40
RỐI LOẠN PHÁT TRIỂN I. Tổng quan về Rối loạn phát triển tâm lý 1) Định nghĩa Theo Wikipedia - Rối loạn phát triển (*) xảy ra ở một số giai đoạn trong sự phát triển của một đứa trẻ, thường là làm chậm (trì hoãn) sự phát triển. Đây có thể bao gồm rối loạn về tâm lý hoặc về thể chất. Rối loạn này là suy yếu trong sự phát triển bình thường / các kỹ năng về vận động hoặc về nhận thức phát sinh trước tuổi 22, mà nhiều thứ sẽ tiếp tục diễn ra vô thời hạn. Rối loạn phát triển thường không có cách để chữa được căn bệnh. Các rối loạn về phát triển xuất hiện từ giai đoạn sớm và có thể cải thiện khi trẻ lớn lên, nhưng cũng có thể dẫn đến những khiếm khuyết ở người trưởng thành. Di truyền là một trong những nguyên nhân chủ yếu, và nhiều nam giới bị ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới 2) Các thể rối loạn Theo ICD 10 các rối loạn phát triển tâm lý (F80-F89) bao gồm: - (F80) Rối loạn đặc hiệu về phát triển lời nói và ngôn ngữ Rối loạn kỹ năng ngôn ngữ là dạng rối loạn mắc phải trong những giai đoạn đầu phát triển. Loại rối loạn này không tương quan trực tiếp với rối loạn thần kinh hoặc cơ chế nói, thiếu giác quan, chậm phát triển tinh thần, hoặc các yếu tố môi trường. Các rối loạn phát triển cụ thể về ngôn ngữ và ngôn ngữ thường kèm theo các vấn đề liên quan, chẳng hạn như khó khăn Nhóm 6 Trang 1

tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com  · Web view2018-01-12 · ... phát triển trí thông minh sớm ... Điểm tối ưu của ASSQ là giảm thiểu được những trường

  • Upload
    hathu

  • View
    213

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

RỐI LOẠN PHÁT TRIỂNI. Tổng quan về Rối loạn phát triển tâm lý

1) Định nghĩa

Theo Wikipedia - Rối loạn phát triển (*) xảy ra ở một số giai đoạn trong sự phát triển

của một đứa trẻ, thường là làm chậm (trì hoãn) sự phát triển. Đây có thể bao gồm rối loạn về

tâm lý hoặc về thể chất. Rối loạn này là suy yếu trong sự phát triển bình thường / các kỹ năng về

vận động hoặc về nhận thức phát sinh trước tuổi 22, mà nhiều thứ sẽ tiếp tục diễn ra vô thời

hạn. Rối loạn phát triển thường không có cách để chữa được căn bệnh.

Các rối loạn về phát triển xuất hiện từ giai đoạn sớm và có thể cải thiện khi trẻ lớn lên,

nhưng cũng có thể dẫn đến những khiếm khuyết ở người trưởng thành. Di truyền là một trong

những nguyên nhân chủ yếu, và nhiều nam giới bị ảnh hưởng nhiều hơn nữ giới

2) Các thể rối loạn

Theo ICD 10 các rối loạn phát triển tâm lý (F80-F89) bao gồm:

- (F80) Rối loạn đặc hiệu về phát triển lời nói và ngôn ngữ

Rối loạn kỹ năng ngôn ngữ là dạng rối loạn mắc phải trong những giai đoạn đầu phát

triển. Loại rối loạn này không tương quan trực tiếp với rối loạn thần kinh hoặc cơ chế nói,

thiếu giác quan, chậm phát triển tinh thần, hoặc các yếu tố môi trường. Các rối loạn phát triển

cụ thể về ngôn ngữ và ngôn ngữ thường kèm theo các vấn đề liên quan, chẳng hạn như khó

khăn trong việc đọc, đánh vần và phát âm các từ, mối quan hệ giữa con người, rối loạn cảm

xúc và hành vi.

- (F81) Rối loạn đặc hiệu về phát triển các kỹ nǎng học tập

Rối loạn trong đó các chỉ số thông thường của việc tiếp nhận các kỹ năng giáo dục bị xáo

trộn, khởi phát ở giai đoạn phát triển ban đầu. Sự xáo trộn này gây gián đoạn việc học hỏi,

hoặc ảnh hưởng đến kết quả học tập, là hậu quả của sự chậm phát triển tinh thần. Rối loạn này

không phải là do chấn thương hoặc bệnh não

- (F82) Rối loạn phát triển đặc hiệu chức nǎng vận động

- (F83) Rối loạn phát triển đặc hiệu hỗn hợp

Là sự kết hợp của các rối loạn đặc trưng về phát triển ngôn ngữ và nói, kỹ năng tập luyện

và kỹ năng vận động, trong đó các khiếm khuyết được thể hiện bằng nhau, không cho phép cô

Nhóm 6 Trang 1

lập bất kỳ một trong số chúng như là chẩn đoán chính. Phiếu tự đánh giá này chỉ nên sử dụng

khi có sự lẫn lộn rõ ràng giữa các rối loạn phát triển cụ thể này. Những rối loạn này thường,

nhưng không phải lúc nào cũng liên quan đến một mức độ thiếu hụt chung nào đó trong các

chức năng nhận thức. Do đó, phần này nên được sử dụng trong trường hợp có sự kết hợp của

các chức năng mà đáp ứng các tiêu chí của hai hoặc nhiều đề mục: F80.- ; F81 và F82.

- (F84) Rối loạn phát triển lan tỏa (Rối loạn phổ tự kỷ)

Một nhóm các rối loạn có đặc điểm là sự lệch lạc về mặt chất lượng trong các tương tác

xã hội và các chỉ số về khả năng lây nhiễm, cũng như một bộ các mối quan tâm và hành động

hạn hẹp, rập khuôn, lặp đi lặp lại.

+ (F84.0) Tự kỷ

Loại rối loạn phát triển nặng, được xác định bởi sự có mặt của: a) dị thường và chậm trễ

phát triển thể hiện ở trẻ dưới ba tuổi; b) những thay đổi về mặt tâm lý học trong cả ba lĩnh

vực: các tương tác xã hội tương đương, các chức năng truyền thông và hành vi, có giới hạn,

rập khuôn và đơn điệu. Những đặc điểm chẩn đoán cụ thể này thường bổ sung các vấn đề

không cụ thể khác như rối loạn giấc ngủ, ăn uống, bùng nổ và tự gây hưng phấn. Rối loạn tự

kỷ tuổi thơ bao gồm : Tự kỷ, Rối loạn tâm thần, Hội chứng Kanner, không bao gồm: hội

chứng Asperger ( F84.5 )

+ F84.1 Tự kỷ không điển hình

Loại rối loạn phát triển nói chung khác với chứng tự kỷ ở tuổi dậy thì do tuổi bắt đầu rối

loạn, hoặc do không có bộ ba rối loạn bệnh lý cần thiết để chẩn đoán chứng tự kỷ ở trẻ em.

Chỉ phân nhóm phụ này chỉ được sử dụng nếu các dị tật và chậm trễ phát triển được thể hiện ở

trẻ từ ba tuổi trở lên và các hành vi vi phạm trong một hoặc hai trong ba lĩnh vực của bộ ba rối

loạn tâm thần cần thiết để chẩn đoán chứng tự kỷ của trẻ (cụ thể là tương tác xã hội, truyền

thông và hành vi được mô tả bởi các giới hạn, khuôn mẫu và đơn điệu), mặc dù có sự vi phạm

đặc trưng ở các khu vực khác. Chứng tự kỷ không điển hình thường phát triển ở những người

có sự chậm phát triển sâu sắc và những người có rối loạn nhận thức đặc biệt nặng và cụ thể về

phát triển ngôn ngữ. Bệnh tâm thần không điển hình Trẻ chậm phát triển trí tuệ với các đặc

điểm của bệnh tự kỷ Nếu cần, hãy xác định một loại chậm phát triển tâm thần bổ sung ( F70-

F79 ).

+ (F84.2) Hội chứng Rett

Nhóm 6 Trang 2

Hội chứng Rette thường chỉ thấy xuất hiện ở trẻ gái. Trong thời gian đầu sau khi sinh ra

thì không thấy có dấu hiệu khác thường nào, nhưng vào thời gian từ khi trẻ được 6 tháng tuổi

cho tới 2 năm thì bắt đầu biểu lộ một vài dấu hiệu bệnh; chẳng hạn trẻ có những cử động tay

chân uốn vặn rập khuôn và lặp đi lặp lại, không có vẻ bình thường. Cũng như trẻ tự kỷ, trẻ bị

Hội chứng Rette cũng có ánh mắt và khuôn mặt đờ đẫn, không có các phản ứng tức thời và

thích hợp trong tiếp xúc và tương tác xã hội, khả năng tiếp thu và diễn đạt ngôn ngữ bị hư

hỏng. Nhưng khác với trẻ tự kỷ, càng về sau trẻ thuộc Hội chứng Rette càng bị khó khăn hơn

về chức năng tâm thần vận động (nghĩa là một số chuyển động của cơ thể không ăn khớp, phù

hợp theo ý muốn) và vì vậy trẻ không thể đi đứng được bình thường. Đặc biệt, đầu của trẻ Hội

chứng Rette có khuynh hướng nhỏ lại, không phát triển song song với chiều cao cơ thể. Tuy

thế, điều kỳ lạ là hầu hết các trẻ thuộc Hội chứng Rette càng về sau lại càng có những dấu

hiệu khá bình thường hơn trẻ tự kỷ trong các khả năng thuộc về tương tác xã hội.

