48
E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com ĐEM YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙ Tôi đã định chia sẻ với mọi người thật nhiều về một câu chuyện tôi gặp được ở một làng quê êm ả phía bắc Việt Nam, một làng quê có đời sống xã hội và đời sống đạo đầy nét tinh khôi mà tôi đã được trải nghiệm trong một chuyến đi công việc ngắn ngày. Những người dân quê mộc mạc, những sinh hoạt kinh sách rân ran các khu ngõ ban đêm, những hình ảnh các bạn trẻ và thiếu niên đầy ắp sân Nhà Thờ mỗi tối để học bổn, để tập hát, để đọc kinh, những hình ảnh bà mẹ già oằn lưng trên những luống rau sân nhà nhưng miệng vẫn lẩm bẩm lời kinh Mai Khôi… Anh em ở tại chỗ nói với tôi: “Ở đây không bao giờ mất cắp, chỉ có một lần nhà kia có quả bầu bị cắt mất một nửa, có lẽ do bọn trẻ nó nghịch”. Hôm ấy, hôm ở Xứ Đạo miền quê ầy, sau bài đọc một trong Thánh Lễ, bài đáp ca có lời của Chúa nói với mọi người: “Chớ đem thần lạ về nhà, thần ngoại bang chớ hề cúng bái”. ( Đáp ca ngày thứ sáu sau Chúa Nhật III Mùa Chay, Thánh Vịnh 80 ). Câu xướng trong bài đáp ca đã làm cho lòng tôi băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều, suy nghĩ về một cuộc sống của cộng đồng Dân Thiên Chúa, suy nghĩ về những cơn bão táp loạn lạc trong xã hội, bao giờ nó đến, bao giờ nó quét qua bầu khí tinh ròng này, khi nào thì các thần lạ sẽ lần mò xâm nhập ? Bao giờ thì nó tàn phá như đang tàn phá rất nhiều nơi trên mảnh đất thân yêu Việt Nam ? Những cảm xúc ấy vẫn theo tôi cho đến khi trở lại Sàigòn. Nhưng rồi đến khi ngồi vào bàn phím máy vi tính, tôi đã bị hút vào một câu chuyện khác nóng bỏng hơn, vì thế xin đành hẹn lại một dịp khác, tôi sẽ quay trở lại câu chuyện làng quê miền Bắc. Vâng, tôi bất ngờ lướt qua trang mạng của Nhà Dòng, mục “Việt Nam Tuần Qua”, thì nghe được cô Huyền Trang, phóng viên của Truyền Thông Chúa Cứu Thế, chia sẻ với mọi người một câu chuyện khác, câu chuyên về một chứng nhân, được mệnh danh là người tù xuyên thế kỷ, Ông Nguyễn Hữu Cầu ( xin xem: www.chuacuuthe.com, https://www.youtube.com/watch?v=tthomX3wcT0 ). Trước năm 75, ông là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông bị bắt và bị lên án tử hình, và phải ngồi tù suốt 37 năm qua. Đến trước Tết 2014, người cháu nội của ông đã viết thư cho Chủ Tịch nước để xin cho ông được về với gia đình, nghe nói đã có nhân viên an ninh đến nhà thông báo ông sẽ được về trước Tết, vậy mà đến Tết ông vẫn biệt vô âm tín. Sau Tết, người cháu nội ấy lại một lần nữa viết thư xin cho ông trở về, và cuối cùng ông vừa được thả về tuần qua. Điều bất ngờ là khi trở về với gia đình, ông thu xếp để lên thành phố khám bệnh, đã đến thăm ngay Nhà Dòng chúng tôi, ông cho biết trong tù ông đã trở thành Kitô hữu, cha Giuse Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên, bạn tù với ông, đã âm thầm cử hành Bí Tích Thánh Tẩy cho ông đúng Lễ Phục Sinh 1986, đặt tên Thánh là Gioan Baotixita. Bây giờ thì ông xin chúng tôi dẫn vào Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn để cám ơn Chúa và Đức Mẹ, ông đã khóc rất nhiều trong Nhà Thờ, người tù xuyên thế kỷ tưởng 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 604 – CHÚA NHẬT

Ephata 604

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Trân trọng giới thiệu Tuần báo điện tử EPHATA của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Citation preview

Page 1: Ephata 604

E-mail: [email protected] Website: www. trungtammucvudcct .com

ĐEM YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙTôi đã định chia sẻ với mọi người thật nhiều về một câu chuyện tôi gặp được ở một làng quê êm

ả phía bắc Việt Nam, một làng quê có đời sống xã hội và đời sống đạo đầy nét tinh khôi mà tôi đã được trải nghiệm trong một chuyến đi công việc ngắn ngày. Những người dân quê mộc mạc, những sinh hoạt kinh sách rân ran các khu ngõ ban đêm, những hình ảnh các bạn trẻ và thiếu niên đầy ắp sân Nhà Thờ mỗi tối để học bổn, để tập hát, để đọc kinh, những hình ảnh bà mẹ già oằn lưng trên những luống rau sân nhà nhưng miệng vẫn lẩm bẩm lời kinh Mai Khôi… Anh em ở tại chỗ nói với tôi: “Ở đây không bao giờ mất cắp, chỉ có một lần nhà kia có quả bầu bị cắt mất một nửa, có lẽ do bọn trẻ nó nghịch”.

Hôm ấy, hôm ở Xứ Đạo miền quê ầy, sau bài đọc một trong Thánh Lễ, bài đáp ca có lời của Chúa nói với mọi người: “Chớ đem thần lạ về nhà, thần ngoại bang chớ hề cúng bái”. ( Đáp ca ngày thứ sáu sau Chúa Nhật III Mùa Chay, Thánh Vịnh 80 ).

Câu xướng trong bài đáp ca đã làm cho lòng tôi băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều, suy nghĩ về một cuộc sống của cộng đồng Dân Thiên Chúa, suy nghĩ về những cơn bão táp loạn lạc trong xã hội, bao giờ nó đến, bao giờ nó quét qua bầu khí tinh ròng này, khi nào thì các thần lạ sẽ lần mò xâm nhập ? Bao giờ thì nó tàn phá như đang tàn phá rất nhiều nơi trên mảnh đất thân yêu Việt Nam ? Những cảm xúc ấy vẫn theo tôi cho đến khi trở lại Sàigòn.

Nhưng rồi đến khi ngồi vào bàn phím máy vi tính, tôi đã bị hút vào một câu chuyện khác nóng bỏng hơn, vì thế xin đành hẹn lại một dịp khác, tôi sẽ quay trở lại câu chuyện làng quê miền Bắc. Vâng, tôi bất ngờ lướt qua trang mạng của Nhà Dòng, mục “Việt Nam Tuần Qua”, thì nghe được cô Huyền Trang, phóng viên của Truyền Thông Chúa Cứu Thế, chia sẻ với mọi người một câu chuyện khác, câu chuyên về một chứng nhân, được mệnh danh là người tù xuyên thế kỷ, Ông Nguyễn Hữu Cầu ( xin xem: www.chuacuuthe.com, https://www.youtube.com/watch?v=tthomX3wcT0 ).

Trước năm 75, ông là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông bị bắt và bị lên án tử hình, và phải ngồi tù suốt 37 năm qua. Đến trước Tết 2014, người cháu nội của ông đã viết thư cho Chủ Tịch nước để xin cho ông được về với gia đình, nghe nói đã có nhân viên an ninh đến nhà thông báo ông sẽ được về trước Tết, vậy mà đến Tết ông vẫn biệt vô âm tín. Sau Tết, người cháu nội ấy lại một lần nữa viết thư xin cho ông trở về, và cuối cùng ông vừa được thả về tuần qua.

Điều bất ngờ là khi trở về với gia đình, ông thu xếp để lên thành phố khám bệnh, đã đến thăm ngay Nhà Dòng chúng tôi, ông cho biết trong tù ông đã trở thành Kitô hữu, cha Giuse Nguyễn Công Đoan, Dòng Tên, bạn tù với ông, đã âm thầm cử hành Bí Tích Thánh Tẩy cho ông đúng Lễ Phục Sinh 1986, đặt tên Thánh là Gioan Baotixita. Bây giờ thì ông xin chúng tôi dẫn vào Nhà Thờ Kỳ Đồng Sàigòn để cám ơn Chúa và Đức Mẹ, ông đã khóc rất nhiều trong Nhà Thờ, người tù xuyên thế kỷ tưởng đã cạn khô nước mắt nay lại dâng trào, ông véo mạnh liên tục vào hai tay của mình mà hỏi: “Tôi có nằm mơ không ?”

Trong chương trình “Việt Nam Tuần Qua”, ông chia sẻ về hành trình Đức Tin của mình, một người tù xuyên thế kỷ được gặp Chúa và những người tù khác đã được gặp Chúa, họ được biến đổi hoàn toàn, những hận thù đau đớn biến mất trong ông, còn lại chỉ là niềm bình an sâu xa, sức mạnh tinh thần và lòng yêu thương, những người khác cũng vậy, ông kể về một bạn tù: “Nó biến đổi hoàn toàn, không còn như xưa nữa, trước đây nó là trùm của các trùm, nay đã thay đổi”.

1

NĂM THỨ 14 – SỐ 604 – CHÚA NHẬT 30.3.2014

Page 2: Ephata 604

Điều làm tôi xúc động khi ông kể, lúc bị biệt giam, dây xích quấn quanh cổ chân ông, ông ngồi trong tư thế như vậy ngày này qua ngày khác, nhưng ông bình an vì ông dùng chính dây xích ấy để làm tràng hạt Mai Khôi, cứ vậy, giờ này qua giờ khác, ông lần từng mắt xích lao tù như lần từng đóa hồng dâng Mẹ, và trong dòng sông kinh nguyện Mai Khôi ấy, ông được bình an. Một bài hát cầu nguyện ông sáng tác trong tù, ông đã đổi từ chữ “hận thù” ra chữ khác vì lòng ông không còn hận thù nữa.

Thật lạ khi xem và nghe ông chia sẻ trong chương trình “Việt Nam Tuần Qua”, một tù nhân mang án tử, một người tù xuyên thế kỷ, không một chút hận thù, không mặc cảm sợ xệt, không tự ty thành kiến, ông bình tĩnh và làm chứng về sức mạnh và tình thương. Tôi muốn tự hỏi lại mình, hỏi lại hành trình Đức Tin của chính mình, hỏi lại những xác tín của đời mình, hỏi lại mình trước tấm gương Nguyễn Hữu Cầu, tôi gọi ông là “chứng nhân Đức Tin”.

Cám ơn Nhà Dòng, cám ơn cô Huyền Trang, và cám ơn những người cộng tác, cám ơn một cố gắng “loan báo Tin Mừng theo cách thức mới”.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Chúa Nhật 30.3.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:ĐEM YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙ ( Lm. Vĩnh Sang ) ................................................................ 01TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – Chương 5 ( ĐTC. Phanxicô – Bản dịch Joseph C. Pham ) ... 02HÀNH TRÌNH TÌM ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNH ( AM. Trần Bình An ) ......................................................12MÙA CHAY, SUY NIỆM SỰ TRỞ VỀ ( Phùng Văn Hoá ) ...................................................................... 13PHONG CÁCH PXC – Bài 8: PHANXICÔ LÀ MỘT PHẢN CHIẾU TRUNG THỰC... ( Nguyễn Trung ) ........ 16BÁO CHÍ HAY... BÁO HẠI ? ( Đaminh Phan Văn Dũng ) ........................................................................ 18TẠI SAO CÓ KHÁC BIỆT GIỮA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI NHÂT ? ( Phạm Hoài Nam ) ...................... 20SỰ THẦN KỲ CỦA SỰ SỐNG ( Nguyễn Trung ) .................................................................................... 26CUỘC SỐNG CHỈ CÓ VẬY THÔI SAO ? ( Từ vinacode.net ) ................................................................ 27GOOGLE TÌM CẦU TUỆ GIÁC CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH ( Bản dịch của Sư cô Tại Nghiêm ) .... 28CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) .. . 30

TÔNG HUẤN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – Kỳ 15

"NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM"CHƯƠNG V – NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG ĐẦY THÁNH THẦN

259. Những người rao giảng đầy Thánh Thần thì mở lòng ra cách không sợ hãi trước công việc của Chúa Thánh Thần. Vào Ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ bước ra khỏi bản thân mình và biến các vị thành những người loan báo những việc làm cao cả của Thiên Chúa, có thể nói với mỗi người bằng chính ngôn ngữ của người ấy. Chúa Thánh Thần cũng ban sự can đảm để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng cùng với sự mạnh bạo ( parrhesía ) ở mọi lúc mọi nơi, ngay cả khi va chạm với sự đối nghịch. Chúng ta hãy khấn xin Ngài hôm nay, để được bén rễ vững vàng trong cầu nguyện, bởi vì không có sự cầu nguyện thì thất cả mọi hoạt động của chúng ta phải đối diện với rủi ro là không sinh hoa trái và thông điệp của chúng ta trống rỗng. Chúa Giêsu muốn những người rao giảng loan báo tin mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết tất cả là bằng một cuộc đời được biến đổi bởi sự hiện diện của Thiên Chúa.

260. Trong chương cuối cùng này, tôi không có ý đưa ra một bản tổng hợp cho đời sống linh đạo Kitô, hoặc để khám phá các chủ đề lớn như cầu nguyện, thờ phượng Bí Tích Thánh Thể hoặc là việc cử hành Phụng Vụ Đức Tin. Bởi tất cả những điều này chúng ta đã có

những văn kiện có giá trị của huấn quyền và những tác phẩm nổi tiếng được viết ra bởi các tác giả lớn. Tôi không tuyên bố để thay thế hay cải tiến những kho tàng này. Tôi chỉ đơn giản mong ước đưa ra một vài suy tư về tinh thần của việc tân Phúc Âm Hoá.

261. Bất cứ khi nào chúng ta nói rằng một điều gì đó là "có thần khí", thì thường là để chỉ đến một động lực nội tại có sức khuyến khích, động viên, nuôi dưỡng, và mang lại ý nghĩa cho các hoạt

2

CÙNG ĐÓN NHẬN

Page 3: Ephata 604

động của cá nhân và cộng đoàn của chúng ta. Việc Phúc Âm Hoá đầy tràn Thánh Thần thì không giống như một loạt các nhiệm vụ đầy tính trách nhiệm được thực hiện bất chấp những khuynh hướng và ước muốn của một người. Tôi khao khát biết bao để tìm ra được những từ ngữ phù hợp để khuấy động lên lòng nhiệt thành cho một chương mới của việc Phúc Âm Hoá đầy tràn sự hăng say, niềm vui, lòng quảng đại, lòng can đảm, và một tình yêu và sự cuốn hút vô biên ! Nhưng tôi nhận ra rằng không có ngôn từ khuyến khích nào sẽ đủ ngoại trừ ngọn lửa của Thần Khí cháy bỏng trong tâm hồn chúng ta. Công cuộc Phúc Âm Hoá đầy Thần Khí là một công cuộc được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, bởi vì Ngài là linh hồn của Giáo Hội được mời gọi để rao giảng Tin Mừng. Trước khi đưa ra một số lời khuyến khích động viên và đề xuất, một lần nữa tôi khẩn xin Chúa Thánh Thần. Tôi khẩn cầu Ngài ngự đến và canh tân Giáo Hội, để khuấy lên và thôi thúc Giáo Hội can đảm tiến về phía trước để Phúc Âm Hoá hết mọi dân tộc. 

I. CÁC LÝ DO CHO MỘT ĐỘNG LỰC TRUYỀN GIÁO ĐƯỢC CANH TÂN ĐỔI MỚI

262. Các nhà rao giảng đầy Thần Khí là những nhà rao giảng cầu nguyện và làm việc. Các ý niệm thần bí mà không có hoạt động mang tính xã hội và truyền giáo vững chắc thì vô ích đối với công cuộc Phúc Âm Hoá, cũng thế những bài nghị luận hoặc các công việc thực hành mang tính xã hội và mục vụ mà thiếu chiều kích thiêng liêng thì cũng chẳng thể thay đổi được các tâm hồn. Những đề xuất đơn phương và khiếm khuyết này chỉ dành cho một vài nhóm hoặc chỉ cho thấy việc không thể chiếu sáng ra khỏi chúng bởi vì chúng làm hạn chế Tin Mừng. Điều cần thiết là khả năng nuôi dưỡng một không gian nội tâm có thể mang đến cho người Kitô hữu một ý nghĩa đối với sự cam kết dấn thân và hoạt động. Không có những phút giây lâu dài của việc thờ phượng, của việc gặp gỡ đầy tinh thần cầu nguyện với Lời, của việc đối thoại chân thành với Thiên Chúa, thì công việc của chúng ta sẽ dễ dàng trở nên vô nghĩa; chúng ta sẽ làm mất năng lượng như là kết quả của một sự mỏi mệt và những gian khó, và lòng nhiệt thành của chúng ta sẽ chết.

Giáo Hội đang bức thiết cần hơi thở sâu của việc cầu nguyện, và thật là niềm vui lớn lao đối với tôi vì nhiều nhóm đã tận hiến cho việc cầu nguyện và chuyển cầu, cho việc đọc Lời Chúa bằng tinh thần cầu nguyện và việc chầu Thánh Thể thường trực ở mọi cấp độ của đời sống Giáo Hội. Ngay cả như thế, "chúng ta phải loại bỏ cơn cám dỗ để đưa ra một nền linh đạo mang tính riêng tư hoá và cá nhân vốn không phù hợp với những đòi hỏi của đức ái, chẳng đề cập gì đến các áp dụng của mầu nhiệm nhập thể". Luôn có một sự rủi ro là một vài khoảnh khắc cầu nguyện có thể trở thành lời biện minh cho việc không dấn thân vào một sứ vụ; một lối sống riêng tư hoá có thể dẫn các Kitô hữu đến việc núp mình vào trong những hình thức giả tạo của đời sống thiêng liêng. 

263. Thật là tốt đẹp để chúng ta luôn giữ trong tâm trí mình hình ảnh về các Kitô hữu tiên khởi và nhiều anh chị em khác của chúng ta trong suốt dòng lịch sử, họ đã đầy tràn niềm vui, lòng can đảm và lòng nhiệt thành không mỏi mệt dành cho việc loan báo Tin Mừng. Ngày nay một số người tự an ủi bản

thân bằng việc nói rằng mọi thứ giờ đây không còn dễ dàng như xưa, nhưng chúng ta biết rằng Đế Chế La Mã xưa không có ích gì cho các thông điệp Tin Mừng, cho việc đấu tranh cho công lý, hoặc cho việc bảo vệ phẩm giá con người.

Mỗi một giai đoạn lịch sử đều được đánh dấu bởi sự hiện diện của sự yếu hèn của con người, sự vụ lợi, sự tự mãn và sự ích kỷ, nói cách khác, lòng ham muốn nhục dục đều làm cho tất cả chúng ta đau khổ. Những hình thức này luôn hiện diện dưới dáng vẻ này hay dáng vẻ khác; chúng xuất phát từ những giới hạn con người của chúng ta hơn là từ những hoàn cảnh

cụ thể. Vì thế, chúng ta đừng nói rằng mọi thứ ngày nay khó khăn hơn; chúng chỉ khác nhau mà thôi. Nhưng chúng ta cũng hãy học từ các thánh đã đi trước chúng ta, các vị đã đối đầu với những khó khăn của thời đại các vị. Vì thế tôi đề nghị rằng chúng ta nên dừng lại để tái khám phá lại một số lý do có thể giúp chúng ta noi gương bắt chước họ ngày nay.

