View
222
Download
2
Category
Preview:
Citation preview
Các vị Vua Triều Nguyễn
chống Pháp cho đến vua Bảo Đại
như thế nào ?
Tiểu Đệ
Để biết rõ 3 vị vua triều Nguyễn
chống Pháp quyết liệt đáng kể, xin trích
dẫn tác phẩm Lịch Sử Đại Cương của Giáo
Sư & nhà văn Phạm Thăng hiện ở Calgary,
Canada, in và phát hành năm 1994, đã tặng
tác giả như sau :
1.- Vua Hàm Nghi (1884-1885).
Ngày 11 tháng 6 âm lịch năm
Giáp Thân nhằm ngày 1 tháng 8 năm 1884
Ông Nguyễn Văn Tường và Ông Tôn Thất
Thuyết tôn Ông Ưng Lịch lúc đó chỉ được
14 tuổi lên làm Vua, niên hiệu là Hàm
Nghi. Được biết Ông Ưng Lịch là em Ông
Chánh Mông, người con nuôi thứ hai của
Vua Tự Đức.
Ngày 1-7-1885, Thống Tướng De
Courcy mang quân vào Huế đòi Ông
Nguyễn Văn Tường và Ông Tôn Thất
Thuyết bàn việc nghi lễ để Thống Tướng
vào yết kiến vua Hàm Nghi. De Courcy
định vào cung điện với tất cả quân sĩ,
nhưng triều đình nói theo quốc lễ chỉ một
mình Thống Tướng đi cửa giữa, còn lính
và sĩ quan đi hai bên. De Courcy không
chịu. Các quan thấy hắn khinh mạn triều
đình, Tường và Thuyết xấu hổ, uất ức vì
uy quyền nhất triều mà bị hạ nhục, nên
quyết định liều đánh một phen. Tối ngày
22 tháng 5 âm lịch năm Ất Dậu nhằm 4
tháng 7 năm 1885 trong lúc De Courcy
thết tiệc đã các quan dưới quyền, thì quân
lính triều đình nổ súng bắn vào khu Mang
Cá, đốt cháy Tòa Khâm Sứ làm 16 người
Pháp chết và 80 bị thương. Tới sáng, quân
Pháp phản công lại, quân triều đình thiệt
hại nhiều phải bỏ chạy, quân Pháp chiếm
kinh thành.
Ông Tôn Thất Thuyết đón vua và
ba Bà Thái Hậu (mẹ và hai vợ vua Tự
Đức) chạy ra Quảng Trị. Thuyết rước vua
Hàm Nghi lên Tân Sở, gần Cam Lộ, Tỉnh
Quảng Trị. Sau đó, ba Bà Thái Hậu về
Huế, ở tạm tại lăng Khiêm Cung tức lăng
vua Tự Đức.
Ông Nguyễn Văn Tường ở lại
Huế nhờ Giám Mục Caspard dẫn ra hàng.
De Courcy bằng lòng nhưng hạn trong hai
tháng phải đem được vua Hàm Nghi về.
Hết hạn, vua Hàm Nghi vẫn chưa về.
Tường bị bắt đày ra Côn Lôn cùng với
Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính (Cha
Tôn Thất Thuyết). Phạm Thận Duật chết
trên đường ra Côn Lôn, xác bị vứt xuống
biển. Sau đó, Tường bị đày đi Haiti rồi
chết ở đó.
Vua Hàm Nghi khi ẩn chỗ này,
khi chỗ khác và hịch Cần Vương do Ngài
thảo ra đã dấy lên phong trào yêu nước.
Khắp nơi, Cần Vương, nghĩa dõng nổi lên
quyết dành lại chủ quyền cho nước nhà.
Lòng dân dù có cao nhưng binh khí kém,
thế yếu, nên các nơi lần lượt bị dẹp như
các Ông : Nguyễn Thiện Thuật (Tán
Thuật), Trần Xuân Soạn, Phan Đinh
Phùng... Dân Việt thấy quân viễn chinh
Pháp ỷ vào sức mạnh xâm chiếm lãnh thổ,
phá hủy cơ sở văn hóa, nên đồng tâm hiệp
lực đứng lên chống bọn Tây Dương (Tây
Dương là do dân chúng gọi quân Pháp lúc
bấy giờ). Việc kháng Pháp ở Nam Kỳ Lục
Tỉnh khá rầm rộ, quân Pháp và tay sai dẫm
nát những gần vùng Gia Định, Bến Nghé
đến tận nông thôn hẻo lánh. Dân chúng
vẫn hăng hái, vì triều đình Huế hãy còn.
Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, dân
chúng chạy qua ba tỉnh miền Tây, và khi
mất luôn sáu tỉnh, dân chúng xa lìa sanh
quán, thay tên đổi họ. So với Bắc Kỳ và
Trung Kỳ, bấy giờ làng mạc Nam Kỳ bị
phá hủy nhiều đơn, vì vậy lòng căm hờn
của người dân bằng vào những cuộc nổi
dậy khắp nơi dưới sự điều động của các
lãnh tụ Cần Vương kháng Pháp. Bao nhiêu
tên tuổi sáng ngời trong sử xanh như :
Nguyễn Hữu Huân (Thủ Khoa Huân),
Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định,
Thiên Hộ Dương... (nếu cần xin quý bà
con đồng hương tìm đọc quyển "Tìm Hiểu
Các Danh Nhân Việt Nam Trong Hậu
Bán Thế Kỷ 19" của Nguyễn Phú Thứ ).
