51
Ngày 09-06-2015, trên http://thuvienphapluat.vn/archive/Luat-ve-hoi-vb280232.aspx, người ta thấy xuât hiện Dự thảo (không đề số thứ tự) mang tên Luật về Hội do Quốc hội Việt cộng đưa ra. Được biên soạn nhằm thay thế “Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-05-1957 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Luật quy định quyền lập hội” (lời văn dự thảo) cũng như nhằm nâng cấp “Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội” do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21-04-2010, Luật về Hội dự tính hoàn tất và ban hành vào năm 2016 để sẽ có hiệu lực đầu năm 2017. Dự thảo hiện có 8 chương và 37 điều. Y như Dự thảo Luật Tín ngưỡng Tôn giáo đưa ra lấy ý kiến các tín đồ ngày 10-04-2015 và đề án trưng cầu dân ý để sửa đổi Bộ luật Hình sự được Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hôm 14-7-2015, có thể cho rằng Dự thảo Luật về Hội này phát xuất từ sự đòi hỏi của nhân dân và sự áp lực của quốc tế về tính dân chủ, minh bạch và công bằng của nền luật pháp tại Việt Nam, vốn là cả một rừng luật nhưng mang bản chất luật rừng. Nó cũng phát xuất từ sự lo ngại của đảng và nhà cầm quyền Việt cộng trước việc ngày càng xuất hiện các tổ chức xã hội dân sự độc lập mà mục tiêu trước mắt là quyết liệt đấu tranh cho các nhân quyền cơ bản. Với não trạng độc đoán và mục tiêu độc quyền thường lệ, nhà cầm quyền đưa ra văn bản luật mới này không ngoài mục đích kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của nhân dân hơn nữa. Điều này thấy rõ trước hết nơi tên gọi: “Luật về Hội” (đang khi Sắc lệnh năm 1957 của Chủ tịch nước từng viết “Luật quy định quyền lập hội”), và ngay nơi điều đầu tiên: “Luật này quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội”. Tiếp đến, dọc dài 37 điều, các bẫy pháp lý từng bước giăng ra và các nút dây càng lúc càng siết chặt, để cuối cùng biến mọi tự do liên quan tới quyền lập hội thành những tội phạm hình sự (y như trong Dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo). Chính vì thế mà hôm nay, 01-08-2015, 22 tổ chức xã hội dân sự độc lập đang bị nhà cầm quyền mưu tính xóa sổ đã cùng nhau ra Tuyên bố chung đối với Dự thảo Luật về Hội đó. Sau khi khẳng định rằng sự minh bạch, toàn diện, hoàn chỉnh và công bằng của luật pháp là cần thiết đối với sự bảo đảm và phát huy các quyền tự do dân sự, đối với sự phát triển toàn diện của quốc gia, rằng điều 4 Hiến pháp là nguyên nhân quan trọng cho tình trạng thiếu vắng một nền pháp trị thực sự ở Việt Nam, rằng sự can thiệp tuỳ tiện của Nhà nước bằng luật pháp vào đời sống dân sự sẽ ngăn chặn sự đóng góp hữu hiệu của công dân trong việc hình thành các quốc sách tốt đẹp, Tuyên bố chung vạch ra 8 khuyết điểm, hay nói thẳng là 8 sai lầm hoặc mưu mẹo của Việt cộng. Đó là (1) Phân biệt đối xử giữa một số hội (tổ chức) do nhà nước lập như công cụ của đảng vốn sẽ được tiếp tục duy trì ưu thế với các tổ chức độc lập của công dân vốn sẽ bị Luật về hội chi phối cách khắc nghiệt; (2) Dựng lên rào cản đối với các hội bằng “giấy phép”, nghĩa là luật trao cho chính phủ quyền ban hành các quy định dưới luật nhằm tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của công dân, nhằm loại trừ những tổ chức bị “đặt thành vấn đề”, đang khi quyền lập hội và nhập hội là quyền hiến định, bất cứ người dân nào cũng có, chỉ cần ghi danh và công bố, chẳng cần xin phép và đợi sự cho phép luôn đầy thâm ý của nhà cầm quyền; (3) Cấm đoán các hội đoàn độc lập, các hội đoàn của những người đối lập, các hội đoàn bảo vệ nhân quyền… dựa vào cái cớ hết sức mơ hồ (thấy trong nhiều bản văn luật): “Xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc” (Điều 8, khoản 2); (4) Vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội: Quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc công nhận điều lệ hội và chức danh người đứng đầu hội tại Điều 14 và Điều 31 hoàn toàn mâu thuẫn và vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội như đã được công nhận và quy định tại Điều 2 và Điều 6; (5) Hạn chế vô lý quyền gia nhập hội (mà Điều 3 đã công nhận và quy định) đối với “các công dân bị tòa án tuyên cấm tham gia hoạt động về hội hoặc hành nghề thuộc lĩnh vực hoạt động chính của hội” (Điều 15, khoản 2, điểm a). Đây tương tự trường hợp án quản chế của nhiều tù

vietcongonline.files.wordpress.com · Web viewKính thưa - Toàn thể Đồng bào VN trong và ngoài nước - Các tổ chức trong Phong trào Dân chủ Việt Nam Trước

Embed Size (px)

Citation preview

Ngày 09-06-2015, trên http://thuvienphapluat.vn/archive/Luat-ve-hoi-vb280232.aspx, người ta thấy xuât hiện Dự thảo (không đề số thứ tự) mang tên Luật về Hội do Quốc hội Việt cộng đưa ra. Được biên soạn nhằm thay thế “Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-05-1957 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Luật quy định quyền lập hội” (lời văn dự thảo) cũng như nhằm nâng cấp “Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội” do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 21-04-2010, Luật về Hội dự tính hoàn tất và ban hành vào năm 2016 để sẽ có hiệu lực đầu năm 2017. Dự thảo hiện có 8 chương và 37 điều.

Y như Dự thảo Luật Tín ngưỡng Tôn giáo đưa ra lấy ý kiến các tín đồ ngày 10-04-2015 và đề án trưng cầu dân ý để sửa đổi Bộ luật Hình sự được Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hôm 14-7-2015, có thể cho rằng Dự thảo Luật về Hội này phát xuất từ sự đòi hỏi của nhân dân và sự áp lực của quốc tế về tính dân chủ, minh bạch và công bằng của nền luật pháp tại Việt Nam, vốn là cả một rừng luật nhưng mang bản chất luật rừng. Nó cũng phát xuất từ sự lo ngại của đảng và nhà cầm quyền Việt cộng trước việc ngày càng xuất hiện các tổ chức xã hội dân sự độc lập mà mục tiêu trước mắt là quyết liệt đấu tranh cho các nhân quyền cơ bản.

Với não trạng độc đoán và mục tiêu độc quyền thường lệ, nhà cầm quyền đưa ra văn bản luật mới này không ngoài mục đích kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của nhân dân hơn nữa. Điều này thấy rõ trước hết nơi tên gọi: “Luật về Hội” (đang khi Sắc lệnh năm 1957 của Chủ tịch nước từng viết “Luật quy định quyền lập hội”), và ngay nơi điều đầu tiên: “Luật này quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội”. Tiếp đến, dọc dài 37 điều, các bẫy pháp lý từng bước giăng ra và các nút dây càng lúc càng siết chặt, để cuối cùng biến mọi tự do liên quan tới quyền lập hội thành những tội phạm hình sự (y như trong Dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo).

Chính vì thế mà hôm nay, 01-08-2015, 22 tổ chức xã hội dân sự độc lập đang bị nhà cầm quyền mưu tính xóa sổ đã cùng nhau ra Tuyên bố chung đối với Dự thảo Luật về Hội đó. Sau khi khẳng định rằng sự minh bạch, toàn diện, hoàn chỉnh và công bằng của luật pháp là cần thiết đối với sự bảo đảm và phát huy các quyền tự do dân sự, đối với sự phát triển toàn diện của quốc gia, rằng điều 4 Hiến pháp là nguyên nhân quan trọng cho tình trạng thiếu vắng một nền pháp trị thực sự ở Việt Nam, rằng sự can thiệp tuỳ tiện của Nhà nước bằng luật pháp vào đời sống dân sự sẽ ngăn chặn sự đóng góp hữu hiệu của công dân trong việc hình thành các quốc sách tốt đẹp, Tuyên bố chung vạch ra 8 khuyết điểm, hay nói thẳng là 8 sai lầm hoặc mưu mẹo của Việt cộng.

Đó là (1) Phân biệt đối xử giữa một số hội (tổ chức) do nhà nước lập như công cụ của đảng vốn sẽ được tiếp tục duy trì ưu thế với các tổ chức độc lập của công dân vốn sẽ bị Luật về hội chi phối cách khắc nghiệt; (2) Dựng lên rào cản đối với các hội bằng “giấy phép”, nghĩa là luật trao cho chính phủ quyền ban hành các quy định dưới luật nhằm tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của công dân, nhằm loại trừ những tổ chức bị “đặt thành vấn đề”, đang khi quyền lập hội và nhập hội là quyền hiến định, bất cứ người dân nào cũng có, chỉ cần ghi danh và công bố, chẳng cần xin phép và đợi sự cho phép luôn đầy thâm ý của nhà cầm quyền; (3) Cấm đoán các hội đoàn độc lập, các hội đoàn của những người đối lập, các hội đoàn bảo vệ nhân quyền… dựa vào cái cớ hết sức mơ hồ (thấy trong nhiều bản văn luật): “Xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc” (Điều 8, khoản 2); (4) Vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội: Quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc công nhận điều lệ hội và chức danh người đứng đầu hội tại Điều 14 và Điều 31 hoàn toàn mâu thuẫn và vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội như đã được công nhận và quy định tại Điều 2 và Điều 6; (5) Hạn chế vô lý quyền gia nhập hội (mà Điều 3 đã công nhận và quy định) đối với “các công dân bị tòa án tuyên cấm tham gia hoạt động về hội hoặc hành nghề thuộc lĩnh vực hoạt động chính của hội” (Điều 15, khoản 2, điểm a). Đây tương tự trường hợp án quản chế của nhiều tù nhân lương tâm mãn tù. (6) “Nhà nước hóa” hội đoàn bằng Điều 25 khoản 2: “Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó”, đang khi hội là một tổ chức xã hội, chứ không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước. Tất cả chỉ vì óc toàn trị! (7) Cản trở các hội đoàn độc lập ra đời. Điều 9 khoản 6 quy định một trong những điều kiện thành lập hội là "phải có đủ số người đăng kí tham gia hội tối thiểu theo quy định của Chính phủ". Đây là sự xâm phạm nghiêm trọng quyền Tự do lập hội, vì nếu nhà nước quy định con số tối thiểu này quá lớn sẽ ngăn cản việc thành lập các nhóm hội nhỏ ngay từ ban đầu. Thực chất, chỉ cần hai người là có thể lập thành một hội. Điều 9 khoản 3 quy định các hội đoàn ra đời sau thì lĩnh vực hoạt động chính không được trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập "hợp pháp" trước đó. Điều này một lần nữa tạo ưu thế tồn tại độc tôn của các hội đoàn nằm dưới ô dù của Nhà nước và ngăn cản sự thành lập của các hội đoàn độc lập, không đăng ký hoạt động trong cùng một phạm vi hoạt động. Chẳng hạn Văn đoàn Độc lập không có thể tồn tại bên Hội Nhà văn và Hội Nhà báo Độc lập không có thể tồn tại bên Hội Nhà báo !?! Điều 10 khoản 1 đề cập đến việc Ban vận động thành lập hội phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận. Đây là chuyện vô lý và độc đoán. Ban này có ý nghĩa quyết định đến việc thành lập hội, nên nếu không được công nhận thì hội sẽ chẳng bao giờ hình thành. Đây là mánh lới để Việt cộng loại bỏ ngay từ đầu quyền tự do lập hội của người bất đồng chính kiến hoặc giới hoạt động nhân quyền; (8) Đặt tên của Luật theo kiểu toàn trị. Đúng ra phải lấy tên là “Luật về Quyền lập hội” thay vì "Luật về Hội" để phù hợp với tinh thần của điều 22 trong "Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị" là công nhận và bảo vệ Quyền tự do lập hội của người dân. Một dự luật về hội đoàn mà không tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về Quyền tự do lập hội sẽ là một bước lùi nghiêm trọng trong nỗ lực xây dựng nền pháp trị.

Thực ra thì trong Dự thảo, ở Điều 5 (Áp dụng pháp luật về hội) khoản 2 có viết: “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó”. Cũng gặp trong nhiều văn bản luật khác, câu này chỉ là một lối nói vuốt đuôi, nhằm lừa gạt quốc tế và ru ngủ quốc dân. Bởi lẽ trước hết những kẻ biên soạn luật này đều hiểu rõ tinh thần của Tuyên ngôn lẫn các Công ước Quốc tế Nhân quyền, đều biết tại các quốc gia dân chủ văn minh chẳng hề có những luật áp bức và quái đản như thế, dầu vậy họ vẫn biên soạn nó như một công cụ cần thiết và hợp pháp cho đảng. Thứ đến, khi gặp trường hợp người dân trưng dẫn công pháp quốc tế để biện minh và bênh vực cho các quyền chính đáng của mình, người của nhà nước sẽ lý luận theo kiểu ba trợn: “Việt Nam không phải là Úc là Mỹ! Hoàn cảnh và văn hóa nước ta nó khác!”

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 224 Trang

Thực ra thì trong Dự thảo, ở Điều 5 (Áp dụng pháp luật về hội) khoản 2 có viết: “Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó”. Cũng gặp trong nhiều văn bản luật khác, câu này chỉ là một lối nói vuốt đuôi, nhằm lừa gạt quốc tế và ru ngủ quốc dân. Bởi lẽ trước hết những kẻ biên soạn luật này đều hiểu rõ tinh thần của Tuyên ngôn lẫn các Công ước Quốc tế Nhân quyền, đều biết tại các quốc gia dân chủ văn minh chẳng hề có những luật áp bức và quái đản như thế, dầu vậy họ vẫn biên soạn nó như một công cụ cần thiết và hợp pháp cho đảng. Thứ đến, khi gặp trường hợp người dân trưng dẫn công pháp quốc tế để biện minh và bênh vực cho các quyền chính đáng của mình, người của nhà nước sẽ lý luận theo kiểu ba trợn: “Việt Nam không phải là Úc là Mỹ! Hoàn cảnh và văn hóa nước ta nó khác!”

Thành ra tưởng cũng nên trưng ra ở đây vài điểm trong Cẩm nang để thực hiện tốt Quyền Tự do Lập hội từ văn phòng của Báo Cáo viên Đặc biệt LHQ về tự do tụ tập ôn hoà và lập hội (bản dịch của cô Huỳnh Thục Vy): “1/ Hội của tôi có cần phải đăng ký hay không? Không! Quyền Tự do Lập hội bảo vệ tất cả các hội đoàn một cách ngang nhau dù có đăng ký hay không. Các cá nhân tham gia các hội đoàn không đăng ký nên được tự do thực hiện bất cứ hành động hợp pháp nào, bao gồm quyền tổ chức và tham gia các cuộc tụ tập ôn hòa, và không nên chịu các biện pháp trừng phạt hình sự (A/HRC/20/27, tr. 14, đoạn 56). 2/ Quyền Tự do Lập hội có áp dụng cho tôi không? Có! Bất luận bạn là ai. Điều 22 của Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị công nhận rằng quyền Tự do Lập hội nên được hưởng bởi tất cả mọi người như đã được quy định bởi Công ước này (xem khoản 2 về sự bất phân biệt đối xử) và các Nghị quyết 15/21, 21/16 và 24/5 của Hội đồng Nhân quyền. Trong nghị quyết 24/5, Hội đồng NQ nhắc nhở các Nhà nước thành viên về nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ các quyền  tụ tập ôn hòa và và lập hội tự do của các cá nhân, dù ở trên mạng hay ngoài đời, bao gồm trong bối cảnh các cuộc bầu cử, và bao gồm những người thuộc phe thiểu số hoặc có quan điểm hoặc niềm tin đối lập đang tìm cách thực hiện hay thăng tiến các quyền này (A/HRC/26/29, tr. 9, đoạn 22). Luật pháp không nên thiết lập bất cứ những hạn chế cụ thể nào lên các cá nhân, bao gồm trẻ em, người nước ngoài, các cộng đồng ngôn ngữ và sắc tộc thiểu số, các cá nhân đồng tính và phụ nữ, như là một ít trường hợp điển hình (A/HRC/20/27, trang 14, đoạn 54; A/HRC/26/29, trang 6-7, đoạn 18). Quyền tự do lập hội cũng mở rộng đến những thực thể pháp lý (vd: 2 hội đoàn quyết định sáp nhập thành một tổ chức). 3/ Nhà nước có nghĩa vụ thăng tiến quyền tự do lập hội không? Có! Các nhà nước có nghĩa vụ thực hiện những biện pháp tích cực để thiết lập và duy trì một môi trường tạo điều kiện cho hoạt động của các hội đoàn. Các thành viên của các hội phải được tự do thực hiện quyền lập hội của họ mà không sợ bị răn đe, hăm dọa hoặc bạo lực bao gồm: sách nhiễu, xử tử tức khắc hoặc tùy tiện, bắt giữ hoặc giam cầm tùy tiện, tra tấn, bôi nhọ bằng các chiến dịch truyền thông hoặc cấm đi lại (A/HRC/20/27, tr. 15-16, đoạn 63). Các nhà nước cũng có nghĩa vụ không ngăn cản quá đáng việc thực hiện quyền tự do lập hội. Thành viên của các hội nên được tự do quyết định các điều lệ, cơ cấu tổ chức và sinh hoạt, và làm quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội nên được hưởng, trong số những quyền khác, các quyền bày tỏ ý kiến, phổ biến thông tin, sinh hoạt với công chúng và vận động các chính phủ và các định chế nhận quyền quốc tế (A/HRC/20/27, tr.16, đoạn 64)”... 

Đối chiếu văn bản của quốc tế trên đây với văn bản của quốc hội, ta thấy Việt cộng vẫn nhất quyết tiếp tục coi việc lập hội là phép của nhà nước chứ không phải là quyền của công dân. Đó chỉ vì mù quáng bám víu quyền lực, một sự mù quáng mà sớm hay muộn Việt cộng cũng phải trả giá đắt đỏ! BAN BIÊN TẬP

BAN BIÊN TẬP

Trg 01Phép lập hội hay quyền lập hội ???

Trg 03Tuyên bố sau chuyến Mỹ du của Tổng bí thư đảng CSVN.-Khối Tự do Dân chủ 8406.

Trg 04Tuyên bố chung đối với dự thảo Luật về Hội.-22 tổ chức xã hội dân sự VN.

Trg 05UBND thị trấn Củ Chi cưỡng bức tự do tôn giáo của Cao Đài.-Trần Văn Tân.

Trg 08Vì sao cách mạng ở Trung Quốc đã thực sự bắt đầu? -He Qinglian.

Trg 09Viễn ảnh sụp đổ chế độ Cộng sản TQ do kế hoạch “Đả hổ…-Nguyễn Kim Lộc.

Trg 11Nghĩ về chuyến đi Mỹ của Tổng bí thư. -Nguyễn Minh Cần.

Trg 15Đảng Cộng sản từ khước vai trò lãnh đạo đất nước.

-Nguyễn Hưng Quốc.Trg 17“Hãy phá đổ bức tường này“ -Võ Thị Hảo.Trg 18Bi kịch thu hồi đất ở VN.

-Ls Ngô Ngọc Trai.Trg 19Ăn cắp ở Thụy Sĩ sao bằng ở

Hà Nội?-Ngô Nhân Dụng.

Trg 20Cấm báo chí tư nhân là tội ác.-Võ Thị Hảo.

Trg 22”Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.-Gia Minh.

Trg 24Muốn đi tù, chuyện thật như đùa. -Nguyễn Xuân Nghĩa.

Trg 26Cái mặt Việt Nam. -Huy Phương.

Trg 27Thành phố tụi mình đã rất khô khan. -Ns Tuấn Khanh.

Trg 28Ai bảo vệ ngư dân? -Nguyễn Văn Tuấn.

Trg 30Những thanh niên dân tộc thiểu số nghiện ma túy.-Nhóm phóng viên RFA từ VN.

Trg 31Cả nước phì cười.-Văn Quang.

DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI CHỈ LÀ TRÒNG ÁP BỨC MỚI

KHOÁC LÊN CỔ NHÂN DÂN VIỆT NAM

--------------------------------

When ? (Khi nào?) (Kỳ Cục, Danchimviet.info)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Kính thưa- Toàn thể Đồng bào VN trong và ngoài nước- Các tổ chức trong Phong trào Dân chủ Việt Nam

Trước tình thế Trung Cộng (TC) ngày càng hung hăng trên Thái Bình Dương những năm gần đây, nhất là trên 2 vùng biển Đông Bắc Á và Đông Nam Á, Hoa Kỳ (HK) đã có chiến lược xoay trục sang đó về tất cả các mặt quân sự, kinh tế lẫn chính trị, ngoại giao. Chính quyền Mỹ đã và đang củng cố quan hệ với các quốc gia đồng minh truyền thống của họ tại đây, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia tuy bang giao chặt chẽ với TC nhưng lại bị TC hiếp đáp như VN chẳng hạn, với hy vọng tạo thế liên hoàn nhằm chống lại sự xâm lăng của cường quốc cộng sản này. Đó chính là lý do để ông Barack Obama mời ông Nguyễn Phú Trọng, một người rất bảo thủ giáo điều, thường bênh Tàu chống Mỹ, sang Hoa Kỳ bàn chuyện.

Trong khi đó, VN đang gặp nhiều khó khăn về mặt kinh tế lẫn chính trị, lại bị TC xâm nhập trên đất và lấn lướt trên biển từ nhiều năm qua, nay còn bị Camphuchia gây hấn ở biên giới Tây Nam theo sự xúi bẩy của TC, nên ban lãnh đạo ĐCSVN đã chấp thuận lời mời của tổng thống Mỹ vì cảm thấy chỗ dựa TC đang nguy ngập và muốn tìm chỗ dựa mới để cứu chế độ của họ.

Báo chí nhà nước đã thổi phồng cuộc Mỹ du của ông Nguyễn Phú Trọng, cho đó là «chuyến đi lịch sử», «bước ngoặt lịch sử», là «cột mốc đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, đồng thời nâng cao sự hợp tác giữa hai nước lên tầm đối tác chiến lược», và đắc chí tuyên bố: «Washington cuối cùng đã thể hiện sự tôn trọng đối với thể chế chính trị của Việt Nam» !?!  Một số nhà báo «lề dân» cũng lạc quan cho rằng: với chuyến đi của ông Trọng, VN đã xích lại gần HK và như thế sẽ từ bỏ chế độ độc tài đảng trị trong thời gian sắp tới; hay cho rằng sau chuyến đi của ông Trọng, VN sẽ «thoát Trung» và liên kết với HK để chống lại TC.

Trước các sự kiện và bình luận trên, Khối Tự do Dân chủ 8406 nhận định như sau:

1- Sau chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng, quan hệ giữa VN và HK vẫn là «quan hệ đối tác toàn diện» như sau chuyến đi của chủ tịch nước, ông Trương Tấn Sang cách đây 2 năm, chứ chưa phải là «quan hệ đối tác chiến lược» và càng không là «quan hệ đối tác chiến lược toàn diện » như VN đã xác lập với Nga và nhất là với Tàu từ lâu rồi. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện này còn được củng cố bởi sợi dây thòng lọng Thành Đô, vòng kim cô 16 chữ vàng, bởi vô số hiệp định và cam kết mọi mặt của đảng và nhà nước VN ký với TC, bởi sự lũng đoạn của TC đối với nền kinh tế VN, như trúng thầu hầu hết các công trình xây dựng quan trọng và cơ bản, bởi sự xâm nhập của TC trên lãnh thổ VN, như thuê mướn được 300 ngàn hec-ta rừng đầu nguồn ở vùng biên giới, như tập trung được dân TQ ở nhiều nơi xung yếu trên đất nước ta từ Bắc chí Nam… Nguy hiểm nhất là bởi sự khống chế ngày càng nặng nề của TC lên nhânsự lãnh đạo cao cấp của VN.

2- Kết quả cuộc gặp Việt-Mỹ là Tuyên bố về Tầm nhìn chung. Tuyên bố này hầu hết chỉ là những ghi nhận và hứa hẹn chung chung, chưa có gì cụ thể. Chẳng hạn, HK ghi nhận «sự quan tâm của VN muốn đạt được quy chế thị trường», hai nước «hứa hẹn tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ quyền con người», tiếp tục đàm phán về TPP nhất là vấn đề quyền lợi công nhân, v.v… Chỉ có đoạn nói về Biển Đông mới xem ra thiết thực : «Hai nước nhấn mạnh sự cần thiết đề cao các quyền tự do hàng hải và hàng không được quốc tế công nhận; thương mại hợp pháp không hạn chế, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế những hành động làm gia tăng căng thẳng; bảo đảm tất cả các hành động và hoạt động phải phù hợp với luật pháp quốc tế; phản đối việc ép buộc, hăm dọa, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.» Đây dường như là do gợi ý từ phía Hoa Kỳ, vì từ bao năm nay, dẫu TC cấm ngư dân ta đánh cá trong vùng biển VN, cướp bóc ngư cụ và thu hoạch của họ, tấn công, phá hoại, đánh chìm tàu thuyền của họ, đánh đập, nhốt tù và đòi tiền chuộc mạng họ, ông Trọng vẫn tuyên bố: «Biển Đông không có gì mới» và «Quan hệ

Trung-Việt chưa lúc nào tốt đẹp bằng lúc này»! Thậm chí hôm 18-6-2015, bộ trưởng ngoại giao VN còn cam kết với bộ trưởng ngoại giao TC «sẽ không có hành động làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông, trong lúc TC đã và đang làm biết bao điều phức tạp tại đó.

3- Tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) ở Was-hington DC, ông Trọng đã tỏ ra gian dối xảo quyệt và trâng tráo vô liêm sỉ khi tuyên bố : «VN sẽ duy trì tinh thần dân chủ hóa trong xã hội và chính trị… Tôi khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng vấn đề quyền con người... Chúng tôi đang nỗ lực không mệt mỏi để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người… Bảo đảm và cải thiện quyền của công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi… Người dân VN chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay». Về danh sách 150 tù nhân lương tâm đang rục xác trong lao ngục CS mà Human Rights Watch đã đưa ra và các tổ chức nhân quyền quốc tế đòi phải trả tự do nhân chuyến đi này, ông Trọng chỉ ngụy biện: «Các vụ việc người bị bắt ở VN không phải do vấn đề dân tộc hay tôn giáo mà là vì họ vi phạm pháp luật.»

4- Thành thử chớ nên hy vọng sẽ có «những đột biến mang tính lịch sử» về nhân quyền và tự do dân chủ sau chuyến đi của ông Trọng. Bị giam hãm trong ý thức hệ độc tài thâm căn cố đế, trong cuồng vọng duy trì mãi mãi quyền lực, ĐCSVN sẽ chẳng bao giờ thực thi nhân quyền trọn vẹn và dân chủ đúng nghĩa. Biết đầu óc thực dụng của các nước dân chủ Tây phương là chủ yếu nghĩ đến quyền lợi của họ và bênh vực nhân quyền khắp thế giới trong chừng mực hữu ích cho họ, Hà Nội sẽ theo yêu cầu của quốc tế mà thỉnh thoảng thả vài tù nhân lương tâm (để rồi bắt thêm người mới), đôi khi cho nhân dân góp ý sửa đổi bộ luật này nọ (nhưng dưới sự chỉ đạo của đảng). Do đó rất có thể rồi đây, VN sẽ được công nhận là nền kinh tế thị trường dẫu kinh tế quốc doanh vẫn còn là chủ đạo, sẽ được tham gia TPP dẫu công đoàn độc lập chưa có hay có nhưng vô thực chất và vô ảnh hưởng, sẽ được xóa bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương dẫu hồ sơ nhân quyền không tiến bộ mấy. Tiếp đến, với sự mù quáng tin vào “tình đồng chí cộng sản”, với sự tròng cổ của ách Trung Nam Hải ngày càng lớn và nặng, VN sẽ không thể nào trở thành đồng minh đáng tin cậy của Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ quanh Biển Đông

Số 224 Trang 3

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

trong cuộc chiến chống TC. Ngoài ra, những tranh chấp, đấu đá, thậm chí thanh trừng nhau hiện thời trong nội bộ ĐCSVN chẳng phải là dấu hiệu cuộc đối đầu giữa phe bảo thủ độc tài và phe cấp tiến dân chủ. Tất cả họ trước sau chỉ nhắm mục tiêu duy nhất là duy trì quyền lực chính trị của đảng và bảo vệ quyền lợi vật chất của phe nhóm.

5- Hiện nay ĐCSVN đang chuẩn bị tiến tới đại hội 12 và đại hội này sẽ đưa lên một ban lãnh đạo mới với một tổng bí thư mới. Theo dư luận trong nước, người đứng đầu ban lãnh đạo của đảng rất có thể sẽ là thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, kẻ đang có thế và lực mạnh nhất trong đảng. Ông này sẽ nắm toàn bộ quyền lực trong tay mình cả về mặt đảng lẫn mặt nhà nước. Dù trên phương diện đối ngoại, ban lãnh đạo mới của đảng sẽ có thể thay đổi chút ít, ve vãn Hoa Kỳ nhiều hơn để mong dựa vào HK mà cứu chế độ độc tài toàn trị đang nguy ngập; nhưng về căn bản họ vẫn duy trì đường lối chính sách cũ, nghĩa là mặt đối ngoại vẫn giữ thái độ thần phục TC, còn mặt đối nội vẫn tiếp tục đàn áp phong trào dân chủ, bóp nghẹt các quyền tự do, vẫn tước đoạt ruộng đất của nông dân, bóc lột sức lực của công nhân, khống chế mọi sinh hoạt của các giáo hội…

6- Vì thế, Khối 8406 kêu gọi đồng bào đừng có ảo tưởng về ĐCSVN và ban lãnh đạo mới cũng như tổng bí thư mới của đảng là họ sẽ có thể dân chủ hóa chế độ, sẽ từ bỏ độc tài mà trở về với dân tộc ! Chúng tôi kêu gọi mọi chiến sĩ dân chủ VN ra sức tận dụng sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ Tây phương, nhưng đừng quá tin tưởng và ỷ lại vào họ. Chúng tôi kêu gọi các tổ chức chính trị đảng phái và xã hội dân sự luôn đoàn kết trong tinh thần, nhất trí trong mục tiêu, phối hợp trong hành động, nhất là đi vào quần chúng, vào các tầng lớp đông đảo như nông dân, công nhân, trí thức, tín đồ… để giúp họ hiểu rõ hiện tình xã hội, bừng dậy ý thức đấu tranh, liên kết thành những lực lượng có tổ chức ngõ hầu toàn thể Dân tộc đứng lên cứu nguy đất nước khỏi hiểm họa độc tài và hiểm họa ngoại xâm.

VN ngày Tổng tuyệt thực toàn cầu vì nhân quyền tại VN (25-07-2015).

