Báo cáo thị trường năm 2008Giới thiệu
“Báo cáo thị trường” là một bản đánh giá thường kỳ của Công ty Cổ phần RAV về sự phát
triển kinh tế Việt Nam và mối quan hệ tương quan của thị trường chứng khoán (TTCK) với quá
trình vận động của nền kinh tế. Các nội dung được đề cập trong báo cáo tập trung phân tích diễn
tiến, sự vận động của nền kinh tế và TTCK của năm đã qua, trên cơ sở đó, đánh giá triển vọng cho
năm tiếp theo. Nội dung báo cáo được lập trên cơ sở chu kỳ vận động của các hiện tượng kinh tế,
do vậy, có thể không theo khuôn mẫu của báo cáo thường niên. Bản báo cáo thị trường năm 2008
bao gồm 02 phần:
Phần 1: Chu kỳ nền kinh tế, các hành động của Chính Phủ và triển vọng nền kinh tế năm 2009
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam triển vọng trong năm 2009
Báo cáo thị trường năm 2008 được xây dựng trên các giả định sau:
A. Giả định tổng quan
RAV đánh giá triển vọng nền kinh tế và triển vọng của TTCK năm 2009 bằng phương pháp
Top-Down thông qua đánh giá triển vọng kinh tế cũng như phản ứng của thị trường Cổ phiếu, thị
trường bất động sản và thị trường Trái phiếu đối với triển vọng kinh tế đó. Trong quá trình đánh giá,
RAV sử dụng chu kỳ kinh tế làm cơ sở đưa ra các nhận định trong năm 2009. Nói khác, TTCK nói
chung và thị trường cổ phiếu nói riêng được nhìn nhận như là một phần trong chu kỳ vận động của
kinh tế Việt Nam khi xem xét và đánh giá triển vọng của kinh tế Việt Nam năm 2009.
Xét một cách tổng quan, TTCK chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ triển vọng tăng trưởng của
nền kinh tế. Quá trình này được thực hiện thông qua tác động trực tiếp tới thu nhập của các công
ty, và kết quả là ảnh hưởng tới biến động giá của từng cổ phiếu và toàn bộ thị trường cổ phiếu.
Tuy nhiên, thị trường Chứng khoán có sự độc lập nhất định với diễn tiến của nền kinh tế trong
khoảng thời gian nhỏ hơn một chu kỳ kinh tế, đồng thời, trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế,
TTCK sẽ có những biểu hiện khác nhau, do vậy quá trình phân tích TTCK của RAV sẽ được thực
hiện một cách độc lập. Việc xác định khoảng thời gian chuyển dịch giữa các giai đoạn là điều cốt
yếu trong quá trình nhận định các diễn tiến tiếp theo của nền kinh tế, do vậy thời điểm của các giai
đoạn trong chu kỳ kinh tế Việt Nam sẽ có thể thay đổi khi RAV có thêm thông tin hỗ trợ.
B. Giả định hỗ trợ cho quá trình dự báo
Chính Phủ Việt Nam là có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tạo ổn định trong quá
trình phát triển kinh tế. Mặc dù Chính Phủ là một tập thể, tuy nhiên, trong tập thể vẫn có những cá
nhân mang tiếng nói quyết định cho quá trình điều tiết kinh tế, do vậy, khi có bất kỳ sự thay đổi nhân
sự nào trong bộ máy Chính Phủ đều có thể làm thay đổi nhận định của RAV về triển vọng của kinh
tế Việt Nam trong những năm tới. Thuật ngữ “Chính Phủ” được sử dụng trong báo cáo của RAV bao
gồm: Ban chấp hành Trung ương Đảng; Bộ Chính trị; và các nhân vật quan trọng trong Chính Phủ
- 1 -
như Tổng bí thư, Chủ tịch Nước và Thủ tướng Chính Phủ.
Dữ liệu được sử dụng trong Báo cáo thị trường được lấy từ những nguồn thông tin có
nguồn gốc tin cậy và được công bố tại Việt Nam bao gồm: (1) Tổng cục thống kê Việt Nam; (2)
Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (Hastc) và Sở giao dịch Chứng khoán Tp. HCM
(Hostc); (3) Nội dung thông tin trong bản báo cáo của các đồng nghiệp trong và ngoài nước, do
vậy:
Các dữ liệu hỗ trợ phân tích lấy từ các cơ quan như (1) Tổng cục thống kê; (2) các Cơ quan
thuộc Chính Phủ Việt Nam; (3) Hostc và Hastc được RAV sử dụng như là các thông số mô tả một
cách tốt nhất hiện tượng kinh tế Việt Nam so với các nguồn cung cấp dữ liệu khác, do vậy, có thể
sẽ làm thay đổi các nhận định của RAV khi các cơ quan này thay đổi các thông tin trọng yếu được
sử dụng trong bản báo cáo. Đối với các dữ liệu hỗ trợ phân tích lấy từ các đồng nghiệp, RAV sẽ
tính toán lại nhằm hiểu cặn kẽ kết quả nhận định của đồng nghiệp và đảm bảo việc am hiểu đầy đủ
ý nghĩa kinh tế của các số liệu và nhận định của đồng nghiệp.
C. Giả định đối tượng sử dụng thông tin trong bản báo cáo
Các nhận định của RAV đều dựa trên nguyên tắc phù hợp và hợp lý nhằm đưa ra nhận định
mang tính logic cao, phù hợp với chuẩn mực và phương pháp phân tích tại RAV. Nội dung thông
tin và nhận định của bản báo cáo được sử dụng cho các mục tiêu mang tính ngắn hạn, trong thời
gian 1 năm.
Các kiến thức xử lý
Việc tính toán, các đường Yield Curve sử dụng Yield to Matutiry (mức lợi xuất mà nhà đầu
tư thực hiện nắm giữ trái phiếu trong hiện tại cho tới khi đáo hạn. việc xây dựng mức Yield cho
