MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐẶC TÍNH KINH TẾ,
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ CẤU TRÚC QUYỀN LỰC
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á THỜI CỔ TRUNG ĐẠI
PGS.TS NGUYỄN VĂN KIM
Phó hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV
Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Những đặc tính về kinh tế - xã hội
Nằm ở phía Đông Nam của châu Á, Đông Nam Á là một khu vực Địa - kinh
tế, Địa - văn hoá có những đặc tính tự nhiên và lịch sử riêng biệt. Chịu tác động sâu
sắc những điều kiện tự nhiên của một khu vực nhiệt đới - gió mùa, hầu hết các quốc
gia trong khu vực đều gắn liền với môi trường biển, cận biển. Khí hậu nóng, ẩm, gió
mùa và nguồn nước vô tận của các hệ thống sông lớn như Hồng Hà, Mekong, Chao
Phraya, Jambi... cũng như đại dương đã tạo nên những đặc tính chung nhất cho các
quốc gia Đông Nam Á.
Chịu sự chi phối của Hệ sinh thái phổ tạp (General ecosystem), từ sớm cư
dân Đông Nam Á bản địa đã chứng tỏ một năng lực thích ứng cao với môi trường tự
nhiên và đã thể hiện kỹ năng khai thác các tiềm năng kinh tế tự nhiên, xã hội và văn
hóa… để sinh tồn, phát triển1. Vào thời tiền sử và sơ sử, cùng với sự trưởng thành về
văn hoá, ý thức dân tộc, các dân tộc Đông Nam Á vừa tiếp nhận những giá trị văn
hoá truyền thống riêng, chung của toàn thể khu vực vừa thu nhận, cải biến những
ảnh hưởng văn hoá, giá trị văn minh từ bên ngoài. Con đường tiếp nhận và truyền tải
văn hoá đó luôn gắn liền với quá trình tái tạo, sáng tạo trong một tâm thế rộng mở.
1 Peter Bellwood and Ian Glover: Southeast Asia - Foundation for an Archaeological History; in Southeast Asia from Prehistory to History, Ian Glover and Peter Bellwood (Ed.), Routlrdge Curzon, 2004, p. 4. Trong công trình này, thông qua các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cũng như liên ngành các tác giả cho rằng cư dân Đông Nam Á là những người bản địa, họ đã sớm có tiếng nói và truyền thống văn hoá riêng. Từ sau Công nguyên mặc dù văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc và Arập có những ảnh hưởng mạnh mẽ với văn hoá khu vực nhưng Đông Nam Á nhìn chung vẫn là những thực thể văn hoá, xã hội riêng biệt có bản sắc riêng và sáng tạo.
Nằm trên tuyến giao lưu và hội tụ giữa các nền văn minh lớn của thế giới phương
Đông, cư dân Đông Nam Á đã cùng nhau chia sẻ nhiều giá trị văn hoá chung với các
nền văn minh khu vực cũng như thế giới.
Là cộng đồng các quốc gia đa dân tộc, phân bố trên một khu vực địa lý rộng
lớn, địa hình luôn bị chia cắt bởi các dãy núi, thung lũng, hệ thống sông và biển cả…
với sự đa dạng về văn hoá, nguồn gốc tộc người, cơ sở kinh tế, Đông Nam Á là một
phức hợp đa dạng. Nhưng từ trong những phức hợp đa dạng đó, các xã hội Đông
Nam Á đã tự tạo cho mình những bản sắc văn hóa riêng. Rõ ràng là, đã đến lúc
Đông Nam Á, với những giá trị sáng tạo tính bản địa và nền văn hóa hết sức phong
phú, phải được nhìn nhận một cách chân thực, đánh giá khách quan hơn. Cũng cần
phải nói thêm rằng, là một khu vực có những giá trị văn hoá độc đáo nhưng đồng
thời cũng tích chứa nhiều đặc tính phát triển dị biệt nên đã từ lâu, Đông Nam Á đã là
chủ đề nghiên cứu thú vị và tranh luận sôi nổi trong giới nghiên cứu khu vực cũng
như quốc tế.2
Trước đây, người ta thường hiểu tầm quan trọng lịch sử của Đông Nam Á chủ
yếu là do vị trí địa lý của nó. Khu vực này được coi là “hành lang”, “cầu nối”giữa
phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản...) và phương Tây (Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung
Hải). Thậm chí, cho đến gần đây trong khi xem xét những đóng góp về văn hoá và
vai trò lịch sử của Đông Nam Á, một số nhà nghiên cứu vẫn duy trì quan niệm
“truyền thống”tức chỉ coi Đông Nam Á là khu vực giữ vị trí như một “ngã tư đư-
ờng”của các cuộc tiếp giao văn hoá. Với cách hiểu và luận suy đó, Đông Nam Á chỉ
là “Thế giới Ấn hoá”hay “Thế giới Hoa hoá”hoặc đồng thời là sự tích hợp của cả hai
dạng thức trên. Quan niệm đó vừa không đầy đủ vừa có phần sai lệch với thực tiễn
lịch sử, bản chất xã hội, văn hoá Đông Nam Á.
Nhưng bên cạnh đó, từ khoảng những năm 1960-1970, cùng với sự trưởng
thành của ngành Đông Nam Á học, một số học giả khu vực và quốc tế lại có khuynh
hướng nhấn mạnh đến những giá trị sáng tạo bản địa được biểu đạt như là những
“yếu tố cội nguồn”, “thuần chất Đông Nam Á”. Từ đó cũng có khuynh hướng đi tới
việc coi nhẹ, thậm chí phủ nhận những tác động, ảnh hưởng của môi trường văn hoá
2 Hà Văn Tấn: Tiền sử học Đông Nam Á: Tri thức và khuynh hướng; trong: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Nxb. Khoa học Xã hội H.,1997, tr. 13 -31.
bên ngoài đặc biệt là của văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á và cả văn minh
phương Tây đối với sự hình thành, phát triển của các quốc gia khu vực. Dù sự tranh
luận gay gắt giữa một bên là những người theo thuyết Truyền bá luận (Diffusionism)
chủ trương văn hoá Đông Nam Á là do bên ngoài truyền tới và Thuyết bản địa luận
(Autochtonism) nhấn mạnh đến những nhân tố nội tại và năng lực sáng tạo của Đông
Nam Á thì với những thành tựu nghiên cứu hiện nay, có thể cho rằng, một cái nhìn
cực đoan về xã hội Đông Nam Á qua những biểu hiện cũng như bản chất của nó,
đều xa lạ và không phù hợp với thực tế lịch sử.
Có thể nói, sự hình thành và phát triển của văn hoá Đông Nam Á đã diễn ra
trong những mối quan hệ, giao lưu, tương tác đa chiều. Hành trình lịch sử, văn hóa
Đông Nam Á cần phải được nhìn nhận ở ba cấp độ: Các xã hội Đông Nam Á vừa có
những giá trị sáng tạo, phát triển những giá trị sáng tạo, vừa tiếp nhận những ảnh
hưởng của các nền văn minh lớn đồng thời cũng vừa đóng vai trò truyền nối và chủ
động truyền bá văn hoá ra bên ngoài.
Dựa trên những thành tựu nghiên cứu mới đặc biệt là những phát hiện mang
tính bản địa cùng sự trưởng thành về nhận thức khoa học của giới nghiên cứu khu
vực, quốc tế, có thể khẳng định rằng Đông Nam Á, với những giá trị riêng biệt, sáng
tạo và truyền thống lịch sử văn hoá lâu dài của nó, phải được coi là một trong những
Trung tâm văn minh và là một trong những Trung tâm thu - phát văn hoá lớn. Trên
phương diện kinh tế, với tiềm năng phong phú và hoạt động kinh tế đa dạng của nó,
Đông Nam Á còn là một Trung tâm kinh tế quan trọng của châu Á. Trong nhiều thế
kỷ, Đông Nam Á là một khu vực kinh tế năng động, có nhiều đóng góp to lớn cho sự
phát triển của kinh tế phương Đông và thế giới chứ không phải là “một khu chợ
chuyên buôn bán hàng hoá nước ngoài”3. Do vậy, về mặt xã hội và văn hóa, khi
những ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài thâm nhập đến khu vực thì Đông
Nam Á hoàn toàn không phải là “những xã hội mông muội”. Đó là những xã hội có
tổ chức và ở nhiều vùng đã có một truyền thống văn hóa lâu đời, khá phát triển. Một
cách tự nhiên, từ trong chính môi trường sống tự nhiên và cả do sự gần gũi về vị trí
3
? Trần Quốc Vượng: Truyền thống văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á; trong: Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Dân tộc và Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, H., 2000, tr. 15-24. Tham khảo thêm Lương Ninh (Cb.): Lịch sử Đông Nam Á, Nxb. Giáo Dục, H., 2005, tr. 9-10; Nicholas Tarling (Ed.): The Cambridge History of Southeast Asia, Vol. 1, Cambridge University Press,1992.
