142
1 Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG Phần A. ĐẠI CƯƠNG Chương I: KHÁI NIỆM VỀ CÔN TRÙNG HỌC 1. Định nghĩa môn Côn trùng rừng Côn trùng rừng (Forest Entomology) là môn học cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về lớp côn tr ùng (Insecta), về những loại côn trùng có hại cho sản xuất lâm nghiệp; những côn trùng có ích cần bảo vệ và phát triển; những biện pháp quản lý côn trùng rừng theo các nhóm mục tiêu nhằm hạn chế những mặt tác hại, bảo vệ được đa dạng sinh vật trong hệ sinh thái và khai thác sử dụng các nguồn lợi do chúng mang lại. 2. Vị trí phân loại và đặc điểm của lớp côn trùng Côn trùng là động vật không xương sống. Lớp côn trùng có tên khoa học là Insecta hay Hexapoda, thuộc ngành Tiết túc – Arthropoda. Côn trùng có những đặc điểm chung sau đây: Cơ thể chia làm 3 phần rõ rệt là đầu, ngực và bụng. Đầu có một đôi râu đầu, miệng và một đôi mắt kép và 2-3 mắt đơn (một số loài không có mắt đơn). Ngực có 3 đốt, mỗi đốt có một đôi chân ngực và pha trưởng thành có thể có 2 đôi cánh. Lỗ sinh dục và lỗ hậu môn nằm ở cuối bụng. Da làm chức năng của bộ xương ngoài. Hô hấp bằng hệ thống khí quản. Chúng lớn lên bằng cách lột xác. Trong quá trình sinh trưởng phát triển có biến thái bên trong và bên ngoài. 3. Nguồn gốc tiến hóa của lớp côn trùng Về nguồn gốc của lớp côn trùng có nhiều ý kiến khác nhau. Handlirsch cho rằng côn trùng cổ xưa tiến hóa từ lớp tam diệp (Trilobita). Các học giả Hancea, Carpenter, Crampton cho rằng côn trùng tiến hóa từ lớp giáp xác (Crustacea). Các học giả Brauer,

Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

1

Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG

Phần A. ĐẠI CƯƠNG

Chương I: KHÁI NIỆM VỀ CÔN TRÙNG HỌC

1. Định nghĩa môn Côn trùng rừng

Côn trùng rừng (Forest Entomology) là môn học cung cấp cho sinh viên những

kiến thức cơ bản về lớp côn trùng (Insecta), về những loại côn trùng có hại cho sản

xuất lâm nghiệp; những côn trùng có ích cần bảo vệ và phát triển; những biện pháp

quản lý côn trùng rừng theo các nhóm mục tiêu nhằm hạn chế những mặt tác hại, bảo

vệ được đa dạng sinh vật trong hệ sinh thái và khai thác sử dụng các nguồn lợi do

chúng mang lại.

2. Vị trí phân loại và đặc điểm của lớp côn trùng

Côn trùng là động vật không xương sống. Lớp côn trùng có tên khoa học là Insecta hay

Hexapoda, thuộc ngành Tiết túc – Arthropoda.

Côn trùng có những đặc điểm chung sau đây:

Cơ thể chia làm 3 phần rõ rệt là đầu, ngực và bụng.

Đầu có một đôi râu đầu, miệng và một đôi mắt kép và 2-3 mắt đơn (một số loài

không có mắt đơn).

Ngực có 3 đốt, mỗi đốt có một đôi chân ngực và pha trưởng thành có thể có 2 đôi

cánh.

Lỗ sinh dục và lỗ hậu môn nằm ở cuối bụng.

Da làm chức năng của bộ xương ngoài.

Hô hấp bằng hệ thống khí quản.

Chúng lớn lên bằng cách lột xác. Trong quá trình sinh trưởng phát triển có biến

thái bên trong và bên ngoài.

3. Nguồn gốc tiến hóa của lớp côn trùng

Về nguồn gốc của lớp côn trùng có nhiều ý kiến khác nhau. Handlirsch cho rằng côn

trùng cổ xưa tiến hóa từ lớp tam diệp (Trilobita). Các học giả Hancea, Carpenter,

Crampton cho rằng côn trùng tiến hóa từ lớp giáp xác (Crustacea). Các học giả Brauer,

Page 2: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

2

Packard, Tyllygard và Imms lại cho rằng côn trùng tiến hóa từ lớp đa túc (Myriapoda).

Như vậy, côn trùng tiến hóa từ một lớp nào đó trong ngành tiết túc (Arthropoda), có thể

là động vật sống trên cạn (Myriapoda), có thể sống dưới nước (Trilobita, Crustacea), tổ

tiên của côn trùng đều có miệng nhai, kiểu miệng nhai của côn trùng là nguyên thủy

nhất, từ đó mới biến đổi thành các kiểu miệng khác. Tương tự như vậy, bộ máy tiêu hóa

thức ăn rắn là nguyên thủy nhất, cánh mới xuất hiện ở lớp côn trùng và không phải chi

phụ của đốt cơ thể ở phần ngực biến đổi thành.

Côn trùng có số loài và số cá thể từng loài nhiều, phân bố rộng vì chúng có những ưu

thế hơn các động vật khác:

(1) Cơ thể côn trùng được bao bọc bởi một lớp da có cấu tạo đặc biệt, giúp chúng

có thể thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt của ngoại cảnh;

(2) Chúng có cánh nên có thể bay để tìm thức ăn, tìm đôi giao phối, trốn tránh kẻ

thù, lựa chọn nơi đẻ trứng và tìm nơi sinh sống tốt nhất, có thể di cư và mở rộng vùng

phân bố dễ dàng. Do có cánh nên côn trùng đã tiến bộ vượt xa tổ tiên của chúng, làm

cho chúng chiếm ưu thế trong cạnh tranh sinh tồn và hình thành các loài mới, khiến cho

số loài nhiều, chiếm ưu thế trong sinh quần.

(3) Cơ thể côn trùng nhỏ bé, khiến cho chúng có thể ẩn náu ở mọi nơi, với một

lượng thức ăn ít ỏi cũng đủ để hoàn thành một thế hệ và sinh ra các thế hệ sau. Những

nghiên cứu hóa thạch cho thấy côn trùng xuất hiện trên mặt đất cách đây 300 triệu năm,

trải qua thời kì băng hà, những động vật có kích thước lớn như khủng long bị tuyệt

chủng, còn côn trùng vẫn tồn tại và phát triển.

(4) Côn trùng có sức sinh sản lớn và vòng đời ngắn (có loài vòng đời chỉ 5-7 ngày,

như rệp muội thuộc họ Aphididae) nên sức tăng mật độ cao.

(5) Côn trùng có sức sống và khả năng thích nghi cao với những biến đổi của

những điều kiện ngoại cảnh, khiến chúng vượt xa các nhóm loài khác trong giới động

vật về tính đa dạng.

4. Vai trò của côn trùng đối với tự nhiên và con người

Với tự nhiên

Côn trùng chiếm vị trí quan trọng số một trong đa dạng sinh học và cân bằng

của mỗi hệ sinh thái. Côn trùng là lớp động vật nhiều loài nhất. Đến nay đã biết

khoảng trên 1,5 triệu loài côn trùng (con số này so với thực tế vẫn còn rất thấp),

Page 3: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

3

chiếm đến ¾ số loài đã được ghi nhận của 60 lớp thuộc giới động vật. Số lượng

cá thể mỗi loài cũng rất lớn. Ví dụ, một tổ kiến ước tính có 50 vạn con, một tổ

ong lớn khoảng 8 vạn con.

Côn trùng hỗ trợ sinh sản cho nhiều loài thực vật. Côn trùng thụ phấn cho

khoảng 85% số loài thực vật hiển hoa khỏa tử (thực vật có hoa và bầu nhụy để lộ

ra ngoài). Vì vậy người ta cho rằng sự phát sinh của lớp côn trùng trên mặt đất

đã làm xuất hiện sau đó những thực vật loại này. Côn trùng là nguyên nhân tạo

ra đa dạng sắc màu và hương thơm của các loài hoa trên trái đất (thông qua lai

tạo và chọn lọc tự nhiên).

Côn trùng là mắt xích quan trọng trong dòng năng lượng và chu trình tuần hoàn

vật chất trong tự nhiên. Chúng ăn hầu hết các chất hữu cơ (nguồn gốc thực vật,

động vật, phân, xác chết và tàn dư động thực vật…) nên được coi là đội quân vệ

sinh thiên nhiên ở mọi nơi, tạo độ màu mỡ cho đất, tăng tính bền vững của hệ

sinh thái.

Với con người

Ảnh hưởng tiêu cực

Một số loài côn trùng ăn thực vật gây hại cho cây trồng nông nghiệp, ảnh

hưởng tới năng suất, phẩn chất nông sản, gây thiệt hại cho người nông dân.

Những loại này gọi là sâu hại cây trồng. Sâu hại thường làm giảm 5-10%

năng suất, sản lượng cây trồng. Thiệt hại ước tính là 25 tỷ USD mỗi năm. Khi

phát sinh với với số lượng lớn, sâu hại có thể gây ra những thiệt hại nghiêm

trọng, do vậy việc phòng chống chúng là cần thiết, trong đó có biện pháp hóa

học. Nhưng việc làm này bên cạnh sự tốn kém là vấn đề gây ô nhiễm môi

trường sống, để lại dư lượng chất độc trong nông sản và làm mất cân bằng

sinh học tự nhiên.

Ở nước ta đã xảy ra nhiều dịch sâu hại trong 50 năm qua. Từ năm

1961-1970, dịch bệnh virus lúa vàng lụi do bọ rầy xanh đuôi đen (Nephotettix

spp.) là môi giới truyền bệnh xảy ra ở khắp các tỉnh miền Bắc, gây thiệt hại

hang chục vạn hécta. Thời kỳ 1971-1975, dịch sâu năn (Pachydiplopsis

oryzae) xảy ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Những năm 1977-1979,

rầy nâu (Nilaparvata lugens) và rầy lưng trắng (Sogata furcifera) phát sinh

mạnh ở các tỉnh đồng bằng song Cửu Long trên diện tích 200 ngàn hécta.

Page 4: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

4

Những năm 1979-1981, sâu năn (Pachydiplopsis oryzae) gây hại đến 11 ngàn

hécta ở các tỉnh miền Trung (Bình Trị Thiên và Phú Khánh). Những năm

1986-1987, bọ xít đen (Scotinophara lurida) gây hại hàng ngàn hécta lúa ở

các tỉnh Bắc Trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh). Chỉ trong vụ đông xuân

1986, nông dân các tỉnh này bắt bằng dụng cụ thô sơ được 200 tấn bọ xít.

Dịch sâu cuốn lá nhỏ hại lúa (Cnaphalocrocis medinalis) xảy ra trên phạm vi

cả nước, riêng năm 2001 phát sinh gây hại 885 ngàn ha ở các tỉnh đồng bằng

Bắc bộ và miền núi phía Bắc. Năm 2001, hơn 120 ngàn ha ngô và mía ở các

tỉnh Đông Nam bộ bị cào cào phát sinh gây thành dịch hại nghiêm trọng. Gần

đây nhất (2006) là nạn dịch rầy nâu gây ra bệnh vàng lùn và vàng xoắn lá lúa

trên diện rộng ở các tỉnh Nam bộ, gây ra những tổn thất nặng nề. Trên các

cây trồng khác cũng xảy ra các dịch sâu, khiến con người phải luôn luôn

phòng chống.

Nhiều loài côn trùng gây hại cho tài nguyên rừng và các loại lâm sản. Các trận

dịch sâu ăn lá, sâu đục thân cành hại cây rừng thường gây tổn thất tới hàng

triệu đô la mỗi năm.

Ở Trung Quốc: Cách đây gần 500 năm ở Trung Quốc đã xảy ra những

trận dịch sâu hại rừng. Năm 1530 dịch sâu róm thông (Dendrolimus

punctatus) xuất hiện ở Triết Giang và kéo dài trong 9 năm liền; ở tỉnh Giang

Tô năm xuất hiện năm 1599 và kéo dài trong 17 năm. Hiện nay, theo ước tính

mỗi năm có khoảng 3 triệu ha rừng thông bị nhiễm dịch SRT và làm mất đi

lượng tăng trưởng khoảng 5 triệu m3 gỗ (Peng, 1989). Loài sâu này cũng

chính là loài có khả năng lan rộng và phá hoại mạnh nhất ở 13 tỉnh miền Nam

Trung Quốc (Ye, 1990).

Tại Mỹ: Chỉ tính riêng miền Tây Bắc nước Mỹ, số liệu thống kê cho

thấy từ năm 1893 đến năm 1975 đã xảy ra nhiều trận dịch sâu hại rừng với

những quy mô khác nhau. Các trận dịch điển hình của một số loài sâu hại chủ

yếu đã làm tổn thất một lượng gỗ là 46,4 tỷ fbm và diện tích rừng bị tàn phá

nặng là: 87,94 triệu mẫu Anh (1 mẫu Anh = 0,4 ha).

Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các trận dịch sâu róm thông đuôi

ngựa (Dendrolimus punctatus) trên diện rộng tại các tỉnh phía Bắc (Bắc

Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An…). Trong

Page 5: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

5

thời gian gần đây tình hình dịch côn trùng hại rừng có diễn biến khá phức tạp

và không kém phần nghiêm trọng (chẳng hạn sâu róm thông ở Bắc Trung bộ,

ong ăn lá thông ở Tây nguyên và dịch sâu róm hại cây rừng ngập mặn ở miền

Tây Nam bộ...). Chỉ tính riêng SRT, trong những năm xảy ra dịch diện tích

rừng bị hại nặng thường lên tới hàng vạn hécta.

Tác hại của các trận dịch sâu hại rừng:

Đối với nhóm sâu ăn lá, nếu bị hại ở mức độ trung bình (20-50%) hoặc mức

độ nghiêm trọng (>50%) thì sẽ làm giảm tốc độ sinh trưởng và ảnh hưởng đến

tính chất gỗ như làm ngắn chiều dài sợi, có thể làm cây yếu đi và dễ bị hại bởi

các tác nhân khác (Elliott et al, 1998). Một vài loài cây hạt trần thường xanh

dễ dàng bị hủy diệt nếu bị làm trụi lá ngay trong thời kỳ hình thành chồi

(Speight, Wylie, 2001).

Ở Trung Quốc, khi rừng thông bị SRT (D. punctatus) gây trụi lá nghiêm trọng

đã ảnh hưởng lớn đến lượng tăng trưởng và sản lượng nhựa hoặc chết cây

hàng loạt; sau khi bị trụi lá 100%, khoảng 25% số cây bị chết, tăng trưởng thể

tích của những cây còn sống sót bị giảm 31%. Những cây bị hại nghiêm trọng

thường phải mất 3 năm mới hồi phục. Đặc biệt, hiện tượng thối rễ ở loài thông

P. elliottii ở miền Nam Trung Quốc có liên quan đến hiện tượng trụi lá do D.

punctatus gây ra. Năm 1988, ở huyện Đức Khánh (Quảng Đông) rừng thông

bị hại 40.000ha, lượng nhựa giảm 6.510 tấn trị giá 7,81 triệu nhân dân tệ

(0,935 triệu USD). Một năm SRT phá hoại thì 3 năm không có nhựa, gỗ cành

giảm sản lượng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.

Lông độc trên thân sâu non và trên kén sâu khi tiếp xúc với con người làm cho

da sưng tấy, viêm da và viêm khớp, nghiêm trọng có thể làm mất khả năng lao

động. Trâu bò ăn phải kén sâu có thể bị chết.

Ở Tasmania, rừng Bạch đàn (E. regnans) bị tấn công bởi bọ cánh cứng ăn lá

Chrysophtharta bimaculata làm suy giảm 45,6% tăng trưởng về chiều cao và

52,1% tăng trưởng về tiết diện ngang trong thời gian 2 năm so với rừng được

bảo vệ không bị sâu hại tấn công (Elliott và Cs., 1993).

Rừng trồng Bạch đàn E. grandis ở vùng duyên hải miền bắc New South Wales

(Anh) bị hại bởi sâu Chrysophtharta cloelia từ 1972 - 1974, ước tính khoảng

Page 6: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

6

60-70% lượng tăng trưởng chiều cao bị mất, đồng thời hơn một nửa số cây bị

chết trong năm tiếp đó (Carne và Taylor, 1978).

Rừng Tếch non ở Kerala, Ấn độ bị sâu Hyblaea puera gây hại đã làm suy

giảm 44% tăng trưởng về thể tích. Tăng trưởng 3,7m³/ha/năm, so với đối

chứng là 6,7 m³. Theo dự đoán thì lượng tăng trưởng của rừng trồng được bảo

vệ trong 26 năm sẽ tương đương với rừng trồng không được bảo vệ trong 60

năm (Nair, 1985, 1996).

Ở Malawi, ước tính thiệt hại cây đứng trong năm 1990 khoảng hơn 3 triệu

đôla (Odera, 1991). Murphy (1996) ước tính ở miền Nam và Đông Châu Phi,

tính đến năm 1990 giá trị thiệt hại về loài cây Bách do rệp Cinara cupressi

gây ra trị giá khoảng 27,5 triệu bảng Anh, thiệt hại về lượng tăng trưởng hàng

năm và lượng cây chết vào khoảng 9,1 triệu bảng.

Ở Papua New Ghine, Eucalyptus deglupta bị sâu đục vỏ Agrilus opulentus gây

thiệt hại ước tính là 2,5 triệu đôla trong chu kỳ 10 năm (Mercer, 1990).

Ở Philippin, rừng trồng Eucalyptus deglupta cũng bị gây hại đến 63% do loài

sâu đục vỏ A. sexsignatus.

Ở Xuđăng, sau thời kỳ khô hạn 1979-1984, sản lượng nhựa (gum) do cây

Acacia senegal và A. seyal bị thiệt hại đáng kể do sự phá hoại của loài bọ nằm

trong chi Agrilus (Jamal, 1994).

Ngoài những tác hại trực tiếp, dịch sâu hại rừng còn làm ảnh hưởng đến khả

năng phòng hộ của rừng, làm gia tăng dịch bệnh hại rừng và cháy rừng; làm

suy thoái cảnh quan và tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Đê điều, nhà cửa, đồ gỗ, sách thư viện, nông sản sau thu hoạch bị mối và sâu

mọt gây hại. Thiệt hại do chúng gây ra rất lớn; chúng có thể là nguyên nhân

gây vỡ đê, làm sập nhà cửa và những thảm họa khác.

Nhiều loài côn trùng ký sinh và gây hại trên người và động vật nuôi (chấy,

rận, bọ chét, ve, bét, rệp, ruồi vàng, muỗi…). Chúng không chỉ hút máu mà

còn là môi giới lây truyền nhiều bệnh nguy hiểm.

Tác dụng tích cực

Số loài côn trùng gây hại hay gây phiền toái cho con người không nhiều, chúng

chỉ chiếm 0,1%, còn lại là vô hại hoặc có lợi cho con người.

Page 7: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

7

Cho thực phẩm có chất lượng cao (thịt, mật…)

Thuốc chữa bệnh (Bọ ngựa, tằm, sâu chít, đông trùng hạ thảo, ong)

Cho nguyên liệu, vật liệu chế biến (Tằm, cánh kiến đỏ…)

Là vũ khí sinh học chống các loài gây hại (côn trùng thiên địch)

Giúp thụ phấn, tăng năng suất cây trồng, tái sinh rừng

Làm sạch môi trường sống và tăng độ phì đất…

5. Một số mốc lịch sử nghiên cứu về côn trùng

Trên thế giới

Ba ngàn năm trước công nguyên, ở Trung Quốc đã bắt đầu nuôi tằm. Gần 400 năm

trước công nguyên, Aristote (người Hy Lạp) đã viết về 60 loài côn trùng trong tác

phẩm của mình. Vào thề kỉ 18 đã có nhiều học giả và công trình nghiên cứu về côn

trùng học. Năm 1735, Carl Linne (1707-1778) xuất bản cuốn sách nổi tiếng

“Systema naturae” đề cập đến 3 lĩnh vực quan trọng của tự nhiên là khoáng vật, thực

vật và động vật. Ông là người đầu tiên phân loại động vật, trong đó có côn trùng một

cách hiện đại. Lần xuất bản thứ 10 của sách “Hệ thống tự nhiên” này ông đã đưa vào

cách gọi tên khoa học các loài sinh vật. Vào năm 1793, Sprengel (1750-1816) xuất

bản tác phẩm nổi tiếng mô tả mối quan hệ giữa cấu tạo của hoa và quá trình thụ phấn

của côn trùng. Trong cuốn sách này lần đầu tiên vai trò của côn trùng trong việc thụ

phấn cho hoa đã được giải thích. Trong các công trình của mình, Lamarck (1744-

1829) đã có những đóng góp đáng kể cho môn côn trùng học, đặc biệt trên lĩnh vực

phân loại. Cuối thế kỉ 18, Pallas (Viện sĩ người Nga) đã nghiên cứu và viết về thành

phần loài côn trùng. Vào thế kỉ 19, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học

khác, côn trùng học đã trở thành một môn khoa học. Có rất nhiều người chuyên sâu

về côn trùng học và hàng loạt các “Hội côn trùng” được thành lập ở các nước, như ở

Pháp (năm 1832), Anh (1833), Nga (1859)… Các hội côn trùng giữ vai trò chỉ đạo

phát triển côn trùng học ở mỗi nước. Từ thế kỉ 20 các lĩnh vực côn trùng học thực

nghiệm ra đời, trong đó có côn trùng nông nghiệp, côn trùng lâm nghiệp.

Ở Việt Nam

Vào năm 1905 đoàn nghiên cứu người Pháp công bố 1020 loài côn trùng thu thập

được ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam.

Page 8: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

8

Từ đầu thế kỉ 20 đến 1945 có nhiều kết quả nghiên cứu được công bố có liên quan

đến côn trùng học ở Việt Nam của các tác giả Dupasquier (Côn trùng hại chè),

Fleutiaux (Mối, xén tóc và côn trùng hại mía, đậu đỗ), Joannis (Lepidopteres

heteroceres du Tonkin), Trần Thế Tương (Les Chrysomelinae du Sud de la Chine et

du Nord Tonkin), Sanvaza (Faune entomogique de l’Indonchine), Paulian R.

(Scarabaeidae), Lemee A. (Lepidoptera).

Sau năm 1945: Năm 1953 thành lập “Phòng côn trùng” thuộc Viện Trồng trọt. Năm

1961 thành lập cục Bảo vệ Thực vật. Năm 1966 thành lập Hội Côn trùng học Việt

Nam.

Câu hỏi ôn tập chương 1

1. Định nghĩa về Côn trùng rừng? Việc nghiên cứu côn trùng rừng có những thuận

lợi và khó khăn gì?

2. Vị trí phân loại và những đặc điểm chính của lớp côn trùng?

3. Nguồn gốc tiến hóa của lớp côn trùng và những gì là ưu thế của côn trùng so với

tổ tiên của chúng và so với các nhóm khác trong giớ động vật?

4. Vai trò của côn trùng đối với tự nhiên và đối với con người như thế nào? Cho

những dẫn chứng về tác hại và ích lợi của côn trùng rừng?

5. Từ nhận thức về vai trò của côn trùng, hãy cho biết quan điểm về việc tiêu diệt

“tận gốc” những loài côn trùng gây hại?

6. Nêu một số mốc lịch sử chính của việc nghiên cứu côn trùng trên thế giới và trong

nước.

Page 9: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

9

Chương 2

HÌNH THÁI HỌC CÔN TRÙNG

1. Định nghĩa

Hình thái học côn trùng nghiên cứu cấu tạo bên ngoài côn trùng. Mọi cấu tạo của cơ

thể côn trùng đều có chức năng nhất định, là kết quả của sự biến đổi rất phức tạp và lâu

dài qua chọn lọc tự nhiên để thích ứng với hoàn cảnh sống và với đặc tính sinh vật học

của mỗi loài. Đồng thời, cấu tạo của các bộ phận trong cơ thể có tương quan với nhau.

Nghiên cứu hình thái cho ta biết được nguyên nhân của từng cấu tạo và quan hệ giữa

cấu tạo và phương thức sống. Qua nghiên cứu hình thái có thể nhận biết những đặc điểm

chung của từng nhóm loài và đặc điểm riêng của mỗi loài giúp cho công tác phân loại.

Đó là cơ sở quan trọng để nhận biết các bộ, họ, giống và loài côn trùng. Vì lẽ đó, khi tìm

hiểu về một loài côn trùng nào đó, bao giờ cũng bắt đầu từ việc nghiên cứu các đặc điểm

hình thái học. Như vậy, hình thái côn trùng cũng là cơ sở cho hoạt động quản lí côn

trùng.

2. Cấu tạo khái quát cơ thể côn trùng

Cơ thể côn trùng được bao bọc bên ngoài bằng một lớp da tương đối cứng. Lớp da

này giúp cho côn trùng có hình thù nhất định và làm chỗ bám cho các hệ cơ, nên người ta

gọi da côn trùng là “bộ xương ngoài” để phân biệt với các động vật có xương bên trong.

Cơ thể côn trùng được các vòng hẹp bằng chất màng phân cắt thành các vòng rộng hơn,

tạo nên các đốt cơ thể. Những màng hẹp bằng chất màng đó gọi là màng giữa giữa đốt.

Nhờ cơ thể được chia đốt như vậy nên có thể cử động được dễ dàng.

Cơ thể côn trùng do 18-20 đốt ở thời kỳ phát dục phôi thai tạo nên. Mỗi đốt ở thời kỳ

phôi thai (còn gọi là đốt nguyên thủy) có 2 mấu lồi ở hai bên gọi là mầm chi phụ. Chúng

tập hợp thành 3 phần là đầu, ngực và bụng. Các đốt ở phần đầu kết lại với nhau rất khít,

có thể thấy được vết tích chia đốt ở thời kỳ phôi thai, còn ở thời kỳ sau phôi thai chỉ nhận

biết qua các chi phụ là 2 râu đầu, 2 hàm trên, 2 hàm dưới, 2 nửa môi dưới. Vì vậy, có

người cho rằng đầu là do 4 đốt phôi thai tạo nên (Holmgren, Hanstrom, Snodgrass), do 5

đốt (Schwanvitch), hay do 6 đốt (Heymons, Viallanes). Phần ngực của tất cả các loài đều

có 3 đốt. Chúng gắn kết rất chặt với nhau làm điểm tựa cho cơ quan vận động là cánh (1-

2 đôi) và chân (3 đôi). Phần bụng do 11 đốt tạo nên (ở giai đoạn trưởng thành thường chỉ

Page 10: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

10

thấy 6-10 đốt). Cuối bụng của côn trùng trưởng thành có bộ phận sinh dục bên ngoài, ở

một số loài có lông đuôi, còn các chi phụ khác không còn nữa.

3. Cấu tạo chi tiết cơ thể côn trùng

a. Phần đầu và các phần phụ của đầu

Phần đầu

Cấu tạo cơ bản của đầu

Đầu côn trùng được bao bọc bằng một vỏ cứng, có 4 đôi chi phụ là một đôi

râu đầu và 3 đôi chi phụ miệng, có một đôi mắt kép và phần lớn có 3 mắt đơn.

Râu đầu, mắt kép, mắt đơn là cơ quan cảm giác. Miệng là cơ quan thu nhận

thức ăn. Vì vậy đầu là cơ trung tâm cảm giác và thu nhận thức ăn.

Trên bề mặt vỏ đầu có các ngấn. Ngấn là là đường lõm xuống của da tạo nên,

phần lõm vào trong đó được gọi là sống nổi trong. Các ngấn phân chia vỏ đầu

thành các khu và các mảnh, như khu trán – chân môi, khu cạnh- đỉnh đầu, khu

ót, khu sau ót, khu dưới má, và đặc biệt môi trên và lưỡi cũng là một mảnh

của vỏ đầu tạo thành. Trên đỉnh đầu ở giai đoạn ấu trùng thấy rất rõ ngấn lột

xác hình chữ Y ngược. Mỗi khi ấu trùng lột xác thì ngấn này tách ra để cơ thể

côn trùng tách khỏi lớp da cũ. Ở giai đoạn trưởng thành không nhìn thấy ngấn

này.

Căn cứ vào vị trí của miệng trên đầu, chia ra 3 kiểu đầu:

Đầu miệng trước: có miệng hướng về phía trước đầu, trục dọc của đầu song

song với trục dọc cơ thể. Kiểu đầu này thuận lợi cho những loài lao về phía

trước tấn công con mồi (như bọ chân chạy Carabidae, bọ hổ trùng

Cicindellidae) và đục khoét thực vật (như bọ đầu dài Curculionidae).

Đầu miệng dưới: có miệng ở phía dưới đầu, trục dọc của đầu gần thẳng góc

với trục dọc cơ thể. Gặp phổ biến ở các loài ăn thực vật, theo kiểu vừa bò vừa

gặm ăn (như châu chấu, dế mèn, dế dũi thuộc bộ cánh thẳng Orthoptera).

Đầu miệng sau: có miệng kéo dài ra phía sau đầu hường về mặt bụng, trục dọc

đầu và trục dọc thân tạo thành góc nhọn. Gặp ở nhóm côn trùng có kiểu miệng

chích hút (như ve sầu, bọ rầy, rệp muội - bộ cánh đều Homoptera và bọ xít –

bộ cánh nửa Hemiptera).

Page 11: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

11

Các phần phụ của đầu

Râu đầu

Hầu hết các loài côn trùng có một đôi râu đầu mọc trên ổ chân râu nằm ở vị trí

giữa 2 mắt kép. Chức năng chính của râu đầu là cơ quan khứu giác và xúc giác.

Có một số loài râu đầu còn có các chức năng khác, như ở muỗi đực là cơ quan

thính giác, niềng niễng Hydrophilus dùng râu đầu để bắt mồi, ban miêu đực

Mylabris dùng râu đầu để giữ con cái khi giao phối, bọ bơi ngửa Notonecta lại

dùng để giữ thăng bằng khi bơi…

Cấu tạo chung của râu đầu gồm 3 phần: chân râu (1 đốt), cuống râu (1 đốt) và

roi râu (chia làm nhiều đốt, rất đa dạng).

Hình dạng và kích thước râu đầu của các loài, của con đực và con cái trong

cùng một loài không giống nhau. Thường râu đầu con đực phát triển hơn, có tổng

diện tích tiếp xúc bề mặt với không khí nhiều hơn so với con cái cùng loài. Vì vậy

có thể dựa vào đặc điểm cấu tạo râu đầu để phân biệt các loài và con đực với con

cái trong cùng một loài. Như vậy, râu đầu là một trong những dấu hiệu quan trọng

để phân loại côn trùng. Để thuận tiện cho việc nhận biết trong phân loại, râu đầu

côn trùng được phân thành các kiểu sau đây (hình…):

Râu sợi chỉ: dài, mảnh, các đốt roi râu hình ống dài gần bằng nhau và càng về

cuối râu càng nhỏ dần. Ví dụ, râu đầu của gián.

Râu chuỗi hạt: các đốt roi râu hình hạt tròn nối tiếp nhau như chuỗi hạt. Ví dụ,

râu đầu của mối thợ, của bọ chân dệt.

Râu răng cưa: các đốt roi râu hình tam giác nhô về một phía trông giống răng

cưa. Ví dụ, râu của ban miêu, đom đóm.

Râu hình lông chim (hay răng lược kép): hai bên các đốt roi râu có nhánh kéo

dài trông như lông vũ. Ví dụ, râu ngài con đực của sâu róm thông, ong ăn lá

thông.

Râu cầu lông: trừ 1-2 đốt ở gần chân râu, xung quanh các đốt khác có nhiều

lông dài mịn, càng về cuối râu lông càng thưa và ngắn dần. Ví dụ, muỗi đực.

Page 12: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

12

Râu đầu gối: đốt chân râu dài cùng với các đốt roi râu tạo thành hình cong gấp

khúc tựa đầu gối. Gặp ở ong vàng, ong mật.

Râu dùi đục: các đốt roi râu phía chân râu hình ống dài, các đốt cuối phình to

rồi lại thót dần lại ở 3-4 đốt cuối cùng. Ví dụ, râu đầu bướm.

Râu dùi trống: các đốt cuối phình to rõ rệt như hình cầu, đốt cuối cùng to nhất.

Gặp ở loài chuồn chuồn râu dài.

Râu hình lá lợp: một số đốt cuối phần phần roi râu phát triển thành những

mảnh xếp chồng lên nhau và xòe ra được. VD, râu đầu cánh cam

Râu hình chùy: đốt chân râu và cuống râu phình to như quả chùy. VD, râu đầu

rầy nâu.

Râu lông cứng: ngắn, 1-2 đốt phía chân râu lớn hơn các đốt sau, các đốt sau

rất mảnh tựa như một sợi lông cứng. VD, rầy xanh, ve sầu, chuồn chuồn.

Râu ruồi: giống như râu lông cứng, nhưng trên lông cứng có lông mịn nhỏ.

VD, râu ruồi nhà.

Miệng

Miệng côn trùng là cơ quan thu nhận thức ăn. Thức ăn của các loài rất khác

nhau. Vì vậy, cấu tạo của miệng trong lớp côn trùng rất đa dạng phụ thuộc vào

thức ăn của mỗi loài.

Miệng gặm nhai là kiểu miệng nguyên thủy nhất. Cấu tạo của miệng gặm nhai

gồm có 5 phần: môi trên, hàm trên, hàm dưới, môi dưới và lưỡi. Môi trên có

cấu tạo như một mảnh da che phía trên miệng. Hàm trên là một đôi xương

cứng nằm phía dưới môi trên. Mỗi một hàm trên được đính lên mép dưới cạnh

vỏ đầu bằng 2 mấu. Mặt trong của hàm trên có những khía nhọn dạng răng,

những khía ở phía ngoài gọi là răng cắn, những khía ở gốc hàm gọi là răng

nhai. Hàm dưới là là một đôi xương hàm nằm dưới hàm trên. Mỗi hàm dưới

chia làm 5 phần: đốt chân hàm, đốt thân hàm, lá trong hàm, lá ngoài hàm và

râu hàm dưới. Lá trong hàm có những khía răng nhọn có thể cắt và nghiền

thức ăn, lá ngoài hàm hình thìa không cứng lắm có thể cử động được. Đoạn

giữa thân hàm có râu hàm dưới. Râu hàm dưới chia 5 đốt, dùng để xác định

mùi vị thức ăn. Môi dưới gồm cằm sau, cằm trước, 2 lá giữa môi, 2 lá cạnh

Page 13: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

13

môi và 2 râu môi dưới. Môi dưới che phía dưới miệng, râu môi dưới cũng xác

định mùi vị thức ăn. Lưỡi là một mảnh xương cứng gắn với phía dưới vỏ đầu,

làm nhiệm vụ nhào trộn thức ăn. Kiểu miệng gặm nhai giúp côn trùng gặm,

cắn những thức ăn rắn, gây những tổn thương nhìn thấy rất rõ trên các bộ phận

thực vật như lá bị cắn thủng hay mất từng mảng, thân cây hay hoa quả bị đục

rỗng hoặc bị gặm nham nhở.

Các kiểu miệng hút là từ kiểu miệng nhai biến đổi thành, có đặc điểm chung

là các chi phụ đều kéo dài để thích nghi cho việc lấy thức ăn ở dạng lỏng như

máu động vật, dịch cây, mật hoa v.v… Loại hình miệng hút chia làm nhiều

kiểu như: miệng gặm hút, miệng chích hút, miệng hút, miệng giũa hút, miệng

liếm hút và miệng cứa hút.

Miệng gặm hút: thường gặp ở bộ cánh màng Hymenoptera như ong mật. Đặc

điểm cơ bản của kiểu miệng là hàm trên và môi trên còn giữ theo miệng nhai;

hàm dưới và môi dưới kéo dài ra; râu hàm dưới ngắn, nhỏ. Lá ngoài hàm dưới

kéo dài thành hình lưỡi kiếm có tác dụng tách lật cánh hoa khi hút mật. Lá

giữa môi kéo dài thành vòi, phía trước phình to hình cầu gọi là đĩa vòi. Khi lấy

thức ăn, hàm trên, hàm dưới và râu môi dưới hợp lại thành thực quản rỗng, đĩa

vòi lấy mật hoa, nhờ sự co giãn lên xuống của lá môi giữa môi mà mật hoa

được hút vào. Hàm trên có tác dụng xây tổ.

Miệng chích hút: thường gặp ở rệp, bọ rầy, bọ xít, muỗi. Loại miệng này có

thể chích vào cơ thể thực, động vật để hút dịch cây hay hút máu. Đặc điểm cơ

bản của kiểu miệng này là các phần của miệng đều kéo dài, môi dưới thành

vòi có tác dụng bảo vệ miệng. Xoang miệng và cuống họng hợp thành bộ phận

bơm hút. Miệng chích hút của bị xít, bọ rầy có 4 ngòi châm do 2 hàm trên và 2

hàm dưới kéo dài. Mặt phía trong mỗi ngòi châm hàm dưới có 2 rãnh dọc, nên

khi hai ngòi châm hàm dưới hợp lại sẽ tạo ra một ống dẫn thức ăn và một ống

dẫn nước bọt. Khi bọ xít và bọ rầy hút dịch cây thì trước hết dùng 2 ngòi châm

hàm trên thay nhau chọc vào mô chứa thức ăn, khi thành lỗ rồi mới cắm 2

ngòi châm hàm dưới cùng vào, còn vòi thì bẻ cụp ra sau và nằm ở ngoài.

Trước khi hút chúng tiết nước bọt bơm vào mô cây để phân giải một phần

thức ăn nên làm biến dạng mô cây ở vết chích hút. Ngòi châm từ môi trên và

lưỡi của muỗi hợp lại thành 1 máng dẫn nước bọt và 1 ống dẫn thức ăn.

Page 14: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

14

Miệng hút: thường gặp ở bướm hay ngài bộ cánh vảy Lepidoptera. Đặc điểm

cơ bản của kiểu miệng này là 2 hàm dưới kéo dài và khi hợp lại thành một vòi

dài, ở giữa làm thành một ống dẫn thức ăn. Râu môi dưới phát triển. Các phần

khác đều thoái hóa chỉ còn dấu vết.

Miệng giũa hút: thường gặp ở bộ cánh tơ Thysanoptera. Đặc điểm cơ bản của

kiểu miệng này là môi trên, một phần hàm và môi dưới tạo thành vòi, giữa vòi

có lưỡi và 3 ngòi nhọn, trong đó có 2 ngòi do hàm dưới, 1 ngòi do hàm trên

bên trái kéo dài hình thành. Hàm trên bên phải thoái hóa, ống dẫn thức ăn do 2

hàm dưới hình thành. Lưỡi và lá giữa môi hợp thành ống dẫn nước bọt. Khi

ăn, hàm trên giũa rách biểu bì, 3 ngòi co giãn lên xuống để hút dịch qua vòi.

Miệng liếm hút: thường gặp ở ruồi nhà. Hàm trên và hàm dưới thoái hóa; Môi

dưới kéo dài thành vòi ngắn, đầu mút môi dưới phình to thành 2 đĩa môi (đĩa

vòi) hình quả thận có tính đàn hồi, có thể dùng đĩa vòi để liếm và hút thức ăn

dạng lỏng, nhão hoặc các hạt rắn nhỏ trên bề mặt thức ăn. Môi trên và lưỡi

hợp lại tạo thành ống dẫn thức ăn, trong lưỡi có ống tiết nước bọt.

Miệng cứa liếm: thường gặp ở ruồi trâu. Hai hàm trên và 2 hàm dưới phát

triển hoạt động theo chiều ngang, cứa rách da động vật cho máu chảy để đĩa

vòi liếm và hút. Đoạn cuối môi dưới phình to tạo thành đĩa vòi liếm và hút

chất lỏng. Môi trên và lưỡi tạo thành ống dẫn thức ăn, trong lưỡi có ống dẫn

nước bọt. Miệng ấu trùng ở những loài biến thái không hoàn toàn thì giống

như miệng của trưởng thành (VD, ở bộ cánh thẳng Orthoptera, bộ cánh nửa

Hemiptera, cánh đều Homoptera). Miệng của ấu trùng những loài biến thái

hoàn toàn thường khác với của trưởng thành khi hai pha này khai thác hai

nguồn thức ăn khác nhau (VD, miệng của con bướm, ruồi và ấu trùng của

chúng hoàn toàn khác nhau). Trong số các kiểu miệng ấu trùng đặc trưng như

vậy có kiểu miệng của ấu trùng bộ cánh vảy (như miệng con tằm) và của ấu

trùng bộ hai cánh (như miệng giòi). Loại thứ nhất thuộc miệng nhai: đôi hàm

trên phát triển dùng để cắn thức ăn rắn, còn hàm dưới, lưỡi và môi dưới hợp

lại thành mảnh tổng hợp, cuối mảnh tổng hợp có một núm nhọn lồi lên là ống

nhả tơ. Loại thứ hai miệng có các bộ phận thoái hóa, chỉ còn một đôi móc

miệng do hàm trên biến hóa thành để khuấy và hút thức ăn.

Page 15: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

15

b. Phần ngực và các phần phụ của ngực

Phần ngực

Cấu tạo cơ bản của phần ngực

Côn trùng có 3 đốt ngực (ngực trước, ngực giữa, ngực sau) gắn chặt với nhau.

Mỗi đốt ngưc do 4 mảnh (mảnh lưng, mảnh bụng, 2 mảnh bên) liên kết thành

khung khép kín. Mỗi đốt ngực có mang một đôi chân (chân ngực trước, chân

ngực giữa, chân ngực sau). Côn trùng trưởng thành thường có 2 đôi cánh: đôi

cánh trước ở đốt ngực giữa, đôi cánh sau ở đốt ngực sau. Một số trường hợp

đôi cánh sau thoái hóa thàng dạng hình chùy để giữ thăng bằng khi bay (như

ruồi, muỗi thuộc bộ hai cánh Diptera). Như vậy, ngực là trung tâm vận động

của cơ thể côn trùng.

Các phần phụ của ngực

Chân ngực

Ba đôi chân ngực có nguồn gốc từ mầm chi phụ của 3 đốt nguyên thủy. Kiểu

chân bò là dạng nguyên thủy nhất. Mỗi chân ngực cấu tạo từ 5 phần (chậu,

chuyển, đùi, chày, bàn chân). Bàn chân chia ra 3-5 đốt, cuối bàn chân thường có 2

móng; giữa 2 móng có đệm bàn chân mang các giác hút giúp côn trùng bám được

vào các bề mặt nhẵn. Mép ngoài đốt chày thường có nhiều gai, cuối đốt chày có

thể có cựa (cấu tạo dạng gai nhưng cử động được).

Để thích nghi với điều kiện sống và hoàn thành những chức năng khác nhau,

kiểu chân của côn trùng rất đa dạng, như: chân bò (gián), chân nhảy (chân sau của

châu chấu), chân bắt mồi (chân trước của bọ ngựa), chân lấy phấn (chân sau ong

mật), chân đào bới (chân trước dế dũi), chân bơi lội (niềng niễng), chân kẹp leo

(chấy, rận…).

Cánh

Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất có cánh.

Cánh của CT được hình thành do da hai bên mảnh lưng của đốt ngực giữa và

đốt ngực sau phát triển kéo dài ra, nên có 2 lớp màng từ 2 tàng biểu bì. Giữa hai

lớp màng có các ống rỗng gọi là gân hay mạch cánh. Các mạch cánh có tác dụng

làm cho cánh có độ cứng cần thiết để bay, là nơi có thần kinh phân bố, máu và

không khí lưu thông. Cánh thường có hình dạng tam giác; Cạnh phía trước gọi là

Page 16: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

16

mép trước, tương tự có mép ngoài và mép sau. Góc tạo thành bởi mép trước và

mép sau gọi là góc vai, giữa mép trước và mép ngoài là góc đỉnh, giữa mép ngoài

và mép sau là góc mông. Để thích nghi cho việc bay lượn và gấp cánh khi nghỉ

hay khi mới hóa trưởng thành, trên cánh có một số đường gấp chia mặt cánh thành

4 khu (khu nách, khu chính, khu mông và khu đuôi). Cách mạch dọc và ngang trên

cánh côn trùng có cách sắp xếp khác nhau theo loài nên là cơ sở quan trọng cho

phân loại côn trùng. Để tiện cho việc phân loại, các mạch cánh được đặt tên theo

vị trí phân bố của chúng trên cánh, như: mạch dọc mép (C), mạch dọc mép phụ

(Sc), mạch dọc chày (R), mạch dọc giữa (M), mạch dọc khủyu (Cu), mạch dọc

mông (A), mạch dọc đuôi (J); mạch ngang mép (h), mạch ngang chày (r), mạch

ngang chày chung (s), mạch ngang chày giữa (r-m), mạch ngang giữa (m), mạch

ngang giữa khuỷu (m-cu). Các ô được giới hạn giữa các mạch dọc, mạch ngang và

mép cánh gọi là buồng cánh. Ở một số loài còn có các dãy gai cài hay móc cánh

nhằm giúp cho đôi cánh hoạt động nhịp nhàng.

Để thích nghi với điều kiện sống khác nhau, mức độ phát triển của cánh và

chất cánh của côn trùng có rất nhiều thay đổi. Có nhiều côn trùng thuộc lớp phụ

có cánh (Pterygota) nhưng cánh đã hoàn toàn tiêu biến (VD, bộ ăn lông-

Mallophaga, bộ rận- Anoplura, bộ bọ chét- Sinphonaptera, và một số loài ở các bộ

khác, trong đó có bộ cánh thẳng- Orthoptera, cánh tơ- Thysanoptera, cánh cứng-

Cleodoptera, cánh vảy- Lepidoptera, bộ hai cánh- Diptera là những bộ có nhiều

loài sâu hại cây trồng. Có những loài con đực có cánh còn con cái không có cánh

(như một số loài rệp sáp, cánh đều Homoptera); loại hình không sinh sản của các

loài mối và kiến cũng không có cánh. Một số khác có cánh ngắn, thường gặp ở các

bộ cánh thẳng, cánh da, gián, cánh cứng, cánh đều.

Phần lớn cánh côn trùng là chất màng mỏng, trong suốt như cánh ong nên gọi

là cánh màng. Nhưng cánh của nhiều loài đã thay đổi về chất. Cánh trước của côn

trùng thuộc bộ cánh cứng bằng chất sừng, không có mạch cánh, có tác dụng bảo

vệ cánh sau và giữ thăng bằng khi bay, được gọi là cánh cứng. Cánh của các loài

bọ xít có nửa phía góc vai hóa cứng, nửa phía ngoài mềm, mạch cánh đơn giản,

được gọi là cánh nửa. Cánh trước của châu chấu và gián gần giống chất da nên

được gọi là cánh da. Cánh bướm, ngài bằng chất màng phủ đầy vảy nên được gọi

là cánh vảy.

Page 17: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

17

c. Phần bụng

Cấu tạo cơ bản phần bụng

Phần bụng do 11 đốt tạo nên, nhưng ở giai đoạn trưởng thành chỉ thấy 6-10

đốt. Mỗi đốt cơ thể ở phần bụng chỉ có một mảnh lưng, một mảnh bụng và 2 bên

là phần màng đàn hồi. Do mảnh lưng phát triển thành vòng cung kéo dài xuống

phía dưới cho nên phần màng hai bên cơ thể thường bị che khuất. Các đốt bụng

nối với nhau bằng một màng giữa đốt tương đối rộng và đàn hồi; mép trước của

mỗi đốt lồng vào mép sau của đốt trước đó theo dạng lợp ngói. Nhờ cớ các màng

hai bên bụng và màng giữa đốt mà bụng có thể phồng lên, xẹp xuống, kéo dài ra,

thu ngắn lại và dao động về mọi phía dễ dàng, phù hợp với sự vận động và sự hoạt

động các bộ máy bên trong cơ thể. Cuối bụng của trưởng thành có bộ phận sinh

dục ngoài, có thể có lông đuôi, các chi phụ khác đều không còn nữa.

