15
Trách nhiệm của người vn chuyn trong hp đồng vn tải đa phương thức Nguyn ThThu Hng Khoa Lut Luận văn ThS. ngành: Lut Kinh tế; Mã số: 60 38 50 Người hướng dn: TS. Nguyễn Văn Dũng Năm bảo v: 2008 Abstract. Tổng quan các vấn đề lý luận và thực tin vvn tải đa phương thức (VTĐPT) và trách nhiệm của người vn chuyn trong hợp đồng vn chuyn hàng hóa bằng VTĐPT. Nghiên cứu, so sánh các quy định trong pháp luật Vit Nam vi các quy định pháp luật quc tế và pháp luật của các quốc gia khác về trách nhiệm của người vn chuyển trong VTĐPT. Rút ra những nhận xét, đánh giá thực trng pháp luật vvấn đề này ở Vit Nam theo Nghđịnh s125/NĐ-CP và trong Bộ lut Hàng hải Việt Nam năm 2005. Đề xuất các kiến nghvà giải pháp trên các phương diện như: cần sớm ban hành các quy định pháp luật vVTĐPT nội địa; thc hin thng nht chế độ trách nhiệm đối với VTĐPT; cần sửa đổi mt squy định vtrách nhim của người kinh doanh VTĐPT theo Nghị định s125/NĐ-CP; bsung các quy định vmiễn trách nhiệm, gii hạn trách nhiệm trong các luật chuyên ngành về vn ti nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật vtrách nhiệm của người vn chuyển trong VTĐPT, đáp ứng yêu cầu ca nn kinh tế nước ta hin nay. Keywords. Hợp đồng vn tải đa phương thức; Lut kinh tế; Pháp luật Vit Nam; Vn chuyn Content MĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sphát triển ca tdo hóa thương mi, stiến bca khoa hc kthuật và công nghệ trong vn ti, vn ti đa phương thc (VTĐPT) đã nhanh chóng trở thành một phương pháp vận tải hàng hóa tiên tiến đã và đang được sdng rộng rãi trên thế gii. Sra đời và phát triển ca phương pháp vận tải này đã góp phần đổi mới cách vận chuyển hàng hóa, hạn chế thời gian hàng hóa phải lưu kho, gim bt phiền hà về thtc, cht lượng và an toàn của hot động vn chuyển hàng hóa được nâng cao, đảm bo thời gian giao hàng nhanh nht với giá thành thấp nhất... Vì vậy, phát triển dch vvn chuyển hàng hóa bằng VTĐPT là một xu hướng tt yếu nhm đáp ứng yêu cầu giao lưu thương mại trên thế gii. Vit Nam, dch vvn chuyển hàng hóa bằng VTĐPT bt đầu được công ty Vietfracht tiến hành từ năm 1982, đây là hoạt động vn chuyn bng VTĐPT đầu tiên do công ty giao nhn ca Vit Nam tđứng ra tchc [24, tr. 336], tuy nhiên hoạt động này diễn ra có tính cht đơn lkhông mang tính phổ biến. Trong nhng năm gn đây, với sphát triển hết sc nhanh chóng của nn kinh tế Việt Nam, các điu kin vcơ svt cht, kthut của ngành

Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa

Embed Size (px)

Citation preview

Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp

đồng vận tải đa phương thức

Nguyễn Thị Thu Hằng

Khoa Luật

Luận văn ThS. ngành: Luật Kinh tế; Mã số: 60 38 50

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Dũng

Năm bảo vệ: 2008

Abstract. Tổng quan các vấn đề lý luận và thực tiễn về vận tải đa phương thức

(VTĐPT) và trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng

hóa bằng VTĐPT. Nghiên cứu, so sánh các quy định trong pháp luật Việt Nam với

các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác về trách nhiệm

của người vận chuyển trong VTĐPT. Rút ra những nhận xét, đánh giá thực trạng

pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam theo Nghị định số 125/NĐ-CP và trong Bộ luật

Hàng hải Việt Nam năm 2005. Đề xuất các kiến nghị và giải pháp trên các phương

diện như: cần sớm ban hành các quy định pháp luật về VTĐPT nội địa; thực hiện

thống nhất chế độ trách nhiệm đối với VTĐPT; cần sửa đổi một số quy định về trách

nhiệm của người kinh doanh VTĐPT theo Nghị định số 125/NĐ-CP; bổ sung các

quy định về miễn trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm trong các luật chuyên ngành về

vận tải nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của người vận

chuyển trong VTĐPT, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nước ta hiện nay.

Keywords. Hợp đồng vận tải đa phương thức; Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam;

Vận chuyển

Content

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của tự do hóa thương mại, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và

công nghệ trong vận tải, vận tải đa phương thức (VTĐPT) đã nhanh chóng trở thành một

phương pháp vận tải hàng hóa tiên tiến đã và đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Sự ra

đời và phát triển của phương pháp vận tải này đã góp phần đổi mới cách vận chuyển hàng

hóa, hạn chế thời gian hàng hóa phải lưu kho, giảm bớt phiền hà về thủ tục, chất lượng và an

toàn của hoạt động vận chuyển hàng hóa được nâng cao, đảm bảo thời gian giao hàng nhanh

nhất với giá thành thấp nhất... Vì vậy, phát triển dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng VTĐPT

là một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu giao lưu thương mại trên thế giới.

Ở Việt Nam, dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng VTĐPT bắt đầu được công ty Vietfracht

tiến hành từ năm 1982, đây là hoạt động vận chuyển bằng VTĐPT đầu tiên do công ty giao

nhận của Việt Nam tự đứng ra tổ chức [24, tr. 336], tuy nhiên hoạt động này diễn ra có tính

chất đơn lẻ không mang tính phổ biến. Trong những năm gần đây, với sự phát triển hết sức

nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam, các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành

giao thông vận tải được cải thiện ngày một rõ rệt đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho

phương pháp vận tải này phát triển ngày càng nhanh chóng tại Việt Nam.

Mặc dù VTĐPT thuộc loại hình dịch vụ vận chuyển, nhưng mỗi loại hình vận chuyển lại

có những nét đặc thù. Mặt khác so với các hình thức vận chuyển khác, đây là hoạt động mang

tính kết hợp từ nhiều phương thức vận chuyển truyền thống do đó đặt ra nhiều yêu cầu riêng

cho việc điều chỉnh bằng pháp luật. Chính vì vậy pháp luật đối với vấn đề trách nhiệm của

người vận chuyển trong VTĐPT cũng cần có những quy định phù hợp nhằm bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng. Có thể nhận thấy ở Việt Nam, pháp luật còn

chưa theo kịp sự phát triển của phương pháp vận tải tiên tiến này. Vì vậy, việc tiếp tục xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về VTĐPT nói chung và pháp luật về trách nhiệm của người

vận chuyển trong VTĐPT nói riêng là thực sự cần thiết để tạo môi trường pháp lý thuận lợi

cho sự phát triển của phương thức vận tải này, đồng thời tạo ra công cụ pháp lý hữu hiệu nhất

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh khi số lượng các doanh nghiệp

kinh doanh VTĐPT tại Việt Nam đang tăng lên một cách nhanh chóng nhằm đáp ứng nhu cầu

giao lưu thương mại quốc tế. Đề tài: "Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận

tải đa phương thức" được xây dựng nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý

luận và thực tiễn liên quan đến trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển

đặc thù này đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về VTĐPT ở nước ta trong

giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay ở Việt Nam, số lượng các tài liệu, công trình khoa học cũng như các bài viết về

VTĐPT còn rất hạn chế và chủ yếu đề cập tới ở khía cạnh kinh tế mà chưa đề cập nhiều ở

khía cạnh pháp lý. Qua tìm hiểu về vấn đề này cho thấy mới chỉ có rất ít công trình nghiên

cứu và bài viết có đề cập đến một số vấn đề pháp lý liên quan như: Đề tài luận văn thạc sĩ:

"Nghiên cứu và hiệu chỉnh các quy định pháp lý trong vận tải đa phương thức ở Việt Nam" của

tác giả Ngô Xuân Lực, năm 1999; Đề tài luận văn thạc sĩ: "Vận tải đa phương thức và khả

năng áp dụng vận tải đa phương thức ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hồng Vân, năm 1997;

một số bài viết: "Phát triển dịch vụ vận tải đa phương thức - một thách thức lớn đối với Việt

Nam trước thềm hội nhập" của Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Tiệm, "Trách nhiệm của người chuyên

chở hàng hóa trong vận tải đa phương thức" của tác giả Nguyễn Hồng Vân, Tạp chí Cầu

đường Việt Nam, số 11, 2004.

