Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 1/56
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 12/2019
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Thiết kế pin lithium-ion mới giúp sạc
ôtô điện trong 10 phút
Mỹ phát triển robot hai chân có thể di
chuyển cân bằng được như người
Trung Quốc phát triển robot bay lau
kính các tòa nhà cao tầng
Đại học Thiên Tân phát triển robot
hoàn toàn mềm đầu tiên trên thế giới
Nga phát triển tổ hợp robot để săn
máy bay không người lái gián điệp
Thuỵ Sĩ dùng trí tuệ nhân tạo dự báo
sét
Trí tuệ nhân tạo chuyển đổi hình ảnh
2D thành 3D bằng kỹ thuật học sâu
Mỹ thử nghiệm thành công hệ thống
laser chiến đấu mới
Điện cực mới có thể làm tăng hiệu
suất của xe điện và máy bay
Siêu vật liệu thông minh có giác quan
và khả năng tự lập trình lại
Thiết bị lai mới có thể vừa thu và lưu
trữ năng lượng mặt trời
Nga Mỹ hợp tác truyền tín hiệu siêu
nhanh đi khoảng cách xa
Phát triển được công nghệ đột phá
trong sử dụng năng lượng Mặt trời
Các nhà địa chất Hoa Kỳ phát triển
các công nghệ mới để cải thiện
dự báo động đất và sóng thần
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Sinh viên chế tạo xe điện chạy 900
km trong một lần sạc
Canon phát triển ống kính máy ảnh tự
lọc bụi từ không khí
Thiết kế vòi nước Da Vinci 2 trong 1:
kết hợp vòi rửa với vòi nước sạch
có thể uống trực tiếp
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nga phát triển bê tông có thành phần
vỏ trấu siêu bền
Vật liệu mới có khả năng giãn nở theo
hệ số 100 khi bị truyền điện
Vải biến hình hoạt động chỉ bằng
nhiệt độ cơ thể
Tấm phủ mỏng giúp pin năng lượng
mặt trời hấp thu ánh sáng hồng ngoại
để tạo năng lượng
Các nhà nghiên cứu tại học viện MIT
tạo ra lớp phủ tốt hơn để bảo vệ
pin mặt trời
Chất xơ tách các ống nano cacbon
hiệu quả
Vật liệu cấy ghép có khả năng tiêu diệt
tới 98% vi khuẩn
Tách keo dán công nghiệp bằng từ
trường
Chất xúc tác mới sản xuất hydro hiệu
quả từ nước biển
Triển vọng chế tạo tấm pin mặt trời
không chì từ vật liệu mới
Sơn bồn cầu có thể tiết kiệm nước
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 2/56
Phân tách CO2 với tốc độ nhanh, chi phí thấp và hiệu quả hơn
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sản xuất vodka tinh khiết từ không
khí
Nghiên cứu tăng chất lượng quả và
khả năng phát triển của dưa hấu trong thời
kỳ biến đổi khí hậu
Phương pháp “đóng gói” các chất
dinh dưỡng nhằm tăng cường vi chất
thiết yếu vào thực phẩm
Thịt nhân tạo tổng hợp từ không khí
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Biến đổi chất độc nguy hại thành cảm
biến sinh học
Độc tố mới cản trở sự phát triển của
vi khuẩn
Công nghệ chế tạo Vật liệu cellulose
sinh học dạng khô
Y DƯỢC
Phương pháp không xâm lấn phát
hiện bệnh gan giai đoạn đầu
Nga phát triển phương pháp chữa
khỏi hoàn toàn viêm gan B mạn tính
Mỹ lần đầu tiên phát triển được da
nhân tạo có mạch máu
Singapore đạt bước tiến trong chế tạo
da người trong phòng thí nghiệm
Mỹ phát triển phương pháp điều trị
tiểu đường không dùng thuốc
Bước tiến đáng khích lệ trong cuộc
