View
6
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
1
PHÂN TÍCH TRANH DÂN GIAN - ĐÔNG HỒ
“HỨNG DỪA”
Nguyễn Thanh Tùng
Khoa Sư phạm Mỹ thuật
Trường Đại học Nghệ thuật - Đại học Huế
Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, xuất hiện từ rất sớm với các thể loại
tranh tết và tranh thờ, gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và
việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.
Tranh dân gian phát triển vào thế kỷ 16. Đến thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi
vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh dân gian đã lan truyền rộng
rãi hầu khắp cả nước. Theo dòng chảy của lịch sử, văn hóa cùng sự phân hóa xã hội,
những dòng tranh xuất hiện được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, với những phong
cách riêng của mình. Đặc trưng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ quy trình làm
tranh: kỹ thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu, cách pha chế tạo màu sắc... Dưới
đây là một số dòng tranh nổi tiếng:
- Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh)
- Tranh Hàng Trống (Hà Nội)
- Tranh Kim Hoàng (Hà Tây)
- Tranh làng Sình (Huế)
Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện không còn ở
thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ... vẫn còn đó,
như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, một di sản không thể thiếu trong
kho tàng văn hóa dân tộc.
2
“Hứng dừa” là tranh dân gian Việt Nam thuộc dòng tranh dân gian Đông Hồ (tên
đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
“Hứng dừa” thuộc mảng tranh sinh hoạt xã hội, phản ánh cuộc sống, tâm tư tình
cảm đời thường của nhân dân lao động thời bấy giờ. Tranh miêu tả cảnh hái dừa rất sinh
động. Phía trên bên trái, chàng trai đang leo cây hái dừa, cô gái đứng dưới đất, tốc cả váy
lên để hứng dừa! Ở dưới gốc cây, hai cậu bé đang tranh nhau trèo lên cây. Phía trên góc
phải có đề thêm hai câu thơ nôm:
“Khen ai khéo dựng lên dừa,
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi”
Tác phẩm: Hứng dừa Tranh dân gian Đông Hồ -
[Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/]
Hình ảnh và tình huống trong tranh "Hứng dừa" đầy những bất ngờ, dí dỏm và kịch
tính. Các nhân vật, sự vật được thể hiện theo quan niệm tạo hình dân gian, cách điệu khái
quát, động thái nhân vật đôi khi cường điệu và phi thực tế nhưng lại hết sức hài hòa, thú
3
vị. Đây cũng là lối tư duy sáng tạo mà chúng ta thấy ở nghệ thuật điêu khắc Đình làng
Bắc bộ.
Cây dừa có vẻ thấp so với thực tế và so với tỷ lệ nhân vật, phần trên cong xuống,
như diễn tả sức nặng của chàng trai đang víu cành thả dừa, khuôn mặt vui vẻ, hóm hỉnh,
liệu cái váy của cô gái có chịu đựng được sức nặng của 2 trái dừa không? Cách biểu đạt
của cô gái, vừa có cái nhí nhảnh như múa, vừa có cái hớ hênh kéo thốc váy lên để "hứng
dừa". Hình ảnh không thể thấy ở người phụ nữ thời phong kiến.
Ở đây, chúng ta luôn bắt gặp quan niệm “sống hơn giống” trong tranh dân gian, các
sự vật, hiện tượng được diễn giải không theo thực tế, không để ý đến cấu trúc sự vật, con
người hay các nguyên tắc về ánh sáng, xa gần... Thủ pháp tượng trưng, ước lệ trong tạo
hình được đề cao và khai thác triệt để trong cách xây dựng bố cục, diễn tả đường nét, hình
thể, màu sắc, không gian... thoát ra yếu tố tả thực, chú trọng biểu cảm về mặt nội dung,
khiến cho tác phẩm mang được tiếng nói, tâm tư, tình cảm riêng của người sáng tác với
những thông điệp mang đậm tính triết lý nhân sinh, đạo lý con người Việt Nam…
Bên cạnh các hình thể, mảng chữ Nôm trên góc phải vừa tạo nên sự chặt chẽ cho bố
cục tranh, vừa biểu đạt rõ ý tưởng về nội dung. Hình ảnh và lời thơ quyện chặt lấy nhau,
câu thơ ý nhị đã làm nổi bật tình yêu đôi lứa, sôi nổi, chân thực, phóng khoáng của người
dân lao động vốn không bị gò bó, không bị trói buộc trong khuôn khổ, rường cột của lễ
giáo phong kiến.
