1
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
CỤC HÀNG HẢI VIỆT NAM
DỰ THẢO BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH KHU VỰC BIỂN ĐẶC BIỆT NHẠY CẢM
HẠ LONG - CÁT BÀ
HÀ NỘI, 2015
2
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG ........................................................................... 3
1.1. Bối cảnh nghiên cứu .............................................................................................. 3
1.2. Mục đích chính của việc thiết lập PSSA ............................................................... 4
1.3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 4
1.4. Cấu trúc của báo cáo ............................................................................................. 4
1.5. Các định nghĩa và thuật ngữ.................................................................................. 5
1.6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 6
CHƯƠNG 2. MÔ TẢ, Ý NGHĨA VỀ SINH THÁI, KHOA HỌC - XÃ HỘI VÀ
ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG CHO KHU VỰC HẠ LONG - CÁT BÀ DO HOẠT
ĐỘNG VẬN TẢI BIỂN QUỐC TẾ ............................................................................. 7
2.1. Mô tả chi tiết khu vực Hạ Long - Cát Bà .............................................................. 7
2.2. Giá trị về sinh thái, kinh tế - xã hội, khoa học giáo dục ..................................... 12
2.3. Đánh giá tổn thương cho khu vực Hạ Long - Cát Bà do hoạt động vận tải biển
quốc tế. ....................................................................................................................... 17
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ ................................................................ 29
3.1. Các biện pháp hiện tại ......................................................................................... 29
3.2. Biện pháp bổ sung ............................................................................................... 33
CHƯƠNG 4. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI PSSA HẠ LONG - CÁT BÀ ................... 35
4.1. Bản đồ và ranh giới vùng PSSA Hạ Long-Cát Bà đề xuất ................................. 35
4.2. Tọa độ địa lý xác định ranh giới PSSA khu vực Hạ Long Cát Bà ...................... 35
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................. 37
5.1.Kết luận ................................................................................................................ 37
5.2. Kiến nghị ........................................................................................................... 388
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 399
3
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Việt Nam đã là thành viên của 6 Phụ lục Công ước MARPOL, Bộ Giao
thông vận tải đã có văn bản số 2986/BGTVT - HTQT giao cho Cục Hàng hải
Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam nghiên cứu về các
điều kiện các khu vực biển đặc biển nhạy cảm theo các hướng dẫn tại Nghị
quyết A 982 (24) của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO).
Hiện tại tổng số đã có 23 quốc gia (16 quốc gia châu Âu, 5 quốc gia châu
Mỹ, 2 quốc gia châu Úc) có tên trong danh mục PSSA của IMO. Có 8 vùng
PSSA là của riêng một quốc gia, 5 PSSA của nhiều quốc gia có cùng biên giới
biển. Về không gian phân bố PSSA chủ yếu là các khu bảo tồn thiên nhiên, hay
di sản thiên nhiên thuộc Thái Bình Dương và Đại Tây Dương gần các tuyến
hàng hải quốc tế và các cảng biển.
Vịnh Hạ Long - Việt Nam địa danh đã 2 lần được UNESCO chính thức
công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới (17/12/1994 về giá trị thẩm mỹ, ngày
02/12/2000 về giá trị về địa chất địa mạo) và ngày 12/11/2011, Vịnh Hạ Long đã
vượt qua hơn 400 kỳ quan từ hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ để trở thành
một trong 7 Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Quần đảo Cát Bà đã được Uỷ
ban Thường trực về Con người và Sinh quyển Chương trình UNESCO công
nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 3 tại Việt Nam, tham gia đề cử di sản thiên
nhiên thế giới.
Hướng dẫn IMO trong Nghị quyết A.720 (17) (được thông qua vào năm
1991) và sửa đổi trong Nghị quyết A.885 (21) (được thông qua năm 1999) và
Nghị quyết A982 (24) (được thông qua năm 2005) cho phép các khu vực được
chỉ định là một PSSA nếu nó hoàn thành một số tiêu chí, bao gồm: tiêu chí sinh
thái, chẳng hạn như là duy nhất hoặc hệ sinh thái quý hiếm, hệ sinh thái đa dạng,
hoặc dễ tổn thương bởi suy thoái của các hoạt động tự nhiên hoặc các hoạt động
của con người; các tiêu chí xã hội, văn hóa và kinh tế, chẳng hạn như tầm quan
trọng của khu vực để giải trí, du lịch; và tiêu chí khoa học - giáo dục, chẳng hạn
như nghiên cứu sinh học hoặc giá trị lịch sử. Khi một khu vực được phê duyệt
như một PSSA, đồng thời tiến hành biện pháp cụ thể kèm theo sử dụng để kiểm
soát các hoạt động hàng hải trong khu vực đó, chẳng hạn như các biện pháp định
tuyến; áp dụng nghiêm ngặt của MARPOL về các yêu cầu xả thải và thiết bị cho
tàu, và lắp đặt hệ thống giao thông tàu (VTS), trung tâm AIS.
Trên cơ sở này, dựa theo các hướng dẫn lần lượt được sửa đổi của IMO,
việc nghiên cứu xác định và đề xuất thiết lập PSSA Hạ Long - Cát Bà là hết sức
cần thiết nhằm bổ sung thêm các công cụ, biện pháp quản lý, giám sát nhằm bảo
vệ môi trường, bảo tồn biển khu vực Vịnh Hạ Long - Cát Bà.
4
1.2. Mục đích chính của việc thiết lập PSSA
Nghị quyết hội nghị IMO A.720 (17) vào năm 1991 thông qua Hướng dẫn
chỉ định khu vực đặc biệt và nhận dạng Khu vực biển đặc biệt nhạy cảm (Hướng
dẫn). Các thủ tục trong tài liệu này tiếp tục được soạn thảo dựa theo Nghị quyết
hội nghị A.885 (21), được thông qua vào năm 1999 và Nghị quyết A.982 (24)
được thông qua vào năm 2005.
Mục đích chính của nghiên cứu là xem xét đề xuất một Vùng biển đặc
biệt nhạy cảm cho khu vực Hạ Long - Cát Bà và thiết lập các biện pháp bảo vệ
do các tổn thương từ hoạt động hàng hải cần thiết để đảm bảo sự bảo vệ toàn
diện của một khu vực nhạy cảm hướng tới phát triển bền vững.
Điều quan trọng cần lưu ý là một PSSA không phải là một khu vực bảo
tồn biển (MPA), mặc dù nó có thể trùng khớp với một MPA, khu dự trữ sinh
quyển, di sản thiên nhiên. Thủ tục cho việc xác định các PSSA và áp dụng các
biện pháp bảo vệ liên tục được xem xét bởi Tổ chức Hàng hải quốc tế.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích trọng tâm của nghiên cứu là tiến hành mô tả, phân tích, đánh giá
về điều kiện để xác định khu vực Vịnh Hạ Long - Cát Bà trở thành khu vực
PSSA theo hướng dẫn của IMO về việc xác định các PSSA và dự thảo các văn
kiện, hồ sơ để trình IMO xem xét thông qua vào kỳ họp lần thứ 70 của Ủy ban
Bảo vệ Môi trường vào năm 2018 theo các Hướng dẫn của IMO. Để đạt được
mục tiêu này báo cáo nghiên cứu tập trung đến các vấn đề cụ thể như sau:
- Xem xét đến các các tổn thương của Khu vực Hạ Long - Cát Bà do tác
động của các hoạt động hàng hải quốc tế;
- Xem xét các điều kiện của Khu vực Hạ Long - Cát Bà để thiết lập
PSSA;
- Mô tả các lợi ích tiềm năng và những khó khăn trong việc thiết lập
PSSA tại khu vực Hạ Long - Cát Bà;
- Xem xét lại các biện pháp bảo vệ hiện tại và bổ sung các biện pháp bổ
sung nếu cần thiết;
- Xem xét việc phân định danh giới tọa độ địa lý của PSSA Hạ Long - Cát
Bà trên cơ sở sẵn có của một di sản thiên nhiên thế giới, khu dự trữ sinh quyển
và bảo tồn biển;
- Rút ra kết luận và kiến nghị cho việc thiết lập PSSA.
1.4. Cấu trúc của báo cáo
Báo cáo nghiên cứu này sẽ được trình bày các nội dung nghiên cứu phù
hợp với mục tiêu nêu trên. Bao gồm các giới thiệu chung, mục đích nghiên cứu,
mục tiêu nghiên cứu, định nghĩa, giải thích thuật ngữ, cấu trúc của báo cáo,
phương pháp nghiên cứu được nêu tại Chương 1.
5
Các chương tiếp theo mô tả chi tiết, ý nghĩa về sinh thái, xã hội khoa học
và đánh giá tổn thương cho khu vực biển Hạ Long Cát Bà do hoạt động vận tải
biển quốc tế (Chương 2). Chương 3 đưa ra các biện pháp bảo vệ. Chương 4 xác
định ranh giới PSSA.
Cuối cùng, Chương 5 phác thảo những kết luận từ các chương trước và
trình bày những kiến nghị. Chương này đặc biệt trình bày những quan điểm về
việc thiết lập một PSSA.
1.5. Các định nghĩa và thuật ngữ
1.5.1 Định nghĩa IMO
Các định nghĩa và chữ viết tắt sau đây được sử dụng trong báo cáo nghiên
cứu này được rút ra nguyên văn từ Phụ lục 1 của Nghị quyết 885.(21) và Nghị
quyết A.982 (24) của IMO về việc xác định các Vùng biển đặc biệt nhạy cảm.
- Biện pháp bảo vệ liên quan - một quy tắc quốc tế hoặc tiêu chuẩn dùng
trong phạm vi quản lý của IMO và điều chỉnh các hoạt động hàng hải quốc tế
cho việc bảo vệ các khu vực nguy hiểm.
- Hướng dẫn về việc chỉ định khu vực đặc biệt và nhận dạng khu vực đặc
biệt nhạy cảm (Hướng dẫn) - Hướng dẫn được thông qua bởi nghị quyết hội
nghị A.720 (17) vào năm 1991, được sửa đổi, trong đó chủ yếu nhằm hỗ trợ
IMO và các chính phủ thành viên trong việc xác định, quản lý, bảo vệ các vùng
biển nhạy cảm.
- Xác định các vùng biển đặc biệt nhạy cảm - một quyết định của IMO
rằng đề xuất của chính phủ thành viên, phù hợp với Hướng dẫn, thành lập một
biện pháp bảo vệ liên quan cần thiết cho một vùng biển cụ thể bởi vì vùng biển
đó trong khu vực được công nhận về sinh thái, kinh tế-xã hội, hoặc đặc điểm
khoa học và tính để tổn thương của nó (có nghĩa là, chấn thương hoặc tác hại
môi trường) được xác định bởi các hoạt động hàng hải quốc tế.
- Hoạt động hàng hải quốc tế - giao thông tàu và các hoạt động tàu thuyền
khác là đối tượng điều chỉnh bởi các quy định và tiêu chuẩn quốc tế trong phạm
vi của IMO.
- Chính phủ thành viên - các Chính phủ là các bên tham gia vào Công ước
Tổ chức Hàng hải quốc tế.
- IMO - Tổ chức Hàng hải quốc tế là tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm cho
việc xác định các khu vực như vùng biển đặc biệt nhạy cảm và áp dụng các biện
pháp bảo vệ liên quan.
- Vùng biển đặc biệt nhạy cảm (PSSA) - một khu vực cần bảo vệ đặc biệt
thông qua hành động của IMO vì ý nghĩa của nó đối với hệ sinh thái hoặc kinh
tế-xã hội hoặc lý do khoa học, khu vực đó có thể dễ bị nguy hại bởi các hoạt
động hàng hải quốc tế.
6
- Kiến nghị của chính phủ thành viên - một chính phủ thành viên (hoặc
các chính phủ) nộp đơn xin xác đinh PSSA cùng với các biện pháp bảo vệ liên
quan của mình cho IMO.
1.5.2. Thuật ngữ
1.6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, thu thập, phân tích tài liệu, thông tin hiện có về
PSSA trên thế giới được xuất bản, trên các trang thông tin điện tử, các tài liệu về
hoạt động hàng hải quốc tế tại Khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng;
- Phương pháp kế thừa các kết quả nghiên cứu điển hình hiện có của các đơn
vị, tổ chức nghiên cứu khoa học về các khu bảo tồn biển, đa dạng sinh học biển các
vùng có giá trị đặc biệt khác;
- Phương pháp đánh giá tổng hợp tại vùng biển Quảng Ninh - Hải Phòng dựa
theo bộ tiêu chí PSSA;
- Phương pháp điều tra khảo sát, Tổ chức các cuộc họp lấy ý kiến các tổ
chức liên quan;
- Phương pháp xây dựng các bản đồ phân bố không gian;
- Phương pháp chuyên gia.
7
CHƯƠNG 2. MÔ TẢ, Ý NGHĨA VỀ SINH THÁI, KHOA HỌC - XÃ HỘI
VÀ ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG CHO KHU VỰC HẠ LONG - CÁT BÀ
DO HOẠT ĐỘNG VẬN TẢI BIỂN QUỐC TẾ
2.1. Mô tả chi tiết khu vực Hạ Long - Cát Bà
Khu vực đề xuất rộng khoảng hơn 500 km2 bao gồm từ 2 vùng đã được
bảo vệ: vùng lõi Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long rộng 434km2 và vùng
lõi Khu bảo tồn biển quốc gia Cát Bà có diện tích rộng khoảng 92 km2.
