26

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

Embed Size (px)

Citation preview

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

3

LỜI KHAI THỊ CỦA PHÁP SƢ TỊNH KHÔNG

Phật giáo là nền giáo dục chí thiện viên mãn của Phật Đà đối với chúng

sinh chín pháp giới. Nội dung của tất cả Kinh điển mà Phật đã thuyết

trong 49 năm là nói rõ chân tướng của vũ trụ, nhân sinh. “Nhân sinh”

chính là bản thân mình. “Vũ trụ” chính là môi trường sống của chúng

ta. “Giác” gọi là Phật, Bồ Tát. “Bất Giác” gọi là phàm phu. Tu hành là

đem những cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng

ta đối với vũ trụ, nhân sinh sửa lại cho đúng.

Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là Giác – Chánh – Tịnh. Giác là

không mê. Chánh là không tà. Tịnh là không nhiễm.

Và nương theo tam học Giới – Định – Tuệ để mong đạt đến mục tiêu

đó.

Cơ sở của tu học là Tam Phước.

Đối xử với người nương theo Lục Hòa. Xử thế tu Lục Độ.

Tuân theo nguyện Phổ Hiền quy tâm Tịnh Độ thì việc giáo hóa của

Phật mới hoàn tất vậy.

(Trích từ bài giảng “Chuyển khổ đau thành an vui” của Pháp sư Tịnh Không

do cư sĩ Viên Đạt và cư sĩ Vọng Tây cẩn dịch)

Email: [email protected]

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

4

Tháng bảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian địa

phủ đều xuất hiện ở nhân gian. Cũng giống như trong quỹ đạo âm gian

đang lúc nghỉ phép vậy, quỷ quái đều đi ra ngoài nghỉ phép. Vì vậy ngay

trong tháng này, có nhiều cấm kỵ đặc biệt, việc Phật sự siêu độ cũng rất

bận rộn.

Có một bạn đồng tu đến hỏi tôi: “Việc siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay

không? Việc siêu độ có nhất định cần phải do người xuất gia thực hiện

hay không?” Đây là vấn đề của xã hội, cũng là vấn đề trong Phật pháp.

Việc này cần được giải thích rõ ràng thì mới không khiến cho đại chúng

mê tín.

Nhà Phật có phương pháp và lý luận của việc siêu độ rất hợp tình, hợp lý

và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô lớn này lại không

thường thấy ở trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong Kinh điển Đại

Thừa Trung Quốc phiên dịch, việc này được ghi chép rõ ràng nhất ở

“Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh”. Kinh này đã giảng nói những lý

luận, phương pháp rất rõ ràng. Chúng ta xem trong quyển Kinh liền thấy

nữ Bà La Môn, nữ Quang Mục đều là những người trẻ tuổi rất hiếu thảo.

Cha mẹ của họ do thiếu tri thức đã tạo ra rất nhiều nghiệp tội. Trong

Kinh Phật nói: Tạo những hậu quả nghiệp tội nghiêm trọng này nhất

định là đọa vào ba đường ác. Những lý luận và sự thật này, ở những lần

giảng trước chúng tôi đã từng nói qua với mọi người rồi. Chúng ta nhất

định phải biết, hoàn cảnh của sáu cõi mười pháp giới những hiện tượng

này do đâu mà phát sinh ra. Chúng ta nhất định phải thấu hiểu một cách

tường tận. Tường tận chính là “nhìn thấu” mà trong nhà Phật thường

nói. Nhìn thấu chính là đem chân tướng sự thật thấy đến tận gốc. Nhìn

thấu suốt rồi thì gọi là khám phá.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

5

Phật nói với chúng ta: Mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng

tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra, cũng giống

như trong mộng vậy. Cảnh giới trong mộng tuy là không phải chân thật,

không phải thật có, nhưng không thể nói nó không có. Tình trạng sáu cõi

cũng là như vậy. Sáu cõi là trong vọng tưởng, phân biệt, lại cộng thêm

chấp trước nghiêm trọng cho nên liền biến ra hiện tượng sáu cõi luân

hồi. Hay nói cách khác, nếu như chúng ta không có vọng tưởng, phân

biệt chấp trước thì không những không có Lục Đạo, mà mười pháp giới

cũng không có. Vì vậy Phật nói: Những hiện tượng này “như mộng

huyễn bào ảnh”. Mà những hư ảo này chỉ tồn tại trong một khoảng thời

gian không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ: “Như sương cũng như

điện”. “Sương” là giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, nói rõ thời

gian tồn tại của nó không dài. “Điện” là tia chớp, thời gian tồn tại càng

ngắn hơn.

Chính là trong “Kinh Bát Nhã”, Phật đem chân tướng sự thật này nói rất

rõ ràng tường tận, một lời này làm rõ. Vì thế, lý luận và phương pháp

siêu độ đều không rời khỏi nguyên lý, nguyên tắc này. Cho nên gọi là tất

cả nghiệp tội đều do chấp trước nghiêm trọng. Trong sáu cõi lại xuất

hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng

cảm nhận sự đau khổ vẫn dường như là thật. Ví như người trong mộng

thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người

nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, trong tâm

vẫn còn sợ hãi. Có thể thấy được, tuy là cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ

lại giống như thật. Chúng sinh trong ác đạo phải thọ những khổ đau này.