Ban điều hành Khối 8406:1- Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Sài Gòn, VN. 2- Linh mục Phan Văn Lợi, Huế, VN. 3- Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, Hải Phòng, VN. 4- Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Houston,HK. 5- Bà Lư Thị Thu

Duyên, Boston, HK. Với sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý và các tù nhân lương tâm Khối 8406

khác đang ở trong lao tù Cộng sản. Ngày 09-06-2015, trên http://thu

vienphapluat.vn/archive/Luat-ve-hoi - vb280232.aspx, người ta thấy Dự thảo (không đề số) mang tên Luật về Hội do Quốc hội Cộng sản VN đưa ra. Được biên soạn nhằm thay thế “Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-5-1957 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Luật quy định quyền lập hội”, Luật này dự tính ban hành vào năm 2016 và sẽ có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017. Dự thảo hiện có 8 chương và 37 điều, đưa ra không ngoài mục đích củng cố chế độ độc tài. Do đó mà có Tuyên bố chung dưới đây:.

Tuyên bố chung này được đưa ra bởi các hội đoàn độc lập dưới đây, cũng chính là các tổ chức xã hội dân sự bị loại ra ngoài vòng pháp luật do không được chính quyền Việt Nam cấp phép hoạt động.

I- Trước tiên, chúng tôi công nhận rằng sự rõ ràng, toàn diện, hoàn thiện và khả năng áp dụng công bằng cho mọi thành phần xã hội của luật pháp quốc gia là vô cùng cần thiết đối với sự bảo đảm và phát huy các quyền tự do dân sự của người dân, đối với sự phát triển toàn diện của quốc gia và sự tồn tại của nền pháp trị.

Và chúng tôi cũng nhận thức sâu sắc rằng, điều 4 Hiến pháp cho phép Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn đứng trên mọi lực lượng Nhà nước và xã hội và các Luật vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc dân chủ tự do và nhân quyền quốc tế nhằm bảo vệ quyền lực của Đảng cộng sản chính là nguyên nhân quan trọng cho tình trạng thiếu vắng một nền pháp trị thực sự ở Việt Nam.

Là các tổ chức dân sự độc lập, tự nguyện và tự quản, chúng tôi cũng hiểu rõ rằng, việc luật pháp tạo điều kiện cho sự can thiệp tuỳ tiện của Nhà nước vào đời sống dân sự sẽ làm suy yếu lĩnh vực hoạt động XHDS, ngăn chặn sự đóng góp hữu hiệu của người dân trong việc hình

thành các chính sách tốt đẹp cho quốc gia.

II- Đại diện cho các tổ chức XHDS

độc lập đang nằm trong số những nạn nhân của các chính sách và hành vi đàn áp quyền tự do lập hội của chính quyền Việt Nam, chúng tôi quyết tâm không để mình bị loại ra khỏi tiến trình đóng góp ý kiến cho bản Dự thảo Luật về Hội, có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và tương lai của chúng tôi và của toàn thể dân tộc Việt Nam. 

Sau đây là một số nhận xét của chúng tôi về Dự thảo Luật về Hội này. Chúng tôi yêu cầu chính quyền Việt Nam huỷ bỏ hoặc sửa đổi các điều khoản dưới đây theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền tự do Lập hội, nhằm tuân thủ các nguyên tắc của Công pháp quốc tế mà chính quyền đã ký kết.

1/ Phân biệt đối xử"Hội", theo hiểu biết của chúng

tôi, bao gồm các tổ chức XHDS (CSO), các câu lạc bộ, các hợp tác xã, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tôn giáo, các nhóm chức nghiệp và phái tính, các đảng phái chính trị, các công đoàn và các sáng hội (foundation).  Vì vậy, cả đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải được định nghĩa như một hội thông thường trong Luật về Hội, không có ưu tiên độc tôn, độc quyền và không cần một văn bản pháp luật khác điều chỉnh riêng.

Quy định tại khoản 2 điều 1 loại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật về Hội cho thấy chính quyền Việt Nam muốn tiếp tục duy trì ưu thế của các tổ chức công cụ của Đảng Cộng sản Việt Nam này. Và việc loại các tổ chức tôn giáo ra khỏi phạm vị áp dụng của luật này khiến chúng tôi lo lắng về tương lai của các tổ chức tôn giáo không đăng ký và các nhóm tôn giáo của người sắc tộc.

2/ "Giấy phép" là rào cảnKhoản 3 điều 2 cho phép Chính

phủ Việt Nam quy định chi tiết về các

Số 224 Trang 4

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hội đoàn không có tư cách pháp nhân sẽ tạo điều kiện cho các văn bản dưới luật bóp nghẹt quyền Tự do lập hội ra đời và do đó, phần lớn nội dung của Dự thảo Luật về Hội thực ra chỉ áp dụng đối với hội có tư cách pháp nhân, tức được chính quyền công nhận. Việc luật trao cho chính phủ quyền ban hành các quy định dưới luật nhằm tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của công dân mà hiến pháp và luật pháp công nhận là một chính sách được thực hiện xuyên suốt của chính quyền Việt Nam.

Quyền Lập hội là quyền hiến định, bất cứ người dân nào cũng có quyền lập hội và tham gia hội. Do đó việc lập Hội chỉ cần GHI DANH và CÔNG BỐ, không cần xin phép và đợi sự cho phép của cơ quan Nhà nước. Vậy, để bảo đảm tôn trọng Quyền tự do lập hội, toàn bộ Dự thảo Luật này không nên chỉ điều chỉnh các hội có tư cách pháp nhân mà thôi và loại các hội không có tư cách pháp nhân cho các văn bản dưới luật của chính phủ điều chỉnh.

3/ Cấm đoán tùy tiệnĐiều 8 quy định về các hành vi bị

nghiêm cấm, trong đó có việc “cản trở, ép buộc, can thiệp vào việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội trái quy định của pháp luật” (Khoản 1) và “xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc” (Khoản 2).  

Mục đích của Điều 8 là nhằm cấm các hội đoàn độc lập, các hội đoàn bảo vệ nhân quyền, các hội đoàn của những người đối lập... không được thành lập và hoạt động; và tạo điều kiện dễ dàng để chính quyền vu khống, buộc tội tuỳ tiện những người làm nhiệm vụ vận động thành lập các hội đoàn độc lập. Ngoài ra, các điều cấm đoán đã trích dẫn trên đây rất mơ hồ tạo điều kiện để chính quyền toàn quyền diễn giải cách hiểu và áp dụng theo ý riêng của mình.

4/ Vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội

Quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc công nhận điều lệ hội và chức danh người đứng đầu hội tại Điều 14 và Điều 31 hoàn toàn mâu thuẫn và vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội như đã được công nhận và quy định tại Điều 2 và Điều 6.

5/ Hạn chế vô lý quyền gia nhập hội của người dân

Việc cấm các công dân bị tòa án tuyên cấm tham gia hoạt động về hội hoặc hành nghề thuộc lĩnh vực hoạt động chính của hội, tại Điểm a Khoản 2 Điều 15 là cách hạn chế vô lý quyền gia nhập hội của công dân như đã được công nhận và quy định tại Điều 3.

6/ “Nhà nước hóa” hội đoànChúng tôi cho rằng Hội là một tổ

chức xã hội, chứ không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, nên không thể chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành và lĩnh vực hoạt động của mình, như quy định của Khoản 2 Điều 25. Quy định đó mặc nhiên “nhà nước hóa” một tổ chức xã hội dân sự đơn thuần.

7/ Cản trở các hội đoàn độc lập ra đời

Khoản 6 điều 9 quy định một trong những điều kiện thành lập hội là "phải có đủ số người đăng kí tham gia hội tối thiểu theo quy định của Chính phủ" là một sự xâm phạm nghiêm trọng quyền Tự do lập hội. Nếu Chính phủ quy định con số tối thiểu này quá lớn sẽ ngăn cản việc thành lập các nhóm hội nhỏ ngay từ ban đầu. Thực chất, chỉ cần hai người là có thể lập thành một hội.

Khoản 3 điều 9 quy định các hội đoàn ra đời sau thì lĩnh vực hoạt động chính không được trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập "hợp pháp" trước đó. Điều này một lần nữa tạo ưu thế tồn tại độc tôn của các hội đoàn nằm dưới ô dù của Nhà nước và ngăn cản sự thành lập của các hội đoàn độc lập, không đăng ký hoạt động trong cùng một phạm vi hoạt động. 

Khoản 1 điều 10 đề cập đến việc Ban vận động thành lập hội phải có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận là vô lý. Ban vận động thành lập hội có ý nghĩa quyết định đến việc thành lập hội. Ban vận động thành lập hội mà không được chính quyền công nhận thì hội sẽ không bao giờ được thành lập. Đây sẽ là điều kiện để chính quyền loại bỏ ngay từ đầu quyền tự do lập hội của những người bất đồng chính kiến hoặc giới hoạt động nhân quyền.

8/ Về tên của dự thảo LuậtChúng tôi đề nghị nên đổi tên

"Luật về Hội" thành "Luật về Quyền lập hội" để phù hợp với tinh thần của điều 22 trong "Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị" là công nhận và bảo vệ Quyền tự do lập hội của người dân. Một dự luật về hội đoàn mà không tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về Quyền tự do lập hội sẽ

là một bước lùi nghiêm trọng trong nỗ lực xây dựng nền pháp trị.

III- Trên đây là ý kiến nhận xét của các tổ chức XHDS độc lập chúng tôi cho bản Dự thảo Luật về Hội. Trong tinh thần tôn trọng sự đóng góp ý kiến của công dân Việt Nam, yêu cầu bộ phận chức năng trả lời chính thức về việc đồng ý hay không đồng ý với những ý kiến này và lời giải thích.

Dựa trên những cam kết của chính phủ Việt Nam trong các công ước quốc tế, chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động và phát triển các hội nhóm của mình, góp phần vào việc xây dựng nền tảng cho một xã hội dân sự; tranh đấu không ngừng để Việt Nam sớm có một hiến pháp thực sự đáp ứng nguyện vọng của đại đa số người dân Việt Nam, một nền luật pháp công minh, một hệ thống chính trị tam quyền phân lập để bảo đảm cho việc thi hành luật pháp minh bạch, công bằng và hợp hiến.

Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi hy vọng luôn nhận được sự ủng hộ và bảo vệ từ chính giới các quốc gia tự do dân chủ, các NGO quốc tế và các cơ quan truyền thông quốc tế.

Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2015

Các tổ chức XHDS độc lập sau đây ký tên: 

1/ Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Huỳnh Thục Vy, Trần Thị Hài, Trần Thị Hài, Trần Thị Nga. 2/ Bạch Đằng Giang Foundation. Đd: Phạm Bá Hải. 3/ Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam. Đd: bác sĩ Nguyễn Đan Quế và linh mục Pham Văn Lợi. 4/ Hội Nhà báo độc lập Việt Nam. Đd: nhà báo Phạm Chí Dũng. 5/ Nhóm những người Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc. Đd: Huỳnh Trọng Hiếu. 6/ Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đd: linh mục Nguyễn Hữu Giải. 7/ Hội anh em Dân chủ. Đd: luật sư Nguyễn Văn Đài. 8/ Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ. Đd: mục sư Nguyễn Hoàng Hoa. 9/ Phong trào Con đường Việt Nam. Đd: Nguyễn Công Huân. 10/ Hội Ái Hữu cựu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo. Đd: Nguyễn Bắc Truyển. 11/ Hội Thánh Tin lành Chuồng Bò. Đd: mục sư Nguyễn Mạnh Hùng. 12/ Hội Bầu Bí tương thân. Đd: Nguyễn Lê Hùng. 13/ Diễn đàn Xã hội Dân sự. Đd: Tiến sĩ Nguyễn Quang A. 14/ Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đd: Hoà Thượng Thích Không Tánh. 15/ Sài Gòn báo. Đd: linh mục Lê Ngọc Thanh. 16/ Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo Thuần tuý. Đd: Nguyễn Vân Điền. 17/ Khối 8406. Đd: linh mục Phan Văn Lợi. 18/ Bauxite Việt

Số 224 Trang 5

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Nam. Đd: giáo sư Phạm Xuân Yêm và giáo sư Nguyễn Huệ Chi. 19/ Hội Bảo vệ quyền Tự do Tôn giáo. Đd: Hà Thị Vân. 20/ Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam. Đd: Vũ Quốc Ngữ. 21/ Giáo hội Cao Đài giáo độc lập, Toà thánh Tây Ninh. Đd: chánh trị sự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lan và Bạch Phụng. 22/ Mạng lưới Blogger Việt Nam. Đd: Phạm Thanh Nghiên

THÔNG BÁO 508 CỦA UBND THỊ TRẤN CỦ CHI: CƯỠNG BỨC TỰ DO TÔN GIÁO, TÍN

NGƯỠNG VỚI ĐẠO CAO ĐÀI 1926

9 giờ ngày 25-06-2015 ông Trần Quang Thái Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thị trấn Củ Chi đã dẫn đầu một phái đoàn khoản 25 người đến tư gia ông Võ Văn Quang tại nhà số 214 Nguyễn Văn Khạ, thị trấn Củ Chi, TP Hồ Chí Minh để cấm đồng đạo hội luận về Thông báo số 508 của UBND TT Củ Chi ký ngày 26-06/2015.

Tại sao cấm hội luận về Thông báo 508?

Thông báo 508 “về việc không chấp thuận tổ chức tuyên truyền trái pháp luật” trong đó khẳng định: “Căn cứ điều 5 và 6 của Nghị định 92/2012/CP ngày 08-11-2012 của chính phủ về quy định chi tiết và biện pháp thi hành pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo. Thông báo đến ông Võ Văn Quang cùng vợ là bà Nguyễn Thị Hương không được tụ tập đông người truyền đạo trái phép tại nhà số 214 đường Nguyễn Văn Khạ Tổ 09, khu phố 03, thị trấn Củ Chi, trong ngày 27-06-2015 và bất kỳ thời gian nào khi chưa có sự chấp thuận của UBND Thị trấn Củ Chi.”

Ngày 28-06-2015 Việt Nam Thời Báo phản ánh thông báo 508 của UBND TT Củ Chi là áp chế và chụp mũ người Đạo Cao Đài năm 1926.

UBND T.T Củ Chi dùng thông báo 508 như lá bùa để trấn yếm người theo Đạo Cao Đài năm 1926 phải chịu câm lặng và chịu sự lệ

thuộc vào Chi phái 1997. Rộng hơn, chính quyền Việt Nam lập Chi phái 1997 và dùng nó như công cụ để dìm chết Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) lập năm 1926.

Cơ sở kết luận chính quyền lập ra Chi phái 1997?

Ngày 14-09-1989 Ủy ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh ra quyết định số 88/QĐ–UB về việc “Đổi tên Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh thành Hội Đồng Chưởng Quản của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh.”

Nghĩa là Hội Đồng Chưởng Quản (HĐCQ) do Hội Thánh Cao Đài lập thành theo Đạo Lịnh 01 ngày 01-03-1979 đã bị khai tử để chuyển thành Hội Đồng Quản Lý. Sau đó chính quyền ra quyết định số 88/QĐ–UB để lập ra HĐCQ màn hai.

HĐCQ màn hai do chính quyền lập thành đã đi xin pháp nhân ngày 09-05-1997 để thành lập tổ chức tôn giáo mới (Chi phái 1997). Chi phái 1997 ra đời ngay trong Nội ô Tòa Thánh.

Chính quyền dùng Chi phái 1997 làm công cụ để hoán đổi ĐĐTKPĐ năm 1926.

Chính quyền cho phép Chi phái 1997 chiếm dụng toàn bộ danh hiệu và cơ ngơi của ĐĐTKPĐ lập năm 1926. Cho phép Chi phái 1997 để y các bảng hiệu trên các cơ sở tôn giáo không sửa cho đúng với danh hiệu trong hiến chương 1997 tại điều 01, theo đó, “Danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Cao Đài Tây Ninh, gọi tắt là Đạo Cao Đài Tây Ninh.”

Mục đích của việc để y nầy là đánh lừa người đạo và công luận.

Về mặt tín ngưỡng khi có Lễ thượng tượng hay An vị thánh tượng, chính quyền đều gây khó dễ như cho Chi phái 1997 đến gây sức ép theo quan điểm cứng rắn: “Không theo Chi phái 1997 nghĩa là chống chính quyền.”

Ngày 13-08-2014 ông Võ Văn

Đàm sanh năm 1956 ngụ tại nhà số 4/95 ấp Bàu Sen xã Hảo Đước, Châu Thành Tây Ninh tổ chức Lễ thượng tượng. Chính quyền xã mời lên, kêu gọi theo Chi phái 1997. Ông Đàm không chịu. Trưởng công an xã chỉ huy Chi phái 1997 và đối tượng quấy rối, tấn công người đạo, ném chất bẩn vào ngay nơi người đạo quí cúng.

Gần đây nhất là ngày 15-07-2015, tại nhà bà Nguyễn Thị Kim Thôi ấp An Quới, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Chính quyền, Chi phái 1997 và đối tượng gây rối đã phối hợp nhau đánh đập người đạo và lấy luôn thánh tượng thiên nhãn trên thiên bàn cùng với chuông mõ, sớ văn…

Người theo Đạo Cao Đài năm 1926 đã thu thập trên 700 người đạo (từ nhiều địa phương) ký tên gởi đến chính quyền các cấp trình bày nguyện vọng mở Đại Hội Nhơn Sanh (ĐHNS) tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 25-07-2015.

Ngày 05-5-2015 phái đoàn KNS đã đi gặp chính quyền trung ương như Ban Tôn giáo Trung ương; Mặt trận Tổ quốc Trung ương và chính quyền địa phương là Ủy ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Cả chính quyền trung ương và địa phương không có nơi nào ra văn bản giải thích cho người theo đạo thấy nó sai ở điểm nào. Không nơi nào ra văn bản cấm.

Ngày 08-05-2015 ông Nguyễn Thành Tám chưởng quản Chi phái 1997 đã ra Thông tri 01/90 HT-TT viết: “Hội đồng Chưởng quản là do chính Hội thánh lập thành. Các khoá Hội đồng Chưởng quản tiếp theo đều do Đại hội Hội thánh họp theo chu kỳ bầu ra, kế thừa các bậc chức sắc tiền nhiệm.”

Ngày 11-05-2015 ông Chưởng quản Nguyễn Thành Tám ký văn bản số 27/90-HT-VT, gửi đến “Lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo ngành chức năng các tỉnh, thành phố”, về việc “có nhóm người tự xưng Khối nhơn sanh mời dự Đại hội Nhơn sanh vào lúc 6g30 ngày 10/4 Ất Mùi (27-05-2015) tại Đại Đồng Xã, Tòa Thánh Tây Ninh.”.

Số 224 Trang 6

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Văn thư cho biết, “Sau khi nghe qua thư mời và thư trình bày của nhóm giả mạo tự xưng Khối nhơn sanh gửi thư mời và thư trình bày gửi lãnh đạo chính quyền các cấp, toàn hội đã khẳng định đây là nhóm giả danh, lừa mị, ngụy biện, vô căn cứ, có mưu đồ giục loạn, cần đặt ra ngoài vòng luật pháp Đạo, và biểu quyết thống nhất. Hội thánh ra Thông tri minh định về lập trường của Hội thánh lãnh đạo nền Đại Đạo xuyên suốt từ ngày hoằng khai đến nay và mãi mãi.

Hàng triệu Tín đồ, hàng vạn Chức việc, Chức sắc tu hành thuần túy, tuân y luật pháp Đạo và luật pháp Nhà nước, hành đạo theo phương châm ‘Nước Vinh Đạo Sáng’ rất bức xúc, phẫn nộ trước việc làm nghịch mạng, sai trái, cố tình bóp méo sự thật, vu khống, bôi bác Hội Thánh của nhóm người giả danh giục loạn nói trên.”. 

Trong văn bản số 27/90-HT-VT, ông Nguyễn Thành Tám có đến 2 lần dùng từ “giục loạn” và đi đến “Kính xin Lãnh đạo Chính quyền và Lãnh đạo Ngành chức năng tạo điều kiện giúp đỡ Chức sắc, Chức việc, Tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh an tâm tu hành thuần túy, thực hiện theo đường hướng hành đạo của Hội Thánh và tuân thủ theo đường lối chính sách của Đảng và của Nhà nước”. 

Đây là những cáo buộc đầy màu sắc hình sự; đặc biệt là điều 88 Bộ luật hình sự.

Ông Nguyễn Thành Tám cũng chính là người đã chiếm đoạt danh hiệu và cơ ngơi ĐĐTKPĐ rồi hô biến thành nạn nhân để kêu gọi chính quyền giúp đỡ. Kết quả, chính quyền đã hỗ trợ cho Chi phái 1997, ngang nhiên đánh đập và cướp tài sản công dân nên không hề trừng trị thủ phạm.

Báo Tây Ninh lập tức đáp ứng nên sẵn sàng bẻ cong sự thật để kết tội người về dự ĐHNS trước dư luận. Điển hình là bài báo: “Đại Hội” những kẻ giả mạo nhơn sanh của nhà báo Nguyễn Tấn Hùng ngày 29-05-1997: “Và như thế hành động tự tiện của họ về việc lôi kéo

nhau tụ tập gây rối dưới chiêu bài ĐHNS chẳng những là trái luật đạo mà còn vi phạm pháp luật Nhà nước. Cụ thể là họ đã có hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm hại đến một tổ chức tôn giáo hợp pháp. Thiết nghĩ hành vi đó rất đáng lên án một cách thích đáng,” bài viết trên báo Tây Ninh cho biết.

Ba vòng kim cô biến hóaChính quyền, Chi phái 1997 và

báo chí nhà nước (tỉnh Tây Ninh) đã liên kết nhau như ba vòng kim cô bóp chết ĐĐTKPĐ năm 1926.

Việc ông Trần Quang Thái Phó Chủ tịch UBND thị trấn Củ Chi dẫn đầu phái đoàn khoảng 25 người đến tư gia ông Quang cấm người đạo hội luận về thông báo 508 (đã áp chế và chụp mũ người đạo) cũng không nằm ngoài mục đích “kim cô” đó.

Điều đó cho thấy rằng, chính quyền vẫn sử dụng sự áp chế để “đối thoại” trong tôn giáo, thay vì là “sự thật và trao đổi công bình”. Hay giữa thái độ hòa hảo, mang tính xây dựng của đồng đạo Cao Đài 1926 là thái độ gây rối, đe dọa vật lý và pháp lý từ phía chính quyền, và Chi phái 1997.

Lý do của cách hành xử nêu trên “bắt nguồn từ sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ đối với các cộng đồng tôn giáo” như trong “Báo cáo của Báo cáo viên Đặc biệt  (của Liên Hiệp Quốc) về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng” của Heiner Bielefeldt từ 21 đến 31-07-2014 nhấn mạnh.

Báo cáo cũng cho biết, phương cách áp đặt độc đoán quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam chính là nằm ở “sự thiếu rõ ràng trong các quy định pháp lý có xu hướng tạo khả năng rộng rãi để điều chỉnh, giới hạn, hạn chế hoặc cấm việc thực thi quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vì lợi ích của ‘sự thống nhất quốc gia và trật tự công cộng’”.

Và “Như trong trường hợp của Phật giáo, các tín đồ Cao Đài bao gồm những người thuộc về Hội thánh Cao Đài do Chính phủ thiết lập, và những người nhất định thực

hành tôn giáo của họ một cách độc lập. Mối quan hệ giữa hai nhóm có vẻ căng thẳng. Trong khi tổ chức được công nhận chính thức của Cao Đài cáo buộc những nhóm bất đồng ý kiến có ‘tư tưởng chia rẽ’ và tạo ‘sự hỗn loạn’ trong nhân dân, các tín đồ Cao Đài độc lập thấy tính nguyên bản trong truyền thống của họ bị đe dọa bởi sự can thiệp của Chính phủ mà theo họ cáo buộc, đã dẫn tới áp đặt một số thay đổi với đạo Cao Đài.”

Do đó, bản Thông báo 508 của chính quyền thị trấn Củ Chi (Tp. Hồ Chí Minh) tiếp tục lột tả bản chất “phi tự do tín ngưỡng, tôn giáo” tại Việt Nam, khác hẳn với tuyên bố trịch trượng hằng năm về tôn giáo của chính quyền, rằng, “Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và đảm bảo.”

“Chính phủ (Việt Nam) cần đảm bảo hoạt động tự do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và tạo điều kiện cho họ phát triển theo cách mà bản thân họ thấy phù hợp. Tình hình hiện tại của các nhóm Cao Đài độc lập chắc chắn là không phù hợp với quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, kể từ khi các cộng đồng thiếu cơ sở vật chất thích hợp cho việc thờ phụng và giảng dạy và được cho là phải đối mặt với áp lực để tham gia các tổ chức chính thức.” (Báo cáo của Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng, Heiner Bielefeldt)

* Ông Trần Văn Tân là trưởng ban thông tin của Khối Nhơn Sanh (khác với Khối Nhơn Sanh của các chánh trị tự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lân, Nguyễn Bạch Phụng, thành viên Hội đồng Liên tôn VN).

TỰ DO NGÔN LUẬNBán nguyệt san ra ngày 1

và 15 mỗi thángIN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:[email protected]

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

Số 224 Trang 7

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

http:// www.tdngonluan.com www.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.comhttp://www.viet.no

http://khoi8406vn.blogspot.com

Xin tiếp tay phổ biến cho Đồng bào Việt Nam, nhất là tại quốc nội. Chúng tôi chân

thành cảm ơn

Dù gặp Tổng thống Mỹ về, Bản chất Việt cộng

chẳng hề đồi thay !

Là một tổ chức được thành lập để không ngừng làm cách mạng, đảng Cộng sản Trung Quốc mỉa mai thay lại sợ điều đó. Nhưng cách mạng lại đang được tiến hành ở Trung Quốc, và đây là xu thế không thể đảo ngược.

Một trong những mâu thuẫn chủ yếu của chế độ hiện nay là mối quan hệ giữa hệ tư tưởng nền tảng và thực tế xã hội. Học sinh Trung Quốc phải tham gia vào những bài học chính trị về tư tưởng Mác-xít (hoặc ít nhất là sự vận dụng tư tưởng Mác-xít của đảng Cộng sản Trung Quốc), Tư tưởng Mao Trạch Đông, học thuyết của Đặng Tiểu Bình và của những lãnh đạo khác của đảng.

Thực tế, tầng lớp giàu có và nắm quyền ở Trung Quốc được đảm bảo đặc quyền khi duy trì hệ tư tưởng của Mác và Mao Trạch Đông. Đó là một dạng bảo hiểm chính trị cùng với đảng Cộng sản, và là điểm tựa cho tính chính thống của chế độ.

Nhưng với người nghèo –chiếm khoảng 60% trong 1,4 tỉ dân của Trung Quốc– học thuyết của đảng mang lại những lợi ích hết sức hạn chế. Và khoảng cách giàu nghèo sẽ luôn tăng khi những tỉ phú tiếp tục tước đoạt vô độ của cải của xã hội, trong khi người nghèo bị ngăn cản

tiến lên những bậc thang xã hội – và đây là một cấu trúc bất biến trong gần 20 năm qua.

Theo học thuyết Mác-xít chính thống, đảng Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã biến chất thành giai cấp tư sản bóc lột, vốn là mục tiêu chính của cách mạng vô sản. Người dân ở dưới đáy xã hội giờ đây có quyền lật đổ đảng Cộng sản, tổ chức chuyên chế tệ hại nhất trong lịch sử.

Trong khi học thuyết tư tưởng của đảng hiện có tác dụng như một con dao hai lưỡi, Trung ương đảng sẽ không bao giờ từ bỏ nó. Cựu lãnh đảo đảng Đặng Tiểu Bình mở cửa nền kinh tế và tiến hành những cải cách khác nhưng ông ta chưa bao giờ chối bỏ chủ nghĩa Mác và Tư tưởng Mao Trạch Đông.

Mong muốn có một lãnh đạo cách mạng

Người dân Trung Quốc muốn một cuộc cách mạng nhưng không phải kiểu cách mạng của chủ nghĩa Mác. Họ đã từ bỏ vũ khí lý luận của chủ nghĩa Mác, và thay thế bằng những giá trị dân chủ phổ quát.

Một số tìm kiếm cách mạng dân chủ toàn diện: tự do ngôn luận, tự do hội họp phải được công nhận ngay lập tức. Những người khác hi vọng lật đổ đảng Cộng sản, cho phép mọi người tiếp cận bình đẳng với của cải, và muốn giữ hiến pháp của đảng dưới danh nghĩa duy trì “sự ổn định xã hội”. Nhóm sau thể hiện nguyện vọng với khẩu hiệu “cách mạng dân chủ”, nhưng gần như chắc chắn họ là những người có liên hệ với chế độ.

Mặc dù ngày càng có nhiều học thuyết cách mạng và nhiều nhóm quần chúng có tiềm năng tham gia –chỉ cần lướt qua Twitter và Weibo là đã có thể tìm thấy nhiều bài viết bày tỏ mong muốn cách mạng– vấn đề còn lại là chưa có một tổ chức hay một lãnh tụ nào có thể lãnh đạo cuộc cách mạng này. Vì nếu tra cứu lịch sử thành lập của đảng Cộng

sản thì có thể thấy rằng đảng có sự nhạy cảm một cách cực đoan với các tổ chức.

“Theo dõi, giải tán, bắt giữ” – đó là chính sách mà đảng Cộng sản kiềm chế bất kỳ tổ chức nào ở Trung Quốc. Để đạt được mục đích này, những kẻ báo tin được cài vào những câu lạc bộ sách, các tổ chức phi lợi nhuận, trường đại học; các tổ chức dân sự và tổ chức hỗ trợ phi chính phủ của nước ngoài, ví dụ tổ chức Sáng kiến Mở rộng Hiến pháp và Thư viện Nông thôn Trung Quốc, đã bị đóng cửa; và các nhà hoạt động –thậm chí còn ít được biết đến như Hứa Chí Vĩnh, Ngô Cam, và những người khác– bị bắt giữ, và bị hạn chế tự do sau khi được phóng thích.

Không thể ngăn cảnBất chấp mọi kiểm duyệt nghiêm

ngặt, đảng CS vẫn thất bại trong việc ngăn chặn một nhà lãnh đạo chính trị khởi xướng một cuộc cách mạng trong quần chúng nhân dân.

Cựu quan chức Bạc Hi Lai từng là một nhân vật nổi tiếng của đại chúng khi ông ta điều hành Trùng Khánh từ năm 2007 đến 2012. Ông Bạc tuyên truyền tư tưởng cánh tả của Mao Trạch Đông và khởi xướng những chiến dịch theo phong cách của Cách mạng Văn hóa như “hát những ca khúc đỏ và đập tan các băng đảng đen”, nhất thời chấn hưng tinh thần cộng sản bị trì trệ trong quần chúng nhân dân ở Trùng Khánh. Nhiều đảng viên và người dân bị thuyết phục bởi tài hùng biện của ông Bạc và tin rằng ông ta là vị lãnh đạo sẽ bảo vệ lợi ích của họ.

Bởi vì đảng Cộng sản không chấp nhận đấu tranh nội bộ, nên khi danh tiếng của ông Bạc đang đi lên, lãnh đạo Tập Cận Bình đã thanh trừng ông Bạc vì có “hành vi vô tổ chức” và tham nhũng.

Nhưng ông Tập không thể dập tắt hi vọng này một cách triệt để. Quần chúng nhân dân đã trải qua cảm giác đi theo một nhà lãnh đạo nổi tiếng và có sức hút, và phong trào cách mạng này đã sẵn sàng xuất hiện tại bất cứ thời điểm nào.

Cuối triều Thanh

Số 224 Trang 8

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Kể từ khi giải Nobel Hòa bình được trao cho nhà bất đồng chính kiến người Trung Quốc Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) năm 2010, đảng Cộng sản khước từ triệt để mọi cải cách, và Bắc Kinh đặc biệt nhạy cảm với bất cứ ám chỉ nào liên quan đến “cách mạng”.