Hình 1. Bản đồ khu vực nghiên cứu
2.1.1. Vịnh Hạ Long:
Vịnh Hạ Long nằm ở tỉnh Quảng Ninh thuộc Đông Bắc Việt Nam Nằm
trong hệ tọa độ: 106°58'- 107°22'E và 20°45'-21°15'N, là trung tâm của một khu
vực rộng lớn có những yếu tố về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn
hóa, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tich vùng lõi di sản của Vịnh có diện tich
434 km2 với hơn 775 hòn đảo được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới vào năm 1994 [1, 2]. Lịch sử kiến tạo địa chất đá vôi của Vịnh đã trải
qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau; và quá
trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố
như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm va tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên
tổng thể. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh
Hạ Long trở thanh quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín
thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ
sinh thai. 14 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật đặc hữu đã được
phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại Vịnh.
8
Những kết quả nghiên cứu, thám sát khảo cổ học và văn hóa học cho thấy
sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã
tạo lập những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau bao gồm văn hóa Soi Nhụ
trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công Nguyên, văn hóa Cái Bèo trong
7.000 - 5.000 năm trước Công Nguyên và văn hóa Hạ Long cách ngày nay
khoảng từ 3.500-5.000 năm. Tiến trình dựng nước và truyền thống giữ nước của
dân tộc Việt Nam, trong suốt hành trinh lịch sử, cũng khẳng định vị trí tiền tiêu
và vị thế văn hóa của vịnh Hạ Long qua những địa danh mà tên gọi gắn với điển
tích còn lưu truyền đến nay, như núi Bài Thơ, hang Đầu Gỗ, Bãi Cháy v.v.
Hiện nay, vịnh Hạ Long là một khu vực phát triển năng động nhờ những
điều kiện và lợi thế sẵn có như có một tiềm năng lớn về du lịch, nghiên cứu khoa
học, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, giao thông thủy đối với khu vực vùng biển
Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt Nam nói chung.
Năm 1994 vùng lõi của Vịnh Hạ Long được đưa vào danh sách Di sản thế
giới lần đầu tiên bởi vẻ đẹp độc đáo. Vịnh được công nhận một lần nữa vào năm
2000 về địa chất và địa mạo và vượt qua hơn 400 kỳ quan từ hơn 200 quốc gia
và vùng lãnh thổ để trở thành một trong 7 Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới.
Điều kiện tự nhiên và xã hội: Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu
phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và mùa
đông khô lạnh với nhiệt độ 16-18 °C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong
khoảng 15-25 °C. Lượng mưa trên Vịnh Hạ Long vào khoảng từ 2.000mm -
2.200mm tuy có tài liệu chi tiết hóa lượng mưa là 1.680mm với khoảng trên
300mm vào mùa nóng nhất trong năm (từ tháng 6 đến tháng 8) và dưới 30mm
vào mùa khô nhất trong năm (từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau). Hệ thủy triều
tại Vịnh Hạ Long rất đặc trưng với mức triều cường vào khoảng 3,5-4m/ngày.
Độ mặn trong nước biển trên vùng Vịnh dao động từ 31 đến 34.5MT vào mùa
khô nhưng vào mùa mưa, mức này có thể thấp hơn. Mực nước biển trong vùng
Vịnh khá cạn, có độ sâu chỉ khoảng 6m đến 10m và các đảo đều không lưu giữ
nước bề mặt.
Cư dân sống trên thuyền tại Vịnh. Hiện nay chỉ có khoảng 40 đảo là có
dân sinh sống, những đảo này có qui mô từ vài chục đến hàng ngàn hecta tập
trung chủ yếu ở phía Đông và Đông Nam vịnh Hạ Long. Mấy chục năm gần
đây, nhiều vạn chài sống trôi nổi trên mặt nước, bắt đầu lên một số đảo định cư
biến những đảo hoang sơ trở thành trù phù như đảo Sa Tô (thành phố Hạ Long),
đảo Thắng Lợi (huyện đảo Vân Đồn).
Dân số trên vịnh Hạ Long hiện nay khoảng 1.540 người, tập trung chủ
yếu ở các làng đánh cá Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp Dè (thuộc phường Hùng Thắng,
thành phố Hạ Long).
Cư dân vùng Vịnh phần lớn sống trên thuyền, trên nhà bè để thuận tiện
cho việc đánh bắt, nuôi trồng và lai tạo các giống thủy sản, hải sản. Ngày nay
đời sống của cư dân Vịnh Hạ Long đã phát triển do kinh doanh dịch vụ du lịch.
9
Bảng 1: Toạ độ Vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên [1]
Điểm
(Point)
Kinh dộ
(Longitude)
Vĩ độ
(Latitude)
A01 106° 59' 45" 20° 51' 54.45"
A02 106° 59' 36" 20° 53' 38.39"
A03 106° 59' 37" 20° 54' 16.67"
A04 106° 59' 51" 20° 54' 40"
A05 107° 1' 15.4" 20° 55' 41.52"
A06 107° 2' 2.65" 20° 55' 58.73"
A07 107° 2' 53.73" 20° 56' 8.53"
A08 107° 03' 59" 20° 56' 6.52"
A09 107° 8' 55.77" 20° 55'
A10 107° 11' 10.05" 20° 54' 38"
A11 107° 16' 40.22" 20° 53' 57.31"
A12 107° 17' 51.42" 20° 53' 11"
A13 107° 19' 2.61" 20° 52' 24.65"
A14 107° 20' 1.85" 20° 50' 5.88"
A15 107° 20' 35.53" 20° 47' 48.64"
A16 107° 20' 10.79" 20° 47' 17.73"
A17 107° 20' 4.12" 20° 47' 16.85"
A18 107° 17' 50.4" 20° 48' 37.76"
A19 107° 17' 29.08" 20° 48' 39.08"
A20 107° 16' 59.36" 20° 48' 28.68"
A21 107° 16' 35.67" 20° 48' 15.13"
A22 107° 16' 23" 20° 47' 49.51"
A23 107° 16' 7" 20° 47' 43.3"
A24 107° 15' 41.27" 20° 47' 53.63"
A25 107° 15' 13.2" 20° 47' 56.14"
A26 107° 13' 55" 20° 47' 6.5"
A27 107° 11' 59" 20° 44' 49.61"
A28 107° 11' 29.54" 20° 44' 4.77"
A29 107° 10' 41" 20° 44' 16"
A30 107° 9' 3.3" 20° 44' 3.22"
A31 107° 8' 28" 20° 43' 49.22"
A32 107° 7' 52" 20° 43' 48.89"
A33 107° 7' 32.32" 20° 44' 1.56"
A34 107° 7' 5" 20° 45' 27.37"
A35 107° 6' 45.76" 20° 47' 34.64"
10
A36 107° 6' 33.41" 20° 48' 56.29"
A37 107° 5' 36.45" 20° 49' 11.23"
A38 107° 3' 53.75" 20° 50' 29.55"
A39 107° 2' 35.75" 20° 51' 10.28"
A40 107° 2' 10.66" 20° 51' 46.74"
A41 107° 2' 2.02" 20° 51' 53.97"
2.1.2. Khu bảo tồn biển Cát Bà
Khu bảo tồn biển Cát Bà cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía Đông,
cách thành phố Hạ Long 25 km về phía Nam và cách Hà Nội khoảng 150km về
phía Đông Nam. Khu bảo tồn biển Cát Bà có diện tích 92 km2 và nằm trong
khoảng tọa độ: Vĩ độ Bắc: 20043'14'' - 20051'45''; Kinh độ Đông: 107002'45'' -
107009'05''. Phía Bắc từ Hòn Soi Cỏ Dài đến Hòn Hang Dù, dài 8,1 km. Phía
Đông từ Hòn Hang Dù qua Hòn Đầu Bê Cụt, dài 10,6 km. Phía Đông Nam từ
Hòn Đầu Bê Cụt - Vạ Thẩm, dài 12,5km. Phía Tây từ Hòn Vạ Thẩm đến đuôi
Tùng Giỏ - Soi Cỏ Dài theo đường chim bay, dài 13,5 km [3,4,6].
Khu bảo tồn biển Cát Bà nằm ở khu vực được bao bọc bởi khoảng 366
hòn đảo lớn nhỏ khác nhau. Địa hình đặc trưng ở đây là các vách dốc đứng lởm
chởm tai mèo, các đỉnh, chóp của các khối núi đá vôi hiểm trở; các hang động
trong các khối núi đá vôi như hang Cả, Hang Tối, hồ Ba Hầm; các tùng, áng ăn
sâu vào vào bờ đảo (Tùng Giỏ, Tùng Gấu, Tùng Chàng, Áng Vẹm, Áng Thảm
.v.v.); các bãi cát vỏ vôi sinh vật và thân, cành san hô (Cát Dứa, Cát Tiên, Ba
Trái Đào .v.v.). Thềm san hô viền quanh chân đảo từ Vạn Bội đến Ba Trái Đào,
Hang Trai, Đầu Bê là một trong những dạng địa hình đặc sắc của đảo Cát Bà.
Các ngấn mài mòn, ăn mòn của nước biển viền quanh chân đảo, các rạn san hô
ngầm, các hệ thống kênh lạch triều là dạng địa hình chiếm ưu thế tại khu vực
này. Khu vực sâu nhất thuộc về Vịnh Lan Hạ và là khu vực vịnh sâu trung bình
13 m và sâu nhất đạt đến 18 m, có nhiều núi đá vôi che chắn. Phía Đông là dãy
núi Yên Ngựa thuộc đảo Hang Trai, phía Tây là dãy núi Rạt Rát thuộc đảo Cát
Bà, phía Bắc là Cửa Vạn rộng khoảng 700 m thông với khu vực vịnh Hạ Long
với nhiều đảo đá vôi sắp xếp xen kẽ tạo thành một bức tường chắn sóng khá lý
tưởng. Phía Nam là phần cửa vịnh, rộng khoảng 5 km thông với biển Đông. Khu
vực vịnh được che chắn ở cả 3 mặt Đông, Tây, Bắc bởi các đảo đá vôi lớn nhỏ
nên tương đối kín sóng và gió. Nằm trong vịnh Lan Hạ thuộc khu vực đảo Cát
Bà có nhiều tùng vụng nhỏ như: Tùng Lợn Quay, Tùng Giỏ, Tùng Gấu.
Khu bảo tồn biển đảo Cát Bà là vùng phân bố các dạng sinh cảnh tự nhiên
rộng lớn, bao gồm các rạn san hô, các bãi cỏ biển, rừng ngập mặn, bãi cát biển
và trên các đảo có kiểu rừng trên núi đá vôi. Tính đa dạng sinh học đã biết được
tại đây khá cao và cho tiềm năng bảo tồn thuộc lại cao. Đến nay theo tác giả Đỗ
Văn Khương [4] đã ghi nhận được 1.140 loài động thực vật biển, 199 loài thực
vật nổi, 89 loài động vật nổi, 4 loài cỏ biển, 75 loài rong biển, 23 loài thực vật
ngập mặn, 160 loài san hô, 475 loài động vật đáy, 119 loài cá biển, 7 loài rắn
biển, 4 loài rùa, 1 loài thú ở vùng biển đảo Cát Bà. Bước đầu đã thống kê được
11
1.561 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 842 chi, 186 họ và 5 ngành thực vật
khác nhau. Trong đó, 58 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Khu hệ động vật có
xương sống trên cạn có 53 loài thú, 160 loài chim, 45 loài bò sát và 21 loài
lưỡng cư. Với tổng số 279 loài, trong đó có 22 loài ghi trong Sách đỏ Việt Nam
và 07 loài ghi trong Danh lục đỏ Thế giới. Loài Vọc mũi đỏ (Presbytis
francoisis poliocephalus) là loài đặc hữu. Khu BTB Cát Bà có độ phủ san hô
sống thấp nhất là 5% và cao nhất là 68%; độ phủ trung bình là 47,7%. Hàng loạt
mối đe dọa đến khu bảo tồn biển đảo Cát Bà đã được xác định.
Năm 2004, quần đảo Cát Bà đã được UNESCO chính thức công nhận là
một Khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới bởi giá trị quan trọng mang tầm quốc tế về
địa mạo karst đá vôi. Đây là khu vực điển hình trên thế giới về cảnh quan các-
xtơ (Karst) ngập nước biển kiểu Phong Tùng (cụm các đỉnh núi hình nón) và
Phong Linh (có dạng các tòa tháp tách biệt) (UNESCO, 2004).
Nguy cơ ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học. Trước tiên là
các rạn san hô trong vùng đang bị đe dọa bởi lớp bùn lắng đọng, việc đánh bắt
thủy sản theo kiểu hủy diệt và hiện tượng khai thác san hô. Thứ hai là các đàn cá
đang bị đánh bắt cạn kiệt bởi phương pháp khai thác không bền vững thể hiện
qua việc sử dụng loại lưới mắt nhỏ, đánh mìn, chất độc và xung điện. Thứ ba là
hiện tượng môi trường biển đang bị ô nhiễm bởi giao thông trên biển, ảnh hưởng
từ các bến cảng, công nghiệp và từ các vùng sản xuất nông nghiệp ở khu vực lân
cận. Hơn nữa, mức độ hiểu biết thấp về các vấn đề môi trường trong nhân dân
địa phương và chưa có một hệ thống mốc ranh giới, đều được coi là các trở ngại
đối với công tác bảo tồn biển.