Quân Pháp mất ăn mất ngủ đã
đem lợi danh ra nhử những kẻ ham lợi cầu
danh. Cuối năm 1868, quân Pháp treo giải
thưởng cho ai bắt nộp các lãnh tụ với giá
1000 quan mỗi người như : Cậu hai Quyền
(con Ông Trương Công Định), Hàn Lâm
Phu, Tổng Binh Thành, Ấm Quyền (Phó
Tướng Trương Công Định), Chánh Quản
Cơ Trần Văn Thành tức Đức Cố Quản (ở
Thất Sơn Châu Đốc) một thủ lãnh của phái
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Cậu Tư, Cậu
Năm (tức Ông Phan Tôn và Ông Phan
Liêm) là hai người con của Ông Phan
Thanh Giản...
Ngoài ra, còn ra quyết định có
nói, nếu viên chức hay lính, hương chức
hội tề có công thì được thưởng và cho lên
cấp bậc hay chức tước, trái lại, nếu còn
dung dưỡng hay che chở cho cuộc khởi
nghĩa sẽ bị trừng phạt. Xem thế mới biết
ngoài lòng dân căm hờn chiến đấu, còn có
những hương chức hội tề mặc dù làm việc
với Pháp vẫn có lòng ủng hộ nghĩa quân.
Những cuộc hành quân chống
khởi nghiã quân quân Pháp tốn kém rất
nhiều. Chi phí hành quân, tiền trợ cấp cho
quân sĩ bị chết... nhưng chúng không lỗ lã
gì hết? Bởi vì, chúng ra lệnh phạt tiền
những hương chức hội tề ở làng nào có
lãnh tụ kháng chiến ẩn núp, ví như
Thống Đốc Nam Kỳ ra quyết định trừng
phạt 47 làng trong tỉnh Mỹ Tho, ngày 5-5-
1875 tổng số tiền 56.700 quan, vì đã gián
tiếp hoặc trực tiếp ủng hộ Thủ Khoa
Huân. Lẽ dĩ nhiên, hương chức các làng
phải gánh chịu và dân làng phải chia sớt
đóng góp cho khỏi bị rắc rối. Ngoài ra, lúc
hành quân càn quét thôn xóm để truy nả
nghĩa quân, quân Pháp vơ vét tiền của
đồng bào trong vùng đó.
Trong khi dân chúng khốn khổ
điêu linh, thì tại các tỉnh lỵ quan trọng, các
thương gia Pháp, Đức kiều, nhất là Hoa
thương đã đến đầu tư. Ở Qui Nhơn, Hải
Phòng các thương gia đó tha hồ làm mưa
làm gió, nào là cung cấp mùng mền cho
bọn lính săn đá (soldat) đèn thắp ngoài
đường, cung cấp bán á phiện, loại độc
dược được công khai bán để hại dân ta.
Lúc bấy giờ, Ông Tôn Thất Thuyết để hai
con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp
theo phò vua Hàm Nghi ẩn trốn trong
rừng, tự mình sang Tàu để cầu viện nhưng
việc không thành vì Tàu đã ký hiệp ước
Thiên Tân với Pháp. Ông bị chánh phủ
Tàu giữ lại không cho về nước nên uất ức
chết tại Long Châu năm 1913.
Vua Hàm Nghi ẩn nấp ở miền
thượng du tỉnh Thanh Hóa. Ngày 26 tháng
9 năm Mậu Tí, tên Trương Quang Ngọc đã
từng theo phò giá vua Hàm Nghi, nay
manh tâm bán Vua, nửa đêm xông vào ôm
lấy vua mặc dù Ông Tôn Thất Thiệp chống
cự để bảo vệ vua, bị đâm chết. Vua Hàm
Nghi bị bắt. Ngài được đưa về và nghênh
đón đàng hoàng, nhưng từ lúc bị bắt đến
ngày bị đày đi an trí ở Alger (Châu Phi),
Ngài ngâm miệng không nói lời nào,
chôn uất ức của vị Vua mất nước vào lòng.
Năm đó vua Hàm Nghi 18 tuổi, bị đày
tháng 10 năm 1888, mất tại Alger, thọ
được 72 tuổi.
Để tìm hiểu thêm về vua Hàm
Nghi, xin quý bà con đồng hương tìm đọc
tác phẩm Việt Nam Anh Hoa của học giả
Hương Giang Thái Văn Kiểm từ trang 239
đến 258. Bởi vì, tác phẩm này tác giả đã
được học giả thân tặng vào dịp lễ quốc
khánh Pháp 14-7-2001, nhân đây, xin trích
đoạn quan trọng như sau :
Căn cứ theo sách "Nguyễn Phúc
Tộc Thế Phả", do nhà xuất bản Thuận Hóa,
phát hành năm 1995, được biết Vua Hàm
Nghi, Ngài húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch,
sau khi lên ngôi chọn chữ thứ 5 trong 20
chữ thuộc bộ Nhật ở kim sách làm tên. Đó
là, chữ Minh (Nguyễn Phúc Minh). Ngài là
con thứ 5 của Kiến Thái Vương Nguyễn
Phúc Hồng Cai, mẹ là bà Phan Thị Nhàn.
Ngài sanh ngày 17 tháng 6 âm lịch năm
Tân Mùi nhằm ngày 3 tháng 8 dl năm
1871.
