79
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐẦU TƯ 1. Khái niệm Lịch sử phát triển kinh tế thế giới trong những thập niên gần đây đã khẳng định vai trò của đầu tư đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Đầu tư cho tương lai đóng vai trò then chốt quyết định vận hội kinh tế của các quốc gia, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Những nước tiêu dùng phần lớn thu nhập của mình, có mức đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ không cao, ngược lại, tỷ lệ đầu tư tính theo GDP tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao; Những doanh nghiệp không chú trọng đầu tư sẽ khó thích nghi và phát triển trong kinh tế thị trường, sản phẩm tiêu thụ dễ bị suy yếu, doanh số bán ra bị giảm sút, sản xuất - kinh doanh sẽ trì trệ. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều cách hiểu (quan niệm) khác nhau về đầu tư. Các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng: “Đầu tư là đưa thêm một phần sản phẩm cuối cùng vào kho tài sản vật chất sản sinh ra thu nhập của quốc gia hay thay thế các tài sản vật chất đã hao mòn”. David Begg, nhà kinh tế học nổi tiếng cho rằng: “Đầu tư là việc các hãng mua sắm tư liệu sản xuất mới”. Xuất phát từ nguồn gốc của đầu tư, SamuelSon chỉ ra rằng: “Đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng cho tương lai. Thay vì ăn nhiều bánh pizza hôm nay, chúng ta hãy xây dựng các lò bánh nướng để có thể sản xuất ra nhiều bánh pizza hơn cho tiêu dùng ngày mai”. Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đi chăng nữa thì công cuộc đầu tư đều phải bỏ vốn ban đầu và mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Lợi ích dự kiến thu được của công cuộc đầu tư phải lớn hơn chi phí bỏ ra cho công cuộc đầu tư đó và đạt được mục tiêu không thể một sớm một chiều mà cần phải có một khoảng thời gian khá dài nhất định. Như vậy, có thể hiểu: “Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn trong một thời gian khá dài nhằm mục đích kiếm lời”. Thực chất của hoạt động đầu tư là tìm kiếm lợi ích đối với chủ đầu tư và lợi ích kinh tế - xã hội đối với đất nước. 2. Phân loại đầu tư Thực tiễn cho thấy hoạt động đầu tư rất đa dạng và phong phú. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh như: chủ thể thực hiện đầu tư, hình thức và lĩnh vực đầu tư... Chủ thể tham gia đầu tư có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân. Họ có 1

Giao trinh tai tro du an

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Giáo trình tài trợ dự án dành cho sinh viên các trường khối kinh tê

Citation preview

Page 1: Giao trinh tai tro du an

CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ

I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐẦU TƯ1. Khái niệm

Lịch sử phát triển kinh tế thế giới trong những thập niên gần đây đã khẳng định vai trò của đầu tư đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Đầu tư cho tương lai đóng vai trò then chốt quyết định vận hội kinh tế của các quốc gia, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Những nước tiêu dùng phần lớn thu nhập của mình, có mức đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ không cao, ngược lại, tỷ lệ đầu tư tính theo GDP tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao; Những doanh nghiệp không chú trọng đầu tư sẽ khó thích nghi và phát triển trong kinh tế thị trường, sản phẩm tiêu thụ dễ bị suy yếu, doanh số bán ra bị giảm sút, sản xuất - kinh doanh sẽ trì trệ.

Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều cách hiểu (quan niệm) khác nhau về đầu tư. Các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng: “Đầu tư là đưa thêm một phần sản phẩm cuối cùng vào kho tài sản vật chất sản sinh ra thu nhập của quốc gia hay thay thế các tài sản vật chất đã hao mòn”. David Begg, nhà kinh tế học nổi tiếng cho rằng: “Đầu tư là việc các hãng mua sắm tư liệu sản xuất mới”. Xuất phát từ nguồn gốc của đầu tư, SamuelSon chỉ ra rằng: “Đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng cho tương lai. Thay vì ăn nhiều bánh pizza hôm nay, chúng ta hãy xây dựng các lò bánh nướng để có thể sản xuất ra nhiều bánh pizza hơn cho tiêu dùng ngày mai”.

Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đi chăng nữa thì công cuộc đầu tư đều phải bỏ vốn ban đầu và mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Lợi ích dự kiến thu được của công cuộc đầu tư phải lớn hơn chi phí bỏ ra cho công cuộc đầu tư đó và đạt được mục tiêu không thể một sớm một chiều mà cần phải có một khoảng thời gian khá dài nhất định.

Như vậy, có thể hiểu: “Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn trong một thời gian khá dài nhằm mục đích kiếm lời”. Thực chất của hoạt động đầu tư là tìm kiếm lợi ích đối với chủ đầu tư và lợi ích kinh tế - xã hội đối với đất nước.

2. Phân loại đầu tưThực tiễn cho thấy hoạt động đầu tư rất đa dạng và phong phú. Điều này được thể hiện

trên các khía cạnh như: chủ thể thực hiện đầu tư, hình thức và lĩnh vực đầu tư... Chủ thể tham gia đầu tư có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân. Họ có thể lựa chọn đầu tư vào những ngành mà mình yêu thích hay có sở trường; hoặc đầu tư vào lĩnh vực thuộc trách nhiệm như: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư cho ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, du lịch... Mặt khác, họ cũng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình quản lý, điều hành và thực hiện quá trình đầu tư.

Mặc dù rất đa dạng và phong phú, song hoạt động đầu tư có thể phân thành những loại chính như sau:

2.1. Phân loại đầu tư theo ngànhKhi sử dụng tiêu thức này để phân loại, hoạt động đầu tư bao gồm:- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Là hoạt động bỏ vốn nhằm phát triển cơ sở hạ tầng

kĩ thuật như điện, nước, cầu, cống, thông tin liên lạc... và cơ sở hạ tầng xã hội như trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể thao...

- Đầu tư phát triển công nghiệp. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng, cải tạo, mở rộng các công trình công nghiệp.

- Đầu tư phát triển nông nghiệp. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng, cải tạo, mở rộng các công trình nông nghiệp.

- Đầu tư phát triển dịch vụ. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng các công trình dịch vụ (thương mại, khách sạn - du lịch...).

2.2. Phân loại theo hình thức đầu tưKhi sử dụng chỉ tiêu này để phân loại, hoạt động đầu tư bao gồm:- Hình thức đầu tư mới. Là hoạt động bỏ vốn để xây dựng các công trình mới hoặc các

1

Page 2: Giao trinh tai tro du an

đơn vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân riêng.- Hình thức đầu tư chiều sâu, mở rộng qui mô sản xuất. Là hoạt động bỏ vốn để mở

rộng công trình cũ đang hoạt động, nâng cao công suất, tăng thêm mặt hàng, hoặc nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, dịch vụ trên cơ sở các công trình sẵn có.

2.3. Phân loại theo nguồn vốn đầu tưTheo tiêu thức này, một cách khái quát nhất, hoạt động đầu tư bao gồm: - Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước như vốn Ngân sách, vốn tự có, vốn tín dụng Ngân

hàng...- Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài như vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, viện trợ...

2.4. Phân loại theo chủ thể đầu tưKhi sử dụng chỉ tiêu này để phân loại, hoạt động đầu tư bao gồm:- Đầu tư của Nhà nước.- Đầu tư của doanh nghiệp.- Đầu tư cá nhân.

2.5. Phân loại theo chức năng quản trị vốnCách phân loại này còn gọi là phân loại theo mối quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Theo

tiêu thức này, hoạt động đầu tư bao gồm:- Đầu tư trực tiếp. Là hoạt động đầu tư trong đó, chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản trị

vốn đã bỏ ra. Vì vậy, họ trực tiếp tham gia quản lý điều hành quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Thực chất trong hoạt động đầu tư này, người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể. Đi sâu hơn nữa, hoạt động đầu tư này lại được chia thành: Đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch.

Đầu tư phát triển là loại đầu tư bỏ vốn nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới làm phương tiện sinh lơì. Những năng lực mới hình thành qua quá trình đầu tư đó là: các công trình xây dựng, các dây chuyền sản xuất, máy móc trang thiết bị...

Đầu tư chuyển dịch là hoạt động bỏ vốn để mua lại một số cổ phần đủ lớn nhằm nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ làm chuyển dịch quyền sở hữu giá trị tài sản.

- Đầu tư gián tiếp. Là loại đầu tư trong đó, người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản trị vốn đã bỏ ra. Vì vậy, họ cũng không trực tiếp tham gia quản lý điều hành quá trình thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Đây là loại đầu tư trong đó, người bỏ vốn và người quản trị sử dụng vốn là những chủ thể khác nhau.

3. Đặc điểm đầu tư3.1. Tính sinh lời

Thực tiễn cho thấy, chẳng ai bỏ vốn, công sức để thực hiện đầu tư mà không tính toán đến lợi ích, lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư đó. Những người có ý định đầu tư đều hy vọng rằng, họ sẽ thu được lợi ích lớn hơn chi phí đã bỏ ra. Nói cụ thể hơn là họ sẽ nhận được một khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó. Chính niềm hy vọng đó là động lực của đầu tư. Sẽ không có hoạt động đầu tư nếu không thấy có triển vọng sinh lời. Nói cách khác, khả năng sinh lời là điều kiện tiên quyết của đầu tư. Vì vậy, có thể khẳng định: Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của đầu tư.

3.2. Tính dài hạn Đầu tư được xem là quá trình tìm kiếm lợi ích. Đây là quá trình cực kỳ gian nan, vất vả

với biết bao công việc cụ thể phải tiến hành. Mục đích của đầu tư không thể ngày một, ngày hai là đạt được; Một khối lượng công việc rất lớn trong đầu tư không thể hoàn thành trong một thời gian ngắn. Nói một cách khác, hoạt động đầu tư phải diễn ra trong một thời gian khá dài, thậm chí rất dài. Vì vậy, tính dài hạn là một đăc trưng của đầu tư.

3.3. Tính rủi roMục đích chủ yếu của đầu tư là kiếm lời và điều này chỉ có thể đạt được trong tương

lai, có khi là rất xa. Điều đó cũng có nghĩa là cái lời của hoạt động đầu tư chưa chắc chắn. Chỉ khi nào thu hồi được đủ vốn và có lợi nhuận mới có thể nói rằng chủ đầu tư đã hoàn thành “sứ mệnh” của mình.

Việc hoàn thành “sứ mệnh” đó là một việc hết sức khó khăn, bởi trong “hành trình” đầu

2

Page 3: Giao trinh tai tro du an

tư đã diễn ra biết bao điều bất ngờ, cho dù chủ đầu tư có tài giỏi và rất nhiều khả năng, kinh nghiệm cũng không thể lường hết được. Những bất ngờ đó sẽ dẫn đến rủi ro. Đầu tư rất dễ gặp rủi ro, bởi lẽ đây là một lĩnh vực phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội và cả tự nhiên.

Về chính trị, nếu tình hình không ổn định hoặc chiến tranh xảy ra sẽ gây cản trở công cuộc đầu tư, làm cho hoạt động đầu tư cũng như nhiều hoạt động khác bị ngừng trệ, đổ vỡ.

Tình hình kinh tế - xã hội diễn biến không bình thường, giá trị đồng tiền giảm sút, lạm phát ở mức cao, giá cả không ổn định... sẽ làm đảo lộn tính toán ban đầu của chủ đầu tư, làm chuyển hoá kết quả đầu tư, từ lãi trở thành lỗ.

Hoạt động đầu tư không thể tách rời điều kiện tự nhiên. Chính những yếu tố tự nhiên: Thời tiết, khí hậu, nắng mưa, gió bão... có ảnh hưởng và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đầu tư, đặc biệt là những giai đoạn sau và các công cuộc đầu tư vào ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp khai thác. Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho công cuộc đầu tư thành công và ngược lại, sự khắc nghiệt và bất thường về điêù kiện tự nhiên là một khó khăn rất khó vượt qua để đi đến thành công đối với chủ đầu tư.

Có thể nói, rủi ro là “ bạn đường” của đầu tư. Chấp nhận rủi ro được xem như một bản năng của nhà đầu tư. Vì vậy, rủi ro là một đặc trưng của đầu tư cần được chú ý.II. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ

1. Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế1.1. Đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế

Ngày nay, tăng trưởng và phát triển kinh tế là những khái niệm thường được nhắc đến, rất gần gũi và thu hút sự quan tâm của mọi người. Nhà kinh tế James Tobin đã khẳng định: “ Vấn đề tăng trưởng không phải là cái gì mới mà là sự cải trang cái mới của một vấn đề cổ xưa, một vấn đề luôn luôn hấp dẫn các nhà kinh tế học và làm cho họ phải bận tâm suy nghĩ: cái hiện tại so với cái tương lai”.

Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng GDP hay sản lượng tiềm năng của một đất nước, là sự tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm bình quân đầu người. Phát triển kinh tế có ý nghĩa rộng hơn, bao hàm nhiều điều khác nữa. Đó là sự tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản của nền kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chỉ là sự thay đổi về lượng, còn phát triển kinh tế là sự thay đổi về lượng và chất của nền kinh tế.

Khi thu nhập tính theo đầu người của tất cả dân chúng trong đất nước đều tăng, chúng ta nói nền kinh tế có sự tăng trưởng. Chính sự tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để cải thiện phúc lợi vật chất cho số đông nhân dân. Nếu không có sự tăng trưởng thì một số người vẫn có thể giàu do chiếm đoạt thu nhập và tài sản của người khác. Sự tăng trưởng kinh tế mở ra khả năng làm cho một số người giàu lên mà không làm cho những người khác nghèo đi. Vì vậy, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững là phương hướng và mục tiêu phấn đấu của các quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, vốn và công nghệ. Thông qua hoạt động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác và huy động, từ đó tạo ra cơ sở vật chất - kĩ thuật và nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có thể nói rằng: Đầu tư là con đường đúng đắn, duy nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và ở nước ta cho thấy, điều kiện cơ bản để nền kinh tế có thể “cất cánh” được là phải dành cho đầu tư một tỷ lệ khoảng 20% GDP. Đồng thời, cọi trọng hiệu quả của hoạt động đầu tư.

1.2. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tếCơ cấu kinh tế là mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Ở mỗi quốc gia

cơ cấu kinh tế thường được phân chia theo ngành, theo vùng (lãnh thổ) và theo thành phần kinh tế. Mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi thành phần kinh tế đều có tiềm năng và thế mạnh riêng. Đầu tư sẽ khai thác tiềm năng thế mạnh đó và tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, bởi lẽ khi tập trung đầu tư cho một ngành nào đó sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi to lớn cho ngành đó phát triển, nâng cao tỷ trọng sản phẩm trong toàn bộ nền kinh tế.

Như vậy, để tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, vấn đề đầu tiên có tính then chốt là

3

Page 4: Giao trinh tai tro du an

phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp lý.Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta xuất phát từ “ mức sàn ” rất thấp so với

các nước trong khu vực và trên thế giới. Vào những năm đầu của thập kỷ 90, tỷ trọng ngành nông nghiệp nước ta chiếm khoảng 35%, công nghiệp chiếm 22%, còn lại là dịch vụ. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Một trong những mục tiêu được đặt ra là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: Thời kỳ đầu xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ, thời kỳ tiếp theo xây dựng cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp.

Trong những năm gần đây, thông qua nhiều chính sách và biện pháp đầu tư, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Với việc mỗi năm dành hơn 40% vốn đầu tư cho công nghiệp, 20% vốn đầu tư cho nông nghiệp, đã tạo ra tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành công nghiệp khoảng 10 - 12%, nông nghiệp khoảng 4 - 5%, dịch vụ khoảng 8 - 9%. Đây là yếu tố quan trọng góp phần đưa tỷ trọng ngành công nghiệp hiện nay lên trên 30%, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp xuống còn hơn 20%, còn lại là tỷ trọng của ngành dịch vụ.

Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta, thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí độc tôn và tạo ra đại bộ phận sản phẩm quốc nội. Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, thực hiện khuyến khích và tạo điều kiện đầu tư phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, đến nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm đạt 7 - 8% và đã đóng góp hơn 60% GDP.

Do điều kiện tự nhiên về địa hình, đất đai, thời tiết, khí hậu, và phong tục tập quán... đất nước ta được chia thành 3 miền: Bắc - Trung - Nam. Mỗi miền có tiềm năng và thế mạnh riêng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần xây dựng những vùng kinh tế trọng điểm tại mỗi miền. Miền Bắc, vùng kinh tế trọng điểm bao gồm: Hà Nội - Hải phòng - Quảng ninh - Hà Đông; Miền Nam bao gồm: TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Bình Phước - Bà Rịa - Vũng Tàu; Miền Trung bao gồm: Quảng trị - Huế - Đà Nẳng - Quảng Ngãi. Vùng kinh tế trọng điểm được xây dựng ở những địa bàn có nhiều tiềm năng, từ đó có tác dụng thúc đẩy và lôi kéo sự phát triển của các địa bàn khác trong mỗi miền và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư nhằm phát triển các vùng miền núi, biên giới, hải đảo... để đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng và mọi miền của đất nước. Để đạt được điều đó, việc phân bổ vốn đầu tư cần thực hiện theo hướng:

- Vốn Ngân sách và vốn ODA do Trung Ương quản lý được phân bổ đều cho các vùng nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.

- Vốn Ngân sách do địa phương quản lý dành 30% cho vùng kinh tế trọng điểm, 70% dành cho các vùng khác.

- Vốn của doanh nghiệp, của nhân dân và vốn FDI đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm chiếm hơn 30%.

1.3. Đầu tư tăng cường khả năng khoa học của đất nướcBước sang thế kỉ XX, cách mạng khoa học - kĩ thuật diễn ra như vũ bão và trở thành

động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của các quốc gia. Tuy nhiên, công nghệ mà nhân loại đã và đang sử dụng cho đến nay là công nghệ truyền thống dựa trên kĩ thuật cơ khí. Nền công nghệ này đã và đang vấp phải những giới hạn to lớn về nguyên liệu, môi trường và thị trường... Điều này rất dễ dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu. Để khắc phục tình trạng này, đã xuất hiện xu hướng chuyển sang công nghệ mới sử dụng các loại máy tính và người máy công nghiệp, công nghệ tin học, công nghệ sinh học...

Như vậy là, ứng dụng khoa học và phát triển công nghệ là một yếu tố, một cơ sở quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia. Việc nâng cao và đổi mới cơ cấu công nghệ một mặt phải xuất phát từ phục vụ cho những yêu cầu mà chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt ra, mặt khác nó cũng tác động trở lại tốc độ và qui mô của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

4

Page 5: Giao trinh tai tro du an

Hiện nay ở nước ta, trình độ công nghệ đang là vấn đề bức xúc cần được quan tâm. So sánh công nghệ chính đang được sử dụng ở nước ta với thế giới cho thấy: công nghệ lạc hậu ở nước ta chiếm 52%, công nghệ trung bình chiếm 38%, còn lại 10% là công nghệ hiện đại. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là cần huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghệ. Vốn cho phát triển công nghệ đang là vấn đề cấp bách đối với nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước nghèo như Việt Nam. Theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì vốn dành cho khoa học - công nghệ chiếm khoảng 3% GDP, trong khi đó ở nước ta hiện nay mới đạt khoảng 1% GDP. Không có vốn hoặc thiếu vốn, chúng ta sẽ không có điều kiện để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất, và điều tất yếu sẽ đến, đó là tính độc lập, tự chủ và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sẽ suy giảm.

2. Vai trò của đầu tư đối với doanh nghiệp.2.1. Đầu tư đối với sự hình thành doanh nghiệp

Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển.

Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp được xem là những “tế bào” chủ yếu nhất. Chính sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Khi có nhiều doanh nghiệp ra đời, tồn tại và phát triển sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo; ngược lại, số lượng các doanh nghiệp giảm sút và hoạt động kém hiệu quả, nền kinh tế sẽ trì trệ, suy thoái.

Để hình thành doanh nghiệp có nhiều điều kiện, trong đó điều kiện quan trọng phải kể đến là về vốn đầu tư. Nhờ có vốn đầu tư, những nhà xưởng, trang thiết bị... được hình thành, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, vốn đầu tư còn được sử dụng để mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.

Thực tiễn ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp nước ta trong thời gian qua đã khẳng định vai trò của vốn đầu tư. Không có vốn đầu tư đã trở thành lực cản cho sự ra đời của khá nhiều doanh nghiệp. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng công nghệ - thiết bị hiện đại, dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh không cao, thiếu sức cạnh tranh và khó đứng vững trên thương trường. Một số doanh nghiệp khi ra đời tuy có trang thiết bị hiện đại, song lại thiếu vốn lưu động dẫn đến tình trạng sản xuất cầm chừng hoặc bị gián đoạn.

Từ những vấn đề trên, có thể nói rằng, không có vốn để thực hiện đầu tư, không có sự ra đời của các doanh nghiệp và qui mô vốn đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến qui mô và chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn, đầu tư có ảnh hưỏng quyết định đến sự ra đời và tồn tại của các doanh nghiệp.

2.2. Đầu tư đối với quá trình phát triển của doanh nghiệpHoạt động đầu tư có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là

tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ, các doanh nghiệp đã nảy sinh những quyết định đầu tư để thích nghi và phát triển. Chẳng hạn, khi thị trường tiêu thụ bị suy yếu, doanh số bán ra bị giảm sút, các doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vị của mình. Tức là, thực hiện đầu tư cho việc đa dạng hoá gắn liền với một định hướng về thị trường tiêu thụ mới.

Cạnh tranh là điều bình thường trong nền kinh tế thị trường. Với sự mở cửa các nền kinh tế và sự quốc tế hoá ngày càng tăng nhanh, cạnh tranh đã phát triển với một qui mô chưa từng thấy. Chính sự cạnh tranh gay gắt này đã biến thương trường thành chiến trường. Kĩ thuật - công nghệ đã trở thành vũ khí sống còn trong việc cạnh tranh. Nó dẫn đến những thay đổi sâu xa về điều kiện sản xuất, khống chế và hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Lịch sử kinh tế thế giới, đặc biệt là những năm gần đây cho thấy làn sóng đầu tư vào kĩ thuật - công nghệ ngày càng dâng cao mạnh mẽ. Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ nhằm mở rộng qui mô sản xuất và tăng cường sức mạnh cạnh tranh luôn luôn là một nhu cầu bức xúc đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Như vậy là, nhờ có đầu tư, công nghệ - thiết bị của các doanh nghiệp được đổi mới,

5

Page 6: Giao trinh tai tro du an

chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm ngày càng phong phú đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó tăng nhanh khả năng tiêu thụ và mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Điều đó khẳng định: Đầu tư đóng vai tró cực kì quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.

Khi chuyển sang nến kinh tế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp nước ta gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân quan trọng là máy móc thiết bị. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, phần lớn các máy móc thiết bị của các doanh nghiệp hiện nay được sản xuất từ thập kỉ 50, tỉ lệ hao mòn bình quân trên cả nước là 59,3%. ở nhiều nước, khi máy móc thiết bị hao mòn khoảng 70% là phải được thanh lý, trong khi ở nước ta nhiều thiết bị đã khấu hao hết vẫn còn sử dụng.

Công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kĩ đã đưa đến hệ quả là hàng hoá sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước có giá thành cao, chất lượng thấp, chủng loại kém phong phú, mẫu mã chậm thay đổi để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Do đó, hàng nội mất uy tín, không cạnh tranh được với hàng ngoại ngay tại thị trường ở trong nước, sức sản xuất trong nước giảm sút và trì trệ và đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nước ta.

Thực trạng hoạt động sản xuất - kinh doanh đã đặt ra vấn đề cần đầu tư đổi mới công nghệ - thiết bị cho hàng ngàn doanh nghiệp nước ta. Trong bối cảnh hiện nay, khi nguồn vốn Ngân sách và nguồn vốn tự có còn rất hạn chế thì nguồn vốn chủ yếu để thực hiện đổi mới công nghệ và thiết bị cho các doanh nghiệp là nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, đầu tư đổi mới công nghệ - thiết bị vừa là mối quan tâm của các doanh nghiệp vừa là mối quan tâm của các ngân hàng thương mại. Thực hiện tốt hoạt động này có tác động rất lớn đến sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp và bản thân ngân hàng.