Ấn phẩm ngày 14 tháng 6 năm nay của Nhân dân Nhật báo có 5 bài viết nhấn mạnh mối nguy hại sâu sắc của “những cuộc cách mạng màu” –là những phong trào dẫn đến sự lật đổ những chính phủ áp bức nhân dân– và cho rằng hệ thống dân chủ không thể cưỡng bức áp dụng vào Trung Quốc. Các bài viết nói rằng Trung Quốc phải cảnh giác với sự xâm nhập và lan rộng của “cách mạng màu”, của các lực lượng phương Tây “thù địch” chưa bao giờ từ bỏ ý định phá hoại và lật đổ đảng Cộng sản Trung Quốc, và Trung Quốc phải xóa bỏ niềm tin “mê tín” vào chế độ phương Tây và Tây phương hóa.

Chính quyền Trung Quốc vẫn duy trì chiến lược sử dụng tiền để mua và tăng cường “ổn định xã hội” nhưng nó sẽ không hiệu quả khi kinh tế Trung Quốc bị trì trệ và thất nghiệp đang trở thành một vấn đề nhức nhối của xã hội. Thực tế, cụm từ “cách mạng” bắt đầu xuất hiện trên mạng Internet của Trung Quốc với tần suất tăng dần.

Một xu hướng cách mạng đã bắt đầu. Tình hình vẫn chưa tiến xa vì sự cảnh giác cao độ của Đảng trong việc theo dõi và đàn áp những ý kiến bất đồng

Đảng Cộng sản Trung Quốc nên nhún nhường để bảo đảm sự an toàn và nếu họ suy nghĩ cho lợi ích tương lai của đất nước. Nếu không, đảng sẽ đối mặt với hai cuộc cách mạng có khả năng xảy ra: một cuộc cách mạng màu được lãnh đạo bởi tầng lớp trung lưu và trí thức lãnh đạo, hoặc một cuộc cách mạng bạo lực, bạo động vô sản với nòng cốt là tầng lớp nhân dân nghèo.

Liệu Trung Quốc có còn cơ hội để cải thiện? Có lẽ là không. Tình hình hiện tại sẽ phát triển nhanh chóng và diễn biến tương tự như

những năm cuối của triều Thanh khi cách mạng đã lật đổ chế độ phong kiến cai trị.

Trước những diễn biến tiếp theoChế độ sụp đổ khi có đảo chính,

khủng hoảng tài chính, một xung đột nghiêm trọng giữa quan chức và người dân, bạo lực thường xuyên, phản kháng gây chết người hoặc một cuộc xâm lăng. Đôi khi những nhân tố này xảy ra cùng một lúc.

Nhân tố dễ thúc đẩy cách mạng nhất ở Trung Quốc là khủng hoảng tài chính. Trung Quốc đã ban hành một vài chính sách tài chính để cứu vãn thị trường chứng khoán, nhưng hiệu quả từ những chính sách này vẫn cần được xem xét. Tình trạng nền kinh tế thế giới là cực kỳ khó đoán, và có thể gây ảnh hưởng lớn đến Trung Quốc.

Trong khi đó, xu thế cách mạng vẫn tiếp tục – chậm rãi nhưng chắc chắn. Xã hội Trung Quốc đang bị xói mòn, vì nhà nước sử dụng bừa bãi những nguồn lực xã hội, tạo ra mâu thuẫn giữa các tầng lớp, và suy đồi đạo đức. Theo thời gian, cách mạng trong nhân dân lớn dần lên, và chờ cơ hội để bùng phát.

Ai là người chịu trách nhiệm cho tình trạng này? Tất nhiên là đảng CS Trung Quốc. Trật tự xã hội bình thường bị đảo lộn khi đảng CS xóa bỏ sự tư hữu, chuyển từ tư hữu sang công hữu. Sử dụng tài nguyên quốc gia để thúc đẩy công hữu, những gia đình “đỏ” và các quan chức nhanh chóng trở thành những triệu phú và tỉ phú, trong khi Trung Quốc trở thành quốc gia có nhiều người sống trong nghèo khổ nhất và cũng là quốc gia có nhiều người giàu có dựa trên bóc lột người nghèo nhất.

Lịch sử của đảng CS Trung Quốc là những năm tháng nô dịch và lừa dối nhân dân, cũng như đàn áp và tiêu diệt những ý kiến bất đồng. Đảng không muốn bất cứ ai dùng bạo lực cách mạng để lật đổ nó, cho dù học thuyết của đảng CS là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng

bạo lực cách mạng. Và bất chấp Đảng mong muốn như thế nào, cách mạng ở Trung Quốc đã bắt đầu.

DK Lam dịchhttp://vietdaikynguyen.com

Sự thật cho thấy Trung Quốc (TQ) là môt nước phát triển nhanh nhất trên thế giới trong vòng hai thập kỷ vừa qua, trên nhiều lãnh vực, đặc biệt về quân sự và kinh tế… nhưng rất nhiều người đã ngạc nhiên không ít, khi nhìn hình ảnh của Chủ tịch TQ, Tập Cận Bình, được tải trên hệ thống Internet trong thời gian qua: hầu như thiếu vắng nụ cười hồn nhiên trong những ngày đầu tiên Tập Cận Bình nhận chức Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kiêm Tổng bí thư đảng CSTQ, kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương vào cuối năm 2012 đến tháng 3-2013.

Tập Cận Bình đã đánh mất nụ cười trên gương mặt và thay vào đó bằng một nỗi lo âu, gần như thường trực trong những ngày tháng sau nầy, hoặc thỉnh thoảng mới có được một nụ cười, nhưng rất gượng gạo trong xã giao quốc tế.

Tôi đoán Tập Cận Bình đang lo lắng nhiều về hai vấn đề hệ trọng sau đây:

1- Lo lắng về việc thanh lọc hàng ngũ đảng viên CSTQ bằng kế hoạch bài trừ tham nhũng “Đả Hổ Diệt Ruồi” trong chánh quyền cũng như trong quân đội TQ không mang lại kết quả mong muốn.  2- Lo lắng việc thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” không thành công.

Vài nét về kế hoạch “Đả hổ diệt ruồi”

Vấn đề bài trừ tham nhũng trong nội bộ ĐCSTQ được mô tả là thiên nan, vạn nan. Tuy nhiên, trước khi nhận chức Chủ tịch nước kiêm Tổng bí thư ĐCSTQ, Tập Cận Bình đã tìm hiểu rõ việc mua quan bán chức, tham ô nhũng lạm một cách lộ liễu, đã và đang lan tràn trong quân đội và cả trong chánh quyền Nhà nước Cộng sản TQ từ mấy thập kỷ qua. Và giờ đây, với tư cách người lãnh đạo TQ, Tập Cận Bình không thể ngồi yên nhìn cán bộ CS làm giàu trên xương máu của nhân dân, trong khi nhân dân TQ sống trong cảnh lầm than, nghèo đói và đã đánh mất dần niềm tin nơi đảng và nhà nước CSTQ.

Số 224 Trang 9

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Tập Cận Bình nhận thấy “tham nhũng” là mầm mống tạo bất công xã hội, là ung nhọt làm băng hoại hệ thống đảng CS, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước Trung Hoa, nên Tập Cận Bình quyết tâm bài trừ tệ nạn nầy bằng kế hoạch “Đả hổ Diệt ruồi” và giao cho Vương Kỳ Sơn, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị, kiêm Thư ký Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương TQ, lãnh trách nhiệm thi hành, với sự yểm trợ của tướng Lưu Quân (con của cố Chủ tịch nước TQ Lưu Thiếu Kỳ), được cử làm Trưởng ban chống Tham nhũng trong Quân đội Nhân dân Giải phóng TQ; đồng thời, Tập Cận Bình tuyên bố với báo chí: “Tôi đã không đếm xỉa cả chuyện sống chết, cũng như danh tiếng của bản thân, trong cuộc chiến chống tham nhũng”

Việc bài trừ tham nhũng được tiến hành trong vòng 20 tháng, kể từ ngày Tập Cận Bình nhậm chức Chủ tịch Nhà nước TQ; bộ phận điều tra đặt dưới quyền của Vương Kỳ Sơn, đã truy bắt để điều tra trên 250.000 tham quan, trong số có 39 quan chức từ cấp thứ trưởng trở lên; trên 30 tướng lãnh và hàng ngàn đảng viên giữ các chức vụ bí thư thành ủy, thị ủy, tỉnh ủy, ủy viên trung ương đảng, ủy viên thường vụ bộ chính trị, hoặc các đảng viên được giao phó giữ chức vụ Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước.  Chiến dịch “Đả hổ Diệt ruồi” còn đang tiếp diễn. Danh sách 100 cán bộ cao cấp bị qui kết tội tham nhũng từ vài chục triệu đôla Mỹ trở lên, đã đào thoát ra nước ngoài, phần lớn đến Mỹ và Canada, đã được giao cho Cảnh sát Quốc tế, Interpol phát lệnh truy nã. Bắc Kinh ước tính từ giữa những năm 1990, có 16.00018.000 quan chức và nhân viên của các cơ quan nhà nước đã bỏ trốn khỏi TQ hoặc ẩn mình với khối tài sản tham ô có tổng giá trị hơn 800 tỷ nhân dân tệ (135 tỷ USD). Hiện nay, một số cán bộ cao cấp của TQ, có hàng trăm triệu USD trong tay, đang sống chui nhủi nhiều nơi trên thế giới. Tập Cận Bình quyết không để cho các cán bộ đảng viên cao cấp bị kết tội tham nhũng và kinh doanh phi pháp, được sống yên thân ở nước ngoài, nên đã công bố tiếp một chiến dịch truy bắt tham nhũng xuyên quốc gia mang tên "Lưới trời" với sự hỗ trợ của hệ thống tổ chức Cảnh sát Quốc tế (Interpol) với kết quả đã đưa khoảng 700 người trở về nước, xin chịu hình phạt nhẹ hoặc xin hưởng khoan hồng.

Và với quyết tâm chận đứng tệ nạn tham nhũng, Tập Cận Bình đưa

ra một biện pháp gắt gao hơn và chọn thành phố Thượng Hải (TQ) làm thí điểm “cấm các thân nhân trực hệ, cha mẹ, con cái và cả vợ chồng dâu rể của cán bộ lãnh đạo thành phố, kinh doanh bất cứ hình thức nào”. Và biện pháp nầy sẽ được áp dụng cho toàn TQ trong tương lai.  Xã hội TQ đang ngấm ngầm chao đảo, nhất là thành phần đảng viên CS cao cấp tỏ rõ nỗi lo âu trước viễn ảnh bị bắt về tội tham nhũng trong chiến dịch “Đả hổ Diệt ruồi” và “Lưới trời” do Tập Cận Bình chủ xướng, đã và đang tiếp diễn đến năm 2017 và chắc chắn sẽ còn hàng ngàn cán bộ đảng viên cao cấp, tướng lãnh và doanh nhân triệu phú, hoặc tỷ phú lần lượt vào tù, hoặc sanh chứng thần kinh điên loạn dẫn đến tự tử, hoặc trốn ra nước ngoài, sống đời chui nhủi. Trong số những người nầy có bà Yang Xiuzhhu, cựu Phó Chủ tịch thành phố Ôn Châu tỉnh Chiết Giang, đã trốn ra khỏi TQ từ năm 2003, qua ngả Tân Gia Ba và đã thay đổi tên họ tại nước nầy, trước khi đến Hoa Kỳ và vừa xin tị nạn chánh trị tại tiểu bang New York.

Thành phần cán bộ cao cấp của ĐCSTQ tiếp tục cao bay xa chạy khắp nơi như ong vỡ tổ, trong số đó có tên Yin Wen Sheng, 47 tuổi, Cục trưởng Điện lực thành phố Đông Quản, tỉnh Quảng Đông, bị cáo buộc nhận hối lộ nhiều lần, lên đến 18 triệu nhân dân tệ, đào thoát qua biên giới VN; tên nầy đưa hối lộ 22 tỉ đồng, nhưng bị công an Việt Nam từ chối và nhất quyết bắt giữ, để giao trả về phía TQ vào ngày 26-6-2015; trong khi Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương thuộc Bộ Chính trị cho lệnh bắt tên Hề Hiểu Minh, Phó Chánh án Tòa án Tối cao TQ và tên Tiêu Thiên, Phó Chủ tịch Ủy ban Thể thao TQ để điều tra về tội tham nhũng.

Vài nét về việt thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa

Bốn chữ “Giấc mơ Trung Hoa”, được đề cập đến từ năm 1949, sau khi CS TQ giành quyền kiểm soát hầu hết đất nước Trung Hoa và đang đà chiến thắng, Mao Trạch Đông kỳ vọng TQ trở thành cường quốc số 1 trên thế giới, kể cả việc chấp nhận chiến tranh dù phải hy sinh đến nửa dân số TQ. Giấc mơ nầy được diễn dịch là TQ sẽ trở thành nước Thiên tử và các nước còn lại trên thế giới chỉ là các nước chư hầu của TQ và giấc mơ nầy đã được các thành phần lãnh đạo ĐCSTQ tích cực nhắc đi nhắc lại qua nhiều thế hệ, nhưng đến thế hệ của Tập Cận Bình thì “Giấc mơ Trung Hoa” được thể hiện rõ nét hơn với

quyết tâm biến TQ thành nước siêu cường số 1 toàn cầu theo chủ trương đường lối Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Tham vọng của Tập Cận Bình là biến thế giới thành một Thiên đường đỏ dưới quyền thống trị của TQ.  Từ “Giấc mơ Trung Hoa”, Tập Cận Bình phác họa một chương trình phát triển quân sự, kinh tế, ngoại giao, đồng thời bành trướng văn hóa Trung Hoa đến khắp mọi nơi trên thế giới, và kể cả việc dùng quân sự xâm lăng lãnh thổ và biển đảo của các quốc gia khác.

Tính đến năm 2015, TQ chỉ mới phát triển được sức mạnh về kinh tế và quân sự, còn các mặt khác dường như không đáng kể; tuy nhiên, để có thể biến Giấc mơ Trung Hoa thành hiện thực “TQ là một nước bá chủ hoàn cầu”, điều tiên quyết là TQ phải chiếm vùng lãnh hải chiến lược Biển Đông, để ngoài việc khai thác tài nguyên hải sản và khoán sản, TQ sẽ xây dựng một căn cứ hải quân hùng mạnh nhất thế giới tại Biển Đông, nơi tập trung an toàn cho đủ loại tàu chiến: tuần dương hạm, khu trục hạm, hộ tống hạm, tiềm thủy đỉnh thuộc hạm đội Nam Hải, cả hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, tàu phá băng Tuyết Long và kể cả tiềm thủy đỉnh hạt nhân đang thực hiện.

Trong ý đồ vừa kể, TQ đã ngang ngược tuyên bố chủ quyền một vùng lãnh hải rộng lớn, chiếm trên 80% lãnh hải Biển Đông, theo đường ranh 9 đoạn hình lưỡi bò do TQ ngụy tạo bằng chứng lịch sử truyền thống mơ hồ và đã gặp sự phản đối mãnh liệt của các nước quanh Biển Đông gồm Philippin, VN, Malaysia, Đài Loan, Brunei… liên quan phần lãnh hải địa phương của các nước nầy; đồng thời, bị nhiều quốc gia trên thế giới lên án gắt gao về việc TQ vi phạm Công ước của LHQ năm 1982 về Luật Biển, qui định vùng lãnh hải quốc tế, dành cho tàu bè các nước tự do lưu thông, hoặc chuyển tải hàng hoá.  Việc TQ quyết chiếm Biển Đông đã thể hiện rõ nét trong thời gian qua, với một chuỗi diễn tiến: xâm chiếm Hoàng Sa (1974) và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa (1988) của Việt Nam; xâm chiếm đảo Scarborough của Phi Luật Tân, và TQ đang chiếm và cải tạo 7 bãi đá thành đảo nhân tạo để thiết lập tiền đồn quân sự.

TQ dự trù trong thập niên tới, khi hải quân TQ đủ mạnh vào hàng số 1 trên thế giới thì tàu chiến của TQ sẽ bung ra, hoạt động trên khắp các đại dương và đặc biệt triển khai đến vùng Bắc Băng Dương và Nam Băng

Số 224 Trang 10

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Dương để khai thác đủ loại tài nguyên, hải sản, dầu khí và khoáng sản; đồng thời yểm trợ các đoàn thuyền chài của các hợp tác xã ngư nghiệp Nhà nước TQ đánh bắt hải sản ở tận các vùng biển xa xôi…

Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ có kế hoạch đưa người dân Trung Hoa đi khắp thế giới, khai thác đủ mọi ngành nghề, kể cả đánh bắt hải sản ở các vùng biển Tây Phi châu, khiến tổ chức Hòa Bình Xanh ngày 25-5-2015, cáo buộc các công ty TQ đánh bắt hải sản trái phép tại các vùng biển thuộc các nước Gambia, Guinea, Guinea-Bisseau, Mauritania, Senegal, Sierra Leone, với số tàu lên đến 462 chiếc.

Cũng từ “Giác mơ Trung Hoa”, TQ đưa dân Trung Hoa đến Phi Châu, khai thác vàng lậu ở vùng rừng núi quốc gia Ghana, hơn 100 người Hoa đã bị chánh quyền Ghana bắt và chờ thủ tục trục xuất.

Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ đã vươn cánh tay khắp Á Châu và xa hơn nữa đến các nước Nam và Trung Mỹ Châu:

Năm 2015, Thủ tướng Lý Khắc Cường đề nghị “Con Đường Tơ Lụa” mới trên biển của thế kỷ 21 của TQ với 40 tỉ USD đầu tư khu vực Đông Nam Á, và Lý Khắc Cường cũng đã đến các nước Brazil, Peru, Chile, Colombia ở Châu Mỹ La Tinh, để ký những thỏa thuận mậu dịch và xây dựng cơ sở hạ tầng lên đến hàng 100 tỉ USD, trong đó có chương trình nghiên cứu tuyến đường sắt xuyên lục địa, từ bờ biển Đại Tây Dương (Peru) đến bờ biển Thái Bình Dương (Brazil) với vốn đầu tư là 30 tỉ USD.  Cũng từ “Giấc mơ TH” TQ đã giao dịch và ký hợp đồng thực hiện những các kênh đào nối liền hai đại dương trên phần đất thuộc các nước:

Tại Nicaragua, TQ đã ký thỏa thuận đào con kinh dài 286 km, nối liền cảng Brito bờ biển Caribean / Đại Tây Dương, xuyên qua lãnh thổ Nica-ragua, đến cảng Bluefields bờ Thái Bình Dương, kinh phí dự trù 40 tỉ USD, thời gian dự trù hoàn thành là 5 năm, công trình dự trù khởi hành năm 2016, nhưng đề án nầy đang bị dân chúng Nicaragua biểu tình phản đối tại thủ đô Managua, với khẩu hiệu “Tống cổ TQ”.

Tại Costa Rica, ngày 3-6-2013, ở thủ đôi San Jose, Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Laura Chinchilla chứng kiến ký thỏa thuận tân trang nhà máy lọc dầu ở Puerto Limon (bờ biển Caribean, với khoản tài trợ 1,3 tỉ USD từ phía TQ để nâng công suất từ 16.000 thùng lên 65.000 thùng/ ngày; nhưng bất ngờ Costa Rica

quyết định ngưng dự án nầy, vì phát hiện TQ vi phạm giao kèo.

Tại Honduras, công ty Sinohydro (Thủy Điện TQ) đề nghị xây dựng đập thủy điện cho Honduras, với kinh phí 350 triệu, việc thương thảo đang tiến hành.

Tại Colombia, TQ và Colombia đang thương lượng dự án mở rộng một con sông của từ vịnh Solano của Thái Bình Dương đến Acandi của Đại Tây Dương.

Tại Mexico, TQ đề nghị công trình đào một kênh đào tại eo đất Tehuan-tepec, việc nầy đang còn thảo luận.

Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ ký liên minh quân sự với nước Ban-gladesh, TQ hứa sẽ cung cấp cho Bangladesh hai tàu ngầm và đã thương lượng nước nầy để xây dựng một cảng nước sâu với kinh phí lên đến 9 tỉ USD, dành cho mục tiêu dân sự lẫn quân sự và đặt tên cảng nầy là Chittagong. TQ cũng thương lượng với nước Sri Lanka để xây dựng một cảng nước sâu tại Ham-bantota với kinh phí lên đến 1 triệu USD.  Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ đã ký bản ghi nhớ với Thái Lan tại Quảng Châu (TQ). Thái Lan hứa để cho TQ đào một con kinh dài 100 km, ở điểm hẹp nhất trên bán đảo Mã Lai, thông từ biển Andaman (Ấn Độ Dương) đến vịnh Thái Lan (Biển Đông-Thái Bình Dương) với kinh phí dự trù 28 tỉ USD thời hạn 10 năm, hoặc 36 tỉ USD thời hạn 7 năm, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có thỏa thuận chánh thức.   Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ khuyến khích các tổ chức người Hoa thành lập các khu phố Tàu (China towns) nhiều nơi trên thế giới để khai thác thương mãi, đặc biệt là ngành nhà hàng và mở cơ sở kinh doanh tiêu thụ hàng hóa xuất xứ từ TQ; đồng thời TQ yểm trợ kinh phí thành lập trên 300 viện Khổng Tử tại các trường đại học trên 100 quốc gia, để phổ biến văn hóa…

Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa” TQ đã mua nhiều hãng xưởng, công ty ở ngoại quốc, đồng thời khai thác yếu tố nhân công rẻ mạt ở TQ để sản xuất đủ loại hàng hoá với ý đồ gian dối, hàng giả mạo, kém chất lượng (dỏm hoặc độc hại) nhưng với giá thành rẻ, khai thác yếu tố tâm lý đa số dân nghèo để cạnh tranh với các mặt hàng ngoại quốc trên khắp thế giới.

Cũng từ “Giấc mơ Trung Hoa” TQ âm mưu thôn tính Việt Nam bằng kế sách tằm ăn dâu và đã khuyến dụ thành phần lãnh đạo đảng CSVN ký thỏa hiệp tại Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990, chấp thuận sát

nhập nước Việt Nam vào TQ, với danh xưng Đặc khu Tự trị, thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh vào năm 2020.

* * *Xã hội TQ đang chao đảo bởi kế

hoạch bài trừ tham nhũng “Đả hổ Diệt ruồi” và “Lưới trời” do Chủ tịch TQ Tập Cận Bình chủ trương, khiến nền kinh tế của TQ có dấu hiệu suy giảm, mọi sinh hoạt ngành nghề chậm lại …trong khi một số đông cán bộ đảng viên cao cấp ôm tiền, hàng tỉ đôla Mỹ, trốn chạy ra nước ngoài và một số khác bị bắt. Cá nhân tôi thầm khâm phục Tập Cận Bình một lãnh đạo cao cấp CS TQ đã dám làm một việc mà các Tổng bí thư kiêm Chủ tịch TQ tiền nhiệm như Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào không dám làm. Đó là việc thanh lọc hàng ngũ đảng viên CS và thẳng tay truy bắt các đảng viên cao cấp thuộc loại có “miễn tử kim bài” bằng kế hoạch bài trừ tham nhũng “Đả hổ Diệt ruồi”, và chấp nhận mọi hậu quả trong việc “bứt dây tham nhũng động rừng tham nhũng”. Hầu hết số đảng viên CS bị bắt về tội tham nhũng đều khai “không có một đảng viên CS nào là trong sạch”, và nếu kế hoạch “Đả hổ Diệt ruồi” của Tập Cận Bình thành công mĩ mãn thì chế độ CS TQ mặc nhiên tan rã.  Nhưng tôi lại không hoan hô Tập Cận Bình trong việc tích cực thực hiện “Giấc Mơ Trung Hoa” bất chấp mọi thủ đoạn, chà đạp tình hữu nghị với các nước láng giềng, ngang ngược xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của họ, nhất là gian dối trong thương trường, làm hàng dởm, thuốc giả bán khắp thế giới mà chẳng hề quan tâm đến sinh mạng con người; và nhất là bất chấp cả luật pháp quốc tế với giọng điệu cố lì, ngang ngược, tiền hậu bất nhất, nói một đường làm một nẻo, miễn sao TQ đạt được vị trí siêu cường số 1 thế giới.

Theo sự nhận xét của tôi, TQ đã vì lòng tham không đáy và bản chất bá quyền ngang ngược, mà vô tình tạo cho mình một thế đứng cô đơn, bị các nước láng giềng thù ghét, chống đối và bị hầu hết các nước trên thế giới lên án gắt gao về hành vi vi phạm luật pháp quốc tế.

TQ đã vô hình chung đẩy các nước láng giềng của mình ngã về phía Hoa Kỳ và các nước đồng minh với Hoa Kỳ. Tất cả các nước nầy sẽ tập hợp lại thành một khối, bao vây TQ, chuẩn bị dạy cho TQ bài học “Đừng bao giờ sử dụng luật rừng giữa thời đại văn minh nầy”, vào thời điểm cuối năm 2015, sau khi có phán

Số 224 Trang 11

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế tại La Haye (Hà Lan), rằng “Lời tuyên bố chủ quyền trên 80% vùng lãnh Biển Đông của TQ là bất hợp pháp”. Chừng đó, Hoa Kỳ và các nước liên quan đến việc tranh chấp Biển Đông với TQ, sẽ lần lượt tiến hành các biện pháp sau đây:

- Giải pháp chính trị: Khối quốc gia vừa kể sẽ yêu cầu TQ thu lại lời tuyên bố chủ quyền Biển Đông theo hình lưỡi bò do TQ tự biên tự diễn, nguỵ tạo lịch sử.

- Biện pháp cấm vận: Nếu TQ không thực hiện điều 1, cộng đồng quốc tế sẽ đưa ra một biện pháp trừng phạt bằng cách phong tỏa các tuyến đường chuyển vận nhiên liệu và nguyên liệu từ các quốc gia khác hướng về TQ, đồng thời khuyến cáo các hãng xưởng và công ty ngoại quốc lên kế koạch rời khỏi TQ, chuyển về Mỹ hoặc các nước khác.

- Giải pháp quân sự: Nếu giải pháp 1 và 2 không mang lại kết quả, thì giải pháp quân sự ắt phải đến, và theo tôi nghĩ, Hoa Kỳ sẽ giao nhiệm vụ nầy cho vị Tư lệnh Thái Bình Dương để ông chỉ huy, điều động Hạm đội 7 gồm hai biên đội, với đầy đủ cấp số, gồm hai Hàng không Mẫu hạm cùng chiến hạm và tiềm thủy đỉnh; rải từ eo biển Đài Loan bọc dài xuống đến quần đảo Trường Sa; đồng thời ra lệnh cho các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ đặt tại nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á, phối hợp với lực lượng quân sự của các nước đồng minh Nhật Bản, Phi luật Tân, Malaysia, VN, Indonesia, Singapore, Australia, New Zealand, và cả Ấn Độ, sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Hoa Kỳ cũng nên ra lệnh cho Hạm đội 6 đang hoạt động tại vùng biển Địa Trung Hải, lên kế hoạch ứng chiến, sẵn sàng tăng cường cho Hạm đội 7.. Để giải quyết vấn đế TQ xâm chiếm bất hợp pháp Biển Đông, tôi trình bày đầy đủ ba giai đoạn chiến lược như trên, nhưng kỳ thực đối tình hình chính trị và xã hội hiện nay tại TQ, Hoa Kỳ và các nước đồng minh của Hoa Kỳ chỉ cần áp dụng biện pháp phong toả các nguồn cung cấp nhiên liệu và nguyên liệu từ các nơi đến TQ, sẽ khiến cho các hãng xưởng tại TQ rơi vào tê liệt; các công ty ngoại quốc, phần đông là hãng xưởng của Hoa Kỳ phải lên kế hoạch sớm rút ra khỏi TQ. Chừng đó, khắp nơi sẽ nhìn thấy chứng khoản của TQ tụt dốc không phanh; xã hội TQ rơi vào hỗn loạn, dân chúng xôn xao, trong khi hàng ngũ đảng viên CSTQ âm thầm phân rã vì kế hoạch “Đả hổ Diệt ruồi”; rồi nhân dân TQ, nhất là

các dân tộc Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Mông Cổ, Hán-Quảng Tây, sẽ phối hợp với dâng chúng Hồng Kông, Ma Cau, Đài Loan đồng loạt nổi dậy xoá sổ chế độ CS TQ.  Viễn ảnh sụp đổ chế độ CSTQ diễn biến khá rõ ràng, bắt nguồn từ kế hoạch “Đả hổ Diệt ruồi” của Tập Cận Bình, khiến cho xã hội TQ phần nào chao đảo, rối loạn, toàn bộ đảng viên CS TQ rơi vào tình trạng xuống tinh thần, cảm thấy rã rời, lo âu sầu muộn; một số đông chạy trốn, một số đông bị bắt; vì thực tế, không có một đảng viên CS nào là không tham nhũng (theo lời khai của các tên tham nhũng đã bị bắt); và nguyên nhân thứ hai là do tham vọng bá chủ hoàn cầu, phát sanh từ “Giấc mơ Trung Hoa”, TQ quyết xâm chiếm Biển Đông, tạo ra cảnh mua thù chuốc oán, gây nên chiến tranh trong thế cô đơn, một mình TQ chống với một tập thể nhiều quốc gia dưới sự chỉ huy của Hoa Kỳ. Thế là, chẳng những “Giấc mơ Trung Hoa” sẽ tan theo mây khói Hàn Giang, mà cả ĐCSTQ cũng sẽ đi về miền vĩnh cửu. Bài viết có phần nào ước đoán. Nếu thực tế diễn biến đúng theo những dòng chữ nầy thì xin quí vị nhớ thưởng cho tôi một nụ cười ý vị.

Chicago, ngày 21-7-2015Do những hành động ngày càng

hung hăng của Trung Quốc (TQ) trên Thái Bình Dương nên nhiều năm gần đây, Hoa Kỳ (HK) đã chuyển trục sang châu Á-Thái Bình Dương cả về mặt quân sự, kinh tế, cả về mặt chính trị, ngoại giao. Và chính quyền Obama đã cố gắng mở rộng và củng cố quan hệ đối tác với các nước sẵn có quan hệ tốt với HK và cả với các nước tuy có quan hệ chặt chẽ với TQ nhưng lại bị TQ hiếp đáp trên Biển Đông, như VN, HK cũng hết sức lôi kéo nhằm tạo thế liên hoàn các nước để chống lại sự xâm lăng của TQ nhằm khống chế Thái Bình Dương. Chính vì thế tổng thống Barack Obama đã mời TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, một người rất bảo thủ, giáo điều, thường bênh Tàu chống Mỹ, sang Hoa Kỳ bàn việc. Tình thế của VN đang lúc rất khó khăn cả về mặt kinh tế, cả về mặt chính trị lại bị Trung Cộng lấn lướt trên Biển Đông, còn ở biên giới Tây Nam thì TQ lại lôi kéo, xúi giục «nước anh em» cũ của CSVN là Cam Bốt có thái độ không thân thiện với VN. Lời mời của

Obama rất hợp thời và hợp ý ban lãnh đạo ĐCSVN, khi họ cảm thấy chỗ dựa TQ đang nguy ngập và đang muốn tìm chỗ dựa mới để cứu chế độ và đảng của họ, nên đã hân hoan nhận lời mời. Bản thân ông Trọng, tất nhiên, cũng rất lấy làm hãnh diện là TBT CSVN đầu tiên vinh dự được bước vào Nhà Trắng. Tổng thống HK đón tiếp trọng thị TBT Trọng ở Phòng Bầu dục, bất chấp sự phản đối của một số dân biểu quốc hội vì hồ sơ tồi tệ về nhân quyền của VN. Tuyên truyền của Hà Nội lại được dịp khoác lác là qua cuộc tiếp đón «lịch sử» đó tại Nhà Trắng, HK đã «công nhận chế độ chính trị của chúng ta». Thực ra, điều này chẳng có gì quan trọng lắm. Trước năm 1989, HK cũng đã từng công nhận chế độ chính trị của các nước CS cũ ở Đông Âu và Liên Xô (LX), đã từng chấp nhận vai trò lãnh đạo của các ĐCS trong các chế độ đó. Thậm chí năm 1983, tổng thống Reagan cũng đã từng tiếp thủ lĩnh Taliban ở Afghanistan tại Phòng Bầu dục Nhà Trắng cơ mà.