Sau khi vua Kiến Phúc mất
ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Giáp Thân
nhằm ngày 2 tháng 8 dương lịch năm
1884, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn
Tường lập Ngài lên nối ngôi, vì thấy Ngài
nhỏ tuổi dễ thao túng dưới sự phụ chính
của họ. Khi lập Ngài, triều đình không báo
tin Tổng Trú Sứ của Pháp biết nên họ hết
sức phản đối. Sau cùng họ chấp nhận
nhưng bắt Ngài phải chịu lễ tuyên phong
của người Pháp.
Ngày 27 tháng 6 âm lịch năm
Giáp Thân nhằm 17 tháng 8 dương lịch
năm 1884, viên Khâm Sứ Pháp là Rheinart
và đại tá Guerrier vào cửa chánh tại Ngọ
Môn để thực hiện lễ tuyên phong Ngài.
Ngài lên ngôi lấy niên hiệu là Hàm Nghi,
lúc đó Ngài mới 14 tuổi.
Khi Ngài bị an trí tại Alger,
thuộc Algérie Ngài sống tại biệt thự Gia
Long bên trên khu đồi El Biar cách thủ đô
Alger 12 cây số. Ngài mất ngày 28 tháng
11 âm lịch năm Nhâm Ngọ nhằm ngày thứ
hai, 4 tháng 1 dương lịch năm 1943, thọ 72
tuổi. Lăng Ngài ở trong biệt thự Gia Long.
Ở tại Algérie Ngài đã lấy vợ
người Pháp là con gái của viên chức
thương chánh Lalauer, sinh được 1 con trai
Nguyễn Phúc Minh Đức và 2 con gái :
Nguyễn Phúc
Như Mai (bà này đậu kỷ sư Nông
Lâm) và Nguyễn Phúc Như Lý (bà này lập
gia đình với đại tá không quân, thuộc
hoàng tộc nước Bỉ). . .
Mãi đến năm 1963, ngôi mộ
của Vua Hàm Nghi từ biệt thự Gia Long
(villa des Pins) ở Alger được dời về
Château de Losse, có số điện thoại (05)
5350 8008, làng Thonac, bên sông
Vézères, vùng Périgord , thuộc
Département Dordogne (24290), khách
nhàn du hiếu cổ có thể đến thăm nghĩa địa
Thonac để chiêm ngưỡng bốn ngôi mộ :
1.- Vua Hàm Nghi S.M. HAM
NGHI
EMPEREUR D'ANNAM
HUE 1871 - ALGER 1944
2.- Vợ vua Hàm Nghi A LA
PRINCESSE D'ANNAM
MARCELLE LALOE (Lalauer)
1884 -19874
3. Con trai vua Hàm Nghi MINH
DUC
PRINCE D'ANNAM (1910 -
1990)
4.- Bà Quản Gia Marie Jeanne
DELORME
1852 - 1941
2.- Vua Thành Thái (1889-1907)
:
Khi Vua Đồng Khánh mất thì các
con hãy còn nhỏ, viên Khâm Sứ Pháp ở
Huế là Rheinart quen biết Ông Dục Đức
hồi trước, bắt triều đình tôn con Ông Dục
Đức là Bửu Lân lên ngôi vua. Bấy giờ Ông
Bửu Lân mới 10 tuổi đang bị giam giữ với
mẹ trong ngục thất, triều đình vào ngục
rước Ông ra tôn lên làm vua, đặt niên hiệu
Thành Thái, cử hai Ông Nguyễn Trọng
Hợp và Ông Trương Quang Đản làm Phụ
Chánh.
Lúc bấy giờ ở miền Bắc, có nhiều
Cần Vương, nghĩa sĩ chống Pháp như các
Ông : Nguyễn Thiện Thuật, Đốc Tích, Tạ
Hiện, Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám, Kỳ
Đồng, Cai Kinh... ở vùng Thanh Nghệ có
Ông Phan Đình Phùng, Cao Thắng...
Vua Thành Thái rất thông minh,
sở trường về nho học. Ngài muốn canh tân
xứ sở nhưng các quan thời bấy giờ vẫn còn
thủ cựu, nhút nhát, Ngài lại bị Pháp cho
người theo dõi nên những ý tưởng cấp tiến
không tài nào thực hiện được. Năm 1907,
Pháp dò biết Ngài bí mật giao thiệp với
nhóm Đông Du để cầu viện Nhật Bản nên
ép Ngài nhường ngôi cho con là Thái Tử
Vĩnh San, rồi giam giữ Ngài ở Vũng Tàu
gần Sàigòn. Đến năm 1915, Ngài bị bí mật
đưa đi an trí ở đảo Réunion (thuộc địa
Pháp gần Madagascar, Phi Châu). Tháng
5 năm 1947, Ngài được đưa về nước và 7
năm sau Ngài mất tại Sàigòn năm 1954,
thọ 76 tuổi.
3.- Vua Duy Tân (1907-1916) :
Hoàng Tử Vĩnh San là con thứ 5
vua Thành Thái được Pháp đặt lên ngôi lúc
8 tuổi, hiệu là Duy Tân. Mặc dù còn nhỏ
tuổi, nhưng bản tánh cương nghị và sớm
có tinh thần yêu nước, vua Duy Tân uất ức
vì thấy Cha bị đưa đi an trí ở đảo Réunion,
năm 1915, Ngài mới 16 tuổi nhưng đã
quyết định lật đổ Pháp, dành lại tự do cho
nước nhà. Ngài ngầm liên lạc với các nhà
chí sĩ cách mạng thuộc Việt Nam Quang
Phục Hội, gồm quý Ông : Thái Phiên, Trần
Cao Vân...nhưng không may việc không
thành. Cuộc tổng khởi nghĩa hoạch định
vào ngày mùng 2 tháng 4 âm lịch nhằm
ngày 3 tháng 5 dương lịch năm 1916 bị đổ
bể, Ngài vừa ra khỏi thành liền bị bắt.