6

Page 7: Giao trinh tai tro du an

CHƯƠNG IIDỰ ÁN ĐẦU TƯ

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ DỰ ÁN1. Khái niệm dự án

Trong chương 1, chúng ta đã nghiên cứu về đầu tư. Giữa đầu tư và dự án có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là mối quan hệ nhân quả. Đầu tư phát triển là nguồn gốc ra đời của các dự án. Ngược lại, việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư sẽ kiểm nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của quyết định đầu tư.

Thực tiễn đã chứng minh rằng, muốn tối đa hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi ra quyết định đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư. Nói khác đi, đầu tư phải được tiến hành trên cơ sở các dự án được soạn thảo và xem xét một cách kĩ lưỡng. Vì vậy, đầu tư theo dự án trở thành xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị trường.

Trong nhiều năm qua, cách tiếp cận đầu tư bằng dự án đã đứng vững được như một phương pháp đã tôi luyện để quản lý việc sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về dự án đầu tư. Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo thời gian, quan niệm về dự án ngày càng phát triển. Có người coi dự án là cách sử dụng các nguồn lực vào mục đích sản xuất nhất định; Ngân hàng Thế giới, một tổ chức tài chính quốc tế lớn nhất và có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn, viện trợ kinh tế - kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư vào các nước đang phát triển thông qua các chương trình và dự án đầu tư đã xem dự án là tổng thể các chính sách, hoạt động và chi phí có liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định; Cũng có người cho rằng: dự án đầu tư là tập hợp các đối tượng được hình thành và hoạt động theo một kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu nhất định (các lợi ích) trong một khoảng thời gian nhất định; Với tư cách là người đầu tư, mối quan tâm hàng đầu và mục đích chủ yếu của chủ đầu tư là kiếm lời. Đây là một quá trình tìm kiếm rất khó khăn, vất vả. Để đạt được điều này, nhà đầu tư phải nghiên cứu chi tiết, tỷ mỉ tất cả những vấn đề có liên quan, ảnh hưởng đến tính sinh lời của công cuộc đầu tư đó. Tập hợp những kết quả nghiên cứu này bằng văn bản được gọi là dự án đầu tư...

Dù được xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các thành phần chính như sau:

- Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện, dự án sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho bản thân chủ đầu tư nói riêng. Những mục tiêu này cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn thu cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư...

- Các hoạt động của dự án. Dự án phải nêu rõ những hành động cụ thể phải thực hiện, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn thành, và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hành động đó. Cần lưu ý rằng các hoạt động đó có mối quan hệ với nhau vì tất cả đều hướng tới sự thành công của dự án và các hoạt động đó diễn ra trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường dự án không phải là môi trường hiện tại mà là môi trường tương lai.

- Các nguồn lực. Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính, con người... Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần thiết cho dự án. Tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Mỗi dự án bao giờ cũng được xây dựng và thực hiện trong sự giới hạn về nguồn lực.

Tóm lại, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về dự án, song quan niệm về dự án đầu tư dưới giác độ của nhà đầu tư sẽ được sử dụng nhằm đáp ứng cho mục đích chủ yếu là tiến hành thẩm định các dự án đầu tư. Theo quan niệm này, dự án đầu tư được hiểu là tập hợp kết quả nghiên cứu các nội dung có liên quan, ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư.

7

Page 8: Giao trinh tai tro du an

2. Vai trò của dự án đầu tưDự án đầu tư là “sản phẩm” đem lại cho công cuộc đầu tư một hiệu quả như mong

muốn. Chính nguồn gốc ra đời của dự án đã cho thấy một cách khái quát vai trò của dự án đối với sự phát triển. Dự án đầu tư tạo cơ sở vật chất kỹ - thuật nguồn lực mới cho sự phát triển, là phương tiện chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế, giải quyết quan hệ cung - cầu về vốn, về sản phẩm dịch vụ trên thị trường, góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cải tiến bộ mặt kinh tế xã hội cho đất nước. Vai trò cụ thể của dự án đối với chủ đầu tư, nhà nước và nhà tài trợ được thể hiện ở những điểm chính như sau:

Trước hết đối với chủ đầu tư: Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư. Dự án đầu tư được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ các mặt về thị trường, kỹ thuật, tài chính, tổ chức quản lý... do đó, chủ đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có khả năng mang lại lợi nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường rất lớn và để san xẻ rủi ro (nếu có) nên ngoài phần vốn tự có, để thực hiện các dự án chủ đầu tư còn cần đến nguồn vốn vay. Dự án là một phương tiện để thuyết phục các tổ chức tài chính - tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. Dự án cũng là cơ sở để chủ đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Đó là những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh.... Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá và có điều chỉnh kịp thời những tồn tại và vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư và khai thác công trình.

Đối với Nhà nước, dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách nhà nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ (điện, xi măng, sắt, thép...). Dự án sẽ được phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế của đất nước, hoạt động của dự án không gây ảnh hưởng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Khi dự án đã được phê chuẩn thì các bên liên quan đến dự án phải tuân thủ theo nội dung yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, giải quyết.

Đối với các nhà tài trợ. Khi tiếp nhận các dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư, các tổ chức tài chính - tín dụng sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án, đặc biệt là về mặt kinh tế - tài chính để đi đến quyết định có đầu tư hay không đầu tư cho các dự án đó. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu mang tính khả thi theo quan điểm của nhà tài trợ và ngược lại. Khi chấp nhận đầu tư, dự án là cơ sở để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế hoạch đầu tư, đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn vay.

3. Yêu cầu của dự án Soạn thảo dự án là một công việc khó khăn, phức tạp. Không thể xem soạn thảo dự án

là việc làm chiếu lệ để tìm đối tác hoặc vay vốn đầu tư. Để một dự án đầu tư có tính thuyết phục và thu hút các bên tham gia, khi soạn thảo dự án cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu cơ bản sau:

Một là, dự án phải có tính khoa học. Đây là yêu cầu quan trọng hàng đầu của dự án đầu tư. Đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai và thực hiện thành công dự án. Tính khoa học của dự án được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:

- Về số liệu thông tin. Những dữ liệu, thông tin để xây dựng dự án phải đảm bảo trung thực, chính xác, tức là phải chứng minh được nguồn gốc và xuất xứ của những thông tin và những số liệu đã thu thập được (do các cơ quan có trách nhiệm cung cấp, nghiên cứu tìm hiểu thực tế...).

- Về phương pháp lý giải. Các nội dung của dự án không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà chúng luôn nằm trong một thể thống nhất, đồng bộ. Vì vậy, quá trình phân tích, lý giải các nội dung đã nêu trong dự án phải đảm bảo logic và chặt chẽ.

- Về phương pháp tính toán. Khối lượng tính toán trong một dự án thường rất lớn. Do

8

Page 9: Giao trinh tai tro du an

đó, khi thực hiện tính toán các chỉ tiêu cần đảm bảo đơn giản và chính xác. Đối với các đồ thị, các bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo chính xác về kích thước, tỷ lệ.

-Về hình thức trình bày. Dự án chứa đựng rất nhiều nội dung, nên khi trình bày phải đảm bảo có hệ thống, rõ ràng và sạch đep.

Hai là, tính pháp lý. Tính pháp lý của dự án phản ánh quyền lợi của quốc gia trong dự án. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện dự án phải được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Muốn vậy, dự án đầu tư không chứa đựng những điều trái với luật pháp và chính sách của Nhà nước về đầu tư. Nói khác đi là dự án cần có cơ sở pháp lý vững chắc, tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Điều này đòi hỏi người soạn thảo dự án phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước và các văn bản luật pháp có liên quan đến các hoạt động đầu tư đó.

Ba là, tính thực tiễn. Tính thực tiễn của dự án đầu tư thể hiện ở chỗ nó có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế. Mỗi dự án bao giờ cũng thuộc một ngành, lĩnh vực cụ thể với những thông số, tính toán và chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cụ thể. Mặt khác, dự án diễn ra ở những địa điểm cụ thể và chịu tác động của những yếu tố môi trường xác định về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội...

Bởi các lý do chính yếu trên, cho nên, các nội dung, khía cạnh phân tích của dự án đầu tư không thể chung chung mà dựa trên những căn cứ thực tế, tức là dự án phải được xây dựng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về mặt bằng, thị trường, vốn...

Bốn là, tính thống nhất. Lập và thực hiện dự án đầu tư là cả một quá trình gian nan, phức tạp. Đó không phải là công việc độc lập của chủ đầu tư mà nó liên quan đến nhiều bên như cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, các nhà tài trợ...

Vì vậy, dự án phải biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa các bên có liên quan đến dự án. Muốn các bên đối tác hiểu và quyết định tham gia dự án đầu tư, các tổ chức tài chính quyết định tài trợ hay cho vay đối với các dự án và muốn được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp giấy phép đầu tư thì việc xây dựng dự án từ các bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày dự án cần phải tuân thủ theo những quy định chung mang tính quốc tế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các bên chấp thuận dự án.

Năm là, tính phỏng định. Xuất phát từ tính phức tạp của đầu tư nên người soạn thảo dự án dù có nhiều kinh nghiệm và chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng cũng không thể lường hết được những yếu tố sẽ chi phối hoạt động đầu tư trong tương lai. Những nội dung, tính toán về quy mô sản xuất, chi phí, giá cả, doanh thu, lợi nhuận... trong dự án chỉ có tính chất dự trù, dự báo. Thực tế thường xảy ra không hoàn toàn đúng như dự báo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, thực tế xảy ra lại khác xa so với dự kiến ban đầu trong dự án. Vì vậy, dự án có tính phỏng định. Nhưng sự phỏng định phải dựa trên những căn cứ khoa học, trung thực và khách quan nhằm giảm thiểu rủi ro, độ bất định trong quá trình thực hiện dự án.

4. Chu trình dự ánMột công cuộc đầu tư được xem như bắt đầu từ ý tưởng về dự án đầu tư. Bất kỳ một dự

án đầu tư nào cũng được hình thành từ một ý tưởng ban đầu của nhà đầu tư. Tuy ý tưởng chỉ là một sự “hình dung” mong muốn của nhà đầu tư, nhưng cũng phải dựa trên những căn cứ cụ thể, vì nếu không ý tưởng đó sẽ trở thành viễn tưởng.

Từ ý tưởng của dự án đến đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả một quá trình. Quá trình này thường được chia làm 3 giai đoạn và trong mỗi giai đoạn lại gồm rất nhiều công việc diễn ra vừa tuần tự vừa đan xen lẫn nhau. Sau đây là các giai đoạn với các bước và công việc chính của một chu trình dự án:

Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư. Giai đoạn này gồm những bước chính như sau: - Nghiên cứu cơ hội đầu tư.- Nghiên cứu tiền khả thi.- Nghiên cứu khả thi.- Thẩm định để ra quyết định đầu tư. Nghiên cứu cơ hội đầu tư là nghiên cứu những khả năng, những điều kiện để chủ đầu tư

9

Page 10: Giao trinh tai tro du an

có thể tiến hành đầu tư. Mục đích của nó là tìm ra được cơ hội đầu tư phù hợp nhất đối với chủ đầu tư. Việc nghiên cứu cơ hội đầu tư có tác dụng xác định một cách nhanh chóng và ít tốn kém nhưng lại dễ thấy về các khả năng đầu tư trên cơ sở những thông tin cơ bản đưa ra đủ để làm người có khả năng đầu tư cân nhắc, xem xét và đi đến quyết định có triển khai tiếp sang giai đoạn nghiên cứu sau hay không.

Nghiên cứu tiền khả thi là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư. Mặc dù mới chỉ là sự lựa chọn sơ bộ cơ hội đầu tư, nhưng không vì thế mà chủ đầu tư coi nhẹ, giảm bớt nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu tiền khả thi là tất cả những vấn đề có liên quan ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư như thị trường, tài chính, kinh tế - kỹ thuật... Tuy nhiên, vì là sự lựa chọn sơ bộ cho nên chủ đầu tư chưa nghiên cứu những vấn đề đó một cách chi tiết tỷ mỉ. Việc nghiên cứu những vấn đề đó ở mức độ trung bình và trong trạng thái tĩnh. Tức là, chưa đề cập đến sự tác động của các yêú tố bất định và các kết quả tính toán chỉ là những ước tính sơ bộ.

Nghiên cứu khả thi là sự lựa chọn cuối cùng cơ hội đầu tư nên chủ đầu tư phải tiến hành nghiên cứu hết sức chi tiết, tỉ mỉ, toàn diện, triệt để những nội dung về thị trường, tài chính, kinh tế, kỹ thuật... có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư. Điều đáng chú ý là nghiên cứu khả thi diễn ra trong trạng thái động, tức là, có tính đến những yếu tố bất định có thể xảy ra theo từng nội dung cụ thể.

Như vậy, về mặt nội dung, có thể coi nghiên cứu tiền khả thi và khả thi là như nhau. Giữa nghiên cứu tiền khả thi và khả thi chỉ khác nhau về tính chất, mức độ nông, sâu của việc nghiên cứu.

Thẩm định để ra quyết định đầu tư. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu khả thi sẽ tổ chức thẩm định để đi đến quyết định có thực hiện đầu tư hay không.

Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư. Đây là giai đoạn tiến hành các hoạt động nhằm tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật, tiền đề

cho dự án đi vào giai đoạn sau cùng. Giai đoạn này gồm những bước chính như: - Đàm phán ký kết các hợp đồng.- Thiết kế và lập dự toán thi công công trình.- Thi công xây lắp công trình.- Vận hành chạy thử nghiệm thu công trình. Trong giai đoạn này vốn đầu tư được chi ra rất lớn và chưa sinh lời. Thời gian càng kéo

dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn và có thể xảy ra các tổn thất đối với thiết bị chưa hoặc đang được thi công lắp đặt, các công trình đang được xây dựng dở dang. Thế nhưng, không thể tuỳ tiện rút ngắn thời gian thực hiện đầu tư vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng thi công xây dựng - lắp đặt công trình, gây ảnh hưởng xấu đến giai đoạn vận hành, khai thác. Như vậy là, vấn đề đảm bảo chất lượng xây dựng - lắp đặt công trình và thời gian thi công là quan trọng hơn cả trong giai đoạn thực hiện đầu tư.

Giai đoạn 3: Vận hành kết quả đầu tư. Đây là giai đoạn cuối cùng của dự án đầu tư. Thực chất của giai đoạn này là đưa công

trình đã được xây dựng, lắp đặt xong vào vận hành, khai thác. Tức là, thực hiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu của dự án đề ra, trong đó mục tiêu chủ yếu là thu hồi vốn và có lợi nhuận.

Ở những năm đầu, khi dự án mới đi vào hoạt động, do tình hình chưa ổn định nên công suất thực tế đạt được không cao. Vì vậy, ở năm thứ nhất, công suất thực tế chỉ nên tính khoảng 50% công suất thiết kế, năm thứ hai ở mức cao hơn, khoảng 75%. Công suất thiết kế thực tế đạt được ở mức cao nhất thường là từ năm thứ 3 trở đi và khi đó cũng chỉ nên tính ở mức xấp xỉ 90% công suất thiết kế.

Tóm lại, chu trình dự án là các giai đoạn và các bước mà một dự án đầu tư cần trải qua bắt đầu từ thời điểm có ý tưởng đầu tư cho đến thời điểm kết thúc dự án.II. NỘI DUNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1. Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tưDự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản

10

Page 11: Giao trinh tai tro du an

xuất - kinh doanh, phát triển kinh tế, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và hoạt động tài trợ. Tuỳ theo từng dự án cụ thể để nghiên cứu, xác định những cơ sở về sự cần thiết phải tiến hành đầu tư theo dự án đó. Tuy nhiên, do hoạt động đầu tư mang tính phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng và chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là tình hình kinh tế của mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, tình hình kinh tế tổng quát là cơ sở chủ yếu nhất để nghiên cứu sự cần thiết phải thực hiện các dự án đầu tư. Khi nghiên cứu tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến dự án đầu tư cần xem xét trên các khía cạnh chủ yếu sau:

- Trước hết là điều kiện về địa lý tự nhiên. Các yếu tố thuộc điều kiện về địa lý tự nhiên như địa hình, khí hậu, địa chất, tài nguyên... có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và hoạt động của dự án đầu tư, tác động mạnh mẽ đến “đầu vào” và “đầu ra” của các dự án.

- Điều kiện về dân số và lao động. Đây là yếu tố có liên quan, ảnh hưởng đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ do dự án tạo ra, đồng thời tác động đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.

- Tình hình chính trị, các chính sách và hệ thống luật pháp của nhà nước là những yếu tố có liên quan, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư và tâm lý của nhà đầu tư. Sự ổn định về chính trị, luật pháp nghiêm minh và các chính sách nhất quán sẽ mang lại sự an tâm cho các nhà đầu tư. Các chính sách phát triển, cải cách và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh nhận thức và sự đổi mới tư duy trong lĩnh vực đầu tư, tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư.

- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực trạng sản xuất - kinh doanh của ngành, của cơ sở thể hiện qua các chỉ tiêu như tốc độ tăng GDP, tỉ lệ đầu tư/GDP, tỉ suất lợi nhuận... có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án.

Ngoài ra, đối với dự án đầu tư mở rộng qui mô sản xuất, cải tiến kĩ thuật, cần phân tích thực trạng hoạt động sản xuất - kinh doanh của những cơ sở đó.

Trên đây là những yếu tố cơ bản tác động đến dự án đầu tư. Nghiên cứu các vấn đề trên sẽ giúp tìm ra câu trả lời vì sao phải thực hiện dự án đầu tư. Để nghiên cứu các vấn đề trên cần sử dụng nhiều nguồn số liệu thông tin. Có thể thu thập các số liệu thông tin đó trong các niên giám, báo cáo thống kê hay trên các tạp chí, sách báo và tài liệu kinh tế quốc tế...

Điều cần chú ý là tuỳ thuộc vào từng dự án cụ thể để lựa chọn các vấn đề kinh tế tổng quát nêu trên khi xem xét đánh giá sự cần thiết phải thực hiện dự án đó.

2. Nghiên cứu về phương diện thị trường Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta trước đây, sản phẩm hàng hoá khan

hiếm do nguyên nhân chủ yếu là năng lực sản xuất hạn chế. Hầu hết các sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ. Vì vậy, vấn đề thị trường được ít người quan tâm.

Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị, đem lại một thực tế là có nhiều sản phẩm hàng hoá xuất hiện trên thị trường. Sự xuất hiện nhiều sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu của con người đã góp phần quan trọng làm thay đổi tư duy của các nhà đầu tư, sản xuất. Tư duy bắt đầu từ việc sản xuất rồi tìm cách bán hàng, tiêu thụ sản phẩm đã khép lại, nhường chỗ cho một tư duy mới, đó là cần bắt đầu từ nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu và tâm lý của người tiêu dùng, từ đó lựa chọn sản phẩm để đầu tư, sản xuất và tổ chức tiêu thụ phù hợp với sở thích, nếp sống và sức mua của khách hàng.

Như vậy là, dự án cần sản xuất sản phẩm gì với số lượng và giá cả bao nhiêu không thể xuất phát từ suy nghĩ chủ quan của nhà đầu tư mà phải xuất phát từ thị trường. Nghiên cứu về phương diện thị trường là nội dung quan trọng đầu tiên và có ý nghĩa sống còn của dự án. Thị trường là nơi phát ra những tín hiệu rất cần thiết đối với chủ đầu tư, là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của dự án. Mục đích chủ yếu của nghiên cứu thị trường là nhằm:

- Xác định thị trường hiện tại của sản phẩm dự định sản xuất, đánh giá tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai, đồng thời phân tích các yếu tố kinh tế và phi kinh tế tác động đến nhu cầu sản phẩm.

- Xây dựng các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản

11

Page 12: Giao trinh tai tro du an

phẩm của dự án.- Đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại có sẵn và các

sản phẩm có thể sau này xuất hiện trên thị trường.Về mặt nội dung, nghiên cứu thị trường dự án bao gồm các vấn đề chính như sau:Một là, lựa chọn sản phẩm dự án. Một sản phẩm được sản xuất ra là nhằm đáp ứng nhu

cầu nào đó của xã hội. Tuy nhiên, nhu đó rất đa dạng và có tầm quan trọng khác nhau tuỳ theo mỗi cá nhân và tuỳ theo mỗi xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu lựa chọn sản phẩm của dự án cần xác định rõ loại sản phẩm và đối tượng tiêu thụ sản phẩm đó. Những vấn đề cần được xem xét, làm rõ khi lựa chọn sản phẩm dự án là:

- Đặc điểm, công dụng chủ yếu của sản phẩm là gì? Sản phẩm dự án đáp ứng nhu cầu sản xuất hay nhu cầu của các cá nhân?

- Ai là khách hàng chính tiêu thụ sản phẩm dự án? Ai sẽ là những khách hàng mới ?- Sản phẩm dự án dự định sản xuất đang ở trong giai đoạn nào của chu kì sống? Nếu

sản phẩm dự án dự định sản xuất đang ở vào những giai đoạn cuối của chu kì sống thì việc thực hiện dự án đó rõ ràng là bất lợi, không nên tiến hành.

Hai là, xác định nhu cầu thị trường hiện tại. Xác định nhu cầu hiện tại của sản phẩm mà dự án dự định sản xuất là điều cần thiết đối với nhà đầu tư. Để xác định được mức tiêu thụ hiện tại về loại sản phẩm của dự án cần thu thập các số liệu như số liệu sản xuất trong năm của các cơ sở hiện có, số lượng nhập khẩu và xuất khẩu trong năm và lượng tồn kho cuối năm. Cần lưu ý rằng, mức tiêu thụ hiện tại có thể phản ánh đúng hoặc chưa đúng như cầu hiện tại.

Đối với những mặt hàng không còn sự khan hiếm về sản phẩm, hoặc mức độ khan hiếm thấp thì mức tiêu thụ hiện tại sẽ phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện taị.

Đối với những sản phẩm có sự khan hiếm, sản xuất ra đến đâu đều được tiêu thụ hết, có thêm nữa vẫn bán được thì mức tiêu thụ hiện tại chưa phản ánh đúng nhu cầu thị trường hiện tại, nhu cầu có thể còn lớn hơn lượng hàng đã tiêu thụ. Lẽ dĩ nhiên các dự án đầu tư cần phát hiện những mặt hàng còn có sự khan hiếm để đầu tư sản xuất. Lúc này, để xác định nhu cầu thị trường hiện tại có thể gia tăng một hệ số nào đó bằng cách tham khảo số liệu của các nước khác, nhất là các nước có kinh nghiệm có đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội giống với nước ta.

Ba là, dự báo nhu cầu tương lai sản phẩm dự án. Dự báo nhu cầu tương lai của sản phẩm dự án là vấn đề quan trọng và rất cần thiết, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi của nhà đầu tư cũng như các nhà tài trợ cho dự án. Thông thường, các dự án phải trải qua một thời gian thực hiện đầu tư nhất định. Khi quá trình xây dựng và lắp đặt hoàn thành, dự án sẽ được đưa vào khai thác, quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh bắt đầu và kúc đó sản phẩm của dự án mới có mặt trên thị trường.

Để dự báo nhu cầu thị trường tương lai, cần sử dụng các phương pháp dự báo. Có nhiều phương pháp để dự báo nhu cầu tương lai như phương pháp bình quân số học, phương pháp bình quân theo tốc độ tăng trưởng...

Mỗi phương pháp dự báo có nội dung riêng, nhưng cơ sở của chúng về cơ bản là giống nhau. Các phương pháp đều dựa trên giả thiết: những gì diễn ra trong quá khứ theo một quy luật nào đó sẽ tiếp tục ra trong tương lai cũng vấn theo quy luật đó.

Như vậy là, để dự báo nhu cầu tương lai của sản phẩm dự án cần xác định “quy luật” trong quá khứ. Muốn vậy, cần thu thập các số liệu thông tin trong quá khứ về tình hình tiêu thụ sản phẩm đó. Tuỳ theo từng loại sản phẩm mà xác định thời gian cần phải xem xét đến trong quá khứ. Nhìn chung, khoảng thời gian tối thiểu đối với nhiều loại sản phẩm là 5 năm.

Trong nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường tương lai, vấn đề đặt ra là cần lựa chọn phương pháp thích hợp để dự báo đối với từng loại sản phẩm dự định sản xuất. Điều cần chú ý là độ chính xác của các kết quả dự báo còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự biến động của giá cả, thu nhập, dân số và một số ảnh hưởng có tính chất đột biến.