Khu bảo tồn biển đảo Cát Bà là nơi ẩn náu các nguồn tài nguyên thủy sản
giàu có, trong đó có nhiều loài có giá trị quan trọng về kinh tế như: cá Hồng, cá
Song, cá Thu, cá Chim. Đây là khu vực đánh bắt thủy sản quan trọng đối với cả
nhân dân địa phương và ngư dân đến từ các vùng ven biển khác của Việt Nam.
Khu bảo tồn biển đảo Cát Bà có chung đường ranh giới với khu Di sản
thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và là một bộ phận tiềm năng đối với việc mở
rộng ngành công nghiệp du lịch. Ngành du lịch hiện đang đóng góp phần quan
trọng đối với nền kinh tế địa phương và có nhiều khách du lịch đến đảo Cát Bà để
thăm quan khu bảo tồn biển đề xuất bằng thuyền. Việc quản lý tốt ngành du lịch
sinh thái sẽ tạo thêm tiềm năng làm giảm bớt sức ép đối với các nguồn tài nguyên
thiên nhiên của vùng này, cũng như tăng thêm thu nhập cho kinh tế địa phương.
Bảng 2. Ranh giới Khu MPA Cát Bà [4]
Điểm
Point
Kinh độ
Longitude
Vĩ độ
Latitude
B01 107° 5' 49.19" 20° 49' 6.62"
B02 107° 8' 8.82" 20° 49' 9"
B03 107° 9' 35.63" 20° 44' 30.7"
B04 107° 3' 58.33" 20° 43' 16"
12
2.2. Giá trị về sinh thái, kinh tế - xã hội, khoa học giáo dục
2.2.1.Tiêu chí đa dạng sinh học và sinh thái
a) Tính độc hiếm.
Khu vực có 1141 đảo lớn nhỏ khác nhau phân bố trong một dẫy quần đảo
độc đáo về cảnh quan, giàu đa dạng sinh học và phong phú các kiểu loại hệ sinh
thái, như: vũng, vịnh, vụng, đảo nhỏ, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển.
Khu vực này với hàng ngàn hòn đảo đá vôi có hình thù khác nhau chìm ngập
dưới biển và các hang động karst kỳ ảo,...tạo nên cảnh quan quyến rũ.
Trong đó có nhiều hang động đẹp nổi tiếng trong nước và thế giới như
Thiên Cung, Đầu Gỗ, Bồ Nâu, Trinh Nữ, Sửng Sốt (vịnh Hạ Long), động Hà
Sen, Cao Vọng (đảo Cát Bà),...là những dạng kỳ quan đặc sắc của Việt Nam nên
có giá trị đặc biệt đối với du lịch, nhất là du lịch quốc tế và đã được mô tả trong
hố sơ Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long trình UNESCO [1] .
Năm 2013, tác giả Trần Đức Thạnh và cộng sự [2] tại vịnh Hạ Long có
1.140 loài động thực vật biển, 199 loài thực vật nổi, 89 loài động vật nổi, 4 loài
cỏ biển, 75 loài rong biển, 23 loài thực vật ngập mặn, 160 loài san hô, 475 loài
động vật đáy, 119 loài cá biển, 7 loài rắn biển, 4 loài rùa, 1 loài thú ở vùng biển
đảo Cát Bà. Bước đầu đã thống kê được 1.561 loài thực vật bậc cao có mạch
thuộc 842 chi, 186 họ và 5 ngành thực vật khác nhau. Trong đó, 58 loài nằm
trong Sách đỏ Việt Nam. Khu hệ động vật có xương sống trên cạn có 53 loài
thú, 160 loài chim, 45 loài bò sát và 21 loài lưỡng cư. Với tổng số 279 loài,
trong đó có 22 loài ghi trong Sách đỏ Việt Nam và 07 loài ghi trong Danh lục đỏ
Thế giới. Loài Vọc mũi đỏ (Presbytis francoisis poliocephalus) là loài đặc hữu.
Khu BTB Cát Bà có độ phủ san hô sống thấp nhất là 5% và cao nhất là 68%; độ
phủ trung bình là 47,7%.
b) Môi trường sống quan trọng-
Trước tiên là các rạn san hô trong vùng đang bị đe dọa bởi lớp bùn lắng
đọng, việc đánh bắt thủy sản theo kiểu hủy diệt và hiện tượng khai thác san hô.
Thứ hai là các đàn cá đang bị đánh bắt cạn kiệt bởi phương pháp khai thác
không bền vững thể hiện qua việc sử dụng loại lưới mắt nhỏ, đánh mìn, chất độc
và xung điện. Thứ ba là hiện tượng môi trường biển đang bị ô nhiễm bởi giao
thông trên biển, ảnh hưởng từ các luồng hàng hải và bến cảng….
Tại Vịnh Hạ Long có nhiều loài qúy hiếm ở khu vực này như ốc đụn cái
(Trochus niloticus), ốc đụn đực (Tectus pyramis), ốc xoắn vắt (Epitonium
Scalarare), bàn mai quạt (Atrina vexillum), tu hài (Lutraria rhynchaena), mực
thước (Photololigo chinensis), mực nang vân hổ (Sepia pharaonis). Khoảng 19
loài hải miên (Sponge) lần đầu tiên được xác định ở Vịnh Hạ Long [2].
c) Tính phụ thuộc
Thực vật ưu thế ở khu vực các đảo Vịnh Hạ Long theo tài liệu [2] gồm
các loài thuộc họ vang Caesalpiniaceae, chè Theaceae, trâm Myrtaceae, sến
Sapotaceae, khu vực còn có hơn 100ha rừng ngập mặn phân bố ở ven bờ. Thực
13
vật rừng khá phong phú và đa dạng, đến nay đã ghi nhận được 398 loài thực vật
bậc cao có mạch, trong đó có 4 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam như kim
giao, Ba kích, Giác đề và Thổ phục linh. Nhiều loài có giá trị kinh tế, quý hiếm
như 5 loài rong mơ Sargassum, 2 loài rong đông Hypnea, rong guột Caulerpa
spp., rong cải biển Ulva...; có khoảng 40 loài động vật đáy kinh tế trong đó
nhiều loài quý hiếm như bào ngư Haliotis, ốc đụn Trochus, trai ngọc Pteria, hải
sâm Holothuria...; có nhiều loài cá kinh tế như cá mú, cá hồng...; thú biển đôi
khi xuất hiện trong khu vực.
d) Tính đại diện
Đặc điểm của khu vực này có tính đại diện cao của quá trình sinh thái
vùng bãi triều, đầm lầy và hệ thống hàng nghìn đảo, hang động.
Vịnh Hạ Long đã 2 lần là di sản thiên nhiên thế giới năm 1994, 2002. Đảo
Cát Bà đã trở thành khu dự trữ sinh quyển thế giới, với loài Vọc mũi đỏ
(Presbytis francoisis poliocephalus) nằm trong Danh sách động vật quy hiếm và
báo động đỏ về nguy cơ diệt chủng của IUCN, hiện có vài chục cá thể duy nhất
trên thế giới. Tài nguyên thiên nhiên của khu vực vịnh Hạ Long và quần đảo Cát
Bà rất phong phú đa dạng.
đ) Tính đa dạng:
- Riêng tại vịnh Hạ Long có 189 loài cá, 500 loài động vật đáy, 355 loài
sinh vật phù du, 34 loài thực vật ngập mặn [2].
Trong dó, 21 loài quý, hiếm dang bị de dọa có tên trong Sách Ðỏ Việt
Nam, và 17 loài thực vật dặc hữu chỉ có ở Vịnh Hạ Long, cụ thể là: Schefllera
alongensis (Ngũ gia bi Hạ Long), Livistona halongensis (Cọ Hạ Long), Cycas
tropophylla (tuế Hạ Long), Impatiens Halongensis (Bóng nước Hạ Long),
Chirita gemella (Cầy ri một cặp), Chirita Halongensis (Cầy ri Hạ Long), Chirita
hiepii (Cầy ri hiệp), Chirita modesta (Cầy ri ôn hòa), Paraboea halongensts
(Song bế Hạ Long), Neolitsea alonngensis (Nô Hạ Long), Ficus superba var
alongensis (Sung Hạ Long)., Ardtsta pedahs (Cơm nguội chân), Jasminum
alongensis (Nhài Hạ Long), Hedyotis lecomtei (An Ðiền Hạ Long), Allophylus
leviscens (Ngoại mộc tai), Pilea alongensis (Nan ông Hạ Long), Alpinia
calcicola (Riềng núi dá).
Ngoài ra, khu vực vịnh Hạ Long có 102 loài san hô thuộc 11 họ san hô và
32 gen thuộc bộ Scleractinia. Ngoài ra các rạn san hô trong vịnh Hạ Lòng là nơi
sinh sống của 180 loài thực vật phù du, 104 loài động vật phù du, 129 loài tảo,
118 loài gun đốt (Annelida), 11 loài bọt biển, 77 loài giáp xác, 15 loài da gai
(Echinoderm) và 155 loài cá biển. Hệ sinh thái này có năng suất sinh học cao,
đồng thời là bộ lọc tự nhiên giúp làm sạch môi trường nước [13]
- Tại khu vực Cát Bà có 1.140 loài động thực vật biển, 199 loài thực vật
nổi, 89 loài động vật nổi, 4 loài cỏ biển, 75 loài rong biển, 23 loài thực vật ngập
mặn, 160 loài san hô, 475 loài động vật đáy, 119 loài cá biển, 7 loài rắn biển, 4
loài rùa, 1 loài thú [2].
14
e) Năng suất tái sinh
Khu vực này có năng suất cao tự nhiên nơi đây có chế độ gió mùa và
dòng chảy đa dạng, sinh khối phát triển đạt 2000 mg C/km2.giờ [2].
g) Nơi sinh-đẻ trứng, ấu trùng
Khu vực này có nhiều đầm lầy, rừng ngập mặn, san hô, thảm cỏ biển là
những nơi cung cấp bãi đẻ, bãi giống quan trọng. Hạ Long, Cát Bà là những nơi
bãi giống quan trọng. Trên đảo Cát Bà còn có vườn ươm Vọc quý hiếm trên thế
giới [2,4].
h) Tính tự nhiên hoang dã
Hệ thống gió mùa cũng với chế độ sóng dòng chảy, thủy triều tạo ra được
môi trường tự nhiên thuận lợi, đặc biệt cho nuôi trồng tu hài, ngao [2].
i) Tính nguyên vẹn
Khu vực này là một đơn vị có chức năng sinh học, một thực thể tự duy trì
sinh thái hiệu quả. Các khu vực sinh thái tương đối độc lập và có nhiều khả năng
duy trì bảo vệ hiệu quả chức năng sinh học. Tuy nhiên một số nơi đang tàn phá
hệ sinh thái thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, san hô, bãi triều gây ảnh hưởng đến
một số quá trình sinh học-sinh thái.
k) Tính dễ bị tổn thương
Khu vực này dễ bị tác động của hoạt động hàng hải. Các sự cố do tàu vận
chuyển dầu khí, hóa chất, than đá gây ra cùng với nước thải tàu biển có nguy cơ
gây tác động xấu đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn, san hô, thảm cỏ biển tại
khu vực. Các quần thể sinh vật ven bờ có thể có sự chịu đựng thấp với thay đổi
của các yếu tố môi trường, hoặc họ có thể tồn tại gần với các giới hạn chịu đựng
sinh học. Tầu thuyền cũng gây ra quá trình đục hóa nước luồng tàu và tại các
khu vực bến cảng trung chuyển hàng hóa gây ngạt thở đối với sinh vật biển, rồi
thả neo gây phá hủy san hô đáy biển.
Do tình hình hàng hải tại khu vực và hoạt động đánh bắt thủy sản bằng
chất hủy diệt, không thực hiện theo quy định khiến giảm đa dạng sinh học
nghiêm trọng tại Vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà. Bên cạnh đó, độ đục của
nước biển tăng cao do hoạt động hàng hải tại khu vực, ven bờ làm san hô chết
nhiều. Trong thời gian qua, kết quả khảo sát về môi truờng sinh thái của vịnh Hạ
Long cho thấy các rạn san hô, nguồn lợi thủy sản, diện tích rừng ngập mặn ven
bờ vịnh Hạ Long dã bị suy giảm dáng kể. Hầu nhu không còn san hô ở vịnh Hạ
Long và vịnh Bái Tử Long. Các rạn san hô suy thoái kéo theo sự suy giảm da
dạng sinh học cung nhu nguồn lợi hải sản do nhiều loài cá không còn bãi dẻ.
Các rạn san hô biến mất cung đồng nghĩa với chức năng chắn song tự nhiên của
chúng khi có bão hoặc song thần không còn. Sự suy thoái của hệ sinh thái sẽ dặt
các giống loài trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
l) Giá trị địa sinh học
15
Khu vực có giá trị quan trọng trong bảo tồn thiên nhiên quốc tế với hệ
sinh thái san hô và rừng ngập mặn.
