30
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA TÍN DỤNG ------------------------------ GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THIỆN PHÚ NGUYỄN NGỌC THU ĐẶNG LƯU KIỀU LIÊN TRỊNH VĂN CƯỜNG TRẦN ĐÌNH NAM LỚP : ĐH23NH13

Bai Thuyet Trinh Nhom 5

  • Upload
    kyonua

  • View
    1.472

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAMTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA TÍN DỤNG------------------------------

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THIỆN PHÚ

NGUYỄN NGỌC THU ĐẶNG LƯU KIỀU LIÊN TRỊNH VĂN CƯỜNG TRẦN ĐÌNH NAM

LỚP : ĐH23NH13

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHNGÀY 29 THÁNG 04 NĂM 2009

Page 2: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

A. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:

1) Khái niệm:

Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mặt tiền tệ và họat động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp phần đảm bảo an tòan họat động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng , thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

2) Vị trí pháp lý của ngân hàng TW: có 2 mô hình:

- Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ: chẳng hạn ở Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật Bản. Chính Phủ không can thiệp vào họat động của Ngân hàng Trung ương, đặc biệt là đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ.

- Ngân hàng Trung ương phụ thuộc Chính phủ: chẳng hạn Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Indonesia, Việt Nam. Theo đó, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối với họat động của Ngân hàng Trung ương, các quyết định về cung ứng tiền tệ, chính sách tiền tệ đều nằm dưới sự kiểm sóat và chuẩn y tối hậu của Chính phủ.

3) Chức năng của Ngân hàng Trung ương:

- Chức năng phát hành tiền:Khi phát hành tiền vào lưu thông Ngân hàng Trung ương có thể phát hành tiền dựa vào 1 trong 2 nguyên tắc:

Nguyên tắc trữ kim: Việc phát hành tiền giấy chỉ được thực hiện khi nào có một lượng quý kim được nhập kho. Tuy nhiên, có thể chấp nhận một lượng nhất định vượt mức của khối tiền phát hành

đối với số quý kim dự trữ, phần vượt đó phải thật thấp và cố định. Nguyên tắc này đã tạo cho tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, nhu cầu thanh toán tăng lên, dự trữ vàng của quốc gia có hạn, dẫn đến hiện tượng thiếu phương tiện lưu thông

Nguyên tắc hàng hóa: ngân hàng phát hành tiền không cần dựa trên cơ sở dự trữ vàng, mà phát hành trên cơ sở lưu thông hàng hóa và trên cơ sở có tài sản hàng hóa tương đương đảm bảo. NHTW phát hành thêm tiền vào lưu thông khi có sản phẩm hàng hóa, dịch vụ

Page 3: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

tăng thêm trong nền kinh tế và ngược lại nếu số lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHTW phải rút bớt tiền về.

Ngân hàng Trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua bốn kênh: Kênh Ngân sách Nhà nước. Kênh Ngân hàng thương mại. Kênh thị trường mở. Kênh thị trường ngọai hối.

- Chức năng ngân hàng của các ngân hàng: Mở tài khỏan, nhận tiền gửi và quản lý các khỏan tiền gửi của các

Ngân hàng thương mại. Trung gian thanh tóan của các Ngân hàng thương mại. Cấp tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.

- Chức năng ngân hàng của nhà nước:- Chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và các họat động ngân hàng.

B. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM :

- NH Nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam;- Hiện nay Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn qui định tại nghị quyết 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 và Nghị định 52/NĐ-CP ngày 19/5/2003 của chính phủ.- Ngân hàng nhà nước Việt Nam đại diện cho Việt Nam thực hiện chức năng thành viên tại quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), NH thế giới (WB), NH phát triển châu Á ( ADB), NH đầu tư quốc tế ( IIB), NH hợp tác kinh tế quốc tế (IBEC).

1) Vị trí, chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam :

* Vị trí: là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ.* Chức năng: - Là NHTW của nước CHXHCNVN.

- Quản lý nhà nước về tiền tệ:ổn định giá trị đồng tiền, bảo quản an toàn hoạt động hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. - Ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

2) Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam :

Thực hiện chức năng của NHTW. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Page 4: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nhà nước

C. HỌAT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:

1) Mục đích và nguyên tắc cho vay:

a) Mục đích:

Ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay nhằm mục đích:+phát hành thêm tiền trung ương theo kế hoạch+bổ sung lượng vốn khả dụng cho hoạt động của các ngân hàng trung gian một

cách thường xuyên.+là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các ngân hàng trung gian khi

cần thiết,nếu sự đổ vở của nó có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn hệ thống

Page 5: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

b) Nguyên tắc cho vay:

Nguyên tắc cho vay của ngân hàng trung ương là thông qua tái chiết khấu các chứng từ có giá và ngắn hạn, hay còn gọi là nghiệp vụ tái chiết khấu.