địa lý, nhìn chung các nền văn hóa Đông Nam Á đều có nhiều nét tương đồng với
văn minh khu vực. Về điều kiện tự nhiên, do có chỉ số duyên hải cao, tự trong bản
chất, văn hóa và xã hội Đông Nam Á luôn thể hiện tính năng động, khả năng thích
ứng cao với những thách đố văn hóa, chính trị từ bên ngoài. Trong tâm thế đó, “ngay
từ thời tiền sử, nhất là từ thời đại kim khí, với tính chất đại dương của địa hình và
với sự phát triển khá cao của nghề đi biển, cư dân Đông Nam Á đã truyền bá văn
minh của mình về phía Tây tới tận Magadasca, về phía Bắc tới tận Nhật Bản và về
phía Đông tới tận vùng đảo Thái Bình Dương”. 4
Một số nhà khoa học cũng cho rằng từ thời tiền sử, văn hoá Đông Nam Á đã
có những liên hệ với Ấn Độ. Điều có thể thấy được là, trong những hiện vật thuỷ
tinh, mã não và hạt chuỗi của văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh đã có những hoạ tiết
trang trí vẽ màu giống như phong cách Ấn Độ5 . Huyền thoại về nguồn cội, về nghĩa
đồng bào và mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, đẻ ra trăm người con..., theo nhà
nghiên cứu Manomohan Ghosh thì rất giống với những ghi chép trong sử thi
Mahabharata của Ấn Độ6. Mặt khác, ảnh hưởng của văn hóa Đông Nam Á đã không
tự hạn chế trong phạm vi đơn vị hành chính hiện nay mà đã mở rộng đến nhiều quốc
gia khác ở khu vực Đông Á. Trên cơ sở các cứ liệu khảo cổ học, nhân học GS. Hà
Văn Tấn từng cho rằng: “ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn lên phía Bắc, theo lưu
vực sông Nguyên, sông Tương, đến đất Sở là đã rõ ràng”7. Vào thời kỳ đầu của giai
đoạn này, văn hoá Đông Nam Á đã đạt đến độ phát triển rực rỡ và chính nhà Đông
Phương học nổi tiếng người Nga D.V.Deopik đã gọi thế kỷ V trước Công nguyên là
“Thế kỷ của phương Nam”. Trên nhiều phương diện, văn hóa Đông Nam Á đã có
những ảnh hưởng rộng lớn, vượt rất xa ra ngoài những quốc gia láng giềng8.
Đánh giá về vị thế của văn hoá Đông Nam Á, Trong công trình: “Lịch sử nhìn
từ quan điểm sinh thái học - Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới”, học giả
Nhật Bản Tadao Umesao cho rằng: Đông Nam Á là một khu vực văn minh. Tương tự
như vậy, với cách nhìn khách quan, trong tác phẩm “Nghiên cứu lịch sử - Một cách
4 Ngô Văn Doanh: Chămpa và buổi đầu tiếp xúc với Ấn Độ; trong: Đông Nam Á - Truyền thống và hiện tại, Vũ Dương Ninh (Cb.), Nxb. Thế Giới, H., 2007, tr. 104.5 A. Lamb: Some Observations of Stone and Glass Beads in Early Southeast Asia, Journal of the Malay Branch of the Royal Asiatic Society, Vol. 55, 1974, No. 1-4, p. 208-211.6 Monomohan Ghosh: Indian Cultural Influence on Prehistoric Vietnam, Annals of the Bhadarkar Oriental Research Institute Poona, Vol. 55, 1974, No.1-4, p. 208 - 2117 Hà Văn Tấn (Cb.): Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1994.8 Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 85.
thức diễn giải”, nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá nổi tiếng thế giới Arnold Toynbee
cũng đưa ra một nhận xét rất đáng chú ý về vị thế của “văn minh Việt Nam”trong
mối liên hệ và tương tác với văn minh Trung Hoa và khu vực. Tác giả cho rằng: “Có
một mối liên hệ gần gũi hơn nhiều giữa một bên là văn minh Trung Hoa với một bên
là các nền văn minh Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ba nền văn minh này mô
phỏng văn minh Trung Hoa nhưng đã vay mượn văn minh Trung Hoa theo những
con đường riêng biệt khá đặc trưng, khiến cho người ta có quyền coi chúng là những
nền văn minh riêng biệt - thuộc vào một phân loại (sous-classe) mà chúng ta có thể
gọi là những “Văn minh vệ tinh”(Civilisations satellites), đối lập với những nền văn
minh độc lập như nền văn minh Trung Hoa, phương Tây cũng như những nền văn
minh cổ Hy Lạp và Syrie có họ hàng với văn minh phương Tây”9. Quan điểm của
hai học giả tuy có những khác biệt nhất định khi nhìn nhận về vị thế và đặc tính của
văn hóa Đông Nam Á nhưng đều tôn vinh những giá trị văn hoá điển hình của Đông
Nam Á và coi đó là một khu vực văn minh đồng thời luôn đặt văn minh Đông Nam
Á trong nền cảnh và sự tương tác với các nền văn minh khác trên thế giới.
Với quan niệm văn minh Đông Nam Á là một bộ phận hợp thành của văn
minh thế giới, có thể thấy hầu hết các nền văn hoá, văn minh lớn trên thế giới đều đ-
ược hình thành, phát triển dọc theo lưu vực các dòng sông. Chính nguồn nước vô tận
của các dòng sông đã sinh tạo và nuôi dưỡng nền các nền văn minh lớn thời cổ đại
từ văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà đến Ấn Độ, Trung Hoa... Các nền văn minh đó chắc
chắn không thể hình thành sớm và phát triển rực rỡ nếu không được nguồn nước vô
tận và phù sa của các dòng sông bồi đắp10. Như một quy luật tất yếu, các nền văn
minh hình thành dọc theo lưu vực các dòng sông đều là các nền Văn minh nông
nghiệp, hoạt động kinh tế chủ yếu là kinh tế nông nghiệp.
Cùng chia sẻ một số đặc tính trong quá trình kiến lập văn hóa, văn minh tư-
ơng tự như các nền văn minh cổ đại trên thế giới, hầu hết các nền văn hoá Đông
Nam Á đều được thành tạo ở lưu vực các dòng sông. Nhiều quốc gia trong khu vực
9 Tadao Umesao: Lịch sử nhìn từ quan điểm sinh thái học - Văn minh Nhật Bản trong bối cảnh thế giới, Nxb. Thế Giới, 2007, tr. 151-164. Arnold Toynbee: Nghiên cứu lịch sử - Một cách thức diễn giải, Nxb. Thế Giới, H., 2002, tr. 61.10 Nguyễn Văn Kim: Diễn trình giao lưu kinh tế, văn hoá Việt - Trung vùng thượng nguồn sông Hồng trong bối cảnh khu vực, Báo cáo trình bày tại Hội thảo quốc tế, Học viện Hồng Hà, Vân Nam, Trung Quốc, tháng 10-2005. Tạp chí Khoa học Xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1, 2006, tr. 9-26
đã tìm thấy năng lực phát triển, sáng tạo của mình từ nguồn nước phong phú và sự
bồi tụ của các hệ thống sông như: Mekong, Hồng Hà, Thu Bồn, Chao Phraya,
Irrawady hay Jambi… Đây là những quốc gia được hình thành sớm ở Đông Nam Á,
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển chung của toàn thể khu
vực. Nguồn nước và phù sa của các con sông không chỉ nuôi dưỡng các nền kinh tế,
các trung tâm văn hoá mà còn quy định nên những đặc tính xã hội, tâm lý, sinh hoạt
văn hóa tiêu biểu của các quốc gia trong khu vực. Văn hóa Đông Nam Á luôn giàu
đậm chất sông nước.