Người Pháp đô hộ lại đưa Ngài sang đảo
Réunion. Lúc bị đi đày Ngài vừa 17 tuổi.
Thời gian Ngài tại vị có phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục do
Cụ Phan Bội Châu cầm đầu, phong trào
Duy Tân do Cụ Phân Châu Trinh cầm đầu
và vụ chống đóng thuế quá cao ở miền
Trung xảy ra. Vào tháng 3 năm 1908 tại
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, dân bị
bắt đóng thuế nặng, kéo nhau lên huyện
đòi giảm thuế, rồi kéo nhau xuống tỉnh.
Dân chúng tỉnh Quảng Nam hưởng ứng
kéo đi bao vây các Phủ, Huyện đường, có
nơi như ở Điện Bàn, dân chúng bắt viên
Tri Phủ lên xe dẫn lên tỉnh. Phong trào lan
đến các tỉnh miền, đâu đâu dân chúng cũng
hưởng ứng. Chính quyền thẳng tay đàn áp,
một số bị bắn chết và nhiều người bị bắt,
các cuộc biểu tình tan rã. Nhiều vị cầm đầu
bị tử hình và bị đày đi Côn Nôn hay Lao
Bảo.. Bị đày đi Côn Nôn có Cụ Phan Châu
Trinh, Hùnh Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn
Thành, Phan Khôi, Trần Cao Vân... Bị đày
đi Lao Bảo có Cụ Châu Thưọng Vân...
Khi Ngài bị đày ở Phi Châu, nơi
đây cũng được chánh phủ Pháp nuôi ăn
học thành tài. Ngày 26 tháng 12 năm 1945,
Vua Duy Tân đã gặp Tướng Charles De
Gaulle của Pháp và Ngài bằng lòng về Việt
Nam để tìm cách giúp nước, nhưng không
may Ngài đã bị tai nạn máy bay ở Banghi
(Phi Châu thuộc Pháp) bỏ mình trên đường
về Việt Nam, hưởng thọ 45 tuổi.
Để quý bà con đồng hương tìm
hiểu thêm vua DUY TÂN, xin trích đoạn
quan trọng liên quan đến bài viết Tưởng
Niệm Vua Duy Tân của học giả Hương
Giang Thái Văn Kiểm, đã được đăng trong
tạp chí Viên Giác (Đức Quốc) tháng 8
năm 2000 từ trang 35 đến 40 như sau :
Vua Duy Tân, sanh ngày 3
tháng 8 năm 1900, Lễ đăng phong được cử
hành vào ngày 5 tháng 9 năm 1907 lúc bấy
giờ Ngài mới được 8 tuổi.
Ngày 3 tháng 11 năm 1916,
Ngài đáp tàu thủy Guediana cùng với mẹ,
vợ, em gái và một người hầu hạ, cùng đi
trên chuyến tàu này có Cựu Hoàng Thành
Thái, thân phụ, nhưng hai người tuyệt
nhiên không gặp nhau trong chuyến đi này.
Đến ngày 21 cùng tháng năm, Ngài đến hải
cảng Saint Denis, thủ phủ của đảo La
Réunion. Vừa tới nơi Ngài lâm bệnh, liền
được đưa đi điều dưỡng tại vùng Helbourg,
sau lại trở về Saint Denis cư ngụ tại một
biệt thự nơi góc hai con đường Jules Auber
và Labourdonnais tại trung tâm thành phố.
Cả gia đình sống với số tiền trợ cấp hàng
năm là 35.000 quan của chính phủ Pháp.
Sau một thời gian sống kham khổ,
mẹ, vợ và em gái không chịu nổi, bèn xin
trở về Việt Nam với sự thỏa thuận của
Ngài. Thế là từ đó Ngài sống cảnh cô đơn
nơi đất khách. Mãi đến 13 năm sau tức
năm 1929, Ngài mới làm bạn đời với cô
Fernande Antier cho tới năm 1938, kết quả
sanh được 4 đứa con, gồm 1 gái sinh ngày
6-9-1929, ba trai sanh ngày 31-1-1933;
ngày 8-4-1934 và ngày 18-4-1938. Sau
này, Ngài làm bạn đời với thiếu nữ khác
tên Marie Ernestine Maillol và có thêm
một con gái sinh ngày 1-12-1945. Tất cả 5
người con này đều được tòa án Saint Denis
ký chấp nhận là con của Ngài, vào ngày 22
tháng 7 năm 1946.
Ngày 14 tháng 12 năm 1945
Ngài được hội kiến với Tướng Charles De
Gaulle tại Pháp, trong cuộc hội kiến này,
hai người đã đề cập thể chế tương lai của
Đông Dương nói chung và Việt Nam nói
riêng. Lập trường của Ngài là thống nhất
ba kỳ, nước Việt Nam được tự trị rộng rãi
để tiến dần tới độc lập, ban bố một Hiến
Pháp công nhận chế độ quân chủ lập hiến
trong đó dân quyền được tôn trọng. Lập
trường này không được các giới thực dân,
bảo thủ, tư bản đế quốc tán thành. Họ cấu
kết để đả phá giải pháp Duy Tân, cản trở
kế hoạch của Tướng De Gaulle, đồng thời
họ đưa ra lá bài Bảo Đại, lúc bấy giờ đã
chuẩn bị đi Côn Minh, tới Hương Cảng
tạm trú để chờ thời, sau khi rời bỏ chức vụ
cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh
tại Hà Nội...
