ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
PHẠM THỊ TRÂM
VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN
HIỆN ĐẠI
(Dấu ấn của truyện cổ dân gian
trong một số tác giả, tác phẩm tự sự Việt Nam sau 1945)
Chuyên ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 5.04.07
DỰ THẢO LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS Lê Chí Quế
2. PGS. TS La Khắc Hoà
HÀ NỘI - NĂM 2002
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
TRANG
A. PHẦN MỞ ĐẦU 4
I. Lý do chọn đề tài 4
II. Lịch sử vấn đề 8
III. Phạm vi đề tài và phương pháp nghiên cứu 18
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: VAI TRÒ CỦA TRUYỆN CỔ DÂN GIAN
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ VĂN HỌC
21
3
1.Vai trò của văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân
gian nói riêng trong đời sống xã hội hiện đại
21
1.1 Văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói
riêng trong tâm thức con người hiện đại
23
1.2 Văn hóa dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói riêng trong quá
trình phát triển xã hội
29
2 . Vai trò của truyện cổ dân gian trong quá trình hình thành và phát triển của
văn học
36
2.1. Vai trò của truyện cổ dân gian trong sự hình thành và
phát triển các thể loại tự sự văn học Việt Nam
37
2.2. Truyện cổ dân gian và những dấu ấn sáng tạo mới trong
văn xuôi tự sự từ 1945 đến nay
41
Chương II: TRUYỆN CỔ DÂN GIAN VÀ MỘT SỐ HÌNH THỨC
MÔ PHỎNG, PHÁT TRIỂN CỐT TRUYỆN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1975
56
1. Nhà văn viết truyện cổ tích 56
1.1. Cổ tích dân gian và cổ tích văn học - hai hệ thống nghệ
thuật thẩm mĩ tương đồng
56
1.2. Truyện cổ dân gian và sự chế tác của nhà văn 66
1.3. Vai trò của truyện cổ dân gian trong việc hình thành
nội dung và hình thức truyện cổ tích văn học
75
2. Truyện cổ dân gian và xu hướng tiểu thuyết hóa 91
2.1. Cơ sở và hình thức hư cấu nghệ thuật 91
2.2. Những thủ pháp nghệ thuật phát triển cốt truyện 97
4
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Mục đích, ý nghĩa
Văn học dân gian và văn học viết là hai hệ thống nghệ thuật riêng
biệt. Chúng tồn tại độc lập và có những đặc trưng riêng, dẫn đến khả năng
nghệ thuật của việc nhận thức và tái tạo hiện thực trong văn học dân gian
và văn học viết không giống nhau. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và
phát triển, hai hệ thống nghệ thuật này luôn luôn có sự ảnh hưởng và tác
động qua lại lẫn nhau một cách sâu sắc, thúc đẩy nền văn học dân tộc ngày
càng phát triển.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết ở
nước ta từ trước đến nay là một vấn đề thu hút được nhiều nhà khoa học
quan tâm. Mối quan hệ đó cũng được các nhà nghiên cứu xem xét dưới
nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, nhiều bình diện, nhưng cuối cùng, dù
nghiên cứu ở mức độ nào, mục đích đi vào nghiên cứu sự ảnh hưởng giữa
văn học dân gian và văn học viết cũng là để xem xét số phận lịch sử của
một hiện tượng nghệ thuật nói riêng, một hiện tượng văn hóa nói chung.
Chẳng hạn nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã so sánh câu lục bát trong ca dao
và câu lục bát trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả đã chứng minh,
từ lục bát trong ca dao đến lục bát trong Truyện Kiều có một quá trình vận
động rất lớn, nó đã biến câu lục bát thô mộc thành câu thơ (hiểu theo
nghĩa đã được gia công, sáng tạo). Đặt trong sự phân tích đối sánh giữa
hai loại chúng ta sẽ thấy được quá trình phát triển của câu thơ lục bát
trong tiến trình phát triển. Cũng như vậy, nếu như Phan Ngọc đi vào
nghiên cứu câu lục bát để chỉ ra số phận lịch sử của nó, thì nhà nghiên cứu
Kiều Thu Hoạch trong bài “Vai trò của truyện kể dân gian đối với sự hình
thành các thể loại tự sự trong văn học Việt Nam”[102, tr.74] lại quan tâm
5
đến sự ảnh hưởng, tác động trực tiếp của truyện kể dân gian trong việc
hình thành các thể loại tự sự trong văn học Việt Nam, qua đó chỉ ra vai
trò, sức sống của nó trong sự vận động và phát triển của nền văn học viết.