Về giá cả, đây là một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu thị trường. Thông thường, khi giá cả cao thì người tiêu dùng càng đắn đo khi mua sản phẩm đó. Vì vậy, khi dự

12

Page 13: Giao trinh tai tro du an

báo nhu cầu của thị trường tương lai, để đảm bảo sự chính xác cao hơn cần tính đến tính đàn hồi của nhu cầu so với giá cả sản phẩm.

Về thu nhập, thông thường khi thu nhập tăng thì khuynh hướng tiêu dùng sẽ tăng lên. Khi dự báo nhu cầu cần kết hợp xem xét mối tương quan giữa thu nhập bình quân đầu người và mức tiêu thụ sản phẩm dự án dự định sản xuất.

Về dân số, cũng có ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu thị trường theo hướng “đồng biến”, nhất là các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, may mặc...

Bốn là, phân tích khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cạnh tranh là điều thường xuyên xảy ra trong nền kinh tế thị trường do có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm. Quá trình này nhiều lúc diễn ra rất gay gắt, biến thương trường thành chiến trường. Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư không đủ sức cạnh tranh dẫn đến bị phá sản.

Vì vậy, phân tích đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án là điều tất yếu và cần được coi trọng.

Trước hết, cần phân tích, đánh giá tình hình và mức độ cạnh tranh. Cụ thể là, xác định tất cả các nhà cạnh tranh chính ở hiện tại và tương lai. Thu nhập các thông tin về tình hình sản xuất - kinh doanh của họ có ước tính đến sự thay đổi trong tương lai để đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của “đối thủ” cạnh tranh.

Sau khi phân tích, đánh giá các “đối thủ”, cần phân tích đánh giá khách quan ưu thế và bất lợi của dự án trong cạnh tranh trên các mặt chủ yếu như chi phí sản xuất, khả năng tài chính, kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Điều quan trọng là cần xác định rõ những ưu thế đó của dự án sẽ tồn tại được bao lâu và những bất lợi của dự án có khắc phục, hạn chế được hay không?

Bước quan trọng trong quá trình cạnh tranh sản phẩm do dự án tiến hành sản xuất nhằm chiếm lĩnh thị trường như đã dự tính là cần sử dụng các công cụ để cạnh tranh trên hai khía cạnh. Cạnh tranh về phương diện giá cả và khả năng cạnh tranh về giá trị sử dụng.

Để cạnh tranh về giá cả cần thu thập giá bán của các sản phẩm cùng loại đang được tiêu thụ trên thị trường do các doanh nghiệp hiện có sản xuất. Từ đó, dự kiến giá bán sản phẩm của dự án sao cho có thể cạnh tranh được mà vẫn có lời.

Nhìn chung, giá cả sản phẩm của dự án phải thấp hơn hoặc tối đa là cao bằng giá cả sản phẩm của các sản phẩm cùng loại đang có mặt trên thị trường mới có lợi thế trong cạnh tranh.

Khả năng cạnh tranh về giá trị sử dụng được thể hiện chủ yếu ở chất lượng sản phẩm, kiểu dáng công nghiệp, hình thức bao bì... Vì vậy, cần nêu rõ những ưu điểm nổi bật của chất lượng sản phẩm, nói rõ sản phẩm đạt tiêu chuẩn cấp nào, đồng thời cũng cần nêu rõ những tiện lợi của sản phẩm trong sử dụng, di chuyển và khả năng đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng... Chính những ưu điểm đó là cơ sở quan trọng để tạo ra uy tín của sản phẩm, là yếu tố có tính chất quyết định nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao được lượng hàng bán ra cũng như đảm bảo được tuổi thọ kinh tế của sản phẩm như dự kiến đề ra trong dự án.

Năm là, xây dựng các biện pháp tiếp thị và màng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án. Qua việc tiến hành dự báo nhu cầu thị trường tương lai đối với sản phẩm dự án dự định sản xuất đã cho biết khả năng xâm chiếm thị trường và tiêu thụ sản phẩm trong tương lai.

Thế nhưng, khả năng đó có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề, đặc biệt là phải làm cho người tiêu dùng biết và cần đến các sản phẩm của dự án. Vì vậy, cần nghiên cứu các biện pháp tiếp thị và tổ chức màng lưới tiêu thụ sản phẩm của dự án để tăng nhanh khả năng tiêu thụ.

Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tiếp thị đóng vai trò quan trọng tỷ lệ với số lượng và sự phức tạp của khách hàng. Mục đích của tiếp thị là làm cho người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của dự án thay vì sử dụng sản phẩm cạnh tranh khác. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ lưỡng đối tượng khách hàng, các hình thức phân phối và kỹ năng của chúng cũng như các phương án giới thiệu sản phẩm.

Tổ chức màng lưới tiêu thụ là một vấn đề cần được nghiên cứu kĩ lưỡng. Về nguyên tắc, phải đảm bảo cho sản phẩm của dự án đến được tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và thuận tiện. Do đó, dự án xem xét tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm một cách

13

Page 14: Giao trinh tai tro du an

hợp lý thông qua các phương thức tiêu thụ như bán hàng trực tiếp, bán hàng thông qua các đại lý hoặc thông qua các hợp đồng bao tiêu sản phẩm... Trường hợp áp dụng phương thức bán hàng trực tiếp cần dự trù tính toán các chi phí như chi phí vận chuyển, chi phí mở các cửa hàng tiêu thụ...

Nghiên cứu thị trường là nội dung quan trọng là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và qui mô của dự án. Mặt khác, nghiên cứu về phương diện thị trường cũng là một vấn đề rất phức tạp, mang nặng tính lý thuyết, vận dụng vào thực tế gặp rất nhiều khó khăn do thiếu số liệu hoặc số liệu không đủ độ tin cậy cao.

Thực tế cho thấy nhiều dự án không thành công đều có nguyên nhân do nghiên cứu thị trường không chính xác. Để nghiên cứu thị trường cần các thông tin ở tầm vĩ mô và vi mô như các kế hoạch lớn định hướng việc phát triển kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, chỉ số lạm phát, tình hình xuất - nhập khẩu và tuỳ theo sản phẩm của từng dự án cụ thể để xác định những thông tin cần thiết khác.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị trường không phải chỉ là thu lượm các tài liệu, thông tin về tình hình quá khứ, hiện tại và tương lai của sản phẩm dự án dự định sản xuất mà còn cần có các chuyên gia với những hiểu biết về sản phẩm dự án và những sản phẩm có thể thay thế cũng như những kiến thức về qui luật và cơ chế hoạt động của thị trường, pháp luật, thương mại... để có thể lựa chọn, phân tích và rút ra được những kết luận cụ thể và xác đáng.

3. Nghiên cứu phương diện kỹ thuật - công nghệ của dự án Mục đích chính của việc nghiên cứu kĩ thuật - công nghệ của dự án là nhằm xác định,

kiểm tra các thông số đầu vào, quy trình sản xuất, địa điểm sản xuất và nhu cầu để sản xuất một cách tối ưu và phù hợp nhất với những điều kiện hiện có mà vẫn đảm bảo các yêu cầu về chất lượng và số lượng sản qua nghiên cứu thị trường.

Nghiên cứu phương diện kĩ thuật - công nghệ là một trong những tiền đề quan trọng cho việc phân tích về mặt kinh tế - tài chính của dự án. Không có số liệu của phân tích kỹ thuật thì không thể phân tích về mặt kinh tế tài chính. Quyết định đúng đắn trong thẩm định kỹ thuật - công nghệ có tác dụng to lớn trong việc tiết kiệm các nguồn lực và tranh thủ được các cơ hội để tăng thêm nguồn lực.

Mặt khác, kỹ thuật - công nghệ của từng dự án phụ thuộc vào các ngành kinh tế - kỹ thuật và là một vấn đề rất phức tạp nhất là đối với dự án lớn. Vì vậy, cần có những nghiên cứu hỗ trợ bổ sung cho các dự án lớn, phức tạp về kĩ thuật với sự tham gia của các chuyên gia có am hiểu sâu sắc về từng lĩnh vực kĩ thuật cụ thể đó.

Tuỳ thuộc vào từng loại dự án cụ thể mà nội dung nghiên cứu kĩ thuật - công nghệ có nội dung và mức độ phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, những nội dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu bao gồm các vấn đề chính sau đây:

Một là, lựa chọn hình thức đầu tư. Việc nghiên cứu lựa chọn hình thức đầu tư mới hay đầu tư chiều sâu, cải tiến kĩ thuật, mở rộng qui mô sản xuất cần dựa trên một số cơ sở như tính chất sản phẩm và điều kiện cụ thể của các cơ sở hiện có. Thông thường, đối với loại sản phẩm hoàn toàn mới cần phải đầu tư mới, ít khi tận dụng được các cơ sở hiện có. Trong trường hợp cần tăng số lượng sản phẩm hoặc đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, thông thường sẽ thực hiện hình thức đầu tư chiều sâu, cải tạo, mở rộng và đổi mới thiết bị, công nghệ cơ sở hiện có.

Hai là, nghiên cứu lựa chọn công suất của dự án. Công suất của dự án là khả năng tạo ra sản lượng sản phẩm và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định như một tháng, một quí hoặc một năm. Công suất của dự án bao gồm các loại sau:

- Công suất lý thuyết. Công suất lý thuyết là công suất lớn nhất mà dự án có thể thực hiện được trong điều kiện sản xuất lý thuyết. Điều kiện sản xuất lý thuyết được hiểu theo giả thiết là máy móc hoạt động liên tục, không bị gián đoạn vì bất kì lý do nào. Công suất lý thuyết mang tính chất tham khảo, không thể đạt được.

- Công suất thiết kế. Công suất thiết kế là công suất mà dự án đạt được trong điều kiện sản xuất bình thường. Điều kiện sản xuất bình thường được hiểu là: máy móc thiết bị hoạt động theo đúng qui trình công nghệ, không bị ngừng vì những lý do không được dự tính

14

Page 15: Giao trinh tai tro du an

trước; các yếu tố “đầu vào” được cung cấp đầy đủ, kịp thời. Công suất thiết kế của dự án được tính dựa vào công suất thiết kế của máy móc, thiết bị chủ yếu trong một giờ cùng với số giờ, số ca và số ngày làm việc. Khi tính công suất thiết kế một năm, thông thường số ngày làm việc trong năm lấy bằng 360 ngày, còn số ca/ngày, số giờ/ca lấy theo dự tính trong dự án.

- Công suất thực tế. Công suất thực tế là công suất đạt được trong điều kiện sản xuất cụ thể của dự án. Điều kiện sản xuất cụ thể của dự án được hiểu là sự chi phối của các yếu tố như sự thành thạo của người công nhân, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào và các trục trặc “kĩ thuật” khác. Công suất thực tế được xác định trên cơ sở công suất thiết kế. Thông thường, năm đầu khi dự án đi vào hoạt động, công suất thực tế được tính bằng 50% công suất thiết kế, năm thứ hai công suất thực tế được tính bằng 75% công suất thiết kế, từ năm thứ ba trở đi công suất thực tế được tính bằng 90% công suất thiết kế. Đây được coi là công suất thực tế lớn nhất của dự án.

- Công suất tối thiểu. Công suất tối thiểu là công suất tạo ra mức sản phẩm tối thiểu cần thiết để dự án không bị lỗ. Đây là công suất tương ứng với điểm hoà vốn. Nếu sản lượng sản phẩm dưới mức sản lượng hoà vốn thì chi phí cố định cho một đơn vị sản phẩm sẽ gia tăng, khiến giá thành cao, từ đó việc sản xuất trở thành không kinh tế nữa, mặc dù về mặt kĩ thuật chất lượng có thể vẫn được đảm bảo.

Lựa chọn công suất của dự án là điều cần thiết có ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án đầu tư. Thông thường công suất của dự án được lựa chọn trong khoảng giữa công suất thực tế và công suất tối thiểu. Khi xác định công suất của dự án lớn hay nhỏ cần căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau đây:

+ Nhu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với sản phẩm của dự án.+ Khả năng mở rộng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm do dự án dự định sản xuất.+ Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, nhất là đối với nguyên

vật liệu phải nhập khẩu.+ Khả năng mua thiết bị - công nghệ có công suất phù hợp đối với dự án.+ Khả năng về vốn đầu tư và năng lực về tổ chức, điều hành sản xuất - kinh doanh.Đa số các dự án đều khởi đầu bằng cách: một mặt, phát triển dần mức thương vụ và

xâm nhập thị trường tiêu thụ, mặt khác điều chỉnh dần các yếu tố nguyên vật liệu, lao động, thiết bị... theo sự lựa chọn để tăng dần công suất của dự án, vì ngay cả nếu có sản xuất hết công suất trong những năm đầu thì khả năng tiêu thụ thường vẫn gặp khó khăn. Nói cách khác, việc xác định một cách rõ ràng các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn công suất của dự án thường gặp khó khăn. Vì vậy, trong thực tế thường áp dụng phương pháp phân kì đầu tư, đưa công suất tăng dần lên cho đến khi đạt được công suất yêu cầu.

Ba là, nghiên cứu xác định chương trình sản xuất và nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất.

Nghiên cứu xác định chương trình sản xuất bao gồm các vấn đề chính như xác định cơ cấu sản phẩm, chất lượng và giá cả sản phẩm. Về cơ cấu sản phẩm, cần xác định rõ tỉ trọng của mỗi loại sản phẩm cũng như bán thành phẩm và các phế liệu thu hồi theo từng năm sản xuất và cho cả đời dự án.

Về chất lượng sản phẩm, cần xác định tiêu chuẩn của sản phẩm phân theo nhiều cấp hạng thông qua các chỉ tiêu như đặc tính cơ lý hoá, kiểu dáng công nghiệp, hình thức, bao bì, nhãn mác công dụng và cách sử dụng.

Về giá cả sản phẩm, thông thường giá bán sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí giá thành. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường giá cả chủ yếu do người mua và người bán thoả thuận nên xác định giá bán sản phẩm là điều phức tạp, nếu không có kinh nghiệm dễ dẫn đến tình trạng hoặc bị thua lỗ hoặc không tiêu thụ được sản phẩm. Khi xác định giá cả sản phẩm trong dự án cần chú ý một số khía cạnh như vừa sức mua của người tiêu dùng, cân đối với các mặt hàng khác trên thị trường, có thể cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại đồng thời bảo đảm một tỉ suất lợi nhuận thích đáng để duy trì và mở rộng sản xuất.

Nghiên cứu xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Khi dự án hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư sẽ được đưa vào vận hành khai thác. Nói cụ thể hơn là quá trình

15

Page 16: Giao trinh tai tro du an

sản xuất - kinh doanh của dự án bắt đầu. Để sản xuất ra sản phẩm, cần rất nhiều yếu tố trong đó có một số yếu tố chính như nguyên vật liệu, lao động, năng lượng, nước...

Nghiên cứu xác định chính xác nhu cầu các yếu tố đầu vào đó của dự án sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất diễn ra đều đặn, đồng thời tránh sự lãng phí, ứ đọng vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư. Nghiên cứu xác định các yếu tố đầu vào bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

+ Về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là đối tượng lao động, khi tham gia vào quá trình sản xuất cấu tạo nên thực thể sản phẩm. Vì vậy, đây là một trong những nội dung quan trọng cần được nghiên cứu kĩ trên các khía cạnh như phân loại nguyên vật liệu; đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu sẽ dùng; nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu; kế hoạch cung ứng và giá mua nguyên vật liệu.

Trước hết, về phân loại nguyên vật liệu. Để sản xuất ra sản phẩm cần rất nhiều loại nguyên vật liệu. Mỗi loại có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất. Trong dự án cần xác định và phân rõ thành các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, bán thành phẩm và bao bì đóng gói. Để đi sâu nghiên cứu, có thể phân chia nguyên vật liệu theo ngành nông - lâm nghiệp và công nghiệp.

Đối với những nguyên vật liệu là nông, lâm, thuỷ hải và gia súc, gia cầm cần đi sâu phân tích điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nông, lâm ngư nghiệp, đồng thời chú ý đến nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của mọi người dân đối với sản phẩm của các ngành đó.

Đối với nguyên vật liệu là sản phẩm của ngành công nghiệp như khoáng sản, sản phẩm công nghiệp trung gian... cần đi sâu xem xét về trữ lượng, khả năng thay thế giữa các loại nguyên vật liệu.

Về đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu. Đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu phải phù hợp với chất lượng sản phẩm của dự án. Thông thường nghiên cứu các đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu trên các khía cạnh như đặc tính lý học thể hiện qua kích cỡ, thể trạng, tỷ trọng, độ nhớt, điểm nóng chảy... Đặc tính cơ học thể hiện độ biến dạng, độ cứng, sức nén...Đặc tính hoá học thể hiện độ tinh khiết, độ cứng của nước, chỉ số axít... Đặc tính về điện và từ thể hiện khả năng dẫn điện, điện trở, từ tính...

Về nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu. Nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu, nhất là nguyên vật liệu chính là điều kiện quan trọng để xác định tính sống còn cũng như tầm cỡ đa số các dự án.

Nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu phải đảm bảo cho dự án hoạt động bình thường trong suốt đời dự án. Cần chú trọng khai thác các nguồn trong nước, thường là rẻ hơn, đỡ phiền hà hơn khâu nhập khẩu và tiết kiệm được ngoại tệ, đồng thời hỗ trợ thêm cho các ngành khác cùng phát triển. Chỉ nên nhập khẩu những nguyên vật liệu trong nước không có hoặc không đẩm bảo yêu cầu về chất lượng.

Về kế hoạch cung ứng và giá mua nguyên vật liệu. Kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất của dự án sau này. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu hằng năm cho dự án, cần nghiên cứu và lập kế họach thu mua, cung ứng để bảo đảm cho việc cung cấp nguyên vật liệu cho dự án được đầy đủ và đều đặn, không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Có thể tổ chức thu mua trực tiếp, qua các màng lưới và tổ chức khác.

Ngoài ra, cần phân tích giá mua nguyên vật liệu vì đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án. Đối với nguyên vật liệu trong nước, giá mua hiện tại có đối chiếu với giá trong quá khứ và chiều hướng trong tương lai. Các chi phí thu mua, vận chuyển cần được tính đầy đủ. Trong trường hợp nguyên vật liệu nhập khẩu, nên áp dụng giá CIF cùng với các chi phí bốc dỡ, lệ phí cảng, phí bảo hiểm, các loại thuế, chi phí chuyên chở đến nhà máy...

+ Về lao động. Lao động là yếu tố quan trọng quyết định mọi hoạt động trong dự án. Vì vậy, cần nghiên cứu lao động cho dự án trên các khía cạnh như nhu cầu về lao động, nguồn lao động và chi phí lao động.

Về nhu cầu lao động. Trên cơ sở yêu cầu kĩ thuật của sản xuất, sơ đồ bộ máy quản lý

16

Page 17: Giao trinh tai tro du an

điều hành để ước tính số lượng lao động trực tiếp và bậc thợ tương ứng cho mỗi loại công việc và số lượng lao động gián tiếp với trình độ lao động thích hợp.

Về nguồn lao động. Cần chú trọng xem xét lao động trong nước và tại địa phương để tuyển dụng đào tạo. Có thể tuyển dụng trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan chuyên môn. Nếu phải đào tạo, phải có chương trình đào tạo lao động chuyên môn, lập kế hoạch và dự tính chi phí. Việc đào tạo có thể tiến hành ở trong nước hoặc nước ngoài (nếu trong nước không đủ điều kiện) hoặc thuê chuyên gia nước ngoài vào huấn luyện ở trong nước.

Về chi phí. Chi phí về lao động bao gồm chi phí tuyển dụng, đào tạo và chi phí cho lao động trong các năm hoạt động của dự án sau này. Dự án có thể áp dụng trả lương khoán, lương sản phẩm hoặc lương thời gian. Căn cứ vào hình thức trả lương được áp dụng, số lao động mỗi loại sử dụng, các chi phí có liên quan để tính ra quĩ lương hàng năm cho mỗi loại lao động và cho tất cả lao động của dự án. Các chế độ về lương, phúc lợi, bảo hiểm xã hội... cần được tuân thủ chặt chẽ theo luật lao động và các văn bản hướng dẫn dưới luật của Nhà nước.

+ Về năng lượng. Có nhiều loại năng lượng có thể sử dụng cho dự án như điện năng, than, củi, xăng dầu, khí đốt... Khi xem xét về năng lượng, cần xem xét nhu cầu sử dụng, nguồn cung cấp, đặc tính, chất lượng, tính kinh tế khi sử dụng, vấn đề ô nhiễm môi trường... của mỗi loại sử dụng để dự tính chi phí.

Trong các nguồn năng lượng, điện năng là nguồn năng lượng chính mà hầu hết các dự án sử dụng. Cần nghiên cứu nguồn năng lượng này trên các khía cạnh như công suất thiết kế, nguồn cung cấp và chi phí. Căn cứ vào đặc tính kĩ thuật của máy móc thiết bị, tính ra tổng số công suất cần thiết về điện cho dự án. Đối với dự án tiêu thụ điện năng lớn cần hợp đồng với đơn vị cung cấp. Trường hợp cần thiết có thể dự tính phương án trang bị riêng các trạm phát điện.

Cần dự kiến đầy đủ các chi phí đầu tư và sử dụng năng lượng như: mua và lắp đặt trạm biến áp, đường dây, hệ thống điện, tính toán chính xác mức tiêu thụ năng lượng cho mỗi ngày sản xuất.

+ Về nước. Cần xem xét cả cấp nước và thoát nước cho sản xuất và cho sinh hoạt. Nghiên cứu nhu cầu sử dụng nước theo từng mục đích (làm nguyên liệu, làm mát, tẩy rửa, chạy lò hơi, sinh hoạt...), từ đó cân đối quy mô với nguồn cung cấp (của công ty kinh doanh nước sạch, nước sông, nước giếng khoan) và có biện pháp xử lý nước nguồn hợp lý tuỳ yêu cầu sử dụng.

Vấn đề nước thải công nghiệp. Cần phải lọc và xử lý sạch trước khi thải ra các công trình công cộng hay sông ngòi để tránh ô nhiễm môi trường.

Xác định các chi phí đầu tư xây dựng hệ thống cấp thoát nước và chi phí dùng nước thường xuyên.

Bốn là, lựa chọn địa điểm xây dựng dự án. Thực chất việc nghiên cứu, lựa chọn địa điểm xây dựng dự án là xem xét các khía cạnh về tự nhiên, kinh tế - xã hội của nơi xây dựng dự án để thấy rõ những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án. Trước hết, cần lựa chọn một khu vực tương đối rộng mà trong đó có thể có nhiều địa điểm khác nhau để xét chọn. Khi lựa chọn khu vực địa điểm, những vấn đề cần phân tích đánh giá bao gồm:

- Chủ trương, chính sách của Nhà nước về phân bổ các ngành, các cơ sở sản xuất. Các chính sách kinh tế - xã hội, đặc biệt là chính sách khuyến khích đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến sự hoạt động và hiệu quả sau này của dự án. Các chủ trương chính về phân bổ ngành, cơ sở sản xuất có ảnh hưởng đến sự ô nhiễm môi trường, sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng... Thông thường, đầu tư vào những vùng Nhà nước khuyến khích đầu tư sẽ được sự trợ giúp về vốn, kĩ thụât, tiêu thụ sản phẩm, thuế...

- ảnh hưởng của địa điểm đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của dự án. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng đối với việc lựa chọn địa điểm của hầu hết các dự án. Cách tiếp cận đơn giản nhất là tính toán chi phí thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu và chi phí tiêu thụ sản phẩm ở nhiều địa điểm khác nhau, được xác định qua khả năng cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm của dự án. Lựa chọn được địa điểm vừa gần nơi cung cấp nguyên

17

Page 18: Giao trinh tai tro du an

vật liệu vừa gần nơi tiêu thụ sản phẩm là điều tốt nhất. Trường hợp không thể được, cần căn cứ vào từng dự án cụ thể để lựa chọn cho phù hợp.

- Cơ sở hạ tầng của nơi xây dựng dự án. Trước hết, cần nghiên cứu xem mức độ thích hợp của cơ sở hạ tầng đến mức nào? Có cần phải đầu tư thêm không? Nếu đầu tư chi phí hết bao nhiêu? Tuỳ theo địa điểm cụ thể của từng dự án mà đi sâu nghiên cứu vấn đề giao thông có liên quan đến có liên quan đến tình hình cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể là cần xem xét từng loại giao thông đối với dự án.