Trong Kinh điển có ghi chép: A La Hán là người đắc đạo, không phải

phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện đã làm trong

quá khứ, thường quên hết sạch, rất hay quên. Nhưng A La Hán có thể

nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm (500) kiếp quá khứ, cho đến

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

6

những việc khổ vui đã nhận chịu ngay trong năm trăm (500) đời đã từng

đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh nói pháp có nhắc đến hoàn cảnh

trong địa ngục, mọi người ngồi bên dưới nghe giảng, tâm còn run sợ,

còn cảm thấy rất là khủng khiếp, thậm chí toàn thân còn rướm máu. Sợ

hãi đến mức độ như vậy. Việc này trên Kinh điển Phật nói với chúng ta,

tuyệt không phải là lời giả dối. Phật dạy người không vọng ngữ, chính

mình nhất định không có một câu vọng ngữ, mỗi câu đều là nói chân

tướng sự thật.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

7

NGHIỆP NHÂN TRONG MƢỜI PHÁP GIỚI

Do đó mà biết, ba đường ác đích thực vô cùng đáng sợ, rất là thê thảm.

Người tạo ác nghiệp thì sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác là địa ngục,

ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt bạn đi, không liên

can gì đến họ, cũng không phải Phật Bồ Tát trừng phạt bạn. Phật Bồ Tát

đại từ đại bi, tuyệt đối không thể trừng phạt một người ác. Điểm này rất

khó được, thế mà tại sao bạn lại tự chạy vào đường ác? Phật nói với

chúng ta là “tự làm tự chịu”. Bạn tạo loại nghiệp này thì tự nhiên sẽ cảm

được quả báo. Vì thế, loại nhân quả nghiệp báo này đương nhiên là vô

cùng phức tạp. Phật lại nói với chúng ta: Phật có khả năng giảng rõ ràng,

nhưng chúng ta không có khả năng tiếp thu. Tại sao vậy? Lý quá sâu,

chúng ta rất khó thể hội. Sự phức tạp rồi, nếu đem những việc phức tạp

này giảng một cách rõ ràng minh bạch thì cần thời gian rất dài mà chúng

ta không có tuổi thọ dài đến như vậy. Cho nên Phật dạy chúng ta chọn

lấy phương pháp tinh giản nhất, chọn lấy phương pháp quy nạp. Vì thế,

Phật dạy chúng ta nghiệp nhân trong mười pháp giới. Phật quy nạp nhân

tố quan trọng nhất, từng bậc từng bậc từ thấp mà giảng lên cao.

- Nghiệp nhân của địa ngục là sân hận. Tâm sân cảm địa ngục. Người

mang tâm sân hận nặng, người tâm sân hận mãnh liệt thì tự nhiên biến

hiện ra cảnh giới địa ngục. Trong sân hận chắc chắn sinh đố kị nghiêm

trọng, thì thủ đoạn sẽ rất tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu

cảm quả báo địa ngục.

- Nghiệp nhân của đƣờng ngạ quỷ là san tham. Tham mà không chán,

hưởng thụ chiếm hữu, giành giật, đối với danh vọng lợi dưỡng, năm dục

sáu trần thì bất chấp thủ đoạn. Tâm tham biến thành ngạ quỷ. “Bủn” là

bủn xỉn. Bạn đã có được rồi nhưng quyết định không chịu xả ra, nhất

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

8

định không chịu cho người khác. Đây là bỏn xẻn. Do đó san tham là

nghiệp nhân của ngạ quỷ.

- Nghiệp nhân của súc sinh là ngu si. Ngu si là không có năng lực phân

biệt chân vọng, không có năng lực phân biệt chánh tà, thậm chí đến thị

phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường hay đem

tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Đây chính là

thuộc về ngu si. Ngu si là không có trí tuệ, không có năng lực phân biệt.

Nghiệp nhân của đường súc sinh, tự nhiên họ liền sẽ rơi vào đường súc

sinh.

Vì thế, ba đường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của

chính mình, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, đang an bài

hay đang trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực. Cách nói

này mới là hợp tình hợp lý.

- Nghiệp nhân của cõi ngƣời là luân thường. Trong Phật pháp gọi là

“Ngũ Giới”: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không

vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc còn gọi là “Nhân,

Nghĩa, Lễ, Trí, Tín” tương đồng với nội dung Ngũ Giới của nhà Phật.

Con người ngay trong một đời, mọi sinh hoạt, lời nói, việc làm đều tuân

thủ nguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người ở trong Lục Đạo.

Hoàn toàn không có ngẫu nhiên.

- Cõi trời: Phước báo của cõi trời cao hơn so với cõi người, do đó điều

kiện đương nhiên cũng cao hơn so với cõi người một cấp. Cho nên muốn

đến cõi trời phải tu Mười Thiện. Tư tưởng hành trì phải tương ưng với

điều kiện Mười Thiện bao gồm:

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

9

Thân: 1. Không sát sinh

2. Không trộm cắp

3. Không dâm dục

Miệng: 4. Không nói dối

5. Không thêu dệt. Thêu dệt là lời nói bóng bảy,

hoặc có ý, hoặc vô ý đều là tổn hại xã hội.