Các phần phụ của bụng côn trùng trưởng thành

Lông đuôi: là chi phụ của đốt bụng cuối cùng. Hình dạng khác nhau giữa các

loài. VD, dạng sợi dài chia đốt (ở phù du, nhậy sách), dạng phiến chia đốt

(gián), dạng mấu (châu chấu), dạng kìm (bộ Cánh da Dermaptera).

Phần phụ sinh dục: là bộ phận sinh dục ngoài. Bộ phận sinh dục ngoài của con

đực là dương cụ và quặp âm cụ. Dương cụ là vật kéo dài ra của da từ màng

giữa đốt phía sau của đốt bụng thứ 9, còn quặp âm cụ phần lớn là do gai lồi

của đốt bụng thứ 9 tạo thành. Cũng có quặp âm cụ do lông đuôi biến hóa

thành (như ở chuồn chuồn). Bộ phận sinh dục ngoài của con cái là bộ phận đẻ

trứng – do chi phụ của đốt bụng thứ 8 và thứ 9 tạo thành, có dạng máng hoặc

ống nên được gọi là ống (hay máng) đẻ trứng. Không phải các loài đều có ống

đẻ trứng như vậy. Côn trùng ở bộ cánh cứng, cánh vảy, hai cánh có bộ phận đẻ

trứng do một số đốt bụng cuối cùng tạo nên. Những đốt này thường tương đối

cứng, lồng vào nhau và có thể co duỗi rất mạnh để phóng trứng ra ngoài.

Các phần phụ ở bụng ấu trùng

Chân bụng: ấu trùng bộ Cánh vảy có 5 đôi chân ở các đốt bụng thứ 3,4,5,6 và

10; ấu trùng của Ong ăn lá (Tenthredinidae) có thể có đến 11 đôi chân ở phần

bụng. Chân bụng của ấu trùng bộ cánh vảy chỉ có 3 đốt: đốt chậu phụ, đốt

chậu và đốt bàn; trên đốt bàn có những dãy móc câu gọi là móc móng.

Page 18: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

18

Các cấu tạo khác (mang khí quản, mấu lồi…): ấu trùng bộ Phù du

(Ephemerida), bộ Cánh rộng (Megaloptera) có mang khí quản ở hai bên các

đốt bụng 1-7 hoặc 1-8; ấu trùng dâu tằm (Bombycidae) và Ngài trời

(Sphingidae) có mấu lồi dạng gai hay sừng ở đốt bụng thứ 8.

4. Da của côn trùng

Chức năng

Da côn trùng là bộ xương ngoài giữ cho cơ thể có hình dạng nhất định, là chỗ cho cơ

bám vào, ngăn ngừa sự bốc hơi nước trong cơ thể côn trùng, bảo vệ cho các nội quan

tránh được những tổn thương cơ giới, sự xâm nhập của vi sinh vật và các chất có hại.

Trên da có nhiều cơ quan cảm giác nên cũng là nơi thu nhận các kích thích bên ngoài

vào cơ thể côn trùng.

Cấu tạo

Da côn trùng do tầng phôi ngoài hình thành. Một phần da lõm vào bên trong tạo nên

ruột trước, ruột sau, khí quản, bộ phận sinh dục ngoài và nhiều thể tuyến khác nhau. Da

côn trùng chia làm 3 lớp: lớp biểu bì, lớp tế bào nội bì và lớp màng đáy.

Biểu bì

Biểu bì là lớp ngoài cùng của cơ thể, được hình thành bởi các chất tiết ra của nội bì,

không có cấu tạo tế bào. Độ dày của biểu bì khác nhau tùy thuộc vào loài. Tuổi ấu trùng

càng lớn da càng dày, nhưng da của trưởng thành có khi mỏng hơn da ấu trùng. Một số

loài côn trùng khi sống ở những điều kiện sinh thái khác nhau cấu tạo biểu bì của chúng

có thể thay đổi (VD, sâu non bộ cánh vảy khi qua đông).

Với độ dày biến động từ 1 micromet đến 0,3mm, biểu bì chia làm 3 lớp: biểu bì trên

(Epicuticula), biểu bì ngoài (Exocuticula) và biểu bì trong (Endocuticula).

Biểu bì trên cấu tạo cấu tạo chủ yếu từ lipit, protein biến tính và không có chất kitin.

Chỉ chiếm 1-7% độ dày của biểu bì nhưng biểu bì trên có cấu tạo phức tạp và thường

chia làm 4 tầng có chức năng khác nhau: tầng ngoài cùng là tầng men, tiếp đến là tầng

sáp, tầng polifenon và tầng cuticulin. Tầng cuticulin được cấu tạo bởi lipo-protit, chống

chịu được axit và dung môi hữu cơ; tầng polifenon có tác dụng dính nối tầng cuticulin

với tầng sáp; tầng sáp dày 0,1-0,3 micromet, có tác dụng làm cho nước và các chất hòa

tan trong nước không thấm qua, đồng thời giữa nước cho cơ thể côn trùng.

Page 19: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

19

Biểu bì ngoài cấu tạo từ kitin, sclerotin và vôi. Biểu bì trong cấu tạo từ kitin và

actropodin. Kitin là một polixacarit có nitơ do vài trăm phân tử kết thành, công thức

phân tử (C8H13NO8)n. Kitin thể rắn, không màu, không tan trong nước, cồn, ête, axit

loãng, kiềm loãng và một số dung môi hữu cơ khác. Ở nhiệt độ dưới 1600C kitin không

bị NaOH và KOH phân giải, nhưng có thể hòa tan trong axit vô cơ đậm đặc và thủy

phân thành glucosamin,axit axetic và polixacarit. Kitin không bị men tiêu hóa của động

vật có vú phân giải, nhưng bị men tiêu hóa của một số côn trùng, ốc sên và vi khuẩn

Bacillus chitinovorus phân giải. Hàm lượng kitin trong da côn trùng khoảng 33%.

Actropodin là một protein tan trong nước, còn sclerotin là một protein không tan trong

nước. Hàm lượng của hai loại protein này chiếm trên 55% trọng lượng biêu bì. [Quá

trình hình thành sclerotin: bắt đầu từ tiroxin qua các bước như sau: tiroxin -> dopa ->

polyfenon -> octoquinon; octoquinon + actropodin => sclerotin]. Da của Ct khi mới

lột xác thường mềm vì tầng biểu bì ngoài chưa hình thành. Quá trình hình thành biểu bì

ngoài chủ yếu là quá trình actropodin chuyển hóa thành sclerotin. Một số côn trùng có

cơ thể mềm là do tầng biểu bì ngoài mỏng. Chỗ màng nối giữa khớp côn trùng có biểu

bì ngoài không phát triển hoặc thiếu nên có thể hoạt động gấp khúc và co duỗi. Quyết

định tính co duỗi và uốn khúc (mềm dẻo) của da côn trùng chủ yếu do chất kitin và

actropodin, còn tính cứng lại do sclerotin và các phần tử kitin kết hợp tạo thành một

mạng lưới vững chắc. Biểu bì không thấm nhờ có lớp sáp. Lớp men cứng có chức năng

bảo vệ lớp sáp và chỉ được hình thành sau khi côn trùng lột xác.

Lớp tế bào nội bì

Nội bì là một lớp tế bào đơn, giữa các tế bào có xen kẽ một số tế bào có chức năng

đặc biệt như tế bào hình thành lông, tế bào hình thành các tuyến trên da. Tế bào nội bì

là một tổ chức sống rất quan trọng. Chúng tiết ra các chất để tạo thành lớp biểu bì mới,

tiết ra dịch để tiêu hóa lớp biểu bì cũ và hấp thụ trở lại các chất đã tiêu hóa để tái tạo

biểu bì mới, có khả năng hàn gắn các vết thương. Mặt khác, một số tế bào nội bì có thể

phân hóa để tạo thành cơ quan cảm giác và các tuyến trên da.

Lớp màng đáy

Màng đáy là một màng mỏng dính sát dưới đáy lớp tế bào nội bì. Màng đáy không

có cấu tạo tế bào. Phía dưới màng đáy phân bố các ngọn dây thần kinh.

Các vật phụ của da và các tuyến

Page 20: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

20

Vật phụ ngoài da: có thể được tạo thành từ biểu bì nên không có cấu tạo tế bào (như

các sống nổi, mấu lồi, lông nhỏ trên cánh), hay có thể được tạo thành bởi các tế bào

nội bì (như gai, lông cứng, lông độc, lông cảm giác).

Tuyến trên da: các tuyến phân bố rải rác trên da và tiết ra những chất khác nhau.

Một số dạng thường gặp như tuyến sáp, tuyến độc, tuyến hôi, tuyến lột xác, tuyến

nước bọt, tuyến tơ (ở sâu non bộ cánh vảy và cánh lông).

Màu sắc da côn trùng

Da côn trùng có màu sắc rất đa dạng, tạo nên do 3 loại màu sắc cơ bản là: màu sắc hóa

học, màu sắc vật lý và màu sắc hỗn hợp của hai loại này.

Màu sắc hóa học do các sắc tố tạo nên. Các sắc tố có thể lấy từ bên ngoài qua thức

ăn (như clorofin, caroten, antoxin, flavones, và chất chuyển hóa từ clorofin như

hemoglobin). Một số màu sắc thấy ở côn trùng nhưng không có trong thức ăn của

chúng như màu trắng và màu đen, lại là các chất chuyển hóa trong cơ thể côn trùng.

VD, màu trắng là sắc tố có chất purinin được sản sinh từ axit uric tíc tụ lại, màu đen

có sắc tố melanin tạo nên bởi tác động của men tiroxinaza lên tiroxin.

Màu sắc vật lý tạo nên do bề mặt da có cấu tạo đặc biệt (như có tầng sáp mỏng, các

ngấn lồi lõm, các lông, vảy…), khi ánh sáng mặt trời chiếu vào thì có hiện tượng

khúc xạ rồi phản xạ tạo nên màu sắc khác nhau. Màu sắc vật lý rất bền vững, không

bị mất màu khi xử lý bằng các chất hóa học, đun sôi hoặc sau khi chết.

Màu sắc côn trùng có thể bị thay đổi do ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh, như thức

ăn, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng. Cùng một loài sâu nhưng ăn các cây khác nhau có thể có

màu sắc khác nhau; nuôi côn trùng ở nhiệt độ càng cao hoặc độ ẩm càng thấp thì màu

càng nhạt, nuôi trong điều kiện ánh sáng có bước sóng khác nhau thì màu sắc cơ thể

khác nhau do ánh sáng tác động lên cơ thể kích thích tuyến bên cuống họng (tuyến hầu)

tiết ra chất làm thay đổi màu sắc.

Câu hỏi ôn tập chương 2

1. Vì sao phải nghiên cứu hình thái côn trùng?

2. Trình bày cấu tạo khái quát cơ thể côn trùng.

3. Cấu tạo cơ bản của đầu và các kiểu đầu ở lớp côn trùng? Chức năng của đầu côn

trùng. Những đặc điểm cấu tạo nào của đầu thể hiện chức năng đó?

Page 21: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

21

4. Trình bày cấu tạo chung của râu đầu và các kiểu râu đầu thường gặp. Chức năng của

râu đầu côn trùng?

5. Trình bày cấu tạo của kiểu miệng gặm nhai và những biến đổi ở kiểu miệng hút. Nêu

tính phù hợp giữa cấu tạo miệng côn trùng với môi trường mà nó sinh sống. Có thể

quản lí côn trùng thông qua kiểu miệng và phương thức lấy thức ăn của chúng được

không?

6. Chức năng của ngực côn trùng là gì. Cấu tạo nào của ngực côn trùng đảm bảo chức

năng đó?

7. Trình bày cấu tạo chung của chân và các kiểu chân thường gặp. Thông qua sự đa dạng

các kiểu chân côn trùng để góp phần chứng minh về sự thống nhất giữa cấu tạo cơ thể

với môi trường.

8. Trình bày cấu tạo của cánh côn trùng và các kiểu cánh thường gặp.

9. Cấu tạo phần bụng côn trùng như thế nào để làm trung tâm trao đổi chất và sinh sản?

Các phần phụ của bụng ở 2 giai đoạn trưởng thành và ấu trùng có khác nhau gì không?

10. Chức năng và cấu tạo da côn trùng. Các phần phụ ở da côn trùng.

11. Các loại màu sắc của da côn trùng và ý nghĩa của nó đối với khả năng tự vệ của côn

trùng trong tự nhiên.

Page 22: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

22

Chương III

GIẢI PHẪU, SINH LÝ CÔN TRÙNG

1. Định nghĩa

Giải phẫu sinh lý nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động của các bộ máy bên trong cơ

thể côn trùng. Để việc nghiên cứu được thuận lợi, người ta nghiên cứu riêng từng bộ

máy, cơ quan, mặc dù hoạt động của cơ thể mang tính thống nhất hoàn chỉnh. Các tế

bào chuyên hóa cùng loại tập hợp lại thành tổ chức mô; một số mô tập hợp thành cơ

quan (VD, mắt, các hạch thần kinh, thực quản, khí quản…); một số cơ quan có cùng

chức năng tập hợp thành bộ máy (VD, các cơ quan thụ cảm, não, các hạch thần kinh,

các dây thần kinh tập hợp thành bộ máy thần kinh); toàn bộ các bộ máy hợp nhất thành

cơ thể.

Người ta phân biệt 8 bộ máy có chức năng riêng biệt là: nâng đỡ, chuyển vận, tiêu

hóa, hô hấp, bài tiết, tuần hoàn, thần kinh và sinh dục. Trong đó, da của côn trùng làm

nhiệm vụ của bộ máy nâng đỡ, tương ứng với bộ xương của động vật có xương sống,

nên còn được gọi là bộ xương ngoài của côn trùng. Hệ cơ làm nhiệm vụ của bộ máy

chuyển vận. Chức năng còn lại của các bộ máy còn lại như của các động vật khác.

Riêng da côn trùng đã được đề cập khi nghiên cứu cấu tạo bên ngoài cơ thể ở chương

Hình thái côn trùng, các bộ máy còn lại được nghiên cứu chi tiết trong chương Giải

phẫu – Sinh lý côn trùng.

2. Xoang cơ thể và vị trí các cơ quan bên trong

Xoang cơ thể là khoang do vỏ cơ thể tạo thành. Vỏ cơ thể bao gồm da và các cơ

bám vào da (cơ vỏ). Xoang cơ thể chứa máu, thể mỡ và các bộ máy bên trong. Có 2

vách mỏng dọc cơ thể (gọi là màng ngăn lưng và màng ngăn bụng) chia xoang cơ thể

thành 3 xoang nhỏ, gọi là xoang máu lưng, xoang máu quanh ruột và xoang máu bụng.

Một số côn trùng chỉ có màng ngăn bụng (bộ cánh vảy, cánh màng, chuồn chuồn). Hệ

thống khí quản của bộ máy hô hấp bao gồm các ống dẫn khí xuyên qua các màng ngăn

chui vào các nội quan nên ở khắp các xoang. Mạch máu nằm ở xoang máu lưng. Chuỗi

hạch thần kinh nằm ở xoang máu bụng. Bộ máy tiêu hóa, bài tiết, sinh dục nằm ở

xoang quanh ruột.

3. Cấu tạo và hoạt động của các bộ máy bên trong cơ thể côn trùng

Page 23: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

23

Hệ cơ

Cơ côn trùng thuộc loại cơ vân, là loại đã chuyên hóa cao, đảm bảo cho tính chất

nhanh và phức tạp của các cử động. Số lượng cơ thay đổi tùy theo loài và giai đoạn

phát dục. Ở sâu non bộ cánh vảy có khoảng 2000 cơ. Các cơ của côn trùng phân thành

2 nhóm: nhóm cơ vỏ và nhóm cơ nội quan. Với cơ vỏ, thường một đầu bám cố định

vào một mấu cố định trên da, đầu kia gắn vào cơ quan vận động bằng một sợi rất nhỏ

tonofibrin.

Cơ của côn trùng co và dãn nhanh. VD, ong và ruồi, có thể đập cánh 150-300 lần

trong một giây. Với một xung động kích thích thì cơ có thể có thể đáp ứng bằng nhiều

lần co cơ. Đó là hiện tượng đáp ứng kép. Lực tuyệt đối của cơ côn trùng rất lớn, vì vậy

chúng có thể mang được những vật có trọng lượng hơn cơ thể chúng hàng chục lần

(15-25 lần), có nhiều loài có thể nhảy cao và dài gấp hàng trăm lần chiều dài cơ thể

chúng.

Bộ máy tiêu hóa

Bộ máy tiêu hóa làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn lấy từ bên ngoài vào. Quá trình tiêu

hóa bao gồm các khâu: thu nhận thức ăn, phân giải thức ăn, hấp thụ các chất dinh

dưỡng và thải phân ra ngoài. Những việc này do ống và các tuyến tiêu hóa đảm nhận.

Cấu tạo của bộ máy tiêu hóa

Bộ máy tiêu hóa của côn trùng, còn gọi là ống tiêu hóa, bắt đầu từ miệng và kết thúc

ở hậu môn. Ống tiêu hóa chia làm 3 phần: ruột trước, ruột giữa và ruột sau. Ranh

giới ruột trước và ruột giữa là van Cacdia; ranh giới ruột giữa và ruột sau là van

Pilo. Các van Cacdia và Pilo ngăn không cho thức ăn đi ngược chiều và điều hòa sự

vận chuyển thức ăn trong ruột.

Ruột trước: bao gồm hầu, thực quản, diều và dạ dày cỏ. Hầu và thực quản dẫn

thức ăn vào diều. Diều là phần phình to của thực quản để chứa thức ăn chưa tiêu

hóa. Dạ dày cỏ là một túi có vách cơ dày và nhiều gờ kitin cứng để nghiền nát

thức ăn.

Ruột giữa: có dạng túi phình to hoặc dạng ống ngoằn ngoèo. Phía đầu ruột giữa

có khi thông với với một số túi nhỏ gọi là manh tràng để tăng bề mặt làm việc

của ruột giữa và thường là nơi cư trú của các VSV cộng sinh. Nhiệm vụ của ruột

giữa là tiêu hóa thức ăn nhờ các men tiêu hóa, hấp thụ các chất cần thiết và đẩy

Page 24: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

24

các chất không hấp thụ được vào ruột sau để thải ra ngoài. Xen lẫn trong vách tế

bào ruột có các tế bào tiết dịch tiêu hóa. Các tế bào tiết luôn được sản sinh trong

vách ruột để thay thế tế bào tiết bị tiêu hao. Ở các côn trùng ăn thức ăn rắn có

màng kitin mỏng dạng lưới bảo vệ cho vách ruột không bị các mảnh cứng của

thức ăn làm tổn thương.

Ruột sau: được bao phủ kitin phía trong và chia ra: ruột non, ruột già, ruột thẳng.

Đầu ruột sau (giáp van Pilo) có các ống Malpighi của bộ máy bài tiết đổ vào.

Ruột sau không làm nhiệm vụ tiêu hóa mà chỉ thu hồi nước trong phân trước khi

thải ra ngoài.

Hoạt động tiêu hóa

Thức ăn qua miệng được các hàm nghiền nhỏ.Ở một số loài, thức ăn tiếp tục được

nghiền nát trong dạ dày cỏ. Ở ruột giữa, các chất gluxit, protein, lipit được thủy phân

nhờ nhóm men tiêu hóa cacbohydraza, proteaza, lipaza. Sản phẩm thủy phân từ

gluxit là các đường đơn, từ protein là các axit amin, từ lipit là glyxerin và các axit

béo. Quá trình hấp thụ theo sau quá trình tiêu hóa. Nhờ hiện tượng thủy phân của của

quá trình tiêu hóa mà trong ruột giữa bao giờ cũng tạo nên một môi trường có các

axit amin, các đường đơn, các axit béo xà phòng hóa và glyxerin ở nồng độ cao, làm

chúng thẩm thấu qua vách tế bào vào cơ thể, do đó các thức ăn thủy phân được hấp

thụ.

Nước, muối, các nguyên tố vi lượng, các vitamin trong thức ăn rất cần thiết cho cơ

thể côn trùng. Nhu cầu về hàm lượng nước trong thức ăn của các loài rất khác nhau.

Phần lớn yêu cầu hàm lượng nước trên 12%, nhưng cũng có loài chịu được hàm

lượng nước thấp, VD, mọt Tribolium là 6%, bướm Ephestia là 1%.

Những biến đổi của bộ máy tiêu hóa

Một số cấu tạo đặc biệt là buồng lọc của côn trùng bộ cánh đều Homoptera. Buồng

lọc là biến đổi của ống tiêu hóa do hai phần bình thường ở xa nhau lại dính vào nhau.

Ruột giữa các loài này chia làm 3 đoạn: đoạn 1 và 2 dạng túi nối tiếp ngay sau thực

quản (vì diều và dạ dày cỏ thoái hóa), đoạn 3 dạng hình ống mảnh vòng trở lại và

dính vào đoạn 1, thường gắn chặt vào đó nhờ có mô liên kết để tạo thành buồng lọc

(filter chamber). Thức ăn vượt qua buồng lọc đi vào ruột sau dạng ống mảnh, rồi vào

ruột thẳng. Các ống Malpighi nằm ở buồng lọc hoặc quá đó một chút. Côn trùng bộ

cánh đều Homoptera sống trên cây và hút một lượng lớn nhựa cây. Buồng lọc giúp

Page 25: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

25

cho nước của dịch cây thấm trực tiếp từ đoạn trước của ruột giữa vào ruột sau, làm

cô đặc dịch cây, thuận lợi cho việc tiêu hóa ở đoạn sau ruột giữa. Chất lỏng thừa đó

đi qua hậu môn gọi là sương mật (honeydew). Vì sương mật thường chứa một lượng

lớn cacbohydrat và axitamin, nên có chút nghi ngờ về chức năng chính xác của

buồng lọc.

Đối với các loài ăn thức ăn quá khô (các loài mọt) thì có cấu tạo đệm ruột thẳng để

hấp thu tối đa nước trong phân trước khi thải ra ngoài.

Độ pH trong ruột của các loài côn trùng rất khác nhau. VD, của ong mật là 5,6-6,3;

của ấu trùng bọ hung là 7,4-7,5; của sâu róm thông là trên 8. Độ pH trong ruột ảnh

hưởng rất nhiều đến độ hấp thụ các thuốc trừ sâu có tính axit hay kiềm. Chế phẩm

BT từ bào tử Bacillus thuringiensis chỉ phát huy tác dụng khi độ pH ruột côn trùng

lớn hơn 7.

Thức ăn của các loài và của các pha phát dục cùng loài có thể khác nhau. Vì vậy hệ

thống men trong ruột côn trùng cũng không giống nhau về thành phần và hàm lượng.

Bộ máy hô hấp

Bộ máy hô hấp có chức năng cung cấp ôxi cho cơ thể và thải CO2 sản sinh ra trong quá

trình trao đổi chất của cơ thể ra ngoài.

Cấu tạo

Bộ máy hô hấp của côn trùng là một hệ thống ống khí quản bắt đầu từ các lỗ thở ở

hai bên cơ thể, được nối với nhau bằng các khí quản dọc và ngang, phân nhánh đến

các vi khí quản ở các tế bào của cơ thể. Khí quản có nguồn gốc từ tầng phôi ngoài.

Mặt trong khí quản là màng kitin có những gờ xoắn đảm bảo cho cho khí quản

không bị bẹp trong quá trình côn trùng vận động. Hai lỗ thở ở mỗi đốt được nối với 2

khí quản dọc hai bên cơ thể gọi là khí quản dọc bên, từ vị trí đó khí quản chia 3

nhánh: một nhánh đi về phía lưng phân bố vào mạch máu lưng và các cơ lưng; một

nhánh đi về phía bụng phân bố vào hệ thần kinh và các cơ bụng; một nhánh đi vào

giữa phân bố quanh ống tiêu hóa, bộ máy sinh dục và thể mỡ. Ngoài ra còn có khí

quản dọc lưng, dọc bụng và dọc ruột. Các khí quản này thông với các khí quản dọc

bên bằng các nhánh ngang. Khí quản phân nhánh nhỏ đến tận tế bào, gọi là vi khí

quản. Vi khí quản không có gờ kitin xoắn ốc như khí quản. Các lỗ thở phân bố hai

bên sườn dọc thân và phân bố theo các đốt. Thông thường côn trùng có 10 đôi lỗ thở

Page 26: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

26

(từ đốt ngực giữa đến đốt bụng thứ 8). Tuy vậy, số lỗ thở có thể ít hơn nhiều, có loài

chỉ có 1 đôi ở đốt bụng sau cùng hoặc ở đốt ngực trước; cũng có loài hoàn toàn

không có lỗ thở. Lỗ thở côn trùng bậc thấp (Apterygota) hình tròn và không có bộ

phận đóng mở, còn ở côn trùng có cánh (Pterygota) lỗ thở có bộ phận đóng mở theo

yêu cầu của cơ thể.

Hoạt động hô hấp

Ở khí quản hô hấp theo 2 cơ chế: khuếch tán và thông khí qua lỗ thở. Khuếch tán

được thực hiện do chênh lệch nồng độ CO2 và O2 giữa bên trong cơ thể và bên ngoài.

Thông khí được thực hiện do côn trùng chủ động cử động làm thay đổi thể tích của

bụng để bơm hút không khí qua lỗ thở. Ở vi khí quản hô hấp theo cơ chế thay đổi

lượng dịch ở đó (Wiggleswort W.B.,1953). Trong quá trình trao đổi chất, trong cơ

thể côn trùng sản sinh ra CO2, axit hữu cơ và các sản phẩm trao đổi khác, do đó làm

tăng áp suất thẩm thấu của mô và máu, tạo nên một môi trường ưu trương. Dịch từ vi

khí quản khuếch tán vào tế bào mô và vị trí của nó được thay thế bằng không khí từ

khí quản đưa đến. Không khí giàu O2 làm giảm áp suất thẩm thấu của tế bào nên

dịch từ mô lại vào trong vi khí quản và dồn không khí ra ngoài. Sau đó chu trình

được lặp lại.

Thành phần không khí, nhiệt độ, trạng thái sinh lý của cơ thể ảnh hưởng đến hô hấp.

Nồng độ khí CO2 trong không khí càng cao, nồng độ ôxi càng thấp hay nhiệt độ càng

cao thì lỗ thở phải mở nhiều và nhanh. Thế nhưng, nếu hàm lượng CO2 vượt quá

25% hay nhiệt độ lên trên 54oC thì côn trùng hôn mê và ngừng hô hấp.

Đa số côn trùng hô hấp bằng khí quản, nhưng một số côn trùng có kích thước nhỏ

(Apterygota), một số ấu trùng của côn trùng nội kí sinh và các loài không có lỗ thở

lại hô hấp qua da. Một số ấu trùng ong nội kí sinh có thể mắc hệ thống khí quản của

mình vào hệ thống khí quản của kí chủ để hô hấp nhờ, hoặc đục thủng da kí chủ để

thò lỗ thở ra ngoài. Một số loài không có lỗ thở sống trong nước hô hấp theo kiểu

không khí lọt qua các phần lồi của cơ thể có mang các nhánh khí quản bịt đầu gọi là

mang khí quản.

Bộ máy tuần hoàn

Bộ máy tuần hoàn có chức năng làm cho máu lưu thông trong cơ thể. Chức năng đó của

côn trùng được thực hiện nhờ mạch máu lưng.

Page 27: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

27

Cấu tạo

Máu của côn trùng tràn ngập các xoang cơ thể ở khoảng giữa các cơ quan. Chỉ có

một phần máu được lưu thông trong mạch máu lưng (là một mạch máu độc nhất nằm

ở xoang máu lưng và được treo bởi những sợi cơ vào vách lưng), vì vậy là một hệ

tuần hoàn hở. Mạch máu lưng chia làm 2 phần: phần trước là một ống dài gọi là

động mạch, phần sau gồm nhiều phòng co bóp nên gọi là các phòng tim. Các phòng

tim nối tiếp nhau, có van ngăn cách và hướng về phía trước. Mỗi phòng tim có 2 lỗ

tim (Osti) ở hai bên và có van hướng vào trong. Dưới các phòng tim có các bó cơ

hình tam giác gọi là cơ cánh.

Hoạt động của bộ máy tuần hoàn

Khi một phòng tim nở ra (tâm trương) máu qua các lỗ tim chui vào trong phòng. Khi

một phòng tim co lại (tâm thu) áp suất máu làm mở các van phía trước và đóng các

van sau để máu dồn về phía trước. Các phòng tim hoạt động cùng tần suất nhưng

lệch pha, làm máu trong chuỗi phòng tim chuyển dần từ sau về trước, dồn vào động

mạch, rồi đổ vào xoang đầu. Do áp suất máu ở phần đầu cao nên máu chảy về sau

trong xoang máu bụng và xoang quanh ruột.

Số lần co bóp của phòng tim phụ thuộc vào loài, trạng thái sinh lí của côn trùng và

điều kiện môi trường, từ 15-150 lần/phút.

Máu đến được từng cơ quan riêng biệt như râu đầu, mắt… nhờ có sự hỗ trợ của bầu

co bóp ở từng nơi, đến chân là nhờ hoạt động của các màng ngăn ở chân.

Máu côn trùng có chức năng vận chuyển các chất dinh dưỡng đi khắp cơ thể, đưa các

chất bã trong cơ thể đến các cơ quan bài tiết để thải ra ngoài. Máu chứa các hoóc

môn có vai trò trong sự điều chỉnh các quá trình sinh lí. Máu côn trùng có chức năng

bảo vệ và miễn dịch. Ngoài ra, máu côn trùng có chức năng tạo nên áp suất cần thiết

để cơ thể ấu trùng tuy mềm nhưng vẫn giữ được hình dạng nhất định, để cánh và vòi

có thể duỗi ra, để côn trùng có thể lột xác.

Cơ thể côn trùng nhỏ bé, nên nhiệt sinh ra do hoạt động của các cơ quan, của các

phản ứng ôxi hóa luôn bị tiêu hao rất lớn bởi sự tỏa nhiệt và truyền nhiệt. Tương

quan giữa sản nhiệt và truyền nhiệt luôn thay đổi, nên thân nhiệt côn trùng không ổn

định. Nhiệt độ cơ thể côn trùng phụ thuộc nhiệt độ môi trường. Khi côn trùng hoạt

động mạnh, như vẫy cánh khi bay, thì nhiệt độ cơ thể có thể nâng cao hơn nhiệt độ

Page 28: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

28

môi trường (3-4oC), nhưng khi dừng bay thì nhiệt độ cơ thể lại hạ xuống ngang nhiệt

độ môi trường.

Bộ máy bài tiết

Bộ máy bài tiết của côn trùng có chức năng thải ra ngoài hoặc vào trong cơ thể những

chất sản sinh ra trong quá trình trao đổi chất. Những chất bài tiết ra ngoài chủ yếu là các

hợp chất co chứa Nitơ sản sinh ra do oxi hóa protein, đồng thời cả các chất thừa trong cơ

thể như axit oxalic, axit photphoric, các ion Ca++ và Na+.

Cấu tạo

Bộ máy bài tiết của côn trùng chủ yếu là các ống Malpighi, thể mỡ và các tế bào đa

nhân gọi là tế bào thận nằm xung quanh mạch máu lưng. Ống malpighi là ống có

một đầu gắn vào đoạn chuyển tiếp giữa ruột già và ruột sau, một đầu kín lơ lửng

trong xoang máu quanh ruột. Số lượng ống malpighi thay đổi tùy loài, VD, bọ xít có

4 ống, bọ cánh cứng có 4-6 ống, chuồn chuồn có 30-200 ống; rệp và một số côn

trùng Apterygota không có ống malpighi.

Cơ chế hoạt động

Trong máu côn trùng luôn có quá trình kết hợp giữa muối KHCO3 và NaHCO3 với

axit uric để tao ra các muối urat kali, urat natri và H2O. Những sản phẩm này được

đầu ống malpighi hấp thụ và chuyển dần về cuối ống nơi gắn vào ruột. Trong quá

trình đó, các muối urat kali, urat natri và H2O kết hợp với CO2 trong ống để tạo ra

axit uric, muối KHCO3 và NaHCO3. Những muối này dễ tan trong nước, được các tế

bào cuối ống hấp thụ rồi chuyển vào xoang máu để thực hiện lại chu trình cũ. Axit

uric rất khó hòa tan, tích đọng lại, rồi được chuyển vào ruột sau và thải ra ngoài theo

phân. Như vậy, các muối KHCO3 và NaHCO3 và nước không mất đi, mà chỉ đóng

vai trò trung gian vận chuyển axit uric từ xoang máu vào ống malpighi.

Thể mỡ ngoài chức năng dự trữ dinh dưỡng còn tích lũy các chất bã dưới dạng tinh

thể, sau đó chuyển cho ống malpighi hoặc loại bỏ trong quá trình lột xác hóa nhộng.

Các tế bào thận có khả năng hấp thụ các chất NH3, protein và diệp lục.

Bộ máy thần kinh

Bộ máy thần kinh của côn trùng có chức năng điều hòa hoạt động của mọi cơ quan trong

cơ thể để các hoạt động đó hướng theo một mục đích thống nhất, làm cho cơ thể là một

khối thống nhất hoàn chỉnh, phản ứng hợp lí mọi tín hiệu của môi trường bên ngoài, đảm

Page 29: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

29

bảo cho sự tồn tại của cá thể. Như vậy, vai trò của bộ máy thần kinh là chỉ huy mọi hoạt

động sống trong cơ thể côn trùng.

Cấu tạo

Bộ máy thần kinh của côn trùng có cấu tạo phức tạp và chia thành: thần kinh trung

ương (TKTW), thần kinh ngoại vi (TKNV) và thần kinh giao cảm (TKGC).

Đơn vị cơ sở của hệ thần kinh là tế bào thần kinh, được gọi là thần kinh nguyên

(neuron). Thần kinh nguyên (TKN) có hai loại phần lồi: một loại ngắn và nhiều

nhánh như rễ cây, một loại dài và chỉ phân nhánh ở cuối. Loại ngắn gọi là nhánh

phu, loại dài là nhánh chính. Mỗi TKN có nhiều nhánh phụ và chỉ có một nhánh

chính. Các nhánh này dẫn truyền các kích thích và hình thành các dây thần kinh.

Có 3 loại TKN: cảm giác, vận động và liên hệ. TKN cảm giác nằm ngoài TKTW và

là thành phần của cơ quan nhận cảm. Các kích thích từ bên ngoài được thần kinh

nguyên cảm giác tiếp nhận rồi truyền tới TKTW. TKN vận động nằm ở TKTW

nhưng nhánh chính của nó kéo dài và tận cùng ở các cơ quan đáp ứng. Cơ quan đáp

ứng là cơ quan có cơ (VD chân, cánh) hoặc có khả năng đáp ứng lại kích thích bằng

một hình thức khác (VD bài tiết). TKN liên hệ nằm trong các trung tâm có chức

năng truyền các kích thích từ TKN này đến TKN khác. Sự dẫn truyền xung động từ

TKN này đến TKN kia thực hiện ở các Sinapse.

Các TKN tập trung lại tạo thành các hạch thần kinh hoặc dây thần kinh.

Các hệ thần kinh:

Thần kinh trung ương: TKTW có tính phân đốt. Đó là một chuỗi hạch kép nối

với nhau bằng những nhánh ngang. Về nguyên lí thì mỗi đốt có 2 hạch liên hệ với

các dây thần kinh ở ngoại biên. TKTW chia làm 2 phần (phần đầu và phần bụng).

Phần đầu gồm một hạch trên hầu rất lớn (chia ra não trước, não giữa, não sau) và

một hạch dưới hầu. Hai hạch này có dây nối với nhau thành một vòng quanh hầu.

Phần bụng gồm chuỗi hạch thần kinh bụng. Ở những côn trùng nguyên thủy có 3

đôi hạch hạch ngưc và 8 đôi hạch bụng. Trong quá trình tiến hóa, các hạch của

các đốt bụng sau có khuynh hướng dồn và kết hợp với hạch các đốt trước, vì vậy

ở côn trùng có tiến hóa cao như ruồi, bọ hung có số lượng hạch thần kinh bụng ít

hơn.

Page 30: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

30

Thần kinh ngoại vi: bao gồm các TKN cảm giác (xúc giác, vị giác, khứu giác,

thính giác, thị giác) có các đầu mút nằm rải khắp cơ thể. TKNV còn bao gồm các

dây thần kinh xuất phát từ các hạch TKTW và TKGC. Nhờ có thần kinh ngoại vi

mà TKTW và TKGC mới liên hệ được với các cơ quan.

Thần kinh giao cảm: còn gọi là thần kinh thực vật, điều hòa hoạt động của nội

quan và hệ cơ. TKGC có 3 phần (phần miệng - dạ dày, phần bụng và phần đuôi).

(1) Phần miệng - dạ dày gồm hạch trán, hạch dạ dày và dây thần kinh phản hồi

nối 2 hạch với nhau;

(2) Phần bụng là một dây thần kinh dạng sợi mảnh nằm giữa các dây thần kinh

dọc của chuỗi hạch thần kinh bụng, mỗi đốt mọc ra 2 nhánh;

(3) Phần đuôi liên hệ với hạch cuối của chuỗi thần kinh bụng.

Hoạt động thần kinh

Cung phản xạ là đường dẫn truyền kích thích từ cơ quan cảm nhận đến trung

tâm, rồi từ trung tâm đến cơ quan đáp ứng. Xung động thần kinh được dẫn truyền

theo dây thần kinh với tốc độ 5m/giây. Hưng phấn có bản chất điện-hóa học và

thực hiện qua sự thay đổi điện thế giữa TKN và dây thần kinh. TKN hưng phấn

tiết ra chất axtincolin. Chất này truyền qua synapse tới TKN bên cạnh, nhờ đó

thông tin được dẫn truyền từ TKN này đến TKN khác. Để hưng phấn được

truyền đi bình thường cần khử nhanh axetincolin tại synapse. Chất colin-esterasa

được TKN nhận thông tin tiết ra sẽ thủy phân axetincolin thành colin và axit

axetic đảm bảo việc kìm hãm sau khi hưng phấn.

Hoạt động thần kinh côn trùng được thể hiện ở hành vi. Mọi hoạt động sống của

côn trùng được gọi là hành vi. Hành vi không chỉ quyết định bằng kích thích bên

ngoài mà còn phụ thuộc vào trạng thái sinh lí của cơ thể côn trùng. Hành vi bao

gồm các phản xạ không điều kiện và các phản xạ có điều kiện. Trong đó, phản

xạ không điều kiện có tính chất bẩm sinh, được truyền từ đời này qua đời khác;

còn phản xạ có điều kiện lại được hình thành trong quá trình sống của từng cá

thể, không di truyền và dễ mất. Xu tính và bản năng là hành vi được quan tâm

nhiều ở côn trùng.

Xu tính của côn trùng là chuyển động hướng tới nguồn kích thích (xu tính

dương) hoặc tránh xa nguồn kích thích (xu tính âm) một cách không kiềm chế

Page 31: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

31

được cho dù bị chết. VD, con “thiêu thân”- trưởng thành sâu đục thân lúa bay

vào đống lửa. Đây là pản xạ không điều kiện, kích thích từ bên ngoài và thực

hiện có tính cưỡng bức. Lợi dụng xu tính của côn trùng với ánh sáng, màu sắc,

mùi vị… người ta tạo ra các loại bẫy để thu bắt hay xua đuổi chúng nhằm hạn

chế thiệt hại gây ra cho mùa màng.

Bản năng là hành vi phức tạp có ý nghĩa rất lớn trong đời sống của cá thể và của

loài. VD, bản năng làm tổ của ong, bản năng làm kén trước khi hóa nhộng của

sâu non bộ cánh vảy, bản năng tìm kí chủ để đẻ trứng v.v… Đó là một chuỗi

phản xạ không điều kiện xảy ra theo một trình tự nhất định (kiểu lập trình), phản

xạ trước là tiền đề cho phản xạ sau; nhưng phản xạ đầu tiên là do những kích

thích bên trong, như: trạng thái sinh lí: đói, thuần thục về sinh dục, thiếu một số

chất cần thiết…

Các cơ quan thụ cảm ở côn trùng

Cơ quan thụ cảm (còn gọi là cơ quan cảm giác) giúp cho côn trùng nhận biết các kích

thích từ môi trường bên ngoài đẻ phản ứng lại cho phù hợp. Tùy theo tính chất của các

kích thích đó, người ta phân biệt các loại sau đây: (1) Cơ quan thụ cảm cơ học (=xúc

giác); (2) Cơ quan thụ cảm âm thanh (=thính giác); (3) Cơ quan thụ cảm hóa học (khứu

giác và vị giác); (4) Cơ quan thụ cảm nhiệt độ và độ ẩm; (5) Cơ quan thụ cảm ánh sáng

(=thị giác). Cấu tạo và phân bố các cơ quan này trên cơ thể côn trùng rất khác nhau, tùy

thuộc vào loài.

- Cơ quan thụ cảm cơ học: Bao gồm rất nhiều lông cảm giác nằm rải rác khắp bề mặt

cơ thể. Mỗi lông cảm giác gắn với một tế bào thần kinh cảm giác (gọi là sensil). Khi lông

cảm giác tiếp xúc với vật rắn hay tác động của dòng nước, cảm giác được truyền đến tế

bào cảm giác, gây nên hưng phấn, truyền về trung ương thần kinh.

- Cơ quan thụ cảm âm thanh (thính giác): nhiều loài côn trùng có cơ quan thính giác

để thu nhận các âm thanh do các cá thể cùng loài phát ra (tiếng ve sầu, dế mèn, châu

chấu… là những tín hiệu giới tính) và thu nhận các âm thanh khác báo hiệu có kẻ thù hay

con mồi.

Vị trí phân bố của thính giác khác nhau ở các loài. VD, của muỗi (Culicidae) nằm ở râu

đầu, của châu chấu (họ Acrididae) nằn ở hai bên đốt bụng thứ nhất, của sát sành (họ

Gryllidae) ở đốt chày chân trước, của gián ở lông đuôi, ấu trùng bộ cánh vảy ở trên mặt cơ

thể, của trưởng thành bộ cánh vảy và bọ xít ở những chỗ khác nhau (ngực hoặc bụng hay ở

Page 32: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

32

gốc cánh). Tần số âm thanh Ct ghi nhận được tùy thuộc theo loài, từ 8-40.000 rung động

mỗi giây.

- Cơ quan thụ cảm hóa học: bao gồm cơ quan thụ cảm mùi (thu nhận kích thích dưới

dạng không khí = khứu giác) và cơ quan cảm nhận vị (thu nhận kích thích dưới dạng thể

dịch = vị giác).

(1) Cơ quan thụ cảm mùi là các tế bào thần kinh cảm giác hóa học thường phân bố ở

râu đầu. Ở con đực nhiều hơn con cái. Côn trùng có khả năng nhận biết các chất hóa học

có nồng độ rất thấp trong không khí, nhờ đó chúng có thể nhận biết mùi của kí chủ từ xa

để bay đến ăn, đẻ trứng; con đực phát hiện được pheromon do con cái tiết ra với nồng độ

cức thấp và bay đến để giao phối (các loài bướm xa hàng km). Vì vậy để thu bắt Ct người

ta dùng các bẫy mùi thức ăn hay bẫy pheromol giới tính rất có hiệu quả. (2) Cơ quản thụ

cảm vị của côn trùng thường nhận cảm được các vị chủ yếu là ngọt, chua, đắng, mặn. Cơ

qun vị giác của Ct thường nằm xung quanh miệng, của ong và bướm ở còn ở cả bàn chân.

- Cơ quan thụ cảm nhiệt độ và độ ẩm: thường phân bố rải rác ở râu đầu, râu hàm dưới,

các đốt bàn chân.

- Cơ quan thụ cảm ánh sáng: Ct có hai loại mắt là mắt kép và mắt đơn. (1) Mắt kép

gồm một đôi chiếm phần lớn đầu. Mắt kép cấu tạo từ hàng trăm đến hàng ngàn mắt nhỏ

(ommatidium). Mỗi mắt nhỏ có cấu tạo riêng biệt (gồm giác mạc, thủy tinh thể, trụ thị

giác, tế bào võng mạc, tế bào sắc tố võng mạc, sợi dây thần kinh liên hê với dây thần kinh

đi từ mắt đến thùy thị giác ở vỏ não). Mỗi mắt nhỏ nhìn thấy một điểm sáng. Hình ảnh mắt

kép thu được là ghép tất cả các điểm ánh sáng của các mắt nhỏ, vì vậy đó là kiểu “ghép

hình”. Các mắt nhỏ phân bố trên một bề mặt cầu lồi nên quang trường của mắt kép rộng.

Trụ thi giác của 2 mắt nhỏ cạnh nhau vẫn tạo một góc, nên một vật ở gần có thể rơi vào thị

trường của nhiều mắt nhỏ, nhưng khi ở xa có thể chỉ rơi vào thị trường của 1-2 mắt nhỏ,

nên côn trùng thường “cận thị”. Loài nhìn thấy xa nhất là ruồi trâu cũng chỉ nhìn thấy đàn

trâu chạy cách chúng 50m. Mắt kép của loài hoạt động ban đêm khác loài hoạt động ban

ngày ở chỗ phần cảm nhận không ở liền với thủy tinh thể nên ngoài tia sáng đi thẳng vào

trụ thị giác còn nhận được các tia sáng xiên từ các mắt nhỏ bên cạnh, tạo ra một ảnh rõ

trong điều kiện ánh sáng yếu ban đêm. Nhờ mắt kép côn trùng phân biệt được hình dạng,

màu sắc, sự chuyển động, khoảng cách và ánh sáng phân cực. (2) Mắt đơn khác mắt kép

là thần kinh của nó không xuất phát từ thùy thị giác của não, mà từ phần giữa của não

trước. Mỗi mắt đơn chỉ có một thủy tinh thể bằng cutin. Vị trí mắt đơn thường ở giữa 2

Page 33: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

33

mắt kép, ở trán hoặc đỉnh đầu. Có loài không có mắt đơn (như họ bọ xít mù Miridae, bọ

xít lưới Tingidae, bọ xít đỏ Pyrrhocoridae). Chức năng mắt đơn giúp côn trùng điều hào

chuyển động để bay đúng hướng và kích thích mắt kép tăng cường phản ứng quang động.

Ấu trùng thường có mắt ở 2 bên đầu gọi là mắt bên (stem). Cấu tạo của stem gần giống

mắt đơn. Khi hóa trưởng thành stem thoái hóa và thay vào đó là mắt kép.

Bộ máy sinh dục

Bộ máy sinh dục của côn trùng có chức năng tạo ra trứng và tinh trùng để sản sinh ra

thế hệ sau. Tuyệt đại đa số côn trùng là đơn tính, nghĩa là mỗi cá thể chỉ mang tính cái

(sản sinh ra trứng) hoặc tính đực (sản sinh ra tinh trùng). Một số rất ít loài trong một cá thể

có cả tính đực và tính cái. Vì vậy cần phân biệt bộ máy sinh dục đực và bộ máy sinh dục

cái.

Bộ máy sinh dục đực

Gồm 2 tinh hoàn, 2 ống dẫn tinh, 1 ống phóng tinh, các tuyến phụ sinh dục đực,

dương cụ và lỗ sinh dục. Mỗi tinh hoàn có nhiều ống tinh. Cuối mỗi ống tinh có chỗ phình

to tạo thành túi chứa tinh để tích trữ tinh trùng khi chưa giao phối với con cái.

