Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
164 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
ẢNH HƯỞNG THỨC ĂN ĐẾN TỶ LỆ SỐNG VÀ TỐC ĐÔ TĂNG TRƯỞNG VỀ CHIỀU DÀI CÁ GÁY BIỂN Lethrinus nebulosus
(Forsskål, 1775) GIAI ĐOẠN MỚI NỞ ĐẾN 10 NGÀY TUỔI TẠI KHÁNH HÒA
EFFECT OF DIFFERENT FEED INGREDIENTS ON THE GROWTH OF LENGTH, SURVIVAL RATE OF SPANGLED EMPEROR Lethrinus nebulosus (Forsskål, 1775)
FROM NEWLY HATCHED TO 10 DAY-OLDS IN KHANH HOA PROVINCE
Đào Mai Quốc Việt1, Lê Thị Như Phượng2, Nguyễn Hữu Dũng3 Ngày nhận bài: 03/12/2014; Ngày phản biện thông qua: 19/5/2015; Ngày duyệt đăng: 15/9/2015
TÓM TẮTTrong nghiên cứu này, 3 công thức thức ăn (CT1: Cho ăn luân trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ trong thời gian từ
ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10; CT2: Cho ăn trứng hàu trong thời gian từ 2 đến 10 ngày tuổi, từ ngày tuổi thứ 6 cho ăn thêm luân trùng siêu nhỏ; CT3: Cho ăn kết hợp trứng hàu, luân trùng siêu nhỏ, luân trùng nhỏ trong thời gian từ ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10) được thử nghiệm nhằm tìm ra công thức thức ăn thích hợp để ương nuôi cá gáy biển giai đoạn mới nơ đến 10 ngày tuổi. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, ty lệ sống của cá gáy biển sau 10 ngày ương đạt cao nhất ơ nghiệm thức CT2 (15,5 ± 0,62%), tiếp theo là nghiệm thức CT3 (6,4 ± 0,43%), thấp nhất ơ nghiệm thức CT1 (0%) (p<0,05). Sự khác biệt về các chỉ tiêu kích thước, tốc đô sinh trương trung bình ngày (DLG), tốc đô sinh trương đặc trưng (SGR) ơ nghiệm thức CT2 và CT3 là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Từ nghiên cứu này có thể nhận thấy, công thức thức ăn thích hợp cho ương ấu trùng cá gáy biển là CT2 nhằm đảm bảo tốc đô sinh trương cũng như ty lệ sống tốt nhất.
Từ khóa: cá gáy biển, ấu trùng, thức ăn, ty lệ sống
ABSTRACTIn this study, three food recipes (CT1: The larvae were fed with super small rotifers and small rotifers in the period
from 2 to 10 day-olds; CT2: The larvae were fed with oyster’s eggs during the period from 2 to 10 day after hatching, adding super small rotifers at stage from 6 to 10 day-olds; CT3: The larvae were fed with oyster’s eggs, super small rotifers and small rotifers during the period from 2 to 10 day-olds) were experimented in order to identify a suitable food recipes for rearing spangled emperor from the stages of neonatal to 10 day. Results showed that survival rate of the spangled emperor gained highest at the formula of CT2 (15,5 ± 0,62%), followed by the formula of CT3 (6,4 ± 0,43%); lowest at the formula of the CT1 (0%) (p < 0.05). There was no significant difference about the criteria size, the day length growth (DLG), specific growth rate (SGR) between the formula of CT2 and CT3 (p > 0.05). From the results of this study, it can be suggested that the appropriate formula for rearing the spangled emperor was CT2 in order to optimize the growth and survival rate.