Đối với giao thông đường biển, cần làm rõ các chi tiết về tiện nghi ở cảng, độ sâu, công suất bốc dỡ hàng, cỡ tàu sẽ sử dụng...

Đối với giao thông đường bộ, cần làm rõ độ rộng của đường và cầu, tình trạng chất lượng của đường và luật lệ, phí giao thông...

Đối với giao thông đường sắt, cần xem xét khả năng vận tải hàng hoá, các phương tiện bốc dỡ, chi phí vận tải từ ga chính đến nơi xây dựng dự án...

Đối với giao thông đường sông, cần xem xét về bề rộng, độ sâu của kênh rạch, sông ngòi, khả năng của xà lan, chi phí chuyên chở...

- Môi trường kinh tế - xã hội nơi xây dựng dự án. Nghiên cứu môi trường kinh tế - xã hội bao gồm nhiều vấn đề có liên quan đến hoạt động của dự án như tuyển chọn lao động, trình độ phát kinh tế - xã hội của địa phương, khả năng đảm bảo an ninh, quốc phòng...

Về lao động, mặc dù có thể sử dụng từ nơi khác đến nhưng sẽ làm tăng chi phí. Do đó, nên tuyển chọn lao động nói chung và lao động có chuyên môn hoặc đào tạo chuyên môn từ dân cư của địa phương là tốt nhất.

Về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thông thường, trình độ phát triển kinh tế xã - hội của địa phương càng cao sẽ càng thuận lợi cho sự hoạt động của dự án và ngược lại.

Về đảm bảo an ninh, quốc phòng. Xây dựng dự án ở những nơi có tình hình an ninh tốt, đảm bảo về quốc phòng cũng sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho dự án, đặc biệt là giai đoạn đi vào sản xuất - kinh doanh sau này.

Sau khi lựa chọn khu vực địa điểm, cần tiến hành nghiên cứu lựa chọn địa điểm cụ thể. Khi nghiên cứu địa điểm cụ thể cần làm rõ những nội dung chủ yếu sau đây:

+ Mô tả vị trí: toạ độ địa lý và ranh giới của địa điểm, khu vực hành chính và quan hệ của địa điểm với qui hoạch chung.

+ Diện tích mặt đất, mặt nước và giá trị quyền sử dụng mặt đất, mặt nước cho dự án.+ Hiện trạng mặt bằng và hệ thống kết cấu hạ tầng (đường xá, cầu cống, điện nước,

thông tin liên lạc...)+ Sơ đồ khu vực địa điểm và sơ đồ hiện trạng tổng mặt bằng.+ Chi phí đền bù giải phóng mặt bằng như các công trình xây dựng, cây cối, hoa màu...+ Chi phí san lấp mặt bằng.+ Những ảnh hưởng của dự án đối với các cơ sở kinh tế, văn hoá và dân cư cũng như

đối với tài nguyên trong khu vực.+ Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án tại địa điểm đó. Năm là, nghiên cứu về công nghệ và trang thiết bị. Điều quan trọng nhất của phân tích

về phương diện kỹ thuật công nghệ là vấn đề xem xét lựa chọn công nghệ và trang thiết bị. Để sản xuất một loại sản phẩm có nhiều công nghệ khác nhau. Sự khác nhau đó được

thể hiện chủ yếu ở qui trình sản xuất, mức độ hiện đại, công suất, giá cả. Công nghệ được lựa chọn phải mang tính hiện đại, kinh tế, đảm bảo vệ sinh môi

trường. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra khi nghiên cứu công nghệ của dự án là phải lựa chon được công nghệ thích hợp. Tính thích hợp được thể hiện trên những khia cạnh chủ yếu là đảm bảo công suất của dự án; đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của dự án; chi phí chuyển giao công nghệ và nhập thiết bị không quá cao; công nghệ càng hiện đại càng tốt nếu các yếu tố nói trên đạt như nhau.

Thông thường công nghệ và thiết bị có mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau. Lựa chọn thiết bị được tiến hành trên cơ sở công nghệ đã lựa chọn. Thiết bị là bộ phận chủ lực của tài sản cố

18

Page 19: Giao trinh tai tro du an

định, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, khi chọn thiết bị chú ý chọn của những hãng nổi tiếng để đảm chất lượng của thiết bị và giá cả để tránh lãng phí về năng lực sản xuất cần chú ý tính đồng bộ của thiết bị. Mặt khác, trong quá trình sử dụng, sự hao mòn giữa các bộ phận của thiết bị không đều nhau, nên cần chú ý đến phụ tùng sửa chữa, thay thế của các thiết bị được lựa chọn.

Một vấn đề quan trọng cần phân tích xem xét là chi phí. Chi phí thiết bị trong các dự án, nhất là các dự án công nghiệp thường rất lớn, vì vậy, khi lựa chọn cần đưa ra tối thiểu 2 phương án để lựa chọn. Việc lựa chọn căn cứ chủ yếu vào hiệu quả tài chính của từng phương án.

Sau khi tính toán, phân tích, so sánh các phương án công nghệ, thiết bị trong dự án cần nêu rõ các vấn đề sau đây:

+ Tên và các đặc điểm chủ yếu của công nghệ đã lựa chọn.+ Sơ đồ tiến trình công nghệ chủ yếu của dự án.+ Nguồn công nghệ và phương thức chuyển giao công nghệ.+ ảnh hưởng do công nghệ, thiết bị của dự án đến môi trường và các giải pháp xử lý.+ Lập danh mục trang thiết bị cần thiết cho dự án. Tóm lại, công nghệ và thiết bị được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện sản xuất ở

Việt Nam. Các điều kiện đó thông thường là điều kiện về khí hậu, thời tiết, trình độ người lao động...

Sáu là, nghiên cứu kĩ thuật xây dựng công trình của dự án. Công trình xây dựng của dự án bao gồm các hạng mục công trình nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động được thuận lợi và an toàn.

Để xác định các hạng mục công trình cần xây dựng, phải căn cứ vào yêu cầu về đặc tính kĩ thuật của máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, cơ sở hạ tầng, cách tổ chức điều hành, nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu và sản phẩm, số lao động sẽ sử dụng... Như vậy, thông thường các hạng mục công trình có thể bao gồm:

+ Các phân xưởng, văn phòng, kho bãi.+ Hệ thống cấp điện, cấp nước, chiếu sáng, cây xanh.+ Hệ thống giao thông nội bộ, xếp dỡ hàng hoá, bãi đỗ xe các loại.+ Nhà ăn, khu giải trí.+ Hệ thống thông tin liên lạc.+ Hệ thống xử lý chát thải, bảo vệ môi trường.+ Hệ thống phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ.+ Tường rào bảo vệ...Nhu cầu về công trình xây dựng cần xác định vừa đủ để dự án hoạt động bình thường,

đồng thời có thể mở rộng phát triển trong tương lai khi cần thiết. Đối với mỗi công trình, hạng mục công trình cần xem xét trên những khía cạnh như diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc, chi phí dự kiến... Việc xác định chi phí dự kiến có thể sử dụng chỉ tiêu đơn giá tổng hợp dựa trên thực tế các công trình tương tự trong thời gian xây dựng nhà xưởng của dự án, đồng thời phù hợp với định mức qui định hiện hành của Nhà nước trong từng thời kì.

Sau khi xem xét xác định các công trình và hạng mục công trình, cần đi sâu xem xét phần kĩ thuật và tổ chức xây dựng với những nội dung chủ yếu sau:

+ Xác định cấp hạng các công trình và hạng mục công trình.+ Lập hồ sơ bố trí mặt bằng tổng thể.+ Lên bản vẽ hình thức kiến trúc phối cảnh.+ Lựa chọn các giải pháp kết cấu, vật liệu.+ Lựa chọn các giải pháp về kĩ thuật thi công và thiết bị thi công.+ Lập biểu đồ tiến độ thi công.+ Lập bảng dự trù vật liệu, xe máy thi công.+ Các biện pháp an toàn trong thi công. Bảy là, nghiên cứu về lịch trình thực hiện dự án. Sau khi đã nghiên cứu dự án khả thi

trên mọi khía cạnh kĩ thuật, nghĩa là dự án có thể thực hiện được, cần phải ước tính thời gian

19

Page 20: Giao trinh tai tro du an

cần thiết để thực hiện các công việc đó. Nói khác đi là phải phải lập lịch trình thực hiện dự án.

Công trình đầu tư bao gồm nhiều hạng mục, quá trình thực hiện việc xây lắp đòi hỏi một trình tự nhất định, khoa học để đảm bảo đưa công trình vào vận hành khai thác đúng thời điểm dự kiến. Có nhiều công trình có thể tiến hành xây - lắp song song hoặc phải được hoàn tất trước khi công trình khác bắt đầu.

Mặt khác, đối với ngân hàng là cơ quan tài trợ vốn, lịch trình thực hiện liên quan chặt chẽ với tíên độ rút vốn vay của dự án, do đó ngân hàng cần nắm rõ lịch trình này để chủ động trong viêc tạo lập nguồn vốn cho vay nếu ký hợp đồng tín dụng với chủ đầu tư. Cụ thể, cần nghiên cứu và nêu rõ các vấn đề như thời gian hoàn thành từng hạng mục và cả công trình; những hạng mục nào phải hoàn thành trước, những hạng mục nào có thể hoàn thành sau, những công việc nào có thể tiến hành song song...

4. Nghiên cứu phương diện quản trị nhân lực dự ánNghiên cứu tổ chức quản trị dự án bao gồm nghiên cứu sơ đồ tổ chức bộ máy, phân rõ

chức năng nhiệm vụ của các bộ phận, các cấp lãnh đạo điều hành, thực hiện, bố trí lao động và đào tạo cán bộ công nhân.

Tổ chức quản trị dự án hình thành dần dần trong suốt quá trình hình thành dự án, từ khi bắt đầu nhận dạng dự án. Trong suốt quá trình soạn thảo, triển khai thực hiện dự án vẫn còn nhiều khả năng phải thay đổi tổ chức, nhân sự cho phù hợp với tình hình thực tế, nhất là đối với dự án có thời hạn đầu tư kéo dài.

Về tổ chức bộ máy. Tuỳ theo từng dự án cụ thể mà xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, đảm bảo tuân thủ những qui định của luật doanh nghiệp và luật công ty. Bất kỳ một bộ máy nào cũng cần đảm bảo nguyên tắc tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu quả; phân định rõ ràng nghĩa vụ và quyền lợi của từng bộ phận và từng người lao động ở mỗi vị trí. Các cấp quản trị bao gồm cấp lãnh đạo, cấp điều hành, cấp thừa hành. Mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng do luật pháp qui định.

Tổ chức bộ máy, tự nó chưa có sức mạnh. Sức mạnh của tổ chức bộ máy phụ thuộc rất lớn vào những con người cụ thể đảm trách các chức vụ trong bộ máy đó. Bố trí mô hình tổ chức bộ máy là cơ sở để xác định số lượng và chất lượng cán bộ, công nhân, từ đó tính toán tổng quĩ tiền lương.

Cần phân tích, xác định một cách cụ thể số lượng lao động cho dự án. Nhìn chung, nhu cầu về nhân lực cần được chia nhỏ theo ngành nghề và kỹ năng có tính đến nguồn cung cấp của thị trường. Triển vọng các lợi ích về mặt kinh tế và tài chính có đạt được hay không phụ thuộc khá lớn vào nguồn nhân lực và năng lực quản lý dự án. Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ thị trường lao động, gắn nhu cầu kỹ thuật và quản lý của dự án cho phù hợp với khả năng về nguồn nhân lực được cung cấp cho dự án. Nếu hai vấn đề này không hoà hợp được với nhau thì dự án không nên thực hiện.

Về chế độ đối với người lao động. Chế độ trả lương, mức bảo hiểm xã hội, chế độ nghỉ ngơi... của từng loại cán bộ nhân viên từ Tổng giám đốc đến công nhân cần tuân thủ những qui định chung của Nhà nước, đảm bảo khuyến khích người lao động phát huy tính sáng tạo của mình.

Phân tích đánh giá về quản trị nhân lực của dự án cần phải xem xét, dự kiến kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho người lao động làm việc trong dự án. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các dự án lớn có sử dụng kĩ thuật cao. Có thể xem xét vận dụng các hình thức đào tạo như tổ chức đi tham quan trong nước, nước ngoài; mở các lớp tập huấn; cử đi học theo các lớp chính qui, dài hạn, ngắn hạn. Đối với vấn đề sử dụng các chuyên gia, cần tuân thủ các nguyên tắc: chỉ sử dụng các chuyên gia nước ngoài ở những khâu công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam không đảm đương nổi.

5. Nghiên cứu phương diện tài chính dự ánĐầu tư là hoạt động sử dụng vốn nên quyết định đầu tư trước hết và thường là quyết

định tài chính. Trên thực tế hoạt động đầu tư, các quyết định như chọn địa điểm xây dựng, mua máy móc thiết bị, xây dựng công trình... luôn được cân nhắc, xem xét từ khía cạnh tài

20

Page 21: Giao trinh tai tro du an

chính. Nếu dự án có thể khả thi ở một số phương diện nhưng không khả thi ở phương diện tài chính sẽ không thể thực hiện trên thực tế. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc thẩm định, đánh giá về phương diện tài chính của dự án.

Mục đích chủ yếu của việc thẩm định, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư nhằm:- Kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu

quả các dự án đầu tư.- Kiểm tra tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án để đánh giá khả năng sinh

lời của vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn, độ rủi ro của dự án...Để đạt được mục tiêu trên, cần tiến hành thẩm định thông qua các nội dung chủ yếu

sau:5.1. Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn

Về tổng vốn đầu tư dự án. Đó là giới hạn chi phí tối đa mà chủ đầu tư có thể sử dụng để thực hiện đầu tư.

Tổng vốn đầu tư cho thấy một cách khái quát quy mô của dự án, thông thường bao gồm các bộ phận: vốn đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định; vốn đầu tư nhằm tạo ra tài sản lưu động và một bộ phận vốn đầu tư dùng để dự phòng.

Vốn đầu tư để hình thành tài sản cố định và tài sản lưu động là hai bộ phận hết sức cần thiết cho quá trình xây dựng và thực hiện dự án. Chúng ta cần đi sâu xem xét nội dung của hai bộ phận vốn này.

Về vốn đầu tư hình thành tài sản cố định. Muốn tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật (hình thành tài sản cố định) để sản xuất ra sản phẩm của dự án cần thực hiện các chi phí ban đầu và chi phí cơ bản. Chi phí ban đầu bao gồm các chi phí sau:

+ Chi phí thành lập và nghiên cứu dự án.+ Chi phí đào tạo, cố vấn.+ Chi phí công trình tạm thời.+ Chi phí thí nghiệm.+ Chi phí quản lý ban đầu (hội họp, thủ tục).+ Chi phí ban đầu khác.Chi phí cơ bản bao gồm những chi phí như sau:+ Chi phí thuê nhà, mặt đất, mặt nước, mặt biển.+ Chi phí chuẩn bị địa điểm.+ Chi phí xây dựng cơ bản.+ Chi phí máy móc thiết bị.+ Chi phí lắp đặt các thiết bị.+ Chi phí vận hành chạy thử.+ Chi phí cơ bản khác.Về vốn đầu tư hình thành tài sản lưu động. Để tạo ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu

cầu thị trường, ngoài chi phí tạo ra tài sản cố định, còn phải chi ra những khoản để mua sắm nguyên vật liệu, trả lương công nhân... nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh theo dự án diễn ra được đều đặn, liên tục. Nói khác đi là cần có vốn đầu tư để hình thành tài sản lưu động. Vốn đầu tư hình thành tài sản lưu động bao gồm vốn sản xuất, vốn lưu thông, vốn bằng tiền.

Về vốn sản xuất. Đây là vốn dùng trang trải cho các chi phí để dự trữ cho quá trình sản xuất. Những chi phí đó bao gồm:

+ Chi phí nguyên vật liệu.+ Chi phí nhiên liệu, điện, nước...+ Tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội,+ Chi phí phụ tùng thay thế+ Chi phí sản xuất khác. Về vốn lưu thông. Đây là vốn dùng trang trải cho các chi phí nằm trong quá trình lưu

thông tiêu thụ sản phẩm. Những chi phí này bao gồm:+ Thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho.

21

Page 22: Giao trinh tai tro du an

+ Hàng hoá bán chụi. + Chi phí lưu thông khác.Vốn bằng tiền. Đây là vốn dùng để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu phát sinh thường

xuyên khi dự án đi vào hoạt động. Đó có thể là một lượng tiền mặt tại quĩ hoặc được gửi tại Ngân hàng.

Do đầu tư thường gặp rủi ro và có thể phát sinh những chi phí không lường trước đựơc nên ngoài hai bộ phận vốn cố định và vốn lưu động còn có một bộ phận vốn dự phòng.

Khi xác định tổng vốn đầu tư cho một dự án phải đảm bảo sự chính xác. Cần tránh những khuynh hướng và lầm lẫn dễ mắc: tính cao để tranh thủ vốn, gây lãng phí vốn; tính thấp để tạo ra hiệu quả kinh tế giả tạo, gây thiếu vốn khi thực hiện. Ngoài ra, còn xem xét tỷ trọng vốn tự có trên tổng vốn đầu tư. Nếu tỷ trọng này tối thiểu là 50% dự án chấp nhận được.

Về nguồn vốn đầu tư. Vốn đầu tư của một dự án có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, cần xác định rõ từng nguồn vốn đựơc sử dụng cho dự án trên các mặt: lượng vốn, thời điểm tài trợ và chi phí sử dụng vốn.

Thực chất của việc xem xét nguồn vốn về mặt lượng là so sánh giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Nếu khả năng lớn hơn nhu cầu thì dự án chấp nhận được. Trường hợp ngược lại có thể xem xét giảm quy mô dự án trên cơ sở kỹ thuật để đảm bảo sự đồng bộ.

Thời điểm tài trợ của nguồn vốn cần được đảm bảo để việc thực hiện dự án diễn ra theo đúng kế hoạch đã định. Nếu nguồn cung ứng chậm có thể sẽ làm cho quá trình thực hiện đầu tư bị ngưng trệ. Ngược lại, sẽ gây ra lãng phí ứ đọng vốn. Cần xem xét các cam kết của những người tài trợ theo từng nguồn vốn.

Chi phí sử dụng vốn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Nếu chi phí sử dụng vốn quá cao dự án có thể bị lỗ. Trong trường hợp chi phí sử dụng vốn thấp việc huy động sẽ gặp khó khăn.

5.2. Nghiên cứu giá thành sản phẩm dự ánGiá thành sản phẩm là những chi phí cần thiết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây là

chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh tình hình sản xuất - kinh doanh của dự án và cũng là chỉ tiêu gốc để tính toán các chỉ tiêu khác. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần xác định chính xác giá thành sản phẩm dự án.

Cần lưu ý rằng, nếu giá thành sản phẩm của dự án không chính xác sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá hiệu qủa tài chính của dự án. Để giá thành sản phẩm của dự án được chính xác cần xem xét, kiểm tra tính hợp lý của các định mức như: mức tiêu hao nguyên vật liêụ, đơn giá tiền lương, mức khấu hao... Mặt khác, cần xem xét phương pháp tính giá thành có phù hợp với qui trình sản xuất sản phẩm hay không?

Sau khi kiểm tra việc tính toán giá thành sản phẩm dự án, sẽ sử dụng so sánh với giá thành sản phẩm tương tự, cùng loại của các cơ sở sản xuất trong và ngoài nước để đánh giá theo nguyên tắc chung là giá thành sản phẩm dự án cần thấp hơn hoặc có thể ngang với giá thành sản phẩm cùng loại.

5.3. Nghiên cứu doanh thu của dự ánTrong nghiên cứu phương diện tài chính của dự án, việc xem xét xác định doanh thu

của dự án là điều hết sức cần thiết. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để xác định kết quả tài chính (lãi - lỗ) của dự án.

Trước hết, cần xác định tất cả các nguồn doanh thu của dự án. Thông thường, các dự án có những nguồn doanh thu như sau:

+ Doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chính.+ Doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm phụ.+ Doanh thu từ việc thực hiện các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.+ Doanh thu từ bán phế liệu, thanh lý tài sản cố định.+ Doanh thu khác.Cơ sở chủ yếu để xác định doanh thu từ mỗi nguồn là số lượng sản phẩm, dịch vụ cung

cấp trên thị trường và giá bán sản phẩm, dịch vụ đó. Cần chú ý xác định giá bán sản phẩm

22

Page 23: Giao trinh tai tro du an

của dự án trong tương lai. Do vậy, cần tính đến hai khả năng có thể xảy ra là gia bán không thay đổi và giá bán có thay đổi khi thực hiện dự án.

5.4. Lập bảng cân đối tài chính theo thời gianTrên cơ sở nghiên cứu chi phí đầu tư và doanh thu dự án, cần lập bảng cân đối tài chính

theo thời gian làm cơ sở cho việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả dự án về mặt tài chính.5.5. Nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của dự án

Mục tiêu quan trọng nhất của nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án là đánh giá xem có nên đầu tư vào dự án đó không ? Nếu đầu tư thì lợi ích tài chính thu được là bao nhiêu ? Câu trả lời cho các vấn đề này là cần nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án. Như vậy, nghiên cứu xác định chính xác các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án là điều có ý nghĩa cực kì quan trọng.

Lợi ích về mặt tài chính của dự án được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó những chỉ tiêu chủ yếu bao gồm:

+ Thời gian hoàn vốn.+ Khả năng sinh lời.+ Suất thu hồi nội bộ.+ Điểm hoà vốn.+ Độ nhạy dự án.Nội dung, cách xác định, ý nghĩa, các chỉ tiêu trên được giới thiệu ở chương sau.

6. Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án Trong một nền kinh tế, khi một dự án đầu tư được đề xuất và thực hiện, bao giờ cũng

chịu sự tác động của nhiều yếu tố và động cơ khác nhau. Có những động cơ thuộc về tài chính nhằm mục đích cuối cùng là kiếm lời và có những đông cơ có tính chất khác hơn như ý muốn đống góp vào công cuộc phát triển kinh tế quốc gia...

Đối với chủ đầu tư (các doanh nghiệp), khả năng tạo ra lợi nhuận của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm là bỏ vốn để thực hiện đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi dự án có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế và dễ ràng được chấp thuận. Điều đó đặt ra vấn đề cần xem xét mặt kinh tế xã hội của dự án.

Quá trình nghiên cứu đánh giá lợi ích kinh tế - xã hội của một dự án là xem xét các lợi ích mà toàn thể nền kinh tế quốc dân và xã hội thu được so với các đóng góp mà xã hội đã bỏ ra khi dự án được thực hiện.

Lợi ích xã hội là sự đáp ứng của dự án đối với các mục tiêu quốc gia; những đáp ứng đó có thể đo lường qua các so sánh có tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, đáp ứng các chính sách, chủ trương của Nhà nước... hoặc đo lường bằng cách tính toán có tính định lượng về mức gia tăng sử dụng nhân lực, tài nguyên, tăng thu ngoại tệ, tăng thuế cho ngân sách...

Chi phí xã hội phải gánh chịu khi một dự án đựơc thực hiện là toàn bộ các tài nguyên xã hội phải dành cho dự án khi đựoc thực hiện thay vì sử dụng vào những công việc khác trong tương lai không xa; là hậu quả dự án có thể gây ra như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp...

Với sự phát triển của xã hội, nghiên cứu đánh giá dự án về mặt lợi ích kinh tế - xã hội ngày càng được coi trọng. Trong bất cứ dự án nào phần nghiên cứu kinh tế xã hội là không thể thiếu được.

Trước hết, cần xem xét sự khác nhau giữa lợi ích tài chính và lợi ích kinh tế - xã hội. Sự khác nhau này được thể hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau:

+ Về quan điểm: Xem xét lợi ích về mặt tài chính là đứng trên quan điểm của nhà đầu tư (tầm vi mô), còn xem xét lợi ích kinh tế - xã hội là đứng trên quan điểm của toàn xã hội (tầm vĩ mô); Mục tiêu chính của nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận, còn mục tiêu chính của xã hội là tối đa hoá phúc lợi xã hội.