3.7.2. Bộ máy sinh dục cái

Gồm: 2 buồng trứng, 2 ống dẫn trứng, 1 ống phóng trứng, âm đạo (hay xoang sinh dục),

túi cất tinh (dự trữ tinh trùng sau khi nhận từ con đực lúc giao phối), các tuyến phụ sinh

dục cái (các chất tiết để nuôi tinh trùng trong túi cất tinh, để bao bọc quả trứng và bọc ổ

trứng, để dính trứng vào giá thể) và lỗ sinh dục cái. Phần phụ sinh dục ngoài của con cái là

ống (máng) đẻ trứng.

Mỗi buồng trứng có nhiều ống trứng (VD, ở rệp có 2, ở mối chúa có đến 2500). Có 3

loại ống trứng: (1) Ống trứng chia làm nhiều ngăn, mỗi ngăn phát triển thành một quả và

không nuôi trứng (VD, ở bộ cánh thẳng); (2) Ống trứng bên trong có 2 loại tế bào xen kẽ

nhau là tế bào trứng và tế bào nuôi trứng (ở bộ cánh vảy, bộ cánh màng, bộ hai cánh); (3)

Ống trứng có tế bào trứng ở cuối ống, còn tế bào nuôi trứng ở ngọn ống. Tế bào nuôi trứng

chuyển dinh dưỡng đến tế bào trứng nhờ các sợi nguyên sinh (ở bộ cánh cứng, bộ cánh

nửa).

Như vậy, về cấu tạo bộ máy sinh dục của con đực và của con cái có một số khác biệt là:

con đực có hai túi chứa tinh ở cuối 2 ống dẫn tinh và 2 ống phụ sinh dục đổ ngay vào cuối

Page 34: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

34

ống dẫn tinh; Ở con cái chỉ có 1 túi cất tinh cùng các tuyến phụ sinh dục đổ vào xoang

sinh dục (âm đạo) là phần tương đồng với đoạn cuối ống phóng tinh của con đực.

Câu hỏi ôn tập chương 3

1. Giải phẫu – Sinh lí côn trùng nghiên cứu những gì? Để làm gì?

2. Trình bày về xoang cơ thể và vị trí các cơ quan bên trong cơ thể CT.

3. Trình bày về hệ cơ côn trùng. Nêu các dẫn chứng về năng lực vận động của côn

trùng?

4. Cấu tạo, hoạt động, thích nghi và những biến đổi của bộ máy tiêu hóa của CT.

5. Cấu tạo, hoạt động, thích nghi và những biến đổi của bộ máy hô hấp của CT.

6. Cấu tạo, hoạt động của bộ máy tuần hoàn và chức năng của máu CT.

7. Cấu tạo, hoạt động, của bộ máy bài tiết của CT.

8. Cấu tạo, hoạt động của bộ máy thần kinh; Các cơ quan thụ cảm của CT

9. Trình bày về bộ máy sinh dục của côn trùng.

10. Nêu các ứng dụng về nghiên cứu các bộ máy cơ thể trong công tác quản lí côn

trùng.

Page 35: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

35

Chương IV

SINH VẬT HỌC CÔN TRÙNG

1. Định nghĩa

Sinh vật học nghiên cứu về sinh sản, sinh trưởng, phát dục và các tập tính sống của côn

trùng. Nghiên cứu sinh sản của côn trùng cho ta biết được phương thức một loại côn trùng

tạo ra các thế hệ kế tiếp nhau. Nghiên cứu về sinh tưởng phát dục để biết cơ chế và đặc

điểm của quá trình diễn ra từ giai đoạn trứng đến khi chết của từng cá thể côn trùng. Nghiên

cứu về tập tính sinh sống để biết côn trùng tồn tại như thế nào trong tự nhiên. Việc nghiên

cứu này vô cùng quan trọng, vì muốn phòng chống một loài có hại hay sử dụng một loài có

ích thì không thể không hiểu biết cặn kẽ đời sống của nó.

2. Phương thức sinh sản của côn trùng

Không một lớp động vật nào có nhiều phương thức sinh sản như lớp côn trùng. Các

phương thức sinh sản đa dạng cho phép côn trùng tồn tại, phát triển trở thành một lớp động

vật phong phú nhất về loài và số lượng cá thể. Tất cả các phương thức sinh sản đều hướng

tới việc tạo ra hậu thế nhiều và an toàn để cạnh tranh sinh tồn trong tự nhiên. Phương thức

sinh sản nhiều giúp cho côn trùng tránh được rủi ro về khả năng sinh tồn và có thể tăng số

lượng trong những điều kiện sinh thái khác nhau. Nghiên cứu phương thức sinh sản của một

loài để biết khả năng năng tăng số lượng của nó nhằm quản lí có hiệu quả theo các nhóm

mục tiêu khác nhau.

Sinh sản hữu tính

Sinh sản hữu tính là sinh sản có sự giao phối thụ tinh giữa cá thể đực và cái, trứng đã thụ

tinh phát triển và nở thành ấu trùng. Đây là phương thức sinh sản phổ biến nhất của côn

trùng. Ưu điểm cơ bản của phương thức này là cá thể con được mang nguồn gen của cả bố

và mẹ nên có sức sống cao, khả năng thích nghi với môi trường sống tốt nhất.

Một số dạng sinh sản đặc biệt của sinh sản lưỡng tính:

a. Sinh sản đa phôi (Polyembryonie): gặp nhiều ở ong kí sinh. Trứng của chúng

thường nghèo chất dinh dưỡng được đẻ vào cơ thể một loài côn trùng khác. Tận dụng chất

dinh dưỡng của vật chủ, trứng phân cắt thành phôi bào rồi tự phân thành nhiều đoạn nhỏ.

Mỗi đoạn phát triển thành một cá thể mới. Với cách sinh sản này côn trùng kí sinh có khả

năng nhân nhanh số lượng (2-2000 cá thể mới) từ một tế bào cơ sở nhỏ bé, quá trình kí sinh

xảy ra nhanh gọn hơn, tỉ lệ kí sinh cao hơn.

Page 36: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

36

b. Sinh sản đẻ con (Viviparie): gặp ở rệp cây, ruồi Tsetse và một số cánh cứng, gián.

Trứng phát triển phôi thai ngay trong cơ thể mẹ, con mẹ đẻ ra sâu non. Phôi thai được nuôi

dưỡng từ tuyến sinh dục phụ hoạc chỉ nhờ chất dinh dưỡng có trong trứng, không có mối

liên hệ với chất dinh dưỡng của mẹ. So với sinh sản đẻ trứng, sinh sản đẻ con tuy có số

lượng con ít nhưng an toàn hơn cho thể hệ sau do tránh được nhiều kẻ thù tự nhiên ở giai

đoạn trứng.

Tùy theo vị trí và kiểu dinh dưỡng phụ người ta phân biệt ra các dạng khác nhau như:

(1)- Phôi thai phát triển trong “dạ con” và dinh dưỡng nhờ tuyến sinh dục phụ , gặp ở ruồi

kí sinh, ruồi gây bệnh ngủ; (2)- Phôi thai phát triển trong ống dẫn trứng: gặp ở phù du

Coneon dioterum. (3)- Phôi thai phát triển trong đoạn cuối ống dẫn trứng: gặp ở rệp lá, rệp

sáp, bọ lá, bọ xít Polycteniden và loài gián Diploptera dytiscoides; (4)- Phôi thai phát triển

trong xoang bụng mẹ: sâu non sinh ra sau cái chết của mẹ. Ban đầu chúng sống nhờ dinh

dưỡng cung cấp từ máu, sau đó là một chất sữa do phân hủy tế bào mỡ và cơ thể mẹ là

nguồn dinh dưỡng nuôi sống ấu trùng. Đặc biệt còn có trường hợp ấu trùng phát triển đầy

đủ trong cơ thể mẹ nhờ chất sữa của tế bào dinh dưỡng xung quanh cơ quan sinh dục mẹ,

sau khi ra khỏi cơ thể mẹ sâu non có thể hóa nhộng được ngay (sinh sản đẻ ra nhộng –

Pupiparie, gặp ở các loài Glossina và ruồi pupipara).

Sinh sản đơn tính

Sinh sản đơn tính là trường hợp trứng không qua thụ tinh vẫn phát triển để tạo ra một cá

thể bình thường. Đây là phương thức sinh sản khá phổ biến ở côn trùng. Ưu thế của sinh

sản đơn tính là tăng nhanh số lượng, một cá thể cái rơi vào nơi riêng biệt vẫn sinh sản bình

thường. Nhược điểm của phương thức này là con chỉ mang nguồn gen của mẹ. Một số côn

trùng sinh sản đơn tính theo chu kì (xen kẽ sinh sản đơn tính với sinh sản hữu tính như ở

rệp muội vùng ôn đới), hoặc sinh sản đơn tính chỉ do ngẫu nhiên.

Sinh sản đơn tính có thể từ tế bào trứng đơn bội hay lưỡng bội. Về giới tính, sinh sản

đơn tính có thể sinh ra các cá thể cùng hay khác giơí tính như: sinh sản đơn tính toàn đực –

Arrhenotokie, gặp ở ong mật, ong ăn lá, ong độc, rệp trắng, cánh tơ; SSĐT toàn cái –

Thelytokie, gặp ở bọ trĩ, sâu kèn, cánh cứng, bọ que và một sồ loài châu chấu; SSĐT đực

cái – Amphitokie, ở ngài độc, sâu kèn.

3. Trứng và phát dục của phôi thai

Cấu tạo trứng

Page 37: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

37

Trứng là một tế bào lớn. Ngoài cùng là vỏ trứng cứng và không thấm nước để bảo vệ.

Mặt trong vỏ trứng là màng lòng đỏ bao bọc chất tế bào và nhân trứng. Chất tế bào chia làm

2 phần: phần xung quanh là chất quanh trứng (như lòng trắng trứng ở chim), phần giữa là

lòng đỏ. Nhân trứng ở chính giữa lòng đỏ. Trên vỏ trứng có một vài lỗ trứng để tinh trùng

chui vào thụ tinh cho trứng. Kích thước mỗi quả trứng khác nhau tùy theo loài côn trùng,

thường nhỏ dưới 0,1mm, nhưng một số loài có trứng dài hơn 10mm như trứng sát sành

Saga dài 11mm, trứng ong Sylo copavalga dài 15mm. Hình dạng quả trứng của các loai côn

trùng rất khác nhau. Trứng được đẻ rải rác từng quả hay thành từng ổ có hình dạng và vật

che phủ khác nhau.

Phát dục phôi thai

Trứng của côn trùng thuộc loại có nhiều lòng đỏ nên sự phát dục phôi thai tiến hành

theo phương thức phân chia bề mặt. Nhân trứng chia thành nhiều hạch tế bào. Các hạch tế

bào di chuyển từ giữa trứng ra xung quanh nhập vào tế bào chất tạo thành một lớp tế bào

liên tục kín hết màng trứng tạo thành nhau phôi. Từ nhau phôi, phát dục phôi thai tiếp tục

qua các bước: (1). Hình thành dải phôi; (2). Dải phôi phân chia ra các tầng phôi (ngoài,

trong, giữa) và hình thành ống tiêu hóa; (3). Dải phôi phân chia đốt và hình thành các chi

phụ; (4). Hình thành và mất đi màng phôi; (5). Trở phôi; (6). Hình thành các cơ quan, bộ

máy.

Phát dục phôi thai là quá trình phức tạp, thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiệt độ

môi trường. Vào mùa đông, khi nhiệt thấp dưới ngưỡng phát dục của mỗi loài thì trứng ở

trạng thái ngừng phát dục (Diapause). Quả trứng được thụ tin có khả năng chịu nhiệt độ

thấp tốt hơn quả trứng không được thụ tinh, nên ở vùng ôn đới rệp muội (họ Aphididae) tuy

sinh sản đơn tính gần như liên tục trong năm nhưng đến cuối thu chúng giao phối và đẻ ra

với số lượng không nhiều những quả trứng được thụ tinh để qua đông và nở ra rệp cái vào

mùa xuân tiếp theo, sau đó chúng lại chuyển sang sinh sản vô tính để nhân nhanh bầy đàn.

4. Đặc điểm sinh vật học giai đoạn ấu trùng

Trứng nở

Sau khi hoàn thành giai đoạn phát dục của phôi thai, ấu trùng phá vỡ vỏ trứng để chui ra

ngoài, hiện tượng đó gọi là trứng nở.

Ấu trùng lột xác, sinh trưởng và phát dục

Page 38: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

38

Ấu trùng của côn trùng ăn để lớn lên, tăng về kích thước và khối lượng cơ thể. Hiện

tượng đó gọi là sinh trưởng. Trong quá trình sinh trưởng bộ máy sinh sản chín muồi dần và

tiến tới chuyển sang giai đoạn làm chức năng sinh sản. Hiện tượng đó gọi là phát dục. Đặc

điểm nổi bật của giai đoạn ấu trùng là sự lột xác. Sau một thời gian ấu trùng ăn và lớn lên

đến một mức độ nhất định thì lột bỏ lớp biểu bì da cũ đã trở nên quá nhỏ để tiếp tục lớn lên.

Lột xác như vậy gọi là lột xác sinh trưởng. Sau mỗi lần lột xác sinh trưởng ấu trùng thêm

một tuổi. Nếu ấu trùng lột xác n lần thì số tuổi của nó là n+1. Số lần lột xác sinh trưởng của

ấu trùng các loài côn trùng rất khác nhau, ví dụ ở bộ cánh nửa (Hemiptera) 5 lần, bộ cánh

vảy (Lepidoptera) 2-9 lần, bộ phù du (Ephemerida) trên 20 lần. Khi nhiệt độ môi trường

tăng cao gần giới hạn tối đa, có loài tăng, có loài giảm số lần lột xác sinh trưởng. Khi thức

ăn không đủ cũng thường làm tăng số lần lột xác sinh trưởng. Lần ấu trùng lột xác cuối

cùng để chuyển sang giai đoạn nhộng ở nhóm biến thái hoàn toàn (Homometabola) và sang

giai đoạn trưởng thành ở nhóm biến thái không hoàn toàn (Hemimetabola) được gọi là lột

xác biến thái.

Lột xác là quá trình rất phức tạp, được điều tiết bằng hoóc môn Juvenile và hoóc môn

Ecdysone. Hoóc môn Juvenile gọi là hoóc môn sinh trửng, được tiết ra bởi thể tuyến cạnh

hầu (Copoda allata) nằm dưới não thùy. Hoóc môn Ecdysone gọi là hoóc môn biến thái (có

công thức C27H44O6), được tiết ra bởi tuyến ngực trước (Prothoracic glands) nằm ở mặt

bụng đốt ngực trước. Hai hoóc môn này luôn tồn tại trong máu, nhưng hàm lượng Juvenile

ở ấu trùng tuổi nhỏ chiếm ưu thế, xúc tiến sinh trưởng và lột xác sinh trưởng. Ngược lại,

hàm lượng Ecdysone ở côn trùng tuổi càng lớn càng nhiều và chiếm ưu thế ở cuối giai đoạn

ấu trùng, làm cho ấu trùng dừng sinh trưởng để lột xác biến thái.

Biến thái ở côn trùng

Từ giai đoạn trứng cho đến lúc trưởng thành, cơ thể côn trùng trải qua những thay đổi

rất phức tạp về hình thái bên ngoài và các cơ quan bên trong. Hiện tượng thay đổi đó gọi là

biến thái (Metamorphose). Có hai kiểu biến thái chính là biến thái hoàn toàn

(Homometamorphose) và biến thái không hoàn toàn (Hemimetamorphose). Quá trình phát

dục ở những loài biến thái hoàn toàn trải qua 4 giai đoạn: trứmg - ấu trùng – nhộng – trưởng

thành. Những loài biến thái không hoàn toàn chỉ có 3 giai đoạn: trứmg - ấu trùng – trưởng

thành. Ở những loài biến thái hoàn toàn, cấu tạo cơ thể ấu tùng hoàn toàn khác cơ thể

trưởng thành, nên giai đoạn nhộng chính là giai đoạn trung gian trong quá trình biến đổi từ

ấu trùng đến trưởng thành. Đại diện các bộ thuộc nhóm biến thái hoàn toàn gồm: cánh vảy

Page 39: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

39

(Lepidoptera), cánh cứng (Coleoptera), hai cánh (Diptera)…, nhóm biến thái không hoàn

toàn gặp ở các bộ: cánh thẳng (Orthoptera), cánh nửa (Hemiptera), cánh đều (Homoptera)…

Các dạng ấu trùng

Một trong những đặc điểm của nhóm biến thái hoàn toàn là ấu trùng có nhiều dạng khác

nhau. Được chia thành các dạng chính sau đây:

- Dạng có chân nguyên thủy: chân chưa phát triển hoàn chỉnh, chỉ có các u lồi. Ví

dụ, ở họ ong Platygasteridae, bộ Cánh màng.

- Dạng có nhiều chân: ngoài 3 đôi chân ngực còn có chân ở một số đốt bụng. Gặp ở

bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và tổng họ Ong ăn lá (Tenthridinoidea).

- Dạng có ít chân: chỉ có 3 đôi chân ngực. Ví dụ, ở họ Chân chạy (Carabidae) bộ

Cánh cứng.

- Dạng không có chân: hoàn toàn không có chân. Trong đó phân ra thành 3 loại:

+ Dạng có đầu rõ: có đầu cứng và không thụt vào trong. Đại diện là họ Xén tóc

(Cerambicidae) và họ Vòi voi (Curculionidae), bộ Cánh cứng.

+ Dạng có đầu rõ vừa: chỉ hóa cứng ½ phía trước và thụt vào trong phần ngực. Gặp ở

họ Muỗi lớn (Tipulidae) bộ Hai cánh.

+ Dạng có đầu không rõ: đầu thoái hóa chỉ còn dấu vết và hoàn toàn thụt vào trong

ngực. Ví dụ các loài ruồi bộ Hai cánh (Diptera).

Hoạt động sống của ấu trùng

- Ấu trùng là giai đoạn ăn để lớn, phát dục và tiến đến hóa trưởng thành.

- Phương thức lấy thức ăn khá đa dạng (cắn đứt, đục khoét thủng hay hút dịch các bộ

phận vật chủ hay giá thể,). Đối với cây trồng, chúng gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng ở

giai đoạn này.

- Ấu trùng có nhiều tập tính và khả năng khác nhau (nhả tơ để di chuyển hay để dệt lá

làm tổ; giả chết, tự rơi để lẩn tránh kẻ thù; sống tập đoàn hay di chuyển theo đàn; tìm nơi

kín đáo để trú thân hay hóa nhộng…)

5. Đặc điểm sinh vật học giai đoạn nhộng

Nhộng là giai đoạn đặc biệt của côn trùng: không không di chuyển và dinh dưỡng, chỉ

có ở nhóm côn trùng biến thái hoàn toàn.

Page 40: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

40

- Về hình thái, có 3 loại hình nhộng là: nhộng trần, nhộng màng và nhộng bọc. (Nhộng

trần có các chi phụ và cánh không dính sát vào cơ thể, VD: nhộng ong, nhộng bọ cánh

cứng; Nhộng màng có các chi phụ và cánh dính sát vào cơ thể và được bao bọc bởi một lớp

màng có thể nhìn thấy các chi phụ bên trong, VD: nhộng của các loài bướm; Nhộng bọc có

vỏ cứng bọc bên ngoài nhộng. Vỏ cứng này là do lớp biểu bì của ấu trùng tuổi cuối cùng

không lột bỏ đi mà hình thành, VD: nhộng ruồi)

- Về chức năng: nhộng là giai đoạn giai đoạn trung gian hay chuyển tiếp giữa giai

đoạn sâu non và trưởng thành, tạo ra một sự thay đổi sâu sắc về cả hình thái bên ngoài và

cấu tạo bên trong cơ thể.

- Cơ chế biến đổi: phá vỡ các tổ chức cơ thể ấu trùng và xây dựng lại các tổ chức đó

cho phù hợp với giai đoạn trưởng thành. Các bước biến đổi: các tổ chức mất sức sống – bị

phân giải thành từng đoạn phiến – phân giải toàn bộ - Hình thành mầm các tổ chức cơ quan

– phát triển thành cơ quan tương ứng ở giai đoạn trưởng thành.

- Mức độ biến hóa các cơ quan, bộ máy bên trong không giống nhau (nội bì, bộ máy

tiêu hóa, các tuyến và một số hệ cơ được xây dựng lại hoàn toàn; Các ống malpighi, thể mỡ

và một phần hệ cơ khác bị phân giải rất ít; Hệ thần kinh, mạch máu lưng và đại bộ phận hệ

thống khí quản không bị phân giải).

6. Đặc điểm sinh vật học giai đoạn trưởng thành

Hóa trưởng thành

Hiện tượng côn trùng từ ấu trùng tuổi cuối (ở biến thái không hoàn toàn) hoặc từ nhộng

(ở biến thái hoàn toàn) lột xác để biến thành trưởng thành gọi là hóa trưởng thành (hay vũ

hóa). Lúc hóa tưởng thành, côn trùng cử động cơ thể và chân làm ngấn dọc lưng nứt ra, ở

chân và một số bộ phận khác cũng có đường nứt. Từ những chỗ nứt đó côn trùng chui ra

khỏi vỏ cũ. Sau đó, côn trùng hút nhiều không khí, nước và co dãn hệ cơ để máu chảy vào

cánh và các chi phụ, rồi da cứng dần, cánh và các chi phụ duỗi ra hoàn chỉnh. Từ đó côn

trùng mới bò hoặc bay được. Đối với loài hóa nhộng trong thân cây, dưới đất hay trong kén

tơ thì ấu trùng đã tự chuẩn bị sẵn lối thoát ra ngoài khi hóa trưởng thành. Thời điểm hóa

trưởng thành trong ngày cũng tùy thuộc từng loài, để loài đó tránh được nhiều rủi ro nhất

lúc mới hóa trưởng thành, vì khi đó cơ thể còn mềm yếu nên không lẩn tránh được kẻ thù

và điều kiện thời tiết bất lợi.

Tính ăn thêm và hoàn thiện về sinh dục

Page 41: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

41

Sau khi hóa trưởng thành, chỉ có một số côn trùng đã có bộ máy sinh dục chín muồi nên

chúng không cần ăn bổ sung mà có thể tiến hành ngay được các hoạt động sinh sản, như tìm

đôi giao phối, tìm nơi đẻ trứng và đẻ trứng. Ví dụ, trưởng thành của sâu róm (họ

Lymantridae), ong ăn lá thông (họ Diprionidae) giao phối và đẻ trứng ngay sau khi hóa

trưởng thành. Đối với phần lớn các loài côn trùng khác, sau khi hóa trưởng thành bộ máy

sinh dục còn chưa chín muồi hoặc chỉ một số ít trứng và tinh trùng chín nên trưởng thành

của chúng phải tiếp tục ăn để tích lũy thêm dinh dưỡng cho đến khi hoàn toàn trưởng thành

về sinh dục. Sự tiếp tục ăn của trưởng thành như vậy gọi là tính ăn thêm (hay ăn bổ sung)

Trưởng thành nhiều loài ăn thêm xen kẽ với hoạt động sinh sản nên lượng trứng nhiều và

thời gian đẻ trứng kéo dài. Ví dụ, trưởng thành bọ hà khoai lang (Cylas formicarius) ăn

thêm xen kẽ với hoạt động sinh sản kéo dài 3-4 tháng. Những loài sâu như vậy gây hại cho

cây trồng cả ở giai đoạn ấu trùng và giai đoạn trưởng thành.

Giao phối, thụ tinh, đẻ trứng

Giao phối là quá trình con cái tiếp nhận tinh trùng của con đực phóng vào xoang sinh

dục hoặc cất vào túi tinh của con cái. Số lần giao phối tùy thuộc vào loài côn trùng. Có loài

cả đời chỉ giao phối một lần như ong mật (Apis spp.) và một số loài thuộc bộ cánh vảy

(Lepidoptera), có loài giao phối nhiều lần, có loài sinh sản đơn tính nên không giao phối).

Thụ tinh là quá trình tinh trùng chui vào trứng qua lỗ trứng để kết hợp với trứng tạo

ra hợp tử. Vì sau khi giao phối, tinh trùng được con cái dự trữ trong túi cất tinh để sử dụng

dần nên sự thụ tinh thường xảy ra không đồng thời với sự giao phối, ở ong mật có thể sau

hàng tháng đến hàng năm.

Côn trùng thường đẻ trứng ngay sau khi trứng dược thụ tinh, nhưng cũng có loài

trứng phát dục đến lúc sắp nở hoặc nở ra con rồi mới đẻ ra ngoài. Côn trùng có tập tính

chọn nơi đẻ trứng thích hợp và có cách đẻ trứng khác nhau tùy loài. Vị trí đẻ trứng của côn

trùng là điều cần được chú ý khi điều tra phát hiện chúng.

7. Các đặc điểm sinh vật học khác của côn trùng

Các biện pháp tự vệ

Côn trùng là thức ăn của nhiều loài động vật, trong đó có các côn trùng bắt mồi. Trong

quá trình thích nghi để sinh tồn trong tự nhiên đã hình thành ở chúng các biện pháp và khả

năng tự vệ. Côn trùng có thể chiến đấu với kẻ thù bằng răng sắc, bằng chân có gai nhọn,

bằng ngòi châm có nọc độc v.v… Chúng có thể làm kẻ thù không dám tiếp cận vì các lông

Page 42: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

42

độc, tuyến hôi và các hình thức dọa nạt khác (ví dụ nọc độc của ong và kiến, tuyến hôi của

bọ xít, tiếng nổ hậu môn do tiết ra chất lỏng bốc hơi nhanh của giống Brachinus, họ

Carabidae, bộ cánh cứng, đều có tác dụng chiến đấu và dọa nạt kẻ thù. Một số loài trong cơ

thể có chất độc thì lại có màu sắc đặc biệt dễ phát hiện từ xa để kẻ săn mồi nhận biết mà

tránh xa chúng.

Côn trùng có khả năng giả dạng lá cây hay cành khô để kẻ thù không phát hiện được.

Một số loài có ngoại hình rất giống một loài côn trùng có khả năng tự vệ tích cực để kẻ thù

không dám tấn công. Đó là hiện tượng ngụy trang và giả trang rất có hiệu quả trong việc

bảo vệ trước kẻ thù tự nhiên.

Côn trùng còn có tập tính giả chết. Khi gặp nguy hiểm, nhiều loài co chân hoặc cuộn

tròn giả chết và rơi xuống đất nằm yên trong thời gian lâu, đủ để kẻ săn mồi bỏ đi nơi khác.

Đặc tính sống tập thể

Một số loài như ong, kiến, mối sống tập thể hàng vạn con trong một tổ, có sự phân công

nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chặt chẽ và chúng không thể sống tách rời nhau được.

Một số loài khác như sâu cắn gié, chuồn chuồn, bướm có tập tính tập trung và bay xa

thàng đàn. Sâu non sâu khoang (Spodoptera litủa), sâu sa (Agrius convonvuli), khi phát sinh

với số lượng lớn thường di chuyển thành đàn từ nơi này qua nơi khác để gây hại. Sâu non

ong ăn lá thông đầu đen (Diprion sp.) và đầu nâu (Neodiprion sp.) thường sống tập trung

theo các ổ trứng từ khi mới nở đến lúc sắp làm kén và hóa nhộng mới phân tán; thậm chí có

loài vẫn hóa nhộng tập trung.

Châu chấu đàn (Locus migratoria, Schistocera gregria, Diociostraurus maroccanus)

khi mật độ thấp sống đơn độc (gọi là pha Solitaria), khi mật độ cao thì chuển sang sống theo

đàn (pha Gregaria) và bay thành từng đàn có chiều rộng gần 1km và dài 15-20km. Các đàn

châu châu bay như vậy thường thấy ở châu Phi. Hành vi của đời sống tập thể được hình

thành trong quá trình các cá thể cùng loài sống gần gũi nhau, các cơ quan nhạn cảm (thị

giác, khứu giác, xúc giác) bị kích thích tạo nên những phản xạ có điều kiện và các cá thể

thấy cần thiết phải dựa vào nhau, dẫn đến có những biến đổi về sinh lí nhất địn, rồi trở

thành một tập thể sống theo đàn.

Hiện tượng ngừng phát dục (Diapause)

Hàng năm vào lúc nhiệt độ thấp dưới nhiệt độ khởi điểm phát dục hoặc quá cao, khô hạn

thì côn trùng có hiện tượng ngừng phát dục (Diapause). Ở trạng thái này, côn trùng nằm bất

Page 43: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

43

động tại vị trí đã được chuẩn bị trước, không ăn, quá trình trao đổi chất trong cơ thể ngừng

lại hoặc chỉ ở mức rất thấp. Hiện tượng này nếu xảy ra trong mùa đông được gọi là qua

đông, nếu xảy ra trong mùa hè gọi là qua hè.

Giai đoạn ngừng phát dục có thể là trứng, ấu trùng, nhộng hay trưởng thành tùy theo

loài. Cùng một loài nhưng ở các khu vực địa lí khác nhau có thể ngừng phát dục ở các giai

đoạn khác nhau. Đó là một biểu hiện của sự thích nghi của côn trùng với môi trường sống.

Cần phân biệt ngừng phát dục (Diapause) với hôn mê (Coma):

- Hôn mê là trạng thái (êtat) mất chức năng quan hệ (ý thức, linh động, nhận cảm) với

sự bảo tồn của cuộc sống thực vật (hô hấp, tuàn hoàn). Hôn mê xảy ra khi bị tác động đột

ngột do điều kiện bất lợi như nhiệt độ cao, nhiệt độ thấp, thiếu ôxy, bị ngộ độc hóa chất. Đó

là trạng thái mà cơ thể chưa kịp chuẩn bị những điều kiện sinh lí để đối phó với hoàn cảnh

xấu. Nếu tác động của yếu tố xấu quá mạnh và kéo dài thì côn trùng có thể bị chết.

- Ngừng phát dục là giai đoạn (période) ngừng hoạt động hay phát triển không có

biến thái. Trước thời kì này cơ thể đã chuyẩn bị đầy đủ về sinh lí (như tích lũy lipit và

gluxit, giảm lượng nước tự do và cường độ hô hấp, tăng tỷ lệ nước kết hợp trong tế bào).

Đến thời kì ngừng phát dục thì mọi sự sinh trưởng phát dục ngừng lại, mức độ trao đổi chất

giảm thấp. Côn trùng khi ngừng phát dục có thể chịu đựng được điều kiện ngoại cảnh bất

lợi trong thời gian rất dài (từ nhiều tháng đến nhiều năm).

Có hai kiểu ngừng phát dục: ngừng phát dục tự do (Diapause facultative) và ngừng phát

dục bắt buộc (Diapause obligatoire).

- Ngừng phát dục tự do xảy ra có tính chất chu kì do sự biến đổi chu kì của thời tiết.

Khi nhiệt độ thấp thì côn trùng chuyển dần sang trạng thái ngừng phát dục, đến lúc nhiệt độ

trở lại bình thường thì cơ thể lại khôi phục những hoạt động sống bình thường. Như vậy,

ngừng phát dục tự do diễn ra tự do theo hoàn cảnh.

- Ngừng phát dục bắt buộc là một đặc tính nội tại của côn trùng mang tính di truyền và

tương đối bền vững. Khi đang ngừng phát dục bắt buộc thì dù hoàn cảnh đột nhiên trở lại

thích hợp cho hoạt động sống, trạng thái ngừng phát dục vẫn tiếp tục một thời gian nhất

định mới chấm dứt, Như vậy, thời điểm bắt đầu và kết thúc ngừng phát dục bắt buộc không

tự do theo biến đổi của điều kiện bên ngoài mà bắt buộc tuân theo yếu tố nội tại trong cơ thể

côn trùng.

Page 44: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

44

Cơ chế sinh lí của ngừng phát dục liên quan đến hoạt động của hệ nội tiết. Khi ấu trùng

và nhộng ngừng phát dục thì tuyến ngực trước (Prothoracic glads) hoạt động dưới tác động

kích thích của chất được não tiết ra ngừng tiết hoóc môn Ecdysone. Hàm lượng hoóc môn

Juvenile (do tuyến cạnh hầu Corpora allata tiết ra) cũng thấp nhất ở giai đoạn ngừng phát

dục. Sự ngừng phát dục của trưởng thành liên quan trực tiếp với việc ngừng tiết chất kích

thích sinh dục của tuyến bên hầu. Sự ngừng phát dục của trứng (phôi thai ngừng phát dục)

lại liên quan với chất kích thích được hạch thần kinh dưới hầu tiết ra ở cơ thể con mẹ. Hoạt

động này chịu sự chi phối của não.

Các yếu tố liên quan đến ngừng phát dục bao gồm: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, thức

ăn v.v..., trong đó ánh sáng và nhiệt độ ảnh hưởng rõ nhất. Thời gian chiếu sáng ngắn

(tương ứng với mùa đông) dẫn đến ngừng phát dục. Ngược lại, thời gian chiếu sáng dài

(mùa hè) ức chế ngừng phát dục. Tác động của ánh sáng đến ngừng phát dục chỉ chỉ thể

hiện trong phạm vi nhiệt độ thích hợp. Nhiệt độ cao có thể ức chế ngừng phát dục, nhiệt độ

thấp dẫn đến ngừng phát dục. Quan hệ thức ăn với ngừng phát dục không rõ. Tuy vậy, có

một số loài khi chất lượng thức ăn kém cũng đi vào ngừng phát dục.

Ngừng phát dục chi phối chu kì sống của côn trùng trong năm. Vì vậy, nghiên cứu

hiện tượng này ở các loài sâu hại cây trồng là cần thiết để nắm được diễn biến của các lứa

sâu trên đồng ruộng, vườn ươm và rừng trồng.

Hiện tượng nhiều hình của côn trùng

Hình thái bên ngoài của con đực và con cái trong cùng một loài có sự khác nhau thể hiện

qua cấu tạo phần phụ sinh dục ngoài, râu đầu và màu sắc. Kích thước của con cái thường

lớn hơn của con đực. Nhiều loài con đực có cánh, còn con cái không có cánh, ví dụ: một số

rệp sáp họ Coccidae, sâu kèn họ Psychidae, đom đóm họ Lampiridae.

Trong cùng một loài có thể có nhiều loại hình có màu sắc kích thước khác nhau, chúng

thường phát sinh vào các mùa khác nhau trong năm, hoặc phân bố ở các vùng địa lí khác

nhau. Ví dụ, bướm phượng (họ Papilionidae) có nhiều loại hình có màu sắc khác nhau.

Điều này dễ gây sự nhầm lẫn khi nhận dạng côn trùng thu bắt ngoài tự nhiên. Hiện tượng

nhiều hình thể hiện rõ rệt ở những côn trùng có đời sống xã hội như ong, kiến, mối. Trong

tổ ong có ong chúa, ong thợ và ong đực; trong tổ kiến có kiến chúa, kiến thợ, kiến lính, kiến

đực; trong tổ mố có mối chúa, mối thợ, mối lính và mối đực (mối vua). Mỗi loại hình này

có nhiệm vụ riêng trong đời sống chung của cả tổ.

Chu kỳ sống

Page 45: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

45

Trong quá trình sinh trưởng phát dục và sinh sản côn trùng đã hình thành nên những chu

kì của các giai đoạn phát triển. Đó là đời, vòng đời và lứa sâu.

Đời là khoảng thời gian tính từ lúc một quả trứng hay một cá thể côn trùng được mẹ

sinh ra cho đến lúc cá thể đó chết già sinh lí.

Vòng đời là khoảng thời gian tính từ lúc một quả trứng hay một cá thể côn trùng được

mẹ sinh ra cho đến lúc cá thể đó bắt đầu sin sản. Thời gian của một vòng đời bằng tổng số

thời gian sinh trương phát dục của của các giai đoạn: trứng (nếu côn trùng mẹ đẻ trứng), ấu

trùng, nhộng (nếu có), và trưởng thành bắt đầu đẻ.

Đời và vòng đời là khái niệm của từng cá thể. Trong tự nhiên, mỗi loài côn trùng

thường phát sinh có tính chu kì của một tập thể. Đế nắm được quy luật phát sinh trong năm

của một loài sâu người ta dùng khái niệm lứa. Lứa là khoảng thời gian tính cho một tập thể

sâu trên hiện trường (đồng ruộng, lâm phần), kể từ khi cá thể đầu tiên được sinh ra đến lúc

cá thể cuối cùng của tập thể đó chết. Như vậy thời gian của một lứa sâu dài hơn đời của

từng cá thể, còn đời của từng cá thể lại dài hơn vòng đời của chính nó. Số lứa sâu trong một

năm phụ thuộc vào loài và vùng địa lí mà chúng đang sinh sống. Thông thường càng gần

xích đạo thì số lứa sâu của một loài tăng lên.

Trong thực tiễn sản xuất nông-lâm nghiệp thường có hiện tượng gối lứa, tức là lứa

này chưa kết thúc thì lứa khác đã bắt đầu. Hiện tượng này thường gặp ở các loài có trưởng

thành sống dài và đẻ trứng lai rai.

Để dễ thông tin cho người dân, người ta còn dùng khái niệm đợt phát sinh. Ví dụ, sâu

đục thân 2 chấm ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam mỗi năm có 6-7 lứa, nhưng trưởng thành có

hai đợt phát sinh quan trọng vào khoảng mùng 1 tháng 5 và mùng 2 tháng 9, đẻ trứng tạo ra

sâu non gây bạc bông cho lúa vụ xuân và vụ mùa.

Câu hỏi ôn tập chương 4

1. Nội dung và ý nghĩa của việc nghiên cứu sinh vật học côn trùng là gì?

2. Các phương thức sinh sản ở côn trùng và ý nghĩa sinh học của các phương thức sinh sản

đó. Ý nghĩa việc nghiên cứu các phương thức sinh sản trong công tác BVTV nói riêng

và quản lí côn trùng nói chung?

3. Cấu tạo của trứng và tính đa dạng (về hình thái, phân bố…) của trứng côn trùng? Các

ứng dụng trong thực tiễn khi nghiên cứu vấn đề này?

Page 46: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

46

4. Côn trùng sinh trưởng, phát dục và lột xác như thế nào? Phân biệt lột xác sinh trưởng và

lột xác biến thái. Vai trò của hormon đối với lột xác của côn trùng.

5. Tuổi ấu trùng là gì? Ý nghĩa và cách tính tuổi ấu trùng ?

6. Phân biệt biến thái hoàn toàn và biến thái không hoàn toàn ? Nêu các đại diện thường

gặp trong lâm nghiệp.

7. Các dạng ấu trùng và hoạt động sống giai đoạn ấu trùng côn trùng. Vì sao trong công tác

quản lí các loài côn trùng gây hại người ta thường tập trung sự quan tâm đến giai đoạn

ấu trùng ?

8. Côn trùng có mấy loại hình nhộng ? Khi nghiên cứu về giai đoạn nhộng một loài côn

trùng ta có thể nắm bắt được những thông tin gì ?

9. Hiện tượng hóa trưởng thành ? Côn trùng trưởng thành ăn và thành thục về sinh dục như

thế nào ? Tại sao lại gọi đó là « ăn thêm » ?

10. Hiện tượng giao phối, thụ tinh và đẻ trứng ở côn trùng xảy ra như thế nào ?

11. Trình bày về các biện pháp tự vệ, đặc tính sống tập thể, hiên tượng ngừng phát dục theo

mùa của côn trùng. Ý nghĩa sinh học của các hiện tượng đó là gì ?

12. Phân biệt các khái niệm liên quan đến chu kì sống của côn trùng : đời, vòng đời, lứa. Ý

nghĩa thực tiễn việc xác định các khái niệm này là gì ?

Page 47: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

47

Chương V

SINH THÁI HỌC CÔN TRÙNG

1. Định nghĩa

Sinh thái học (STH) côn trùng nghiên cứu sự hình thành các đặc điểm hình thái, các

đặc điểm sinh lí, các đặc tính của phương thức sống của côn trùng trong mối quan hệ với

điều kiện môi trường; nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường đến số lượng cá thể cùng loài,

đến tính chất phân bố và sự hình thành các quần xã sinh vật trong các lãnh thổ khác nhau.

Trong phạm vi môn côn trùng rừng, STH nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố

ngoại cảnh (vô sinh và hữu sinh) đến quy luật phân bố, quy luật phát sinh phát triển của các

loài côn trùng kinh tế (có hại và có lợi) làm cơ sở quản lí chúng có hiệu quả.

Việc tìm hiểu các hiện tượng sinh thái thường được tiến hành ngoài tự nhiên (gọi là

sinh thái tự nhiên) và tiến hành trong phòng thí nghiệm (gọi là sinh thái thực nghiệm).

Sinh thái học cá thể (Autecology) nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ của từng loài

với môi trường bên ngoài. Sinh thái học quần thể (Sinecology) nghiên cứu mối quan hệ

tương hỗ phức hợp giữa các loài với nhau và với các yếu tố ngoại cảnh.

2. Khái niệm cơ bản về sinh thái học cá thể

- Các yếu tố môi trường: môi trường sống của côn trùng bao gồm các yếu tố

hữu sinh và vô sinh. Phức hợp động - thực vật là môi trường hữu sinh. Các yếu tố khí

tượng, đất đai là môi trường vô sinh. Hoạt động của con người là yếu tố nhân chủng. Tất cả

các yếu tố đó tác động lên côn trùng dưới hình thức tổ hợp yếu tố, trong đó có nhân tố chủ

yếu tác động đến việc tăng hoặc giảm số lượng từng loài.

- Chủng quần: phức hợp các cá thể của từng loài phân bố trong một khu vực

lãnh thổ nhất định được gọi là chủng quần (Population). Như vậy mỗi loài có nhiều chủng

quần. Người ta còn phân biệt chủng quần địa lí và chung quần sinh thái. Chủng quần địa lí

được hình thành do sự cách trở về địa lí (cách núi, cách sông, cách biển...). Chủng quần

sinh thái đươc hình thành do sự khác nhau về hoàn cảnh sinh thái (ví dụ, phía Bắc và phía

Nam của một quả đồi, phía Đông và phía Tây của một cây cổ thụ...).

- Tiêu chuẩn sinh thái và tính dẻo sinh thái: mỗi loài côn trùng có nhu cầu

nhất định đối với từng yếu tố môi trường để có thể tồn tại trong tự nhiên. Nhu cầu đó gọi là

tiêu chuẩn sinh thái. Mức độ thích nghi của loài côn trùng với sự dao động của từng yếu tố

môi trường được gọi là tính dẻo sinh thái (hay biên độ sinh thái). Tính dẻo sinh thái có thể

Page 48: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

48

rộng (Eurys) hay hẹp (Stenos) đối với mỗi yếu tố, ví dụ: rộng hay hẹp nhiệt (eurys-therman/

stonos-therman), rộng hay hẹp ẩm (eurys-hygrobios/ stonos-hygrobios). Tính dẻo sinh thái

với từng yếu tố môi trường biến động theo loài, theo kiểu chủng quần và giai đoạn phát dục

mỗi loài.

3. Khái niệm cơ bản về sinh thái học quần thể

- Sinh cảnh (Biotopos): là những lãnh thổ có điều kiện khí hậu, đất đai tương

đối đồng nhất, có quần xã động thực vật tương đối ổn định. Những sinh cảnh còn tồn tại ở

trạng thái tự nhiên được gọi là sinh cảnh nguyên sinh. Những sinh cảnh được hình thành

nên do hoạt động canh tác của con người được gọi là sinh cảnh thứ sinh hay sinh cảnh

trồng trọt.

- Quần xã sinh vật (Senusia): là nhóm tương đối cố định gồm các loài sinh vật

cùng sống tại một địa điểm, đảm bảo các mắt xích của chu trình tuần hoàn vật chất sinh vật.

Những loài không bao giờ rời bỏ sinh cảnh của mình gọi là loài đồng quần xã

(Homosenus). Những loài di cư định kì từ sinh cảnh này đến sinh cảnh khác gọi là loài dị

quần xã (Heterosenus). Những loài phân bố rộng, không phụ thuộc vào sinh cảnh nào nhất

định gọi là loài phổ biến (Ubique).

- Quần lạc sinh vật hay sinh quần (Biosenose): là phức hợp các loài sinh vật

(gồm động vật và thực vật) được hình thành trong quá trình lịch sử, đặc trưng cho sinh cảnh

này hay sinh cảnh khác. Quan hệ giữa các loài trong sinh quần bao gồm: cạnh tranh, đối

kháng, hỗ trợ, cộng sinh. Tất cả các loài đều tham gia vào chu trình tuần hoàn vật chất.

Chúng có thể thuộc vào một trong 3 khâu: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ, sinh vật tái

sản xuất. Quan hệ này thực chất là quan hệ dinh dưỡng và giữa chúng tạo nên chuỗi thức ăn

hay lưới thức ăn.

- Cân bằng sinh học: là tương quan số lượng điển hình phù hợp với nhu cầu

của từng loài, để các loài cùng có cơ hội tồn tại trong tự nhiên. Tương quan số lượng đó là

kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên. Cân bằng sinh học có tính chất đặc trưng là luôn

luôn biến động, dẫn đến cấu trúc lại các chuỗi và lưới thức ăn trong sinh quần (do thay đổi

tính ăn của từng pha phát triển, do di cư theo mùa, do biến thái, do chịu ảnh hưởng của điều

kiện ngoại cảnh và hoạt động của con người). Trong trạng thái cân bằng sinh vật, các loài

kiểm soát lẫn nhau nên thường không có loài sâu nào có thể bùng phát số lượng để gây dịch

hại.

Page 49: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

49

4. Vai trò của một số yếu tố sinh thái

Nhiệt độ

Côn trùng là động vật có thân nhiệt biến đổi theo nhiệt độ môi trường. Khả năng

thích ứng với nhiệt độ môi trường của côn trùng thay đổi tùy loài, nhưng nói chung thường

giới hạn trong khoảng từ 5 đến 45oC. Côn trùng chỉ có thể bắt đầu phát dục ở nhiệt độ nhất

định được gọi là ngưỡng sinh học hay khởi điểm phát dục (kí hiệu to) và dừng lại ở một

điểm nhiệt độ cao được gọi là giới hạn trên hay điểm nhiệt độ cao côn trùng không hoạt

động (T). Vùng nhiệt giới hạn bởi hai điểm to và T được gọi là khoảng nhiệt độ côn trùng

hoạt động.

Khi nhiệt độ môi trường hạ thấp dưới ngưỡng sinh học của một loài côn trùng nào đó

thì quá trình trao đổi chất trong cơ thể chúng bị đình trệ, côn trùng đi vào trạng thái ngất

lịm/hôn mê (anabios). Nếu nhiệt độ môi trường hạ thấp dưới 0oC, nước tự do trong cơ thể

sẽ đóng băng làm tổn thương cơ giới cho tế bào và gây nên những biến đổi sinh lí hoàn toàn

không thể khôi phục, côn trùng sẽ chết. Sự biến động của nhiệt độ môi trường xảy ra theo

quy luật khí hậu thời tiết từng vùng lãnh thổ, nên côn trùng có khả năng thích ứng và vượt

qua nhiệt độ thấp nhờ cơ chế ngừng phát dục bắt buộc (Diapause obligatoire) hay ngừng

phát dục tự do (Diapause facultative). Thí nghiệm trong phòng cho thấy sâu đục thân ngô

Otrinia nubilalis có thể tồn tại ở trạng thái diapause hàng tháng ở nhiệt độ -80oC và hồi

phục khi nhiệt độ trở lại thích hợp với chúng.

Khi nhiệt độ môi trường vượt quá giới hạn trên T, thần kinh của côn trùng bị hưng

phấn quá mức rồi nhanh chóng rơi vào trạng thái hôn mê vì hệ thống men bị rối loạn. Nếu

nhiệt độ tiếp tục tăng cao trên 54 oC, protein trong tế bào bị kết tủa, rồi côn trùng bị chết. Để

chống lại hiện tượng này côn trùng cũng có cơ chế ngừng phát dục vào mùa hè. Nhưng khả

năng chịu nhiệt độ cao của côn trùng chỉ ở giới hạn và thời gian nhất định.