Chính vì vậy, có thể khẳng định cho tới nay gần như chưa có một công trình nghiên cứu nào

đề cập một cách hệ thống và đầy đủ về vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp

đồng VTĐPT. Trên cơ sở đó luận văn đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ và

toàn diện về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT từ đó đưa ra một số

kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong trách nhiệm

của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT, đồng thời cũng tiến hành phân tích những ưu

điểm và hạn chế trong những quy định pháp luật Việt Nam hiện nay. Thông qua đó, hướng

tới việc đưa ra một số ý kiến đóng góp về mặt lý luận cho việc ban hành, sửa đổi các quy

định pháp luật của Việt Nam về vấn đề này.

Với mục đích đó, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về VTĐPT và trách nhiệm của người vận

chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng VTĐPT.

- Nghiên cứu và so sánh các quy định trong pháp luật Việt Nam với các quy định pháp

luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác về trách nhiệm của người vận chuyển trong

hợp đồng VTĐPT.

- Rút ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.

- Đề xuất các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm

của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nước ta hiện

nay.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Thuật ngữ "trách nhiệm" trong khoa học pháp lý được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thứ nhất

là việc phải làm - tương đồng với nghĩa vụ; nghĩa thứ hai là hậu quả nếu có sự vi phạm.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng

VTĐPT được hiểu theo nghĩa thứ hai. Mặc dù trách nhiệm của người vận chuyển là một loại

trách nhiệm phát sinh từ hợp đồng, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả

không đi sâu nghiên cứu tất cả các nội dung liên quan đến trách nhiệm pháp lý của người vận

chuyển trong hợp đồng VTĐPT với tính chất là những hậu quả pháp lý do vi phạm hợp đồng

trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa nói chung mà chỉ tập trung vào những vấn đề có tính

đặc thù trong trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng

VTĐPT (chủ yếu là vấn đề bồi thường thiệt hại) trên cơ sở các quy định pháp luật điều chỉnh

trực tiếp về vấn đề này.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Với tính chất là một đề tài thuộc khoa học xã hội, luận văn dựa trên nền tảng phương

pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời để giải quyết

những vấn đề cụ thể đặt ra đối với đề tài, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, so

sánh đối chiếu để làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định trong pháp

luật quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia khác trên thế giới. Từ đó đánh giá về

tính phù hợp trong các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này nhằm hướng tới việc hoàn

thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, những đóng góp mới của luận văn

Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế

việc các doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày một nhiều hơn vào VTĐPT với cả tư cách

người kinh doanh VTĐPT, người gửi hàng và người nhận hàng là một xu thế đã được khẳng

định. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất về

VTĐPT phù hợp với pháp luật quốc tế đồng thời là cơ sở cho việc xác định trách nhiệm pháp

lý của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên

quan đến loại hợp đồng đặc biệt này.

Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:

Thứ nhất: Luận văn đi sâu nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận về trách nhiệm

của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT, từ đó nêu lên những thiếu sót và bất cập trong

những quy định pháp luật về vấn đề này trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện

nay.

Thứ hai: Luận văn đề ra một số kiến nghị và giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật về

trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng VTĐPT nhằm đáp ứng đòi hỏi của việc

điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động này trong giai đoạn hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng

VTĐPT.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng

VTĐPT ở Việt Nam.

Chương 3: Hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của người vận

chuyển trong hợp đồng VTĐPT

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI

VẬN CHUYỂN TRONG HỢP ĐỒNG VẬN TẢI ĐA PHƢƠNG THỨC

1.1. Hợp đồng vận tải đa phƣơng thức

1.1.1. Khái quát về vận tải đa phương thức

Vận chuyển hàng hóa là một loại hình dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong

thương mại quốc tế. Cùng với sự phát triển của dịch vụ vận chuyển, khoảng cách về không

gian và thời gian ngày càng như được thu ngắn lại giúp hàng hóa được lưu thông rộng rãi trên

khắp thế giới. Trước đây hàng hóa được chuyển dịch từ nước người bán đến nước người mua

thường dưới hình thức hàng lẻ, phải qua tay nhiều người vận chuyển và nhiều phương thức

vận tải khác nhau. Ngày nay, để tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hóa, kể cả việc giảm tối đa

các chi phí đầu mối giao dịch, các nhà sản xuất, các thương gia, khách hàng thường ủy thác

cho một người thu xếp việc vận chuyển từ nơi sản xuất đến thị thường tiêu thụ (thường được

gọi là từ cửa tới cửa - "door to door"). Trong tập quán thương mại, trong các điều kiện giao

hàng hiện nay người mua cũng yêu cầu chỉ dùng một chứng từ vận tải. Vì vậy, từ việc kết

hợp các phương thức vận tải hàng hóa đơn thuần (đường bộ, đường sắt, đường biển,…) với

nhiều người vận chuyển và nhiều chứng từ vận tải đã phải chuyển sang VTĐPT.

Có thể nói đây là cách thức vận chuyển hàng hóa thuận lợi nhất cho cả người gửi và người

nhận hàng. Thành quả của nó là khắc phục được tất cả những tồn tại trước đây về mặt pháp lý

giữa những chứng từ vận tải từ những phương thức vận tải liên quan bằng việc đưa ra một vận

đơn duy nhất có cơ sở pháp lý mà tất cả các bên tham gia đều chấp nhận. Tất cả những mất mát,

hư hỏng hoặc chậm chễ đối với hàng hóa do có tranh chấp hoặc không kiểm soát được trách

nhiệm của các bên đã từng gây khó khăn cho người gửi và người nhận hàng thì bây giờ có thể

được giải quyết đơn giản, thống nhất trên cơ sở những quy định pháp luật về VTĐPT.

VTĐPT là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận chuyển, theo một

hợp đồng, một chứng từ vận tải và một người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hàng hóa.

So với các phương thức vận tải hàng hóa truyền thống, VTĐPT có các đặc điểm cơ bản

sau đây:

- Có ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau tham gia vào vận chuyển hàng hóa như

đường sắt - đường bộ, đường biển - đường hàng không hoặc đường biển - đường sắt - đường

thủy nội địa... Đây là điểm khác biệt cơ bản của VTĐPT và vận tải đơn thức - vận tải hàng

hóa bằng một phương tiện vận tải duy nhất (Unimodal Transport).

- Toàn bộ quá trình vận chuyển hàng hóa chỉ dựa trên một hợp đồng đơn nhất và được

thể hiện trên một chứng từ vận tải đơn nhất (Multimodal Transport Document) hoặc một vận

đơn VTĐPT (Multimodal Transport Bill of Lading).