Keywords: spangled emperor, growth rate, survival rate, food
1 Đào Mai Quốc Viêt: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2011 – Trường Đại học Nha Trang2 KS. Lê Thị Như Phượng: Doanh nghiêp tư nhân Phượng Hải3 TS. Nguyễn Hữu Dũng: Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀCá gáy biển Lethrinus nebulosus (Forsskål,
1775) phân bố từ Ấn Đô Dương đến Tây Thái Bình Dương trải dài từ Biển Đỏ, Vịnh Ba Tư và Đông Phi
tới miền nam Nhật Bản và Samoa. Sống ở rạn san hô, đầm phá san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, vùng biển đáy cát và các khu vực đá ven biển, nơi có đô sâu từ 10 đến 75m. Các cá thể cá con
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 165
sống tập trung thành quần thể lớn ở vùng đáy cát
có mực nước nông, trong thảm cỏ biển ở bến cảng,
rừng tảo hoặc mảng bọt biển; khi trưởng thành
thường sống đơn lẻ hoặc tập trung thành các nhóm
nhỏ. Ăn đông vật da gai, đông vật thân mềm, đông
vật giáp xác, giun nhiều tơ và cá. Trong quá trình
sinh trưởng có thể có sự chuyển đổi giới tính. Có thể
sống môt thời gian dài ở đô mặn 10‰ do đó có tiềm
năng trở thành môt loài nuôi trồng thủy sản ở vùng
cửa sông. Chiều dài cá thể lớn nhất từng đánh bắt
được là 87cm, bình quân 70cm, khối lượng lớn nhất
từng được công bố là 8,4kg [3].
Ở Viêt Nam, đây là loài cá được nhiều người
ưa thích, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chất
lượng thịt thơm ngon, sử dụng tốt thức ăn công
nghiêp, tốc đô sinh trưởng nhanh, thích hợp cho
nuôi lồng bè trên biển và nuôi trong các ao đầm
nước mặn lợ.
Viêc phát triển nuôi cá gáy biển ở các vùng
ven biển sẽ khai thác được tiềm năng mặt nước,
mở rông đối tượng nuôi có giá trị kinh tế, đa dạng
hoá đối tượng nuôi, tạo công ăn viêc làm và tăng
thu nhập cho người dân vùng ven biển. Trên cơ
sở đó góp phần phát triển nghề nuôi cá biển cũng
như phát triển thủy sản ngày càng ổn định và
bền vững.
Từ thực tế nêu trên, tại Khánh Hòa, trong 02
năm 2012 và 2013, Doanh nghiêp tư nhân Phượng
Hải kết hợp với Trung tâm nghiên cứu Giống và Dịch
bênh thủy sản, Trường Đại học Nha Trang thực hiên
đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Hoàn thiên và
chuyển giao quy trình sản xuất giống nhân tạo cá
gáy biển (Lethrinus nebulosus Forsskål, 1775) tại
Khánh Hòa”.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu và phương pháp bố trí thí nghiệmNghiên cứu được thực hiên tại Trung tâm
nghiên cứu Giống và Dịch bênh thủy sản, Trường
Đại học Nha Trang, từ tháng 8/2012 đến tháng
4/2013 trên đối tượng là ấu trùng cá gáy biển
Lethrinus nebulosus (Forsskål, 1775).
Nguồn ấu trùng cá thí nghiêm: Cá gáy biển bố
mẹ được nuôi vỗ tại bè Công ty Thủy sản Hoằng Ky,
Vũng Ngán, Tp. Nha Trang, khi cá thành thục sinh
dục tiến hành tiêm kích dục tố và cho đẻ tại bè, sau
đó trứng cá được đóng trong túi nilon bơm oxy và
vận chuyển về Trung tâm nghiên cứu Giống và Dịch
bênh thủy sản, Trường Đại học Nha Trang. Tại đây,
trứng cá được lắng lọc trứng hư và vớt trứng tốt nổi
trên mặt để bố trí thí nghiêm. Mật đô ấu trùng cá thí
nghiêm là 50 cá thể/lít.