2.2.2. Tiêu chí Kinh tế Xã hội Văn hóa
a) Hoạt động kinh tế-xã hội
Khu vực này có tầm quan trọng đặc biệt về sử dụng, khai thác nguồn tài
nguyên sinh vật biển tươi sống. Tại khu vực có đến hàng trăn nghìn tầu thuyền
nhỏ đánh bắt cá thường xuyên. Nuôi tu hài, ngao tại ven các hải đảo đang cực kì
phát triển với hàng trăm nghìn tấn sản phẩm hàng năm.
Khu vực này có nguồn lợi thủy sản rất đa dạng, ngoài cá biển còn nhiều
loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, sò huyết, trai
ngọc, rong biển, vừa là nguồn thực phẩm quý phục vụ du lịch vừa có giá trị xuất
khẩu cao, hàng năm khai thác được tới 40 - 50 ngàn tấn cá, 3.000 tấn mực…
b) Sinh kế
Khu vực này có ý nghĩa đặc biệt để giải trí và du lịch, đặc biệt với các địa
điểm di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long và khu dự trữ sinh quyển thế giới
Cát Bà. Do tính chất độc đáo, hàng năm có hàng triệu lượt người gồm khác quốc
tế và nội địa đến thăm các thắng cảnh này. Đây là nguồn thu nhập rất lớn cho địa
phương, và số lượng công ăn việc làm cho hàng chục nghìn lao động địa
phương.
Đặc biệt hiện nay còn hơn 2.630 thuyền thủ công đánh bắt ven bờ ở khu
vực tập trung nguồn giống, con non và đa dạng sinh học. Nghề nuôi trồng
thuỷ sản phát triển mạnh, đã trở thành ngành sản xuất hàng hóa chính và
có hiệu quả kinh tế cao của cư dân ven biển. Đến nay toàn vùng có hơn
20000 ha nuôi trồng thuỷ sản, chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu.
d) Văn hóa
Khu vực này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các sinh kế truyền thống
và/hoặc các nhu cầu văn hóa của nhân dân địa phương.
- Vịnh Hạ Long, một trong những cái nôi của người Việt cổ với ba nền
văn hoá tiền sử kế tiếp nhau, cách ngày nay từ 18.000 đến 3.500 năm, đó là: Văn
hóa Soi Nhụ, văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long.
+ Văn hóa Soi Nhụ (cách ngày nay 18.000 năm đến 7.000 năm): Phân bố
chủ yếu trong khu vực các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long,
ngoài ra còn phân bố ở các hang động ven bờ. Các di chỉ tiêu biểu: Mê Cung,
Thiên Long, Tiên Ông...Phương thức sinh sống của cư dân văn hóa Soi Nhụ là
thu lượm sò, ốc, hoa quả... Tích tụ của tầng văn hóa gồm có ốc núi
(Cyclophorus) và ốc suối (Melania) cùng một số loài nhuyễn thể nước ngọt
khác.So với Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn cùng thời, người Soi Nhụ đã có một
mô hình văn hóa đa dạng hơn, phong phú hơn, bởi vì trong phương thức kiếm
sống của cư dân ở đây đã có thêm yếu tố biển.
16
+ Văn hóa Cái Bèo (cách ngày nay từ 7.000 năm đến 5.000 năm) - là gạch
nối giữa văn hóa Soi Nhụ và văn hóa Hạ Long. Các di chỉ tiêu biểu: Cái Bèo,
Hà Giát, Giáp Khẩu... được phân bố trên bờ vũng vịnh kín gió, tựa lưng vào
núi, mà chủ yếu là núi đá vôi. Phương thức kiếm sống chủ đạo của cư dân văn
hóa Cái Bèo là khai thác động vật thủy sinh (cua, cá, nhuyễn thể) kết hợp với
săn bắt các loài động vật, hái lượm hoa quả trong tự nhiên. Di chỉ Cái Bèo là
một trong những bằng chứng điển hình khẳng định tổ tiên của người Việt cổ đã
bắt đầu tiến ra biển khơi để chinh phục và khai thác biển cả và đã tạo nên một
nền văn hoá mang sắc thái đặc biệt.
Văn hoá Hạ Long (cách ngày nay từ 4.500 - 3.500 năm) được chia làm hai
giai đoạn sớm và muộn. Giai đoạn sớm là kết quả trực tiếp của đợt biển tiến
Holoxen trung (khoảng 6.000 - 5.000 năm trước). Đợt biển tiến này đã làm mất
đi môi trường sống của cư dân văn hóa Cái Bèo, khiến cho một bộ phận cư dân
phải di chuyển lên phía Đông Bắc và những vùng đất cao hơn. Tại đây họ tạo
nên giai đoạn sớm của Văn hóa Hạ Long. Phương thức sống của cư dân văn hóa
Hạ Long giai đoạn sớm bao gồm: Săn bắt, hái lượm, canh tác, trồng cây lấy sợi,
rau củ quả, tăng cường khai thác biển, phát triển nghề thủ công làm gốm bàn
xoay và chế tác công cụ đá. Giai đoạn muộn là kết quả của mực nước biển dâng
cực đại rồi sau đó rút dần. Khi biển lùi, các cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn
sớm có sự chuyển cư ngược lại. Theo nước thuỷ triều, họ tiến dần ra biển. Địa
bàn cư trú của cư dân văn hoá Hạ Long giai đoạn muộn tương đối phong phú,
bao gồm: Hang động, chân núi ven biển, doi cát, các bậc thềm và mặt đồng bằng
cổ. Các di chỉ tiêu biểu: hang Bái Tử Long, hang Soi Nhụ dưới, Ngọc Vừng ....
Phương thức sinh sống của cư dân văn hóa Hạ Long giai đoạn muộn đã cơ
bản gắn với môi trường biển cả với kỹ thuật chế tác công cụ đá và đồ gốm khá
hoàn hảo, trở thành đặc trưng của văn hóa Hạ Long đó là: Gốm văn thừng, văn
chải, văn khắc vạch, rìu và bôn có vai có nấc. Văn hóa Hạ Long giai đoạn này là
một trong những tiền đề đặc biệt quan trọng góp phần để phát triển nền văn
minh Việt cổ. Vịnh Hạ Long – nơi ghi dấu lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc .Với vị trí đặc biệt quan trọng, ngay từ thế kỷ XII (năm 1149) dưới triều
vua Lý Anh Tông, thương cảng Vân Đồn đã được thành lập và nhanh chóng
phát triển thành nơi trao đổi, buôn bán sầm uất suốt một thời gian dài từ thời Lý,
Trần đến Lê. Đây là thương cảng quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Vịnh Hạ Long còn là nơi ghi dấu
những chiến công hào hùng của dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XX: Ngô Quyền
đánh thắng quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàn đánh thắng quân Tống (năm
981), Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông (năm 1288) và hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần bảo vệ hoà
bình cho Tổ Quốc.
Hiện nay, trong khu vực Vịnh Hạ Long còn có nhiều di tích lịch sử - văn
hoá quan trọng, đặc biệt cộng đồng ngư dân khoảng 1500 người thuộc các làng
chài trên Vịnh (Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp Dè) vẫn còn bảo lưu những nét văn hoá,
17
truyền thống độc đáo của người vùng biển Hạ Long như hò, vè, hát đám cưới,
hát giao duyên và nhiều lễ tục truyền thống khác.
2.2.3.Tiêu chuẩn Khoa học và giáo dục
a) Nghiên cứu khoa học
Khu vực có sự quan tâm điều tra cơ bản và nghiên cứu khoa học rất cao,
riêng tại Hải Phòng đã có tới 2 viện nghiên cứu khoa học (Viện Tài nguyên và
môi trường biển thành lập từ 1958, Viện nghiên cứu Hải sản, 1961), ngoài ra
còn còn nhiều trường Đại Học Hàng Hải Hải Phòng, Đại học Hạ Long- Quảng
Ninh, các trung tâm nghiên cứu khoa học từ thủ đô Hà Nội với khoảng cách
khoảng 100 km.
b) Điều tra cơ bản và giám sát định kỳ
Các cuộc điều tra khảo sát nghiên cứu tài nguyên sinh vật biển từ nhưng
năm 1950 và đặc biệt phát triển từ sau năm 1976, với các chương trình biển cấp
Nhà nước, của các ngành. Tại đây thường xuyên có nghiên cứu khảo sát về đa
dạng sinh học biển, san hô và có các trạm quan trắc thường xuyên như giám sát
Vọc tại Cát Bà, trạm đo mực nước Hòn Gai, Cát Bà, và nhiều trạm đo đạc khí
tượng-hải văn khác.
c) Giáo dục
Khu vực có cơ hội để chứng kiến hiện tượng sinh thái đặc biệt như san hô,
rừng ngập mặn, cỏ biển, các hang động carst, địa chất học. Ở đây có phòng thí
nghiệm sống-khu dự trữ sinh quyển Cát Bà với Vọc mũi đỏ (Presbytis francoisis
poliocephalus) quý hiếm trong danh sách đỏ quốc tế của IUCN.
2.3. Đánh giá điều kiện khí tượng, thủy văn và mức độ tổn thương cho khu
vực Hạ Long - Cát Bà
2.3.1. Tác động của hàng hải tới môi trường biển.
Các tác động hàng hải được chia ra 2 loại là thường xuyên (operational
impacts) và không thường xuyên (sự cố-accidental impacts) [6].
a) Tác động không thường xuyên: Các tai nạn sự cố hàng hải, mắc cạn
hoặc va đập với bờ có thể dẫn đến tổn thương khu cư trú, sinh nở và gây xáo
trộn đáy biển, đục hoá nước biển và cũng có thể gây ra những sự cố môi trường
như:
- Tràn dầu, hoặc rò rỉ từ bồn, thùng chứa nhiên liệu,
- Các sự cố liên quan đến thùng, bồn chứa các chất lỏng, chất rắn độc hại
và các hoá chất độc hại, ví dụ thuốc trừ sâu, khí hóa lỏng,,.
Các yếu tố độc học hoặc phá huỷ vật lý của hàng hoá và nhiên liệu tác
động mạnh tới môi trường cư trú của sinh vật biển. Những tác động chính của cả
dầu và hóa chất độc tràn ra hoặc là gây phá huỷ vật lý, có thể gây chết. Nhiều
sinh vật như các loài chim, động vật thân mềm, trứng và cá con có nguy cơ bị
chết từ các sự cố tình cờ. Các sự cố tràn dầu, hoá chất hoặc hàng hóa nguy hiểm
18
khác cũng ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế-xã hội. Nghề đánh bắt cá bị tác
động lớn nhất; dầu mỡ có thể gây ngạt thở động vật thân mềm (shelfish), độc hại
cho trứng cá và cá con, và làm giảm chất lượng cá, hải sản đánh bắt. Dầu loang
trên bãi biển, nước biển ảnh hưởng đến tắm biển, và du lịch biển.
b) Tác động thường xuyên: Đó là các tác động: rò rỉ hoá chất độc hại; sự
cố va chạm, nước thải, dầu thải, sơn chống gỉ, sinh vật ngoại lai; tiếng ồn động
cơ; chất thải từ tàu, hoạt động nạo vét.
Tràn dầu hay xảy ra nhất trên lớp nước mặt của biển và người ta thấy rằng
nó không chỉ ảnh hưởng lập tức đến khu vực xảy ra tai nạn tràn dầu mà nó còn
ảnh hưởng lâu dài và rộng khắp trên cả các khu vực thường xuyên có tàu bè qua
lại. Môt khi xảy ra sự cố tràn dầu, các loài phiêu sinh vật như ấu trùng, trứng cá,
các loài thủy sản, hải sải, các loài thực vật như rong biển, tảo… ở nơi xảy ra sự
cố và nơi dầu loang đến đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngay cả đối với loài
động vật như chim, động vật có vú, chủ yếu sống trên cạn và chỉ tiếp xúc
với môi trường biển cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi dầu loang trôi dạt
vào bờ.
Ô nhiễm dầu gây nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, đặc biệt là
hệ sinh thái như hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đầm phá
và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linh hoạt
và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm
tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vong hệ sinh thái.
Dầu tràn gây nên những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và ảnh hưởng
đến sức khỏe của con người. Dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dài
không được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại cho
ngành khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước
làm cá chết hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất, kè đá, các bờ đảo
làm mất mỹ quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng
bị thiệt hại nặng nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các
cảng cá, cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy
móc, thiết bị khai thác tài nguyên và vận chuyển đường thủy.