+ F84.3 Rối loạn phân rã khác của thời thơ ấu

Là loại mà những triệu chứng của nó thường chỉ lộ ra sau khi trẻ được 2 tuổi, hoặc có thể

chậm hơn nhưng phải trước 10 tuổi. Khác với trẻ tự kỷ, trong thời gian 2 năm đầu sau khi sinh

ra, trẻ phát triển bình thường về thể chất và không có dấu hiệu khác thường nào về ngôn ngữ,

cách nói năng, tiếp xúc, cách chơi đùa, cách tiếp thu, học hỏi. Tuy nhiên, sau đó đột nhiên

những khả năng diễn đạt và tiếp thu ngôn ngữ, khả năng tương tác xã hội dần dần bị hạn chế,

hư hỏng hay mất mát. Những biểu hiện này tương tự như các triệu chứng của bệnh tự kỷ nên

rất dễ chẩn đoán lầm lẫn với bệnh tự kỷ. Trẻ trở nên thiếu thốn lời nói, không tiếp nhận được

từ ngữ mới, phản ứng trì hoãn, chậm chạp, đờ đẫn và không thích quan hệ, giao tiếp và chơi

đùa, mất dần sự nhanh nhẹn tay chân, có những cử động rập khuôn và lặp đi lặp lại, và có một

số trẻ bị bệnh này lại không điều khiển được tiểu tiện, đại tiện. Thế nhưng ngoại trừ những trẻ

bị bệnh quá nặng thì sẽ giống như trẻ tự kỷ, còn lại đa số trẻ bị rối loạn phân rã đều ở dạng

nhẹ.

+ F84.4 Chứng rối loạn chức năng, kết hợp với sự chậm phát triển tâm thần và các

phong trào khuôn mẫu

Sự biểu hiện không rõ ràng của ngôn ngữ học không chắc chắn. Danh mục này dành cho

một nhóm trẻ chậm phát triển tinh thần nghiêm trọng (IQ dưới 50) có biểu hiện hiếu động, suy

giảm chú ý và hành vi rập khuôn. Ở những trẻ này, các thuốc kích thích có thể gây phản ứng

không tích cực (như ở những cá nhân có mức IQ bình thường), mà là phản ứng nặng nề của

Nhóm 6 Trang 3

dysphoric (đôi khi với sự chậm phát triển tâm thần). Ở tuổi vị thành niên, hypreactivity có xu

hướng được thay thế bởi một hoạt động giảm (mà không phải là điển hình cho hypreactive trẻ

với trí thông minh bình thường). Hội chứng này thường kết hợp với nhiều backlog khác trong

sự phát triển của một bản chất chung hoặc cụ thể. Mức độ liên quan đến sinh lý trong hành vi

này của chỉ số IQ thấp hoặc tổn thương não bộ não không được biết.

+ F84.5 Hội Chứng Asperger

Hội chứng Asperger là loại thường xảy ra cho đa số trẻ trai. Nó có những triệu chứng

giống như bệnh tự kỷ nhưng ở dạng nhẹ hơn, do đó đã có nhiều cuộc thảo luận đề nghị nên

xếp hội chứng Asperger vào loại bệnh tự kỷ nhẹ, hay vào bệnh Rối loạn phát triển - Không

biệt định (sẽ nói bên dưới). Tuy nhiên, cái khác biệt rõ ràng nhất là trẻ bị hội chứng Asperger

không có dấu hiệu chậm lụt, kém phát triển về khả năng trí tuệ và ngôn ngữ, cũng như các khả

năng quan hệ, tiếp thu và tự giúp bản thân, ít ra là trong 3 năm đầu. Nhưng về các hành vi

khác thì trẻ bị hội chứng Asperger cũng tương tự như trẻ kỷ, tức là cũng có những cử chỉ vụng

về, chuyển động rập khuôn và lặp đi lặp lại, luôn bị ám ảnh, bận rộn với một đồ chơi, một âm

thanh đặc biệt nào đó, không muốn thay đổi cái gì đã quen và không thích đánh bạn, không

thích được gần gũi, ôm ấp.

Một số cha mẹ có con bị bệnh hội chứng Asperger thường nghĩ rằng có lẽ môi trường

sống bên ngoài làm con mình bị bệnh tự kỷ; chẳng hạn tivi và các trò chơi điện tử đã làm con

mình bị cuốn hút, ám ảnh, và hậu quả là trở thành đứa trẻ cô độc, lập dị và khác thường

chăng? Thật ra tivi và các trò chơi điện tử không có liên quan gì đến nguyên nhân gây ra căn

bệnh này, mặc dù chúng có làm cho nhiều trẻ em bị đam mê và ám ảnh, cũng như bị lãng phí

nhiều thì giờ vào trong đó. Nhưng bên cạnh một số vấn đề tiêu cực ấy, tivi và trò chơi điện tử

đã giúp cho nhiều trẻ học hỏi ngôn ngữ nhanh chóng, phát triển trí thông minh sớm hơn, óc

suy đoán nhạy bén hơn, và kiến thức được mở rộng trên nhiều mặt. Thực tế là chưa có cuộc

kiểm tra nào đưa ra được con số thống kê cho thấy sự liên hệ nhân quả giữa các triệu chứng

của hội chứng Asperger và số lượng thời gian xem tivi hay chơi trò chơi điện tử của các trẻ

em. Hơn nữa, thường trẻ em đã có những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh này trước khi trẻ

bắt đầu biết xem tivi và chơi các trò chơi điện tử. Nói tóm lại, hội chứng Asperger, cũng như

các loại khác thuộc dạng bệnh rối loạn phát triển lan tỏa đều là những bệnh bẩm sinh

- (F88) Rối loạn phát triển tâm lý khác

- (F89) Rối loạn phát triển tâm lý không xác định

Nhóm 6 Trang 4

3) Nguyên nhân gây ra Rối loạn phát triển ?

Các nghiên cứu khoa học về những nguyên nhân của rối loạn phát triển có liên quan đến

nhiều giả thuyết khác nhau. Một số khác biệt lớn giữa các lý thuyết liên quan đến việc - có hay

không có - yếu tố môi trường làm gián đoạn sự phát triển bình thường, hoặc nếu như có bất

thường được biết trước. Mọi phát triển bình thường là do sự kết hợp các yếu tố từ cả hai, môi

trường và di truyền; sự biến động từ mỗi yếu tố sẽ góp phần dẫn đến sự thay đổi trong quá trình

phát triển bình thường, do đó làm ảnh hưởng đến gây ra theo cách bất thường.

Một giả thuyết hỗ trợ, cho rằng các nguyên nhân gây rối loạn phát triển do môi trường là

một trong những gì liên quan đến căng thẳng (stress) trong thời thơ ấu. Nhà nghiên cứu và bác sĩ

tâm thần trẻ em Bruce D. Perry, MD, Ph.D, giả định rằng, rối loạn phát triển có thể được gây ra

bởi những tổn thương tâm lý (Traumatization) trong thời thơ ấu. Trong tác phẩm của ông, ông

so sánh các chứng rối loạn phát triển ở trẻ em bị tổn thương tâm lý/ với người lớn mắc chứng rối

loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý, liên kết môi trường khắc nghiệt căng thẳng là nguyên

nhân của những khó khăn phát triển. Giả thuyết căng thẳng (Stress) khác cho thấy rằng ngay cả

áp lực nhỏ có thể tích lũy trong cảm xúc, rối loạn hành vi, hoặc xã hội ở trẻ em.

II. Tự kỷ (Autism)

1) Định nghĩa

Tự kỷ (tiếng Anh: autism) là một chứng rối loạn phát triển đặc trưng bởi khiếm khuyết về

mặt quan hệ nhân sinh, giao tiếp ngôn ngữ, giao tiếp phi ngôn ngữ và hành vi sở thích hạn chế và

lặp đi lặp lại. (Theo Wikipedia)

2) Những đặc điểm lâm sàng

Một công trình nghiên cứu của Leo Kanner về 11 đứa trẻ được xem như những trường hợp

tự kỷ đầu tiên (8 trai 3 gái). Ông cho rằng, Trẻ tự kỷ là trẻ thiếu quan hệ tiếp xúc về mặt tình cảm

với người khác; cách thể hiện các thói quen hằng ngày rất giống nhau, tỉ mỉ và có tính rập khuôn;

không có ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ nói thể hiện sự bất thường rõ rệt (nói nhại lời, nói lí nhí,

không nhìn vào mắt khi giao tiếp); rất thích xoay tròn các đồ vật; thích độc thoại trong thế giới

riêng của mình, khó khăn trong việc thực hiện các trò chơi đóng vai theo chủ đề như cho búp bê

ăn, nói chuyện điện thoại, bác sỹ tiêm bệnh nhân; chỉ hiểu nghĩa đen của câu nói, thích tiếng

động và vận động lặp đi lặp lại đơn điệu. Tóm lại theo Kanner nhóm bệnh nhân cùng có 3 đặc

tính quan trọng: Một mình, mong muốn sự giống nhau, có các vấn đề về ngôn ngữ: chậm phát

triển ngôn ngữ, nhại lời…là những dấu hiệu phát hiện ra bệnh tự kỷ. Kanner nhấn mạnh triệu

Nhóm 6 Trang 5

chứng tự kỷ có thể phát hiện được ngay khi trẻ ra đời hoặc trong khoảng 30 tháng đầu. Công

trình khoa học của Kanner đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử giáo dục trẻ tự kỷ, ngày nay

là cơ sở của nhiều công trình nghiên cứu tại nhiều nước thế giới.

Trong sách “trẻ tự kỷ” của GS. Nguyễn Văn Thành ông đã nêu ra nhiều triệu chứng để

phát hiện trẻ tự kỷ sớm:

- Có đời sống kín, không có quan hệ trao đổi tiếp xúc với người có mặt trong cùng

môi trường sống hàng ngày (biểu hiện rõ qua ánh mắt, chỉ đồ vật mong muốn)

- Ngôn ngữ bị rối loạn, thậm chí không có ngôn ngữ.

- Vấn đề lặp đi lặp lại những câu nói hay là tác phong, một cách máy móc và tự

động, gần như suốt ngày.

- Có những hành vi tấn công người khác, hoặc chính bản thân ( đập đầu vào tường, té

chảy máu không biết đau, gây ra những viết thương trên cơ thể).

- Có những bộ điệu và cách đi đứng lạ lùng, kỳ dị (nhìn xa xăm vô định, nhìn trời

đất, nhìn những nơi khác khi người ngoài giao tiếp với trẻ.

Để xác định trẻ tự kỷ cần theo dõi ở những môi trường khác nhau của bé.

Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu xem xét đến khái niệm phổ tự

kỷ. Trong cuốn sách “Hiện tượng tự kỷ”, Lorna Wing (1978) đã tìm ra những dấu hiệu rối loạn

tự kỷ liên quan đến nhân vật “sư huynh Juniper”. Theo nhận định của bà, người này có những

dấu hiệu tự kỷ như: không muốn giao tiếp, tiếp xúc; thờ ơ với mọi người xung quanh, thích

những hoạt động nhàm chán lặp đi, lặp lại; không hiểu và đáp lại những tình cảm của người

khác.

Năm 1944, một bác sỹ tâm thần người Áo là Hans Asperger (1906 - 1980) đã nghiên cứu

trên các bé trai (4 bé trai tuổi 6-11) được đặt tên cho nghiên cứu này là hội chứng Asperger

( hiện nay theo DSM-V, Asperger được gộp chung thành chứng rối loạn tự kỷ, trẻ bị hội chứng

này là một dạng hội chứng bệnh rối loạn phát triển cụ thể: Trẻ gần như không có giao tiếp bằng

mắt hay các giao tiếp không lời như gật đầu, lắc đầu, chỉ tay, trẻ không chơi với ai, chỉ một

mình, không quan tâm, biểu lộ tình cảm với người khác, nhìn người như nhìn đồ vật. Chậm hoặc

hoàn toàn không có khả năng nói, có nói nhưng đảo lộn cấu trúc câu, Không biết chơi đồ chơi,

chỉ cầm lên đập đập rồi ném đi, Một số biểu hiện sớm khác từ sau 18 tháng tuổi như khóc nhiều,

nhận biết kém, ít quan tâm đến bố mẹ, không biết lạ quen, mắt nhìn xa xăm. Theo nghiên cứu

Nhóm 6 Trang 6

của ông thì khả năng phục hồi của trẻ tự kỷ phụ thuộc vào 3 yếu tố: Thời điểm can thiệp, Thời

điểm can thiệp, Sự kiên trì.

Năm 1996, Baron - Cohen, Allen và Gilber nghiên cứu công cụ sàng lọc tự kỷ trên hơn

12.000 trẻ ở độ 18 tháng. Sau đó chọn được 9 dấu hiệu đặc hiệu được dùng dưới dạng bộ câu hỏi

khẳng định, dễ sử dụng tại các phòng khám nhi, phục hồi chức năng. Bộ câu hỏi này có tên

“Bảng đánh giá tự kỷ ở trẻ nhỏ”, bộ câu hỏi (gồm 9 dấu hiệu) có tính đặc hiệu cao. Nghĩa là trẻ

có những dấu hiệu này thì nguy cơ bị tự kỷ cao nhưng nó lại có độ nhạy thấp. Nghĩa là nếu trẻ bị

tự kỷ nhẹ thì có thể các dấu hiệu trên sẽ không quan sát thấy; dẫn tới dễ bỏ sót trẻ bị nhẹ hoặc

không điển hình. Vì vậy, năm 2001, Robin, Fein, Barton và Green bổ sung vào công cụ sàng lọc

này thêm 14 câu hỏi thuộc các lĩnh vực rối loạn vận động, quan hệ xã hội, bắt chước và định

hướng. Bộ câu hỏi bổ sung có tên là M-CHAT, được dùng để sàng lọc trẻ tự kỷ trong độ tuổi 18

- 24 tháng.

Đặc điểm lâm sàng

- Tuổi khởi phát: Khởi phát của rối loạn tự kỷ hầu hết là trước 3 tuổi. Cha mẹ bắt đầu quan

tâm, lo lắng đến trẻ vào 12 – 18 tháng tuổi, khi thấy ngôn ngữ trẻ không phát triển. Hầu hết cha

mẹ quan tâm lo lắng rõ rệt vào lúc trẻ 2 tuổi và 3 tuổi. Nếu sau 3 tuổi, trẻ mới khởi phát bệnh thì

được chẩn đoán là tự kỷ không điển hình. Lúc đầu, hầu hết cha mẹ lo lắng rằng con mình bị điếc,

nhưng rồi cha mẹ nhận thấy rằng trẻ có đáp ứng với tiếng động trong môi trường, điều này chứng

tỏ không phải trẻ bị điếc.

Đôi khi cha mẹ cho biết trẻ phát triển “khá tốt” như biết làm một số điều theo yêu cầu và

cũng có một ít hứng thú trong mối tương tác xã hội. Khoảng 20 – 25% trường hợp, cha mẹ cho

biết trẻ đã phát triển một số ngôn ngữ và sau đó giữ ở mức độ đó hoặc mất đi.

Biểu hiện rõ ở ba đặc điểm:

- Suy giảm chất lượng trong tương tác xã hội: Ở trẻ nhỏ phát triển bình thường, trẻ có

hứng thú đặc biệt với môi trường xã hội và tương tác xã hội. Khuynh hướng này là nền tảng quan

trọng cho sự phát triển các kỹ năng khác.

Đối với trẻ tự kỷ, khuôn mặt con người ít hoặc không gây hứng thú với chúng. Trẻ có khó

khăn trong mối tương tác xã hội, hay nói cách khác, trẻ khó khăn trong việc hiểu xã hội và hành

vi xã hội. Cụ thể là trẻ khó khăn trong việc hiểu hành vi của các bạn mình, không thể “đọc” được

các ý định của bạn. Ở những trẻ phát triển bình thường, điều này không cần phải dạy, trẻ có thể

tự làm một cách dễ dàng. Với trẻ rối loạn phổ tự kỷ, sự suy nghĩ của người khác hay ý kiến của

Nhóm 6 Trang 7

người khác có thể rất ít hoặc không có tác dụng đối với trẻ. Trong khi đó trẻ có thể nói và làm

chính xác điều gì khi trẻ muốn.

Trẻ rối loạn phổ tự kỷ khó chơi và giao tiếp một cách hiệu quả với trẻ em khác. Trẻ

không tham gia các trò chơi bình thường của tuổi trẻ thơ, sự bắt chước khó khăn, thiếu các kỹ

thuật chơi thông thường. Khi người lớn không hiểu vấn đề tự kỷ của trẻ, có thể cho là trẻ hư

hỏng, không vâng lời, lười biếng, trong khi thực ra trẻ không hiểu tình huống, nhiệm vụ hoặc

không đọc được ý định và cảm xúc của người lớn một cách chính xác.

- Suy giảm chất lượng trong giao tiếp ngôn ngữ miệng và trò chơi: Có tới 50% trẻ rối loạn

tự kỷ không biết nói. Thông thường, trẻ bình thường biết phát ra những âm thanh bi ba bi bô, còn

ở trẻ tự kỷ ít khi có hoặc hoàn toàn không có. Trẻ nhỏ tự kỷ có thể nắm tay cha mẹ hướng đến

đối tượng mà nó muốn, nhưng nó không biết dùng giao tiếp mắt để cho biết ý muốn.

Do trẻ tự kỷ chỉ hiểu nghĩa đen, không hiểu nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ, nên trẻ không lĩnh

hội được ý định của người nói chuyện với mình, điều này khiến trẻ tự kỷ cảm thấy rất bối rối.

Bởi vậy, lời nói đùa, hài hước, châm biếm có thể khiến trẻ lúng túng, rối loạn.

Trẻ tự kỷ không có động cơ thúc đẩy để tham gia giao tiếp, không có cố gắng để giao tiếp

qua các phương tiện phi ngôn ngữ. Trong khi ở trẻ bị câm/điếc, để khắc phục thiếu sót về ngôn

ngữ, trẻ cố gắng dùng các hình thức phi ngôn ngữ để giao tiếp.

Khi trẻ rối loạn tự kỷ nói, ngôn ngữ của chúng đặc biệt khác thường thể hiện như sau: trẻ

có thể nhại lại những gì chúng đã nghe, trẻ kém linh hoạt, không nhận thức được sự thay đổi vai

(ngôi) người nói nên lẽ ra phải thay đổi đại từ nhân xưng, trẻ lại không làm được. Điều này dẫn

đến sự đảo lộn đại từ, thí dụ, tự xưng mình là “nó”. Lời nói của trẻ không có sự tương hỗ lẫn

nhau. Trẻ có thể đưa ra lời nói mà không có ý nghĩa giao tiếp. Trong khi ngữ pháp và hình thái

ngôn ngữ khá dư thừa, thì vốn từ và ngữ nghĩa lại rất thấp. Thường ngữ điệu của giọng nói đơn

điệu, đều đều, buồn tẻ giống như người máy.

Sự yếu kém trong các trò chơi thể hiện trẻ không có khả năng tham gia các kiểu chơi

tượng trưng, tưởng tượng. Với đồ chơi, trẻ thường thăm dò khía cạnh không phải là chức năng

của đồ vật. Thí dụ, nếm hoặc ngửi đồ vật, xoay tròn bánh xe,… Để khắc phục thiếu sót trên, phải

dạy trẻ về mục đích giao tiếp, biết sử dụng các phương tiện để truyền đạt, giao tiếp cho phù hợp

với trẻ như dùng hình vẽ, tranh ảnh, điệu bộ, cử chỉ, nói hoặc viết, và dạy cách thức để truyền đạt

chúng.

Nhóm 6 Trang 8

- Hoạt động và hứng thú hạn chế rõ rệt: Ở thiếu sót này, cũng có thể nói là trẻ rối loạn tự

kỷ có yếu kém về suy nghĩ và ứng xử linh hoạt tùy theo tình huống. Trẻ rối loạn tự kỷ thường

khó chịu đựng nổi sự thay đổi những thói quen thường ngày. Thí dụ, nếu ta cố gắng làm thay đổi

trình tự thông thường của một số hoạt động của trẻ, trẻ có thể xuất hiện sự đau buồn thê thảm.