Cuộc gặp gỡ cá nhân với tình yêu cứu độ của Đức Giêsu

264. Lý do chính yếu cho việc Phúc Âm Hoá là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã được lãnh nhận, kinh nghiệm về ơn cứu độ thôi thúc chúng ta đi đến một tình yêu lớn lao hơn bao giờ hết của Ngài. Kiểu tình yêu nào mà lại không cảm thấy nhu cầu để nói về người mình yêu, đi chỉ ra Ngài, để làm cho Ngài được biết đến ? Nếu chúng ta không cảm thấy một lòng ao ước cháy bỏng để chia sẻ tình yêu này, thì chúng ta cần phải cầu nguyện liên lỉ để một lần nữa Ngài sẽ chạm vào tâm hồn của chúng ta.

3

Page 4: Ephata 604

Chúng ta cần nài xin ân sủng của Ngài mỗi ngày, xin Ngài mở rộng những tâm hồn nguội lạnh của chúng ta và biến đổi sự hiện hữu lãnh đạm và giả tạo của chúng ta. Đứng trước nhan Ngài bằng tâm hồn rộng mở, hãy để Ngài nhìn vào chúng ta, chúng ta sẽ thấy một cái nhìn của tình yêu mà Nathanael đã khám phá ra vào ngày mà Chúa Giêsu nói với ông: "Lúc anh ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi" ( Ga 1:48 ). Thật là tốt lành biết bao khi đứng trước Thập Giá, hoặc quỳ gối trước Bí Tích Thánh Thể, và đơn giản ở lại trong sự hiện diện của Ngài ! Thật là tốt lành biết bao cho chúng ta khi Ngài một lần nữa chạm vào cuộc đời của chúng ta và thôi thúc chúng ta chia sẻ sự sống mới của Ngài ! Và rồi điều xảy ra là "điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa" ( 1 Ga 1:3 ). Động lực tốt đẹp nhất cho việc chia sẻ Tin Mừng đến từ việc chiêm ngắm nó bằng tình yêu, chậm rãi với các trang của Tin Mừng và đọc nó bằng cả tâm hồn. Nếu chúng ta tiếp cận Tin Mừng theo cách này, thì vẻ đẹp của nó sẽ làm cho chúng ta kinh ngạc và luôn làm cho chúng ta phấn khởi. Nhưng nếu đây là việc phải làm, thì chúng ta cần phục hồi lại tinh thần chiêm niệm có thể giúp chúng ta nhận ra được một điều luôn mới mà chúng ta đã được ký thác bằng cả một kho tàng làm cho chúng ta trở nên nhân bản hơn và giúp chúng ta sống một đời sống mới. Không có điều gì cao quý hơn điều mà chúng ta có thể trao ban cho những người khác.

265. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cách thế mà Ngài liên đới với người nghèo, các hành động của Ngài, sự chính trực của Ngài, những hành động thể hiện lòng rộng rãi hằng ngày của Ngài, và cuối cùng là sự trao ban toàn vẹn chính bản thân Ngài, là quý giá và làm tỏ lộ ra mầu nhiệm của đời sống thánh của Ngài. Bất cứ khi nào chúng ta gặp gỡ chiều kích mới mẻ này, chúng ta sẽ trở nên tin rằng đó chính xác là điều mà những người khác cần, ngay cả khi họ không nhận biết điều ấy: "Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị" ( Cv 17, 23 ).

Đôi khi chúng ta đánh mất sự nhiệt thành cho sứ vụ của mình bởi vì chúng ta quên rằng Tin Mừng đáp ứng những nhu cầu thẳm sâu nhất của chúng ta, bởi vì chúng ta được tạo nên để cho điều mà Tin Mừng trao ban cho chúng ta: tình bằng hữu với Đức Giêsu và tình yêu của anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta thành công trong việc thể hiện cách đầy đủ và với vẻ đẹp thiết yếu của nội dung Tin Mừng, thì chắc chắn thông điệp này sẽ nói với những khao khát thẳm sâu nhất của tâm hồn con người: "Sứ mạng được tin rằng, thông qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, vốn hằng hiện diện trong các cá nhân và các dân tộc một sự mong đợi, thậm chí là một sự mong đợi vô thức, về việc biết sự thật về Thiên Chúa, về con người, và về cách thế mà chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành của sứ vụ trong việc rao giảng về Đức Kitô xuất phát từ niềm xác tín rằng Ngài sẽ đáp ứng mong đợi ấy". Lòng nhiệt thành làm cho việc Phúc Âm Hoá đặt trên nền tảng sự xác tín này.

Chúng ta có một kho tàng sự sống và tình yêu không thể lừa dối, và một thông điệp không thể lầm lạc hoặc làm thất vọng. Nó sẽ đi sâu vào tận cõi thẳm của tâm hồn chúng ta, duy trì và làm cho chúng ta nên cao quý. Đó là một sự thật không bao giờ lạc hậu bởi vì nó đạt tới phần sâu thẳm ấy của chúng ta mà không có sự gì khác có thể chạm tới. Sự buồn khổ vô biên của chúng ta chỉ có thể được chữa lành bằng một tình yêu vô biên.

266. Nhưng sự xác tín này phải được duy trì bằng kinh nghiệm luôn đổi mới của chúng ta về việc cảm nếm được tình bằng hữu của Chúa Giêsu và thông điệp của Ngài. Thật không thể duy trì được một công cuộc Phúc Âm Hoá đầy nhiệt huyết trừ khi chúng ta được xác tín từ kinh nghiệm cá nhân rằng thật việc biết Đức Giêsu thì không giống với việc không biết Người, cũng như việc bước đi với Ngài thì không giống với việc bước đi cách mù quáng, việc nghe lời Ngài thì cũng không giống với việc không biết về Lời, và cũng như việc chiêm ngắm Ngài, thờ phượng Ngài, và tìm kiếm sự bình an của chúng ta ở trong Ngài thì không giống với việc không biết gì cả. Việc nỗ lực xây dựng thế giới bằng Tin Mừng của Ngài thì không giống với việc làm như thế bằng những ánh sáng riêng của chúng ta.

Chúng ta biết rõ rằng cùng với Đức Giêsu thì cuộc sống trở nên phong phú hơn và cùng với Ngài chúng ta dễ dàng tìm thấy ý nghĩa trong mọi sự hơn. Đây là lý do vì sao chúng ta Phúc Âm Hoá. Một nhà truyền giáo thực sự, người không bao giờ ngừng để là một môn đệ, thì biết rằng Chúa Giêsu đồng hành cùng mình, nói với mình, thở cùng mình, và làm việc cùng với mình. Người ấy cảm nghiệm được Chúa Giêsu đang sống cùng với mình ngay giữa sứ vụ truyền giáo. Nếu chúng ta không nhìn thấy Ngài hiện diện ở ngay trung tâm của việc cam kết dấn thân truyền giáo, thì lòng nhiệt thành của chúng ta sẽ sớm nhạt dần và chúng ta không còn chắc chắn việc mà chúng ta đang làm là việc gì nữa; chúng ta thiếu nghị lực và thiếu say mê. Một người không tin, không có nhiệt thành, không chắc chắn và không yêu, thì sẽ chẳng thuyết phục được ai cả. 

4

Page 5: Ephata 604

267. Trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm điều mà Ngài tìm kiếm và chúng ta yêu mến điều Ngài yêu mến. Sau cùng, điều chúng ta đang tìm kiếm là vinh quang của Chúa Cha; chúng ta sống và hành động "vì ân sủng rạng ngời của Ngài" ( Ep 1, 6 ). Nếu chúng ta muốn dấn bản thân chúng ta một cách tròn đầy và kiên định, thì chúng ta cần phải bỏ lại phía sau mọi thứ động lực khác. Đây là động lực tối hậu, sâu thẳm, và lớn lao nhất của chúng ta, lý do và ý nghĩa chung cuộc đằng sau mọi điều chúng ta làm: vinh quang của Chúa Cha mà Chúa Giêsu tìm kiếm mọi phút giây của cuộc sống Ngài. Là Con, Ngài vui hưởng vĩnh viễn niềm vui được "ở nơi cung lòng Chúa Cha" ( Ga 1, 18 ). Nếu chúng ta là những nhà truyền giáo, thì đó thật là chính đáng bởi vì Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng "Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy" ( Ga 15, 8 ). Vượt ra khỏi mọi tham chiếu và những lợi ích riêng của chúng ta, sự hiểu biết và những động lực của chúng ta, chúng ta loan truyền vinh quang lớn lao hơn cả của Chúa Cha Đấng yêu thương chúng ta.

Niềm vui tinh thần của việc là một dân

268. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một dân: "Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa" ( 1 Pr 2, 10 ). Để trở thành các nhà truyền giảng của các tâm hồn, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một cảm nếm tinh thần vì được gần gũi với cuộc sống của con người và để khám phá rằng đây đích thực là một nguồn vui lớn lao hơn. Sứ vụ đồng thời vừa là niềm đam mê dành cho Chúa Giêsu và là niềm đam mê dành cho Dân của Ngài.

Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy được chiều sâu của tình yêu của Ngài nâng đỡ và nuôi dưỡng chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù quáng, nếu không thì chúng ta bắt đầu nhận ra rằng cái nhìn

của Chúa Giêsu, cháy bỏng tình yêu, mở rộng ra để ôm lấy tất cả dân của Ngài. Một lần nữa chúng ta nhận ra rằng Ngài muốn dùng chúng ta để đến gần hơn nữa những người mà Ngài yêu. Ngài chọn chúng ta từ giữa dân của Ngài và Ngài sai chúng ta đến với dân Ngài; không có cảm thức thuộc về này chúng ta không thể hiểu căn tính sâu xa nhất của chúng ta.

269. Chính Chúa Giêsu là một mẫu gương của phương pháp Phúc Âm Hoá này vốn mang chúng ta đến tận trung tâm của dân Ngài. Thật là tốt đẹp biết bao cho chúng ta để chiêm ngắm sự gần gũi mà Ngài tỏ ra cho hết mọi người ! Nếu Ngài nói với một ai đó, thì Ngài nhìn vào đôi mắt của họ với một tình yêu và một sự quan tâm sâu thẳm: "Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến" ( Mc 10, 21 ). Chúng ta thấy là Ngài dễ dàng tiếp cận biết bao nhiêu, khi Ngài tiến gần đến người mù ( x. Mc 10, 46 – 52 ) và ăn và uống với những người tội lỗi ( x. Mc 2, 16 ) mà không hề lo lắng về việc bị người ta nghĩ Ngài là người ham mê ăn uống và chè chén ( x. Mt 11:19 ). Chúng ta thấy được sự nhạy cảm của Ngài trong việc để cho người phụ nữ tội lỗi rửa chân cho Ngài ( x. Lc 7, 36 – 50 ) và trong việc đón tiếp Nicôđêmô vào ban đêm ( x. Ga 3, 1 – 15 ).

Sự hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn là đỉnh cao của lối sống của Ngài. Được đánh động bởi mẫu gương của Ngài, chúng ta muốn hoàn toàn dấn thân vào mạng lưới xã hội, chia sẻ cuộc sống của tất cả mọi người, lắng nghe hết tất cả mọi mối bận tâm của họ, giúp họ những nhu cầu về vật chất và tinh thần, vui với người vui, khóc với người khóc; tay trong tay với những người khác, chúng ta cam kết xây dựng một thế giới mới. Nhưng chúng ta làm như thế không phải xuất phát từ một cảm thức về điều bắt buộc, cũng không phải như một việc bổn phận nặng nề, nhưng như là kết quả của một quyết định cá nhân mang lại cho chúng ta niềm vui và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta. 

270. Đôi khi chúng ta bị cám dỗ để trở thành một kiểu người Kitô hữu khép mình lại trong các vết thương của Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm vào nỗi thống khổ của con người, chạm vào xác thân đang đau khổ của những người khác. Ngài mong rằng chúng ta sẽ dừng lại việc tìm kiếm những nơi trú ẩn cá nhân hay cộng đoàn hằng che chắn chúng ta khỏi vùng xoáy mãnh liệt của nỗi bất hạnh của con người và thay vào đó hãy bước vào thực lại của cuộc sống người khác và hãy nhận biết sức mạnh của sự dịu dàng. Bất cứ khi nào chúng ta làm như thế, thì cuộc sống của chúng ta trở nên phức tạp cách diệu kỳ và chúng ta sẽ kinh nghiệm được cách mạnh mẽ điều có nghĩa là trở thành một dân, trở thành một thành phần của một dân.

271. Sự thật là trong các mối liên hệ của chúng ta với thế giới, chúng ta được cho biết rằng cần phải có lý do để hy vọng, nhưng không phải như một kẻ thù người chỉ biết phê bình chỉ trích và kết án.

5

Page 6: Ephata 604

Chúng ta được chỉ dạy cách rõ ràng: "hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em" ( 1 Pr 3, 15 ) và "hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người" ( Rm 12, 18 ). Chúng ta cũng được dạy rằng "hãy lấy thiện mà thắng ác" ( Rm 12, 21 ) và "hãy làm điều thiện cho mọi người" ( Gl 6, 10 ). Giữ mình khỏi việc trở nên cao trọng hơn người khác, chúng ta cần phải "hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình" ( Pl 2, 3 ). Chính các môn đệ của Chúa cũng đã vui hưởng "niềm vui với hết tất cả mọi người" ( Cv 2, 47; 4, 21; 33; 5, 13 ).

Rõ ràng là Chúa Giêsu không muốn chúng ta trở thành những người lớn lao nhìn xuống trên những người khác, nhưng là những người nam và người nữ của mọi người. Đây không phải là ý tưởng của vị Giáo Hoàng, hoặc của một chọn lựa mục vụ giữa muôn dân; chúng là những lệnh truyền chứa đựng trong Lời Chúa vốn quá rõ ràng, trức tiếp và đáng tin cậy đến nỗi chúng không cần những lời giải thích có khả năng làm giảm sức mạnh thách đố chúng ta của chúng. Chúng ta hãy sống những lời này mà không có bình luận gì thêm, sine glossa. Bằng việc sống như thế chúng ta sẽ biết được niềm vui sứ vụ của việc chia sẻ sự sống với người tín hữu của Chúa khi chúng ta nỗ lực để thắp lên một ngọn lửa trong trái tim của thế giới.

272. Yêu thương nhau là một sức mạnh tinh thần dẫn chúng ta đến sự kết hiệp với Thiên Chúa; thực ra, một người không yêu thương những người khác thì "đi trong bóng tối" ( 1 Ga 2, 11 ), "ở lại trong sự chết" ( 1 Ga 3, 14 ) và "không biết Thiên Chúa" ( 1 Ga 4, 8 ). Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã nói rằng "nhắm mắt lại trước anh em cũng có nghĩa là làm cho chúng ta mù quáng trước Thiên Chúa", và sau cùng, tình yêu ấy là ánh sáng duy nhất "có thể luôn luôn chiếu sáng một thế giới đang tắt dần và mang lại cho chúng ta sự can đảm cần thiết để tiếp tục sống và làm việc". Khi chúng ta sống một nền linh đạo đến gần với người khác và tìm kiếm phần ích cho chọ, thì tâm hồn chúng ta mở rộng ra cho những ân huệ lớn lao và cao đẹp nhất của Thiên Chúa. Bất cứ khi nào chúng ta gặp gỡ nhau trong tình yêu, thì chúng ta học được một điều gì đó mới về Thiên Chúa. Bất cứ khi nào đôi mắt của chúng ta mở rộng ra để nhận biết người khác, thì chúng ta sẽ lớn mạnh trong ánh sáng của niềm tin và sự hiểu biết về Thiên Chúa.

Nếu chúng ta muốn tiến hơn trong đời sống thiêng liêng, thì chúng ta cần phải luôn luôn là những nhà truyền giáo. Công việc truyền giáo sẽ làm phong phú tâm và trí chúng ta; nó mở ra những chân trời thiêng liêng; nó làm cho chúng ta ngày càng trở nên nhạy bén hơn đối với các công việc của Chúa Thánh Thần, và nó sẽ dẫn chúng ta vượt xa khỏi những mô thức thiêng liêng hạn hữu của bản thân. Một nhà truyền giáo có cam kết dấn thân thì biết được niềm vui của việc trở thành một mùa xuân đổ tràn trên người khác và làm tươi mới người khác. Chỉ những ai cảm nghiệm được niềm hạnh phúc trong việc tìm kiếm những sự tốt lành cho người khác, trong việc khao khát niềm hạnh phúc của họ, thì mới có thể là một nhà truyền giáo. Sự mở rộng con tim này là một nguồn vui, bởi vì "cho thì có phúc hơn là nhận" ( Cv 20, 35 ). Chúng ta sẽ không sống tốt hơn khi chúng ta thoát ly, ẩn nấp, khước từ để chia sẻ, ngừng cho đi và khoá chặt bản thân lại trong những sự thoải mái riêng mình. Một cuộc sống như thế thì chẳng khác gì hơn là một sự tự vẫn từ từ.

273. Sứ vụ của tôi ở giữa muôn dân không chỉ là một phần cuộc sống của tôi hoặc là một cái huy hiệu mà tôi có thể gỡ ra được; nó cũng không phải là một sự "thêm" hoặc chỉ là một khoảnh khắc khác của cuộc sống. Thay vào đó, đó là một điều mà tôi không thể bứng rễ ra khỏi hữu thể của tôi mà không làm tổn hại đến chính cái cốt lõi bản thể của mình. Tôi chính là một sứ vụ trên mặt đất này; đó là lý do vì sao mà tôi lại hiện hữu ở đây trong thế giới này. Chúng ta phải tự thấy mình như thể bị đóng dấu, thậm chí đóng nhãn, bởi sứ vụ mang ánh sáng này, chúc lành, làm sinh động, dưỡng nuôi, chữa lành và giải phóng này.

Chúng ta sẽ bắt đầu thấy xung quanh mình những người điều dưỡng có tâm hồn, các nhà sư phạm có tâm hồn, các chính trị gia có tâm hồn, những người đã chọn lựa từ trong sâu thẳm để sống với mọi người và vì mọi người. Nhưng một khi chúng ta tách công việc của mình ra khỏi đời sống riêng tư của mình, thì mọi thứ sẽ trở nên xám xịt và chúng ta sẽ luôn luôn đi tìm kiếm sự nhận biết hoặc sự khẳng định cho những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta thôi không còn là một dân nữa.

274. Nếu chúng ta sẵn sàng chia sẻ cuộc sống của chúng ta với những người khác và trao ban chính bản thân mình cách rộng rãi, thì chúng ta cũng sẽ nhận biết rằng mọi người thật xứng đáng với sự trao ban của chúng ta. Không phải vì vẻ bề ngoài của họ, các khả năng của họ, ngôn ngữ của họ, cách nghĩ của họ, hoặc vì bất cứ sự thoả mãn nào mà chúng ta có thể đón nhận được, nhưng là bởi vì họ là công trình do tay Chúa dựng nên, thọ tạo của Ngài.

Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo đúng hình ảnh của Ngài, và người ấy phản chiếu điều gì đó vinh quang của Thiên Chúa. Mọi hữu thể con người đều là đối tượng của sự dịu dàng vô biên

6

Page 7: Ephata 604

của Thiên Chúa, và chính Ngài hiện diện trong cuộc sống của họ. Chúa Giêsu đã trao ban bửu huyết châu báu của Ngài trên thập giá cho người ấy. Vượt ra khỏi những hình thức bên ngoài, mọi người đều là sự thánh thiện vô biên và xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Do đó, nếu tôi có thể giúp ít nhất là một người có cuộc sống tốt hơn, thì điều ấy đã đủ biện minh cho việc trao ban cuộc sống của tôi. Trở thành Dân của Thiên Chúa thật là một điều kỳ diệu. Chúng ta đạt tới sự thành toàn khi chúng ta phá vỡ các bức tường và tâm hồn chúng ta đầy tràn những gương mặt và những cái tên !

