31
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC VIỆT NAM PGS,TS Đức Vượng 1. Thực trạng nhân lực Việt Nam: Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố dân số Việt Nam là 87 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75. Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com 1

Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC VIỆT

NAM                                                                                                                                                 

        PGS,TS Đức Vượng

1. Thực trạng nhân lực Việt Nam:     Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.     Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố dân số Việt Nam là 87 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75.

     Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn

61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả

nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp,

thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của

nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây,

nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.

     Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được

khai thác, chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy

nghề trồng lúa. Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có

người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng

dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như

vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề

trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động

nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được

đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân

còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông

nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh

mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com1

Page 2: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh

nghiệp) hiện đang còn là hình thức.

     Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ

phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến

năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông

nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị.

     Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào

tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở

các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh

nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực

lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động

rất thấp.

     Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động

và quy hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với

nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang

tínhkhuyến khích và tính cạnh tranh.

     Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt

Nam hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công

nhân đang làm việc ở nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với

hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh

doanh cá thể). Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam

có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề cao

chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.     

     Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung

tâm dạy nghề. Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275.

Theo số liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có

123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung

tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề

trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng

600 nghề có nhu cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123

trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com2

Page 3: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình

độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.

     Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và

công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng

còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong

khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực

phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.

     Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với

nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi

tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn

đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công

nhân.

     Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có

những chuyển biến tích cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ

cấu, chất lượng được nâng lên từng bước. Trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân

ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công

nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng

nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành

nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế;

phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản

và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện

đầy đủ"1. 

     Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh

tế - xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới

trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó,

những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng

không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân;

những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa

sát hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com3

Page 4: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm

chính sách đối với công nhân và người lao động.

     Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên

đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức

Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại

học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn

người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người;

năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm

2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng

14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư;

16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học

và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có

49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên

trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo

viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70%

giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức

Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số

gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang

giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.

     Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có

143 trường đại học, đại học, học viện2; 178 trường cao đẳng; 285

trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước

hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5

nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7

trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so

với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế

giới.

     Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm

học 2007-2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95

trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ

thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64

trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập.

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com4

Page 5: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

     Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập

ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài

công lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ

thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là

31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.

Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi

quốc gia trung học phổ thông năm học 2007-2008.

     Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ

tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai

đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước.

     Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo

là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng

14,1% so với thực hiện năm 2007.

     Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là

công chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các

ngành của đất nước cũng tăng nhanh:

      Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5

nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42,

địa phương 12).

     Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp

và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ

quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân

viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát

hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện

tử, đài phát thanh, truyền hình.

     Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần

39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành

kho bạc là 13.536 người.

     Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định

chính sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong

đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89

thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com5

Page 6: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người

có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),

… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người

dân).

     Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các

cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.

     Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có

52,893 người.

     Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên

chức đã dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng

nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất

cập. Đa số công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan công

quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên chức như

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều

đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra

trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất

1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng

không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa

được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt

nghiệp đại học là 161.411 người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học,

người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu

đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm,

cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x

63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ

đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).

     Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con

số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.

     Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong

đó có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất

cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã

hội. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến

8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com6

Page 7: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố

ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.

     Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:

     - Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan

tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được

nâng cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa

được đào tạo.

     - Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu

thuẫn giữa lượng và chất.

     - Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân,

công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng

nhau thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

     Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số

lượng đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có

tác phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà

khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những

nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi;

chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình

luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm

bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào

tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh

hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

     2. Phương hướng và giải pháp về phát triển nhân lực Việt

Nam:

     Về những giải pháp phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020 đã

được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và

được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011). Chiến lược

phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được Chính phủ

thông qua trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19-4-2011. Quy

hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã được

Thủ tướng Chính phủ ký tại Quyết định 1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011.

Đó là những văn bản pháp lý quan trọng có tính định hướng để phát

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com7

Page 8: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.           

     Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một bước đột

phá chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng

khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng

trưởng, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm đưa nền kinh tế của đất nước

phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả.

     Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 nhằm đưa nhân lực

đất nước trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để tạo sự phát

triển bền vững, ổn định xã hội, hội nhập quốc tế. Xây dựng nhân lực

chất lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công

nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành,

công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương

đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu,

tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công

nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản

lý doanh nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng

hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu

ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại

và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

     Theo Quyết định số 1216/QĐ, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính

phủ, về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai

đoạn 2011-2020, thì trong 10 năm tới cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực

qua đào tạo trong nền kinh tế với cơ cấu hợp lý. Tổng số nhân lực qua

đào tạo năm 2015 là khoảng 30,5 triệu người (chiếm khoảng 55,0%

trong tổng số 55 triệu người làm việc trong nền kinh tế đất nước) và

năm 2020, có khoảng gần 44 triệu người (chiếm khoảng 70,0% trong

tổng số gần 63 triệu người làm việc trong nền kinh tế). Trong tổng số

nhân lực qua đào tạo, số nhân lực đào tạo qua hệ thống dạy nghề đến

năm 2015 có khoảng 23,5 triệu người (tăng 77%). Đến năm 2020 có

khoảng 34,4 triệu người (bằng 78,5%). Số nhân lực đào tạo qua hệ

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com8

Page 9: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

thống giáo dục - đào tạo đến năm 2015 có khoảng 7 triệu người (bằng

23%), đến năm 2020 có khoảng 9,4 triệu người (bằng 21,5%).

     Về cơ cấu bậc đào tạo, năm 2015, số nhân lực qua đào tạo ở bậc sơ

cấp nghề khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số nhân lực

đã qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp khoảng 7 triệu người

(khoảng 23%);  bậc cao đẳng gần 2 triệu người (khoảng 6%); bậc đại

học khoảng 3,3 triệu người (khoảng 11%); bậc trên đại học khoảng 200

nghìn người (khoảng 0,7%). Năm 2020, số nhân lực đào tạo ở bậc sơ

cấp nghề khoảng gần 24 triệu người (khoảng 54%) tổng số nhân lực

qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp nghề khoảng gần 12 triệu

người (khoảng 27%); bậc cao đẳng hơn 3 triệu người (khoảng 7%); bậc

đại học khoảng 5 triệu người (khoảng 11%) và bậc trên đại học khoảng

300 nghìn người (khoảng 0,7%).

     Phát triển nhân lực đến năm 2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực

như công nghiệp; xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông

vận tải; tài nguyên, môi trường; du lịch; ngân hàng; tài chính; công

nghệ thông tin; năng lượng hạt nhân; đào tạo nhân lực để đi làm việc ở

nước ngoài đã được quy định cụ thể trong Quyết định 1216.

     Nhân lực chủ thể cũng đã được định hình: Cán bộ lãnh đạo là những

người đứng đầu cấp trưởng và phó của các cơ quan trung ương: Đảng,

Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương; cơ

quan đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, các sở, ban, ngành

và tương đương; đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh,

thành phố, trực thuộc trung ương.

     Đến năm 2015, tổng số cán bộ lãnh đạo của cả nước có khoảng 200

nghìn người, trong đó, số người có trình độ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ

là hơn 120 nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 220 nghìn người,

trong đó, số người có trình độ từ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ là 147

nghìn người.

     Tổng số lãnh đạo các cấp cần bồi dưỡng từ năm 2011 đến năm

2015 là khoảng 20 nghìn người; từ năm 2016 đến năm 2020 khỏng 15

nghìn người.

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com9

Page 10: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

     Đội ngũ công chức, viên chức của cả nước đến năm 2015 có khoảng

5,3 triệu người, trong đó, số công chức, viên chức có trình độ cử nhân,

thạc sĩ, tiến sĩ khoảng 2,8 triệu người, chiếm khoảng 52% trong tổng số

đội ngũ công chức, viên chức của cả nước. Đến năm 2020, số công

chức, viên chức của cả nước có khoảng 6 triệu người, trong đó, số công

chức, viên chức có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ có khoảng 3,8 triệu

người, chiếm khoảng 63% trong tổng số đội ngũ công chức, viên chức

của cả nước.

Tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn,

nghiệp vụ từ năm 2011 đến năm 2015 khoảng 20%; thời kỳ 2016-2020

khoảng 15% tổng số công chức, viên chức.

     Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đến năm 2015 tăng lên khoảng

103 nghìn người, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 28

nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 154 nghìn cán bộ khoa học,

công nghệ, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 40 nghìn

người.

     Về đội ngũ giáo viên, giảng viên trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng

và đại học đến năm 2015, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp

chuyên nghiệp có khoảng 38 nghìn người, trong đó, có khoảng 30% có

trình độ thạc sĩ trở lên; số giáo viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng

33,5 nghìn người, trong đó khoảng 6% tổng số giáo viên, giảng viên có

trình độ tiến sĩ; số giáo viên, giảng viên bậc đại học khoảng 62,1 nghìn

người, trong đó, số người có trình độ tiến sĩ khoảng 23%. Đến năm

2020, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp chuyên nghiệp khoảng 48

nghìn người, trong đó, khoảng 38,5% có trình độ thạc sĩ trở lên; số giáo

viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng 44,2 nghìn người, trong đó, tỷ lệ

giáo viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 8%; số giáo viên, giảng

viên bậc đại học khoảng 75,8 nghìn người, trong đó, số giáo viên, giảng

viên có trình độ tiến sĩ khoảng 30%.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC VIỆT NAMTHỨ BA, 13 THÁNG 11 2012 17:04 PHÒNG TT&CS

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com10

Page 11: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC VIỆT

NAM                                                                                                                                                         PGS,TS Đức Vượng1. Thực trạng nhân lực Việt Nam:     Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.     Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố dân số Việt Nam là 87 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng 100 triệu người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75.

 

     Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn

61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả

nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp,

thủy sản; có 217 làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của

nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây,

nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.

     Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được

khai thác, chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy

nghề trồng lúa. Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có

người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng

dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như

vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề

trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động

nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được

đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân

còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông

nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com11

Page 12: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc

liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh

nghiệp) hiện đang còn là hình thức.

     Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ

phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến

năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông

nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị.

     Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào

tạo, cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở

các khu công nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh

nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực

lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng lao động

rất thấp.

     Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động

và quy hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với

nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang

tínhkhuyến khích và tính cạnh tranh.

     Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt

Nam hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công

nhân đang làm việc ở nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với

hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh

doanh cá thể). Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam

có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề cao

chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói chung.     

     Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung

tâm dạy nghề. Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275.

Theo số liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có

123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung

tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề

trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng

600 nghề có nhu cầu đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123

trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com12

Page 13: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình

độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.

     Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và

công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng

còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong

khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực

phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.

     Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với

nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi

tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn

đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công

nhân.

     Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có

những chuyển biến tích cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ

cấu, chất lượng được nâng lên từng bước. Trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân

ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công

nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng

nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành

nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế;

phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản

và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện

đầy đủ"1. 

     Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh

tế - xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới

trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó,

những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng

không nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân;

những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa

sát hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân. Trong các doanh

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com13

Page 14: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi phạm

chính sách đối với công nhân và người lao động.

     Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên

đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức

Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại

học và cao đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn

người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người;

năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm

2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có khoảng

14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư;

16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học

và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có

49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên

trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo

viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70%

giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức

Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số

gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang

giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.

     Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có

143 trường đại học, đại học, học viện2; 178 trường cao đẳng; 285

trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước

hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5

nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7

trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so

với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế

giới.

     Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm

học 2007-2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95

trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ

thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64

trường cao đẳng, đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập.

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com14

Page 15: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

     Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập

ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài

công lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ

thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là

31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%.

     Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi

quốc gia trung học phổ thông năm học 2007-2008.

     Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ

tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai

đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước.

     Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo

là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng

14,1% so với thực hiện năm 2007.

     Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là

công chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các

ngành của đất nước cũng tăng nhanh:

      Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5

nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42,

địa phương 12).

     Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp

và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ

quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân

viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát

hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện

tử, đài phát thanh, truyền hình.

     Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần

39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành

kho bạc là 13.536 người.

     Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định

chính sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong

đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89

thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com15

Page 16: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người

có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),

… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người

dân).

     Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các

cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.

     Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có

52,893 người.

     Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên

chức đã dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng

nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất

cập. Đa số công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan công

quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công chức, viên chức như

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều

đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra

trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất

1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng

không đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa

được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt

nghiệp đại học là 161.411 người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học,

người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu

đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm,

cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x

63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ

đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).

     Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con

số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.

     Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong

đó có công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất

cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã

hội. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến

8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com16

Page 17: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố

ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.

     Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:

     - Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan

tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được

nâng cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa

được đào tạo.

     - Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu

thuẫn giữa lượng và chất.

     - Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân,

công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng

nhau thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

     Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số

lượng đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có

tác phong công nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà

khoa học thật sự giỏi; chưa có những chuyên gia giỏi; chưa có những

nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà thuyết trình giỏi;

chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài bình

luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm

bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào

tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh

hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

     2. Phương hướng và giải pháp về phát triển nhân lực Việt

Nam:

     Về những giải pháp phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020 đã

được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và

được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011). Chiến lược

phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được Chính phủ

thông qua trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19-4-2011. Quy

hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng đã được

Thủ tướng Chính phủ ký tại Quyết định 1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011.

Đó là những văn bản pháp lý quan trọng có tính định hướng để phát

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com17

Page 18: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.           

     Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một bước đột

phá chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng

khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng

trưởng, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm đưa nền kinh tế của đất nước

phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả.

     Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 nhằm đưa nhân lực

đất nước trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để tạo sự phát

triển bền vững, ổn định xã hội, hội nhập quốc tế. Xây dựng nhân lực

chất lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công

nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành,

công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương

đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng lực nghiên cứu,

tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công

nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản

lý doanh nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng

hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu

ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại

và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

     Theo Quyết định số 1216/QĐ, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính

phủ, về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai

đoạn 2011-2020, thì trong 10 năm tới cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực

qua đào tạo trong nền kinh tế với cơ cấu hợp lý. Tổng số nhân lực qua

đào tạo năm 2015 là khoảng 30,5 triệu người (chiếm khoảng 55,0%

trong tổng số 55 triệu người làm việc trong nền kinh tế đất nước) và

năm 2020, có khoảng gần 44 triệu người (chiếm khoảng 70,0% trong

tổng số gần 63 triệu người làm việc trong nền kinh tế). Trong tổng số

nhân lực qua đào tạo, số nhân lực đào tạo qua hệ thống dạy nghề đến

năm 2015 có khoảng 23,5 triệu người (tăng 77%). Đến năm 2020 có

khoảng 34,4 triệu người (bằng 78,5%). Số nhân lực đào tạo qua hệ

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com18

Page 19: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

thống giáo dục - đào tạo đến năm 2015 có khoảng 7 triệu người (bằng

23%), đến năm 2020 có khoảng 9,4 triệu người (bằng 21,5%).

     Về cơ cấu bậc đào tạo, năm 2015, số nhân lực qua đào tạo ở bậc sơ

cấp nghề khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số nhân lực

đã qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp khoảng 7 triệu người

(khoảng 23%);  bậc cao đẳng gần 2 triệu người (khoảng 6%); bậc đại

học khoảng 3,3 triệu người (khoảng 11%); bậc trên đại học khoảng 200

nghìn người (khoảng 0,7%). Năm 2020, số nhân lực đào tạo ở bậc sơ

cấp nghề khoảng gần 24 triệu người (khoảng 54%) tổng số nhân lực

qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp nghề khoảng gần 12 triệu

người (khoảng 27%); bậc cao đẳng hơn 3 triệu người (khoảng 7%); bậc

đại học khoảng 5 triệu người (khoảng 11%) và bậc trên đại học khoảng

300 nghìn người (khoảng 0,7%).