Việc cho vay tái cấp vốn bằng đồng Việt Nam (ĐVN) của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG theo nguyên tắc:

- Cấp tín dụng có bảo đảm;- Cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.

2) Hình thức cấp tín dụng:

Hoạt động của NHTG, đặc biệt là ngân hàng thương mại chủ yếu nhận tiền gửi của công chúng và cho vay. Phần lớn số tiền cho vay của ngân hàng này lấy từ nguồn tiền gửi huy động của của dân chúng. Tuy nhiên không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng thương mại cũng đều diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. cũng có lúc, nhu cầu rút tiền lớn, ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng thiếu vốn. trong tình huống này ngân hàng thương mại có thể giải quyết bằng cách vay NHTW. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức :

- Chiết khấu hay tái chiết khấu các giấy tờ có giá.- Cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng.

a) Chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá:

* Giải thích từ ngữ:

- Nghiệp vụ chiết khấu: là việc Ngân hàng Nhà nước mua các giấy tờ có giá ngắn hạn, còn thời hạn thanh toán và thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá này được các ngân hàng mua hoặc đấu thầu trên thị trường sơ cấp.

- Nghiệp vụ tái chiết khấu: là việc Ngân hàng Nhà nước mua các giấy tờ có giá ngắn hạn, còn thời hạn thanh toán và thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng mua hoặc chiết khấu trên thị trường thứ cấp.

- Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: là lãi suất Ngân hàng Nhà nước áp dụng để tính số tiền Ngân hàng Nhà nước phải thanh toán cho các ngân hàng khi chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn và số tiền Ngân hàng Nhà nước thanh toán lại cho các ngân hàng khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu, trong trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn.

* Các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu:

- Chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn: Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá ngắn hạn của các ngân hàng.

Page 6: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

- Chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn: Các ngân hàng cam kết sẽ mua lại toàn bộ giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu sau một thời gian nhất định.

* Điều kiện của các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu, tái chiết khấu

- Giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước bao gồm: Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

- Các giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu khi có đủ các điều kiện sau: + Phát hành bằng đồng Việt Nam và có thể chuyển nhượng được; + Thời hạn còn lại tối đa là 90 ngày trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn. + Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu, trong trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn.

* Phương thức thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu

- Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước để thực hiện việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn;

- Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng thực hiện các thủ tục chiết khấu, tái chiết khấu thông qua hệ thống nối mạng với Ngân hàng Nhà nước hoặc qua FAX. Việc giao dịch theo phương thức gián tiếp phải bảo đảm an toàn.

* Phân cấp thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước.

- Việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng được thực hiện tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trụ sở chính tại Hà Nội) hoặc các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố.

- Căn cứ khối lượng tiền cung ứng dành cho nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu đã được phê duyệt trong từng thời kỳ, Vụ trưởng Vụ Tín dụng xem xét quyết định chiết khấu, tái chiết khấu đối với các đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu có giá trị đến 200 tỷ đồng và trình Thống đốc xem xét quyết định đối với các đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu có giá trị trên 200 tỷ đồng. Trường hợp cần thiết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có thể uỷ quyền cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố xem xét, quyết định chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các ngân hàng trên địa bàn. Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố chỉ được quyết định việc chiết khấu, tái chiết khấu trong phạm vi đã được uỷ quyền.

- Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước (đối với trường hợp trụ sở chính của ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu đặt tại Hà Nội) hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố (trên địa bàn ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu đặt trụ sở chính) tổ chức thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, bao gồm việc giao, nhận giấy tờ có giá ngắn hạn, xác định và thanh toán số tiền chiết khấu, tái chiết khấu đối với các ngân

Page 7: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

hàng, xác định số tiền bán lại giấy tờ có giá ngắn hạn cho các ngân hàng khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu (trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn), hạch toán, theo dõi, lưu giữ các giấy tờ có giá ngắn hạn và thanh toán giấy tờ có giá ngắn hạn đối với tổ chức phát hành khi đến hạn.

* Thủ tục thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu

- Các ngân hàng (trụ sở chính) có nhu cầu chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn gửi giấy đề nghị chiết khấu (theo Mẫu số 01) cho Ngân hàng Nhà nước vào các ngày làm việc trong tuần;

- Căn cứ vào giấy đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng và nguồn vốn dành cho nghiệp vụ này, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định và thông báo chấp nhận (theo mẫu số 02) hoặc thông báo không chấp nhận (theo mẫu số 03) trong vòng 1 ngày làm việc kể từ khi nhận được giấy đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu.