Thay đổi một thói quen hay môi trường có thể gây ra sự chống đối quyết liệt hoặc lúng túng, rối

loạn. Trẻ không chơi với đồ chơi theo cách thức thông thường mà thường xoay tròn, hoặc đập

đập, vỗ vỗ vào đồ vật. Trẻ cũng thích xem những phần chuyển động của đồ chơi hay máy móc

trong thời gian rất lâu và với sự hứng thú rất tăng. Thí dụ, trẻ rất thích những đồ vật xoay tròn

như xem rất lâu cái quạt trần quay. Trẻ tỏ ra hứng thú với hành động lặp đi lặp lại như thu lượm

những sợi dây, nhớ những con số, nhắc đi nhắc lại những từ, những câu nhất định. Đặc biệt, trẻ

có thể bắt chước điều chúng đã quan sát để chơi như chơi làm người dơi hay siêu nhân, nhưng

không thể cùng chơi tưởng tượng với người bạn khác. Trẻ có khuynh hướng gắn bó với một số

chất liệu đồ vật cứng hơn là vật mềm. Trẻ thích một loại đồ vật nào đó về hình thức hơn là sự

đặc biệt hoặc tầm quan trọng của đồ vật và luôn giữ chúng bên mình. Trẻ có các vận động kỳ dị,

rập khuôn như đi trên đầu ngón chân, búng búng ngón tay, quay quay người…một cách thích

thú, dễ chịu.

Những đặc điểm kết hợp

- Về nhận thức: Trước đây Kanner cho rằng, trẻ rối loạn tự kỷ có tiềm năng nhận thức tốt,

ngày nay người ta thấy không phải như vậy. Khoảng 75 – 80% trẻ tự kỷ có chậm phát triển tâm

thần, trong đó khoảng 30% mức độ nhẹ đến trung bình và khoảng 45% mức độ nặng đến rất

nặng.

Trẻ có thiếu sót đáng kể trong các lập luận trừu tượng, những thông tin khái niệm miệng,

các kỹ năng tổng hợp thành một hệ thống. “Không có khả năng hình dung ra cái cây từ những cái

lá”. Trong khi đó, trẻ có khả năng học vẹt, nhận thức được từng phần riêng lẻ, cụ thể mà không

đòi hỏi phải suy luận tổng thể.

Một đặc điểm khá đặc biệt là trẻ rối loạn tự kỷ có khả năng đặc biệt ở một số lĩnh vực

riêng lẻ. Thí dụ trẻ có thể đọc những chữ và những con số phức tạp, tuy hiểu biết ý nghĩa về

chúng rất kém. Trẻ có thể học thuộc lòng các danh sách hoặc các thông tin không quan trọng, có

thể tính toán lịch ngày tháng, có thể phát triển kỹ năng không gian – thị giác như vẽ, hoặc phát

triển các kỹ năng âm nhạc như phân biệt độ cao, thấp của các nốt nhạc và có thể chơi các mẩu

nhạc sau khi chỉ nghe một lần. Đó là sự thiếu cân đối trong học vấn.

Nhóm 6 Trang 9

- Sự bất thường về hành vi vận động: Vận động bất thường đặc trưng của trẻ tự kỷ là

những vận động rập khuôn như đập đập tay, đung đưa thân thể, vặn vẹo ngón tay, vẫy vẫy trước

mắt, lặp lại động tác của người khác và các vận động kỳ quặc, thiếu mục đích khác. Những rối

loạn vận động này thường ở 3 – 4 tuổi, ít gặp ở tuổi lớn hơn và vị thành niên.

- Những đáp ứng không bình thường với những kích thích cảm giác: Trẻ em rối loạn tự kỷ

có đặc trưng ở cả hai khía cạnh là tăng nhạy cảm và giảm nhạy cảm với kích thích cảm giác. Trẻ

có thể rất nhạy cảm với tiếng động, thí dụ, bịt tai lại khi nghe tiếng máy hút bụi hoặc tiếng chó

sủa. Những trẻ khác lại không nghe (như phớt lờ) với tiếng động lớn, nhưng lại bị lôi cuốn bởi

tiếng tích tắc yếu ớt của đồng hồ đeo tay hoặc âm thanh vò nhàu tờ giấy. Một số trẻ có thể sợ ánh

sáng chói, nhưng số khác lại thích thú với kích thích ánh sáng như thích nhìn đối tượng tiến lên

và lùi lại trước mắt chúng. Có trẻ tăng nhạy cảm với cảm giác xúc giác như rất thích sờ vào

những thớ vải mịn, nhưng có trẻ lại giảm nhạy cảm với cảm giác xúc giác như không biết đau.

Có khi trẻ không hề khóc trước chấn thương khá nặng.

- Những rối loạn giấc ngủ và ăn uống: Những rối loạn về giấc ngủ và ăn uống có thể gây

phiền toái lớn cho gia đình trong suốt thời thơ ấu của trẻ. Trẻ tự kỷ thường vận động nhiều trong

khi ngủ và thức giấc về đêm trong thời gian dài. Rối loạn ăn uống liên quan đến việc trẻ ghét một

số thức ăn nhất định do vẻ nhìn bề ngoài, màu sắc hoặc mùi vị thức ăn. Trẻ thường khăng khăng

chỉ ăn một số ít loại thức ăn nhất định và từ chối ăn món mới lạ

- Rối loạn cảm xúc: Điều phổ biến ở trẻ tự kỷ là khó di chuyển cảm xúc và biểu lộ cảm xúc

không phù hợp với tình huống xã hội. Một số trẻ biểu hiện thay đổi khí sắc một cách đột ngột và

cười, khóc, hoặc cười một mình không có lý do rõ ràng. Trẻ lớn hơn có thể biểu hiện lo âu hoặc

trầm cảm.

- Hành vi tự gây tổn thương và công kích người khác: Trẻ nhỏ tự kỷ có thể cắn bàn tay hay

cổ tay mình đến chảy máu và thành chai sẹo. Trẻ cũng có thể tự véo da, kéo tai hoặc tự đánh

mình. Đặc biệt ở trẻ kèm chậm phát triển tâm thần thì tự đập đầu khiến phải dùng mũ bảo hiểm

hoặc các biện pháp bảo vệ khác. Trẻ thường biểu hiện tính khí giận dữ khi phản ứng lại với

những điều yêu cầu trẻ phải tuân theo, thay đổi thói quen hoặc các sự kiện chúng không mong

đợi khác.

- Rối loạn co giật: Động kinh xảy ra trong khoảng 10 – 35% trẻ rối loạn tự kỷ. Cơn co giật

có thể xảy ra ở tất cả các lứa tuổi, nhưng nhiều nhất ở tuổi thơ ấu sớm và tuổi vị thành niên. Cơn

khởi phát liên quan đến tình trạng bệnh xấu hơn.

Nhóm 6 Trang 10

- Những đặc điểm cơ thể: Trẻ tự kỷ có tỷ lệ cao hơn về dị tật tai.

Một số đặc điểm thường thấy đối với trẻ em mắc bệnh rối loạn phổ tự kỷ gồm:

- Kỹ năng sinh hoạt kém: Khác với trẻ em bình thường, trẻ tự kỷ thường chậm nói và kém

phát triển trí tuệ, các em bị mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỷ phần lớn vẫn nói bình thường, thậm

chí nói khá nhiều, và có trí tuệ trung bình, khá tuy vậy những em mắc chứng này lại có nhiều

biểu hiện của sự vụng về, hậu đậu và kém về các kỹ năng cần có của một đứa trẻ. Thường gặp

như:

+ Những trẻ em mắc rối loạn phổ tự kỷ thường có vốn từ vựng nhiều, nhưng lại hay nói

năng rườm rà, không đúng hoàn cảnh, hoặc hay nói lan man khi được hỏi những điều đơn

giản.

+ Kỹ năng xã hội, khả năng giao tiếp, tương tác tác hội tương đối kém, các em không biết

chủ động giao tiếp và gặp khó khăn trong việc sử dụng cử chỉ như nét mặt, điệu bộ, ngôn

ngữ cơ thể... để diễn đạt mình cần gì và muốn gì. Đặc biệt là các em giao tiếp bằng ánh

mắt kém nhìn đờ dẫn, vô cảm đồng thời ít có khả năng hiểu được người đối diện nói gì.

Những trẻ rối loạn phổ tự kỷ thường có khuynh hướng thích sống cô đơn.

+ Khả năng phối hợp vận động tay chân của các em không tốt ngay cả nhưng vận động đơn

giản, điều này khiến trẻ rất vụng về, lóng ngóng và hậu đậu, một số trẻ chân tay lóng

ngóng đến mức không thể tự mình đi vệ sinh.

- Lập dị: Theo một số nghiên cứu thì những người bị hội chứng rối loạn phổ tự kỷ ngoài

việc có thể biểu hiện nhiều dạng rối loạn thần kinh từ nhẹ đến nặng như kém giao tiếp trong cộng

đồng, thích đơn độc và đặc biệt là thường có các thay đổi về tính cách ví dụ như nhiều người

thường xuyên bị ám ảnh, lo lắng thái quá về các vấn đề mình quan tâm nhưng lại thờ ơ với

những sinh hoạt khác của xã hội, gặp khó khăn trong việc hiểu và diễn tả các ngôn ngữ thông

dụng trong cuộc sống.

Mặc dù sự phát triển về ngôn ngữ có vẻ bình thường nhưng do mắc chửng rối loạn phổ tự

kỷ nên đối tượng này không hiểu được những câu nói phức tạp, gặp khó khăn trong việc diễn đạt

ngôn ngữ ở từng ngữ cảnh khi giao tiếp. Trong nghiên cứu của mình, Hans Asperger mô tả

những bệnh nhân này như một bệnh tâm thần kích động, hoạt động thái quá của bệnh tự kỷ và

tình trạng mất khả năng học tập ngôn ngữ.

Bên cạnh đó, thính giác, vị giác, khứu giác của người bị hội chứng rối loạn phổ tự kỷ

thường nhạy cảm và dễ bị âm thanh, ánh sáng gây kích động. Những người này có cảm nhận thế

Nhóm 6 Trang 11

giới quanh mình rất khác biệt, vì thế cách xử sự có vẻ kỳ quặc, lập dị do sự khác biệt trong hoạt

động của hệ thần kinh mà không phải là biểu hiện của bất lịch sự hoặc do hậu quả của một nền

giáo dục không chu đáo. Chính vì lối sống như vậy trên trẻ mắc bệnh rối loạn tự kỷ thường bị

các bạn trẻ cùng lứa xa lánh, hay trêu chọc hoặc là nạn nhân của những lần bắt nạt, hiếp đáp.