Chính vì vậy, đề tài mà chúng tôi lựa chọn, nếu giải quyết tốt sẽ có
một ý nghĩa quan trọng về phương diện lịch sử văn học. Bởi, trong thực tế
mối quan hệ qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết diễn ra vô cùng
phong phú, sinh động và thường xuyên nảy sinh cùng với sự phát triển của
lịch sử văn học, cần được tiếp tục nghiên cứu, cần được tiếp tục cập nhật
cả về thực tiễn và lí luận.
Dựa trên kết quả thực hiện đề tài, luận án chúng tôi sẽ đưa ra được
những khái quát về lí thuyết, chỉ ra được những quy luật trong kế thừa và
tiếp nhận của văn học, nhằm đóng góp bổ sung vào hệ thống lí luận chung.
Trên cơ sở đó, áp dụng cho việc tiếp tục nghiên cứu những diễn biến của
những hiện tượng văn học ở những giai đoạn tiếp theo.
Đề tài mà chúng tôi thực hiện còn có ý nghĩa thời sự cấp thiết.
Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay đang diễn ra xu hướng toàn
cầu hóa nhanh chóng. Thế giới, do sự phát triển của các phương tiện thông
tin, đã dần thu nhỏ lại. Các vấn đề chung của thế giới như kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội đều được đặt trong mối quan hệ liên đới và trách
nhiệm cao. Chứng kiến thời kì lịch sử toàn cầu hóa, các dân tộc buộc phải
mở cửa tiếp thu và hội nhập trong sự tác động nhiều chiều ấy. Bên cạnh
những mặt tích cực thì việc mở cửa và giao lưu với bên ngoài cũng không
tránh khỏi những mặt trái, mặt tiêu cực, chủ yếu là thuộc lĩnh vực văn hóa.
Nhiều luồng tư tưởng và lối sống của văn hóa phương Tây đã ít nhiều ảnh
hưởng đến đời sống con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Có không ít những
biểu hiện lai căng, mất gốc, coi thường những giá trị truyền thống. Nhiều
nhà khoa học xã hội thế giới cũng đã đưa ra những dự báo về xã hội tương
lai mà nhiều người gọi là xã hội “hậu công nghiệp”. Tuy nhiên cũng
không phủ nhận những hậu họa có thể xảy ra nếu chỉ chú ý đến sự phát
triển kinh tế mà không quan tâm đến văn hóa, đến con người có văn hóa.
Nhiều tác giả, nhất là Alvin Toffler trong tác phẩm nổi tiếng “Làn sóng
thứ ba” (The third wave) đã phê phán nền kĩ trị, một cơ chế xã hội mới với
6
những mâu thuẫn gay gắt và nan giải. Ngay trong bản thân con người,
trong sự phát triển cao cũng nhiều khi sa vào xu hướng lệch lạc, phiến
diện, cứng nhắc, đơn điệu, thậm chí vô cảm hơn do tính chất chương trình
hóa và điều kiện hóa rất nặng nề, tạo nên những cảm xúc và thị hiếu “nhãn
hiệu”, “đóng hộp”. Vậy, làm sao giữ được bản sắc dân tộc, giữ được
những giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ được cá tính trong mỗi con người,
làm sao giữ được những trạng thái “hồn nhiên”, “tự nhiên” vốn có của con
người cũng là một vấn đề thời sự. Vấn đề này cũng được Đảng ta thể hiện
rõ trong nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng
(Khóa VII), về việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, quyết tâm đẩy lùi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài du
nhập; giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống nhân văn tốt
đẹp của dân tộc; tiếp thu được những tinh hoa, những tư tưởng, trình độ
hiện đại của thế giới. Điều đáng chú ý là, những năm gần đây, các nước
công nghiệp phát triển có xu hướng quay về những giá trị của văn hóa dân
gian như là một phản ứng tự nhiên đối với sự phát triển không lành mạnh
của nền công nghiệp chính nước họ.