     Phát triển nhân lực đến năm 2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực

như công nghiệp; xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông

vận tải; tài nguyên, môi trường; du lịch; ngân hàng; tài chính; công

nghệ thông tin; năng lượng hạt nhân; đào tạo nhân lực để đi làm việc ở

nước ngoài đã được quy định cụ thể trong Quyết định 1216.

     Nhân lực chủ thể cũng đã được định hình: Cán bộ lãnh đạo là những

người đứng đầu cấp trưởng và phó của các cơ quan trung ương: Đảng,

Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương; cơ

quan đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, các sở, ban, ngành

và tương đương; đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh,

thành phố, trực thuộc trung ương.

     Đến năm 2015, tổng số cán bộ lãnh đạo của cả nước có khoảng 200

nghìn người, trong đó, số người có trình độ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ

là hơn 120 nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 220 nghìn người,

trong đó, số người có trình độ từ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ là 147

nghìn người.

     Tổng số lãnh đạo các cấp cần bồi dưỡng từ năm 2011 đến năm

2015 là khoảng 20 nghìn người; từ năm 2016 đến năm 2020 khỏng 15

nghìn người.

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com19

Page 20: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

     Đội ngũ công chức, viên chức của cả nước đến năm 2015 có khoảng

5,3 triệu người, trong đó, số công chức, viên chức có trình độ cử nhân,

thạc sĩ, tiến sĩ khoảng 2,8 triệu người, chiếm khoảng 52% trong tổng số

đội ngũ công chức, viên chức của cả nước. Đến năm 2020, số công

chức, viên chức của cả nước có khoảng 6 triệu người, trong đó, số công

chức, viên chức có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ có khoảng 3,8 triệu

người, chiếm khoảng 63% trong tổng số đội ngũ công chức, viên chức

của cả nước.

     Tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn,

nghiệp vụ từ năm 2011 đến năm 2015 khoảng 20%; thời kỳ 2016-2020

khoảng 15% tổng số công chức, viên chức.

     Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đến năm 2015 tăng lên khoảng

103 nghìn người, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 28

nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 154 nghìn cán bộ khoa học,

công nghệ, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 40 nghìn

người.

     Về đội ngũ giáo viên, giảng viên trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng

và đại học đến năm 2015, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp

chuyên nghiệp có khoảng 38 nghìn người, trong đó, có khoảng 30% có

trình độ thạc sĩ trở lên; số giáo viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng

33,5 nghìn người, trong đó khoảng 6% tổng số giáo viên, giảng viên có

trình độ tiến sĩ; số giáo viên, giảng viên bậc đại học khoảng 62,1 nghìn

người, trong đó, số người có trình độ tiến sĩ khoảng 23%. Đến năm

2020, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp chuyên nghiệp khoảng 48

nghìn người, trong đó, khoảng 38,5% có trình độ thạc sĩ trở lên; số giáo

viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng 44,2 nghìn người, trong đó, tỷ lệ

giáo viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 8%; số giáo viên, giảng

viên bậc đại học khoảng 75,8 nghìn người, trong đó, số giáo viên, giảng

viên có trình độ tiến sĩ khoảng 30%.

     Về đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề đến năm 2015, số giáo

viên, giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 51 nghìn người, trong đó,

giáo viên, giảng viên cao đẳng nghề khoảng 13 nghìn người; giáo viên,

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com20

Page 21: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

giảng viên trung cấp nghề khoảng 24 nghìn người; giáo viên, giảng

viên sơ cấp nghề khoảng 14 nghìn người. Đến năm 2020, số giáo viên,

giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 77 nghìn người, trong đó, giáo

viên, giảng viên cao đẳng nghề là 28 nghìn người; giáo viên, giảng viên

trung cấp nghề khoảng 31 nghìn người; giáo viên, giảng viên sơ cấp

nghề khoảng 28 nghìn người.