Mặc dù cho đến nay, vết tích của cây lúa nước tìm được ở Đông Nam Á tư-
ơng đối muộn so với hai trung tâm nông nghiệp lớn của châu Á là Ấn Độ và Trung
Quốc (đặc biệt là khu vực Trường Giang) nhưng Đông Nam Á vẫn được coi là một
trong những Trung tâm nông nghiệp sớm của thế giới. Nền tảng kinh tế của hầu hết
các quốc gia trong khu vực là kinh tế nông nghiệp. Dù cuộc tranh luận giữa các nhà
khoa học về sự xuất hiện sớm / muộn của các loài cây lương thực ở Đông Nam Á là
cây cho củ (mà chủ yếu là các giống khoai nước) hay lúa cạn (lúa khô dry rice), lúa
nước (water rice) tuy vẫn chưa thể đạt đến sự đồng thuận tuyệt đối nhưng lúa nước
vẫn được coi là cây lương thực chính, là nền tảng kinh tế để từ đó “triển nở”các
trung tâm văn hóa đồng thời hình thành nên những đặc tính tiêu biểu trong truyền
thống văn hoá Đông Nam Á.11
Từ truyền thống canh tác lúa nước giàu đậm chất văn hoá tuân theo sự
chuyển vận của lịch trăng, nhiều nhà khoa học đã nâng tầm văn hoá của cư dân
trồng lúa Đông Nam Á và gọi đó là “Văn minh lúa nước”. Nền văn minh đó chứa
đựng trong bản thân nó bản sắc, bản tính tiêu biểu của văn minh khu vực. Bản sắc
đó, theo cách hiểu của GS. Trần Quốc Vượng, chính là căn cước để hiểu đồng thời
11 Trong số các học giả phương Tây có thể coi Wilhemlm G.Solhem II là một trong những nhà khoa học luôn có những đánh giá về sự phát triển cao và tính tiên phong của văn hoá Đông Nam Á. Ông cho rằng: “Chủ nhân văn hoá Hoà Bình là ngời trồng trọt đầu tiên trên thế giới, niên đại xuất hiện của nông nghiệp ở đây có thể lên đến 15.000 TCN. Vì vậy, theo ông Đông Nam Á đã có một cuộc Cách mạng nông nghiệp sớm nhất thế giới. Người Hoà Bình đã biết làm gốm văn thừng cách đây một vạn năm. Các văn hoá đá mới ở Trung Quốc như Ngưỡng Thiều, Long Sơn đều bắt nguồn từ một tiểu văn hoá (subculture) Hoà Bình và di động từ Nam lên Bắc. Người Đông Nam Á đã dùng thuyền vượt biển từ 1.000 năm TCN, đến Đài Loan và Nhật Bản, mang đến đất Nhật nghề trồng taro và các giống cây trồng khác. Khoảng 4.000 năm TCN, nghề luyện kim đã được phát minh ở đâu đó trong khu vực Đông Nam Á...”. XemWilhemlm G.Solhem II: New Light on a Forgotten Past, National Geographic Magazine, 139(3), 1971; dẫn theo Hà Văn Tấn: Theo dấu các nền văn hoá cổ, Sđd, tr. 25-26. Tham khảo thêm Trần Quốc Vượng: Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, H., 2003; Bùi Huy Đáp - Nguyễn Điền: Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1996 và các bài viết của Đào Thế Tuấn trên Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 8 (09) XI, 1994 và số 5 (139), 2003
là để định dạng, nhận dạng văn minh Đông Nam Á trong thế giới đa dạng của văn
minh, văn hoá thế giới.
Cư dân Đông Nam Á sớm biết và có kỹ năng khai phá các châu thổ nhưng
đồng thời cũng sớm biết khai hoang, lấn biển và phát triển ruộng bậc thang, đưa cây
lúa nước lên các sườn đồi. Trên thực tế, quá trình khai phá đó có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc mở rộng diện tích đất canh tác và giải quyết vấn đề lương thực cơ
bản ngay tại chính các tiểu vùng cũng như mỗi thôn, bản và các hộ nông dân với tư
cách là đơn vị xã hội và tổ chức sản xuất nhỏ nhất. Với ý nghĩa đó, tư duy nông
nghiệp, khả năng chinh phục, hòa nhập với thế giới tự nhiên của cư dân Đông Nam
Á đã phát triển sớm và đạt trình độ cao. Điều có thể nhận thấy là, ở Đông Nam Á
ruộng lúa nước đã xuất hiện ở tất cả mọi địa vực: đồi núi, trung du, đồng bằng và cả
vùng ven biển. Đó là các khu vực Địa - kinh tế có nhiều điểm chung nhưng cũng rất
riêng giữa các phân vùng hay tiểu vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên, trên các đảo quốc và nhiều vùng thảo nguyên hay trong các thung
lũng của các cánh rừng mưa nhiệt đới, một bộ phận không nhỏ cư dân Đông Nam Á
cũng đã sớm thể hiện năng lực thích ứng với môi trường sống của mình. Họ đã chọn
lọc, lai tạo nên nhiều giống cây lương thực khác nhau. Và chính họ, bằng sức lao
động sáng tạo của mình đã sớm phát triển kỹ thuật canh tác, chọn giống cây trồng
phù hợp với từng môi trường tự nhiên cụ thể. Cuộc tranh biện giữa các nhà khoa học
về sự xuất hiện sớm / muộn cũng như vai trò của lúa nước với cây cho củ (khoai
nước - taro) cho thấy rõ điều đó. Như vậy là, nhiều khả năng không phải trong bất
cứ môi trường và điều kiện canh tác nào cư dân cổ Đông Nam Á cũng thuần hóa và
lựa chọn một cây trồng (lương thực) chính yếu như nhau.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, trong các không gian sinh tồn đa dạng của
Đông Nam Á, ngay cả các cư dân nông nghiệp vùng khô, đất canh tác hạn hẹp, điều
kiện canh tác khó khăn do hiếm nước, con người cũng đã biết dựa vào tự nhiên và
khai thác triệt để những tiềm năng tự nhiên để duy trì, phát triển cuộc sống của
mình. Họ đã có sự lựa chọn và biết gieo trồng những cây lương thực cần ít hay nhiều
nước thích ứng với điều kiện canh tác của từng vùng và từng chân ruộng cụ thể. Họ
cũng phát triển kỹ thuật làm ruộng bậc thang, dùng biện pháp “đao canh thuỷ nậu”,
“đao canh hoả chủng”để tăng độ phì cho đất đồng thời tích cực xây dựng hệ thống
thuỷ nông trên quy mô lớn để bảo vệ cuộc sống và mở rộng diện tích đất gieo trồng 12. Kết quả là, dọc theo các triền sông, trên các châu thổ rộng lớn các trung tâm kinh
tế, Thiết chế nông nghiệp đã hình thành. Sự hiện diện của các trung tâm này có vai
trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành, phát triển lịch sử, văn hóa Đông Nam
Á. Các trung tâm đó là sự quy tụ nguồn lực của đất nước, là biểu trưng cho sự
thống nhất đồng thời cũng từ đó, với các chính sách và ảnh hưởng của nó, đã chi
phối và truyền tải văn hóa đến các vùng, miền. Đó chính là diễn tiến cơ bản đồng
thời là mô hình phổ quát trong quá trình hình thành, phát triển của các quốc gia khu
vực. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, dù kinh tế luôn có vai trò quan trọng, với tư
cách là nền tảng thiết yếu, nhưng sự hình thành, phát triển của một nhà nước không
thể chỉ dựa vào kinh tế hay chỉ là kinh tế nông nghiệp mà là sự kết tụ hằng xuyên
của tất cả các tiềm năng kinh tế cũng như sức mạnh văn hóa, xã hội và tôn giáo.
Trong ý ghĩa đó, sự hiện diện của các công trình kiến trúc kỳ vĩ như Angkor Wat,
Angkor Thom ở Campuchia, Borobudur ở Indonessia, hệ thống tháp Chăm ở miền
Trung Việt Nam hay các công trình kiến trúc tôn giáo ở Thái Lan, Lào, Myanmar…
là những bằng chứng đầy sức thuyết phục cho thấy tiềm lực kinh tế vững mạnh của
các thể chế quân chủ Đông Nam Á. Nói cách khác, kinh tế không chỉ là nhân tố
quan trọng bảo đảm nguồn sống của cư dân Đông Nam Á mà còn là một trong
những nền tảng để phát triển văn hóa, tôn giáo, thể hiện quyền uy của triều đại và
các đấng quân vương.
Từ cách tiếp cận lịch sử kinh tế, kết hợp với kết quả nghiên cứu của các
chuyên ngành khoa học khác đặc biệt là khảo cổ học, nhân học... có thể khẳng định
rằng tính đa dạng của văn hoá Đông Nam Á không chỉ được thể hiện trên bình diện
khu vực mà còn hiện diện trong đời sống văn hoá của mỗi quốc gia và cả trong từng
không gian văn hoá tộc người. Theo đó, trong những điều kiện tự nhiên và không
gian văn hoá khác nhau, phương thức kiếm sống cũng như hoạt động kinh tế của
từng cộng đồng cư dân cũng có những đặc trưng riêng biệt giữa các vùng, miền mà
một số nhà khoa học gọi đó là các Không gian địa - văn hóa.
Do đặc thù của điều kiện tự nhiên nhiệt đới, hệ sinh thái Đông Nam Á là Hệ
sinh thái phổ tạp với hai đặc trưng cơ bản là có khả năng tái sinh nhanh và chỉ số đa
12 Fukui Hayao (Ed.): The Dry Areas in Southeast Asia: Harst or Benign Enviroment, The Center for Southeast Asian Studies (CSEAS), March, 1999.
dạng về giống loài cao. Đặc trưng đó, một cách tự nhiên, đã sản sinh ra khả năng tự
điều tiết và thích ứng khá cao với môi trường sống của cư dân Đông Nam Á. Hệ quả
là, cư dân Đông Nam Á nhìn chung ít khi bị đẩy vào tình trạng khan hiếm lương
thực một cách gay gắt và kéo dài. Theo cách hiểu của GS. Trần Quốc Vượng thì cư
dân Đông Nam Á, ngay cả các cư dân nông nghiệp vùng khô, đã “không nghèo như
chúng ta tưởng”. Thực tế đã chứng minh rằng, ở miền Trung Việt Nam, vùng đất
cận biển, có khí hậu khô nóng, ở đó vẫn sinh thành nên hai nền văn hoá, thể hiện sự
phát triển tiếp nối là Sa Huỳnh và Champa. Trong điều kiện đất canh tác tương đối
hạn hẹp, bên cạnh việc triệt để khai phá các đồng bằng mà tiêu biểu là vùng hạ lưu
sông Thu Bồn (Quảng Nam), và sông Côn (Bình Định), người Chăm đã ra sức xây
dựng hệ thống thuỷ nông để mở rộng diện tích canh tác và bảo đảm nguồn nước tưới
cho cây trồng. Được coi là một Thể chế biển (Maritime polity) điển hình của Đông
Nam Á nhưng kinh tế nông nghiệp Champa vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng.