Bản sắc văn hóa Việt Nam, ở phần chủ yếu nhất của nó đều nằm vào
phần dân gian - dân tộc, trong đó có các sáng tác dân gian. Chính vì vậy,
nếu giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài chắc chắn sẽ có tác động
tích cực đến tình hình sáng tác hiện nay trong việc vận dụng những tinh
hoa nghệ thuật truyền thống phục vụ cho cuộc sống hiện đại, nó gợi mở ra
nhiều xu hướng sáng tạo, xu hướng nghiên cứu trong các ngành nghệ thuật
góp phần xây dựng một nền văn nghệ mới, đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một giáo viên giảng dạy môn văn đồng thời làm công tác biên tập
xuất bản mảng sách khoa học xã hội, với tôi đề tài trên còn có ý nghĩa
thiết thực về mặt nghiệp vụ. Một mặt nó cung cấp một hệ thống tư liệu
phong phú về tác phẩm cũng như các hình thức kế thừa sáng tạo của nhiều
nhà văn trong một giai đoạn văn học dài. Mặt khác, nó giúp tôi nhận thức
tính chiều sâu của văn hóa, văn học dân tộc, thấy được vai trò và sự tác
động sâu sắc của nó trong đời sống xã hội hiện đại. Đó là những cơ sở về
lí luận và thực tiễn giúp tôi có ý thức giảng dạy và biên tập ngày càng tốt
hơn.
7
2. Nhiệm vụ của đề tài
Dựa trên mục đích và ý nghĩa của đề tài, tình hình nghiên cứu ở Việt
Nam, luận án của chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Chỉ ra được vai trò và sức sống tiềm tàng của truyện cổ, chỉ ra phạm
vi ảnh hưởng, sự tác động to lớn và sâu sắc của nó trong đời sống văn hóa,
xã hội và trong văn học ở mức độ tổng thể, khái quát.
- Luận án đặt ra nhiệm vụ khảo sát cụ thể các tác giả, tác phẩm mà chủ
yếu tập trung vào những sáng tác của những nhà văn tiêu biểu để chỉ ra hiện
tượng Fakelore (là thuật ngữ được đặt ra để gọi chung những tác phẩm
được phóng tác theo khuôn thức của Folklore hay còn gọi là giả dân gian)
nhằm chỉ ra hiện tượng đồng sáng tạo, hiện tượng mô phỏng phát triển cốt
chuyện một cách thuần tuý tác phẩm dân gian; chỉ ra những cách tân nghệ
thuật của các nhà văn hiện đại khi sử dụng văn học dân gian như cội nguồn
khơi gợi để phản ánh những vấn đề của thời đại mới.
- Tìm hiểu những nét truyền thống và hiện đại trong việc kế thừa và
sáng tạo của nhà văn trong từng tác phẩm, từng xu hướng, từng cấp độ
khảo sát.
- Xác định được mục đích và lí giải được nguyên nhân của những xu
hướng và sáng tạo của các nhà văn khi quay trở về vận dụng những kinh
nghiệm nghệ thuật truyền thống dân gian ở từng thời kì lịch sử khác nhau.
Đặc biệt là trong những giai đoạn lịch sử có những biến cố trọng đại. Trên
cơ sở đó thấy được sức sống tiềm tàng của truyện cổ dân gian nói riêng,
văn học dân gian nói chung, thấy được sứ mạng lịch sử của văn học dân
gian trong quá trình phát triển xã hội, thấy được tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ khi kế thừa tinh hoa nghệ thuật truyền thống, những giá trị
tinh thần của quá khứ được kết tinh trong văn học.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ và tác phẩm truyện trong
sáng tác của một số nhà văn tiêu biểu nhằm đưa ra những khái quát lí
thuyết về mối quan hệ giữa hai hệ thống nghệ thuật văn học dân gian và
văn học viết trong tiến trình lịch sử văn học. Tìm ra những nguyên tắc tiếp
nhận và sáng tạo của văn học đối với văn học dân gian ở những xu hướng
và cấp độ ảnh hưởng khác nhau.