trái phiếu
Phần 1. Đánh giá triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2009
1.1. Xác định giai đoạn trong chu kỳ phát triển kinh tế Việt Nam tới năm 2007
1.1.1. Chu kỳ của nền kinh tế tới cuối năm 2007.
1.1.1.1. Quá trình tăng trưởng kinh tế
Năm 2007, Việt Nam kết thúc năm tài khóa với những kết quả có nhiều ý nghĩa đối với các
thành phần kinh tế, trong đó, hai kết quả điển hình và rất quan trọng đối với các nhà kinh tế học là
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tỷ lệ thất nghiệp (Unemployment Rate). Kết thúc
năm 2007, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP 8.5% và tỷ lệ thất nghiệp mức thấp kỷ lục kể từ
năm 2000, 4.68%. (Figure 1)
- 2 -
Figure 1. Hai chu kỳ kinh tế Viêt Nam 1991 - 1999 và 2000 – 2008
Nguồn:Figure 1: 02 chu kỳ của nền kinh tế Việt Nam. Chu kỳ thứ nhất bắt đầu từ năm 1991 và kết thúc vào năm 1999, với thời gian là 09 năm. Chu kỳ thứ 2 bắt đầu từ quá trình phục hồi kinh tế từ năm 2000 cho tới năm 2008, khoảng 9 năm. Đường màu tím thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam năm 2000 - 20071. Đường màu đỏ thẫm thể hiện sản lượng thực tế của Việt Nam năm 1990 - 20082. Đường màu xanh lá cây thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP theo giá so sánh năm 1994. Đây cũng là đường mô tả chu kỳ kinh tế của Việt Nam3
Các đường màu đen thể hiện đường tăng trưởng GDP bình quân và sản lượng GDP thực tế bình quân. Các phương trình thể hiện đường bình quân trên hình vẽ
A. Giai đoạn 1999-2000
Figure 1 cho thấy, sau quá trình suy thoái bắt đầu từ năm 19974, quá trình phục hồi kinh tế
Việt Nam được bắt đầu với dấu hiệu GDP của Việt Nam có một quá trình tăng trưởng mạnh mẽ, từ
4.77% năm 1999 lên tới 6.78% năm 2000. Kết quả này có được từ chính sách tiền tệ (Table 2) và
tăng chi tiêu công mà Chính Phủ Việt Nam đã triển khai thực hiện trong giai đoạn này, cụ thể:
Chính sách tiền tệ
Chính Phủ Việt Nam sử dụng dự trữ bắt buộc như là một công cụ chủ yếu trong việc thực
thi chính sách tiền tệ, đây là một chính sách thúc đẩy cung tiền mạnh mẽ. Năm 1999, Việt Nam đã
thực hiện giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc 02 lần và chạm mức 3% đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng
vào năm 2000. Tỷ lệ này tiếp tục được duy trì cho tới năm 2004. (Table 2)
Chi tiêu Chính Phủ
Chi tiêu của Chính Phủ được thể hiện trên Table 3. Tổng chi tiêu Chính Phủ năm 2000 đã
tăng mức 38.82% so với năm 1999.
Có thể khẳng định, nguồn gốc của quá trình phục hồi kinh tế từ cuối năm 1999 và sang tới
nửa đầu năm 2000 bắt nguồn từ việc mở rộng cung tiền và tăng chi tiêu của Chính Phủ.
Figure 2: GDP & lạm phát khi nền kinh tế khi vượt qua điểm SL tiềm năng
1 một sự tương quan nghịch được thể hiện, nền kinh tế tăng trưởng mạnh thì tỷ lệ thất nghiệp giảm2 đường này cũng thể hiện ở các quốc gia nền kinh tế đang phát triển với xuất phát điểm thấp, dân số trẻ thì tăng sản lượng thực tế hàng năm là bình thường, đây làđiều tương đối khác biệt so với các quốc gia phát triển khi mà 03 yếu tố lao động, công nghệ và nguồn vốn đã tương đối ổn định và trong một chu kỳ nền kinh tế thì việc thay đổi sản lượng thực tế sẽ xảy ra khi tỷ lệ thất nghiệp ra tăng3 Kiến giải nguyên nhân sử dụng đường tăng trưởng GDP để mô chu kỳ nền kinh tế của Việt Nam được mô tả trong phụ lục4 Trước thời điểm thực hiện các chính sách tiền tệ và tài khóa năm 1999 – 2000, Chính Phủ Việt Nam gần như không sử dụng các chính sách trên làm công cụ điều tiết nền kinh tế
- 3 -
Nguồn:Figure 2: mô tả quá trình vận động kinh tế cùng với sự thay đổi của CPI giữa các năm. Kể từ năm 2000, Năm 2003 là
năm đầu tiên Việt Nam đạt được mức tăng trưởng ở điểm sản lượng tiềm năng. Cho tới năm 2004, khi mức tăng trưởng sản lượng
lớn hơn mức sản lượng tiềm năng, lạm phát bắt đầu tăng nhanh. (Năm 2003, GDP tăng so với năm 2002 là 7.34% và lạm phát là
3.1%. Tuy nhiên, tới năm 2004, khi sản lượng đạt mức tăng trưởng là 7.79% thì lạm phát đã là 7.8%)
Đường màu xanh thể hiện tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 1991 tới 2008
Đường màu vàng thể hiện sự thay đổi CPI qua các năm 1999 - 2008.
Table 1: Dự trữ bắt buộc 1999 – 2001
Table 2: Chi tiêu Chính Phủ 1997 - 2000
Table 3. GDP_CPI_Umemployment Rate
- 4 -
Nguồn:
B. Giai đoạn từ giữa năm 2000 tới năm 2003
Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng khá an toàn: lạm phát ở mức
thấp dưới 3% và GDP tăng đều mỗi năm. Niềm tin của các đầu tư cũng tăng lên nhanh chóng so
với giai đoạn 1997-1999, được thể hiện qua số lượng vốn đầu tư tăng thêm mỗi năm (Table .. Phụ
lục). Có thể nói, đây là một trong những giai đoạn được đánh giá tốt nhất trong chu kỳ kinh tế năm
2000-2008, quá trình tăng trưởng kèm theo lạm phát thấp, hay theo đánh giá của chúng tôi, đây là
giai đoạn “Early Upswings5”
c. Giai đoạn từ 7/2004 – 6/2007
Tháng 7/2004, khi mà tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam đã vượt qua đường tăng
trưởng GDP tiềm năng, Chính Phủ Việt Nam đã có những động thái nhất định (Figure 1). Dự trữ
bắt buộc vẫn là công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ trong giai đoạn này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tăng từ 3% lên 5% đối với các kỳ hạn tiền gửi dưới 12 tháng, đồng thời, Chính Phủ Việt Nam tiếp
tục tăng chi tiêu và điều này đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng cho các năm về sau. Kết thúc năm
2004, GDP Việt Nam tăng 7.79% và lạm phát là 7.78%. Đây là một thông số quan trọng khi mà
lạm phát năm 2003 chỉ là 3.1%, là một tín hiệu cho thấy việc tăng trưởng kinh tế đang bắt đầu có
dấu hiệu nóng lên. Với chính sách tài chính - tiền tệ không có sự thay đổi căn bản, tốc độ tăng
trưởng kinh tế và lạm phát các năm sau đó vẫn tiếp tục được duy trì cho tới 6/2007.