+ Về tính toán: Nghiên cứu kinh tế xã hội của dự án đầu tư không thể tách rời nghiên cứu tài chính. Giữa chúng có mối liên hệ nhất định, vì các yếu tố đầu vào và đầu ra nói chung

23

Page 24: Giao trinh tai tro du an

giống nhau. Do đó, nghiên cứu tài chính phải tiến hành trước làm cơ sở cho nghiên cứu kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do có sự khác nhau về quan điểm, nên khi sử dụng các kết quả tài chính để tiến hành nghiên cứu kinh tế - xã hội cần có sự điều chỉnh nhất định như không đưa vào dòng tiền những giá trị chuyển dịch trong phạm vi nội bộ nền kinh tế; đánh giá và bổ xung vào dòng tiền các khoản ngoại ứng liên quan đến việc thực hiện dự án...

Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án đầu tư được thực hiện trên nền tảng nghiên cứu lợi ích tài chính, có trình tự thực hiện và phương pháp luận tương tự như nhau. Điểm khác biệt cơ bản là thành phần các chi phí và kết quả được mở rộng cho phạm vi toàn xã hội.

Đối với nước ta, nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của các dự án là điều con mới mẻ. Trong nhiều thập niên trước đây, với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khi xác định

hiệu quả kinh tế của một dự án đầu tư, kể cả các dự án đầu tư lớn cũng chưa từng được sử dụng.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển của xã hội và sự hội nhập quốc tế, yêu cầu nghiên cứu hiệu quả kinh tế - xã hội đã được đặt ra cho các dự án. Tuy nhiên, đây cũng là một công việc khó khăn phức tạp xuất phát từ những lý do chính như sau:

+ Việc nghiên cứu dựa trên nhiều thông tin có tính chất dự báo trong một tương lai có nhiều rủi ro không lường hết được.

+ Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn dự án không tuân theo một tiêu chuẩn mà theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau.

+ Việc nghiên cứu đòi hỏi những kiến thức cao về kinh tế và phương pháp phân tích hoàn toàn không đơn giản.

Những phân tích trên đây đã khẳng định tầm quan trọng và tính chất phức tạp của nghiên cứu kinh tế - xã hội. Chính sự phân tích đánh giá này giữ vài trò quyết định để các cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư, đảm bảo các dự án đầu tư phù hợp với mục tiêu sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt đựơc tăng trưởng tối đa. Các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... cũng coi lợi ích kinh tế xã hội là yếu tố quyết định cho việc họ tài trợ cho một dự án đầu tư.

Về nội dung, khi tiến hành phân tích đánh giá tác động xã hội của một dự án cần lập luận rõ ràng về việc dự án đó sẽ gây ảnh hưởng xã hội theo cách nào. Cụ thể hơn là phải làm rõ các câu hỏi:

- Dự án đó có thể giúp đạt được những mục tiêu nào của Chính phủ? - Ai là đối tượng hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người phải chịu chi phí của dự án? - Mức hưởng lợi cũng như chi phí của dự án phải trả là bao nhiêu?Những tác động nêu trên có thể lượng hoá được và không lượng hoá được. Nói khác đi,

những tác động đó có thể được xem xét mang tính định tính hoặc có thể đo lường bằng các tính toans định lượng. Nghiên cứu về lợi ích kinh tế - xã hội thường dựa vào các chỉ tiêu sau:

- Chỉ tiêu giá trị gia tăng. - Chỉ tiêu tạo công ăn việc làm. - Chỉ tiêu đóng góp cho Ngân sách. - Chỉ tiêu tiết kiệm, tăng thu ngoại tệ. Nội dung, cách tính toán và ý nghĩa các chỉ tiêu trên sẽ được trình bày trong chương

sau.IV. QUẢN LÝ DỰ ÁN

1. Mục đích quản lý dự ánTrong dự án đầu tư luôn chứa đựng một tập hợp các công việc cần tiến hành trong một

khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, dự án bao gồm một tập hợp các hoạt động có điểm khởi đầu và điểm kết thúc riêng.

Các hoạt động của dự án rất đa dạng và phong phú. Căn cứ vào phạm vi diễn ra các hoạt động có thể chia hoạt động của dự án thành 2 loại: hoạt động vận hành và hoạt động kinh doanh.

Hoạt động vận hành là hoạt động diễn ra thuộc phạm vi nội bộ tổ chức của dự án như

24

Page 25: Giao trinh tai tro du an

hoạt động điều hành sản xuất - kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế - kĩ thuật, phân phối thu nhập trong phạm vi nội bộ dự án...

Hoạt động kinh doanh bao gồm các hoạt động vượt ra ngoài phạm vi tổ chức dự án như hoạt động của dự án trên thị trường tài chính, thị trường tư liệu sản xuất, quan hệ của dự án đối với Nhà nước...

Mặt khác, các hoạt động của dự án cần được đảm bảo bằng các nguồn lực nhất định, tức là cần một lượng kinh phí nhất định để hướng tới những mục tiêu cụ thể đã đặt ra. Những hoạt động trong một dự án luôn có mối quan hệ và chi phối lẫn nhau theo những logic nhất định. Khi một công việc không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt, không đúng tiến độ và chất lượng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các công việc khác và toàn bộ công việc của dự án, điều này sẽ gây ảnh hưởng đến việc đạt được những mục tiêu đề ra của dự án.

Như vậy, dự án là một hệ thống. Quan niệm dự án như một hệ thống có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình quản lý dự án. Dự án không phải là một hệ thống kĩ thuật thông thường, nó là một hệ thống xã hội. Một hệ thống được đặc trưng bởi các hoạt động của con người. Hơn nữa, dự án là một hệ thống mở, có sự trao đổi, qua lại với môi trường.

Một hệ thống muốn tồn tại và phát triển cần phải phù hợp với môi trường, phải có một cơ cấu hợp lý với những chức năng nhất định, phải đảm bảo đủ đầu vào để có được đầu ra mong muốn, trên hết, phải có cơ chế điểu khiển thích hợp cho hệ thống. Điều đó đặt ra vấn đề là cần có sự phối hợp tốt giữa các công việc diễn ra trong dự án cũng như xem xét môi trường có tác động, ảnh hưởng đến dự án.

Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các đối tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Quản lý dự án có thể hiểu là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các công việc, các hoạt động của dự án trong suốt quá trình lập và thực hiện dự án.

Chủ thể quản lý dự án là tổng thể các cơ quan quản lý dự án với những cơ cấu tổ chức nhất định gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước, thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với mọi dự án và các cơ quan của chủ đầu tư, thực hiện quản lý vi mô đối với từng dự án.

Mục đích có tính chất bao trùm trong quản lý dự án là phải xác định được các công cụ và phương tiện để sử dụng tác động vào các hoạt động của dự án nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Cụ thể hơn, những mục đích cần đạt được khi thực hiện quản lý dự án bao gồm:

+ Đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các hoạt động của dự án.+ Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ phận của dự án.+ Giảm chi phí, tăng khả năng tạo doanh lợi cho dự án.+ Phát hiện và giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh, đảm bảo sự thành công của dự án.

2. Yêu cầu của quản lý dự ánQuản lý dự án là một đòi hỏi khách quan của các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ

quan của chủ đầu tư. Xuất phát từ tính hệ thống của dự án, khi thực hiện quản lý dự án yêu cầu đặt ra là cần phải xem xét đảm bảo về các phương diện thời gian, chi phí và kết quả cuối cùng.

Về phương diện thời gian. Cần xem xét dự án là một quá trình gồm 3 giai đoạn kế tiếp và chi phối lẫn nhau. Mỗi giai đoạn đều có những công việc, hoạt động cụ thể khác nhau và đều diễn ra trong một thời gian xác định. Sự chậm trễ không đảm bảo về mặt thời gian của công việc này sẽ có ảnh hưởng, kéo theo sự chậm trễ của công việc khác và cuối cùng sẽ có ảnh hưởng đến mục tiêu đề ra của dự án.

Chẳng hạn, trong giai đoạn 1, nếu các kết quả nghiên cứu các vấn đề về thị trường, tài chính, kinh tế - kĩ thuật... của dự án không đảm bảo về phương diện thời gian sẽ dẫn đến việc chậm trễ trong việc ra quyết định đầu tư và do đó việc triển khai thi công xây dựng công trình sẽ chậm lại và việc đưa công trình vào vận hành khai thác sẽ không đảm bảo đúng kế hoạch đã đề ra. Vì vậy, cần lập kế hoạch, tổ chức, điều hành và kiểm tra tiến độ thực hiện từng công việc đã ghi trong dự án, đảm bảo đúng thời gian đã đề ra.

Về phương diện chi phí. Các hoạt động của dự án luôn đòi hỏi một lượng chi phí nhất định. Nói khác đi là cần được đảm bảo bằng các nguồn lực. Các nguồn lực cần thiết cho một

25

Page 26: Giao trinh tai tro du an

dự án bao giờ cũng có giới hạn và ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của dự án. Đối với mỗi dự án, điều quan trọng không chỉ xác định lượng chi phí cần thiết cho mỗi

hoạt động mà còn cần xác định nguồn vốn để đáp ứng cho các chi phí đó. Cơ cấu nguồn vốn là một nhân tố phản ánh khả năng an toàn của dự án.

Phương diện chi phí của dự án cần được xem xét ở cả 3 giai đoạn của chu trình dự án. Giai đoạn 1 xác định số lượng và nguồn vốn cần thiết cho các giai đoạn sau. Chi phí cần thiết của giai đoạn 1 của dự án chiếm tỉ lệ thấp so với 2 giai đoạn sau nhưng tính chất hoạt động của giai đoạn này có tính chất quyết định, vì vậy, không nên quá hạn chế chi phí để ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động.

Chi phí của giai đoạn 2 chiếm tỉ trọng rất lớn và thường phát sinh nhiều lãng phí, do tính chất phức tạp của quá trình xây dựng và lắp đặt công trình, cần đặc biệt quan tâm, quản lý.

Chi phí của giai đoạn 3 là chi phí khai thác dự án (vốn lưu động), vì vậy, cần tính toán đảm bảo đủ vốn để dự án hoạt động đều đặn, liên tục đồng thời tránh ứ đọng, lãng phí vốn.

Về kết quả cuối cùng. Kết quả cuối cùng là mối quan tâm lớn nhất trong quản lý dự án. Bất kì một hoạt động yếu kém nào trong 3 giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Vì vậy, cần coi trọng chất lượng hoạt động của cả 3 giai đoạn.

Chất lượng hoạt động của giai đoạn 1 được thể hiện ở chất lượng của tập hồ sơ phản ánh kết quả nghiên cứu các vấn đề về thị trường, kinh tế - kĩ thuật, tài chính... có ảnh hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư.

Chất lượng của giai đoạn 2 được thể hiện chủ yếu ở chất lượng xây dựng và lắp đặt các hạng mục công trình nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm của dự án.

Chất lượng hoạt động của giai đoạn 3 được thể hiện chủ yếu ở kết quả khai thác dự án thông qua sản xuất - kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ của dự án.

3. Nội dung của quản lý dự ánTham gia quản lý dự án đầu tư có nhiều chủ thể khác nhau. Đó là các cơ quan chức

năng của Nhà nước và các cơ quan của chủ đầu tư. Mỗi chủ thể thực hiện quản lý dự án với những nội dung cụ thể khác nhau.

Các cơ quan chức năng của Nhà nước sẽ thực hiện quản lý vĩ mô đối với các dự án đầu tư. Quản lý vĩ mô bao gồm tổng thể các biện pháp tác động đến quá trình hình thành và hoạt động của các dự án nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động cuả dự án, hướng được dự án hoạt động theo khuôn khổ luật pháp và thực sự trở thành hạt nhân của sự phát triển và tăng trưởng trong nền kinh tế.

Hoạt động của dự án gồm hoạt động vận hành và hoạt động kinh doanh. Do đó, quản lý vĩ mô các dự án cũng được xem xét theo từng loại hoạt động này.

Đối với hoạt động vận hành. Trong qúa trình xây dựng và thực hiện dự án, chủ đầu tư thường nhận được sự hỗ trợ cuả Nhà nước về nhiều phương diện. Chẳng hạn, khi soạn thảo các dự án phải sử dụng rất nhiều loại thông tin do Nhà nước thu thập, công bố và qui định như tỉ giá, lãi suất, giá cả thị trường trong nước và trên thế giới, các kế hoạch định hướng, những qui định về kế toán, tiền lương, phân phối thu nhập... Đây cũng chính là những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động vận hành của dự án.

Thông qua các công cụ này, Nhà nước sẽ hướng các hoạt động của dự án phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội đồng thời mang lại hiệu quả tài chính cho chủ đầu tư.

Đối với hoạt động kinh doanh. Dự án không thể tồn tại nếu không có mối quan hệ với thị trường bên ngoài cả về đầu vào lẫn đầu ra. Đó là mối quan hệ với người cung cấp tư liệu sản xuất, lao động, vốn và người tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, trong suốt quá trình hoạt động, dự án luôn có mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước.

Quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh doanh của dự án được thể hiện, thông qua các chính sách của mình, Nhà nước tác động đến sự hoạt động của các doanh nghiệp cả trong quá trình cung cấp các yếu tố đầu vào lẫn tiêu thụ sản phẩm của dự án.

Thông qua hệ thống luật pháp và các chính sách như tài chính, tín dụng, lãi suất... để

26

Page 27: Giao trinh tai tro du an

khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư vào những lĩnh vực cụ thể nào đó. Chẳng hạn, đối với các sản phẩm không khuyến khích đầu tư sẽ qui định thuế cao, trợ giá cho các sản phẩm vật tư nông nghiệp để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.

Các cơ quan của chủ đầu tư thực hiện quản lý vi mô dự án. Chu trình dự án diễn ra qua 3 giai đoạn, do đó quản lý dự án cần phải gắn liền với các giai đoạn đó và phải thực hiện đối với tất cả các hoạt động diễn ra trong các giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn của dự án, tuy đối tượng cụ thể của quản lý khác nhau nhưng đều phải quan tâm đến các mặt chi phí, chất lượng, thời gian và kết quả cuối cùng.

Giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Đây là giai đoạn bao gồm công việc phức tạp, chứa đựng các nhân tố chiến lược, quyết định sự thành bại của các giai đoạn tiếp theo và toàn bộ dự án. Do đó, trọng tâm quản lý của giai đoạn này là chất lượng của các kết quả nghiên cứu về thị trường, kinh tế - kĩ thuật, tài chính...

Trong giai đoạn này, mặc dù chi phí chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng số vốn đầu tư nhưng cũng cần được quan quản lý, tránh lãng phí. Ngoài ra, vấn đề thời gian hoàn thành các hoạt động cũng phải quan tâm.

Giai đoạn thực hiện đầu tư. Đây là giai đoạn tạo nên cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự hoạt động của dự án sau này. Đại bộ phận số vốn đầu tư của dự án đựơc chi ra trong giai đoạn này. Số vốn này không sinh lời trong suốt thời gian thực hiện đầu tư.

Trong giai đoạn này, các công việc, các hoạt động cần được thực hiện theo một lịch trình chặt chẽ và tuân thủ những yêu cầu mà giai đoạn chuẩn bị đấu tư đã xem xét. Do đó, trọng tâm quản lý của giai đoạn này là phối hợp, điều chỉnh, tổ chức triển khai thực hiện các công việc, các hoạt động của dự án đã được kế hoạch hoá khi soạn thảo dự án như thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, đàm phán các hợp đồng mua sắm thiết bị, thi công xây lắp... Đồng thời, giám sát các hoạt động này về các mặt thời gian, chất lượng và chi phí.

Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Đây là giai đoạn đưa các công trình của dự án vào khai thác nhằm thu hồi đủ vốn đầu tư và có lãi theo đúng thời gian và số lượng đã dự kiến trước trong dự án.

Trong giai đoạn này, nội dung quản lý chủ yếu là tổ chức điều phối mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ của dự án, đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh diễn ra suôn sẻ, tránh lãng phí lao động, vật tư, tiền vốn và ứ đọng sản phẩm.

27

Page 28: Giao trinh tai tro du an

CHƯƠNG IIITHẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

I. TỔNG QUAN VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ1. Khái niệm thẩm định dự án

Dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm soạn thảo trong bước nghiên cứu khả thi. Mặc dù trong dự án đã đề cập đến tất cả các khía cạnh liên quan đến hoạt động đầu tư một cách khá đầy đủ và chi tiết nhưng dự án vẫn chưa thể đưa ra triển khai được vì đứng trên góc độ quản lý nhà nước về đầu tư và quy hoạch đầu tư cần có sự đánh giá một cách tổng thể, khách quan về tác động của dự án đó đối với quốc gia trên mọi phương diện. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư nhất thiết phải trải qua một quá trình thẩm định kỹ càng. Trên phương diện tài trợ vốn cho dự án, các Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính - tín dụng cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và tính an toàn của công cuộc đầu tư. Nhờ đó mà các tổ chức tài chính - tín dụng có được cơ sở vững chắc trong quá trình ra quyết định tài trợ vốn.

Thẩm định dự án đầu tư là việc tiến hành nghiên cứu phân tích một cách khách quan, khoa học và toàn diện tất cả các nội dung kinh tế - kỹ thuật của dự án, đặt trong mối tương quan với môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội để cho phép đầu tư và ( hoặc ) quyết định tài trợ vốn.

Hoạt động thẩm định dự án đầu tư được sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, tuỳ vào cơ quan tiến hành thẩm định và chủ thể tham gia thẩm định mà mục tiêu cũng như thời điểm thẩm định diễn ra khác nhau:

Đối với các dự án có quy mô lớn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Cơ quan chủ quản đầu tư ( Bộ quản lý ngành ) tham gia thẩm định từ giai đoạn chủ đầu tư nghiên cứu tiền khả thi để ra quyết định đầu tư và cho phép kêu gọi vốn đầu tư.

Đối với các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, tổ chức cho vay vốn thẩm định phương án tài chính và phương án trả nợ trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư.

Đối với các dự án thuộc cấp tỉnh quản lý, Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng Chính quyền địa phương thẩm định dự án khả thi để ra quyết định đầu tư.

Các Tổ chức tài chính - tín dụng thẩm định dự án khả thi để xem xét tính hiệu quả, tính khả thi, phương án trả nợ và quyết định tài trợ vốn đầu tư.

2. Mục đích của thẩm định dự án đầu tưMục đích của việc thẩm định Dự án đầu tư là nhằm giúp các chủ đầu tư và các Cơ quan

tham gia hoạt động đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất, quyết định đầu tư đúng hướng và đạt được lợi ích kinh tế xã hội mà họ mong muốn thông qua việc đầu tư dự án.

Đối với chủ đầu tư, việc thẩm định thực hiện độc lập với quá trình soạn thảo dự án sẽ cho phép chủ đầu tư nhìn nhận lại dự án của mình một cách khách quan hơn. Từ đó thấy được những thiếu sót trong quá trình soạn thảo để bổ sung kịp thời.

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng, mục đích thẩm định là nhằm đánh giá được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, của địa phương và của cả nước trên các mặt: mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. Đồng thời, thông qua thẩm định giúp xác định tính lợi hại và sự tác động của dự án khi đi vào hoạt động trên các khía cạnh như: ứng dụng công nghệ mới, trình độ sử dụng vốn, ô nhiễm môi trường cũng như các lợi ích kinh tế - xã hội khác mà dự án đem lại.

Đối với ngân hàng, công tác thẩm định dự án đầu tư nhằm các mục đích sau đây:Rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế khả năng trả nợ và những

rủi ro có thể xảy ra của dự án để quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vayThông qua những thông tin và kinh nghiệm đã đúc kết được trong quá trình thẩm định

nhiều dự án khác nhau, Ngân hàng Thương mại chủ động tham gia góp ý cho chủ đầu tư nhằm bổ sung, điều chỉnh những nội dung còn thiếu sót trong dự án, góp phần nâng cao tính

28

Page 29: Giao trinh tai tro du an

khả thi của dự án.Làm cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý. Đảm bảo

vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, vừa có khả năng thu hồi vốn đã cho vay đúng hạn.

3. Yêu cầu đối với cán bộ làm công tác thẩm định dự án đầu tưCũng như trong tất cả các công tác khác, nhân tố con người là hết sức quan trọng và có

tính quyết định tới kết quả công việc. Để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy của các kết luận thẩm định, người cán bộ làm công tác thẩm định dự án dù ở bất kỳ cơ quan nào hoặc cấp thẩm định nào đều phải trang bị cho mình những kiến thức tổng quát và chuyên sâu trên các phương diện như: kinh tế, kỹ thuật, luật pháp, quản lý cũng như những thông tin liên quan đến dự án cần thẩm định. Cụ thể, người cán bộ thẩm định cần đảm bảo được các yêu cầu sau đây :

- Nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, ngành, địa phương và các Quy chế quản lý kinh tế, tài chính; Quy chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước.

- Nắm chắc và thường xuyên bổ sung thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, của ngành, địa phương cũng như của các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Nghiên cứu và kiểm tra một cách khách quan, khoa học và toàn diện về nội dung dự án, tình hình đơn vị vay vốn, phối hợp với các cơ quan chuyên môn và chuyên gia để đưa ra các nhận xét, kết luận, kiến nghị chính xác.

- Có tinh thần trách nhiệm cao và trung thực trong công việc. Bởi vì nếu kết luận thiếu tính chính xác và không trung thực trong quá trình thẩm định dự án có thể gây ra những thiệt hại lâu dài không những cho chủ đầu tư mà còn ảnh hưởng tới địa phương, tới ngành và toàn bộ nền kinh tế.

4. Phương pháp tiến hành và công cụ trong thẩm định dự án đầu tưThẩm định dự án đầu tư là hoạt động mang tính khoa học và chính xác. Do đó, công tác

này đòi hỏi phải được tiến hành theo những phương pháp cụ thể. Phương pháp chung nhất thường được áp dụng là phương pháp phân tích và so sánh giữa các chỉ tiêu có trong dự án với các quy định về kinh tế, kỹ thuật do Nhà nước ban hành cũng như các thông tin và chỉ tiêu được lấy làm cơ sở mà người cán bộ thẩm định đã kiểm chứng là đảm bảo độ chính xác và độ tin cậy cao. Quá trình xem xét này lại được đặt trong tổng thể các mối quan hệ biện chứng giữa các chỉ tiêu được phân tích với nhau, giữa nội dung về thị trường với nội dung kỹ thuật, nội dung tài chính của dự ánv.v. .Việc phân tích và so sánh có thể tiến hành một cách trực tiếp hoặc thông qua việc tính toán lại các chỉ tiêu và các thông số kinh tế kỹ thuật đã được chủ đầu tư đề cập trong dự án.

Về trình tự, công tác thẩm định dự án thường được tiến hành theo phương thức thẩm định tổng quát trước, thẩm định chi tiết sau. Thẩm định tổng quát nhằm đánh giá, xem xét những định hướng lớn của dự án, mục tiêu, phương hướng kinh doanh trong tương lai. Xem xét mối tương quan giữa dự án với thị trường, với các doanh nghiệp và các ngành kinh tế khác để thấy được vị trí và vai trò của dự án trong tổng thể nền kinh tế. Thẩm định chi tiết nhằm tính toán lại, so sánh đối chiếu từng chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của dự án với các thông tin và tài liệu làm cơ sở từ đó tìm ra những sự khác biệt, những điểm thiếu sót của dự án nhằm mục tiêu bổ sung hoàn thiện hoặc đưa ra các kết luận cần thiết trong từng trường hợp cụ thể.

Để công tác thẩm dịnh dự án đầu tư tiến hành được thuận lợi, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng và chính xác, người cán bộ thẩm định cần được trang bị một số công cụ cần thiết như máy tính tài chính bỏ túi, máy vi tính và các phần mềm ứng dụng chuyên biệt v.v.. Hiện nay, trong thẩm định dự án, đặc biệt là thẩm định nội dung tài chính, các bảng tính như EXCEL, LOTUS và các phần mềm chuyên nghiệp như RIODS, Risk Master, mô phỏng Monte Carlo ... được sử dụng khá rộng rãi để tính toán và phân tích các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cũng như để phân tích rủi ro dự án.

5. Thu thập và xử lý thông tin trong thẩm định dự án đầu tư

29

Page 30: Giao trinh tai tro du an

Bản chất của thẩm định là quá trình phân tích, so sánh và đánh giá giữa các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong dự án với các thông tin, tài liệu, số liệu cơ sở mà người thẩm định đã thu thập được. Các thông tin này phải đảm bảo tính chính xác, chân thực, có độ tin cậy cao và phải có nguồn gốc cụ thể rõ ràng. Thông tin càng chính xác, cụ thể thì càng thuận lợi cho quá trình triển khai công việc và kết luận thẩm định càng đáng tin cậy. Như vậy có thể nói thông tin thẩm định giữ vai trò quyết định đến chất lượng thẩm định dự án.

Thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin thẩm định phục vụ cho công tác nghiệp vụ là việc làm thường xuyên và rất cần thiết đối với cán bộ thẩm định. Song song với việc thu thập thông tin, việc ghi chép, đúc rút kinh nghiệm từ những bài học được và chưa được qua các dự án đã thẩm định cũng hết sức cần thiết và hữu ích.

Dự án đầu tư là tài liệu đề cập đến rất nhiều nội dung khác nhau, do đó thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định cũng rất đa dạng và phong phú. Cán bộ thẩm định của Ngân hàng Thương mại có thể khai thác thông tin thẩm định từ các nguồn sau đây:

- Một là: Các thông tin thực tế từ dự án và doanh nghiệp xin vay vốn:Thông tin về doanh nghiệp: Quyết định thành lập doanh nghiệp, Giấy phép kinh doanh,

Quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng, Biên bản bầu Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính 3 đến 5 năm gần nhất, bảng tổng kết tài sản, báo cáo lỗ, lãi... Thông tin về doanh nghiệp từ CIC ( Trung tâm thông tin tín dụng thuộc NHNN Việt nam ) hoặc từ các bạn hàng của doanh nghiệp mà Ngân hàng thương mại có quan hệ.

Tài liệu đầy đủ về dự án: Luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt, Hồ sơ thế chấp của dự án, Hợp đồng nhập khẩu thiết bị; Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá, thiết bị; Các quyết định về cấp quyền sử dụng đất, thuê đất, giấy phép xây dựng.v..v.

Bên cạnh các tài liệu nói trên, trong quá trình thẩm định, cần tiến hành việc tham quan, khảo sát hiện trạng hoạt động của nhà máy hiện có ( nếu đầu tư mở rộng hoặc đổi mới dây chuyền công nghệ ) địa điểm để xây dựng lắp đặt nhà máy mới, di nghiên cứu các máy móc thiết bị mà dự án sẽ đầu tư.v.v.

- Hai là: Thông tin từ các văn bản pháp lý, các quy định, các tiêu chuẩn... do Nhà nước ban hành

Gồm các Văn bản pháp luật như Luật Đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, Luật Doanh nghiệp, Luật đất đai, các Luật thuế.v.v.

Các văn bản dưới luật như Quy chế quản lý đầu tư xây dựng, các quy định về quản lý kinh tế- tài chính do Nhà nước ban hành. Các định mức kinh tế kỹ thuật, quy hoạch xây dựng vùng và lãnh thổ..., văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể của các ngành. Các số liệu thống kê về tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu, tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ), giá trị sản lượng của từng ngành, tốc độ tăng trưởng của ngành của địa phương và nền kinh tế, số liệu thu nhập bình quân đầu người, chỉ số giá cả, lạm phát....

- Ba là: Thông tin từ các cơ quan nghiên cứu, các chuyên gia và phương tiện thông tin đại chúng.

Các số liệu thống kê và phân tích thị trường trong và ngoài nước từ các Trung tâm, các Viện nghiên cứu về thị trường trong và ngoài nước. Ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và rộng rãi với các chuyên gia về thị trường, về kỹ thuật , về phân tích kinh tế... Với các quan hệ này, Ngân hàng sẽ tham khảo được những ý kiến rất quý giá và hữu ích của các chuyên gia về từng lĩnh vực của dự án mà Ngân hàng đang quan tâm. Cơ chế chuyên gia cộng tác với Ngân hàng đã được các Ngân hàng thương mại ở các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng từ lâu và tỏ ra rất có hiệu quả trong công tác thẩm định dự án đặc biệt là đôí với những nội dung mà Ngân hàng không có điều kiện chuyên sâu như phân tích xu hướng thị trường, phân tích kỹ thuật.v.v.

Bên cạnh việc tham khảo ý kiến chuyên gia, những thông tin trên các sách báo quảng cáo và tạp chí chuyên ngành, tạp chí thương mại cũng rất đáng quan tâm thu thập , làm phong phú thêm cho hệ thống thông tin thẩm định.

- Bốn là: Thông tin tổng hợp qua mạng INTERNET.Hiện nay những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ tin học đã cho phép các cán bộ thẩm

30

Page 31: Giao trinh tai tro du an

định có được những công cụ mạnh trong công tác của mình. Với sự ra đời và quy mô hoạt động ngày càng mở rộng của mạng INTERNET, hầu hết các doanh nghiệp từ nhỏ tới lớn của các nước trên thế giới đều thiết lập các Web Site của doanh nghiệp mình trên INTERNET nhằm mục đích giới thiệu về doanh nghiệp, quảng cáo sản phẩm và tổ chức hoạt động thương mại điện tử... Chính điều này cho phép cán bộ thẩm định rất thuận lợi trong việc tham khảo các thông tin cập nhật phục vụ cho công tác của mình. Các thông tin này rất đa dạng và phong phú, từ các thông tin chuyên sâu kỹ thuật đến các thông tin về thị trường, về tài chính, về giá cả sản phẩm v.v. Tuy nhiên để sử dụng tốt công cụ này, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ nhất định về tin học và ngoại ngữ mới có thể ứng dụng có hiệu quả được.

Sau khi thu thập đầy đủ những thông tin để thẩm định một dự án cụ thể, cần có sự phân loại và sắp xếp và lưu trữ các thông tin đó theo những chủ đề nhất định nhằm tạo thuận lợi cho việc khai thác sử dụng khi cần thiết. Đối với những thông tin cần phải qua khâu xử lý mới sử dụng được ( như các số liệu thống kê về thị trường, biến động về sức mua, giá cả, thông tin dự báo v.v. ) cần xử lý ngay để kịp tiến độ đưa vào thẩm định dự án.II. NỘI DUNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư và mục tiêu của dự ánMỗi một dự án, đánh giá được sự cần thiết phải đầu tư và những mục tiêu mà dự án cần

đạt được là mối quan tâm hàng đầu của người thẩm định. Cụ thể, người thẩm định cần phải nắm bắt được những nội dung chủ yếu sau đây:

Mục tiêu của dự án có phù hợp và đáp ứng mục tiêu của ngành, của địa phương và của cả nước không (Mục tiêu này có thể căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước hoặc của địa phương trong từng thời kỳ).

Đánh giá về sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp trước những đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng của thị truờng? Dự án nếu được thực hiện sẽ mang lại lợi ích cho chủ đầu tư, cho nền kinh tế - xã hội như thế nào?

Đánh giá quan hệ cung cầu của sản phẩm hiện tại và dự đoán trong tương lai, từ đó xác định được khả năng tham gia thị trường cũng như tiềm năng phát triển củ của dự án .

Nếu là đầu tư để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp hiện có thì đánh giá về trình độ sản xuất, chất lượng quy cách, giá cả sản phẩm trước và sau khi đầu tư. Phân tích năng lực máy móc, thiết bị, quy mô sản xuất hiện có so với nhu cầu thị trường hiện tại, từ đó nêu bật lên sự cần thiết phải đầu tư để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.

Nếu dự án được thực hiện thì sẽ đem lại những lợi ích cụ thể gì cho địa phương, cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân.

Nhìn một cách tổng thể, các dự án có rất nhiều mục tiêu khác nhau cần phải đạt được. Tuy nhiên, đối với một dự án sản xuất kinh doanh thì mục tiêu quan trọng nhất là tối đa hoá lợi nhuận từ đồng vốn đầu tư. Bên cạnh đó, dự án còn có thể giải quyết nhiều mục tiêu khác như tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị phần, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm thay thế nhập khẩu, xuất khẩu tăng thu ngoại tệ hoặc đem lại những lợi ích kinh tế xã hội khác...

2. Thẩm định phương diện thị trường của dự ánNghiên cứu thị trường trong dự án đầu tư xuất phát từ việc nắm bắt các thông tin về

nhu cầu của giới tiêu thụ để quyết định sản xuất mặt hàng gì, quy cách phẩm chất thế nào, khối lượng là bao nhiêu, lựa chọn phương thức bán, phương thức tiếp cận thị trường như thế nào để tạo chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trường hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất lớn, khả năng tiêu thụ sản phẩm , khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường quyết định trực tiếp đến sự thành bại của dự án. Do đó, việc chủ đầu tư nghiên cứu kỹ về nội dung thị trường và NHTM thẩm định lại những luận cứ của chủ đầu tư đã đưa ra là hết sức cần thiết để có thể khẳng định tính vững chắc về mặt thị trường của dự án.

Mục đích của việc thẩm định thị trường là xác định và đánh giá xem Dự án đầu tư sẽ khai thác sản phẩm nào là có triển vọng nhất, khu vực nào sẽ tiêu thụ các sản phẩm đó. Trên

31

Page 32: Giao trinh tai tro du an

cơ sở những nghiên cứu về thị trường như quy mô tiêu thụ hiện tại, tình hình cạnh tranh... Cán bộ thẩm định sẽ khẳng định được về khả năng tiêu thụ của sản phẩm đồng thời đánh giá được tính đúng đắn về chiến lược về sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối sản phẩm và chiến lược khuyến thị của dự án.

Nội dung thẩm định thị trường bao gồm các vấn đề như sau:2.1. Thẩm định về lựa chọn sản phẩm và dịch vụ cho dự án

Xuất phát từ đòi hỏi của thị trường, căn cứ vào năng lực sở trường và thế mạnh của nhà đầu tư người ta sẽ lựa chọn sản phẩm và dịch vụ mà dự án sẽ cung cấp sau này. Cần phải xem xét một cách cụ thể những sản phẩm của dự án là sản phẩm gì: tên sản phẩm, quy cách, hình thức, sản phẩm dự kiến sẽ đạt tiêu chuẩn gì...? Quá trình thẩm định cần phải khẳng định được rằng những sản phẩm và dịch vụ này phải đang có nhu cầu lớn trên thị trường, mức độ sản xuất và cung ứng hiện tại chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Nếu chọn được những sản phẩm và dịch vụ có khả năng tồn tại và triển vọng lâu dài thì càng tốt ( nhất là những mặt hàng thiết yếu ).

2.2. Xác định khu vực thị trường và thị hiếu của khách hàngNgười thẩm định cần xác định rõ thị trường của dự án là thị trường trong nước, nước

ngoài hay cả hai thị trường đó. Trên cơ sở định hướng thị trường cần tiếp tục nghiên cứu phân tích đến tình hình dân số, tốc độ tăng dân số, khả năng thu nhập và thị hiếu, tập quán tiêu dùng của người dân từng khu vực... Từ đó hình thành nên định hướng sản xuất sản phẩm cũng như cách thức phân phối bán hàng đến từng khu vực để đạt hiệu quả cao nhất.

2.3. Phân tích tình hình cạnh tranh sản phẩm trong tương lai trên thị trường và chỉ ra những lợi thế cạnh tranh của dự án

Trong nền kinh tế thị trường, khả năng độc quyền sản xuất và phân phối một mặt hàng nào đó là rất hiếm có. Thường có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một số sản phẩm tương tự như nhau. Ngoài ra, xu hướng tự do hoá thương mại trên thế giới phát triển một cách nhanh chóng dẫn đến khả năng hàng hoá của các nước khác nhau có cơ hội thâm nhập vào thị trường Việt nam ngày càng nhiều. Điều này tạo nên một sức cạnh tranh gay gắt trên thị trường nước ta hiện nay và trong những năm sắp tới.

Xuất phát từ thực tiễn trên, trong công tác thẩm định dự án đầu tư cán bộ thẩm định cần tập trung phân tích một số điểm sau đây:

Xác định rõ ràng mức độ cạnh tranh trên thị trường về loại sản phẩm định sản xuất. Đã có những sản phẩm của các doanh nghiệp nào đang được tiêu thụ trên thị trường, chất lượng, giá cả của các sản phẩm đó ra sao ... Các doanh nghiệp đó hiện đang áp dụng phương thức cạnh tranh chủ yếu nào? Cạnh tranh qua giá bán hay qua chất lượng sản phẩm, qua phương thức phân phối, qua chế độ hậu mại...

Dự án phải chỉ ra được những thế mạnh cạnh tranh của mình trong tương lai so với những doanh nghiệp khác đang hoạt động. Ví dụ: Về chất lượng sản phẩm, độ bền sử dụng, sự phong phú và đa dạng về kiểu dáng hay tên tuổi và uy tín của hãng.

2.4. Những điểm cần chú ý đối với các sản phẩm dự kiến xuất khẩuTình hình và triển vọng trong quan hệ kinh tế và chính trị giữa Việt nam và những nước

dự kiến sẽ nhập khẩu sản phẩm của dự án.Những quy định và mức độ khắt khe của thị trường nhập khẩu về tiêu chuẩn chất

lượng, về bao bì, về vệ sinh thực phẩm...Nghiên cứu chính sách thuế nhập khẩu và các quy định của nước sở tại về mặt hàng

nhập khẩu.Mức độ gay gắt về cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, yếu tố nào được các nhà sản

xuất khác sử dụng trong cạnh tranh trên thị trường đó: giá cả, chất lượng hàng hoá, phương thức phân phối, phương thức thanh toán hay sức mạnh quảng cáo?

Tên cơ sở các thông tin thu thập được, đối với Ngân hàng, khi thẩm định phương diện thị trường phải tập trung phân tích:

Khả năng tiêu thụ sản phẩm, xem xét tính chính xác, trung thực của các số liệu thông tin dựa vào luận chứng kinh tế kỹ thuật trên các mặt giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã hàng hoá, thị hiếu người tiêu dùng, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài.

32

Page 33: Giao trinh tai tro du an

Tình hình tiêu thụ sản phẩm cùng loại trong thời gian qua. Kinh nghiệm của đơn vị trong quan hệ thị trường về sản phẩm, khả năng nắm bắt các thông tin về thị trường quản lý xuất nhập khẩu của các nước có quan hệ.

Các hợp đồng tiêu thụ hoặc bao tiêu sản phẩm về số lượng, chủng loại, giá cả, thời gian và phương thức thanh toán.

Các văn bản giao dịch về sản phẩm như đơn đặt hàng, hiệp định đã ký, các biên bản đàm phán.

Chú ý tính hợp lý, hợp pháp và mức độ tin cậy của các văn bản nói trên, tránh những trường hợp giả mạo, rủi ro có thể xảy ra. Về phương thức tiêu thụ hàng hoá cần tính toán để không nên chỉ bán hàng cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần chiếm lĩnh nhiều thị trường, tạo lập nhiều đầu mối tiêu thụ để chủ động bán được nhiều hàng hoá, tránh ép giá và ứ đọng hàng.

Nếu các kết quả phân tích trên cho thấy nhu cầu của thị trường chỉ mang tính nhất thời hay đang dần dần bị thu hẹp lại thì cần phải hết sức thận trọng khi bỏ vốn đầu tư cho dự án.

3. Nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuậtĐảm bảo kỹ thuật cho một dự án là một nội dung quan trọng, quá trình nghiên cứu

trong điều kiện nhất định về vốn, về thị trường, về điều kiện xã hội cho phép lựa chọn công nghệ và trang thiết bị, nguyên liệu phù hợp, lựa chọn địa điểm xây dựng của dự án tối ưu ,chẳng những thoả mãn các yêu cầu kinh tế kỹ thuật dự án đề ra mà còn tránh gây ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm. Cho nên nghiên cứu kỹ thuật của dự án thực sự góp phần rất quan trọng vào việc đảm bảo tính khả thi của dự án.

Khi nghiên cứu và thẩm định phương diện kỹ thuật phải xem xét phân tích trên các mặt chính sau:

3.1. Lựa chọn điểm xây dựngĐây là một khâu quan trọng ban đầu và cũng rất khó khăn. Để đảm bảo sự hoạt động

của công trình về sau thì việc lựa chọn địa điểm xây dựng phải đảm bảo được các yêu cầu sau:

Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính.Giao thông thuận tiện chi phí vận chuyển, bốc dỡ hợp lý.Thuận tiện đi lại cho cán bộ công nhân viên nhà máy.Tận dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có: đường sá, bến cảng, điện, nước...để tiết kiệm chi

phí đầu tư.Mặt bằng phải phù hợp với quy mô hiện tại và dự phòng khả năng dự án phát triển mở

rộng trong tương lai. Đảm bảo yêu cầu vệ sinh công nghiệp, xử lý ô nhiễm môi trường, phòng cháy, chữa cháy, ...

Địa điểm xây dựng phải tuân thủ các văn bản quy định của Nhà nước về quy hoạch đất đai, kiến trúc xây dựng (có giấy phép của cấp có thẩm quyền). Cần tính toán đầy đủ chi phí đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, san lấp tạo nền móng cho công trình có thể đi vào xây dựng.

Thông thường một dự án có thể dự kiến nhiều địa điểm xây dựng công trình khác nhau. Mỗi địa điểm có những thuận lợi và khó khăn riêng. Cần tập trung phân tích những thuận lợi và khó khăn theo các tiêu chuẩn đã nêu trên, từ đó lựa chọn được phương án tối ưu.

Phân tích về quy mô công suất của dự án 3.2. Quy mô công suất của dự ánchủ yếu căn cứ vào các yếu tố sau đây:Mức độ yêu cầu của thị trường hiện tại và tương lai đối với các loại sản phẩm của dự

án.Khả năng chiếm lĩnh thị trường của dự án.Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của sản xuất, nhất là các loại nguyên vật liệu

phải nhập khẩu.Khả năng mua được các thiết bị công nghệ có công suất phù hợpKhả năng đáp ứng về vốn đầu tư và năng lực quản lý của doanh nghiệp?

33

Page 34: Giao trinh tai tro du an

- Công nghệ và trang thiết bị:Công nghệ là hoạt động nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề kỹ thuật cụ thể.Theo ESCAP, công nghệ bao gồm 4 phần:Phần kỹ thuật ( Technoware ).Phần thông tin ( Infoware ).Phần con người ( Humanware ).Phần tổ chức ( Orgaware ).Công nghệ và thiết bị của dự án là nhân tố quyết định chủ yếu đến chất lượng sản

phẩm. Do đó trong thẩm định dự án đầu tư, đây là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, đối với cán bộ thẩm định của NHTM, quá trình phân tích về công nghệ và thiết bị thường gặp những khó khăn nhất định chủ yếu là do không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật và thiếu các thông tin cần thiết về công nghệ - kỹ thuật. Để khắc phục tình trạng này, có thể áp dụng cơ chế thuê chuyên gia trong thẩm định nội dung kỹ thuật và tiến hành thu thập các thông tin về công nghệ - kỹ thuật thông qua mạng INTERNET.

Tối thiểu, cán bộ thẩm định cũng cần phân tích đánh giá được một số vấn đề như sau:Chủ đầu tư đã đưa ra mấy phương án lựa chọn công nghệ thiết bị ? Ưu nhược điểm của

từng phương án.Lý do lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại? Công nghệ và thiết bị đó là của hãng nào,

nước nào? Công nghệ và thiết bị đó có đảm bảo được tính tiên tiến không? Có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường đòi hỏi không? Nếu là thiết bị cũ thì có đảm bảo các tiêu chuẩn mà Nhà nước đã quy định với các loại công nghệ và thiết bị đã qua sử dụng không?

Thẩm định số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô của dự án.

Đối với thiết bị nhập ngoại cần qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế hoặc chọn thầu nhằm bảo đảm chất lượng và giá cả. Kiểm tra các hợp đồng cung ứng, các bản chào hàng, xem xét phương thức thanh toán ... tránh các sơ hở gây thiệt hại cho chủ đầu tư và Ngân hàng tài trợ vốn.

3.4. Cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào khác Kiểm tra việc tính toán tổng nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu chủ yếu, năng

lượng, điện, nước ... trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật, so sánh với mức tiêu hao thực tế của các doanh nghiệp khác đang hoạt động.

Đối với nguyên liệu mang tính thời vụ cần tính toán một mức dự trữ hợp lý để đảm bảo cung cấp thường xuyên, tránh hiện tượng phải tạm ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.

Đối với nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu khan hiếm cần xem xét khả năng cung ứng thực tế ngoài nước thông qua các hợp đồng hoặc các văn bản cam kết của doanh nghiệp với các nhà cung cấp về số lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, điều kiện giao hàng, thanh toán. Cần tìm nhiều nguồn nguyên vật liệu, không nên lệ thuộc vào một nhà cung cấp để tránh hiện tượng ép giá.

Đối với các dự án khai thác tài nguyên khoáng sản phải kiểm tra tính đúng đắn của các tài liệu điều tra, thăm dò khảo sát, đánh giá phân tích về trữ lượng, hàm lượng chất lượng tài nguyên, giấy phép khai thác khoáng sản của cấp có thẩm quyền để đảm bảo dự án hoạt động được lâu dài.

3.5. Kiểm tra quy mô, giải pháp xây dựng công trìnhNhững vấn đề cần quan tâm phân tích trong thẩm định nội dung này là:Việc bố trí nhà xưởng có phù hợp với công nghệ và thiết bị được lựa chọn hay không,

có đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra thuận lợi hay không?Xem xét các hạng mục kiến trúc hiện có để có thể tận dụng vào công trình mới. Khi xây

dựng các hạng mục mới cần đảm bảo thực sự cần thiết, phù hợp với quy mô, công suất dự án đồng thời tiết kiệm vốn đầu tư.

Trên cơ sở yêu cầu kỹ thuật khối lượng công tác cần phải thực hiện và các định mức, cán bộ thẩm định kiểm tra lại các tính toán nhu cầu vốn cho từng hạng mục và cả công trình.

3.6. Kiểm tra tính hợp lý về kế hoạch tiến độ thực hiện án

34

Page 35: Giao trinh tai tro du an

Đây là yếu tố quan trọng liên quan đến kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch sản xuất và kế hoạch giải ngân, thu nợ của Ngân hàng.

Xác định thứ tự ưu tiên tập trung vốn đầu tư hoàn thành dứt điểm từng phần để đưa vào sử dụng; trước hết là để các hạng mục công trình sản xuất, tiếp đến các hạng mục phụ trợ, cuối cùng đến các hạng mục phi sản xuất.

Tính toán để hoàn thành các hạng mục cần thiết có thể đưa dự án vào hoạt động từng bộ phận, cố gắng đảm bảo thi công xong đến đâu đưa vào sản xuất đến đó.

Tránh hiện tượng thi công dàn đều không hiệu quả, thậm chí có khả năng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu dẫn tới dỡ dang tất cả.

4. Nghiên cứu và thẩm định phương diện tổ chức quản trị nhân sựCon người và bộ máy tổ chức hoạt động của nó là những yếu tố quan trọng quyết định

sự thành công của kinh doanh. Bởi vậy, tính khả thi của một dự án phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức điều hành, vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ tác nghiệp giữa các bộ phận chức năng. Ngoài ra còn phụ thuộc vào số lượng, chất lượng và cơ cấu nhân sự xác định cho dự án.

Từ những nguyên nhân trên, bất cứ một luận chứng kinh tế kỹ thuật nào cũng phải được nghiên cứu nghiêm túc nội dung tổ chức quản trị và nhân sự bao gồm:

4.1. Hình thức kinh doanhLà doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các đoàn thể, doanh nghiệp tư nhân công

ty trách nhiệm hữu hạn, ... Các văn bản pháp lý chi phối loại hình kinh doanh.4.2. Cơ chế điều hành

Dự án có một hay nhiều đơn vị tham gia xây dựng điều hành, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự phối hợp các bên. Thành phần Hội đồng quản trị, quyền hạn, trách nhiệm.

4.3. Nhân sựTrên cơ sở mô hình tổ chức được lựa chọn xuất phát từ nhu cầu sản xuất kinh doanh và

nhu cầu vận hành của dự án, chủ đầu tư cần thuyết minh các giải pháp bố trí nhân sự cho dự án:

Dự trù cơ cấu ngành nghề và năng lực người lao động (như các kỹ sư, các cán bộ điều hành, các công nhân lành nghề, công nhân phổ thông, ...) Mỗi loại bao nhiêu người, số người này được bố trí cụ thể vào các bộ phận như thế nào?

Trên cơ sở lao động đã được phân loại, phải dự kiến được mức lương cơ bản theo từng chức danh, bậc thợ cụ thể. Từ đó xác định được tổng quỹ lương của doanh nghiệp.

Xác định sự cần thiết phải đào tạo các cán bộ quản lý, các kỹ thuật viên, công nhân sản xuất, ... cho dự án. Xem xét kế hoạch đào tạo một các cụ thể: Cần đào tạo bao nhiêu người, đào tạo ở đâu ? Thời gian và kinh phí là bao nhiêu ?