6. Không hai chiều. Hai chiều là khiêu khích, thị phi.

7. Không nói lời ác. Lời ác là lời thô tục, thô bạo,

làm người nghe thấy rất khó chịu.

Ý: 8. Không tham

9. Không sân

10. Không si.

Đây gọi là Mười Nghiệp Thiện. Tất cả pháp thiện cũng đều từ trong

mười điều thiện này mà sinh ra. Cho nên, người có thể tu Mười Thiện

Nghiệp, đồng thời có thể giữ Tứ Vô Lượng Tâm, đây là điều kiện sanh

thiên. Tứ Vô Lượng Tâm là Từ - Bi - Hỷ - Xả bao gồm: Từ Vô Lượng,

Bi Vô Lượng, Hỷ Vô Lượng, và Xả Vô Lượng. Tứ Vô Lượng Tâm, tu

Thập Thiện Nghiệp mới có thể sanh thiên.

- Cõi A Tu La: Tu Ngũ Giới Mười Thiện nhưng không có Tứ Vô Lượng

Tâm, quả báo của họ biến thành A Tu La. Vì họ có Ngũ Giới Thập

Thiện cho nên phước báo của họ rất lớn. Vì họ không có Tứ Vô Lượng

Tâm, cho nên họ hưởng phước thì mê hoặc, điên đảo. Trong Kinh Phật

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

10

nói với chúng ta: A Tu La không đoạn được Tham - Sân - Si. Dùng tâm

Tham - Sân - Si tu Mười Nghiệp Thiện, tu Ngũ Giới, họ có phước báu

lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. Vì thế, giới A

Tu La nhìn chung mà nói phước báo rất lớn, tính cách hung bạo, háo

thắng, đố kỵ. Ở trong nghiệp nhân này, chúng ta lấy một ví dụ, hiện

tượng này rất phổ biến trong nhà Phật. Chẳng hạn, người mang tâm háo

thắng rất mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định muốn thắp

cây hương đầu tiên, không bằng lòng đứng sau người khác. Mọi việc

nhất định đều giành trước người khác. Họ có tu thiện không? Có, tu

thiện họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo này luôn

luôn rơi vào đường A Tu La.

Đức Phật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh. Bồ Tát đạo tu tâm khiêm hạ,

khiêm tốn, nhường nhịn. Chúng ta xem thấy ở trong “Kinh Hoa

Nghiêm” thấy được 53 vị Đồng Tham, 53 vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là

Phật Bồ Tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường,

rất tôn kính đối với người khác. Họ hạ thấp chính mình, nâng cao người

khác, không một chút ý niệm ngạo mạn, không háo thắng, không ngạo

mạn. Đây là Phật đạo. Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức.

Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa được thì kết quả biến thành A

Tu La.

Đây là nghiệp nhân của sáu cõi. Hướng lên trên là Thanh Văn tu Tứ Đế,

“khổ tập diệt đạo”, Duyên Giác tu “thập nhị nhân duyên”, Bồ Tát tu “lục

độ”, Phật tu “bình đẳng”. Thanh tịnh bình đẳng là Phật đạo. Đây là Đức

Phật Thích Ca Mâu Ni đem nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới

qui nạp lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta, giúp mọi người hiểu rõ

được nguyên nhân của quả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc

học Phật. Chúng ta không thể không hiểu, không thể không biết rõ.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

11

CÔNG ĐỨC SIÊU ĐỘ MẸ

ĐƢỢC NÊU TRONG KINH ĐỊA TẠNG

Đối với khởi tâm động niệm của chúng ta, tự mình hiểu được sẽ tương

ưng với đường nào. Loại tâm này, loại hành vi này của chúng ta kết quả

tương lai sẽ như thế nào, chẳng phải đã rất rõ ràng, minh bạch lắm sao!

Không hiểu đạo lý này, không biết chân tướng sự thật, làm càn làm

quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ác đạo. Phiền phức này lớn rồi! Họ có được

con hiền cháu thảo thì rất tốt. Xã hội hiện nay người hiếu thảo với cha

mẹ thì không nhiều.

Trong “Kinh Địa Tạng”, chúng ta thấy được nữ Quang Mục, nữ Bà La

Môn là những hiếu tử chân thật. Xem thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp,

rơi vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ, chân thật là

“thành tức linh”. Họ có tâm chân thành liền cảm động Phật Bồ Tát đến

giúp đỡ họ. Phật Bồ Tát dạy cho họ phương pháp.

Các vị cần hiểu rõ: Phật Bồ Tát cũng không thể cứu giúp, các Ngài có

thể dạy cho bạn phương pháp lý luận cứu giúp để bạn tự đi làm. Chúng

ta tỉ mỉ để quan sát ở trong Kinh xem họ được dạy phương pháp gì.

Chúng ta hiểu được phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượng vô

biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất.