* Giao, nhận giấy tờ có giá ngắn hạn và thanh toán khi chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.

- Sau khi nhận được thông báo về việc chấp nhận chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu tiến hành thủ tục bàn giao giấy tờ có giá ngắn hạn và nhận tiền thanh toán từ Ngân hàng Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn. Trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn, ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu phải gửi cho Ngân hàng Nhà nước cam kết mua lại giấy tờ có giá (theo mẫu số 04) trước khi thực hiện việc bàn giao và nhận tiền thanh toán.

- Khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu (trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn), các ngân hàng nhận lại giấy tờ có giá ngắn hạn, đồng thời, thanh toán tiền mua lại giấy tờ có giá ngắn hạn cho Ngân hàng Nhà nước theo cam kết. Trường hợp hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu mà ngân hàng không nhận lại giấy tờ có giá ngắn hạn và thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước theo đúng cam kết thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trích tài khoản của ngân hàng hoặc chuyển số tiền các ngân hàng phải thanh toán sang nợ quá hạn và phải chịu lãi suất quá hạn bằng 130% lãi suất chiết khấu.

- Trường hợp các ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu không bàn giao giấy tờ có giá đúng danh mục trong thông báo chấp nhận chiết khấu, tái chiết khấu theo thời hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước, coi như các ngân hàng đã huỷ bỏ đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu. Một ngân hàng huỷ bỏ đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu 2 lần thì ngân hàng đó sẽ không được tiếp tục tham gia nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu với Ngân hàng Nhà nước trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày vi phạm lần thứ 2.

b) Cho vay có bảo đàm bằng các giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng:

* Phạm vi điều chỉnh

Page 8: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Việc cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam (VND) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép (sau đây gọi tắt là ngân hàng) dưới hình thức có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.

* Giải thích từ ngữ:

- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá (sau đây gọi tắt là cho vay cầm cố) là hình thức cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) đối với các ngân hàng trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá thuộc sở hữu của ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ.

- Cầm cố giấy tờ có giá là việc Ngân hàng Nhà nước nắm giữ bản gốc giấy tờ có giá, hoặc yêu cầu ngân hàng chuyển khoản giấy tờ có giá vào tài khoản của Ngân hàng Nhà nước mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho một hay nhiều khoản vay cầm cố của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước.

- Lãi suất cho vay cầm cố là lãi suất tái cấp vốn mà Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân hàng và được Ngân hàng Nhà nước công bố trong từng thời kỳ.

- Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là thời gian tính từ ngày Ngân hàng Nhà nước giải ngân khoản vay cầm cố đối với ngân hàng đến ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ có giá đó.

* Đối tượng được vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước

- Các tổ chức tín dụng là ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng.

- Các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép.

* Nguyên tắc cho vay cầm cố

Việc cho vay cầm cố của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thực hiện theo các nguyên tắc sau:

- Khoản cho vay cầm cố được bảo đảm bằng các giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn ;- Cho vay cầm cố giấy tờ có giá nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh

toán cho các ngân hàng tạm thời thiếu hụt khả năng thanh khoản;- Ngân hàng được vay cầm cố phải hoàn trả vốn vay Ngân hàng Nhà nước (cả gốc và

lãi) đầy đủ và đúng hạn.

* Phương thức thực hiện cho vay cầm cố

- Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước.

Page 9: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

- Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua hệ thống kết nối mạng vi tính theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

* Cấp mã số, mã khoá, chữ ký điện tử

- Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp mã số, mã khoá, chữ ký điện tử cho những người đại diện của ngân hàng để giao dịch qua hệ thống kết nối mạng vi tính với Ngân hàng Nhà nước trong các giao dịch thị trường nhằm thực hiện chế độ bảo mật.

* Giấy tờ có giá được cầm cố

- Tiêu chuẩn giấy tờ có giá được cầm cố: + Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VND); + Được phép chuyển nhượng; + Có thời hạn còn lại tối thiểu bằng thời gian vay; + Giấy tờ có giá thuộc sở hữu hợp pháp của ngân hàng xin vay.