     Về đội ngũ cán bộ y tế đến năm 2015, tổng số cán bộ y tế có

khoảng 385 nghìn người, trong đó, số bác sĩ khoảng từ 74 - 75 nghìn

người (đạt 41 cán bộ y tế/10 nghìn dân, trong đó, đạt khoảng 8 bác

sĩ/10 nghìn dân). Đến năm 2020, tổng số cán bộ y tế có khoảng 500

nghìn người, trong đó, số bác sĩ khoảng từ 96 - 97 nghìn người (đạt 52

cán bộ y tế/10 nghìn dân, trong đó, đạt khoảng 10 bác sĩ/10 nghìn

dân).

     Đội ngũ cán bộ văn hóa, thể thao đến năm 2015 có khoảng 88

nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 113 nghìn người, trong đó, lĩnh

vực văn hóa năm 2015 khoảng 57 nghìn người và năm 2020 khoảng 75

nghìn người; lĩnh vực thể thao năm 2015 khoảng 22 nghìn người và

năm 2020 khoảng 28 nghìn người.

     Về đội ngũ cán bộ tư pháp đến năm 2020 cần bổ sung thêm khoảng

700 chấp hành viên, khoảng 1.300 thẩm tra viên, thẩm tra viên chính,

khoảng 4.300 đến 4.500 thư ký thi hành án, 1.600 kế toán. Đến năm

2020, ngành tư pháp cần bổ sung thêm khoảng 18 nghìn luật sư và

khoảng 2 nghìn công chứng viên, đào tạo cán bộ pháp luật cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ (mỗi doanh nghiệp cần từ 1 đến 2 cán bộ

pháp luật). Các cơ quan tư pháp địa phương đến năm 2020 cần khoảng

17 nghìn người.

     Về đội ngũ cán bộ tòa án đến năm 2020 cần bổ sung khoảng 1

nghìn người mỗi năm, trong đó có khoảng 500 thẩm phán. Như vậy,

nhu cầu nhân lực của ngành tòa án đến năm 2020 là khoảng 22 nghìn

cán bộ, công chức.

     Về đội ngũ doanh nhân đến năm 2015, cả nước có khoảng từ 1,5

đến 2 triệu người. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ,

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com21

Page 22: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

tiến sĩ chiếm khoảng 78% tổng số đội ngũ doanh nhân. Đến năm 2020,

cả nước có khoảng từ 2,5 đến 3 triệu doanh nhân. Tỷ lệ doanh nhân có

trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ chiếm khoảng 80% trong tổng

số đội ngũ doanh nhân.

     Nhân lực để phát triển của các ngành kinh tế biển; nhân lực của các

lực lượng vũ trang; nhân lực các vùng kinh tế - xã hội (vùng trung du

và miền núi phía bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng bắc Trung Bộ

và duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng đông Nam Bộ, vùng

đồng bằng sông Cửu Long) đều đã được quy hoạch tổng thể.

     Quy mô đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng năm 2020 có

khoảng 3,4 - 3,9 triệu sinh viên. Tỷ lệ sinh viên vào năm 2020 là từ 350

- 400 người/trên 1 vạn dân.

     Mạng lưới trường đại học và cao đẳng vào năm 2020 sẽ có tổng

cộng 573 trường, trong đó, 259 trường đại học và 314 trường cao đẳng.

Trong giai đoạn 2011-2015 sẽ thành lập thêm 158 trường (70 trường

đại học và 88 trường cao đẳng).

     Về mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung

tâm dạy nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề): Đến năm 2015 có 190

trường cao đẳng nghề, trong đó, có 60 trường ngoài công lập; 300

trường trung cấp nghề, trong đó, có 100 trường ngoài công lập; 920

trung tâm dạy nghề, trong đó có 320 trung tâm ngoài công lập. Đến

năm 2020 có khoảng 230 trường cao đẳng nghề, trong đó, có 80

trường ngoài công lập; 310 trường trung cấp nghề, trong đó có 120

trường ngoài công lập; 1.050 trung tâm dạy nghề, trong đó có 350

trung tâm ngoài công lập.