Công đức siêu độ mẹ của Nữ Bà La Môn

Nữ Bà La Môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa Định Tự Tại

Vương Như Lai. Tuy không niệm Phật A Di Đà, nhưng niệm Giác Hoa

Định Tự Tại Vương Như Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này muốn

cứu khổ nạn của mẹ, cô biết mẹ mình bị đọa vào địa ngục. Sinh tiền, mẹ

cô tạo ra ác nghiệp. Cô cũng thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

12

chịu tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà mới gặp quả báo địa ngục. Phật

dạy cô niệm Phật, cô dụng công niệm Phật bằng tâm cứu mẹ rất khẩn

thiết. Cô nỗ lực liều mạng mà niệm, niệm đến một ngày một đêm thì cô

được định. Ở trong pháp môn niệm Phật của chúng ta mà nói, cô niệm

đến “nhất tâm bất loạn”.

“Nhất tâm bất loạn” thuộc về sự “nhất tâm bất loạn”, đó không phải là

công phu rất cao nhưng đích thực là có công phu, niệm đến “nhất tâm

bất loạn”. Các vị phải biết cô không phải là phàm phu. Tâm của phàm

phu là tán loạn. Niệm đến “nhất tâm bất loạn” tương đương với A La

Hán của Tiểu Thừa. Công phu này không dễ, rất khó đạt được. “Địa

Tạng Kinh” là Kinh Đại Thừa. Pháp môn của cô học là pháp môn Đại

Thừa. Hay nói cách khác, cô không phải là A La Hán nhưng công phu

đoạn chứng của cô tương đương với A La Hán, mà công đức tu tích của

cô vượt lên trên A La Hán. Cô là Bồ Tát. Cho nên cảnh giới trong định

liền hiện ra, cô nhìn thấy địa ngục.

Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô đến liền cung kính, kính

chào lễ phép hỏi cô: “Bồ Tát, Ngài đến đây có việc gì?”. Được “nhất tâm

bất loạn” thì là Bồ Tát, từ phàm phu cô liền trở thành Bồ Tát. Quỷ

vương gọi cô là Bồ Tát. Cô liền hỏi quỷ vương: “Mẹ tôi lúc tại thế tạo ra

vô số nghiệp tội, nhất định rơi vào địa ngục. Tôi xin hỏi ông, mẹ tôi hiện

tại ở nơi nào?”. Quỷ vương chắp tay kính cẩn nói rằng: “Chúc mừng cô!

Quả thực mẹ của cô ở trong địa ngục, nhưng ba hôm trước bởi vì cô

phát nguyện siêu độ cho bà nên ba hôm trước bà ấy đã thoát khỏi địa

ngục và được sinh lên cõi trời rồi”.

Mẹ cô được siêu độ như vậy, đây là sự thực. Cô tuyệt nhiên không mời

pháp sư đến tụng kinh, bái sám mà tự thân niệm Phật, niệm đến một

ngày một đêm, niệm đến “nhất tâm bất loạn”, rồi dùng công đức này hồi

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

13

hướng. Mẹ của cô liền thoát khỏi địa ngục mà sanh đến Đao Lợi Thiên.

Đây là đạo lý gì vậy? Chúng ta nhất định phải rõ ràng. Một người tu

hành chứng quả không dễ. Tại sao nữ Bà La Môn chỉ trong một ngày

một đêm có thể niệm đến “nhất tâm bất loạn”? Mọi người chúng ta thử

nghĩ xem, đó là công lao của mẹ cô. Nếu mẹ cô không đọa vào địa ngục,

không bị những khổ nạn, thì cô niệm Phật sẽ không có tâm khẩn thiết

đến thế, tuy niệm Phật nhưng cũng không thể đạt đến cảnh giới này.

Ngày nay, chúng ta niệm Phật đã nhiều năm mà tại sao ngay cả công

phu thành khối cũng không thể đạt được, đừng nói chi đến “nhất tâm bất

loạn”? Đó chính là do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu

của mình rơi vào A Tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta toàn tâm

toàn lực muốn cứu giúp họ. Đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp

này, chúng ta toàn tâm toàn lực tu tập thì tu thành.

Vì vậy nữ Bà La Môn niệm Phật niệm đến “nhất tâm bất loạn” là nhờ

mẹ của cô đã làm tăng thượng duyên cho cô. Nếu bà không bị đọa địa

ngục thì cô nhất định sẽ không có thành tựu này. Vậy nguồn gốc sâu xa

là mẹ cô đã giúp cô, cô cũng giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành Bồ Tát rồi,

quỷ thần cũng đối đãi đặc biệt với mẹ của cô. Đây chính là trên Kinh

nói: “Bảy phần công đức, mình được sáu phần”. Chính mình hồi hướng

cho thân bằng quyến thuộc của mình, họ được một phần. Một phần vinh

dự này của họ từ đâu mà có? Con gái đã làm Bồ Tát. Bà là mẹ của Bồ

Tát, cho nên những quỷ thần đối với bà đặc biệt cung kính xem trọng,

không thể đối đãi như đối với những tội nhân thông thường. Vì vậy, ở

trong địa ngục, bà được mời lên trời hưởng phước. Đôi bên đều có công

đức, đây mới là chân lý. Chúng ta nghĩ xem, đó là hợp tình hợp lý,

không phải là giả.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

14

Cho nên các vị nhất định cần hiểu rõ: Bạn muốn siêu độ cho thân

bằng quyến thuộc của bạn, chính bạn nhất định phải chăm chỉ tu

hành, tích công lũy đức. Bạn thật có tâm siêu độ thì phải thật tâm

mà tu hành. Bạn tu hành có thành tựu thì họ mới đƣợc độ. Bạn tu

hành không có thành tựu, họ cũng không nhận đƣợc phƣớc.