Sau khi hội kiến với Tướng De
Gaulle, Ngài rời Paris ngày 24-12-1945
trên chiếc máy bay Lockheed Lodestar C-
60, mang số F-BALV, thuộc Réseau des
Lignes Aériennes Françaises, khai thác con
đường Pháp-Algérie-Madagascar. Máy bay
này rời Alger đến Fort Lamy ngày 26
tháng 12, rồi rời Fort Lamy lúc 13giờ50 để
đi Bangui. Khi đến không phận Bangui,
phi công bay quanh một vùng từ 50 đến
200 cây số, để tìm phi trường nhưng tìm
chẳng ra. Phi công nhận thấy còn rất ít
xăng,bèn bay ngược về phía Bắc để tìm
một khoảnh đất rộng rãi mà đậu, nhưng
chẳng may, vì khói đốt rẫy cuả dân miền
núi, máy bay không thấy rõ rừng rú, vướng
phải cây cao mà rớt xuống tan tành. Tất cả
chín người trong máy bay đều tử nạn, Ngài
đã bỏ mình trong một tai nạn máy bay lúc
18giờ30 ngày 26 tháng 12 năm 1945, rớt
xuống cạnh làng Bossako, tổng M'Baiki,
hạt Lobaye, địa phận Oubanguichan nay là
Cộng Hòa Trung Phi (République Centre
Africaine).
Ý định Ngài muốn về đảo
Réunion để thăm gia đình, rồi trở qua
Paris, trước khi về Việt Nam chấp chánh
theo kế hoạch của Tướng Charles De
Gaulle. Nhưng định mạng khắt khe đã an
bài cuộc đời của Ngài nơi rừng sâu núi rậm
của Phi Châu và đến ngày 28 tháng 3
dương lịch năm 1987 hài cốt của Ngài mới
đem về Paris, rồi chuyển đến cố đô Huế để
mai táng.
Nếu quý bà con đồng hương
muốn tìm hiểu thêm về văn chương chữ
nghiã hay nghề nghiệp... của Ngài, xin tìm
đọc bài viết nói trên của học giả Thái Văn
Kiểm, vì bài quá dài và có nhiều tài liệu rất
hữu ích không thể trích dẫn vào sách hết
được.
Trên đây là ba vị vua triều
Nguyễn chống giặc Pháp đến xâm chiếm
và cai trị dân tộc Việt Nam chúng ta.
Trái lại, có 3 vị vua bù nhìn triều
Nguyễn, xin trích dẫn như sách dẫn thượng
của Phạm Thăng như sau :
1.- Vua Đồng Khánh (1885-
1888) :
Vua Đồng Khánh tên Chánh
Mông con nuôi thứ hai của vua Tự Đức lúc
đó 22 tuổi và là anh vua Hàm Nghi. Ngày
mùng 6 tháng 5 năm Ất Dậu, Ông Chánh
Mông phải thân hành đến Tòa Khâm Sứ
làm lễ thụ phong với Pháp rồi mới về triều
làm lễ tấn tôn, đạt niên hiệu là Đông
Khánh. Người đời lúc bấy giờ có câu đồng
dao :
Một nhà sinh được ba vua,
Vua sống, vua chết, vua thua chạy
dài (*)
(*) Ý nói vua sống là Vua Đồng
Khánh; vua chết là Vua Dục Đức và vua
thua là Vua Hàm Nghi.
Sau khi lập Đồng Khánh lên làm
vua bù nhìn, quân đội viễn chinh Pháp cấp
cho Nam triều một khoản tiền mặt để chi
dùng gồm : 40 nghìn lạng bạc và 40 nghìn
quan tiền đồng. cac kho tàng bị chúng
chiếm giữ. Hàng tháng chúng chiếu theo
số tiền, gạo, lương bổng của Nam cần
dùng bao nhiêu rồi trích kho cấp phát.
Vua Đồng Khánh làm vua được
3 năm, mất ngày 27 tháng chạp năm Mậu
Tý nhằm ngày 28 tháng 1 năm 1889, thọ
được 25 tuổi.
Nhân nhắc đến vua Tự Đức là cha
nuôi của vua Đồng Khánh, không thể
ngưng ở đây, bởi vì vua Tự Đức là vị vua
rất có hiếu với mẹ trong 13 vị vua triều
Nguyễn đáng kính phục.
Do vậy, xin trích dẫn bài này đã
viết trong quyển Tìm Hiểu Các Danh Nhân
Việt Nam Trong Hậu Bán Thế Kỷ 19 của
Nguyễn Phú Thứ, từ trang 269 đến trang
272, để quý bà con đồng hương tường lãm
như sau :
Được biết, vua Tự-Đức là con thứ
hai của Vua Thiệu-Trị (1841-1847) và Bà
Hoàng-Thái Hậu Từ-Dũ (1810-1901) tức
Bà Phạm-Thị-Hằng (có sách ghi Hàng?),
quê huyện Tân-Hòa, Tỉnh Gò-Công (thuộc
Gia-Định thành). Con của Phạm-Đăng-
Hưng Thượng Thơ Bộ Lễ, được tuyễn vào
cung làm vợ Hoàng-Tử Miêng-Tông tức
Vua Thiệu-Trị sau này và sanh được hoàng
tử Hồng-Nhậm tức vua Tự-Đức (1847-
1883), vua Tự-Đức mất ngày 14 tháng 6
năm Quý Mùi nhằm ngày 17 tháng 7
năm 1883, trị vì 36 năm, thọ 55 tuổi.