- Khả năng bất thường; Tuy có những biểu hiện của những đứa trẻ vụng về, hậu đậu, lóng

ngóng và lập dị nhưng bên cạnh đó một số trẻ em bị mặc bệnh hội chứng rối loạn phổ tự kỷ lại

có tư duy tốt, một số trẻ có khả năng vượt trội so với các trẻ em bình thường. Những biểu hiện

thường thấy như có đứa trẻ chỉ mới 2-3 tuổi mà có thể đọc sách vanh vách hay biết làm toán,

nhiều trẻ tự kỷ biết đọc sớm và có sự ham thích kỳ lạ với chữ và con số, nhiều trẻ có khả năng

vượt trội do có tư duy về toán, kỹ thuật tốt biểu hiện ra nhiều trẻ từ nhỏ đã có sở thích đặc biệt về

mặt tri thức như toán, vật lý, có khả năng đọc sách, đọc thuộc lòng thơ, truyện, say mê nghiên

cứu máy móc, đồ điện tử, tin học...

Trẻ cũng có thể có trí nhớ phi thường, khả năng tự học những gì mình yêu thích và

thường được cho là khả năng bất thường, thậm chí được gọi là thần đồng. Khoảng 10% số trẻ tự

kỷ có đặc điểm này.Tuy nhiên, sự thông minh kỳ lạ này thường chỉ biểu hiện ở một vài khía

cạnh, còn xét về tổng thể, trẻ vẫn bị rối loạn phát triển. Mặt khác, nhiều bé tuy có khả năng đọc

vanh vách nhưng lại không hiểu gì hoặc có thể hết bảng cửu chương, nhưng không làm được

phép tính đơn giản là 1 + 1.

- Trẻ tự kỷ hạn chế khả năng giao tiếp xã hội: Một đứa trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có

kỹ năng xã hội kém, kỹ năng giao tiếp hạn chế và thường lặp đi lặp lại các hoạt động hoặc hành

vi của mình. Dấu hiệu cảnh báo có thể có thể xuất hiện khi trẻ được khoảng 12 đến 24 tháng tuổi

và bao gồm:

+ Không phát âm, cười hoặc có các biểu cảm khác trên gương mặt khi 9 tháng tuổi

+ Không bập bẹ khi đã được 12 tháng

+ Không dùng những động tác như vẫy tay khi 12 tháng

+ Không có khả năng lảm nhảm, nói chuyện hoặc phát triển các kỹ năng xã hội ở mọi lứa

tuổi

+ Khó khăn trong việc sử dụng hoặc hiểu các ám hiệu không lời như nét mặt, dáng điệu và

cử chỉ

+ Không tiếp xúc bằng mắt khi đối diện với người khác

+ Thất bại trong việc phát triển các mối quan hệ xã hội với các trẻ khác

Nhóm 6 Trang 12

+ Không có khả năng chia sẻ hoặc chỉ ra đối tượng mình quan tâm

+ Không có khả năng tương tác với người khác

+ Chậm nói hoặc không có khả năng nói chuyện

+ Không thể bắt đầu hoặc duy trì một cuộc trò chuyện

+ Sử dụng lặp đi lặp lại một số từ ngữ

+ Thiếu linh hoạt khi chơi hoặc chơi một mình

+ Dễ buồn bởi những thay đổi nhỏ

+ Luôn lặp lại một thói quen hay nghi thức nào đó

+ Có những chuyển động lặp đi lặp lại, chẳng hạn như vỗ tay hoặc xoắn các ngón tay, lắc

mình hoặc quay vòng tròn.

+ Phản ứng bất thường với cách nếm, nhìn, ngửi hoặc cảm thấy

+ Kỹ năng vận động thô rất khó khăn như chạy dễ ngã hoặc nắm một cây bút chì không

chặt.

Các vấn đề đi kèm:

- Các vấn đề về y khoa: Các vấn đề về y khoa có thể chẩn đoán được: các bất thường về di

truyền, khiếm khuyết gene chiếm một phần nhỏ ( có thể lên đến 10%), bao gồm các rối

loạn đơn hay đa gene ( hội chứng Angelman, bệnh xơ củ (tuberous clerosis), hội chứng

nhiễm sắc thể X mỏng manh, hội chứng Rett…

- Chậm phát triển tâm thần: Khoảng 35% trẻ tự kỷ có chậm phát triển tâm thần đi

kèm( Baird và cộng sự, 2000).

- Lo âu: Chiếm khoảng 7-84%, đặc biệt liên quan đến đến các yếu tố kích thích mà trẻ

nhạy cảm.

- Động kinh: Chiếm khoảng 11-39% các trường hợp, thường thì trẻ nữ và trẻ có chậm phát

triển đi kèm sẽ dễ bị hơn (Ballaban-Gil & Tuchman,2000). Khởi phát động kinh thường

xảy ra trước 3 tuổi hay trong thời kỳ dậy thì ( từ 11-14 tuổi) ( Gillberg&

Steffenburg,1987; Goode, Rutter & Howlin, 1994; Volkman & Nelson, 1990).

- Thoái lùi: có khoảng 1/3 các cha mẹ báo rằng có sự thoái lùi. Động kinh thường ở những

trẻ thoái lùi

- Tic : khoảng 6%

- Các triệu chứng tiêu hoá: táo bón, trào ngược dạ dày thực quản , tiêu chảy…chiếm

khoảng 18-52%. Cũng có những trường hợp thấy tăng sản hạch lympho trong ruột.

Nhóm 6 Trang 13

- Rối loạn chức năng miễn dịch: không tương đồng trong tất cả các nghiên cứu

- Suy kém thị giác hoặc thính giác: khoảng 7-20% suy kém thính giác, 4% suy kém thị giác

- Tăng động kém chú ý

- Hành vi ám ảnh

- Rối loạn lưỡng cực: khoảng 15% ở những người lớn bị tự kỷ

- Các vấn đề về hành vi khác: gây hấn, tự gây tổn thương, tự kích thích…

3) Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ của tự kỷ

a) Nguyên nhân:

Về nguyên nhân của bệnh tự kỷ, đã có rất nhiều giả thuyết, nhưng vẫn chưa được các nhà

khoa học kết luận một cách toàn diện, đầy đủ.

Mặc dù bệnh tự kỷ chủ yếu là di truyền, các nhà nghiên cứu lại nghi ngờ cả hai yếu tố

môi trường và di truyền đều là nguyên nhân của bệnh này. Tuy nhiên đối với nguyên nhân do di

truyền, các nhà nghiên cứu chưa tìm ra được gen hay tổ hợp gen nào gây ra bệnh này.

Một số nguyên nhân khác có thể kể đến như bất thường về phía mẹ( các bệnh lý mẹ mắc

phải trước, trong thời kỳ mang thai): mắc Virus Rubella: việc mắc rubella trong thai kỳ có tỷ lệ

lớn phát sinh quái thai. Bên cạnh đó, việc kết hợp giữa kháng thể của mẹ (IgG) và Protein não

của thai nhi có thể làm cho não thai nhi kém phát triển, gây ra bệnh tự kỷ. Ngoài ra, mắc virus

rubella trong thai kỳ còn tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tâm thần khác ở trẻ, đặc biệt là chứng

tâm thần phân liệt.

b) Yếu tố nguy cơ:

Bệnh lý tuyến giáp: sự thiếu hụt tyroxin của người mẹ trong tuần 8 – 12 của kỳ thai

nghén được công nhận là sản sinh ra những thay đổi trong não thai nhi dẫn tới tự kỷ. Sự thiếu hụt

tyroxin có thể là nguyên nhân gây bởi thiếu I ốt trong bữa ăn hoặc người mẹ đã phẫu thuật tuyến

giáp.

Bệnh đái tháo đường: Bệnh đái tháo đường của bà mẹ trong suốt thời kỳ thai nghén là

nguy cơ quan trọng của tự kỷ; phương pháp phân tích tổng hợp 2009 thấy rằng đái tháo đường

tăng gấp đôi nguy cơ bị tự kỷ.

Thuốc sử dụng trong thai kỳ: việc điều trị các bệnh của người mẹ trước và trong thai kỳ

cũng có thể ảnh hưởng : thuốc an thần kinh, Acid Valproic, thuốc điều trị dạ dày, viêm khớp.

Nhóm 6 Trang 14

Stress trong thời kỳ mang thai bao gồm những mâu thuẫn trong gia đình, việc biến động

về tài chính và tình cảm trong quá trình mang thai, tiếng ồn, nhiệt độ … có thể ảnh hưởng tới quá

trình phát triển của não bộ thai nhi, là tiền đề phát sinh tự kỷ.

4) Các phương pháp và công cụ chẩn đoán

a) DSM-IV-TR

Hiện nay, các triệu chứng chẩn đoán thường được sử dụng nhất là trong DSM-IV-TR

A. Có tổng số 6 mục ( hoặc hơn) trong các phần (1), (2) và (3), trong đó có ít nhất 2 mục

từ phần (1) và 1 mục từ phần (2) và (3):

1. Suy kém về chất lượng trong các tương tác xã hội, được biểu hiện bằng ít nhất 2 trong

các triệu chứng sau đây:

a) Suy kém rõ rệt trong việc sử dụng nhiều hành vi không lời nói như liếc mắt với

người khác, biểu lộ qua nét mặt, tư thế cơ thể, cử chỉ nhằm để điều chỉnh tương tác xã

hội

b) Thất bại trong việc phát triển các mối quan hệ bạn bè thích hợp với mức phát triển

của trẻ

c) Thiếu sự tìm kiếm tự động nhằm chia sẻ vui thích, các quan tâm và kết quả đạt

được với người khác ( ví dụ như thiếu việc cho người khác xem, mang đến hoặc chỉ cho

thấy các đồ vật quan tâm)

d) Thiếu sự trao đổi qua lại về xã hội hoặc cảm xúc

2. Các suy kém về chất lượng trong giao tiếp được biểu hiện bằng ít nhất 1 trong những

triệu chứng sau đây:

a) Chậm trễ hoặc thiếu vắng hoàn toàn sự phát triển về ngôn ngữ nói ( không có kèm

theo việc cố gắng bù trừ bằng các phương thức giao tiếp thay thế như cử chỉ hay điệu

bộ)

b) Ở những cá thể có ngôn ngữ đầy đủ thì tiêu chuẩn là suy kém rõ rệt về khả năng

khởi đầu hay duy trì một đối thoại với người khác

c) Sử dụng ngôn ngữ theo cách định hình lập đi lập lại hoặc ngôn ngữ kỳ lạ

d) Thiếu vắng trò chơi giả vờ theo cách tự nhiên và phong phú hoặc thiếu trò chơi bắt

chước xã hội phù hợp với mức phát triển của trẻ

3. Các kiểu hành vi, các ham thích, các hoạt động lập đi lập lại giới hạn và định hình

được biểu hiện bằng ít nhất 1 trong những triệu chứng sau đây:

Nhóm 6 Trang 15

a) Bận rộn bao quanh một hoặc nhiều hơn các kiểu vui thích giới hạn và định hình

bất thường về cường độ hoặc mức tập trung

b) Bám dính một cách cứng ngắc rõ rệt đối với các thói quen hoặc các nghi thức hằng

ngày đặc biệt, không có chức năng

c) Các cách thức vận động định hình và lập đi lập lại ( Ví dụ như vẫy tay hoặc ngón

tay, nhảy hoặc vận động toàn cơ thể)

d) Bận rộn thường xuyên với các phần của vật thể

B. Chậm trễ hoặc thực hành chức năng bất thường trong ít nhất 1 trong các lãnh vực sau

đây, khởi phát trước 3 tuổi:

1. Tương tác xã hội

2. Sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội , hoặc

3. Chơi biểu tượng.

C. Xáo trộn này không giải thích được rối loạn Rett hay rối loạn giải thể ở tuổi nhỏ.

b) Các bài kiểm tra

➢ Test đánh giá sự phát triển tâm lý trẻ nhỏ (Test Denver)

Test Denver có tên đầy đủ là Denver Developmental Screening Test (DDST) dùng

để kiểm tra, đánh giá về các vấn đề nhận thức và hành vi ở trẻ em từ 0 - 6 tuổi. Test Denver

là sản phẩm của nhóm tác giả William K. Frankenburg và Josiah B. Dobbs, được giới thiệu

lần đầu tiên vào năm 1967. Cho tới năm 1992, qua quá trình nghiên cứu, Test Denver được

phát triển thành Test Denver II. Cả hai loại Test trên đều được thiết kế để sử dụng trong

lĩnh vực y học và giáo dục mầm non nhằm theo dõi sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ mầm

non. Việc theo dõi sự phát triển này dựa trên quá trình so sánh kết quả kiểm tra của trẻ với

thang đánh giá, với các trẻ khác cùng độ tuổi và sự phát triển của chính bản thân trẻ ở các

thời điểm khác nhau trong khoảng từ 0 tới 6 tuổi. Có thể nói, so với hầu hết các loại trắc

nghiệm dự đoán sự phát triển của trẻ khác, Test Denver thể hiện được năm giá trị độc đáo

khác biệt:

- Có độ tin cậy cao (đã được kiểm chứng từ nhiều nghiên cứu công phu, tỷ mỉ ở

nhiều quốc giá khác nhau như Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Ấn Độ, Iran...

- Cho phép người đánh giá tiến hành trên bất kỳ trẻ ở độ tuổi nào từ sơ sinh tới 6

tuổi.

Nhóm 6 Trang 16

- Bài kiểm tra có tiêu chí riêng cho từng nhóm đối tượng trẻ (dựa vào tỷ lệ giới

tính, dân tộc và sự giáo dục của cha mẹ khi trẻ tham gia đánh giá).

- Việc đánh giá dựa trên quan sát thực tế mà không phải gián tiếp qua cha, mẹ hay

người thân của trẻ.

- Thể hiện tương đối đầy đủ về sự tiến bộ của trẻ để can thiệp kịp thời khi có nghi

vấn chậm phát triển cũng như tác động hợp lý với trẻ có những tiến bộ vượt trội.

➢ Bảng kiểm tra những dấu hiệu tự kỷ ở trẻ em (CHAT - Baron-Cohen, 1992)

Bảng kiểm tra sàng lọc tự kỷ ở trẻ nhỏ được thiết kế để sàng lọc trẻ tự kỷ từ 18

tháng tuổi. Sử dụng CHAT chỉ mất 5 đến 10 phút để thực hiện và cho điểm. CHAT gồm 9

câu hỏi dạng “có/không” được trả lời cha mẹ trẻ và 5 câu hỏi cho người quan sát sàng lọc.

Bộ câu hỏi CHAT được đánh giá là có độ tin cậy cao nhưng lại có độ nhạy thấp: trẻ tự kỷ

nhẹ hoặc có dấu hiệu không điển hình có không sàng lọc được.

➢ Bảng kiểm tra sàng lọc tự kỷ ở trẻ nhỏ có sửa đổi M – CHAT 23 (do Robin, Fein

Baron & Green, 2001)

Bảng kiểm tra này được bổ sung thêm 14 câu hỏi so với bộ CHAT. 14 câu hỏi này

thuộc các lĩnh vực rối loạn vận động, quan hệ xã hội, bắt chước và định hướng. Bộ câu hỏi

sửa đổi này được dùng để sàng lọc trẻ tự kỷ trong độ tuổi từ 18 – 30 tháng. Bảng kiểm tra

này được thiết kế đơn gian với 23 câu hỏi để phỏng vấn cha mẹ. Cũng giống như CHAT,

M-CHAT được đánh giá có độ tin cây cao và nhạy hơn CHAT.

➢ Thang đánh giá tự kỷ thời thơ ấu (Childhood Autism Rating Scale - CARS):

Thang đo được thiết kế dưới dạng bảng hỏi và quan sát, được dùng để chẩn đoán

tự kỷ từ 24 tháng tuổi trở lên. Thang đo này kiểm tra tổng cộng 15 lĩnh vực khác nhau

nhằm đưa ra các mức độ tự kỷ bao gồm: Quan hệ với mọi người, bắt chước, đáp ứng tình

cảm, động tác cơ thể, sử dụng đồ vật, thích nghi với sự thay đổi, phản ứng thị giác, phản

ứng thính giác, phản ứng qua vị giác và khứu giác, sự sợ hãi hoặc hồi hộp, giao tiếp bằng

lời, giao tiếp không lời, mức độ hoạt động, chức năng trí tuệ, và ấn tượng chung của người

đánh giá. . Có thể dùng CARS để dánh giá trẻ tự kỷ với nhiềm mục đích khác nhau như: để

xây dựng chương trình can thiệp sớm, theo dõi định kỳ trẻ tự kỷ, đánh giá hiệu quả của

việc can thiệp…Thời gian thực hiện từ 5 đến 10 phút. Hiện nay CARS đang được áp dụng

rất rộng rãi ở Việt Nam.

Nhóm 6 Trang 17

➢ Bảng phỏng vấn chẩn đoán tự kỷ có điều chỉnh (The Autism Diagnostic Interview

– Revised - ADI – R).

Đây là công cụ chẩn đoán tự kỷ thông qua việc tìm hiểu các vấn đề về giao tiếp và

ngôn ngữ, kĩ năng xã hội, chơi và hành vi với các thông tin do cha mẹ cung cấp, được xây

dựng trên cơ sở các tiêu chí của ICD 10 và DSM IV

➢ Bảng quan sát chẩn đoán tự kỷ (Autism Diagnostic Observation Schedule: ADOS)

Đây là công cụ được thiết kế dưới dạng các hoạt động giúp đánh giá các vấn đề về

giao tiếp, kĩ năng chơi, tương tác xã hội, hành vi rập khuôn và sở thích định hình. ADOS

được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí của ICD -10 và DSM - IV. Ban đầu, công cụ này chỉ

dùng để chẩn đoán cho những trẻ hơn 3 tuổi nhưng sau đó đã có phiên bản dành cho những

trẻ nhỏ hơn đó là PL – ADOS.

➢ Thang đánh giá tự kỷ Gilliam (Gilliam Autism Rating Scale - GARS ).

Thang đánh giá này được Jame E. Gilliam công bố năm 1995 trên cơ sở nghiên

cứu trên 1.107 trẻ tự kỷ tại 48 bang của Mỹ, được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí của

DSM - IV. Nội dung gồm 56 câu hỏi trắc nghiệm ngắn gọn, áp dụng cho đối tượng tự kỷ từ

3 đến 22 tuổi. Bao gồm bốn mục đánh giá chính: hành vi định hình, giao tiếp, tương tác xã

hội và các rối loạn phát triển khác.

➢ Bảng câu hỏi phổ tự kỷ (Autism Spectrum Screening Questionnaire: ASSQ).

Bảng câu hỏi được thiết kế gồm 24 mục dạng “Có/ Có một phần/Không” dành cho

cha mẹ, giáo viên hoặc người chăm sóc trẻ trả lời để đánh giá các triệu chứng rối loạn phổ

tự kỷ ở những đối tượng tự kỷ khả năng cao ở trẻ em và vị thành niên. Điểm tối ưu của

ASSQ là giảm thiểu được những trường hợp dương tính giả nhưng vẫn đảm bảo độ tin cậy

cao. ASSQ là một công cụ đơn giản, tiết kiệm, dễ dàng sử dụng và có hiệu quả cao trong

việc kiểm tra phát hiện ASD.

➢ Bảng câu hỏi truyền thông xã hội (Social Communication Questionnaire: SCQ).

Đây là phương pháp sàng gồm 40 mục để kiểm tra các triệu chứng liên quan đến

rối loạn phổ tự kỷ (ASD). Các mục này được thiết kế theo định dạng trả lời có / không và

dành cho phụ huynh (hoặc người chăm sóc chính) trả lời trong vòng khoảng 10 phút và

được bởi chuyên viên. Đây là công cụ dễ dàng sử dụng, tuy nhiên việc sử dụng toàn bộ

công cụ và xây dựng các diễn giải dựa trên kết quả SCQ cần được thực hiện với sự giám

sát của một cá nhân đã được đào tạo chuyên môn về chăm sóc và điều trị trẻ ASD. SCQ có

Nhóm 6 Trang 18

vẻ như là một công cụ hữu ích để xác định trẻ nhỏ cần được đánh giá thêm và hỗ trợ cho

việc xây dựng phác đồ trị liệu thích hợp, đặc biệt nếu được sử dụng kết hợp với một cuộc

kiểm tra của chuyên gia.