Thí dụ, bạn ở thế gian, bạn muốn để cho cha mẹ của mình, thân bằng

quyến thuộc của mình ở trong xã hội được tất cả mọi người tôn kính, thì

bạn nhất định cần phải thành tựu học vấn của mình, thành tựu đức hạnh

của mình khiến ngoài xã hội vừa nghe liền biết cha mẹ của người này,

quyến thuộc của người này thì mọi người đối với họ đặc biệt tôn trọng,

đặc biệt quan tâm, đặc biệt chiếu cố. Đây chính là gia trì. Đây chính là

cảm ứng tự nhiên. Đạo lý ở ngay chỗ này, đây chân thật là giúp đỡ họ,

cứu giúp họ. Đạo lý này mọi người rất dễ hiểu. Khi hiểu rõ đạo lý này

rồi thì bạn có thể liên tưởng đến nguyên lý, nguyên tắc trong “Kinh Địa

Tạng” đã nói. Bạn sẽ chợt hiểu ra, biết được siêu độ xác thực là có công

đức, xác thực là có thể giúp đỡ vong giả đã tạo tác nghiệp tội.

Công đức siêu độ mẹ của nữ Quang Mục

Câu chuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của

cô thì kém một chút, không thù thắng như nữ Bà La Môn. Cô cũng niệm

Phật, cũng là trong thời gian rất ngắn cô niệm Phật được công phu thành

khối. Vì sao biết được? Bởi vì cảnh giới của nữ Bà La Môn là cảnh giới

trong định. Còn cảnh giới của nữ Quang Mục là cảnh giới trong mộng.

Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Nữ

Quang Mục có được cảnh giới trong mộng cũng được xem là có thành

tựu. Nếu chiếu theo pháp môn niệm Phật bây giờ của chúng ta mà nói,

công phu của nữ Quang Mục là công phu thành khối, còn công phu của

nữ Bà La Môn là sự “nhất tâm bất loạn”.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

15

Bạn chính mình tu trì chưa có công phu chân thật. Công phu chân thật

này là từ nơi bà con quyến thuộc đọa lạc ở ác đạo, bạn hết lòng muốn

cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu học. Thành tựu của

chúng ta cũng chính là thành tựu của họ. Bạn không có thành tựu thì họ

cũng không có thành tựu. Đây là nguyên tắc nhất định phải hiểu. Đây là

ở trong Kinh điển, Phật giảng nói sự thật và nguyên lý siêu độ cho chúng

ta nghe một cách rõ ràng, tường tận, thông suốt, thấu đáo.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

16

CÔNG ĐỨC SIÊU ĐỘ

TRONG TỰ TRUYỆN “CẢNH TRẦN HỒI ỨC LỤC”

Sau đó chúng ta lại nghĩ, thời đại gần đây đã phát sinh những việc này.

Lão pháp sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên “Cảnh trần hồi ức lục”

của ông có một đoạn nói về việc siêu độ. Quyển sách này do đệ tử của

ông là Đại Quang pháp sư ghi chép lại, và được lưu thông rất phổ biến ở

Đài Loan. Vào lúc đó Đàm lão vẫn chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn,

hơn 40 tuổi. Nhưng trước khi xuất gia thì ông đã học Phật và rất dụng

công. Trước lúc xuất gia, khi còn ở Thiên Tân, ông cùng một nhóm gồm

mấy vị trí đồng đạo hợp cùng nhau nghiên cứu, cùng học “Kinh Lăng

Nghiêm” suốt tám (8) năm lạnh giá.

Trong số các bạn của ông có một vị họ Lưu cùng hợp tác mở tiệm thuốc

Bắc. Người bạn này của ông cũng trải qua tám (8) năm học “Kinh Lăng

Nghiêm”, cũng rất tâm đắc, lĩnh ngộ đối với “Kinh Lăng Nghiêm” và có

một chút công phu. Tuy sự công phu của vị họ Lưu còn kém quá xa so

với nữ Bà La Môn và nữ Quang Mục nhưng chỉ một chút công phu như

vậy mà ông cũng có được hiệu quả.

Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, không có

người đến mua thuốc nên ông Lưu ngủ gục ở trên quầy. Trong lúc đang

ngủ gục, ông Lưu thấy một giấc mộng nhưng giấc mộng này rất rõ ràng.

