồn từ EU và sử dụng công nghệ này đạt hiệu quả

cao trong điều kiện chúng

- Có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn giúp đỡ các doanh

nghiệp dệt 4hiệu tại thị trường quốc tế.

34

Page 35: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

- Chính phủ cần cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch, đặc

biệt cần ổn định hạn ngạch cho các doanh nghiệp đã thực hiện tốt

hạn ngạch được cấp. Việc tổ chức đấu thầu hạn ngạch cần hết

sức thận trọng và chỉ nên đấu thầu phần hạn ngạch tăng thêm

hàng năm với một số mặt hàng hạn chế. Cần quy định đối tượng

dự thầu phải là những doanh nghiệp thực sự sản xuất và xuất

khẩu hàng có uy tín có chất lượng cao đã được biết đến qua các

năm. Ngoài ra cần phải tăng cường kiểm tra kiểm soát đánh giá

tình hình thực tế thực hiện hạn ngạch.

35

Page 36: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

KẾT LUẬN

Hơn 10 năm qua kể từ năm 1993, năm đầu tiên thực hiện

Hiệp định về buôn bán hàng dệt may với EU đến nay, ngành dệt

may Việt Nam mà chủ yếu là ngành may mặc xuất khẩu đã có

những bước phát triển mạnh mẽ. Mức tăng bình quân của ngành

dệt may là trên 13,5%/ năm, nhiều năm liên tục đứng thứ hai về

kim ngạch xuất khẩu chỉ sau dầu thô.

Tuy được coi là một trong những ngành công nghiệp xuất

khẩu trọng điểm và mũi nhọn nhưng hoạt động xuất khẩu hàng

dệt may của ngành trong thời gian vữa qua gặp không ít khó

khăn, đặc biệt là ở thị trường EU. Trong thời gian hiện nay việc

loại bỏ dần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn hạn ngạch dệt may của

EU đã và đang đặt ra cho ngành dệt may nước ta những thách

thức to lớn và quyết liệt. Khi hạn ngạch dệt may được loại bỏ

hoàn toàn để có thể “ sống sót” và “ tồn tại” được tại thị trường

EU thì chúng ta phải cố gắng nỗ lực hết mức ngay từ bây giờ.

Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Nhà nước thì doanh nghiệp

cũng phải biết đặt ra mục tiêu chiến lược cho mình trong thời

gian tới để không chỉ tồn tại được mà còn phải tăng lượng hàng

xuất khẩu vào thị trường này.

36

Page 37: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt

may Việt Nam trên thị trường quốc tế - Đan Tuấn Anh (Đại học

thương mại), Tạp chí Kinh tế và phát triển.

* Dệt may vào EU sụt giảm- Cần hay không một trung

tâm giao dịch hạn ngạch? – Trùng Dương, Tạp chí Dệt may Việt

Nam 8/2003.

* Cơ hội hay thách thức khi EU mở rộng – Trùng Dương,

Tạp chí Dệt may Việt Nam 11/2003.

* Ngành dệt Italia sau năm 2005 – Tạp chí Dệt may Việt

Nam 11/2003.

* Đẩy mạnh XK sang Đức và Châu Âu – Trùng Dương,

Tạp chí Dệt may Việt Nam 2/2004.

* Thử tìm hiểu khả năng cạnh tranh của ngành Công

nghiệp Dệt – May Việt Nam – Dương Đình Giám, Tạp chí Công

nghiệp Việt Nam 4/2001.

* Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu

Việt Nam – Mai Hương, Báo Tài chính tháng 9/2001.

* Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt

Nam sang thị trường EU - Ts Nguyễn Thị Hường (Đại học Kinh

tế quốc dân), Kinh tế và Dự báo 2/2002.

* Quy chế nhập khẩu chung của EU hiện nay – Phùng

Thị Vân Kiều (Viện nghiên cứu Thương mại), Tạp chí Nghiên

cứu Châu Âu 2/2002.

37

Page 38: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

* Phát triển hệ thống kênh phân phối- Một vũ khí cạnh

tranh đặc biệt của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện

hội nhập – Ts Nguyễn Viết Lâm (Đại học Kinh tế quốc dân), Tạp

chí Kinh tế và phát triển.

* Về chính sách, cơ chế xuất nhập khẩu của Việt

Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế – Ts Nguyễn Doãn

Thị Liễu (Đại học Thương mại), Tạp chí Kinh tế và phát triển.

* Thực trạng và triển vọng quan hệ thương mại Việt

Nam- EU – Ts Hoàng Thị Bích Loan (Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh), Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu 1/2002.

* Tổng quan về hợp tác Việt Nam – EU năm 2000 -

Đỗ Lan Phương & Hải Anh (Trung tâm nghiên cứu Châu Âu)

Tạp chí nghiên cứu Châu Âu 2/2002.

* Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào

thị trường EU – PGS. Ts. Trần Chí Thành (Đại học Kinh tế quốc

dân), Tạp chí Kinh tế và phát triển.

* Ngành dệt may và cơ hội phát triển – Bích Thuỷ,

Tạp chí Chính sách và sự kiện 1,2/2002.

* Xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU- những

thuận lợi và thách thức – Anh Thư, Tạp chí Công nghiệp Việt

Nam 4/2002.

* Ngành Dệt – May Việt Nam với những thách thức

trên thị trường xuất khẩu – Hải Tùng, Tạp chí Công nghiệp Việt

Nam 13/2001.

* Cần thông thoáng hơn cho Xuất khẩu hàng dệt may

– Tố Uyên, Báo Thương mại 23/2001.

* Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp – GS PTS

Nguyễn Đình Phan (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục - 1999.

38

Page 39: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

* Giáo trình Marketing – PGS PTS Trần Minh Đạo (chủ

biên), Nhà xuất bản Thống kê - 1998.

* EU – thị trường chiến lược quan trọng hàng đầu – Nhà

Xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Sách Dệt may Việt Nam cơ hội và

thách thức 2003.

* Hàng dệt may khẳng định chỗ đứng trên thị trường thế

giới – Nhà Xuất bản Chính trị Quốc Gia, Sách Dệt may Việt

Nam cơ hội và thách thức 2003.

39

Page 40: tieu luan de an mon hoc 64+ (21).doc

40