Trong giai đoạn từ 7/2004 tới tháng 6/2007, đi kèm với quá trình tăng trưởng kinh tế, các 5 Early Upswings và các thuật ngữ mô tả giai đoạn trong chu kỳ phát triển của nền kinh tế được giải thích cụ thể hơn phần phụ lục
- 5 -
thị trường đã có những chuyển dịch mạnh mẽ:
Thị trường cổ phiếu đạt đỉnh vào tháng 1/2007: Vnindex đạt mức 1170.67điểm; tổng giá
trị vốn hóa thị trường đạt 35% GDP, bằng 138% so với năm 2006. (Table 4 và đồ thị diễn tiến
Vnindex tại phụ lục ….) Trong giai đoạn này cũng xuất hiện dấu hiệu đi xuống của thị trường khi
mà đỉnh tiếp theo của Vnindex (vào tháng 5/2007) chỉ dừng lại ở mức 1113.19 điểm.
Thị trường bất động sản tăng trưởng mạnh mẽ: có tới 40% số tiền đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam năm 2007 là đầu tư vào Bất động sản (BĐS) và tại Tp.HCM thì có tới 85% các dự án
đầu tư trong năm 2007 là đầu tư vào BĐS.
Thị trường tín dụng: Lãi suất cho vay của các ngân hàng bắt đầu tăng lên khi lãi suất cơ
bản của Ngân hàng Nhà Nước tăng lên 02 lần, từ mức 7.5%/năm 2004 lên 7.8% tại thời điểm
03/01/2005 và tới 8.25% vào ngày 1/12/2006.
Table 4: Biến động Vnindex trong chu kỳ nền kinh tế
Các dấu hiệu trên về tăng trưởng của nền kinh tế và phản ứng của TTCK, TT BĐS, và các
biểu hiện của lãi suất cơ bản và lãi suất cho vay của các Ngân hàng Thương mại là một trong nhữn
dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang trong giai đoạn “Late Upswings”
D. Giai đoạn từ 6/2007 – 03/2008
Từ 6/2007, kinh tế Việt Nam đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng mạnh mẽ và đây
cũng là thời điểm cho thấy dấu hiệu thay đổi và chấm dứt chu kỳ tăng trưởng của nền kinh tế Việt
Nam. Các dấu hiệu để cũng bắt nguồn từ các chính sách vĩ mô của Chính Phủ Việt Nam và sự
phản ứng của các thị trường Cổ phiếu, BĐS, và Trái phiếu.
Figure1 cho chúng ta 02 hàm ý về tình hình nền kinh tế Việt Nam trong năm 2007:
Tăng trưởng GDP của Việt Nam đã vượt qua đường tăng trưởng GDP bình quân (đây cũng có
thể coi là đường tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ năm 19916). Từ cuối năm 2003, mức tăng
trưởng GDP được kèm theo quá trình tăng trưởng nhanh của chi số CPI qua các năm từ 2004.
(Table 1 và Figure 2)
6 Đường tăng trưởng có thể coi là đường mô tả sản lượng tiềm năng của một nền kinh tế, chi tiết giải thích ở phần phụ lục.
- 6 -
Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tính tới cuối năm 2007 là 4.64%, là mức thấp nhất kể từ năm
2000 khi mà nền kinh tế khẳng định dấu hiệu phục hồi. (Table 1 và Figure 1) Tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống và các yếu tố cơ bản khác hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn không được
cải thiện mạnh mẽ, dẫn tới các nguồn lực cho quá trình tăng trưởng đang bắt đầu khan hiếm và chi
phí nhân công vào cuối năm 2007 đã tăng lên rất nhanh so với các năm trước đó.
Tới lúc này, cần quan sát động thái của Chính Phủ Việt Nam để có thể nhận thấy diễn tiến
tiếp theo của nền kinh tế. Làm thế nào để có thể “Soft landing” - hạ nhiệt tăng trưởng kinh tế nóng
là câu hỏi khó giải quyết không chỉ đối với Chính Phủ Việt Nam.
1.1.1.2. Các hành động của Chính Phủ Việt Nam tới cuối năm 2007
Chính Phủ Việt Nam trong ngắn hạn (trong một chu kỳ) điều tiết nền kinh tế thông qua 02
Chính sách lớn (1) chính sách tác động tới chi phí vốn trong nền kinh tế và (2) chính sách chi tiêu
và đầu tư của Chính Phủ. Trong năm 2007, Chính Phủ Việt Nam có lẽ đã nhận thức được rằng,
nền kinh tế đang tăng trưởng nóng và đã chủ động sử dụng một số chính sách nhằm hạ nhiệt nền
kinh tế7 “soft landing”. Kết quả của việc thực hiện chính sách kinh tế của Chính Phủ Việt Nam
trong năm 2008 sẽ được đề cập ở phần 2
Chính sách tài khóa trong năm 2007 đầu năm 2008
Table 5: Chi tiêu Chính Phủ giai đoạn 2000 – 2008
Table 2 cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2000 tới năm 2007, Chính Phủ Việt Nam chưa
bao giờ cắt giảm chi tiêu, hay có một tín hiệu cho việc giảm chi tiêu ngay cả khi mà nền kinh tế đã
vượt trên mức sản lượng tiềm năng từ cuối năm 2003. Năm 2007 là năm mà Chi tiêu của Chính
Phủ đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2000-2007, là một nguyên nhân cho tăng trưởng GDP trong
năm 2007 cao hơn so với năm 2006, đồng thời, đẩy quá trình tăng trưởng trở nên nóng hơn, khi mà
thâm hụt Ngân Sách tăng lên. Table 5 cho thấy thâm hụt Ngân Sách (NS) của Việt Nam tăng lên
cả số tuyệt đối và tương đối qua các năm. Đặc biệt, thâm hụt Ngân Sách năm 2007 đã chiếm hơn
6% của GDP.
Table 6: Chi tiêu của Chính Phủ Việt Nam
Có 02 cách Chính phủ tác động tới nền kinh tế: (1) Chính Phủ sử dụng Ngân Sách vào quá
7 Quá trình hạ nhiệt nền kinh tế thường được sử dụng bằng thuật ngữ “Soft landing”
- 7 -
trình đầu tư công, kết quả là tạo quá trình tăng trưởng GDP trong ngắn hạn, đồng thời, thâm hụt
Ngân Sách sẽ được bù đắp trong tương lai do kết quả đầu tư. (2) Chính Phủ sử dụng Ngân Sách
cho tiêu dùng. Quá trình tăng chi tiêu này chỉ có tác dụng tốt trong ngắn hạn và để lại hậu quả
nghiêm trọng đó là thâm hụt Ngân Sách trong hiện tại và gánh nặng thâm hụt không được giải
quyết, dẫn tới nợ của Chính Phủ sẽ tăng lên (có thể là nợ nước ngoài hoặc nợ dân chúng). Điều
này cũng có nghĩa là lãi suất thực trong nền kinh tế sẽ tăng lên, Từ Table 2 có thể nhận thấy rằng
tốc độ tăng đầu tư của Chính Phủ tỷ lệ giảm xuống từ năm 2001 và tỷ lệ thấp nhất cũng chính là
năm 2007.