Trong khoảng nhiêt độ từ to đến T, hoạt động sống của côn trùng có những biểu hiện

khác nhau. Tại đây người ta phát hiện ra ngưỡng mắn đẻ O (oovium) và điểm cực thuận Op

(optimum). Như vậy, các ngưỡng này chia khoảng nhiệt độ côn trùng hoạt động thành 3

vùng: vùng hơi lạnh (to-O), vùng cực thuận (O-Op) và vùng hơi nóng (Op-T). Ở vùng hơi

lạnh côn trùng có khả năng sinh trưởng nhưng bất dục. Ở vùng cực thuận tốc độ phát dục

và độ mắn đẻ tăng dần theo chiều nhiệt độ tăng và đạt tối đa ở điểm cực thuận Op, sau đó

giảm dần ở vùng hơi nóng cho đến T. Về kich thước cơ thể thì đạt tối đa ở vùng hơi lạnh,

không thay đổi ở vùng cực thuận và giảm dần ở vùng hơi nóng.

Page 50: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

50

Để hoàn thành một giai đoạn phát dục hay cả vòng đời, mỗi loài côn trùng đòi hỏi

phải có một tổng nhiệt lượng hữu hiệu nhất định. Tổng nhiệt lượng này là một hằng số cho

từng loài và được gọi là tổng tích ôn hữu hiệu (kí hiệu K). Có thể xác định đại lượng này

bằng công thức K = Xn(tn-to), trong đó K là tổng tích ổn hữu hiệu, Xn là thời gian phát dục

(tính bằng ngày hoặc giờ); tn là nhiệt độ trung bình của môi trường trong thời gian phát dục;

to là khởi điểm phát dục và tn-to là nhiệt hữu hiệu. Vì K và to là hằng số, nên khi nhiệt độ

môi trường (tn) càng cao thì thời gian phát dục (Xn) càng ngắn, nghĩa là tốc độ phát dục

càng lớn. Từ đó, tốc độ phát dục (V) được tính theo công thức: V = (tn-to): K.

Nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến sinh trưởng phát dục, sức sinh sản, đến phân bố

địa lí, đến hành vi và các hoạt động sống khác của côn trùng. Vì vậy nhiệt độ là yếu sinh

thái quan trọng nhất trong số các yếu tố vô sinh đối với côn trùng.

Độ ẩm không khí

Côn trùng có kích thước cơ thể nhỏ bé, nên bề mặt tiếp xúc với không khí tương ứng

với một đơn vị khối lượng cơ thể rất lớn so với các động vật khác có kích thước cơ thể to

hơn. Chính vì vậy độ ẩm không khí có ảnh hưởng rất lớn đến việc giữ nước trong cơ thể

côn trùng. Mỗi loài côn trùng có một giới hạn độ ẩm thích hợp. Có thể chia làm 3 nhóm

chính sau đây:

- Nhóm ưa ẩm (ưa thích độ ẩm không khí 85-100%).

- Nhóm ưa ẩm trung bình (55-75%).

- Nhóm ưa khô (dưới 55%).

Phần lớn các loài sâu hại cây trồng nông lâm nghiệp thuộc nhóm ưa ẩm, các loài ong

và mọt thuộc nhóm ưa ẩm trung bình, các côn trùng sống vùng sa mạc thuộc nhóm ưa khô.

Độ ẩm không khí ảnh hưởng đến phân bố địa lí, đến tốc độ sinh trưởng phát dục, sức

sinh sản, hành vi và các hoạt động khác của côn trùng. Ngoài ra độ ẩm không khí còn ảnh

hưởng gián tiếp đến côn trùng thông qua tỉ lệ nhiễm bệnh do các loài vi sinh vật gây ra. Yếu

tố độ ẩm không khí và yếu tố nhiệt độ thường cùng tác động lên cơ thể con trùng có tính

tổng hợp và bù trừ cho nhau.

Để biểu thị tác động tổng hợp của nhiệt độ và độ ẩm không khí đến hoạt động sống

của côn trùng như độ mắn đẻ, thời kì phát thành dịch trong năm v.v… người ta vẽ sinh khí

hậu đồ (bio-climo-gramme). Trong sinh khí hậu đồ, trục hoành biểu thị độ ẩm không khí

(RH%), trục tung biểu thị nhiệt độ không khí (toC), 12 điểm tọa độ của nhiệt-ẩm tương ứng

Page 51: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

51

với 12 tháng của năm (kí hiệu I, II, III, …, XI, XII); Đường khép kín nối các tọa độ theo

chiều thứ tự từ I đến XII và giữa XII với I được gọi là khí hậu đồ. Kết hợp đường biểu diễn

khí hậu của vùng với các ngưỡng sinh học hay phát dịch của loài sẽ tạo nên sinh khí hậu đồ

của của loài côn trùng tại địa phương đó. Sinh khí hậu đồ được sử dụng nhiều trong công

tác dự báo sâu hại trong năm.

Ngoài độ ẩm không khí thì độ ẩm của đất cũng có ảnh hưởng lớn đến côn trùng rừng.

Mưa

Mưa ảnh hưởng đến côn trùng gián tiếp qua việc làm tăng độ ẩm không khí và qua

việc làm cho thực vật là thức ăn của sâu hại sinh trưởng thuận lợi. Mưa còn ảnh hưởng trực

tiếp đến côn tùng ngoài tự nhiên bằng tác động rửa trôi khi cường độ mưa lớn.

Lượng mưa hàng năm tại mỗi vùng cùng với nhiệt độ tạo cho côn trùng điều kiện tồn

tại vàcó ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động sống như sức sinh sản, khả năng phát sinh

thành dịch v.v… Người ta dùng hệ số thủy nhiêt để đánh giá tác động tổng hợp giữa lượng

mưa hàng năm và nhiệt độ không khí, với công thức: An = P: (tn-to). Trong đó: An là hệ số

thủy nhiệt, P là lượng mưa trung bình năm (mm), (tn-to) là tổng tích ôn hữu hiệu cả năm

đối với một loài côn trùng nào đó. Trên bản đồ địa lí, khi nối các địa danh có hệ sồ thủy

nhiệt bằng nhau sẽ có đường đẳng thủy nhiệt đặc trưng cho sự phát sinh phát triển của loài

đó. Đường đẳng thủy nhiệt cho phép phân vùng côn trùng theo một chỉ tiêu sinh học cụ thể.

Ánh sáng

Ánh sáng ảnh hưởng đến côn trùng không có gới hạn, nên côn trùng có thể sống

trong bóng tối hay ngoài ánh sáng, không có hiện tượng côn trùng bị chết do quá sáng hay

quá tối. Ánh sáng ảnh hưởng đến côn trùng gián tiếp qua các yếu tố như nhiệt độ và thực

vật là thức ăn của côn trùng. Ánh sáng ảnh hưởng đến hành vi của côn trùng thông qua thị

giác. Côn trùng có khả năng cảm thụ được các tia sáng có bước sóng ngắn từ 6500 đến

2700Ao (vàng, lục, lam, chàm và tử ngoại). Về cường độ ánh sáng, có nhóm loài chỉ nhìn

được ánh sáng ban ngày (như các họ bướm ở bộ cánh vảy), có nhóm loài lại chỉ nhìn được

ánh sáng ban đêm (như các họ ngài ở bộ cánh vảy). Có loài thích hợp sinh sống trong điều

kiện có ánh sáng chiếu trực tiếp của mặt trời (như xén tóc đục thân cà phê). Ngược lại, có

rất nhiều loài sống thuận lợi trong điều kiện bóng râm (như mọt đục cành cà phê). Tùy theo

nhu cầu về ánh sáng, mỗi loài côn trùng tìm nơi cư trú và vị trí trên cây thích hợp.

Page 52: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

52

Người ta đã phát hiện được sự thay đổi hoạt tính của các men trong cơ thể côn trùng

(như catalaza, cytocromoxydaza, v.v…) phụ thuộc vào cường độ ánh sáng, nhịp độ chiếu

sáng và chất lượng ánh sáng. Xu tính ánh sáng của côn trùng là một biểu hiện phản ứng của

côn trùng đối với ánh sáng.

Phản ứng quang chu kì ở côn trùng được thể hiện rất rõ qua hiện tượng ngừng phát

dục bắt bắt buộc (diapause obligatoire). Tín hiệu cho côn trùng bắt đầu và kết thúc ngừng

phát dục bắt buục chủ yếu là quang chu kì. Phản ứng quang chu kì không phụ thuọc vào

cường độ chiếu sáng, mà chỉ phụ thuộc vào chu kì chiếu sáng, tức là sự biến đổi có tính chu

kì của thời khoảng chiếu sáng trong ngày. Phản ứng quang chu kì chỉ ở một vài pha nào đó

của mỗi loài và chỉ xảy ra ở một ngưỡng nhiệt độ nhất định, lượng thức ăn và độ ẩm môi

trường nhất định.

Gió

Gió có tác động lớn đến đời sống côn trùng, ảnh đến sự trao đổi nước của côn trùng

với môi trường. Gió làm thay đổi nhiệt độ và độ ẩm không khí, ảnh hưởng gián tiếp đến côn

trùng. Tác động lớn nhất của gió là giúp côn trùng phát tán: nhiều côn trùng được gió mang

đi xa hàng chục mét, thậm chí hàng trăn kilomet. Ấu trùng tuổi nhỏ của nhiều loài thuộc bộ

cánh vảy có thể buông tơ để nhờ gió thổi phân tàn đi xa hàng mét. Nhiều loài có tập tính

bay ngược hay bay ngang chiều gió khi cường độ gió yếu, bay xuôi chiều gió khi cường độ

gió mạnh. Có nhiều loài côn trùng kích thước nhỏ có tập tính bốc bay lên cao 2-3m vào lúc

chập tối, rồi nhờ gió tạt đi rất xa.

Việc nghiên cứu khả năng và hướng phát tán theo gió của côn trùng có ý nghĩa quan

trọng trong việc dự báo sự hình thành dịch của sâu hại cây trồng.

Đất

Thanh phần côn trùng sống trong đất rất phong phú. Có khoảng 95% số loài côn

trùng có quan hệ với đất.

Một số loài sống suốt đời trong đất. Điển hình là hầu hết các loài thuộc lớp phụ

Apterygota chỉ rời đất khi đất bị ngập nước. Trong lớp phụ Pterygota cũng nhiều loài gắn

chặt với đất như mối, dế dũi v.v… còn phần lớn các loài khác có một vài giai đoạn phát dục

ở trong đất (thường là trứng, ấu trùng và nhộng), giai đoạn trương thành thường lên khỏi

mặt đất để ăn thêm, tìm đôi giao phối và đẻ trứng (như họ bọ hung Scarabaeidae, ban miêu

Meloidae, bổ củi Elateridae…). Số khác như các loài ruồi đục quả, đục lá họ Agromyzidae

Page 53: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

53

thì khi ấu trùng đã đẫy sức chúng rời khỏi nơi gây hại để xuống đất hóa nhộng. Cũng nhiều

loài chỉ đẻ trứng vào trong đất, khi ấu trùng nở thì chui lên sinh sống trên mặt đất. Nhiều

loài qua đông, qua hè trong đất. Có loài ban ngày xuống đất ẩn náu và ban đêm mới lên mặt

đất kiếm ăn, như ấu trùng sâu xám, sâu nâu ăn lá keo.

Những nghiên cứu về côn trùng đất (Soil-insects) cho thấy các côn trùng có liên quan

với đất đều có những yêu cầu khá chặt chẽ về các tính chất lí hóa tính của đất, như thành

phần cơ giới, thành phần hóa học, độ pH, nhiệt độ trong đất, độ ẩm đất, vi sinh vật đất

v.v… Những điều kiện đó quyết định sự phân bố và cả tương quan số lượng của các loài

côn trùng trong các loại đất khác nhau. Chín vì vậy, trong khoa học chẩn đoán đất (Soil-

diagnostic) người ta có thể dựa vào thành phần và mật độ các loài côn trùng sống trong mỗi

loại đất mà chẩn đoán các tính chất cơ bản của loại đất ấy.

Khi đất quá khô, côn trùng chui sâu vào lòng đất. Khi đất ngập nước côn trùng cũng

thường chui sâu xuống tầng dưới đến nơi có độ ẩm thích hợp và còn có không khí giữa các

hạt đất để hô hấp. Trong trường hợp này, nếu di chuyển không kịp chúng sẽ bị chết hàng

loạt. Vì vậy, tong nông nghiệp người ta thường sử dụng biện pháp tưới ngập nước hay cho

nước vào ngâm ruộng để tiêu diệt nhiều loài sâu hại.

Nhiệt độ các lớp đất biến thiên có tính quy luật theo ngày đêm và các mùa trong

năm. Ban ngày mặt đất hấp phụ nhiều nhiệt lượng nên nhiệt độ cao hơn các lớp dưới.

Ngược lại, ban đêm mặt đất tỏa nhiệt nhanh nên nhiệt độ lại thấp hơn các lớp dưới. Để thích

ứng với biến thiên của nhiệt độ đất, côn trùng phải di chuyển lên xuống theo chiều thẳng

đứng theo ngày đêm và theo mùa.

Việc bón phân vào đất ngoài tác dụng cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho

cây trồng còn có ý nghĩa làm tăng nồng độ muối của dung dịch đất, từ đó tăng áp suất thẩm

thấu của dung dịch đất, dẫn đến cơ thể côn trùng sống trong đất bị mất nước. Người ta bòn

phân hóa học liều lượng cao theo chỉ định để phòng chống ấu trùng của họ bổ củi Elateridae

có hiệu quả. Việc bón vôi cho đất để giảm độ chua cũng có tác dụng hạn chế số lượng một

số loài sâu hại sống trong đất. Bón nhiều phân hữu cơ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hệ vi

sinh vật đất gây bệnh cho côn trùng phát triển, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến côn trùng

sống trong đất. Tuy nhiên, việc bón các loại phân chưa hoai mục, mùn cưa v.v… có thể làm

gia tăng sự gây hại của một số loài sâu hại rễ như bọ hung, mối… Việc xới xáo đất chăm

sóc cây trồng kết hợp phát hiện và bắt giết ấu trùng hoặc nhộng các loài sâu hại cũng đã

được áp dụng trong sản xuất nông lâm nghiệp.

Page 54: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

54

Yếu tố thức ăn

Thành phần thức ăn của côn trùng gồm thực vật, động vật và các chất hữu cơ đang

phân giải. Căn cứ vào nguồn gốc thức ăn, có thể chia côn trùng thành 5 nhóm sau đây: (1)

ăn thực vật – Phytophaga, (2) ăn động vật – Zoophaga, (3) ăn phân – Corprophaga, (4) ăn

xác chết – Necrophaga, (5) ăn chất mục nát – Detritophaga.

Các loài sâu hại cây trồng thuộc nhóm ăn thức vật. Các loài kẻ thù tự nhiên (thiên

địch) của sâu hại thuộc nhóm ăn thịt. Các loài ăn phân, ăn xá chết và ăn chất mục nát có vai

trò quan trọng trong “vệ sinh thiên nhiên” và tham gia một đoạn trong chu trình tuần hoàn

vật chất trong tự nhiên.

Thành phần sâu hại và mật độ mỗi loài sâu hại phụ thuộc vào cây trồng là kí chủ

(hàm ý cả chất lượng và số lượng). Người ta nói “rau nào sâu ấy” để nói rằng có cây mới có

sâu, cây quyết định phân bố của côn trùng ăn thực vật, thành phần dinh dưỡng trong cây

ảnh hưởng đến mọi chỉ tiêu sinh học của côn trùng sử dụng nó làm thức ăn. Tiếp đó, thành

phần và số lượng cá thể các kẻ thù tự nhiên lại phụ thuộc vào kí chủ của chúng – các loài ăn

thực vật.

Côn trùng có tính ăn rộng (ăn nhiều loại – phổ kí chủ rộng) hay ăn hẹp (ăn ít loại –

phổ kí chủ hẹp). Căn cứ vào tính ăn người ta chia côn trùng làm 4 nhóm: (1) tính ăn rất hẹp

(chỉ ăn duy nhất một loại thức ăn có nguồn gốc từ một loài cây hay một loài vật mồi, như

sâu dục thân lúa 2 chấm chỉ ăn cây lúa, hay bọ rùa Rodolia cardinalis chỉ ăn thịt rệp sáp

Icerya purchasi hại cam quýt), (2) tính ăn hẹp (chỉ ăn cây thuộc 1 họ hay 1 chi thực vật, ví

dụ ong ăn lá thông đầu vàng Gilpinia sp. và sâu róm thông Dendrolimus spp. chỉ ăn các loài

thông thuộc chi Pinus), (3) tính ăn rộng (ăn nhiều loài cây, nhiều loài vật mồi, ví dụ trưởng

thành các loài thuộc họ bọ hung Scabaeidae ăn lá nhiều loại cây khác nhau, hay bọ ngựa,

chuồn chuồn ăn thịt nhiều loại côn trùng khác nhau), (4) tính ăn tạp (ăn rất nhiều loại thức

ăn có nguồn gốc khác nhau, như nhiều loài gián, kiến …).

Những loài có phổ thức ăn rộng thường phân bố rộng theo kí chủ của nó. Với những

loài có phổ kí chủ hẹp, biện pháp luân canh cây trồng để cắt nguồn thức ăn là biện pháp

phòng chống khả thi và có ý nghĩa để hạn chế tác hại của nó.

Việc tìm hiểu ảnh hưởng của số lượng và chất lượng thức ăn đến đời sống côn trùng

có ý nghĩa quan trọng trong dự tính dự báo số lượng và tình hình phân bố của các loài.

Page 55: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

55

Yếu tố kẻ thù tự nhiên

Kẻ thù tự nhiên của côn trùng (còn gọi là thiên địch) là các sinh vật cùng phân bố và

tồn tại với kí chủ nhưng chúng lại là tác nhân chủ yếu khống chế số lượng của côn trùng kí

chủ. Thiên địch của côn trùng gồm các nhóm sinh vật sau:

- Vi sinh vật gây bệnh cho côn trùng: bao gồm các loài nấm, vi khuẩn, virus,

động vật nguyên sinh, tuyến trùng v.v… Nhiều loài đã được con người sử dụng và sản xuất

thành chế phẩm sinh học để sử dụng trong bảo vệ thực vật. Như nấm cứng trắng Beauveria

bassiana, nấm xanh Metarhizium anisoplie, vi khuẩn BT (Bacillus thuringiensis), virus đa

diện NPV (Nuclear polyhedrosis virus) đã được sử dụng rộng rãi có hiệu quả.

- Côn trùng thiên địch: bao gồm các loài côn trùng kí sinh và côn trùng bắt mồi.

Côn trùng kí sinh có ấu trùng sống bên trong cơ thể kí chủ gọi là nội kí sinh, có ấu

trùng bám bên ngoài kí chủ gọi là ngoại kí sinh. Thành phần côn trùng kí sinh rất phong

phú, nhiều nhất thuộc bộ cánh màng Hymenoptera (phổ biến ở các họ Braconidae,

Encyrtidae, Ichneumonidae, Trichogrammatidae) và thuộc họ Tachinidae ở bộ hai cánh

Diptera. Trong số các loài côn trùng kí sinh được con người nhân nuôi thành công ở quy

mô công nghiệp và sử dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới có các loài ong mắt đỏ

Trichogramma spp.

Côn trùng bắt mồi có thành phần rất phong phú, thuộc nhiều bộ, họ khác nhau. Ví

dụ, bộ chuồn chuồn Odonata, bộ bọ ngựa Mantodea, chuồn chuồn cỏ Chrysopa ở bộ cánh

mạch Neuroptera, nhiều loài trong họ kiến Formicidae bộ cánh màng Hymenoptera, ruồi ăn

rệp họ Syrphidae ở bộ hai cánh Diptera, nhiều họ thuộc bộ cánh cứng Coleoptera (họ chân

chạy Carabidae, họ hổ trùng Cicindellidae, họ cánh cộc Staphillidae, họ bọ rùa

Coccinellidae) và họ bọ xít bắt mồi Reduviidae thuộc bộ cánh nửa Hemiptera. Phần lớn

chúng là những loài có tính ăn rộng.

- Động vật có xương sống ăn côn trùng: quan trọng nhất trong nhóm này là là

các loài chim, thú ăn sâu, ếch nhái, bò sát, cá và gia cầm. Trong nông nghiệp, để phòng

chống rầy nâu một số địa phương đã thực hiện mô hình lúa-cá và lúa –vịt có hiệu quả.

Trong lâm nghiệp, có thể dùng lợn, gà … để diệt nhộng sâu dưới đất.

Ảnh hưởng các hoạt động của con người

Hoạt động kinh tế của con người trong các hệ sinh thái nhân tạo, đặc biệt là HST nông

nghiệp tạo nên nhữnh biến đổi sâu sắc, ảnh hưởng trực tiếp đến côn trùng, bao gồm cả sâu

Page 56: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

56

hại cây trồng và các loài thiên địch của sâu hại. Các hoạt động của con người có những mặt

tích cực như thực hiện các biện pháp để điều khiển sinh quần theo hướng có lợi cho con

người và cải biến điều kiện ngoại cảnh để thuận lợi cho các loài có ích. Thế nhưng, cũng có

nhiều hậu quả tiêu cực, như việc sử dụng thuốc trừ sâu không hợp lí làm ảnh ưởng đến môi

trường, đến cân bằng sinh học trong tự nhiên, làm xuất hiện các loài sâu kháng thuốc.

Trong hoạt động thương mại đã làm nhiều loài côn trùng nguy hiểm lan tràn từ nước này

sang nước khác. Một số trường hợp còn sử dụng côn trùng như vũ khí trong chiến tranh. Tất

cả các hoạt động có hại đó cần được khắc phục. Côn tác quản lý côn trùng đòi hỏi phải cẩn

trọng và khoa học để an toàn cho môi trường, cho con người và có hiệu quả bền vững.

Câu hỏi ôn tập chương 5

1. Sinh thái học côn trùng nghiên cứu những vấn đề gì? Phân biệt sinh thái học cá thể

và sinh thái học quần thể.

2. Trình bày sơ lược về: các yếu tố môi trường, chủng quần, tiêu chuẩn sinh thái và tính

dẻo sinh thái của côn trùng.

3. Trình bày sơ lược về sinh cảnh, quần xã, sinh quần, quan hệ giữa các loài trong sinh

quần, cân bằng sinh học.

4. Vai trò của yếu tố nhiệt độ đối với CT như thế nào? Công thức tính “tích ôn hữu

hiệu” và ý nghĩa thực tiễn của nó.

5. Vai trò của yếu tố độ ẩm không khí đối với CT như thế nào? Sinh khí hậu đồ là gì?

Sử dụng nó trong BVTV như thế nào ?

6. Vai trò của yếu tố mưa đối với CT như thế nào? Công thức tính hệ số thủy nhiệt và ý

nghĩa thực tiễn của nó.

7. Vai trò của các yếu tố sau đây đối với côn trùng : ánh sáng, đất, thức ăn, thiên địch

và ảnh hưởng của các hoạt động của con người.

Page 57: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

57

Chương VI

PHÂN LOẠI CÔN TRÙNG

1. Định nghĩa

Hiện nay người ta đã biết hơn 1,5 triệu loài côn trùng, mỗi loài có một tên khoa học được

thống nhất trên toàn thế giới. Giữa các loài có mối quan hệ dòng dõi nhất định. Các loài

càng có nhiều đặc điểm giống nhau thì chúng càng có họ hàng gần nhau hơn. Trên cơ sở đó,

người ta căn cứ vào số lượng các đặc điểm chung nhiều hay ít mà quy nạp thành các quần

loại riêng biệt, dần xây dựng thành một hệ thống phân loại tự nhiên phản ánh được mối

quan hệ dòng dõi trong quá trình tiến hóa tương quan giữa các loài.

Việc đặt một loài nào đó vào nhóm này hay nhóm khác, tức là xác định vị trí của một

loài trong hàng triệu loài côn trùng gọi là phân loại (Classification) côn trùng. Còn việc xác

định tên khoa học của loài cần biết thông qua một bảng định danh (hay còn gọi là khóa

phân loại) đã được xây dựng sẵn được gọi là định danh (Indentification) côn trùng.

Để phòng chống một loài gây hại hay sử dụng một loài có ích nào, thì việc đầu tiên

là phải xác định tên loài đó là gì, sau đó mới xem ta đã biết gì về loài đó. Từ đó mới tìm các

biện pháp thích hợp để thực hiện các công việc tiếp theo. Vì vậy, phân loại côn trùng là cơ

sở cho công tác nghiên cứu côn trùng.

2. Khái niệm cơ bản về phân loại côn trùng

+ Các cấp trong phân loại: Toàn bộ sinh vật chia làm 2 giới (Kingdom) là giới động vật

và giới thực vật. Giới chia ra nhiều ngành (Subkingdom). Các cấp tiếp theo đó nhỏ dần

cho đến loài là:

Lớp - Class [các bậc dưới lớp: Lớp phụ (Subclass), Tổng bộ (Superorder)]

Bộ - Order [Bộ phụ (Suborder), Nhóm (Section), Tổng họ (Superfamily)]

Họ - Family [Họ phụ (Subfamily), Tộc (Tribe)]

Giống – Genus [Giống phụ (Subgenus)]

Loài – Species [Loài phụ - Subspecies]

Trong các cấp trên đây, có 6 cấp quan trọng là: ngành, lớp, bộ, họ, giống và loài. Loài là

đơn vị phân loại cơ sở, bao gồm các cá thể đực cái có thể giao phối với nhau để sinh ra hậu

thế bình thường về khả năng sinh sản và di truyền.

Page 58: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

58

+ Cách gọi và viết tên loài: cũng như các loài động vật khác, tên gọi cho mỗi loài

tuân thủ theo cách gọi tên kép bằng tiếng la tinh. Từ đầu là tên giống/chi (Genus), chữ cái

đầu viết hoa, từ thứ hai là thuộc từ chỉ loài, chữ các đầu không viết hoa. Ví dụ, sâu róm

thông đuôi ngựa có tên khoa học là Dendrolimus punctatus. Tên của tác giả định loại côn

trùng đó viết sau tên loài và được viết hoa, cho nên SRT là D. punctatus Walker. Tên loài

lấy tên công bố đầu tiên làm chuẩn, các tên công bố sau gọi là tên khác (Synonym).

3. Hệ thống phân loại đến bộ của lớp côn trùng

Việc phân chia lớp côn trùng ra các bộ có nhiều ý kiến khác nhau, nên số lượng các bộ

của của lớp côn trùng khác nhau tùy theo hệ thống phân loại của từng tác giả. Ví dụ: Carl

von Linne (1758) chia thành 7 bộ; J.C. Fabricius (1775) – 13 bộ; Brauer (1885) – 17 bộ;

Sharp (1895) – 21 bộ; Shipley và Borner (1904) – 22 bộ; Tillyard (1926) và Imms (1944) –

24 bộ; Comstock (1925) và Svanvich (1949) – 25 bộ; Crampton (1935) và Ross (1948) – 28

bộ; Plavonsikop (150) – 29 bộ; Weber (1949) và Chu Nghiêu (1950) – 31 bộ; Handlirsch

(1925) và Essig (1947) – 33 bộ; Brues và Melander (1932), Thái Bang Hoa (1955) – 34 bộ;

Wardle (1936) và Mactưnop (1949) – 40 bộ.

Hệ thống phân loại chúng ta thường dùng chia lớp côn trùng thành 31 bộ như

sau:

A. Lớp phụ không có cánh (Apteryogota)

1. Bộ đuôi nguyên thủy (Protura)

2. Bộ đuôi bật (Collembota)

3. Bộ hai đuôi (Diplura)

4. Bộ ba đuôi (Thysanura)

B. Lớp phụ có cánh (Pterygota)

5. Bộ phù du (Ephemerida) 19. Bộ cánh nửa (Hemiptera)

6. Bộ chuồn chuồn (Odonata) 20. Bộ cánh đều (Homoptera)

7. Bộ gián (Blattaria) 21. Bộ cánh cứng (Coleoptera)

8. Bộ bọ ngựa (Mantodae) 22. Bộ cánh quấn (Strepsiptera)

9. Bộ cánh bằng (Isoptera) 23. Bộ cánh rộng (Megaloptera)

10. Bộ chân dệt (Embioptera) 24. Bộ bọ lạc đà (Rhaphidiodae)

Page 59: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

59

11. Bộ cánh úp (Ptecoptera) 25. Bộ cánh mạch (Neuroptera)

12. Bộ bọ que (Phasmida) 26. Bộ cánh dài (Mecoptera)

13. Bộ cánh thẳng (Orthrotera) 27. Bộ cánh lông (Trichoptera)

14. Bộ cánh da (Dermaptera) 28. Bộ cánh vảy (Lepidoptera)

15. Bộ có răng (Corrodentia) 29. Bộ cánh màng (Hymenoptera)

16. Bộ ăn lông (Mallophaga) 30. Bộ hai cánh (Diptera)

17. Bộ rận (Anoplusa) 31. Bộ bọ chét (Siphonaptera)

18. Bộ cánh tơ (Thysanoptera)

4. Một số bộ, họ côn trùng quan trọng trong lâm nghiệp

Có nhiều loài côn trùng gây hại và có ích trong lâm nghiệp, tập trung chủ yếu trong các bộ:

Cánh thẳng, cánh tơ, cánh đều, cánh nửa, cánh cứng, cánh vảy, cánh màng và bộ hai cánh.

4.1. Nhóm có kiểu biến thái không hoàn toàn

4.1.1. Bộ cánh thẳng (Orthoptera)

Đã biết khoảng 20.000 loài. Chúng có đặc trưng rất dễ nhận biết, đó là cánh trước hẹp,

chất da tương đối dày, cánh sau chất màng khi không bay xếp như quạt ở dưới cánh trước.

Đốt đùi chân sau thích nghi cho việc nhảy hay chân trước thích nghi cho việc đào bới.

Miệng gặm nhai. Râu đầu hình sợi chỉ, hình kiếm, hình lông cứng. Đều là loài đa thực phá

hại cả nông và lâm nghiệp. Bộ cánh thẳng chia làm nhiều họ, trong đó có 4 họ quan trọng

nhất là:

(1). Họ châu chấu (Acridiidae = Locustidae):

(2). Họ sát sành (Tettigoniidae):

(3). Họ dế mèn (Gryllidae):

(4). Họ dế dũi (Gryllotalpidae):

4.1.2. Bộ bọ ngựa (Matodae)

Thân thể dài, đầu hình tam giác cử động được. Râu đầu hình sợi chỉ. Miệng gặm nhai.

Ngực trước dài hẹp, chân trước dạng bắt mồi. Bàn chân có 5 đốt. Cánh trước dài hẹp, cánh

sau mỏng rộng hình tam giác, khi không bay cánh được xép hình mái nhà trên lưng. Bọ

Page 60: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

60

ngựa đẻ trứng thành khối bên ngoài được bọc lớp bọt xốp. Sâu non và sau trưởng thành của

bọ ngựa đều ăn thịt các loài côn trùng khác. Chúng là loài có ích trong lâm nghiệp.

4.1.3. Bộ cánh bằng (Isoptera)

Bao gồm các loài mối. Trên thế giới đã phát hiện được 2700 loài. Nhìn chung các loài

mối có thân thế nhỏ bé, râu đầu hình chuỗi hạt, miệng gặm nhai. Mối giống có hai đôi cánh

màng mịn, cánh trước và cánh sau có hình dáng kích thước giống nhau, có một số mạch dọc

phân nhánh. Khi không bay, cánh được xép bằng dọc trên mặt lưng. Mối sống có tính chất

xã hội. Trong tổ mối có các dạng: mối chúa, mối vua, mối giống, mối thợ và mối lính. Mối

phá hại chủ yếu các dụng cụ, công trình bằng tre, gỗ, các vật dụng làn từ giấy, sợi bông…

Trong rừng, mối phá hại cả cây sống và cây chết, chúng cũng góp phần đáng kể trong phân

giải vật rơi rụng và chất hữu cơ trong đất.

4.1.4. Bộ cánh đều (Homoptera)

Đã biết khoảng 16.000 loài, có kích thước khác nhau. Miệng kiểu chích hút, vòi có phân

đốt. Có hai đôi cánh màng, cánh sau nhỏ hơn cánh trước. Một só dạng không có cánh. Khi

không bay cánh xếp hình mái nhà trên thân. Bụng có 11 đốt, nhưng 1-3 đốt phía trước thoái

hóa hoặc nhập với nhau nên chỉ thấy rõ 8-9 đốt. Không có lông đuôi. Có ống để trứng rõ

rệt. Các loài thuộc bộ cánh đều trừ sâu non của họ ve sầu sống trong đất còn đại đa số sống

trên cây và là đối tương gây hại cho cây rừng và cây nông nghiệp. Trong lâm nghiệp 3 họ

được quan tâ nhất là họ ve sầu (Cicadidae), họ rệp ống (Aphididae), họ rệp sáp (Cossidae).

Trong khi đó, trong nông nghiệp người ta khuyến cáo cần quan tâm phòng chống các

loài gây hại thuộc 12 họ của bộ này [Họ bọ rầy (Jassidae=Cicadellidae) gồm các loài hại lúa

và chè; họ ve sầu đầu dài (Fulgoridae) hại cây ăn quả; họ ve sầu bướm (Flatidae) hại cây ăn

quả có múi; họ muội bay (Delphacidae) với các đại diện là rầy nâu, rầy lưng trắng, rầy xám

hại lúa; họ rầy gỗ (Psylidae=Chermidae): rầy chổng cánh hại cam chanh, rầy gỗ hại dâu; họ

rầy bột phấn (Aleurodidae), họ rệp ống (Aphididae), họ rệp muội xơ (Eriosomatidae), họ

rệp sáp bông xơ (Margarodidae), họ rệp sáp phấn (Pseudococcidae), họ rệp sáp (Coccidae)

và họ sáp vảy (Diaspidae)].

4.1.5. Bộ cánh nửa (hay cánh không đều - Hemiptera)

Đã biết khoảng 20.000 loài. Kích thước cơ thể nhỏ hoặc trung bình, phần lớn hình dẹp.

Râu đầu hình sợi chỉ, 2-4 đốt. Miệng chích hút, vòi có phân đốt và cụp xuống dưới thân.

Mảnh lưng ngực trước rộng. Phiến mai (Scutellum) nằm giữa hai chân cánh trước và

Page 61: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

61

thường phát triển rộng. Cánh trước là cánh không đều (nửa phía gốc cánh trước bằng chất

sừng hay chất da tương đối cứng, nửa phía ngoài bằng chất màng) cánh sau là cánh màng,

khi không bay cánh đặt úp trên lưng. Chân kiểu chân chạy. Phần lớn có tuyến hôi và sống ở

cạn, một số sống sống dưới nước hay trên mặt nước (cà cuống, bọ xít nước). Tính ăn đa

dạng: ăn thực vật, kí sinh động vật bậc cao và bắt mồi ăn côn trùng khác. Các họ thường

được quan tâm trong lâm nghiệp là:

- Họ bọ xít vải hay bọ xít râu 5 đốt (Pentatomidae)

- Họ bọ xít mai (Scutelleridae)

- Họ bọ xít bắt mồi (Reduviidae), các giống thường gặp là: Pirates, Sycanus, Scipinia,

Velinus, Coranus, Oncocephalus.

4.2. Nhóm có kiểu biến thái hoàn toàn

4.2.1. Bộ cánh cứng (Coleoptera)

Bọ này có nhiều loài nhất, đã biết khoảng 270.000 loài, có trên 2000 loài hại rừng

nghiêm trọng. Kích thước cơ thể có loài chỉ 0,5mm (họ Corylophidae), có loài dài tới 16-

17cm như một số loài xén tóc, bọ hung. Đầu phát triển thường rụt vào đốt ngực trước hay

kéo dài thành ống đầu như họ vòi voi Miệng gặm nhai. Cánh trước hóa cứng bằng chất

sừng hoặc chất da, cánh sau là chất màng thường dài hơn cánh trước, khi không bay cánh

sau được gập ngắn lại dưới cánh trước. Chân là dạng chân đi. Râu đầu có nhiều dạng khác

nhau: hình lá lợp, hình sợi chỉ, hình răng cưa, hình răng lược. Sâu non có 3 đôi chân ngực

phát triển hoặc thoái hóa tao ra các dạng: dạng chân chạy, dạng bọ hung, dạng không chân.

Nhộng kiểu nhộng trần. Tính ăn đa dạng, gồm các loài ăn thực vật gây hại cho cây rừng và

các loài ăn thịt là thiên địch của sâu hại rừng. Phân bố rộng, có ở mọi nơi: trên và trong cây,

trong đất, trong nước… Các họ sâu kinh tế bao gồm:

- Họ chân chạy (Hành trùng – Carabidae): hầu hết là các loài có ích, cả ấu trùng và

trưởng thành đều bắt mồi. Chỉ có số ít loài gây hại. Hoạt động tích cực vào ban đêm. Các

giống có ích thường gặp: Bembidion, Chlaenius, Dripta, Ophionea, Pheropsophus,

Eucolliurs, Stenolophorus, Adacantha, Callistomimus…

- Họ hổ trùng (Cicindelidae): hầu hết là côn trùng bắt mồi có ích, hoạt động tích cực

dưới nắng, bò nhanh trên mặt đất và bay từng quãng ngắn. Các giống thường gặp là

Cicindella và Collyris.

Page 62: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

62

- Họ cánh cộc (Staphilinidae), phần lớn là loài có ích, ăn các côn trùng nhỏ bé hoạch ăn

chất mục nát. Có loài kí sinh trong nhộng ruồi. Các giống thường gặp là: Paederus,

Staphyllinus, Stenus, Philonthus.

- Họ bổ củi (Elateridae): ăn thực vật. Ấu trùng sống trong đất ăn rễ cây, hạt giống, củ,

cây con; trưởng thành ăn cành non, mầm non và hoa. Các giống thường gặp Agriiotes,

Aeoloderma, Melanotus.

- Họ bổ củi giả (Buprestidae), ăn thực vật. Ấu trùng thường sống dưới vỏ cay hoặc trong

rễ cây, là sâu hại cây ăn quả và cây rừng quan trọng. Trưởng thành gần giống với trưởng

thành họ bổ củi nhưng rực rỡ hơn và không có tính bật nhảy như bổ củi. Các giống

thường gặp là Agrilus, Chrysochoa.

- Họ mọt đầu dài (Bostrychidae)

- Họ mọt mỏ ngắn (Ipidae = Scolytidae)

- Họ mọt đậu (Bruchidae=Lariidae)

- Họ mọt cám (Lyctidae)

- Họ mọt gỗ chân dài (Platypodidae)

- Họ mọt gỗ ô van (Anbiidae)

- Họ vòi voi (Curculionidae)

- Họ bóng tối (Tenebrionidae)

- Họ ban miêu (Meloidae)

- Họ xén tóc (Cerambycidae)

- Họ ánh kim (Chysomelidae)

- Họ bọ hung (Scarabaeidae)

- Họ bọ rùa (Coccinellidae)

4.2.2. Bộ cánh màng (Hymenoptera)

Đã biết hơn 100.000 loài, bao gồm các loài kiến, ong, tò vò. Đặc trưng là đầu đều hướng

xuống phía dưới. Râu đầu hình đầu gối, hình răng lược hay lông chim; Miệng gặm nhai hay

gặm hút.Có hai đôi cánh màng, cánh sau nhỏ hơn cánh trước, cũng có loài hay dạng sống

Page 63: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

63

không có cánh. Trừ chân sau của ong mật là chân lấy phấn còn phần lớn các loài là chân đi.

Ấu trùng có đầu phát triển không có chân hoặc có 3 đôi chân ngực và 6-8 đôi chân bụng.

Nhộng trần. Đặc điểm hình thái và sinh vật học bộ này rất đa dạng. Hầu hết sống trên cạn.

Có loài ăn thực vật, có loài ăn thịt (bắt mồi và kí sinh) hay ăn tạp. Nhiều loài sống quần tụ

hoặc xã hội. Nhiều loài có ích (cho mật, sáp, và là thiên địch của các loài sâu hại. Một số họ

quan trọng:

- Họ kiến (Formicidae)

- Họ ong mật (Apidae)

- Họ tò vò (Sphecidae)

- Họ ong vàng (Vespidae)

- Họ ong đất (Scolidae)

- Họ ong cự (Inchneumonidae)

- Họ ong kén nhỏ (Braconidae)

- Họ ong ba đốt bàn (Trichogrammatidae)

- Họ ong nhỏ râu ngắn (Eulophidae)

- Họ ong nhỏ nhảy (Encyrtidae)

- Họ ong xanh nhỏ (Pteromatidae)

- Họ ong nhỏ (Chalcidae)

- Họ ong trứng bụng có vân (Scelionidae)

- Họ ong nhện (Pompilidae)

- Họ ong ăn lá (Tenthredinidae = Argidae)

- Họ ong ăn lá thông (Diprionidae)

- Họ ong ong xanh (Chrysidae)

4.2.3. Bộ hai cánh (Diptera)

Đã biết khoảng 85.000 loài, bao gồm các loài ruồi, muỗi, mòng v.v… Kích thước cơ thể

nhỏ bé hoặc trung bình. Đặc điểm chủ yếu chỉ có 2 cánh trước phát triển bằng chất màng,

hệ thống mạch cánh đơn giản. Cánh sau thoái hóa thành dạng chùy thăng bằng. Một số ít

Page 64: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

64

loài không có cánh. Không có lông đuôi. Có thể phân thành 2 nhóm chính là ruồi và muỗi.

Ở nhóm ruồi trưởng thành có miệng liếm hút hoặc cứa liếm, ấu trùng dạng dòi, nhộng bọc.

Ở nhóm muỗi, trưởng thành có miệng chích hút, ấu trùng dạng bọ gậy, nhộng dạng cung

quăng. Tính ăn và tập quán sinh sống của côn trùng bộ hai cánh rất khác nhau, trong đó

đáng chú ý là có những loài ấu trùng sống trong nước. Tính ăn của ấu trùng có 4 loại: (1) ăn

thực vật, (2) ăn chất mùn mục, (3) ăn phân, (4) ăn thịt (bắt mồi hoặc kí sinh). Trưởng thành

nhiều loài hút máu người và động vật trở thành môi giới truyền bệnh nguy hiểm. Một số là

sâu hại cây trồng. Có nhiều loài bắt mồi hoặc kí sinh các côn trùng khác nên là kẻ thù tự

nhiên có ích.

Một số họ quan trọng cần quan tâm:

- Họ muỗi lớn (Tipulidae), kích thước cơ thể lớn hơn các loài muỗi khác (thân dài

mảnh đến 2-3cm, chân rất dài). Ấu trùng ăn rễ cây, ăn nấm hoặc các chất mục nát. Loài

thường gặp: muỗi lớn hại mầm lúa mới mọc (Tipula ains).

- Họ muỗi chỉ hồng (Chironomidae), miệng trưởng thành không phát triển nên không

thể hút máu. Ấu trùng sống dưới nước ao tù hay nước chảy chậm. Có một số đại diện hại

cây nông nghiệp (lúa và bèo hoa dâu).

- Họ muỗi (Culicidae), là các loài muỗi hút máu người và động vật. Ấu trùng là bọ

gậy và nhộng là cung quăng hoạt động nhanh nhẹn trong nước. Một số giống thường gặp và

đều là môi giới truyền bệnh nguy hiểm là: Culex, Aedes, Anopheles.

- Họ muỗi năn (Cecidomiidae), ấu trùng ăn thực vật sống trên cây, trong gỗ, trong

các u bướu ở lá và cành. Ấu trùng một số khác có tính ăn thịt, kí sinh, ăn chất mùn, ăn phân

động vật. Loài thường gặp: sâu năn hại lúa (Pachydiplosis oryzae).

- Họ ruồi trâu (Tabanidae), con gọi là mòng trâu, tưởng thành cái hút máu động vật,

trưởng thành đực hút mật hoa. Ấu trùng ăn thịt, phần lớn sống dưới nước, một số trong đất,

dưới đá sỏi cạnh dòng nước chảy hoặc sống trong nước bẩn. Ở Việt Nam đã phát hiện hơn

80 loài. Giống thường gặp là: Tabanus, Chrysops. Loài phổ biến nhất kí sinh vật nuôi là

Tabanus rubidus.

- Họ mòng ăn sâu (Asilidae), kích thước cơ thể lớn và trung bình. Trưởng thành và

ấu trùng đều bắt mồi ăn thịt. Trưởng thành có thể bát con mồi lớn bằng cơ thể chúng (như

chuồn chuồn, châu chấu, các loài ruồi khác). Aaus tùng sống trong đất, trong gỗ mục và bắt

ăn thịt ấu trùng của các loài côn trùng khác. Ở Việt Nam đã phát hiện được hơn 20 loài

Page 65: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

65

thuộc các giống Clephydroneura, Damalis, Eutolmus, Laphria. Loài thường gặp là Eutolmus

brevistylus.

- Họ ruồi ăn rệp muội (Syrphidae), ruồi có kích thước trung bình đến lớn (chiều dài

thân 4-23mm), ruồi ăn mật và phấn hoa. Ấu trùng phần lớn ăn rệp muội, một số ăn thực vật,

ăn chất mùn và phân động vật. Ở VN phát hiện được trên 20 loài. Các giống phổ biến là:

Surphus, Epistrophe, Megaspis, Melanostoma.

- Họ ruồi đục quả (Trypetidae = Tẻphitidae), ruồi có kích thước nhỏ hoặc trung bình,

đốt chày chân giữa có cựa, ống đẻ trứng con cái rõ rệt và chia 3 đốt. Ấu trùng sống trong

quả, trong thân cây, trong cành, trong lá, và trong mô tạo thành bướu. Các loài thường gặp:

ruồi đục quả cam(Bactrocera dorsalis), ruồi đục quả mướp (Chaetodacus cucurbitae).

- Họ ruồi dấm (Drosophilidae), ruồi rất nhỏ, 3-4mm. Ấu trùng sống trong quả mềm

nát hay chất lên men chua. Giống thường gặp là Drosophila.

- Họ ruồi vàng đục thân (Chlorophidae), ruồi nhỏ, màu vàng nhạt. Ấu tùng đục trong

thân, lá, ăn mô cây. Loài thường gặp là: ruồi vàng hại lúa (Chlorops oryzae).

- Họ ruồi đục lá (Agromyzidae), ruồi có kích thước 1,5-4mm. Ấu trùng đục ăn nhu

mô lá. Các loai thường gặp: ruồi đục lá cải (Phytomiza atricornis), dòi đục gốc đậu tương

(Agromyza sp.).

- Họ ruồi hoa (Anthomyiidae), ruồi nhỏ. Ấu trùng ăn phân động vật, các chất hữu cơ

mục nát, một số hại cây. Loài hại cây thường gặp: ruồi hoa Hylemia sp.

- Họ ruồi nhà (Muscidae), ruồi có kích thước 3-8mm. Ấu trùng ăn phân động vật và

các chất hữu cơ thối rữa, mục nát. Loài thường gặp: Ruồi nhà (Musca domestica).

- Họ ruồi kí sinh (Tachinidae = Larvaevoridae), ruồi đẻ trứng lên cơ thể kí chủ, ấu

trùng chui vào bên trong qua lỗ hậu môn hoặc lỗ sinh dục. Ấu trùng ssống kí sinh trên ấu

trùng và nhộng của bộ cánh vảy, bộ cánh cứng, bộ hai cánh và một số bộ khác. Giống

thường gặp: Tachina.

- Họ ruồi xanh / nhặng xanh (Calliphoridae), gồm những loài có màu xanh lam hoặc

lục. Ấu tùng sống trên xác động vật hoặc trong phân, Các giống thường gặp: Calliphora,

Chrysomgia.