Công việc mầu nhiệm của Đức Kitô Phục Sinh và Thánh Thần của Ngài

275. Trong Chương 2, chúng ta đã suy tư về việc thiếu đời sống thiêng liêng sâu đậm dẫn đến tình trạng bi quan, tin vào thuyết định mệnh, và bội tính. Một số người không cam kết dấn thân vào một sứ mạng bởi vì họ nghĩ rằng chẳng có gì thay đổi và thật là vô ích để thực hiện một nỗ lực. Họ nghĩ: "Tại sao tôi phải khước từ bản thân mình những sự thoải mái và thú vui của bản thân tôi nếu tôi

không thấy được bất kỳ một kết quả có ý nghĩa nào ?" Thái độ này khiến người ta không thể trở thành một nhà truyền giáo. Đó chỉ là một lời biện minh láo khoét cho việc ở lì trong sự an nhàn, lười biếng, sự thiếu thoả mãn mơ hồ và sự ích kỷ xáo rỗng của bản thân. Đó thật là một thái độ tự hoại mình, bởi vì "con người không thể sống mà không có niềm hy vọng: cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa và không thể chịu đựng được". Nếu chúng ta nghĩ rằng mọi thứ sẽ chẳng thay đổi gì đâu, thì chúng ta cần phải nhớ lại rằng Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng khải hoàn tội lỗi và sự chết và giờ đây Ngài toàn năng. Đức Giêsu Kitô thực sự đang sống.

Nói một cách khác, "nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng" ( 1 Cr 15, 14 ). Tin Mừng cho chúng ta biết rằng khi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng, "có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng" ( Mc 16, 20 ). Điều tương tự cũng đang xảy ra ngày hôm nay. Chúng ta được mời gọi để khám phá điều này, để kinh nghiệm điều này. Đức Kitô, đã phục sinh và vinh hiển, là nguồn mạch tuôn chảy cho niềm hy vọng của chúng ta, và Ngài sẽ không lấy khỏi chúng ta sự trợ giúp mà chúng ta cần để thi hành sứ mạng mà Ngài đã uỷ thác cho chúng ta.

276. Sự phục sinh của Đức Kitô không phải là một sự kiện của lịch sử; nó hàm chứa một năng quyền sống động đã thấm nhập vào thế giới này. Nơi mà tất cả dường như đã chết, các dấu chỉ của sự phục sinh bỗng nhiên bừng lên xuất hiện. Đó là một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Thường thì dường như Thiên Chúa không tồn tại: tất cả mọi thứ xung quanh mà chúng ta thấy toàn là bất công, sự dữ, sự thờ ơ và sự tàn bạo thường trực. Nhưng cũng thật đúng là ngay giữa những tăm tối có một điều gì đó mới luôn luôn chảy tràn sự sống và không sớm thì muộn cũng làm trổ sinh hoa trái. Trên một miền đất đã bị huỷ diệt thì sự sống chảy tràn, cách kiên vững và bất khuất.

Tuy những điều tăm tối vẫn hiện hữu, song sự tốt lành vẫn luôn luôn tái sinh và lan rộng. Mỗi ngày trên thế giới của chúng ta vẻ đẹp vẫn tái sinh một sự tươi mới, nó sống lại được biến đổi thông qua những giông bão của lịch sử. Các giá trị vẫn luôn luôn có khuynh hướng tái xuất hiện dưới những hình thức mới, và con người vẫn cứ trổ sinh xuyên qua thời gian từ những hoàn cảnh mà xem ra rất tối tăm. Đó chính là năng quyền của sự phục sinh, và tất cả những ai làm công việc truyền giáo đều là khí cụ của năng quyền ấy.

277. Đồng thời, những khó khăn mới lại liên tục xuất hiện: những kinh nghiệm thất bại và những yếu kém của con người lại mang đến một nỗi đớn đau quá đỗi như thế. Tất cả chúng ta đều học được từ kinh nghiệm rằng đôi khi một nhiệm vụ không mang lại một sự thoả mãn mà chúng ta tìm kiếm, các kết quả thì ít mà sự thay đổi thì lại chậm chạp, và chúng ta có khuynh hướng bị cám dỗ để trở nên mỏi mệt. Nhưng việc buông xuôi cánh tay của chúng ta trong chốc lát vì mọi mệt thì không giống với sự buông xuôi mãi mãi, xâm chiếm bởi căn bệnh bất mãn kinh niên và bởi sự bạc nhược làm khô héo tâm hồn. Cũng có thể xảy ra là tâm hồn của chúng ta có thể mỏi mệt vì chiến đấu bởi vì cuối cùng chúng ta bị kẹt cứng ở trong chính bản thân mình, trong một sự đam mê sự nghiệp chỉ khao khát được nhận biết, hoan hô, các phần thưởng và địa vị.

Trong trường hợp này, chúng ta không buông xuôi, nhưng chúng ta lại không bao giờ có thể nắm bắt được điều mà chúng ta tìm kiếm, sự phục sinh không hiện diện ở đó. Trong những hoàn cảnh

7

Page 8: Ephata 604

như thế, Tin Mừng, thông điệp tuyệt vời nhất mà thế giới này có thể trao ban, thì lại bị chôn vùi dưới hàng đống lớp dày đặc của những lời bào chữa.

278. Đức Tin cũng có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài thực sự yêu thương chúng ta, rằng Ngài đang sống, rằng Ngài có thể can thiệp cách nhiệm mầu, rằng Ngài không bỏ rơi chúng ta và rằng Ngài biến sự dữ thành sự lành bằng chính quyền năng và sự sáng tạo vô biên của Ngài. Đó có nghĩa là tin rằng Ngài luôn tiến bước cách khải hoàn trong dòng lịch sử với những ai "được kêu gọi, được tuyển chọn, và luôn trung thành" ( Kh 17, 14 ).

Chúng ta hãy tin vào Tin Mừng khi Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Nước Thiên Chúa đã đang hiện diện trong thế giới này và đang triển nở, đó đây, và bằng nhiều cách thế: giống như hạt cải trổ sinh thành một cây cải lớn ( x. Mt 13, 31 – 32 ), giống như một nắm men làm dậy cả một khối bột ( x. Mt 13, 33 ) và giống như một hạt giống tốt mọc lên giữa đám cỏ lùng ( x. Mt 13, 24 – 30 ) và có thể luôn luôn làm cho chúng ta hân hoan kinh ngạc. Nước Trời đang hiện diện ở đây, nó trở lại, nó đang chiến đấu để trổ sinh một điều mới mẻ. Sự phục sinh của Đức Kitô ở khắp mọi nơi tạo nên những hạt giống của thế giới mới này; thậm chí cả khi chúng bị cắt cụt đi, thì chúng vẫn mọc trở lại, vì sự phục sinh đã âm thầm thấm nhập vào cơ cấu của lịch sử này, bởi vì Chúa Giêsu đã không sống lại cách vô ích. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đứng lì ở bên lề của cuộc tuần hành của niềm hy vọng sống động này !

279. Bởi vì chúng ta không phải lúc nào cũng thấy được những hạt giống này triển nở, nên chúng ta cần có một sự chắc chắn nội tâm, một niềm xác tín rằng Thiên Chúa có thể hoạt động trong họi hoàn cảnh ngay cả giữa những đổ vỡ: "kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành" ( 2 Cr 4, 7 ). Sự chắc chắn này thường được gọi là "một cảm thức về mầu nhiệm". Điều này liên quan đến việc biết cách chắc chắn rằng tất cả những ai tín thác bản thân vào Thiên Chúa trong tình yêu thì sẽ trổ sinh hoa trái ( Ga 15, 5 ).

Sự trổ sinh hoa trái này thường vô hình, khó nắm bắt, và không thể đo lường được. Chúng ta có thể khá chắc rằng cuộc sống của chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái, mà không cần phải tuyên bố về việc biết thế nào, hoặc ở đâu, hoặc khi nào. Chúng ta có thể chắc chắn rằng không một hành động yêu thương nào của chúng ta lại mất đi, hoặc cũng thế đối với bất kỳ hành động quan tâm chân thành nào của chúng ta dành cho người khác. Không một hành động nào của tình yêu dành cho Thiên Chúa bị mất đi, không một nỗ lực đại lượng nào lại trở nên vô nghĩa, và không một sự chịu đựng đau đớn nào lại là lãng phí.

Tất cả những điều này sẽ bao phủ lấy thế giới của chúng ta như một sức sống dồi dào. Đôi khi dường như công việc của chúng ta không sản sinh hoa trái, nhưng sứ mạng thì không giống như một hoạt động kinh doanh hay đầu tư, hoặc ngay cả như một hoạt động nhân đạo nào. Đó không phải là một buổi biểu diễn mà người ta có thể đếm có bao nhiêu người đến dự như là kết quả của hoạt động quảng bá của chúng ta; nó là một điều gì sâu thẳm hơn nhiều, điều vượt qua mọi sự đo lường. Đó là điều mà Thiên Chúa dùng những hy sinh của chúng ta để tuôn đổ phúc lành xuống trên một nơi khác của thế giới mà chúng ta chưa bao giờ tới đó.

Chúa Thánh Thần hoạt động theo cách Ngài muốn, khi nào Ngài muốn và nơi nào Ngài muốn; chúng ta phó thác bản thân của chúng ta mà không mong thấy được kết quả bất ngờ. Chúng ta chỉ biết rằng sự cam kết dấn thân của chúng ta là cần thiết. Chúng ta hãy học cách nghỉ ngơi trong sự êm dịu trong vòng tay của Chúa Cha giữa những cam kết đầy sáng tạo và đại lượng của chúng ta. Chúng ta hãy tiến bước về phía trước; hãy trao phó cho Ngài mọi sự, hãy để cho ngài làm cho những nỗ lực của chúng ta trổ sinh hoa trái vào đúng thời điểm tốt lành của Ngài.

280. Việc giữ vững ngọn lửa nhiệt thành truyền giáo sống động đòi hỏi một sự tín thác vững vàng vào Chúa Thánh Thần, bởi vì chính Ngài là Đấng "giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn" ( Rm 8, 26 ). Nhưng lòng tin quảng đại này cần phải được dưỡng nuôi, và vì thế chúng ta cần phải khẩn nài xin Chúa Thánh Thần luôn luôn. Ngài có thể chữa lành bất cứ điều gì khiến cho chúng ta mỏi mệt trong những nỗ lực truyền giáo của chúng ta. Đúng thật là niềm tin vào điều không thể thấy này có thể làm cho chúng ta cảm thấy mất định hướng: nó giống như là bị nhận chìm xuống dưới vực sâu và không biết điều chúng ta sẽ tìm thấy.

Bản thân tôi cũng thường kinh nghiệm điều này. Nhưng không có một sự tự do nào lớn lao hơn là để cho mình được Chúa Thánh Thần dẫn dắt, khước từ việc nỗ lực để lên kế hoạch và kiểm soát mọi thứ cho đến chi tiết sau cùng, và thay vào đó là hãy để Ngài soi sáng, dẫn dắt và định hướng cho chúng ta, dẫn

8

Page 9: Ephata 604

đưa chúng ta đến bất cứ nơi nào Ngài muốn. Chúa Thánh Thần biết rõ điều gì cần thiết trong mọi nơi và mọi lúc. Đây là điều gọi là trổ sinh hoa trái cách nhiệm mầu !

Sức mạnh truyền giáo của việc chuyển cầu

281. Một hình thức cầu nguyện thôi thúc chúng ta cách đặc biệt lãnh nhận lấy sứ vụ Phúc Âm Hoá và tìm kiếm sự tốt lành cho người khác; đó là hình thức cầu nguyện chuyển cầu. Chúng ta hãy dành ít phút để chiêm ngắm tâm hồn của Thánh Phaolô, để thấy lời cầu nguyện của Ngài như thế nào. Đó là một lời cầu nguyện chứa đầy những con người: "... Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy... bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi" ( Pl 1, 4 – 7 ). Ở đây chúng ta thấy rằng chuyển cầu không làm cho chúng ta lạc khỏi sự chiêm niệm, bởi vì sự chiêm niệm đích thực luôn luôn có chỗ cho những người khác.

282. Thái độ này trở thành một lời cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa cho những người khác. "Trước hết, nhờ Đức Giêsu Kitô, tôi tạ ơn Thiên Chúa của tôi về tất cả anh em" ( Rm 1, 8 ). Đó là một lời tạ ơn liên lỉ: "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu" ( 1 Cr 1, 4 ); "Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em" ( Pl 1, 3 ). Thoát ra khỏi mọi hoài nghi, tiêu cực và tuyệt vọng, đó là một cái nhìn thiêng liêng được sinh ra bởi một niềm tin sâu thẳm làm cho chúng ta nhận biết điều mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi cuộc sống của những người khác. Đồng thời, đó là một thái độ tạ ơn chảy tràn từ một tâm hồn hướng về người khác. Khi các nhà truyền giáo hoàn tất việc cầu nguyện của mình, tâm hồn họ rộng mở hơn; thoát khỏi tình trạng quy ngã, họ mang đầy khao khát để làm việc tốt và chia sẻ cuộc sống với những người khác.

283. Những người nam và người nữ vĩ đại của Thiên Chúa là những nhà chuyển cầu vĩ đại. Chuyển cầu giống như một "nắm men" trong trái tim của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là một cách thế để thâm nhập vào trái tim của Chúa Cha và khám phá ra những chiều kích mới có thể chiếu sáng trên những hoàn cảnh cụ thể và thay đổi chúng. Chúng ta có thể nói rằng trái tim của Thiên Chúa bị chạm bởi những lời chuyển cầu của chúng ta; mặc dù trong thực tế thì Ngài luôn luôn ở đó trước. Điều mà lời chuyển cầu của chúng ta đạt được chính là sức mạnh của Ngài, tình yêu của Ngài và sự thành tín của Ngài hằng luôn thể hiện cách rõ ràng hơn nữa trong dân của Ngài. 

II. ĐỨC MARIA, MẸ CỦA SỨ VỤ TÂN PHÚC ÂM HOÁ

284. Cùng với Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria luôn luôn hiện diện ở giữa dân của Thiên Chúa. Mẹ tham gia vào giờ cầu nguyện đón Chúa Thánh Thần cùng các môn đệ ( Cv 1, 14 ) và do đó tạo nên một sự bùng phát nhanh chóng của sứ vụ truyền giáo trở thành có thể diễn ra ngày trong Ngày Lễ Ngũ Tuần. Mẹ là Mẹ của Giáo Hội có sứ vụ truyền giáo, và không có Mẹ thì chúng ta không bao giờ có thể thực sự hiểu được tinh thần của việc tân Phúc Âm Hoá.

Món quà của Chúa Giêsu cho Dân của Người

285. Trên Thập Giá, khi Chúa Giêsu đang chịu trong nơi thân xác của Ngài một cuộc gặp gỡ giữa tội lỗi ghê gớm của thế gian và lòng thương xót của Thiên Chúa, thì Ngài có thể cảm nghiệm được ở dưới chân Ngài sự hiện diện đầy ủi an của Mẹ Ngài và bạn hữu Ngài. Ngay tại thời khắc chính yếu ấy, trước khi hoàn tất công việc mà Chúa Cha đã uỷ thác cho Ngài, thì Chúa Giêsu đã nói với Mẹ Maria: "Thưa Bà, đây là con của Bà". Rồi sau đó Ngài nói với người môn đệ yêu dấu: "Đây là mẹ con" ( Ga 19, 26 – 27 ). Những lời này của Chúa Giêsu đang chịu chết không nhất thiết là một sự diễn tả về sự tận hiến và quan tâm của Ngài dành cho Mẹ Ngài; mà hơn nữa, đó là một mô thức mặc khải hữu hình hoá màu nhiệm của sứ vụ cứu chuộc. Chúa Giêsu đã để lại cho chúng Mẹ Ngài để trở thành Mẹ của chúng ta. Chỉ sau khi thực hiện việc ấy thì Chúa Giêsu biết rằng "mọi sự đã hoàn tất" ( Ga 19, 28 ).

Ngay dưới chân thập giá, vào giờ tối cao của công trình tạo dựng mới, thì Chúa Giêsu lại dẫn chúng ta đến với Mẹ Maria. Ngài

mang chúng ta đến cho Mẹ bởi vì Ngài không muốn chúng ta đi trên hành trình mà không có một người mẹ, và dân Chúa đọc được trong hình ảnh đầy tình mẫu tử này tất cả mầu nhiệm của Tin Mừng. Thiên Chúa không muốn bỏ mặc Giáo Hội không có biểu tượng mẫu tử này. Mẹ Maria, Đấng đã mang Ngài vào thế giới này bằng một niềm tin lớn lao, cũng đồng hành với "những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu" ( Kh 12, 17 ).

Mối liên hệ gần gũi giữa Mẹ Maria, Giáo Hội và mỗi thành phần tín hữu, dựa trên nền tảng là mỗi người theo cách của mình sinh ra Đức Kitô, được diễn tả cách tuyệt vời bởi Thánh Isaac Đệ Stella: "Trong

9

Page 10: Ephata 604

Kinh Thánh được linh hứng, điều gì được nói đến theo nghĩa phổ quát về Mẹ Đồng Trinh, thì Giáo Hội, cũng được hiểu theo nghĩa riêng biệt về Mẹ Đồng Trinh Maria... Theo đó, mọi Kitô hữu cũng được tin là cô dâu của Lời Chúa, mẹ của Đức Kitô, anh chị em của Ngài, một trật đồng trinh và sinh hoa trái... Đức Kitô đã cư ngụ chín tháng trong cung lòng của Mẹ Maria. Ngài cũng sẽ cư ngụ trong cung lòng của Đức Tin Giáo Hội đến tận cùng của mọi thời đại. Ngài sẽ cư ngụ vĩnh viễn trong trong sự hiểu biết và tình yêu của mỗi linh hồn người tín hữu".

286. Mẹ Maria đã có thể biến một chuồng nuôi thú vật thành một tổ ấm cho Chúa Giêsu, với những chiếc tã nghèo nàn và một sự giàu có phong phú của tình yêu. Mẹ là nữ tỳ của Chúa Cha Đấng hát lên lời ngợi khen Ngài. Mẹ là người bạn luôn quan tâm đến việc thiếu rượu trong cuộc sống của chúng ta. Mẹ là người phụ nữ có trái tim bị đâm thâu bởi một lưỡi gươm và là Đấng hiểu hết mọi nỗi đau. Là Mẹ của tất cả chúng ta, Mẹ là một dấu chỉ của niềm hy vọng cho mọi dân tộc đang phải chịu cảnh sinh ra với những nỗi đau về công lý. Mẹ là nhà truyền giáo đến gần với chúng ta và đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc đời, mở tâm hồn chúng ta ra cho niềm tin bằng tình yêu mẫu tử của Mẹ. Là một người mẹ đích thực, Mẹ bước đi bên cạnh chúng ta, Mẹ sẻ chia những cuộc chiến của chúng ta và Mẹ hằng luôn bao bọc chúng ta bằng tình yêu của Thiên Chúa.

Ngang qua rất nhiều tước hiệu của Mẹ, thường có liên hệ đến những đền thờ của Mẹ, Đức Maria chia sẻ lịch sử của mỗi dân tộc đón nhận Tin Mừng và Mẹ trở thành một phần của căn tính lịch sử của họ. Nhiều bậc cha mẹ Kitô hữu đã xin cho con của họ được lãnh phép rửa tội ở một ngôi đền mang tước hiệu của Mẹ, như là

một dấu chỉ của niềm tin của họ vào tình mẫu tử của Mẹ sẽ sinh ra những người con mới cho Thiên Chúa. Ở đó, nơi rất nhiều ngôi đền, chúng ta có thể thấy cách mà Mẹ Maria quy tụ con cái của Mẹ những người bằng sự nỗ lực lớn lao đã đến như những người hành hương đến để gặp Mẹ và để được Mẹ gặp. Ở đây chúng ta thấy được sức mạnh của Thiên Chúa để mang lấy sự mỏi mệt và nỗi thống khổ trong cuộc sống của họ. Như cách Mẹ đã thực hiện với Thánh Juan Diego, Mẹ Maria đã trao ban cho họ sự an ủi và tình yêu mẫu tử, và thầm thĩ vào tai họ: "Đừng để tâm hồn các con bị bối rối... Mẹ là Mẹ của các con không ở đây sao ?"