Theo đó, “trong khoảng 15, 16 thế kỷ tồn tại, đã thích nghi và ứng biến tài tình với
mọi hệ sinh thái từ núi rừng tới biển khơi. Cái ý kiến cho rằng văn hoá Champa chỉ
là văn hoá biển, thậm chí cho rằng người Chăm chỉ là bọn cướp biển (pirates de
mer) là một ý kiến quá cũ kỹ và sai lầm từ căn bản”13.
Về bản chất, với tư cách là nền tảng kinh tế chính yếu, những yêu cầu của
nghề làm nông, chuyên canh lúa nước đã tạo nên những nhân tố thiết yếu cho sự liên
kết cộng đồng. Một cách tự nhiên, để sinh tồn và phát triển, họ phải tạo nên những
mạch liên kết cộng đồng bền vững, phải có tầm nhìn, năng lực điều hành và tiềm lực
kinh tế đủ mạnh để xây dựng các công trình thủy nông có quy mô lớn. Tinh thần
cộng đồng đó còn được thể hiện vào những thời điểm canh tác, thu hoạch, những khi
giáp hạt, lũ lụt, hạn hán và đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi cả cộng đồng dân tộc phải
đương đầu với giặc ngoại xâm... Trong bối cảnh đó, tinh thần cộng đồng có thể phát
triển thành Tinh thần dân tộc và Chủ nghĩa yêu nước.
Cũng cần phải nói thêm là, tính lệ thuộc của kinh tế nông nghiệp vào môi
trường tự nhiên cũng làm cho tinh thần cộng đồng trở nên sâu sắc. Sự chuyển vận
của thế giới bao la là vô lượng và mỗi người chỉ là một sinh linh bé nhỏ trong cái thế
13 Trần Quốc Vượng: Miền Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa (Một cái nhìn Địa - văn hoá); trong: Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb. Văn hoá dân tộc, H., 1998, tr. 330.
giới ấy. Mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt cũng là nhờ ơn trời. Nhưng sau
những năm “hòa cốc vui ca”lại là những năm mất mùa liên tiếp. Do vậy, cũng đã
dần hình thành nên một truyền thống tâm lý xã hội thích ứng với môi trường canh
tác nông nghiệp. Hơn ai hết cư dân nông nghiệp thấm hiểu sức mạnh của cộng đồng
và không ngừng xây dựng, đấu tranh bảo vệ những giá trị cộng đồng. Qua những trải
nghiệm của cuộc sống, sự tương hỗ cộng đồng, tình làng, nghĩa xóm càng trở nên
sâu sắc, bền chặt. Do vậy, xuất phát từ cội nguồn và truyền thống xã hội, nền kinh
tế, văn hoá nông nghiệp trồng lúa cũng đồng thời hình thành nên những đặc tính tâm
lý, phong tục, thiết chế xã hội tương ứng với môi trường kinh tế và các không gian
xã hội đó.
Mặc dù kinh tế trồng trọt luôn được coi trọng nhưng với tư cách là một bộ
phận hợp thành của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi cũng luôn giữ vai trò chính yếu.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên bị chia cắt, thiếu những thảo nguyên lớn, môi
trường khí hậu lại thường xuyên biến động với thời tiết nóng ẩm… nên động vật dễ
bị dịch bệnh hơn thế Đông Nam Á không phải là địa bàn lý tưởng để phát triển chăn
nuôi đại gia súc trên quy mô lớn. Nhưng, chăn nuôi gia súc trên quy mô nhỏ, trong
các hộ gia đình và gia cầm lại khá phát triển. Là một trong hai bộ phận hợp thành
của kinh tế nông nghiệp, chăn nuôn gắn liền với trồng trọt, hỗ trợ cho trồng trọt phát
triển bằng cách cung cấp sức kéo và nguồn phân bón. Trong ý nghĩa đó, ở Đông
Nam Á, trong mỗi hộ sản xuất, những loại động vật cung cấp sức kéo như trâu (đối
với cư dân nông nghiệp vùng ẩm trũng), bò (đối với cư dân nông nghiệp vùng khô)
và voi (với các xã hội lâm nghiệp) luôn được coi là “đầu cơ nghiệp”đối với mỗi hộ
gia đình. Ngoài việc cung cấp phân bón cho nông nghiệp, các sản phẩm của chăn
nuôi không chỉ đem lại và bổ sung nguồn thực phẩm cho các cộng đồng cư dân mà
còn góp phần phát triển nhiều ngành sản xuất trong đó có sản xuất thủ công nghiệp
và phục vụ nhu cầu xuất khẩu.
Nhìn chung, cho đến thế kỷ XVI khi các nước phương Tây bắt đầu xâm nhập
đến Đông Nam Á, cấu trúc xã hội nông nghiệp vẫn ít diễn ra những biến đổi lớn.
Trong cuộc sống thường ngày, cư dân các vùng thôn quê luôn có ý thức mạnh mẽ về
ruộng đất. Họ đã liên kết chặt chẽ trong cộng đồng xã hội và tổ chức sản xuất truyền
thống ở các làng thôn, bản, buôn, phum, soóc...
Cùng với kinh tế nông nghiệp, ở Đông Nam Á, cũng khá phát triển. Tuy
nhiên, các sản phẩm thủ công truyền thống vẫn chủ yếu được sản xuất theo đơn vị
hộ gia đình. Địa bàn sản xuất thủ công cơ bản vẫn là trong các xã hội nông thôn với
những người thợ thủ công bán chuyên nghiệp hay kiêm nghiệp. Họ đã tranh thủ sản
xuất thủ công những lúc nông nhàn. Vì lẽ đó, trong một thời gian khá dài người ta
thường cho rằng, với Đông Nam Á, kinh tế công thương trên thực tế chỉ là những
“nghề phụ”hỗ trợ cho nghề chính là nông nghiệp. Nói cách khác, các ngành kinh tế
đó chỉ để nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa “tự cung tự cấp”hay phân phối
theo phổ hẹp. Quan niệm đó tương đối đúng trong một cái nhìn tổng quát về kinh tế
Đông Nam Á.
Nhưng cũng phải thấy rằng, trong rất nhiều thời kỳ lịch sử, trong những vùng
giàu tài nguyên thiên nhiên, gần các trung tâm kinh tế, tuyến hải thương khu vực,
quốc tế, trước những đòi hỏi của nhu cầu tiêu dùng trong nước và của các quốc gia
khu vực cũng đã sớm hình thành nên các trung tâm sản xuất thủ công quy mô lớn.
Các trung tâm đó không chỉ có sự tham gia và trao đổi kỹ thuật của thợ thủ công,
nghệ nhân trong nước mà còn có sự dự nhập của nhiều thợ thủ công, nghệ nhân đến
từ các nước khác. Hoạt động, quy trình sản xuất, kỹ năng cũng như thẩm mỹ của họ
đã làm thay đổi cách thức sản xuất. Một cách tự nhiên, quá trình sản xuất đó đã góp
phần quốc tế hóa các sản phẩm vốn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Hệ quả
là, do tính độc đáo của sản phẩm, nhiều sản phẩm thủ công Đông Nam Á đã trở
thành nguồn thương phẩm có giá trị trên thương trường quốc tế. Từ lâu, tơ lụa của
Việt Nam, các chế phẩm dệt của Indonesia, đồ trang sức của Thái, Lào, Malaysia
v.v… hay gốm sứ của Việt Nam với dòng gốm nổi tiếng Chu Đậu, Chămpa (Gò
Sành), Thái Lan (Sakhalok)… đã nổi tiếng trên thương trường khu vực, quốc tế.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, trong bốn khu vực của châu Á, Đông Nam
Á là nơi có chỉ số duyên hải ISCL (Index of Sea Coastal Line) cao và là vùng địa lý
có chỉ số duyên hải cao nhất thế giới. Chỉ số duyên hải cao và môi trường kinh tế
đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi để nhiều quốc gia Đông Nam Á có thể thiết lập
và mở rộng quan hệ giao thương với thế giới bên ngoài. Hơn nữa, do có vị trí địa lý
nằm giữa hai nền văn minh lớn nhất của phương Đông là Trung Quốc và Ấn Độ nên
Đông Nam Á cũng đồng thời là cầu nối giữa hai trung tâm văn minh và hai nền kinh
tế lớn này. Do vậy, từ rất sớm, song song với các thể chế nông nghiệp, ở Đông Nam
Á đã hình thành những quốc gia lấy kinh tế công thương đặc biệt là hải thương làm
cơ sở kinh tế chính yếu. Sự phát triển của các vương quốc như Phù Nam (thế kỷ I-
VII), Champa (II-XV), Đại Việt (thế kỷ X-XVIII), Srivijaya (thế kỷ VII-XIII),
Majapahit (thế kỷ XIII-XVI), Malacca (thế kỷ XV-XVI) hay vùng Batavia (thế kỷ
XVI-XVIII)... là những minh chứng cho quan điểm đó.