19
Bảng 3: Các tác động thường xuyên từ hoạt động hàng hải đến biển [6]
Đặc trưng Tác động từ hoạt động hàng hải
Sinh thái học
Năng suất sinh học Sự cố dầu tràn; rò rỉ hoá chất độc hại; sơn
chống gỉ, sinh vật ngoại lai; chất thải từ
tàu
Cá đẻ trứng và cá con Sự cố dầu tràn; rò rỉ hoá chất độc hại; sơn
chống gỉ, sinh vật ngoại lai; hoạt động nạo
vét
Nơi cư trú
Sự cố dầu tràn; rò rỉ hoá chất độc hại; sơn
chống gỉ, sinh vật ngoại lai; rửa tàu, hoạt
động nạo vét
Loài
Sự cố dầu tràn; hàng độc hại; sự cố va
chạm, dầu thải, sơn chống gỉ, sinh vật
ngoại lai; tiếng ồn động cơ; chất thải từ
tàu, hoạt động nạo vét
Kinh tế -xã hội
Du lịch và giải trí
Sự cố dầu tràn; Rò rỉ hoá chất độc hại;
Dầu thải, Khí thải tàu sinh vật ngoại lai;
tiếng ồn động cơ; ô nhiễm chất thải,
Nghề đánh bắt cá
Sự cố dầu tràn; Rò rỉ hoá chất; Dầu thải,
sinh vật ngoại lai; hoạt động nạo vét,
Khoa học và văn hóa
Nghiên cứu Sự cố dầu tràn; Rò rỉ hoá chất độc hại;
Dầu thải, sinh vật ngoại lai; hoạt động nạo
vét.
Cảnh quan và di sản Sự cố dầu tràn; Rò rỉ hoá chất độc hại;
Dầu thải, sinh vật ngoại lai; Khí thải tàu;
hoạt động nạo vét,
2.3.2. Đặc điểm tàu thuyền, hàng hải quốc tế tại khu vực
a) Luồng tuyến tàu quốc tế ra vào các cảng khu vực: [11]
Hoạt động vận tải quốc tế theo 2 tuyến chính (hình 2) đi qua khu vực:
- Tuyến thứ nhất đi qua Lạch Miều có độ sâu hơn 12 m, đến đảo Hòn Một
là luồng tuyến Hòn Gai-Cái Lân vào 2 cảng Cái Lân (toạ độ 20o58’46”N –
107o02’35”E) tổng chiều dài luồng là 36 km với độ sâu luồng -10 m, tiếp nhận
được tàu có tải trọng 50,000 DWT; luồng tuyến vào cảng xăng dầu B12
(20°57'54"N - 103°03'17"E) có chiều dài 30 km và độ sâu -9,7m, tiếp nhận được
tàu có tải trọng 40000 DWT.
- Tuyến thứ 2 là tuyến phía đông khu vực nghiên cứu vào cảng Cẩm Phả
(toạ độ 21°01’30" N - 107°22’00" E) theo 2 hướng Lạch Hang Trống, và hướng
20
Lạch Đông Tráng-Lạch Gối vào đến khu vực đảo Hòn Nét có độ sâu hơn -10.7
m . Luồng từ Hòn Nét có độ dài 40 km, từ Hòn Nét đến Con Ong và độ sâu -9m,
từ Con Ong đến cầu cảng -7.4m. Cỡ tàu lớn nhất tiếp nhận được 76,000 DWT.
- Các bến cảng trung chuyển hoạt động bốc dỡ hàng hóa trong vịnh Lan
Hạ-Cát Bà.
b) Loại tàu và hàng hoá: [11]
Các tàu quốc tế thường xuyên ra vào 3 cảng biển chính trong khu vực là
Cảng Cái Lân, Cảng B12, Cảng Cẩm Phả đủ các loại tàu từ 3000 DWT đến
50000 DWT với các chủng loại hàng hoá, hoá chất nguy hại như xăng dầu,
mazut, diesel, khí hoá lỏng, dầu thực vật, than đá.. với khối lượng liên tục gia
tăng trong những năm gần đây.
Tàu quốc tế ra vào cảng Cái Lân và B12 trong năm 2012 với 3802 lượt
hàng khô và 567 lượt hàng lỏng (xăng dầu, dầu thực vật, nhựa đường…). Tàu
quốc tếra vào cảng khu vực Cẩm Phả chủ yếu là tàu chở than, số lượng hàng
nhập khẩu than đang gia tăng nhanh phục vụ phát triển các nhà máy nhiệt điện
khu vực phía bắc Việt Nam.
Bảng 4: Hàng hoá thông qua Cảng quốc tế Cái lân [11]
Năm 2012 2013 2014
Tổng cộng 72,295 TEUs 2,218,615 MT 597,288 MT
Nhập 19,103 TEUs 1,408,931 MT 354,840 MT
Xuất 17,702 TEUs 809,684 MT 242,448 MT
Nội địa 35,490 TEUs 0 0
Container 72,295 TEUs 88.260 TEUs
Số tàu đến 19 75 114
Bảng 5. Hàng hoá thông qua cảng B12 [11]
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng cộng 7,862,187
MT
4,337,938
M3/MT
xăng dầu.
4,250,000
M3 /MT
xăng dầu
4,024,982
M3
xăng dầu
3,613,212
M3/MT
3,552,000
M3 /MT
Nhập khẩu 4,000,282
M3
2,712,106
M3
2,612,304
M3
2,612,304
M3/MT
Xuất khẩu 0 0 0 2,679,944
M3
3,613,212
M3/MT
3,552,000
M3/MT
Nội địa 3,861,905
MT
1,625,832
M3/MT
1,637,696
M3/MT
1,345,038
M3
Số tàu đến 325 3,639 140 126 112 127
21
Bảng 6: Hàng hoá thông qua Cảng Cẩm Phả [11]
2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng cộng 10,714,000
MT
21,230.586
MT than
20,714,124
MT
18,000,000
MT
15,783,000
MT
7,600,302
MT
Nhập khẩu 7,667,000
MT
17,174,163
MT.
16,380,612
MT
250,000
MT
6,724,000
MT
2,112,618
MT
Xuất khẩu 0 330,000
MT
1,400 MT 7,044,000
MT
0 0
Nội địa 3,047,000
MT
3,726,423
MT.
4,332,112
MT.
10,706,000
MT
9,059,000
MT
5,487,684
MT
Số tàu đến 2,543 4,300 1,700 1,340 1,178 820
c) Hiện trạng ô nhiễm biển khu vực
Môi trường tại khu vực vịnh Hạ Long, Cát Bà bị ảnh hưởng từ các nguồn
thải từ hoạt động dân sinh, đô thị hóa, du lịch, dịch vụ, nhưng đáng kể nhất là
ảnh hưởng xuất phát từ các hoạt động vận tải biển, cụ thể các sự cố tai nạn tàu
thuyền chiếm đến khoảng 12% nguồn gây ô nhiễm và thường gây ra hậu quả
sinh thái tồi tệ, các chất thải từ tàu biển còn thiếu coi trọng quản lý và kiểm soát,
từ các nguyên nhân trên đã tác động đến chất lượng môi trường biển rất nghiêm
trọng.
Theo số liệu đánh giá trong [2] khu vực luồng giữa vịnh Hạ Long, những
vùng lõi của Di sản Thiên nhiên thế giới đều xuất hiện váng dầu, hàm lượng dầu
mỡ vượt ngưỡng từ 1,1 đến 4,1 lần; khu vực vịnh Cửa Lục - cầu Bãi Cháy, hàm
lượng dầu mỡ vượt quy chuẩn hơn 4,3 lần…
Chất lượng nước của khu vực đã xuất hiện nhiều dấu hiệu ô nhiễm, chất
dinh dưỡng, chất hữu cơ, dầu và chất rắn lơ lửng, chlorophyII a. Các thông số
chủ yếu là NH4+, PO4
3, dầu mỡ, TSS, COD, Giá trí trị của các thông số này có
xu hướng tăng lên theo thời gian, trong đó một số các chỉ số này đã vượt quá
giới hạn cho phép của quy chuẩn 10:2008/BTNMT, ảnh hưởng trực tiếp chất
lượng nước vũng lõi vịnh [12]
Váng dầu gây ô nhiễm nước biển vịnh Hạ Long khiến du khách e ngại
tắm biển sẽ bị các bệnh đường ruột, bệnh ngoài da...; ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế, du lịch tại khu vực. Ô nhiễm dầu được xác định là nguồn phát thải chất
thải nguy hại và là nguyên nhân chính dẫn đến việc suy giảm, đe dọa đa dạng
sinh học và san hô khu vực vịnh Hạ Long và khu bảo tồn biển Cát Bà.
Bảng 7: Các thông số quan trắc nước tại Vịnh Hạ Long 2004 - 2014
22
Kết quả quan trắc nước trong tháng 4 năm 2013 cho thấy các khu vực bị ô
nhiễm nằm dọc theo bờ biển, ví dụ như bến cảng Bãi Cháy, hệ thống cống ngầm
Thanh Niên, phía sau chợ Hạ Long (Liên minh Hạ Long-Cát Bà, 2013). Điều
đáng lo ngại hơn là một số thông số, bao gồm sắt (Fe), dầu khoáng và dầu mỡ,
ammonia và nhu cầu oxy hóa học (COD) đã tăng gấp 3 lần mức cho phép theo
tiêu chuẩn QCVN (xem Bảng 7). Kết quả cho thấy phần lớn các khu vực ô
nhiễm nhất ở gần các khu vực đông dân cư và khu du lịch dọc bờ biển, bến cảng
du lịch và mỏ khai thác than công nghiệp. Điều này một phần cũng do khả năng
xử lý chất thải hiện nay chỉ đáp ứng được 40% tổng lượng chất thải tạo ra tại
Thành phố Hạ Long (Sở TNMT, 2014).
Hình 1: Những khu vực ô nhiễm trọng điểm tại Vịnh Hạ Long
Như vậy thì có thể thấy số lượt tàu quốc tế ra vào khu vực cảng của
Quảng Ninh đáp ứng được chỉ tiêu yêu cầu của IMO đối với 1 khu PSSA. Nguy
23
cơ tác động hàng hải quốc tế tới môi trường, đa dạng sinh học biển và hệ sinh
thái san hô khu vực rất hiện hữu.
Hình 2. Sơ đồ giao thông hàng hải khu vực [9]
2.3.3. Nguồn gốc các chất độc hại [11]
Cảng B12 cùng với kho chứa lớn nhất Việt Nam thuộc Tổng Cty Xăng
dầu Việt Nam với hàng triệu tấn hàng xăng dầu, mazut, diesel, khí hoá lỏng
nhựa đường là nguồn gốc gây hại tới môi trường và đa dạng sinh học biển.
Ngoài ra có hàng triệu tấn dầu thực vật qua Cảng Cái Lân, hàng triệu tấn
than đá nhập khẩu và xuất khẩu qua Cảng Cẩm Phả cũng là các tác nhân có
nguy cơ gây hại tới môi trường khi có sự cố, hàng hóa tại các cảng trung chuyển
trên vịnh Lan Hạ-Cát Bà.
2.3.4. Các yếu tố tự nhiên [1,4,6]
a) Hình thái (Hydrographical)
Với mật độ phân bố san hô như hiện nay chủ yếu nằm ở ven các đảo rìa
ngoài phía nam của khu vực Hạ Long -Cát Bà, đây cũng là nơi những hoạt động
của tàu thuyền đi vào các cảng. Vậy nên nguy cơ tàu thuyền tác động tới san hô
và đa dạng sinh học khu vực này là rất cao.
24
Địa hình khu vực có độ sâu 2-12 m, xen kẽ là các đảo nhỏ thuận lợi cho
san hô, các loại rong tảo và cây ngập mặn phát triển. Các hệ sinh thái san hô,
thảm cỏ biển và rừng ngập mặn là nguồn cung cấp dinh dưỡng và tái tạo nhiều
loài hải sản.
Hình 3. Bản đồ phân bố hiện trạng san hô Hạ Long – Cát Bà ( [6])
b. Khí tượng khí hậu
Vịnh Hạ Long, quần đảo Cát Bà có khí hậu vừa mang đặc điểm chung của
đồng bằng Bắc Bộ, vừa có những đặc điểm vi khí hậu của một đảo đá vôi ven
biển, với đặc điểm cơ bản sau:
- Tính chất nhiệt đới, có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 5 -
tháng 9) và một mùa đông lạnh ít mưa (từ tháng 11 - tháng 3).
- Tính biến động thường xuyên của thời tiết và khí hậu do sự luân phiên
tranh chấp của các khối không khí có bản chất khác nhau. Khi không khí lạnh
tràn về thì chỉ sau 24h, nhiệt độ có thể giảm 8oC -10oC. Khi áp thấp nóng phía
tây xâm lấn thì thời tiết rất khô nóng, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 37oC -
40oC. Khi không khí xích đạo chi phối mạnh lại gây thời tiết nóng, ẩm, dễ có
dông, mưa lớn, áp thấp nhiệt đới hoặc bão. Là đảo ven bờ, khu vực còn chịu sự
chi phối của biển dưới tác động của gió biển - đất làm điều hoà khí hậu, tạo nên
mùa đông ấm hơn và mùa hè mát hơn so với đất liền.
Hoàn lưu khí quyển và chế độ gió[14]
Do sự hoạt động và chi phối của hoàn lưu khí quyển phát triển theo mùa
nên khí hậu bị phân hoá thành 2 mùa rõ rệt:
25
- Mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 9), trùng với gió mùa tây nam, thời tiết
nóng ẩm (nhiệt độ trung bình thường trên 25oC) và mưa nhiều kéo dài (lượng
mưa tháng trên 100mm), thường xuất hiện bão, áp thấp nhiệt đới, dông...
- Mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 3), trùng với mùa gió đông bắc, trời rét
lạnh (nhiệt độ trung bình dưới 20oC), ít mưa (lượng mưa thường dưới 100mm).