Ngôi sao của việc tân Phúc Âm Hoá

287. Chúng ta hãy xin Mẹ của Tin Mừng hằng sống chuyển cầu cho chúng ta để lời mời gọi hướng đến một giai đoạn mới của công cuộc Phúc Âm Hoá được tất cả cộng đồng Giáo Hội chấp nhận. Mẹ Maria là người phụ nữ của niềm tin, Đấng sống và bước đi trong niềm tin, và "cuộc hành hương Đức Tin ngoại thường của Mẹ diễn tả một đích điểm tham chiếu cho Giáo Hội". Mẹ Maria đã để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt trên hành trình Đức Tin hướng đến một số phận phục vụ và sinh hoa trái. Ngày nay chúng ta nhìn về Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu chuộc cho tất cả mọi người và để làm cho các môn đệ mới trở thành các nhà truyền giáo. 

Trên suốt hành trình của việc Phúc Âm Hoá này chúng ta sẽ có những lúc khô khan, tăm tối, và thậm chí mỏi mệt của mình. Chính Mẹ Maria đã kinh nghiệm những điều này trong suốt những năm ấu thơ của Chúa Giêsu ở Nadarét: "Đây là khởi điểm của Tin Mừng, của tin mừng đầy niềm vui. Tuy nhiên, thật không dễ để nhận ra trong cái khởi đầu ấy một sự nặng nề của tâm hồn, gắn liền với đêm tối của niềm tin – dùng lời của Thánh Gioan Thánh Giá – một kiểu "bức màn" mà qua nó người ta đến gần hơn với Đấng Vô Hình và sống trong sự thân mật với mầu nhiệm. Và đây là cách mà Mẹ Maria, trong nhiều năm trời, đã sống trong sự thân mật với mầu nhiệm của Con Mẹ, và tiến về phía trước trên hành trình của Đức Tin".

288. Có một "phong cách" Maria đối với công cuộc Phúc Âm Hoá của Giáo Hội. Bất cứ khi nào chúng ta hướng mắt về Mẹ, chúng ta sẽ đi đến chỗ một lần nữa tin vào tính chất đổi mới của tình yêu và sự dịu dàng. Ở nơi Mẹ chúng ta thấy rằng sự khiêm nhường và sự dịu dàng không phải là những nhân đức của người yếu nhưng là của người mạnh mẽ không cần thiết phải đối xử tệ để cảm thấy bản thân họ là quan trọng. Chiêm ngắm Mẹ Maria, chúng ta nhận ra rằng Mẹ đã ca tụng Thiên Chúa vì "Chúa hạ bệ những ai quyền thế" và "người giàu có, lại đuổi về tay trắng" ( Lc 1, 52 – 53 ) cũng là Đấng mang lại sự ấm áp gia đình vào sự theo đuổi công lý của chúng ta. Mẹ cũng là Đấng cẩn thận giữ "mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng" ( Lc 2, 19 ).

Mẹ Maria có thể nhận ra hết mọi dấu vết của Thần Khí Thiên Chúa trong mọi biến cố lớn nhỏ. Mẹ hằng luôn chiêm ngắm mầu nhiệm về Thiên Chúa trong thế giới của chúng ta, trong lịch sử nhân loại của chúng ta và trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mẹ là người phụ nữ của cầu nguyện và làm

10

Page 11: Ephata 604

việc ở Nadarét, cũng là Mẹ Hằng Cứu Giúp của chúng ta, Đấng đã rời khỏi ngôi làng của mình "cách vội vã" ( Lc 1, 39 ) để phục vụ những người khác. Sự hỗ tương qua lại giữa công lý và sự dịu dàng này, của việc chiêm niệm và quan tâm đến người khác này, là điều làm cho công đồng Giáo Hội hướng về Mẹ Maria như là một mẫu gương của công cuộc Phúc Âm Hoá.

Chúng ta khẩn xin sự bầu cử mẫu tử của Mẹ cho Giáo Hội trở thành một ngôi nhà cho nhiều người, một người Mẹ của tất cả mọi dân tộc, và cho con đường được mở ra cho sự hạ sinh của một thế giới mới. Đó là điều mà Đức Kitô Phục Sinh Đấng nói với chúng ta, bằng một quyền năng lấp đầy chúng ta bằng niềm tin và niềm hy vọng không hề suy chuyển: "Này đây Ta đổi mới mọi sự" ( Kh 21, 5 ). Cùng với Mẹ Maria chúng ta tiến bước cách tự tin về phía sự thành toàn của lời hứa này, và hướng về Mẹ chúng ta cầu nguyện:

Lạy Đức Maria, Trinh Nữ và Hiền Mẫu,Mẹ là Đấng, được tác động bởi Chúa Thánh Thần,đã đón nhận Lời Hằng Sốngvào trong thẳm sâu của Đức Tin khiêm hạ của Mẹ:khi Mẹ đã trao hiến hết bản thân Mẹ cho Đấng Vĩnh Cửu,xin giúp chúng con biết nói "xin vâng"trước những lời mời gọi khẩn thiết, khẩn thiết hơn bao giờ hết,cho việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Được đầy tràn sự hiện diện của Đức Kitô,Mẹ đã mang niềm vui đến cho Thánh Gioan Tẩy Giả,làm cho Ngài nhảy mừng trong dạ mẹ.Đầy tràn niềm vui, Mẹ đã hát bài ca ngợi khen những điều trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện.Đứng dưới chân Thập Giá, với một Đức Tin kiên vững không lay chuyển,Mẹ đã đón nhận niềm vui an ủi của sự phục sinh,và cùng tham gia với các môn đệ đợi chờ Thần Khíđể từ đó Giáo Hội truyền giáo được khai sinh.

Xin ban cho chúng con một lòng nhiệt huyết mới được sinh ra bởi sự phục sinh,để chúng con có thể mang Tin Mừng Sự Sống cho tất cả mọi ngườiTin Mừng chiến thắng khải hoàn sự chết.Xin ban cho chúng con một sự can đảm thánh để tìm kiếm những con đường mới,để ân huệ của vẻ đẹp không phai tàn có thể chạm đến hết mọi người nam nữ.

Lạy Đức Trinh Nữ chuyên cần lắng nghe và chiêm niệm,Mẹ của tình yêu, Tân Nương của tiệc cưới vĩnh cửu,Xin cầu cho Giáo Hội, mà Mẹ là biểu tượng vẹn sạch,để chớ gì Giáo Hội đừng khép mình lại trong chính bản thân mìnhhoặc mất đi niềm đam mê của việc thiết lập Nước Thiên Chúa.

Lạy Ngôi Sao của công cuộc Phúc Âm Hoá,xin giúp chúng con mang lấy chứng tá chiếu toả ánh sáng cho sự hiệp nhất,phục vụ, của Đức Tin nhiệt thành và quảng đại, công lý và tình yêu cho người nghèo,để niềm vui của Tin Mừng có thể chạm tới được tận cùng trái đất,thắp sáng ngay cả những vùng ngoại biên của thế giới.

Lạy Mẹ của Tin Mừng hằng sống,suối nguồn của niềm hạnh phúc của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn,xin cầu cho chúng con. Amen. Alleluia !

Ban hành tại Rôma, nơi Đền Thờ Thánh Phêrô, vào dịp kết thúc Năm của Đức Tin, ngày 24 tháng 11, 

Đại Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, năm 2013, năm thứ nhất của triều đại Giáo Hoàng của tôi.

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ, bản dịch của JOSEPH C. PHẠM ( Hết )

11

CÙNG SUY NIỆM

Page 12: Ephata 604

HÀNH TRÌNH TÌM ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNHTật nguyền không phải là tội. Nhất là người tật nguyền như Fanny

Crosby đáng được toàn thể Giáo Hội Cơ Đốc Giáo kính phục. Fanny Crosby ( 1820 – 1915 ) là một người mù nhưng có hai điểm nổi bật. Bà thuộc lòng nhiều câu Kinh Thánh, gần như toàn bộ Tân Ước, Ngũ Kinh Môsê, Thánh Vịnh, Rút. Và sáng tác khoảng 8.000 bài thơ phổ nhạc.

Fanny Crosby sinh tại ngoại ô thành phố New York ngày 4.3.1820 trong một gia đình tín đồ yêu mến Chúa. Bé Fanny bị bịnh mắt từ lúc mới được 6 tuần lễ. Thiếu ánh sáng đã là bất hạnh và cùng cực rồi, mà cha Fanny lại qua đời khi em chưa đầy 12 tháng để Fanny lại cho mẹ và bà nội nuôi. Mỗi khi đi ngủ bà kể chuyện tích Kinh Thánh cho Fanny nghe. Fanny rất yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp của đất trời, yêu ánh nắng ấm rực rỡ cùng mùi thơm của muôn hoa và tiếng chim hót rộn ràng.

Bù lại khuyết tật về mắt, Chúa cho Fanny có trí nhớ phi thường. Em có thể đọc các đoạn Kinh Thánh thật dài và nhớ rất lâu. Khả năng thiên phú về văn chương của em phát triển rất sớm. Năm 11 tuổi đã có thơ đăng báo. 15 tuổi, Fanny được nhận vào trường mù của thành phố New York. Cô trở thành sinh viên xuất sắc nhất trường về các môn văn chương, sử ký, triết học và khoa học. Âm nhạc là môn cô ưa thích nhất, cô chơi cả dương cầm và phong cầm. 24 tuổi, cô xuất bản tập thơ đầu tay tựa đề: Em gái mù và những vần thơ. 27 tuổi, cô được mời làm giáo sư tại trường mù và làm việc tại đó suốt 11 năm. Dù được học biết về Chúa Giêsu từ nhỏ nhưng mãi đến năm 30 tuổi, trong một buổi nhóm, sau khi nghe một bài Thánh Ca, Fanny mới thật sự cảm động dâng mình hầu việc Chúa. Từ đó trở đi, tất cả tài năng của cô được hiến dâng cho Chúa Giêsu.

Dù bà thiếu ánh sáng thiên nhiên nhưng ánh sáng công chính luôn đầy dẫy, đúng như lời mẹ đã nói khi xưa. Bà sốt sắng muốn phổ biến ánh sáng cứu rỗi đó cho những người chưa biết đến Chúa, vì bà luôn ý thức được việc phục vụ Chúa bằng cách “truyền rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” và luôn mang trong lòng trọng trách “lo vực người đang lưu vong, sẵn vớt kẻ giữa dòng, truyền danh Giêsu ban cứu ân cho tội nhân…” ( Mana Plus ).

Chúa Nhật 4 Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Ánh Sáng, vì Tin Mừng theo Thánh Gioan tường thuật phép lạ Đức Giêsu chữa người mù được sáng mắt, lẫn sáng cả phần hồn. Tuy nhiên hành trình tìm Ánh Sáng của anh trải qua nhiều thách đố, tiêu biểu cho bất cứ ai muốn tìm thấy Ánh Sáng cứu rỗi.

Thách đố bản thân

Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa." Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. ( Ga 9, 6 ).

Thách đố đầu tiên là chính bản thân anh mù, liệu có dám hoàn toàn phó thác và cậy trông vào quyền năng Đức Giêsu hay không ? Hay lại nghi ngờ bùn đất lại làm viêm nhiễm thêm đôi mắt vốn đã hỏng từ khi lọt lòng ? Hoặc chỉ mong đợi biệt dược quý hiếm, đắt tiền, hay bác sĩ nhãn khoa tài giỏi mới cứu chữa nổi ? Không hề nghi ngại, so đo, ngờ vực, anh mù vui vẻ vâng phục Thánh Ý ngay lập tức.

Hơn nữa, ân huệ chỉ nhận được trọn vẹn, khi người nhận khao khát, sẵn sàng tích cực hợp tác, đón nhận, như thân hành đến hồ Silôê mà rửa. Vì Chúa luôn tôn trọng con người tự do chọn lựa. Thế còn Kitô hữu hôm nay, có dám noi gương, luôn sẵn sàng tuân theo Lời Chúa răn dạy hay không ?

Thách đố gia đình bỏ rơi

Đi theo tiếng Chúa gọi, cũng là từ bỏ tất cà, từ bản thân đến gia đình, bố mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, để trung kiên theo Ơn Gọi rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân. Hôm nay, cha mẹ anh mù dù biết rõ tại sao con họ sáng mắt, cũng không dám ho he nói ra sự thật, kẻo mang họa. Như thế, anh mù mất chỗ dựa, mất hậu thuẫn huyết tộc gần gũi nhất, chỉ vì song thân lo mạng sống của họ, hơn là che chắn, bảo vệ, đồng hành với con.

“Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, tự nó nó nói về mình được” ( Ga 9, 20 – 21 ).

12

Page 13: Ephata 604

Tuy nhiên anh mù chẳng hề tỏ ra nao núng, sợ hãi, dù đang cô đơn chống lại khuynh hướng chống Chúa, khước từ Đấng Cứu Thế. Niềm tin đang triển nở trong tâm hồn đã an ủi và che chở anh. Những thế lực thế gian đen tối luôn soi mói, rình rập, đe dọa, đàn áp, hòng dập tắt đi Ánh Sáng công chính và sự sống.

Thách đố xã hội bất nhất Bá nhơn bá tánh, khó tìm được người đồng tình

hay đồng hành trong đời. Nhất là can đảm đi theo Ánh Sáng thì càng đơn độc, lẻ loi, vì không xu thời, không a dua theo đời, không kiếm chác danh lợi phù phiếm, càng bị cô lập, cách ly ra khỏi xã hội thực dụng, cơ hội, hưởng thụ và duy vật. Anh mù thiệt dũng cảm, khí khái khẳng định với thiên hạ: “Chính tôi đây."

Mặc cho thiên hạ nghi ngờ, đoán non đoán già, anh minh chứng hùng hồn phép lạ, hồng ân, mà anh vinh dự được trao ban. Dù khi đó, anh mới chỉ đơn giản nhận ra “Người tên là Giêsu” thế thôi. Chỉ là người gia ân, làm phước cho anh. Thế nhưng anh không hề lung lạc, bị động theo đám đông hỗn độn, mà vô ơn bất nghĩa, chối phắt hổng phúc mới lãnh nhận.

Anh mù sáng mắt đã kiên quyết giữ vững lập trường, tôn trọng sự thật, xác tín lòng biết ơn và dũng cảm tuyên xưng công khai vị ân nhân. Anh đã vượt qua xã hội nhiễu nhương, hời hợt, chia rẽ, để trung thành với niềm tin, với Ánh Sáng giải thoát khỏi bóng đêm tăm tối cuộc đời.

Thách đố quyền lực thù địch

Nhưng có lẽ áp lực mãnh liệt nhất đối với anh mù vừa sáng mắt, chính là nhóm Pharisêu quá khích, hung hăng, thù hằn, thề bất cộng đái thiên với Đức Giêsu, Ánh Sáng Sự Sống. Họ có đủ thẩm quyền, để trừng phạt dứt phép thông công những ai bất tuân thủ theo họ. Họ cật vấn, dọa nạt, mớm lời, điều tra tới lui anh mù được sáng, hòng lung lạc anh phủ nhận kỳ công của Đức Giêsu. Nhưng trước sau như một, anh mù được chữa lành vẫn kiên quyết vững chãi lập trường, mà còn xưng tụng Đức Giêsu là một “ngôn sứ”. Một sự tiến bộ tinh thần rõ ràng. Ban đầu anh gọi ân nhân chỉ là “ông,” tiếp đến lại xưng là “ngôn sứ.” Đức Tin được chấp cánh mạnh mẽ bay cao.

Kết cuộc, anh bị tống cổ ra khỏi hội đường, buộc dứt phép thông công với cộng đoàn, chỉ vì anh không yếu đuối, nhu nhược, hèn nhát phản bội, lại can đảm làm chứng nhân Đức Giêsu, Ánh Sáng Cứu Độ.

Ngoạn mục vượt qua cả bốn thử thách cam go, bị trù dập, lên án, bị bỏ rơi, anh liền được Đức Giêsu tìm đến an ủi, che chở. Anh mù đã tìm được trọn vẹn Ánh Sáng tâm linh. “Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” ( Ga 9, 38 ).

“Đừng ham cãi vã sôi nổi, con sẽ ra mù quáng. Đam mê như mây mù, che khuất ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa” ( Đường Hy Vọng, số 210 ).

Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã đoái thương mở mắt, mở lòng anh mù, nay xin Người cũng ban cho chúng con Ánh Sáng Sự Sống, dìu dắt chúng con vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thân xác nặng nề, của tình cảm gia đình ủy mị, của sự dửng dưng, bất đồng của xã hội, lẫn của quyền lực đen trấn áp đe dọa.

Lạy Mẹ Maria, Đức Tin của Mẹ cũng trải qua biết bao phong ba thử thách, từ khi Mẹ “Xin Vâng.” Kính xin Mẹ phù hộ, cầu bầu chúng con luôn trung thành như Mẹ trong niềm phó thác, cậy trông. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

MÙA CHAY, SUY NIỆM SỰ TRỞ VỀTrong số các mùa của Năm Phụng Vụ thì Mùa Chay luôn gợi lại trong tâm trí chúng ta ấn tượng

về điều gì đó dường như là khô khan, sầu buồn: không có lễ cưới, bàn thờ không trưng hoa, không đọc Halleluia sau Phúc Âm, lại năng ngắm đàng Thánh Giá, ngắm Sự Thương Khó Chúa Giêsu v.v… Tất cả những hình thức ấy tất nhiên phải chứa đựng một ý nghĩa nào đó, mà theo tôi, chính là để nhắc nhở cho ta sự trở về.

13

CÙNG PHÂN TÍCH

Page 14: Ephata 604

Thật vậy, ai cũng biết Lễ Tro là khởi đầu của Mùa Chay. Trong Thánh Lễ có Lời Chúa nhắc nhở “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi vì Người nhân lành từ bi nhẫn nại, giàu lòng thương xót và biết hối tiếc về các tai họa. Biết đâu Người sẽ trở lại mà hối tiếc và sẽ ban lại phần phúc để có của lễ dâng lên Chúa là Thiên Chúa các ngươi” ( Gr 2, 12 – 14 ).

Tại sao trở về với Chúa lại phải diễn ra trong nước mắt và than van ? Lý do bởi vì Thiên Chúa là Đấng Cha nội tại ở trong ta. Quả thật, Thiên Chúa là Cha nhưng vì vô minh nên con người không một ai nhận biết ngoại trừ Đức Kitô: “Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và người mà Con muốn mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Mt 11, 27 ). Đức Kitô xuống thế mạc khải Đấng Cha có nghĩa là Ngài đã chỉ cho chúng ta một sự thật và sự thật ấy vẫn hằng hữu ở nơi mỗi người nhưng không một ai nhận biết.

Tôn giáo cũng gọi là đạo, tức con đường tìm kiếm chân lý. Tuy nhiên, việc tìm kiếm ấy không phải là tìm cái chi đó ở bên ngoài nơi thế giới ngoại vật, nhưng nó đã sẵn đủ ở nơi mình, chỉ cần quay về là gặp. Đức Kitô đã diễn tả ý này qua dụ ngôn “Người con hoang đàng trở về”. Người con ấy có một người cha giàu có vô lượng và đầy tình thương yêu. Thế nhưng bởi không nhận thức được điều ấy nên người con mới đòi chia gia tài để ra đi tìm kiếm hạnh phúc mà anh ta tưởng rằng sẽ có ở một nơi nào đó. Có mớ tài sản trong tay, người con mặc tinh ăn chơi phung phí cho đến khi hết tiền, hết bạc, hết cả bạn bè, đói khổ đến nỗi muốn xin cả cám heo để ăn mà người ta cũng không cho. Quá ư đau khổ, người con mới ngộ ra một điều rằng "biết bao người làm thuê cho cha ta còn được bánh ăn dư dật mà ta đây lại phải chết đói” ( Lc 15, 17 ).