Với cách nhìn nhận đa diện đó, lịch sử hình thành phát triển của các quốc gia
Đông Nam Á luôn diễn ra sự vận động đồng thời của hai hệ thống cấu trúc hay nói
cách khác là hai mô hình phát triển. Đó là, “Quốc gia nông nghiệp”và “Quốc gia
thương nghiệp”. Phần lớn những “Quốc gia nông nghiệp”được hình thành ở vùng
Đông Nam Á lục địa, ở miền trung hay hạ lưu của các dòng sông. Trong khi đó, các
“Quốc gia thương nghiệp”đều hình thành ở vùng hải đảo, hoặc những khu vực ven
biển. Đây là nơi có vị trí giao thương thuận tiện và cũng không quá xa cách các
“Quốc gia nông nghiệp”. Thực tế lịch sử cũng chứng minh rằng, các quốc gia thuộc
hai mô hình phát triển này không tồn tại biệt lập mà luôn có mối quan hệ mật thiết,
tác động, tương hỗ với nhau. Những “Quốc gia nông nghiệp”cung cấp nông phẩm
cùng các mặt hàng xuất khẩu cho “Quốc gia thương nghiệp”. Ngược lại, “Quốc gia
thương nghiệp”có chức năng tiêu thụ các nguồn nông phẩm và cung cấp trở lại
những sản phẩm thủ công, nguyên liệu và nhiều chế phẩm xa xỉ khác từ thị trường
khu vực và thế giới.
Với tư cách là một vương quốc hình thành ở vùng eo biển có vị trí giao th-
ương quan trọng nhất của châu Á, quan hệ thương mại của Malacca - Một thế chế
biển, với nhiều quốc gia nông nghiệp Đông Nam Á là bằng chứng điển hình về mối
liên kết giữa hai loại hình Nhà nước nông nghiệp và Nhà nước thương nghiệp. Điều
đáng chú ý là, đặc tính nông nghiệp hay thương nghiệp của các mô hình nhà nước
nêu trên chỉ là cái nhìn tổng quát. Thực ra, kinh tế nông nghiệp hay thương nghiệp
không bao giờ giữ vai trò độc tôn trong các xã hội Đông Nam Á nói riêng và châu Á
nói chung. Hơn thế nữa, trong mỗi mô hình phát triển, ở những giai đoạn lịch sử
nhất định, do nhiều nguyên nhân và tác động của lịch sử, mà kinh tế nông nghiệp
hay thương nghiệp có thể giữ vai trò chủ đạo. Trong quá trình phát triển, vương
quốc Srivijaya trên đảo Sumatra được coi là một Thể chế biển điển hình của Đông
Nam Á. Kinh tế hải thương đóng vai trò nổi bật nhưng vương quốc này cũng luôn có
mối liên hệ mật thiết với các trung tâm nông nghiệp trên đảo Sumatra. Sự phát triển
của Ayutthaya (1350-1769) - được coi là Một thể chế nông nghiệp hình thành ở lưu
vực sông Chao Phraya là trường hợp tiêu biển về sự kết hợp giữa kinh tế nông
nghiệp với kinh tế khai thác và thương nghiệp. Do có vị trí địa lý thuận lợi, tiềm
năng kinh tế mạnh và chính sách năng động, Ayutthaya cũng đã tự mình trở thành
một cường quốc thương nghiệp ở Đông Nam Á. Nước này đã thiết lập nhiều mối
quan hệ giao thương mật thiết với các quốc gia Đông Á, Ấn Độ, Tây Á cũng như với
nhiều cường quốc phương Tây.
2. Thể chế chính trị và cấu trúc quyền lực
Không chỉ trong đời sống xã hội và văn hoá, thiết chế chính trị Đông Nam Á
cũng luôn thể hiện những dạng thức đặc thù của các Xã hội nông nghiệp. Trên cơ sở
sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa và một số nhân tố xã hội khác,
đến những thế kỷ trước sau Công nguyên, các vương quốc cổ đại đã từng bước hình
thành với chức năng chủ yếu là điều hành nền kinh tế canh tác lúa nước và xây
dựng, quản lý hệ thống thuỷ nông. Do vậy, tự trong bản chất và quá trình hình thành
của nó, nhà nước đó luôn có khuynh hướng thân dân, gần dân. Viết về vai trò và
chức năng quản lý của các quốc gia khu vực, nhà Đông Nam Á học nổi tiếng
Anthony Reid cho rằng, các nhà nước đó có đặc thù là “Nền quản trị đạo đức”(the
Moral authority)1414. Có thể gọi mô hình nhà nước đó là Nhà nước chức năng. Sự
xuất hiện của loại hình Nhà nước chức năng là một trong những nét đặc thù của lịch
sử và truyền thống chính trị Đông Nam Á.
Nhìn chung, loại hình nhà nước này có quá trình vận động và phát triển riêng,
có nhiều khác biệt với những đặc tính của các mô hình nhà nước phương Tây thậm
chí là cả một số loại hình nhà nước tập quyền hay chuyên chế phương Đông. Cụ thể
hơn, trên phương diện chính trị - xã hội, một trong những chức năng chủ yếu của
các nhà nước Đông Nam Á là xử lý mối quan hệ giữa trung ương với địa phương,
giữa sự tập trung quyền lực và duy trì các lợi ích cố hữu của địa phương, công xã .
1
14 James Scott: The Moral Economy of Peasent: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia, Yale University Press, 1977; Anthony Reid and David Marr: Perceptions of The Past in Southeast Asia, Australian National University, Canberra, 1979.
Có thể coi đây là mối quan hệ lưỡng hợp. Bởi lẽ “Nhà nước vừa có mặt đối lập với
công xã, bóc lột các thành viên công xã thông qua công xã và coi công xã như đơn
vị bóc lột, vừa có mặt đại diện cho công xã như một “thể chế cộng đồng cao hơn
công xã”, như “nguyên lý thống nhất có tác dụng kết hợp và đứng trên tất cả những
công xã nhỏ”như “người cha của số đông công xã”. Mối quan hệ vừa liên kết vừa
đối lập đó luôn được thắt chặt thêm trong yêu cầu chống ngoại xâm và chống thiên
tai”15. Nếu so sánh, có thể coi mô hình nhà nước phương Tây là Nhà nước thống trị,
ra đời từ kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội, sự phân lập về địa vị kinh tế giữa
các giai cấp và mâu thuẫn giai cấp đã đến mức gay gắt. Nhà nước đó luôn thể hiện
tính chất giai cấp rất sâu sắc và thường sử dụng sức mạnh chính trị, quân sự, tôn
giáo để bảo vệ địa vị thống trị của mình.
Trong những điều kiện lịch sử và xã hội riêng biệt, sự hình thành và phát
triển của các quốc gia Đông Nam Á vừa là kết quả của một quá trình vận động,
chuyển hóa lâu dài của những nhân tố nội sinh, động lực nội tại vừa chịu tác động và
chủ động đón nhận những ảnh hưởng từ những dòng văn hoá, trung tâm văn minh
lớn bên ngoài. Do sự gần gũi về vị trí địa lý, lại nằm ở nơi giao tiếp giữa hai trung
tâm văn minh lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, ngay từ thời lập quốc các quốc gia Đông
Nam Á vừa chịu ảnh hưởng vừa chủ động, tích cực đón nhận nhiều giá trị và thành
tựu tiêu biểu của các nền văn minh này. Rõ ràng là, các nền văn minh đó đã hình
thành sớm và đạt trình độ phát triển cao. Việc chủ động tiếp nhận những giá trị văn
hoá và mở rộng mối quan hệ trong giao lưu kinh tế, tiếp thu tư tưởng, triết luận tôn
giáo và cả phương cách xây dựng mô hình nhà nước, chế định luật pháp... là những
minh chứng đầy sức thuyết phục cho thấy bản lĩnh, bản tính năng động và năng lực
tiếp nhận các giá trị văn hoá tiêu biểu của các quốc gia Đông Nam Á.
Trong lịch sử, nhiều vương quốc cổ Đông Nam Á đã tiếp thu tinh thần và
nguyên tắc biên soạn luật pháp của “Thiên Trúc”(Ấn Độ). Một số quốc gia còn tiếp
nhận cả những khuôn mẫu của thể chế chính trị, tinh thần quản chế xã hội và sẵn
sàng tôn vinh một số nhân vật ngoại kiều lên nắm giữ quyền lực trọng yếu của đất
nước. Xã hội càng phát triển, ảnh hưởng của nhà nước càng mạnh, quan hệ xã hội
15 Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Tập II, Nxb. Thế Giới, H., 1999, tr.47. Các ý dẫn trong ngoặc là luận điểm của K.Marx trong tác phẩm: Những hình thái có trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; trong: Bàn về các xã hội tiền tư bản, Nxb. Khoa học xã hội, H., 1975, tr.74.
càng phân hóa và trở nên phức tạp thì nhu cầu hướng đến một thiết chế hợp chỉnh,
những bộ luật hoàn thiện càng mạnh mẽ. Điều đáng chú ý là, mặc dù luôn được coi
là quy định chung cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội hay “Luật quốc gia”nhưng
nhìn chung các bộ luật (hay luật tục) truyền thống của Đông Nam Á đều luôn chú ý
đến việc bảo vệ những lợi ích, đặc quyền của giai cấp thống trị hay các thế lực tôn
giáo. Những điều khoản về việc bảo vệ tài sản, về quyền lực đối với nô lệ được đặc
biệt coi trọng. Hiển nhiên, cũng giống như nhiều bộ luật nổi tiếng trên thế giới,
những tầng lớp xã hội bên dưới, những “kẻ tiện dân”nếu vi phạm luật pháp thì đều
bị trừng phạt vô cùng hà khắc. Nói cách khác, cũng như chính trị, quân sự… luật
pháp luôn là công cụ của kẻ mạnh và bảo về lợi ích của những người quyền thế16.