Tổng vốn đầu tư cho phát triển nhân lực đến năm 2020 (gồm giáo dục

và đào tạo; dạy nghề; y tế; chăm sóc sức khỏe,...) khoảng 2.135 nghìn

tỷ VNĐ, chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

     Để thực hiện những chỉ tiêu trên, cần có những giải pháp:

     Một là: Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá

nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com22

Page 23: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy

nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân

lực, hoặc tài nguyên con người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy

rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức

và chất lượng nhân lực thành lợi thế cạnh tranh trên phương diện toàn

cầu. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, mang tính xã hội; là trách nhiệm

của các cấp lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của doanh nghiệp, của

gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động. "Đây chính là thể

hiện quan điểm phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội vì con

người và do con người, là một trong những nội dung cơ bản của phát

triển bền vững"3.

Hai là: Mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội về nhân lực Việt

Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát

động phong trào thi đua yêu nước tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần giúp cho mọi người hiểu rõ

về các chính sách phát triển nhân lực. Vận động các doanh nghiệp

tham gia đào tạo nhân lực để sử dụng với chất lượng ngày càng cao.

     Ba là: Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực,

việc làm, giáo dục, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, đãi

ngộ; chính sách trọng dụng chuyên gia, tham mưu, kỹ sư, tổng công

trình sư, nhà thiết kế, phát minh, gọi chung là nhân tài, chính sách về

môi trường, điều kiện, phương tiện làm việc; chính sách việc làm, thu

nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách cho các cơ quan khoa học

NGO. Tổ chức tốt việc việc thực hiện các chính sách đó. Cải cách chế

độ tiền lương cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, có chế độ ưu đãi cho

người học.

     Bốn là: Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; hoàn thiện

bộ máy quản lý phát triển nhân lực nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhân lực; đổi mới phương pháp giáo dục, quản lý

nhân lực, thấu tình đạt lý, nhìn rõ đúng sai, kịp thời rút kinh nghiệm về

quản lý nhân lực. Tổ chức bộ máy quản lý nhân lực từ trung ương đến

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com23

Page 24: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

địa phương. Nhân sự cho bộ máy này phải là những chuyên gia giỏi về

nghiên cứu nhân tài, nhân lực trong và ngoài biên chế nhà nước. Làm

rõ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy này là tư vấn, tham mưu, đề xuất;

thu thập, phân tích các số liệu về nguồn nhân lực ở tất cả các ngành,

các cấp.

     Năm là: Tiến hành điều tra, khảo sát thường xuyên về nhân lực và

chất lượng nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp, địa phương và cả

nước;bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội

trong phạm vi cả nước và trong từng ngành, từng cấp.

Sáu là: Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp với

hoàn cảnh Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và hội

nhập quốc tế, chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế.

     Bảy là: Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo và dạy nghề từ trung

ương đến địa phương; tổ chức hợp lý hệ thống cấp bậc đào tạo; thực

hiện phân cấp quản lý đào tạo giữa bộ, ngành, địa phương; quy hoạch

lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm

dạy nghề. Khuyến khích thành lập các trường đại học, cao đẳng tư thục

tại các nơi có điều kiện, góp phần đẩy nhanh số lượng và chất lượng

nguồn nhân lực được đào tạo.

     Tám là: Đổi mới cách xây dựng nền giáo dục, đào tạo phục vụ nhu

cầu xã hội; thực hiện đúng yêu cầu học để làm việc, giúp nước, giúp

dân; xây dựng cơ sở đào tạo theo hướng đào tạo đến đâu sử dụng đến

đó.

     Chín là: Xây dựng hệ thống quốc gia để kiểm tra, đánh giá chất

lượng giáo dục và đào tạo; xử lý việc thực hiện quy hoạch phát triển

nhân lực trên phạm vi cả nước, bảo đảm phát triển hài hòa, cân đối.