4.2.4. Bộ cánh vảy (Lepidoptera)

Page 66: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

66

Gồm các loài bướm và ngài với khoảng 140.000 loài đã biết, chia thành 16 tổng họ và

gần 90 họ. Kích thước cơ thể và màu sắc rất khác nhau. Cơ thể, chân và 2 đôi cánh mang

đầy những vảy nhỏ. Hệ thống mạch cánh rất khác nhau ở các họ, nên là đặc điểm được sử

dụng trong phân loại. Miệng hút hoặc thoái hóa. Râu đầu có nhiều dạng: sợi chỉ, lược, dùi

trống, chùy. Ấu trùng dạng nhiều chân (có 3 đôi chân ngực và 2-5 đôi chân bụng), miệng

gặm nhai. Thân thể ấu trùng nhẵn nhụi hay có lông cứng hoặc bướu lông. Nhộng màng, một

số loài làm kén bằng tơ. Trưởng thành không gây hại vì ăn mật hoa, nước hoặc không ăn.

Ấu trùng thường hại cây (cắn lá, cắn mầm, đục thân, đục lá, đục hoa, đục hạt và đục rễ cây),

gây thiệt hại lớn. Trong nông nghiệp có tới 24 họ được quan tâm quản lí trong bảo vệ thực

vật. Trong lâm nghiệp cần chú trọng các họ sau đây:

- Họ ngài đục gỗ (Cossidae), loài đại diện: sâu đục thân phi lao (Zeuzera casuarina),

đục thân cà phê (Z. coffeae), đục thân nhãn vải (Arbela tetraonis).

- Họ ngài cuốn lá (Tortricidae), loài đại diện: sâu đục ngọn thông (Evetria spp.),

- Họ sâu kèn/ ngài túi (Psychidae), loài đại diện: sâu kèn nhỏ hại keo (Acanthopsyche

sp.)

- Họ bọ nẹt (Eucleidae = Limacodidae), loài đại diện: bọ nẹt hại lá trẩu, keo (Parasa

spp.)

- Họ sâu đo (Geometridae), loài đại diện: sâu đo ăn lá lim (Buzura suppressaria), sâu

đo ăn lá trẩu (Biston marginata)

- Họ ngài trời (Sphingidae),

- Họ ngài thiên xã (Notodontidae), loài đại diện: sâu xanh ăn lá bồ đề (Pentonia sp.),

sâu đuôi cong hại lá keo (Stauropus sp.), sâu ăn lá quế (Phalera flavescens)

- Họ ngài khô lá/ ngài kén (Lasiocampidae), loài đại diện: sâu róm thông

(Dendrolimus punctatus)

- Họ ngài độc (Lymantridae = Liparidaea = Orgidae), loài đại diện: sâu róm 4 trúm

lông (Dasychira sp.) hại thông, keo.

- Họ ngài đêm (Noctuidae), loài đại diện: sâu xám (Agrotis spp.), sâu nâu hại keo

(Anomis fulvida), sâu vạch xám hại keo (Speiredonia retorta).

- Họ ngài đục lá (Phyllocnistidae), sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella) hại cam, quế,

hồi...

Page 67: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

67

- Họ bướm cải/ bướm phấn (Pieridae), loài đại diện :

- Họ bướm phượng (Papilionidae), loài đại diện : bướm cam đuôi dài (Papilio polites).

Câu hỏi ôn tập chương 6

1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phân loại côn trùng? Phân biệt hai khái niệm phân loại

(Classification) và định danh (Identification).

2. Trình bày thang phân loại và cách gọi tên một loài côn trùng.

3. Trình bày hệ thống phân loại đến bộ của lớp côn trùng.

4. Trình bày khái quát về bộ Cánh thẳng (Orthroptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

5. Trình bày khái quát về bộ Bọ ngựa (Matodae). Ý nghĩa của các loài bọ ngựa trong thực

tiễn sản xuất lâm nghiệp.

6. Trình bày khái quát về bộ Cánh bằng (Isoptera). Đánh giá tác hại và ích lợi của các loài

mối trong tự nhiên và trong đời sống con người.

7. Trình bày khái quát về bộ Cánh đều (Homoptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

8. Trình bày khái quát về bộ Cánh nửa (Hemiptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại hoặc

loài có ích.

9. Trình bày khái quát về bộ Cánh cứng (Coleoptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

10. Trình bày khái quát về bộ Cánh thẳng (Orthroptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

11. Trình bày khái quát về bộ Cánh màng (Hymenoptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

12. Trình bày khái quát về bộ Hai cánh (Diptera). Kể tên một số họ có nhiều loài gây hại

(cây trồng, vật nuôi, con người) hoặc loài có ích.

Page 68: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

68

13. Trình bày khái quát về bộ Cánh vảy (Lepidoptera). Kể tên một số họ có nhiều sâu hại

hoặc loài có ích.

14. Làm thế nào để phân biệt được ấu trùng của ong mật, ong ăn lá, bướm, ruồi, bọ hung và

mọt ?

Page 69: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

69

Phần B. CHUYÊN KHOA

Chương VII

QUẢN LÝ SÂU HẠI RỪNG

1. KHÁI NIỆM VÀ THUỘC TÍNH CỦA SÂU HẠI

1.1. Định nghĩa

Sâu hại là những loài côn trùng gây hại hoặc gây khó chịu cho các hoạt động,

tài sản và sức khỏe của con người. Sâu hại cùng với nhện hại, cỏ dại, bệnh hại, (nấm,

vi khuẩn, virus, tuyến trùng), gặm nhấm, hươu nai... tạo thành sinh vật hại hoặc vật

gây hại (Pest).

Một loại côn trùng được gọi là sâu hại khi chúng có số lượng lớn gây ảnh

hưởng xấu tới tình trạng của đối tượng bảo vệ là con người, cây trồng, vật nuôi, nông

sản, lâm sản…

Sâu hại rừng (Forest Pest Insects) là một bộ phận của sâu hại (Pest Insects) bao

gồm các loài côn trùng gây tổn thất cho tài nguyên rừng (chủ yếu là thực vật rừng,

cây con ở vườn ươm) và các sản phẩm thu hoạch từ rừng (chủ yếu là sản phẩm gỗ,

hạt giống).

1.2. Thuộc tính của sâu hại thực vật

(1). Sâu hại là trạng thái tự nhiên và là một bộ phận của hệ sinh thái (Rừng,

đồng ruộng) mà nó tồn tại. Do vậy sự có mặt của nó trong HST đó là một tất yếu

khách quan.

(2). Mỗi lâm phần, thửa ruộng, loại cây trồng đều có phức hợp các loài gây

hại, trong đó có nhiều loài gây hại. Trong từng trường hợp cụ thể có loài là sâu hại

chủ yếu, có loài là sâu thứ yếu. Vì vậy phải xác định được đối tượng phòng chống

từng nơi, từng lúc thì mới có thể đạt được hiệu quả mong muốn.

(3). Mức độ tổn thất mà loài sâu hại gây ra thường phụ thuộc vào số lượng cá

thể của pha gây hại và trạng thái của đối tượng cần bảo vệ (tuổi, kích thước, chất

lượng cây trồng…).

Page 70: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

70

(4). Sâu hại có mối quan hệ chặt chẽ với cây trồng và với các yếu tố môi

trường. Mọi sự thay đổi của cây trồng như diễn biến các giai đoạn sinh trưởng, cơ

cấu cây trồng trên đồng ruộng hay lâm phần và sự biến đổi các điều kiện môi trường

như nhiệt độ, độ ẩm, chế độ chiếu sáng, đặc điểm lí hóa tính của đất (như chăn thả

gia súc làm thay đổi tính chất đất rừng, tưới nước, bón phân, xới xáo đất trong nông

nghiệp…) đều ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của sâu hại.

(5). Sâu hại chịu sự tác động rất lớn bởi các hoạt động sản xuất của con người,

nhất là trong hệ sinh thái nông nghiệp. HSTNN có các tính chất:

- Cây trồng là sinh vật sản xuất phục vụ trực tiếp cho cho con người, sinh khối

trong từng thời kì bị lấy đi phục vụ con người, do đó chu trình vật chất ở đây

không khép kín.

- Có năng suất sinh vật cao, nhưng năng suất không ổn định, dễ bị tác động bởi

các yếu tố thiên tai hay dịch hại.

- Sự tác động của con người ở đây rất lớn, làm cho sự cân bằng sinh vật bấp

bênh.

(6). Các loài sâu hại trên mỗi cây trồng rất đa dạng về: phổ kí chủ, phương thức

gây hại, phạm vi phân bố, tính chống chịu thuốc, đặc tính sinh học-sinh thái học và

quy luật phát sinh. Do đó cần phải tiến hành biện pháp phòng chống phù hợp với

từng loài cụ thể mới có hiệu quả mong muốn.

2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA SÂU HẠI RỪNG

3. CÁC PHƯƠNG PHÁP DỰ TÍNH DỰ BÁO SÂU HẠI RỪNG

(Hai phần này đã có giáo trình riêng)

4. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG TRỪ SÂU HẠI RỪNG

Các vấn đề cơ bản

Phòng trừ sâu hại rừng (PTSHR) là một bộ phận quan trọng của công tác BVTV, là

một trong những hoạt động quan trọng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh rừng.

(I) Công tác PTSHR có những nhiệm vụ sau:

(1). Ngăn chặn thiệt hại do sâu gây ra.

Page 71: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

71

(2). Cải tạo trạng thái vệ sinh, góp phần củng cố thế bền vững của HST.

(3). Góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.

(4). Góp phần phát triển bền vững.

(II) Phòng trừ sâu hại cần tác động vào 3 đối tượng:

(1). Đối tượng gây hại: Khống chế số lượng của chúng xuống dưới mức gây hại

đồng thời chú ý tới mối quan hệ của sâu hại với các thành phần khác của hệ sinh

thái.

(2). Đối tượng cần bảo vệ: Nâng cao sức đề kháng của cây trồng đối với sâu hại.

(3). Hệ sinh thái: Củng cố thế cân bằng sinh thái nhằm hạn chế loài gây hại phát

triển và tăng cường sự phát triển của các loài có ích.

(III) Những khó khăn của công tác BVTV trong lâm nghiệp:

(1). Đối tượng cần bảo vệ là cây gỗ có kích thước, đặc biệt là chiều cao lớn khiến

cho việc áp dụng một số biện pháp phòng trừ gặp nhiều khó khăn.

(2). Diện tích cần tác động lớn, địa hình phức tạp, điều kiện khó khăn. Các khu vực

mà ngành lâm nghiệp quản lí có độ dốc lớn, địa hình thường không bằng phẳng nên

rất khó sử dụng các phương tiện hiện đại, nhiều chỗ không có đủ nguồn nước dùng

cho biện pháp phun thuốc hóa học.

(3). Thời gian kinh doanh dài khiến trong rừng có nhiều tàn dư thực vật là nơi ẩn

náu của các loài gây hại. Thời gian canh tác dài cũng gây khó khăn cho việc thực

hiện biện pháp luân canh.

(4). Cơ sở hạ tầng kém phát triển khiến việc vận chuyển nhân lực, phương tiện, vật

tư phục vụ công tác phòng trừ sâu hại rất tốn kém hoặc không thực hiện được. Một

số biện pháp cần đến năng lượng điện như bẫy đèn, sử dụng phóng xạ … khó áp

dụng được vùng sâu, vùng xa.

(IV) Những điểm cần lưu ý khi áp dụng biện pháp PTSHR:

Page 72: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

72

(1). Khi xuất hiện một loài sâu hại cần xác định rõ mối quan hệ và sự phụ thuộc của

nó với các thành phần khác của HST.

(2). Tính bền vững cao của HSTR có nguồn gốc tự nhiên nhờ khả năng tự điều

chỉnh, tự cân bằng bởi các mối quan hệ qua lại bên trong nó. Phòng trừ SHR cần

luôn triệt để lợi dụng tính chất này, nhận biết được các yếu tố phá vỡ hoặc các yếu tố

thúc đẩy quá trình cân bằng sinh thái.

(3). Trước khi tiêu diệt sâu hại cần chú ý tới ảnh hưởng của các biện pháp định áp

dụng tới HST, đặc biệt là các thành phần có ích. Đánh giá ảnh hưởng phụ và hậu

quả của các biện pháp phòng trừ sâu hại là rất cần thiết.

(V) Các phương pháp phòng trừ sâu hại phụ thuộc các yếu tố sau:

(1). Đặc điểm sinh học và sinh thái học của loài sâu hại

(2). Đặc điểm của đối tượng cần bảo vệ

(3). Địa hình khu vực có sâu hại

(4). Kinh nghiệm phòng trừ sâu hại

(5). Điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là nguồn tài chính.

(VI) Các phương hướng phòng chống sâu hại

(1) Điều khiển lâm phần theo hướng có lợi cho con người

Đây là phương hướng cơ bản và quan trọng nhất. Trên cơ sở hiểu biết về quan hệ

giữa các loài sinh vật trong lâm phần, tìm các biện pháp tác động nâng cao tính bền

vững của cấu trúc sinh quần để duy trì cân bằng sinh học trong tự nhiên. Trong điều

kiện đó, sự bùng phát số lượng của các loài sâu rất khó xảy ra.

* Cơ sở khoa học:

Có thể nâng cao tính bền vững của cấu trúc sinh quần để duy trì cân bằng sinh

học trong tự nhiên. Cấu trúc sinh quần gồm 3 khâu: Sinh vật sản xuất – Sinh

vật tiêu thụ - Sinh vật tái sản xuất.

Page 73: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

73

Quan hệ giữa các loài thông qua chuỗi và lưới thức ăn. Sinh vật lượng giảm

dần trong chuỗi (theo quy luật của hình tháp số lượng của Elton, 1927), nên

mỗi chuỗi thức ăn thường chỉ có 5-6 mắt xích.

Cân bằng sinh học luôn luôn được thiết lập lại. Nếu sinh quần nghèo sẽ không

có loài thay thay thế ở một mắt xích nào đó của chuỗi thức ăn, dẫn đến nguy

cơ mất đi một số chuỗi thức ăn, rồi một loài nào đó bùng phát số lượng là tất

yếu.

Vai trò của kẻ thù tự nhiên (KTTN) tùy thuộc vào mật độ của chính loài gây

hại (theo quy luật “vùng tác động của KTTN” của Victorốp). Khi mật độ của

loài sâu hại thấp thì vai trò chủ yếu thuộc về KTTN có phổ thức ăn rộng. Khi

mật độ loài sâu hại đủ lớn thì vai trò khống chế lại thuộc về KTTN chuyên

tính. Khi mật độ loài đó cao hơn nữa thì các yếu tố gây bệnh phát huy tác

dụng. Khi mật độ quá cao đến hình thành dịch thì có thêm vai trò của cạnh

tranh cùng loài.

Mật độ chủng quần tỉ lệ nghịch với độ giàu của sinh quần (Quy luật Uolex).

Vì vậy, sinh quần càng giàu loài thì mật độ chủng quần mỗi loài càng thấp,

khi đó khó có loài sâu hại nào có số lượng khá lớn đủ để gây hại kinh tế cho

con người. Muốn sinh quần phong phong phú thì mắt xích đầu tiên trong các

chuỗi thức ăn là thực vật (sinh vật sản xuất) phải đa dạng. Cho nên thảm thực

vật trong sinh quần càng phong phú, đa dạng thì sinh quần càng giàu. “Cây

nào, sâu ấy”, càng nhiều loại cây thì càng nhiều loài sâu, dẫn đến càng nhiều

KTTN. Hỗn giao rừng, bảo vệ lớp thực bì tự nhiên dưới tán rừng và ven rừng

(trong lâm nghiệp) hay xen canh, gối vụ đa dạng hóa cây trồng (trong nông

nghiệp, NLKH) trong một vùng lãnh thổ là việc làm quan trọng số một để làm

giàu toàn bộ sinh quần và cũng là khâu đầu tiên, tất yếu trong điều khiển sinh

quần. Vì vậy quan hệ KTTN – Sâu hại – Cây trồng là yếu tố chỉ đạo của điều

khiển sinh quần.

*Biện pháp:

Bảo vệ và làm tăng tính đa dạng của thảm thực vật.

Hạn chế dùng thuốc trừ sâu.

Page 74: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

74

Không diệt một loài đến cùng, mà chỉ làm giảm mật độ dưới ngưỡng gây hại

kinh tế.

Tạo điều kiện cho sự phát triển của thiên địch (về thức ăn, nơi cư trú, các điều

kiện sống khác).

Bổ sung thêm các loài thiên địch (du nhập loài mới, tăng số lượng cho loài đã

có tại chỗ).

* Ưu, nhược điểm:

Ưu điểm: là phương hướng quan trọng số 1, tác động toàn diện, bền vững và

tính chủ động cao; tôn trọng quy luật tự nhiên, ít gây ô nhiễm và mất cân bằng

sinh thái.

Nhược điểm: người thực hiện phải có kiến thức cần thiết; Trong từng trường

hợp cụ thể vẫn có loài cần phòng chống bằng các biện pháp ở các phương

hướng khác.

(2) Cải biến điều kiện sinh sống của sâu hại

Trong một số điều kiện cụ thể, có thể sử dụng các biện pháp canh tác và bảo quản

nông lâm sản để làm cho điều kiện sống các loài sâu hại tở nên không thuận lợi. Nhờ

đó chúng không thể sinh sản và phát triển số lượng đạt đến mức có thể gây hại kinh

tế cho con người. Bằng cách đó, con người không nhất thiết phải tiến hành các biện

pháp diệt trừ mà vẫn bảo vệ được cây trồng, cũng như sản lượng và chất lượng sản

phẩm thu hoạch.

* Cơ sớ khoa học:

Mỗi loài chỉ có thể phát sinh phát triển thuận lợi và gây hại đáng kể trong điều

kiện nhất định, phụ thuộc vào tiêu chuẩn sinh thái và tính dẻo sinh thái của

loài sâu hại đối với các yếu tố môi trường.

Điều kiện sống của loài sâu hại gồm nhiều yếu tố quan trọng như: thức ăn, nơi

cư trú, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, tính chất đất, v.v… Khi làm thay đổi các

yếu tố đó ra ngoài khả năng thích ứng của sâu hại thì sẽ hạn chế được số

lượng của chúng.

Page 75: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

75

Các loài sâu hại có tiêu chuẩn sinh thái khác nhau, có khi trái ngược nhau. Do

vậy việc cải biến điều kiện sống phải mang tính tình huống và mềm dẻo.

* Các biện pháp:

Luân canh để cắt đứt nguồn thức ăn của sâu hẹp thực.

Dùng giống chống chịu nhằm tạo thức ăn không phù hợp hoặc có chất ức chế

loài sâu cụ thể.

Làm đất (cày lật, phơi khô, ngâm đất), xới xáo làm khó khăn cho sâu sống

trong đất.

Bón phân hữu cơ và bón vôi cải thiện tính chất đất.

Làm luống gieo ươm nền cứng hay nền chất dẻo kết hợp tưới thấm để hạn chế

và diệt trừ sâu dưới đất, đào hào ngăn cản sự di chuyển của sâu.

Tỉa cành, tạo tán cây, trồng cây theo hướng gió để làm giảm độ ẩm không khí

trong tán cây, không thuận lợi cho các loài ưa ẩm.

Trồng cây che bóng hay mở sáng tán cây tùy theo đặc điểm của loài sâu hại.

Thu hoạch sản phẩm đúng mùa vụ và thời điểm.

Phơi khô sản phẩm thu hoạch; Ngâm nước sản phẩm gỗ và tre nứa mới khai

thác trước khi chế biến và sử dụng.

Vệ sinh vườn và rừng, trừ bỏ cây dại là nơi ẩn náu hay cây mang mầm mống

sâu hại.

* Ưu, nhược điểm;

Ưu điểm: lồng ghép được vào công việc tất yếu của hoạt động sản xuất nên ít

tốn kém và an toàn cho môi sinh.

Nhược điểm: phải linh hoạt theo tình huống và cần phải kết hợp với các biện

pháp diệt trừ một số loài sâu hại.

(3) Giảm nhẹ khả năng bị hại cho cây trồng bằng chọn tại giống chống chịu,

nâng cao sức đề kháng và né tránh sâu hại

Người ta vẫn có thể thu được năng suất và sản lượng cây trồng mà không phải

tiến hành các biện pháp diệt trừ sâu hại nếu bản thân cây trồng có khả năng chống lại

Page 76: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

76

sâu hại (do có cấu tạo hình thái hay giải phẫu không thích hợp với sâu, do có chất

hóa học làm sâu ăn sẽ không sinh sản hay phát triển được, do có mùi vị xua đuổi sâu

v.v…) hay chịu sâu (khi sâu ăn thì cây có khả năng phát triển để bù vào phần bị gây

hại). Vì vậy người ta chọn tạo và gây trồng các giống có tính chống chịu với các loài

sâu là đối tượng cần phòng chống.

Sâu hại phát sinh phát triển có quy luật theo các tháng trong năm, phụ thuộc vào

quy luật diễn biến thời tiết từng vùng. Mỗi loài sâu gây hại ở một giai đoạn nhất định

của cây trồng, nên nếu giai đoạn phát triển ấy không trùng với lúc loài sâu ấy phát

sinh nhiều theo quy luật vốn có của nó thì cây ít bị hại. Vì vậy trong nông nghiệp và

vườn ươm cây lâm nghiệp người ta điều chỉnh thời vụ gieo trồng hay sử dụng các

biện pháp khác nhau để thúc đẩy hay kìm hãm sự sinh trưởng của cây trồng lệch với

lúc nhiều sâu.

*Cơ sở khoa học:

Bản thân cây trồng là đối tượng cần bảo vệ. Nếu cây trồng có khả năng chống

chịu, thì không cần trừ sâu cây vẫn cho năng suất tốt. Tính chống chịu này

được quy định do gen di truyền, nên có thể chọn tạo giống theo mong muốn.

Khi do 1-2 gen quyết định thì tính kháng cao nhưng hẹp và không bền (gọi là

tính chống chịu dọc). Khi do nhiều gen quyết định (đa gen) thì có tính kháng

vừa và biểu hiện tính chịu, nhưng rộng và ổn định một thời gian dài (gọi là

tính chống chống chịu ngang). Tính chống chịu dọc mang tính chất định tính

và phân ly theo các quy luật của Mendel, còn tính chống chịu ngang mang tính

chất định lượng và không phân ly theo các quy luật của Mendel (FAO-Rôme,

1986).

Giai đoạn xung yếu của cây trồng không trùng với lúc một loài sâu hại nào đó

phát sinh nhiều thì năng suất cây trồng ít bị ảnh hưởng. Giai đoạn xung yếu đó

ta có thể điều chỉnh sớm hơn hoặc muộn hơn bình thường bằng thay đổi thời

vụ, điều chỉnh việc bón phân, tưới nước hay phun chất điều hòa sinh trưởng.

Đối với cây rừng, do đời sống cây dài nên vấn đề thời vụ chỉ có ý nghĩa ban

đầu ở giai đoạn vườn ươm và khi trồng rừng. Do vậy cần xác định các thời kì

xung yếu của cây theo tuổi rừng để có các biện pháp dự phòng và hỗ trợ cây

trồng (ví dụ tỉa thưa, tỉa cành, quét thuốc bảo vệ lên gốc cây, ngừng việc trích

nhựa).

Page 77: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

77

* Biện pháp:

Thu thập, bảo tồn nguồn gen chống chịu sâu.

Chọn lọc các giống có khả năng chống chịu đối với từng loài sâu cụ thể.

Lai tạo giống chống chịu, chuyển nạp gen kháng.

Điều chỉnh thời vụ và dùng các biện pháp khác nhau (như bón phân, tưới

nước, dùng chất điều hòa sinh trưởng …) để làm cho giai đoạn xung yếu của

cây trồng không rơi vào lúc loài sâu chủ yếu phát sinh rộ.

Áp dụng các biện pháp kĩ thuật lâm sinh để nâng cao sức đề kháng của cây và

lâm phần vào các thời kì rừng dễ bị dịch sâu hại.

* Ưu, nhược điểm:

Ưu: Chủ động, có hiệu quả mang tính tích lũy, giảm chi phí trừ sâu, không

gây ô nhiễm môi trường.

Nhược điểm: một giống không chống chịu được tất cả các loài sâu hại; Sâu có

thể thích nghi dần với giống; Thay đổi thời vụ không chống được mọi loài

sâu, và cũng làm cho cây trồng sinh trưởng phát triển khó khăn hơn thời vụ

bình thường. Đối với cây rừng biện pháp thay đổi thời vụ khó áp dụng.

(4) Trực tiếp tiêu diệt sâu hại

Khi mật độ một loài sâu hại nào đó cao đến mức gây thiệt hại kinh tế cho con

người thì phải áp dụng biện pháp diệt trừ để giảm mật độ của chúng. Đây là phương

hướng quan trọng trong các trường hợp có dịch sâu hại rừng.

* Cơ sở khoa học:

Vì sâu là trạng thái tự nhiên và là thành phần của HSTR, sự tác động của con

người để hạn chế loài này có thể lại làm thuận lợi cho loài khác. Do vậy việc

tạo lập lại sự cân bằng bị phá vỡ, bảo vệ lợi ích của mình con người cần phải

tiêu diệt để làm giảm mật độ của loài bùng phát gây dịch hại là cần thiết.

Cơ sở khoa học để thực hiện có hiệu quả phương hướng này là: nếu biện pháp

diệt trừ không nhắm tới tiêu diệt hết mọi cá thể, mà chỉ nhằm giảm mật độ của

chúng xuống dưới ngưỡng gây hại kinh tế, đồng thời nếu áp dụng các biện

pháp một cách hợp lí và khoa học thì không hoặc ít ảnh hưởng xấu đến môi

Page 78: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

78

trường. Ngưỡng gây hại kinh tế - Economic Injurie Level, được hiểu là “mật

độ sâu đủ gây ra thiệt hại về kinh tế lớn hơn chi phí phòng trừ”; Ngưỡng

phòng trừ - Action threshold, “là mật độ sâu ở đó cần phải thực hiện biện pháp

phòng trừ để ngăn ngừa sâu đạt đến ngưỡng gây hại kinh tế” (Dyck et all.

1977 và Lisinger, 1979). Trong thực tế, ngưỡng gây hại kinh tế (EIL) và

ngưỡng phòng trừ (AT) có thể được biểu thị trực tiếp bằng mật độ sâu, hay

gián tiếp bằng tỷ lệ % hay chỉ số bị hại do sâu gây ra đối với cây trồng. Chỉ số

AT luôn nhỏ hơn EIL. Ví dụ với cây lúa, ngưỡng phòng trừ (AT) cho một số

loài sâu như sau: sâu cuốn lá là 15% lá bị hại (cho đến khi xuất hiện lá đòng);

sâu gai – 4 con trưởng thành trên một khóm lúa; sâu phao – 50% lá bị hại (ở

ruộng mạ); sâu đục thân – 1 ổ trứng trên 20 khóm lúa (từ khi bắt đầu trổ bông

đến khi tung phấn).

Khi một loài sâu nào đó phát triển nhiều đến thành dịch, thì lúc đó nó lấn át

các loài khác trong sinh quần, lúc đó KTTN không đủ sức khống chế số lượng

của chúng. Việc con người trực tiếp tham gia tiêu diệt một phần số lượng cá

thể của chúng bằng các biện pháp cần thiết có thể coi như tham gia điều chỉnh

mật độ trong sinh quần, tức là điều khiển sinh quần. Vì vậy, ngay cả biện pháp

dùng thuốc hóa học có lúc cũng là một biện pháp trong điều khiển sinh quần.

* Biện pháp:

Biện pháp quyết liệt nhất là là dùng thuốc trừ sâu hóa học và các chế phẩm

sinh học (như BT, Boverin, NVP…). Đối với thuốc hóa học phải tuân thủ quy

tắc” 4 đúng”: đúng thuốc – đúng lúc – đúng nồng độ, liều lượng – đúng cách.

Bắt bằng tay và dụng cụ thô sơ (biện pháp thủ công).

Dùng bẫy, bả độc; Chiếu xạ liều cao.

Cầy lật, ngâm nước và một số biện pháp trong canh tác.

* Ưu, nhược điểm:

Ưu: dập dịch kịp thời, dễ thực hiện.

Nhược: phải thận trọng trong khi sử dụng các biện pháp có thể làm ảnh hưởng

tới môi trường và KTTN. Ví dụ, đối với biện pháp hóa học nếu không thận

trọng có thể gây ra hậu quả “3R” (Sâu quen thuốc – Resistance; Sâu tái phát

dịch – Resurgence; Để lại dư lượng thuốc trong sản phẩm và môi trường –

Page 79: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

79

Residus), đối với bẫy bả có thể giết chết một số lớn các loài có ích cũng có xu

tính về ánh sáng hay mùi vị thức ăn giống như loài sâu hại muốn diệt trừ.

(VII) Nguyên tắc phòng chống sâu hại

(1) Có hiệu quả kinh tế

* Cơ sở khoa học và thực tiễn của nguyên tắc này là:

Sản xuất nông lâm nghiệp là hoạt động kinh tế, nên phòng chống sâu hại phải

có tính kinh tế.

Hiệu quả kinh tế chỉ có nếu: A – B > C + D (trong đó: A là giá trị sản phẩm thu

hoạch được khi có trừ sâu; khi không trừ sâu; B là giá trị sản phẩm thu hoạch

được khi không có trừ sâu; C là chi phí cho biện pháp phòng trừ; D là lợi nhuận

mong muốn) A và B phụ tuộc vào giá bán của sản phẩm, C phụ thuộc vào tông

các chi phí vật tư và công lao động. Hiệu quả kinh tế có được nếu tiến hành

biện pháp phòng trừ khi thật cần thiết, đúng đối tượng, đúng lúc, đúng phương

pháp, chọn vật tư giá hợp lí, năng suất lao động cao và có đầu óc tổ chức tốt.

(2) Phòng là chính

* Cơ sở khoa học và thực tiễn của nguyên tắc này là:

Phòng là khống chế sâu từ khi mật độ sâu còn thấp ở dạng ổ dịch, là tiêu diệt ở

tàn dư cây trồng sau khi thu hoạch sản phẩm và nơi sâu trú đông, trú hè.

Nhiều trường hợp không phòng thì sản phẩm không còn giá trị thương phẩm

cho dù từ hết sâu.

Phòng sẽ có hiệu quả kinh tế, vì nếu phòng tốt sẽ không có dịch sâu xảy ra, nên

không tốn nhiều công sức và tiền của để dập dịch.

Việc phòng bằng phun thuốc định kì mặc dù không có nhiều sâu là không khoa

học, là sai lầm lớn cần tránh.

(3) Phòng chống theo quy trình tổng hợp

* Cơ sở khoa học và thực tiễn của nguyên tắc này là:

Page 80: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

80

Mỗi biện pháp riêng lẻ có những nhược điểm riêng. Việc phối hợp hài hòa

nhiều biện pháp với nhau sẽ cùng một lúc phát huy được ưu điểm và hạn chế

nhược điểm của từng biện pháp đưa vào áp dụng.

Mục đích của người sản xuất là cây trồng cho năng suất cao, chất lượng sản

phẩm tốt. Cây trồng có thể bị tấn công bởi nhiều dịch hại. Việc áp dụng phòng

trừ theo quy trình tổng hợp sẽ đảm bảo an toàn hơn cho cây, cùng lúc chống

được nhiều loài sâu hại, cho năng suất và lợi nhuận cao nhất.

IPM (điều khiển dịch hại tổng hợp) là chiến lược phòng chống dựa trên nguyên

tắc: cho phép sâu hại tồn tại trên cây trồng nhưng dưới ngưỡng gây hại kinh tế

(EIL), cho KTTN phát huy vai trò tối đa, tác động các biện pháp canh tác để

cây trồng phát triển tốt và tăng khả năng chống chịu sâu, chỉ phun thuốc hóa

học khi sâu đạt ngưỡng phòng trừ (AT) theo nguyên tắc 4 đúng và và chủ động

phối các biện pháp một cáh hợp lí.

(4) Phải mang tính quần chúng và theo hướng xã hội hóa công tác BVR

* Cơ sở khoa học và thực tiễn của nguyên tắc này là:

Do khả năng lây lan của sâu hại rất lớn, việc phòng chống không thể tiến hành

trên diện tích hẹp của từng hộ. Vì vậy phải động viên được nguồn lực của cộng

đồng mới đạt được kết quả cao.

Do người sản xuất chỉ áp dụng được biện pháp phù hợp với tình độ, với điều

kiện kinh tế-xã hội và tập quán của họ, nên tính quần chúng quyết định tính khả

thi của biện pháp.

Do người dân thường làm theo nhau, nên tính quần chúng được phát huy trong

quan hệ cộng đồng. Các điển hình tốt được nhân lên từ điểm sang diện rộng

nhanh chóng.

Nâng cao trách nhiệm của chủ rừng và phát huy triệt để nguồn nội lực tại chỗ,

trên cơ sở có sự hỗ trợ, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. Tránh tư tưởng

trông chờ, ỉ lại và quan điểm bao cấp trong hoạt động phòng từ sâu hại rừng.

4.2. Các phương pháp phòng trừ sâu hại rừng

Các phương pháp PTSHR dưới đây bao gồm nhiều biện pháp khác nhau. Tùy theo điều

kiện mà lựa chọn phương pháp thích hợp.

Page 81: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

81

4.2.1. Phương pháp kiểm dịch thực vật

4.2.1.1. Khái niệm và cơ sở của phương pháp

Phương pháp kiểm dịch thực vật là phương pháp ngăn chặn sự lây lan của đối

tượng gây hại nguy hiểm (sâu, bệnh, cỏ dại và các sinh vật gây hại khác) từ nước này

sang nước khác, từ vùng này qua vùng khác bằng biện pháp kiểm tra phát hiện các loài

đó trên hàng hóa như hạt giống, cây con, các nông lâm sản. Thông thường có các cơ

quan chuyên trách từ trung ương đến địa phương thực hiện kiểm dịch thực vật, có phòng

thí nghiệm đặt ở cửa khẩu và đầu mối giao thông. Nhiệm vụ của kiểm dịch thực vật là:

(1) Ngăn chặn sâu hại xâm nhập và lan tràn; (2) Bao vây sâu hại ở một vùng nhất định

đêt tiêu diệt; (3) Tiêu diệt kịp thời, triệt để sâu hại tại vùng mới phát sinh.

Kiểm dịch thực vât có 2 loại là kiểm dịch đối ngoại và kiểm dịch đối nội.

Kiểm dịch đối ngoại được thực hiện bởi các hiệp định hợp tác quốc tế để ngăn chặn sâu

hại lan tràn từ nước này sang nước khác. Đối tượng kiểm dịch đối ngoại là các loài sâu hại

có trong danh lục quốc tế, sâu hại nguy hiểm chưa phát hiện hoặc ít phân bố ở nước kiểm

dịch.

Kiểm dịch đối nội được thực hiện theo chế độ và pháp lệnh ban hành trong nước để ngăn

chặn sâu hại lan tràn từ vùng này sang vùng khác. Đối tượng kiểm dịch đối nội là sâu hại

phân bố hẹp, sâu hại vừa đến vùng mới và gây hại nghiêm trọng, sâu hại có trong hàng hóa

vận chuyển giữa các vùng, miền.

Cơ sở của phương pháp kiểm dịch:

- Cơ sở khoa học: quản lí thành phần sâu hại theo từng vùng lãnh thổ, ngăn chặn cơ

hội tiếp xúc, lây lan giữa nguồn sâu hại với đối tượng cây trồng tại khu vực cần bảo

vệ.

- Cơ sở thực tiễn: các loại mầm mống sâu bệnh hại trên hàng hóa có thể phát hiện và

sử lí thông qua các biện pháp kĩ thuật và phương tiện chuyên dụng.

- Cơ sở pháp lý: đây là biện pháp mang tính Nhà nước, dựa trên pháp lệnh, điều lệ

được ban hành.

Nội dung của phương pháp

(1). Cấm nhập hàng hóa và nguyên liệu thực vật từ những vùng đang có đối tượng gây hại

nguy hiểm.

Page 82: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

82

(2). Chỉ cho nhập hàng hóa và nguyên liệu thực vật đã được kiểm tra cẩn thận hoặc đã được

xử lí theo quy định.

(3). Đối với những đối tượng nguyên liệu thực vật mới cho phép nhập cần có thời gian

thuần hóa, kiểm tra kĩ lưỡng trước khi cho nhập khẩu hàng loạt.

Danh lục đối tượng kiểm dịch thực vật (ĐTKDTV) của Việt Nam:

(a) Việc công bố danh lục ĐTKDTV: trong từng thời kì, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT xác

định và công bố danh lục ĐTKDTV cần phải ngăn chặn không để xâm nhập vào

Việt Nam hoặc lây lan giữa các vùng trong nước.

(b) Những loài sinh vật không được để lọt ra nước ngoài được xác định trong văn bản

thỏa thuận giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế, hoặc theo điều ước quốc

tế mà Việt Nam tham gia kí kết.

(c) Khi phát hiện ĐTKDTV thuộc danh lục đã công bố, cơ quan BVTV phải quyết định

các biện pháp bao vây, tiêu diệt đối tượng đó và yêu cầu chủ vật thể mang đối tượng

phải thực hiện các biện pháp tương ứng. Nếu đối tượng lây lan thành dịch, cơ quan

bảo vệ và KDTV phải báo ngay với cơ quan có thẩm quyền để công bố dịch và dập

dịch.

(d) Phân loại ĐTKDTV:

- ĐTKDTV nhập khẩu: là các loại dịch hại không được phép nhập khẩu.

- ĐTKDTV trong nước: là những dịch hại nguy hiểm cần xử lí khi di chuyển thực vật

và sản phẩm thực vật trong nước.

- ĐTKDTV cấp nhà nước: là những đối tượng do nhà nước quy định.

- ĐTKDTV cấp tỉnh: là đối tượng quy định bổ sung của từng địa phương

Theo quy định, ĐTKDTV ở Việt Nam được chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 là những sinh vật

gây hại tài nguyên thực vật và có nguy cơ gây hại nghiêm trọng, chưa có trên lãnh thổ VN;

Nhóm 2 là những sinh vật gây hại tài nguyên thực vật và có nguy cơ gây hại nghiêm trọng,

đã có trên lãnh thổ VN nhưng phân bố hẹp; Nhóm 3 là những sinh vật gây hại tài nguyên

thực vật và có nguy cơ gây hại nghiêm trọng, đã có trên lãnh thổ VN nhưng có khả năng lan

rộng hoặc những sinh vật lạ gây hại khác.

Tùy theo tình hình cụ thể, có thể bổ sung, chuyển hạng các nhóm hoặc loại bỏ loài dịch

hại khỏi danh sách ĐTKDTV. Cơ sở để xác định là:

Page 83: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

83

- Là đối tượng nguy hiểm ở nước khác, có thể xâm nhập vào VN qua con đường trao

đổi hàng hóa.

- Chưa có hoặc chỉ mới có phạm vi hẹp trên lãnh thổ VN

- Đã trở thành loài phổ biến ở VN.

Biện pháp xử lí trong KDTV có những đặc thù riêng: (1) Chỉ xác định có hay không có,

chứ không kể mật độ nhiều hay ít; (2) Khi phát hiện thấy đối tượng KDTV trong hàng hóa,

tùy theo mức độ có thể trả hàng về nơi xuất xứ, khử trùng tại chỗ, thay đổi mục đích sử

dụng, tiêu hủy hàng hóa tại chỗ.

Ưu, nhược điểm của phương pháp KDTV

+ Ưu điểm:

- Ngăn chặn được sự lây lan của loài sâu hại nguy hiểm, nhờ đó giảm được thiệt hại

kinh tế, tổn hại môi trường và bình ổn xã hội.

- Mức độ tác động cục bộ nhưng phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài.

- Có tính pháp lí cao nên khi triển khai thực hiện thuận lợi.

+ Nhược điểm:

- Đòi hỏi thiết bị và tính chuyên nghiệp cao

- Gây trở ngại nhất định đến hoạt động lưu thông hàng hóa

- Dễ phát sinh tiêu cực trong khi tiến hành KDTV. Vì vậy phải quản lí nghiêm ngặt

công tác KDTV.

Phương pháp kĩ thuật lâm sinh

4.2.2.1. Khái niệm

Phương pháp kĩ thuật lâm sinh là thông qua một loạt những biện pháp kinh doanh quản

lí rừng: trồng rừng (gieo ươm, trồng, chăm sóc), nuôi dưỡng rừng, cải tạo, tu bổ và khai

thác rừng… nhằm tạo ra một khu rừng khỏe mạnh có sức đề kháng cao và hạn chế sự phát

sinh và gây hại của sâu đến mức thấp nhất.

4.2.2.2. Cơ sở của phương pháp

- Thông qua các biện pháp kĩ thuật canh tác hợp lí trong các khâu sản xuất có thể tạo

lập được những diện tích cây trồng khỏe mạnh, có sức đề kháng cao, góp thúc cân

bằng sinh thái nên hạn chế được sự phát sinh và phát triển của sâu hại.

Page 84: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

84

- Trong quá trình sản xuất nông lâm nghiệp, người ta phải tiến hành những khâu công

việc bắt buộc như gieo trồng, chăm sóc, nuôi dưỡng, thu hoạch v.v… Có thể lồng

ghép thêm vào đó những nội dung bảo vệ thực vật để cùng lúc đạt được các mục tiêu

đề ra.

- Đây là phương pháp có tầm quan trọng hàng đầu, vì thực hiện tốt phương pháp này

đã thực hiện một phần các nội dung của phương pháp điều khiển dịch hại tổng hợp

(IPM). Các biện pháp canh tác giúp cho cây phát triển tốt, cây khỏe, tăng sức chống

chịu sâu hại. Đó là việc làm thường xuyên và tất yếu nên ít tốn kém và tính khả thi

cao.

4.2.2.3. Nội dung của phương pháp

Phương pháp kĩ thuật lâm sinh được áp dụng cho 3 đối tượng thuộc 3 địa bàn chính

khác nhau là vườn ươm, rừng trồng và rừng tự nhiên.

a. Đối với vườn ươm

- Chọn vườn ươm thích hợp (địa hình, đất đai, mầm mống sâu bệnh hại)

- Chọn giống chống chịu và có chất lượng tốt.

- Xử lí hạt giống đúng kĩ thuật trước khi gieo ươm.

- Chọn và xử lí tốt đất gieo ươm, đất làm bầu

- Kỹ thuật ra ngôi, chọn loại bầu, đảo bầu, xén rễ thích hợp.

- Kỹ thuật chăm sóc hợp lí tưới nước, bón phân, che bóng, diệt cỏ dại.

- Vệ sinh vườn ươm, xử lí tàn dư cây sâu bệnh.

- Luân canh cây con trong vườn.

b. Đối với rừng trồng

- Thiết kế trồng rừng đúng mục tiêu kinh doanh, phù hợp nhu cầu sinh thái cây trồng

theo nguyên tắc “đất nào cây nấy” hay “cây nào lập địa nấy”; hạn chế diện tích độc

canh cùng tuổi. Định hướng phát triển hệ sinh thái nhân tạo giống hệ sinh thái tự

nhiên, trên quan điểm phát triển bền vững.

- Chọn cây giống khỏe mạnh, chống chịu sâu hại: chú ý tới xuất xứ cây, tiêu chuẩn

cây con xuất vườn, công tác giống như lai tạo, chiết ghép… luôn chú ý tới khả năng

chống chịu sâu hại của cây trồng.

Page 85: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

85

- Xử đất trồng rừng đúng kĩ thuật (làm đất, kích thước hố…)

- Trồng đúng kĩ thuật: mật độ hợp lí, trồng đúng thời vụ, tránh thời gian cao điểm của

sâu hại.

- Chăm sóc sau trồng đúng quy định (tưới nước, che chắn, diệt cỏ dại, xới đất, bón

thúc, trồng dặm…).

- Tỉa thưa, chặt vệ sinh cây suy yếu, già cỗi, cây có nhiều sâu hại, cây chết đứng, gãy

đổ, bị cháy nhằm tiêu diệt nơi cư trú của sâu hại.

- Thường xuyên làm tốt công tác vệ sinh rừng; bảo vệ lớp thực bì dưới tán rừng.

- Khai thác rừng đúng quy định: xác định tuổi và mùa khai thác; kỹ thuật chặt hạ và

xử lí gốc chặt; tận thu cành nhánh và vệ sinh sau khai thác; vận xuất vận chuyển gỗ

ra khỏi rừng; xử lí sản phẩm sau khai thác: bóc vỏ, ngâm nước; có kế hoạch bảo

quản, chế biến, sử dụng hay tiêu thụ sớm sản phẩm khai thác.

c. Đối với rừng tự nhiên

- Hạn chế tác động mạnh, khai thác dạng bóc lột.

- Bảo tồn tính đa dạng loài, tăng tính đa dạng sinh học.

- Xúc tiến các biện pháp làm giàu rừng thứ sinh.

- Xác định đối tượng khai thác, tuổi khai thác, cường độ khai thác hợp lí; kĩ thuật khai

thác, vận xuất, vận chuyển và bảo quản chế biến đúng quy trình.

4.2.2.4. Ưu, nhược điểm

- Ưu điểm:

+ Tác dụng khá toàn diện: vừa tác động vào thành phần sâu hại, môi trường sống của

chúng vừa trực tiếp tiêu diệt sâu hại và nâng cao sức đề kháng của cây trồng.

+ Lồng ghép được vào các khâu công việc tất yếu nên dễ áp dụng, ít tốn kém, an toàn

cho môi trường.

- Nhược điểm:

+ Tác dụng chậm, chủ yếu chỉ có mang tính ngăn ngừa và phòng là chính. Khi xảy ra

dịch sâu phải sử dụng các biện pháp khác để diệt trừ.

Page 86: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

86

+ Trong điều kiện địa bàn của ngành lâm nghiệp, nhiều biện pháp không thể tiến hành

triệt để. Việc đánh giá tác dụng và hiệu quả của phương pháp thường không thực sự rõ

ràng như các phương pháp khác.

+ Từng biện pháp kỹ thuật lâm sinh đơn lẻ không thể khống chế tất cả các loài sâu hại,

trong khi việc phối hợp các biện pháp trong hệ thống kĩ thuật lâm sinh đòi hỏi sự hiểu

biết thấu đáo của người áp dụng.

4.2.3. Phương pháp cơ giới, vật lí

4.2.3.1. Khái niệm

Phương pháp cơ giới vật lí sử dụng các biện pháp thủ công, các phương tiện và tác nhân

vật lí trong phòng trừ sâu hại

4.2.3.2. Cơ sở của phương pháp

- Sử dụng kinh nghiệm truyền thống và nguồn lực tại chỗ: từ xa xưa người dân đã biết

dùng tay và các dụng cụ thô sơ để diệt trừ sâu hại bảo vệ cây trồng

- Dựa vào xu tính của côn trùng, có thể thu bắt và tiêu diệt một lượng sâu nhất định

vào những thời điểm cần thiết bằng các loại bẫy đèn, bẫy màu vàng, bẫy thức ăn, bẫy

pheromon…

- Có thể phơi khô hoặc sấy để giảm độ ẩm trong sản phẩm thu hoạch hoặc dùng nhiệt

độ cao hay tia phóng xạ để diệt sâu…

4.2.3.3. Nội dung của phương pháp

a. Biện pháp bắt giết

- Là biện pháp thủ công thường được áp dụng cho đối tượng vườn ươm, rừng tuổi

nhỏ, vườn cây ăn quả.