- Chỉ có một người chịu trách nhiệm về hàng hóa trước người gửi hàng đó là người kinh

doanh VTĐPT. Người kinh doanh VTĐPT có thể là người thực hiện việc vận chuyển hàng

hóa, cũng có thể chỉ tham gia vào một khâu trong quá trình vận chuyển hàng hóa hoặc thậm

chí chỉ là người đứng ra tổ chức hoạt động vận chuyển với sự tham gia của những người vận

chuyển thực sự. Tuy nhiên, chỉ người kinh doanh VTĐPT phải chịu trách nhiệm đối với hàng

hóa trong suốt quá trình vận chuyển từ khi nhận hàng để vận chuyển cho tới khi hàng hóa

được giao tới tay người nhận ở nơi đến.

- Người kinh doanh VTĐPT hành động như một người chủ ủy thác chứ không phải như

đại lý của người gửi hàng hay đại lý của người vận chuyển tham gia vào quá trình vận

chuyển.

- Người gửi hàng phải trả cho người kinh doanh VTĐPT tiền cước phí chở suốt cho tất cả

các phương thức vận tải mà hàng hóa đi qua theo một giá đơn nhất được các bên thỏa thuận.

- Đặc biệt, trong VTĐPT quốc tế, nơi nhận hàng hóa để chở và nơi giao hàng thường ở

những nước khác nhau và hàng hóa thường được vận chuyển bằng những công cụ vận tải như

container, pallet, trailer...

1.1.2. Hợp đồng vận tải đa phương thức

Hợp đồng VTĐPT là một loại hợp đồng vận chuyển, vì vậy trước hết hợp đồng này mang

những đặc trưng của hợp đồng vận chuyển, bên cạnh đó do đây là một phương pháp vận

chuyển hàng hóa có những đặc trưng riêng nên hợp đồng VTĐPT cũng mang những nét đặc

thù thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

- Giống như các loại hợp đồng vận chuyển khác, hợp đồng VTĐPT có đối tượng là việc

chuyển dịch hàng hóa từ nơi này đến nơi khác.

- Hợp đồng VTĐPT có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên để

hạn chế rủi ro cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng và làm cơ sở cho việc giải

quyết tranh chấp, pháp luật Việt Nam quy định hợp đồng này bắt buộc phải thể hiện dưới

hình thức văn bản

- Về mặt chủ thể, các bên tham gia trong hợp đồng bao gồm người thuê vận chuyển và

người kinh doanh VTĐPT. Người kinh doanh VTĐPT là người tổ chức quá trình vận chuyển

hàng hóa, người duy nhất chịu trách nhiệm về hàng hóa trong toàn bộ hành trình với tư cách

của một người vận chuyển. Đối với phương pháp vận chuyển này, pháp luật các nước đều đặt

ra những điều kiện bắt buộc nhằm đảm bảo sự chuyên nghiệp của người kinh doanh VTĐPT.

- Người kinh doanh VTĐPT hoàn toàn chủ động trong quan hệ với người thuê vận

chuyển và với những người vận chuyển thực tế khác tham gia vào quá trình vận chuyển. Với

vai trò người vận chuyển theo hợp đồng, Người kinh doanh VTĐPT hoàn toàn chủ động

trong việc tổ chức hoạt động vận chuyển với các phương thức vận chuyển phù hợp. Ngoài

việc sử dụng các phương tiện vận chuyển của mình, người kinh doanh VTĐPT còn có thể

phải dựa vào những người vận chuyển khác tham gia vào hoạt động vận chuyển hàng hóa.

Ngoài ra, với vai trò của người vận chuyển thực tế, người kinh doanh VTĐPT hoàn toàn chủ

động trong việc cung ứng dịch vụ vận chuyển, đặc biệt là trong việc xác định lộ trình, lịch

trình vận chuyển.

- Do có sự kết hợp của nhiều phương thức vận chuyển khác nhau nên trong quá trình vận

chuyển có sự tham gia của nhiều loại phương tiện vận chuyển khác nhau. Chính vì vậy, nội

dung của hợp đồng có những quy định riêng về mối quan hệ giữa người vận chuyển và người

thuê vận chuyển.

1.2. Trách nhiệm của ngƣời vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phƣơng

thức

1.2.1. Người vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phương thức

Trong vận chuyển hàng hóa, người vận chuyển là các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh

doanh để thực hiện dịch vụ vận chuyển. Người vận chuyển được hiểu không chỉ là người ký

kết hợp đồng vận chuyển hay thực hiện toàn bộ quá trình vận chuyển hàng hóa mà còn bao

gồm cả những người chỉ thực hiện một phần hoạt động vận chuyển hàng hóa trên một chặng

đường nhất định. Căn cứ vào việc người vận chuyển có phải là người ký kết hợp đồng vận

chuyển hay không người ta chia những người vận chuyển thành hai loại là người vận chuyển

theo hợp đồng và người vận chuyển thực tế.

1.2.1.1. Người vận chuyển theo hợp đồng

Người vận chuyển theo hợp đồng là người trực tiếp ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa

với người gửi hàng. Người kinh doanh VTĐPT là người tham gia giao kết hợp đồng VTĐPT

đồng thời là người duy nhất chịu trách nhiệm về hàng hóa trong suốt quá trình vận chuyển.

Điều đó cho thấy người vận chuyển theo hợp đồng VTĐPT chính là người kinh doanh

VTĐPT. Trong đa số trường hợp, đây là người vận tải không có phương tiện vận tải hoặc

phải đi thuê ít nhất một phương thức trong dây chuyền vận chuyển. Ngoài vai trò là người ủy

thác như một người vận chuyển thực sự có trách nhiệm đối với hàng hóa trước khách hàng

của mình người kinh doanh VTĐPT còn là người sử dụng các dịch vụ vận tải của người thứ

ba, là những người vận chuyển thực tế, để thực hiện hợp đồng mà mình đã ký kết.

1.2.1.2. Người vận chuyển thực tế

Người vận chuyển thực tế là người thực hiện toàn bộ hoặc một phần việc vận chuyển

hàng hóa. Khi người kinh doanh VTĐPT thực hiện một hoặc tất cả các giai đoạn của quá

trình vận chuyển thì bản thân họ cũng đóng vai trò của một người vận chuyển thực tế. Tuy

nhiên, cho dù có tự mình thực hiện hoạt động vận chuyển hàng hóa hay không, họ vẫn phải

chịu chế độ trách nhiệm riêng theo quy định của pháp luật về VTĐPT - chế độ trách nhiệm

đối với người vận chuyển theo hợp đồng.

Đối với những người vận chuyển thực tế khác, trong trường hợp xảy ra hư hỏng, tổn thất

đối với hàng hóa thì trách nhiệm của họ là trách nhiệm đối với người kinh doanh VTĐPT và

thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật liên quan đến từng phương thức vận tải

mà họ đảm nhận trong các công đoạn của quá trình vận chuyển.

1.2.2. Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phương thức

Vận chuyển hàng hóa là một hoạt động kinh doanh mang nhiều đặc thù nên trách nhiệm

tài sản áp dụng cho hành vi vi phạm trong quan hệ vận chuyển cũng có những điểm riêng

biệt. Với sự phân tích ở phần 1.2.1, khi xem xét vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển

trong hợp đồng VTĐPT, tác giả tập trung đề cập ở khía cạnh trách nhiệm của người kinh

doanh VTĐPT theo các quy định pháp luật về vấn đề này.