Hình tượng tung hứng dừa – vốn không có trên thực tế, một mặt phản ánh sinh động
xã hội nông nghiệp, cuộc sống lao động của người nông dân chất phác, những phong tục,
tập quán, sinh hoạt đặc sắc của người dân Việt... mặt khác, cho thấy tính mâu thuẫn trong
cuộc sống và sự đan xen phức tạp của các mối quan hệ xã hội khác. Phải chăng sự hài hòa
giữa con người với thiên nhiên, hài hòa với cộng đồng xã hội sẽ mang lại hạnh phúc cho
chính mình và mọi người. Thông điệp về một sự giải phóng tâm hồn con người, thoát đi
mọi ràng buộc để tìm đến những ước mơ bình dị, cuộc sống thanh bình... Có lẽ đây chính
là tính minh triết và nhân bản trong nội dung của bức tranh này.
4
Nhìn tổng thể, đây là bức tranh có cấu trúc tam giác hơi lệch về phía trái, đáy sát với
đáy tranh, đỉnh là ngọn dừa. Bố cục tam giác thông thường tạo ra sự ổn định và vững
chắc. Phía bên phải là 02 câu thơ nôm tạo sự cân đối và chặt chẽ cho bố cục. Thêm vào
đó, sự bố trí các hình tượng nhân vật, mảng, màu, tỷ lệ, khoảng cách, hướng chuyển
động... tạo ra hiệu quả đối trọng và thăng bằng cần thiết cho bức tranh.
Nếu xét chi tiết, ngoài cấu trúc tổng thể, nhờ sự liên kết thị giác và tập hợp thị giác,
người xem có thể dễ dàng nhận ra các cấu trúc bên trong như: cấu trúc tam giác hình (a),
cấu trúc đa giác hình (b) hay cấu trúc oval hình (c)
(a) (b) (c)
5
Cả 3 sự liên kết này đều tỏ ra hợp lý với thói quen thị giác người xem. Tuy nhiên, để
có thể dẫn đến một kết luận rõ ràng và thuyết phục hơn về cấu trúc, chúng ta có thể xem
xét, so sánh bức tranh “Hứng dừa” với bức tranh “Đánh ghen” (cùng thuộc dòng tranh
Đông Hồ), khám phá một vài điều thú vị về sự giống nhau các yếu tố nội dung như: sự hài
hước, dí dỏm, nghịch ngợm; các yếu tố tạo hình như: đường nét, màu sắc, hình tượng; sự
tương phản, trái chiều và sự chuyển động trong bố cục của chúng.
- Nếu cấu trúc tổng thể của bức “Hứng dừa” là một tam giác thuận chiều, đỉnh là
ngọn dừa ở phía trên, thì bức “Đánh ghen” là một tam giác ngược chiều có đỉnh là cậu bé
phía dưới cùng. (Cấu trúc tam giác ngược, tạo cảm giác chông chênh, dễ đổ vỡ, phù hợp
với các chủ đề chiến tranh, đối chọi, kịch tính...) Bên trái bức “Hứng dừa”- là cây dừa - có
hướng nghiêng về phải, thì bức kia - là cây tùng - có hướng nghiêng về trái. Bức “Hứng
dừa”- gốc cây bên phải, có hướng chuyển động từ dưới lên, thì ở “Đánh ghen”- tấm bình
phong lại có hướng chuyển động từ trên xuống. Các sự vật bên dưới, sát đáy tranh - một
bức có hướng từ phải qua trái - bức kia có hướng từ trái qua phải; 02 hàng chữ nôm cũng
trái chiều như vậy.
- Cả 02 bức tranh đều có 04 nhân vật, tạo thành 2 tuyến. Bức tranh “Hứng dừa” có
03 nhân vật cận cảnh (tuyến 01), ở xa hơn (phía trên) là chàng trai (tuyến 02). Ngược lại,
6
bức tranh “Đánh ghen” có 01 nhân vật cận cảnh là cậu bé (tuyến 01), 03 nhân vật ở xa
(phía trên), (tuyến 02).
Tất cả các tập hợp và liên kết thị giác kết hợp với những động thái các nhân vật, độ
đậm nhạt, màu sắc... khiến cho ta thấy cấu trúc oval cùng với tính chất chuyển động
không ngừng của nó là phù hợp với tinh thần cái “động” trong cái “tĩnh” trong tranh dân
gian, phù hợp với chủ đề của cả 02 tác phẩm, phản ánh được nội dung sinh hoạt sinh động
muôn màu muôn vẻ.của người dân lao động.
Nghiên cứu một số tác phẩm hội họa trong và ngoài nước, khi miêu tả cảnh sinh
hoạt, các trò chơi, lễ hội... người ta cũng hay dùng hình tròn, oval để cấu trúc bố cục, ví
dụ như: Bức “Nhảy múa”- H. Matiss, (1910), “Trò chơi của trẻ con”- Pieter Brueghel the
Eider, (1560)...
Matisse. Nhảy múa. 1910. Sơn dầu.Matisse. Nhảy múa. 1910. Sơn dầu. Pieter Brueghel the Eider.