- Do đặc thù là sử dụng nhân lực trực tiếp nên công tác tổ chức thường quyết định

hiệu quả của biện pháp. Tuy nhiên, để thực hiện tốt công tác này người thực hiện

phải có hiểu biết về sâu hại (biết nhận dạng loài sâu, địa điểm và thời gian cư trú của

chúng …), đồng thời cần được trang bị một số phương tiện khác (như vợt, gậy, sào,

bao tay, cào, cuốc…).

b. Biện pháp ngăn chặn

(1). Sử dụng vòng dính

Page 87: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

87

Lợi dụng tính di chuyển của ấu trùng sâu hại (trốn tránh, tìm nơi hóa nhộng…) để tạo

vòng dính diệt sâu. Chất dính thường dùng được chế từ hỗn hợp dầu thông, tùng hương, hắc

ín, vadơlin. Vòng dính được phết trên tấm giấy chịu nước rộng 5-10cm, hoặc phết trực tiếp

lên thân cây ở độ cao 1,3m. Lượng keo dùng cho 1ha rừng thường lên tới 20-50kg hoặc

nhiều hơn.

(2). Vành đai cây xanh, hào rãnh

Có thể ngăn cách nguồn thức ăn của sâu hại bằng vành đai cây xanh. Cây được chọn để

làm đai xanh là những loài cây có khả năng chống chịu sâu hại, ví dụ như Xương rồng, Dứa

dại, Dứa sợi … hay những cây không phải là nguồn thức ăn của sâu. Thiết kế đai xanh cản

lửa hợp lí ở các khu vực rừng trồng cũng có thể ngăn chặn được sự phá hoại của sâu. Các

khu vực có diện tích nhỏ như vườn ươm có thể xây dựng hệ thống hào rãnh kích thước

30x30cm, có vách thẳng đứng để ngăn chặn sự di chuyển của sâu hại dưới đất như sâu xám,

sâu non bọ hung…

(3). Bao bọc bảo vệ

Một số loài sâu hại có tập tính chỉ đẻ trứng vào nơi nhất định của cây (ví dụ quả, chồi non,

măng…) do đó có thể dùng biện pháp bao bọc để bảo vệ.

c. Biện pháp dùng mồi nhử, bẫy

- Dựa vào tính xu hóa của sâu hại để sử dụng các loại bẫy có dùng mồi hay chất dẫn

dụ sinh dục nhằm thu hút côn trùng tới rồi tiêu diệt. Các loài mồi nhử;

+ Thức ăn ưa thích của sâu hại như lá tươi băm nhỏ, cành nhánh, vỏ cây, gỗ, rau quả

thối, phân gia súc…

+ Các loại vật liệu cho mùi đặc trưng có tác dụng hấp dẫn sâu hại: như cám rang, bã

rượu bia, rỉ mật, dấm, rượu… (Ví dụ dùng bẫy chua ngọt với thành phần: 4 phần dấm +

4 phần mật mía + 1 phần rượu + 1 phần nước có 1% chất độc để thu bắt trưởng thành họ

ngài đêm - Noctuidae).

+ Cây mồi: là cây mới chặt hạ hoặc cây đứng đang chết dở để nhử mọt, xén tóc, vòi voi,

mối tập trung gây hại rồi đem xử lí.

+ Hộp mồi nhử mối: làm bằng bìa caton 2 lớp, trong chứa những miếng gỗ mềm như

Thông, Trám, Bồ đề… chẻ mỏng khoảng 1cm nhúng nước đường 1% đặt nơi tối, gần

nơi mối hoạt động.

Page 88: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

88

+ Bẫy pheromon: pheromon là một loại tín hiệu hóa học được côn trùng tiết ra có tác

dụng tới sinh lí và tập tính của các thể khác trong cùng loài. Chất dẫn dụ sinh học là một

loại pheromon được tiết ra phục vụ cho quá trình giao phối. Hiện đã biết cấu tạo hóa học

pheromon của khoảng 250 loài côn trùng. Bẫy pheromon là loại bẫy sử dụng chất dẫn

dụ sinh học để thu bắt các cá thể đưc hay cái của một loài.

- Dựa vào tính xu quang, dùng các loại ánh sáng đèn thu bắt trưởng thành họ ngài sáng

(Pyralidae), họ ngài đèn (Arctiidae), họ ngài trời (Sphigidae), họ bọ hung

(Scarabaeidae).

d. Biện pháp dùng nhiệt độ, phóng xạ

- Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến côn trùng, vì thế nếu nhiệt độ quá cao, quá thấp đều

có tác dụng xua đuổi hoặc tiêu diệt sâu hại. Phơi nắng và xử lí bằng lửa để tạo nhiệt

độ cao ở ngoài trời và làm lạnh trong kho bảo quản là những việc làm thường được

áp dụng trong sản xuất nông lâm nghiệp.

- Các tia phóng xạ như tia X ở cường độ lớn (trên 5000 rơngen) tiêu diệt được sâu

mọt, tia gama làm bất dục côn trùng đực. Những biện pháp này thường được sử dụng

để khử trùng trong kiểm dịch thực vật.

4.2.3.4. Ưu , nhược điểm

- Ưu điểm: Phần lớn các biện pháp dễ làm, ít tốn kém, sử dụng được các nguồn lực tại

chỗ; Không độc hại nên không ảnh hưởng xấu đến môi trường.

- Nhược điểm: Diệt sâu không triệt để; Phạm vi ứng dụng hẹp; Đôi khi tốn kém và cần

sự đầu tư lớn (vòng dính, phóng xạ); Có thể tiêu diệt cả loài có ích và xảy ra rủi ro

(xử lí lửa gây cháy rừng).

4.2.4. Phương pháp sinh học

4.2.4.1. Khái niệm

Theo Tổ chức đấu tranh sinh học thế giới (IOBC, 1971): “Biện pháp sinh học là là biện

pháp sử dụng những sinh vật hay sản phẩm hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa

hoặc làm giảm tác hại do các sinh vật gây ra”. Như vậy, biện pháp sinh học là biện pháp sử

dụng các loài thiên địch của một loài sâu hại nào đó để làm giảm bớt mật độ chủng quần

loài sâu đó, hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hữu ích của các loài thiên địch.

4.2.4.2. Cơ sở của phương pháp

Page 89: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

89

- Cơ sở sinh thái học của biện pháp sinh học là sự điều hòa tự nhiên. Điều hòa tự

nhiên duy trì mật độ trung bình đặc trưng của một quần thể sinh vật. Quần thể luôn hướng

tới sự cân bằng, mật độ mỗi loài không giảm đến mức biến mất, cũng không tăng đến vô

tận. Số lượng trung bình mỗi loài là sự cân bằng của 2 xu hướng trái ngược nhau: xu hướng

1 là sự muốn bành trướng bằng cách sinh sản thật nhiều con cháu, gấp nhiều lần số có khả

năng sống sót. Xu hướng 2 là sự kiềm chế của môi trường xung quanh, trong đó có yếu tố

gây chết của thiên địch. Số lượng một loài chỉ tăng đến lúc gia tăng tỉ lệ chết, còn sự giảm

mật độ bị chặn lại khi gia tăng sức sinh sản.

- Thiên địch của sâu hại chia làm các nhóm sau đây: (1) nhóm sinh vật gây bệnh cho

côn trùng, bao gồm virus, vi khuẩn, nấm, tuyến trùng, động vật nguyên sinh; (2) nhóm bắt

mồi (ăn thịt), bao gồm côn trùng bắt mồi, nhện lớn bắt mồi, các động vật có xương sống

khác như cá, lưỡng cư, bò sát, chim, thú… (3) nhóm kí sinh, bao gồm côn trùng kí sinh chủ

yếu thuộc 2 bộ cánh màng (Hymenoptera) và bộ hai cánh (Diptera).

4.2.4.3. Nội dung của phương pháp

Trong phương pháp sinh học, có các hướng sử dụng thiên địch sau:

a. Bảo vệ thiên địch sẵn có

Với điều kiện kinh tế hạn hep, biện pháp bảo vệ thiên địch là biện pháp rẻ tiền, dễ thực

hiện và có hiệu quả tốt. Cần chú ý rằng nếu như không xúc tiến việc bảo vệ thiên địch

thường xuyên thì mọi cố gắng gây nuôi, gom thả sẽ chỉ có tác dụng rất hạn chế. Để làm tốt

công tác bảo vệ thiên địch cần chú ý một số vấn đề sau:

- Nắm được thành phần loài thiên địch và xác định được loài thiên địch chủ yếu trong

khu vực quản lí.

- Nắm được đặc điểm hình thái (để nhận biết), sinh học (sinh sản, tập tính), sinh thái

(thức ăn, nơi sống) là yêu cầu quan trọng trong công tác bảo vệ thiên địch.

- Đa số các loài côn trùng thiên địch trước khi sinh sản thường ăn bổ sung với thức ăn

là mật hoa hay mật rệp. Vì vậy cần có biện pháp bảo vệ cây bụi, thảm tươi, cây cho mật hoa

mà thiên địch ưa thích. Trồng bổ sung cây cung cấp thức ăn cho thiên địch hoặc phun nước

đường, mật vào rừng vào thời điểm cần thiết.

- Cần áp dụng phương thức khai thác thích hợp, ví dụ theo băng để có chỗ cư trú cho

thiên địch.

Page 90: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

90

- Khi sử dụng thuốc trừ sâu, cần tránh phun thuốc lên nơi cư trú chủ yếu của thiên

địch là cây bụi, thảm tươi, thảm mục. Chỉ phun thuốc trừ sâu vào nơi thực sự có sâu hại tập

trung với mật độ lớn. Trong một khu vực có dịch sâu hại, không nhất thiết phải xử lí triệt để

toàn bộ diện tích bằng thuốc trừ sâu, cần chọn ra những dải rừng thích hợp không sử dụng

thuốc để thiên địch có nơi an toàn cho sự phát sinh phát triển của chúng.

b. Tập trung thiên địch từ nguồn tự nhiên

Điều kiện áp dụng của biện pháp này là: các loài thiên địch sống tập trung hoặc sâu hại

có đặc điểm đẻ trứng hay hóa nhộng tập trung dễ thu thập và thường có tỉ lệ nhiễm kí sinh

cao. Các hoạt động thường làm:

- Thu gom các ổ trứng và nhộng của sâu hại rồi khống chế chúng bằng túi lưới có mắt

lưới nhỏ hơn kích thước của sâu non mới nở hay trưởng thành khi vũ hóa. Đem treo các túi

vào các lâm phần có nguy cơ xảy ra dịch sâu để tập trung các loài kí sinh.

- Tập trung bọc trứng của các loài bọ ngựa hoặc di chuyển tổ kiến vào nơi có nguy cơ

phát dịch sâu hại là biện pháp tập trung côn trùng ăn thịt.

c. Chọn và gây nuôi thiên địch

Trong thực tế mật độ thiên địch thường không đủ lớn để có thể khống chế có hiệu quả

các loài sâu hại. Gây nuôi và thả để làm tăng số lượng thiên địch chủ yếu vào những lúc cần

thiết là biện pháp hay được áp dụng. Cần chọn loài dễ gây nuôi và có khả năng diệt sâu hại

cao để gây nuôi, bảo quản và chủ động thả vào rừng khi sâu hại xuất hiện.

Một số loài côn trùng thiên địch được gây nuôi nhiều là: Ong mắt đỏ (Trichogramma

spp.), Ong tấm xanh (Anastatus disparis), Bọ rùa (họ Coccinellidae), Bọ ngựa (bộ

Mantodae) …

Các loài vi sinh vật sau đây cũng được sử dụng nhiều và có kết quả cao:

- Nấm:

+ Nấm bạch cương (Beauveria bassiana) diệt sâu cánh vảy, cánh màng, cánh nửa

cứng… Chế phẩm của nấm dưới các tên gọi khác nhau: Beauverine, Botani, Boverin,

Naturalis-L, Ostrinil … Thuốc có tác dụng tiếp xúc.

+ Nấm Beauveria brongniartii diệt bọ hung.

+ Nấm ma (Metarrhizium anisopliae) diệt mối …

Page 91: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

91

- Vi khuẩn: Vi khuẩn Bacillus thungringiensis được chế tạo thành các chế phẩm sinh

học với các tên như: BT, Thuricid, Entobacterin, Bactospeine, Biotit, Toarow CT, VK,

Delfin bằng phương pháp lên men vi khuẩn. Độc tố là một loại đạm cao phân tử. Đây là loại

thuốc vị độc dùng để diệt nhiều loài sâu hại trong nông nghiệp (sâu tơ hại rau, sâu xanh hại

rau, ngô, bông…), lâm nghiệp (sâu róm thông, ong ăn lá thông…).

- Virus: các loại virus hạt (GV = Garanulosisvirus) và virus đa diện (NPV = Nuclear

polyhidrosisvirus) được chế thành các chế phẩm có tác dụng đường ruột với nhiều loài sâu

hại.

d. Nhập nội và thuần hóa thiên địch

Lí do cần nhập nội thiên địch là: không có điều kiện gây nuôi thiên địch, rừng trồng cây

nhập nội chưa có loài thiên địch cần thiết để khống chế một loài sâu hại nguy hiểm.

Khi nhập thiên địch cần lựa chọn một số loài có khả năng diệt sâu hại cao đã được

gây nuôi ở nước khác. Thiên địch nhập nội cần được “thuần hóa” trong một thời gian, tạo

điều kiện cho chúng quen với khí hậu trong nước để sử dụng có hiệu quả và ngăn chặn

những ảnh hưởng tiêu cực của thiên địch này tới hệ sinh thái.

Ngoài các biện pháp trên đây chủ yếu áp dụng cho các loài côn trùng thiên địch, cần

chú trọng sử dụng các loài động vật khác. Các loài nhện, ếch nhái, bò sát, chim và thú là

những loài động vật có thể góp phần diệt sâu hại khá tốt. Việc sử dụng chúng bao gồm

những giải pháp chung như:

- Bảo vệ loài: cấm săn bắt, tạo nơi sống an toàn cho các loài động vật hoang dã có ích

(chuột chù, chồn, lợn rừng, cu li, chim, tắc kè, thằn lằn, kì nhông, ếch nhái….

- Làm tổ nhân tạo cho các loài chim bắt sâu; Trồng các loại cọ, dừa cho dơi cư trú.

- Xây các hồ đập và bể chứa nước trong và ven rừng vừa cung cấp nước uống và môi

trường sống cho các loài động vật hoang dã, vừa là nguồn nước phục vụ phòng

chống sâu bệnh hại và phòng chống cháy rừng.

- Thả gia súc, gia cầm vào các khu rừng có sâu để chúng diệt sâu non, nhộng và trứng

sâu hại. Trong nông nghiệp có các mô hình lúa-cá, lúa-vịt được đánh giá là có hiệu

quả.

4.2.4.4. Ưu nhược điểm của phương pháp sinh học

- Ưu điểm:

Page 92: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

92

+ Có tính chọn lọc cao nên không ảnh hưởng xấu đến các loài cần bảo vệ, bảo đảm cân

bằng sinh học.

+ Hầu như không gây ô nhiễm môi trường, không gây độc cho người và các sinh vật

khác.

+ Phạm vi ứng dụng rộng, ít phụ thuộc vào địa hình, tuổi cây

+ Tác dụng của phương pháp là lâu dài và có tính lan tỏa rộng. Thực hiện tốt phương

pháp sinh học có thể khống chế được dịch sâu hai, thậm chí dập tắt dịch

- Nhược điểm:

+ Tác dụng chậm hơn phương pháp hóa học và phụ thuộc vào điều kiện môi trường do

đó không ổn định.

+ Nhân nuôi khó, bảo quản và sử dụng đòi hỏi những yêu cầu cao về thiết bị, về điều

kiện thời tiết và trình độ hiểu biết của người sử dụng.

+ Giá thành của phương pháp thường vẫn cao hơn phương pháp hóa học nên chưa hấp

dẫn người sử dụng.

4.2.5. Phương pháp hóa học

4.2.5.1. Khái niệm

Phương pháp hóa học sử dụng các thuốc trừ sâu chế tạo từ các hợp chất hóa học làm

chết côn trùng để diệt và ngăn ngừa tác hại của côn trùng đến cây trồng và sản phẩm thu

hoạch.

4.2.5.2. Cơ sở của phương pháp

Nhiều hợp chất hóa học khi sử dụng với liều lượng và nồng độ nhất định có tác dụng

đầu độc làm chết sâu (làm ngưng tụ protein trong tế bào, phá hủy tác dụng của các enzim,

thay đổi quá trình trao đổi chất trong cơ thể côn trùng…). Cơ chế xâm nhập gây độc của

thuốc lên cơ thể côn trùng có thể qua đường tiêu hóa cùng với thức ăn (thuốc vị độc, nội

hấp), tiếp xúc và xâm nhập trực tiếp qua da (thuốc tiếp xúc), qua đường hô hấp (thuốc xông

hơi).

4.2.5.3. Nội dung của phương pháp

a. Phân loại thuốc trừ sâu hóa học

Page 93: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

93

- Phân loại theo tác dụng (thuốc tiếp xúc, thuốc vị độc, thuốc xông hơi, thuốc thấm

sâu, thuốc nội hấp, thuốc ức chế sinh trưởng).

- Phân loại theo thành phẩm (thuốc sữa/ nhũ dầu, thuốc bột thấm nước, thuốc phun

bột, thuốc dạng hạt …)

- Phân loại theo nguồn gốc hóa học (thuốc vô cơ, Clo hữu cơ, Lân hữu cơ, Carbamat,

Pyrethroit, Dimethylaminopropandithiol…).

b. Phương pháp và kỹ thuật sử dụng thuốc trừ sâu

- Phương pháp sử dụng thuốc:

+ Phun thuốc, bao gồm các phương pháp

(1). Phun bột/ rắc thuốc bột và thuốc hạt: Đơn giản, ít tốn công nhưng thường tốn thuốc.

(2). Phun mưa: đường kính giọt nước thuốc 150-200m, lượng nước thuốc cần từ 600-

800 lít/ha đối với cây nhỏ và 800-2000 l/ha đối với cây lớn. Sử dụng bình bơm tay.

(3). Phun sương ( = 50-200m; 50-100 l/ha và 300-600 l/ha; sử dụng bình bơm máy).

(4). Phun mù ( = 50-60m; 3-15 l/ha; sử dụng bình thể tích cực nhỏ).

(5). Phun lượng cực nhỏ (ULV) và cực cực nhỏ (UULV) = phun sương cực nhỏ và phun

mù lạnh (0,3-0,5 l/ha). Chỉ dùng thuốc chuyên dùng.

+ Các phương pháp sử dụng khác, bao gồm:

(1). Xử lí giống cây trồng; (2). Xông hơi: diệt sâu hại trong kho, nhà kính, trong đất; (3).

Dùng bả độc, vòng độc; (4). Tưới, xử lí đất; (5). Quét.

- Kỹ thuật sử dụng thuốc:

+ Dùng đúng thuốc

+ Dùng thuốc đúng lúc

+ Dùng thuốc đúng liều lượng và nồng độ

+ Dùng đúng cách

c. Những giải pháp hạn chế mặt tiêu cực của thuốc trừ sâu hóa học

- Ngăn ngừa tính chống thuốc, bao gồm (1). Dùng thuốc hợp lí: dùng thuốc trong hệ

thống IPM trên cơ sở điều tra dự báo cho từng loài sâu hại; (2). Có chiến lược thay

thế thuốc; (3). Dùng thuốc hỗn hợp.

Page 94: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

94

- Khắc phục hiện tượng tái phát dịch: giám sát kĩ thuật sử dụng thuốc, theo dõi diễn

biến của sâu hại và thiên địch, thay đổi loại thuốc và phối hợp với các phương pháp

quản lí khác nhằm điều hòa số lượng các loài trong lâm phần.

- Lợi dụng tính chọn lọc trong khi sử dụng thuốc. Đặc tính chọn lọc của thuốc BVTV

thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau: (1). Tính chọn lọc sinh lí; (2). Tính chọn lọc

sinh thái; (3). Tính chọn lọc thông qua cải tiến phương pháp sử dụng; (4). Tính chọn

lọc thông qua tập tính của dịch hại.

- Không lạm dụng và thận trọng trong dùng thuốc hóa học. Chỉ can thiệp bằng thuốc

hóa học khi thật sự cần thiết và không thể sử dụng biện pháp khác an toàn hơn. Chỉ

dùng thuốc với liều lượng tối thiểu để giảm mật độ sâu hại, chứ không hướng tới

việc diệt trừ 100% số sâu hại trong lâm phần. Khi dùng thuốc phải thực hiện nguyên

tắc “4 đúng” và tuyệt đối tuân thủ quy định của Nhà nước về các thuốc cấm và thuốc

hạn chế sử dụng được ban hành hàng năm.

4.2.5.4. Ưu nhược điểm của phương pháp hóa học

- Ưu điểm: Hiệu lực diệt từ nhanh, dập tắt dịch kịp thời; Dễ bảo quản và sử dụng; Có

hiệu quả kinh tế cao.

- Nhược điểm: Tính chọn lọc thấp; Dễ dẫn đến hiện tượng kháng thuốc và tái phát

dịch; Làm một số loài loài sâu thứ yếu trở thành loài sâu nguy hiểm hơn; Gây hại

cho các loài có ích, gây ô nhiễm môi trường và tồn dư thuốc trong sản phẩm thu

hoạch.

4.2.6. Phương pháp tổng hợp phòng trừ sinh vật hại (IPM)

4.2.6.1. Khái niệm IPM

IPM là từ viết tắt của 3 từ tiếng Anh: Integrated (tổng hợp), Pests (vật gây hại),

Management (quản lí, điều khiển).

IPM là sự phối hợp hài hòa các biện pháp riêng biệt trên cơ sở sinh thái hợp lí để giữ

cho mật độ loài gây hại dưới ngưỡng gây hại kinh tế.

Cây trồng – Sâu hại – Thiên địch là một khối phụ thuộc

4.2.6.2. Mục đích của IPM

IPM cố gắng phấn đấu đạt được yêu cầu của một nền kinh tế và xã hội hiên đại là:

+ Bảo vệ thực vật với mục tiêu: Năng suất cao và chất lượng tốt.

Page 95: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

95

+ Vì chất lượng môi trường: Bảo vệ sức khỏe con người và bảo vệ tài nguyên thiên

nhiên.

IPM nhằm bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của mọi người cũng như giảm thiểu đưa

thuốc hóa học vào môi trường tức là vào chuỗi thức ăn, môi trường nước, môi trường không

khí, môi trường đất. Trong IPM phòng trừ dịch hại luôn được hướng tới việc thực hiện

bằng phương pháp hiệu quả hơn, kinh tế hơn và bền vững sinh thái hơn.

4.2.6.3. Nội dung của IPM

Các nguyên tắc của IPM:

(1). Ngăn chặn kịp thời sinh vật hại xâm nhập vào khu vực bảo vệ.

(2). Khống chế sinh vật hại dưới mức gây hại kinh tế.

(3). Tiêu diệt sinh vật hại nguy hiểm

(4). Nâng cao sức đề kháng của cây trồng.

Ngoài ra, khi thực hiện IPM cần phải quán triệt:

+ Cho phép sâu hại tồn tại trên cây trồng ở mật độ dưới ngưỡng gây hai kinh tế.

+ Bảo vệ và khích lệ các thiên địch có sẵn để điều hòa số lượng sau hại trên cây trồng.

+ Phối hợp hài hòa các biện pháp để chăm sóc cây trồng khỏe và ngăn chặn không cho sâu

hại phát triển tự do quá ngưỡng gây hại kinh tế.

Các bước của IPM:

a. Điều tra theo dõi để xác định loài gây hại và thiên địch chủ yếu

b. Giám sát sinh vật gây hại

c. Xác định ngưỡng kinh tế và ngưỡng phòng trừ

d. Quá trình quyết định áp dụng các biện pháp phòng trừ

e. Đánh giá kết quả quản lí dịch hại

4.2.6.4. Ưu, nhược điểm của IPM

+ Ưu điểm: Giảm được chi phí BVTV (50%) và tăng năng suất cây trồng (khoảng

10%) và tạo sản phẩm nông lâm nghiệp an toàn; Bảo vệ được môi trường và các loài

thiên địch có ích; Biện pháp tổ chức thực hiện mang tính cộng đồng cao.

Page 96: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

96

+ Nhược điểm: Phải nâng cao ý thức và tập huấn nghiệp vụ rộng rãi để mọi người

cùng tham gia thực hiện

5. MỘT SỐ LOÀI SÂU HẠI RỪNG CHỦ YẾU

5.1. SÂU HẠI CÂY LÂM NGHIỆP

5.1.1. Nhóm sâu xám hại cây con

Nhóm sâu xám thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera). Ở

nước ta thường gặp 3 loài gây hại là:

Sâu xám nhỏ (Agrotis ypsilon Rottemberg) “greasy cutworm”

Sâu xám lớn (A. tokionis Butler)

Sâu xám vàng (A. segetum Schiffermỹller)

Bảng 5-01: Sự khác nhau của 3 loài sâu xám giống Agrotis

Loài

Đặc trưng

Sâu xám nhỏ

(Agrotis ypsilon)

Sâu xám lớn

(Agrotis tokionis)

S. xám bụng

vàng (Agrotis segetum)

Sâu

trưở

ng

thàn

h

Kích

thước

Thân 17 -

23mm

Sải cánh 40-

54mm

Thân 20 -

30mm

Thân 15 -

18mm

Sải cánh 32-

43mm

Cánh

trước

Màu nâu sẫm,

ngoài vân hình

thận có 3 vân

tam giác dài

nhọn ở gần mép

ngoài.

Màu nâu sẫm.

Mép ngoài có

vân thận và vân

vòng màu nâu

Vân ngang màu

nâu vàng. Vân

hình thận và vân

vòng. Không có

vân tam giác.

Page 97: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

97

Cánh

sau

Màu trắng xám,

mạch cánh và

mép màu nâu

đen, tua cánh

màu trắng xám

Mép ngoài màu

vàng xám. Có

mép nâu đen

khá rộng

Màu trắng xám,

mạch cánh và

mép cánh màu

nâu vàng

Râu đầu

con đực

Nửa gốc hình

răng lược kép,

còn lại hình sợi

chỉ

Dạng răng lược

kép, thuôn nhỏ

dần về phía cuối

Hai phần 3 hình

răng lược kép,

1/3 còn lại hình

sợi chỉ

Sâu

non

Kích

thước

Dài 37-50mm,

màu nâu xám

Dài 41-60mm,

màu nâu đen

Dài 33-43mm,

màu vàng

Lỗ thở Hình thoi Hình bầu dục Hình bầu dục

Nhộ

ng

Kích

thước

20-25mm 23-29mm 16-19mm

Ngoài ra để nhận biết sâu non và nhộng còn dựa vào một số đặc điểm sau (xem hình

5-01):

H×nh 5-01: VÞ trÝ l«ng trªn l­ng c¸c ®èt bông s©u non vµ phÇn cuèi bông cña nhéng

(1: A. ypsilon; 2: A. tokionis; 3: A. segetum)

Trong ba loài trên phá hại mạnh nhất là sâu xám nhỏ (Agrotis ypsilon Rott.).

Sâu xám nhỏ phân bố khắp trên thế giới và đã được nghiên cứu từ năm 1917. Nó là

loài đa thực, phá hại cây nông, lâm nghiệp như: Ngô, khoai tây, xu hào, bắp cải...; phi lao,

thông, bạch đàn...

a) Hình thái: (Hình 5-02)

Page 98: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

98

Hình 5-02: Sâu xám nhỏ

1. Sâu trưởng thành; 2. Trứng; 3. Sâu non; 4. Nhộng

+ Sâu trưởng thành: Thân dài 16-

24mm. Toàn thân màu xám sẫm hay màu

xám nhạt. Râu đầu con cái hình sợi chỉ,

râu đầu con đực có 1/2 hình răng lược kép,

1/2 hình sợi chỉ. Cánh trước dài hẹp màu

xám sẫm, mép ngoài có các vân hình tam

giác màu đen đỉnh quay vào phía thân. Ở gần

giữa cánh trước có một vân hình quả thận

màu nâu nhạt, lưng hình quả thận quay

vào phía thân. Ở giữa vân hình quả thận

có một vân hình tam giác màu đen đỉnh

quay ra phía ngoài. Giữa các vân hình tam

giác màu đen có 2 đường gợn sóng màu trắng xám chạy ngang cánh. Cánh sau rộng, màu

trắng xám.

+ Trứng: Hình quả bí đỏ có các đường vân chạy từ trên xuống. Trứng dài khoảng

0,5mm, mới đẻ màu trắng sữa hoặc vàng nhạt, sau chuyển sang màu hồng, sắp nở màu nâu.

+ Sâu non: Có 5-6 tuổi với kích thước và màu sắc khác nhau.

Về kích thước: tuổi 1 dài 2-3mm

tuổi 2 dài 3-7mm

tuổi 3 dài 7-12mm

tuổi 4 dài 12-25mm

tuổi 5 dài 25-40mm

tuổi 6 dài 40-55mm

Sâu non màu xám vàng hay màu nâu sẫm. Miệng hơi nhô về phía trước, đầu màu

nâu sẫm, có 2 điểm trắng. Giữa lưng có một đường chỉ vàng chạy dọc, hai bên thân màu

vàng sẫm hơn. Các đôi chân ngực có kích thước tăng dần về phía sau. Trên các đốt bụng

mỗi bên có 4 chấm màu nâu nhạt từ đó mọc ra một cái lông nhỏ.

+ Nhộng màu nâu vàng dài 18-25mm. Mầm cánh dài bằng 2/3 thân thể. Phía lưng

của ngực nhô ra. Cuối bụng nhộng có hai gai cong về hai phía.

b) Tập tính:

Page 99: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

99

Sâu xám nhỏ một năm có từ 6-7 vòng đời. Thời gian phát triển của các pha như sau:

Trứng 3 -15 ngày

Sâu non 25 - 31 ngày

Nhộng 7 - 20 ngày

Sâu trưởng thành 3 -10 ngày

Nhộng sâu xám nhỏ nằm ở trong đất. Sâu trưởng thành vũ hoá ra khỏi đất vào lúc

chập tối, sau độ vài giờ bắt đầu giao phối và đẻ trứng. Chúng hoạt động vào ban đêm, mạnh

nhất vào lúc 20 - 23 giờ. Ban ngày nó thường đậu ở bờ bụi, kẽ đất, ban đêm bay ra đẻ trứng

vào các cây con và cỏ dại. Mỗi bướm cái đẻ trung bình 1500 trứng, đẻ riêng lẻ hoặc đẻ

thành ổ nhỏ vài ba quả trên mặt lá ở gần sát đất, đôi khi đẻ vào kẽ đất. Sâu trưởng thành có

tính xu hoá mạnh, tính xu quang yếu. Mùi vị mà bướm ưa thích là dấm chua, bã rượu, tinh

bột đang lên men…

- Sâu non tuổi 1, đôi khi cả tuổi 2 sống tập trung ở trên lá, xung quanh gốc cây.

Chúng gặm lá dạng nham nhở, lỗ chỗ, bên ngoài thường có màng mỏng che phủ hoặc gặm

gốc cây còn nhỏ, cây non. Từ tuổi 3 trở đi sâu non sống ở trong đất, xung quanh gốc cây.

Ban đêm, đặc biệt từ 24 giờ trở đi chúng bò lên cắn ngang thân cây hoặc cành cây rồi rút

xuống sâu từ 2-3 cm để ăn. Mỗi sâu non có thể cắn vài cây non làm cho cây bị chết. Tuổi

gây hại mạnh nhất là tuổi 4-5. Chúng chỉ phá hại mạnh cây con hoặc cây mới trồng. Khi

khan hiếm thức ăn sâu non tuổi lớn có thể di chuyển theo đàn từ ruộng này sang ruộng

khác. Sâu xám thích sống ở đất thịt pha cát, còn đất thịt và đất sét không thích hợp đối với

chúng. Nói chung vườn ươm để nhiều cỏ dại, bón phân tươi thì mật độ sâu xám lớn.

Sâu non đẫy sức chui xuống đất và hóa nhộng ở độ sâu 2 - 3cm trong buồng nhộng

bằng đất.

c) Biện pháp phòng trừ

Sâu xám là loài sâu nguy hiểm đối với các vườn ươm và ruộng rau. Để hạn chế sự

phá hoại của chúng cần phải thường xuyên làm cỏ dại, bón phân hữu cơ ủ hoai, hay phân vi

sinh, không để hố phân, hố rác ở vườn ươm.

Khi xuất hiện sâu hại phải bắt sâu vào ban đêm hoặc sáng sớm đi theo rãnh luống

thấy cây hoặc cành bị kéo tụt xuống thì đào đất bắt sâu.

Dựa vào tính xu hoá của sâu trưởng thành làm bả chua ngọt hoặc bả độc như sau:

Page 100: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

100

Bả chua ngọt: 4 phần dấm + 4 phần đường mật + 1 phần rượu + 1 phần nước (có thể

thay dấm bằng nước gạo để chua hoặc khoai lang nấu chín để lên men). Cho mồi vào chậu

hoặc nhúng rơm rạ vào mồi nhử rồi để ở nơi thoáng gió, cách mặt đất 1m để thu bắt sâu

trưởng thành.

Bả độc: Mật mía 2 phần cộng với 3 phần bỗng rượu hoặc khoai lang luộc 1 phần, bã

đậu 1 phần, nước 1 phần. Các chất trên được trộn đều để 2-3 ngày cho lên men, sau đó cho

thêm 1% thuốc độc Dipterex (Trichlorfon, Chlorophos) hoặc Vibasu 10H (Diazinon). Bả

được đổ vào một cái chậu bằng sành hay thủy tinh. Chậu có đường kính 20cm cao 15cm,

dung dịch bả đổ cao 5cm. Chậu bả được đặt trên tấm gỗ có cọc cao 1,5m. Ban ngày đậy lại

ban đêm mở ra, mỗi tuần thay bả một lần.

Khi sâu non tập trung ở trên mặt đất (tuổi 1-2) có thể dùng các loại thuốc bột thấm

nước hoặc thuốc sữa phun đậm vào nơi cư trú của sâu là phần sát gốc cây, phun vào lúc

chiều mát. Khi sâu non sống ở dưới đất dùng bả độc để diệt. Cứ 30 kg rau xanh hay cỏ non

băm nhỏ trộn với 1 kg thuốc Dipterex và một ít nước trộn đều rắc cho 360m2. Ngoài ra có

thể dùng lá dâm bụt 1 kg ngâm với 3 hoặc 5 lít nước trong 6 hoặc 7 ngày. Sau đó lọc bỏ bã

lấy nước tưới vào gốc cây bị hại. Mật độ cần áp dụng biện pháp xử lý đất là 0,5-1con/m2.

5.1.2. Nhóm dế hại cây con

Các loài dế thuộc hai họ: Họ dế dũi (Gryllotalpidae) và Họ dế mèn (Gryllidae) thuộc

Bộ Cánh thẳng (Orthoptera). Ba loài đáng chú ý là Dế dũi, Dế màn nâu lớn và Dế mèn nâu

nhỏ.

5.1.2.1. Dế dũi (Gryllotalpa orientalis Burmeister)

a) Hình thái: (Hình 5-03)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 30-40 mm, màu nâu vàng hay mầu nâu sẫm. Đầu nhỏ

hình tam giác có 2 mắt đơn ở đỉnh đầu. Râu đầu hình sợi chỉ ngắn hơn thân. Mảnh lưng

ngực trước hình trụ, ở giữa có một vết lõm hình trái tim ngược màu nâu nhạt. Chân trước là

chân đào bới, chân sau có đốt đùi to khoẻ, mép ngoài đốt ống có 4 gai, các bàn chân có 3

đốt. Cánh trước rất ngắn, cánh sau khi không bay xếp lại như cái quạt giấy dài hơn thân.

Ống đẻ trứng không lộ ra ngoài và có 2 lông đuôi dài.

+ Trứng dài khoảng 2mm, rộng 1,2mm; mới đẻ màu trắng nhạt, lúc mới nở màu

xám.

Page 101: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

101

+ Sâu non: có 5 tuổi, mới nở có màu trắng sữa, sau chuyển dần sang màu nâu vàng,

đến tuổi 4 mầm cánh xuất hiện.

Hình 5-03: Các lọai dế (1. Dế dũi; 2. Dế mèn nâu lớn; 3. Dế mèn nâu nhỏ)

b) Tập tính

Dế dũi phá hoại từ tháng 4 đến tháng 10, mạnh nhất là tháng 5 đến tháng 6. Khi giao

phối con cái nằm trên con đực. Dế mẹ và dế con ban đêm thường dũi những đường hầm

ngang dọc gần mặt luống để ăn rễ cây làm ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ nẩy mầm.

Ban ngày dế dũi ẩn nấp dưới đất. Dế dũi có tính xu hóa mạnh, xu quang yếu. Ở Việt Nam

còn thấy xuất hiện loài dế dũi (G. unispina Saussure). Sâu trưởng thành khác với loài trên,

chân trước dài mảnh; mép ngoài đốt ống chân sau chỉ có 1 gai.

5.1.2.2. Dế mèn nâu lớn (Brachytrupes portentosus Lichtenstein)

a) Hình thái: (Hình 5-03)

+ Sâu trưởng thành có thân thể dài 40-50mm, rộng 13mm, màu nâu sẫm. Đầu và

mảnh lưng ngực trước phát triển to rộng hơn thân. Có 2 mắt đơn trong suốt nằm trên ngấn

trán. Râu đầu hình sợi chỉ dài bằng thân. Ở giữa mảnh lưng ngực trước có một ngấn chạy

dọc và hai bên ngấn có 2 vân hình ngọn giáo màu nâu nhạt. Chân sau là chân nhẩy, hai bên

đốt chày có 8 gai, cuối đốt ống có 4 cựa, bàn chân có 3 đốt. Cánh trên phủ hết bụng, cánh

sau chập lại thò ra ngoài. Mạch cánh trên của con cái hình mạng lưới, còn mạch cánh trên

của con đực phức tạp hơn vì có cơ quan phát âm. Con cái có ống đẻ trứng hình ngọn giáo

ngắn hơn cánh sau.

+ Trứng hình quả bí xanh, dài 4,5mm. Trứng đẻ thành đám ở cuối hang.

Page 102: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

102

+ Sâu non có 5 tuổi, lúc mới nở màu trắng xám, sau chuyển thành màu nâu xám, đến

tuổi 4, tuổi 5 biến thành màu nâu sẫm.

b) Tập tính:

Dế mèn nâu lớn phá hoại mạnh từ tháng 2 đến tháng 4. Dế trưởng thành giao phối

vào tháng 10, con cái đẻ trứng ở đáy hang. Sâu non từ tuổi 1 đến tuổi 3 thường sống tập

trung cùng một hang sâu khoảng 20cm, từ tuổi 4, tuổi 5 mỗi con đào một hang sâu từ 0,5-

1m. Trên miệng hang có nhiều đất vụn. Khi đào hang dế dùng đầu và chân trước để đội đất.

Lúc dế con còn nhỏ, dế mẹ kiếm thức ăn dự trữ ở trong hang. Ban ngày dế mèn nâu lớn

nằm ở trong hang, ban đêm chui ra cắn cây con để ăn. Thời kỳ giao phối dế cái và dế đực

sống chung với nhau một hang. Dế đực ban đêm thường bò lên cửa hang để phát âm. Dế

mèn nâu lớn có tính xu hóa mạnh, xu quang yếu. Dế mèn nâu lớn thường bị một loài ong ký

sinh được gọi là Ong xanh bắt dế.

5.1.2.3. Dế mèn nâu nhỏ (Gryllus testaceus Walker)

a) Hình thái: (Hình 5-03)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 18-20mm, rộng 7mm, màu nâu nhạt hay màu nâu

đen. Đầu và ngực rộng bằng thân, cũng có 2 mắt đơn nằm ở đỉnh đầu. Mảnh lưng ngực

trước cũng có các vân giống như dế mèn nâu lớn. Chân sau cũng là chân nhẩy nhưng đốt

ống bẹt hơn và hai bên có 14 gai, cuối đốt ống cũng có 4 cựa và các bàn chân đều có 3 đốt.

Cánh trên xếp vuông hai bên thân. Mạch cánh trên của con cái và con đực cũng phân biệt

giống như dế mèn nâu lớn. Con cái có ống đẻ trứng hình ngọn giáo dài hơn cánh sau.

+ Trứng dài 2,4-3,8mm, rộng 0,32-0,34mm, hình quả bí xanh.

+ Sâu non có 6 tuổi, lúc mới nở màu trắng xám, sau mỗi tuổi chuyển dần sang màu

nâu sẫm hoặc màu nâu đen.

b) Tập tính:

Dế mèn nâu nhỏ phá hại mạnh từ tháng 2 đến tháng 5. Dế đẻ trứng ở trong đất nhưng

khi nở ra chúng lại sống tập trung ở dưới các đám cỏ khô. Ở trong rừng dế này thường sống

ở trong lớp thảm mục. Đến mùa giao phối dế cái và đực cũng sống gần nhau, vào lúc 9 đến

12h đêm dế đực thường kêu ”rích rích”.

Dế mẹ và dế con ban ngày ẩn nấp ở dưới các đám cỏ khô, ban đêm bò ra cắn cây

con. Dế mèn nâu nhỏ có tính xu hoá mạnh, xu quang yếu.

Page 103: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

103

c) Các biện pháp phòng trừ dế

- Thường xuyên làm vệ sinh xung quanh vườn ươm... khi nhổ cỏ mang xa vườn ươm

không nên chất đống trong vườn ươm.

- Phải bón phân hữu cơ ủ hoai hoặc bón phân vi sinh, không để hố phân, hố rác ở

trong vườn ươm.

- Khi thấy xuất hiện nhiều hang dế mèn nâu lớn thì đào hang hoặc đổ nước xà phòng

bắt dế hoặc dùng thuốc Basudin 10H 20kg/ha hoặc có thể dùng thuốc Broma methane

(CH3Br) cho vào hang rồi lấp lại.

- Khi thấy xuất hiện nhiều cả ba loài dế thì làm bả độc: Dùng 40 phần rau tươi băm

nhỏ, trộn với 1 phần cám rang và một ít phân ngựa, sau đó cho thêm 1% thuốc độc Dipterex

hay Vibasu 10H.

Mỗi hecta đào từ 5-6 hố và hố có kích thước 404040 cm. Mỗi hố cho 1 kg bả độc

trên phủ cỏ. Ban đêm dế ra ăn bả sẽ chết.

Trước khi gieo ươm xử lý đất cục bộ với lượng 20kg/ha thuốc Diazinon 10H, cày

bừa kỹ rồi mới đánh luống. Trước khi gieo cần xử lý hạt.

5.1.3. Sâu hại các loài thông

Chi Pinus (thông) ở nước ta bao gồm các loài như Thông nhựa (Pinus merkusii),

Thông đuôi ngựa (Pinus massoniana), Thông ba lá (Pinus kesiya), Thông Caribê (Pinus

caribaea)… Sâu hại thông bao gồm các loài hại lá như Sâu róm thông, Ong ăn lá, Sâu đục

lá, Sâu đo, Sâu kèn, Sâu cuốn lá; các loài hại chồi ngọn như Sâu đục ngọn thông, Rệp và

Xén tóc hại thân cành. Trong số các loài sâu hại thông những loài sau đây là những loài gây

nhiều khó khăn cho công tác gây trồng rừng:

Sâu róm thông đuôi ngựa

Sâu róm 4 túm lông

Ong ăn lá thông

Xén tóc

5.1.3.1. Sâu róm thông đuôi ngựa (Dendrolimus punctatus Walker)

1. Vị trí phân loại

Page 104: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

104

Hình 5-04: Sâu róm thông đuôi ngựa

1. Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

Sâu róm thông đuôi ngựa (Dendrolimus punctatus Walker) thuộc họ Ngài kén hay

Ngài khô lá (Lasiocampidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera). Sâu này thường được gọi ngắn

gọn là Sâu róm thông.

2. Phân bố và tình hình phá hại

Theo tài liệu Trung Quốc Sâu róm thông đuôi ngựa phân bố từ sông Hoàng Hà trở

xuống. Ở nước ta loài này phân bố hầu hết các vùng trồng thông ở miền Bắc và miền

Trung.

Sâu róm thông đuôi ngựa là loài sâu nguy hiểm nhất đối với các rừng Thông đuôi

ngựa và Thông nhựa. Từ khoảng những năm 60 cho đến nay, hàng năm chúng đã gây ra các

trận dịch ở nhiều nơi, ăn trụi hàng nghìn hecta rừng thông. Trong những năm gần đây có xu

thế phát dịch với quy mô ngày càng lớn, chu kỳ dịch không ổn định. Các tỉnh thường xuyên

có dịch là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Thiệt hại do Sâu róm thông đuôi ngựa gây ra khá

lớn. Sau mỗi trận dịch có nhiều cây bị chết hoặc sinh trưởng kém khiến việc khai thác nhựa

phải dừng lại, ảnh hưởng xấu đến kế hoạch kinh doanh.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-04)

+ Sâu trưởng thành: Ngài cái dài 25-

35mm, ngài đực nhỏ hơn một chút, màu sắc

biến đổi từ màu trắng xám, màu nâu vàng hay

màu nâu sẫm tùy theo mùa. Râu đầu con cái

hình răng lược đơn, con đực hình răng lược

kép. Cánh trước lớn hơn cánh sau. Ở giữa

cánh trước có một chấm trắng nhỏ. Từ gốc đến

mép ngoài của cánh có 4 đường vân cong,

màu nâu sẫm nằm ngang cánh. Đặc biệt ở gần

mép ngoài của cánh trước có 8 chấm đen xếp

thành hình số 3.

+ Trứng: hình bầu dục, dài 1,8-

1,9mm, mới đẻ màu trắng xanh lơ, sau chuyển dần sang màu hồng nhạt, khi sắp nở màu nâu

sẫm.

+ Sâu non: có 6 tuổi, kích thước và màu sắc khác nhau:

Page 105: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

105

- Về kích thước: tuổi 1 thân dài 5 - 9mm

tuổi 2 thân dài 8 - 14mm

tuổi 3 thân dài 15 - 22mm

tuổi 4 thân dài 22 - 32mm

tuổi 5 thân dài 30 - 38mm

tuổi 6 thân dài 38 - 65mm

- Về màu sắc:

Sâu non tuổi 1 màu xám, giữa lưng có một đường chỉ vàng chạy dọc, hai bên tuyến

lưng có hai đường chỉ đen. Phía đầu sâu có 4 túm lông dài, cuối thân cũng có một túm lông

dài.

Sâu non tuổi 2 màu nâu hay màu đen nhạt. Trên lưng của các đốt ngực có 2 vằn lông

đen nằm ngang và trên đó có nhiều lông dài. Trên lưng của đốt bụng thứ 6 có khoang màu

vàng nhạt.

Sâu non tuổi 3 màu nâu hay màu đen nhạt có xen kẽ các chấm trắng. Trên lưng của

các đốt ngực vẫn có 2 vằn lông đen, giữa 2 vằn lông đen có màu vàng nhạt. Hai bên lưng

của các đốt bụng có các túm lông độc.

Sâu non tuổi 4, tuổi 5, tuổi 6 màu sắc không biến đổi mấy chỉ lớn lên về kích thước,

nhưng xung quanh đầu và thân có rất nhiều lông dài.

+ Nhộng: dài 22-27mm, màu nâu đen hay màu cánh gián. Nhộng nằm trong kén

bằng tơ. Kén dài 32-37mm, màu trắng xám, bên ngoài có nhiều lông độc.

b) Tập tính:

Trưởng thành cái có thể tiết pheromon để dẫn dụ ngài đực đến giao phối. Sau khi

giao phối sâu trưởng thành cái tiến hành đẻ trứng ngay. Trứng được đẻ thành nhiều hàng

trên lá thông. Mỗi con cái đẻ trung bình từ 300 - 350 trứng. Thời gian đẻ trứng chỉ kéo dài

2-3 ngày. Sâu trưởng thành có tính xu quang, thường hay bắt đầu đẻ trứng vào những cây ở

đỉnh đồi. Thời gian sống của pha trưởng thành khoảng 3-7 ngày.