chiến phòng chống sốt xuất huyết
Israel thử nghiệm thành công thuốc
điều trị nhiễm trùng huyết cấp
Các nhà khoa học Hoa Kỳ xác định
chủng HIV mới
Nghiên cứu mới giải thích cách thức
virus HIV có thể né tránh ZAPped
Các nhà nghiên cứu Israel phát triển
lớp phủ chống vi khuẩn đa mục đích
Giường bệnh bằng đồng có tác
dụng diệt khuẩn
Phát hiện mới mở đường cho liệu
pháp điều trị tăng huyết áp kháng trị
Nghiên cứu đột phá có thể giúp chế
tạo vắcxin ngừa bệnh dại
Phương pháp mới giúp chữa bệnh lão
hoá sớm Progeria
Thuỵ Điển bào chế thành công vắc
xin uống ngừa tiêu chảy
Công nghệ tái tạo nhanh xương bị gãy
hay bị tổn thương do u xương
Thử nghiệm công nghệ chỉnh sửa
gene trong điều trị ung thư
Giải pháp “Bẫy ung thư” được cấy
ghép dưới da có thể thay thế thủ thuật
sinh thiết để phát hiện ung thư
Thành công trong thử nghiệm
CRISPR chống ung thư
FDA thông qua thuốc chống ung thư
do công ty Trung Quốc bào chế
NÔNG NGHIỆP
Hóa chất mới giữ cho cây xanh tốt Kiểm soát tuyến trùng (Meloidogyne
spp.) gây thối rễ tiêu bằng biện pháp
sinh học
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 3/56
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát
triển cà chua tím giàu anthocyanin
Công cụ mới đo lường tính bền vững
của thủy sản
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp loại bỏ một trong
những độc tính chủ yếu trong nước được
sử dụng để chiết xuất bitum
Australia phát triển công nghệ mới tái
chế các loại rác thải nhựa
Robot phân loại rác thế hệ mới
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Thiết kế pin lithium-ion mới giúp sạc ôtô điện trong 10 phút
Các nhà khoa học tìm ra cách rút ngắn
2/3 thời gian sạc xe điện nhờ thiết kế làm
nóng pin để tăng tốc độ phản ứng.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới Số 10/2019 4/56
Thời gian sạc lâu khiến xe điện khó cạnh tranh
với xe chạy bằng xăng dầu. Ảnh: Electrek
Rào cản khiến ôtô điện kém hấp dẫn với
người tiêu dùng là thời gian nạp năng lượng
(sạc pin) lâu hơn nhiều so với các phương
tiện chạy bằng xăng dầu. Vì vậy, thiết kế pin
lithium-ion mới của các nhà nghiên cứu từ
Đại học bang Pennsylvania, giúp rút ngắn 2/3
thời gian sạc, có thể là chìa khóa giúp mở
rộng thị trường xe điện trong tương lai.
Theo công bố trên tạp chí Joule hôm thứ
Tư, chỉ cần 10 phút sạc, loại pin mới có thể
nạp đủ điện để phương tiện chạy liên tục
quãng đường 322 - 480 km. Trưởng nhóm
nghiên cứu Chao-Yang Wang cho biết tốc độ
sạc như vậy đòi hỏi pin phải có khả năng nạp
nhanh chóng 400 kilowatt điện.
Các pin lithium-ion hiện có trên thị
trường không thể làm được điều này vì ở
nhiệt độ 20 - 30°C, tốc độ sạc quá nhanh có
thể gây ra hiện tượng mạ lithium, tức sự hình
thành của lớp cặn lithium kim loại xung
quanh cực dương, khiến tuổi thọ và hiệu suất
của pin giảm đáng kể chỉ sau 60 chu kỳ sạc.
Để khắc phục điều này, nhóm nghiên
cứu đã làm nóng điện cực lên đến 60°C, cho
phép pin sạc nhanh qua 2.500 chu kỳ mà
không tạo ra lớp mạ, điều này tương đương
với 14 năm sử dụng hay 750.000 km hành
trình. Pin sau mỗi lần sạc sẽ được làm mát về
nhiệt độ phòng trước khi sử dụng.