Xác định sự cần thiết phải thuê chuyên gia cho dự án. Cụ thể là phải thuê chuyên gia cho những vị trí công tác nào, số chuyên gia cần thuê, thời gian và chi phí là bao nhiêu?

Khi thẩm định về quản trị và nhân sự của dự án, cần xem xét khả năng chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban giám đốc, và các thành viên quan trọng khác ... Đó chính là những điều kiện quan trọng góp phần đảm bảo thành công của dự án.

5. Nghiên cứu và thẩm định phương diện tài chínhTài chính là nội dung quan trọng của dự án vì xét cho cùng, nó thể hiện được hiệu quả

của việc đầu tư dự án thông qua các chỉ tiêu tài chính. Do đó, nội dung tài chính của dự án được chủ đầu tư và NHTM tài trợ vốn đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên vấn đề tài chính của dự án phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà trước hết là yếu tố thị trường, các gải pháp công nghệ- kỹ thuật và quản trị quá trình thực hiện dự án. Như vậy, thẩm định tốt nội dung thị trường và kỹ thuật của dự án là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho thẩm định tài chính được tiến hành thuận lợi.

Nghiên cứu và thẩm định phương diện tài chính cần đi sâu vào các nội dung sau đây:5.1. Xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án

Tổng mức vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng ( kể cả vốn sản xuất ban đầu ) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án được xác định trong quyếtđịnh đầu tư.

35

Page 36: Giao trinh tai tro du an

Tổng mức vốn đầu tư được xác định dựa trên cơ sở năng lực sản xuất theo thiết kế, khối lượng các công tác chủ yếu và sản xuất đầu tư, giá chuẩn hay đơn giá tổng hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tính khả thi của dự án vì nếu vốn đầu tư dự trù quá thấp thì dự án có thể bị đổ vỡ vì công trình không đưa vào thực hiện được, ngược lại tính toán quá cao tiền vay nợ nhiều, giảm khả năng sinh lời của dự án.

Hiện nay, tổng mức vốn đầu tư cho một dự án được chia 3 thành phần là vốn cố định, vốn lưu động ban đầu cho dự án và vốn đầu tư dự phòng.

a. Tính toán về vốn cố định:Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố định

từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc xây dựng dự án vào sử dụng, cụ thể:

Chi phí chuẩn bị: Những chi phí dùng để soạn thảo nghiên cứu lập hồ sơ dự án đầu tư, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước. Đối với loại chi phí này cần phải có sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền và phải lập bằng văn bản cụ thể. Các chi phí này phải phù hợp với quy định của Bộ tài chính về tiền thu mặt đất, mặt nước để có được khoản chi hợp lý.

Giá trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án.Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo mà xưởng cũng như các kết cấu hạ tầngChi phí mua máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất, phương tiện vận tải.Chi phí chuyển giao công nghệ (trong trường hợp trả gọn một lần).Chi phí đào tạo cán bộ.Các chi phí khác.b. Tính toán vốn lưu động:Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản lưu

động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu động ban đầu (cho chu kỳ sản xuất đầu tiên của doanh nghiệp) mới được quyền tính vào vốn đầu tư gồm:

Vốn sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, phù tùng, bao bì, tiền lương, ...Vốn lưu thông: sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu,

vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị, ...c- Dự phòng vốn đầu tư:Trong nền kinh tế thị trường, nhân tố giá cả nguyên vật liệu xây dựng, giá thuê nhân

công , máy thi cộng thường xuyên có sự biến động. Bên cạnh đó, trong quá trình thi công công trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thường... Chính vì vậy, cần phải dự trù một khoản dự phòng vốn đầu tư để sẵn sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy ra. Khoản dự phòng này thường được tính theo một tỷ lệ phần trăm trên tổng vốn cố định và vốn lưu động, ptrong phần lớn trường hợp được quy định khoảng 5 -10 % trên tổng hai thành phần vốn trên.

Khi thẩm định về tổng vốn đầu tư cho dự án, Ngân hàng cần xem xét:Đối với vốn xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây

dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý:Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp.Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.Kiểm tra sự đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng trong dự án.Đối với vốn thiết bị:Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công trình sản xuất công nghiệp.

Thông thường phải chiếm tới 60 - 70% tổng mức vốn đầu tư. Vì vậy khi kiểm tra cần chú ý;Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu kỹ thuật

đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ thuật.Kiểm tra lại giá mua, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản. Tuỳ theo từng loại thiết bị

mà giá mua có thể sử dụng là giá thị trường ha giá do nhà nước quy định.Đối với các thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ sản xuất thì chi phí thiết bị còn

36

Page 37: Giao trinh tai tro du an

bao gồm chi phí chuyển giao công nghệ, chi phí mua bí quyết kỹ thuật, chi phí cho chuyên gia lắp đặt và điều chỉnh.

Vốn thiết bị là yếu tố, là cơ sở cho việc tính khấu hao thiết bị sau này nên khi tính toán cần phải đảm bảo tính chính xác.

Ngoài ra trong việc thẩm định, Ngân hàng cần phải quan tâm đến cơ cấu vốn đầu tư bằng ngoại tệ, nội tệ để từ đó xác định nguồn ngoại tệ nào sẽ đảm bảo cho dự án được thực hiện.

Tuỳ theo từng dự án chỉ có vốn lưu động (dự án ngắn hạn); song các dự án phức tạp thường bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động, một lỗi lầm hay mắc phải khi xây dựng dự án là chủ dự án không tính toán đầy đủ vốn lưu động hoặc không được tính.

Việc thực hiện dự án đầu tư cần phải trải qua nhiều giai đoạn với khối lượng công việc rất khác nhau. Vì vậy, chi phí phát sinh trong từng thời kỳ cũng khác nhau. Cho nên khi tính tổng mức vốn đầu tư cho dự án thì khhông có nghĩa là ngay từ đầu chủ đầu tư phải có vốn đầu tư như vậy, mà số này sẽ được phân bổ theo nhu cầu thi công xây lắp thực tế; nếu không thì vốn đầu tư sẽ giảm hiệu quả do không sử dụng ngay hay bị ứ đọng trong công trình. Đây là chưa kể đến khả năng lạm phát làm giá cả bị biến động dẫn đến đồng vốn giảm khả năng sinh lời.

Riêng đối với Ngân hàng, việc xác định tiến độ bỏ vốn cho dự án giúp cho quá trình điều hành vốn của Ngân hàng được thuận lợi trong khâu lập kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn đồng thời còn giúp cho Ngân hàng theo dõi tốt hơn các hoạt động của chủ đầu tư, từ đó đánh giá được mức độ hiệu quả của những đồng vốn bỏ ra.

5.2. Xác định nguồn vốn và sự đảm bảo nguồn vốn tài trợ cho dự ánHiện nay, một dự án có thể hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau:- Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp (bao gồm cả vốn do các bên tham gia đóng góp).- Nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước.- Nguồn vốn tín dụng Ngân hàng.- Nguồn vốn vay hoặc liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài.- Nguồn vốn huy động trực tiếp thông qua con đường phát hành trái phiếu...Trên cơ sở đó nguồn vốn đã được xác định, thì chủ đầu tư phải giải trình một cách chắc

chắn có cơ sở pháp lý khả năng của huy động vốn dự kiến sẽ tài trợ cho dự án.Đối với Ngân hàng, người thẩm định cần kiểm tra lại sự đảm bảo của các nguồn vốn

này.+ Đối với vốn tự có:Phân tích tình hình tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3

năm gần đây nhất thông qua các báo cáo tài chính gửi đến Ngân hàng, báo cáo cân đối tài sản (Bảng tổng kết tài sản) cũng như những thông tin từ cán bộ tín dụng chuyên quản đối với doanh nghiệp.

+ Đối với vốn từ ngân sách nhà nước.Nguồn vốn này chỉ áp dụng với một số doanh nghiệp quốc doanh mà sản phẩm của

doanh nghiệp thường mang tính chất chiến lược đối với nền kinh tế. Đây là một nguồn vốn có tính an toàn cao. Để khẳng định được nguồn vốn này, cán bộ thẩm định phải dựa vào những văn bản cam kết việc cấp vốn của các cơ quan có thẩm quyền (như các cơ quan tài chính các cấp, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố,...) kèm theo hồ sơ dự án và đơn xin vay.

+ Vốn vay từ các Ngân hàng khác:Người thẩm định cũng cần phải xem xét khả năng cho vay từ các Ngân hàng này thông

qua các văn bản cam kết ban đầu về số lượng, tiến độ bỏ vốn vào dự án của các Ngân hàng đó.

+ Vốn doanh nghiệp vay trực tiếp từ nước ngoài:Nguồn vốn này thường xuất hiện đối với các dự án lớn hoặc chuyển giao công nghệ

hoặc nhập thiết bị từ nước ngoài. Đối với nguồn vốn này đã xem xét việc chấp hành các quy định của nhà nước về vay vốn nước ngoài đối với doanh nghiệp, xem xét các điều kiện vay vốn như lãi suất, thời hạn vay, phương thức và kỹ thuật chuyển giao vốn.

37

Page 38: Giao trinh tai tro du an

5.3. Thẩm định về chi phí, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự ánĐối với người kinh doanh chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận luôn luôn là mối

quan tâm hàng đầu. Các NHTM tài trợ vốn cho dự án cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề trên vì khả năng trả nợ vay của dự án phụ thuộc rất lớn vào kết quả kinh doanh hàng năm của chủ đầu tư. Chính vì vậy, thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của dự án là việc làm không thể thiếu trong thẩm định tài chính của dự án.

Việc xác định chi phí sản xuất hàng năm của dự án cần được căn cứ vào chi phí giá thành của sản phẩm. Người thẩm định cần đi sâu kiểm tra tính đầy đủ của các yếu tố chi phí trong giá thành sản phẩm. Các định mức sản xuất, mức tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm, đơn giá...có hợp lý không? Trên cơ sở đó, so sánh với các dự án đã và đang hoạt động cũng như kinh nghiệm đã tích luỹ được của cán bộ thẩm định trong quá trình công tác.

Đối với doanh thu của dự án, cũng cần xác định rõ theo từng năm dự kiến. Cần tính toán đầy đủ các nguồn thu như : Doanh thu từ sản phẩm chính, từ sản phẩm phụ, từ cho thuê lao vụ.v.v.

Trên cơ sở doanh thu và chi phí hàng năm sẽ tính được lợi nhuận ròng hàng năm của dự án. Lợi nhuận ròng được tính theo công thức sau đây:

Thu nhập chịu thuế = Doanh thu - Chi phí hợp lý + thu nhập khác trong kỳ trong kỳ trong kỳ trong kỳKỳ tính thuế ở đây là năm dương lịch hoặc năm tài chính.Thuế thu nhập = Thu nhập chịu thuế trong kỳ * thuế suất thuế TNDNLợi nhuận ròng = Thu nhập chịu thuế - thuế thu nhậpThẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự ánSau khi đã thẩm định các nhân tố căn bản của dự án như tổng vốn đầu tư; Nguồn vốn

đảm bảo tài trợ; Thu nhập, chi phí và lợi nhuận hàng năm... , Cần tiếp tục thẩm định các chỉ tiêu tài chính của dự án. Thông qua các chỉ tiêu này, cán bộ thẩm định sẽ có cơ sở để kết luận về khả năng tài trợ cho dự án.

Có hai phương pháp thẩm định các chỉ tiêu tài chính, đó là phương pháp phân tích tài chính giản đơn và phân tích tài chính theo nguyên tắc hiện tại hoá các dòng tiền ( Actualisation ). Mỗi phương pháp đều có nhưng ưu nhược điểm riêng, cán bộ thẩm định cần nắm được cả hai phương pháp phân tích này để có thể tiến hành thẩm định một cách linh hoạt.

5.3.1 Thẩm định dự án bằng phương pháp phân tích tài chính giản đơnTheo phương pháp này, người ta có thể phân tích một số chỉ tiêu sau:a- Tỷ suất lợi nhuận giản đơn (Return On Investment: ROI ):ROI cho ta biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có được mấy đồng lợi nhuận sau thuế.

ROI là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư cũng như của dự án nói chung.Công thức :

Pr

ROI = ------------ * 100% V

Trong đó: V - là tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án P r - là lợi nhuận sau thuế hàng năm. Có thể lấy một năm đại diện khi DA đi

vào hoạt động ổn định hoặc bình quân các năm trong vòng đời dự án.ROI tính xong được đem so sánh với ROI của các doanh nghiệp, các dự án khác cùng

nghành nghề và lĩnh vực hoặc so với tỷ suất sinh lợi phổ biến trên thị trường. Nếu ROI của dự án cao hơn thì được coi như dự án đó có tính khả thi.

Nhược điểm của chi tiêu này là: Đánh giá hiệu quả đầu tư không chính xác bởi khó xác định được 1 năm có lợi nhuận điển hình đại diện cho các năm hoạt động của dự án, thứ hai là chỉ tiêu này không tính đến tuổi thọ của dự án, và thứ ba là thời điểm phát sinh dòng tiền của dự án không được đưa vào tính toán.

b- Thời gian thu hồi vốn đầu tư:Thời gian thu hồi vốn đầu tư là thời gian trong đó tổng vốn đầu tư ( cả gốc lẫn lãi vay )

38

Page 39: Giao trinh tai tro du an

đầu tư vào tài sản cố định được bù lại bằng lợi nhuận và khấu hao.Thời gian thu hồi vốn đầu tư ( thời gian hoàn vốn ) được xác định thông qua các khoản

thu ròng ( khấu hao + lợi nhuận ròng ) và trừ dần vào tổng mức vốn đầu tư cho đến khi đạt mức cân bằng. Khoảng thời gian tính đến thời điểm đạt được sự cân bằng đó chính là thời gian hoàn vốn của dự án.

Chú ý:Để tính toán một cách đơn giản, có thể bình quân hoá các khoản thu nhập ròng trong

suốt thời gian hoạt động của dự án. Từ đó, thời gian thu hồi vốn đầu tư có thể xác định bằng công thức sau:

T = )( KHLN

V

Nhược điểm của phương pháp thời gian hoàn vốn trong thẩm định các dự án đầu tư là:- Tuổi thọ kinh tế của dự án không được xem xét trong quá trình phân tích, trong khi đó

nó là một yếu tố quan trọng quyết định sự lựa chọn dự án đầu tư.Ví dụ: Có 2 phương án đầu tư vào một tài sản cố định với tổng mức vốn đầu tư là 140

triệu đồng, thời gian thi công là 1 năm. Các khoản dự kiến thu từ lợi nhuận ròng và khấu hao được ghi trong bảng sau:

Năm Các khoản thu nhập ròng(KH + LN)Phương án 1 Phương án 2

1 40 302 50 403 50 504 20 605 10 70

Phương án 1: Thu hồi vốn sau 4 năm (kể cả 1 năm thiết kế thi công).Phương án 2: Thu vốn đầu tư sau 4 năm 4 tháng (kể cả 1 năm thiết kế thi công).Như vậy, theo phương pháp thời gian thu hồi vốn ta sẽ chọn phương án 1 và loại

phương án 2, mặc dù phương án 2 có tuổi thọ cao và cho tổng số lời qua các năm hoạt động sẽ nhiều hơn.

- Không tính đến thời điểm phát sinh của dòng tiền tệ trong mỗi phương án.Ví dụ: Hai phương án đầu tư cùng có số vốn đầu tư là 100 triệu đồng và các khoản thu

được biểu hiện qua bảng sau:

Năm Phương án 1 Phương án 21 20 502 30 303 50 20

Như vậy, thời gian hoàn vốn của hai phương án đều là 3 năm, nhưng nếu xét đến trào lưu của tiền tệ ( thời điểm phát sinh dòng tiền ) thì phương án 2 tốt hơn phương án 1. Vì tiền thu nhiều ở tương lai gần tốt hơn tiền thu nhiều ở tương lai xa, giúp cho nhà kinh doanh giảm được rủi ro và dùng tiền lời ở tương lai gần để tiếp tục đầu tư, lợi nhuận sẽ thu về nhiều hơn.

- Ngoài ra, việc tính thời gian hoàn vốn theo phương pháp này không cho phép đánh giá được giá trị thật của đồng tiền thu được trong tương lai ( vì không sử dụng phương pháp hiện tại hoá dòng tiền ).

c- Thời gian thu hồi vốn vay:

d- Điểm hoà vốn:

39

Tổng vốn vayT =

Khấu hao TSCĐ hình + Lợi nhuận dự án + Nguồn khácthành bằng vốn vay dùng để trả nợ dùng trả nợ

Page 40: Giao trinh tai tro du an

Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu do bán hàng hàng năm cân bằng với chi phí bỏ ra hàng năm. Điểm hoà vốn được tính theo năm và thường tính ở năm đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định. Trong thực tế, phân tích hoà vốn cũng có thể tính theo thời gian của vòng đời dự án. Khi đó, điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu bán hàng từ đầu đời dự án bằng tổng chi phí khả biến từ đầu đời dự án đến điểm đó và tổng định phí cả đời dự án. Điểm hoà vốn có thể được tính theo sản lượng hoặc theo doanh thu của dự án. Theo đó, ta có điểm hoà vốn sản lượng hoặc điểm hoà vốn doanh thu.

Phân tích điểm hoà vốn là sự phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất biến, chi phí khả biến và lợi nhuận đạt được.

Mục đích của phân tích điểm hoà vốn là để hoạch định lợi nhuận thu được trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập. Điểm hoà vốn càng thấp thì dự án càng hiệu quả và tính rủi ro càng thấp. Để tính toán điểm hoà vốn, cần phân loại chi phí như sau:

Chi phí cố định hay còn gọi là định phí (fixed cost): là chi phí không thay đổi theo mức sản xuất cao hay thấp của doanh nghiệp. Bao gồm:

Chi phí quản lý xí nghiệp: Hành chính phí, lương của cán bộ nhân viên thuộc bộ phận gián tiếp..

Lương công nhân tối thiểu phải trả. Khấu hao TSCĐ Chi phí bảo hiểm thiết bị , nhà xưởng. Chi phí bảo dưỡng thường xuyên máy móc thiết bị, nhà xưởng.Chi phí thuê mướn bất động sản.Chi trả nợ ngân hàng ( nợ vay trung và dài hạn)Các loại thuế cố định hàng năm.Lưu lý: Định phí nếu thay đổi thì ở mức độ không đáng kể. Ví dụ như lãi vay phải trả

có thể giảm dần qua các năm hoạt động.Chi phí biến đổi hay còn gọi là biến phí (Variable Cost): là chi phí thay đổi tuỳ thuộc

vào mức độ hoạt động của xí nghiệp. Nếu sản xuất nhiều thì biến phí nhiều và ngược lại. Bao gồm:

Giá trị tiêu hao nguyên vật liệu chính và phụ.Chi phí nhiên liệu và năng lượng.Chi phí sử dụng máy móc thiết bịChi phí phụ tùng thay thế, vật rẻ tiền mau hỏngBao bì đóng góiTrả lãi vay ngắn hạn.Lương công nhân trực tiếpChi phí vận chuyển, bốc dỡ.Tính toán điểm hoà vốn có thể áp dụng hai phương pháp là phương pháp đại số và

phương pháp đồ thị.Phương pháp đại số:Gọi X: Là số sản phẩm sẽ sản xuất cả đời dự ánx: là số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn, hay x là sản lượng hoà vốn ( SLHV )p: là giá bán một đơn vị sản phẩmv: là chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩmf: là tổng chi phí cố định cho cả đời dự ánTại điểm hoà vốn, tổng doanh thu bằng tổng chi phí do đó: xp = xv + fTừ đây suy ra: f

SLHV = ----------------- p - vNhư vậy x tỷ lệ thuận với f và tỷ lệ nghịch với ( p – v ). Muốn điểm hoà vốn càng thấp

40

Page 41: Giao trinh tai tro du an

thì phải tìm biện pháp giảm f, tăng p và giảm v. Tuy nhiên các biện pháp này cũng tuỳ từng dự án và từng điều kiện cụ thể để điều chỉnh và khả năng điều chỉnh cũng có giới hạn.

Cũng có thể tính toán hoà vốn theo doanh thu. Lúc đó doanh thu hoà vốn sẽ bằng: f DTHV = ---------------------- v 1- --------------- pĐánh giá mức độ hoạt động của xí nghiệp ở điểm hoà vốn bằng chỉ tiêu mức hoạt động

hoà vốn như sau: Doanh thu hoà vốn Mức hoạt động hoà vốn = ----------------------------- * 100 Tổng doanh thuPhương pháp đồ thị :Phương pháp này cho thấy một cách trực quan điểm hoà vốn trong mối tương quan với

đời dự án. Theo đó:+ Trục trung biểu diễn doanh thu và chi phí sản xuất + Trục hoành biểu diễn sản lượng hay mức sản xuất Đường doanh thu là đường thẳng phát sinh từ gốc O vì biến đổi theo sản lượng.Đường định phí là một đường thẳng nằm ngang song song với trục hoành vì không

thay đổi theo sản lượng.Đường biến phí là đường thẳng phát sinh từ gốc O vì biến đổi theo sản lượng.Đường chi phí sản xuất xuất phát từ điểm gặp đường định phí với trục tung và song

song với đường biến phí.Điểm gặp nhau giữa đường doanh thu và đường chi phí sản xuất là điểm hoà vốn.

Chiếu sang các trục toạ độ ta xác định được mức doanh thu phải cần phải đạt được hay sản lượng hàng hoá cần phải bán ra để hoà vốn.

Chú ý:- Trong thực tiễn lập và thẩm định dự án đầu tư người ta còn tính đến cả các chỉ tiêu

như:

41

Page 42: Giao trinh tai tro du an

+ Điểm hoà vốn với nhiều giá bán: Dùng để dự trữ khả năng cạnh tranh về giá bán. Xí nghiệp phải định ra nhiều giá bán cho mặt hàng để tính doanh thu cho từng giá riêng biệt:

Định giá cao: Trong điều kiện không có cạnh tranh.Định giá trung bình: Trong điều kiện bình thường.Định giá thấp: Trong điều kiện có cạnh tranh gay gắt.Và tương ứng với mỗi loại giá mức doanh thu dự trù sẽ thay đổi và dẫn tới điểm hoà

vốn sẽ thay đôỉ.+ Đối với xí nghiệp có nhiều phương án sản xuất những sản phẩm khác nhau. Trong

trường hợp này người ta thường dự tính doanh thu và chi phí đối với từng loại sản phẩm và tính điểm hoà vốn riêng từng loại để làm cơ sở xác định nên phát triển sản phẩm nào có lợi nhất. sản phẩm có lợi nhất là sản phẩm có hiệu số giữa doanh thu và chi phí cao nhất.

Nhược điểm của phương pháp phân tích điểm hoà vốn chỉ nói lên được mối quan hệ giữa khối lượng tiêu thụ và lợi nhuận cần đạt được từ sản phẩm dự kiến tiêu thụ ở mức giá nhất định. Tuy nhiên sản phẩm của dự án có thể bán theo nhiều giá khác nhau vào những thời kỳ kinh doanh khác nhau dẫn tơí doanh thu khác nhau và điểm hoà vốn cũng khác nhau, từ đây việc phân tích hoà vốn rất phức tạp. Ngoài ra, trong quá trình phát triển dự án khi phải tăng sản lượng thì cần đầu tư thêm vào vốn cố định để mua sắm mới thiết bị máy móc, công nghệ và vốn lưu động, trong trường hợp đó, định phí và biến phí cũng thay đổi, dẫn tới sơ đồ biểu diễn điểm hoà vốn cũng thay đổi. Từ đây, phân tích điểm hoà vốn sẽ phức tạp và tính chính xác không cao.

5.3.2. Phương pháp phân tích tài chính bằng giá trị hiện tạiPhương pháp phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại là phương pháp thẩm định tính

khả thi cuả dự án dựa vào nguyên lý hiện tại hoá các dòng tiền của dự án. Từ đó, tính các chỉ tiêu như Thời gian hoàn vốn chiết khấu Tck, Hiện giá thuần NPV, Tỷ suất thu hồi nội bộ IRR, Tỷ số B/C ... để quyết định việc đầu tư dự án.