- Danh mục, thứ tự ưu tiên các giấy tờ có giá được sử dụng cầm cố vay vốn và tỷ lệ giữa giá trị giấy tờ có giá và số tiền vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

- Ngân hàng Nhà nước chỉ chấp thuận cho vay cầm cố giấy tờ có giá cấp 2 và các loại giấy tờ khác trong trường hợp ngân hàng xin vay không sở hữu hoặc đã sử dụng hết các loại giấy tờ có giá cấp 1 trong các giao dịch tiền tệ tại thời điểm xin vay.

* Giá trị giấy tờ có giá được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay cầm cố:

- Giá trị giấy tờ có giá được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay cầm cố là tổng giá trị phát hành của giấy tờ có giá được tính theo mệnh giá.

- Tỷ lệ bảo đảm của giá trị giấy tờ có giá so với số tiền vay cầm cố được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

* Điều kiện cho vay cầm cố:

Ngân hàng Nhà nước xem xét và quyết định thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân hàng khi có đủ các điều kiện sau:

- Là các ngân hàng thuộc đối tượng được vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước và không bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt;

- Có giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn cầm cố.- Có hồ sơ đề nghị vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà Nước.- Không có dư nợ quá hạn tại Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm xin vay;- Có cam kết về sử dụng tiền vay cầm cố đúng mục đích và trả nợ (gốc và lãi) cho

Ngân hàng Nhà nước đúng thời gian quy định.

* Thời hạn cho vay cầm cố

Page 10: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

- Ngân hàng Nhà nước cho vay cầm cố đối với các ngân hàng tối đa là 1 năm (365 ngày). Thời hạn cho vay cầm cố tính cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết. Trường hợp ngày trả nợ trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết thì thời hạn cho vay được kéo dài đến ngày làm việc tiếp theo.

- Căn cứ mục đích vay vốn của ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước quyết định thời hạn cho vay, kỳ hạn thu nợ trong từng trường hợp cụ thể.

- Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét gia hạn khoản vay cầm cố nhưng thời gian gia hạn không vượt quá thời hạn cho vay lần đầu.

* Lãi suất cho vay cầm cố

- Lãi suất cho vay cầm cố đối với các ngân hàng là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân hàng tại thời điểm giải ngân khoản vay và duy trì trong suốt thời hạn cho vay.

- Trường hợp dư nợ vay cầm cố bị chuyển sang nợ quá hạn thì ngân hàng phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ghi trên hợp đồng tín dụng.

* Mức cho vay cầm cố

- Căn cứ mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, nhu cầu vay vốn, giá trị giấy tờ có giá làm bảo đảm và dư nợ các khoản vay khác của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước quyết định mức cho vay cầm cố đối với ngân hàng xin vay.

- Mức cho vay tối đa không vượt quá giá trị giấy tờ có giá làm bảo đảm được quy đổi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

* Thẩm quyền tham gia nghiệp vụ vay cầm cố

- Tổng Giám đốc (Giám đốc) ngân hàng là người có thẩm quyền ký các văn bản tham gia nghiệp vụ vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước.

- Tổng Giám đốc (Giám đốc) ngân hàng có thể uỷ quyền cho Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) ký các văn bản tham gia nghiệp vụ vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước phù hợp với quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về sự uỷ quyền này. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba.

* Hồ sơ đề nghị vay cầm cố

Khi có nhu cầu vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng gửi tới Ngân hàng Nhà nước hồ sơ đề nghị vay cầm cố, bao gồm:

- Giấy đề nghị vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước (theo Mẫu 01/NHNN-CC); - Bảng kê các giấy tờ có giá đề nghị cầm cố để vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước có

xác nhận của tổ chức phát hành, đại lý phát hành hoặc tổ chức lưu ký (theo Mẫu 02/NHNN-CC);

Page 11: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

- Một số chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng theo Mẫu 03/NHNN-CC; Tình hình giao dịch của ngân hàng với Ngân hàng Nhà nước theo Mẫu 04/NHNN-CC; Bảng tính toán nhu cầu vay vốn VND từ Ngân hàng Nhà nước theo Mẫu 05/NHNN-CC;

- Bảng cân đối kế toán của ngân hàng tại thời điểm gần nhất.

* Chấp thuận và từ chối đề nghị vay cầm cố của ngân hàng

- Căn cứ vào hồ sơ đề nghị vay cầm cố của ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước xem xét đề nghị xin vay của ngân hàng và trong thời hạn tối đa 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị vay cầm cố, Ngân hàng Nhà nước thông báo bằng văn bản cho ngân hàng xin vay về việc chấp thuận (theo Mẫu 06a/NHNN-CC) hay không chấp thuận cho vay cầm cố (theo Mẫu 06b/NHNN-CC) và gửi cho các đơn vị liên quan.