- Thời kì chuyển tiếp tháng 4 và 10, các khối không khí suy yếu và tranh
giành ảnh hưởng nên thời tiết ôn hoà hơn, nhưng ưu thế vẫn thuộc về các hệ
thống mùa hạ.
Chế độ gió trên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của hoàn lưu chung
khí quyển và thay đổi theo mùa. Tốc độ gió trung bình năm 2,4m/s, cao nhất vào
tháng 7 (3,4m/s) và thấp nhất vào tháng 1 (1,8m/s). Mùa hè gió mùa Đông nam
có hướng thịnh hành Đông nam và Nam, tốc độ trung bình 2,50m/s -3,0m/s, cực
đại 20 m/s - 30m/s. Mùa đông gió mùa Đông bắc có hướng thịnh hành Bắc và
Đông Bắc, sau chuyển hướng Đông và Đông Bắc vào cuối mùa, tốc độ trung
bình 2,50m/s -3,0m/s, tốc độ cực đại 20m/s -25m/s trong các đợt gió mùa Đông
bắc mạnh.
Các đặc trưng mưa, bốc hơi, độ ẩm và nhiệt độ không khí[14]
Mưa và bay hơi: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Hàng năm có 100-150 ngày mưa với tổng lượng mưa trung
bình năm 1.806mm, dao động từ khoảng 1.600 - 2.000 mm.
Lượng mưa phân bố theo 2 mùa. Mùa mưa (tháng 5 - tháng 10), trung
bình có trên 10 ngày mưa /tháng với tổng lượng mưa 1500 mm - 1600mm,
chiếm 80% - 90% lượng mưa năm. Tháng mưa nhiều nhất là các tháng 7, 8 và 9
do mưa rào nhiều và bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động mạnh. Lượng mưa trung
bình xấp xỉ 300 mm/tháng, cực đại vào tháng 8 đạt 408 mm. Đặc biệt, lượng
mưa lớn trong ngày đạt 160 mm trong chu kỳ 5 năm, 186 mm trong chu kỳ 10
năm và 257 mm trong chu kỳ 50 năm. Mùa khô (tháng11 - tháng 4), trung bình
mỗi tháng có 8 - 10 ngày mưa nhưng chủ yếu mưa nhỏ, mưa phùn nên tổng
lượng mưa cả mùa chỉ đạt 200 - 250mm. Lượng mưa thấp nhất vào các tháng
11, 12, trung bình chỉ đạt 20 mm - 25mm/tháng.
Tổng lượng bốc hơi đạt 700 mm – 750 mm/năm, xấp xỉ 50% tổng lượng
mưa năm. Các tháng 10 và 11 lượng bốc hơi lớn nhất trong năm, đạt trên 80 mm
và các tháng 2 và 3 lượng bốc hơi thấp, chỉ đạt 30 mm. Lượng bốc hơi cao cùng
với tính chất địa hình karst của đảo có khả năng thoát nước lớn nên tình trạng
khô kiệt xảy ra quanh năm. Về mùa hè, tính chất khô kiệt càng tăng cao vì chỉ
ngay sau mưa, nước mưa đã thoát hết xuống lòng đất đá vôi và ra biển.
Độ ẩm không khí[14]
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình năm là 24,7mb, cao nhất vào tháng 7 đạt
32,6mb và thấp nhất vào tháng 1 đạt 15,1mb.
- Độ ẩm tương đối khá cao, trung bình năm khoảng 85%. Thời kỳ đầu
mùa đông, độ ẩm trung bình 77% - 82%, các tháng còn lại độ ẩm đều trên 83%,
26
không khí ẩm ướt, mù trời. Các tháng 9, 10, 11 khô hanh độ ẩm đạt dưới 77%,
bầu trời trong xanh. Vào cuối quý IV hàng năm, bầu trời ẩm thấp, mù trời thiếu
ánh sáng.
Chế độ nhiệt và bức xạ[14]
Khu vực chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt đới nên cán cân bức xạ nhiệt
luôn dương và bị phân hoá thành 2 mùa do sự chi phối của hoàn lưu cực đới:
- Mùa hè (tháng 5 đến tháng 9) nóng, nhiệt độ trung bình trên 25oC.
- Mùa đông (tháng 11 đến tháng 4) lạnh, nhiệt độ trung bình dưới 20oC.
Nhiệt độ không khí trung bình năm là 23 - 24oC khá đặc trưng cho vùng
nhiệt đới. Nhiệt độ cũng thay đổi theo mùa và theo chế độ gió, trung bình mùa
hè là 27,9oC, mùa đông là 19,8oC. Vào mùa hè, các tháng nóng nhất là các tháng
5, 6 và 7, có khi nhiệt độ đến 35oC-36oC và kéo dài nhiều giờ trong ngày. Vào
mùa đông, các tháng lạnh nhất là các tháng 12, 1 và 2, có lúc nhiệt độ xuống
dưới 10oC và kéo dài 5 - 7 ngày. Chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa là 8oC-10oC
và giao động nhiệt độ giữa ngày và đêm là 5oC-6oC. Tổng nhiệt là 8000oC-
8500oC/năm. Trung bình hàng năm trong khu vực có 1.600-1.800 giờ nắng.
Bức xạ nhiệt: do độ cao mặt trời các tháng trong năm đều lớn nên bức xạ
mặt trời có giá trị khá cao. Bức xạ nhiệt trung bình năm của vùng ven biển
Thành phố Hải Phòng đạt 110 kcal/cm2 -115kcal/cm2.
Bão và nước dâng do bão[14]
Bão được xem là một trường hợp đặc biệt của gió có kèm theo mưa và
gây ra những tai họa lớn. Bão sớm có thể xuất hiện từ tháng 4 và kéo đến hết
tháng 10 nhưng tập trung nhiều vào các tháng 7, 8, 9. Tần suất của bão trong
năm thường không phân bố đều trong các tháng. Tháng 12 là thời gian không có
bão, tháng 1 đến tháng 5 chiếm 2,5%, tháng 7 đến tháng 9 tần suất lớn nhất đạt
35% -36%.
Do nằm trong khu vực có tần suất bão đổ bộ trực tiếp lớn nhất của cả
nước, chiếm (28%). Hàng năm khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của 1 - 2 cơn
bão và chịu ảnh hưởng gián tiếp của 3 - 4 cơn. Gió bão thường đạt cấp 9 - 10, có
khi đạt cấp 12 hoặc trên cấp 12. Kèm theo bão là mưa lớn, lượng mưa trong bão
chiếm tới 25% - 30% tổng lượng mưa cả mùa mưa.
Tuy bão xuất hiện không thường xuyên nhưng năng lượng lớn gấp nhiều
lần các quá trình động lực khác. Trong thời gian bão có thể phá huỷ, xoá nhoà
toàn bộ các dạng địa hình bờ biển đã tồn tại trước đó và làm xuất hiện những
dạng địa hình mới. Ví dụ cơn bão tháng 9 năm 1955 đã đẩy lùi bờ đảo Cát Hải
vào sâu trong nội địa hơn 100 m.
Trung bình hàng năm có từ 3 - 5 cơn bão đổ bộ vào vịnh Hạ Long.
Bão thường xuất hiện vào tháng 8 [2,6].
c) Đặc điểm thủy văn
27
- Độ mặn của nước biển chia làm 2 mùa tương ứng: Mùa mưa đạt 21‰ -
22‰, mùa khô đạt 32‰ - 33‰. Địa hình đáy Vịnh tương đối bằng phẳng, với
độ sâu trung bình 5 - 10m, một số luồng lạch có độ sâu từ 15 - 29m, như: Vùng
trũng Cửa Lục sâu 20m, lạch Thẻ Vàng sâu 22 - 27m, các lạch khác có độ sâu
trung bình 9 - 10m. Do có một hệ thống đảo phía ngoài che chắn nên sóng ở
Vịnh Hạ Long tương đối nhỏ. Động lực biển ưu thế thuộc về thủy triều, chế độ
nhật triều đều với độ lớn từ 3,5m - 4m, triều thấp vào các tháng 3, 4, 8 và 9, triều
cao vào các tháng 1, 6, 7 và 12 [2,6].
- Quần đảo Cát Bà là đảo đá vôi, vì vậy hệ thống sông suối trên đảo kém
phát triển. Ngoài những dòng suối chính như Thuồng Luồng, Trung Trang,
những dòng chảy tạm thời chỉ xuất hiện trong cơn mưa và ngừng ngay sau khi
mưa. Vào mùa mưa, nước đọng lại ở những vùng nhỏ, thấm giọt trong các hang
động. Tuy rất ít, nhưng đây lại là nguồn nước khá thường xuyên cho động vật
trên đảo. Trên một số đảo nhỏ hoặc ven đảo lớn Cát Bà, nơi đứt gãy chảy qua,
có xuất hiện nước xuất lộ với dung lượng từ một vài lít đến một vài chục lít mỗi
ngày. Nguồn nước xuất lộ lớn nhất ở suối Thuồng Luồng, có lưu lượng trung
bình 5l/s, mùa mưa 7,5l/s và mùa khô đạt 2,5l/s. Đây là nguồn nước quan trọng
cung cấp cho ngư dân khu bến cá Cát Bà. Suối Trung Trang có nguồn nước nhỏ,
có nhiều nước trong mùa mưa, lưu lượng về mùa khô chỉ đạt khoảng 0, 11
lít/giây. Suối Treo Cơm (khu Đồng Cỏ) Mùa mưa nhiều nước, về mùa khô, chỉ
đạt 26 lít /giây. Mặc dù là vùng núi đá vôi, nhưng ở đảo Cát Bà có mặt các túi
nước ngầm có nguồn gốc thấm đọng từ nước mưa. Các túi nước, về bản chất là
các thung lũng karst được lấp đầy bằng các trầm tích nguồn gốc từ phong hoá đá
gốc tại chỗ và lân cận. Nguồn nước ao Ếch là hồ nước thiên nhiên trên núi đá
vôi, diện tích khoảng trên 3,6 ha, nước có quanh năm, đạt trên dưới 30cm, nằm
giữa khu vực rừng nguyên sinh. Ngoài ra một số áng cũng có nước quanh năm
như áng Bèo, áng Bợ, áng Thảm, áng Vẹm...
Nhìn chung do cấu trúc sơn văn của địa hình vùng núi đá vôi, nên trong
vùng này hầu như không có dòng suối nào có nước quanh năm. Nguồn nước
ngầm khá sâu tồn tại dưới dạng giếng Karst và sông biển. Hiện tại trên đảo Cát
Bà có 6 giếng khoan, trữ lượng khoảng 1.500m3 - 2.000m3/ngày, mức độ khai
thác cho phép khoảng 1.000m3/ngày. Đây là nguồn nước sinh hoạt chủ yếu của
dân trên đảo [14]
d) Đặc điểm hải văn
- Thủy triều và mực nước: Chế độ thuỷ triều mang đặc điểm chung của
thuỷ triều vịnh Bắc bộ, thuộc loại nhật triều đều biên độ cực đại gần 4m nhưng
thường chậm pha hơn ở Hòn Dáu từ 20-30 phút do ảnh hưởng điều kiện địa hình
khu vực. Thuỷ triều khu vực mang tính nhật triều đều điển hình với hầu hết số
ngày trong tháng là nhật triều (trong một ngày đêm có 1 lần nước lớn và một lần
nước ròng). Mỗi tháng có 2 kỳ nước cường, mỗi kỳ 11 - 13 ngày, biên độ dao
động 2,6 m -3,6m, xen kẽ là 2 kỳ nước kém, mỗi kỳ 3 - 4 ngày có biên độ 0.5-
1m. Trong năm, biên độ triều lớn vào các tháng 6, 7 và 11, 12; nhỏ vào các
28
tháng 3, 4 và 8, 9. Kết quả thống kê số liệu quan trắc mực nước nhiều năm cho
thấy:
+ Mực nước trung bình nhiều năm: 1,90m
+ Mực biển cao nhất: 4,21m
+ Mực biển thấp nhất: - 0,07m
+ Độ lớn triều lớn nhất: 3,94m
- Sóng: Chế độ sóng phụ thuộc vào chế độ gió thay đổi theo mùa và hình
dạng đường bờ. Sóng ven biển Hải Phòng chủ yếu là sóng truyền từ ngoài khơi
đã bị khúc xạ và phân tán năng lượng do ma sát đáy. Khu vực ven bờ, vào mùa
đông (từ tháng 9 - tháng 2) thịnh hành sóng hướng Đông với tần suất 34% và
Đông bắc tần suất 14%, độ cao trung bình 0,5 m -0, 75m. Mùa hè (tháng 3 -
tháng 8) thịnh hành sóng Đông nam, tần suất 22%, độ cao 0,7 m -0, 9m. Trong
năm, độ cao sóng cực đại xấp xỉ 2m, nhưng có thể đạt 4-5m trong bão. Trong
các tháng chuyển tiếp (tháng 4, 10), sóng hướng Đông và Đông nam chiếm ưu
thế, tần suất 25%-32%, độ cao trung bình 0,75m.