     Mười là: Bảo đảm và huy động nguồn vốn cho phát triển nhân lực;

đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường các nguồn vốn cho phát triển nhân

lực.

     Mười một là: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân

lực và chuyên giao công nghệ hiện đại về Việt Nam. 

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com24

Page 25: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

Mười hai là: Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng

cuộc sống. Chất lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất

lượng sinh nở. Ngành y tế phải có những quy định cụ thể về chất lượng

sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền và vợ chồng

quan hệ để sinh con,…, trước khi chính quyền cấp giấy đăng ký giá thú.

Hiện nay, tại Việt Nam, đang có tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính

toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho những đứa con sinh ra bị

còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Thậm chí có những người bị

nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa con dị tật. Có người

tính rằng, tại Việt Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 người bị dị tật bẩm

sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan

chức năng.

     Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có

nghĩa là phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh

ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào, trí tuệ minh mẫn. Về vấn đề

này, Việt Nam còn kém xa so với nhiều nước.

     Mười ba là: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các

nhà hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách, trách

nhiệm của cả hệ thống chính trị.

     Mười bốn là: Để xây dựng chất lượng con người phải có sự gắn kết

với chất lượng cuộc sống xã hội; có sự gắn kết chặt chẽ giữa xã hội -

nhà trường - gia đình để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao trong

tương lai.    

     Mười lăm là: Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực

tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa

được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà phát huy

mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt.

     Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp

kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com25

Page 26: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng

cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.     Nói tóm lại, nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, thì khó lòng đạt được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đang phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình, nhưng rất ít nước tiếp tục đi lên được để trở thành một nước công nghiệp, vì những nước này, không có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực.----------------

Chú thích:

* Báo cáo khoa học tại Hội nghị "Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3", tổ

chức tại Hà Nội, Việt Nam, từ ngày 4 đến ngày 7-12-2008. Báo cáo này

được viết sau khi đã có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa X, về

tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28-

1-2008). Trong Báo cáo Khoa học này, tôi cũng bổ sung một số vấn đề

về nguồn nhân lực sau khi có Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (tháng 1-

2011); Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, được thông

qua tại Đại hội XI của Đảng; Chiến lược Phát triển nhân lực Việt Nam

thời kỳ 2011-2020 của Chính phủ và Quyết định số 1216/QĐ/TTg, ngày

22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ: "Phê duyệt Quy hoạch phát triển

nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020" (Đ.V). Tất cả những số

liệu trong chuyên đề này chỉ là tương đối, vì nó biến đổi liên tục.

** Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài - nhân lực - ISSTH.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008,

tr. 45.

2. Theo Phụ lục dự thảo "Chiến lược Phát triển giáo dục Việt Nam 2009-

2020", công bố trên internet, đến 30-12-2008, năm học 2007-2008,

Việt Nam có 160 trường đại học, đại học, học viện. Theo Báo cáo số

760/BC-BGD ĐT, ngày 29-10-2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính

đến tháng 9-2009, cả nước có 376 trường đại học và cao đẳng, tăng

gấp 3,7 lần so với năm 1987.

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com26

Page 27: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

3. Quyết định số 1216-QĐ/TTg, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính

phủ: "Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn

2011-2020", www.chinhphu.vn. (Nguồn: http://www.nhanlucnhantai.com)

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com27

Page 28: Thuc trang va giai phap ve phat trien nhan luc viet nam

Kho Ebook miễn phíKho Ebook miễn phíebookfree247.blogspot.comebookfree247.blogspot.com

Cơ sở Dữ liệu Hội thảo/Tham luậnCơ sở Dữ liệu Hội thảo/Tham luậnthuvienthamluan.blogspot.comthuvienthamluan.blogspot.com

Cơ sở Dữ liệu Giáo trình-Bài giảngCơ sở Dữ liệu Giáo trình-Bài giảnggiaotrinh247.blogspot.comgiaotrinh247.blogspot.com

CHIA SẺ TRI THỨCCHIA SẺ TRI THỨC

Thư viện Hội thảo http://thuvienthamluan.blogspot.com28