- Ngân hàng Nhà nước không xem xét đề nghị vay cầm cố của ngân hàng khi ngân hàng không đáp ứng đủ các điều kiện cho vay cầm cố.

* Giao nhận và hoàn trả giấy tờ có giá làm tài sản cầm cố

- Sau khi nhận được thông báo về việc chấp thuận cho vay cầm cố của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng xin vay phải tiến hành chuyển giao các giấy tờ có giá để làm tài sản cầm cố cho Ngân hàng Nhà nước.

- Ngân hàng Nhà nước thực hiện cầm cố các giấy tờ có giá theo đúng danh mục giấy tờ có giá đã được phê duyệt, ký hợp đồng tín dụng và thực hiện giải ngân theo quy định.Trường hợp ngân hàng xin vay có nhu cầu đổi giấy tờ có giá đang được cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước bằng các giấy tờ có giá khác đủ tiêu chuẩn và nằm trong danh mục giấy tờ có giá được sử dụng cầm cố vay vốn, ngân hàng xin vay phải có văn bản giải trình lý do và Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét quyết định trong từng trường hợp cụ thể.

- Sau khi ngân hàng đã hoàn trả hết nợ vay gốc và lãi, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoàn trả các giấy tờ có giá đã sử dụng làm tài sản cầm cố cho ngân hàng.

* Thực hiện cho vay cầm cố

- Việc cho vay cầm cố đối với các ngân hàng được thực hiện tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước.Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào hồ sơ chấp thuận cho vay cầm cố đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt tiến hành làm thủ tục nhận tài sản cầm cố, ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng và chuyển số tiền cho vay vào tài khoản tiền gửi của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước.

- Trong trường hợp cần thiết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có thể ủy quyền cho Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện cho vay cầm cố đối với ngân hàng có trụ sở chính trên địa bàn. Quy trình thực hiện cho vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố như thực hiện tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước.

Page 12: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

* Trả nợ vay cầm cố

- Khi đến kỳ hạn trả nợ, các ngân hàng thanh toán gốc và lãi khoản vay cầm cố cho Ngân hàng Nhà nước và nhận lại giấy tờ có giá.

- Trường hợp đến kỳ hạn trả nợ (gốc hoặc lãi) mà ngân hàng không trả nợ thì Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ bắt buộc (gốc và lãi) như sau:

+ Trích tài khoản tiền gửi của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước để thu nợ;+ Thu nợ từ các nguồn khác (nếu có) của ngân hàng;

- Trường hợp sau khi đã trích tài khoản tiền gửi để thu nợ và thu nợ từ các nguồn khác của ngân hàng nhưng vẫn không đủ để thu hồi hết nợ, Ngân hàng Nhà nước sẽ chuyển phần nợ còn lại sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Ngân hàng Nhà nước có thể bán hoặc thanh toán với người phát hành các giấy tờ có giá cầm cố trên thị trường tiền tệ để thu hồi nợ quá hạn của ngân hàng vay.

* Trách nhiệm của ngân hàng xin vay cầm cố

- Cung cấp đầy đủ, kịp thời hồ sơ, tài liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, hợp pháp của số liệu, tài liệu cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước.

- Thực hiện đúng các cam kết với Ngân hàng Nhà nước khi vay cầm cố về sử dụng tiền vay đúng mục đích, hoàn trả nợ vay bao gồm cả gốc, lãi đầy đủ và đúng hạn.

- Chuyển giao đầy đủ giấy tờ có giá sử dụng làm tài sản cầm cố và nhận lại toàn bộ tài sản cầm cố sau khi đã trả hết nợ vay (gốc và lãi) cho Ngân hàng Nhà nước.

- Chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian vay vốn.

3) Thực trạng hiện nay:

     Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như:

     Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ.      Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra

Page 13: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình (nay là NHTMCP Dầu khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho 2 ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.           Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày (trước đây thường 3 đến 4 ngày).      Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ vay vốn với NHNN.

     Bên cạnh những ưu điểm như trên, chính sách tái cấp vốn của NHNN cũng còn có những hạn chế như:

     Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung - cầu vốn trên thị trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không có tác động điều tiết. Mặc dù NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần nhưng NHNN còn chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do vậy, khung lãi suất chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường.      Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng; các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy.      Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định khiến cho nghiệp vụ tái cấp vốn chưa phát huy được hiệu quả:      + Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ.      + Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc.

* có 3 loại lãi suất chủ chốt hiện nay:

- Lãi suất cơ bản .

Page 14: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

- lãi suất tái cấp vốn. - lãi suất chiết khấu.