Nhận biết khổ là bước đầu cần thiết trong tiến trình tìm kiếm chân lý. Nhận biết khổ cũng có nghĩa là nhận ra sự phù phiếm của thế gian, đồng thời không còn có chỗ nào nữa để bám víu nương tựa. Bước thứ hai là nhận biết tội lỗi mình: “Cha ơi, con đã lỗi phạm với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin hãy đãi con như đứa làm thuê của cha vậy” ( Lc 15, 18 ).

Nhận biết tội và thành tâm hối lỗi đó là ý nghĩa của nước mắt và than van… Mặt khác, việc hối lỗi ấy chỉ thành thật khi nào con người nhận thức được nỗi khổ mà mình đang gánh chịu. Nỗi thống khổ thật sự của con người trong mọi thời mọi nơi không phải là vì đói cơm rách áo nhưng là bởi vô minh không nhận biết sự thật. Phật Thích Ca nói: "Nỗi khổ bị thiêu đốt ở địa ngục. Nỗi khổ của con lạc đà chở nặng. Nỗi khổ đói khát của loài quỷ đói chưa gọi là khổ. Ngu si không biết lối đi mới thật là khổ” ( Kinh Lời Vàng ). Khổ vì bị thiêu đốt trong địa ngục, khổ vì đói khát của ngạ quỷ… chưa thực là khổ bởi vì đó chỉ là hậu quả của cái nhân vô minh. Bao lâu còn bị vô minh trói buộc thì còn gây tội, mà tội đã gây thì không có cách chi thoát khỏi khổ não. Chính bởi lẽ đó ta thấy vấn đề khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết bằng cách diệt trừ cái nhân vô minh ấy đi.

Mùa Chay là cơ hội vô cùng quý báu để giúp ta trở về với Đấng ở nơi mình. Trở về chỉ có thể là về với Đấng ở nơi mình. Cũng chính bởi vậy Chúa mới đòi ta cần xé lòng chứ không phải xé áo. Ý nghĩa của việc xé lòng ở đây chính là con đường từ bỏ của Đức Kitô.

I. Con đường từ bỏ

Vô minh hình thành bởi hai cái chấp, một là chấp xác thân là mình, hai là chấp tâm tưởng là mình. Để có thể trở về với Đấng Chúa ở nơi mình thì nhất thiết cần trừ bỏ hai cái chấp ấy đi. Đức Lão Tử nói: “Ta sở dĩ có nỗi lo lớn là vì có thân. Nếu ta không có thân thì chẳng có lo” ( Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn – Đạo Đức Kinh, chương 13 ).

Người ta không ai mà không có thân xác nhưng cũng chính vì vậy nên mới khổ. Lý do bởi vì có thân thì phải lo cho nó cái ăn cái mặc. Không ăn thì đói lả bước đi không nổi. Không có áo quần thì không có cái gì che thân, rét mướt chịu không thấu. Lại nữa có thân thì có bệnh, có già, có chết, chẳng tránh đi đâu được. Có thân thì phải lo cho thân, điều ấy rất tự nhiên không có chi để nói.

Tuy nhiên cái thật sự làm nên tội ở đây không phải là vì có thân nhưng do chấp xác thân là mình. Chính bởi chấp xác là mình nên mới làm đủ cách để cung phụng cho nó mọi thứ đặc sản cao lương mỹ vị. Mặc cho nó lụa là gấm vóc, làm nhà cao cửa rộng với đầy đủ tiện nghi cho nó. Một khi đã lo như thế thì phải làm sao có thật nhiều tiền, nhiều thế lực để bảo đảm không những cho bản

thân mà còn cho con cái cháu chắt cháu kể cả các… đồng chí của mình nữa ! Lo thì lo như vậy đấy nhưng rồi vẫn bệnh vẫn già vẫn chết, có được gì đâu ?

14

Page 15: Ephata 604

Người đời có ngàn vạn nỗi lo, có vẻ như không lo không được, nhưng Đức Kitô lại nói: “Vậy nên Ta nói cùng các ngươi, đừng lo lắng về mạng sống mình, phải ăn gì uống gì hoặc về thân thể mình phải mặc gì. Mạng sống há chẳng hơn đồ ăn và thân thể hơn đồ mặc sao ?" ( Mt 6, 25 ).

Chúa nói đừng quá ư lo lắng cho thân xác bởi vì có lo đến đâu thì nó cũng phải có ngày tan hoại. Với Chúa thì điều đáng cần lo là lo tìm kiếm Nước Trời, cái không bao giờ hư hoại: “Nhưng trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn mọi điều ấy sẽ được thêm cho” ( Mt 6, 33 ).

Nước Trời cần tìm kiếm ấy, mầu nhiệm thay lại chẳng ở đâu xa, mà đã sẵn đủ ngay ở nơi mình, chỉ cần quay về là gặp. Bởi vì Nước Trời là một thực tại tâm linh, thế nên mới cần quay về và việc quay về ấy chính là để làm hòa với Đấng ở nơi mình. Có tinh thần làm hòa như thế thì việc ăn chay mới có ý nghĩa. Trái lại thì đáng bị phê phán: “Khi các ngươi ăn chay chớ làm bộ buồn rầu như bọn giả hình, vì họ nhăn mặt để tỏ vẻ kiêng ăn với người ta. Quả thật, Ta nói cùng các ngươi, họ đã được phần thưởng của họ rồi. Còn ngươi khi ăn chay, hãy xức dầu trên đầu và rửa mặt hầu không tỏ vẻ kiêng ăn với người ta, nhưng chỉ tỏ cho Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật, và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho ngươi” ( Mt 6, 16 – 18 ).

Bởi Thiên Chúa là Đấng ở nơi ẩn mật, tức trong chốn thẳm sâu tâm hồn, thế nên cần phá chấp mới có thể vào ( ngộ nhập ) với Ngài được. Tuy nhiên trong hai cái chấp cần phải phá ấy thì chấp tâm là khó phá hơn cả, bởi vì đó chính là ý riêng, cái làm cho ta xa cách Thiên Chúa: “Không sự gì, cũng không ai có thể làm ta xa cách Thiên Chúa, dù cả loài người hay dù cả các quỷ trong Hỏa Ngục hợp lại. Không một sự gì có thể, chỉ trừ ý riêng thôi. Theo lời Thánh Benado nói: "Giả sử trong loài người khỏi được cái tai vạ này, tức không còn ai theo ý riêng tất sẽ không còn Hỏa Ngục. Nó là kẻ thù phá tiệt mọi nhân đức” ( Thánh An Phong – Nữ Tu Thánh Thiện ).

Tại sao ý riêng lại là thứ tai vạ lớn như thế ? Xin thưa là vì đó là mưu chước của Satan, nó khiến nguyên tổ xưa kia bị đuổi khỏi Địa Đàng ( Paradis ) và con người ngày nay đã quên mất đường về.

II. Đường về Nhà Cha Nhân loại hôm nay như đang ở bên bờ của sự

diệt vong mà nguyên nhân đưa đến cho nó theo Heidegger, triết gia hàng đầu của thế kỷ 20, nói là do đã "lãng quên Tính Thể ( oublie de l'Être ). Nói “Tính Thể” là theo triết học, còn thần học gọi là Thiên Chúa. Triết học “quên” Bản Tính, còn thần học thì chính là khai tử Thiên Chúa ( Théologie de la mort de Dieu ). Quên Thiên Chúa cũng tức là quên mất phẩm tính Con Thiên Chúa ở nơi mình. Một khi đã “quên” như thế thì con người mặc nhiên trở thành những đứa con hoang, sống mà không biết mục đích sống để làm gì.

Người có đạo là người có con đường tâm linh để bước đi, nhưng bước đi thế nào được nếu không có Đức Kitô dẫn đường chỉ lối: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ). Câu này là một mệnh đề hoàn chỉnh gồm có hai vế không thể tách rời. Tách đi một vế thì vế còn lại trở nên vô nghĩa. Thần học ngày nay với chủ trương Quy Kitô ( Christocentrisme ) đã tách đi vế hai để chỉ còn vế một “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Tách như thế thì đường tâm linh đương nhiên trở thành... đường cụt, tức đã mất đường về với Cha.

Con đường trở về ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa, một là trở về với Đấng Cha nội tại, tức Bản Tính Con Thiên Chúa nơi mình. Để có thể theo được nghĩa này thì chỉ có những bậc đại triệt đại ngộ như Ngôn Sứ Isaia thời Cựu Ước hoặc Thánh Antôn ẩn tu, Thánh Phanxicô Assisi thời Tân Ước mới có thể thực hiện. Còn với tuyệt đại đa số thì đường về ấy là về Quê Thật là Nước Thiên Đàng đời sau.

Mặc dầu vậy, cả hai con đường này đều rất chân thật, đồng thời đòi hỏi mỗi người cần thực hiện đầy đủ cả ba nhân đức Tin Cậy Mến. Tin ở đây trước hết là tin vào lượng từ bi nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa, Đấng quả thật là Cha mình. Đấng Cha ấy như trong dụ ngôn là người cha đầy lòng thương xót: “Nó bèn đứng dậy mà về cùng cha. Khi còn ở đàng xa, cha thấy nó thì động lòng thương xót chạy ra, ôm lấy cổ nó mà hôn riết” ( Lc 15, 20 ).

Mùa Chay còn gọi là Mùa Đại Phúc, với hàm ý đây là quãng thời gian vô cùng quý báu dành cho mỗi người, bất kể người ấy đã xa lìa Chúa bao lâu, phạm những tội lỗi gớm ghiếc nào… Hơn nữa, tội càng nhiều bao nhiêu lại càng được thứ tha nhiều bấy nhiêu nếu thực lòng sám hối ăn năn. Bởi lẽ chính những con người ấy mới là đối tượng của lòng xót thương: “Bởi Con Người đến để cứu vớt kẻ bị hư mất” ( Mt 18, 11 ).

PHÙNG VĂN HÓA, Trà Cổ, Mùa Chay Thánh 2014

15

Page 16: Ephata 604

PHONG CÁCH PHANXICÔBÀI 8. PHANXICÔ LÀ MỘT PHẢN CHIẾU TRUNG THỰC NHẤT

MẶT TRỜI KITÔ CHO MỌI THỜI ĐẠI

Truyền thuyết Trung Hoa tin rằng sở dĩ có nhật thực là vì trên trời có một con chó thần nuốt mặt trời vào bụng nó: Thiên Cẩu Thôn Nhật 天狗吞日. Trong truyện Cô Gái Đồ Long ( hay là Ỷ Thiên Đồ Long ký) của tác giả Kim Dung 金庸 ( Jin Yong ), vào năm 2006 ông được độc giả bình chọn là nhà văn được yêu thích nhất ở Trung Quốc, kịch tính được đẩy lên đỉnh cao khi khi Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, người bị mù cả hai mắt, đang phải quyết đấu một mất một còn với kẻ cựu thù Thành Khôn, người sáng cả hai mắt, phần thắng đang nghiêng về Thành Khôn. Để cho cuộc tử chiến được công bằng, Kim Dung đã chọn thời gian có hiện tượng nhật thực, khiến cho Thành Khôn có mắt cũng như mù.

 ( Trích) Lúc ấy trên trời bỗng u ám, hình như có đám mây đen che phủ mặt trời, đột nhiên có người la lớn: "Thiên cẩu nuốt mặt trời !" Lúc ấy Thành Khôn có mắt cũng như mù, thoạt đầu y còn hơi trông thấy hình bóng của Tạ Tốn càng tấn công càng nhanh, trong bóng tối chỉ thấy Thành Khôn rú lên những tiếng rất thảm khốc. Thì ra ngực của y bị Thất thương quyền của Tạ Tốn đánh trúng. ( hết trích ).

Trước 1975 mỗi khi có chuyến bay từ Hongkong đến là có người túc trực tại sân bay Tân Sơn Nhất nhận tờ Hông Kông Minh Báo để mang về ngay cho ông Bùi Xuân Trang ( 1909 – 1979 ) có bút danh Hàn Giang Nhạn ( nghĩa là con chim nhạn phương Bắc thiên di về miền Nam, vì ông là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1953 ), dịch ngay sang tiếng Việt để đăng kịp trong các tờ nhật báo tại Miền Nam xuất bản vào buổi chiều. Ông thông thạo cả Pháp Ngữ lẫn Hoa Ngữ, còn có bút danh khác là Thứ Lang ( dùng cho văn chương và khảo cứu ) và Vô Danh Khách ( dùng cho truyện hài hước ). Ngày nay các nhà xuất bản cứ tha hồ mang các bản dịch này ra xào nấu lại nhưng với tên các người dịch khác. Lão tiền bối Hàn Giang Nhạn tiên sinh đã ra người thiên cổ, đâu còn tranh cãi được nữa, khỏi cần phải mất công tìm con cháu trả tiền bản quyền.

Kim Dung cũng có biệt tài như nhà văn Anh Charles Dickens ( 1812 – 1870 ) là viết rất hay và khỏe mà không cần phải hoàn chỉnh một tác phẩm mới đem ra xuất bản. Mỗi ngày cả hai ông chỉ cần viết ra một phần truyện đủ để đăng báo nhưng không bao giờ có ý trùng lắp cũng như lẫn lộn các nhân vật trong truyện.

 Hiện nay nhiều bạn trẻ đang say mê thể loại Võng Du 网游 nói nôm na là truyện online. Ở đây ta lại thấy cách dịch nghĩa rất máy móc chữ online, một từ mới xuất hiện trong những năm gần đây. Người Hoa không dùng mẫu tự Latin, nên đành phải viết là “Võng Du”. Tại sao cứ phải theo Tầu mà gọi ngô nghê như thế trong khi tiếng Việt có thể viết ra chữ online mà ai cũng hiểu ngay. Hồi xưa, tổ tiên ta vì chưa thông thạo Quốc Ngữ đã phải dịch Papa là Giáo Hoàng. Tại sao ngay đến thế kỷ 21 mà ta cứ phải duy trì từ Giáo Hoàng mà không dám dùng chữ Papa mà mọi người trên thế giới đều thường sử dụng ?

Tân Tổng Giám Mục Bùi Văn Đọc của Tổng Giáo Phận Sàigòn trong các năm 1964 – 1970 học tại Đại Học Truyền Giáo Urbaniana, Roma. Trong thời gian đó, cũng như mọi người Ý khác, ngài phải gọi vị Đại Diện Đức Kitô là Papa Paulus VI. Bây giờ, nếu có sang Roma gặp vị thủ lãnh Nhà Thờ hiện nay thì ngài cũng phải gọi là Papa Francisco thôi. Tại sao khi dùng tiếng Việt, ngài lại không thể nói như thế được ?

Bây giờ thiếu mất ngòi bút sắc sảo của Hàn Giang Nhạn, đọc các bản dịch truyện Tầu dựa trên công cụ Google Translate của đám hậu sinh khả úy thì dễ bị tẩu hỏa nhập ma, giống như lỡ nuốt phải bánh bao thiu. ( Trích minh hoạ Võng du chi Thiên Cẩu Thôn Nhật, Chương 864: Hỗn độn tiên sinh. Cho nên Jehovah ngay từ đầu liền thi triển sát thủ, kim sắc bàn tay to tràn ngập hủy thiên diệt mà lực lượng, cho dù là chuẩn thánh điên phong Minh Hà cũng vô pháp ngăn cản. Minh Hà trong mắt lộ ra tuyệt vọng thần sắc, vốn là đa nghi hắn nhìn đến phương Tây Thần Vương cường giả động thủ Vân Tiêu nhưng không có xuất hiện, nhịn không được mắng to nói: “Chết tiệt dị nhân chó điên, ta còn là thượng ngươi đương” ( hết trích ).

16

CÙNG KHÂM PHỤC

Page 17: Ephata 604

Từng chữ trong Kinh Thánh đều có tầm quan trọng đến độ đã có lời cảnh báo nghiêm khắc: Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này ! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sách sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành mô tả trong sách này !” ( Kh 22, 18 – 19 ). Trong Kinh Thánh từ “mặt trời” đã được dùng đến 160 lần.

Sách Malachi, bộ sách cuối cùng của Cựu Ước đã nói về lời hứa cứu chuộc của Đức Chúa sẽ được thể hiện như là sự xuất hiện của mặt trời: Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh. Các ngươi sẽ đi ra và nhảy chồm lên như bê xổng chuồng ( Ml 3, 20 ).

Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, bộ sách đầu tiên của Tân Ước, ghi lại Đức Kitô xuất hiện như một ánh sáng huy hoàng. "Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại ! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" ( Mt 4, 12 – 16 ).

Nói về diện mạo đích thực của Đức Kitô, Thánh Mátthêu không ngần ngại dùng ngay chữ “mặt trời”. "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" ( Mt 17, 1 – 2 ).

Thưở tôi còn bé, mỗi khi có nhật thực là đám trẻ trong xóm chúng tôi đi lấy ngay một chậu nước mang ra ngoài sân để quan sát nhật thực. Đúng hơn là tham gia một trò chơi con nít vì có biết gì đâu mà quan sát. Thời đó làm gì có các loại kính râm đặc biệt mang ký hiệu UV, tức là có thể ngăn chặn được tia cực tím ( ultraviolet ), giúp ta nhìn thẳng vào mặt trời mà không bị lóa mắt. Dĩ nhiên, mặt trời mà ta thấy được trong chậu nước đâu có phải là mặt trời thật, nhưng ít nhất chậu nước cũng là một phản chiếu hình ảnh của mặt trời.

Loạt bài Phong Cách Phanxicô muốn nhấn mạnh đến sự phản chiếu rất trung thực, rất nhiều tác giả nhận định là trung thực nhất trong mọi thời đại, chân dung Đức Kitô, nơi con người Phanxicô. Cả cuộc đời anh chỉ thực hiện một một hoài bão duy nhất như anh đã nghe Chúa nói mình: “Hãy sửa lại ngôi nhà đang đổ nát của ta.” Thoạt tiên anh chỉ hiểu đó là một ngôi nhà thờ ( viết thường ), về sau anh mới nhận ra Nhà Thờ này phải được viết hoa (có nghĩa là toàn thể

cơ cấu Hội Thánh tức là Nhà Thờ Đức Kitô ), sau cùng anh mới nhìn ra, đòi hỏi lớn nhất của Chúa chính là sự sống của Đức Kitô nơi mỗi Kitô Hữu.

Không có mặt trời, một chậu nước chỉ là một chậu nước, nhưng khi có mặt trời, vì ta không thể nhìn thẳng vào nó mà không bị lóa mắt, nhìn vào chậu nước ta sẽ thấy được mặt trời. Giờ đây nó trở nên dịu dàng trìu mến và thích hợp với sự lĩnh hội rất nhỏ nhoi và giới hạn của ta. Ta vẫn có thể hiểu được mặt trời là như thế đó.

Papa Phanxicô hiện nay muốn đem phong cách Phanxicô ra để lãnh đạo Dân Thiên Chúa trong hành trình Lòng Tin. Đây là sự phản chiếu rất tuyệt vời chân dung đích thực Đức Kitô cho toàn thế giới.

Theo bước Đức Kitô, ta sẽ được Người đưa ta đến nơi Người muốn, đó là nơi ở của Người và của Cha Người. Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành ( Ga 17, 14 ).