Các chỉ tiêu trên được tính theo nguyên tắc tiền tệ có giá trị thời gian của nó. Kỹ thuật tính toán ở đây là áp dụng phương thức hiện tại hoá các dòng tiền của dự án. Nói khác đi là tất cả các phép tính được thực hiện trên cơ sở các dòng tiền được quy đổi về cùng một thời điểm xác định theo quy ước.

a- Hiện giá thuần: (Net present value: NPV)Ở phần này chúng ta cần phân biệt : Hiện giá thu nhập (PV) và hiện giá thuần (NPV).Nếu gọi: PV là hiện giá của các khoản tiền T trong các năm đầu tư trong tương lai.T1,T2,........Tn là các khoản thu nhập ròng ở các cuối năm trong tương lai r : là lãi

suất hàng năm.Thì PV1 của khoản tiền T1 nhận được ở cuối năm thứ nhất với lãi suất r hàng năm là :

PV1 = )1(1

r

T

PV2 của khoản tiền T2 nhận được ở cuối năm thứ hai với lãi suất r hàng năm là:

PV2 =

22

)1( r

T

PVn của khoản tiền Tn nhận được ở cuối năm thứ hai với lãi suất r hàng năm là:

PVn =

nr

Tn

)1(

Vậy công thức tính hiện giá của các khoản thu khác nhau sau n năm đầu tư được xác định như sau:

PV = nn

r

T

r

T

r

T

r

T

)1(.....

)1()1()1( 33

221

Trong công thức trên, T là thu nhập của năm i . Chú ý: Lãi suất hàng năm có thể thay đổi . Như vậy, giá trị của một đồng tiền thu được trong

42

Page 43: Giao trinh tai tro du an

tương lai ở các thời điểm khác nhau không giống nhau, nó phụ thuộc vào thời điểm nhận được (hay thời điểm phát sinh dòng tiền)s. Thời điểm nhận được các khoản thu càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị thu nhập càng ít. Ví dụ trị giá hiện tại của 1.000đ với tỷ suất chiết khấu hàng năm 10% thu được ở cuối năm thứ 1 là 909 đồng, nhưng cũng với tỷ suất chiết khấu như vậy, giá trị hiện tại của 1.000đồng sau năm thứ 4 chỉ là 683 đồng.

Lãi suất chiết khấu dùng để xác định PV phụ thuộc vào chi phí sử dụng vốn của dự án và tỷ lệ lạm phát ở môi trường đầu tư cụ thể.

Việc xác định PV trong dự án đầu tư có ý nghĩa kinh tế rất lớn, nó giúp thẩm định hiệu quả kinh doanh đích thực của dự án vì trong điều kiện môi trường đầu tư có lạm phát lớn, đồng tiền mất giá, số tiền thu được so với đầu tư bỏ ra có chênh lệch dương (có lời), nhưng thực tế là lỗ vì giá trị thực của chúng đã giảm.

Trên cơ sở lý luận về hiện giá của tiền tệ, Hiện giá thuần hay giá trị hiện tại ròng được tính như sau:

n n NPV = Bi (1+r)-i - Ci (1+r)-i

i = 0 i = 0Hiện giá thuần là hiệu số giữa tổng hiện giá thu nhập ròng qua các năm và tổng số vốn

đầu tư của dự án. Nó cho ta biết quy mô thu nhập ròng tính ở điểm hiện tại của toàn bộ quá trình đầu tư và vận hành dự án.

Dự án có tính khả thi chỉ khi NPV > 0Chú ý: Trong tính toán NPV, nếu vốn đầu tư được thực hiện trong nhiều năm thì giá trị

của vốn đầu tư cũng phải quy về năm gốc để tính toán.Để tiện tính NPV người ta sử dụng các bảng tính sẵn (bảng hiện giá) hoặc sử dụng công

thức trong phần hàm tài chính ( phần EXCEL của máy tính. ).b- Tỷ suất thu hồi nội bộ: (Internal Rate of Return: IRR).Tỷ suất thu hồi nội bộ là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó NPV = 0. Hay nói cách khác,

tỷ suất thu hồi nội bộ là lãi suất chiết khấu phải tìm sao cho với mức lãi suất đó tổng hiện giá của các khoản thu trong tương lai do đầu tư mang lại bằng hiện giá của vốn đầu tư.

Người ta sử dụng IRR để thẩm định và ra quyết định đầu tư. Dự án được lựa chọn để đầu tư phải có IRR lớn hơn hoặc bằng lãi suất vay vốn thông thường. Còn IRR của dự án đầu tư nhỏ hơn lãi suất vay vốn thì chứng tỏ đầu tư sẽ bị lỗ, nếu gửi tiền vào ngân hàng sẽ có lợi hơn là bỏ vốn vào đầu tư.

Muốn xác định được IRR, có 3 cách:Cách 1: Giải phương trình để tìm rCho NPV = 0 tức là: PV = VHay:

VIRR

T

IRR

T

IRR

Tn

n

)1(

...)1()1( 2

21

Trong đó: n: Là số năm đầu tưT: Là thu nhập ròng năm i i = 1,nV: Là giá trị hiện tại tổng vốn đầu tư dự án.IRR: Tỷ suất thu hồi nội bộ.Cách 2: Sử dụng phương pháp nội suy để tính IRR.Để thực hiện phương pháp nội suy IRR phải trải qua các bước sau đây:Bước 1: Tự chọn một lãi suất tuỳ ý để tính NPV.Nếu NPV dương thì hãy tính lại NPV bằng một lãi suất chiết khấu lớn hơn để có một

NPV mới. Nếu NPV vẫn dương thì tiếp tục tăng lãi suất chiết khấu lên sao cho thu được giá trị dương của NPV tiến tới gần 0.

- Lãi suất chiết khấu làm cho NPV dương gần 0 được ký hiệu là r1.- NPV dương gần bằng 0 ký hiệu là NPV1.Bước 2: Tiếp tục lãi suất chiết khấu cho đến khi đạt được một NPV âm. Nếu con số âm

43

Page 44: Giao trinh tai tro du an

đó lớn thì giảm lãi suất chiết khấu cho tới khi có được một NPV gần bằng 0.- Lãi suất chiết khấu làm cho NPV âm gần bằng 0 ký hiệu là r2.- NPV âm gần bằng 0 ký hiệu là NPV2.Chú ý: Để có IRR chính xác thì chênh lệch giữa hai lãi suất chiết khấu r1 và r2 không

được quá 5%.Bước 3: Sử dụng công thức sau để tính IRR.

IRR = 21

1)12(1NPVNPV

NPVrrr

Cách 3: Vẽ đồ thị để tìm i mà ở đó giá trị của NPV = 0 ( điểm mà đồ thị cắt trục hoành ) Tuy nhiên cách 3 này cũng phải dựa vào phương pháp nội suy mới thực hiện được:

2.20

1.49

0.98

0.63

0.37

0.180.05

-0.05-0.11 -0.16

-0.50

0.00

0.50

1.00

1.50

2.00

2.50

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

L· I suÊt chiÕt khÊu

NPV

Ví dụ 1: Hãy thẩm định xem có nên đầu tư vào dự án sau đây hay không bằng việc xác định NPV và IRR:

Tổng vốn đầu tư : 1.000.000 USD.Tuổi thọ : 8 nămThu nhập ròng 3 năm đầu: 100.000 USD/nămTừ năm thứ tư trở đi : 150.000 USD/nămBiết lãi suất chiết khấu : 15%/năm.Giải:

Năm Thu nhập Hệ số chiết khấu Hiện giá1 100.000 0,8696 86.9602 100.000 0,7561 75.6103 100.000 0,6557 65.7504 150.000 0,5718 85.7705 150.000 0,4972 74.5806 150.000 0,4323 64.8457 150.000 0,3759 56.3858 150.000 0,3269 49.035PV = 558.935

NPV = PV - V= 558.935 - 1.000.000 = - 441.065 < 0

NPV của dự án <0, vì vậy không nên bỏ vốn đầu tư vào dự án này.Và thử tính IRR để khẳng định thêm nên hay không nên đầu tư vào dự án kể trên:

Năm Thu nhập Hệ số Hiện giá Hệ số Hiện giái1 = 1% i2 = 2%

44

Page 45: Giao trinh tai tro du an

1 100.000 0,9901 99.010 0,9804 98.0402 100.000 0,9803 98.030 0,96612 96.1203 100.000 0,9706 97.060 0,9423 94.2304 150.000 0,9610 144.150 0,9239 138.5855 150.000 0,9515 142.725 0,9057 135.8556 150.000 0,9421 141.315 0,8880 133.2007 150.000 0,9327 139.905 0,8706 130.5908 150.000 0,9235 185.525 0,8535 128.025

1.000.720 954.645NPV1 = 1.000720 - 1.000.000 = 720NPV2 = 954.645 - 1.000.000 = -45.355Suy ra:

IRR = 0,01 + 35545720

720

.x (0,02 - 0,01) = 0,01016

IRR = 1,016 %.Như vậy IRR của dự án quá nhỏ ( chẳng hạn so với lãi suất ngân hàng huy động vốn )

cho nên dự án không khả thi.Ví dụ 2:Tính NPV, IRR, biết:Tổng vốn đầu tư : 800.000 USDTuổi thọ : 10 nămThu nhập ròng 2 năm đầu : 100.000/ nămThu nhập ròng 3 năm kế : 150.000/nămThu nhập ròng 5 năm còn lại : 200.000/năm.i = 10%nămGiải: Tính NPV.

Năm Thu nhập Hệ số chiết khấu Hiện giá1 100.000 0,9091 90.9102 100.000 0,8265 82.6503 150.000 0,7513 112.6954 150.000 0,6830 102.4505 150.000 0,6209 93.1356 200.000 0,5645 112.9007 200.000 0,5132 102.6408 200.000 0,4665 93.3009 200.000 0,4241 84.82010 200.000 0,3855 77.100

952.600NPV = 952.600 - 800.000 = 152.600 > 0- Tính IRR:

Năm Thu nhập Hệ số Hiện giá Hệ số Hiện giái1 = 12% i2 = 15%

1 100.000 0,8929 89.290 0,8686 86.8602 100.000 0,7972 79.720 0,7561 75.6103 150.000 0,7118 106.770 0,6575 98.6254 150.000 0,6255 95.325 0,5718 85.7705 150.000 0,5674 85.120 0,4972 74.5806 200.000 0,5066 101.320 0,4332 86.4607 200.000 0,4524 90.480 0,3759 75.1808 200.000 0,4039 80.780 0,3269 65.3809 200.000 0,3606 72.120 0,2843 56.860

45

Page 46: Giao trinh tai tro du an

10 200.000 0,3220 64.400 0,2472 49.440865.315 754.765

NPV1 = 865.315 - 800.000 = 65.315NPV2 = 754.765 - 800.000 = - 45.235Suy ra:

IRR = 0,12 + 2354531565

31565

...

x (0,15 - 0,12) = 0,1377 = 13.77%.

Như vậy, Dự án có:NPV > 0

IRR > lãi suất cho vay của ngân hàng.Cho nên dự án được đánh giá là khả thi về kinh tế, có thể chấp nhận đầu tư.Hiện nay, việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR phổ biến sử dụng máy tính Hewlett -

Packard HP12C và trên bảng tính ECXEL của máy vi tính.5.5. Phân tích rủi ro dự án

Các dự án đầu tư được soạn thảo và tính toán hiệu quả kinh tế trên cơ sở dự kiến quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận sẽ diễn ra trong tương lai. Trong kinh tế thị trường, các số liệu dự báo thường xuyên có sự biến đổi đặc biệt là trong tương lai xa, khả năng dự án gặp phải những rủi ro là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, cần có những phương pháp và những công cụ dự báo rủi ro dự án. Qua các công cụ này, các nhân tố gây rủi ro và ảnh hưởng của chúng đến dự án sẽ được lượng hoá, nhờ vậy chủ đầu tư có cơ sở đánh giá và đề ra những biệ pháp hạn chế rủi ro dự án. Đối với người thẩm định, việc đánh giá được mức độ rủi ro dự án cũng là một thông tin rất quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư.

Phân tích rủi ro dự án có nhiều phương pháp với độ phức tạp và ý nghĩa thực tế khác nhau. Phổ biến và đơn giản nhất là phân tích độ nhạy và phân tích tình huống. ở các nước kinh tế phát triển, phân tích rủi ro dự án rất được quan tâm, đã có nhiều phần mềm chuyên dùng để phân tích rủi ro dự án, giúp cho quá trình phân tích rủi ro được chính xác và có hiệu quả hơn.

5.5.1. Phương pháp phân tích độ nhạy (Sensitivity Analysis)Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố được dự báo trong khi lập dự án.

Đã là dự báo thì có thể bị sai lệch nhất là những biến động xảy ra trong tương lai xa. Vì vậy công tác thẩm định dự án của ngân hàng cần phải đánh giá được sự ổn định của các chỉ tiêu hiệu quả của dự án khi các nhân tố đầu vào, đầu ra của dự án có sự biến động, nói khác đi là cần phải phân tích độ nhạy của dự án theo các nhân tố biến động đó. Trong phân tích độ nhạy, kinh nghiệm của các chuyên gia thẩm định là hết sức quan trọng bởi vì chỉ có các chuyên gia với kinh nghiệm tích luỹ được của mình mới dự kiến được khả năng nhân tố nào có thể biến đổi và biến dổi với mức độ bao nhiêu so với giá trị ban đầu.

Trong phân tích độ nhạy người ta dự kiến một số tình huống thay đổi, những rủi ro trong tương lai làm cho giá nguyên vật liệu tăng, giá thuê nhân công tăng, sản lượng giảm, doanh thu giảm.v.v. Rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả như: NPV, IRR,... Nếu các chỉ tiêu đó sau khi tính lại vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn định và được chấp thuận. Ngược lại dự án bị coi là không ổn định ( độ nhạy cảm cao ) buộc phải xem xét điều chỉnh tính toán lại mới được đầu tư.

Để phân tích độ nhạy của dự án, thông thường người ta thực hiện qua 4 bước sau:- Bước 1: Xác định xem những nhân tố nào có khả năng biến động theo chiều hướng

xấu ( Để xác định được xu hướng này, cần căn cứ vào các số liệu thống kê trong quá khứ, các số liệu dự báo và đặc biệt là kinh nghiệm thực tiễn của các chuyên gia tham gia phân tích).

- Bước 2 : Trên cơ sở các nhân tố đã lựa chọn, dự đoán biên độ biến động có thể xảy ra (Maximum là bao nhiêu so với giá trị chuẩn ban đầu ).

- Bước 3 : Chọn một phương pháp đánh giá độ nhạy nào đó ( Như phân tích độ nhạy theo qua chỉ tiêu NPV hoặc IRR chẳng hạn ).

- Bước 4 : Tiến hành tính toán lại NPV hoặc IRR theo các biến số mới, trên cơ sở cho các biến số tăng giảm cùng một tỷ lệ % nào đó ( Chú ý là khi ta dùng các phương pháp khác

46

Page 47: Giao trinh tai tro du an

nhau để phân tích độ nhạy, các kết quả đưa ra cũng có sự khác biệt về mặt số học. Tuy nhiên, các kết luận về mặt kinh tế thì vẫn không có gì thay đổi ).

Độ nhạy của một nhân tố tác động đến dự án có thể tính theo công thức sau đây: Fi

E = --------------- Xi

Trong đó :E là hệ số độ nhạy Fi là mức biến động của chỉ tiêu đánh giáXi là mức biến động của nhân tố ảnh hưởng.Ví dụ: Từ một DAĐT, qua phân tích độ nhạy có kết quả thể hiện ở bảng sau:

Các yếu tố thay đổi IRR(%) Tỷ lệ % thay đổi của IRR Chỉ số độ nhạy

Trường hợp cơ sở 6,00 0 0Vốn đầu tư tăng 10% 5,85 2,5 0,25

Chi phí khả biến tăng 10% 4,00 33,0 3,30

Giá bán SP giảm 10% 5,50 8,33 0,83

Thời gian thu lợi bị chậm 10% 5,2 13,33 1,33Như vậy độ nhạy thể hiện cao nhất ở nhân tố chi phí khả biến và thời gian thu lợi

nhuận. Do đó, cần đặc biệt quan tâm đến 2 yếu tố này. Phải tìm mọi biện pháp giảm thấp (tiết kiệm) các chi phí khả biến và đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm đúng tiến độ để có lợi nhuận như dự kiến.

Kết quả của việc phân tích độ nhạy sẽ cho ta biết nhân tố nào trong dự án cần được nghiên cứu kỹ, cần thu thập đủ thông tin để phòng ngừa và quản trị rủi ro xảy ra trong quá trình khai thác dự án.

Phân tích độ nhạy là một kỹ thuật phân tích rủi ro dự án tương đối giản đơn. Tuy nhiên, nhược điểm chính của kỹ thuật này là chưa tính đến xác suất có thể xảy ra của các biến rủi ro và nó cũng không thể đánh giá được cùng một lúc sự tác động của tất cả các biến rủi ro đến dự án.

5.5.2. Phương pháp phân tích tình huống Mặc dù phân tích độ nhạy là kỹ thuật phân tích rủi ro khá phổ biến, tuy nhiên nó cũng

có những hạn chế như đã chỉ ra ở trên. Do đó, trong thẩm định và phân tích rủi ro dự án người ta còn sử dụng phương pháp phân tích tình huống. Phân tích tình huống là kỹ thuật phân tích rủi ro kết hợp cả hai nhân tố là tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp những tình huống ( hoàn cảnh ) tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với trường hợp cơ sở. Tức là ta tính toán lại NPV hoặc IRR trong điều kiện tốt và xấu sau đó so sánh với các giá trị làm chuẩn ( giá trị cơ sở ).

Ví dụ:Một dự án sau khi tiến hành dự kiến các tình huống có thể xảy ra và xác suất của từng

tình huống có kết quả theo như bảng sau:

Tình huống Xác suất (Pi) Số lượng bán Giá bán NPV (1000USD)Xấu nhất 0,25 150000 15.000 -5761Cơ sở 0,50 200000 20000 6996Tốt nhất 0,25 250000 25000 23397

Chúng ta tính NPV mong đợi như sau: 3

47

Page 48: Giao trinh tai tro du an

NPVmong đợi = Pi ( NPVi ) i = 1

Thay số liệu từ bảng trên vào ta có:

= (0,25* - 5761)+(0,5*6996)+(0,25*23397) = 7907

NPV = Pi (NPVi - NPV mong đợi )

Thay số vào ta có kết quả là NPV = 10349

NPV 10349CV NPV = ---------------------- = ------------------------ = 1,3 NPV mong đợi 7907

Hệ số biến thiên của dự án được so sánh với hệ số biến thiên của các dự án trung bình của doanh nghiệp hay NHTM đã tiến hành thẩm định từ đó xác định được mức độ rủi ro tương đối của dự án đang xem xét. Chẳng hạn các dự án được lấy ra so sánh có hệ số biến thiên là 1,1. Như vậy, người thẩm định có thể kết luận rằng dự án đang xem xét có mức độ rủi ro cao hơn các dự án so sánh.

Tuy nhiên, phân tích tình huống vẫn tồn tại những nhược điểm như không thể xác định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ phân tích được mộtvài khả năng ( biến cố ) rời rạc, trong khi thực tế có thể có vô số khả năng kết hợp có thể xảy ra giưã các biến của dự án.

6. Nghiên cứu và thẩm định phương diện kinh tế, xã hội môi trườngPhân tích các lợi ích kinh tế - xã hội là nội dung quan trọng của dự án, nó có các ý

nghĩa sau:- Đối với nhà đầu tư: là căn cứ chủ yếu để nhà đầu tư thuyết phục các cơ quan có thẩm

quyền chấp thuận cho dự án được ra đời và các cơ quan cung ứng vốn quan tâm trong việc tài trợ.

- Đối với cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ khoa học công nghệ và môi trường, phân tích lợi ích kinh tế xã hội là cơ sở chủ yếu để các cơ quan này xem xét và tư vấn cho các cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư.

Để phân tích lợi ích kinh tế - xã hội của dự án đầu tư, người ta bắt đầu phân tích từ mục tiêu của dự án. Sau đó phân tích các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật để thấy được lợi ích kinh tế- xã hội mang lại cho nhà nước.

Nội dung nghiên cứu về kinh tế - xã hội bao gồm:6.1. Phân tích các chỉ tiêu định lượng

6.1.1. Khả năng thu ngoại tệ:Số ngoại tệ thu được hàng năm hoặc tổng số ngoại tệ tiết kiệm (do thay thế nhập khẩu).Hoặc chỉ tiêu: Tổng kim ngạch xuất khẩu của dự án

Ic = --------------------------------------------------- Tổng vốn đầu tưTuỳ từng ngành mà chỉ tiêu Ic này khác nhau.

6.1.2. Mức độ thu hút lao động của dự ánĐược đánh giá bằng con số tuyệt đối và tương đối:Tuyệt đối: Số người dự kiến sẽ thu hút vào làm việc trong doanh nghiệp sau này. Số lao động dự kiến thu hút Tương đối = -------------------------------------------- Tổng vốn đầu tư

6.1.3. Đóng góp của dự án vào ngân sách nhà nướcTuyệt đối: là số tiền (nội tệ, ngoại tệ) mà Nhà nước thu được dự án thông qua các loại

48

Page 49: Giao trinh tai tro du an

thuế và các khoản thu khác; tiền thuê mặt đất, mặt nước, tiền dịch vụ và các lệ phí khác. Mức đóng góp vào ngân sách Tương đối = ------------------------------------------- Tổng vốn đầu tư

6.2. Xác định các nhân tố định tínhThúc đẩy phát triển kinh tế ngành là liên ngành: Tức là sự có mặt và hoạt động của dự án sẽ tạo điều kiện trực tiếp hay gián tiếp cho các

ngành, các lĩnh vực khác được phát triển như thế nào?- Thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tại địa phươngnơi xây dựng dự án* Góp phần biến những vùng đất nghèo, dân cư thưa thớt thành những vùng kinh tế trù

phú, dân cư tăng lên, thực hiện lại chiến lược phân bố lại lao động trong cả nước và chính sách thành thị hoá nông thôn.

* Tăng thu nhập, tăng sản lượng hàng hoá thoả mãn nhu cầu của dân địa phương đó, phát triển dân trí, hình thành nếp sống công nghiệp ở địa phương đó.

6.3. Các ảnh hưởng kinh tế - xã hội khácMức độ ảnh hưởng của dự án đối với môi trường, môi sinh về các mặt: bầu không khí

nơi sản xuất, xử lý chất thải, tiếng ồn, mỹ quan toàn cảnh khu vực, sức khoẻ của người dân.Hiện nay tiêu chuẩn về môi trường các nước phát triển quy định rất khắt khe, buộc các

nhà sản xuất kinh doanh phải chi phí những khoản tiền rất tốn kém để tránh ô nhiễm. Trước tình hình đó, nhiều nhà sản xuất để giảm chi phí họ chuyển những công nghệ độc hại gây ô nhiễm môi trường nặng sang các nước đang phát triển để đầu tư. ở các nước đang phát triển, vì nghèo nên vấn đề bảo vệ môi trường thường chưa được quan tâm đúng mức. Hậu quả là, ở nhiều nước, chỉ một thời gian sau khi "mở cửa", vấn đề ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng, khó khắc phục. Đây là bài học mà các nhà đầu tư và quản lý đầu tư phải quan tâm.

Trong các dự án đầu tư nói chung đều phản ánh cả lợi ích riêng của chủ đầu tư dự án và lợi ích kinh tế - xã hội của nó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp có dự án mang lại lợi ích kinh tế xã hội lớn nhưng tính khả thi về mặt tài chính của dự án không đạt được trong trường hợp đó, các cấp thẩm quyền nên có sự đề xuất cho hưởng chế độ ưu đãi trong đầu tư như thuế thu nhập DN, thuế sử dụng tài nguyên, tiền thuê đất, mặt nước, ..... với giá ưu đãi để chủ dầu tư trang trải được chi phí và có lãi, đồng thời xã hội cũng thu được lợi ích từ công cuộc đầu tư.

7. Đánh giá, kết luận dự ánSau khi đã thẩm định đầy đủ trên mọi phương diện, tiến hành đúc kết các vấn đề trọng

tâm nhằm nêu bật được mục tiêu của dự án đầu tư; Đặt ra thứ tự ưu tiên về các chỉ tiêu và quan điểm khi lựa chọn dự án đó, ngân hàng sẽ đi đến kết luận về khả năng có thể tài trợ cho dự án ( hoặc đệ trình cấp trên nếu vượt phán quyết) hoặc lập công văn trả lời đơn vị nếu không đủ điều kiện vay vốn.

49