Kết quả cuộc gặp là tổng thống HK và tổng bí thư ĐCSVN đã ra Tuyên bố về Tầm nhìn chung trong đó cũng chỉ là những ghi nhận và hứa hẹn rất chung chưa có gì cụ thể.

Chẳng hạn, HK ghi nhận «sự quan tâm của VN muốn đạt được quy chế thị trường», hai nước «hứa hẹn tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ bảo vệ quyền con người», hai nước sẽ còn tiếp tục đàm phán về TPP nhất là những vấn đề về quyền lợi công nhân v.v… Khi đọc nội dung «Tầm nhìn chung» ở đoạn nói về quyền con người và các quyền tự do cơ bản… thấy rõ rằng giữa tổng thống HK và người đứng đầu CSVN chưa đạt được sự đồng thuận nên chỉ đưa vào những câu chung chung như vậy để dành cho cuộc «mặc cả» còn tiếp tục sau này giữa hai bên. Trong «Tầm nhìn chung» chỉ có một điểm cụ thể nói về Trường đại học Fulbright Việt Nam (FUV). Tuy nhiên, đoạn nói về Biển Đông là đáng chú ý và có ý nghĩa thiết thực hơn cả: «Hai nước bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây ở Biển Đông làm gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin và đe dọa làm phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định» và «Hai nước nhấn mạnh sự cần thiết đề cao các quyền tự do hàng hải và hàng không được quốc tế công nhận; thương mại hợp pháp

Số 224 Trang 12

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

không hạn chế, an ninh và an toàn hàng hải; kiềm chế những hành động làm gia tăng căng thẳng; bảo đảm tất cả các hành động và hoạt động phải phù hợp với luật pháp quốc tế; phản đối việc ép buộc, hăm dọa, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.» Người viết nghĩ rằng những câu này dường như chủ yếu là do gợi ý từ phía Hoa Kỳ, vì trước đây khi TQ cấm ngư dân VN đánh cá trong biển của VN, tịch thu ngư cụ và các mẻ cá đánh được của ngư dân VN, tấn công, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân VN và đánh đập thậm tệ ngư dân ta, thì ông Trọng vẫn tuyên bố tỉnh bơ: «Quan hệ Trung-Việt chưa lúc nào tốt đẹp như lúc này»! Còn cách đây vài tháng, khi ông và phái đoàn «hùng hậu» của ông sang Bắc Kinh thì ông có hề nói một câu gì về Biển Đông tương tự như thế đâu! Thậm chí 19 ngày trước, cụ thể là ngày 18-6-2015, ông còn cho bộ trưởng ngoại giao của ông là Phạm Bình Minh ký bản Cam kết với bộ trưởng ngoại giao TQ «sẽ không có hành động làm phức tạp»… trên Biển Đông, trong lúc TQ đã và đang làm biết bao điều phức tạp trên Biển Đông.

Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là những câu trả lời của TBT ĐCS trong buổi nói chuyện của ông tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) ở Washington DC, qua đó thể hiện rõ nhất bản chất xảo quyệt và dối trá, «nói dzậy nhưng không phải dzậy» của ông ta. Trả lời một học giả Mỹ, ông nói «VN sẽ duy trì tinh thần dân chủ hóa trong xã hội và chính trị». Tinh thần dân chủ hóa ở đâu, hở ông Trọng? Ở các đồn công an hay ở các trại tù? Trả lời câu hỏi khác của một nhà khoa học Mỹ: «Tình hình nhân quyền và tự do ngôn luận ở VN trong tương lai tới đây sẽ như thế nào, thưa TBT?», TBT lại được dịp phét lác: «Tôi biết nhân quyền là vấn đề Mỹ rất quan tâm, đây cũng là vấn đề VN rất coi trọng. (!) Bảo đảm và cải thiện quyền công dân là ưu tiên cơ bản và chiến lược của chúng tôi. (!) Chúng tôi đã nỗ lực hết sức, nếu các bạn đến VN sẽ thấy quyền của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương như người nghèo, các dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa, được quan tâm. (!) Người dân VN chưa bao giờ được sống trong bầu không khí dân chủ như hiện nay. (!!) Hiến pháp VN có chương riêng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, và đang dần dần được luật hóa…». Ông ta lờ đi không thanh minh thanh nga gì về danh sách 150 tù nhân chính trị đang rục xác trong nhà tù CS mà

Humain Rights Watch đã đưa ra và các tổ chức nhân quyền quốc tế đang đòi VN phải trả tự do, mà chỉ đưa ra lời dối láo trắng trợn: «Các vụ việc người bị bắt ở VN không phải do vấn đề dân tộc hay tôn giáo mà là vì họ vi phạm pháp luật.» Chúng tôi nhắc lại những điều đó để nói rằng chớ nên hy vọng sẽ có «những đột biến có tính lịch sử» về nhân quyền và tự do dân chủ sau chuyến đi này của ông Trọng. Mọi việc vẫn sẽ tiếp tục như trước đây: HK đòi thả một số tù nhân lương tâm, nhà cầm quyền VN thả dăm ba người tượng trưng để đạt được những yêu cầu cụ thể về kinh tế hay an ninh, quốc phòng, rồi lại tiếp tục đàn áp bắt thêm một loạt người nữa để chờ cuộc «mặc cả» tiếp theo. Các tù nhân lương tâm lại vẫn là những món hàng trao đổi! Cũng rất có thể rồi đây, VN cũng sẽ được công nhận là nền kinh tế thị trường dù kinh tế quốc doanh vẫn còn là chủ đạo! Hay VN cũng sẽ được tham gia TPP dù công đoàn/nghiệp đoàn tự do chưa có… hay có nhưng không có thực chất. Hay VN sẽ được xóa bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương dù hồ sơ nhân quyền không tiến bộ mấy. Những điều đó thì chưa ai biết được, nhưng chắc chắn là cái thủ đoạn dối trá, lươn lẹo «muôn thuở» của CSVN sẽ được sử dụng hết cỡ! Người Mỹ rất thực dụng, họ nghĩ đến quyền lợi nước họ là chính, họ thực tâm bênh vực nhân quyền, quyền công nhân, quyền phụ nữ, quyền các dân tộc thiểu số… trong chừng mực nào có lợi cho đất nước họ… Cho nên các chiến sĩ dân chủ VN phải ra sức tận dụng sự ủng hộ của họ, nhưng đừng quá tin tưởng và ỷ lại vào họ! Những lời giả dối của ông Trọng tại CSIS báo hiệu cho chúng ta biết, sau chuyến đi này về mặt nhân quyền, tự do dân chủ sẽ chẳng có gì thay đổi lớn đâu, đừng hy vọng quá mà thất vọng. Vẫn luôn luôn phải tăng cường đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ.

Khôi hài nhất là ông TBT dù cố giữ vẻ đạo mạo của một thức giả, nhưng có lần cũng bật ra cái «lú» cố hữu của mình, khi ông ta nói với giọng đạo đức giả trước cử tọa của CSIS: “Tôi mong chính quyền Hoa Kỳ quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống, công việc và học tập của người Việt Nam tại Hoa Kỳ, tạo điều kiện để họ hội nhập tốt và đóng góp tích cực cho sự phát triển của Hoa Kỳ và cho quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.” Ngố đến thế thật là hết chỗ nói! Ông ta tưởng rằng cộng đồng người Việt chạy nạn CS rất cần đến sự quan tâm

vờ vĩnh của TBT CS, và ông quên rằng trước kia chính thủ tướng CS Phạm Văn Đồng của ông đã từng phỉ báng những người chạy nạn CS là «bọn ma cô, đĩ điếm». Và chính «bọn» (xin lỗi!) này nhờ thoát khỏi cái «thiên đường xã hội chủ nghĩa» của ĐCSVN và nhờ họ hội nhập rất tốt vào nền dân chủ của HK mà ngày nay đã thành đạt tuyệt vời về mọi lĩnh vực trên đất nước Mỹ, nên hằng năm họ đã gửi về cho dân nước VN xã hội chủ nghĩa một số tiền «viện trợ» rất lớn từ 8 đến 10 tỉ USD! Sự thành đạt của họ trên đất nước HK hoàn toàn không liên quan gì đến sự quan tâm vuốt đuôi của ông Trọng cả!

Tuy nhiên, cái «ngố» hết chỗ nói trên đây vẫn còn thua xa cái «ngố» này: báo chí loan tin, ngày 10-7-2015, tại thành phố New York, để biểu dương tinh thần quốc tế vô sản (đồng thời cũng biểu dương tình trạng xơ cứng tư duy thảm hại của ông), TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc gặp với ban lãnh đạo ĐCS Hoa Kỳ, một cái đảng bé tí tẹo trong một nước có 320 triệu dân, chẳng làm nên trò trống gì trên chính trường HK, chưa bao giờ được người dân Mỹ để ý đến. Thế mà, trước truyền thông quốc tế, ông Trọng đã bốc đồng tuyên bố: «Tin tưởng ĐCS HK sẽ tiếp tục phấn đấu không ngừng để làm tròn nhiệm vụ to lớn với tư cách là đảng tiên phong, điểm tựa chính trị của lực lượng công nhân và quần chúng lao động HK». Ông hồ hởi «chúc mừng thành công của đại hội lần thứ 30 của ĐCS HK», một đại hội mà chỉ duy nhất ông Trọng nhắc tới, chứ ngay cả người dân Mỹ cũng chẳng ai biết và truyền thông báo chí HK chẳng buồn nói đến.

Thẳng thắn mà nói thì chuyến đi Mỹ của TBT Trọng lần này chưa có kết quả gì rõ rệt để có thể gọi là «chuyến đi lịch sử» đã tạo ra «một bước ngoặt lịch sử». Tuy nhiên, hy vọng rồi đây do tình thế bức bách, ban lãnh đạo CSVN có thể tiến thêm bước nữa gần với HK hơn. Có thể người Mỹ nghĩ rằng TBT Trọng là người lãnh đạo cao nhất, có quyền hành nhất trong ĐCS, nhưng thực ra ông Trọng là người cầm đầu ĐCS loại yếu trong số các TBT: từ hội nghị 6 TƯ đảng (10-2012) đến hội nghị 10 (1-2015), ông đã thất bại liên tiếp trước đối thủ chính của ông là «đồng chí X». Vả lại, trong ĐCSVN, ông Trọng cũng chỉ là một người trong cái tập thể mười mấy người lãnh đạo, gọi là Bộ chính trị (BCT). Trước khi đi HK, cái tập thể đó đã định rõ cho ông nói cái gì, ứng xử như thế nào trong

Số 224 Trang 13

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

mỗi tình huống. Ông chỉ là một vai diễn trên sân khấu mà thôi. Còn sau chuyến viếng thăm, cái tập thể đó sẽ họp lại quyết định sẽ đối phó như thế nào với cái TPP, với quy chế kinh tế thị trường, v.v… Chắc dân ta còn nhớ, trước đây, hồi năm 2005, thủ tướng Phan Văn Khải, rồi 2007, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, rồi 2008, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, rồi 2013, chủ tịch nước Trương Tấn Sang – những người lãnh đạo rất cao, rất có quyền lực trong hệ thống chính trị VN – cũng đã được tổng thống HK đón tiếp trọng thị tại Nhà Trắng ở Phòng Bầu dục, tất cả họ cũng đều hứa hẹn với tổng thống những điều tốt đẹp cho nhân quyền, cho tự do, dân chủ. Chủ tịch Sang cùng tổng thống Obama còn xác lập quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước HK và VN. Thế mà sau khi các vị đó trở về nước thì tình hình đàn áp các cuộc đấu tranh hòa bình của người dân để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo của VN bị TQ xâm chiếm vẫn không bớt ác liệt, đàn áp các cuộc đấu tranh của dân oan đấu tranh chống cưỡng chế đất đai vẫn rất dã man, số người bị bắt đưa ra tòa án xử phi pháp vẫn rất đông… Thậm chí khi VN được vào Hội đồng Nhân quyền LHQ, đã ký Công ước chống tra tấn mà số người dân bị tra tấn đến chết ở các đồn công an vẫn tăng lên chứ không giảm, còn nói gì đến chuyện chấm dứt tra tấn! Có chút thay đổi chăng là vài người tù được thả ra sớm hơn một chút, thậm chí vừa thả họ ra, liền bắt họ phải ra nước ngoài sống lưu vong… Dân gian ta thường nói Cà cuống chết đến đít còn cay, nghĩa là một con người, một nhóm người nặng tính xảo quyệt, gian dối, bảo thủ, giáo điều… thì dù trong hoàn cảnh nào đi nữa họ vẫn giữ cái bản chất «cay» vốn có của họ. Cho nên đừng trông chờ BCT TƯ ĐCSVN sẽ dân chủ hóa, sẽ ban phát tự do, dân chủ cho ta, mà tự mình phải đấu tranh giành lấy những thứ quý báu vô ngần đó.

Cũng cần nhắc lại là VN xác lập quan hệ đối tác toàn diện với HK mới được hai năm thôi, trong lúc đó VN đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga và TQ lâu hơn. Hơn nữa với TQ, VN còn bị buộc chặt bằng sợi dây thòng lọng Thành Đô, bằng vòng kim cô 16 chữ vàng và 4 tốt, bằng vô số hiệp định và cam kết của những người đứng đầu đảng và nhà nước VN với TQ, bằng sự lũng đoạn của TQ đối với nền kinh tế VN, bằng các công trình xây dựng quan trọng khắp nước VN do TQ

trúng thầu, bằng 300 ngàn hec-ta rừng đầu nguồn ở vùng biên giới VN trong tay TQ, bằng nhiều vị trí tập trung dân TQ (hay quân nằm vùng ?) ở các nơi xung yếu trên đất nước VN, v.v… Cố nhiên, báo chí «lề đảng» thì cố thổi phồng chuyến đi HK của ông Trọng, cho đó «là chuyến đi lịch sử», «là cột mốc đánh dấu 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ và đồng thời nâng cao sự hợp tác giữa hai nước lên tầm đối tác chiến lược» - sự thật thì chưa có thỏa thuận gì đặc biệt đáng gọi là cột mốc, hơn nữa, sau chuyến đi của ông Trọng quan hệ giữa VN và HK vẫn là «quan hệ đối tác toàn diện» như sau chuyến đi của chủ tịch Trương Tấn Sang, chứ đâu có phải là «đối tác chiến lược»? Có vài nhà báo «lề dân» cũng quá lạc quan cho rằng với chuyến đi của ông Trọng, VN đã xáp lại với HK và như thế sẽ chấp nhận từ bỏ chế độ độc tài đảng trị trong một tương lai gần; hay cho rằng sau chuyến đi của ông Trọng, VN sẽ rời khỏi TQ và liên kết với HK để chống lại TQ; thậm chí có người còn tiên đoán rồi đây quân Mỹ sẽ đến Cam Ranh v.v… Những nhận định quá lạc quan này chỉ dựa trên lòng mong muốn của người phát biểu, chứ không phải trên thực tế khách quan. Tập đoàn cầm quyền CSVN đang lâm vào tình thế cực kỳ khó khăn cả về kinh tế lẫn chính trị, lại bị sức ép mạnh vì hành vi hung hăng xâm lấn của TQ, nên về sách lược họ phải tìm thêm chỗ dựa ở HK để cứu chế độ độc tài toàn trị của họ và đảng của họ, tức là cứu quyền lợi của họ và cứu bản thân họ, chứ đâu có phải để từ bỏ chế độ độc tài toàn trị. Cho nên nghĩ rằng họ sẽ chấp nhận từ bỏ chế độ độc tài đảng trị trong một tương lai gần là rất mơ hồ sẽ gây ra ảo tưởng cho những người đang đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền. Cho rằng sau chuyến đi của ông Trọng, VN sẽ rời khỏi TQ và liên kết với HK để chống lại TQ là chưa đánh giá hết mọi tình hình phức tạp trong mối quan hệ lâu đời giữa VN với Nga và TQ, chưa thấy hết những ràng buộc của CSVN với CSTQ mà chính những người cầm đầu ĐCSVN tự buộc vào, từ thời Hồ Chí Minh trước đây và đặc biệt từ thời Nguyễn Văn Linh cho đến Nguyễn Phú Trọng ngày nay, là chưa thấy hết cái tình thế khó khăn, lúng túng của tập đoàn cầm quyền CSVN trong lúc này, dù họ có muốn rời khỏi TQ, nhưng chưa thể rời ngay được. Theo chúng tôi nghĩ, CSVN xích lại gần HK nhiều hay ít, nhanh hay chậm chủ yếu tùy thuộc ở mức độ nguy

khốn của CSVN và của CSTQ, vì chẳng ai lạ gì cái thói sống dựa và ăn bám cố hữu của lãnh đạo CSVN để tự cứu mình. Cho nên chúng ta cần có thái độ thực tế, không bi quan mà chẳng nên quá lạc quan để đánh giá đúng tình hình mà đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ nước ta theo đúng hướng để giành được thắng lợi.

Tờ Hoàn cầu Thời báo, một phó bản của tờ Nhân Dân nhật báo của ĐCSTQ đã đưa ra lời nhắc nhở và đe dọa VN: «Trong khi VN xem TQ như một mối đe dọa an ninh quốc gia của mình, thì VN cũng được hưởng lực kéo kinh tế từ TQ và cũng được sự hỗ trợ từ thể chế CS TQ»… «Các mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa VN và HK một phần nhắm vào TQ, và như vậy sẽ kéo theo những đòn đánh trả của TQ. Điều này sẽ tạo ra áp lực lên ba phía, nhưng trong trường hợp đó, VN có thể là kẻ phải chịu nhiều thiệt hại nhất.» Chúng ta không sợ những lời đe dọa của ĐCSTQ, nhưng chúng ta đừng để cái lạc quan tếu về chuyến đi Mỹ của ông Trọng làm rối đầu óc chúng ta. Dân ta bình tĩnh chờ những đòn «phản pháo» của TQ và sẽ có cơ hội được kiểm chứng thái độ của các quan chức cao cấp nhất của ĐCSVN đối với Bắc triều. Chỉ vài ngày sau chuyến đi Mỹ của TBT Trọng, thì một trong 7 người có quyền lực nhất ở TQ là ủy viên thường vụ BCT, phó thủ tướng Trung Cộng Trương Cao Lệ, đến VN từ ngày 16 đến 18-7. Gặp chủ tịch Trương Tấn Sang, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người ta lại ca bài «mối quan hệ truyền thống do Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh từng nuôi dưỡng là tài sản quý báu của hai đảng và nhân dân hai nước, vì quyền lợi cơ bản của hai nước cần phải thắt chặt mối quan hệ truyền thống này»… «hai đảng tiếp tục đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển lành mạnh, ổn định, lâu dài», nghĩa là không có gì thay đổi trong quan hệ Trung-Việt sau chuyến TBT ĐCSVN đi Mỹ về! Còn ông Trọng, sau khi gặp họ Trương, ông cũng gặp một số cử tri để khoe khoang về cuộc đối thoại «vượt mức yêu cầu» với tổng thống Mỹ, đồng thời ông nhấn mạnh: «Có ý kiến nói, chuyện quan hệ với Mỹ để chống TQ ở Biển Đông thì cũng chỉ là một cách suy diễn…». Ý ông muốn nói: thực ra ông đi Mỹ nhưng không hề có ý muốn chống TQ, đó chỉ là sự suy diễn và hiểu lầm mà thôi. Ông còn nói thêm: «Rất hay là vừa đi Mỹ về, thì phó thủ tướng TQ cũng sang đây»! Ngầm ý: để TBT ĐCSVN có dịp thanh

Số 224 Trang 14

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

minh với ĐCSTQ về chuyến đi vừa rồi! Đấy, cái mà một số người gọi chuyến đi HK của ông Trọng là «chuyến đi lịch sử» đã tạo ra «một bước ngoặt lịch sử» như thế đó!

Những người am hiểu thời cuộc đều biết từ rất lâu trước chuyến TBT ĐCSVN đi Mỹ, Trung Cộng đã tung ra độc chiêu mà trước đây họ đã dùng dưới thời Pol Pốt, nay đem dùng lại dưới thời thủ tướng Hun Sen là cố lôi kéo Cam Bốt (CB) về phía TQ, chia rẽ CB với VN, giúp đỡ về kinh tế, cung cấp vũ khí cho CB, xúi giục CB chống lại VN. Vấn đề biên giới giữa hai nước CB và VN nay lại xới lên. Vụ xô xát hôm 28-6-2015 ở vùng biên giới tỉnh Svay Rieng (CB) và tỉnh Long An (VN), cũng như việc một phái đoàn các tướng tá CB do phó thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng CB Tea Banh dẫn đầu đến TQ, làm cho phía VN phải đề phòng. Rồi hàng loạt xe tăng, thiết giáp, khí tài VN được cấp tốc chuyển từ miền Bắc vào Nam từ hôm 13-7-2015… Tất cả những tin tức đó báo hiệu có thể sẽ xảy ra chuyện chẳng lành cho nhân dân cả hai nước CB và VN. Điều chắc chắn là những người dân chủ và các chiến sĩ nhân quyền VN kiên quyết phản đối một cuộc chiến tranh (nếu có) giữa CB và VN vì nó sẽ đẩy nhân dân hai nước rơi vào cạm bẫy chiến tranh của Trung Cộng và gây ra muôn vàn đau thương cho người dân CB và VN. Hơn nữa, chiến tranh là cơ hội tốt nhất cho tập đoàn thống trị CSVN bóp nghẹt tự do, dân chủ và nhân quyền của nhân dân. Chúng ta chủ trương đối thoại, đàm phán, tương nhượng để giải quyết một cách hòa bình mọi tranh chấp giữa CB và VN.

Một điều đáng chú ý là trước ngày TBT Nguyễn Phú Trọng đi Hoa Kỳ thì từ cuối tháng 6-2015, bỗng bặt tin bộ trưởng bộ quốc phòng VN, đại tướng Phùng Quang Thanh, một nhân vật đặc biệt thân Tàu trong BCT TƯ đảng. Tiếp đó đã có những trò che giấu khá lộ liễu, kín kín, hở hở về sự vắng bặt tin của tướng Thanh, sau đó Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe Trung ương đưa ra những thông tin mập mờ, mâu thuẫn nhau về bệnh tình của tướng Thanh. Rồi bỗng dưng sáng 3-7-2015, Cổng thông tin của Bộ quốc phòng đưa tin, tại Hà Nội, thực hiện các Quyết định của Thủ trưởng Bộ quốc phòng (thủ trưởng chứ không phải là bộ trưởng và cũng không ghi rõ tên ai là thủ trưởng), Bộ tư lệnh (BTL) thủ đô Hà Nội tổ chức hội nghị bàn giao nhiệm vụ Tư lệnh và Chính ủy BTL thủ đô Hà Nội. Sự thay đổi đột ngột những người đứng

đầu BTL thủ đô Hà Nội trùng hợp với tin tức mập mờ về sự biến mất của tướng Thanh, làm một vài người nghĩ đến một cuộc đảo chính cung đình. Giả định này chắc là không đúng, vì khi một «đồng chí» nào đó – như «đồng chí X» chẳng hạn – đã nắm ưu thế trong ban lãnh đạo đảng thì cứ làm theo đúng điều lệ đảng, họp hội nghị TƯ hay đại hội đảng đàng hoàng để đa số quyết định sự thay đổi là nhẹ nhàng, êm đẹp nhất, việc gì phải làm đảo chính cho mang tiếng? Nhưng những chuyện nói trên cho thấy cuộc đấu đá nội bộ trên thượng tầng lãnh đạo CSVN đã lên đến cao điểm, báo hiệu có một cuộc “đổi kíp”, «đổi ca» sắp tới. «Kíp» mới này sẽ nắm lấy toàn bộ quyền lực và tiếp tục thống trị đất nước ta với một chính sách về cơ bản vẫn như cũ. Còn về mặt đối ngoại, họ sẽ khoác áo thân Mỹ và thỉnh thoảng nói vài câu có vẻ chống Tàu để HK cho VN vào TPP, công nhận nền kinh tế thị trường và bỏ cấm vận vũ khí sát thương… dù hồ sơ nhân quyền của VN vẫn lem nhem như trước. Còn HK rất thực dụng, họ quan tâm chủ yếu quyền lợi của nước họ, các chế độ độc tài dù khét tiếng xưa nay họ cũng cứ chơi như thường, miễn là có lợi cho họ. Cho nên nhân dân ta cần thấy rõ việc đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền là công việc của mình, dân mình phải lo, nhất thiết không thể trông cậy vào ban lãnh đạo CSVN này được, mà hy vọng vào HK thì cũng chỉ phần nào thôi, vì HK có giúp cho ta thì cũng chỉ trong chừng mực nào đó, và như thế cũng đã tốt cho ta lắm rồi. Còn việc CSVN chống TQ thì chúng ta cũng đừng nên nghĩ là “kíp” mới lên sẽ làm mạnh đâu, mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga và TQ còn chặt lắm, họ không thể dễ dàng dứt ra, đặc biệt với TQ thì còn biết bao thứ ràng buộc, nào là mật ước Thành Đô, nào là 16 chữ vàng và 4 tốt, nào là vô số hiệp định và cam kết từ xưa đến nay, nào là kinh tế VN và các công trình xây dựng đều phụ thuộc vào TQ, v.v. và v.v… Trong thời gian này, CSVN ve vãn HK thì cũng chỉ hời hợt thôi vì các ông “bạn vàng” đối tác chiến lược toàn diện của VN là TQ và Nga cũng không dễ dàng «buông áo em ra» để em VN chạy theo Mỹ mà họ coi là kẻ thù của họ… Cho nên chúng ta cần phải khách quan đánh giá đúng tình hình, không nên lạc quan quá và phải luôn luôn cảnh giác cả với «kíp» mới lên, họ đều là những kẻ bảo vệ chế độ độc tài toàn trị vì đó là quyền lợi thiết thân của họ và gia đình họ. Một

số nhà phân tích nghĩ rằng trong ban lãnh đạo ĐCSVN có phe cấp tiến và phe bảo thủ. Theo chúng tôi, điều đó không đúng với thực tế. Đúng là trong TƯ đảng có rất nhiều mâu thuẫn, nhiều hục hặc, nhiều đấu đá về mặt quyền lợi cá nhân, chứ không phải về ý thức hệ, về lý thuyết, về chiến lược, về chính sách, tất cả họ đều nhất trí với nhau ở một điểm cơ bản là duy trì đến cùng chế độ độc tài toàn trị, có khác biệt chăng thì chỉ trên những tiểu tiết, như cách đối phó đối với các nước lớn thế nào để có lợi cho chế độ của họ. Thử hỏi hàng chục năm nay, có ai trong ban lãnh đạo CSVN dám nói một điều gì về cải cách chế độ chính trị đâu mà bảo là có phe cấp tiến trong đảng? So với tình hình Liên Xô hồi nửa cuối thập niên 80 thế kỷ trước thì rõ ràng là trong ĐCSLX cũng như trong TƯ đảng hồi đó đã có phe cấp tiến rõ rệt, họ có cả một «Cương lĩnh dân chủ» nổi tiếng do một cựu ủy viên BCT TƯ, vài ủy viên TƯ và nhiều cán bộ cao cấp của đảng soạn thảo và công bố, còn ở VN thì đã có gì đâu mà gọi là phe cấp tiến? Cũng có nhiều người cho rằng trong ban lãnh đạo CSVN có phe thân Tàu và phe thân Mỹ và liệt thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào phe thân Mỹ. Thử hỏi với giọng lưỡi chống Mỹ cực kỳ thô lỗ của ông thủ tướng đã thốt lên trong dịp 30 tháng 4 năm nay mà có thể gọi ông ta là thân Mỹ được ư? Thử hỏi một ông thủ tướng trong suốt nhiệm kỳ của ông đã có biết bao quyết định có lợi cho TQ bất lợi cho VN, như bô-xít ở Tây Nguyên, như cho TQ trúng thầu các công trình xây dựng quan trọng khắp nước ta, như để các tỉnh giáp biên giới cho Trung Cộng thuê dài hạn 300 ngàn hec-ta rừng đầu nguồn trong 50 năm, v.v… là người không thân Tàu mà thân Mỹ được chăng? Thực ra, trong TƯ đảng, thân Tàu thì có và có nhiều, còn thân Mỹ thì chỉ là những lời nói vờ vịt, bóng bẩy để ve vãn, làm điệu vậy thôi. Rồi đây có thể cũng có người khoác tạm cái áo thân Mỹ để đánh lừa dư luận – vì họ thấy trên 70% dân chúng VN mong muốn có quan hệ tốt với Mỹ – nhưng thật lòng thì họ chẳng thân ai hết, ngoài cái «ghế» của họ. Cho nên cái lối chia hai phe rạch ròi thân Tàu, thân Mỹ trong ban lãnh đạo CSVN như vậy là không hợp với tình hình VN, dễ làm cho những người dân chủ có đối sách không sát thực tế. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, những người dân chủ chúng ta cũng phải biết tận dụng mọi cơ hội, mọi kẽ hở của chế độ để đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân

Số 224 Trang 15

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quyền, tập hợp lực lượng, chờ thời cơ để giành thắng lợi quyết định.

20.7.2015Nguyễn Minh Cần

Nhờ sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt và tài tình của đảng Cộng

sản Việt Nam quang vinh

MỖI NGƯỜI VIỆT ĐANG GÁNH HƠN 26 TRIỆU ĐỒNG NỢ CÔNG

22/07/2015

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố nợ công VN tính đến cuối năm 2014 đã lên đến 110 tỉ USD (tương đương 2,35 triệu tỉ đồng).

Theo đó, mỗi người dân VN hiện đang gánh hơn 1.200 USD (hơn 26 triệu đồng) nợ công, gần bằng thu nhập trung bình nửa năm của một người VN. Số nợ công theo cách tính của WB bao gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương vay. So với những số liệu về nợ công được công bố trước, con số này hiện cao hơn hẳn.

Đồng hồ nợ công của Economist cuối năm 2014 ghi nhận: nợ công VN hơn 82,748 tỉ USD và trung bình mỗi người VN gánh 914,13 USD (xấp xỉ 20 triệu đồng theo tỷ giá hiện tại) nợ công. Đến chiều qua (21-7), đồng hồ nợ công trên Economist ghi nhận số nợ công của VN đã tăng lên 90,826 tỉ USD và mỗi người VN đang nợ gần 998 USD. Mặc dù số liệu được công bố có chênh lệnh lớn giữa các tổ chức, song các chuyên gia nước ngoài nhận định nợ công là vấn đề đáng lo ngại khi VN đang trong lộ trình giảm thuế theo cam kết hội nhập, nguồn thu không ổn định trong khi nguồn chi tiêu Chính phủ lại đang ngày càng tăng.