Trứng cần khoảng 6-10 ngày cho sự phát triển phôi thai. Màu sắc của trứng thay đổi

từ trắng xanh sang màu nâu.

Page 106: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

106

Sâu non khi mới nở quay lại ăn gần hết vỏ trứng, chỉ để lại một ít. Vào tuổi 1 sâu

non sống tập trung trên một cành để ăn lá. Lúc đầu sâu non chỉ gặm phần biểu bì, để lại

phần lõi của lá, những lá của cành bị hại khô đi rủ xuống trông rất rõ. Sâu non tuổi 1, tuổi 2

thường sử dụng khả năng buông tơ để di chuyển theo gió. Khi lột xác sâu non thường quay

lại ăn gần hết xác. Từ tuổi 3 trở đi sâu non ăn rất mạnh, nó thường cắn bỏ 3-4cm ở phía đầu

lá, rồi bắt đầu ăn từ ngoài vào trong, sau 5-6 phút là hết lá. Sâu non tuổi 3-5 gây ra phần lớn

thiệt hại cho cây. Khi ăn no sâu non thường bò xuống gốc lá nằm nghỉ, đầu luôn luôn

hướng ra ngoài, nếu lúc này bị va chạm sâu non thường quẫy rơi xuống hay ngóc đầu chống

cự. Thời gian phá hại của sâu non 20-35ngày.

Sang tuổi 6, sâu non hoạt động chậm chạp, tìm nơi thích hợp để làm kén hoá nhộng.

Kén thường làm ở trên cành lá. Pha nhộng kéo dài khoảng 9-13 ngày.

Sâu róm thông 1 năm có 4 hoặc 5 vòng đời tùy theo từng nơi.

Khoảng nhiệt độ thích hợp của Sâu róm thông từ 25 - 300C và khoảng độ ẩm thích

hợp từ 80 - 86%. Trong năm Sâu róm thông thường hay phát dịch vào tháng 5, 6, 7, 8, 9 ở

những khu rừng từ 7 - 15 tuổi.

4. Thiên địch

Sâu róm thông bị nhiều loài côn trùng ký sinh và ăn thịt. Giá trị nhất là các loài côn

trùng ký sinh như: Ong tấm đen (Telenomus dendrolimi Matsumura), Ong tấm xanh

(Anastatus disparis Rusch) ký sinh trứng, Ruồi 3 vạch, Ruồi 4 vạch (Exorista spp.) ký

sinh sâu non. Côn trùng ăn thịt có Bọ ngựa xanh, Bọ xít ăn sâu (Sycanus croceovittatus

Dohrn) và các loài Kiến… ăn thịt sâu non. Ngoài ra phải kể đến một số loài chim như Bạc

má, Chim khách, Đỗ khuyên... Thời kỳ sâu non thường hay bị bệnh chết cứng trắng do Nấm

bạch cương (Beauveria bassiana) và bệnh chết thối do vi khuẩn Bacillus thuringiensis

hoặc virus gây ra.

5. Các biện pháp phòng trừ

Sâu róm thông là loài nguy hiểm đối với các rừng thông, thường cứ 2 năm, 2,5 năm

lại phát dịch một lần tùy theo điều kiện khí hậu của từng địa phương. Cho nên để ngăn chặn

các trận dịch của sâu róm thông trước hết phải tổ chức dự tính dự báo kịp thời, nhất là

những năm có khả năng phát dịch. Khi thấy mật độ sâu róm thông có xu hướng tăng lên từ

những thế hệ đầu năm cần tổ chức các biện pháp phòng trừ tổng hợp. Khi quyết định phòng

trừ nên dựa vào ngưỡng kinh tế: Trứng 882 trứng/cây, sâu non 575 con/cây với tuổi 1, 2, 3,

Page 107: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

107

4 và 87 con/cây với tuổi 5, 6, nhộng 6 con/cây. Các biện pháp điều tra giám sát sâu róm

thông bao gồm: Điều tra trên các ô tiêu chuẩn bằng phương pháp điều tra trực tiếp trên các

cây tiêu chuẩn hoặc điều tra gián tiếp bằng phương pháp ô hứng phân, điều tra bằng phương

pháp bẫy sâu trưởng thành như bẫy pheromon. Khu vực đặc biệt cần quan tâm là khu vực

rừng thông có tuổi 7-15 năm, trên sườn núi thấp ở độ cao 200-300m, hướng Đông Nam, nơi

có khí hậu khô nóng, khuất gió, đất nghèo xấu, thực bì tầng dưới kém phát triển.

Các biện pháp có thể áp dụng như sau:

Huy động nhân lực thu thập trứng, sâu non, nhộng giết đi.

Trứng của Sâu róm thông thường bị Ong mắt đỏ, Ong tấm xanh hoặc Ong tấm đen

ký sinh nên có thể áp dụng biện pháp tập trung ký sinh bằng cách đưa trứng của Sâu

róm thông vào khu vực có nguy cơ phát dịch trong các ô vuông, xung quanh có rắc

thuốc tiếp xúc để sâu non nở ra bò qua đó sẽ chết, còn từ những trứng bị ký sinh ong

sẽ bay vào rừng tiếp tục ký sinh các trứng khác của Sâu róm thông. Nếu có điều kiện

có thể gây nuôi Ong mắt đỏ hoặc Ong tấm xanh để diệt trứng sâu róm thông.

Sử dụng côn trùng ăn thịt bằng cách thu thập các trứng của bọ ngựa, bọ xít ăn sâu

hay các tổ kiến tập trung vào các ổ dịch.

Xúc tiến các biện pháp bảo vệ thiên địch như hạn chế sử dụng thuốc hóa học, bảo vệ

cây có mật, thảm thực vật mặt đất và thảm khô, cấm săn bắn chim, thú….

Sử dụng bẫy pheromon để bắt sâu trưởng thành đực, từ đó làm giảm tỷ lệ nở của

trứng Sâu róm thông.

Dùng chế phẩm Boverin với lượng 2 kg/ha hoặc BT với lượng 4g pha trong một lít

nước phun vào xung quanh ổ dịch.

Khi thấy mật độ sâu giảm chậm hoặc không giảm có thể dùng các loại thuốc độc

dạng bột thấm nước hoặc dạng sữa, phun sương vào thời kỳ sâu non tuổi càng nhỏ

càng tốt.

5.1.3.2. Ong ăn lá thông

1. Vị trí phân loại

Page 108: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

108

Hình 5-05: Ong ăn lá thông đầu vàng

1. Ong trưởng thành cái 2. Ong đực 3. Trứng 4. Sâu non 5. Kén

Các loài ong ăn lá thông thuộc họ Ong ăn lá (Diprionidae), bộ Cánh màng

(Hymenoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Các loài ong ăn lá thông phân bố ở nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Nga, Trung

Quốc, Ấn Độ, Thái Lan.…. Ở Việt Nam thấy có 2 loài:

Gilpinia marshalli Foroius phân bố chủ yếu ở miền Bắc.

Neodiprion biremis (Konow). phân bố chủ yếu ở miền Trung.

Sau sâu róm thông là các loài ong cũng thường gây ra các trận dịch đối với rừng thông.

Năm 1965, loài Gilpinia đã phát dịch ở lâm trường Hà Trung và Sim - Thanh Hoá. Năm

1980 - 1985 và năm 1992 - 1993, loài Neodiprion đã phát dịch ở vùng A Lưới, lâm trường

Tiền Phong thuộc Thừa Thiên Huế. Chúng cũng đã phá hại hàng trăm hecta rừng thông, và

chỉ phá hại rừng thông từ 4 - 8 tuổi.

ONG ĂN LÁ THÔNG ĐẦU VÀNG

(Gilpinia marshalli Foroius)

a) Hình thái: (Hình 5-05)

+ Sâu trưởng thành: Ong cái có thân

dài 8-9mm, màu nâu đen. Râu đầu hình răng

lược kép. Ong đực có thân dài 7mm, màu

đen bóng. Râu đầu hình lông chim. Ong đực và

ong cái đều có đặc điểm chung là:

- Có 3 mắt đơn xếp thẳng hàng giữa

hai mắt kép.

- Các cánh màu vàng nhạt, mắt cánh

màu nâu vàng.

- Trên lưng của các đốt bụng thứ 4, 5, 6,

7, 8 có dải màu nâu sẫm nằm ngang. Cuối bụng có một u nhỏ màu đen và 2 bên có 2 lông

nhỏ.

- Các đốt chậu và đốt đùi của chân màu đen, còn đốt ống và bàn chân màu vàng nhạt.

+ Trứng: hình bầu dục dài 1,8mm, màu trắng xám, lúc sắp nở màu vàng sẫm.

Page 109: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

109

Hình 5-06: Ong ăn lá thông đầu đen 1. Ong trưởng thành cái 2. Trứng

3. Sâu non 4. Kén

+ Sâu non có 3 đôi chân ngực và 8 đôi chân bụng, phân đốt không rõ ràng. Đầu màu

nâu vàng, trên lưng màu xanh hơi vàng. Mặt bụng màu vàng nhạt. Hai bên thân có hai

đường chỉ đen nối liền các lỗ thở.

+ Nhộng trần, màu nâu vàng nhạt nằm trong kén.

+ Kén dài khoảng 9mm, rộng 3mm. Kén làm bằng tơ lúc đầu màu trắng xám sau

chuyển sang màu nâu vàng.

b) Tập tính:

- Ong trưởng thành lúc vũ hoá thường cắn kén theo một đường nghiêng với trục dọc

một góc từ 20-250. Ong cái đẻ trứng dọc trên lá thông, mỗi lá khoảng 7-10 trứng.

- Sâu non mới nở sống tập trung. Nó chỉ gặm phần diệp lục còn để lại lõi lá. Các tuổi

sau này phân tán mỗi con một lá và ăn hết cả lá. Sâu non khi bị chạm mạnh thường cong

bụng lên và tiết ra chất nước màu vàng để tự vệ. Sâu non có 5 tuổi, khi đẫy sức thường làm

kén rải rác ở các gốc lá thông hay kẽ nứt của vỏ.

- Thời gian phát triển của nhộng kéo dài 10 -12 ngày.

- Ong Gilpinia một năm có 2 thế hệ.

Thế hệ 1 từ tháng 1 đến tháng 4.

Thế hệ 2 từ tháng 5 đến tháng 11.

ONG ĂN LÁ THÔNG ĐẦU ĐEN

(Neodiprion biremis (Konow))

a) Hình thái: (Hình 5-06)

+ Sâu trưởng thành: Ong cái có thân

dài 9-10mm, màu nâu vàng, đầu màu đen.

Râu đầu hình răng lược, dài 3mm, có 18 đốt.

Ong đực có thân dài 8mm, màu nâu đen. Râu

đầu hình lông chim. Ong cái và ong đực đều

có đặc điểm chung là:

- Có 3 mắt đơn xếp thành hình tam

giác bẹt nằm giữa 2 mắt kép.

Page 110: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

110

- Các cánh màu hơi vàng, mắt cánh màu nâu đen.

- Trên lưng của các đốt bụng thứ 4, 5, 6 có dải màu nâu sẫm nằm ngang. Cuối bụng

có một vết lõm.

- Trên lưng của các đốt ngực có 4 chấm đen đối xứng nhau.

- Ở cuối đốt bàn chân thứ nhất của chân sau có đệm màu đen.

- Đốt đùi và cuối đốt ống của chân màu đen còn các đốt khác màu vàng.

+ Trứng hình bầu dục, dài 1,5-1,7mm, lúc mới đẻ màu xanh lơ, khi sắp nở màu sẫm

hơn.

+ Sâu non rất giống loài Gilpinia chỉ có một số điểm khác là: đầu màu đen, hai bên

lưng có 2 đường chỉ đen.

+ Nhộng giống loài Gilpinia.

+ Kén: dài 10-11mm, rộng 4,5mm.

b) Tập tính:

- Ong trưởng thành sau khi vũ hoá đẻ trứng ngay. Khi vũ hoá, ong cắn kén thành một

đường ngang ở gần đầu kén. Ong cái thường đẻ trứng ở dọc các lá non, mỗi lá khoảng 6

trứng. Mỗi ong cái có thể đẻ trung bình 100 trứng. Thời gian đẻ trứng kéo dài 3-5 ngày.

Thời gian phát dục của trứng từ 5-6 ngày.

- Sâu non mới nở ra cũng chỉ ăn phần diệp lục, về sau mới ăn hết lá. Chúng thường

ăn từ 2-3 con trên một ngọn thông. Sâu non có 6 tuổi, thời gian ăn hại của sâu non kéo dài 1

tháng. Sâu non đẫy sức thường làm kén ở giữa lá thông.

- Ong Neodiprion một năm có 4 thế hệ.

4. Các biện pháp phòng trừ chung

- Bắt sâu non, kén cùng với sâu thông giết đi.

- Khi sâu non có nhiều có thể dùng các loại thuốc như: thuốc sữa 50% Dipterex

hoặc thuốc sữa Bassa pha với nồng độ 0,1 - 0,2% (hoặc thuốc sữa 20% Ofatox pha với nồng

độ 1%) phun sương để cùng diệt sâu thông và các loài sâu ăn lá khác.

5.1.3.3. Sâu đục ngọn thông

1. Vị trí phân loại

Page 111: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

111

Hình 5-07: Sâu đục ngọn thông lớn 1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non

4. Ngọn thông bị đục (bên trái do loài sâu lớn - bên phải do loài sâu nhỏ) 5. Nhộng

Sâu đục ngọn thông thuộc giống Evetria, họ Ngài cuốn lá (Tortricidae), bộ Cánh

vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Sâu đục ngọn thông phân bố khá rộng trên thế giới. Ở Việt Nam thấy xuất hiện 2

loài:

Sâu đục ngọn thông lớn (Evetria duplana Hb).

Sâu đục ngọn thông nhỏ (Evetria buoliana Schiff).

Các sâu đục ngọn thông phân bố hầu hết ở các tỉnh trồng thông.

Sâu đục ngọn thông thường phá hại mạnh đối với rừng thông đuôi ngựa từ 2-6 tuổi.

Mức độ phá hại có khác nhau tùy theo thời tiết từng vùng và tuổi rừng. Chúng không những

đục ngọn mà còn đục cả vào thân, cành non, đục quả non. Mức độ về thiệt hại quả có năm

lên tới 50-60%.

1. SÂU ĐỤC NGỌN THÔNG LỚN

(Evetria duplana Hb.)

a) Hình thái: (Hình 5-07)

+ Sâu trưởng thành có thân dài

13mm, rộng 3mm, màu hung hung nâu xám.

Râu đầu hình sợi chỉ, khi đậu đặt dọc trên

lưng.

Cánh trước có 3 đường vân màu

trắng xám nằm ngang chia cánh ra làm 4 phần

tương đối bằng nhau. Trên phần thứ 2 có một

chấm đen. Mép ngoài cánh trước và cánh sau

có lông hình tua cờ.

+ Trứng hình bầu dục, dài 0,5mm.

+ Sâu non đẫy sức dài khoảng

20mm, màu nâu hồng. Ở giữa mảnh lưng ngực

trước có vằn nâu vàng nằm ngang, giữa vằn có một vết trắng chạy dọc. Trên mỗi đốt bụng

của sâu non có 8 chấm màu nâu nổi rõ, mỗi chấm có một lông nhỏ. Chân bụng có một vòng

móc quặp vào.

Page 112: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

112

+ Nhộng màu nâu vàng, dài 10mm, rộng 2mm, phía cuối nhộng có 6 gai hình móc

câu.

b) Tập tính:

Sâu non lúc mới nở gặm vỏ non sau đó mới đục vào ngọn, chỗ vết đục có nhựa chảy

ra. Tùy theo vị trí vết đục của sâu non ở đầu ngọn hay gốc ngọn mà hướng đục đi lên hay đi

xuống. Trước khi hoá nhộng đục một lỗ thông với bên ngoài sau đó vào nhộng ở gần lỗ đó.

Do đó các ngọn bị hại thường héo vàng và cong xuống, rất dễ gẫy ở chỗ bị đục. Thời gian

phát triển của nhộng kéo dài 9-13 ngày. Sâu trưởng thành hoạt động vào ban đêm, có tính

xu quang mạnh. Nó đẻ trứng vào các ngọn non. Mỗi con cái có thể đẻ từ 75-100 trứng.

Sâu đục ngọn thông lớn phá hại mạnh từ tháng 2 đến tháng 5, nhất là những năm

mưa phùn kéo dài. Nó thường phá hại nhiều ở sườn Tây Nam và Nam.

Kết quả nuôi sâu cho thấy:

Ở nhiệt độ 28-290C, độ ẩm tương đối của không khí 85% thì thời gian của sâu

non là 17 ngày, nhộng sống từ 9-10 ngày, sâu trưởng thành sống 4 ngày.

2. SÂU ĐỤC NGỌN THÔNG NHỎ

(Evetria buoliana Schiff.)

Sâu non, nhộng, sâu trưởng thành nhỏ hơn loài trên. Sâu non màu hồng nhạt, trên các

đốt bụng không có chấm nâu. Nhộng có màu nâu vàng, phía cuối nhộng có 3 gai nhỏ hình

tam giác. Sâu trưởng thành màu nâu sẫm và mảnh hơn loài trên.

Loài này phá hại chủ yếu vào mùa đông. Sâu non đục vào các ngọn của cành già ở

rừng từ 6-8 tuổi. Sức phá hại không lớn.

3. Các biện pháp phòng trừ

Vào những năm sâu đục ngọn phát sinh nhiều đầu tháng 2, huy động nhân lực cắt

các ngọn bị hại đốt đi, hoặc dùng bẫy đèn bắt sâu trưởng thành.

Về thuốc hoá học có thể dùng Bi58 hoặc Bassa pha với nồng độ 0,05% phun 2-3 lần,

mỗi lần cách nhau 20 ngày, vào tháng 3.

5.1.4. Sâu xanh ăn lá Bồ đề (Pentonia sp.)

1. Vị trí phân loại

Page 113: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

113

Hình 5-08: Sâu xanh ăn lá bồ đề

1. Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

Sâu xanh ăn lá bồ đề (Pentonia sp.) gọi tắt là sâu ăn lá bồ đề thuộc họ Ngài thiên xã

(Notodontidae), bộ Cánh vẩy (Lepideptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Sâu ăn lá bồ đề phân bố chủ yếu ở các rừng cải tạo trồng bồ đề (Styrax tonkinensis

Pierre) thuộc tỉnh Phú Thọ, miền Bắc Việt Nam.

Từ năm 1960 đến nay đã gây ra một số trận dịch làm chết nhiều diện tích rừng.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-08)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 20-

25mm, phủ đầy lông màu nâu nhạt. Râu đầu

hình răng lược. Cánh trước có góc đỉnh hơi

nhọn.

+ Trứng hình bán cầu, mới đẻ có màu

trắng xám sau dần dần có nhiều chấm

hồng. Khi sắp nở có màu hồng loang lổ.

+ Sâu non có 4 tuổi. Tuổi 1, tuổi 2 có

màu trắng phủ nhiều lông tơ nhỏ. Tuổi 3 dài

khoảng 11mm có màu xanh lục như lá bồ đề,

giữa đỉnh đầu có một vạch dọc màu đen. Đến

tuổi 4 trên đầu sâu non có thêm hai vạch vàng chạy từ đỉnh xuống hai bên mắt, giữa đỉnh

đầu có thêm một vạch vàng nằm ngang. Dọc lưng sâu non có một vạch xanh sẫm, hai bên

tuyến lưng có hai đường chỉ vàng.

+ Nhộng màu cánh gián nằm trong kén tơ mỏng sát mặt đất.

b) Tập tính:

- Sâu ăn lá bồ đề một năm có 6-7 vòng đời gối nhau, nên trong rừng bồ đề hầu như

quanh năm lúc nào cũng có các pha sâu hại.

Bảng 5.02: Tóm tắt thời gian và kích thước của sâu ăn lá bồ đề:

Pha Trứng Sâu non Nhộng

Page 114: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

114

Thời vụ

Kích thước Tuổi 1, 2 Tuổi 3, 4

Hè thu (ngày) 5-6 5-6 8-10 10-11

Đông xuân

(ngày) 6-8 8-10 11-13 12-14

Kích thước

(mm) 1-1,5 2,7-11 11-33,5 20-22

- Sâu trưởng thành hoạt động ban đêm, nó thường đẻ trứng thành khối ở dưới lá hay

trên thân cây. Ban ngày sâu trưởng thành thường đậu ở mặt dưới lá.

- Sâu non nở ra sống tập trung gặm lá thành những lỗ nhỏ sau đó mới phân tán sống

lẻ tẻ trên cây và ăn lá thành từng mảng lớn. Sâu non đẫy sức chui xuống đất mùn nhả tơ kết

kén mỏng để hoá nhộng.

- Ổ dịch của sâu hại lá bồ đề thường nằm ở chân đồi, nơi có độ ẩm cao.

4. Các biện pháp phòng trừ

Để phòng trừ sâu hại lá bồ đề trước hết cần điều tra dự tính dự báo mật độ sâu hại.

Sau đây là một số chỉ tiêu định hướng đối với sâu hại lá bồ đề:

Đối với rừng bồ đề từ 1-3 tuổi: 1000 trứng/cây không bị ký sinh; 250 sâu non tuổi

3/cây; 1,5 nhộng/m2 đất thì cây có khả năng bị ăn trụi lá từ 75-100%. Đối với rừng tuổi 4

trở lên thì các mật độ trên sẽ nhân gấp đôi. Theo kinh nghiệm ngưỡng phòng trừ bằng

khoảng 50% mật độ kể trên.

Khi mật độ sâu đạt ngưỡng phòng trừ thì tiến hành các biện pháp phòng trừ như

dùng các loại thuốc sữa hoặc thuốc bột thấm nước pha theo nồng độ chỉ dẫn, tiến hành phun

sương. Tuy nhiên khi thấy pha trứng và pha sâu non bị ký sinh trên 50% thì ổ dịch không

lan tràn. Khi gặp mưa kéo dài mật độ sâu cũng giảm rõ rệt.

5.1.5. Ong ăn lá mỡ

1. Vị trí phân loại

Ong ăn lá mỡ (Shizocera sp.) thuộc họ ong ăn lá (Argidae), bộ Cánh màng

(Hymenoptera).

Page 115: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

115

Hình 5-09: Ong ăn lá mỡ 1. Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng (Kén)

2. Phân bố và tình hình phá hại

Ong ăn lá mỡ thường phân bố ở các rừng mỡ cải tạo thuộc các tỉnh: Yên Bái, Phú

Thọ, Nghệ An, Hà Tĩnh...

Năm 1967, ong đã phát dịch ở các rừng mỡ thuộc lâm trường Đồi Giòng - Phú Thọ.

Năm 1968, ong lại phát dịch ở các rừng mỡ thuộc lâm trường Cầu Hai - Phú Thọ,

lâm trường Sông Hồng - Yên Bái và lâm trường Hương Sơn - Hà Tĩnh. Nó đã ăn trụi hàng

trăm hecta rừng mỡ.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-09)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 15-

20mm, màu xanh đen. Râu đầu hình răng

lược, ngắn hơn thân. Hai mắt kép lồi to, 3 mắt

đơn xếp thành hình tam giác ở đỉnh đầu.

Cánh màu hơi vàng, mắt cánh màu nâu đen.

Có thể nhìn rõ 8 đốt bụng. Ống đẻ trứng của

ong cái hình răng cưa, có chiều dài 1,2-

1,5mm, rộng từ 0,4-0,6mm.

+ Trứng hình quả chuối, màu trắng ngà,

dài 1,7mm, chỗ rộng nhất 0,5mm.

+ Sâu non từ lúc mới nở đến tuổi 3 màu

vàng nâu, nhưng đến tuổi cuối cùng trên lưng màu vàng nâu sẫm hơn trông như bôi dầu

luyn và có mảnh lưng đốt bụng cuối hóa cứng, có màu đen. Sâu non có 3 đôi chân ngực, 8

đôi chân bụng nhưng đôi thứ 7 thoái hoá. Sâu non đẫy sức dài 26-36mm.

+ Nhộng là loại nhộng trần nằm trong buồng nhộng ở dưới đất. Buồng nhộng làm

bằng đất có hình bầu dục dài 15-17mm, rộng từ 6-8mm, phía trong nhẵn, màu đen bóng.

b) Tập tính:

- Sâu trưởng thành vũ hoá vào giữa tháng 3 và giữa tháng 9 hàng năm. Sau khi vũ

hoá 1 tuần thì giao phối và đẻ trứng. Khi đẻ trứng ong cái bò đi bò lại trên gân chính dưới lá

một vài lần và hai râu đầu luôn luôn đập xuống phiến lá. Khi hai râu đầu chạm vào mép lá

Page 116: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

116

thì nó quay lại đẻ trứng từ ngọn lá trở vào. Ong cái dùng ống đẻ trứng lách vào lớp biểu bì

sát hai bên gân chính dưới lá để đẻ. Các trứng được đẻ xít nhau, đầu quay vào gân chính.

Nhìn toàn khối trứng là một vết rộp hình chữ nhật. Khi trứng sắp nở, vết rộp trở thành màu

nâu rồi đen lại.

- Ổ trứng đẻ cách gốc lá từ 2/5 đến 4/5 chiều dài lá. Chiều dài ổ trứng khoảng 3,6cm

9%. Số lượng trứng đẻ trong một ổ trứng là 50 trứng 8%.

Sâu non nở ra sau vài giờ bắt đầu ăn lá. Tuổi 1, tuổi 2 chỉ ăn phần thịt lá, bỏ lại tất cả

các gân to nhỏ. Tuổi 3, tuổi 4 ăn hết lá chỉ để lại một ít gân chính. Sâu tuổi 5 ăn hết cả lá và

có khi còn gặm cả vỏ non. Sâu non có tập tính ăn tập trung, nó thường nằm xít nhau, đầu

quay ra xung quanh mép lá và ăn lùi từ đầu lá vào gốc lá. Khi bị chạm vào sâu non thường

tiết ra chất nhờn màu vàng để tự vệ. Thời gian phá hại của sâu non ở trên cây kéo dài

khoảng 1 tháng. Khi sâu non đủ lớn nó bò theo thân cây hoặc rơi từ lá xuống đất để vào

nhộng. Nhộng làm ở xung quanh gốc cây, cách gốc cây khoảng 1m và sâu khoảng 10cm.

Trong một năm sâu hại lá xuất hiện ở trên cây 2 lần vào tháng 4, tháng 5 và tháng

10, tháng 11.

Ong ăn lá mỡ thường hay phát dịch ở rừng mỡ mới khép tán có độ tàn che từ 0,8-0,9

ở các đồi thấp có độ dốc nhỏ hơn 150. Ong ăn lá mỡ thường phá hại mạnh nhất ở sườn

Đông Nam, ở rìa rừng mức gây hại cũng nhiều hơn ở bên trong.

Trong tháng 5 có những ngày nắng gắt, sâu non thường nằm im dưới lá, có khi bị

chết hàng loạt.

4. Các biện pháp phòng trừ

Vào đầu tháng 3, tiến hành xới đất xung quanh các gốc bị hại của năm trước, xới sâu

từ 6-10cm và rộng hơn hình chiếu đứng của tán, vừa xới vừa bắt kén giết đi.

Trước lúc sâu non xuống đất vào nhộng từ 2-3 ngày có thể dùng thuốc Basudin hoặc

Padan bón xung quanh gốc cây theo diện tích tán lá với lượng từ 20kg/ha (2g/m2) và đặt

vòng dính trên cây.

Vào đầu tháng 4, dùng câu liêm giật những lá có ổ trứng hoặc những lá có sâu non

rơi xuống giết đi.

Khi sâu non xuất hiện nhiều có thể phun thuốc Diazinon hay Padan với lượng từ 20-

25kg/ha, phun vào buổi sáng sớm.

Page 117: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

117

Hình 5-10: Sâu đo ăn lá lim

1. Sâu trưởng thành đực 2. Trưởng thành cái 3. Trứng 4. Sâu non 5. Nhộng

Bảo vệ các tổ kiến vống và kiến cong đuôi. Cấm săn bắn chim thú trong rừng mỡ.

Phòng trừ ong ăn lá mỡ phải tuân theo quy trình do bộ lâm nghiệp ban hành ngày

26/11/1979 số 1648 QĐKT.

5.1.6. Sâu đo ăn lá Lim

1. Vị trí phân loại

Sâu đo ăn lá cây Lim xanh (Erythrophloeum foridii Oliv) có tên khoa học là Buzura

suppressaria Guenée thuộc họ Sâu đo (Geometridae), bộ cánh vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Theo tài liệu của Trung Quốc, loài này phân bố ở các tỉnh phía Nam sông Hoàng Hà

như: Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Tứ Xuyên.

Ở Việt Nam, loài này xuất hiện ở các rừng Lim cải tạo của các tỉnh Lạng Sơn, Quảng

Ninh, Phú Thọ, Thanh Hoá, Nghệ An... và một số tỉnh miền Trung khác.

Sâu đo ăn lá lim là loài đa thực, ăn nhiều loài cây như: Lim xanh, Trẩu, Chè, Sở,

Sơn…

Từ những năm 1963 trở lại đây sâu đo đã gây ra các trận dịch như:

- Năm 1963, ở lâm trường Như Xuân - Thanh Hoá.

- Năm 1964-1965, ở lâm trường Tam Đảo - Vĩnh Phúc.

- Năm 1968, ở lâm trường Hữu Lũng - Lạng Sơn.

- Các năm 1977, 1978, 1980, 1981, ở lâm trường Thống Nhất - Quảng Ninh...

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-10)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 20-

24mm. Toàn thân màu trắng xám có lẫn các

lông đen, đặc biệt phía cuối thân có túm lông

dài màu vàng xám. Râu đầu con cái hình sợi

chỉ, còn con đực hình răng lược. Cánh

trước hình thang nhọn và ở gần giữa mép

ngoài có một đám lông màu tối hơn. Gần gốc

và mép ngoài của 2 cánh con đực có hai

Page 118: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

118

đường vân màu nâu sẫm nằm ngang cánh, ở con cái các đường vân này mờ. Mép ngoài của

2 cánh có lông hình tua cờ màu vàng xám.

+ Trứng hình trống màu xanh lơ hay vàng nhạt, khi sắp nở chuyển thành màu xám

đen.

+ Sâu non lúc mới nở màu nâu nhạt, sau đó biến thành màu xanh. Khi đến tuổi cuối

cùng màu sắc biến đổi nhiều: nâu sẫm, nâu xanh, nâu xám hay xanh nhạt tùy theo hoàn

cảnh. Sâu non đẫy sức dài 70mm có đầu màu râu nhiều chấm lõm, trên mảnh lưng ngực

trước có một vằn cứng nằm ngang, trên lưng của đốt bụng thứ 8 có mảng đen to, các đốt có

nhiều vết rạn nằm ngang. Sâu non có 3 đôi chân ngực và 2 đôi chân bụng ở đốt thứ 6 và thứ

10.

+ Nhộng: Nhộng cái dài 26mm, nhộng đực dài 22mm, màu nâu đen. Ở hai bên đầu

của nhộng có 2 gai nhỏ, phía cuối bụng có một gai hình lưỡi mác và 2 bên đốt bụng có 2 gai

nhỏ.

b) Tập tính:

Sâu trưởng thành vũ hoá vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 và cuối tháng 6 hàng năm.

Trong ngày nó thường vũ hoá nhiều từ 6 giờ chiều đến 10 giờ đêm. Sau khi vũ hoá không

lâu, sâu trưởng thành bắt đầu giao phối và đẻ trứng. Trứng được đẻ thành khối trong các

khe nứt của vỏ cây hoặc dưới lá gần gốc cây. Trên mỗi khối trứng có phủ một lớp lông màu

vàng xám do lông ở cuối bụng rụng ra. Chiều dài của mỗi khối trứng dài 15-20mm. Thời

gian đẻ trứng của sâu trưởng thành từ 1-2 ngày và mỗi con cái đẻ trung bình 1.500 trứng.

Sâu trưởng thành có tính xu quang mạnh, ban ngày thường đậu ở các cây bụi quanh gốc

lim.

Sâu non mới nở chỉ gặm mép lá, sau dần dần mới ăn hết lá. Khi ăn hết lá thường nhả

tơ để di chuyển nhờ gió. Sâu non phát triển đầy đủ bò theo thân cây xuống gốc nghỉ để

chuẩn bị vào nhộng.

Nhộng làm ở dưới đất cách gốc cây bị hại khoảng nửa mét và sâu độ 3cm.

Sâu đo ăn lá lim một năm có 2 vòng đời và qua đông ở giai đoạn nhộng.

Sâu non ăn hại vào tháng 3, tháng 4 và vào tháng 7, tháng 8.

4. Các biện pháp phòng trừ

Dùng bẫy đèn bắt sâu trưởng thành.

Page 119: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

119

Vào cuối tháng 1, cuốc xung quanh các gốc cây bị hại bắt nhộng giết đi.

Khi sâu phát sinh nhiều có thể dùng các loại thuốc sữa 50% Dipterex hoặc Bassa pha

với nồng độ 0,2% phun sương vào buổi chiều.

Ngoài ra còn có thể đặt vòng dính trên các thân cây có sâu hại để giết sâu non sắp

vào nhộng.

5.1.7. Một số loài sâu hại cây thuộc phân họ Tre

5.1.7.1. Châu chấu tre

1. Vị trí phân loại

Châu chấu tre lưng vàng (Ceracris kiangsu Tsai).

Châu chấu tre lưng xanh (Ceracris nigricornis Walker).

Châu chấu tre chân xanh (Hieroglyphus tonkinensis Bol).

thuộc họ Châu chấu (Acrididae), bộ Cánh thẳng (Orthoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Theo tài liệu Trung Quốc, các loài châu chấu tre phân bố ở các tỉnh Quảng Đông,

Quảng Tây, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Đài Loan...

Ở Việt Nam thấy xuất hiện ở các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên

Quang, Hoà Bình, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An... Nó ăn hại tre, nứa, giang, vầu và

cây nông nghiệp như ngô, lúa, mía...

Năm 1962, đã xảy ra trận dịch châu chấu ở huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên ăn

trụi 100 ha rừng tre.

Trong những năm từ 1980-1990, ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Thanh Hoá

thấy xuất hiện một trận dịch nhưng diện tích không lớn.

Tháng 6, tháng 7 năm 1997, châu chấu tre đã phát dịch ăn trụi 120 ha rừng luồng và

5 ha ngô, lúa, mía ở lâm trường Lương Sơn tỉnh Hoà Bình.

3. Hình thái của các loài

Châu chấu tre lưng vàng (Ceracris kiangsu Tsai)

Page 120: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

120

Hình 5-11: Châu chấu tre lưng vàng

1 + 2. Sâu trưởng thành 3. Trứng

Hình 5-12: Châu chấu tre chân xanh

1. Sâu trưởng thành 2. Sâu non

+ Sâu trưởng thành có thân dài

33mm, con đực nhỏ hơn. Toàn thân màu xanh

vàng. Đầu hơi nhọn. Râu đầu hình sợi chỉ có 26

đốt màu vàng, các đốt cuối màu vàng nhạt.

Trên mảnh lưng ngực trước có 3 đường vân

màu nâu đen nằm ngang. Từ đỉnh đầu đến

giữa mảnh lưng ngực trước có một đường sọc

màu vàng rất rõ. Đốt đùi chân sau to, cuối

đốt đùi có một đốm đen, đốt ống chân có 2

hàng gai bên ngoài có 14 cái, bên trong có 15

cái. Hai mép sau của cánh trước màu vàng nên khi không bay cánh xếp lại thành hình mái

nhà tạo ra một đường sọc vàng chạy dọc lưng, từ đó có tên là châu chấu tre lưng vàng.

+ Trứng hình quả bí xanh dài 6,8mm, trên vỏ có nhiều vân hình mắt lưới. Trứng

được đẻ thành khối ở dưới đất, xung quanh có màng bao bọc, phía trên khối trứng có một

vật che hình tròn màu đen bóng.

+ Sâu non: có 5 tuổi.

Tuổi 1 có thân dài 8-12mm, chưa có mầm cánh.

Tuổi 2 có thân dài 12-15mm, đã có mầm cánh.

Tuổi 3 có thân dài 15-18mm, mầm cánh màu nâu.

Tuổi 4 có thân dài 21-23mm, mầm cánh dài 3mm.

Tuổi 5 có thân dài 29-30mm, mầm cánh dài 9mm.

Châu chấu tre lưng xanh (Ceracris nigricornis Walker)

Châu chấu tre lưng xanh về hình thái gần giống với châu chấu tre lưng vàng chỉ khác

một điểm dọc lưng có sọc màu xanh lục rộng

hơn nên gọi là châu chấu tre lưng xanh. Loài

này thường sống lẫn với loài trên.

Châu chấu tre chân xanh (Hieroglyphus

tonkinensis Bol)

+ Sâu trưởng thành: Con cái có thân

dài 45-50mm, con đực có thân dài 38-

Page 121: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

121

40mm. Nhìn chung toàn thân con cái và con đực có màu xanh lam hơi vàng. Đầu không

nhọn. Râu đầu hình sợi chỉ có 28 đốt nửa trong màu hơi vàng, nửa ngoài màu nâu đen. Đốt

đùi và đốt ống của chân trước và chân giữa màu xanh đậm. Đốt đùi chân sau màu xanh hơi

vàng, đặc biệt đốt ống màu xanh lam có 9 đôi gai nên có tên là châu chấu tre chân xanh.

4. Tập tính chung của châu chấu

Các loài châu chấu tre 1 năm có 1 vòng đời, qua đông ở pha trứng nằm dưới đất. Đến

tháng 4 năm sau trứng nở. Sự phát dục của trứng phụ thuộc rất rõ vào nhiệt độ và địa hình:

Cứ lên cao từ 100-200m thời gian trứng nở chậm đi 2-3 ngày.

Nếu ở sườn dương, đất thịt nhẹ pha cát, khô thực bì thưa thì trứng nở sớm hơn.

Ban ngày nhiệt độ của đất trên 240C thì sâu non chui ra khỏi đất nhiều nhưng khi

nhiệt độ tăng lên 260C thì sâu non không chui ra nữa.

Sâu non chui ra khỏi đất nhiều nhất vào lúc từ 15-17 giờ. Sâu non tuổi 1, 2 ăn lá tre

nhỏ và cỏ dại, từ tuổi 3 trở đi ăn các lá ở trên ngọn.

Sâu trưởng thành giao phối và đẻ trứng vào tháng 8. Trước lúc đẻ trứng thường ít ăn,

ít hoạt động chuyển từ cây cao xuống ăn cây thấp và cỏ dại. Sâu trưởng thành thường đẻ

trứng ở sườn Nam nơi có đất xốp, thực bì thưa. Con đực sau khi giao phối chết ngay và con

cái sau khi đẻ trứng xong cũng chết nên người ta dựa vào đặc điểm này để đánh dấu những

nơi châu chấu đẻ trứng.

Các loài châu chấu tre đều có tập tính sống thành đàn. Các ổ trứng của châu chấu

thường bị các sâu ban miêu ăn hại.

5. Các biện pháp phòng trừ chung

Muốn diệt châu chấu tận gốc trước hết phải điều tra nắm vững nơi chúng đẻ trứng.

Muốn biết nơi chúng đẻ trứng ta dựa vào các đặc điểm sau:

Châu chấu thường đẻ trứng ở sườn dương, nơi có thực bì thưa, đất xốp.

Nơi có nhiều xác châu chấu cái.

Trên mặt đất thấy có nhiều vật lồi màu đen hình tròn và trên đó có nhiều sâu

thầy cúng (Epicauta) hoạt động.

Khi đã biết nơi đẻ trứng cần đánh dấu theo dõi lúc sâu non chui ra vào tháng 4. Bắt

giết hoặc dùng thuốc Diazinon 50EC hay Supracid 40EC với liều 1kg/ha. Khi sâu non vừa

Page 122: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

122

Hình 5-13: Vòi voi đục măng

1 . Sâu trưởng thành đực 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

chui ra khỏi đất, dùng ngay thuốc sữa 50% Dipterex hoặc thuốc sữa 50% Bassa pha với

nồng độ 0,5% phun vào ngày nắng ấm.

Vì châu chấu chui ra khỏi đất không đều và kéo dài nên cần phun 2-3 lần mới có

hiệu quả.

Ngoài ra có thể dùng thuốc vi sinh MF (Metarrhizium flavoriridae) với liều lượng 5

kg/ha và cho thêm 1% dầu thực vật để phun.

5.1.7.2. Vòi voi đục măng (Cyrtotrachelus longimanus Fabricius)

1. Vị trí phân loại

Vòi voi đục măng (Cyrtotrachelus longimanus Fabricius) thuộc họ Vòi voi

(Curculionidae), bộ Cánh cứng (Coleoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Vòi voi đục măng phân bố khắp miền Bắc nước ta. Cũng giống như châu chấu tre,

nó phá hại nhiều loài cây như: Tre, Nứa, Mai, Diễn, Luồng, Hóp... Hàng năm Vòi voi đục

măng đã đục vào măng của các loài cây trên làm giảm đáng kể đến số lượng và chất lượng

tre nứa.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-13)

+ Sâu trưởng thành có kích thước thân

thể biến đổi từ 30-50mm. Toàn thân màu nâu

nhạt hay nâu hồng bóng. Râu đầu hình

chuỳ đầu gối có 8 đốt, đốt cuối cùng hình tam

giác và có nhiều lông màu vàng xám. Đầu kéo

dài thành ống vòi (như vòi voi) màu đen, trên

ống vòi của con đực có 2 hàng gai nhỏ.

Mảnh lưng ngực trước hình viên trụ rắn

chắc.

Cánh cứng ngắn hơn bụng và trên

cánh có 5 đường rãnh chạy dọc. Các đốt của

chân hơi bẹt, cuối đốt ống có một cựa

cong sắc. Bàn chân có 4 đốt, đốt thứ 3 to và

Page 123: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

123

chẻ đôi. Đặc biệt chân trước của con đực rất dài, dài gấp 2,5 lần chân trước của con cái;

phía dưới đốt ống có rất nhiều lông vàng, mịn để ôm lấy con cái khi giao phối.

+ Trứng hình bầu dục, dài 3,4-4mm, màu trắng sữa.

+ Sâu non: màu vàng nhạt, thân thể béo mập, không có chân. Đầu màu nâu sẫm, trên

mảnh lưng ngực trước có vân cứng hình tam giác màu nâu sẫm. Sâu non đẫy sức dài 30-

35mm.

+ Nhộng dài 40-50mm, màu trắng xám. Nhộng nằm trong buồng nhộng. Buồng

nhộng làm bằng đất dài 50-60mm, rộng 30-40mm, vách dày 4-5mm.

b) Tập tính:

Vòi voi đục măng một năm có một vòng đời. Sâu trưởng thành qua đông ở trong

buồng nhộng, mãi đến tháng 6, tháng 7 năm sau mới chui ra khỏi đất, sau đó giao phối và

đẻ trứng ngay. Sâu trưởng thành khi đẻ trứng thường bò từ ngọn măng xuống tìm chỗ thích

hợp, dùng miệng gặm một lỗ và đẻ vào đó 1 trứng. Vị trí đẻ trứng thường cách mặt đất từ 1-

1,7m, tùy theo chiều dài của măng. Thời gian đẻ trứng kéo dài 3-4 ngày. Thời gian của pha

trứng từ 4-7 ngày. Mỗi con cái đẻ từ 8-10 trứng.

Sâu non nở ra đục từ dưới lên, khi đục tới đỉnh măng thì cũng vừa kết thúc pha sâu

non. Sâu non đục một một lỗ gần 10mm chui ra, rơi xuống đất để hoá nhộng. Thời gian

phát triển của sâu non từ 22-24 ngày. Chỗ vào nhộng thường cách gốc măng từ 0,4-2m và

sâu từ 20-25cm.

Thời gian của pha nhộng kéo dài trên dưới 1 tháng, pha trưởng thành từ 8-9 tháng.

Do thời gian sâu trưởng thành chui ra khỏi đất khác nhau, thường kéo dài tháng 6 đến tháng

9, nên thời gian đẻ trứng cũng kéo dài. Sâu trưởng thành có tính giả chết mạnh. Vòi voi đục

măng phá hại mạnh vào các tháng cuối hè đầu thu nhất là các tháng có lượng mưa trung

bình từ 200-300mm, nhiệt độ trung bình từ 27-300C.

Vòi voi đục măng đẻ trứng và phá hại mạnh những cây măng có từ 5-45 ngày, hàm

lượng nước trong măng trên 80%. Nó phá hại nhiều nhất là măng tre hóp (Bambusa

multiplex Racuschol) chiếm đến 68% so với các loại tre khác. Nó phá hại măng ở trong

rừng nhiều hơn ở rìa rừng.

4. Các biện pháp phòng trừ

Page 124: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

124

Hình 5-14: Mọt tre Dinoderus

minutus 1. Mọt trưởng thành 2. Đoạn tre bị hại: a - Lỗ vũ hóa b - Lỗ mọt con c - Hang mọt con d - Hang mọt mẹ

Đào đất xung quanh kết hợp với vun măng bắt nhộng, sâu trưởng thành giết đi. Chú

ý lợi dụng tính giả chết để bắt sâu trưởng thành. Dùng dao miết chết trứng trên măng. Bọc

bảo vệ măng.

Khi phát sinh nhiều có thể dùng thuốc nội hấp Bi58 pha với nồng độ 0,05% phun

hoặc quét lên măng từ tháng 6 trở đi. Quét thuốc Trichlorfon 50% pha loãng 3% vào hốc có

trứng; Phun loại thuốc trên với nồng độ 1‰.

5.1.7.3. Mọt tre (Dinoderus minutus Fabricius 1775)

a) Hình thái: (Hình 5-14)

+ Mọt trưởng thành có thân dài 2-

3,4mm, màu nâu hồng hoặc nâu đen. Râu đầu

hình chùy có 10 đốt, 3 đốt chùy có lông màu

vàng. Mảnh lưng ngực trước hơi nhô cao có

chiều dài gần bằng chiều rộng, bề mặt có

những chấm tròn xếp sát nhau. Phía trước của

mảnh lưng ngực trước có những hàng gai xù

xì, hàng gai thứ nhất có 8 cái. Ở giữa phần

sau của mảnh lưng ngực trước có 2 vết lõm

hình ô van tương đối rõ. Ở phần gần mép sau

của cánh trước (phần gần đường phân cánh

ở giữa lưng) có các chấm xếp thành hàng,

nhưng các chấm ở xa đó lại không thẳng hàng. Giữa các hàng chấm có lông vàng thưa, càng

về cuối cánh, lông càng dầy và xếp thành hàng rõ rệt.

+ Trứng hình quả bí đao ngắn màu trắng sữa.

+ Sâu non màu trắng sữa có 3 đôi chân ngực phát triển.

+ Nhộng màu trắng sữa.

b) Tập tính:

Mọt trưởng thành xâm nhập vào tre nứa qua mặt cắt ngang, cắt dọc và chỗ sây sát

của vỏ. Ban đầu mọt mẹ đào một hang sâu từ 3-5cm vuông góc với mạch tre. Sau đó mọt

Page 125: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

125

mẹ đẻ trứng vào các ống mạch tre bị đứt có đường kính lớn hơn 100-130m rồi dùng mùn

tre bịt lại. Mỗi mọt mẹ đẻ từ 50-90 trứng.