Từ đây có thể đưa ra một kết luận đó là: về mặt cơ bản thì việc sử dụng Ngân Sách của
Chính Phủ Việt Nam chỉ có tác dụng chủ yếu làm tăng trưởng GDP trong phạm vi một chu kỳ
của nền kinh tế, chứ không có tác động kích thích tăng sản lượng của nền kinh tế trong dài
hạn, tức là không hỗ trợ được nhiều cho quá trình tăng trưởng sản lượng tiềm năng của Việt
Nam
Chính sách tiền tệ
Hai điểm nổi bật trong việc sử dụng chính sách tiền tệ của trong năm 2007 đó là:
1. Chính Phủ Việt Nam đã thực hiện các công cụ mang tính trực tiếp tác động và khối
lượng tiền (M1và M28)
Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với hệ thống Ngân hàng Thương mại, tác động tới M2
Table 7: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tới 31/12/2007
Phát hành trực tiếp 20,300tỷ tín phiếu cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam
2. Không sử dụng công cụ lãi suất mang tính định hướng để có thể tác động tới chi phí
vốn tới nền kinh tế
Chính Phủ Việt Nam không sử dụng nhiều trong quyết định hạ nhiệt nền kinh tế, các mức
lãi suất cơ bản9 8.25% giữ nguyên từ năm 2005 tới 31/1/2008, lãi suất chiết khấu,và lãi suất tái cấp
vốn cũng tương tự không thay đổi từ năm 2005 tới 31/1/2008.
Cách sử dụng chính sách tiền tệ của Chính Phủ Việt Nam tới cuối năm 2007 như đã mô tả
ở trên đã mang lại một dự báo quan trọng đó là sự khó khăn của nguồn vốn cung cấp cho nền kinh 8 M2 lớn hơn M1 rất nhiều vì thực tế M2 sẽ bao gồm quá trình tạo tiền trong hệ thống Ngân hàng, và M2 bao gồm M1 + các khoản tiền gửi có kỳ hạn …9 Trước đây việc sử dụng lãi suất cơ bản ở Việt Nam theo đánh giá của một số học giả thì không có nhiều tác dụng đối với điều tiết nền kinh tế, tuy nhiên ít nhất trong các thời điểm từ năm 2007 về trước thì lãi suất cơ bản cũngcó tác dụng bật đèn xanh tín hiệu của Ngân hàng Nhà nước muốn sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Tuy nhiên đến đầu năm 2008 thì lãi suất cơ bản đã trở nên quan trọng khi mà lãi suất danh nghĩa tăng cao hơn so với mức giới hạn trần lãi suất cho vay là: lãi suất cơ bản x 1.5.
- 8 -
tế vào năm 2008, các công cụ trong chính sách tiền tệ tác động trực tiếp vào “cơ số tiền tệ 10” đây
là những công cụ được đánh giá là rất mạnh mẽ thường gây sốc. tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tất cả
các kỳ hạn tiền gửi đã tăng lên gấp 2 lần, cho thấy lượng tiền để các ngân hàng cho thương mại có
thể cho vay và dự trữ đã giảm một nữa so với trước khi áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới từ
1/6/2007.
Từ 31/12/2008 sau khi diễn biến của lạm phát không có chiều hướng giảm Chính Phủ Việt
Nam đã tiến hành nhiều biện phát tiếp tục đeo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát đó là tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với NH TM lên 1% từ mức 10% cho tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng tăng mức lãi
suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất cấp vốn, bảng phụ lục lãi suất điều tiết nền kinh tế
Chính Phủ Việt Nam đã thực hiện một biện pháp mạnh mẽ nữa đó là phát hành 20,300tỷ
tín phiếu cho các Ngân hàng Thương mại, thời hạn bắ đầu từ ngày 17/3/2008, điều này lại có tác
dụng tai hại khi mà chính sách này lại có tác dụng phóng đại bởi cách thức tạo tiền trong hệ thống
NHTM và ít nhất có thể thấy là 20,300 tỷ đã được rút ra khỏi nguồn vốn tài trợ cho quá trình tiếp
tục tăng trưởng của nền kinh tế trong năm 2008
kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng mức 30%, và cho vay đầu tư giấy tờ có giá ở mức 3%
tổng dư nợ tín dụng
Các biện pháp dồn dập trên của chính sách tiền tệ đã tạo nên một đợt thiếu hụt tiền mặt
nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng TM, lãi suất cho vay qua đêm tại thời điểm tháng 3/2008
đã lên mức 41%
Các kết luận có thể rút ra tại thời điểm 31/03/2008 bao gồm
Nền kinh tế đã trải qua 03 giai đoạn: giai đoạn phục hồi (Recover) 1999-2000, giai đoạn
tăng trưởng sớm (early unswing) 2000 tới 2003, giai đoạn tăng trưởng muộn (Late upswing)
7/2004 tới 6/2007, và tại tại các dấu hiệu của nền kinh tế tại thời điểm 31/12/2007 và các hành
động của Chính Phủ Việt Nam đã cho thấy một dấu hiệu rõ ràng rằng nền kinh tế Việt Nam đang
trong giai đoạn tăng trưởng chậm và bắt đầu đi vào quá trình suy thoái. Việc khẳng định nền kinh
tế Việt Nam đi vào giai đoạn tăng trưởng chậm và tới suy thoái từ tháng 6/2007 được thể hiện
bằng kết quả tăng trưởng GDP và CPI của Việt Nam vào quý I/2008
Table 8: GDP_CPI Quý I từ năm 2004 - 2008
GDP Quý III/2008 tăng 7.43% thấp hơn so với quý III/2007 và CPI gấp 2.4 lần CPI của
năm 2007 và CPI vẫn tiếp tục có dấu hiệu tăng trong giai đoạn này
Sự biểu hiện của nền kinh tế Việt Nam tới tháng 3/2008 đã cho khẳng đinh rằng giai đoạn
suy thoái đã hình thành khi mà CPI tháng 3 tăng 16.38% so với cùng kỳ năm 2006. Lúc này sự sụt
10 Cơ số tiền được hiểu bao gồm: tiền mặt trong lưu thông và lượng tiền mặt trong hệ thống ngân hàng
- 9 -
giảm niềm tin vào nền kinh tế và sự điều hành chính sách vào Chính Phủ Việt Nam bắt đầu tăng
lên: Credit suisse đã có một nhận định “Viet Nam: time to be very nervous” , Chỉ số Vnindex đã
giảm được 43% kể từ đầu năm 2008 tới tháng 3/2008, Yield rate của trái phiếu tại thời điểm
31/3/2008 đã tăng và đạt đỉnh trong tháng 6/2008. Figure 3. Trong giai đoạn này tỷ giá VNĐ/USD
được ngân hàng nhà nước Việt Nam ấn định biên độ .75% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng,
và tới cuối tháng 3 nâng biên độ tỷ giá lên 1%. Các mức biên độ trên đã không thể phản ánh được
chênh lệch
Nền kinh tế Việt Nam chính thức bắt đầu đi vào giai đoạn suy thoái từ cuối tháng 3 năm
2008
Những biểu hiện của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn suy thoái (Recession)
I. Các dự báo cho năm 2009
Kết hiện tại dấuh hiệu châm dứt cho giai đoạn suy thoái của nền kinh tế đã hình thành và
điều mà các nhà đầu tư mong đợi đó là giai đoạn phục hồi sẽ được hình thành như thế nào, sự phục
hồi mạnh tới mức nào, thời điểm xảy để có thể thấy sự phục hồi trong nền kinh tế ,và dấu hiệu nào
để nhận dạng sự phục hồi trong năm 2009 của Việt Nam. Các câu hỏi trên được trả lời thông qua
diễn tiến của nền kinh tế Việt Nam tới thời điểm cuối năm 2008 và các hành động của Chính Phủ
Việt Nam trong giai đoạn suy thoái.