Trong cuộc giao hòa giữa các xu thế phát triển và thích ứng văn hóa đó, điều
có thể khẳng định là, trên cơ sở những nền tảng văn hoá, xã hội đã đạt đến trình độ
phát triển nhất định mà các quốc gia Đông Nam Á mới có thể lĩnh hội và tiếp nhận
những giá trị văn hoá, tinh thần luật pháp, cách thức xây dựng thể chế nhà nước
cũng như tiếp thu các thiết chế xã hội từ bên ngoài. Những giá trị văn hóa nguồn cội
đó vốn đã được hình thành sớm và đạt trình độ phát triển nhất định trong diễn tiến
lịch sử Đông Nam Á. Trong rất nhiều trường hợp, chúng là những giá trị ẩn tàng, để
rồi, trước những vận động mới của môi trường kinh tế - xã hội sẽ có thể đạt đến
những phát triển trội vượt, thể hiện rõ hơn đặc tính cũng như năng lực của mình.
Trong quá trình tiếp nhận, chuyển giao và sáng tạo đó nhìn chung các quốc gia Đông
Nam Á đã không chối từ (non refuse) các giá trị văn hóa khác biệt, trội vượt từ bên
ngoài. Trong ý nghĩa đó, các giá trị văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Á... đã hòa
nhập và trở thành một bộ phận trong di sản văn hoá của Đông Nam Á. Những nhân
tố mang tính khu vực và quốc tế đó không chỉ làm phong phú, sâu sắc thêm các giá
trị văn hoá của mỗi dân tộc mà còn có ý nghĩa thúc đẩy tiến trình phát triển của các
quốc gia khu vực. Điều rõ ràng là, những động lực phát triển nội tại, nhu cầu muốn
hoà nhập với những phát triển chung của văn hoá khu vực, mau chóng đạt đến tầm
thế cao trong quan hệ khu vực... là nhu cầu tự thân đồng thời cũng là động lực mạnh
mẽ của không ít quốc gia Đông Nam Á.
16 Anthony Reid: Southeast Asia in the Age of Commerce 1450-1680, Vol. 1: The Land below the Winds, Yale University Press, 1988, p.121-146.
Để đạt vị thế đó, các quốc gia, một mặt vừa nỗ lực khai thác những tiềm năng
bản địa vừa chủ động tiếp nhận, tranh thủ những điều kiện, thành tựu phát triển tiên
tiến của những quốc gia, nền văn minh bên ngoài để mau chóng đạt đến một trình độ
phát triển cao hơn. Điều có thể thấy được là, quan hệ giữa các quốc gia Đông Nam
Á với các nền văn minh lớn không bao giờ là dòng chảy đơn tuyến. Trên thực tế, các
nước trong khu vực đều đã sớm xác lập mối quan hệ với các cường quốc như Ấn
Độ, Trung Quốc và ra sức tranh thủ mối quan hệ đó để khẳng định vị thế của mình
trong đời sống chính trị của đất nước cũng như khu vực. Nói cách khác, việc xác lập
được các mối quan hệ mật thiết với các đế chế, trung tâm văn minh lớn đã tạo nên
uy lực và vị thế cao, vững chắc cho các thể chế chính trị Đông Nam Á trong việc xử
lý các mối quan hệ khu vực cũng như các vấn đề trong nước. Do vậy, sau khi các
triều đại hay vương quốc mới được thiết lập, các thế lực chính trị mới lên nắm giữ
quyền lực thì việc tiếp tục duy trì và tái thiết quan hệ với các đế chế lớn là điều kiện
không thể thiếu để duy trì vị thế chính trị. Trong lịch sử, vào thời cổ trung đại, nhiều
quốc gia Đông Nam Á trong đó kể cả những Đế chế khu vực (Regional empires)
như: Đại Việt, Champa, Phù Nam, Chân Lạp, Srivijaya, Majapahit, Ayutthaya... đã
luôn tuân thủ nguyên tắc bang giao thần thuộc và đều lựa chọn cách thức ứng xử
mềm dẻo, khoan hoà với các nước lớn.
Trong quá trình hình thành và phát triển, so với các xã hội khác ở phương
Đông như Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc (nơi các nhà nước sơ khai đều được hình
thành từ Thiên niên kỷ thứ IV-III TCN) thì về mặt thời gian các quốc gia Đông Nam
Á đều ra đời tương đối muộn. Trừ một số trường hợp đặc biệt, tại một số vùng và
khu vực lãnh thổ đã sớm hình thành những nhân tố cho sự ra đời của nhà nước sớm
còn nhìn chung phải đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên các nhà nước cổ đại
Đông Nam Á mới lần lượt ra đời. Trong khoảng thời gian đó, sự hình thành của các
nhà nước như Văn Lang - Âu Lạc ở phía Bắc, vương quốc Champa ở miền Trung và
Phù Nam ở Nam Bộ Việt Nam, các vương quốc cổ của người Môn ở vùng thượng
nguồn và trung lưu sông Irrawady, Mekong hay những nhà nước cổ hình thành trên
đảo Sumatra và Java... có thể coi là những dạng thức phát triển sớm của Đông Nam
Á. Sự ra đời của các vương quốc này, với những hoạt động kinh tế, văn hoá và ảnh
hưởng chính trị của nó không chỉ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo dựng
nền tảng cho sự hình, phát triển của nhiều quốc gia Đông Nam Á ở giai đoạn sau mà
còn đặt những cơ sở thiết yếu cho sự hình thành đặc tính lịch sử và nguyên tắc căn
bản trong quan hệ bang giao giữa các quốc gia trong khu vực nhiều thế kỷ sau đó.
Từ một cái nhìn so sánh và dựa trên phương pháp nghiên cứu khu vực... có
thể thấy trong tiến trình lịch sử Đông Nam Á, trừ một số trường hợp ngoại lệ, các
quốc gia Đông Nam Á thường được hình thành trên những không gian tương đối
nhỏ hẹp. Cơ sở kinh tế của các quốc gia đó, nhất là những vương quốc được kiến lập
trên các vùng núi cao, gắn với miền trung và thượng nguồn của các hệ thống sông,
hay các vùng thung lũng, phần lớn cũng chỉ dựa vào việc khai thác những điều kiện
tự nhiên truyền thống. Do vậy, vì nhiều nguyên nhân tự nhiên cũng như xã hội,
những tác động khách quan và chủ quan, các nhà nước sớm ở Đông Nam Á hầu hết
là những nhà nước nhỏ. Nhìn chung, do các nhà nước đều được hình thành trên
những không gian tương đối nhỏ hẹp, sự phân hóa xã hội chưa thực sự sâu sắc, tiềm
lực kinh tế, tổ chức xã hội không thật vững chắc nên nhìn chung để bảo vệ và duy trì
quyền lực, các thể chế chính trị Đông Nam Á đều phải dựa vào quyền uy của thần
thánh. Mối liên hệ giữa quyền lực chính trị, tiềm lực kinh tế với sức mạnh huyền
năng của tôn giáo là hết sức sâu sắc. Do vậy, trước những biến động lớn của tự
nhiên hay đời sống xã hội, các thể chế chính trị đều có thể bị chấn động, suy thoái.
Trong lịch sử, các thể chế chính trị Đông Nam Á luôn có tính di biến động cao và
rất dễ bị tổn thương trước những tác động của điều kiện chính trị, xã hội trong
nước, khu vực. Có thể coi đó là một trong những đặc tính chung, tiêu biểu trong quá
trình hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam Á thời cổ trung đại.
Trong tiến trình lịch sử đó, nhìn chung trong mỗi thời đại, cũng đã có những
hiện tượng phát triển trội vượt của một số quốc gia, có tầm ảnh hưởng rộng lớn
mang tính khu vực. Có thể gọi đó là các Đế chế khu vực (Regional impires) như
hiện tượng Phù Nam trong các thế kỷ II-VII1717, Angkor thế kỷ VIII-XIII, Srivijaya
thế kỷ VI-XIII, Majapahit thế kỷ XIII-XV... So với các Đế chế thế giới (World
empires), các Đế chế khu vực có phạm vi lãnh thổ và mức độ ảnh hưởng hẹp hơn
nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, giao lưu
1
17 Phan Huy Lê: Thử nhận diện nước Phù Nam qua tư liệu thư tịch và khảo cổ học, trong: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Văn hóa Óc Eo & Vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế Giới, 2008, tr. 229-246; Lương Ninh: Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và văn hóa, Viện Văn hóa – Nxb. Văn hóa Thông tin, H., 2005.
văn hóa… với các quốc gia trong cùng một tiểu vùng bởi những tác động thường
xuyên và trực tiếp. Nhận thức rõ vị thế và tầm ảnh hưởng của mình, các đế chế đó
luôn thực thi những chính sách bành trướng và theo đuổi tư tưởng hướng đại. Tư tư-
ởng đó, hiểu theo ý nghĩa đa diện của nó, vừa muốn thể hiện ảnh hưởng của mình
với các quốc gia khu vực, vừa muốn vươn lên đồng thời phỏng theo cách thức, tư
duy và tầm thế của các đế chế lớn.