Ng.Nga21/07/2015Về phương diện chính trị, ở VN

hiện nay có một nghịch lý: Một mặt, đảng Cộng sản tự khẳng định một cách công khai, chính thức và dõng dạc trong Hiến pháp là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước; mặt khác, trên thực tế, chưa bao giờ VN lại thiếu sự lãnh đạo như là bây giờ.

Lãnh đạo chứ không phải là cai trị. Đó là hai điều hoàn toàn khác nhau. Cai trị chỉ cần dùng sức mạnh để dập tắt mọi sự phản kháng của

những người bị trị để giữ nguyên tình trạng hiện có trong đó người cai trị vẫn là những người cai trị và những người bị trị vẫn tiếp tục bị trị. Nói cách khác, cai trị là nỗ lực kéo dài một quá khứ. Lãnh đạo thì khác: Lãnh đạo hướng tới tương lai. Lãnh đạo là dẫn dắt một tập thể hướng tới một chân trời mới trong tương lai. Cai trị cần sự vâng phục trong khi lãnh đạo cần sự đồng thuận. Cai trị được xây dựng trên bạo lực và áp chế trong khi lãnh đạo được xây dựng trên sự khai sáng và tin tưởng. Cai trị cần ngục tù và súng đạn trong khi lãnh đạo cần ánh sáng và trí tuệ.

Trong quá khứ, đảng Cộng sản, với một mức độ nào đó, từng đóng vai trò lãnh đạo. Những người lãnh đạo biết rõ họ tin gì và muốn gì. Dân chúng cũng biết rõ các nhà lãnh đạo tin gì và muốn gì: Họ tin vào chủ nghĩa xã hội và muốn đất nước, hoặc thoát khỏi ách Pháp thuộc hoặc được thống nhất. Những điều họ tin và họ muốn chưa chắc đã chính đáng, có khi, ngược lại, chỉ dẫn đến chiến tranh tang tóc và hoạ độc tài hà khắc. Nhưng có hai điều quan trọng nhất là: một, dân chúng biết rõ giới lãnh đạo tin gì và muốn gì, và hai, một số bộ phận không nhỏ trong dân chúng chia sẻ những điều họ tin và muốn ấy.

Còn bây giờ? Trong các kỳ đại hội đảng, người ta cũng có những bản báo cáo về những thành tựu trong quá khứ cũng như những kế hoạch năm năm, nhưng tất cả đều được viết theo những công thức chung chung, mơ hồ và rối rắm. Người ta vẫn nói đến chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng tất cả đều không có một nội dung cụ thể nào cả. Không ai có thể hiểu chủ nghĩa xã hội sau khi bị phá sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu ấy có diện mạo ra sao. Còn cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay vẫn chưa có một đường nét rõ rệt. Ngay cái gọi là kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa mà người ta thường lặp đi lặp lại trong các nghị quyết cũng như trong ngôn ngữ tuyên truyền cũng không ai biết là gì. Từ các văn bản chính thức ở các đại hội đảng ấy, dân chúng hoàn toàn không thể hình dung con đường mà đảng Cộng sản muốn dẫn dắt mọi người đi sẽ đến đâu. Không! Hoàn toàn không thể biết! Ngay chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không biết khi thừa nhận có khi đến tận cuối thế kỷ 21 người ta mới có thể đạt đến chủ nghĩa xã hội. Lâu! Lâu quá! Trong hiện tại thì tất cả đều mù mịt. Trước sự mù mịt ấy, mọi danh xưng lãnh đạo đều mất hết ý nghĩa.

Mà chưa bao giờ dân tộc VN cần sự lãnh đạo như là bây giờ.

Ở đâu cũng thấy bế tắc.Về giáo dục, ai cũng than là

chưa bao giờ xuống cấp như bây giờ: học trò đạo văn, các thầy cô giáo cũng đạo văn. Không đạo văn thì cũng nhai lại những kiến thức cũ mèm. Quan hệ giữa thầy trò cũng càng lúc càng tệ hại: thầy cô thì coi học sinh như những khách hàng mình vơ vét được bao nhiêu trong các lớp dạy kèm được thì vơ vét còn học sinh thì cũng chả coi trọng gì các thầy cô giáo; có học sinh còn đánh gục các thầy cô giáo ngay trong lớp học. Nhà nước có chính sách gì để ngăn chận tình trạng xuống cấp ấy không? Không!Về đạo đức thì càng lúc càng suy đồi, quan hệ giữa người và người càng lúc càng lạnh lẽo, tâm lý vô cảm trước những nỗi đau của người khác càng lúc càng phổ biến. Cái gọi là tình hàng xóm hay tình người vốn là nét son mà người Việt Nam trước đây thường tự hào đến giờ biến mất. Nhà nước có chính sách gì để diệt trừ nạn vô cảm ấy và khôi phục lại truyền thống tốt đẹp ngày trước không? Không!

Về kinh tế thì nợ công càng ngày càng chồng chất kéo theo những di hại có khi đến cả mấy thế hệ, mức phát triển càng lúc càng chậm chạp, về nhiều phương diện, có khi còn thua cả Campuchia và Lào. Về xã hội, nạn tham nhũng tràn lan, lớn ăn

Số 224 Trang 16

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

lớn, nhỏ ăn nhỏ, làm gì cũng cần tiền đút lót; người ta mua bán chức quyền cho nhau, bất kể tài năng và tư cách. Nhà nước có chính sách gì để giải quyết các khó khăn và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế cũng như giảm trừ nạn tham nhũng không? Không!

Về nhân quyền, tất cả những quyền căn bản của con người đều bị vùi dập. Tự do ngôn luận: không! Tự do biểu tình: không! Tự do lập hội, dù chỉ là những hội dân sự rất ư bình thường: không! Xuống đường để chống đối các chính sách của nhà nước bị cấm đoán, đã đành. Ngay cả xuống đường để chống Trung Quốc một cách chính đáng cũng bị ngăn cấm, hơn nữa, khủng bố. Nhà nước có chính sách gì để cải thiện tình trạng ấy không? Không!

Nhưng quan trọng nhất là những bế tắc trong lãnh vực chính trị. Cả chính trị đối nội lẫn chính trị đối ngoại đều bế tắc. Về đối nội, ai cũng biết cái nhãn chủ nghĩa xã hội chỉ là một chiêu bài dối trá, nhưng vất bỏ cái chiêu bài ấy, VN sẽ có một thể chế như thế nào? Không ai biết cả. Cả chính quyền có lẽ cũng không biết. Người ta chỉ đe doạ: đa đảng và đa nguyên chỉ dẫn đến hỗn loạn. Nhưng các nước dân chủ trên thế giới thì sao? Sao không có hỗn loạn? Tại sao dân chủ chỉ gây hỗn loạn ở Việt Nam mà thôi? Về đối ngoại, có một trọng tâm khiến mọi người đều nhức nhối: chính quyền VN sẽ giải bài toán TQ ra sao? Sẽ theo hùa TQ và mặc kệ các sự xâm lấn ngang ngược của TQ hay sẽ tìm cách chống lại Trung Quốc để bảo vệ độc lập và chủ quyền trên biển và đảo? Gần đây, VN có vẻ muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ nhưng quan hệ ấy sẽ được đẩy xa đến mức nào? Việt Nam sẽ tìm kiếm điều gì ở Mỹ? Đó chỉ là một trò đu dây để mua thời gian hay một thực tâm muốn có đồng minh để đối đầu với Trung Quốc? Tất cả những thắc mắc ấy không có ai trả lời cả. Ở điểm dân chúng cần sự lãnh đạo nhất, những người gọi là lãnh đạo lại kín như bưng. Mà chưa chắc họ đã có một

chính sách nào cụ thể.Bởi vậy, có thể nói không có gì

quá đáng khi cho đảng Cộng sản hiện nay đang từ khước vai trò lãnh đạo của mình. Họ chỉ còn là những nhà cai trị độc đoán và hung bạo. Vậy thôi!

Để sống sótTheo nhiều nhà quan sát thì các

phe nhóm cầm quyền Việt Nam vẫn canh chừng nhau, ăn miếng trả miếng. Quyền lực có lúc phân tán giữa phe thân TQ và phe thân Mỹ bởi rất nhiều người cơ hội gió chiều nào che chiều ấy.

Tình hình có biến chuyển gần đây. Theo báo Boxun của TQ và một số nguồn tin, “phái thân TQ” đã phải đầu hàng “phái thân Mỹ”. Phái thân Mỹ hiện đã chiểm được sự ủng hộ của khoảng 80% ủy viên TW và rồi sẽ nắm ưu thế tuyệt đối.

Dưới sức ép đấu tranh trong nước và quốc tế đang dâng lên mạnh mẽ, người thâu tóm được quyền lực sẽ lựa chọn điều gì?

Có thể xẩy ra hai trường hợp: hoặc độc tài hơn và tàn bạo hơn, hoặc sẽ cải cách và đổi mới ở một mức độ tương thích để sống sót. Kinh tế, chính trị và ngoại giao VN sẽ sụp đổ và bế tắc nếu không thay đổi theo những giá trị dân chủ, tự do theo nguyện vọng của người dân.

Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Trung quốc cùng nhiều dấu hiệu cho thấy ngày tàn của đế chế “tư bản đỏ” TQ không xa. Tương tự thời kỳ mà chính Liên xô cũng đã không thể lo nổi phận mình, buộc phải buông các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Cái phao cứu sinh duy nhất của VN hiện nay là nước Mỹ và khối đồng minh.

Hiện trạng này khiến người ta nhớ lại Diễn văn lịch sử của Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan ngày 12-6-1987 tại Bức tường Berlin: “Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông mưu tìm hòa bình, nếu ông mưu tìm thịnh vượng cho Liên xô và Đông Âu,, nếu ông mưu tìm giải phóng, hãy đến đây nơi cổng này. Ổng Gorbachev, hãy mở cổng này, hãy phá đổ bức tường này”

Răng và mắt đều “phát triển vượt bậc”

Người Việt Nam ít nhiều đều hoặc là người của Cộng sản hoặc nạn

nhân của Cộng sản. Hành trình gần một thế kỷ trong con đường xã hội chủ nghĩa đã sinh ra những thế hệ thần tượng sự tăm tối, thế hệ ngu trung, thế hệ lầm lạc… Nhưng cho đến nay, trước đỉnh điểm phô bày những khối ung thư của thể chế này, thì ngay cả nhiều đảng viên đã cả đời trung thành với thể chế này cũng thấy

rằng không thể chấp nhận nó nữa. Đơn giản chỉ vì họ biết họ đang lênh đênh trên một con thuyền thủng đáy. Tiếng sôi réo chết chìm đã vang động không gian.

Cuộc đấu đã đến một mất một còn. Hiện tượng Phùng Quang Thanh chết hay sống vừa rồi cùng với những che chắn vụng về của nhà cầm quyền cùng ngành tuyên giáo Việt Nam thật ly kỳ như phim trinh thám, khiến cho dân chúng được một phen mãn nhãn.

Việc ông Phùng trở về, nhưng bỗng có sở thích khác thường như chỉ thích xem văn nghệ, không thích vào lăng viếng “Cha già”. Hình hài của ông sau khi xuất viện từ Pháp quốc có vẻ như là một hình ảnh quảng cáo siêu hiệu quả cho tài năng biến dạng của bệnh viện này. Khán giả tính toán ông trong ảnh của báo “lề phải” dường như cao hơn cả chục cm chỉ trong hơn một tháng nằm viện. Răng và mắt ông đều phát triển vượt bậc. Đặc biệt lại thêm sở thích kỳ lạ: không chịu về nhà, chỉ ở lại Bộ quốc phòng… Những hình ảnh của ông càng khiến dư luận thêm thắc mắc. Khổ là nhà cầm quyền và “lề phải” dối trá quá nhiều rồi nên ngay cả khi nói thật cũng chẳng ai tin. Tất cả những lùm xùm quanh vụ này tố cáo sự giằng co hai phe nhóm quyền lực.

Ai nắm được đồng thời cả công an và quân đội, người đó sẽ thắng.

Và người thắng ấy, nếu là “phái thân Mỹ”, sẽ có được vô số thuận lợi, được sự ủng hộ của dân VN trong và ngoài nước, được điều kiện vô tiền khoáng hậu để bảo vệ và tái thiết đất nước dưới sự hỗ trợ toàn diện của Mỹ và các nước đồng minh.

“Phá bỏ bức tường này”Có thể cải tổ Đảng CS được

không?Cải tổ tương tự chữa một vết

thương. Vết thương chỉ có thể lành khi đó không phải là khối ung thư. Với khối ung thư, không thể cải tổ. Dẫu là dạ dày, cũng phải cắt bỏ để thoát chết.

Số 224 Trang 17

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Đảng cộng sản với thể chế độc tài toàn trị có cải tổ được không?

Rất tiếc là không. Lịch sử đã minh chứng điều đó.

Nguyên Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Mikhail Gorbachev, khi trả lời phỏng vấn về những điều mà ông hối tiếc nhất, đã nói: “Đó là việc tôi nấn ná quá lâu với nỗ lực cải tổ đảng Cộng sản.”

Những người theo cộng sản Việt Nam nên hiểu rằng thay đổi thể chế chính trị sang dân chủ đa nguyên không phải với mục đích là trừng trị, cướp đoạt quyền lợi của họ, như đảng cộng sản đã làm với người dân trong Cải cách ruộng đất và sau này. Mà thay đổi thể chế chính trị là để sống sót, cứu tất cả mọi người và để cứu chính cả những người cộng sản.

Tại các nước khối Đông Âu đã không có tắm máu, thậm chí đời sống của người theo cộng sản trước đây đều được cải thiện vượt bậc theo mức sống chung cả nước. Đó không phải vì lòng tốt của một ai đó, mà chỉ vì trong chính thể chế chính trị dân chủ đa nguyên cùng nền tự do ngôn luận, hệ thống giám sát minh bạch đã tự động bảo vệ quyền lợi của mọi công dân khỏi những phân biệt đối xử và thù địch.

Tổng thống Nga V. Putin, vốn là một trong những con cưng và đồng phạm của chế độ cộng sản Liên Xô, lại là một cựu sĩ quan KGB, hẳn cũng khó tránh khỏi một số tội ác, chí ít là khi phải tuân lệnh cấp trên, đã nhận thức rất rõ về việc không thể để nước Nga quay lại thể chế CS. Ông nói: “Đừng mong cái triều đại CS gian tà ấy có cơ hội sống lại trên đất nước này khi dân tộc Nga còn tồn tại.”

Bàn tay nào?Cán cân sẽ thay đổi, nếu có một ai

đó trong tứ trụ triều đình đủ tài năng và khôn ngoan chớp thời cơ nắm cả ngành công an và quân đội để đưa Việt Nam đi theo con đường phong quang nhất mà Liên xô và các nước Đông Âu đã đi từ những năm 90.

Đó là con đường duy nhất để cứu Việt Nam lúc này. Nếu các phe phái nhận thức rõ tình thế, chịu ngồi lại với nhau theo quyền lợi đất nước thì người Việt Nam sẽ không phải đổ máu. Một cuộc thay đổi từ trên xuống, dưới áp lực của người dân VN và các lực lượng quốc tế. Tại sao không?

Nhiều người nghi ngờ khả năng này. Và ai mà chẳng phải ngờ, bởi các nhà cầm quyền Việt Nam đều đã gây ra quá nhiều thất vọng, đã làm mọi biện pháp để tước đoạt những quyền đương nhiên của các công dân và đẩy đất nước vào thảm họa.

Nhưng nếu ta nhìn lại lịch sử, những cuộc thay đổi thể chế từ trên xuống là điều không hiếm.

Mùa xuân năm 1991, Tổng Bí thư Đảng CS Liên xô Gorbachev đã bị mắc kẹt giữa hai khuynh hướng quyền lực khiến ông rất khó xoay chuyển tình hình. Một bên là phe bảo thủ cứ cố lật ngược mọi chính sách cải cách của ông. Bên kia là những người am hiểu thời thế, có lương tâm với đất nước, muốn ông thiết lập một hệ thống chính trị đa đảng và đi theo xu hướng cải cách thị trường. Ông phải lựa chọn.

Và nền dân chủ đã đến từ bàn tay của Mikhail Gorbachev. Đương nhiên đó không phải là bàn tay sạch. Ông vốn là một trong những kẻ thống soái thể chế độc tài CS lớn nhất, gần một thế kỷ dìm nhân loại vào ác mộng.

Nhưng ông đã tỉnh ngộ, đã kịp thời hành động và được nhân loại mãi tri ân trên phương diện là người trực tiếp trả lại quyền dân chủ và tự do cho người dân. Lãnh đạo Liên bang Xô viết chỉ 6 năm nhưng nỗ lực của ông là không thể tính đếm. Ông đã giúp chấm dứt Chiến tranh lạnh, giải thể Liên bang Xô viết, làm sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa trái tự nhiên, chấm dứt gần một thể kỷ ác mộng của loài người trong chủ nghĩa cộng sản. Từ chỗ là một trong những thủ phạm lái con tàu độc tài cản trở phát triển, ông đã được trao giải Nobel Hòa bình và trở thành một anh hùng thời đại.

Có vô số ví dụ về việc con cưng của một thể chế chính trị - vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, đã thức tỉnh và đứng lên thay đổi thể chế ấy.

Có thể có nhiều người có khát vọng hơn họ, trong sạch hơn họ, nhưng không hội đủ nguồn lực và tài năng, đủ thủ đoạn chính trị để đốn vào tử huyệt của chính thể hiện thời.

Tại sao Myanmar - chế độ độc tài quân phiệt đã đi theo khuynh hướng tự do dân chủ? Ngoài những nỗ lực của bà Aung San Suu Kyi, ai mà ngờ được rằng Than Shwe, kẻ độc tài có nhiều nợ máu với người dân lại là kiến trúc sư của nền dân chủ hiện tại của Myanmar?

Tổng thống Thein Seinn đương nhiệm chính là người được tiền nhiệm Than Shwe, vị tổng thống được cho là tàn nhẫn nhất trong các nhà độc tài quân sự của Myanmar lựa chọn. Thein Sein đã có công thúc đẩy

cải cách thể chế chính trị này bằng việc thoát Trung và mở cửa, đi với Mỹ và phương Tây, bỏ cấm vận, dưới âm hưởng cách mạng mùa xuân A rập.

Nền dân chủ đa nguyên sơ khai của Việt Nam có thể đến qua tay một vài nhân vật nào đó trong đám cầm quyền độc tài hiện tại, khi họ tận dụng được sự đấu tranh của người dân, áp lực quốc tế và thời cơ, là điều hoàn toàn tin được.

Tốt nhất là có một Thánh Gióng. Nhưng Gióng là huyền thoại và chỉ biết đánh giặc rồi bay về trời.

Vậy thì cần những ai đó trong đám nhân quần, với những ưu nhược và vị thế sẵn có, dám sám hối và dâng tặng phần cuối cuộc đời mình cho dân nước Việt Nam, trước hết là cũng để cứu chính họ. Sao không là một vài người nào đó trong Tứ trụ “Sang Trọng Hùng Dũng?” Hoặc, sao không là Nguyễn Tấn Dũng?

Các vị này đã kịp hưởng thụ quá nhiều tiền rừng bạc bể mặn mồ hôi và

máu của dân Việt. Họ chỉ còn thiếu việc biết sám hối bằng hành động “để có danh gì với núi sông.” (Blog RFA)

  Báo chí và mạng xã hội đang ồn ào về vụ việc xảy ra tại khu công nghiệp thuộc tỉnh Hải Dương: một chiếc xe ủi đất của đoàn cưỡng chế đã đè lên người một phụ nữ làm bà bị thương. Theo thông tin mới nhất thì hoạt động thi công đã bị dừng và cơ quan công an huyện Cẩm Điền nơi xảy ra vụ việc đã vào cuộc điều tra làm rõ.

Ở Việt Nam suốt hàng chục năm qua, rất phổ biến tình trạng người dân khiếu nại phản đối thu hồi đất, nhiều trường hợp tập trung đông người chống đối việc cưỡng chế dẫn đến thương vong cho cả người dân và cán bộ chính quyền.

Vậy việc thu hồi đất có lý do chính đáng không, người dân thực hiện quyền khiếu nại có chính đáng không? Và trách nhiệm của quan chức chính quyền như thế nào trong những việc này?

Cảm nhận thực tếVài lần tôi đi công tác Bắc

Giang bằng xe khách từ bến xe Mỹ Đình, Hà Nội vào buổi sớm. Có rất

Số 224 Trang 18

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nhiều nam nữ công nhân cũng đi làm sớm, tôi thấy họ chào hỏi khi lên xe gặp nhau, họ nói chuyện nhỏ nhẹ với nhau hoặc có người ngủ gà gật trên xe. Tôi thấy họ xuống xe ở khu công nghiệp Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh nơi có nhà máy SamSung.

Khi đi qua các khu công nghiệp vào buổi sớm hoặc buổi chiều tan tầm thì thấy hàng vạn nam nữ công nhân đi ra đi vào, khi đó mới thấy được vai trò ý nghĩa lớn lao của các khu công nghiệp trong việc tạo việc làm cho lao động.

Nhiều người đã phải đi xa từ Hà Nội đến Bắc Ninh để làm việc cho thấy sự cần thiết của việc làm, nhiều bạn bè hay người thân của tôi từ Nam Định cũng phải đi làm công nhân trong các khu công nghiệp ở Bình Dương hay Tp Hồ Chí Minh.

Với những tình cảnh như vậy, tôi mong sao có nhiều nhà máy như SamSung ở Việt Nam. Và điều đó đặt ra sự cần thiết phải thu hồi đất.

Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp hay khu đô thị là điều tất yếu và chính đáng.

Vậy tại sao lại hay bị người dân khiếu nại phản đối, mà xem việc làm của người dân thì thấy họ nhận thức về việc làm của mình cũng có tính chính đáng đến mức chấp nhận hy sinh.

Khiếu nại chính đángBản thân tôi là một luật sư cũng

từng tham gia tư vấn cho người dân trong nhiều vụ khiếu nại thu hồi đất. Qua quá trình tham gia và từ thực trạng khiếu nại phổ biến, tôi thấy người dân không tin vào việc làm của giới cán bộ.

Kiếu nại thì có mấy nguyên do như cán bộ đo đạc kiểm đếm tài sản không đầy đủ, hay xác định sai địa vị pháp lý thửa đất nên áp khung giá bồi thường không đúng hoặc ngay bản thân khung giá đền bù bị cho là thấp nên dân không đồng tình.

Nhiều trường hợp người dân khiếu nại đúng và qua đấu tranh của luật sư đã buộc cơ quan giải quyết phải tăng mức bồi thường.

Ví như diện tích thửa đất thực tế lớn hơn so với số liệu trong giấy chứng nhận do người dân đã tôn tạo

khai khẩn thêm trong quá trình sử dụng. Hoặc các công trình phụ trợ cho việc trồng cây như đường ống nước máy bơm, mương bê tông đã xây, giếng nước đã khoan… không được kiểm đếm đưa vào đền bù.

Cũng có những trường hợp người dân khiếu nại do không đồng tình với dự án, không chấp nhận dự án và không chấp nhận cho thu hồi đất, ví như việc mở bãi rác gần khu dân cư của họ.

Việc người dân khiếu nại là quyền chính đáng thể hiện ý thức làm chủ và là một hình thức giám sát tạo áp lực buộc cơ quan công quyền phải đưa ra chủ trương chính sách hợp lý và việc thực thi phải minh bạch.

Tuy vậy thực tế cho thấy: đứng trước tình trạng người dân khiếu nại phổ biến, các cơ quan nhà nước đã tìm 'chiêu trò' để đối phó, thay vì đối diện để giải quyết thấu đáo tận gốc thì lại lảng tránh chối bỏ v/đ.

Ngăn chặn khiếu kiện?Luật Đất đai mới ban hành năm

2013 đã đưa vào quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất, nội dung này trước đó chỉ quy định trong Nghị định của CP, việc nâng cấp đưa quy định lên thành luật cho thấy đã có sự coi trọng v/đ thu hồi đất.

Theo quy định tại Điều 69 thì trong việc thu hồi đất, cơ quan nhà nước ban hành 2 văn bản quan trọng, đó là quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ. Theo luật mới thì người dân chỉ được gửi cho quyết định về việc bồi thường mà không được giao quyết định về việc thu hồi đất.

Nội dung này xem qua thì đơn giản nhưng có ý nghĩa lớn, theo đó người dân chỉ có khả năng đồng tình hoặc phản đối về mức bồi thường mà mất cơ hội bày tỏ ý kiến về quyết định thu hồi đất.

Tức là theo tinh thần của quy định mới thì bản thân việc thu hồi đất là không thay đổi được, mà người dân chỉ có khả năng có ý kiến về mức bồi thường mà thôi.

Vậy có thực là việc thu hồi đất hay bản thân các dự án luôn hợp lý

đúng đắn không? Và vì sao người ta vận động đưa ra quy định như vậy?

Mánh khóe tránh trách nhiệmLâu nay chính quyền chịu nhiều

áp lực từ việc khiếu nại. Để tìm cách ngăn chặn, trước kia thì họ không giao (mặc dù có quy định phải giao), nay thì họ thể hiện thẳng trong luật bỏ đi quy định dân được giao nhận quyết định thu hồi đất.

Trong khi khiếu nại là một hình thức giám sát đòi hỏi trách nhiệm giải trình của giới cán bộ và việc ngăn chặn người dân bày tỏ ý kiến liên quan đến quyền lợi chính đáng của họ, điều này sẽ chẳng mang lại gì tốt đẹp.

Kìm nén người dân khi họ cảm thấy sự bất chính trong hoạt động công quyền, điều này dẫn đến sự phẫn uất mà đã có tình trạng người dân tìm bắn cán bộ như sự việc đã xảy ra ở Thái Bình năm 2013.

Tinh thần của quy định luật là không muốn người dân khiếu nại về quyết sách thu hồi đất, vậy thử hỏi chất lượng quyết sách đến đâu mà đòi người dân im miệng đồng tình? Hãy khảo sát qua những số liệu được báo chí cung cấp sẽ thấy.

Bài báo ‘Lãng phí khu công nghiệp bỏ hoang’ trên báo Thanh Niên điện tử cho biết về tình trạng sử dụng đất của các khu công nghiệp. Theo thông tin bài báo thì từ Bắc đến Nam hầu như địa phương nào cũng có khu công nghiệp bỏ hoang gây lãng phí lớn.

Một khảo sát của chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp VN tại Cần Thơ cho thấy: Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 74 khu chế xuất (KCN) và 214 cụm công nghiệp (CCN) được đưa vào quy hoạch, xây dựng với tổng diện tích hơn 42.000 ha. Tuy nhiên, hơn 92% diện tích chưa đưa vào sử dụng. Phần lớn các KCN, CCN chỉ sử dụng khoảng 5-40% diện tích đất, số còn lại hầu như bị bỏ hoang phí.

Còn kết quả giám sát của thường trực Hội đồng Nhân dân (HĐND) tỉnh Quảng Trị cho biết: đối với doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu du lịch phần lớn sử dụng đất chưa đến

Số 224 Trang 19

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

50% diện tích đất được thuê và có nhiều sai phạm.

Chẳng hạn, tại KCN Nam Đông Hà có 9 dự án chưa sử dụng đất xây dựng giai đoạn 2 với diện tích 79.001 mét vuông, có 10 dự án sử dụng đất không đúng mục tiêu đầu tư với diện tích 12.330 mét vuông.

Còn theo bài báo ‘Danh tính các khu công nghiệp có nguy cơ bị thu hồi’ trên báo Hà Nội Mới điện tử thì theo khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hàng loạt khu công nghiệp ở các tỉnh, địa phương Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bà Rịa–Vũng Tàu, Khánh Hòa, Ninh Thuận v.v... nằm trong diện ‘có vấn đề’…

Động cơ lợi ích đằng sauNhững thông tin báo chí cho

thấy nhiều tỉnh thành phố đua nhau mở khu công nghiệp dẫn đến thừa mứa lãng phí, chứng tỏ nhiều quyết sách không hợp lý. Vậy nên người dân hoàn toàn chính đáng khi đặt dấu hỏi nghi ngờ về sự xác đáng của việc thu hồi đất thể hiện qua việc khiếu nại.

Ở phương diện quản lý đất nước, việc người dân khiếu nại là có lợi vì nó đặt ra nhu cầu phải đánh giá kiểm tra thật kỹ mỗi dự án, cái mà giới cán bộ vì mờ mắt lợi ích nên làm lơ ngó qua. Họ cũng e ngại lo sợ những bê bối sẽ bị phơi bày ra qua việc khiếu nại.

Có thể hình dung đa phần những dự án bỏ hoang trong các bài báo nêu trên là do các cấp chính quyền tỉnh thành phố phê duyệt và thu hồi đất. Họ đã đánh giá tính toán không kỹ các số liệu dẫn đến kết quả sai.

Mà cũng chính tầng nấc cán bộ này lại là chủ thể chính trong việc giải quyết khiếu nại. Do vậy họ đã tìm cách ngăn chặn người dân khiếu nại để giảm bớt áp lực, ngoài ra còn giúp giảm tránh trách nhiệm giải trình về các dự án.

Đối với họ thì dân khiếu nại về mức bồi thường thì không sao vì tiền do chủ đầu tư bỏ ra có thể bổ sung nâng lên, nhưng dân phản đối bản thân dự án thì không được vì phê duyệt và chịu trách nhiệm về dự án chính là họ.

Luật được thông qua bởi Quốc

hội nhưng nhiều khả năng các đại biểu không chú ý đến quy định này và không nhận ra thâm ý đằng sau, mà rồi lợi ích riêng của một tầng nấc cán bộ được bênh vực trong khi lợi ích chung thì gánh chịu hậu quả.

Giải pháp nào?Tình trạng nhiều khu công

nghiệp bỏ hoang và nhiều khu đô thị xây rồi bỏ không, cho thấy sự cần thiết phải để người dân được khiếu nại quyết định thu hồi đất, qua đó thẩm tra đánh giá lại tính xác đáng của mỗi dự án.

Và qua những khu công nghiệp có các nhà máy như SamSung lại cho thấy việc thu hồi đất là cần thiết tất yếu, trong khi việc khiếu nại của người dân cũng là chính đáng, vậy phải làm sao?

Theo tôi thì nhà nước cần làm mấy việc sau.

Thứ nhất là tăng cường chất lượng của các quyết sách, đánh giá kiểm soát thật kỹ mỗi chủ trương dự án để không xảy ra tình trạng thu hồi nhiều, mở nhiều khu công nghiệp để rồi cỏ mọc không hoạt động.

Thứ hai là tăng cường minh bạch trong việc triển khai thu hồi đất, lâu nay người dân bức xúc khiếu nại phần nhiều do không tin tưởng vào giới chức, nghĩ rằng có sự cấu kết ăn chia trên lưng trên cổ người dân.

Do vậy mỗi một dự án cần đưa nhiều đại diện cho người dân vào các ban bồi thường giải phóng mặt bằng, nhưng người đưa vào không phải là quan chức về hưu hay đảng viên biết nghe lời được chọn.

Điều đó giúp người dân yên tâm về dự án, giúp cho doanh nghiệp đỡ mất tiền bôi trơn cho cán bộ mà đúng ra tiền đó phải chảy vào ngân sách nhà nước.