Lãi suất cơ bản:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng

Lãi suất cơ bản 7% 172/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009

Lãi suất cơ bản 8.5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008

Lãi suất cơ bản 8.5% 3161/QĐ-NHNN 22/12/2008

Lãi suất cơ bản 10% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008

Lãi suất cơ bản 10% 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008

Lãi suất cơ bản 11% 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008

Lãi suất cơ bản 12% 2559/QĐ-NHNN Ngày 03/11/2008 05/11/2008

Lãi suất cơ bản 13% 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008

Lãi suất cơ bản 14% 2131/QĐ-NHNN ngày 25/09/2008 01/10/2008

Lãi suất cơ bản 14% 1906/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 01/09/2008

Lãi suất cơ bản 14% 1434/QĐ-NHNN ngày 26/06/2008 01/07/2008

Lãi suất cơ bản 14% 1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008

Lãi suất cơ bản 12% 1257/QĐ-NHNN ngày 30/05/2008 01/06/2008

Lãi suất cơ bản 12% 1099/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008

Lãi suất cơ bản 8.75% 978/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008 01/05/2008

Lãi suất cơ bản 8.75% 689/QĐ-NHNN ngày 31/03/2008 01/04/2008

Lãi suất cơ bản 8.75% 479/QĐ-NHNN ngày 29/02/2008 01/03/2008

Lãi suất cơ bản 8.75% 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008

Lãi suất cơ bản 8.25% 3096/QĐ-NHNN 01/01/2008

Lãi suất tái cấp vốn:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng

Lãi suất tái cấp vốn 8.0% 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009

Lãi suất tái cấp vốn 9.5% 3159/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008

Lãi suất tái cấp vốn 9.5% 3159/QĐ-NHNN 22/12/2008

Lãi suất tái cấp vốn 11% 2949/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008

Lãi suất tái cấp vốn 11% 2949/QĐ-NHNN 05/12/2008

Lãi suất tái cấp vốn 12% 2810/QĐ-NHNN 21/11/2008

Page 15: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Lãi suất tái cấp vốn 13% 2561/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 05/11/2008

Lãi suất tái cấp vốn 14% 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008

Lãi suất tái cấp vốn 15% 1326/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008

Lãi suất tái cấp vốn 13% 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008

Lãi suất tái cấp vốn 7.5% 306/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008

Lãi suất chiết khấu:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng

Lãi suất chiết khấu 6% 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009

Lãi suất chiết khấu 7.5% 3159/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008

Lãi suất chiết khấu 7.5% 3159/QĐ-NHNN 22/12/2008

Lãi suất chiết khấu 9% 2949/QĐ-NHNN 05/12/2008

Lãi suất chiết khấu 9% 2949/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008

Lãi suất chiết khấu 10% 2810/QĐ-NHNN 21/11/2008

Lãi suất chiết khấu 11% 2561/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 05/11/2008

Lãi suất chiết khấu 12% 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008

Lãi suất chiết khấu 13% 1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008

Lãi suất chiết khấu 11% 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008

Lãi suất chiết khấu 6% 306/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008

Biến động của các loại lãi suất chủ chốt hiện nay:

Từ ngày 10/4/2009 các mức lãi suất chủ chốt được Ngân hàng Nhà nước giảm đáng kể. Tuy nhiên lãi suất cơ bản vẫn được giữ nguyên ở mức 7%.

Ngày 10/4/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.

Theo quyết định này, các mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được áp dụng từ ngày 10/4/2009, với lãi suất tái cấp vốn là 7,0 %/năm; lãi suất tái chiết khấu là 5,0 %/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân

Page 16: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

hàng là 7,0 %/năm. Có thể thấy các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng loạt giảm 1%.

Như vậy có thể hiểu Ngân hàng Nhà nước đang giảm đáng kể chi phí vay vốn của các NHTM từ Ngân hàng Nhà nước qua đó khuyến khích các NHTM mở đẩy mạnh cho vay nhờ được hỗ trợ bởi nguồn vốn dồi dào có chi phí thấp từ Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi cung ứng vốn ngắn hạn có đảm bảo cho các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (hay tái chiết khấu) thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng. Còn lãi suất qua đêm là một dạng lãi suất liên ngân hàng, do các ngân hàng vay ngắn hạn của nhau để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay bảo đảm tính thanh khoản. Như vậy có thể thấy rằng chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục được thực thi mạnh mẽ tuy nhiên động thái vừa qua chủ yếu là nhằm hỗ trợ đối tượng là các NHTM trong việc tăng nguồn vốn khả dụng giá rẻ cho các ngân hàng này. Qua động thái trên, Ngân hàng Nhà nước muốn gia tăng tính thanh khoản cho các NHTM và khuyến khích các NHTM đẩy mạnh quá trình cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Động thái mạnh mẽ trên của Ngân hàng Nhà nước là không khó lý giải bởi lẽ tăng trưởng tín dụng trong 3 tháng đầu năm đạt thấp, chỉ khoảng hơn 2% so với cuối năm 2009. Đây được xem là một kết quả đáng thất vọng khi các chính sách kích thích kinh tế được triển khai hết sức quyết liệt trong 3 tháng đầu năm 2009.