8
3. Những đóng góp mới của luận án
1. Lần đầu tiên luận án xác định được một cách cụ thể truyện cổ và
truyện trong sáng tác của các nhà văn là hai hệ thống nghệ thuật đặc trưng,
chuyên biệt nhưng thường xuyên có tác động ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau
trên một phạm vi rộng lớn, và trong một tiến trình lịch sử lâu dài.
2. Luận án là công trình đầu tiên vận dụng lí luận nhiều chiều để khảo
sát một cách cụ thể hàng loạt hiện tượng đồng sáng tạo qua sáng tác của
một số nhà văn trên những khuôn thức nghệ thuật dân gian để bắt chước,
mô phỏng và phát triển cốt truyện nhằm tạo ra những tác phẩm nghệ thuật
theo kiểu có địa chỉ tiếp nhận (viết cho thiếu nhi).
3. Luận án là công trình đầu tiên khảo sát một vệt hiện tượng mới của
các nhà văn sau năm 1975 dùng truyện cổ dân gian như là một xuất phát
điểm để khơi thông những hình thức sáng tạo mới, hướng tới mục đích
phản ánh những vấn đề thế sự, nhân sinh của xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới, đánh động nhiều suy ngẫm cho người đọc hiện đại.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Như đã trình bày ở trên, mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn
học viết đã có từ lâu và cuốn hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước, ngoài nước được
xuất bản thành sách hoặc đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Tuy
nhiên, do tính chất và giới hạn của đề tài nên trong phần lịch sử vấn đề
chúng tôi chỉ điểm lại các công trình tiêu biểu của Việt Nam bàn về mối
quan hệ văn học dân gian - văn học viết từ góc độ lí luận chung và qua
một số tác gia, tác phẩm văn học.
Về phương diện lí luận chung, trước tiên phải kể đến các công trình
nghiên cứu của các tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang
Nhơn về “Văn học dân gian Việt Nam”[46], công trình nghiên cứu của
Cao Huy Đỉnh về “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”[16],
công trình của Đỗ Bình Trị về “Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học
dân gian Việt Nam” [87].
9
Nhìn chung, các công trình nói trên không trình bày thành một hệ
thống chuyên sâu, nhưng rải rác trong các chương mục, các nhà nghiên
cứu trên đều đề cập đến mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học
viết thông qua đặc trưng của văn học dân gian, về tính đặc thù của sự phát
triển nền văn học viết trong mối tương quan với văn học dân gian ở Việt
Nam.
Gần đây, Đinh Gia Khánh trong công trình nghiên cứu về “Văn hóa
dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam” cũng đánh giá
rất cao sức sống của văn hoá dân gian trong đó có bộ phận văn học dân
gian trong xã hội hiện đại, “vừa chứa đựng những tiềm năng, vừa chứa
đựng những động lực cho việc không ngừng xây dựng nên những giá trị
thẩm mĩ mới” [45, tr.160]. Không những thế, tác giả công trình còn khẳng
định ý nghĩa chính trị và xã hội to lớn của văn hóa dân gian. Tác giả cho
rằng “các nhà hoạt động chính trị, xã hội và tôn giáo, các tổ chức chính trị,
xã hội và tôn giáo cũng lại luôn luôn quan tâm đến các vấn đề văn hóa dân
gian và tìm cách khai thác các giá trị văn hóa dân gian vì mục đích của
mình”[45, tr.18].
Xem xét sự tác động ảnh hưởng của văn học dân gian - văn học viết
trong lịch sử từ khi văn học hình thành, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được
mối quan hệ sâu sắc giữa hai bộ phận đó trong sự tác động qua lại hỗ trợ
lẫn nhau trong quá trình phát triển. Tuy nhiên mức độ, tính chất của sự
ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào từng thời kì lịch sử, thời kì phát triển của
văn học. Chẳng hạn, ở thời kì đầu, văn học viết gần gũi với văn học dân
gian trên nhiều phương diện, trong đó hình thức vay mượn ở dạng mô
phỏng, sao chép. Văn học dân gian lúc này như là chất liệu, là nguồn cảm
hứng trực tiếp đối với sáng tác văn học. Cùng với thời gian, văn học dân
gian không tồn tại trong văn học viết một cách thụ động, bột phát nữa mà
nó trở thành một kho báu về những kinh nghiệm nghệ thuật phong phú
cho sự sáng tạo của văn học.