Trên thực tế, trong rất nhiều trường hợp, chính sách hướng đại đó của một số
quốc gia Đông Nam Á còn là biện pháp hữu hiệu nhất để tự bảo vệ mình. Mặt khác,
việc thực hiện một chính sách áp chế, nô dịch với các thuộc quốc và các quốc gia
chịu ảnh hưởng, trong những thời điểm lịch sử nhất định, đã nâng tầm thế chính trị
và đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho các cường quốc khu vực. Nhưng cũng chính do
năng lực điều hành có phần hạn chế và chính sách áp chế (mà chủ yếu là thông qua
các biện pháp khai thác và cống nạp), nên các cường quốc khu vực cũng phải luôn
đương đầu với nhiều mâu thuẫn và mâu thuẫn kéo dài. Chính tình trạng mâu thuẫn
này, cùng với những suy yếu, bất cập bên trong, đã là những nguyên nhân chính yếu
dẫn đến sự suy thoái thậm chí sụp đổ của nhiều cường quốc. Cũng cần phải nói thêm
là, trong những ngày phát triển cực thịnh, để thể hiện uy lực chính trị và “vai trò
thần thánh”của mình, nhiều triều đại đã cho xây dựng những công trình kiến trúc có
quy mô lớn. Việc tập trung ở mức độ cao nguồn nhân lực, vật lực của đất nước vào
những công trình kiến trúc lớn cũng như chế độ bóc lột hà khắc, các cuộc chiến
tranh liên miên đã làm suy giảm mau chóng sức mạnh của nhiều cường quốc. Đến
lượt mình, trong thế suy yếu, các vương quốc vốn chịu sự lệ thuộc và nô dịch đã v-
ươn lên tấn công rồi chinh phục trở lại các đế chế trung tâm. Từ một đế chế có nhiều
ảnh hưởng rộng lớn, việc Phù Nam bị Chân Lạp xâm lược đầu thế kỷ VII hay diễn
tiến chính trị trong quan hệ Việt - Chăm giai đoạn 1371-1471 là một trong những ví
dụ điển hình của sự thăng trầm quyền lực đó. Đến thời trung đại, việc vương quốc
Ayutthaya, một quốc gia cường thịnh ở Đông Nam Á bị quân Miến Điện chinh phục
và cuối cùng kinh đô Ayutthaya bị đốt phá năm 1769 hay sự chuyển giao quyền lực
giữa Srivijaya và Majapahit ở đảo Sumatra, Java thế kỷ XIII là những minh chứng
khác nữa về sự biến đổi vị thế chính trị giữa các quốc gia Đông Nam Á trong lịch
sử18.
Trước những biến đổi và thăng trầm quyền lực đó, từ thế kỷ VI-VII, ở vùng
trung lưu Mekong đã nổi lên vương quốc Chân Lạp của người Khmer. Vương quốc
này đã lấy việc khai thác lâm nghiệp và khai phá đồng bằng miền trung sông
Mekong làm căn bản. Từ thế kỷ VII, Chân Lạp đã mở rộng ảnh hưởng của mình ra
một vùng rộng lớn ở tây nam Đông Nam Á lục địa. Dựa vào nền tảng kinh tế nông
nghiệp, được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng Phật giáo hoà trộn với những yếu tố Bà La
Môn giáo và cả Hindu giáo... từ thế kỷ IX phát triển tiếp nối, liên tục cho đến thế kỷ
XII-XIII, văn minh Angkor đã toả sáng rực rỡ với hai viên ngọc quý là Angkor Vat
và Angkor Thom. Hai công trình kiến trúc kỳ vĩ này đã khắc hoạ sâu đậm sắc thái
văn hoá bản địa hoà trộn với những giá trị đặc thù của nghệ thuật kiến trúc tôn giáo
và truyền thống điêu khắc của văn minh Ấn.
Ở vùng biển phương Nam, trên đảo Java và Sumatra, từ những thế kỷ đầu
Công nguyên cũng đã dần hình thành một số tiểu quốc mà chủ nhân là người Mã Lai
- Đa đảo (Malayu - Polinesians). Vào thế kỷ VI, quá trình thống nhất các tiểu quốc
đồng thời là các nhà nước sơ khai trên các đảo phương Nam diễn ra hết sức mạnh
mẽ. Hệ quả lớn nhất có thể thấy được là, vào thế kỷ VII-VIII, ở Java và Sumatra đã
xuất hiện các vương quốc có nhiều ảnh hưởng với khu vực như Srivijaya, Sailendra.
Cư dân Java nổi tiếng là những người đi biển giỏi, có kỹ thuật đóng thuyền đạt trình
độ cao đồng thời cũng sớm thiết lập mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á lục
địa19. Họ cũng chính là những kiến trúc sư và nghệ nhân tài hoa xây dựng nên công
trình kiến trúc tôn giáo Borobudur kỳ vĩ ở đồng bằng Kedu vào giữa thế kỷ VIII20
18 D.R. SarDesai: Southeast Asia - Past & Present, Westview Press, 2003, p. 43-50. Xem Nguyễn Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.
19 Nguồn tư liệu sớm nhất của nước ta viết về quan hệ với các quốc gia trong khu vực là Đại Việt sử ký toàn thư. Năm 1149, thời vua Lý Anh Tông (1136-1175): “Mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”, Toàn thư, Sđd, Tập I, tr.317. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử thương mại châu Á, chúng tôi cho rằng năm 1149 không thể là lần đầu tiên thuyền buôn từ Đông Nam Á trong đó có Java mới đến giao thương với Đại Việt.
20 Kenneth R. Hall: Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, 1985, p.109.
Phác dựng lại những diễn tiến lịch sử, diện mạo chính trị Đông Nam Á qua
trường hợp một số quốc gia điển hình ở Đông Nam Á để từ đó thấy rõ: cho đến thế
kỷ thứ X, do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội khác biệt, ở Đông Nam Á
đã sớm hình thành những nền văn hoá và một số vương quốc có tầm ảnh hưởng t-
ương đối rộng lớn. Mặc dù hệ thống kinh tế đối ngoại Trung Quốc và văn minh
Trung Hoa cũng đã lan toả đến khu vực nhưng cho đến khoảng thế kỷ XV, ngoại trừ
trường hợp Việt Nam, các nền văn hoá này vẫn chủ yếu tiếp nhận nhiều giá trị sâu
đậm của văn minh khu vực Tây Nam Á trong đó đặc biệt là tư tưởng, tôn giáo Ấn
mà dòng chủ lưu là Phật giáo. Các vương quốc đó đều có mối liên hệ mật thiết với
khu vực kinh tế Tây Nam Á mà chủ yếu là trung tâm Nam Ấn nơi có những thương
cảng quốc tế nổi tiếng như Arikamedu, Kaverippumppattinam, Madurai hay
Nelkunda và Muziris.
Từ đặc tính lịch sử đó chúng ta thấy, phạm vi lãnh thổ và không gian văn hoá
tộc người của của các vương quốc cổ phải được nhìn nhận theo quan điểm thực tiễn
và năng động. Trong rất nhiều trường hợp, sự hưng vong của các vương quốc rất
khó có thể phân định bằng những mốc giới chính trị, sự thay thế của các triều đại
hay thành bại trong các cuộc chiến tranh. Từ những nghiên cứu thực địa mà chủ yếu
là các kết quả khảo cổ học, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu chủ trương rằng ở đồng
bằng sông Cửu Long thực sự có một giai đoạn “Hậu Phù Nam”. Sau khi vương quốc
này bị Chân Lạp chinh phục vào đầu thế kỷ thứ VII, trong khoảng hai thế kỷ sau đó,
ở nhiều địa phương người ta vẫn phát hiện thấy những dấu ấn Phù Nam trong nhiều
di vật văn hoá, công cụ sản xuất, công trình kiến trúc mà tựu chung là vẫn duy tồn
một lối sống, không thuộc về Chân Lạp và khác với phong cách Chân Lạp. Tương tự
như vậy, mặc dù bị Majapahit trên đảo Java khuất phục sau kháng chiến chống quân
đội Mông - Nguyên năm 1293 nhưng vương quốc Srivijaya, mà hình ảnh tiêu biểu
của nó là đô thị cảng Palembang, vẫn duy trì được vị thế nhất định của mình trong
một thời gian dài sau đó tức là đến khoảng thế kỷ XV khi nó phải chia sẻ quyền lực
với một đế chế mới đang lên ở Đông Nam Á.