➢ Thang điểm khảo sát khả năng giao tiếp và hành vi (Communication and

Symbolic Behavior Scales: CSBS).

Đây là một công cụ đáng tin cậy, có tính hiệu quả cao. CSBS sử dụng các cuộc

phỏng vấn phụ huynh và quan sát trực tiếp về tự nhiên để thu thập thông tin quan trọng về

phát triển giao tiếp của trẻ. Không giống như các đánh giá ngôn ngữ khác, CSBS khảo sát

kỹ năng giao tiếp và các chỉ số thường bị bỏ qua về phát triển biểu tượng, bao gồm cử chỉ,

biểu cảm trên khuôn mặt và các hành vi vui chơi. Được hỗ trợ bởi các dữ liệu kỹ thuật và

tương thích với chương trình phát triển phổ biến ngày nay, CSBS là chìa khóa của bạn để

đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho việc xác định sớm các rối loạn ngôn ngữ và giao tiếp.

➢ Test đánh giá hội chứng Asperger ở trẻ em (Childhood Asperger Syndrome Test:

CAST).

Đây là một đánh giá gồm 39 mục, được thiết kế theo dạnh “có hoặc không” dành

phụ huynh để sàng lọc các điều kiện quang phổ tự kỷ hoạt động cao trong nghiên cứu dịch

tễ học. Bảng câu hỏi đã được Trung tâm Nghiên cứu Tự kỷ (ARC) phát triển tại Đại học

Cambridge để đánh giá mức độ trầm trọng của các triệu chứng tự kỷ ở trẻ em. CAST được

chứng minh có độ chính xác cao để sử dụng như là một bài kiểm tra sàng lọc, với độ nhạy

cao trong các nghiên cứu với trẻ em ở bậc tiểu học ở các trường chính thống. Đây là đây là

một công cụ sàng lọc tương đối mạnh mẽ cho nghiên cứu dịch tễ học ASD.

c) Phương pháp sinh hóa

- Chụp cắt lớp não có thể chẩn đoán bệnh tự kỷ: Nghiên cứu do các nhà khoa học tại Viện

Tâm thần học, King's College London và tài trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu Y khoa (the

Medical Research Council), có thể dẫn đến một xét nghiệm sinh học đơn giản cho bệnh

tự kỷ, và một quá trình chẩn đoán rõ ràng hơn bao giờ hết, là lần đầu tiên. Bộ não của

người mắc chứng tự kỷ khác những người không tự kỷ có một sự khác biệt khá tinh vi, và

các nhà nghiên cứu phát triển một phương pháp tiên phong mới nhằm sử dụng những

khác biệt này để chẩn đoán những người trong các nhóm phổ tự kỷ.Trong các thử

nghiệm, nó đã chứng minh để chẩn đoán người lớn bị bệnh tự kỷ chính xác hơn 90%. Sử

dụng một máy quét MRI, các nhà nghiên cứu đã chụp hình ảnh của chất xám trong não.

Nhóm 6 Trang 19

Sau đó, với một kỹ thuật hình ảnh riêng biệt, họ xây dựng lại những hình ảnh như hình

ảnh 3D mà máy tính có thể đánh giá cho thông tin các hình dạng, cấu trúc và độ dày, tất

cả các thông số đo được sẽ chỉ ra là mắc hội chứng Tự kỷ (ASD- Autism Spectrum

Disorder). Hơn 1% của dân số Vương quốc Anh, với hơn nửa triệu người, bị ảnh hưởng

bởi chứng tự kỷ, chủ yếu là nam giới. Tình trạng này ảnh hưởng đến từng trường hợp ở

từng người khác nhau, nhưng tựu trung họ không có khả năng giao tiếp, tạo mối quan hệ

xã hội, và thông cảm. Họ có thể giải thích lặp đi lặp lại với các từ ngữ hoặc các cử động.

Hội chứng Asperger cũng được liệt kê trong phổ tự kỷ. Những người có Asperger chia sẻ

cùng một khó khăn xã hội như là những người có bệnh tự kỷ, nhưng thường ít khó khăn

khi nói, và cũng thường có trí thông minh tầm trung bình hoặc cao hơn. (Theo Channel4

news, 11/08/2010)

- Xét nghiệm máu: Nghiên cứu do Juergen Hahn và Daniel Howsmon dẫn đầu đã được

công bố trên tạp chí PLOS Computational Biology. Nghiên cứu xác định một phương

pháp mới để dự đoán xem đứa trẻ có rối loạn phổ tự kỷ dựa trên các chất có thể phát hiện

ra trong máu hay không. Theo đó nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ các mẫu máu

của 83 trẻ tự kỷ và 76 trẻ tự kỷ thuộc nhóm thần kinh phát triển khá bình thường nghĩa là

chúng không bị ảnh hưởng bởi rối loạn phổ tự kỷ. Nghiên cứu được thực hiện ở trẻ từ 3

đến 10 tuổi, các nhà khoa học đã tiến hành đo nồng độ các chất chuyển hóa từ hai quá

trình trao đổi chất: quá trình trao đổi chất cacbon phụ thuộc vào folate và quá trình

chuyển hóa (the folate-dependent one-carbon (FOCM) metabolism and transsulfuration

(TS) pathways). Các nhà khoa học đã phát triển các mô hình thống kê đa biến, phân loại

chính xác trẻ em bị chứng tự kỷ dựa vào tình trạng thần kinh của chúng. Họ cũng lưu ý

rằng các mô hình "có khả năng dự đoán tốt hơn nhiều so với bất kỳ phương pháp tiếp cận

hiện tại nào từ các tài liệu khoa học”. Sử dụng các công cụ này, Juergen Hahn và nhóm

đã xác định chính xác 97.6% trẻ em bị chứng tự kỷ và 96.1% những trẻ tự kỷ thuộc nhóm

thần kinh phát triển khá bình thường. Các tác giả kết luận: Mức độ chính xác về phân loại

cũng như mức độ dự đoán nghiêm trọng, vượt xa các phương pháp khác trong lĩnh vực

này và là chỉ số tốt cho thấy các chất chuyển hóa được xem xét có liên quan chặt chẽ với

chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ. Tuy nhiên, Juergen Hahn cũng thừa nhận rằng cần có thêm

nhiều nghiên cứu để khẳng định kết quả. Trong tương lai, các nhà nghiên cứu sẽ nghiên

cứu khả năng phát triển các liệu pháp quá trình trao đổi chất cacbon phụ thuộc vào folate

Nhóm 6 Trang 20

và quá trình chuyển hóa ((the folate-dependent one-carbon (FOCM) metabolism and

transsulfuration (TS) pathways) có thể làm giảm các triệu chứng của rối loạn phổ tự kỷ.

(Theo http://www.medicalnewstoday.com/articles/316375.php, 18/3/201)

- Chẩn đoán qua xét nghiệm ADN: Hội chứng nhiễm sắc thể X dễ tổn thương là nguyên

nhân di truyền thường gặp nhất gây ra bệnh tự kỷ. Theo đó, các nhà nghiên cứu tại Viện

Nghiên cứu trẻ em Murdoch đã phát hiện ra rằng, một xét nghiệm máu phân tích ADN

không tốn kém có thể đưa ra kết quả chính xác thể loại cũng như mức độ nghiêm trọng

của các triệu chứng mà gen di truyền có thể gây ra. Xét nghiệm mới này cho phép chẩn

đoán đối với trẻ em ngay lúc mới sinh hay khi còn bé thay vì phải chờ đợi cho tới khi các

triệu chứng xuất hiện lúc trẻ được khoảng 3 tuổi. (Theo Clinical Chemistry)

5) Các phương pháp can thiệp hiện nay

Hiện nay không có một phương pháp nào điều trị khỏi rối loạn phổ tự kỷ hoặc dứt điểm

các triệu chứng. Tuy nhiên một số phương pháp can thiệp có thể cải thiện các chức năng ở người

có ASD. Các phương pháp đó bao gồm:

a) Các phương pháp tâm lý - Giáo dục

- Can thiệp sớm: Nghiên cứu cho thấy các dịch vụ điều trị can thiệp sớm có thể cải thiện

đáng kể sự phát triển của trẻ. Dịch vụ can thiệp sớm giúp trẻ từ sơ sinh đến 3 tuổi học các

kỹ năng quan trọng. Các dịch vụ này bao gồm liệu pháp để giúp đứa trẻ các vấn đề về thể

chất (cầm nắm, lăn, bò, đi bộ), giao tiếp (nói, nghe, hiểu); nhận thức (tư duy, học hỏi, giả

quyết vấn đề); xã hội / cảm xúc (vui chơi, cảm thấy an toàn và vui vẻ); tự giúp đỡ (ăn,

mặc quần áo). Điều quan trọng là cha mẹ nên nói chuyện với bác sĩ của con bạn càng

sớm càng tốt nếu bạn nghĩ rằng con bạn có dấu hiệu của ASD hoặc vấn đề phát triển

khác.

- Các tiếp cận về hành vi và giao tiếp: C.ác cách tiếp cận hành vi và giao tiếp giúp trẻ em

với ASD là những người được chỉ định cung cấp cấu trúc, hướng dẫn và tổ chức cho đứa

trẻ, và có thêm sự tham gia của gia đình. Các phương pháp bao gồm: Phân tích hành vi

ứng dụng (ABA), liệu pháp tích hợp cảm giác (SIT), hệ thống giao tiếp qua tranh ảnh

(PECS), trị liệu bằng các môn nghệ thuật (âm nhạc, hội họa…),..