Qua sự việc xảy ra ở Hải Dương cho thấy trách nhiệm của nhà nước vẫn là chính, phải làm sao để dung hòa được các vấn đề và qua đó đòi hỏi tầng lớp cán bộ phải có năng lực

và công tâm tức là đội ngũ cán bộ

phải có chất lượng.Có thế mới tránh được bi kịch

của thu hồi đất, trong khi giải quyết được vấn đề công ăn việc làm thì lại tạo ra vấn nạn mới là tình trạng bạo lực chống đối thu hồi đất.

Khi đọc bản tin hai du khách người Việt bị bắt vì ăn cắp ở mấy đôi kính mát ở Zurich, Thụy Sĩ tôi rất buồn. Ðã đi tính ăn cắp tại sao hai cháu không làm ăn “quy mô lớn xã hội chủ nghĩa” mà lại đi ăn cắp vặt như vậy? Về Hà Nội, “phấn đấu vào đoàn,” rồi “phấn đấu vào đảng” để làm những vố lớn có hơn không? Nếu sau này không được như Phùng Quang Thanh, Nguyễn Tấn Dũng, thì ít nhất cũng theo gót được Nguyễn Xuân Sơn chứ?

Sau Nhật Bản, Thái Lan, Ðài Loan, từ nay lại thêm Thụy Sĩ là nơi người ta phải cảnh giác khi thấy du khách người Việt Nam. Sỉ nhục cho cả dân tộc! Nhưng nghĩ cho cùng, không phải mấy cá nhân phạm pháp gây ra mối nhục này; họ cũng là nạn nhân. Chính phạm là một chế độ ăn cắp từ trên xuống dưới, lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ!

Khi trở về Hà Nội, chắc hai cháu đã nghe tin Nguyễn Xuân Sơn. Mấy bữa trước còn chễm trệ trên ghế chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PetroVietnam), giờ Sơn đang bị truy tố về tội “làm mất” 800 tỷ đồng (tương đương 36 triệu Mỹ kim) của công ty dầu khí, khi còn làm tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Ðại Dương (OceanBank).

Nguyễn Xuân Sơn đã làm trong ngành dầu khí từ 30 năm. Ông trở thành tổng giám đốc OceanBank sau khi PetroVietnam góp số vốn lớn vào ngân hàng này, có lúc chiếm hai phần ba vốn góp. Một công ty dầu khí lại đi khai thác ngân hàng, cũng như một công ty hàng hải Vinashin đi làm khách sạn, mua địa ốc, vân vân. Ðó là chính sách kinh tế quốc doanh của Nguyễn Tấn Dũng: Chúng mày làm cái gì ra tiền

Số 224 Trang 20

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thì cứ làm! Trong một năm từ 2008 khi Nguyễn Xuân Sơn nhậm chức, số nợ xấu của Ocean Bank tăng gấp 9 lần, lên hơn 100 tỷ đồng! Ðến năm 2012 thì vọt thành 700 tỷ. Nợ xấu là những món tiền ngân hàng cho vay nhưng khó đòi lại được, để lâu “cứt trâu hóa bùn.”

Thế thì 100 tỷ đồng năm trước, 700 tỷ đồng bạc năm sau, chúng chạy đi đâu cả? Chắc chắn nó vào túi những thằng đứng vay cũng như những thằng cho vay! Cái đứa chấp thuận cho vay còn phải “đóng hụi chết” cho những đứa ngồi trên đầu nó nữa, chứ không ai cho ngồi vào những cái ghế béo bở!

Nhưng mà các đồng tiền ấy nguyên thủy chúng ở đâu mà ra? Như trong vụ này, họ lấy tiền của Petro Vietnam đưa qua cho Ocean Bank. Mà PetroVietnam kiếm được tiền nhờ bán dầu của nước Việt Nam, của dân Việt Nam. Ðồng tiền của dân chạy sang một ngân hàng của nhà nước, rồi từ đó chạy qua túi những đứa đứng vay tiền và cho vay tiền! Những người “phấn đấu vào đảng” mới có cơ hội hóa phép cho các đồng tiền chạy lòng vòng, cuối cùng biến chúng lọt vô túi mình một cách dễ dàng như vậy! Ngân hàng chỉ là cái dây chuyền đem tiền của dân vào túi bọn tham nhũng! Hàng ngàn tỷ đồng tiền mất tích! Mà 90 triệu người Việt Nam không ai thấy gì cả, cho tới khi chúng nó đánh lẫn nhau! Ðó là phép lạ kinh tế thị trường theo định hướng ăn cắp!

Nguyễn Xuân Sơn đã trở về PetroVietnam khi nợ xấu mới lên tới 700 tỷ, rồi leo lên đến chức chủ tịch, chứng tỏ cán bộ tài chánh này đã được cấp trên tán thưởng và tin cậy. Nhưng với những món nợ không đòi lại được cao ngất nghểu thì tất nhiên sau khi Sơn chạy rồi, OceanBank chỉ còn đường xuống dốc. Từ cuối năm ngoái, những người kế nghiệp ông ta ở ngân hàng là Hà Văn Thắm và Nguyễn Minh Thu đã bị bắt, bị truy tố. Mới đây, ngân hàng trung ương gọi là Ngân hàng Nhà nước báo tin đã mua lại tất cả vốn và nợ của Ocean Bank với giá 0, số không, zero đồng! Tức

là tất cả số vốn do PetroVietnam góp vô đó tan thành mưa bụi, thành mây khói. Ðây không phải là lần đầu có chuyện này mây mưa như vậy. Năm tháng trước, Ngân hàng Nhà nước mới “mua lại” Ngân hàng Xây dựng với giá cũng zero đồng - chủ tịch cũ

Phạm Công Danh với tổng giám đốc Phan Thành Mai đã bị bắt vào năm ngoái!

Ðọc những tin tức trên, chúng tôi tội nghiệp hai cô chú bị bắt ở Zurich, hay những người ăn trộm chó bị bắt ở Ðài Loan, những cô tiếp viên phi hành xinh đẹp bị cùm ở Nhật Bản! Toàn là những món trộm cắp lặt vặt, không bao giờ tiến lên chủ nghĩa xã hội được! Mà bọn họ tất cả đều là nạn nhân, vì họ chỉ nhiễm độc thói sống bằng cách ăn cắp, thăng quan tiến chức nhờ ăn cắp, trong một xã hội mà bọn cầm đầu từ trên xuống dưới đứa nào cũng phải ăn cắp!

Nhắc lại: Phải ăn cắp! Vì không ăn cắp thì không sống được trong hệ thống “đạo kiếp trị” (kleptocracy) đó. Một người cháu sống ở Hà Nội đã giải thích cho tôi tại sao đường sá ở Việt Nam mới làm năm trước năm sau đã hư: “Khổ lắm bác ơi; nước mình nó khác nước Mỹ! Nếu bác làm đường mà cả mười năm không chỗ nào hư hỏng thì chúng nó làm thế nào kiếm ăn được? Không đứa nào nó cho bác trúng thầu đâu! Mỗi năm chúng nó phải kiếm một món về đường sá, một món về trường học, một món nhờ chỗ này, nhờ chỗ khác chớ?”

Ai cũng biết Hồ Chí Minh không phải là tác giả câu “Bách niên chi kế mạc như thụ nhân.” Nhưng chế độ cộng sản do ông lập ra ở nước ta đã đẻ thêm được một kế mới, Quản Trọng đời xưa không thể nào bịa ra được: “Niên niên chi kế mạc như tu lộ!” Thế là “Người người ăn cắp, ngành ngành ăn cắp,...” Nền văn hóa ăn cắp xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ bản này: Nhìn lên trên thấy đứa nào cũng ăn cắp,

những người lương thiện tự hỏi: Tại sao mình “ngu” mãi để cho cái chúng nó thèm thuồng? Thèm từ đôi kính mát Gu gu Chi chi chi đó!http://www.bbc.com/vietnamese/

Chế độ và lãnh đạo ăn

cướp ăn cắp đương nhiên sinh ra nền văn hóa và một xã hội đầy

ăn cắp ăn cướp !!!Tự do báo chí hay tự do thông

tin, trong đó có quyền hoạt động của báo chí tư nhân là một trong những quyền cơ bản nhất của con người.

Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam (VN) đã ký cam kết thực hiện quy định: “Mọi người đều có quyền giữ vững quan điểm chính trị mà không bị can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do thể hiện; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng của tất cả các loại, không kể biên giới, bằng miệng, bằng văn bản hoặc ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác của sự lựa chọn của mình”.

Chỉ có những quốc gia tàn bạo thì mới cấm đoán quyền ấy. Và liệu tự do báo chí ở VN hiện nay có thua cả thời phong kiến, thực dân?

Ngay từ thế kỷ thứ 13, trong Đại Hiến chương của Vương quốc Anh đã có quy định về tự do ngôn luận.

Năm 1740, vua Pháp cũng đã ban thánh chỉ cho phép nhân dân có quyền tự do ngôn luận, báo chí tư nhân được xuất bản và người dân còn có thể châm biếm nhà vua.

Tại Việt Nam, thời phong kiến và thực dân Pháp cai trị, năm 1865 đã có báo chí tư nhân, đầu tiên là tờ Gia Định báo.

Thời chính quyền VN Cộng hòa từ vĩ tuyến 17 trở xuống miền Nam Việt Nam, báo chí tư nhân đương nhiên hoạt động vì các chính thể

Số 224 Trang 21

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

này đã ý thức được rằng chỉ có những kẻ tàn bạo và man rợ thì mới dám cướp đoạt quyền đương nhiên này của con người.

'Là một tội ác'Khi chỉ chọn kỷ niệm Ngày Báo

chí Việt Nam là 21/6, ngày ra đời tờ báo cộng sản đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1925 và từ năm 2000 lại đổi thành 'Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam', nhà cầm quyền rõ ràng đã ngang nhiên "bắn súng lục vào quá khứ“.

Tất cả những gì không cộng sản, báo chí không làm cái loa tuyên truyền cho Đảng thì không được phép tồn tại dù đó là sự thật lịch sử!

Vì thế, năm nay kỷ niệm 90 năm ngày 'Báo chí cách mạng VN', với người Việt Nam thì chỉ là kỷ niệm đớn đau đã 90 năm dân Việt Nam bị cướp đoạt quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Đảng, Quốc hội và chính phủ VN luôn là kẻ thù của báo chí tư nhân và tự do ngôn luận. Ngay trong năm 2015, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định không thể có báo chí tư nhân ở VN.

Bộ trưởng Bộ thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Sơn cũng đã nhiều lần nói về điều này. Bộ này còn chuẩn bị một văn bản dưới luật để chấm dứt ngay cả những liên kết của tư nhân bỏ vốn ra làm báo dưới sự quản lý của những tờ báo “quốc doanh” sặc tính Đảng.

Dự thảo Luật báo chí năm 2015 để trình Quốc hội thông qua vào cuối năm nay đã kiên quyết không cho phép thành lập báo chí tư nhân.

“Tuy nhiên, cho đến lần sửa đổi này, dự thảo Luật Báo chí vẫn chưa thừa nhận báo chí tư nhân... Đáng tiếc dự thảo luật lần này không những không đưa ra được quy định điều chỉnh tình trạng nói trên mà còn tăng thêm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và chi phí xã hội bằng quy định tại điều 7 về việc lập Quỹ hỗ trợ phát triển báo chí…”, trích tham luận của Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết tại Hội thảo tham vấn chuyên gia về dự thảo Luật Báo chí, ngày 10-7-15.

Dự thảo nói trên đã vi hiến và

còn tệ hơn Luật Báo chí hiện hành vốn đã đầy tai tiếng về bóp nghẹt tự do báo chí.

Việc vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam, trong đó có hành vi "vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí, tự do chính trị, độc tôn, độc quyền độc đảng" chính là một trong những tội ác chống lại loài người theo tiêu chí của Nghị quyết 1481 của Hội đồng Nghị viên của Ủy hội Châu Âu gồm 48 quốc gia.

Thiết nghĩ không có lý do gì để nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục ngang nhiên cưỡng đoạt quyền tự do báo chí của người dân qua hình thức quản lý tinh vi là cấm đoán báo chí tư nhân.

Có quyền khởi kiệnMọi người dân VN đều có quyền

khởi kiện nhà cầm quyền VN ra tòa án VN và tòa án quốc tế về hành vi vi phạm Hiến pháp, vi phạm Luật báo chí cũng như vi phạm quyền con người mà một trong những hình thái tinh vi của việc đó là cấm đoán báo chí tư nhân.

Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục cấm đoán báo chí tư nhân, Việt Nam không thể đủ tiêu chuẩn tối thiểu để vào Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình dương (TPP).

Và người Mỹ, cũng như dư luận Mỹ, cũng như chính phủ, công luận ở các quốc gia khác đang quan tâm gia nhập TPP cũng cần biết điều này. Nếu VN muốn vào TPP, một điều mà nhóm lợi ích tham nhũng cũng đang rất khao khát, thì buộc phải đưa việc thừa nhận báo chí tư nhân vào trong Luật báo chí sửa đổi và trong các văn bản luật khác.

Trong Luật đó cũng phải có quy định về tội cấm đoán, ngăn trở, xâm hại quyền tự do báo chí của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào lợi dụng danh nghĩa của việc quản lý báo chí để sai khiến, cấm đoán, bảo kê, bưng bít thông tin báo chí.

Những điều luật này phải có hiệu lực ngay lập tức khi thông qua, để không bị những văn bản dưới luật ngăn cản.

Và để đảm báo công bằng trong

quản lý và hoạt động báo chí, Quốc hội Việt Nam cần ban hành điều luật xóa bỏ bao cấp trong báo chí dù bằng hình thức tiền ngân sách hoặc cho phép độc quyền lĩnh vực, bảo kê, tài trợ v.v... để mua báo bằng tiền thuế của dân.

Treo trên nút bấmNếu Việt Nam muốn Mỹ và các

nước công nhận là nền kinh tế thị trường, điều mà thực ra nếu được công nhận trong thời điểm hiện nay thì sẽ là một tranh cãi lớn, thì trước hết, cần tư nhân hóa báo chí một cách triệt để.

Khi đó, cơ quan nhà nước sẽ chỉ quản lý báo chí theo luật và Hiến pháp.

Sẽ tiết kiệm được một số tiền khổng lồ cho người dân Việt Nam đầu tư vào phát triển.

Khi đó đội ngũ hành nghề báo chí bao cấp, Tuyên huấn, Tuyên giáo… và tư tưởng Mác-Lê cùng Hồ Chí Minh… sẽ có việc khác tử tế hơn để sống, thay cho công việc lâu nay của họ là chỉ vì miếng ăn và sợ hãi mà phải 'dối trá', nói và làm điều 'đi ngược với lòng mình', hay làm những việc có thể bị coi là 'thiếu lương thiện', gây hại vô kể cho xã hội, cản trở phát triển.

Rõ ràng là rất khó, nhưng lại quá dễ vì chỉ ở một câu nói thôi và treo trên đầu lưỡi nhà cầm quyền Việt Nam, trên đầu ngọn bút, nút bấm của Quốc hội Việt Nam.

Liệu Quốc hội dám nhận lãnh trách nhiệm lịch sử này, mở cửa đột phá, hay lại tiếp tục 'đá quả bóng' của nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác, do e ngại Đại hội Đảng 12 vẫn chưa diễn ra?

Gần trăm năm đã qua đi, nhà cầm quyền Việt Nam không thể tiếp tục những hành vi tội ác chống lại loài người đang bị hầu hết thế giới lên án như vậy.

Cuối cùng, nhân đây, thiết nghĩ cũng nên nhắc lại lời mà Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Tiến sĩ Nguyễn Quang A, những người đã tham gia biểu tình ủng hộ quyền tự do báo chí ở Việt Nam đã đưa ra trong tuyên bố trên truyền thông quốc tế đầu năm 2015, điều mà tôi nghĩ rất

Số 224 Trang 22

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hợp lẽ công bằng.“Chúng tôi quyết liệt phản đối

kẻ nào muốn chống lại nền báo chí tự do bằng bất cứ hành vi đê mạt nào và ở bất cứ địa điểm nào trên thế giới và giành tiếng nói tự do cho thế giới văn minh”, hai ông Huệ Chi và Quang A nói.

KIỂM DUYỆT BÁO CHÍ TẠI VN(theo Wikipedia tiếng Việt)Tại miền Bắc trước 1975 và cả

nước Việt Nam từ 1975 đến nay, trong các luật liên quan đến báo chí không bao giờ chính thức chấp thuận có sự kiểm duyệt báo chí, song trên thực tế, báo chí đã bị kiểm soát từ đầu bằng các luật khắt khe và lãnh đạo cũng như nhân viên báo phải tự kiểm duyệt. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm năm 1956 thì các nhà văn bị bắt bị ghép với tội danh "phá hoại mặt trận lý tưởng của Đảng." Bị cáo phải trải qua những đợt chỉnh huấn, tự kiểm điểm và cải tạo tư tưởng hoặc học tập lao động nếu không thú nhận tội.

Trước thời kỳ Đổi mới thì trên toàn quốc báo Nhân dân nắm địa vị là tờ báo lớn nhất và cũng là cơ quan ngôn luận của Đảng CSVN nên chỉ đưa tin nào phù hợp với đường lối của đảng. Tất cả các cơ quan chính phủ và tổ chức của Đảng đều phải chi mua một ấn bản của tờ báo này. Hai tờ báo Quân đội nhân dân và Hà Nội mới do nhà nước điều hành cũng theo quy chế bắt mua.

Sau thời kỳ Đổi mới, đối với những báo chí khác thì nhà nước không trực tiếp soạn bài nhưng các chủ nhiệm ban biên tập của khoảng 100 tờ báo trong nước phải trình diện mỗi tuần ở Bộ Thông tin và Truyền thông để nghe chỉ đạo. Ngoài ra Bộ Thông tin còn duyệt lại những tin nào đã phát rồi nhưng bị xét là "tiêu cực" nên cần báo chí phải ngưng đưa tin. Sự kiểm soát này áp dụng cho báo chí, vô tuyến truyền thanh, truyền hình và cả internet. Buổi họp nêu rõ từng trang, từng dòng không hợp với quan điểm nhà nước và được coi như lời cảnh cáo. Báo chí nào bất tuân sẽ bị kỷ luật như trường hợp báo Thanh niên và báo Tuổi trẻ trong vụ PMU 18.

Tương tự như vậy vào cuối năm 2012 trong bối cảnh tranh chấp các hải đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc ngoài Biển Đông càng căng thẳng, Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương ĐCSVN đã ra thông cáo răn đe các nguồn thông tin trong nước như Đài Truyền hình Việt Nam cùng các báo như Thanh Niên, Lao Động, Tiền Phong

đã phát tin về vụ tàu Bình Minh bị tàu Trung Quốc cắt cáp. Những cơ quan thông tin này sẽ phải chịu kỷ luật vì "làm nóng vấn đề".

Trước năm 2006 thì chính ban Văn hóa-Tư tưởng TW của Đảng CS giữ vai trò hoạch định cho báo chí đề tài nào cần triển khai, quảng bá, cấm kỵ hoặc dẹp bỏ nhưng sau đó Bộ Thông tin đảm nhiệm tuy rằng Ban Văn hóa vẫn có chân trong việc kiểm soát báo chí.

Ngoài cách kiểm soát trên, nhà nước VN còn ứng dụng cách kiểm duyệt qua cơ quan chủ quản như tạp chí Vietnam Golf do Ủy ban nhân dân Hà Nội phát hành thì Ủy ban nhân dân đó phải chịu trách nhiệm kỷ luật. Bằng những biện pháp trên nên tuy không có văn bản kiểm duyệt chính thức nhưng theo Reporters Sans Frontières thì Việt Nam là một trong 10 quốc gia có chỉ số thấp nhất trong số 170 nước về phương diện tự do báo chí.

Những nhà hoạt động vì quyền

con người tại Việt Nam cho biết họ phải đối diện với những biện pháp sách nhiễu, thậm chí hành hung, bỏ tù của chính quyền. Thế nhưng càng bị trấn áp bao nhiêu họ lại càng kiên định và mạnh mẽ hơn trên con đường đã chọn.

Hành động phi phápTình trạng ngăn chặn, sách nhiễu

và hành hung đối với những người công khai lên tiếng đấu tranh cho mọi quyền căn bản của con người tại Việt Nam diễn ra mới nhất là vào ngày 25 tháng 7 khi nhiều người trong nước hưởng ứng ngày tổng tuyệt thực kêu gọi trả tự do cho những tù nhân lương tâm trong nước.

Lực lượng an ninh tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa cưỡng bức về đồn công an một cách thô bạo những nhà hoạt động đến tại công viên bãi biển trên đường Trần Phú để tọa kháng tuyệt thực theo như thông báo từ trước.

Anh Phạm Văn Hải, một trong số những người bị đưa về đồn công an phường Lộc Thọ sớm nhất kể lại sự việc đối với bản thân anh và những hành vi của lực lượng chức năng mà anh này cho là vi phạm nhân quyền:

“Tôi vẫn yêu cầu phải trả tự do cho tôi sớm chứ tôi không muốn ngồi ở đó. Tuyệt thực là quyền của tôi và tôi muốn tuyệt thực ở ngoài kia chứ không phải ở đây. Thế nhưng họ nhất quyết không trả tự do và những lần tôi đi toilet họ đều đi theo và đứng ngoài cửa. Họ vi phạm đến quyền cá nhân của mình một cách rất nghiêm trọng.”

Chị Trương Hoàng Anh, một trong nhóm tại Nha Trang bị cưỡng bức phải về đồn và bị hành hung cùng với ba người bạn khác là Nguyễn Phi Tâm, Võ Trường Thiện và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trình bày lại sự việc xảy ra vào sáng ngày 25 tháng 7 khi họ ra công viên bãi biển đường Trần Phú để tọa kháng tuyệt thực:

“Khi đến, tôi thấy công an, an ninh, dân phòng rồi cả công an giao thông dàn quân ra bao vây hết khu đó rồi. Bốn người không làm gì hết chỉ ngồi trên bãi có chỗ lối đi ở công viên, ngồi chơi chứ không làm gì. Đến hơn 9 giờ, tức 9 giờ bắt đầu tuyệt thực, thì họ ập lại họ đánh, họ gây sự lôi từng người ra đánh. Họ lột áo màu trắng đồng phục ra.

Hôm qua thực sự tôi mới thấy công an đánh dã man thật. Trước đây tôi có nghe anh em bị đánh nhưng chưa nhìn thấy bao giờ hết. Họ như những con thú điên: họ đánh, đá bất kể là phụ nữ, đàn ông gì, họ đánh như vậy!”

Chuyện thực nhà tùVào sáng ngày hôm qua, một tù

nhân lương tâm mãn án sau 15 tháng tù về tội bị buộc là ‘chống người thi hành công vụ’, bà Cấn Thị Thêu. Ngay sau khi ra tù, bà cho biết tình cảnh của bản thân bà và một số tù nhân lương tâm nữ bị giam tại Trại 5 Yên Định, Thanh Hóa như sau:

“Họ giam chúng tôi vào một khu biệt lập, phải qua 4 tầng cửa sắt mới vào được nơi ở của chúng tôi. Họ xây tường rất cao, cửa sắt nhỏ, không có quạt nên rất ảnh hưởng đến sức khỏe. Đối với bản thân tôi từ khi bị bắt, bị đánh cho đến nay, ngày nào cũng ‘thổ’ ra máu tươi; nhưng tôi báo với họ thì họ nói chắc

Số 224 Trang 23

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

do trở trời.Giam chúng tôi sau bốn tầng

cửa sắt không cho giao tiếp với ai, khi gọi điện thoại thì họ cấm không cho thông báo tình hình sức khỏe của chúng tôi ở trong tù. Nơi giam chúng tôi rất bí, không có không khí để thở”.

Biện pháp mua chuộcAnh Phạm Văn Hải cho biết

ngày 25 tháng 7 anh công khai tham gia tuyệt thực để hưởng ứng lời kêu gọi trả tự do cho những tù nhân lương tâm tại Việt Nam, và khi bị bắt về công an phường Lộc Thọ. Trong khi anh tuyệt thực, có nhân viên đến dụ anh ăn:

“Họ đặt camera và có người đến bảo đến giờ này nên ăn gì. Tôi từ chối tất cả và nói việc tôi tuyệt thực để thứ nhất đòi lại tự do cho những tù nhân lương tâm đang bị giam, mất quyền tự do và tôi tuyệt thực nên kiên quyết không ăn gì!”

Đối với trường hợp bà Cấn Thị Thêu kiên quyết đấu tranh đòi lại đất đai tư liệu sản xuất cho gia đình và người dân Dương Nội, trong thời gian bị bắt giam bà cũng bị mua chuộc từ bỏ cuộc đấu tranh. Bà cho biết:

“Khi tôi bị bắt, nhiều ngày suốt bao tháng trời họ thương thuyết với tôi rất nhiều: họ bảo ‘giúp’ họ thì sẽ giải quyết riêng cho gia đình tôi, họ có thể cho gia đình tôi vài chục tỷ đến cả trăm tỷ để không tham gia cuộc đấu tranh nữa. Nhưng tôi nói thẳng với họ tôi không thể phản bội lại nhân dân chúng tôi, không bao giờ tôi phản bội lại lý tưởng đấu tranh của tôi. Vì không thuyết phục được tôi nên họ mới đưa tôi ra tòa và lập phiên tòa để xét xử tôi”.

Không thể cản ngănNhững người bị tù tội như bà

Cấn Thị Thêu hay bị hành hung, sách nhiễu như chị Trương Hoàng Anh ở Nha Trang đều cho rằng chính hành động nặng tay của các lực lượng chức năng lâu nay khiến họ nhận thấy rõ bản chất tàn ác và củng cố thêm quyết tâm đấu tranh cho chính nghĩa, cho quyền con người.

Chị Trương Hoàng Anh vào

ngày 26 tháng 7 phát biểu:“Những người như tôi không thể

khuất phục bằng vũ lực được và tôi tin tưởng bạn bè tôi cũng không bao giờ để vũ lực khuất phục. Chắc chắn tôi và bạn bè tôi sẽ có những hành động hợp pháp, đúng pháp luật, đúng với lương tâm của mình để ủng hộ những tù nhân lương tâm và để ủng hộ nền dân chủ của Việt Nam thay đổi chứ không thể để như thế này được: vi phạm nhân quyền quá trắng trợn. Hôm qua người dân chứng kiến rất đông. Tất nhiên khi về họ sẽ suy nghĩ tại sao xảy ra những chuyện như vậy và họ sẽ biết. Dần dần người ta sẽ hiểu thôi!”

Bà Cấn Thị Thêu ngay sau khi ra tù cũng khẳng định:

“Đối với tôi từ khi bị bắt, cho đến khi ra tòa, lúc họ cho tôi nói lời cuối cùng thì tôi thề còn hơi thở cuối cùng nào tôi sẽ đấu tranh đòi lại tài sản, đất đai của gia đình tôi và của nhân dân chúng tôi. Tôi quyết tâm đấu tranh để chống lại quân cướp đất đến cùng

Tôi nghĩ rằng khi họ gây ra quá nhiều tội ác: đàn áp, đánh đập chúng tôi thì chính họ mới thúc đẩy lòng căm thù và ngọn lửa đấu tranh để người dân vùng lên chống lại họ.

Tôi nghĩ rằng nhân dân chúng tôi với sự quyết tâm, với hiện tại chúng tôi không còn gì để sống thì nhân dân chúng tôi phải như nước vỡ bờ vùng lên để đòi lại những gì mà chúng tôi đã mất.”

Tuyên giáo Hà Nội luôn nhắc đến câu ‘ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh’; và thực tế này đang diễn ra ngày càng một rõ hơn tại Việt Nam hiện nay.

Ở bài trước tôi mạo muội nhận xét: với tầm hoạt động như hiện nay các nhà đối kháng sẽ không bị bắt đi tù. Tôi nói điều này dựa trên các dữ liệu. Từ năm 2014 đến nay, chưa ai ngồi tù vì viết hoặc đi biểu tình trong khuôn viên của XHDS. (Ta không nói đến một người tên là

Nguyễn Đình Ngọc, được suy diễn là tác giả Nguyễn Ngọc Già, thường viết cho DLB. Suy diễn trên không chứng minh được vì viết mà ông Nguyễn Đình Ngọc bị bắt. Nếu hai cái tên trên chỉ thị một người thì ông bị bắt vì dùng tên ảo). Tất cả các tác giả đã đang viết bằng tên thật, kể như nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt chỉ 3 tháng rồi cũng được thả ra. Ngay như 8, 9 năm trước cộng sản cũng hạn chế bắt tù người viết, chỉ tìm cách ngăn chặn phương tiện để trình bày bài viết là chính. Hầu như ông Nguyễn Thanh Giang cả đời đấu tranh bằng viết, nhưng tệ hại nhất với ông vẫn chỉ là 6 tháng tù không án. Ngược lại một chàng thanh niên chưa viết giòng nào nhưng chỉ vận bộ đồ quân lực VNCH phô ra chỗ đông người là bị bắt và kết án liền.

Trường hợp của tôi cũng vậy.Trong cáo trạng dùng để kết án tôi tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, viện Kiểm sát tối cao của đảng cộng sản liệt kê ra được 57 bài viết gồm bút ký, thơ, bình luận chính trị, xã hội... Vì họ không thấy những bài viết của tôi nguy hại cho họ, nên họ chỉ khống chế, khủng bố các hành vi mang tính hành động của tôi chứ không bắt. Chỉ khi tôi tổ chức treo biểu ngữ giữa phố, họ mới bắt tôi và bắt cả các đồng sự đi treo biểu ngữ của tôi, mặc dù trong đó vài người không viết một bài nào. Ròng rã hơn 2 năm trời, tôi viết một số lượng bài cũng không nhỏ và độ gay gắt cũng không ít nhưng tôi không bị bắt khiến có một đồng sự loan tin tôi là người của an ninh. Tôi đã phải đặt lại câu hỏi cho người đưa chuyện: - Nhiệm vụ đầu

tiên của cơ quan an ninh là phải bịt mồm người nào dám nói đảng cộng sản thối tha... Vậy tại sao họ đưa một người của họ ra làm cái việc họ đang chống?

Ngay đến tôi cũng hoài nghi. Câu hỏi “tại sao chúng không bắt mình” luôn có trong đầu tôi thời

Số 224 Trang 24

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

gian này. Tôi đã nhìn thấy cánh cổng nhà tù từ bài viết đầu tiên mà viết mãi vẫn chưa đi đến. Càng viết và càng đọc của người đi trước, tôi càng nhận ra trong các bài viết của tôi chỉ là sự lặp lại (bằng văn phong, cấu trúc khác) của các vị đã đi trước như Bùi Tín, Trần Khuê, Hà Sỹ Phu, Nguyễn Thanh Giang. Chỉ ra sai lầm của học thuyết Mác, các hành động tàn bạo của phe cộng sản! Tại sao phải có dân chủ, tại sao phải xa Trung Quốc để ngả về khối tự do...! Chỉ cần kìm hãm cơn cảm hứng là tôi nhận ra tôi lặp lại người khác. Tôi nhận ra thêm một điều khác nữa: Máy tính gia đình thời ấy còn ít. Máy tính được nối mạng không nhiều; tường lửa bị chính quyền giăng liên miên, kiên trì và kiên cố. Cho nên các bài viết không được phổ biến, không gây nguy hiểm và đó là lý do tôi và nhiều người nữa không bị bắt. Từ đó, song song với viết, tôi lựa chọn các bài viết thích hợp để nhân bản phát tán. Khi các ông Nguyễn Thanh Giang, Linh mục Phan Văn Lợi, Chị H... liên hệ với tôi, tôi đã phôtô bán nguyệt san của các tổ chức đảng phái kể trên ra hàng trăm bản một lần. Một tháng 2 kỳ vợ chồng tôi bật máy phôtô vào lúc nửa đêm, phôtô, ghim kẹp, bao gói chúng ra từng tập để sáng hôm sau, ông Vũ Cao Quận, ông Nguyễn Mạnh Sơn (HP), anh Nguyễn Văn Túc (Thái Bình) cho người đến nhận. Tôi nói không ngoa, một lần tôi đã phát tán các bài viết chống cộng sản rất rộng rãi và công khai trong đám cưới của một cô cháu là hội viên hội nhà văn Hải Phòng. Hôm sau công an Hải Phòng đi đến từng nhà văn, nhà thơ thu gom các bài viết kia và cảnh cáo người đọc, trong khi tôi, người phát tán, họ lại “để đấy”...