1.2.2.1. Chế độ trách nhiệm

Với tính chất là người vận chuyển trong hợp đồng, người kinh doanh VTĐPT là người chịu

trách nhiệm trước người thuê vận chuyển về hàng hóa trong toàn bộ quá trình vận chuyển.

Trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT đối với hàng hóa trong quá trình chuyên chở là

một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của pháp luật về VTĐPT. Các nội dung được

đề cập tới trong trách nhiệm bồi thường đối với những mất mát, hư hỏng của hàng hóa trong

quá trình vận chuyển cũng như vấn đề chậm giao hàng bao gồm: cơ sở trách nhiệm, thời hạn

trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm, trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT đối với những

hành vi hay thiếu sót của người làm công, đại lý, hoặc người chuyên chở thực tế mà người

kinh doanh VTĐPT sử dụng dịch vụ của họ trong quá trình vận chuyển hàng hóa, vấn đề

khiếu nại và kiện tụng.

Trong VTĐPT, phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên, trách nhiệm của người vận

chuyển có thể được xác định theo chế độ trách nhiệm thống nhất hoặc chế độ trách nhiệm

từng chặng.

Chế độ trách nhiệm thống nhất (Uniform Liability System)

Chế độ trách nhiệm thống nhất được hiểu là chỉ có một chế độ trách nhiệm như nhau sẽ

được áp dụng cho cả quá trình vận chuyển hàng hóa bằng nhiều phương thức khác nhau mà

không cần phải xem xét đến việc hàng hóa bị mất mát, hư hỏng xảy ra đối với phương thức

vận tải nào trong quá trình vận chuyển. Đối với chế độ trách nhiệm này việc áp dụng không

có sự khác biệt khi xác định hoặc không xác định được nơi hàng hóa bị mất mát, hư hỏng.

Chế độ trách nhiệm từng chặng (Network Liability System)

Chế độ trách nhiệm từng chặng là chế độ trách nhiệm được áp dụng đối với người vận

chuyển trong hợp đồng VTĐPT dựa trên cơ sở nhiều chế độ trách nhiệm khác nhau của các

phương thức vận tải tham gia trong hành trình vận chuyển hàng hóa.

Với chế độ trách nhiệm từng chặng, khi xảy ra tổn thất đối với hàng hóa việc áp dụng

trách nhiệm đối với người vận chuyển sẽ có sự khác biệt trong trường hợp xác định được hay

không xác định được thời điểm xảy ra tổn thất đối với hàng hóa.

Chế độ trách nhiệm thay đổi (Modified liability system)

Trong chế độ trách nhiệm này, một số quy định được áp dụng không phụ thuộc vào việc

sự thiệt hại đối với hàng hóa xảy ra ở chặng nào trong quá trình vận chuyển nhưng một số

quy định khác được áp dụng lại phụ thuộc vào việc mất mát, hư hỏng hay chậm giao hàng

xảy ra ở phương thức vận chuyển nào.

1.2.2.2. Cơ sở trách nhiệm (Basic of liability)

Với vai trò của người vận chuyển theo hợp đồng, người kinh doanh VTĐPT chịu trách

nhiệm chở hàng hóa đến nơi quy định đúng như số lượng và chất lượng hàng đã nhận từ

người gửi hàng, chịu trách nhiệm về những thiệt hại do mất mát, hư hỏng hàng hóa xảy ra khi

hàng hóa còn nằm trong quá trình vận chuyển và phải giải quyết mọi khiếu nại của người gửi

và nhận hàng. Người kinh doanh VTĐPT cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc hàng hóa

được giao không đúng thời hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Ngoài các trường hợp miễn trách nhiệm quy định cụ thể trong pháp luật, người kinh

doanh VTĐPT chỉ được loại trừ trách nhiệm đối với những mất mát, hư hỏng xảy ra đối với

hàng hóa trong thời hạn trách nhiệm hoặc việc giao hàng chậm khi chứng minh được rằng

anh ta, người làm công hoặc đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp hợp lý, cần thiết để

ngăn chặn sự cố xảy ra và hậu quả của nó.

1.2.2.3. Thời hạn trách nhiệm (Period of liability)

Trong VTĐPT, thời hạn trách nhiệm được xác định từ khi hàng hóa được giao cho người

vận chuyển cho đến khi hàng hóa được người vận chuyển giao cho người nhận.

1.2.2.4. Giới hạn trách nhiệm (Limit of liability)

Hoạt động vận chuyển hàng hóa là hoạt động mang tính rủi ro cao, vì vậy pháp luật về

vận chuyển hàng hóa nói chung đều đặt ra những quy định giới hạn trách nhiệm của người

vận chuyển như một biện pháp nhằm hạn chế và chia sẻ rủi ro đối với những người kinh

doanh loại hình dịch vụ này. Hiện nay mức giới hạn được áp dụng khá phổ biến là

666,67SDR cho mỗi kiện hoặc đơn vị hàng hóa hoặc 2SDR cho mỗi kilogram hàng hóa bị

mất hoặc bị hư hỏng theo quy định của Bản quy tắc của UNCTAD/ICC về chứng từ

VTĐPT. Đối với vận chuyển chậm, mức giới hạn trách nhiệm không vượt quá tổng tiền

cước vận chuyển.

1.2.2.5. Khiếu nại và kiện tụng

Mọi khiếu nại đối với mất mát, hư hỏng hoặc chậm chễ đối với hàng hóa chỉ do tổ chức

kinh doanh VTĐPT chịu trách nhiệm giải quyết. Pháp luật khi đề cập tới việc khiếu nại và

kiện tụng trong VTĐPT thường quan tâm giải quyết những nội dung sau:

- Thông báo về tổn thất, mất mát, chậm giao hàng: Đây là một nghĩa vụ của chủ hàng khi

xác định có mất mát, hư hỏng đối với hàng hóa hoặc chậm giao hàng xảy ra. Việc thông báo

này xác định rõ trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT đối với hàng hóa trong quá trình

vận chuyển, đồng thời cũng xác định người chủ hàng bảo lưu quyền khiếu nại hoặc khởi kiện

sau này đối với người kinh doanh VTĐPT.

- Khiếu nại: Việc khiếu nại thường được quy định là một thủ tục bắt buộc phải thực hiện

trước khi tiến hành khởi kiện. Thời hạn khiếu nại được quy định nhằm giới hạn về mặt thời

gian đối với việc thực thi quyền này.

- Khởi kiện: Việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức nào có thể được các bên ghi

nhận trong hợp đồng VTĐPT trên cơ sở quy định của pháp luật.

1.2.3. Mối quan hệ giữa trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa

phương thức với các quy định pháp luật về vận tải đơn thức

Trong VTĐPT, quá trình vận chuyển hàng hóa sử dụng các phương thức vận chuyển

khác nhau và trong quá trình đó những quy định pháp luật về vận tải đơn thức cũng mở rộng

phạm vi tác động của mình tới hoạt động vận chuyển này. Trách nhiệm của những người vận

chuyển thực tế sẽ chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành đối với phương thức vận chuyển

đó. Đặc biệt trong trường hợp các bên thỏa thuận về việc áp dụng chế độ trách nhiệm từng

chặng, khi đó người kinh doanh VTĐPTsẽ chịu trách nhiệm đối với sự mất mát, hư hỏng xảy

ra đối với hàng hóa trên cơ sở chế độ trách nhiệm áp dụng cho một phương thức vận chuyển

nhất định.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN TRONG

HỢP ĐỒNG VẬN TẢI ĐA PHƢƠNG THỨC Ở VIỆT NAM

2.1 . Pháp luật về vận tải đa phƣơng thức

VTĐPT ở Việt Nam, nhìn chung được đồng nhất với VTĐPT quốc tế (chủ yếu là vận

chuyển hàng hóa quốc tế), hoạt động vận chuyển không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia

mà luôn gắn với việc vận chuyển hàng hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác. Vì vậy, bên

cạnh hệ thống pháp luật quốc gia, còn có sự tham gia điều chỉnh của các điều ước quốc tế,

khu vực.