1. CPI và GDP
CPI11: có 02 yếu tố sẽ làm cho chỉ số CPI tăng trưởng, (1) bắt nguồn từ quá trình tăng chi
phí đầu vào của quá trình sản xuất dẫn tới các doanh nghiệp sẽ tăng giá hàng hóa tương ứng với
chi phí đầu vào dẫn tới CPI tăng, và (2) bắt nguồn từ một chính sách kích thích tổng cung bằng
việc mở rộng cung tiền, và chi tiêu Chính Phủ, quá trình tăng giá đối với phương thức nà y chỉ
xuất hiện khi mà nền kinh tế bắt đầu vượt qua điểm sản lượng tiềm năng. Figure 1 cho thấy GDP
Việt Nam đang thấp hơn so với mức sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế, điều này có nghĩa là
khi quá trình phục hồi xảy ra CPI sẽ vẫn tăng trưởng thấp và trong biên độ an toàn. các chính sách
kích cầu của Chính Phủ12, cho thấy điểm phục hồi sẽ bắt đầu vào năm 2009 với thông số tăng
trưởng GDP của Quý I năm 2009. Trong thời kỳ Recover thì mức tăng CPI sẽ vẫn tiếp tục giảm so
với mức tăng CPI của năm trước năm 2008. Và trong quá trình phục hồi của nền kinh tế tăng
trưởng CPI (lạm phát) năm 2008 sẽ thấp hơn mức tăng trưởng GDP của năm 2008.
GDP = C + I + G + (E-X) điều này có nghĩa là GDP sẽ phụ thuộc vào 04 nhân tố, Chi tiêu
cá nhân (C), Đầu tư của của từ nhân (I), Chi tiêu của Chính Phủ (G) đây là khoản chi tiêu được
tính cả các khoản đầu tư của Chính Phủ trong năm tới.
Tác động của Chính sách vĩ mô tới các nhân tố cấu thành GDP
Cuối tháng 10/2008 khi CPI có dấu hiệu giảm xuống, Yeild rate giảm mạnh mẽ so với giai
11 CPI viết tắt của Commodities price index, tốc độ tăng CPI được so sánh với mức CPI cuối năm trước.12 Sự tác động của các chính sách tới các nhân tố cấu thành GDP được đề cập phần sau
- 10 -
đoạn từ cuối tháng 3 và nền kinh tế đã trải qua 04 quý giảm sút so với mức tăng trưởng GDP bình
quân quý 7.71% từ năm 2000 tới hết năm 2007, Figure 3. Chính Phủ Việt Nam đã có những nhận
thức hành động mang tính thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế trong một năm diễn ra quá trình
sụt giảm GDP và lạm phát cao. Điều này thể hiện trong 02 chính sách:
Chính sách tiền tệ
Table 9: Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
Lưu ý: cột ngày mô tả: Tháng/ngày/năm
Chính sách tiền tệ tính tới thời điểm hiện tại đã được nới lỏng về cung tiền bao gồm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc và thanh toán 20,300 tỷ tín phiếu trong hệ thống Ngân hàng, Figure 10, mức tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đã quay về mức trước thời điểm ngày 01/06/2008. Thời điểm đánh dấu thắt chặt
mạnh mẽ cung tiền nhằm kiềm chế lạm phát. Các mức lãi suất định hướng thị trường đã bắt đầu
giảm mạnh phụ lục. Kết quả chính sách tiền tệ dẫn tới một kết cục là đó là việc mở rộng cung tiền
và hạ thấp chi phí vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nền
kinh tế có thể giảm áp lực về khoản nợ vay khi nguồn vốn và chi phí vốn đã trở nên dễ dàng hơn.
Tốc độ điều chỉnh các chính sách liên quan tới cung tiền, dự trữ bắt buộc, nhanh và mạnh
hơn, trong vòng 02 tháng đã có 04 lần điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. lãi suất tín phiếu giảm
xuống mức 4.7% cũng là áp lực để hệ thống Ngân hàng TM rút nguồn vốn từ NH Nhà nước đưa
vào nguồn vốn tín dụng, dấu hiệu này mang lại một hàm ý là (1) các Ngân hàng sẽ cần phải thúc
đẩy công cuộc cho vay sản xuất kinh doanh, với mức lãi suất hiện tại, (2) khẳng định một quan
điểm và chính sách mục tiêu của Chính Phủ Việt Nam phục hồi sản xuất và tăng tiêu dùng (dịch
chuyển đường AD về bên phải) kết quả là 02 bộ phận sẽ chịu tác động tăng trưởng cho năm 2009
đó là Đầu tư (I) và tiêu dùng của ngươi dân(C) khi mà chi phí cơ hội giữ tiền giảm xuống.
Chính sách tài khóa
Table 10: Chi tiêu Chính Phủ
Lưu ý: số liệu GDP được sử dụng trong Table 11 được tính theo mức hiện giá các năm, và
thông số tổng thu và chi Ngân Sách nhà nước trong năm 2009 được lấy từ nghị quyết số
51/2001/QH10 của quốc Hội Việt Nam. Bội chi NS/GDP năm 2009 được tính dựa trên tăng
- 11 -
trưởng GDP mục tiêu 6.5% và mức tổng thu và tổng chi năm 2009 được Quốc hội phê chuẩn
Ngoài kế hoạch chi tiêu trên, thủ tướng Chính Phủ Việt Nam đã đưa ra một gói chính sách
viện trợ nền kinh tế 6tỷ đô la, trong đó 1 tỷ đô la bằng tiền mặt, và 5 tỷ còn lại thông qua các chính
sách thuế. Hiện tại chỉ có thể chắc chắn việc sử dụng 1 tỷ đô la tiền mặt có khả năng hiện thực. 1
tỷ đô la khi được giải ngân sẽ trực tiếp làm tăng lượng tiền trong nền kinh tế, và cũng kích thích
cho đầu tư của các doanh nghiệp khi nguồn vốn được sử dụng để hỗ trợ lãi suất của các doanh
nghiệp vay vốn kinh doanh, và một phần dùng để thực hiện cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại
Viêt Nam. 5 tỷ đô la còn lại của theo như các thành viên dưới quyền Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
sẽ bắt nguồn từ cắt giảm nguồn thuế đối với cá nhân và doanh nghiệp.