Tôi đồng tổ chức và tham dự các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, tôi ghi hình, trả lời PV, tường thuật trực tiếp diễn biến các cuộc biểu tình mặc máy quay của an ninh chĩa sấn sổ vào tận mặt. Đặc biệt cuộc biểu tình ngày 29-4-2008 tại cổng chợ Đồng Xuân chống cuộc rước

đuốc Olympic Bắc Kinh, tôi đưa 7 thanh niên từ Hải Phòng lên Hà Nội tham gia. Cuộc biểu tình bị đàn áp ngay từ vài phút khởi phát. Chúng tôi bị bắt, bị đánh đập dã man trong đồn công an chợ Đồng Xuân... Bảy cháu đều khai tôi tổ chức, chi tiền, may áo, làm biểu ngữ, ăn, tàu xe… Nhưng các cháu càng khai ra tôi sớm tôi càng được thả sớm.

Từ đó tôi càng nung nấu ý tưởng: Nếu không gian dân chủ đã được nới rộng, tại sao mình không nhô đầu lên để chạm trần?

Tôi hăng say nghiên cứu để thực hiện các hành vi tuyên truyền chống cộng sản ngoài bàn phím. Tôi tổ chức thả bóng bay ngay tại cửa bưu điện Bờ Hồ trước ngày đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ tại Hà Nội. Hơn 10 chùm bóng bay từ từ lên cao mang theo các biểu ngữ nội dung đòi nhân quyền cho nhân dân Việt Nam (bằng tiếng Việt và tiếng Anh). Có những chùm bóng bị chặn lại bởi vòm cây xanh, biểu ngữ thả xuống tầm mắt người tham gia giao thông hàng chục phút. Ngày hôm sau báo An ninh Thủ đô phải trấn an người đọc “không có chuyện bọn phản động thả bóng bay” giống như hôm qua chính quyền Hải Dương họp báo không có chuyện xe xúc cán qua người bà Vũ Thị Trâm...

Tôi tổ chức treo biểu ngữ, rải truyền đơn trên các cầu vượt tại Hải Phòng và Hải Dương, đồng thời gian, tôi cùng cô Phạm Thanh Nghiên đệ đơn xin phép biểu tình chống lạm phát và kiện UBND Tp Hà Nội ra tòa vì không cấp phép biểu tình.

Xin nói rõ hơn, ý tưởng treo biểu ngữ trên cầu vượt không phải do tôi nghĩ ra. Trước tôi 10 ngày nhà giáo Vũ Hùng đã treo một tấm tại cầu vượt Nam Thăng LongHà Nội. Hiệu ứng của lần đó không cao. Tôi cũng không hiểu tại sao thầy giáo không thông tin về nó cho các cơ quan truyền thông? Riêng tôi, tôi đã làm tất cả để các hành vi chính nghĩa của nhóm tôi được phổ biến, lan truyền rộng rãi ở mức có thể. Tôi đưa ảnh, viết bài, làm thơ về nó. Cách của tôi là khi thực hiện thì bí

mật để không bị cản trở. Thành công thì bất kể bị lộ, bị bắt...

Tôi và các chiến hữu đã bị bắt...Khi đã vào tù, chúng tôi mới có thời gian kiểm tra lại sự việc. Thầy giáo Vũ Hùng nói là “chấn động địa cầu’ và tin cộng sản sẽ đổ sớm. Tôi không lạc quan đến như vậy, nhưng rất tự hào với các hành vi nổi bật chúng tôi đã làm được. Tuy nhiên có người phê phán tôi chỉ treo một cái biểu ngữ mà huy động đến 6 người để bị vào tù ráo trọi, gây tổn thất về nhân sự cho phong trào... Tôi giải thích trở lại rằng đi tù cũng là một hành vi đấu tranh. Nếu không có người đi tù, truyền thông nào nói đến chúng ta, người dân nào không có internet biết đang có những người đấu tranh cho quyền làm người của họ? Ai chứng kiến được chúng ta đại diện cho những người hoạt động dân chủ đang đứng trước vành móng ngựa của chính quyền độc tài phản dân chủ? Những ai nhận thấy họ tồn tại ngoài nhà tù có ích hơn cho phong trào dân chủ cứ việc! Ai thấy bản thân bị mất tự do sẽ cho nhiều người được tự do hơn cứ tự nguyện.

Tôi rất vui khi nghe tôi lập luận, anh Nguyễn Kim Nhàn đã thốt lên; “Nếu anh nói với em trước, em giới thiệu cho anh 10 người nữa để anh đưa họ vào tù...”

Tất cả những diễn giải và lập trên của tôi chỉ nhằm mục đích nói rằng: Lúc nào chúng ta cũng phải chiếm đủ không gian dân chủ. Cái trần độc tài lên cao tới đâu, là cơ hội cho đầu chúng ta phải chạm trần tới đó. Có thể chúng ta phiêu lưu mạo hiểm không đúng lúc. Nhưng hậu quả do nó gây ra tạo thành công cho những bước chân tiếp theo. Chắc chắn chúng tôi không phải là những tù nhân chính trị đầu tiên, càng không phải là cuối cùng; cũng chắn chắn là nỗi lo mất lực lượng không còn đặt ra vào lúc này. Càng nhiều người bị bỏ tù, lực lượng chúng ta càng đông hơn. Như đã thấy.

Tôi biết rất nhiều trong anh chị em chúng ta mong muốn dấn thêm những bước dài cho cuộc cách

Số 224 Trang 25

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

mạng dân chủ hóa đất nước. Nhiều anh chị em ao ước có các hành vi tổ chức biểu tình từ dân sinh đến chính trị, thành lập các đảng chính trị mới hoặc gia nhập các đảng chính trị đối lập với đảng cộng có sẵn. Nhiều người đã đề cử ai sẽ ra tranh cử tổng thống... Ước mơ là vô hình, bàn chân ta chuyển động mới hữu hình...

II.Thời gian gần đây tôi thấy hình

như các nhà vận động dân chủ ôm bàn phím nằm chờ những cơ hội rơi từ trên trời xuống. Trước TPP chúng ta nằm chờ TPP sẽ đưa dân chủ nhân quyền cho người dân. TPP chưa ngã ngũ chúng ta tiếp tục nằm chờ và suy tưởng ra những đột phá về hướng dân chủ, bài Tàu khi nghe tin một vài nhân vật quan trọng trong bộ máy cầm quyền ốm đau, đi nước ngoài chữa bệnh và một vài thay đổi nhân sự trong nội bộ đảng cầm quyền. Tiếp đấy chúng ta nằm chờ và hy vọng vào sức ép từ phía Hoa Kỳ trong chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng. Vài ba ngày gần đây, khi những hình ảnh xe tăng tàu bò di hành lan truyền trên mạng xã hội, chúng ta lại chuyển hy vọng sang chiến tranh và nghĩ chiến tranh với Tàu sẽ làm thay đổi chế độ chính trị Việt Nam. Một vài bạn còn khẳng định đã cảm nhận được sự thay đổi từ việc chính quyền độc tài không bắt và kết án nhân vật hoạt động đối kháng nào thời gian gần đây.

Tôi tự hỏi chúng ta có ảo tưởng không?

- Việc không ai bị bắt và bị kết án các tội danh liên quan đến chính trị trong thời gian vừa qua, không phải vì chính quyền độc tài nới rộng không gian dân chủ cho chúng ta mà bởi vì các hoạt động của chúng ta không nguy hiểm cho họ. Các cuộc thăm viếng nhau, đưa đón, trợ giúp gia đình các tù nhân lương tâm, các dân oan... chắc chắn là chỉ ngưa ngứa cho cho họ thôi. Các cuộc biểu tình phản đối chặt hạ cây xanh cũng thế. Cuộc tưởng niệm các liệt sỹ hy sinh cho chủ quyền lãnh thổ quốc gia rõ là chẳng có gì

phải bàn cãi, có chăng là một đám trẻ con ngu si đần độn tổ chức phá quấy. Các hoạt động này đúng rõ ràng, yêu nước rõ ràng, dù đánh lận con đen tài tình cỡ nào cũng không lẫn được. Cho nên nhà độc tài cũng chỉ cần đưa ra vài hành vi ngăn trở, phiền nhiễu, đánh trộm để răn đe là đủ. Các phát ngôn, lý luận từ bàn phím là những phát ngôn cũ kỹ, mười lăm, mười năm trước đã có người viết ra, nói ra. Bài nào không lặp lại ý này cũng lặp lại ý kia của các vị Hà Sỹ Phu, Bùi Tín Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Thanh Giang và nữa... nữa. Vả lại chính quyền cũng đã bắt bớ bỏ tù vài chục người đầu tiên viết ra, nói ra rồi. Nói nhiều, nhiều người nói thành chuyện bình thường.

Hiện tại tôi nghĩ chỉ có thể bị bắt khi ai đó đi treo băng-rôn khẩu hiệu tại nơi công cộng nhưng phải với yêu sách đòi đa đảng, đòi giải tán đảng cộng sản hoặc công khai tổ chức thành lập đảng đối lập với đảng cộng sản, có cương lĩnh hẳn hoi, tên tuổi các thành viên của đảng hăn hoi, có địa chỉ hẳn hoi và nếu an ninh triệu tập thì phải vui vẻ thừa nhận...

Chưa làm được nhiều mà chúng ta đã nghĩ đến một chính quyền mới cho hệ thống chính trị dân cử. Chỉ một vài lá thư gửi cho các nhân vật cầm quyền độc tài chúng ta đã đề cử ai làm tổng thống, ai làm Quốc hội trong hệ thống cầm quyền mới. Tôi nghĩ ai đó thích đùa. Nếu người nào cho rằng nghiêm túc thì tôi, xin phép vẫn cứ bảo lưu suy nghĩ cá nhân.

Vậy đến khi nào chúng ta mới cần nghĩ đến viễn cảnh đề cử người của mình ra tranh cử tổng thống?Đó là lúc một cuộc biểu tình khởi phát từ yêu sách giảm giá điện năng hoặc xăng dầu, hoặc chống lạm phát v.v... có hàng vạn người tham gia chuyển thành cuộc biểu tình chính trị. Tức là từ chống hậu quả chuyển sang chống nguyên nhân. Cuộc biểu tình đó có khi kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Người biểu tình phải ăn nằm vạ vật ngoài đường phố thay vì ăn trong phòng ăn, ngủ trong phòng

ngủ. Có thể phải có máu đổ, có thể Trung Quốc chuyển quân đến sát biên giới chờ tín hiệu can thiệp và phương Tây đưa tàu chiến sát bờ biển nước ta sau khi hai ông lớn đã đấu đá nhau, đe doạ nhau liên miên bằng mồm trên các diễn đàn khu vực và quốc tế.... Đến ngày ấy, nhiều nhà hoạt động không muốn đi tù cũng vào tù. Chúng ta đã chuẩn bị cho kịch bản này chưa?

Đã có lần bạn là người khách quý đến Honolulu, tại phi trường được một thiếu nữ xinh đẹp tươi tắn, choàng cho một vòng hoa sứ với câu chào Aloha cùng một nụ cười thân thiện. Nhưng không phải du khách nào trên thế giới cũng được sự chào đón như thế!

Tuần trước, báo chí lại loan tin: những người Việt Nam, đồng bào của chúng ta, từ Sài Gòn đến phi trường Changi, Singapore, bị từ chối nhập cảnh, nói rõ ra là bị đuổi về.

Singapore là một trong 48 quốc gia mà người mang visa Việt Nam vào không cần thị thực, nhưng lần này mặc dù có đầy đủ giấy tờ tùy thân, nhiều hành khách Việt Nam, phần lớn là phụ nữ, vẫn bị nhà chức trách Singapore từ chối cho vào xứ của họ. Những người Việt này bị đối xử như tội phạm, bị đưa vào phòng riêng, kiểm soát chặt chẽ giấy tờ, bị phỏng vấn và bắt tự đếm số tiền mang theo trước mặt nhân viên sân bay. Những người khách này buộc phải trở lại Việt Nam trên các chuyến bay đưa họ đến, hay lưu lại những khách sạn gần phi trường mà hãng hàng không Việt Nam phải đài thọ chi phí.

Lối hành xử này của Singapore cũng na ná như lối đối xử của “chính quyền” Việt Nam đối với những nhà hoạt động chính trị, nghi ngờ có hoạt động chính trị hay bất đồng chính kiến về Việt Nam lâu nay, mà không hề nói lý do.

Chính quyền Singapore cũng không hề nói lý do họ không cho những người Việt này vào nước họ, nhưng cái lý do này thì những người trong cuộc, hay toàn thể

Số 224 Trang 26

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

“khúc ruột ngàn dặm” trên khắp thế giới đều biết rõ, đều cảm thấy xấu hổ và đau lòng.

Hãng Jetstar Pacific, một trong hai hãng máy bay rẻ tiền có những đường bay ngắn cho biết: khi hành khách bị nhà chức trách từ chối nhập cảnh Singapore, người đó sẽ phải trả tiền ăn ở, tại sân bay. Phía Singapore thường buộc hãng hàng không phải ứng trước chi phí sau đó sẽ tính lại với hành khách. Chi phí cho mỗi khách bị từ chối nhập cảnh là khoảng hơn $200, chưa kể vé máy bay trở lại Việt Nam. Mỗi tháng, hãng này phải trả khoảng $20.000 cho những hành khách bị từ chối nhập cảnh tại Singapore.

Hãng Vietjet Air có hai chuyến bay Sài Gòn đi Singapore mỗi ngày. Trung bình mỗi tháng có 200 nữ hành khách bị Singapore yêu cầu quay về nước. Như vậy mỗi tháng Vietjet Air phải chi ra phí khoảng $750.000 cho các hành khách này mà không bao giờ đòi lại được tiền.

Phía Việt Nam mong phía Singapore cho họ biết danh sách những người Việt không được nhập cảnh vào Singapore để tiện việc ngăn chận, tránh sự tổn thất như trên, nhưng những người này đâu phải như những người làm chính trị có sổ đen của công an Việt Nam, mà chỉ là những cô gái, một ngày đẹp trời nào đó được rủ rê hay móc nối sang đây để... “đứng đường!” Trên các trang net, và ngay cả một phóng sự trên báo Thanh Niên trong nước, cũng công nhận rằng phần đông những cô gái đến với nghề này là hoàn toàn tự nguyện.

Chuyện không phải bây giờ mà cách đây vài năm Singapore đã loan tin cảnh sát tổng càn quét vào khu mại dâm Việt ở Geylang và Joo Chiat, bắt giữ hàng chục gái mại dâm người Việt lẫn bảo kê. Liên tục trong vòng một tuần, chỉ riêng tại khu Joo Chiat, 52 cô gái Việt đã bị bắt giữ. Các cô trang điểm diêm dúa, ăn mặc hở hang đón xe buýt hoặc xe taxi đến quán karaoke, vô từng bàn khách, ăn uống, rượu bia, lả lơi, ôm ấp, bán dâm tại bàn rượu hoặc đi ngủ đêm với khách, cố moi

tiền bằng đủ mọi cách. Dân Singapore cho biết gái mại dâm Việt đã câu kéo khách bằng cách không mặc đồ lót và cho phép khách thoải mái sờ soạng. Sang Singapore là một nghề kiên trì, lần này bị đuổi lần sau lại lên máy bay sang nữa. Một cô gái cho biết cô đến rồi về nhiều lần, mỗi lần ở Singapore kiếm vài nghìn đô la.

Lối cấm cửa phụ nữ Việt Nam ở Singapore rõ ràng là nỗi đau đớn, nhục nhã. Rồi liệu, bộ ngoại giao Việt Nam như lời yêu cầu có dám gửi công hàm đến Singapore để xin làm rõ trắng đen chuyện này không, hay nói ra chỉ thêm mất mặt! Làm người khác mất mặt cũng là một thứ làm nhục nhau. Ngày xưa làm nhục nhau thì kẻ sĩ thách nhau đấu súng hay rút gươm ra khỏi vỏ. Ngày nay, bị nhục thì đành ráng ngậm miệng mà đi.

Thể diện cũng có nghĩa là danh dự, ai làm mình mất thể diện là làm mất danh dự mình.

Nếu danh dự phụ nữ Việt Nam bị coi thường hay chà đạp là danh dự của cả dân tộc cũng bị coi thường. Ai có trách nhiệm trong việc đàn bà con gái Việt Nam bị cấm cửa và cái mặt Việt Nam trong thời gian gần đây, có thể nói xa hơn là dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị lấm lem đến mức tồi tệ.Cái mặt Việt Nam cộng sản ở Nhật mà đại diện là phi công, tiếp viên hàng không, người mẫu, du học sinh ăn cắp... không kể hết tên.

Cái mặt Việt Nam cộng sản ở Thụy Điển rồi Anh, mà đại diện là Kiều Trinh, kẻ ăn cắp, đã rao giảng văn hóa trên truyền hình nhà nước, con “cán bộ trung ương đảng”, đã được “Bộ Y tế Việt Nam” chứng nhận là tâm thần và “Tòa Đại sứ” cộng sản Việt Nam can thiệp.

Cái mặt Việt Nam cộng sản ở Phi Châu mà đại diện là nhân viên ngoại giao Vũ Mộc Anh, bí thư thứ nhất của “Đại Sứ quán Việt Nam” tại Nam Phi, buôn lậu sừng tê giác.

Cái mặt Việt Nam cộng sản ở Thụy Sĩ, ở Thái Lan mà đại diện là du khách ăn cắp.

Cái mặt Việt Nam cộng sản ở

Đài Loan mà đại diện là công nhân “xuất khẩu” ăn trộm chó làm thịt.

Cái mặt VN cộng sản ở Nhật mà người Việt trộm dê làm thịt.

Cái mặt VNCS ở Malaysia: Khám phá một lần mà tống xuất 150 phụ nữ mại dâm về nước.

Cái mặt VNCS ở Nga, Tiệp Khắc, Ba Lan, Đông Đức với những nhóm băng đảng, buôn người có các tòa đại sứ Việt cộng... chống lưng.

Chuyện mất mặt, bẽ mặt, xấu mặt hay mất thể diện thì cũng một nghĩa.

Hãnh diện thì ngẩng mặt, xấu hổ thì cúi mặt, vuốt mặt, quay mặt, giấu mặt đi.

Cái mặt chai lì, tê cứng, không biết xấu hổ, vô cảm là cái mặt mo, mặt mẹt, mặt trơ.

Những cái mặt... Việt Nam cộng sản nên che đi là những cái mặt của Đặng Xuân Hợp, Vũ Mộc Anh, Kiều Trinh, vì họ đại diện cho “chính quyền” Việt Nam. Cái mặt đáng thương những người phụ nữ vì xấu hổ cũng phải che đi, tủi thân vì số kiếp phụ nữ VN, nhưng quả đáng thương hơn những đảng viên cộng sản luôn luôn trơ mặt làm liều.

“Quá đẹp” là cái tên Việt Nam cộng sản, hôm nay vang lừng khắp bốn biển năm châu.

Cờ đỏ sao vàng được minh họa cho hai chữ “ăn cắp”.

Tiếng Việt được dùng để viết những thông báo răn đe người Việt chớ... ăn cắp.

Ai đã sáng tác ra cái câu nói dối trá: “Tôi mơ ước một buổi sáng thức dậy, thấy mình là người Việt Nam” sẽ phải ân hận suốt đời.

Phần tôi, mỗi khi soi gương, tôi vẫn nhớ “Tôi là người Việt Nam!” và cảm thấy thương cho tôi và thù ghét những con người cộng sản đã làm cho hình ảnh Việt Nam xấu xa đi như hôm nay.

Cám ơn ký giả Xuân Dương ở trong nước với câu viết: “Một người, một gia đình, một dòng họ hay một dân tộc, khi sự xấu hổ bị đánh cắp thì không còn gì để mất!”

Huy Phương

Số 224 Trang 27

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Đừng đòi hỏi khả năng thưởng thức văn hóa và ý thức xây dựng văn hóa nơi những kẻ lãnh đạo chính trị vốn đã chỉ biết nắm lấy quyền lực và duy trì quyền lực bằng bạo hành và gian dối là những điều hoàn toàn ngược văn hóa (TDNL)

Năm 2014, tôi gọi điện thoại cho nhạc sĩ Trần Văn Khê để xin hẹn gặp mặt phỏng vấn. Lúc đó, ông chỉ vừa về nhà sau một đợt nằm ở nhà thương khá dài. Khi nghe mục đích cuộc trò chuyện là để đưa lên báo, ông ngập ngừng một chút rồi hỏi lại “thật ra, công việc của bác là nghiên cứu, khô khan lắm, có gì để nói cho công chúng thích thú đâu!” Câu nói có cả sự khiêm tốn, nhưng cũng có cả một nỗi niềm trong thời đại nhộn nhịp mê mãi mua vui hôm nay. Trong tíc tắc ấy, tôi chợt nhận ra cả một khung cảnh đồ sộ nền âm nhạc Việt Nam, trong một tình cảm buồn vui lẫn lộn.

Quả thật, có thể công việc nghiên cứu công phu và kỳ tài của nhạc sĩ Trần Văn Khê luôn được ngưỡng mộ nhưng chỉ có giá trị biểu trưng trong đám đông. Nghe tên thì nhiều nhưng để tìm hiểu và biết về ông thì chẳng có mấy ai. Có thể đó là lý do khiến bất cứ ai tìm kiếm trên các trang mạng về nhạc sĩ Trần Văn Khê, có rất ít các bản video nói chuyện về âm nhạc dân tộc Việt được tìm thấy, so với hàng trăm lần, hàng trăm bài diễn thuyết đã được ghi hình của ông. Tất cả những chương khai sáng về văn hóa Việt bị nhấn chìm trong biển của các video ca nhạc thương mại, đặc biệt có những lời ca ngợi ngất trời vĩ đại, cùng lượt người xem chạm đỉnh.

Khó mà tả được một cảm giác như vậy, cũng giống như những lần tôi hỏi các sinh viên ngành nhạc do vô tình gặp gỡ, khi hỏi rằng biết Đặng Thái Sơn là ai không, họ trả lời có, nhưng chỉ là biết cái tên, còn lại vẫn là một khoảng trống mù mờ vô tận.

Dĩ nhiên, việc tìm đến một thú

vui giải trí qua ngày tháng là điều không thể trách cứ gì, đối người Việt Nam hôm nay, hoặc với một giai cấp rủng rỉnh tiền. Nhưng giữa sự mất cân bằng đến vậy, những ai nghĩ về văn hóa Việt cũng nên có chút băn khoăn và cần suy nghĩ rằng quả có điều gì đó bất bình thường đang lớn dần trên đất nước này.

Đừng quên, ở đất nước như Hoa Kỳ, khi các tác phẩm điện ảnh giải trí vô bổ như Avengers hay Mad Max có thể gây nên những cơn sốt rầm rộ, thì các buổi diễn nhạc kịch Broadway với giá vé rất cao, cũng luôn không còn chỗ ngồi trước 3 tháng. Những buổi diễn thuyết về triết học Phật giáo và khoa học của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở các trường đại học có khán phòng 5000-6000 chỗ ngồi, muốn tham dự phải chật vật ghi danh lấy chỗ trước cả tháng với giá ít nhất là 350 USD, không khác gì buổi biểu diễn đặc biệt của một danh ca nhạc rock đương thời. Sự cân bằng ấy cho thấy một sự phát triển bình thường, và bất kỳ ai có bi quan về tương lai thế nào, cũng có thể tạm yên tâm về lộ trình phát triển văn hóa ấy của cả một quốc gia mình như vậy.

Rất nhiều lần, các buổi hòa nhạc hiếm có ở Nhạc viện hay Nhà hát lớn Sài Gòn vắng khách, đặc biệt các hàng ghế tốt nhất dành cho các nhân vật quan trọng, với vé mời thành kính, luôn để trống vì không có người đến. Ghế dành cho các quan chức vị trí càng cao, nguy cơ để trống càng lớn. Và nếu đến thì cũng vội vã ra về lúc giải lao giữa chừng. Không ít lần, những người khán giả yêu âm nhạc đã phải im lặng xót xa, vì sao một chương trình như vậy ở nước ngoài, không phải ai cũng có được cơ may tham dự, thì ở VN luôn lạnh lẽo đến đáng buồn tủi. Thậm chí, các chương trình chiếu phim miễn phí giao lưu văn hóa của các nước Pháp, Đức… cũng không phải là điểm đến đầy

ấm áp văn hóa, tương đồng với thành phố lắm cao ốc và dự án phát triển khổng lồ của xã hội Việt. Thậm chí nơi đó, những nhà đạo diễn lừng danh, những người làm nghề điện ảnh thì lại càng hiếm hoi.

Đinh Sơn, người thầy từ miền Bắc mà tôi yêu quý như cha mình trong những năm ở nhạc viện, từng nói trong một mùa hè, một lần ngồi ngó ra song cửa nhìn học sinh khoa dân tộc tràn ra về sau giờ học: “Có lẽ nhiều năm nữa, mình mới có một thế hệ bật ra được một người như Trần Văn Khê”. Ông giải thích rằng ông chứng kiến trong đời mình những thế hệ Tây học hết sức trí thức, chỉ mới ngoài hai mươi đã tranh cãi nhau kịch liệt về triết học. Đi ra bờ hồ thấy các thanh niên ngồi đọc sách báo nước ngoài, trò chuyện với khách du lịch bằng ngoại ngữ là chuyện thường ngày. Nhưng giờ đây mọi thứ càng ít đi. Con người trong xã hội không học tri thức sống nữa mà chỉ học công thức để sống sót. Ngoại ngữ không phải để trau dồi và mở cánh cửa ra thế giới mới, mà chỉ để được dung nạp ở nước ngoài hoặc mong hiểu được nhanh những cách thức làm giàu, từ tác phẩm ngoại văn. “Một thế hệ vàng như xưa nếu trỗi dậy, cũng sẽ chỉ bật ra được một vài người làm rạng danh đất nước. Trần Văn Khê là một người hiếm hoi của thế hệ hiếm hoi như vậy đó”, thầy tôi nói. Nhiều năm sau, khi ông qua đời, tôi lại càng thấy những điều ông nói là căn bản của sự phát triển của một quốc gia, càng thấm thía biết bao.

Trách sao được khi hôm nay nhà hát hòa nhạc luôn vắng. Trách sao được khi điện ảnh nghệ thuật luôn heo hút người chia sẻ trí tuệ. Điều đó là câu hỏi về vấn đề thế hệ. Trong lần xem ra mắt một cuốn phim nghệ thuật của nữ đạo diễn người Pháp gốc Việt, chiếu tại Viện trao đổi văn hóa với Pháp (Idecaf, quận 1), một nhà làm phim lâu năm, có tên tuổi trong nước, tóc hoa râm, đã đứng lên có ý kiến, thành thật xin được giải thích vì coi hết phim, ông vẫn chưa

Số 224 Trang 28

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hiểu. Cả rạp chết lặng. Và cả người nữ đạo diễn cũng chết lặng. Bài giảng văn về chính tác phẩm của mình được đọc vội nơi đó trong sự xấu hổ của rất nhiều người, và thương xót cho thế hệ của mình, thế hệ đi trước mình.

Một lần nhận được một lời mời làm phim quảng cáo cho một hãng thực phẩm của nước ngoài. sau khi xem xong phần phim quảng cáo, tôi đề nghị sử dụng hình thức nhạc giao hưởng để làm cho phim, thì sẽ phù hợp. Hai người bạn trẻ gần 30, đại diện của hãng quảng cáo nước ngoài ấy, khi nói chuyện luôn pha các câu tiếng Anh vào để diễn đạt như thể tiếng mẹ đẻ không đủ sức diễn đạt, đã nhìn nhau, và hỏi rằng “Sorry, anh cho biết nhạc giao hưởng là loại nhạc gì?” - “Mấy em chưa bao giờ nghe đến kiểu nhạc giao hưởng à?”… Hai người bạn trẻ hơi bối rối: “May be tụi em biết nhưng không nhớ hết. Thôi anh về làm giúp tụi em một bản demo nhạc giao hưởng như anh nói, rồi tụi em sẽ feedback (hồi đáp) cho anh liền”. Dĩ nhiên, tôi trả lại dự án đó và ra về, vì biết rồi mọi chuyện sẽ rất “khô khan”, không khác gì nỗi lo như nhạc sĩ Trần Văn Khê đối diện với đời sống hôm nay vậy.Nhạc sĩ Trần Văn Khê là một con người tự trọng. Đây không phải là lần bệnh tật tuổi già đầu tiên của ông mà khó khăn đeo đuổi, nhưng ông luôn im lặng vì e rằng sự “khô khan” của đời mình sẽ là điều làm phiền ai đó hơn là được chia sẻ. Chỉ đến khi những người yêu mến ông quá sốt ruột và viết những lời kêu gọi trên facebook, thì mới có một đợt quan tâm lan rộng trong một tầng lớp hiếm hoi còn tiếc thương văn hóa Việt, tiếc thương nhân tài Việt.

Không thể không buồn khi chuyện một ngôi sao ca nhạc tầm ruồng hôm nay khoe nhà cửa, siêu xe… được các báo săn đón, đăng tải đến mấy kỳ hoặc kéo link khắp nơi, còn một thư viện văn hóa của người Việt có thể hóa rồng vào chốn hư

không thì chỉ được có vài dòng tin quấy quá. Người Đức vẫn có câu “mỗi người già là một thư viện quý, khi họ mất đi, chúng ta lại càng ngu dốt hơn”. Có bao nhiêu thư viện quý như vậy đã và sẽ ra đi trong tiếng trống hội đùng đoàng vô tâm trên đất nước này? Không thể không buồn khi các danh ca, đại kịch sĩ… khoe khoang tổ chức đi từ thiện rầm rộ, bộ thức chiêm bái uy nghiêm trước ống kính truyền hình, nhà báo… nhưng tảng lờ chuyện thật của đời, từ nhạc sĩ Trần Văn Khê cho đến nghệ sĩ Trang Thanh Xuân, nhạc sĩ Thanh Bình… Nếu có nói đến, lưỡi dao báo chí cũng chỉ lách và lọc từng nỗi đau của con người để câu chút ít sự quan tâm cho bản báo, giọng điệu giả nhân giả nghĩa. Đó cũng là những điều mất căn bằng kỳ quái trong xã hội văn hóa hôm nay. Không ít, mà nhiều, rất nhiều.Điều gì đã khiến người Việt từ những thế hệ vàng, chuyển sang những thế hệ khô khan với tri thức và văn hóa của con người, vốn đã từng lộng lẫy? Sự thụt lùi ấy không đong đo được, như một dấu chấm hỏi trĩu nặng không lời đáp theo chiều dài xứ Việt, với mỗi chúng ta.. Câu hỏi vẫn gõ đều như tiếng kinh chiều mỗi ngày, báo hiệu những ngày tháng khô khan như sa mạc trên đất nước hôm nay, đang lắm lời tự ngợi ca và tự huyễn hoặc mình.