Trong phạm vi luật quốc gia, điều chỉnh hoạt động vận chuyển này hiện nay có: Bộ luật

hàng hải Việt Nam (sau đây gọi là BLHH) năm 2005 được Quốc Hội thông qua ngày 14

tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, Nghị định số 125/NĐ-CP

ngày 29 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về VTĐPT quốc tế (sau đây gọi là Nghị định

125/2003/NĐ-CP). Ngoài ra, VTĐPT còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật

chung như Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005 cũng như các văn bản pháp

luật về vận chuyển hàng hóa như Luật đường sắt, Luật hàng không dân dụng.......

2.2 . Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của ngƣời vận chuyển trong

hợp đồng vận tải đa phƣơng thức

2.2.1 . Thực trạng xây dựng pháp luật về trách nhiệm của người vận chuyển trong

hợp đồng vận tải đa phương thức

Có thể nhận xét rằng sự phát triển của pháp luật về VTĐPT tương đối chậm chạp và hoàn

toàn không tương xứng với tiềm năng vận chuyển hàng hóa bằng VTĐPT ở nước ta. Điều

này thể hiện một cách rất rõ ràng trong thực tế vì VTĐPT xuất hiện ở Việt Nam khá lâu

nhưng cho tới trước năm 2003 (thời điểm ban hành Nghị định 125/NĐ-CP) hoàn toàn không

có quy chế pháp lý riêng điều chỉnh đối với hoạt động này.

Nguyên nhân của việc chậm cho ra đời một văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh về

VTĐPT không hoàn toàn do hoạt động vận chuyển đặc biệt này mang tính nhỏ lẻ mà do chưa

có sự quan tâm đúng mức của các cơ quan nhà nước về lĩnh vực này.

2.2.2 . Thực trạng về tính hệ thống trong pháp luật về vận tải đa phương thức

Hợp đồng vận chuyển hàng hóa nói chung và hợp đồng VTĐPT nói riêng đều là một bộ

phận của hợp đồng vận chuyển, vì vậy ngoài những quy định của luật chuyên ngành, các loại

hợp đồng này còn chịu sự điều chỉnh chung của các quy định pháp luật về hợp đồng vận

chuyển. Hiện nay, VTĐPT ở Việt Nam được điều chỉnh bằng cả những quy định chung của

Bộ luật dân sự, Luật thương mại và các luật điều chỉnh hoạt động vận tải chuyên biệt như

BLHH, Luật hàng không dân dụng,...

Tuy nhiên, các văn bản pháp luật với vai trò luật chung như Bộ luật dân sự 2005, Luật

thương mại 2005 lại chưa thể là cơ sở cho hợp đồng VTĐPT nói chung và việc xác định trách

nhiệm của người kinh doanh VTĐPT nói riêng. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật về vận tải

đơn thức chỉ duy nhất có BLHH quy định về phương thức vận tải hàng hóa mới này, chế độ

trách nhiệm được quy định trong pháp luật về vận tải đơn thức còn thiếu và không thống

nhất. Văn bản trực tiếp điều chỉnh hoạt động VTĐPT là Nghị định 125/2003/NĐ-CP là văn

bản dưới luật ra đời trước một số luật chuyên ngành, nên vẫn còn một số điểm hạn chế và

bất cập cần phải được sửa đổi để thống nhất với các luật chuyên ngành.

2.2.3 . Các quy định pháp luật về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp

đồng vận tải đa phương thức theo pháp luật Việt Nam

2.2.3.1. Trách nhiệm của theo Nghị định số 125/NĐ-CP về vận tải đa phương thức quốc

tế

Nghị định 125 là văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh hoạt động VTĐPT với những quy

định cụ thể về trách nhiệm của người vận chuyển theo hợp đồng VTĐPT (người kinh doanh

VTĐPT).

- Thời hạn trách nhiệm: Người kinh doanh VTĐPT phải chịu trách nhiệm về hàng hóa kể

từ khi tiếp nhận hàng cho đến khi giao trả hàng cho người nhận hàng.

Được coi là tiếp nhận hàng khi hàng hóa thực sự được giao cho người kinh doanh

VTĐPT từ người gửi hàng hoặc từ người được người gửi hàng ủy quyền và được người kinh

doanh VTĐPT tiếp nhận để vận chuyển.

Giao trả hàng là một trong các trường hợp:

a) Việc giao trả hàng hóa cho người nhận hàng,

b) Hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt cả người nhận phù hợp với quy định của hợp

đồng VTĐPT, của pháp luật hoặc tập quán thương mại áp dụng tại nơi giao trả hàng,

c) Việc giao hàng hóa cho một nhà chức trách hoặc một bên thứ ba khác mà theo quy

định của pháp luật áp dụng tại nơi giao trả hàng hóa thì phải giao như vậy.

- Phạm vi trách nhiệm: Người kinh doanh VTĐPT là người duy nhất phải chịu trách

nhiệm đối với hàng hóa, kể cả khi sự thiệt hại gây ra đối với hàng hóa hoặc sự chậm trễ trong

giao hàng là do lỗi của người làm công, đại lý hoặc những người mà người kinh doanh

VTĐPT sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện hợp đồng VTĐPT.

- Bồi thường thiệt hại

Theo các quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 21 của Nghị định 125/2003/NĐ-CP, người kinh

doanh VTĐPT phải chịu trách nhiệm về tổn thất do mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa hoặc do

việc giao trả hàng chậm gây nên, nếu sự việc đó xảy ra trong thời hạn và phạm vi trách nhiệm

của mình, trừ khi chứng minh được mình, người làm công, đại lý hoặc bất cứ người nào khác

mà người kinh doanh VTĐPT đã sử dụng dịch vụ của họ để thực hiện hợp đồng VTĐPT, đã

thực hiện các biện pháp hợp lý nhằm tránh hậu quả xấu xảy ra.

Nghị định 125/2003/NĐ-CP quy định một cách cụ thể 07 trường hợp miễn trách gồm:

1. Bất khả kháng;

2. Hành vi hoặc sự chểnh mảng của người gửi hàng, người nhận hàng, người được ủy

quyền hoặc đại lý của họ;

3. Đóng gói, ghi ký hiệu, mã hiệu hoặc đánh số hàng hóa không đầy đủ hoặc khiếm

khuyết;

4. Giao nhận, xếp dỡ, chất xếp hàng hóa dưới hầm tàu do người gửi hàng, người nhận

hàng, người được ủy quyền hoặc người đại lý thực hiện;

5. Ẩn tỳ hoặc tính chất tự nhiên vốn có của hàng hóa;

6. Đình công, bế xưởng, bị ngăn chặn sử dụng một bộ phận hoặc toàn bộ nhân công.