Childrens Gamé.1560. Pieter Brueghel the Eider.
Childrens Gamé.1560.
7
Trọng tâm chính của bức tranh đặt ở cô gái đang vén váy hứng dừa, vị trí ở điểm
nhấn mạnh thị giác phía dưới bên phải, hình ảnh cô gái được cách điệu khái quát, mảng
lớn, động tác thoải mái, phóng khoáng. Y phục là cặp màu tương phản đỏ - lục xanh gây
sức hút mạnh với thị giác người xem. Hình ảnh cô gái khiến chúng ta liên tưởng ngay tới
chủ đề “Hứng dừa”.
Các nhân vật khác như: chàng trai, 02 cậu bé cũng được đặt ở gần các điểm nhấn
mạnh thị giác, mảng nhỏ hơn, động thái các nhân vật, các yếu tố đậm nhạt và màu sắc tạo
sự nối kết quan trọng và làm tăng sự nổi bật của trọng tâm.
Trong tranh dân gian Đông Hồ, nét là một phần cực kỳ quan trọng, quyết định đến
vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh, bức tranh “Hứng dừa” sử dụng đường nét theo lối
“Đơn tuyến bình đồ”1 khái quát, đơn giản nhưng lột tả hết cái “thần” cái duyên dáng, hóm
hỉnh của từng nhân vật. Sự kết hợp giữa những nét dài mềm mại bao quanh hình, tạo nên
sự nhất quán giữa hình và mảng, những nét viền to nhỏ đậm đà, dứt khoát... diễn tả được
tình cảm, tính cách nhân vật. Những nét ngắn gọn dứt khoát ở trên lá dừa, nét chấm tạo
1 Đơn tuyến bình đồ: Nét đơn trên mảng màu phẳng, lối vẽ thông dụng trong hội họa phương đông và nghệ
thuật trang trí mặt phẳng, loại bỏ bóng, khối để tập trung vào sự biểu cảm của đường nét. Mỗi mảng phẳng đậ hat nhạt đều có nét viền giới hạn. Đơn tuyến bình đồ thích hợp cho các dạng tranh khắc, tranh in, tranh truyện, hoạt hình...
8
họa tiết trên thân dừa, quả dừa hay tạo chất trên thân gỗ, đất ... Sự kết hợp đường nét đa
dạng, phong phú và mềm mại, uyển chuyển, góp phần tạo nên vẻ đẹp riêng của bức tranh
này.
Sự độc đáo của tranh dân gian là thể hiện ở tính khái quát cao trong thủ pháp xây
dựng hình tượng nhân vật, biết chọn những vấn đề quan trọng nhất để diễn tả, hướng
người xem vào nội dung, giản lược về hình thức, kích thích quá trình tri giác của người
xem. Hình tượng trong tranh “Hứng dừa” bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc về
giải phẫu, tính hợp lý của hiện thực, để tạo ra một sự hợp lý của cảm thức nghệ thuật. Các
hình ảnh được khắc họa một cách chắt lọc và tinh giản, được ước lệ theo bản năng nghệ
thuật và cảm xúc trong sáng, hồn hậu, dí dỏm của người dân lao động. Hình ảnh cô gái
vén váy hứng dừa, bỏ qua sự hớ hênh, bỏ qua sự khắt khe của lễ giáo; Hình ảnh chàng trai
khỏe mạnh, nét mặt vui tươi hóm hỉnh, hình ảnh 02 cậu bé vui tươi, hớn hở đang muốn
dành nhau trèo lên cây....Tất cả tạo nên một khung cảnh sống động, trữ tình. Đây chính là
sự kết hợp khá nhiều thủ pháp tạo hình như: thủ pháp đồng hiện, để mở rộng không gian,
thời gian; thủ pháp cường điệu hóa nhân vật, sử dụng không gian ước lệ và biểu tượng
hóa để thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan, gợi liên tưởng hơn tả thực... Có thể nói, hình
tượng trong tranh “Hứng dừa” hướng về con người, thể hiện những nhu cầu, tâm lý sống,
những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống no đủ, lạc thú, hạnh phúc và thanh bình của
những người nông dân.
Nhìn vào đậm nhạt, sáng tối của bức tranh, chúng ta thấy trên nền điệp trung gian
là những mảng màu sáng và tối rất mạnh, chuyển động trên hình tượng nhân vật, sự vật...
sự chuyển động của đậm nhạt, sáng tối có tác dụng tạo ra nhịp điệu và chuyển động, nhấn
mạnh khu vực trọng tâm, gây hiệu quả thị giác mạnh mẽ.