Theo hiến pháp 1992 thì Quốc hội Việt Nam quyết định chính sách tài khóa tại Việt Nam
do vậy việc cắt giảm thuế suất thúc đẩy nền kinh tế từ việc cắt giảm này là không có khả năng
trong năm 2009. Thuế thu nhập cá nhân hiện tại đang được bàn thảo cho cách thực hiện và đang đi
vào bế tắc khi mà 03 giải pháp áp dụng đang được đưa trình Bộ Chính Trị13. Qúa trình bản thảo
việc thực hiện chính sách thuế thu nhập cá nhân sẽ kéo dài và vì vậy thực tế sẽ không có khả năng
thúc đẩy nền kinh tế trong năm 2009.
Với các nhận định trên có thể thấy tổng thể các khoản chi tiêu và đầu tư của Chính Phủ
Việt Nam trong năm 2009 sẽ bao gồm 1tỷ đô la và khoản chi tiêu đã được quốc hội phê duyệt, kết
quả là tổng thể chi tiêu của Chính Phủ Việt Nam là 508,300.00 tỷ và tăng chi tiêu so với năm 2008
là 27.4%. Tại Table 3 khi mà chi tiêu Chính Phủ tăng 32% năm 2000 so với năm 1999, đã thúc
đẩy GDP tăng từ mức 4.77% lên 6.78% năm 2000. Điều này cho thấy một hàm ý rằng việc tăng
chi tiêu của Chính Phủ Việt Nam sẽ thúc đẩy GDP tăng trưởng so với năm 2008.
Nhân tố (E – X)
Nhân tố (E – X) chịu tác động quan trọng nhất của yếu tố tỷ giá VNĐ/USD, kết quả là
nhân tố tỷ giá sẽ chịu tác động bới 02 yếu tố đó là sự tương quan giữa lãi suất VNĐ và lạm phát tại
Việt Nam với lãi suất và lạm phát tại Mỹ
Nền kinh tế Mỹ đang trong bước diễn tiến của giai đoạn suy thoái tuy nhiên các chính sách
hỗ trợ thúc đẩy nền kinh tế tại Mỹ đang hình thành và hiện tại CPI đã bắt đầu giảm điều này cho
thấy một tín hiệu nước Mỹ đang ở giai đoạn cuối của quá trình suy thoái nền kinh tế Mỹ, hiện tại
CPI – U của Mỹ là 1.1% và vẫn tiếp tục có xu thế giảm. việc nền kinh tế Mỹ xuất hiện điểm phục
hồi vào năm 2009 cũng sẽ diễn ra khi quá trình Recession chỉ thực sự được ghi nhận vào tháng 12,
quá trình recession sẽ chỉ kết thúc xoay quanh 1năm cuối năm 2009 nền kinh tế Mỹ sẽ có dấu hiệu
phục hồi. tại Mỹ để đảm bảo quá trình phục hồi xảy ra thì việc Fed tiếp tục giữ mức lãi suất
(Federal fund rate) ở mức 0 - .25%, bảng phụ lục quá trình thay đổi Federal reserve rate cho hết
năm 2009.
Việt Nam nền kinh tế sẽ có thể phục hồi sớm hơn tại Mỹ và với chủ trương thúc đầy qúa
13 một cơ quan không giữ một vị trí nào hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
- 12 -
trình phục hồi bằng I, C, G thì Chính Phủ Việt Nam đang chỉ ra rằng họ sẽ không tăng các mức lãi
suất ngắn hạn trong thời gian tới hết năm 2009. Kết quả là trong thời điểm hiện tại có thể nhận
thấy nhân tố lãi suất và lạm phát ở Việt Nam không phải là nhân tố để có thể làm cho đồng Việt
Nam thay đổi lớn đối với đồng USD trong thời điểm hiện tại
Ngày 25/12/2008 Chính Phủ Việt Nam nâng tỷ giá bình quân lên 16.989 điều này đưa ra
một dấu hiệu rằng họ đang muốn việc nhập siêu sẽ không xảy ra, khi mà tăng tỷ giá VNĐ/USD.
Điều này có nghĩa là nhân tố giá trị của nhân tố E sẽ được hình dung thấp hơn hoặc bằng so với
giá trị của nhân E năm 2008.
Kết Luận nhân tố E – X năm 2009 sẽ gần như không có thay đổi lớn so với năm 2008.
Các chính sách và chi tiêu trực tiếp của Chính Phủ Việt Nam, diễn tiến tình hình nền kinh
tế đang cho một kết luận rằng tốc độ tăng trưởng GDP trong năm 2009 sẽ lớn hơn so với tốc độ
tăng GDP năm 2008.
Ước lương tăng trưởng GDP
Hiện tại có dấu hiệu kết thúc giai đoạn suy thoái và khẳ năng trong thời gian tới
Table 11: Tăng chi tiêu Chính Phủ
Chu kỳ nền kinh tế đang có bước chuyển biến sang giai đoạn phục hồi, và các chính sách
của Chính Phủ đang bảo đảm cho việc phục hồi được đảm bảo bởi các chính sách vĩ mô thúc đẩy
nền kinh tế.
Quốc hội Việt Nam đã thông qua một mức tăng trưởng GDP mục tiêu và lạm phát cho năm
2009 là 6.5% tăng trưởng GDP và lạm phát mục tiêu là 15% . Thông qua mức chi tiêu Chính Phủ
cho năm 2009, Table 12, với tổng mức tăng chi tiêu so với năm 2006 là 27.4%, chính sách này
thúc đẩy trực tiếp tổng cầu của nền kinh tế và sẽ mở rộng nhờ hệ số nhân chi tiêu, đây là dấu hiệu
khẳng định GDP sẽ bắt đầu tăng trở lại vào năm 2009. Chính sách tiền tệ đã nới lỏng trở về mức
trước 6/2007 điều này có nghĩa là nguồn tiền trong nền kinh tế đang tăng lên và đã đạt tới mức
trước khi thực hiện chính sách tiền tệ, tại điều kiện cho việc có được nguồn vốn của
các doanh nghiệp khôi phục sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nền kinh tế, khi mà chính
sách kích cầu được thực hiện nền kinh tế bắt đầu phản ứng. điều này dẫn tới một kết luận là các
chính sách của CP sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng mạnh hơn so với năm 2008, có nghĩa là
GDP năm 2009 sẽ tăng trưởng mạnh hơn năm 2008.