Nghiên cứu trên bình diện lí luận chung về ảnh hưởng của văn học
dân gian trong quá trình phát triển văn học dân tộc có một số bài báo đáng
chú ý. Tiêu biểu là bài viết của tác giả Lê Kinh Khiên bàn về “Một số vấn
10
đề lí thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết”[39].
Tác giả bài viết đã nhìn nhận vấn đề dựa trên cơ sở lịch sử văn học dân tộc
để chỉ ra điều kiện, hoàn cảnh ra đời, đặc trưng thi pháp chung của sự tác
động qua lại giữa hai hệ thống nghệ thuật. Tác giả bài viết đã chỉ ra bản
chất của mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết “là mối quan hệ tác
động qua lại giữa hai hệ thống thẩm mĩ độc lập, ra đời và tồn tại, phát
triển trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể khác nhau theo những quy
luật riêng tuy cả hai đều có một cái nền chung là thực tiễn đời sống dân
tộc, nền văn hóa dân tộc, đều chịu sự chi phối bởi những qui luật chung
của hoạt động sáng tạo nghệ thuật bằng ngôn từ. Những cái chung này là
cơ sở, đồng thời là điều kiện để cho văn học dân gian và văn học viết có
thể phát sinh quan hệ tác động lẫn nhau” [39, tr.70]. Sau khi khảo sát sự
ảnh hưởng của văn học dân gian và văn học viết, tác giả cho rằng “có thể
nghiên cứu ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết theo
những qui mô và cấp độ khác nhau”.
Mặc dù chỉ dừng lại ở những vấn đề có tính chất lí thuyết nhưng
những vấn đề mà tác giả đặt ra có cơ sở khoa học và tính thuyết phục rất
cao. Có thể nói bài viết của ông đã gợi ra nhiều ý tưởng cho việc đi vào
nghiên cứu mối quan hệ giữa hai loại hình văn học này theo nhiều hướng
khác nhau, trong đó có công trình của chúng tôi.
Nhà nghiên cứu Hà Công Tài trong bài viết “Để nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học dân gian và văn học viết” đã cho rằng: Nghiên cứu mối
quan hệ này phải nghiên cứu qua tác phẩm cụ thể. Tác giả bài viết đã chỉ
ra sự tương đồng giữa thơ ca dân gian và thơ ca của các tác giả. “Đó là sự
kế thừa trên các yếu tố nghệ thuật: Thể thơ, cấu trúc, môtíp, nhân vật”...
tất cả các yếu tố đó làm nên phong cách dân gian. Tác giả bài viết khẳng
định: “phong cách thể loại của văn học dân gian chính là vấn đề then chốt
trong việc tìm hiểu quan hệ văn học dân gian và văn học” [78, tr.46 - 49].
Chu Xuân Diên lại mượn lời của M. Goocki “nhà văn không biết đến
văn học dân gian là một nhà văn tồi” để mở đầu cho bài viết của mình “Nhà
văn và sáng tác dân gian”, trong đó tác giả đã chỉ ra hàng loạt các văn nghệ
sĩ có tên tuổi trên văn đàn nước ta đã gắn bó mật thiết với văn học dân gian
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ
(2001), Truyện ngắn bốn cây bút nữ, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Hà Châu (1970), “Bác Hồ với nguồn tục ngữ của dân tộc”, Tạp
chí Văn học (số 3), tr.49-60.
3. Nguyễn Đổng Chi (1956), Lược khảo thần thoại Việt Nam, NXB
Văn sử địa, Hà Nội.
4. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập
1, 2, 3, 4, 5, Viện Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Đổng Chi (sưu tầm và biên soạn) (1993), Nghiên cứu
truyện cổ tích nói riêng và truyện cổ tích Việt Nam. Kho tàng
truyện cổ tích Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Chú (1980), “Để tiến tới xác định rõ ràng hơn nữa
vai trò làm nền của văn học dân gian trong lịch sử văn học dân
tộc”, Tạp chí Văn học (số 5), tr.86.
7. Mai Ngọc Chừ (1998), Văn hóa Đông Nam Á, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học so sánh, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
9. Chu Xuân Diên (1966), “Nhà văn và sáng tác dân gian”, Tạp chí
Văn học (số 1), tr.13.
10. Chu Xuân Diên (1969), “Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian
hiện đại”, Tạp chí Văn học (số 4), tr.34.
11. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa
học, Khoa Ngữ văn. Trường Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
12. Đại học Quốc gia HN, Trường Viết văn Nguyễn Du, Tạp chí
Văn nghệ quân đội (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Đặng Anh Đào (1992), “Hai hình thức mới trong truyện ngắn
hiện nay”, Tạp chí Tác phẩm mới (số 4), tr.57-58.
12
14. Đặng Anh Đào (1995), Biển không có thuỷ thần, trong tập “Tài
năng và người thưởng thức”, Tập bài phê bình và nghiên cứu
văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
15. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, 2,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
16. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội.
17. Trịnh Bá Đĩnh (1994), “Tìm hiểu phong cách dân gian trong thơ
Nôm Nguyễn Khuyến”, Tạp chí Văn học (số 1), tr.27-30.
18. Hà Minh Đức (chủ biên), Trương Đăng Dung, Phan Trọng
Thường (1999), Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện
văn học.
19. Hà Minh Đức (2000), Sự nghiệp báo chí và văn học của Hồ Chí
Minh, NXB Giáo dục Hà Nội.
20. Nguyễn Xuân Đức (1995), Thi pháp truyện cổ tích thần kì người
Việt (tài liệu cho học viện thạc sĩ chuyên ngành Lý thuyết và
Lịch sử văn học), Trường ĐHSP Vinh.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phê (1997), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Vũ Tố Hảo (1980), “Mối quan hệ giữa truyện Nôm bình dân và
văn học dân gian”, Tạp chí Văn học (số 4).
23. Nguyễn Văn Hải, Vũ Minh Toàn dịch (1976), Truyện
ANDECXEN, NXB Văn học Giải phóng, Hồ Chí Minh.
24. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn Hà Nội.
25. Tô Hoài (2000), Đảo hoang, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
26. Tô Hoài (2000), Truyện nỏ thần, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
27. Tô Hoài (2000), Nhà Chử, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
28. Phạm Hổ (1961), Cất nhà giữa hồ, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
29. Phạm Hổ (1985), Tiếng sáo và con rắn, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
30. Phạm Hổ (1986), Ngựa thần từ đâu đến, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
31. Phạm Hổ (1993), Quả tim bằng ngọc, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
13
32. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2000), Góp phần nâng cao
chất lượng sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian,
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
33. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỉ sưu tầm
nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
34. Văn Hồng (1985), “Chuyện nỏ thần - hiện thực và huyền thoại”,
Tạp chí Văn học (số 4), tr.118.
35. Nguyễn Thị Huế (1994), “Bước tiến của lí luận nghiên cứu văn
học dân gian trong những năm qua”, Tạp chí Văn học (số 2),
tr.38.
36. Nguyễn Thị Huế (1999), Những nhân vật xấu xí mà tài ba trong
truyện cổ tích Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
37. I.Putilốp B.N, Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử so sánh về
Folklore, Phan Ngọc dịch (bản đánh máy), Thư viện Viện văn
học.
38. Nguyễn Xuân Kính (1994), “Về việc sử dụng ca dao trong thơ
trữ tình hiện nay”, Tạp chí Văn học (số 11), tr.44-47.
39. Lê Kinh Khiên (1980), “Một số vấn đề lí thuyết chung về mối
quan hệ văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí Văn học (số
1), tr.69.
40. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện
cổ tích qua truyện Tấm Cám, NXB Văn học, Hà Nội.