- Trị liệu phân tâm: Phương pháp này chủ yếu là chơi và nói chuyện, nhằm giúp trẻ và gia

đình giải tỏa những căng thẳng dồn nén trong quá khứ, hệ thống lại cấu trúc nhân cách

của trẻ. Trong trị liệu phân tâm sẽ giúp cải thiện bầu không khí gia đình, giúp mọi người

Nhóm 6 Trang 21

Trì Trúc Nguyên, 12/24/17,
Em chưa kiếm đc bài gốc

thấu hiểu thực tại và chấp nhận thực tại tốt hơn, mọi người sẽ vui vẻ hơn trong giao tiếp

và chăm sóc trẻ. Điều này giúp trẻ tự kỷ cải thiện tình huống giao tiếp và hình thành sự

tiếp xúc qua lại. Khuyến khích trẻ hợp tác trong mọi hoạt động sinh hoạt của gia đình,

nhà trường và xã hội; từ đó, tình trạng tự kỷ của trẻ được cải thiện dần dần.

- Phương pháp chỉnh âm và trị liệu ngôn ngữ: Đây là phương pháp can thiệp thường thấy

nhất ở trẻ tự kỷ. Trẻ tự kỷ có khó khăn về liên hệ; điều này bị chi phối to lớn bởi ngôn

ngữ và lời nói. Theo các chuyên gia âm ngữ trị liệu, nếu trẻ tự kỷ biết nói sẽ ảnh hưởng

rất tốt cho sự phát triển trong tương lai. Nên chỉnh âm là một phần đặc biệt quan trọng

cho trị liệu. Trị liệu thường được áp dụng cho từng trẻ một, diễn ra từ một đến hai tuần

một lần và đôi khi kéo dài nhiều năm. Mục tiêu và phương pháp được soạn dựa vào khả

năng ngôn ngữ của trẻ.

b) Các phương pháp trị liêu sinh - hóa

- Cách tiếp cận dinh dưỡng: Một số liệu pháp dinh dưỡng được phát triển bởi các nhà trị

liệu tin cậy. Tuy nhiên, nhiều phương pháp điều trị chưa được chứng minh về mặt khoa

học. Vì thế trước khi lựa chọn nó, cha mẹ nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc chuyên gia

dinh dưỡng

- Dùng thuốc: Không có thuốc nào có thể chữa được ASD hoặc thậm chí là điều trị các

triệu chứng cốt lõi. Nhưng có một số loại thuốc có thể giúp ích đối với những triệu chứng

có liên quan đến tự kỷ: cáu gắt, gây hấn, những vấn đề về chú ý, kích động, lo âu và trầm

cảm. Tuy nhiên cần lưu ý là nên hỏi ý kiến bác sĩ, không nên sử dụng thuốc bừa bãi vì có

thể gây hại cho trẻ.

- Vật lý trị liệu: Phương pháp này nhằm giúp trẻ hoạt hóa một số cơ quan vận động không

được hoạt động hoặc hoạt động kém ở trẻ tự kỷ. Trong sinh hoạt hằng ngày, có nhiều cơ

quan vận động của trẻ hoạt động bình thường, nhưng trẻ tự kỷ không muốn vận động cơ

quan đó do tính tự kỷ quy định; vật lý trị liệu là cách tốt nhất giúp trẻ hoạt hóa các cơ

quan này. Các hoạt động vận động của trẻ thường gặp khó khăn là: vận động chéo của

chân và tay, vận động của cơ quan phát âm, các vận động tinh của đôi bàn tay và có

những trẻ gặp khó khăn cả trong vận động thị giác khi tri giác các sự vật và hiện tượng

trong thế giới. Vật lý trị liệu còn giúp loại bỏ những hành vi định hình đặc trưng của trẻ

tự kỷ, thay vào đó là sự tăng cường các hành vi tích cực, phù hợp với hoàn cảnh, với hoạt

động xã hội của bản thân trẻ tự kỷ.

Nhóm 6 Trang 22

- Oxy cao áp (hyperbaric oxygen – HBO): HBO là một điều trị y học trong đó bệnh nhân

được đặt trong môi trường oxy tinh khiết gần như 100% với áp lực lớn hơn 1,4

atmosphere. Ngoài hô hấp, lượng oxy thấm qua da và hòa tan trong huyết tương sẽ tăng

22 – 30 lần so với oxy trong máu người bình thường. Oxy cao áp vừa có tác dụng điều trị,

vừa có tác dụng điều dưỡng. HBO có hai tác dụng làm giảm kích thước những búng khớ

gặp trong những bệnh tắc mạch như bệnh giảm áp, hoại thư hay gia tăng Oxy trong tất cả

cỏc mụ trong cơ thể. Nếu cho bệnh nhân thở Oxy nguyên chất ở áp suất 3 atmosphere thì

lượng Oxy hòa tan trong máu sẽ lớn hơn trên 20 lần so với bình thường. Phương pháp

này đang được điều trị trẻ tự kỷ khá phổ biến ở TP. Hồ Chí Minh.

- Phản hồi thần kinh (Nerofeedback - NFB): Hay được gọi là trị liệu thần kinh, phản hồi

sinh học thần kinh hay phản hồi sinh học qua điện não đồ (EEGBF) EEG là một kỹ thuật

chữa bệnh bằng việc phản hồi tức thời trên hoạt động của sóng điện não, như được đo bởi

những điện cực trên da đầu, biểu hiện điển hình trên màn hình video. Mục tiêu sẽ cho

phép điều khiển có ý thức hoạt động của sóng điện não. Nếu hoạt động não thay đổi theo

xu hướng mong muốn của bác sĩ thì một " phần thưởng " tích cực được trao cho cá nhân,

và nếu hoạt động của song điện não theo hường tiêu cực thì hoặc là có một sự phản hồi

âm tính hoặc là không có sự phản hồi nào được đưa ra (phụ thuộc vào nghi thức). Những

phần thưởng có thể đơn giản như sự thay đổi cao thấp của một âm thanh hay độ phức tạp

của một kiểu hoạt động nhất định trong đặc tính của một trò chơi video. Kinh nghiệm này

có thể được gọi là sự điều hòa có kiểm soát những trạng thái trong cơ thể. Với phương

pháp này có thể hỗ trợ tích cực khi muốn trẻ tự kỷ tương tác với kích thíchtrong điều trị.

- Trị liệu tế bào gốc (Term cell therapy): Tế bào gốc thường là những tế bào ở giai đoạn rất

sớm có khả năng phân chia để tạo ra nhiều tế bào gốc hơn, hoặc trong những điều kiện

thích hợp có thể biến thành các loại tế bào chuyên biệt khác chẳng hạn như tế bào thần

kinh, cơ, da, gan, v.v... Tế bào gốc là tế bào chủ của cơ thể, có tiềm năng trở thành nhiều

loại mô khác nhau. Việc lưu giữ tế bào gốc mở ra những phương pháp mới để sửa chữa

và thay thế các mô bị bệnh hoặc tổn thương trong cơ thể.

Một số quan niệm tin rằng trẻ bi tự kỷ là do bị khiếm khuyết một hệ thống gen di truyền

nào đó, những tác giả của quan niệm này hy vọng khi bản đồ gien được giải mã hoàn toàn

sẽ là cơ hội duy nhất chữa thành công bệnh tự kỷ.

Nhóm 6 Trang 23

- Các phương pháp bổ sung và thay thế: Để giảm triệu chứng của ASD, cha mẹ và người

chăm sóc còn sử dụng các phương pháp như ăn kiêng, chelation-loại bỏ kim loại nặng (ví

dụ như chì) ra khỏi cơ thể, sinh học…) ngoài những gì đã được bác sĩ đề nghị. Những

phương pháp này đang gây nhiều tranh cãi, nghiên cứu cho thấy có đến 1/3 cha mẹ có thể

đã sử dụng phương pháp bổ sung và thay thế bằng thuốc, 10% có thể đã sử dụng phương

pháp điều trị nguy hiểm. Vì vậy, trước khi lựa chọn nó, hãy kiểm tra một cách cẩn thận

và hỏi ý kiến bác sĩ

Nhóm 6 Trang 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Sách và Tạp Chí

- GS. Nguyễn Văn Hải, “Trẻ tự kỷ”

- Kanner L. (1943), “Autism Disturbance of Effective Contract”

- Phạm Toàn, Lâm Hiếu Minh (2014), “Thấu hiểu và hỗ trợ trẻ tự kỷ”, NXB: First News

- Trần Văn Công, Vũ Thị Minh Hương (2011), “Thực trạng chẩn đoán trẻ tự kỷ của các

cơ sở trên địa bàn Hà Nội”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, khoa học xã hội và nhân văn.

2) Web trong nước

- BS.Phan Thiệu Xuân Giang, “Trẻ tự kỷ”, truy xuất từ:

http://www.tamlyhocthankinh.com/cac-roi-loan-phat-trien-than-kinh-2/tre-tu-ky/tre-tu-ky-1

- GS. Nguyễn Văn Thành, “Tâm lý trẻ em”, truy xuất từ: http://kilopad.com/tam-ly-tre-em-c120/doc-sach-truc-tuyen-nguy-co-tu-ky-b2956/chuong-6-ti6

- Hội chứng Asperger , truy xuất từ: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_ch

%E1%BB%A9ng_Asperger

- TS.Trương Thị Xuân Huệ , “Đặc điểm tâm lý của trẻ tự kỷ và Các xu hướng giáo dục

cơ bản”, Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Cao đẳng Sự phạm TW. TP.Hồ Chí Minh, truy cập

từ http://tuky-asperger.blogspot.com/2012/04/ac-iem-tam-ly-cua-tre-tu-ky-va-cac-xu.html

- Vũ Thị Oanh, “Thực trạng năng lực của cán bộ can thiệp trẻ tự kỷ”, truy xuất từ:

http://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/17164/1/05050002521.pdf

3) Web nước ngoài

- “Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders”, Retrieved from :

http://dsm.psychiatryonline.org/doi/book/10.1176/appi.books.9780890425596

- Mayville , Behavioral Foundations of Effective Autism Treatment , Retrieved from :

http://www2.fiu.edu/~pelaeznm/publications/files/Autism-A%20behavioral-systems

%20approach.pdf

- Leo Kanner, “Autistic Disturbances of Affective”. Retrieved from:

https://simonsfoundation.s3.amazonaws.com/share/071207-leo-kanner-autistic-affective-

contact.pdf

Nhóm 6 Trang 25

- Traits of Kids with Autism Spectrum Disorders" Retrieved from :

http://www.education.com/slideshow/characteristics-children-autism-spectrum/emotional-road-

blocks/

Nhóm 6 Trang 26