Đối với khu vực Vịnh Hạ Long có thủy triều vào loại lớn nhất ở Việt
Nam, khoảng 3,0 – 4,0m. Số ngày trong năm có mực nước trên 3,5m là 101
ngày, số ngày này thay đổi theo chu kỳ 19 năm. Con nước triều lớn nhất xuất
hiện từng tháng, mực nước biến thiên nhanh hàng giờ (0,5 m/h). Tuy vậy, sau
thời kỳ trên, con nước triều của vịnh Hạ Long nhỏ, hầu như là con nước đứng
(tần suất chiếm 97-99%) ... Mặt khác, do đặc điểm địa hình đáy biển không sâu,
đà gió không mạnh, lại có nhiều hòn đảo như bức rào thưa cản nên sóng biển
vịnh Hạ Long không có cơ hội phát triển, thường nhỏ ở cấp 0,25 – 0,5m.
- Dòng chảy: Chế độ dòng chảy trong khu vực vừa chịu ảnh hưởng của hệ
thống hoàn lưu vịnh Bắc Bộ, vừa mang những đặc trưng riêng của vùng biển kín
ven bờ. Do đặc điểm địa hình và hình thái đường bờ rất phức tạp, gồm nhiều
vịnh nhỏ và các đảo, phân bố độ sâu rất khác nhau đã làm cho hệ thống dòng
chảy trong khu vực biến đổi mạnh và khác nhau ngay cả trong một vùng nước
nhỏ. Dòng chảy quanh đảo chủ yếu do dòng triều, dòng chảy gió thay đổi theo
mùa và dòng ven bờ. Vào mùa gió Tây nam, dòng chảy hướng Đông bắc có vận
tốc trung bình 10 cm/s -20cm/s. Vào mùa gió Đông bắc, dòng chảy hướng Tây
nam đạt vận tốc trung bình 20-30cm/s.
29
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ
3.1. Các biện pháp hiện tại
3.1.1. Các biện pháp bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu ô nhiễm từ hoạt
động hàng hải:
Việt Nam đã gia nhập các Phụ lục I, II, III, IV, V và Nghị định thư 1997 (bổ
sung sửa đổi Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra 1973, được sửa
đổi bằng Nghị định thư 1978 liên quan - Phụ lục VI) của Công ước quốc tế về ngăn
ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (Công ước MARPOL), Công ước SOLAS 74, cụ thể
hiện nay Việt Nam đã và đang triển khai tốt các quy định của các Công ước nêu trên,
cụ thể:
Đối với tàu biển Việt Nam hoạt động tuyến quốc tế: Khi tàu biển Việt Nam
làm thủ tục xuất cảnh, các Cảng vụ hàng hải đã tiến hành kiểm tra Giấy chứng nhận
về an toàn kỹ thuật và phòng ngừa ô nhiễm của tàu và các giấy tờ khác theo quy định
của các Công ước mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra khi tiến hành kiểm tra tàu
biển, Sỹ quan kiểm tra tàu biển Việt Nam tiến hành kiểm tra các trang thiết bị và hồ
sơ tài liệu của tàu theo các quy định của Công ước
Đối với tàu biển nước ngoài hoạt động tại cảng biển Việt Nam: Khi tàu biển
nước ngoài làm thủ tục nhập cảnh, các Cảng vụ hàng hải tiến hành kiểm tra Giấy
chứng nhận về an toàn kỹ thuật và phòng ngừa ô nhiễm của tàu và các giấy tờ khác
theo quy định của các Công ước mà Việt Nam là thành viên.Trong quá trình kiểm tra
tàu biển, Sỹ quan kiểm tra Nhà nước cảng biển (PSCO) của Cảng vụ hàng hải đã tiến
hành kiểm tra theo quy định của Công ước và quy định của Việt Nam.
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2014 vừa được Quốc hội khóa XIII, kỳ
họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật Hàng hải Việt Nam đã có những quy định về an
toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường nhằm kiểm
soát các nguồn thải thải và góp phần bảo vệ môi trường biển của Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung. Bộ Luật đã thực sự giữ vai trò quan trọng trong việc
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về hàng hải, trật tự, kỷ cương, an toàn hàng
hải, an ninh hàng hải, phòng ngừa ô nhiễm môi trường trong hoạt động hàng hải
cơ bản được bảo đảm.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã đưa ra
các quy định liên quan đến kiểm soát hoạt động của các phương tiện giao thông
vận tải, trong đó có cũng có các quy định về việc kiểm soát dầu, mỡ, nước dằn,
hóa chất và các chất độc hại… được sử dụng trên biển phải được kiểm soát và
thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải,
BVMT đã được quy định cụ thể, cập nhật với tình hình phát triển kinh tế của
Việt Nam.
30
Công tác quản lý, tiếp nhận và xử lý chất thải lỏng có dầu từ tàu biển tại
các cảng biển Việt Nam đã được thực hiện. Các tàu khi đến cảng phải tuân thủ,
nghiêm chỉnh việc khai báo về lượng chất thải có dầu hiện có trên tàu.
Ngoài ra các quy định Hoa tiêu bắt buộc, chế độ thông báo, sử dụng hệ
thông nhận dạng tàu biển (AIS) đã được áp dụng tại các tuyến luồng hàng hải
khu vực cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng và thực hiện theo nội quy cảng biển
Quảng Ninh và Quảng Ninh;
Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam đang nghiên cứu triển khai các biện pháp
bổ sung như:
- Áp dụng Quy định xả thải, chuyển đổi nước ballast trong khu vực PSSA
theo Công ước ballast BMWS 2004 về việc quản lý nước dằn và cặn lắng;
- Lắp đặt các trạm VTS (hệ thống kiểm soát lưu thông trên biển) với mục
đích trợ giúp hàng hải, góp phần nhằm đảm bảo ATGT trên biển;
- Xây dựng sửa đổi các quy định áp dụng trong vùng đặc biệt nhạy cảm
PSSA; Bổ sung các biện pháp tăng cường hàng hải đặc biệt trong điều kiện thời
tiết xấu;
- Xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu trong khu vực; tăng cường
các biện pháp kiểm soát nhằm bảo vệ môi trường trong khu vực PSSA.
- Về cơ chế chính sách hiện còn thiếu các quy định liên quan đến việc tiếp
nhận thu gom xử lý chất thải từ tàu; các quy định liên quan nhằm kiểm soát hoạt
động của tàu thuyền hoạt động trong khu vực PSSA.
3.1.2. Tuyến luồng hàng hải trong khu vực PSSA
Khu vực biển đặc biệt nhạy cảm (PSSA) bao gồm:
- Tại vùng biển Hải Phòng: được xác định là Vịnh Lan Hạ thuộc khu dự
trữ sinh quyển Cát Bà. Vịnh Lan Hạ nằm ở phía Đông đảo Cát Bà, trông ra cửa
Vạn, liền kề với vịnh Hạ Long. Vịnh rộng trên 7.000ha, trong đó 5.400ha là khu
vực quản lý của Vườn quốc gia Cát Bà. Đây là một vùng vịnh rất êm ả hình
vòng cung với khoảng 400 hòn đảo lớn nhỏ. Hiện nay, UBND Thành phố Hải
Phòng cho phép sử dụng vịnh Lan Hạ để chuyển tải tàu xăng dầu về các bến
cảng tại khu vực cảng biển Hải Phòng.
+ Vị trí Lan Hạ 1 (LH1): 20°46’17”N; 107°06’32”E;
+ Vị trí Lan Hạ 2 (LH2): 20°46’43”N; 107°06’33”E;
+ Vị trí Lan Hạ 2 (LH2): 20°46’17”N; 107°06’51”E.
- Tại khu vực Quảng Ninh, liên quan:
+ Tuyến thứ nhất đi qua Lạch Miều có độ sâu hơn 12 m, đến đảo Hòn
Một là luồng tuyến Hòn Gai-Cái Lân vào 2 cảng Cái Lân; luồng tuyến vào cảng
xăng dầu B12
31
+ Một phần tuyến thứ 2 là tuyến phía đông khu vực nghiên cứu vào cảng
Cẩm Phả theo 2 hướng Lạch Hang Trống, và hướng Lạch Đông Tráng-Lạch
Gối vào đến khu vực đảo Hòn Nét có độ sâu hơn -10.7 m . Luồng từ Hòn Nét có
độ dài 40 km, từ Hòn Nét đến Con Ong và độ sâu -9m, từ Con Ong đến cầu
cảng -7.4m.
3.1.3. Các lưu ý khi tàu thuyền ra, vào khu vực PSSA
Khu vực PSSA bao phủ:
- Khu vực neo chuyển tải Hạ Long, tuyến luồng Hòn Gai, Cái lân, Hòn
Miều, tuyến luồng vào cảng Cẩm Pha, một phần khu neo chuyển tải Hòn Nét
bao gồm khu vực đón trả hoa tiêu là vùng nước cảng biển thuộc địa phận tỉnh
Quảng Ninh.
- Khu vực vịnh Lan Hạ nằm tiếp giáp tuyến luồng Hải Phòng và Quảng
Ninh. Ngoài ra, khu vực này tập trung các tàu thuyền neo đậu chờ kế hoạch vào
cảng. Vị trí phao số 0 luồng Lạch Huyện - Hải Phòng tiếp giáp với vị trí đón trả
hoa tiêu, vì vậy tàu thuyền hành trình phải thận trọng và tăng cường cảnh giới,
đặc biệt vào mùa thời thiết xấu.
3.1.4. Chế độ thông tin liên lạc
a) Chế độ báo cáo
- Các tàu thuyền hoạt động trong vùng nước cảng biển Quảng Ninh phải
duy trì trực VHF kênh trực canh 16 liên tục trong 24/24, kênh làm việc 12 và
thông báo liên quan cho Cảng vụ Hàng hải Quảng Ninh
- Các tàu thuyền hoạt động trong vùng nước cảng biển Hải Phòng phải
duy trì trực VHF kênh 16 liên tục 24/24 và thông báo cho VTS Hải Phòng thông
qua Vùng VTS 1 và Vùng VTS 2.
Nơi tiếp nhận
thông tin
Kênh liên lạc Mục đích Điện thoại Fax
32
VTS Hai
Phong
(Vùng VTS
2)
VHF 16
Kênh liên lạc
chung cho các đài
tàu 0313. 842682 0313.842634
VHF 14 Kênh làm việc
VTS Hai
Phong
(Vùng VTS
1)
VHF 16
Kênh liên lạc
chung cho các đài
tàu 0313.918459 0313.687731
VHF 14 Kênh làm việc
Ngôn ngữ liên lạc trên VHF
- Tiếng Anh (đối với tàu biển nước ngoài).
- Tiếng Việt Nam (đối với tàu biển Việt Nam).
b) Thông tin cung cấp cho các tàu
- Đối với các thông tin trao đổi qua VHF: Các tàu thuyền hoạt động trong
khu vực cảng biển có thể nhận được đầy đủ các thông tin liên quan đến hoạt
động hàng hải tại khu vực cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng. Hiện tại các khu
vực đang sử dụng dịch vụ cung câp thông tin của Vishipel về hệ thống nhận
dạng AIS;
- Đối với việc trao đổi qua VTS: Cung cấp các thông tin sau cho các tàu
thuyền hoạt động tại khu vực cảng biển, cụ thể
+ Kế hoạch điều động tàu của Cảng vụ;
+ Kế hoạch hoa tiêu;
+ Thông tin cầu bến cảng, tuyến và cảng đến/ vị trí neo/ phao neo buộc tàu;
+ Mật độ giao thông hàng hải;
+ Điều kiện khí tượng thủy văn;
+ Tình trạng nguy hiểm khu vực tàu hoạt động, khu vực tàu sẽ hành trình đến;
+ Nhóm tàu cùng hoạt động trong khu vực;
+ Vị trí, hướng di chuyển tiếp theo;
+ Đặc điểm, độ sâu, chiều cao tĩnh không khu vực tàu hoạt động;
+ Các thông tin liên quan đến tuyến luồng hàng hải, các khu neo đậu tàu,
các khu vực giới hạn tốc độ, các nút giao thông quan trọng;
+ Các hỗ trợ tiếp nhận/ truyền phát thông tin khác.
c) Chế độ báo cáo
Các tàu ra vào cảng vẫn đang thực hiện chế độ báo cáo bắt buộc theo Nội
quy Cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng, tuy nhiên khi xây dựng khu vực nhạy
cảm cũng nên xây dựng các quy định chi tiết đối với chế độ báo cáo bắt buộc
33
trước khi tàu đến trạm Hoa tiêu, thời gian tàu đến Trạm Hoa tiêu, trong suất quá
trình neo đậu và hàng hải trên luồng ra vào cảng.
- Các tàu thuyền vào cảng, trước khi tàu thuyền hành trình vào vùng bao
phủ VTS Hải Phòng, Thuyền trưởng phải báo cáo cho vùng VTS 1 các nội dung
sau:
+ Tên tàu, hô hiệu (nếu có);
+ Cảng rời đi;
+ Loại hàng xếp trên tàu ( số lượng, chủng loại hàng nguy hiểm nếu có);
+ Số lượng hành khách (nếu có);
+ Vị trí của tàu;
+ Tốc độ hành trình;
+ Thời gian tiến vào vùng VTS 1;
+ Các thông tin có liên quan đến an toàn của tàu.
- Đối với tàu thuyền có sử dụng hoa tiêu, sau khi đón hoa tiêu lên tàu,
Thuyền trưởng/Hoa tiêu phải báo cáo các nội dung sau:
+ Tên tàu;
+ Vị trí, thời gian tiếp nhận hoa tiêu, tên hoa tiêu;
+ Tốc độ, hướng hành trình.