Vua Tự-Đức là vị vua thông
minh, hiền lành, hiếu học, siêng năng và
rất hiếu thảo với mẹ là Bà Từ Dũ được
nhắc nhở như sau :
Trải qua 36 năm làm Vua trên
ngai vàng, Vua Tự-Đức lúc nào cũng dành
ngày chẵn vào cung để vấn an sức khỏe
mẹ, đồng thời nghe lời truyền bảo của mẹ,
nếu có điều gì quan trọng đáng lưu tâm thì
ghi ngay vào quyển sổ tùy thân mà
nghiền ngẫm. Đó là, quyển sổ từ huấn
lục (tức quyển sổ chép lời mẹ dạy). Còn
ngày lẻ thì lo việc triều đình, chớ không vì
làm Vua có vạn năng quyền thế mà lơ là
bổn phận làm con. Hơn nữa, khi có việc gì
lo âu, liền thỉnh ý mẹ để xin được nghe lời
dạy bảo của mẹ. Chính vì thế, mà Bà Từ
Dũ đã từng đề nghị giảm thuế má cho dân
vào những năm bị thiên tai mất mùa, đói
kém cũng được Vua Tự-Đức đều làm theo
ý mẹ. Có lần, ngày mai là đến kỳ giỗ kỵ
tiên đế Thiệu-Trị, thế mà hôm ấy Vua Tự-
Đức ham đi săn bắn, gặp nước lụt chảy
xiết mạnh bất ngờ, Vua quan chưa dám
dùng thuyền hồi cung, phải mắc kẹt chốn
ngoại thành thuộc rừng Thuận-Trực. Bà
Từ-Dũ sai quan Nguyễn-Tri-Phương đi
rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng roi,
nằm xuống chờ quở phạt. Bà Từ-Dũ giận,
quay mặt chẳng nói một lời, sau đó mới
tha cho hình phạt, chỉ trách dạy bằng lời
mà thôi. Xem thế, đủ biết Vua Tự-Đức thờ
mẹ rất chí hiếu bực nào, cho nên nếu có
bất cứ người nào có lòng hiếu kính mẹ,
huống hồ một vị Thiền Sư Nhất Định có
mẹ già đau ốm phải lo chăm sóc thức ăn
mặn cho mau lành bịnh đi đôi với đi tu,
vì thế bị người đời dị nghị, nhưng Thiền
Sư cứ để ngoài tai, cứ lo tròn bổn phận làm
con cùng tu hành đi đôi tại An-Dưỡng-Am.
Lâu ngày, chuyện này đến tai Vua Tự-
Đức, Vua sai người theo dõi, tìm hiểu hư
thực thế nào? Khi Vua biết hoàn cảnh của
thiền sư sự thật, Vua vô cùng cảm-động,
rồi cho tu bổ An-Dưỡng-Am, cung cấp
lương thực để nuôi dưỡng bà mẹ của thiền
sư, để thiền sư có điều kiện tu hành hơn.
Sau đó, Vua Tự-Đức còn ban biển ngự đề
"Sắc Tứ Từ Hiếu Tự". Kể từ đó, An-
Dưỡng-Am trở thành chùa Từ Hiếu lưu
danh đến ngày nay.
Như đã thấy Vua Tự-Đức là
người con chí hiếu đối với mẹ là Bà Từ
Dũ, vì thế bất cứ việc gì làm cho người mẹ
buồn phiền, thì nhà Vua xem như bất hiếu.
Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm
được lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ,
trong lãnh thổ này có quê hương của Bà
Từ Dũ, làm cho nhà Vua rất tức giận và
trút hết tội tình lên một vị quan văn trung-
thần ái quốc là Ông Phan-Thanh-Giản, mà
không xét lỗi mình là Ông Vua của một
nước có quân, có quyền trong tay và lại có
hành-xử chủ hòa với giặc Pháp? ...
Vì thế, ở đời chúng ta nên : "Xét
lỗi mình trước khi xét lỗi người" có vậy
mới thấy trung thực của mọi vấn đề. Đó
là bài học đáng quý vậy!
2.- Vua Khải Định (1916-1925) :
Con vua Đồng Khánh là Hoàng
Tử Bửu Đảo, 32 tuổi được cử lên làm vua
lấy hiệu là Khải Định. Bấy giờ Ngài chỉ là
vị vua bù nhìn, mọi việc đều do Chánh Phủ
bảo hộ Pháp quyết định.
Năm 1922, vua Khải Định sang Pháp dự
cuộc đấu xảo quốc tế.
Năm 1925, vua Khải Định băng hà vì bị
bệnh, làm vua được 9 năm, hưởng thọ 41
tuổi.
Được biết, trong thời gian làm
vua có vụ khởi nghĩa ở Thái Nguyên, vụ
Phạm Hồng Thái ném bom quan toàn
quyền Pháp, vụ cụ Phan Châu Trinh gởi
cho vua bảy điều trần khi nhà vua qua
Pháp.