Các hành động của Chính Phủ Việt Nam từ tháng 3 năm 2007 tới nay hàm ý cho một dấu
hiệu họ đang đi đúng hướng trong quá trình điều tiết nền kinh tế, điều này thể hiện bởi việc tăng
biên độ biến động tỷ giá vào 10/03/2008 ngăn chặn thâm hụt cán cân thanh toán, cho tới tiếp tục
tăng lãi suất ngắn hạn trong tháng 6 và nới lỏng nền kinh tế khi có tín hiệu của giảm lạm phát
- 13 -
(CPI). Các tín hiệu của trong hành động của Chính Phủ Việt Nam trong thời gian gần đây cũng
đảm bảo cho việc họ thực sự có sự toan tính trong việc kích thích tổng cầu trong nền kinh tế chỉ 02
tháng từ tháng đầu tháng 11 tới cuối tháng 12 họ đã 04 lần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tăng tỷ giá
bình quân VNĐ/USD
Hành động của Chính Phủ Việt Nam và tình hình diễn tiến nền kinh tế hiện tại cho phép
chúng ta kết luận một điều rằng gần như là năm 2009 chúng ta sẽ có mức tăng trưởng GDP lớn
hơn so với năm 2008, và khả năng đạt mục tiêu GDP tăng trưởng 6.5% của Chính Phủ Việt Nam
là sẽ đạt được. Chúng ta sẽ khẳng định chăc chắn dấu hiệu tăng trưởng GDP vào năm 2009 khi mà
chúng ta có kết quả GDP tăng trưởng trong quý I năm 2009 lớn hơn 6.23%
2. Dự báo tỷ giá
Mục tiêu Chính Phủ Việt Nam đeo đuổi
Chính Phủ Việt Nam muốn nền kinh tế tăng trưởng và họ đang thực hiện các biện pháp cho
quá trình tăng trưởng GDP, tỷ giá bình quân VNĐ/USD tăng 3% , Việt Nam đang xuất khẩu sang
Mỹ 25% tổng số giá trị hàng hóa xuất khẩu điều này cho thấy một hàm ý rằng Chính Phủ Việt
Nam muốn duy trì được mức xuất khẩu vào thị trường Mỹ. đây là mộ trong những yếu tố sẽ làm
giảm giá đồng Việt Nam khi so sánh với đồng Đô la trong năm 2009.
Ngăn cản việc tăng thâm hụt tài khoản Vãng lãi
Quá trình đeo đuổi 02 mục tiêu trên sẽ thúc đẩy Chính Phủ Việt Nam có những điều tiết lên
tỷ giá VNĐ/USĐ điều này cũng có nghĩa là Chính Phủ Việt Nam sẽ căn cứ vào giá trị xuất khẩu
và biến động của nền kinh tế Mỹ để điều tiết tỷ giá và chúng ta sẽ chứng kiến sự biến động của tỷ
giá trong năm 2009 rất mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ và Việt Nam sẽ có chuyển biến mạnh trong
năm 2009
Cuối năm 2009 Mỹ vào giai đoạn phục hồi và lãi suất sẽ được giữ ở mức .25% và lạm phát
hiện tại của mỹ là 1% tương quan với mức lạm phát ở Viêt Nam là 6.5% vào cuối năm 2009 chúng
ta có thể nói dự báo rằng tỷ giá VND/USD sẽ xoay quanh mức từ 17.300 – 18.500VNĐ/USD và
mức tỷ giá 18000VNĐ/USD là mức tham chiếu được kỳ vọng nhiều khả năng xảy ra nhất.
3. Tỷ lệ thất nghiệp
Trong giai đoạn năm 2009 thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tiếp tục tăng cao sở dĩ:
Lượng lượng người tham gia vào độ tuổi lao động của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 1.3
triệu lao động
Chu kỳ nền kinh tế đang trong giai đoạn bắt đầu phục hồi do vậy có thể nói là trong năm
2009 số lượng lao động hiện tại của các doanh nghiệp vẫn chưa được sử dụng ở mức vượt quá thời
gian làm việc và điều này dẫn tới các doanh nghiệp sẽ tiếp tục không tuyển dụng tăng thêm số lao
động hiện có.
4. Sự tác động của nền kinh tế với các thị trường
Thị trường cổ phiếu
- 14 -
Sự phục hồi của Thị trường cổ phiếu sẽ bắt đầu và thông thường sẽ là rất mạnh mẽ ở mức
30 -50% so với điểm hồi phục, nguồn gốc sự phục hồi của Thị trường cổ phiếu bắt nguồn từ việc
các nhà đầu tư không còn bị đe dọa bởi sự sụt giảm sâu hơn của nền kinh tế. tuy nhiên trong giai
đoạn này lợi nhuận của các Công ty vẫn còn thấp và có dấu hiệu phục hồi khi mà nhu cầu của nền
kinh tế tăng lên, và cắt giảm chi phí trong giai đoạn phục hồi. Các áp lực về tài chính đối với các
Doanh nghiệp sẽ giảm xuống, các khoản nợ dài hạn sẽ có thể thay thế nợ ngắn hạn và các công ty
có thể cho phép mình tìm kiếm một cơ hội đầu tư dài hạn trong quá trình sản xuất.
Trong thị trường cổ phiếu nhóm ngành có triển vọng: (phần này sẽ viết tiếp trong tối nay)
Thị trường trái phiếu
Yield rate sẽ giảm và chạm đáy trong năm 2009, và điều này dẫn tới một thời kỳ không có
lợi xuất cao cho việc đầu tư vào TT trái phiếu trong giai đoạn năm 2009 khi so sánh với đầu tư vào
cổ phiếu.
Thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản sẽ chạm đáy trong năm 2009 khi mà các nhà đầu tư đã đầu tư quá
nhiều vào bất động sản và dân vẫn còn một ký ức vào về quá trình sụt giảm mạnh mẽ của TT Bất
đông sản
------------------------------------------------------------------------------------
Phụ lục
I. Bảng số liệu
- 15 -
Table 12: Thông số đầu tư nước ngoài 1994 2007
Table 13: Điều tiết lãi suất – 2008
II. Các nguyên tắc nhận định và thuật ngữ sử dụng
Thuật ngữ (phần này sẽ được viết sau)
Recover
- 16 -
Early Upswing
Late Upswing
Growth Slow and go into Recession
Recession
Nguyên tắc nhận định
Nguyên tắc hình thành đường sản lượng tiềm năng
Điểm sản lượng tiềm năng là điểm mà về mặt bản chất là cố định khi so sánh với sự biến
động của sản lượng thực tế trong quá trình vận hành của nền kinh tế, hơn nữa điểm sản lượng tiềm
năng là một hàm của 03 biến: Sức lao động, công nghệ áp dụng trong quá trình sản xuất, và nguồn
vốn, 03 biến này về mặt ngắn hạn thì không thay đổi tuy nhiên trong dài hạn thì thay đổi, điều này
cho thấy điểm sản lượng tiềm năng là điểm chuyển động tương đối theo một xu thế khi so sánh với
mức sản lượng trong chu kỳ vận động nền kinh tế
Với cách tiếp cận như vậy điểm sản lượng tiềm năng sẽ được hình dung bằng việc xác định
xu thế của mức biến động GDP từ năm 1990 tại Việt Nam cho tới nay.