41. Đinh Gia Khánh (1973), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối
cảnh văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
42. Đinh Gia Khánh (1977), “Để có thể nắm bắt thực chất của văn
học dân gian”, Tạp chí Văn học (số 6), tr.76.
43. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Đinh Gia Khánh (1989), Truyện hay nước Việt, NXB Thông tin,
Hà Nội.
14
45. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian với sự phát triển của
xã hội Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
(2000), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.
47. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu Folklore Việt Nam,
NXB Sở Giáo dục Thanh Hóa, Thanh Hóa.
48. Vũ Ngọc Khánh (1998), “Truyện cổ tích trong phát triển”, Tạp
chí Văn học (số 3), tr.28.
49. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với dân gian và bản lĩnh của
người viết”, Tạp chí Văn học (số 5), tr.30.
50. Ngô Tự Lập (1898), Mộng du và những truyện khác. NXB Văn
học, Hà Nội.
51. Đặng Thanh Lê (1982), “Từ một kiệt tác văn học - suy nghĩ về
mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn học dân gian và văn học viết”,
Tạp chí Văn học (số 1), tr.47-55.
52. Đặng Thanh Lê (1983), “Hồ Xuân Hương - Bài thơ Mời trầu,
cộng đồng truyền thống và cá tính sáng tạo trong mối quan hệ
văn học dân gian và văn học viết”, Tạp chí Văn học (số 5), tr.68-
79.
53. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỉ XX, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
54. Phan Trọng Luận (2001), “Tản mạn về sức hấp dẫn của tự sự qua
truyện ngắn đầu tay của Bảo Vũ”, Hội thảo tự sự học 2001, Đại
học Sư phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn, tr.373.
55. Đặng Văn Lung (1969), “Điểm qua ý kiến một số tác giả xung
quanh vấn đề văn học dân gian hiện đại”, Tạp chí Văn học (số
6), tr.59.
56. Đặng Văn Lung (1969), “Vai trò của văn học dân gian trong sự
phát triển văn học dân tộc”, Tạp chí Văn học (số 2), tr.92.
57. Đặng Văn Lung (1982), “Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân
gian”, Tạp chí Văn học (số 4), tr.49-57.
15
58. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần
Đình Sử, Ngô Thảo (1996), Một thời đại mới trong văn học,
NXB Văn học.
59. Lưu Sơn Minh (1999), Mưa sâm cầm (tập truyện ngắn), NXB Trẻ
thành phố Hồ Chí Minh.
60. M.Bakhtin (1995), Thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, Hà Nội.
61. Nguyễn Đăng Na (1986), “Tìm hiểu quan điểm biên soạn và
phương pháp biên soạn Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên”,
Tạp chí Văn học (số 1), tr.130-143.
62. Nguyễn Đăng Na (1991), “Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân
gian”, Tạp chí Văn học (số 2), tr.36-43.
63. Niculin (1996), “Vai trò mới của cốt truyện cổ”, Tạp chí Văn học
(số 1), tr.46.
64. Phan Đăng Nhật (1983), “Khơi thêm nguồn văn nghệ dân gian
truyền thống để góp phần phát triển văn học viết hiện đại”, Tạp
chí Văn hóa dân gian (số 1).
65. Bùi Mạnh Nhi (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc
Điệp (1999), Văn học Việt Nam, văn học dân gian, những công
trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả (2001), Văn học 10, T1, phần Văn học Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (2001) Hội thảo tự sự học 2001, Đại học Sư phạm
Hà Nội.
68. Nhiều tác giả (2001), Đêm bướm ma, NXB Văn học, Hà Nội.
69. Tăng Kim Ngân (1983), “Nghiên cứu Folklore theo típ và
môtíp”, Tạp chí Văn hóa dân gian (số 3 - 4).
70. Tăng Kim Ngân (1995), “Khái niệm cốt truyện và sự phân biệt
giữa cốt truyện trong truyện kể dân gian”, Văn hóa dân gian
(số 3), Hà Nội, tr.16 - 20.
16
71. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB
Văn hóa - Thông tin.
72. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn) (2001), Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
73. Bùi Văn Nguyên (1999), “Bàn về yếu tố văn học dân gian trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ”, Tạp chí Văn học (số 11),
tr.52.
74. Vũ Ngọc Phan, Tạ Phong Châu, Phạm Ngọc Hy (1977), Hợp
truyển thơ văn Việt Nam, tập 1, Văn học dân gian, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
75. Vũ Ngọc Phan (1965), “Ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và
thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Văn học (số 12), tr.40-43.
76. Võ Quảng (1982), Bài học tốt, NXB Kim Đồng, Hà Nội.
77. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ
(1993), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
78. Hà Công Tài (1989), “Để nghiên cứu quan hệ giữa văn học dân
gian và văn học viết”, Tạp chí Văn học (số 5), tr.46 - 49.
79. Vân Thanh (1999), Phác thảo văn học thiếu nhi Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Phạm Minh Thảo, Bùi Xuân Mỹ (1998), Các nhà văn kể chuyện
cổ tích (tập 1, 2), NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
81. Nguyễn Huy Thắng (1996), Nguyễn Thị Hạnh (sưu tầm biên
soạn), Nguyễn Huy Tưởng toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
82. Nguyễn Huy Thiệp (2000), Thương cả cho đời bạc, Truyện ngắn,
NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
83. Nguyễn Huy Thiệp (2001), Mưa nhã nam, Anh Trúc tuyển chọn,
NXB Văn học, Hà Nội.
84. Nguyễn Trọng Thuật (2001), Quả dưa đỏ, NXB Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
17
85. Trần Hữu Thung (1978), “Từ trong nguồn văn học dân gian”, Tạp
chí Văn học (số 5), tr.56.
86. Phạm Thị Trâm (1996), Truyện cổ dân gian trong sáng tác của
các nhà văn hiện đại, Luận án Thạc sĩ. Đại học Sư phạm Vinh.
87. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học
dân gian Việt Nam, Trường ĐHSP Hà Nội I, Hà Nội.
88. Đỗ Bình Trị (1989), “Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học với văn học dân gian”, Tạp chí Văn học (số 1),
tr 51 - 57.
89. Nguyễn Phú Trọng (1968), “Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố
Hữu”, Tạp chí Văn học (số 11), tr.13-21.
90. Võ Quang Trọng (1995), “Một vài đặc điểm của truyện cổ tích
văn học trong mối quan hệ thể loại với truyện cổ tích dân
gian”, Văn hóa dân gian (số 2), tr.47 – 50.
91. Võ Quang Trọng (1997), Vai trò của văn học dân gian trong văn
xuôi hiện đại Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
92. Nguyễn Khánh Toàn (1995), “Vai trò văn học dân gian trong văn
học Việt Nam nói chung, trong truyện Kiều nói riêng”, Tạp chí
văn học (số 11), tr.1-19.
93. Nguyễn Quốc Tuý (1994), “Thi pháp dân gian trong thơ Nguyễn
Bính”, Tạp chí Văn học dân gian (số 1), tr.70.
94. Hoàng Tiến Tựu (1971), “Mấy suy nghĩ bước đầu về phương
pháp nghiên cứu văn học dân gian”, Tạp chí Văn học (số 4),
tr.116.
95. Hoàng Tiến Tựu (1990), “Văn học dân gian Việt Nam với văn
phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa dân gian,
(số 1), tr. 16-18.
96. V. Guxep (1999), Mỹ học Folklore, NXB Đà Nẵng.
97. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian (1990),
Văn hóa dân gian, những phương pháp nghiên cứu, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
18
98. V. Prop, Folklore và thực tại, Chu Xuân Diên dịch (bản đánh
máy).
99. Hoà Vang (1966), Sự tích những ngày đẹp trời, NXB Hội nhà văn
Hà Nội.
100. Bảo Vũ (1999), Mây núi thái hàng, tập truyện ngắn, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
101. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam – Dòng riêng giữa
nguồn chung, NXB Giáo dục, Hà Nội.
102. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian
(1989), Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
103. Nguyễn Khắc Xương (1986) “Tản Đà và văn học dân gian”,
Tạp chí Văn học (số 6), tr.63-78.