Thức ăn cho ấu trùng cá gáy biển: Thức ăn
không những phải đảm bảo chất lượng, đầy đủ dinh
dưỡng mà còn phải phù hợp với cỡ miêng ấu trùng
cá. Sau khi tham khảo các công trình nghiên cứu
trước đây, 03 loại thức ăn được lựa chọn để ương
nuôi cá gáy biển giai đoạn còn nhỏ gồm: Luân trùng
siêu nhỏ (Brachionus rotundiformis), ky hiêu ssR,
được nuôi giống trong các xô nhựa thể tích 5 lít sau
đó ương ra các bể 200 lít, thức ăn dùng để nuôi luân
trùng siêu nhỏ là tảo Nannochloropsis oculata. Luân
trùng nhỏ (Brachionus plicatilis), ky hiêu sR, được
nuôi trong bể 2 m3, hàng ngày cho ăn men bánh mì
và tảo. Trứng hàu, ky hiêu TH, được lấy từ tuyến
sinh dục của hàu Thái bình dương Crassostrea
gigas (Thunberg, 1793) [1, 2].
Nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần thức
ăn lên sinh trưởng và tỷ lê sống của ấu trùng cá gáy
biển được tiến hành ở 3 nghiêm thức tương ứng với
các công thức thức ăn và cách cho ăn sau:
- CT1: ssR2-10 + sR2-10 (1/2 + 1/2), cho ăn luân
trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ trong thời gian từ
ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10.
- CT2: TH2-10 + ssR6-10 (1/2 + 1/2), cho ăn trứng
hàu trong thời gian từ 2 đến 10 ngày tuổi, từ ngày
tuổi thứ 6 cho ăn thêm luân trùng siêu nhỏ.
- CT3: TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 (1/3 + 1/3 + 1/3),
cho ăn kết hợp trứng hàu, luân trùng siêu nhỏ, luân
trùng nhỏ trong thời gian từ ngày tuổi thứ 2 đến
ngày tuổi thứ 10.
Tất cả các nghiêm thức thí nghiêm được thực
hiên với 3 lần lặp cùng thời điểm.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
166 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Dụng cụ thí nghiêm: Thí nghiêm được bố trí trong bể composite 2m3. Nước được bơm vào bể qua túi lọc, thể tích nước thí nghiêm là 1m3. Mỗi bể thí nghiêm được bố trí 2 dây sục khí, chế đô sục khí nhẹ được duy trì trong suốt quá trình thí nghiêm.
Chăm sóc và theo dõi thí nghiêm: Ngày tuổi thứ 5 dùng ống siphon nhỏ để siphon đáy bể cá nhằm giảm bớt chất thải do thức ăn thừa và tảo tàn gây ra. Hàng ngày bổ sung thêm tảo Nannochloropsis oculata. Đo pH, nhiêt đô, DO, đô mặn 2 lần/ngày vào lúc 7h và 13h. Theo dõi tỷ lê sống ấu trùng cá vào ngày 5 và ngày 10 bằng cách dùng cốc thủy tinh thu mẫu tại 5 điểm tầng nước mặt và 5 điểm tầng nước giữa. Đo chiều dài ấu trùng cá ngày 1, ngày 5 và ngày 10 bằng kính hiển vi.
2. Phương pháp xử lý số liệu+ Đo kích thước ấu trùng cá L(mm): Chiều dài ấu trùng cá gáy biển được tính từ
mép trước miêng cá đến phần chót đuôi. Đo 30 con/bể và tính chiều dài trung bình. Dụng cụ đo là kính soi nổi có thước đo trên thị kính.
+ Tốc đô sinh trưởng trung bình ngày: DLG (mm/ngày) = (L1 – L0)/t L0 : Chiều dài ấu trùng cá lúc bắt đầu thí nghiêmL1 : Chiều dài ấu trùng cá lúc kết thúc thí nghiêmt : Thời gian thí nghiêm+ Tốc đô sinh trưởng đặc trưng:SGR (%/ngày) = (LnL1 – LnL0)x100/tL0 : Chiều dài ấu trùng cá lúc bắt đầu thí nghiêmL1 : Chiều dài ấu trùng cá lúc kết thúc thí nghiêmt : Thời gian thí nghiêm+ Tỷ lê sống: Xác định tỷ lê sống ấu trùng cá vào ngày 5 và
ngày 10.
Cách tính:(TLS) (%) = N1/N0 x 100 N0 : Số ấu trùng cá thí nghiêm ban đầuN1 : Số cá bôt thu được thời điểm thu mẫuCác số liêu được xử ly bằng phần mềm SPSS.