3.2. Biện pháp bổ sung
3.2.1. Bổ sung các quy định pháp luật
- Xây dựng quy định quản lý tiếp nhận và xử lý chất thải phát sinh từ tàu
biển;
- Rà soát, sửa đổi bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ
thuật về các hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm biển của tàu để phù hợp với các nội
dung của Công ước quốc tế;
- Xây dựng quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do vận chuyển các chất độc
hại trong bao gói bằng đường biển phù hợp với Phụ lục III của Công ước
MARPOL;
- Xây dựng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bao gói, đóng mác, dãn nhãn,
hồ sơ, bảo quản, giới hạn khối lượng chất độc hại trên tàu biển;
- Xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường về ngăn ngừa ô nhiễm do các
hoạt động hàng hải gây ra;
- Xây dựng và vận hành hệ thống quan trắc cảnh báo ô nhiễm môi trường
xung quanh khu vực cảng biển;
3.2.2. Phương án chuyển tải xăng dầu tại Vịnh Lan Hạ
34
Để đảm bảo an toàn và phòng ngừa ô nhiễm môi trường tại vịnh Lan Hạ
đối với hoạt động chuyển tải, UNND thành phố Hải Phòng giao Sở Tài nguyên
và môi trường chủ trì phê duyệt phương án chuyển tải đối với từng trường hợp
cụ thể. Theo đó, các Doanh nghiệp có nhu cầu chuyển tải xăng dầu tại vịnh Lan
Hạ phải lập phương án trình Sở Tài nguyên và môi trường xem xét, chấp thuận.
Ngoài ra, thực hiện Quyết định số 02/2013/QĐ-TTg ngày 14/01/2013 của Thủ
tướng chính phủ ban hành quy chê ứng phó sự cố tràn dầu. Theo đó, các phương
tiện tham gia chuyển tải xăng dầu phải có kế hoạch chuyển tải từ tàu mẹ sang
phương tiện do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Các biện pháp kiểm soát chặt chẽ và chế độ báo cáo sẽ được nghiên cứu
xem xét áp dụng tại khu vực này.
3.2.3. Phương án phòng, chống cháy nổ trong quá trình chuyển tải
Để phòng, chống cháy, nổ trong quá trình chuyển tải, các Doanh nghiệp
phải xây dựng phương án phòng, chống cháy, nổ trình Sở Cảnh sát Phòng cháy,
chữa cháy thành phố Hải Phòng phê duyệt.
3.2.4. Xây dựng các quy định về chế độ xả thải đặc biệt, xây dựng chế
tài trong khu PSSA
- Xây dựng các quy định liên quan đến kiểm soát xả thải, chế tài và các
biện pháp ứng cứu khi có sự cố xảy ra đối với việc bơm xả nước ballast, bơm
nước thải, bơm nhiên liệu, dầu cặn, cấm thải nước lẫn dầu, các chất độc hại, khí
thải ...trong hoạt động hàng hải tại khu vực PSSA
- Xây dựng bổ sung quy định cụ thể đối với hoạt động tàu thuyền tại khu
vực trong điều kiện thời tiết xấu, đặc biệt khi tầm nhìn xa dưới 1km để bảo đảm
an toàn hàng hải.
- Bổ sung quy định hạn chế thả leo đậu trong khu vực PSSA (không quá
24h)
3.2.5. Nghiên cứu thiết lập hệ thống giao thông hàng hải VTS tại khu
vực Hạ Long, Cẩm Phả nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động hàng hải tại khu
vực…
3.2.6. Các biện pháp khác
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động hàng hải tại khu vực PSSA, đề nghị
xem xét thêm một số nội dung sau:
- Thực hiện chế độ báo cáo
- Thiết lập phao tiêu, báo hiệu hàng hải lối vào khu vực PSSA.
- Tổ chức khảo sát, lập và công bố hải đồ điện tử;
- Nghiên cứu xem xét quy định về tuổi tàu được phép hoạt động tại khu
vực PSSA
35
CHƯƠNG 4. XÁC ĐỊNH RANH GIỚI PSSA HẠ LONG - CÁT BÀ
4.1. Bản đồ và ranh giới vùng PSSA Hạ Long-Cát Bà đề xuất
Hình 4. Bản đồ và ranh giới khu vực PSSA Hạ Long Cát Bà đề xuất
(Bản đồ hệ toạ độ chuẩn WGS 84 - được biên tập dựa theo [9,10] )
4.2. Tọa độ địa lý xác định ranh giới PSSA khu vực Hạ Long Cát Bà
Điểm
Point
Kinh độ Longitude
(E)
Vĩ độ
Latitude (N)
01 106° 59' 45" E 20° 51' 54" N
02 106° 59' 36" E 20° 53' 38" N
03 106° 59' 37" E 20° 54' 16" N
04 106° 59' 51" E 20° 54' 40" N
05 107° 01' 15" E 20° 55' 41" N
06 107° 02' 02" E 20° 55' 58" N
07 107° 02' 53" E 20° 56' 08" N
08 107° 03' 59" E 20° 56' 06" N
09 107° 08' 55" E 20° 55' 00” N
10 107° 11' 10" E 20° 54' 38" N
11 107° 16' 40" E 20° 53' 57" N
36
12 107° 17' 51" E 20° 53' 11" N
13 107° 19' 02" E 20° 52' 24" N
14 107° 20' 01" E 20° 50' 05" N
15 107° 20' 35" E 20° 47' 48" N
16 107° 20' 10" E 20° 47' 17" N
17 107° 20' 04" E 20° 47' 16" N
18 107° 17' 50" E 20° 48' 37" N
19 107° 17' 29" E 20° 48' 39" N
20 107° 16' 59" E 20° 48' 28" N
21 107° 16' 35" E 20° 48' 15" N
22 107° 16' 23" E 20° 47' 49" N
23 107° 16' 07" E 20° 47' 43" N
24 107° 15' 41" E 20° 47' 53" N
25 107° 15' 13" E 20° 47' 56" N
26 107° 13' 55" E 20° 47' 06" N
27 107° 11' 59" E 20° 44' 49" N
28 107° 11' 29" E 20° 44' 04" N
29 107° 10' 41" E 20° 44' 16" N
30 107° 05' 17" E 20° 43' 28" N
31 107° 05' 01" E 20° 44' 30" N
32 107° 06' 45" E 20° 47' 34" N
33 107° 06' 37" E 20° 48' 04" N
34 107° 05' 36" E 20° 49' 11" N
35 107° 03' 53" E 20° 50' 29" N
36 107° 02' 35" E 20° 51' 10" N
37 107° 02' 10" E 20° 51' 46" N
38 107° 02' 02" E 20° 51' 54" N
37
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Vịnh Hạ Long - Việt Nam địa danh đã 2 lần được UNESCO chính thức
công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới (17/12/1994 về giá trị thẩm mỹ, ngày
02/12/2000 về giá trị về địa chất địa mạo) và ngày 12/11/2011, Vịnh Hạ Long đã
vượt qua hơn 400 kỳ quan từ hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ để trở thành
một trong 7 Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới. Quần đảo Cát Bà đã được Uỷ
ban Thường trực về Con người và Sinh quyển Chương trình UNESCO công
nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 3 tại Việt Nam, tham gia đề cử di sản thiên
nhiên thế giới, trong đó khu vực bảo tồn biển Cát Bà (MPA Cát Bà) được thiết
lập tại Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020
(nay được thay thế bằng Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 08/01/2014 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của
cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030). Vịnh Hạ Long và MPA Cát
Bà có các tuyến hàng hải quốc tế đi qua và vào hệ thống cảng biển Quảng Ninh và
Hải Phòng (thuộc trong nhóm cảng biển phía Bắc -Nhóm 1), đây là khu vực có lưu
lượng tàu bè qua lại rất lớn, tuyến hàng hải quan trọng của khu vực và trên thế giới.
Khu vực Hạ Long - Cát Bà đáp ứng các tiêu chí PSSA của Tổ chức Hàng
hải quốc tế, cụ thể có ranh giới hành chính khu vực được xác định, thuộc chủ
quyền hoàn toàn của Việt Nam theo UNCLOS 82. Khu vực PSSA Hạ Long Cát
Bà đề xuất gồm 2 vùng lõi là Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và Khu
bảo tồn biển Cát Bà. Khu vực được đánh giá đáp ứng 17 tiêu chí về giá trị đặc
biệt theo các nhóm sinh thái-đa dạng sinh học, kinh tế xã hội và khoa học giáo
dục;
Ngoài ra, khu vực Hạ Long - Cát Bà gần 2 luồng hàng hải chính ra vào
cảng biển thương mại quốc tế (Cái Lân, B12, Cẩm Phả), với nhiều loại tàu, loại
hàng hoá (có độc hại..) và có nguy cơ tác động của vận tải hàng hải quốc tế gây
suy thoái môi trường và các hệ sinh thái biển; Sự cố dầu tràn; Rò rỉ hoá chất độc
hại; hàng độc hại; sự cố va chạm; dầu thải; sơn chống gỉ, sinh vật ngoại lai; tiếng
ồn động cơ; chất thải từ tàu; hoạt động nạo vét.
Nhận thức được mối đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, hệ sinh thái, kinh
tế - xã hội, sinh kế, văn hóa, khoa học và giáo dục của Vịnh Hạ Long và MPA Cát
Bà từ hoạt động hàng hải và căn cứ theo các hướng dẫn lần lượt được sửa đổi của
IMO, Cục Hàng hải Việt Nam đã tiến hành dự thảo báo cáo “nghiên cứu xác định
PSSA Hạ Long - Cát Bà”, việc nghiên cứu xác định và đề xuất thiết lập PSSA Hạ
Long - Cát Bà là hết sức cần thiết nhằm bổ sung thêm các công cụ, biện pháp
quản lý, giám sát hoạt động hàng hải nhằm bảo vệ môi trường, bảo tồn biển khu
vực Vịnh Hạ Long - MPA Cát Bà, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
38
5.2. Kiến nghị
Đánh giá các giải pháp hàng hải bổ sung tại khu PSSA như thiết lập khu
cấm vào ATBA tại Lan Hạ-Cát Bà, dịch vụ giao thông hàng hải VTS (Vessel
traffic services) kết hợp với trung tâm nhận dạng tự động AIS (Automatic
Identification System) cho khu vực Hạ Long, luồng tuyến 2 chiều với các lạch
biển chính qua khu vực PSSA đề xuất.
Kiến nghị Bộ GTVT báo cáo Chính phủ xem xét cho phép đệ trình hồ sơ
IMO để thông qua Khu vực biển đặc biệt nhạy cảm Hạ Long - Cát Bà tại cuộc
họp của Ủy ban bảo vệ môi trường - IMO nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ
môi trường và đa dạng sinh học biển, hướng tới thực hiện hội nhập quốc tế toàn
diện các công ước toàn cầu về biển và hàng hải.
39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.UNESCO No 672, 1994. Nomination form of Ha Long-Viet Nam”, 260 p.
http://whc.unesco.org/uploads/nominations/672bis.pdf
2. Trần Đức Thạnh và nnk, 2013. Sức tải vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long.
NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 295 tr.
3. Thủ tướng Chính phủ, 2010. Quyết định về việc phê duyệt Quy hoạch hệ
thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020. 12 tr
4. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, 2009. Nghiên cứu bổ
sung cơ sở khoa học cho việc qui hoạch, quản lý khu bảo tồn biển Cô Tô và Cát Bà.
Phần 1: Khu vực Cát Bà. Viện Nghiên cứu Hải sản, Hải Phòng. 201 tr.
5. Báo cáo tổng kết hàng năm của Cục Hàng hải Việt Nam, 2002-2014.
6. Dư Văn Toán và nnk, 2012. Báo cáo đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ.
Nghiên cứu luận cứ khoa học và thực tiễn xác định vùng biển đặc biệt nhậy cảm
PSSA tại vùng biển Việt Nam. 158 tr.
7. Thông tư số: 35/2014/TT-BGTVT ngày 19/8/2014 của Bộ trưởng Bộ giao
thông vận tải Công bố vùng nước cảng biển thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh và khu
vực quản lý của cảng vụ hàng hải Quảng Ninh.
8. Quyết định số 698/QĐ-CVQN của Giám đốc Cảng Vụ Quảng Ninh, Cục
Hàng Hải Việt Nam ngày 18/12/2014 ban hành Nội quy Cảng biển Quảng Ninh.
9. Bản đồ Hàng hải vùng biển Quảng Ninh (tỷ lệ 1:100.000), năm 1995,
(chỉnh sửa năm 2014). Cục bản đồ, BTTM.
10. Bản đồ khoanh vùng bảo vệ di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long (tỷ lệ
1:50000), Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, 2015.
11. Hiệp hội Cảng biển Việt Nam. http://www.vpa.org.vn/vn/members
12. Nguyễn Thị Thế Nguyên, 2014, Nghiên cứu phân tích chất lượng nước
vịnh Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng.
13. Sở TNMT tỉnh Quảng Ninh, 2014, Báo cáo Quy hoạch môi trường Vịnh
Hạ Long đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
14. UBND TP Hải Phòng, 2012, Hồ sơ đề cư Quần đảo Cát bà vào danh sách
Di sản thế giới