Cũng có thể thấy, ở Đông Nam Á, do cùng có chung một môi trường sống và
nguồn gốc tộc người, lại được củng cố thêm bằng những yếu tố tâm linh, tôn giáo
mà tính di biến động của các quốc gia và giữa các tiểu quốc trong cùng một vương
quốc là rất cao. Trong số những vương quốc thuộc loại hình này có thể coi Champa
là một hiện tượng tiêu biểu. Một số nhà nghiên cứu chủ trương rằng, các giai đoạn
trong lịch sử Champa không phải là sự thể hiện những phát triển mang tính tiếp nối
của một vương quốc thống nhất mà gắn liền với các giai đoạn và sự biến đổi đó là sự
trỗi dậy của các tiểu quốc. Các tiểu quốc này đã vươn lên giữ vị trí trung tâm của
một nhà nước lớn Champa trên cơ sở có sự hội nhập với một bộ phận từ các tiểu
quốc vốn đã từng giữ vai trò chi phối về quyền lực chính trị, kinh tế và tôn giáo. Một
số nhà nghiên cứu cho rằng đặc tính đó thể hiện khá rõ mối liên kết lỏng lẻo giữa
các tiểu quốc hay còn gọi là các mandala. Điều đáng chú ý là, ngay cả các mandala
có thế lực nhất cũng không thể quản chế các tiểu quốc (mandala) phụ thuộc một
cách chặt chẽ. Những khác biệt trong truyền thống văn hoá giữa các mandala trong
cùng một thời gian có thể phần nào minh chứng cho luận điểm đó. Sự tồn tại đồng
thời nhiều quốc gia trên cùng một khu vực lãnh thổ như trường hợp Champa và
Srivijaya, được ghi nhận trong các nguồn sử liệu Trung Quốc và tư liệu khảo cổ học
có thể góp thêm những luận cứ cho quan điểm này2121.
Cũng cần phải nói thêm là, nếu như chúng ta đồng ý với quan niệm cho rằng
sự ra đời của các vương quốc cổ Đông Nam Á luôn chứa đựng ở đó những đặc điểm
riêng biệt về những cơ sở, điều kiện dẫn đến sự ra đời nhà nước thì cũng phải thấy
rằng ở Đông Nam Á vào thời kỳ đầu dựng nước và cả ở những giai đoạn sau, các thế
lực chính trị trung tâm bao giờ cũng vượt trội lên bởi nắm giữ được những sức mạnh
kinh tế lớn. Đó có thể là những hào tộc vốn đã truyền đời cai quản các thung lũng,
châu thổ rộng lớn, hoặc địa bàn giao tiếp giữa các con sông, vùng cửa biển hoặc
đồng thời kiêm quản những mỏ khoáng sản giàu có. Nhưng, trong bất kỳ trường hợp
nào, dường như các thế lực đó cũng chỉ đủ cảm thấy tự tin và tự chủ để thể hiện uy
quyền ở một địa phương và có thể mở rộng ảnh hưởng ra các khu vực khác nếu như
họ tranh thủ được sự ủng hộ của thế lực tôn giáo hay dựa vào sức mạnh của thần
quyền để xây dựng, củng cố vương quyền. Tôn giáo đã đem lại cho các thủ lĩnh
quyền năng thần thánh (God powers) và thông qua các hoạt động tôn giáo cũng như
hàng loạt các phép ma thuật (magic) để duy trì uy thế chính trị trội vượt so với 2
21 Tham khảo thêm Charles Higham: The Archaeology of Mainland Southeast Asia from 10,000 B.C to the Fall of Angkor, Cambridge University Press, 1991, p. 239-353. Xem thêm: Lương thư, Tuỳ thư... tư liệu đã dẫn, Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG HN.
những thế lực chính trị khác đồng thời thông quá đó để áp chế toàn thể cộng đồng.
Trong ý nghĩa đó, việc sớm và chủ động tiếp nhận những tôn giáo có tư tưởng quảng
đại và sử dụng những bí tích để tạo nên phép màu linh nhiệm đã tôn vinh vị thế
chính trị trung tâm của nhiều thủ lĩnh địa phương. Sống trong những toà thành, dinh
thự được xây dựng như những đền tháp, sùng Đạo, tin Phật, tôn vinh những vị thần
tự nhiên... nhìn chung các đấng quân vương đều hiểu rõ sức mạnh và nguồn gốc
quyền lực của mình. Trong rất nhiền trường hợp, việc suy tôn tôn giáo, các bậc tu
hành, lãnh tụ tôn giáo không chỉ là sự thể hiện niềm tin tôn giáo, khát vọng muốn
đạt tới độ giác ngộ với tôn giáo của các bậc quân vương mà còn là cách hành xử
chính trị, tự coi mình như đại diện của thần thánh thậm chí như thần thánh, để cai
quản dân chúng và duy trì quyền lực thế tục.
Do vậy, cùng với đặc tính di biến động cao thì sự hình thành, phát triển của
các quốc gia Đông Nam Á còn có vai trò rất quan trọng của tôn giáo. Trong rất
nhiều trường hợp, các thế lực chính trị trung tâm không hẳn đã là những đại diện
tiêu biểu của một giai cấp, một thể chế hay một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Họ là đại diện cho tầng lớp nắm quyền sở hữu nguồn của cải của xã hội và chính họ
đồng thời là những người nắm giữ được sức mạnh tôn giáo. Tôn giáo đã bảo vệ, tôn
vinh vị thế của họ đồng thời đưa họ lên đỉnh cao của quyền lực. Nhận thức về bản
chất lịch sử của các nhà nước cổ Đông Nam Á, học giả nổi tiếng O.W.Wolters gọi
đó là các mandala22. Theo quan điểm của chúng tôi, lý thuyết mandala là một trong
những chìa khoá để nhận thức, khảo cứu về sự hình thành, phát triển của các vương
quốc cổ Đông Nam Á cũng như vai trò và đặc tính của lịch sử, văn hoá của các quốc
gia khu vực21.23
Tuy chịu ảnh hưởng sớm của văn minh và thể chế chính trị Trung Quốc, Ấn
Độ nhưng thiết chế xã hội nông thôn Đông Nam Á có nhiều đặc tính hoàn toàn khác
biệt với kiểu xã hội nông nghiệp cổ truyền Trung Hoa và Ấn Độ. Các công xã nông
22 O.W.Wolters: History, Culture and Religion in Southeast Asian Perspectives, Cornell University, Ithaca - New York, 1999, p. 16 - 20. Tham khảo thêm Yamamoto Tatsuro: Myths Explaining the Vicisstudes of Political Power in Ancient Vietnam, Acta Asiatica, No. 18, 1970, p.70-94; Peter Grave: Beyond the Mandala: Buddhist Landscapes and Upland-Lowland Interaction in North-West Thailand AD 1200-1650, JSTOR, World Archaeology, Vol.27, No.2, October, 1995, p.243-265.
2
23 Nguyễn Văn Kim: Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (386), 2008, tr.25-39.
thôn Ấn Độ (desa) luôn là những thực thể khép kín, biệt lập và chịu áp chế mạnh
của Bà La Môn giáo cùng sự hà khắc của chế độ đẳng cấp Varna. Thiết chế xã hội
nông nghiệp cổ truyền Đông Nam Á tuy có phần chặt chẽ nhưng vẫn có những
không gian thoáng mở cho các sinh hoạt mang tính cộng đồng, cho sự liên kết làng
và mối liên hệ liên làng, siêu làng24. Điều có thể thấy được là, mỗi khi chủ quyền
dân tộc bị thách thức, cần tập hợp sức mạnh của toàn thể cộng đồng thì các cấu trúc
làng tưởng như đơn biệt ấy có thể dễ dàng hoà nhập với cộng đồng chung thống nhất
để tạo nên sức mạnh của toàn thể dân tộc. Trong môi trường xã hội của các làng
(hay thôn, bản, phum, soóc)... các giá trị văn hoá cổ truyền dân tộc cùng những kinh
nghiệm sống, ứng xử với tự nhiên, xã hội, các phong tục, tập quán... cũng được bảo
tồn lâu dài và bền vững nhất. Cấu trúc văn hoá làng (được hiểu như một khái niệm
mang tính đại diện) với tất cả những sinh hoạt kinh tế, quan hệ xã hội, đời sống tâm
linh... đã được thể hiện trong các hoạt động đa dạng qua những thực thể nhỏ (vi mô)
của một chỉnh thể rộng lớn (vĩ mô) là một khu vực hay cả nước. Hiểu theo một ý
nghĩa nào đó, làng là một bộ phận hợp thành của cấu trúc lớn (vùng, vương quốc...).
Qua sự vận hành các sinh hoạt cộng đồng và thiết chế làng xã có thể thấy một phần
hình ảnh của nước (vương quốc). Trải qua thời gian, làng (buôn, phum, soóc...) dư-
ờng như ít biến đổi nhưng sự biến đổi của cấu trúc lớn luôn có tác động không nhỏ
đến đời sống xã hội cũng như số phận của làng.
24 Hà Văn Tấn: Làng, Liên làng và Siêu làng - Mấy suy nghĩ về phương pháp; trong: Đến với lịch sử, văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr. 31-40