Toàn bô số liêu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình (TB) ± sai số chuẩn (SE).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng cá gáy biển sau 10 ngày ương nuôi
Thức ăn phù hợp cho cá con mới nở đóng vai trò quan trọng trong viêc ương giống cá gáy biển. Trong 03 công thức thức ăn đưa vào thí nghiêm thì công thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 và CT3: TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 đạt hiêu quả ương nuôi trong 10 ngày đầu, đối với công thức CT1: ssR2-10 + sR2-10, sau thời gian 4 ngày ương tỷ lê sống còn 0%. Qua theo dõi nhận thấy ấu trùng cá mới nở không ăn được luân trùng nhỏ và luân trùng siêu nhỏ, sau thời gian tiêu hết noãn hoàng cá hao hụt dần.
Sau 10 ngày ương, tỷ lê sống cao nhất ở CT2: TH2-10 + ssR6-10 (15,53 ± 0,62%), tiếp theo là CT3: TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 (6,37 ± 0,43%) và thấp nhất ở CT1: ssR2-10 + sR2-10 (0%), sự sai khác trên có y nghĩa thống kê (p<0,05; hình 1). Sự khác biêt về tỷ lê sống giữa CT2 và CT3 có thể là do số lượng trứng hàu đưa vào thí nghiêm trong thời gian đầu.
Qua thí nghiêm này cho thấy 02 công thức thức ăn có thành phần trứng hàu mang đến kết quả ương nuôi tốt hơn so với công thức còn lại. Để tránh ô nhiễm nước, duy trì nguồn thức ăn trong suốt
Bảng 1. Bảng thức ăn sử dụng trong thí nghiệm
Nghiệm thức
Ngày tuổi
ssR2-10 + sR2-10 TH2-10 + ssR6-10 TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10
ssR2-10 (ct/ml) sR2-10 (ct/ml) TH2-10 (tr/ml) ssR6-10 (ct/ml) TH2-10 (tr/ml) ssR2-10 (ct/ml) sR2-10 (ct/ml)
Ngày 0 - - - - - - -Ngày 1 - - - - - - -Ngày 2 1 2 3 - 1 1 1Ngày 3 1 3 4 - 2 1 1Ngày 4 1 4 5 - 3 1 1Ngày 5 1 5 6 - 4 1 1Ngày 6 1 6 6 1 5 1 1Ngày 7 1 7 7 1 6 1 1Ngày 8 1 8 8 1 7 1 1Ngày 9 1 9 9 1 8 1 1
Ngày 10 1 10 10 1 9 1 1
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 167
thời gian ương, trứng hàu nên được thụ tinh và lọc thật kĩ trước khi cho cá bôt ăn. Ấu trùng cá gáy biển có thể sử dụng trực tiếp trứng hàu để làm thức ăn
trong những ngày đầu, nếu trứng hàu còn thừa sẽ tiếp tục phát triển và làm thức ăn cho cá bôt những ngày tiếp theo.
Hình 2. Ảnh hưởng của thức ăn lên sinh trưởng về chiều dài của ấu trùng cá gáy biển
Hình 1. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng cá gáy biển
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng của ấu trùng cá gáy biển sau 10 ngày ương nuôi
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
168 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau 10 ngày ương ấu trùng cá gáy biển có chiều dài lớn nhất ở nghiêm thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 (4,12 ± 0,02 mm), tiếp theo là nghiêm thức CT3: TH2-10 + ssR2-
10 + sR2-10 (4,09 ± 0,04 mm), tuy nhiên sự sai khác giữa hai nghiêm thức này không có y nghĩa thống kê (p>0,05). Đối với nghiêm thức CT1: ssR2-10 + sR2-10 vì thức ăn không phù hợp nên ấu trùng cá không thể sinh trưởng đến ngày thứ 10, thông thường qua các lần thí nghiêm lặp lại quan sát thấy cá bôt hao hụt dần, đến ngày thứ 4 thì chết hết.