Có người thắc mắc tại sao Vua Khải Định
không được nối ngôi Vua Cha là Đồng
Khánh năm 1889 mà phải đợi đến năm
1916 mới được làm Vua? Xin trích dẫn
như sau :
Sau khi Ông Nguyễn Văn Tường
và Ông Tôn Thất Thuyết âm mưu đánh
Pháp thất bại vào đêm 4 rạng 5 tháng 7
đương lịch năm 1885 nhằm ngày 22 rạng
23 tháng 5 âm lịch Ất Dậu, vua Hàm Nghi
lưu vong và sau đó bị bắt. Anh vua Hàm
Nghi là hoàng tử Ưng Kỷ (hay Ưng Kỵ?)
con Kiên Thái Vương, và là con nuôi thứ
hai của Vua Tự Đức được nối ngôi tức
Vua Đồng Khánh tên Chánh Mông. Bà
Chánh Phi của vua Đồng Khánh (Đức
Thánh Cung, là con gái của quan Phụ
Chính Đại Thần Nguyễn Hữu Độ, người
đã vận động cho Đồng Khánh lên ngôi vua
năm 1885), không có con.
Hoàng Tử Bửu Đảo, con bà thứ
phi (Đức Tiên Cung) không được nối ngôi
sau khi vua Đồng Khánh mất ngày 27
tháng chạp năm Mậu Tý nhằm 28 tháng1
năm 1189. Ngai vàng về tay Hoàng Tử
Bửu Lân (tức Vua Thành Thái sau này),
con Vua Dục Đức (tức con nuôi thứ nhứt
tên Ưng Ái sau đổi là Ưng Chân của Vua
Tự Đức).
Vua Thành Thái chống Pháp, bị
truất phế và bị giam lỏng ở Vũng Tàu năm
1907, con của Vua Thành Thái là hoàng tử
Vĩnh San nối ngôi tức Vua Duy Tân. Năm
1916, Vua Duy Tân cùng các nhà cách
mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân âm mưu
đảo chánh Pháp thất bại, nhà vua bị bắt lưu
đày cùng một lần với vua cha Thành Thái.
Từ đó, ngai vàng mới trở về tay Hoàng Tử
Bửu Đảo tức Vua Khải Định con của Vua
Đồng Khánh. (Để biết rõ ràng hư thật sự
việc Hoàng Tử Bửu Đảo được lên làm Vua
Khải Định như thế nào? Xin mời quý bà
con đồng hương lật lại từ trang 16 đến
trang 18 đã dẫn ở trước).
3.- Vua Bảo Đại (1952-1945) :
Căn cứ theo Nguyễn Phúc Tộc
Thế Phả như đã dẫn ở trước.
Vua Bảo Đại tức Nguyễn Phúc
Thiển húy Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, lúc
lên ngôi chọn chữ thứ 10 trong kim sách
để đặt tên, đó là chữ Thiển.
Ngài sanh ngày 23 tháng 9 âm
lịch năm Quí Sửu nhằm ngày thứ tư, 22
tháng 10 dương lịch năm 1913.
Ngài là con độc nhất của Hoằng
Tông Tuyên Hoàng Đế tức Vua Khải Định
(Hoàng Tử Bửu Đảo) và Đoan Huy Hoàng
Thái Hậu tức Bà Từ Cung (Bà Hoàng Thị
Cúc).
Trước kia, có các sách báo viết về
tông tích Vua Bảo Đại, ví như :
Theo Ông Lữ Giang viết trên tạp
chí Văn Hóa số tháng 8 & 9 năm 1997, xin
mời quý bà con đồng hương tìm đọc từ
trang 25 đến trang 26, nhân đây xin trích
đoạn quan trọng như sau :
... Có rất nhiều tin đồn về phụ hệ
của Hoàng Tử Vĩnh Thụy. Trong thập niên
1900, khi phân tích về các ứng vử viên có
thể lên nối ngôi sau này, Khâm Sứ Fernand
Lévecque có dẫn lời một người trong
hoàng tộc nói rằng : Khải Định "không con
và không thể có con". Dĩ nhiên, đây chỉ là
một lời quyết đoán suông, không có chứng
minh. Nhưng một số người đã đưa vào lời
quyết đoán đó, cho rằng Vĩnh Thụy không
phải là con của Khải Định. Vì thế, khi
Pierre Pasquier đến nhận chức Khâm Sứ
Huế ngày 5 tháng 5 năm 1921 đã quan tâm
ngay đến vấn đề này và cho mở cuộc điều
tra sâu rộng để quyết định ai sẽ là người kế
vị Vua Khải Định.
Trong bản phúc trình mật
(Confidentiel), đề ngày 22 tháng 2 năm
1922 về việc phong Đông Cung Thái Tử
cho Hoàng Thân Vĩnh Thụy. Khâm Sứ
Pasquier đã nêu ra một số giả thuyết liên
quan đến tông tích của Nguyễn Vĩnh Thụy.
Ông cho biết, theo tin đồn quen thuộc nhất
thì Vĩnh Thụy là con của hai người đày tớ
trong gia đình Phụng Hóa Công Bửu Đảo
là Thừa Quang và Hoàng Thị Út, sau đổi
tên là Hoàng Thị Cúc. Nhưng Khâm Sứ
Pasquier đã bác bỏ giả thuyết này và cho
rằng Vĩnh Thụy rất giống Khải Định. Một
tin đồn khác được Khâm Sứ Pasquier ghi
nhận, nói rằng Vĩnh Thụy là con của
Dương Quang Lược, một đại thần trong Bộ
Lễ. Vì Dương Quang Lược là em ruột của
mẹ Khải Định, nên Vĩnh Thụy rất giống
Khải Định. Sở dĩ Khải Định ghi tên Vĩnh
Thụy vào sổ Hoàng Tử ở Tôn Nhân Phủ là
vì có hiếu với mẹ.