Lạ lùng thay, chính Đức Kitô nói ra rằng ta cũng sẽ trở nên những mặt trời. "Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ" ( Mt 13, 43 ).

NGUYỄN TRUNG, 3.2014

17

Page 18: Ephata 604

BÁO CHÍ HAY… BÁO HẠI ?Thông tin là một trong những điều thiết yếu của cuộc sống, nó thường là nguyên nhân của một

sự thay đổi mạnh mẽ nào đó trong cuộc sống của con người, thay đổi tích cực hay thay đổi tiêu cực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng một trong các yếu tố đó là phẩm chất của thông tin.

Trên Facebook của một người bạn đã từng viết đại khái thế này: Thật bất nhẫn khi đưa các hình ảnh của những nạn nhân bị hiếp dâm hay những con người có phận đời khốn khổ mà chả cần biết những người ấy có muốn được “nổi tiếng”, muốn được lên báo hay không. Trong một chừng mực nào đó, báo chí, truyền hình phải lột tả được sự chân thực, tuy nhiên trong cái chân thực ấy nhiều khi bị lạm dụng, bị bóp méo, thậm chí là cả một sự giả dối đáng khinh bỉ, điển hình như vụ cãi vã, kiện cáo lùm xùm trong chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” mới đây. Tin tức bây giờ dường như là tin để… tức, vì người nhận tin bị xỏ mũi nhiều hơn là để thu thập những thông tin hữu ích. Do đó, nhiều khi báo chí lại trở thành… báo hại, xem xong thêm bực mình !

Thêm một điển hình nữa như đường link dưới đây:

http://giadinh.net.vn/nuoi-day-con/6-lam-tuong-ngo-ngan-ve-pha-thai-20140317085311297.htm.

Đường link trên được dẫn từ một bài báo không ghi rõ tên tác giả, lại nằm trong mục nuôi dạy con của báo giadinh.net đăng ngày 22.3.2014. Nội dung của bài "báo hại" trên nhằm đả phá 6 vấn đề lâu nay vẫn được coi là những sai lầm ngớ ngẩn từ chuyện nạo phá thai nơi người phụ nữ như sau:

Phá thai là nguyên nhân gây ung thu vú Phá thai sẽ dẫn tới hậu quả vô sinh Hầu hết đều hối tiếc sau khi phá thai Khi nhìn thấy hình ảnh siêu âm thai nhi, sẽ không muốn phá thai nữa. Phá thai gây tổn hại tâm lý Phá thai gây nguy hiểm cho sức khỏe và cuộc sống

Ý kiến của phóng viên nào đó còn ngụ ý rằng: Các phụ nữ có quan điểm đi ngược lại với nội dung bài viết thì là ngớ ngẩn, thậm chí là sai lầm oan uổng ! Tác giả bài "báo hại" này còn nguỵ biện rằng viết như thế không nhằm khuyến khích phá thai.

Và rồi như thể muốn tránh né trách nhiệm, sợ bị búa rìu của độc giả, ra cái điều áy náy lương tâm, tác giả bèn thòng thêm một câu: ấy là chỉ muốn xét trên quan điểm khoa học mà thôi, sau đó là viện dẫn các chỉ số thống kê, các hội thần kinh tận đâu bên Mỹ, nhưng lại chẳng đưa ra được đường link nào để độc giả kiểm chứng.

Thật là độc ác và vô lương tâm, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội

Việt Nam hôm nay. Trước khi đi vào 6 vấn đề trên, chúng ta hãy xét cụm từ “Phá thai an toàn và hợp pháp”. Làm gì có khái niệm phá thai hợp pháp ? Nếu chính bản thân luật pháp hiện hành đã không phù hợp với luân lý tự nhiên của con người thì không thể bảo một chuyện nào đấy có hợp pháp hay không.

Vấn đề nằm ở chỗ cái gọi là luật pháp bây giờ đâu có công nhận thai nhi là một con người, chứ nếu như đã coi thai nhi là một con người thì luật pháp nào lại cho phép giết người ? Chẳng qua những người làm luật của Việt Nam ta đã cưỡng chế luật nhằm hợp thức hóa tội ác phá thai mà thôi. Bên cạnh đó, người ta bày ra những mỹ từ nhằm đánh lạc hướng hiểu biết của xã hội, phủi tay chối quanh về hành vi giết người kinh khủng như: tầm soát, sàng lọc trước sinh, kế hoạch hóa gia đình, điều hòa kinh nguyệt, chấm dứt thai kỳ…

Có hợp pháp không khi mà bất cứ ai cũng có thể phá thai dễ như đi mua bó rau ngoài chợ, vài ngày nữa là sinh rồi mà cũng phá, sứt môi là phá, không thích trai hoặc gái là phá, con thứ ba là phá…

18

CÙNG CẢNH BÁO

Page 19: Ephata 604

kiểu gì cũng phá. Thậm chí các y bác sĩ thiếu lương tâm còn mắng nhiếc nặng lời, ép các thai phụ phải phá, thuyết dụ phá bằng các lý lẽ rất ư là nhân đạo, khuyến khích phá vì lợi ích của gia đình và xã hội, và bỉ ổi hơn nữa, còn lừa cả thai phụ để phá cho bằng được, mong đạt chỉ tiêu, thành tích khen thưởng.

Rõ ràng có cả dãy phố phá thai sầm uất, một loạt cửa hàng dịch vụ phá thai san sát nhau, nhiều bài báo chụp hình tố giác, vậy mà chả có phòng khám nào bị pháp luật sờ gáy ! Nhiều thai nhi đã bị giết một cách vô tội vạ như thế, vứt xác lung tung như thế, nhiều cô gái vị thành niên đi phá thai như thế, nhưng có điều luật nào để bảo vệ các thai nhi đâu !

Còn chuyện rêu rao phá thai an toàn ư ? Chưa biết người mẹ sống hay chết, tổn thương thế nào sau khi phá thai, di chứng về thể lý, tâm lý và tâm linh lâu dài ra sao, còn thai nhi thì đã chắc chắn bị giết chết ngay rồi, vậy khái niệm an toàn ở đâu khi phải trả giá bằng sinh mạng oan nghiệt ?

Xét cho cùng khái niệm phá thai an toàn và hợp pháp thực chất là một lời xảo biện dối trá, tàn bạo, vô đạo đức !

Đó là bàn về khái niệm, còn giờ chúng ta thử tìm hiểu sâu hơn một chút về 6 điều bị cho là “ngớ ngẩn” bài báo đã nêu ra.

Phá thai gây ra ung thư vú: Tác giả bài báo cho rằng: không có một bằng chứng y khoa nào đáng tin về chuyện phá thai lại có liên quan đến ung thư vú. Tuy nhiên, chúng ta hãy thử tìm trên Google với từ khóa bằng tiếng Việt: “phá thai và ung thư vú”, sẽ có ngay rất nhiều bằng chứng cho thấy phá thai làm tăng tỷ lệ ung thư vú gấp 2 lần. Đặc biệt là phá thai bằng thuốc thì tỷ lệ ung thư vú rất cao. Ai cũng biết rằng ung thư là do các tác nhân nào đó ảnh hưởng đến cơ thể, làm sai lệch quá trình sao chép các gien. Vậy với các loại thuốc phá thai cực mạnh như hiện nay thì ai dám đảm bảo rằng những thay đổi nội tiết đột ngột không dẫn tới một loại ung thư nào đó, kể cả ung thư vú ?

Phá thai dẫn đến vô sinh: Tác giả bảo đây là trò nói dối của phía Phò Sự Sống ( Pro-Life ) để doạ những ai dám phá thai. Nhưng nếu chúng ta tra Google với cụm từ “phá thai và vô sinh” chúng ta sẽ có khoảng 1.590.000 kết quả trong vòng 0.37 giây, những bằng chứng hết sức thuyết phục về vấn đề này. Dĩ nhiên, không phải ai phá thai cũng dẫn đến vô sinh nhưng khả năng vô sinh đối với người từng phá thai sẽ rất lớn. Ngoài việc có thể dẫn đến vô sinh, người phụ nữ sau khi phá thai còn dễ bị trầm cảm, bản năng làm mẹ bị ảnh hưởng do những sang chấn tâm lý, đau khổ mặc cảm…

Hầu hết đều hối tiếc sau khi phá thai: Tác giả bài báo khẳng định ngon lành rằng: 90% phụ nữ sau khi phá thai cảm thấy nhẹ nhàng, được giải thoát, và có đến 80% thai phụ cho rằng phá thai là quyết định đúng đắn. Xin thưa ngay rằng: tác giả đang xúc phạm nặng nề đến đạo đức và phẩm giá của người phụ nữ. Chẳng lẽ có đến 90% phụ nữ lòng chai dạ đá, lì lợm về cảm xúc, chẳng còn chút lương tâm nào, sống ích kỷ vô luân, đã tự giết chết mất bản năng làm mẹ, không còn biết dày vò ân hận khi đành đoạn giết chết chính đứa con vô tội quá bé bỏng của mình hay sao ?

Khi nhìn thấy hình ảnh siêu âm của thai nhi, sẽ không muốn phá thai nữa: Tác giả cho biết có một nghiên cứu nọ chỉ ra rằng 98,4% phụ nữ vẫn phá thai khi nhìn thấy hình ảnh siêu âm của thai nhi ! Trong thực tế chúng ta thấy nhiều thai phụ không muốn phá thai nhưng sau khi siêu âm lại cắn răng xin được phá thai chỉ vì họ đã bị các y bác sĩ lừa gạt, dọa nạt rằng thai nhi đa dị tật, có nguy cơ cao bị hội chứng down… Và không ít trường hợp sai lỗi do máy móc siêu âm quá cũ hoặc trình độ đọc kết quả siêu âm chẩn đoán hình ảnh quá tệ hại. Bác sĩ nói thế thì biết thế, làm sao bây giờ ? Ở các nước tiên tiến, Bỉ chẳng hạn, có ai đó muốn phá thai, bác sĩ sẽ rất khéo léo khơi gợi bản năng làm mẹ bằng cách cho họ xem hình ảnh của thai nhi lớn lên từng ngày, nghe được cả nhịp tim… Họ mô tả đứa bé sẽ dễ thương thế nào, bụ bẫm ra sao, tuần tới sẽ phát triển thế nào, và họ sẽ tiếp tục làm như vậy với người mẹ cho đến khi thai nhi quá 12 tuần tuổi để lúc đó chẳng ai dám sát hại đến thai nhi đó nữa vì sẽ bị pháp luật trừng phạt.

Phá thai gây tổn hại tâm lý: Bài "báo hại" dám khẳng định rằng không hề có bằng chứng nào gọi là “Hội chứng căng thẳng sau phá thai” và còn cho đó là một lời đồn, một lời đe dọa chứ làm gì có chuyện tổn hại tâm lý sau khi phá thai ! Thật là một lý lẽ vô trách nhiệm và độc ác không thể tưởng tượng nổi. Một lần nữa hãy kiểm tra trên Google với bất cứ cụm từ nào có liên quan đến hai chữ phá thai. Mặt khác, xin mời những ai còn chưa tin hãy làm một chuyến viếng thăm các nghĩa trang đồng nhi hiện nay có rất nhiều trên toàn quốc. Chúng ta sẽ

19

Page 20: Ephata 604

được nhìn tận mắt các dãy mộ đều tăm tắp, sờ tận tay những tấm bia mộ bằng đá lạnh ngắt, tai nghe mắt nhìn những tâm sự của nhiều bà mẹ khốn khổ tâm sự vì đã trót dại dột phá thai…

Phá thai gây nguy hiểm cho sức khỏe và cuộc sống: Tác giả bài viết dám mạnh miệng tuyên bố rằng: phe Phò Sự Sống đã nói dối khi bảo phá thai rất đau đớn, rất có hại và có thể gây chết người ! Sự thật là gì ? Hàng năm có biết bao nhiêu phụ nữ đã chết ngay trên bàn nạo phá thai: mỗi phút trôi qua, trên thế giới có 10 ca tử vong do nạo phá thai và tỷ lệ đó đang ngày một tăng cao, 70 ngàn ca tử vong cho các bà mẹ do nạo phá thai hàng năm, đây chỉ là một con số thống kê chưa đầy đủ của Google. Thế có phải là một lời lừa gạt trắng trợn nhằm một mục đích cố gắng tàn sát các thai nhi càng nhiều càng tốt, coi sinh mạng của cả các bà mẹ chẳng ra gì. Lại nữa, nói rằng phá thai không hề ảnh hưởng chi đến cuộc sống của người phụ nữ thì đúng là một lời dối trá, vì thật ra phá thai không chỉ ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của riêng người phụ nữ phá thai mà còn ảnh hưởng sâu xa đến gia đình, đến xã hội, đến tương lai cả dân tộc ấy chứ. Một dân tộc sẽ ra sao khi các bà mẹ lại toàn là kẻ dám giết chính con ruột mình. Việt Nam đang ở hạng top ten thế giới về tỷ lệ nạo phá thai, và thực tế cho thấy Việt Nam cũng đang suy đồi về đạo đức, nhân phẩm, danh dự dân tộc, thể diện quốc gia… Giết người, cướp của, ăn cắp, lừa đảo, tham nhũng, đàn áp, bóc lột, bạo hành bạo lực, nhan nhản hằng ngày đấy thôi !

Để kết luận, xin các thứ báo chí, truyền thanh, truyền hình của Việt Nam ta, hãy thôi ngay những kiểu viết "báo hại", những thông tin lập lờ lừa đảo. Dân mình đã khổ lắm rồi, xin đừng làm tan nát thêm các gia đình, tan nát của nhân tâm xã hội bằng những kiểu viết và đưa tin thất đức vô luân như thế nữa. Còn đối với những ai đã trót đọc phải những thứ "báo hại" này, xin hãy bình tâm suy nghĩ, xem xét lại phẩm chất thông tin của chúng, đừng để chính mình trở thành nạn nhân đáng thương của tội ác nạo phá thai.

Đaminh PHAN VĂN DŨNG, 29.3.2014

TẠI SAO CÓ SỰ KHÁC BIỆT QUÁ LỚN GIỮA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI NHẬT ?

Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất ( có thể vì đắt đỏ quá ) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người. Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.

Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả, đó là một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.

Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật – đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo…

Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước Nhật”. Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu mạnh.

Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam còn quan

20

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 21: Ephata 604

tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngả mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.

Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật ?” Phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình. Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.

Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu nước ( lần đầu tiên vào năm 1905 ). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi ! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao !”

Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.

Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1.9.1923 đã làm cho 130.000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” ( Le désastre Japonais ) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân, kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình” chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.

Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150.000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử, người Nhật phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng

Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nổi”.

Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.

Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này. Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh ( Supreme Commander of the Allied Powers ) – vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.

Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả Nicholas Kriftoff.

Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.

Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối

21

Page 22: Ephata 604

đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.

Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.

Toàn bộ Nội Các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát, không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia ( Mỹ ) đã nhận xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”

Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.

Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối ( Ảnh chụp bên trái ).

Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17 tháng 3, các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.

Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay ( 18 tháng 5 ) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau nếu có dịp đến

đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.

Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này, đối với người viết, chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỷ luật và lễ phép.

Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫn bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ… không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở, mà còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa qua.

Trông người lại nghĩ đến ta !

Trong bài “Góc ảnh chiếu từ nước Nhật”, nhạc sĩ Tuấn Khanh ( ở Việt Nam ) đã viết một câu thật thấm thía: “Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật, người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn”.

Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại Việt Nam thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:

- Động đất có khi chết 200, nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.

- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày kia.

- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp giật, nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.

- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.

22

Page 23: Ephata 604

- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.

- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều.

- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.

- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.

- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn khổ.

- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt Trận Tổ Quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng v.v…

Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung, nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.

Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tai xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người Việt, phản ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.

Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình, vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.

Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người Việt Nam. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh.

Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc Cách Mạng Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh lạc hậu.

Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần. Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như những gì mà người CS đã làm đối với dân Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.

Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.

Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước Việt Nam hiện nay, đa số chúng ta thường hay đổ hết trách nhiệm cho người CS. Thật sự CS không phải là thành phần duy

nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu CS là nguyên nhân của mọi sự xấu xa thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải là những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân khác,

23

Page 24: Ephata 604

vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.

Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa CS đã dành được những thắng lợi trong cuộc Cách Mạng Mùa Thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất nước Việt Nam từ đó đến nay. Dân tộc Việt Nam đã chọn HCM thay vì Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh ( Ảnh chân dung bên trái ), Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải vì HCM giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì HCM đáp ứng đúng tâm lý của người Việt – đó là tâm lý tôn thờ bạo lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu sắt máu như thế này: “Thề phanh thây uống máu quân thù”, mà “quân thù” đó bất cần là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu hiệu của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31 do đảng CS lãnh đạo là: Trí, phú, địa, hào – Đào tận gốc trốc tận rễ.

Đối với người Việt Nam, bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách ôn hòa. HCM chọn chủ nghĩa CS dựa trên bạo lực cách mạng và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý

do hành động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục rơi trên đất nước Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Hoàn toàn trái ngược với HCM, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân Trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân Sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có giành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.

Có thể nói trong lịch sử hiện đại của Việt Nam, ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ văn hóa mà ra.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, có gần 30 nước giành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa CS trong đó có Việt Nam, phải trả bằng máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của Việt Nam chớ không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người CS biến dân tộc Việt Nam trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do, và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.

Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa HCM và Phan Chu Trinh, dân tộc Việt Nam đã chọn HCM và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn lựa đó.

Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu, một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.

Là một người yêu nước chân thật, ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.

Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút, thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng, và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.

Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy ( 127 triệu so với 87 triệu ), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ ( mentality ) giữa hai dân tộc. Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng Việt Nam thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, Việt Nam muốn trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết

24

Page 25: Ephata 604

nuốt nhục của kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh tế.

Tại sao lại có sự khác biệt như vậy ? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc ( United Nations Development Program – UNDP ) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ ( mentality ) của mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng một thử thách.

Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả hàng triệu đôla như ở các nước Phi Châu hay Việt Nam ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác, Ngoại Trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6.3.2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại quốc ? tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái vào thời điểm 1967 chỉ là 2.700.000 người, lại có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay ? Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất… và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.

Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn lên trở thành những nước giàu mạnh, trái lại, những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.

Bước ngoặt quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa Việt Nam ta và Nhật chính là cuộc Cách Mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi thì các vua chúa Việt Nam vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.

Vào tháng 7 năm 1853, khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền Trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo ( Tokyo ngày nay ). Những quả đại bác này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở đầu cuộc Cách Mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm.

Đó là một cuộc cách mạng đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ không còn hợp, nhưng lại không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị ( Meiji ) hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.

Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.

Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn

quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.

Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước Việt Nam, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung Tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam. Năm 1842, Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước

25

Page 26: Ephata 604

sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử.

Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài ( 14 năm ), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa CS kéo dài đến hôm nay.

PHẠM HOÀI NAM, nguồn: trankinhnghi.blogspot.com

SỰ THẦN KỲ CỦA SỰ SỐNGTôi không thể quên được những năm dài tiếp sau 1975, khi đó gia đình tôi ( có lẽ không khác

bao nhiêu nhiều gia đình khác ) luôn bị thiếu đói trầm trọng. Cả năm không có miếng thịt mà ăn, mỗi ngày chỉ được ăn hai bữa mà không được ăn no, đồ ăn chỉ toàn có bo bo, khoai hà, mì sợi mua theo sổ lương thực do Nhà Nước cấp. Bây giờ, ngẫm đi nghĩ lại thì đúng là sống được như thế quả là nhờ phép lạ và tình thương của Chúa.