7. Trường hợp hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển, hoặc đường thủy nội địa, khi

mất mát, hư hỏng hoặc chậm trễ xảy ra trong quá trình vận chuyển do:

a) Hành vi, sự chểnh mảng hoặc lỗi của thuyền trưởng, thuyền viên, hoa tiêu hoặc người làm

công cho người vận chuyển trong điều hành hoặc quản trị tàu;

b) Cháy, trừ khi gây ra bởi hành vi cố ý thực hiện hoặc thông đồng thực hiện của người

vận chuyển. Trường hợp mất mát, hư hỏng hàng hóa xảy ra trong quá trình vận chuyển nói tại

Khoản này do tàu không có đủ khả năng đi biển thì người kinh doanh VTĐPT vẫn không

phải chịu trách nhiệm nếu chứng minh được rằng khi bắt đầu hành trình tàu có đủ khả năng đi

biển. (Điều 20)

- Giới hạn trách nhiệm

Theo quy định tại Điều 22 Nghị định 125/2003/NĐ-CP, người kinh doanh VTĐPT chỉ

chịu trách nhiệm trong bất cứ trường hợp nào về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa với mức

tối đa tương đương 666,67 SDR cho một kiện hoặc cho một đơn vị hoặc 2,00 SDR cho một

ki-lô-gam trọng lượng cả bì của hàng hóa bị mất mát, hư hỏng, tùy theo cách tính nào cao

hơn, trừ khi tính chất và giá trị của hàng hóa đã được người gửi hàng kê khai trước khi

hàng hóa được người kinh doanh VTĐPT tiếp nhận để vận chuyển và đã được ghi trong

chứng từ VTĐPT.

Nếu trong hợp đồng VTĐPT không bao gồm việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển

hoặc đường thủy nội địa, thì giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT được quy

định ở mức cao hơn bởi số tiền không vượt quá 8,33 SDR cho một kilogram trọng lượng cả

bì của hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng.

Đối với trường hợp vận chuyển chậm, nếu người kinh doanh VTĐPT phải chịu trách

nhiệm về tổn thất do việc giao trả hàng chậm, hoặc tổn thất tiếp theo do giao trả hàng chậm

mà không phải là mất mát hoặc hư hỏng đối với chính hàng hóa đó, thì trách nhiệm của người

kinh doanh VTĐPT được giới hạn trong số tiền không vượt quá số tiền tương đương với

tiền cước vận chuyển theo hợp đồng.

Toàn bộ trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT sẽ không vượt quá giới hạn trách

nhiệm đối với tổn thất toàn bộ hàng hóa.

- Khiếu nại và khởi kiện

Các phương thức giải quyết tranh chấp liên quan đến ký kết và thực hiện hợp đồng

VTĐPT bao gồm thương lượng giữa các bên, trọng tài hoặc tòa án.

Thời hạn khiếu nại được xác định theo Điều 29 dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên

trong hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận, thời hạn này được xác định là 90 ngày kể

từ ngày hàng hóa được giao trả xong và người nhận không có thông báo về mất mát, hư hỏng

hàng hóa (theo khoản 3 Điều 18 của Nghị định), hoặc sau ngày hàng hóa đáng lẽ được giao

trả theo hợp đồng VTĐPT, hoặc sau khoảng thời gian hợp lý để người kinh doanh VTĐPT có

thể giao trả hàng nếu không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng trong hợp đồng. Thời hiệu

khởi kiện là 09 tháng tính theo mốc thời gian như trên.

2.2.3.2. Quy định về vận tải đa phương thức trong Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005

Các quy định về hợp đồng VTĐPT trong BLHH năm 2005 chỉ áp dụng đối với VTĐPT

mà trong đó phải có một phương thức vận tải bằng đường biển (khoản 1, Điều 119).

Về vấn đề thời hạn trách nhiệm, tương tự quy định của Nghị định 125/2003/NĐ-CP, BLHH xác

định thời hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT từ thời điểm nhận hàng hóa đến thời

điểm giao hàng. Trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT được xác định theo nguyên tắc:

hàng hóa bị hư hỏng, mất mát ở phương thức vận tải nào thì xác định trách nhiệm quy định của

luật tương ứng (ví dụ: mất mát, hư hỏng xảy ra ở chặng vận chuyển bằng đường sắt thì áp

dụng Luật đường sắt...). Khi không thể xác định hàng hóa bị mất mát, hư hỏng ở chặng vận

chuyển nào trong toàn bộ quá trình vận chuyển, trách nhiệm bồi thường sẽ được áp dụng theo

quy định của vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của Luật Hàng hải.

- Về giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển:

Giới hạn trách nhiệm được BLHH quy định là 666,67 đơn vị tính toán (SDR) cho mỗi

kiện hoặc cho mỗi đơn vị hàng hóa hoặc 2 đơn vị tính toán cho mỗi kilogram trọng lượng cả

bì của số hàng hóa bị mất mát, hư hỏng tùy theo giá trị hàng hóa.

Vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển trong trường hợp chậm trả hàng không được

BLHH đề cập.

Chương 3

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN TRONG HỢP ĐỒNG VẬN TẢI

ĐA PHƢƠNG THỨC

3.1 . Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của

ngƣời vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phƣơng thức

Trong lĩnh vực giao thông vận tải nói riêng và trong nền kinh tế của đất nước nói chung,

VTĐPT đang ngày càng được coi trọng và gắn với nó là sự cần thiết phải ban hành những

văn bản pháp luật phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn nhằm tạo môi trường pháp lý

thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động này.

Đối với Nghị định 125/2003/NĐ-CP, văn bản đang có hiệu lực pháp lý điều chỉnh trực

tiếp VTĐPT nói chung và vấn đề trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT nói riêng, qua

nghiên cứu cũng đã thể hiện nhiều bất cập khi áp dụng trong thực tế.

Thứ nhất, về vấn đề hình thức văn bản. Nghị định 125/2003/NĐ-CP là văn bản dưới luật

do Chính phủ ban hành, do vậy không thể đảm bảo tính hiệu lực cao trong việc điều chỉnh

hoạt động VTĐPT, đặc biệt khi các lĩnh vực vận chuyển đơn thức đều đã có luật áp dụng.

Thứ hai, về mặt lập pháp có thể thấy Nghị định 125/2003/NĐ-CP thể hiện một sự phụ

thuộc rất lớn vào các quy định trong Bản quy tắc của UNCTAD/ICC. Đây là sự hạn chế rất

lớn của Việt Nam trong việc ban hành pháp luật bởi vì các hiệp định quốc tế và Bản quy tắc

của UNCTAD/ICC mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những nguyên tắc chung để điều chỉnh các

vấn đề mang tính quốc tế mà không phải là văn bản pháp luật điều chỉnh cụ thể. Ngoài ra Bản

quy tắc của UNCTAD/ICC chỉ có tính chất là văn bản mang tính gợi ý mà không phải văn

bản pháp lý có hiệu lực bắt buộc, vì vậy, nó chỉ có giá trị khi các bên thỏa thuận trong hợp

đồng. Chính vì thế trong việc xây dựng văn bản pháp luật chúng ta có thể tham khảo một số

nội dung mang tính nguyên tắc nhưng không thể đem toàn bộ nội dung của văn bản này để

tạo thành các quy định pháp luật điều chỉnh đối với VTĐPT ở Việt Nam.

Thứ ba, Nghị định 125/2003/NĐ-CP hiện nay mới đề cập đến VTĐPT quốc tế và hầu như

chưa có quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh đối với VTĐPT nội địa.

Với những lý do đó việc xây dựng một hệ thống pháp luật có tính thống nhất cao về vận

tải và ban hành một văn bản pháp luật mới thay thế cho Nghị định 125/2003/NĐ-CP là hết

sức cần thiết đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.