Còn rất nhiều chuyện khác nữa
không thể trích hết ra được vì rất dài, xin
tạm ngưng ở đây và Ông Lữ Giang viết kết
luận như sau :
Như vậy, ngoài gia đình Trương
Như Cương ra, Bảo Đại cũng còn có
nhũng đối thủ khác nưã, họ có thể phịa ra
nhiều chuyện tương tự để tranh ngôi với
Bảo Đại. Có lẽ nếu tin ở phúc trình của
Khâm Sứ Pasquier hơn, vì lúc đó Ông là
người có thẩm quyền nhất để điều tra và
làm sáng tỏ vụ này. v.v.
Theo thiển nghĩ của kẻ viết này,
những sự kiện đã trích dẫn vừa qua về tông
tích của Ông Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ví
như Ngài không phải là con ruột của Vua
Khải Định thì cũng là con cháu trong
Hoàng Tộc. Hơn nữa, Ngài có số làm Vua
và mẹ Ngài cũng có số làm mẹ Vua không
ai có thể cưỡng lại được. Bằng chứng Ngài
đã được Vua Khải Định phong chức Đông
Cung Thái Tử vào ngày 2 tháng 4 âm lịch
năm Nhâm Tuất, nhằm ngày thứ ba, 28
tháng 4 dương lịch năm 1922 và đến ngày
24 tháng 11 âm lịch năm Ất Sửu nhằm
ngày thứ sáu, 8 tháng 1 dương lịch năm
1926 Ngài lên làm Vua, lấy niên hiệu là
Bảo Đại.
Trở lại thời gian Ngài chào đời,
vào ngày 23 tháng 9 âm lịch năm Quí Sửu
nhằm ngày thứ tư, 22 tháng 10 dương lịch
năm 1913, Không biết rõ Giờ Sanh của
Ngài, thì khó ai luận bàn lá số được đúng
và chính xác, tôi có Ông bạn vong niên
cũng thích nghiên cứu về tử vi, sau khi
nghiền ngẫm thời gian Ngài sanh, mới đưa
đến kết luận, cho rằng Ngài có thể sanh
vào giờ Thìn? và có giải thích, xin mạo
muội trích dẫn để quý bà con đồng hương
nhàn lãm cho vui như sau :
Chuyện về Cựu Hoàng, tôi đoán
mò, nên nhớ điều này như sau : Tuổi của
Cựu Hoàng cũng như những người mà
CAN và CHI của tuổi KHẮC K nhau, khắc
ngược, thì khó mà đạt tới đích, chỉ lưng
chừng mà thôi. Tuổi Quý Sửu của Cựu
Hoàng có Chi Sửu thuộc THỔ khắc Can
Quý thuộc THỦY, khắc nhập đấy. Bởi vì,
theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ
Hành, thì mạng THỔ khắc mạng THỦY
(mạng Thổ được khắc xuất, mạng Thủy bị
khắc nhập). Nếu đúng là Cựu Hoàng sinh
vào giờ Thìn thì mạng nằm tại Cung Ngọ,
có Thất Sát ngưỡng đầu, tốt vô cùng. Thế
nhưng Thất Sát lại thuộc Kim, mà tuổi
của Cựu Hoàng lại thuộc Mộc, kim khắc
mộc thì còn gì?
Theo lịch sử, Cựu Hoàng từ
Pháp về nước năm 1932, lúc 19 tuổi, nhận
tước vị Vua chấp chánh. Làm Vua được 13
năm thì từ chức. Như thế Cựu Hoàng làm
Vua được 13 năm Năm đó, là năm 1945
Ất Dậu, đại hạn và tiểu hạn trùng phùng.
Hết chạy thoát.
Cựu Hoàng lại từ trần năm Đinh
Sửu, năm đó có 5 ác sát tinh + Tang môn +
Điếu Khách. Cung Nô tệ nhất vì có sao
Thiên đồng, một sao ưa thay đổi, nhưng
còn sát tinh nữa.
Thôi héng, tán dốc cho đở buồn
đó thôi, chứ đã chắc gì giờ sinh của Cựu
Hoàng đúng đâu. Giờ sinh này tôi thấy có
vẽ hợp lý vì sự nghiệp của Cựu Hoàng và
vì cung Thê rất tốt, có Tử Vi + Thiên
Tướng tại cung Thìn mà.
Nhân Ông bạn vong niên nhắc
đến Cựu Hoàng Bảo Đại trị vì được 13
năm, tức từ năm 1932 đến năm 1945 thì
thoái vị, làm tôi lần tay tính lại thì
thấy, cuộc đời của Ngài có nhiều con số 13
xin lượt liệt kê như sau :
Ngài sanh năm 1913.
Ngài nối nghiệp cha năm 13
tuổi (tức năm 1926).
Ngài là vị vua thứ 13 của triều
Nguyễn.
Ngài chánh thức trị vì được 13
năm, tức từ năm 1932 đến năm 1945 thoái
vị.
Người Tây Phương xem con số 13
là con số không được tốt, nhứt là ngày thứ
sáu 13 là ngày xem như ngày xấu hơn hết.
Nhưng, nếu chúng ta đã biết 10
con số căn bản là : 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6,
7, 8, 9.
Vậy muốn tìm con số 13 trở thành
con số căn bản phải làm như thế nào?
Trước hết lấy con số 13 tức con số 1 và 3,
rồi đem cộng chúng lại thì nó có kết quả
như sau : 1 + 3 = 4.
Từ đó, con số 13 trở thành con số
căn bản là 4 tức là con số Tứ Quý. Do vậy,
Ngài đã có nhiều con số Từ Quý rất tốt
hơn người tầm thường, đúng là mạng đế
vương.
Recommended