Ông mộng thấy có hai người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan

gia trái chủ của ông. Hai người này thiếu tiền của ông, họ thiếu nợ ông,

và ông tìm đến họ đòi nợ, buộc họ phải trả nợ. Hai người này vì không

có khả năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau đó, vì việc này mà ông Lưu

thường cảm thấy rất khó chịu. Nếu ông không tìm họ đòi nợ, thì hai

người này sẽ không treo cổ. Cho nên ông thường cảm thấy hối tiếc và ăn

năn về điều này. Bây giờ nằm mộng gặp lại họ, ông biết rõ hai người

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

17

này treo cổ chết rồi nên ông rất sợ bị họ đến để gây phiền phức. Tuy

nhiên hai người này vẻ mặt rất hiền, không giống kiểu muốn đến hại

ông. Cho nên ông hỏi họ: “Các người đến làm gì?” Hai người này liền

nói: “Chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu

liền được an, không lo sợ bị gây phiền phức, bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp:

“Vậy phải siêu độ thế nào cho các người?”. Họ nói: “Chỉ cần ông đồng ý

là được rồi”. Ông Lưu gật đầu: “Được, tôi đồng ý”. Lập tức hai linh hồn

này đạp vào đầu gối ông và đạp vào vai ông rồi được sanh lên trời.

Sau khi hai người này đi không được bao lâu, lại có hai người nữa đến.

Hai người này chính là vợ và con của ông đã qua đời. Họ cũng đến quỳ

xuống trước mặt ông cầu xin ông siêu độ. Ông liền hỏi: “Làm thế nào để

siêu độ?”. Cũng giống như lần trước, ông bằng lòng và cũng thấy hai

hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sanh thiên.

Sự việc được ghi chép trong “Cảnh trần hồi ức lục” đã nói rõ: Siêu độ

cần phải do chính bạn có công phu tu học. Bạn không có công phu, bạn

dựa vào cái gì để siêu độ cho người khác? Công phu của ông Lưu chính

là tám (8) năm băng giá học “Kinh Lăng Nghiêm”. Mọi người có công

phu này, có đạo lực này thì có thể siêu độ cho thân bằng quyến thuộc, có

thể siêu độ những người hữu duyên. Nếu bạn không có công phu này thì

không được.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

18

NGUỒN GỐC HÌNH THỨC SIÊU ĐỘ QUY MÔ LỚN

Chúng ta có thể đem những câu chuyện trong “Cảnh trần hồi ức lục”

cùng “Kinh Địa Tạng” hợp lại xem, đối với chân tướng sự thật này thì

chúng ta càng khẳng định: Việc Phật sự siêu độ qui mô lớn trong nhà

Phật thời hiện đại không tồn tại vào thời trước. Thời gian đầu học Phật,

tôi cũng có nghi vấn đối với vấn đề này. Tôi đã từng đem vấn đề này

thưa hỏi với pháp sư Đạo An.

Năm xưa, tôi có mối quan hệ rất tốt với pháp sư Đạo An. Pháp sư Đạo

An thành lập một đại duyên Phật học giảng tòa ở Đài Bắc, mời tôi đảm

nhiệm Tổng chủ giảng. Chúng tôi liên lạc qua lại không ít năm. Mới đầu

chúng tôi ở Tòng Sơn tự, sau đó rời đến cạnh Thiện Đạo tự, ở tầng trên

của đại giảng đường hội Phật giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một

lần. Khi đó học sinh rất đông, có khoảng hơn 800 người, khu Bắc Bộ ở

miền Bắc từ Cơ Long, ở miền Nam từ Tân Trúc. Đây là một việc hưng

thịnh của Hội Phật giáo. Pháp sư Đạo An là người phụ trách, là Chủ tịch

của giảng tòa. Tôi ở đó đảm nhiệm việc giảng dạy. Họ cho tôi danh

nghĩa là Tổng chủ giảng. Vào lúc đó, còn có pháp sư Ấn Hải, pháp sư

Trí Dụ, chúng tôi mấy người cùng phụ trách dạy học.

Tôi đã thỉnh giáo với lão pháp sư Đạo An: “Việc siêu độ từ đâu mà ra

vậy?”. Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói, Ngài nói đại khái căn gốc của việc

siêu độ là từ thời vua Đường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi

Quách Tử Nghĩa bình định động loạn, triều đình ở mỗi một chiến trường

lớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên tự. Vì được xây dựng vào

niên hiệu Khai Nguyên nên gọi là Khai Nguyên tự. Xây dựng tự miếu

này mục đích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hội siêu

độ đó có ý nghĩa cũng giống như lễ truy điệu hiện nay của chúng ta, mời

một số Cao tăng Đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng. Truy điệu là

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

19

mang ý nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng. Sau này dân gian dần dần

cũng làm việc này, cũng mời Pháp sư, Đại đức tụng kinh, bái sám siêu

độ tổ tiên. Có thể là do diễn biến này mà truyền lại.

Do đây mà biết, trước năm Khai Nguyên không có việc này, ghi chép về

việc này rất ít. Khai Nguyên về sau, Pháp hội siêu độ đích thực phát

triển nhưng đến nay đã hoàn toàn biến chất rồi. Vì sao nói là biến chất

rồi? Trước đây, siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi một năm làm

không quá một, hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu

hành. Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng. Phật giáo ở thế gian là độ

người chứ không độ quỷ, là độ người sống chứ không độ người chết.