Nguồn gốc của sự phục hồi trong nền kinh tế
Trong xu thể sụt giảm thực sự rất khó nhình nhận điểm phục hồi của nền kinh tế là ở đâu?
Và ai là người chủ động tăng chi tiêu khi mà tất cả các thành phần trong nền kinh tế đang cảm
nhận sự lo lắng và thất vọng. thông thường có bốn (04) nhân tố quan trọng cần phải quan sát nhìn
nhận và theo dõi để có thể nhận định sự chuyển dịch của nền kinh tế
Chính Phủ sẽ thực hiện việc thúc đẩy nền kinh tế bởi 02 chính sách đó là chính sách tiền tệ
và tài khóa, chính sách tiền tệ thì thực sự quan trọng với việc tăng cung tiền và giảm chi phí vốn
trong nền kinh tế. Giảm lãi suất thúc đầy thị trường chứng khoán, khuyền khích tăng chi tiêu, nhu
cầu vay vốn và cũng làm giảm áp lực của khoản nợ vay đang thực hiện trong nền kinh tế. Chính
sách tài chính được thực hiện sẽ trực tiếp đưa tiền vào nền kinh tế. “nguyên lý phân tích ở đầy là:
có nhiều công cụ mà Chính Phủ có thể sử dụng để đạt tới mục tiêu của họ do vậy nếu trước đây họ
sử dụng công cụ nào để giảm tốc độ lạm phát và ảnh hưởng tới nền kinh tế, thì sau này để sự hiệu
quả đạt được của mục tiêu phục hồi nền kinh tế thì họ cần phải tiến hành thực hiện các công cụ có
sức mạnh tương tự như trước đây”
Yếu tố thứ 2 đó là trong suốt quá trình sụt giảm của nền kinh tế “recession” đó là các thành
phần trong nên kinh tế giảm số lượng nợ vay và sau khi lãi suất giảm xuống việc vay nợ trở nên dễ
dàng hơn và điều này cũng thúc đẩy quá trình phục hồi. trong thời kỳ sụt giảm thì các khoản chi
tiêu và đầu tư lớn được trì hoãn sẽ tạo động lực cho việc tăng cầu khi mà niềm tin vào nền kinh tế
bắt đầu hội phục. “ở Việt Nam hiện tại yếu tố niềm tin chưa được đo lường một cách cụ thể, tuy
nhiên có thể nhìn hành động để nhận dạng yếu tố niềm tin”
Yếu tố thứ 3 tài sản giảm sâu tới một mức nào đó mọi người sẽ mua vào và thúc đẩy quá
trình tăng trưởng đi lên của nền kinh tế
- 17 -
Nhận định về tỷ giá:
RAV nhận định tỷ giá dựa trên lý thuyết: Asset Market Approach, lý thuyết này cho rằng
tỷ giá giữa đồng tiền của các quốc gia thay đổi bắt nguồn từ kỳ vọng của các nhà đầu tư về lạm
phát, lãi suất các yếu tố này dẫn tới sự thay đổi về cung và cầu giữa các đồng tiền một quốc gia và
kết cục là dẫn tới sự thay đổi của tỷ giá của các đồng tiền.
Kết quả là tỷ giá của giữa đồng tiền của một quốc gia sẽ tỷ lệ với lạm phát và lãi suất của
quốc gia đó và tỷ lệ lạm phát và lãi suất của quốc gia còn lại. trong bản phân tích tỷ giá được sử
dụng để đánh giá là tỷ giá giữa VND/USD (nghĩa là cần tốn bao nhiêu đồng tiền Việt Nam để mua
một đồng đô la Mỹ).
Trong bản phân tích cũng sử dụng mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng do ngân hàng nhà
nước Việt Nam ấn định và điều tiết tại ngày 25/12/2008 là 16,989 đồng. khi mức ấn định này thay
đổi sẽ có tác động trực tiếp tới mức tỷ giá VNĐ/USĐ của năm 2009.
Có một số lý thuyết khác lý giải tỷ giá giữa các đồng tiền của các quốc gia thay đổi bắt
nguồn sự biến động trong tài khoản vãng lai của các quốc gia. Và tỷ giá sẽ biến động để đảm bảo
sự cân bằng đối với tài khoản vãng lai (Current account)
Yếu tố thứ 4 chu kỳ đối với hàng tồn kho sẽ xuất hiện và đây là một yếu tố quan trọng để
nhận dạng
Kiểm định mối tương quan về tốc độ tăng trưởng trong quá khứ về các nhân tố ảnh
hưởng tới tăng trưởng GDP
Các nhân tố tác động GDP:
C: tiêu dùng cá nhân
I: Đầu tư cá nhân và đầu tư của Chính Phủ
G: Chi tiêu Chính Phủ không bao gồm các khoản đầu tư
E – X: Nhập khẩu – Xuất khẩu
GDP = C + I + G + (E – X)
Các thông số xác định chu kỳ của nền kinh tế, bao gồm 02 thông số
Nhận dạng các dấu hiệu thay đổi chu kỳ
Thông số trực tiếp, đó là dấu hiệu nhận dạng sau:
1. Tỷ lệ thất nghiệp
2. Sụt giảm mức độ tăng trưởng GDP
Thông số gián tiếp
1. Tỷ lệ lạm phát
2. Sự biến động lãi suất liên ngân hàng tại Việt Nam, đây là lãi suất cho vay giữa các
- 18 -
ngân hàng
3. Cơ hội đầu tư trong các lớp tài sản, điển hình là biến động của TT cổ phiếu, Bất
động sản, và thị trường trái phiếu
4. Hành động của Chính Phủ, chính sách tiền tệ và tài khóa
Việc nhận định chu kỳ và điểm đỉnh của nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu mang tính nhạy
cảm hơn so với GDP bao gồm: lãi suất cho vay liên ngân hàng, lạm phát và dấu hiệu của TTCK,
cơ hội đầu tư, thông số GDP là thông số xác nhận quá trình biến đổi trong chu kỳ của nền kinh tế
Lưu ý: - Bảng biểu cần có đơn vị, Cuối các bảng biểu cần thể hiện nguồn
- Xem lại figure 2 về trục thời gian, nên có trục thời gian thống nhất với figure 2
Phần 1: Chu kỳ nền kinh tế, các hành động của Chính Phủ và triển vọng nền kinh tế
năm 2009?
Phần 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam triển vọng trong năm 2009 ?
- 19 -