Lấy màu nóng làm chủ đạo, trong tranh sử dụng các màu nguyên: màu đen của nét,
màu trắng của da, cây, lá, đất.... Màu vàng của không gian và cặp màu tương phản đỏ- lục
trên y phục các nhân vật, sự vật... Tổng thể bức tranh tràn ngập sắc vàng của nền điệp, sự
óng ánh, điểm xuyết của chất điệp tạo cho không gian sự long lanh và độ sâu nhất định.
(Hiệu quả tạo chất này chúng ta hay thấy trong các tranh sơn mài: dát vàng, bac, trứng
9
vụn...). Hòa sắc nóng kết hợp với cặp màu tương phản: Đỏ -Lục vừa làm tăng tính biểu
cảm nội tâm nhân vật, vừa gây hiệu quả thị giác trực tiếp và mạnh mẽ. Trong tranh, sự hài
hòa giữa đường nét, mảng và màu sắc cũng như sự hài hòa về hình thể và khoảng trống
không gian luôn được tính toán hợp lý, các mảng mầu tươi được đặt cạnh nhau, được làm
dịu bởi nét đen thông qua tác dụng tương phản và bổ túc. Tạo nên một tổng thể có tính
nghệ thuật cao.
Cách sử dụng màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ nói chung và “Hứng dừa”nói
riêng chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành: như màu
trắng ứng với hành Kim, màu xanh ứng với hành Mộc, màu đen ứng với hành Thủy, màu
đỏ ứng với hành Hỏa, màu vàng ứng với hành Thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông
Hồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông: “Màu xanh tượng trưng cho sự sống, sinh
sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với ánh mắt nhìn”; “Màu đỏ tượng trưng cho lửa,
nhiệt nóng, màu của mùa hạ”; “Màu vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho
mẹ của thiên nhiên”... Đây cũng là lý do mà trong tranh Đông Hồ thường xử lý màu vàng
làm nền cho mặt tranh.
10
Khác với phối cảnh không gian xa gần của hội họa phương Tây, lối bố cục tuân thủ
quy luật thị giác. Tranh dân gian Đông Hồ dùng phối cảnh ước lệ Phương Đông làm cơ sở
để tạo ra lối bố cục không gian tượng trưng, khái quát hơn, không tuân theo luật viễn cận
và tự phát theo thói quen nhìn. Ở đây viễn cận là bình đồ, mọi thứ đều thể hiện trên mặt
phẳng, cái xa thì xếp ở trên, cái gần thì xếp ở dưới nhưng không thay đổi hình thể... Hầu
như mọi vật luôn được nhìn ngang tầm mắt, hình ảnh sự vật được diễn tả ở tình trạng dễ
nhận biết nhất, không cần trước lớn sau nhỏ, trước rõ sau mờ, không phụ thuộc vào viễn
cận một điểm nhìn mà được diễn tả theo lối quan sát di động với nhiều góc độ khác nhau
hoặc theo cấu trúc không gian ước lệ của "thấu thị tẩu mã" 2 hay “thấu thị phi điểu” 3
Tranh dân gian Việt Nam chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc,
độc đáo. Nó là tác phẩm của những nghệ nhân dân gian, xuất phát từ đời sống hiện thực,
từ cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông dân. Khi sáng tạo, họ không bị
câu thúc bởi bất cứ quy chuẩn tạo hình nào. Họ tự do bộc lộ cái “cảm” tự thân về hiện
thực, bằng nhiều thủ pháp phù hợp với bản năng nguyên phác của họ. Có thể nói, trong họ
đồng thời có hai con người: người lao động và người nghệ sĩ với sự tự do sáng tạo.
Bức tranh “Hứng dừa” phản ánh tâm tư nguyện vọng và những ước mơ bình dị,
gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân, đưa ra được thông điệp sâu sắc về triết
lý nhân sinh và tinh thần đạo lý người Việt, gây được ấn tượng sâu sắc cho người thưởng
ngoạn.
2 Thấu thị tẩu mã: “Thấu thị tẩu mã” là lối cấu trúc không gian như nhìn từ trên mình ngựa đang chạy, hình ảnh trong tranh được thể hiện theo lối chạy dài, di chuyển theo hàng ngang. Không phải gần vẽ to, xa vẽ nhỏ như lối nhìn không gian khách quan theo luật viễn cận của nghệ thuật Tây phương, mà trái lại những điểm gần vẽ nhỏ, điểm xa vẽ to. 3 “Thấu thị phi điểu” là lối cấu trúc không gian như nhìn từ trên lưng một con vật đang bay nhìn xuống. Vì thế hình ảnh trong tranh từ gần đến xa đều bằng nhau và như chồng lên nhau theo hàng dọc hoặc sắp xếp thành nhiều tầng nhiều lớp. Tiêu biểu cho lối cấu trúc này là thể loại tranh đứng, miêu tả sự hùng vĩ của thiên nhiên.
Recommended