3.2 . Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm của

ngƣời vận chuyển trong hợp đồng vận tải đa phƣơng thức

3.2.1 . Một số định hướng cơ bản

3.2.1.1 . Bảo đảm sự phù hợp giữa các quy phạm pháp luật trong nước và các quy

định, tập quán vận chuyển quốc tế nói chung và vận tải đa phương thức nói riêng

VTĐPT ở nước ta hiện nay phần lớn mang tính quốc tế, vì vậy, để xây dựng một hệ

thống pháp luật về VTĐPT phù hợp với thông lệ quốc tế ngoài việc tiếp tục mở rộng việc ký

kết và tham gia các điều ước quốc tế về vấn đề này, Việt Nam cần chú trọng đến việc tham

khảo các quy định pháp luật của các quốc gia trong các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế

giới trên cơ sở vận dụng các quy định pháp luật quốc tế thông qua việc đưa những nguyên tắc

đã được sự thừa nhận rộng rãi của các quốc gia vào trong pháp luật Việt Nam, đồng thời

tránh hiện tượng sao chép lại một cách máy móc những quy định đó.

3.2.1.2 . Cần sớm ban hành văn bản pháp luật về vận tải đa phương thức thay thế

Nghị định 125/2003/NĐ-CP.

Hiện nay đối với các hoạt động vận tải đơn thức, các văn bản pháp luật điều chỉnh đều đã

được ban hành dưới hình thức luật như: BLHH, LHKDD, LĐS... điều này bảo đảm tính chính

xác, khoa học và sự phù hợp trong các quy định pháp luật đó cao hơn do phải tuân thủ một

trình tự ban hành hết sức chặt chẽ, đồng thời cũng cho phép điều chỉnh các hoạt động vận

chuyển này với hiệu lực pháp lý cao hơn. VTĐPT là một hình thức vận chuyển hàng hóa

tương đối phức tạp do có sự kết hợp của nhiều phương thức vận chuyển, liên quan đến những

vấn đề phát sinh trong các khâu chuyển tải giữa các phương thức vận chuyển khác nhau... vì

vậy, theo tác giả cũng cần phải được ban hành trên cơ sở một văn bản luật riêng để có thể

điều chỉnh một cách hiệu quả hoạt động này.

3.2.1.3 . Bảo đảm tính thống nhất pháp luật về chế độ trách nhiệm của người vận

chuyển trong vận tải đa phương thức với chế độ trách nhiệm của người vận chuyển trong

toàn bộ hệ thống pháp luật

Hiện nay vấn đề trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển được quy định

hết sức khác nhau trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do vậy, cần xem xét và thống

nhất các quy định về trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm trong các văn bản pháp luật vận tải

trên cơ sở tham khảo các điều ước quốc tế liên quan.

3.2.2 . Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách

nhiệm của người vận chuyển

3.2.2.1 . Cần sớm ban hành các quy định pháp luật về vận tải đa phương thức

nội địa

VTĐPT nội địa là một bộ phận của VTĐPT và cần phải có sự điều chỉnh thống nhất bằng

pháp luật. Nghị định 125/2003/NĐ-CP mới chỉ điều chỉnh về VTĐPT quốc tế mà không tham

gia điều chỉnh đối với VTĐPT nội địa. theo tác giả cần sớm xây dựng Luật VTĐPT và xem xét

ban hành theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với hoạt động VTĐPT nói chung, bao

gồm VTĐPT quốc tế và nội địa.

3.2.2.2 . Thực hiện thống nhất chế độ trách nhiệm đối với VTĐPT

Để có thể khuyến khích VTĐPT phát triển ngày một mạnh mẽ, việc quy định một cách

thống nhất chế độ trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT là hết sức cần thiết nhằm tạo cơ

sở ban đầu cho người kinh doanh VTĐPT có thể xác định trách nhiệm của mình trong trường

hợp có thiệt hại xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển, đồng thời khẳng định ưu

thế của hình thức vận chuyển này so với các hình thức vận chuyển hàng hóa khác để người

gửi hàng lựa chọn.

Khi xây dựng Luật VTĐPT nên chọn chế độ trách nhiệm thống nhất như Nghị định

125/2003/NĐ-CP bởi trước hết chế độ trách nhiệm này khắc phục được những vấn đề hiện

còn đang tồn tại trong pháp luật chuyên ngành về vấn đề trách nhiệm của người vận chuyển.

Thêm vào đó chế độ trách nhiệm thống nhất đồng thời cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các

bên trong quan hệ hợp đồng có thể xác định được vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường

hợp xảy ra tổn thất về hàng hoá hoặc giao hàng chậm ngay từ khi xác lập quan hệ hợp đồng

mà không phụ thuộc vào quá trình thực hiện hợp đồng trên thực tế nhờ vậy các bên có thể

hoàn toàn chủ động trong việc thực hiện hợp đồng của mình.

3.2.2.3 . Cần sửa đổi một số quy định về trách nhiệm của người kinh doanh vận

tải đa phương thức theo Nghị định 125/2003/NĐ-CP

Về thời hạn trách nhiệm: định nghĩa về thời điểm tiếp nhận hàng hóa còn có điểm bất

cập. Vì vậy, theo tác giả cần định nghĩa: "Tiếp nhận hàng là việc hàng hóa đã được giao cho

người kinh doanh vận tải đa phương thức và được người kinh doanh vận tải đa phương thức

nhận để vận chuyển". Cơ sở để xem xét thời điểm tiếp nhận hàng hóa là chứng từ VTĐPT.

- Về giới hạn trách nhiệm: quy định của Nghị định 125/2003/NĐ-CP sẽ khiến cho việc

xác định giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT là không thể xác định được khi

việc vận chuyển hàng hóa được thực hiện bằng đường biển qua nhiều quốc gia khác nhau và

thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều điều ước quốc tế. Theo tác giả với nội dung này cần xác

định rõ việc áp dụng các quy định của điều ước quốc tế hay luật quốc gia với một giới hạn

trách nhiệm khác chỉ được thực hiện nếu theo quy định của Công ước hay luật quốc gia đó có

quy định bắt buộc phải áp dụng quy định đó.

- Về quy định mất quyền giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT đối với việc

mất mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm do người làm công, người đại lý hoặc người khác mà

người kinh doanh VTĐPT sử dụng dịch vụ của họ gây ra.

Cần quy định về vấn đề mất quyền giới hạn trách nhiệm đối với cả hai trường hợp: mất

quyền giới hạn đối với hư hỏng, mất mát hoặc giao hàng chậm do lỗi của người kinh doanh

VTĐPT và mất quyền giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT đối với việc mất

mát, hư hỏng hoặc giao hàng chậm do người làm công, người đại lý hoặc người khác mà

người kinh doanh VTĐPT sử dụng dịch vụ của họ gây ra trong phần quy định về trách nhiệm

của người kinh doanh VTĐPT mà không nên tách thành hai quy định riêng biệt đặt trong hai

chương khác nhau (Chương IV: Trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT và Chương VI:

Khiếu nại và kiện tụng) như hiện nay.

- Về việc bồi thường đối với tổn thất tiếp theo do giao hàng chậm

Việc quy định bồi thường đối với "tổn thất tiếp theo" do giao trả hàng chậm với tính chất

là những tổn thất không trực tiếp sẽ mâu thuẫn với quy định của Luật thương mại. Đồng thời

đòi hỏi về việc "chấp nhận" của người kinh doanh VTĐPT là không phù hợp với nguyên tắc

của hợp đồng nếu các bên đã có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì không cần có văn bản

yêu cầu giao trả hàng đúng hạn và phải được chấp nhận của người kinh doanh VTĐPT vì

giao hàng đúng thời hạn thỏa thuận là nghĩa vụ bắt buộc của người kinh doanh VTĐPT.