Thời hiện nay tuy vẫn có nhiều người thiếu đói nhưng không quá thê thảm như dạo cả nước hồ hởi tiến mạnh tiến nhanh lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một số khá đông lại trở lên giầu có và ăn chơi phung phí. Tệ nạn phá thai trước sự cổ vũ nhiệt tình của Nhà Nước trở nên tràn lan. Con người đâm ra khinh thường và không biết nhìn ra sự sống của mình và của mọi người khác là một mầu nhiệm vĩ đại mà chỉ có Thiên Chúa mới ban xuống cho ta được.

Người ta trở nên nhẹ dạ, dễ dãi đi phá thai như một đứa trẻ đi nhổ đi một cái răng sữa. Có rất nhiều trường hợp sau khi đã bị trục ra khỏi dạ mẹ, các thai nhi vẫn còn cất tiếng khóc chào đời vì các em vẫn còn muốn sống.

Mới đây tại Ấn Độ, một bé sinh non 2 tháng, sau khi nằm trong thùng đá dùng để ướp cá đến cả 5 tháng vẫn còn sống như một minh chứng cho sự thần kỳ của sự sống con người.

NGUYỄN TRUNG

Tháng 10 năm 2013, cháu Mithilesh Chauhan chào đời sớm 2 tháng tại Mumbai, Ấn Độ. Cháu chỉ cân được 1,4 kg và cần được theo dõi liên tục vì dễ bị nhiễm trùng. Tuy nhiên cha mẹ cháu, ông bà Aruna và Ramseh Chauhan không có khả năng trả tiền cho chi phí săn sóc đặc biệt ( ICU ) tại bệnh viện. Trước đó họ đã phải vay mượn tiền của bà con để mang trang trải viện phí và nay thì không còn ai để vay mượn nữa. Họ dự định mang cháu đến nhà thương công, nhưng ở đó danh sách chờ đợi rất dài.

Biết đứa bé sẽ bị nhà thương Alliance đuổi ra ngoài, ông bà Chauhans đành nhắm mắt làm theo lời khuyên của một bác sĩ tại đó là áp dụng một phương cách rẻ tiền “ngoài luồng” có thể cứu sống đứa bé còn hơn là không làm gì cả. Người cha đi ra ngoài chợ cá gần đó mua một cái thùng mốp dùng để ướp cá. Ông khoét lỗ trên nắp thùng để thông hơi và bỏ vào đó một bóng đèn điện 60 watt để giữ ấm.

Sau khi nằm viện 20 ngày, cháu Mithilesh được cho xuất viện, hy vọng cuối cùng được sống sót từ đó hoàn toàn tùy thuộc vào cái thùng đá này. Cứ mỗi hai tiếng cháu được bồng ra ngoài để đo nhiệt độ. Cha mẹ cháu rất khổ tâm trong thời gian dài thử thách này nhưng không còn biết làm gì khác hơn để cứu sống cháu.

Sau 5 tháng sống trong thùng đá này, Mithilesh vẫn còn sống nhưng vẫn chỉ nặng như lúc mới sinh. Bệnh Viện Nhi Đồng Wadia biết đến trường hợp này đã nhận cháu vào điều trị miễn phí.

Nguồn http://www.foxnews.com/health/2014/03/20/parents-save-premature-babys-life-by-keeping-him-in-icebox/

Parents reportedly save premature baby’s life by keeping him in icebox.

Published March 20, 2014

26

CÙNG TRÂN TRỌNG

Page 27: Ephata 604

CUỘC SỐNG CHỈ CÓ VẬY THÔI SAO ?Thực hiện giấc mơ của hầu hết các bậc phụ huynh tại Ấn Độ, tôi đã tốt nghiệp đại học với mảnh

bằng kỹ sư máy tính và xin được vào làm việc tại một công ty phần mềm có trụ sở tại Mỹ, mảnh đất của những con người dũng cảm và có rất nhiều cơ hội. Khi tôi đặt chân lên đất Mỹ, đó cũng là lúc giấc mơ trở thành sự thật.

Cuối cùng thì tôi cũng đã đến được nơi mà mình muốn. Tôi quyết định là mình sẽ làm việc ở Mỹ trong vòng khoảng 5 năm, và trong thời gian đó tôi sẽ kiếm đủ tiền để quay trở về sống tại quê nhà Ấn Độ. Nhưng một câu hỏi luôn dằn vặt tôi mỗi đêm là “Tất cả cuộc sống chỉ có vậy thôi sao ?”

Bố tôi là một công chức nhà nước và sau khi ông nghỉ hưu, tài sản duy nhất ông có thể kiếm được là một căn hộ khá tốt với chỉ một phòng ngủ.

Tôi muốn làm một điều gì đó nhiều hơn ông. Sau một thời gian, tôi bắt đầu cảm thấy rất nhớ nhà và cảm thấy cô đơn. Tôi thường gọi điện về nhà để trò chuyện với bố mẹ tôi mỗi tuần bằng cách sử dụng các thẻ điện thoại gọi quốc tế giá rẻ. Hai năm trôi qua, cũng là 2 năm tôi luôn phải gặm bánh Burger tại các cửa hàng McDonald’s hoặc bánh pizza và nghe nhạc disco, và trong 2 năm đó tôi thường xuyên theo dõi tỷ giá tiền tệ và thường cảm thấy hạnh phúc khi thấy trị giá đồng rupee ( đồng tiền của Ấn Độ ) giảm xuống so với đồng đôla. ( Vì điều này khiến những đồng đôla mà tôi tích cóp sẽ có giá trị hơn khi tôi quay về Ấn Độ ).

Cuối cùng tôi quyết định mình nên lập gia đình. Tôi nói với cha mẹ mình rằng tôi chỉ có 10 ngày trong dịp nghỉ phép và mọi thứ phải hoàn thành nội trong vòng 10 ngày ngắn ngủi đó. Tôi đặt vé máy bay trên một chuyến bay thuộc loại giá rẻ nhất. Vui mừng và thực sự thích thú là những cảm xúc đan xen khi tôi nghĩ đến việc quay về gặp lại gia đình và các bạn bè của mình. Tôi băn khoăn liệu mình có bỏ sót bất kỳ ai mà tôi nên gặp lại và nói chuyện hay không. Sau khi về đến nhà, tôi dành ra một tuần để xem một lượt các bức hình của tất cả các cô gái mà bố mẹ tôi đã nhờ người mai mối, và khi thời gian còn lại rất ít thì tôi đã lựa chọn được cho mình một “ứng cử viên” để làm vợ.

Ông bà sui gia vô cùng sửng sốt khi tôi nói với họ rằng đám cưới sẽ phải tổ chức nội trong vòng từ 2 đến 3 ngày, vì tôi sẽ không có thêm kỳ nghỉ nào nữa. Sau khi tổ chức lễ cưới xong, đó là thời điểm để quay trở lại Mỹ, sau khi đưa một số tiền cho bố mẹ tôi, và nhờ những người hàng xóm chăm sóc họ, vợ chồng tôi lên đường quay trở lại Mỹ.

Khoảng hai tháng đầu, vợ tôi cũng thấy thích thú với lối sống ở Mỹ, sau đó cô ấy bắt đầu cảm thấy cô đơn. Số lần gọi điện về Ấn Độ của cô ấy tăng dần từ 2 lần/tuần lên 3 lần/tuần. Số tiền chúng tôi dành dụm được bắt đầu vơi dần. Hai năm sau đó thì chúng tôi bắt đầu có con. Hai đứa bé rất dễ thương, một trai và một gái, đó là món quà mà ơn trên đã ban tặng cho chúng tôi. Mỗi lần

mà tôi gọi điện về nói chuyện với bố mẹ mình, họ thường hỏi tôi khi nào thì quay về Ấn Độ để ông bà có thể nhìn thấy mặt các cháu của mình.

Năm nào tôi cũng suy nghĩ đắn đo để có thể thu xếp một chuyến quay về thăm Ấn Độ. Nhưng một phần vì lý do công việc, một phần khác vì lý do về điều kiện tài chính đã không cho phép chúng tôi làm điều đó. Nhiều năm trôi qua, việc quay về thăm Ấn Độ là một giấc mộng quá xa vời. Rồi một ngày kia tôi đột ngột nhận được tin rằng cha mẹ tôi đang bị bệnh rất nặng. Tôi đã cố gắng hết sức nhưng không thể có được kỳ nghỉ phép nào để có thể quay về Ấn Độ. Tin tiếp theo mà tôi nhận được là cha mẹ tôi đã qua đời và không có một ai thân thích để thực hiện những nghi lễ cuối cùng đưa ông bà về nơi chín suối. Tôi đã hoàn toàn suy sụp. Bố mẹ tôi đã qua đời mà thậm chí họ còn chưa được gặp mặt những đứa cháu của mình.

Sau đó một vài năm, mặc dù hai đứa con tôi không thích nhưng tôi và vợ vẫn quyết định quay trở về Ấn Độ để sinh sống. Tôi bắt đầu tìm kiếm để mua một ngôi nhà phù hợp với số tiền mà mình có, nhưng tôi đã thực sự choáng váng vì số tiền mà mình dành dụm được thì quá ít mà giá nhà đất ở Ấn Độ thì đã tăng một cách chóng mặt trong những năm vừa qua. Vì vậy tôi đành phải quay trở lại Mỹ.

27

CÙNG TRĂN TRỞ

Page 28: Ephata 604

Vợ tôi từ chối quay lại Mỹ cùng với tôi, còn 2 đứa con lại không muốn ở lại Ấn Độ. Vì vậy tôi cùng 2 con quay lại Mỹ cùng lời hứa với vợ mình là tôi sẽ quay về Ấn Độ sau 2 năm nữa khi tình hình kinh tế khá hơn.

Thời gian dần trôi qua, con gái tôi quyết định kết hôn với một người đàn ông Mỹ, và con trai tôi cũng cảm thấy hạnh phúc khi sống tại đây. Tôi quyết định rằng mọi thứ đã ổn và không còn vương vấn điều gì, vì vậy tôi sẽ quay về Ấn Độ. Tôi cũng vừa tiết kiệm đủ tiền để có thể mua một căn hộ có 2 phòng ngủ khá tốt ở một khu vực mới xây dựng của địa phương.

Bây giờ tôi đã 60 tuổi và chỉ dành thời gian ra khỏi căn hộ để đi loanh quanh viếng thăm những thánh đường Hồi giáo gần nhà. Người vợ thủy chung của tôi cũng đã rời bỏ tôi để đi về nơi chín suối.

Thỉnh thoảng tôi cũng tự hỏi mình rằng, liệu đây là tất cả những gì tôi có ư ? Bố tôi, thậm chí chỉ sống tại Ấn Độ cũng đã có căn hộ của riêng ông, và tôi cũng không có gì hơn vậy.

Thật cay đắng, tôi nhận ra mình đã mất cả bố mẹ và hai đứa con để đổi lấy... THÊM MỘT PHÒNG NGỦ !

Nhìn ra ngoài từ cửa sổ, tôi nhìn thấy rất nhiều trẻ em đang nhảy các điệu nhảy hip-hop theo những hình ảnh trên truyền hình. Cái TV truyền hình cáp chết tiệt đó đã đầu độc thế hệ trẻ của chúng ta và tạo ra một lũ trẻ đánh mất cả giá trị của chúng và bản sắc văn hóa dân tộc. Thỉnh thoảng tôi cũng nhận được thư từ 2 đứa con để hỏi thăm về sức khỏe của cha mình. Vâng, điều an ủi lớn nhất là ít ra chúng vẫn nhớ còn có tôi tồn tại trên cõi đời này.

Bây giờ có lẽ sau khi tôi chết đi, tôi sẽ lại phải nhờ những người hàng xóm thực hiện những nghi lễ xá tội cuối cùng dành cho mình, Chúa sẽ phù hộ cho họ. Nhưng một câu hỏi luôn dằn vặt tôi mỗi đêm là “Tất cả cuộc sống chỉ có vậy thôi sao ?”

Tôi vẫn đang tìm kiếm cho mình câu trả lời…

Ký tên: Một lập trình viên Ấn Độ đã từng sống tại MỹBài viết được dịch từ Sulekha.com, http://vinacode.net

GOOGLE TÌM CẦU TUỆ GIÁC CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

Tại sao nhiều tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, trong đó có Google, lại dành sự quan tâm đặc biệt đối với một vị Thiền sư Phật Giáo người Việt đã 87 tuổi ?

Câu trả lời là tất cả các tập đoàn này đều mong muốn tìm hiểu: làm thế nào những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh – thường được hàng trăm ngàn đệ tử trên khắp thế giới gọi một cách thương kính là Thầy – có thể giúp cho tổ chức của họ có thể hoạt động một cách hiệu quả hơn

và mang lại nhiều hạnh phúc hơn. ( Ảnh: Thiền sư Thích Nhất Hạnh ).

Thầy Nhất Hạnh được mời hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm tại trụ sở chính của Google tại California vào cuối tháng này – đây là một dấu hiệu cho thấy sự thực tập chánh niệm đang bắt đầu trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay. Thầy – tác giả của hơn 2 triệu cuốn sách được bán ra ở Mỹ – sẽ có một buổi gặp gỡ với hơn 20 Giám đốc điều hành ( CEO ) của các tập đoàn công nghệ có trụ sở tại Silicon Valley để chia sẻ tuệ giác của Thầy về nghệ thuật an trú trong hiện tại.

Trong buổi gặp gỡ này, Thầy dự định sẽ thảo luận về cách thức có được một sự hiểu biết sâu sắc về bản chất gắn kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi người và mọi loài. Với hiểu biết đó, họ có thể hiến tặng những công cụ thực tiễn để đưa sự thực tập chánh niệm trở thành một phần thiết yếu trong công việc hàng ngày của họ, trong những sản phẩm mà họ chế tạo ra cũng như trong chiến lược mà họ vạch định để khoa học công nghệ có thể mang lại sự thay đổi cho thế giới này. Buổi gặp gỡ này sẽ kết thúc bằng sự thực tập thiền hành.

Những nỗ lực của Thầy trong hơn 50 năm qua đã được nhiều nhà lãnh đạo thế giới ghi nhận. Giám đốc Ngân hàng thế giới Jim Yong Kim đã nói rằng phương pháp thực tập của Thầy Nhất Hạnh là phương pháp “giúp cho chúng ta có thể cảm thông và thương yêu một cách sâu sắc đối với những người đang khổ đau”.

28

CÙNG THÔNG TIN

Page 29: Ephata 604

Thầy Nhất Hạnh xuất gia đã được 71 năm. Mặc dù tuổi đã cao, Thầy vẫn liên tục đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới. Thầy hiện đang trong chuyến đi hoằng pháp ba tháng tại Bắc Mỹ với lịch trình khá nặng. Trước đó, Thầy đã có chuyến đi hoằng pháp tại châu Á cũng trong 3 tháng.

Tăng thân xuất sĩ của Thầy Nhất Hạnh được đánh giá là tăng thân có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Vé tham dự những khóa tu do Thầy hướng dẫn trong 1 tuần tại Toronto, Canada hay tại New York, Mississippi và California – mỗi khóa tu đều có hơn 1000 tham dự – đều được bán hết chỉ trong vài ngày.

Thầy Nhất Hạnh cảnh báo rằng nền văn minh của chúng ta đang có nguy cơ sụp đổ trước những thiệt hại nghiêm trọng về xã hội cũng như môi trường sinh thái do nền kinh tế chạy theo ham muốn gây nên. Thầy cũng đồng thời chỉ ra cho chúng ta một hướng đi mới, đó là xây dựng một nền kinh tế lấy hạnh phúc chân thực làm mục tiêu, thay vì hy sinh hạnh phúc của mình để thờ phụng chủ nghĩa vật chất như bấy lâu nay chúng ta vẫn làm.

“Chúng ta cần phải xem lại quan niệm của chúng ta về hạnh phúc. Chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có được khi nào chúng ta giành thắng lợi, khi chúng ta giành được vị trí đứng đầu. Tuy nhiên, sự thực thì không cần thiết phải như vậy. Bởi vì ngay cả khi chúng ta kiếm được nhiều tiền hơn, chúng ta vẫn khổ đau như thường. Chúng ta cạnh tranh bởi vì chúng ta không hạnh phúc. Thiền tập có thể giúp cho chúng ta bớt khổ hơn”. ( Ảnh: Các kỹ sư Google trao đổi và thực hành thiền )

Thiền tập có thể giúp cho các thành viên trong doanh nghiệp vơi bớt khổ đau,” Thầy nói. “Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ hữu ích rồi, bởi vì nếu nhân viên của một doanh nghiệp có đủ hạnh phúc thì doanh nghiệp đó sẽ làm ăn hiệu quả hơn.

“Trong trường hợp công ty của anh đang có những hoạt động gây tổn hại môi trường, và bởi vì anh đã thực tập thiền nên anh có thể có được một cái thấy, cái thấy này sẽ giúp anh tìm ra cách thức điều hành công ty của mình theo hướng làm giảm nhẹ những tổn hại đối với môi trường.

“Thiền tập có tác dụng làm lắng dịu nỗi khổ, niềm đau trong ta, đồng thời mang lại cho ta nhiều tuệ giác và một cái thấy chân thực ( chánh kiến ) về chính bản thân mình và về thế giới. Và nếu ta có được tuệ giác của một tập thể thì chắc chắn là ta sẽ tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp mình theo hướng làm cho thế giới này vơi bớt khổ đau.”

 Theo Thầy, đem chánh niệm vào công sở, vào các doanh nghiệp còn có tác dụng giúp cho các nhân viên tránh được tình trạng bị quá tải bởi công việc, tuy nhiên để làm được điều này thì các chủ doanh nghiệp, các giám đốc công ty cần phải làm gương trước. ( Ảnh: “Tìm kiếm trong tự thân” – Search Inside Yourself )

Thầy cho rằng nhiều lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn đã bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, tuy nhiên rất ít người trong số đó thấy được mối liên hệ giữa sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp với văn hóa bên trong của doanh nghiệp mà họ đang điều hành.

Thầy nói: “Nếu người giám đốc doanh nghiệp dành toàn bộ thời gian của mình cho công việc của doanh nghiệp, người đó sẽ không còn thời gian để chăm sóc cho chính mình hay cho gia đình của mình. Người giám đốc đó cần phải nhận ra rằng

doanh nghiệp của mình sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu người đó trở nên lắng dịu, tươi mát hơn, có khả năng cảm thông và thương yêu nhiều hơn”.

Trong điều kiện hiện nay khi mà máy tính trở nên quá phổ biến và tiện dụng với tốc độ xử lý ngày càng nhanh thì các giám đốc doanh nghiệp lại càng khó có được thời gian cho riêng mình, thời gian để nhìn lại bản thân và tìm niềm cảm hứng cho cuộc đời mình.

Thầy chia sẻ về tầm quan trọng của sự thực tập vô tác ( aimlessness ), tức là không chờ đợi kết quả, không mong cầu gì hết khi hành động, không có đối tượng gì để chạy theo. Thông thường chúng ta hay có thói quen chạy theo hết dự án này đến dự án khác, không ngừng nghỉ.

“Chúng ta thường cho rằng hạnh phúc nằm ở tương lai, vì vậy sự thực tập vô tác là dừng lại, không đuổi theo một đối tượng nào nữa cả và tìm hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại, bây giờ và ở đây”.

29

Page 30: Ephata 604

“Hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có bình an. Nếu ta cứ mãi đuổi theo một đối tượng nào đó thì làm sao ta có thể có bình an. Ta cứ chạy hoài, chạy mãi, ngay cả trong giấc mơ chúng ta vẫn còn chạy. Đó là thực trạng của nền văn minh chúng ta”.