Tốc đô sinh trưởng trung bình ngày của ấu trùng cá gáy biển không có sự sai khác có y nghĩa giữa hai nghiêm thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 và CT3: TH2-10
+ ssR2-10 + sR2-10 (p>0,05; hình 3). Vào ngày thứ 5, tốc đô sinh trưởng trung bình ngày tại nghiêm thức CT2 là 0,33 ± 0,01 mm/ngày, còn nghiêm thức CT3 là 0,32 ± 0,01 mm/ngày. Đến ngày thứ 10, tốc đô sinh trưởng trung bình ngày của nghiêm thức CT2 và CT3 lần lượt là 0,23 ± 0,001 mm/ngày và 0,23 ± 0,003 mm/ngày. Căn cứ vào hình 2 và hình 3 cho thấy, cá bôt từ ngày 1 đến ngày 5 có tốc đô tăng trưởng về chiều dài nhanh hơn so với giai đoạn từ ngày 5 đến ngày 10, nguyên nhân có thể vì trong giai đoạn sau này cá bôt tập trung vào viêc hoàn thiên hình thái. Qua theo dõi thí nghiêm cho thấy từ ngày tuổi thứ 8 cá bắt đầu xuất hiên các gai trên đầu và ở hai bên mang, khi lớn các gai này dần dần mất đi.
Hình 3. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng trung bình ngày của ấu trùng cá gáy biển
Hình 4. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng đặc trưng của ấu trùng cá gáy biển
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt1. Luc Minh Diệp (2010), Nghiên cứu bổ sung axít béo và các chế phẩm làm giàu thức ăn sống trong ương ấu trùng cá chẽm
Lates calcarifer (Bloch, 1790), Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp.2. Nguyễn Địch Thanh (2011), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của cá hồng bạc Lutjanus argentimaculatus
(Forsskal, 1775) và ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng, ty lệ sống ở giai đoạn cá bột tại Nha Trang - Khánh Hòa, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp.
Tiếng Anh3. http://www.fishbase.org/summary/Lethrinus-nebulosus.html.
Tương tự như tốc đô sinh trưởng trung bình ngày, tốc đô sinh trưởng đặc trưng của ấu trùng cá gáy biển sau 10 ngày ương nuôi giữa hai nghiêm thức CT2 và CT3 không có sai khác có y nghĩa thống kê (p>0,05; hình 4). Nghiêm thức CT2 có tốc đô sinh trưởng đặc trưng là 8,44 ± 0,03 %/ngày, còn ở nghiêm thức CT3 là 8,34 ± 0,09 %/ngày.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luậnSau 10 ngày thí nghiêm, ấu trùng cá gáy biển
đạt tỷ lê sống cao nhất ở nghiêm thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 (15,53 ± 0,62%), thấp nhất ở nghiêm thức CT1: ssR2-10 + sR2-10 (0%), tốc đô sinh trưởng đặc trưng cao nhất ở nghiêm thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 (8,44 ± 0,03 %/ngày) tiếp đến là nghiêm thức CT3: TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 (8,34 ± 0,09 %/ngày). Từ kết
quả trên có thể thấy sử dụng trứng hàu để ương ấu trùng cá gáy biển trong thời gian 10 ngày đầu là phù hợp, công thức thức ăn được đề xuất là cho ăn trứng hàu đã thụ tinh từ ngày 2 đến ngày 10, từ ngày thứ 6 bổ sung thêm luân trùng siêu nhỏ.
2. Kiến nghịCần có thêm các nghiên cứu để tìm ra mật đô
thức ăn và mật đô ương phù hợp nhằm nâng cao hiêu quả ương nuôi trong thời gian 10 ngày đầu. Nghiên cứu ảnh hưởng của môt số yếu tố môi trường nước như: nhiêt đô, đô mặn, chế đô chiếu sáng... nhằm tìm ra môi trường thích hợp cho ấu trùng cá gáy biển phát triển.
Tiếp tục nghiên cứu từ giai đoạn 11 ngày tuổi trở về sau để tiến tới hoàn thiên qui trình sản xuất giống nhân tạo cá gáy biển.