Điều này chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng, hiểu tường tận.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

20

PHƢƠNG THỨC TU HỌC XƢA VÀ NAY

Cho nên trước đây trong tự viện, trong Tòng Lâm Ấn Độ nhìn chung

hoạt động hai thời giảng kinh, hai thời tu hành.

- Đơn vị thời gian của Ấn Độ xƣa khác với hiện nay. Người Ấn Độ

xưa chia một ngày đêm thành sáu (6) thời khắc: Ngày ba thời, đêm ba

thời. Ba thời của ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật. Ba

thời của ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ.

- Đơn vị thời gian của Trung Quốc xƣa là mười hai (12) thời: Tý,

Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đơn vị

thời gian của Trung Quốc xưa ngắn hơn so với Ấn Độ xưa.

- Đơn vị thời gian hiện tại, chúng ta đang áp dụng đơn vị thời gian

của Tây phương. Người Tây phương phân chia đơn vị thời gian trong

một ngày càng ngắn hơn: Một ngày đêm phân ra thành hai mươi bốn

(24) tiếng. Chúng ta gọi đó là “giờ tiểu thời”, người phương Tây

không nói “tiểu thời”. Tại sao chúng ta gọi là “giờ”? “Giờ” nhỏ hơn

“thời”.

Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung

Quốc xưa. Hai thời khắc của Trung Quốc xưa mới là một thời khắc của

Ấn Độ xưa. Vậy thì bạn liền biết, thời xưa, tự viện Tòng Lâm giảng kinh

lên lớp hai (2) thời, tương đương tám (8) tiếng đồng hồ hiện nay.

Tự viện là trường học. Trong tự viện đều là thường trụ, người xuất gia

thường trú và cư sĩ thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi

danh nghe Kinh. Ghi danh nghe Kinh chính là bạn muốn nghe một bộ

Kinh này. Thời gian giảng một bộ Kinh tương đối dài: Một bộ Kinh nhỏ

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

21

cần giảng khoảng từ một đến hai tuần. Thông thường một bộ Kinh cần

giảng từ ba tháng đến nửa năm. Nếu giảng một bộ Kinh lớn như “Kinh

Hoa Nghiêm”, một ngày giảng tám (8) tiếng thì thời gian giảng là một

năm. Bạn muốn học bộ Kinh này, nghe bộ Kinh này, bạn nhất định phải

đến ở trong tự viện một năm. Cho nên ghi danh nghe Kinh chính là báo

danh. Sau khi được đồng ý phê chuẩn thì bạn có thể ở lại một năm trong

tự viện.

Ở trong tự viện, người tại gia đương nhiên cũng cúng dường chút ít phí

dụng sinh hoạt, đồng thời làm một số công việc của thường trụ như quét

nhà, dọn dẹp vệ sinh theo phân công công việc. Bạn ở đó an tâm mà tu

học. Cho nên đó là trường học, thực sự là đạo tràng.

Một ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, còn phải tu

hành. Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hai phương

pháp lớn là niệm Phật và tham Thiền, vì thế mà có Thiền đường và niệm

Phật đường. Ở trong Thiền đường dạy bạn phải ngồi Thiền, sớm tối ở đó

ngồi Thiền, đại khái khoảng tám (8) tiếng. Bạn không vào Thiền đường

tham Thiền thì bạn đến niệm Phật đường để niệm Phật, cũng là tám (8)

giờ đồng hồ. Các vị thử nghĩ xem, một ngày có tám (8) tiếng học thuật

và giảng giải, thực hành tám (8) giờ đồng hồ, còn lại tám (8) giờ đồng

hồ dành cho bản thân nghỉ ngơi, sinh hoạt thường nhật.

Đạo tràng huân tu, con người không vọng tưởng, không có thời gian để

vọng tưởng, không có thời gian sinh phiền não cho nên hiệu quả nổi bật.

Sau ba (3) tháng ở đạo tràng như vậy, khí chất con người thay đổi. Tại

sao vậy? Không có thời gian khởi vọng tưởng, không có thời gian khởi

phiền não. Không nghiên cứu, thảo luận, nghe Kinh thì lão thật niệm

Phật hoặc ở Thiền đường tịnh tọa thì có thể đạt được hiệu quả.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

22

Nhìn chung, hiện nay, đạo tràng tự viện không còn nữa. Giải môn không

có, rất ít giảng kinh, công phu cũng không có, nghe nói nhiều nhất là

một năm làm một thiền thất, hoặc một Phật thất. Người ta lấy việc siêu

độ người chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây là độ

người sống, bây giờ Phật giáo độ người chết. Trước đây Phật giáo là

giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo. Hiện tượng này phát sinh như thế

nào? Làm sao diễn biến thành như vậy? Chúng ta cần phải biết, cần phải

hiểu rõ, sau đó chúng ta chính mình phải rõ ràng ở trong Phật môn cần

phải học cái gì.