Sâu non nở ra gặm các đường hang song song với mạch tre, đôi khi các đường hang

này đan chéo nhau ngoằn ngoèo. Trong đường hang của sâu non chứa đầy mùn tre. Khi sâu

non đủ lớn chúng vào nhộng ở cuối đường hang.

Sau khi vũ hoá, mọt trưởng thành còn lưu lại ở đường hang từ 2-3 ngày, rồi mới đục

một lỗ vũ hoá để bay ra. Lỗ vũ hoá có đường kính từ 1,2-1,3mm, mép lỗ vũ hoá lờm xờm.

- Theo Lê Văn Nông (1973) mọt này ở miền Bắc Việt Nam có từ 6-7 vòng đời, còn

theo Triệu Đường Xương (1966) thì thời gian phát dục của các pha như sau:

Trứng từ 3-7 ngày

Sâu non 41 ngày

Nhộng 4 ngày

Mỗi vòng đời kéo dài 51 ngày.

b) Phòng trừ:

Gỗ và tre nứa trước khi dùng nên ngâm nước, đối với gỗ nên ngâm từ 6 tháng đến 1

năm, còn tre nứa nên ngâm từ 1-3 tháng. Ngâm ở nơi nước chẩy tốt hơn ao tù.

Khi dùng chọn các loại gỗ có đường kính mạch gỗ nhỏ hơn 100m và dùng tre già.

Ngoài ra đối với gỗ xây dựng có thể dùng các loại thuốc bảo quản lâm sản.

5.1.8. Một số loài sâu ăn lá Trẩu

5.1.8.1. Các loài bọ nẹt

1. Vị trí phân loại

Bọ nẹt ăn lá gồm nhiều loài, trong đó có 2 loài thường gặp là:

Parasa sinica Moore

và Parasa consonia Walker

thuộc họ Ngài gai (Limacodidae/Eucleidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Page 126: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

126

Hình 5-15: Bọ nẹt hại trẩu (Parasa

sinica) 1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng

3. Sâu non 4. Nhộng

Các loài bọ nẹt phân bố khá rộng ở vùng nhiệt đới. Ở nước ta thấy chúng xuất hiện

khắp nơi như Hoà Bình, Phú Thọ, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thanh Hoá...

Bọ nẹt là loài đa thực, ăn hại trẩu, sở, tre nứa, keo và các loài cây ăn quả như chuối,

ổi, khế...

Năm 1986-1987, bọ nẹt đã phát dịch ở Lương Sơn - Hoà Bình ăn trụi hàng trăm

hecta rừng và các cây trồng phân tán trong nhân dân làm giảm sản lượng hoa quả rõ rệt.

3. Hình thái và tập tính của từng loài

Bọ nẹt Parasa sinica Moore

a) Hình thái: (Hình 5-15)

+ Sâu trưởng thành có thân dài

16mm, chiều dài sải cánh 36mm. Lúc mới vũ

hoá màu xanh vàng, trên lưng của mỗi đốt

bụng có 2 chấm màu xanh nhạt, sau một thời

gian các chấm này mất dần. Râu đầu hình sợi

chỉ. Cánh trước có nền màu xanh, gốc

cánh và mép ngoài của cánh có 2 dải vân màu

nâu. Cánh sau màu hơi vàng.

+ Trứng hình ống, lúc mới đẻ màu vàng nhạt, sau đó chuyển sang màu nâu.

+ Sâu non đẫy sức dài 26 - 30mm, toàn thân màu xanh vàng. Hai bên mép lưng của

sâu non có 5 đôi gai thịt dài, 3 đôi ở các đốt ngực và 2 đôi gần cuối bụng. Hai bên sườn của

mỗi đỗt còn có một gai thịt nhỏ. Trên các gai thịt có nhiều lông ngứa.

+ Nhộng hình chuỳ hơi vuông dài 20mm, rộng 11mm, màu nâu vàng. Mầm cánh dài

2/3 thân thể.

+ Kén hình trứng dài 22mm, rộng 15mm, màu nâu sẫm.

b) Tập tính:

Loài này một năm có 3 thế hệ:

Thế hệ 1 xuất hiện vào tháng 4, tháng 5.

Thế hệ 2 xuất hiện vào tháng 7, tháng 8 và là thế hệ phá hại mạnh nhất.

Page 127: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

127

Hình 5-16: Bọ nẹt hại trẩu (Parasa

consonia) 1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Kén 5. Nhộng

Thế hệ 3 xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau.

Bọ nẹt qua đông ở pha nhộng. Sâu trưởng thành có tính xu quang yếu. Trứng được

đẻ thành đám ở dưới lá. Mỗi đám trứng khoảng 15 trứng, mỗi con cái đẻ từ 400-500 trứng.

Sâu non nở ra lúc đầu sống tập trung, ăn từ đầu lá đến gốc lá. Khi đẫy sức mỗi con ăn một

lá. Vết ăn hại của nó thường bằng và nằm ngang lá. Nhộng nằm trong kén ở dưới đất xung

quanh gốc cây sâu độ 1cm. Lúc vũ hoá kén bật ra một cái nắp gần tròn.

Bọ nẹt Parasa consonia Walker

a) Hình thái: (Hình 5-16)

+ Sâu trưởng thành: Ngài cái có thân

dài 14-18mm, ngài đực dài 10-13mm. Toàn

thân màu xanh vàng. Râu đầu hình răng lược.

Cánh trước màu xanh. Gốc cánh màu nâu vàng

nhưng dải vân ở mép ngoài của cánh màu nâu

xám. Cánh sau màu nâu vàng.

+ Trứng hình bầu dục, lúc mới đẻ màu

hơi vàng, khi sắp nở màu sẫm hơn.

+ Sâu non đẫy sức dài 22-26mm, phía

lưng màu xanh vàng, phía bụng màu xám

trong. Hai bên mép lưng có 10 đôi u gai, đặc biệt đôi thứ 3 tính từ phía đầu có kích thước

lớn nhất và màu đỏ cuối u gai màu đen. Hai bên thân có 9 đôi u gai, 2 đôi cuối cùng màu

đen. Trên các u gai có nhiều lông ngứa.

+ Nhộng hình chuỳ, lúc đầu màu trắng xám, khi sắp vũ hoá màu nâu vàng.

+ Kén hình trứng, mặt dưới hơi lõm, kích thước dài 22-25mm, màu nâu sẫm.

b) Tập tính:

Loài này một năm có 2-3 thế hệ, thời gian của mỗi thế hệ gần giống loài trên.

Sâu trưởng thành đẻ trứng ở mặt dưới lá, mỗi đám có từ 30-80 trứng xếp thành hình

vẩy cá. Sâu non khi nở ra quay lại ăn vỏ trứng rồi mới ăn lá. Lúc đầu sâu non sống tập trung

và chỉ gặm phần biểu bì phía dưới lá, sau đó ăn thủng lá. Đến tuổi 5, tuổi 6 trở đi sống phân

tán và ăn hết cả phiến lá. Sâu non có 8-9 tuổi, phá hại mạnh vào tháng 7. Sâu non làm kén ở

gốc cây gần mặt đất hoặc ở phía dưới gốc các tầng cành trên cao nên dễ phát hiện.

Page 128: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

128

Hình 5-17: Sâu đo ăn lá trẩu

1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

4. Các biện pháp phòng trừ bọ nẹt

Hàng năm vào đầu mùa xuân kết hợp chăm sóc cây với việc bắt kén ở dưới đất, gốc

cây, dưới cành giết đi. Khi thấy sâu non xuất hiện nhiều có khả năng ăn trụi cây dùng thuốc

sữa 50% Dipterex pha với nồng độ 0,2% phun sương.

5.1.8.2. Sâu đo ăn lá Trẩu (Biston marginata Shiraki)

1. Vị trí phân loại

Sâu đo ăn lá trẩu thuộc họ Sâu đo (Geometridae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Theo tài liệu Trung Quốc, loài sâu này phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam Trung

Quốc. Ở Việt Nam thấy loài sâu đo xuất hiện ở các tỉnh Lạng Sơn, Hoà Bình, Hà Tây, Phú

Thọ...

Ngoài trẩu ra nó còn ăn hại nhiều loài cây khác như sở, Quế, keo, bạch đàn...

Sâu non đã có nhiều năm ăn hại trụi

hàng chục hecta trẩu của các tỉnh trên.

Đây cũng là loài sâu nguy hiểm đối

với trẩu, sở.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-17)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 16-

22mm, màu nâu xám. Râu đầu ngài cái hình

răng lược đơn, ngài đực hình răng lược kép.

Phía ngoài cánh trước có 3 đường vân

ngang lượn sóng màu nâu đen, hai đường trong nằm sát nhau. Về phía gần gốc cánh còn có

hai đường vân hình sóng chạy song song màu nâu sẫm hơn. Ở phía ngoài cánh sau cũng có

hai đường vân màu sẫm nằm ngang cánh. Cuối bụng ngài cái có một túm lông.

+ Trứng hình cầu đường kính 0,3mm.

+ Sâu non mới nở dài khoảng 3mm, màu đen, sau chuyển sang màu xanh vàng, có

nhiều chấm hơi đen. Sâu non đẫy sức dài 60mm.

+ Nhộng có thân dài 15-20mm, phần lưng ngực phình ra. Cuối nhộng có gai nhỏ.

Page 129: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

129

b) Tập tính:

Sâu đo ăn lá trẩu một năm có 1 thế hệ và qua đông ở pha nhộng.

Giữa tháng 2, sâu trưởng thành vũ hoá chui ra khỏi đất. Hàng ngày thường vũ hoá

vào thời gian từ 7-11 giờ đêm. Sâu trưởng thành chỉ giao phối và đẻ trứng vào ban đêm.

Thời gian đẻ trứng từ cuối tháng 2, kéo dài đến giữa tháng3. Trứng được đẻ thành khối trên

có phủ một lớp lông độc. Mỗi khối trứng có từ 600-800 trứng. Trứng đẻ ra sau 3-4 ngày thì

nở. Sâu non nở ra từ đầu tháng 3 và ăn hại ở trên cây kéo dài đến tháng 6, tháng 7. Sâu non

có khả năng buông tơ. Khi sâu non đẫy sức, bò theo thân cây xuống đất làm kén hoá nhộng.

Nhộng thường nằm xung quanh gốc cây giống như sâu đo ăn lá lim, sâu từ 15-30mm, sau

đó qua đông.

Nói chung những năm nhiệt độ cao, mưa nhiều sâu non phá hại mạnh.

4. Các biện pháp phòng trừ

- Vào đầu tháng 2, cần kết hợp xới đất làm cỏ xung quanh gốc cây bị hại để bắt

nhộng cùng với bọ nẹt.

- Vào tháng 7, trên thân cây bị hại có thể đặt vòng dính để bẫy sâu non vào nhộng.

- Khi sâu non phát sinh nhiều có thể dùng các loại thuốc sữa 50% Dipterex hoặc

20% Ofatox pha với nồng độ 0,2% phun sương để cùng diệt bọ nẹt trẩu.

5.1.9. Một số loài sâu hại Quế

5.1.9.1. Sâu ăn lá Quế (Phalera flavescens Bremer et Grey)

1. Vị trí phân loại

Sâu ăn lá Quế thuộc họ Ngài thiên xã (Notodontidae), bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Sâu ăn lá Quế phân bố khắp Trung Quốc. Ở Việt Nam thấy phân bố nhiều ở các

miền trồng Quế thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Yên Bái, Thanh Hoá, Quảng Nam Đà Nẵng,

Bình Định...

Sâu ăn lá Quế cũng đã từng phát dịch ở một số nơi như miền Đông Quảng Ninh... ăn

trụi hàng chục hecta rừng Quế.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái: (Hình 5-18)

Page 130: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

130

Hình 5-18: Sâu ăn lá Quế

1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

+ Sâu trưởng thành có thân dài 25-

30mm. Toàn thân bao phủ một lớp lông màu

trắng xám. Râu đầu hình răng lược. Mắt kép

tròn đen. Ở gần gốc cánh trước có một vết đen

hình chữ “ô” quay ra ngoài. Về phía gần mép

ngoài của cánh trước cũng có 6 vết màu đen

hơi tím hình chữ “ô” quay vào trong. Sát mép

ngoài còn có 7 gạch đen xếp thành hàng.

Mép ngoài của 2 cánh còn có nhiều lông đen

như tua cờ.

+ Trứng hình cầu, đường kính

1mm, lúc mới đẻ màu hơi vàng sau đó màu

nâu xám.

+ Sâu non đẫy sức dài 50mm, lúc mới nở màu nâu vàng sau dần dần chuyển sang

màu nâu đỏ cuối cùng màu đen. Ở hai bên thân của sâu non có nhiều lông màu trắng xám

chĩa về phía trên và phía dưới. Khi nghỉ, đầu và đuôi cong lên trời nên mới có tên là ngài

thiên xã.

+ Nhộng dài 23mm, màu nâu đen. Phía cuối nhộng có 6 lông chập lại thành cái gai.

b) Tập tính: Sâu ăn lá Quế một năm có 1 vòng đời và qua đông ở pha nhộng nằm

trong đất. Mãi đến giữa mùa hè hoặc giữa tháng 8 năm sau mới vũ hoá. Sâu trưởng thành đẻ

trứng thành đám ở mặt dưới của lá. Một con cái đẻ từ 10-100 trứng nằm xít nhau. Sâu non

mới nở sống tập trung ở trên lá và ăn từ đầu lá vào. Khi động mạnh chúng thường buông tơ

chạy trốn. Ở các tuổi lớn chúng phân tán thành nhiều nhóm trên lá. Đến cuối tháng 9 đầu

tháng 10, sâu non mới bò theo thân cây chui xuống đất nhả tơ làm kén. Kén thường nằm

cách mặt đất 1cm.

4. Các biện pháp phòng trừ

Giữa mùa xuân kết hợp việc chăm sóc Quế, cuốc xung quanh gốc cây bị hại rộng từ

1-1,5m để bắt nhộng giết đi.

Khi sâu non nhiều cũng dùng các loại thuốc sữa phun đẫm lá để cùng giết các loài

sâu khác.

5.1.9.2. Sâu xanh ăn lá Quế (Cricula trifenestra Helfer)

Page 131: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

131

Hình 5-19: Sâu xanh ăn lá Quế

1 . Trứng 2. Sâu non 3. Nhộng; 4. Sâu trưởng thành

Sâu xanh ăn lá Quế thuộc họ Thần nông (Saturniidae), bộ Cánh vảy (Lepidoptera).

Trên thế giới Sâu xanh ăn lá Quế có ở Trung

Quốc (Vân Nam, Quảng Tây), Ấn Độ và

Philippin.

Ở Việt Nam Sâu xanh đã xuất hiện và

gây hại các tỉnh trồng Quế như: Yên Bái,

Thanh Hoá.

* Sâu trưởng thành: Con cái có chiều

dài thân 20-28mm, sải cánh 60- 90mm.

Con đực có chiều dài thân 15-20mm, sải cánh 55-65mm. Sâu trưởng thành có màu sắc đa

dạng, thường màu da cam, gỉ sắt, một số ít con có màu tro. Râu đầu hình lông chim. Trong

cánh trước có đường màu tím đậm hình lượn sóng, đường ngang tương đối thẳng có màu

tím đậm rõ ràng, ở buồng giữa có 3 chấm điểm rất rõ ràng, xếp thành hình tam giác, phía

bên trong chấm điểm có những đường viền nhỏ, mép màu tím đậm. Đỉnh cánh nhọn, gốc

cánh màu tím đậm, phía trước và sau cánh có cùng màu sắc.

* Sâu non: Sâu tuổi nhỏ có màu vàng nhạt, từ tuổi 4 trở đi sâu non có màu xanh lục.

Phần đầu có màu nâu, ở hai bên phía lưng và đốt bụng thứ 8 mỗi đốt đều có chấm đen khá

rõ ràng. Lỗ thở có hình bầu dục và có những hàng lông được sắp xếp theo chiều thẳng

đứng. Trên mỗi đốt có 7 lông trong đó có 6 lông mọc đối xứng và 1 lông mọc ở giữa có

chiều dài lớn hơn. Phần lưng ở phía sau có rất nhiều hàng lông, mỗi hàng lông mọc 12 lông.

* Nhộng: Nhộng màng nằm trong kén tơ, kén màu trắng hoặc vàng bẩn. Chiều dài

nhộng 19-25mm, chiều dài kén từ 30-35 mm. Lúc mới vào nhộng có màu vàng nhạt sau

chuyển dần sang vàng đậm, trên nhộng có nhiều chấm màu nâu thẫm, cuối bụng có dạng

hình móc.

Tập tính:

Sâu non của Sâu xanh ăn lá Quế có 6 tuổi, thời gian phát triển của pha sâu non 29-

48 ngày; thời gian của pha nhộng 21-61 ngày; sâu vũ hoá mạnh vào lúc 18h - 21h trong

ngày; Giai đoạn trứng kéo dài từ 10-22 ngày, trứng thường được đẻ dưới mặt lá và thường

được cuộn vào mép lá, trứng được sắp xếp theo hàng. Mỗi con cái có thể đẻ từ 200-350

trứng, thời gian đẻ trứng của con cái từ lúc 9h - 10h. Sâu trưởng thành có tính xu quang.

5.1.9.2. Sâu đo ăn lá Quế (Geometridae)

Page 132: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

132

Hình 5-20: Sâu đo ăn lá Quế (Calcula sp.) 1. Sâu non; 2. Sâu trưởng thành

Hình 5-21: Sâu đục cành Quế 1 Sâu non; 2, 3. Cành bị đục

Sâu đo ăn lá Quế gồm 2 loài chính

là Biston marginata Shiraka và Calcula sp..

Đặc điểm của loài Biston marginata đã được

nêu trong phần Sâu đo ăn lá Trẩu. Đặc điểm

của loài Calcula sp. như sau: Ngài

trưởng thành dài 20mm, màu vàng nhạt, sải

cánh 50mm. Râu đầu hình sợi chỉ, dài gần

bằng thân. Mắt kép màu xanh xám. Từ gốc

cánh cho tới khoảng hơn 1/2 chiều dài cánh trước và cánh sau có dạng trong suốt, nhìn rõ

mạch cánh, giữa phần cánh trong này có một vài đám vẩy cánh màu vàng xám. Phần diện

tích cánh còn lại có màu vàng xám. Gần mép ngoài của hai cánh có một hàng ô trong suốt

nằm giữa các mạch cánh. Trứng hình bầu dục, dài 0,5mm, rộng 0,3mm, màu vàng. Sâu non

có 5 tuổi, lúc mới nở có màu xanh vàng nhạt, sau chuyển sang màu xám hơi vàng, lỗ thở

màu xám đen. Sâu non đẫy sức dài 40mm, ba đốt ngực khá ngắn, cuối đốt bụng thứ 9 có 1 u

gai nổi rõ. Nhộng màng, dài 18mm, màu nâu nhạt-nâu đỏ. Cuối bụng nhộng có 1 gai màu

đen. Trưởng thành xuất hiện nhiều vào đầu tháng 2 và đầu tháng 7, ban ngày ẩn nấp trong

bụi rậm. Sâu non mới nở sống tập trung, ăn hại phần biểu bì các lá còn non, sau đó tách ra

sống riêng lẻ trên các lá bánh tẻ và lá già. Chúng xuất hiện nhiều vào những năm có nhiệt

độ ấm áp. Biện pháp phòng trừ tương tự như đối với các loài sâu đo khác.

5.1.9.3. Sâu đục cành Quế (Sesiidae)

Các cành bị đục là cành bánh tẻ và cành

già, đường kính khoảng 1,5-2,5mm.

Chiều dài vết đục 10-25mm. Sâu non

thường bắt đầu đục vào chỗ phân cành, cành

bị đục thường phình to, có thể nhanh

chóng bị chết khô. Sâu non có thân màu

trắng hồng, miệng gặm nhai màu đỏ.

Nhộng màng, màu nâu, dài 10mm, rộng

2mm. Đầu có mấu lồi, đốt bụng cuối có 6 gai mọc vòng xung quanh.

5.1.9.4. Bọ xít nâu sẫm (Pseudodoniella chinensis Zheng)

Bọ xít nâu sẫm được coi là nguyên nhân gây chết hàng loạt Quế.

Page 133: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

133

Hình 5-22: Bọ xít nâu sẫm (theo Trần Quang Tấn, 2004)

1-1: Trưởng thành; 1- 2: Cổ nhiều vết đốm 1-3: Trán chia thùy; 1-4: Đốt râu dầu thú 2

1-5: Túi hình cầu trên mảnh thuẫn

Bọ xít trưởng thành dài 7-9mm, rộng 4mm, có màu nâu sẫm, hình bầu dục. Trán chia

thùy khá sâu. Mắt kép lồi to, không có mắt đơn, phía sau mắt có mảng lông tơ dầy. Râu đầu

màu nâu, có 4 đốt, trên đốt thứ 2 có nhiều lông cứng, ở con đực ngắn và mọc nghiêng, ở

con cái dài hơn và mọc vuông góc với đốt. Mảnh lưng ngực trước cứng,màu nâu-đen, có rất

nhiều lỗ nhỏ li ti. Mảnh thuẫn rất lớn, phình to, trên có túi hình cầu.

Trứng dài 1,6-1,8mm, hình quả cà, mới

đẻ màu trắng, khi sắp nở màu phớt đỏ.

Trứng được đẻ riêng lẻ từng quả trong hốc cành

hoặc kẽ nứt vỏ cây.

Bọ xít non mới nở hoặc mới lột xác có

màu đỏ tươi, sau 1-2 giờ chuyển sang màu nâu

đỏ. Sâu non đẫy sức dài 4,5-6mm, hình bầu dục,

mắt kép lồi to, mảnh thuẫn hơi lồi ra, mầm cánh

có mầu hạt dẻ, kéo dài tới đốt bụng thứ 3. Sâu

non có 5 tuổi.

Pha sâu non kéo dài 12 đến 13 ngày, pha

trưởng thành 19-25 ngày, pha trứng 4-5 ngày.

Bọ xít nâu sẫm thích hút dịch cây ở cành bánh

tẻ của Quế 5-8 tuổi, bắt đầu gây hại vào cuối mùa xuân, đạt cao điểm vào đầu hè và giữa

thu.

Để phòng trừ Bọ xít nâu sẫm cầng áp dụng phương pháp tổng hợp như sử dụng

giống Quế khỏe, không có sâu bệnh, trồng quế thành băng xen với cây lâm nghiệp, giữ mật

độ Quế vừa phải (3000-4000 cây/ha), sử dụng thuốc Admire phun lên cành bánh tẻ vào cuối

tháng 4 và đầu tháng 8.

5.1.9.4. Sâu hại vỏ Quế (Aegeria sp.)

Đây là loài sâu hại thuộc họ Ngài cánh trong (Sesiidae). Sâu non sống trong tổ làm

bằng tơ có lẫn phân sâu, gặm vỏ làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Khi phát

sinh nhiều diện tích thân bị hại khá lớn. Sâu non có thân màu hồng, đầu dẹt có màu sẫm

hơn thân.

Page 134: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

134

Hình 5-23: Sâu nâu ăn lá keo

1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

5.1.10. Một số loài sâu hại Keo

Sâu hại keo gồm nhiều loài, trong đó nguy hiểm nhất là các loài sau đây:

Sâu nâu và Sâu vạch xám thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae). Hai loài này thấy

xuất hiện ở các tỉnh có trồng Keo tai tượng Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Tây,

Hoà Bình... Chúng thường sống chung với nhau và đã gây ra trận dịch kéo dài

tháng 4 đến tháng 10 năm 1998 ở các lâm trường thuộc hai tỉnh Tuyên Quang,

Phú Thọ ăn hại trên 5000 ha rừng Keo tai tượng.

Sâu kèn nhỏ và Sâu chùa thuộc họ Ngài túi (Psychidae) phát dịch vào năm

1999 ở khu vực đảo Suối Hai, Ba Vì, Hà Tây.

5.1.10.1. Sâu ăn lá keo thuộc họ Ngài đêm (Noctuidae)

a) Hình thái

1- Sâu nâu (Anomis fulvida Guenée)

+ Sâu trưởng thành có thân dài 22-

25mm. Chiều dài cánh trước 25mm. Trên

lưng của thân màu nâu xám, mặt bụng màu

nhạt hơn. Râu đầu hình sợi chỉ dài bằng 2/3

thân. Mắt kép màu nâu đen. Vòi miệng dài

bằng râu đầu, râu môi dưới khá phát triển.

Mặt trên của 2 cánh cơ bản màu nâu xám, mặt

dưới màu xám nhạt. Ở mép ngoài buồng

giữa của cánh trước có một chấm đen

đường kính 2mm, giữa chấm đen và mép

ngoài có 4 đường vân hình sóng màu nâu

sẫm chạy từ mép trước thu dần lại ở gần

mép sau tạo thành một điểm đen to. Các mạnh cánh chạy ra mép ngoài nổi rõ, giữa các

mạch có các chấm đen nhỏ. Cánh sau từ trong ra ngoài cũng có 3 đường vân màu nâu sẫm

chạy ngang cánh. Mép ngoài hai cánh có nhiều lông hình tua cờ.

+ Trứng hình bán cầu, đỉnh trứng hơi nhô lên. Trứng có đường kính 0,5-1mm và cao

0,38mm. Bề mặt trứng có nhiều đường vân ngang dọc tạo thành hệ vân lưới.

+ Sâu non có 6 tuổi, lúc mới nở dài 6-7mm màu nâu xám, khi đẫy sức dài 45-50mm,

màu nâu xám hơi vàng hoặc nâu đen. Đầu sâu non màu nâu, phía trên có 2 chấm trắng. Sâu

Page 135: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

135

Hình 5-24: Sâu vạch xám ăn lá keo

1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

non có 5 đôi chân bụng, đôi thứ nhất nhỏ và ngắn, đôi chân bụng thứ 5 (đôi chân đẩy) hơi

chìa ra ngoài. Mặt dưới bụng có vệt đen chạy suốt từ ngực đến đốt bụng thứ 10. Sâu non di

chuyển bằng cách bò giống như sâu đo. Đặc điểm khác sâu non Sâu vạch xám (Speiredonia

retorta Linnaeus):

Màu nâu sẫm hơn và có kích thước ngắn hơn.

Mặt dưới bụng có vệt đen chạy suốt từ ngực đến đốt bụng10.

Đầu có 2 chấm trắng.

+ Nhộng dài 20-25mm, rộng 5-7mm, màu cánh gián. Mầm cánh dài bằng 1/2 thân.

Hai bên bụng nhìn rõ 7 đôi lỗ thở màu nâu đen. Nhìn mặt trước thấy rõ 5 đốt bụng, đốt cuối

có lỗ sinh dục nằm dọc. Đặc biệt mặt lưng của đốt cuối bụng có nhiều đường nâu đỏ chạy

dọc. Cuối nhộng có 8 gai hình móc câu để móc vào kén, 2 đôi ở giữa thô dài, 2 đôi còn lại

ngắn và uốn cong.

2 - Sâu vạch xám (Speiredonia retorta (Linnaeus))

+ Sâu trưởng thành có thân dài 20-

30mm. Chiều dài cánh trước 34mm. Trên

lưng của thân màu nâu sẫm, mặt bụng màu nâu

đỏ. Râu đầu hình sợi chỉ dài gần bằng

thân. Mắt kép màu xanh xám. Mặt trên hai

cánh cơ bản màu nâu sẫm, mặt dưới màu nâu

đỏ, có 3 đường vân đen chạy ngang. Ở giữa

cánh trước có một đường vân xoắn màu đen

dạng gần tròn đường kính khoảng 10mm, gần

mép ngoài còn có 3 đường vân hình sóng màu

đen nằm ngang cánh. Cánh sau có một dải vân

đen rộng nằm ngang cánh. Mép ngoài hai cánh có lông hình tua cờ.

+ Trứng hình bán cầu, đường kính 0,8-1,02mm, cao từ 0,8-0,9mm. Trên đỉnh trứng

có các đường vân tạo thành hình bông hoa xung quanh trứng cũng nổi rõ các đường vân

ngang dọc.

+ Sâu non đẫy sức dài 50-70mm, màu trắng xám. Hai bên đầu có các vết nâu đen

chạy từ đỉnh xuống gốc râu đầu. Giữa các đôi chân bụng có vân tròn màu đen, các vân đen

Page 136: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

136

này nằm riêng biệt, không liền một dải như ở loài Anomis fulvida. Thân có nhiều hàng

chấm đen chạy dọc, các hàng chấm đen tập trung ở hai bên thân, phía trên và phía dưới lỗ

thở. Đôi chân đẩy khá dài, khi bám nghỉ chìa ra phía sau.

+ Nhộng dài 22-26mm, màu nâu đỏ. Mầm cánh dài bằng 1/2 thân. Có thể nhìn rõ 6

đốt bụng. Trên đốt thứ 4 của bụng có 2 vòng tròn nhỏ. Lỗ thở nhìn không rõ. Cuối nhộng

cũng có 8 gai hình móc câu màu hơi vàng.

b) Tập tính chung

Cả hai loài này có tập tính gần giống nhau. Một năm có nhiều vòng đời, qua đông ở

pha nhộng, nằm trong đất, cuối mùa xuân tiến hành vũ hoá. Vũ hoá của sâu trưởng thành

tập trung vào ban đêm khoảng từ 22h00’ đến 4h00’. Có hiện tượng vũ hóa đồng loạt: Giữa

tháng 3, giữa tháng 4, đầu tháng 8 là thời gian xuất hiện của trưởng thành. Ban ngày ngài ẩn

nấp ở những nơi ít ánh sáng, hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Một con cái có thể đẻ từ

1000-1500 trứng. Sâu trưởng thành có tính xu quang yếu. Thí nghiệm với bả chua ngọt cho

thấy sâu trưởng thành hầu như không vào bẫy. Tuy nhiên có thể quan sát thấy hiện tượng

hút nớc đường của sâu trởng thành. Sâu trưởng thành sống từ 3 đến 6 ngày. Trứng được đẻ

thành đám trên các lá non và chồi non.

Sâu non tuổi 1, tuổi 2 nằm ở các lá non, gặm mất phần lớn lá làm cho chồi non bị

thâm héo. Các tuổi sau chuyển sang ăn từ mép lá vào, thường chọn đầu lá để ăn trước, bỏ

lại gân lá hoặc ăn hết lá non rồi chuyển sang ăn lá khác, phần non của ngọn keo cũng bị ăn.

Sâu non ăn hại lá từ 18h30’ đến sáng sớm hôm sau, khoảng 4h30’ sâu non lại bò xuống

nằm ở khe nứt của vỏ cây trong khu vực cách mặt đất 1-2m hoặc nằm ẩn dưới lá keo khô.

Khi mật độ sâu thấp khu vực có thể tìm thấy sâu nhiều nhất là lớp lá khô quanh gốc keo,

cách gốc cây khoảng 0,6m. Đôi khi có thể thấy sâu non tuổi lớn còn nằm đâu đó trong tán

cây vào buổi sáng. Tuy nhiên rất khó phát hiện vì sâu non thường ẩn ở những nơi kín đáo.

Pha sâu non cũng giống pha trưởng thành ở điểm sợ ánh sáng. Phân sâu non thải ra thường

có hình trụ, màu đen, chiều cao viên phân từ 2-2,5mm, đường kính từ 0,5-1,5mm. Sâu non

đẫy sức bò xuống để vào nhộng ngay trên mặt đất hoặc dưới lá khô. Thời gian cần thiết để

sâu non vào nhộng kéo dài 2-7 ngày.

c) Một số đặc điểm sinh thái

Trong thời gian dịch vào năm 1998 đã phát hiện thấy sâu vào tháng 4 - 5, biểu hiện

có dịch là tháng 6. Sau đó liên tiếp có dịch xảy ra từ tháng 8-10, mật độ sâu trong khi dịch

là 100 - 550 sâu non/cây. Dịch Sâu nâu và Sâu vạch xám tập trung ở rừng Keo tai tượng có

Page 137: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

137

tuổi trên 4 năm, đặc biệt nặng ở rừng tuổi 4-7 năm. Khu vực có độ cao dưới 200m bị hại

nặng nhất.

Thiên địch của 2 loài sâu ăn lá này bao gồm các loài ăn thịt như: Bọ ngựa Trung

Quốc (Tenodera sinensis), Bọ ngựa xanh bụng rộng (Hierodula spp.), Bọ ngựa vằn

(Creobroter urbanus), Bọ ngựa cổ bành (Deroptatys spp.), các loài kiến (Formicidae), ếch

nhái, bò sát, chim… Các loài ký sinh có ý nghĩa lớn bao gồm ong thuộc giống Meteorus,

nấm bạch cương, ruồi ký sinh họ Tachinidae (Exorista spp. và Winthemia spp.).

d) Các biện pháp phòng trừ chung

Cần nghiên cứu kỹ các đặc điểm sinh học của hai loài này để có cơ sở dự tính dự báo

chính xác. Sử dụng phương pháp điều tra gốc cây để giám sát quần thể sâu hại.

Những năm có khả năng phát dịch, sang xuân huy động nhân lực bắt kén, sau non ở

xung quanh gốc cây giết đi. Có thể dùng vòng dính để bắt sâu non khi chúng di chuyển theo

thân cây.

Khi xuất hiện nhiều (> 5 sâu non/cây) có thể dùng thuốc sinh học (Bovêrin) phun

vào các gốc cây bị hại hoặc dùng các loại thuốc hoá học như: thuốc sữa 20% Ofatoc, 25%

Karate, hoặc 50% Sumithion pha với nồng độ từ 0,25-1% tùy theo tuổi sâu. Phun vào lúc

lặng gió. Biện pháp là phun sương. Trước khi phun cần phát dây leo, cây bụi xung quanh

gốc cây để có thể phun thuốc vào thân cây và gốc cây.

5.1.10.2. Sâu kèn nhỏ ăn lá Keo

1. Vị trí phân loại

Sâu kèn nhỏ (Acanthopsyche sp.) hại keo thuộc họ Ngài túi (Psychidae), bộ Cánh

vẩy (Lepidoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Sâu kèn nhỏ phân bố nhiều ở các tính phía Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam thấy

chúng xuất hiện nhiều ở các rừng keo thuộc các tỉnh Phú Thọ, Hà Tây, Hoà Bình...

Sâu kèn nhỏ ăn lá nhiều loài cây như keo tai tượng, keo lá tràm, bằng lăng, nhãn, vải,

chè, cam, quýt, xoài...

Năm 1999, Sâu kèn nhỏ đã phát dịch ăn trụi 60 ha rừng keo tai tượng tại Suối Hai -

Hà Tây.

3. Hình thái và tập tính

Page 138: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

138

Hình 5-25: Sâu kén nhỏ ăn la keo

1 . Sâu trưởng thành đực 2. Trứng 3+4. Sâu non

5+8. Túi và nhộng đực 6+7. Túi và nhộng cái.

a) Hình thái:

+ Ngài trưởng thành: Ngài đực có

thân dài 4-5mm, sải cánh dài 11-13mm,

thân màu nâu sẫm có phủ một lớp lông

trắng. Râu đầu hình lông chim. Cánh trên

màu nâu sẫm có phủ một lớp lông trắng,

cánh sau màu trắng xám. Ngài cái không có

cánh dài 6-8mm, đầu nhỏ màu cà phê.

Ngực, bụng mầu trắng vàng và bụng uốn

cong. Ngài cái nằm trong kén.

+ Trứng hình bầu dục, dài 0,6mm,

rộng 0,4mm, màu trắng xám.

+ Sâu non dài 6-9mm, trên lưng các đốt ngực và đầu có màu nâu vàng, bụng màu

trắng xám. Trên lưng của đốt bụng thứ 8 có 2 chấm nâu và đốt thứ 9 có 4 chấm nâu. Mảnh

lưng đốt thứ 10 màu nâu vàng. Sâu non nằm trong một cái túi màu lá khô.

+ Nhộng: Nhộng cái dài 5-7mm, màu vàng, hình thoi, đoạn đầu và ngực nhỏ uốn

cong. Trên lưng từ đốt thứ 3 đến đốt thứ 6 có hàng gai nhỏ màu nâu đen, cuối bụng có 2 gai

ngắn. Nhộng đực dài 4,5-6mm, màu nâu vàng. Trên lưng của các đốt bụng thứ 4 đến đốt

thứ 8 trên dưới có hai hàng gai nhỏ. Cuối bụng cũng có 2 gai nhỏ.

Nhộng đực và nhộng cái đều nằm trong túi làm bằng tơ quấn với lá khô nên có màu lá

khô, trên có sợi tơ treo vào cành lá. Túi con cái dài 12-13mm, túi con đực dài 7-10mm.

b) Tập tính:

- Sâu kèn nhỏ một năm có hai thế hệ gối nhau:

Thế hệ 1: Ngài trưởng thành xuất hiện vào hạ tuần tháng 5 đến giữa tháng 6.

Trứng xuất hiện vào tháng 6. Sâu non có từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 8.

Nhộng có từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8.

Thế hệ 2: Ngài trưởng thành xuất hiện vào tháng 8. Trứng có vào giữa tháng 8,

cuối tháng 9. Sâu non có từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 5 năm sau. Nhộng từ

giữa tháng 5 đến cuối tháng 6 năm sau.

- Ngài trưởng thành đẻ từ 109-266 trứng, trung bình 184 trứng, tỉ lệ nở là 99%. Thời

gian đẻ từ 5-7 ngày.

Page 139: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

139

Sâu non từ khi nở cho đến khi hình thành túi mất 30 phút. Túi lúc đầu màu xanh

vàng sau màu lá khô. Trên túi có dính các lá khô nhỏ. Sâu non ăn vào sáng sớm hay buổi tối

hoặc lúc râm mát, trưa không ăn.

Sâu non tuổi 1 đến tuổi 3 chỉ ăn lớp biểu bì của lá, các tuổi sau ăn lá thành các

lỗ hoặc ăn hết lá chỉ để lại gân lá.

Sâu non đực lột xác 5 lần, sâu non cái lột xác 6 lần. Mỗi lần lột xác, sâu non lại

nhả tơ bịn kín túi lại và chỉ để sợi tơ dính vào cành hoặc lá. Vào mùa đông

những ngày ấm áp sâu non vẫn ăn chồi và lá non.

Sâu non sống dài 38-77 ngày. Khi vào nhộng sâu non nhả một sợi tơ dài 10mm

dính vào cành hoặc lá và làm một cái túi treo lủng lẳng. Sau đó sâu non quay

đầu xuống rồi hoá nhộng.

Ngài cái sau vũ hoá để đầu nhô ra ngoài túi. Ngài đực vũ hoá vào lúc 7-12 giờ bay ra

khỏi túi, hoạt động mạnh lúc 4-6 giờ chiều. Con đực bay đến giao phối với ngài cái qua lỗ

dưới túi. Sau khi giao phối trứng được hình thành ở ngay trong bụng ngài cái rồi dần dần

phát triển to ra, cuối cùng cả con cái là một cái túi đựng trứng.

4. Các biện pháp phòng trừ

Tháng 2 cần theo dõi mật độ sâu: Khi mật độ > 50 túi kén/cây cần tiếp tục điều tra

sau đó 1 tuần để xác định xu hướng phát triển. Bóc kén thu được để xác định các pha phát

triển, nếu thấy số kén cái và trứng có mật độ >15 kén/cây tức sẽ có 3000 sâu non/cây ở thế

hệ sau, tương đương cấp hại nhẹ nên cần tiến hành các biện pháp diệt trừ.

Bảo vệ thiên địch như kiến, ong ký sinh, nhện....

Lúc sâu non còn ít dùng nhân lực thu túi đốt đi.

Khi sâu non phát sinh nhiều dùng các loại thuốc sữa Sherpa, Trebon, Ofatox hoặc

thuốc bột thấm nước Padan phun sương, phun cả tán cây và xung quanh gốc cây.

5.1.11. Sâu hại Phi lao

5.1.11.1. Sâu đục thân Phi lao

1. Vị trí phân loại

Sâu đục thân phi lao thuộc họ ngài đục thân (Cossidae), bộ cánh vẩy (Lepidoptera).

Có 2 loài đáng chú ý là: Zeuzera casuarina Linné và Zeuzera pirina Linné.

Page 140: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

140

Hình 5-26: Sau đục thân Phi lao

1 . Sâu trưởng thành 2. Trứng 3. Sâu non 4. Nhộng

2. Phân bố và tình hình phá hại

Sâu đục thân phi lao xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, thấy chúng

phân bố ở khắp nơi nhưng tập trung nhiều ở các vùng trồng phi lao chắn cát thuộc các tỉnh

Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình...

Sâu non đục vào thân của nhiều loài cây như phi lao, giẻ, xà cừ, tếch lúc 1-2 năm

tuổi. Các cây bị hại khi gió to thường gẫy hoặc chỉa cành sớm làm giảm giá trị của gỗ.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái:

+ Sâu trưởng thành có thân dài 20-22mm. Râu đầu con cái hình sợi chỉ, con đực

hình răng lược kép. Toàn thân được bao phủ một lớp lông tơ màu trắng. Trên lưng các đốt

ngực có 6 chấm màu xanh biếc xếp thành 2 hàng dọc. Mặt trên của 2 cánh trước với nền

màu trắng có rất nhiều điểm màu xanh đen óng ánh.

+ Trứng hình bầu dục, dài độ 1mm,

màu vàng nhạt.

+ Sâu non màu nâu vàng nhạt. Đầu

màu nâu, đặc biệt ở gần đỉnh đầu lõm vào,

giữa đỉnh đầu có gờ nhô lên rất cao. Cuối thân

có mảnh lưng lõm xuống, được chitin hoá

cứng dùng để đẩy phân trong đường đục. Sâu

non đẫy sức dài 50-60mm.

+ Nhộng dài 22-28mm, màu nâu vàng.

Phía cuối nhộng hơi cong về phía trước, hai

bên đốt cuối thân có 1 gai nhỏ. Mầm miệng nhô ra như mỏ chim.

b) Tập tính:

Sâu trưởng thành vũ hoá vào tháng 4, tháng 5, có tính xu quang. Nó đẻ trứng vào vỏ

thân cây, gần gốc cành. Trong thời gian 2-5 ngày chúng đẻ tới 1000 trứng thành từng đám

nhỏ. Sâu non nở ra đục vào thân, đường đục được nạo nhẵn, phía dưới đường đục có những

viên phân tròn hoặc hình bầu dục. Sau 4-5,5 tháng sâu non hóa nhộng, thời gian nhộng kéo

dài 1 tháng. Khi sâu trưởng thành vũ hóa vỏ nhộng còn lưu lại trong đường đục.

3. Các biện pháp phòng trừ

Page 141: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

141

Hình 5-27: Rệp sáp Phi lao

1 . Sâu trưởng thành cái 4. Tổ con cái 2. Sâu trưởng thành đực 3. Sâu con

Mật độ sâu lớn chứng tỏ điều kiện thời tiết không thuận lợi hoặc chăm sóc kém. Vì

vậy cần lựa chọn đất trồng thích hợp và chú ý chăm sóc cây cho tốt.

Chặt bỏ những cây bị hại đốt đi, dùng đèn bẫy sâu trưởng thành vào đầu tháng 4.

Bơm thuốc sâu xông hơi (Cloropicrin (CCl3NO3) = Triclonitrometan,

Nitroclorofom) vào lỗ đục rồi lấy đất sét bít lại, hoặc dùng gai mây bắt sâu non giết đi.

5.1.11.2. Rệp sáp Phi lao (Icerya purchasi Maskell)

1. Vị trí phân loại

Rệp sáp hút nhựa cành cây phi lao gọi tắt là Rệp sáp Phi lao (Icerya purchasi

Maskell) thuộc họ Rệp bơ (Margarodidae), bộ Cánh đều (Homoptera).

2. Phân bố và tình hình phá hại

Rệp sáp phi lao thấy phân bố ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc và Đài Loan. Ở Việt

Nam, nó phân bố khắp miền Bắc và miền Trung.

Ngoài phi lao, rệp còn phá hại cả cam, quýt, bưởi.

Sâu con và sâu trưởng thành chích hút nhựa cây làm cho cây chậm lớn, nếu nhiều có

thể làm cây khô héo rồi chết.

3. Hình thái và tập tính

a) Hình thái:

+ Sâu trưởng thành: Con cái có thân dài 3,3-8,2mm. Thân hình bầu dục, bụng

phẳng, lưng nhô lên. Trên lưng được phủ một

lớp sáp trắng, xung quanh có nhiều sợi lông

trắng dài. Đặc biệt ở giữa lưng có 4 u màu

vàng nâu, giữa các u có túm sáp trắng. Râu

đầu hình lông chim, có 11 đốt màu đen. Khi

đẻ trứng, phía cuối bụng hình thành một túi

trứng hình bầu dục trắng như bông. Trên mặt

túi nhìn rõ 15 vạch dọc, túi trứng dài nhất là

10mm.

Con đực dài 3mm, thân gày,

mảnh, màu đỏ da cam. Râu đầu hình cầu lông

có 19 đốt màu đen. Có một đôi cánh màng mỏng, mạch cánh đơn giản, cánh sau thoái hoá

Page 142: Bài giảng: CÔN TRÙNG RỪNG - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/khoa-hoc-ky-thuat/khoa-hoc-moi-truong/... · Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các

142

thành 2 mấu ngắn nằm ngang. Chân màu đen. Cuối bụng có 2 mấu lồi, mỗi mẫu có 4 lông

dài.

+ Trứng hình bầu dục, dài 0,7mm, mới đẻ màu vàng da cam, sau biến thành màu đỏ

da cam.

+ Rệp non hình bầu dục, màu đỏ da cam. Râu đầu của rệp non tuổi 1, tuổi 2 có 6 đốt;

ở tuổi 3 có 9 đốt, mỗi đốt có nhiều lông dài. Rệp non có mắt kép và 3 đôi chân màu đen.

Phía cuối bụng có 2 túm lông, mỗi túm 3 cái dài bằng thân. Toàn thân rệp non phủ một lớp

sáp màu vàng nhạt. Nếu rệp non là con đực thì trên lớp sáp có nhiều lông vàng.

b) Tập tính:

Rệp sáp phi lao một năm có tới 3-4 thế hệ tùy theo từng vùng. Nó qua đông phần lớn

ở pha rệp non. Sang tháng 3, tháng 4 năm sau, rệp non bắt đầu hút nhựa rồi chuyển thành

sâu trưởng thành. Rệp sáp phi lao có hiện tượng đồng thể cái đực, có nghĩa là trong cơ thể

con cái có cả 2 hệ sinh dục cái và đực, song cũng có thế hệ cần đến cá thể đực để giao phối.

Sau khi giao phối, sâu đực chết ngay, còn sâu cái đẻ trứng vào túi trứng. Mỗi túi trứng chứa

hàng trăm trứng màu đỏ. Đến tháng 6 xuất hiện nhiều rệp non và đến tháng 7 lại xuất hiện

sâu trưởng thành. Sang tháng 8, tháng 9 lại xuất hiện rệp non và kéo dài đến tháng 10.

Vòng đời của Rệp sáp phi lao thường gối lên nhau nên trên cây bị hại thấy nhiều

dạng cá thể.

Rệp sáp phi lao phá hại mạnh vào tháng 7, tháng 8. Cây phi lao bị hại nặng thường

úa vàng rồi chết.

4. Các biện pháp phòng trừ

Ở vườn ươm phi lao, khi thấy xuất hiện nhiều dùng hỗn hợp vôi + lưu huỳnh pha với

nồng độ từ 0,3-0,5 (nồng độ Pôme) phun vào mùa hè và nồng độ từ 1-3 (nồng độ Pôme)

phun vào mùa đông.

Đối với rừng phi lao dùng thuốc Bi58 (Dimethoat) pha với nồng độ từ 0,05-0,1%

phun vào buổi chiều lặng gió.

Ngoài ra cần bảo vệ loài bọ rùa (Rodolia cardinalis Mulsant).