- Về vấn đề giải quyết tranh chấp

Thứ nhất, về phương thức giải quyết tranh chấp. Cần ghi nhận đầy đủ cả bốn phương

thức giải quyết tranh chấp gồm thương lượng, hóa giải, trọng tài và tòa án.

Thứ hai, về thời hạn khiếu nại. Nên quy định thời hạn này như sau: "Thời hạn khiếu nại

là 90 ngày kể từ ngày hàng hóa được giao hoặc phải được giao" (ngày hàng hóa phải được

giao được hiểu là ngày hàng hóa phải được giao theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc ngày

kết thúc khoảng thời gian hợp lý để người kinh doanh VTĐPT có thể giao trả hàng nếu không

có thỏa thuận về thời hạn giao hàng trong hợp đồng).

Thứ ba, về thời hiệu khởi kiện. Cần phải quy định về thời hiệu khởi kiện theo hướng mở

rộng thời hiệu khởi kiện ở mức tối thiểu là 01 năm để bảo đảm lợi ích của các bên trong quan

hệ hợp đồng.

3.2.2.4 . Bổ sung các quy định về miễn trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm trong

các luật chuyên ngành về vận tải

Thực hiện đúng nguyên tắc người kinh doanh VTĐPT chịu trách nhiệm theo Luật vận tải

đa phương thức, người vận chuyển thực tế chịu trách nhiệm theo những quy định riêng của

pháp luật về phương thức vận tải đó, cần phải nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các quy định về

chế độ trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm trong các văn bản pháp luật chuyên ngành nhằm tạo

cơ sở pháp lý khi xem xét trách nhiệm của người vận chuyển nói chung và người vận chuyển

thực tế trong VTĐPT nói riêng.

KẾT LUẬN

Với việc nghiên cứu đề tài: "Trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng vận tải

đa phương thức" tác giả đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm

của người vận chuyển, đặc biệt là trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT. Đây cũng là

công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này trong

pháp luật Việt Nam. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả đã rút ra một số kết luận cơ bản sau:

1. Cùng với chủ trương phát triển VTĐPT để phát huy những mặt tích cực của hình thức

vận tải tiên tiến này, việc sửa đổi pháp luật về VTĐPT nói chung và những quy định về trách

nhiệm của người vận chuyển nói riêng hiện nay của Việt Nam là một yêu cầu hoàn toàn

khách quan đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập và công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

2. Từ những vấn đề lý luận về trách nhiệm của người vận chuyển trong hợp đồng

VTĐPT, việc nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề này có ý nghĩa

quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở nước ta trong thời

gian tới.

3. Pháp luật về VTĐPT phải được xây dựng trong sự thống nhất với pháp luật chuyên

ngành về vận tải đơn thức cũng như của toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều này chỉ thực hiện

được khi có cái nhìn toàn diện trong công tác xây dựng pháp luật và nhận thức được một cách

đầy đủ về quan hệ giữa VTĐPT với các phương thức vận tải đơn thức.

4. Trên nền tảng pháp luật của Việt Nam hiện nay, với những bất cập đã được thể hiện rõ.

Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về VTĐPT phải bảo đảm không chỉ khắc phục được

những thiếu sót hiện đang tồn tại trong pháp luật về vận tải của nước ta mà còn cần có được

sự tương đồng với các quy định của các quốc gia khác, các điều ước quốc tế, đặc biệt là các

Hiệp định về vận tải trong khu vực mà Việt Nam đã tham gia ký kết như Hiệp định khung

ASEAN về VTĐPT, Hiệp định vận tải qua biên giới. Do đó tác giả đưa ra một số kiến nghị

cơ bản như sau:

- Ban hành Luật VTĐPT với chế độ trách nhiệm thống nhất để điều chỉnh chung đối với

VTĐPT nội địa và quốc tế, đồng thời sửa đổi BLHH năm 2005 theo hướng bỏ các quy định

riêng về VTĐPT có sử dụng phương thức vận chuyển bằng đường biển.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm của người kinh doanh

VTĐPT.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm của

người vận chuyển trong các luật chuyên ngành về vận tải đơn thức.

References

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC

1. Chính phủ (2003), Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 29/10 về vận tải đa phương thức

quốc tế, Hà Nội.

2. Chính phủ (2004), Quyết định số 206/2004/QĐ-TTg ngày 10/12 của Thủ tướng chính

phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm

2020, Hà Nội.

3. Chính phủ (2007), Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/9 quy định chi tiết về điều

kiện kinh doanh dịch vụ logistic và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh

doanh dịch vụ logistic, Hà Nội

4. Quốc hội (1990), Bộ luật hàng hải, Hà Nội.

5. Quốc hội (2001), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.

6. Quốc hội (2004), Luật giao thông đường thuỷ nội địa, Hà Nội.

7. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

8. Quốc hội (2005), Bộ luật hàng hải, Hà Nội.

9. Quốc hội (2005), Luật đường sắt, Hà Nội.

10. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.

11. Quốc hội (2006), Luật hàng không dân dụng, Hà Nội.

CÁC VĂN BẢN QUỐC TẾ

12. Bản quy tắc của UNCITAD/ICC về chứng từ vận tải đa phương thức quốc tế, (1992).

13. Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về vận tải đa phương thức quốc tế, (1980)

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

14. Bộ Giao thông vận tải (2007), Quyết định số 3336/2007/QĐ-BGTVT ngày 30/10 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải về ban hành Chương trình hành động của Bộ Giao thông vận tải thực hiện

Chương trình hành động của Chính phủ sau khi ra nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),

Hà Nội.

15. Hoàng Văn Châu (2003), Vận tải - Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, Nhà xuất bản Khoa học và

kỹ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh.

16. Dự thảo lần thứ 9 (năm 2008) Luật giao thông đường bộ Việt Nam.

17. Dương Hữu Hạnh (1999), Nghiệp vụ vận tải và bảo hiểm trong ngoại thương, Nxb Tài chính, Hà Nội.

18. Dương Hữu Hạnh (2004), Vận tải - Giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải, Nxb Thống kê.

19. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

20. Phụ lục 13A Hiệp định giữa các Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia, Cộng hoà nhân

dân Trung Hoa, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Mi-an-ma, Vương

quốc Thái Lan và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Tạo thuận lợi cho vận

chuyển hàng hoá và người qua biên giới.

21. Nguyễn Hoàng Tiệm, Phát triển dịch vụ vận tải đa phương thức - một thách thức lớn với

Việt Nam, Tạp chí Hàng hải Việt Nam điện tử, ngày 20/7/2006.

22. Trường Đại học kinh tế quốc dân (1999), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb

Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

24. Trường Đại học ngoại thương (2003), Vận tải và giao nhận trong ngoại thương, Nxb Giao

thông vận tải, Hà Nội.

TIẾNG ANH

25. ASEAN Framework Agreement on Multimodal Transport.

26. Contract Law of the People’s Republic of China.

27. Liability issues on Muntimodal Transport in ThaiLand,

28. Report prepared by the UNCTAD secrectoriat, “Implementation of multimodal

transport rules”, UNCTAD/SDTE/TLB/2, 25 June 2001.

29. Report by the UNCTAD serectoriat, “Multimodal transport: the feasibility of an

international legal instrument”, http:www/unctad.org/en/ doc/sdtetlb20031_en.pdf.

WEBSITE

30. http: www/imf. org

31. http:www/forwarderlaw.com

32. http:lawspace.law.uct.ac.za.8080

33. http: www/nciec.gov.vn

34. http:www/unctad. org