Chúng ta tiếp nhận giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trước mắt

chúng ta cần cải thiện cuộc sống của chính mình và nâng cao cảnh giới

của chính mình trong tương lai. Việc này các nhà khoa học nói rằng,

chúng ta cần đột phá thời không. Mười pháp giới chính là mười thời

không khác nhau. Bây giờ chúng ta nói vĩ độ không giống nhau: Ba (3)

độ không gian, bốn (4) độ không gian, năm (5) độ không gian…Khoa

học gia đã chứng thực, tối thiểu có mười một độ (11) độ không gian

đang tồn tại. Cách nói đó cũng giống như mười pháp giới của nhà Phật

nói. Mười pháp giới là mười loại thời không khác nhau. Đức Phật dạy

chúng ta đột phá, đột phá sáu cõi, đột phá mười pháp giới, chúng ta mới

có thể chứng được Nhất Chân Pháp Giới. Việc này chúng ta học Phật

phải nên biết.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

23

VIỆC SIÊU ĐỘ QUY MÔ LỚN CÓ HIỆU QUẢ KHÔNG?

Vậy việc siêu độ quy mô lớn có hiệu quả hay không? Không thể nói

không có hiệu quả, quan trọng nhất là ở người chủ pháp hay người chủ

trì siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng thì sức mạnh rất rõ ràng, giống

như Lương Võ Đế trong “Lương Hoàng Sám” vậy. Lương Võ Đế ngày

xưa rất yêu quí một phi tử. Người này đã tạo tác nghiệp tội, bị đọa vào

ác đạo. Lương Võ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời Bảo Trí Công

đến chủ trì pháp hội siêu độ. Về sau sự việc này được ghi chép lại gọi là

“Lương Hoàng Sám”. Trong văn tự “Lương Hoàng Sám” ghi chép rất rõ

ràng: Bảo Trí Công chính là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngài

siêu độ phi tử của Lương Võ Đế từ ác đạo đến trời Đao Lợi. Việc như

vậy, chúng ta ở trong truyện ký đã xem thấy rất nhiều. Vì vậy, người chủ

pháp đàn cần có tu, có chứng.

Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng không còn nữa. Cho nên cả

đời tôi không dám làm Phật sự siêu độ. Tôi không có năng lực này,

không có đức năng này. Quán trưởng của chúng ta rất xem trọng đối với

việc tôi cũng không phản đối. Ngày trước quán trưởng Hàn Anh chúng

tôi có một đạo tràng. Chúng ta thành tâm thành ý mà làm, dựa vào chân

thành mà làm thì có thể cảm ứng.

Cho nên lúc trước ở thư viện, mỗi năm có ba (3) lần pháp hội siêu độ.

Chúng ta bình thường là giảng kinh niệm Phật, mặc dù không đạt được

tiêu chuẩn như thời xưa, không làm được đến tám (8) giờ giảng kinh,

tám (8) giờ niệm Phật như thời xưa nhưng chúng ta bây giờ mỗi ngày

giảng kinh 1,5 giờ đồng hồ. Nội bộ đồng tu cũng có một, hai giờ nghiên

cứu thảo luận, miễn cưỡng cũng giống thời xưa một chút. Chúng tôi

luôn yêu cầu niệm Phật không gián đoạn.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

24

Mỗi năm đến kỳ Thanh minh, Trung nguyên, Đông chí, chúng tôi tổ

chức ba (3) lần pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Chúng tôi cúng tế tổ tiên

không cần bạn đến đây viết bài vị. Bài vị mà chúng tôi viết sẵn là bài vị

tổ tiên trăm họ, tất cả đều bình đẳng. Vì vậy, bài vị chúng tôi cúng là bài

vị tổ tiên trăm họ, một mực bình đẳng. Chúng tôi làm pháp bình đẳng,

không phân biệt bài vị lớn bao nhiêu tiền, bài vị nhỏ bao nhiêu tiền. Bạn

muốn cúng tiền thì tùy hỷ, hoàn toàn không miễn cưỡng, cũng không có

quy định nào. Pháp hội chúng tôi hoàn toàn không thu phí cúng dường

bài vị, một xu cũng không thu, một phân tiền cũng không lấy. Mỗi năm

chúng tôi làm ba lần pháp hội.

Nhưng gần đây, vì xã hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi tháng

chúng tôi làm “Tam thời hệ niệm” một lần, thành tâm thành ý siêu độ

cho tất cả oan hồn, người chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự

phụ thêm của đạo tràng chúng tôi. Hy vọng các vị hiểu được lý luận và

sự thật của việc siêu độ. Làm thì tốt hơn là không làm, chỉ cần tận tâm

tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng.

Lý luận và sự thật của việc siêu độ

25

Nguyện cả thảy chúng sinh

Đều tín niệm Di Đà

Đồng cầu sanh về nƣớc Cực Lạc

Nguyện đem công đức này

Trang nghiêm cõi nƣớc Phật

Trên đền bốn ơn nặng

Dƣới cứu khổ ba đƣờng

Nếu có ngƣời nghe thấy

Đều phát tâm Bồ Đề

Hết một báo thân này

Đồng sanh về nƣớc Cực Lạc

Nam Mô A Di Đà Phật

26