“Chúng ta phải đi ngược lại xu hướng này. Chúng ta phải trở về với chính mình, trở về với những người thân yêu, trở về với thiên nhiên. Lâu nay chúng ta để cho các thiết bị điện tử kéo chúng ta ra khỏi chính mình. Chúng ta đánh mất mình trong Internet, trong các dự án, các kế hoạch kinh doanh, vì vậy mà chúng ta không có thời gian cho chính mình. Chúng ta không có thời gian để chăm sóc những người mà ta thương yêu và cũng đồng thời không để cho Đất Mẹ có cơ hội trị liệu cho chúng ta. Chúng ta luôn có xu hướng trốn chạy khỏi chính mình, khỏi gia đình và khỏi thiên nhiên xung quanh.”.

Thầy gợi ý về việc phát triển những phần mềm ứng dụng có khả năng giúp mọi người lắng dịu cơn giận khi nó phát khởi. Thầy cũng đề cập đến loại đồng hồ Now Watch được Thầy thiết kế với mục đích giúp mọi người trở về với phút giây hiện tại: trên mặt đồng hồ, mỗi giờ được đánh dấu bằng chữ “Now” ( nghĩa là Bây giờ ) thay vì số giờ như thông thường.

Google đã mời Thầy chia sẻ về những nội dung như: xây dựng mục tiêu trong công việc, sự sáng tạo và tuệ giác. Thầy nói rằng chúng ta đều có thể đạt được những điều này thông qua sự thực tập chánh niệm.

Thầy đã được mời đến thăm tập đoàn Google vào năm 2011 và kể từ đó, sự thực tập chánh niệm đã được áp dụng nhanh chóng tại tập đoàn công nghệ hàng đầu này. Số lượng người tham gia vào chương trình “Tìm kiếm trong tự thân” ( Search Inside Yourself ) – chương trình thiền tập chính thức của Google – ngày càng tăng. Các phòng dành cho thiền tập cũng đã được thiết kế bên trong nhiều tòa nhà làm việc của Google.

Thầy nói rằng: “Cũng như mọi người, các nhân viên của Google cũng mong muốn học hỏi cách thức chuyển hóa khổ đau của chính mình”… “Đa số các nhân viên ở đây đều còn rất trẻ và tài năng, vì vậy mà họ có thể hiểu và thực tập những điều Thầy dạy một cách nhanh chóng. Họ còn có đủ phương tiện để đem sự thực tập này đến được với rất nhiều người.”

“Sẽ rất hữu ích nếu họ biết rằng ai trong chúng ta cũng có ước mong làm những điều đẹp và lành, bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có tính Bụt. Khi nhìn vào con đường bất thiện, không chân chính, chúng ta có thể tìm thấy trong đó một con đường ngược lại. Cũng như nhìn vào khổ đau, chúng ta sẽ thấy được con đường đưa tới hạnh phúc. Đây là giáo lý Tứ Diệu Đế trong đạo Bụt, nhưng chúng ta không cần phải là một Phật tử mới có thể hiểu được điều đó.

Sư cô TẠI NGHIÊM chuyển ngữ bài viết “Google seeks out wisdom of Zen Master Thich Nhat Hanh”

của tác giả JO CONFINO đăng trên tờ The Guardian

CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔTRỢ GIÚP EM NGUYỄN THỊ DIỄM KIỀU Ở KHÁNH HOÀ, BỊ TAI NẠN

Lm. Giuse Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu em NGUYỄN THỊ DIỄM KIỀU, sinh 1989, con ông Nguyễn Văn Hoàng và bà Trần Thị Thanh, ngụ tại thôn Cửa Tùng, xã Cam An Bắc, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hoà. Gia đình Kiều làm nông, mẹ làm nghề may, bản thân em làm kế toán phụ ba mẹ nuôi 2 em đi học. Kiều bị gãy xương chậu do tai nạn khi băng qua đường, em được cấp cứu tại Bệnh Viện Nha Trang, sau đó chuyển vào Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình Sàigòn để mổ và điều trị, chi phí hết hơn 20 triệu đồng. Chúng tôi xin trợ giúp 5.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 1 biên lai ).

TRỢ GIÚP EM BÙI NHẬT TRƯỜNG Ở CẦN THƠ, MỔ LẤY NẸP CHÂN

30

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 31: Ephata 604

Lm. Giuse Phạm Quốc Giang, DCCT, giới thiệu em BÙI NHẬT TRƯỜNG, sinh 1990, con ông Bùi Minh Thăng và bà Bùi Thị Sương, ngụ tại Ấp C2, xã Thạnh Lợi, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, điện thoại: 01224.041.722. Trường là con thứ tư trong gia đình có 7 anh chị em. Tháng 9.2011, Trường bị tai nạn và đã được mổ sắp xương tại Bệnh Viện Chợ Rẫy, chi phí hết 80 triệu đồng, gia đình đã vay mượn khắp nơi để lo cho em. Ngày 14.3.2014, em phải nhập viện lần nữa để mổ lấy nẹp ở chân ra. Gia đình đang trong tình trạng khó khăn, nợ cũ chưa trả hết, nay lại phải vay thêm để có chi phí cho em đi mổ. Chúng tôi xin trợ giúp 4.000.000 VND,

số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 2 biên lai ).

TRỢ GIÚP LẦN THỨ 2 CHO CHỊ NGUYỄN THỊ KHANH Ở LÂM ĐỒNG, BỊ CHỨNG XƠ TỦY

Chị Maria Đỗ Thị Thúy, cộng đoàn Điểm Tim Sàigòn, giới thiệu cô NGUYỄN THỊ KHANH, sinh 1962, hiện ngụ tại 43/3 Đinh Công Tráng, thôn Tân An, xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Cô Khanh sống độc thân, bị bệnh xơ tủy đã 4 năm nay, hàng tháng phải về Bệnh Viện Huyết Học Sàigòn để được điều trị và truyền máu. Chúng tôi xin trợ giúp 3.000.000 VND, số tiền được trích từ

Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 4 biên lai ).

TRỢ GIÚP ÔNG HUỲNH VĂN CHẢY Ở SÀIGÒN, BỊ XƠ GAN

Cô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu ông HUỲNH VĂN CHẢY, sinh 1952, hiện ngụ tại 769/12A Phạm Thế Hiển, P. 4, Q. 8, Sàigòn. Ông chảy quê ở Kiên Giang, cha mẹ mất khi ông còn lại cậu thanh niên 17 tuổi, cứ vậy đi làm thuê để sinh sống và trôi dạt về Sàigòn. Ông có vợ nhưng không có con, vợ chồng ông làm phụ hồ, chỉ đủ ăn. Ông phát bệnh xơ gan năm 2012, thường xuyên phải nhập viện nên không đi làm được, mỗi lần nhập viện đều phải nhờ sự trợ giúp của bà con lối xóm. Chúng tôi xin trợ

giúp 3.000.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 3 biên lai ).

TRỢ GIÚP ÔNG NGUYỄN MẠNH TÙNG Ở SÀIGÒN, BỊ LAO

Lm. Đa Minh Phạm Minh Thủy, Giáo Xứ Tân Thành, Tổng Giáo Phận Sàigòn, giới thiệu ông Đa Minh NGUYỄN MẠNH TÙNG, sinh năm 1959, hộ khẩu tại 363/253 Nguyễn Hồng Đào, P. 14, Q. Tân Bình, Sàigòn, hiện đang tạm trú tại tổ 1, ấp 6, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Sài gòn. Ông Tùng sống một mình, vợ con đã bỏ đi, trước đây ông làm bảo vệ, nhưng hiện tại do sức khỏe kém chuyển sang chạy xe ôm sống qua ngày. Ông bị viêm nhiễm, nghi ngờ có lao nên bác sĩ

yêu cầu làm xét nghiệm, chụp CT để kiểm tra. Chúng tôi xin trợ giúp 800.000 VND, số tiền được trích từ Chương Trình Nhịp Cầu Bác Ái Phanxicô ( có 4 biên lai ).

451. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP MỔ TIM CHOANH PHẠM VĂN VIỆN Ở NAM ĐỊNH

Lm. Joseph Vũ Ngọc Tuấn, Gx. Thánh Thể, Giáo Phận Bùi Chu, điện thoại: 0918.731.736, giới thiệu anh Giuse PHẠM VĂN VIỆN, sinh năm 1973, ngụ tại xóm 19, xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cha mẹ anh đều đã qua đời.

Anh mắc bệnh tim bẩm sinh, sống độc thân, lo phục vụ Nhà Thờ từ nhỏ, thời gian qua anh đang phụ trách âm thanh Nhà Thờ Giáo Xứ thì bệnh đột ngột trở nặng, phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện Tim Mạch Trung Ương Hà Nội. Bác sĩ đã lên lịch ngày 26.2.2014 để anh được phẫu thuật tim, thay một van, sửa một van. Tổng chi phí hết 127 triệu đồng. Bảo hiểm trả được 22.824.000 đồng. Gia đình lo được thêm 20.000.000 đồng, vẫn còn thiếu 82.176.000 đồng, một số tiền khổng lồ đối với bản thân anh.

Ngày 21.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp mổ tim cho anh Phạm Văn Viện với số tiền là 35.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

31

Page 32: Ephata 604

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VND Chuyển từ Quỹ giúp em Huỳnh T. Sen: 200.000 VNDMột người ẩn danh ( Quảng Ngãi ): 100.000 VNDCô Ngọc Khánh, Gx. Phaolô 3 ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCô Mai Anh ( Hà Nội ): 500.000 VNDMột người ẩn danh ( An Giang ): 200.000 VNDÂn nhân ghi là Thinh Phuc Nguyen ( Hoa Kỳ ): 100 USDÂn nhân ghi là Pham Dinh Thiem ( Hoa Kỳ ): 100 USDVợ chồng Fiat Hiếu Thảo ( Sàigòn ): 500.000 VNDAnh chị Mẫn Phương, Khoá Agape ( Sàigòn ): 1.000.000 VND3 cháu bé Vi, Hùng, Uyên ( Saigòn ) nuôi heo đất: 850.000 VNDMột Linh Mục ẩn danh ( Bắc Ninh ): 150.000 VNDQuán Vương Q. 3 ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDBa người dự Lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 2.700.000 VNDTrích chia sẻ của một ân nhân ( Vũng Tàu ): 7.000.000 VNDÔng Thanh Tran ( Anh Quốc ): 3.400.000 VND ( = 100 Pounds )

Tổng kết đến 12g30 trưa thứ ba 25.3.2014: 31.600.000 VND + 200 USD = 35.800.000 VND

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 35 triệu đồng giúp anh Phạm Văn Viện. Số tiền 800.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là bà Trần Thị Ân ở Nghệ An bị khối u trong não.

Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.   

452. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ U PHỔI CHO BÀ TRẦN THỊ ÂN Ở NGHỆ AN

Lm. Alôisiô Lê Văn Liêu, Giáo Xứ Fatima Bình Triệu, điện thoại: 08.726.8561, giới thiệu bà TRẦN THỊ ÂN, sinh năm 1958, hiện ngụ tại xóm 7, xã Hưng Chính, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, điện thoại: 01655.578.716, hoặc điện thoại cho Anh Nhơn là con trai của bà: 0977.216.458. Gia đình làm nghề nông, ông bà có tất cả 5 người con, 4 người đã có gia đình, chỉ còn bé út đang học lớp 9.

Bà Ân bị u phổi ác tính, đã được mổ tại Bệnh Viện Việt Đức, Hà Nội. Chi phí ca mổ và thuốc hết khoảng 75 triệu đồng. Gia đình đã phải bán sạch gia sản, kể cả con trâu cày, nhưng chỉ cũng được có 25 triệu đồng, số tiền còn lại phải vay mượn bà con họ hàng 25 triệu đồng và vay ngân hàng 25 triệu đồng. Sau khi mổ, bà còn phải tiếp tục xạ trị, toa đầu tiên hết 10 triệu đồng, 3 tháng sau lại phải đi xạ trị lần nữa.

Ngày thứ ba 25.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị u phổi cho bà Trần Thị Ân với số tiền là 25.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VND Chuyển từ Quỹ giúp anh Văn Viện: 800.000 VNDVợ chồng anh Thiên Bảo ( Sàigòn ): 2.000.000 VNDVợ chồng anh Tuấn – Nga ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDVợ chồng bạn Fiat Tạ Thanh Lan ( Sàigòn ): 500.000 VNDTrích chia sẻ của một ân nhân ( Vũng Tàu ): 7.000.000 VNDCô Phuong To ( Hoa Kỳ ): 100 USDCô Trương Thị Mai ( ? ): 1.000.000 VNDMột Linh Mục ẩn danh ( gốc Hà Nội ): 200.000 VNDHai người ẩn danh ở Gx. Phước Tỉnh ( Bà Rịa ): 4.100.000 VNDMột người ẩn danh ( Sàigòn ): 4.000.000 VND

Tổng kết đến 20g30 tối thứ bảy 29.3.2014: 24.600.000 VND + 100 USD = 26.700.000 VND

Như vậy sau 5 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 25 triệu đồng giúp bà Trần Thị Ân. Số tiền 1.700.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là anh Bùi Quốc Phú ở Sàigòn bị tai nạn đa chấn thương.

Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.  

32

Page 33: Ephata 604

453. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ SAU TAI NẠNCHO ANH BÙI QUỐC PHÚ Ở SÀIGÒN

Lm. Giuse Phạm Quốc Tuấn, Giáo Xứ Tân Đông, Giáo Hạt Hóc Môn, Tổng Giáo Phận Sàigòn, giới thiệu anh BÙI QUỐC PHÚ, sinh năm 1971, ngụ tại 257/40/42A đường Đặng Thúc Vinh, ấp 2, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, Sàigòn, điện thoại: 01645.361.312.

Anh Phú bán vé số, vợ bán nón ở chợ nhưng nay đã nghỉ vì không còn vốn, hiện tại chị đi bán vé số dạo với chồng. Anh chị có hai người con. Đứa con lớn 16 tuổi đã nghỉ học làm phụ hồ, đứa nhỏ 13 tuổi. Anh Phú bị đa chấn thương do tai nạn từ năm 2010, đã chữa trị tại Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định, Sàigòn, và năm 2012 đã được mổ đặt hậu môn nhân tạo ra ( được Chương Trình Nhịp cầu Bác Ái Phanxicô trợ giúp theo biên lai số tiền 1.800.000 VND ). Nay bác sĩ chỉ định phải mổ lại để đóng hậu môn nhân tạo, chi phí hết khoảng 30 triệu đồng, gia đình đã chạy lo khắp nơi nhưng vẫn chưa đủ.

Ngày 29.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị sau tai nạn cho anh BÙI QUỐC PHÚ với số tiền là 20.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VND Chuyển từ Quỹ giúp bà Trần Thị Ân ( Nghệ An ): 1.700.000 VNDCô Maria Nguyễn Thuý Nga ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDBạn Mỹ Linh, Khoá GLHN Agape 33 ( Sàigòn ): 600.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( Quảng Trị ): 600.000 VNDMột Linh Mục ( gốc Bắc Ninh ): 200.000 VND Các học viên Khoá GLHN Agape 33 ( Sàigòn ): 6.900.000 VNDBạn Thanh Hùng ( Sàigòn ): 500.000 VNDMột bạn ẩn danh ( Sàigòn ): 500.000 VNDHai bạn Quý Tuấn – Ly Linh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDMột GLV ở Quận 2 ( Sàigòn ): 500.000 VNDHai mẹ con Minh Nguyệt – Vi An ( Sàigòn ): 50 USDTrích phần đấu giá 2 bức tranh thêu ( Sàigòn ): 3.000.000 VND

Sơ kết đến 16g chiều Chúa Nhật 30.3.2014: 20.500.000 VND + 50 USD = 21.550.000 VND

Như vậy chỉ sau 1 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 20 triệu đồng giúp anh Bùi Quốc Phú. Số tiền 1.550.000 VND dôi ra xin chuyển cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là hai mẹ con bà Lê Thị Hướng và Nguyễn Thị Hải ở Nghệ An.

Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.    

454 – 455. QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ BỆNH NGẶT NGHÈO CHO HAI MẸ CON

BÀ LÊ THỊ HƯỚNG – CHỊ NGUYỄN THỊ HẢI Ở HÀ TĨNH

Tu Sĩ Maria Cuénot-Thể Nguyễn Lương Bằng, Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, điện thoại: 01203.624.624, giới thiệu hai mẹ con bà LÊ THỊ HƯỚNG sinh 1960, và chị NGUYỄN THỊ HẢI, sinh 1983, ngụ tại xóm Phúc Xuân, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ An, thuộc Giáo Họ Văn Định, Giáo Xứ Hoà Mỹ, Giáo Hạt Can Lộc, Giáo Phận Vinh, điện thoại: 01689.945.022, liên hệ với em gái tên Nguyễn Thị Diễn. Gia đình làm nông, chị Hải có 7 anh chị em, chị đã có chồng và con, chồng chị không được bình thường do di chứng của tai nạn để lại.

Năm 2008, chị Hải phát hiện mình bị suy thận giai đoạn cuối và thường xuyên phải chạy thận nhân tạo mỗi tuần 4 lần tại bệnh viện Đa Khoa Hà Tĩnh, chi phí một tháng khoảng 6 triệu đồng. Thêm vào đó là chi phí mua thuốc bên ngoài và truyền máu khi bác sĩ yêu cầu sau khi xét nghiệm hồng cầu. Từ đó đến nay, chị sống nhờ vào các thiết bị y tế, thuốc và máu của người khác.

Tháng 4 năm 2013, mẹ chị là bà Hướng, vì thương con, lo lắng và chăm sóc cho con nên đã suy kiệt và bị tai biến mạch máu não, bà được cấp cứu tại Bệnh Viện Đa Khoa Hà Tĩnh sau đó chuyển về Bệnh Viện Điều Dưỡng tỉnh Hà Tĩnh. Chi phí điều trị cho bà hết khoảng 35 triệu đồng. Hiện tại gia đình đã đưa bà về nhà trong tình trạng liệt nửa người vì không lo nổi chi phí nằm viện cho cả hai mẹ con.

33

Page 34: Ephata 604

Ngày 30.3.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị cho chị Nguyễn Thị Hải và bà Lê Thị Hướng với số tiền là 40.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Lê Quang Uy, Trung Tâm Mục Vụ DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 8.000.000 VND Chuyển từ Quỹ giúp anh Bùi Quốc Phú: 1.550.000 VNDTrích phần đấu giá 2 bức tranh thêu ( Sàigòn ): 3.350.000 VNDHai bạn Tài Duyên – Di Linh, khoá Agape 33 ( Sàigòn ): 4.000.000 VNDHai mẹ con Minh Nguyệt và Vi An ( Sàigòn ): 10.000.000 VNDMột ân nhân ở Giáo Xứ Công Lý ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDMột người ẩn danh ( ? ) qua cha Giang DCCT: 500.000 VNDTrích chia sẻ của một ân nhân ( Vũng Tàu ): 6.000.000 VNDCô Thu Diễm, Xóm Giáo 3, Gx. ĐMHCG ( Sàigòn ): 400.000 VND

Sơ kết đến 19g30 chiều thứ hai 31.3.2014: 34.800.000 VND

DANH SÁCH CÁC ÂN NHÂN TRỢ GIÚP CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ SỰ SỐNG THÁNG 3.2014

Một ân nhân ẩn danh qua cha Phạm Tuấn, OMI ( Hoa Kỳ )...................................................... 1.000 USDÔng Đa Minh Đỗ Hải Huynh, Gx. Phú Thọ Hoà ( Sàigòn ) góp từ nhiều người ............... 10.000.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ( Hoa Kỳ ) qua cha Bề Trên ......................................................................... 50 USDAnh Giuse Chinh, quận Bình Tân ( Sàigòn ) ...................................................................... 1.000.000 VNDMột người ẩn danh ở Gx. Phước Tỉnh ( Bà Rịa ) ............................................................... 2.000.000 VND

Tổng kết ân nhân giúp trong tháng 3 ...................................................... 1.050 USD + 13.000.000 VND

34