Thành phố của tụi mình, đất nước của tụi mình…

(Blog Tuấn Khanh)

Lại thêm một tàu đánh cá của ngư dân bị Tàu cộng uy hiếp và ăn cướp. Cứ mỗi lần ngư dân bị Tàu cộng tấn công và ăn cướp thì câu hỏi đầu tiên cớ lởn vởn trong tâm tưởng là: Hải quân Việt Nam đâu? Cảnh sát biển đâu? Không có câu trả lời cụ thể. Nhưng sự thật dần dần hé lộ thì rất bẽ bàng. Hải quân và cảnh sát biển không đủ khả năng bảo vệ ngư dân đã đành, nhưng một bộ phận của lực lượng biên phòng

còn tỏ ra tham nhũng.Không rõ vì lí do gì mà đề tài về

ngư dân bị Tàu cộng ăn cướp và ức hiếp chưa được báo chí VN khai thác một cách thích đáng. Báo chí có đưa tin tàu đánh cá VN bị Tàu cộng tấn công, rồi hình như chỉ dừng ở đó. Họ thậm chí không dám viết tên của tàu cướp mà chỉ bâng quơ viết là “tàu lạ”. Họ không dám đặt câu hỏi trực tiếp và bức xúc như trong khi hàng loạt tàu của ngư dân VN bị đánh cướp thì hải quân và hải cảnh VN ở đâu.

Nhưng cũng may là trong khi báo chí VN không lên tiếng thì có đài của “địch” như BBC, RFA và RFI lên tiếng dùm. Cha nó lú thì cũng có chú nó khôn. Qua những thông tin từ các đài vừa kể, chúng ta dần dần có thể hình dung ra hoàn cảnh của ngư dân Việt Nam trước sự lấn áp của Tàu.

Trả lời câu hỏi hải quân VN ở đâu khi ngư dân Việt bị Tàu cộng ăn cướp, một ngư dân cho biết: “[…] các tàu Hải quân Việt Nam chủ yếu tập trung ở 110 độ kinh đông vào đất liền, phía bắc thì từ 16 độ vĩ bắc trở xuống, ngoài phạm vi đó thì tàu Hải quân Việt Nam ít xuất hiện” (1). Nhưng những vụ Tàu cộng uy hiếp và ăn cướp tàu cá của VN thì thường xảy ra ở Hoàng Sa. Nói cách khác, những chỗ Hải quân tuần tra thì tàu cá VN không hoạt động, còn những vùng tàu cá VN hoạt động thì không có Hải quân VN mà chỉ có Hải quân Tàu.

Thế nhưng các quan chức Chính phủ hứa hẹn rằng ngư dân sẽ được bảo vệ khi ra đánh cá. Nhưng trong thực tế thì không hẳn như thế. Một ngư dân trả lời phỏng vấn nói một cách thật thà: “Bảo vệ gì đâu! Ra đó làm sao đụng được với Trung Quốc mà bảo vệ? Chỗ đó đâu có ra được chỉ có dân ra chứ bên quân sự đâu có ra được. Khu vực đó thằng Trung Quốc nó quản lí hết làm sao mà ra. Đánh cá thì đánh chui ở Hoàng Sa chớ cảnh sát biển không tới mép nước nữa” (2). Mà không chỉ anh ngư dân nói như thế, một quan chức của lực lượng Cảnh sát biển VN cũng thú nhận rằng “Phải

Số 224 Trang 29

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nói thật với nhau là lực lượng ta còn yếu, thứ hai nữa đã yếu rồi nhưng phối hợp với nhau chưa phải là tốt lắm. Mặc dù so với xưa ta đã có nhiều tiến bộ” (2). Thành ra, báo chí phải thốt lên là Cảnh sát biển có mà cũng… như không!

Như vậy thì đã khá rõ: ngoài miệng thì nói Hoàng Sa là của VN nhưng hải quân của VN không có mặt ở đó. Có thể hiểu ngầm rằng VN đã mặc nhiên công nhận Tàu cộng có chủ quyền hoàn toàn ở Hoàng Sa, và một phần nào đó, ở Trường Sa. Tôi nghĩ điều này rất quan trọng trên thực tế, bởi vì Tàu cộng có lí do để nói đó là vùng biển của chúng một cách hợp pháp. Từ cách hiểu đó, bất cứ ngư thuyền nào của VN hay nước khác vào đánh cá ở Hoàng Sa là bất hợp pháp, và Tàu cộng có quyền bắt bớ, giam cầm, thậm chí tịch thu ngư cụ. Họ chỉ đơn giản viện dẫn rằng đây là vùng biển của họ. Nếu cãi lại, họ sẽ hỏi “vậy chứ hải quân và hải cảnh của anh có mặt ở đây không?”

Sự hợp thức hoá của Tàu cộng còn thâm hiểm hơn nữa. Chúng đặt ra cái gọi là “Thông hành hải”, tức giấy phép cho đánh bắt cá trong vùng biển mà chúng chiếm đóng từ VN. Theo lời kể của ngư dân thì họ phải mua cái “Thông hành hải” mới được đánh bắt ở Hoàng Sa. Mỗi giấy phép như thế lên đến 2000 USD (khoảng 40 triệu VNĐ) và chỉ có giá trị 1 năm. Không có cách nào khác, ngư dân VN phải mua Thông hành hải của Tàu cộng. Nhưng chính việc mua đó cũng là 1 chứng từ phía VN chấp nhận rằng Hoàng Sa là của họ và do họ quản lí.

Mới đây, một tin động trời do báo Lao Động phát hiện là các lực lượng tuần tra biển ở Quảng Trị lập hồ sơ khống để “ăn” (3). Nói cách khác, họ không đi tuần tra trên biển nhưng họ báo cáo là có đi để lấy tiền. Số tiền lên đến hàng tỉ đồng. Thật khó tưởng tượng nổi khi một lực lượng có nhiệm vụ bảo vệ ngư dân mà lại tham nhũng. Đúng như một bài bình luận trên Lao Động viết: “Mỗi dòng tin ngư dân Việt Nam bị tấn công trên biển, bị tàu

Trung Quốc bắt giữ hay đuổi đánh là một nỗi đau xót tận cùng gan ruột. Vậy mà những người có trách nhiệm trực tiếp bảo vệ chủ quyền và bảo vệ ngư dân lại có thể ‘ăn bớt’ chính nhiệm vụ của mình” (4). Sự việc gây bức xúc trong dư luận, đến nỗi một tờ báo khác phải lên tiếng. Báo GDVN, sắp thành một Hoàn cầu Thời báo của VN, viết như sau: “Nhưng có lẽ nỗi sợ hãi từ sự vô cảm của một bộ phận cán bộ thực thi nhiệm vụ còn nguy hiểm hơn nhiều so với sự đe dọa của thiên nhiên, tàu lạ uy hiếp. Họ chính là những ‘kẻ’ đã quay lưng bỏ mặc ngư dân ‘sống chết mặc bay'; bỏ mặc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng vì đồng tiền và sự vụ lợi của bản thân” (5). Đúng quá!

Sự việc còn làm cho công chúng đặt câu hỏi trước phát biểu mới đây của ông Phó Chủ tịch QH, thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn. Khi được hỏi quân đội có tham nhũng không, ông trả lời rất thuyết phục và rất khẳng định rằng “Quân đội có cái gì đâu mà tham nhũng” (5). Nhưng nay thì chúng ta biết rằng câu phát biểu đó không hẳn đúng hoàn toàn. Công bằng mà nói sự tham nhũng của 1 bộ phận biên phòng như thế chưa đủ để nói rằng quân đội tham nhũng. Nhưng “con sâu làm rầu nồi canh”, chỉ cần một vụ nhỏ bị khui ra cũng đủ để người dân đặt câu hỏi nhức nhối cho cả một hệ thống.

Quay lại câu hỏi nhức nhối “Ai bảo vệ ngư dân”, có lẽ câu trả lời hiện nay là chẳng ai cả. Ở ngư trường truyền thống Hoàng Sa, rõ ràng là chẳng ai bảo vệ ngư dân cả. Không có hải quân, không có biên phòng và chẳng có hải cảnh. Nhưng khi họ bị nạn và về đến bờ thì chúng ta thấy có khá nhiều người mặc quân phục chỉnh chu, với hai vai đầy sao lấp lánh, họ đến để chụp hình, ghi chép, và… “làm rõ”. Trong điều kiện như thế mà ngư dân Quảng Ngãi và Quảng Nam vẫn bám biển, phải ghi nhận rằng họ mới đích thực là những anh hùng –

những anh hùng vô danh.Chú thích(1) Tàu hải quân Việt Nam ở đâu

khi ngư dân gặp nạn? (ĐKN/ VNTB). (2) Bảo vệ ngư dân, bằng cách nào? (RFA). (3) Quảng Trị: Tuần tra biển khống, “rút ruột” Nhà nước hàng tỉ đồng (LĐ). (4) Lợi dụng bảo vệ ngư dân để trục lợi (LĐ). (5) “Bỏ mặc ngư dân là vô trách nhiệm, vô cảm và không thể tha thứ” (GDVN/ BS). (6) Quân đội

có tham nhũng không? (PLTP).

Hiện tượng thanh niên dân tộc thiểu số, đặc biệt dân tộc Mường ở Ngọc Lặc, Thanh Hóa đang dần lún vào nghiện ngập, xì ke ma túy đang là một tình trạng dương tính về mặt khủng hoảng dân tộc học của các tộc người thiểu số. Hiện nay, tình trạng thất nghiệp, không còn rừng để làm và đất đai eo hẹp, không có phương tiện cũng như điều kiện kiếm sống đã khiến một số thanh niên dân tộc Mường rơi vào chỗ sa đọa, kết bè kết đám, trộm cắp, giật dọc để hút chích, trong đó ma túy đá là thứ đang trực tiếp biến họ thành những cái xác vật vờ.

Một kiểu bứt phá, thoát xác…Một người mẹ Mường, tên Hảo,

ở Ngọc Lặc, Thanh Hóa, có người con trai bị lún vào ma túy đá, buồn bã chia sẻ: “Đúng ra có cái chi hắn trộm cái đó, cái xoong, cái nồi, cái quạt hắn cũng lấy. Hắn muốn vào Nam làm ăn, mình trả tiền xe cho hắn, bảy trăm ngàn đồng cũng phải trả, chảy nước mắt ra mà cũng phải trả. Chẳng còn cái chi hết. Mình cày sâu cuốc bẫm mà không tài nào đủ ăn cũng vì hắn…”.

Theo bà Hảo, kể từ ngày đường mòn Hồ Chí Minh (tức đường Trường Sơn) được mở rộng, thông xe và dịch vụ du lịch, quán sá mọc đầy hai bên đường thì đời sống của bà con dân tộc Mường không còn bình yên như trước đây nữa. Vì trước đây quá nghèo khổ, hiếm khi có được một chục triệu đồng trong tay nên khi con đường đi qua, nhiều

Số 224 Trang 30

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

người nghe đất có giá, đã bán đổ bán tháo, có khi cả ngàn mét vuông chỉ bán với vài chục triệu đồng.

Những người buôn đất cũng không ai xa lạ mà chính là các cán bộ địa phương, họ đã mua đất của bà con người Mường với giá rẻ như bèo, sau đó bán lại cho nhà buôn với giá gấp năm, sáu lần giá mua và nhà buôn lại tiếp tục bán cho những người mở nhà hàng, quán xá với giá cao gấp vài lần nữa. Những người Mường từng là chủ mảnh đất chỉ biết xót xa đứng nhìn người ta hốt bạc trên mảnh vườn xưa của mình.

Và đương nhiên không ít người Mường oán hận bởi lối nói chuyện khinh bạc, cho rằng vì người Mường ngu ngốc, không hiểu gì nên mới bị lừa bán rẻ đất. Trong khi đó, người Mường vốn thật thà, tin người chứ họ đâu có ngờ người ta bịp bợm, coi khinh sự thật thà của mình như thế!

Chính vì bị rẻ rúng, thất nghiệp và mù chữ, nhiều thanh niên Mường đã nghe theo một số chủ lô đề người Kinh, tham gia đánh đề, bán số đề, ban đầu cũng kiếm được không ít tiền, lại rủ nhau chích choác, hút hít, đến khi bị nghiện ma túy thì cũng là lúc tiền đã đi sạch, những khoản nào còn có thể khoắng được trong gia đình, các thanh niên này về khoắng sạch mỗi khi lên cơn nghiện.

Riêng con trai bà Hảo đã nhiều lần lấy cắp đồ của gia đình, nhà chỉ còn một con trâu để cày cũng bị nó dắt đi bán nhưng may mắn chồng bà phát hiện ra nên bắt được nó trong lúc dắt trâu đi. Còn mọi thứ trong nhà nếu để sơ hở thì bị nó lấy sạch. Ngay cả em gái nó đang cầm điện thoại gọi cho bạn, lên cơn, nó cũng đến giật đi bán để chơi ma túy đá.

Không dừng ở đó, nhóm thanh niên chơi chung ma túy với con trai bà Hảo còn rủ nhau ra đường Hồ Chí Minh, cả nhóm nấp trong bụi rậm, cử một đứa ra đứng xin quá giang. Những ai không biết, dừng xe lại thì cả nhóm ùa ra chặn đầu xe xin đểu, trấn lột, thậm chí cướp giật.

Bà Hảo buồn bã kết luận rằng gánh nặng của nhiều gia đình người

Mường hiện nay có thể gấp ba, gấp bốn một gia đình nghèo người Kinh. Nghĩa là cứ một gia đình có đứa con bị nghiện sẽ chịu sức ép bằng cả trăm lần một gia đình nghèo người Kinh nuôi con học đại học và chịu sức nặng tài chính gấp chín, mười lần nuôi một đứa con học đại học trong khi kết quả hoàn toàn trái ngược nhau.

Mà đáng buồn cười ở đây là càng nghèo thì càng dễ bị rơi vào tội lỗi bởi không có cơ hội nào để ngoi đầu lên được. Nghèo sẽ dẫn đến mọi thứ khó khăn, việc học hành cũng không tới nơi tới chốn, bị xã hội coi thường, thậm chí khinh khi và cơ hội duy nhất cho người nghèo nơi miền sơn cước này chính là tự bứt phá, thoát xác. Đến với ma túy đá hay trộm cướp là một kiểu thoát xác, bứt phá của giới trẻ dân tộc thiểu số.

Chính sách dành cho đồng bào thiểu số bị chấm mút quá nặng

Một người phụ nữ khác tên Hồng, dân tộc Mường, cũng ở huyện Ngọc Lặc, buồn bã kể: “Đời sống của người Mường thì còn nghèo khó tả lắm, khó khăn lắm. Làm ruộng thì ít mà lúa cũng không trúng vụ cho mấy, mỗi năm hai vụ. Năm nào cũng đói vì đất ở đây hạn hẹp lắm...”.

Theo chị Hồng, sở dĩ thanh niên dân tộc Mường của chị ngày càng trở nên hư đốn và không lối thoát vì hai lý do: chính sách dành cho đồng bào thiểu số bị chấm mút quá nặng và sự xuất hiện ồ ạt của các loại dịch vụ trên đường Hồ Chí Minh đối nghịch với cảnh không có đất sản xuất của đồng bào Mường.

Ở lý do thứ nhất, chính sách dành cho đồng bào thiểu số bị chấm mút quá nặng, chuyện này thiết nghĩ cũng không cần bàn gì thêm cho nhiều, bởi mỗi gói cứu trợ hay gói xóa đói giảm nghèo của chính phủ tính bằng tiền trăm tỉ nhưng khi về đến địa phương, về đến tay bà con người nghèo thì chỉ còn vài triệu đồng, trong khi vài triệu đồng đó bà con cũng không được cầm tận tay mà chỉ nhìn cho biết.

Chị Hồng nói rằng nếu lấy vài trăm tỉ đồng, chia bình quân đầu người cho toàn bộ bà con dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi Thanh Hóa thì mỗi người cũng có vài chục triệu đồng, đằng này chỉ cho một số gia đình nghèo khổ nhưng vẫn không tới năm triệu. Và họ chỉ nói là cho, trên thực tế thì lại họ tự thuê xe xúc, máy ủi đến để cày đất, trồng sắn (tức khoai mì) cho bà con; cuối vụ, bà con kiếm được hai triệu đồng, có gia đình kiếm được chưa tới một triệu đồng. Chuyện này hết sức vô lý và khôi hài.

Ở lý do thứ hai, hiện nay, nhiều bản Mường chỉ có đất để ở và có thêm vài trăm mét đất rừng, hầu hết đất rừng đã bị nhà nước tịch thu để giao cho doanh nghiệp. Không có đất, không có chữ, không có điều kiện tối thiểu để sinh hoạt cộng đồng, các thanh niên Mường biết làm gì ngoài việc đến mùa lại ra rừng, ra ruộng, loay hoay với con trâu, đám mạ và đói tới đói lui; những ngày thất nghiệp thì hái sung, hái sấu để uống rượu, rồi cãi nhau, đánh nhau, cuối cùng lại rơi vào con đường ma túy, cướp giật.

Trong khi đó, cách bản làng không xa, những hàng quán mọc lên đầy rẫy, toàn những dịch vụ ăn chơi. Điều này sẽ cho tuổi mới lớn dân tộc thiểu số cảm giác hoặc là tủi thân, mặc cảm, hoặc là cố rướn sức mà theo đuổi ăn chơi để không thấy mình lạc hậu. Cả hai thái độ này đều gây hại cho bản thân các thanh thiếu niên này và làm lợi cho những tụ điểm ăn chơi.

Những bản làng Mường, Thái Trắng, Dao Đỏ ở Ngọc Lặc, Thường Xuân, Như Xuân, Bá Thước, Thọ Xuân... Thanh Hóa đang ngày càng rệu rã và u ám kể từ khi đường mòn Hồ Chí Minh đi qua đây. Chị Hồng buồn bã kết luận như vậy trước khi chia tay chúng tôi.

Nhóm phóng viên RFA từ VN.

Số 224 Trang 31

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Vụ Giang Kim Đạt chỉ với chức vụ nhỏ, trong thời gian ngắn và với vài dự án mà đã có thể kiếm chác hơn 18,6 triệu USD của nhà nước vừa bị bắt và khui ra trước công luận khiến dư luận tại VN nổi sóng ba đào. Báo chí lề phải, lề trái cùng người dân bàn tán rôm rả những đề tài xung quanh câu chuyện này.

Nhưng có một chuyện cũng được mang ra công bố trong thời gian này, đó là báo cáo của Thanh tra Chính phủ. Theo báo cáo này, tính đến ngày 31-5-2015, trong tổng số 995.383 người kê khai tài sản thu nhập thì chỉ có 4 người kê khai không trung thực. Một con số quá lý tưởng. Nó cho dư luận thấy việc kê khai tài sản thu nhập rất “nghiêm túc”, 4 người gian dối so với gần một triệu người kê khai thì tỉ lệ coi như không có. 

Chỉ cần đọc đến đây thôi bất cứ người dân lương thiện nào cũng phải phì cười. Tất nhiên các quan tham còn đương chức đương quyền và những quan đã “hạ cánh an toàn” thấy khoái chí vì sự làm việc “cần mẫn” của các ông Thanh tra Chính phủ. Bởi các ông ấy đã chịu khó lục lọi hàng triệu hồ sơ kê khai tài sản vốn rất lôi thôi, phức tạp của hầu hết các quan chức từ cấp phó trưởng phòng trở lên cho đến các quan chức trong chính phủ. Đúng là một công việc quá khó, quá mệt với hàng đống hồ sơ cao như trái núi. Thế mà chỉ tìm ra có 4 ông kê khai không trung thực và 2 ông đã bị kỷ luật, chả biết là kỷ luật như thế nào.

Chắc cũng lại “phê bình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm” là xong. Làm thế cho nó nhàn chứ khép các ông này vào tội gì bây giờ? Chỉ là kê khai “nhầm” thôi mà, có gì chứng minh là tham nhũng đâu.

Báo cáo tiếp tay cho tham nhũng lộng hành  Vậy là việc kê khai tài sản thu nhập của các quan chức năng như thế là thành công. Như thế tham nhũng sẽ bị diệt hết trơn, bởi tài sản đã được kê “trung thực” rồi. Thế mà theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Tra nsparency International , TI) công bố xếp hạng thường niên về tham nhũng trên thế giới thì Việt Nam đứng ở vị trí thứ 116/177 quốc gia được xếp hạng. Theo Trace International, một cơ quan nghiên cứu và theo dõi nạn hối lộ thì cuộc khảo sát năm 2014 chấm điểm 197 quốc gia trên thế giới

thì Việt Nam đứng hạng 188 với 82/100 điểm, thuộc nhóm 10 quốc gia tham nhũng nhất thế giới.

Báo cáo của Thanh tra Chính phủ (TTCP) chẳng khác nào bênh vực cho tham nhũng lộng hành. Nếu hỏi bất cứ người dân VN nào về con số 4 người không trung thực trên một triệu người kê khai tài sản có đáng tin cậy không? Chắc chắn sẽ có 99,9% người lắc đầu quầy quậy “Thế mà cũng báo cáo, báo cầy được!” Vậy ai tham nhũng, tham nhũng ở đâu? Có một phản tác dụng thấy rõ là người dân hoang mang bởi những bản kê khai tham nhũng của những “thế lực thù địch”: nào là ông này có hàng tỉ đôla ở Thụy Sĩ, ông kia có năm bảy trăm triệu đôla đứng tên ai, ở đâu… Người dân tin vào đâu bây giờ? Thế nên chuyện đó cứ âm thầm lan truyền trong dân chúng. Tại sao không công khai bản kê khai tài sản của quan chức cho người dân biết?

Nhân dân chẳng thấy mặt mũi bản kê khai của ông nào

Thật ra, cũng theo báo cáo của TTCP, 98,4% bản kê khai đã được công khai bằng các hình thức niêm yết hoặc công bố. Không rõ niêm yết, công bố ở đâu chứ dân thường chúng tôi quả thực chưa hề thấy mặt mũi cái bản kê khai của các quan chức như thế nào (theo báo Kiến Thức). Quả thật vậy, tôi ở VN bao nhiêu năm mà chưa từng thấy mặt mũi cái bản kê khai ấy ra sao chứ đừng nói đến bản kê khai của mấy ông ngay trong phường, trong quận, trong thành phố Sài Gòn, nơi tôi cư ngụ.  

Dân chỉ thấy nhà cửa, đất đai, biệt thự của họ cứ mọc lên ngày một nhiều, chình ình ra đấy, nếu quy ra tiền thì giá trị phải bằng vài trăm năm tiền lương của một công chức. Tài sản khủng ấy ở đâu ra? Câu trả lời lại cùng một kiểu nguồn gốc: Vợ con làm ra, ông bà để lại, người nhà ở nước ngoài gửi về! Kê xong rồi nội bộ các ông tự thông qua với nhau, chẳng ai dại vạch áo cho người xem lưng. Những tài sản khổng lồ đó cứ nghiễm nhiên thách thức dư luận.

Nhịn cười không nổiTrường hợp đầu tiên phải nhắc

đến là ông nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền có khối tài sản khủng trị giá khoảng vài chục triệu USD. Không biết khi đương chức đương quyền ông kê khai thế

nào, có trung thực hay không? Ông Phó Tổng Thanh tra Chính

phủ Ngô Văn Khánh cũng có một khối tài sản khổng lồ mà đến lương Bộ trưởng còm cọm tích lũy cả đời cũng khó mà có được.

Rồi là ông Lê Thanh Cung, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương có tới trên 100ha đất rừng cao su, tài sản dinh thự lộng lẫy và đất rừng trị giá hàng trăm tỷ đồng, thu nhập từ rừng hàng chục tỷ đồng/năm liệu có kê khai đầy đủ không, có trung thực không?

Ở tỉnh Hà Giang cũng có những trường hợp Chủ tịch UBND, Phó Bí thư Tỉnh ủy, lãnh đạo ban ngành của tỉnh cũng ôm một khối tài sản nhà cửa có giá trị lớn, nguyên liệu làm nhà toàn bằng gỗ quý, loại bị cấm khai thác, không biết có trung thực, có nhớ để kê khai hay không? 

Vậy những con số mà ông Phó Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra làm sao có sức thuyết phục, làm sao mà dân tin được? Người dân có quyền đặt ra câu hỏi: còn bao nhiêu ông kê khai tài sản không trung thực nữa? Tất nhiên con số đó nhắm vào hơn 90% ông đã kê khai tài sản mà người dân hoàn toàn mù tịt. Nếu các ông đưa ra con số tạm chấp nhận được như khoảng 20-30% còn đỡ buồn cười chứ đưa ra những con số “quá đẹp” là 04/1 triệu như vậy, dân nhịn cười làm sao được!

Chính vì người dân tố cáo kê khai tài sản gian dối nên mới có vụ Giang Kim Đạt

Một cán bộ cấp trưởng phòng, trong vòng 2 năm đã tham ô của nhà nước 18,6 triệu USD nhưng không bị phát hiện. Tại sao Giang Kim Đạt có thể thực hiện trót lọt hành vi của mình dễ dàng? Theo Nghị định của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, ở doanh nghiệp có vốn nhà nước, cán bộ cấp phó trưởng phòng trở lên buộc phải kê khai tài sản. Như vậy, là trưởng phòng, Giang Kim Đạt cũng thuộc diện phải kê khai tài sản và thu nhập. Thế nhưng, những gì đã diễn ra cho thấy quy định này không được thực thi hoặc được thực thi qua loa cho có thôi.

Theo luật sư Nguyễn Văn Đức, “Hệ thống quản lý, theo dõi của chúng ta dày đặc, tầng tầng lớp lớp mà tại sao không biết? Buôn lậu, làm hàng giả, đánh bạc, mại dâm, ma túy, nghiện hút, tham nhũng…, việc gì dân ta cũng biết nhưng chưa được tạo cơ chế, điều kiện để tham gia phòng chống tham nhũng, thậm chí có khi còn bị vô hiệu hóa. Tiền mặt, kim

Số 224 Trang 32

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

cương, vàng bạc thì có thể giấu giếm, lén lút, chứ nhà đất và tài khoản thì quá dễ phát hiện. Nhiều vụ như thế rồi thì phải xem xét và sửa lại lỗi hệ thống, cốt lõi, gốc rễ, chứ đừng loay hoay với cái lá, cái ngọn”.

Từ vụ tham nhũng lớn nhất nước Vinashin

Rất nhiều chi tiết trong vụ Giang Kim Đạt bỏ túi hơn 16 triệu đôla, ở đây, tôi chỉ tóm tắt những sự kiện chính:

Vụ án Vinashin đã từng gây rúng động trong thời gian mấy năm vừa qua, không một người dân VN nào không biết. Vụ án đã làm thiệt hại của dân ít nhất 550 tỉ đồng.

Tài sản có giá trị hơn 1.000 tỉ đồng, đầu tư gốc 1.600 tỉ nhưng hiện nhiều con tàu của Vinashinlines đang đứng trước khả năng phải bán với giá sắt vụn. Cụ thể, do không còn nguồn thu để duy trì tình trạng an toàn tối thiểu nên các giấy chứng nhận an toàn sẽ hết hiệu lực. Khi đó, chỉ có thể bán với giá sắt vụn chứ không thể bán với giá tàu còn khai thác.

Ngoài ra, riêng tiền trông coi bảo quản tối thiểu cho mỗi con tàu cũng đã ngốn thêm trên dưới 400 triệu đồng mỗi tháng và 7 tàu có nguy cơ thành sắt vụn của Vinashinlines như tàu Lash, tàu Green Sea, tàu Vinashin Liner 1 và 2, tàu Cái Lân 4, tàu New Energy, tàu New Sun.

Hầu hết 9 ông lớn của Vinashin bị bắt và bị truy tố, nhưng Giang Kim Đạt nhanh chân trốn thoát. Cựu Chủ tịch Vinashin bị thu hồi 500 tỉ đồng nhưng chưa thi hành án được đồng nào. Xác minh tài sản thì coi như tay trắng, muốn thu hồi cũng không biết lấy gì để thu hồi.

Giang Kim Đạt là ai?Giang Kim Đạt (SN 1977, quê

quán huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), nguyên quyền trưởng phòng Kinh doanh của Công ty Vận tải Viễn dương Vinashin (Vinashinlines), là đối tượng chính trong vụ án xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin).

Vụ án này được Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố ngày 23-8-2010. Trước khi khởi tố vụ án, Giang Kim Đạt đã bỏ trốn ra nước ngoài. Ngay sau đó, Cơ quan An ninh điều tra đã phát lệnh truy nã đặc biệt. Bộ Công an đã phối hợp với Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (Interpol) và cơ quan thực thi pháp luật các nước liên quan để truy bắt.

Giang Kim Đạt sống cực kỳ sang trọng ở Singapore

Theo xác minh của Cục An ninh kinh tế, gia đình Đạt có tới 40 biệt

thự, căn nhà cao cấp, đất đai vị trí “vàng” trên khắp cả nước cùng nhiều xe hơi đắt tiền. Khối tài sản lớn đứng tên gia đình Đạt đều có từ sau thời gian Đạt làm việc tại Vinashinlines, đảm nhận cương vị trưởng phòng kinh doanh.

Đầu năm 2015, sau nhiều ngày xác minh, truy xét, cơ quan điều tra đã biết được Đạt đang lẩn trốn ở nước ngoài. Lần theo dấu vết của Đạt, cơ quan điều tra xác định được Đạt đã bỏ trốn sang Singapore, Thái Lan, Trung Quốc và một số nước khác. Vốn có sẵn tiền trong nhiều tài khoản nước ngoài, khi bỏ trốn, Đạt vung tay tiêu xài như đi du lịch. Sang Singapore không lâu, Đạt đã mạnh tay mua một căn nhà cao cấp với giá 3,6 triệu USD. Thậm chí, trong thời gian này, Đạt có quan hệ tình cảm với một số người... (chắc là toàn người đẹp cẳng dài).

Khởi tố và bắt giam Giang Văn Hiền, cha của Giang Kim Đạt

Sau khi bỏ trốn ra nước ngoài, Đạt yêu cầu các công ty “đối tác” mà Đạt là đại diện Vinashinlines ký kết hợp đồng phải chuyển toàn bộ số ngoại tệ như đã thoả thuận trước đó vào nhiều tài khoản mang tên bố đẻ của  Đạt là Giang Văn Hiển, 65 tuổi, ở tại quận 2, TP Sài Gòn, cán bộ hưu trí. Sau đó, ông Hiển rút tiền để mua bán bất động sản và nhiều tài sản khác. 

Cơ quan An ninh điều tra đã khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Giang Văn Hiển về tội “chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. 

Đến nay, cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã xác minh, kê biên khoảng 30 bất động sản, bao gồm: nhà ở, biệt thự, đất đai chủ yếu ở TP Sài Gòn; Hà Nội; TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà… Đây là những bất động sản đứng tên ông Hiển và người thân trong gia đình, hoặc nhờ người khác đứng tên, thu hồi tài sản cho nhà nước.

Người dân có quyền đặt ra nghi vấn: Còn bao nhiêu Giang Kim Đạt và bố Đạt cùng anh chị em họ hàng nhà Đạt nữa đang sống ung dung trên đầu trên cổ dân nghèo rớt mồng tơi với những thuế phí và cuộc sống đầy bất an?

Văn Quang

Số 224 Trang 33