Tuy nhiên trước đó, ngày 1/4/2009, Ngân hàng Nhà nước thông báo tiếp tục áp dụng mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam như hiện hành là 7,0%/năm; theo đó, lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng là 10,5%/năm, ngoại trừ các khoản cho vay cá nhân phục vụ đời sống được theo lãi suất thỏa thuận. Lãi suất cơ bản được giữ nguyên có thể coi là một bước đi thận trọng và khôn ngoan trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Điều này cho phép mặt bằng lãi suất cho vay ra của các NHTM được ổn định và các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc hoạch định các kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra các NHTM có thể có được mức lãi suất cho vay hợp lý đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh trong bối cảnh lãi suất huy động của các NHTM trên thị trường đang có xu hướng tăng nhẹ. Mức tăng không lớn, song cho thấy rõ lo ngại của ngân hàng trước nguy cơ dòng vốn bị san sẻ sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán hay bất động sản.

Nếu lãi suất cơ bản tiếp tục hạ sẽ gây sức ép mạnh mẽ lên các NHTM khiến các tổ chức này có thể bị lỗ do lãi suất cho vay ra giảm. Điều này sẽ khiến các NHTM không mặn mà trong việc tiếp tục cho vay và do đó chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ phản tác dụng. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước vẫn trao quyền cho các NHTM được chủ động trong việc định ra mức lãi suất cho vay cá nhân với mục đích tiêu dùng phục vụ đời sống. Điều này giúp các NHTM có thể chủ động hơn trong việc hoạch định các mức lãi suất dành cho đối tượng này phù hợp với mức độ rủi ro của khoản vay, do đó các NHTM có thể mạnh dạn cho vay tiêu dùng.

Có thể thấy, các chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước là khá hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn từ nhiều phía. Các chính sách này đảm bảo dung hòa được các mục đích kích thích các doanh nghiệp vay vốn, hỗ trợ các NHTM và khuyến khích tiêu dùng làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế.

Page 17: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Nửa tháng gần đây, nhiều ý kiến đề xuất nên giảm lãi suất cơ bản để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản đối, bởi nếu để lãi suất thấp quá, ngân hàng khó huy động vốn và khó cân đối lợi nhuận khi huy động lãi suất cao, nay phải cho vay lãi suất thấp. Hơn nữa, vấn đề lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là thị trường tiêu thụ, lãi suất giảm nhưng chưa giải quyết được đầu ra cũng không mặn mà vay vốn. Hiện nay, lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại ít nhiều vẫn bị ràng buộc bởi lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng tháng (lãi cho vay và huy động không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản). Nếu lãi suất cơ bản hạ xuống, các ngân hàng không còn cách nào khác là phải hạ lãi suất cho vay. Trong khi đó, lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi cung ứng vốn ngắn hạn có đảm bảo cho các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (hay tái chiết khấu) thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng. Còn lãi suất qua đêm là một dạng lãi suất liên ngân hàng, do các ngân hàng vay ngắn hạn của nhau để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay bảo đảm tính thanh khoản.

Cho dù giữ nguyên lãi suất cơ bản, song Ngân hàng Nhà nước vẫn thể hiện rõ động thái nới lỏng chính sách tiền tệ khi giảm một loạt các loại lãi suất còn lại. Lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu, lãi cho vay qua đêm hạ thấp sẽ giúp các ngân hàng giảm chi phí vốn đầu vào, từ đó bớt áp lực tăng lãi suất cho vay.

Quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước được đánh giá là bước đi thận trọng, vừa hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng mà không tạo áp lực giảm ngay lãi suất cho vay.Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại báo cáo hoạt động cho vay trong suốt quá trình giảm lãi suất cơ bản. Hơn một năm qua, lãi suất cơ bản trải qua 9 lần điều chỉnh, trong đó 3 lần tăng mạnh và 6 lần giảm. Cú sốc đáng nhớ nhất là vào 19/5, lãi suất cơ bản tăng từ mức 8,75% lên 12% rồi tiếp tục lên đỉnh 14% chỉ gần một tháng sau đó, đẩy lãi suất cho vay lên đến 21%. Sau 4 tháng duy trì ở mức cao, đến 21/10 lãi suất cơ bản liên tục giảm, khiến các ngân hàng chật vật xử lý số vốn huy động với lãi suất cao.Theo yêu cầu mới, các ngân hàng phải báo cáo tổng dư nợ cho vay bằng VND tính đến cuối 31/3, trong đó phân loại dư nợ theo các mức lãi suất khác nhau ứng với từng giai đoạn điều chỉnh lãi suất cơ bản. Ngân hàng Nhà nước lý giải yêu cầu này nhằm phục vụ cho công tác điều hành lãi suất cơ bản.

4) Câu hỏi thảo luận:

- Tại sao ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại?

Bởi vì NHTƯ quản lí tất cả các ngân hàng thương mại,chỉ giao dịch với NHTM,không giao dịch với dân chúng.khi NHTM xảy ra sự cố,NHTƯ đóng vai trò là người chi trả cuối cùng,là cứu tinh của các ngân hàng thương mại. vì thế gọi NHTƯ là người cho vay cuối cùng.

Page 18: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Thật vậy, Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung ương vay tiền như cứu cánh cuối cùng.

Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.

Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.     Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.

- Hoạt động cấp tín dụng của NHNN cho các NHTM có vì mục tiêu lợi nhuận?

Khác hẳn với ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước (ngân hàng Trung ương) không hoạt động vì mục đích lợi nhuận và cũng không kinh doanh tiền tệ. Mỗi một quốc gia chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất, có thể gọi là ngân hàng mẹ có chức năng phát hành tiền, quản lý, thực thi và giám sát các chính sách tiền tệ; và có rất nhiều ngân hàng thương mại, có thể coi là các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu chuyển tiền trong nền kinh tế. Trong trường hợp ngân hàng thương mại đứng trên bờ vực phá sản, ngân hàng Trung ương sẽ là nguồn cấp vốn cuối cùng mà ngân hàng thương mại tìm đến.

Page 19: Bai Thuyet Trinh Nhom 5

Có thể nói NHTƯ chính là mẹ đẻ của các Ngân Hàng Trung Gian,nhưng vì sao NHTƯ luôn cấp tín dụng cho các NHTM với một mức lãi suất nhất định.Bởi vì:NH có trách nhiệm cung ứng vốn nhằm hạn chế nguy cơ đỗ vở của các NHTM(được biểu hiện rõ qua vai trò là ‘người cho vay cuối cùng’ của ngân hàng trung ương). Điều này không có nghĩa là ngân hàng có trách nhiệm duy trì sự tồn tại của mọi ngân hàng trung gian,vai trò của người cho vay cuối cùng chỉ thực hiện khi sự đỗ vở của ngân hàng đó có ảnh hưởng đến sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống ngân hàng. Vì nếu NHTƯ cho các NHTM vay không lãi suất thì : các NHTM sẽ ỷ lại vào vai trò “đỡ đầu” cho mình của NHTƯ, khi đó các NHTM sẽ luôn tìm mọi cách để được sử dụng nhiều nhất nguồn tái cấp vốn từ NHTƯ. Từ đó sẽ gây khó khăn cho NHTƯ vì phải cần chi ra một lượng vốn rất lớn. Do đó NHTƯ cần quy định lãi suất tái cấp vốn để các NHTM phải cố gắng thu hút nguồn vốn trong xã hội để cho vay và buộc các ngân hàng phải có kỹ luật chặt chẽ hơn trong việc quản lý khả năng thanh tóan của mình. Tuy là vậy, nhưng lãi suất tái cấp vốn hầu như luôn thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng, thấp hơn cả lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố, vì vậy mà nguồn vốn tín dụng này vẫn như là một đặc ân mà ngân hàng nhà nước dành cho các NHTM. Và như chúng cũng ta đã biết,việc cấp tín dung của NHTƯ có tác dụng điều tiết đến lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Cụ thể là: khi Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại thông qua việc phát hành tiền thì nó sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên.và nếu như NHTƯ không điều tiết một cách hợp lí thì sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm phát.Các NHTG sẽ nắm bắt điều này(NHTƯ cấp tín dụng với lãi suất bằng không)mà chỉ dựa vào việc phát hành tiền của NHTƯ để tìm kiếm lợi nhuận và tất nhiên điều này sẽ nhanh chóng làm cho nền kinh tế bị lạm phát.