Thiết kế pin mới được đánh giá là một
bước đột phá công nghệ, tuy nhiên, nhóm
nghiên cứu cho biết có thể mất vài năm đến
một thập kỷ mới có thể đưa sản phẩm ra thị
trường. Họ cần thêm thời gian để đảm bảo
việc làm nóng pin trong quá trình sạc ngắn là
an toàn và ổn định, không dẫn đến các vụ nổ
năng lượng.
Đoàn Dương, theo Guardian/New
Scientist
Nguồn: vnexpress.net, 31/10/2019
Trở về đầu trang
**************
Mỹ phát triển robot hai chân có thể di chuyển cân bằng được như người
Robot bán thân, điều khiển từ xa và được
gắn thêm hai chân. (Nguồn: spectrum.ieee.org)
Theo mô tả của nghiên cứu đăng trên tạp
chí Science Robotics, đây là loại robot bán
thân, điều khiển từ xa và được gắn thêm hai
chân.
Các kỹ sư Mỹ vừa phát triển một
phương pháp giúp robot hai chân có thể di
chuyển cân bằng được như người, qua đó mở
ra triển vọng cho việc để robot thay con
người thực hiện các nhiệm vụ tại những môi
trường khó khăn.
Nghiên cứu trên đã được đăng trên tạp
chí Science Robotics. Theo mô tả của nghiên
cứu, đây là loại robot bán thân, điều khiển từ
xa và được gắn thêm hai chân.
Người điều khiển sẽ mặc một áo vest để
truyền thông tin về chuyển động và các lực
phản ứng của con người lên mặt đất sang
robot. Nhờ có chiếc áo vest, người điều khiển
vừa có thể trực tiếp ra lệnh cho robot và vừa
có thể cảm nhận được chuyển động của robot.
Ví dụ, nếu robot bắt đầu có xu hướng bị lật,
người điều khiển sẽ cảm thấy một lực kéo ở
áo vest và có thể đồng thời điều chỉnh độ cân
bằng của robot.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 5/56
Nhà nghiên cứu Joao Ramos của Viện
Công nghệ Massachusetts (MIT) cho biết khi
muốn mở một cánh cửa nặng, người điều
khiển có thể ra lệnh cho robot nghiêng về
phía cửa và đẩy nó mở ra, mà không bị mất
thăng bằng.
Ông Ramos phát hiện ra rằng sự cân
bằng được quyết định bởi sự tương quan giữa
khối tâm và tâm áp lực của một người. Vị trí
của hai nhân tố này có thể được thể hiện qua
một quả lắc ngược, với đỉnh của nó đại diện
cho khối tâm của con người và đáy của nó là
tâm áp lực trên mặt đất.
Tiếp đó, các nhà nghiên cứu phát triển
một thuật toán dựa trên mô hình quả lắc, để
kết nối phản ứng giữa con người và robot.
Các nhà nghiên cứu hiện đang lên kế
hoạch phát triển robot có hình dáng giống con
người với cách kiểm soát cân bằng tương tự,
với hy vọng robot có thể chạy qua vùng thảm
họa và đẩy được vật cản trong nhiệm vụ cứu
hộ.
Đặng Ánh
Nguồn: vietnamplus.vn, 04/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Trung Quốc phát triển robot bay lau kính các tòa nhà cao tầng
Robot bay - Ảnh: MENG Xiangdong
Để kiểm tra các tòa nhà cao tầng với
những bức tường bằng kính cũng như để lau
kính, các kỹ sư Trung Quốc đã phát triển
robot bay có thể đảm nhiệm công việc nguy
hiểm và tốn kém này.
Theo Eurekalet, Trung Quốc phải
thường xuyên kiểm tra các tòa nhà cao tầng
với những bức tường bằng kính. Thông
thường, nhân viên có thang máy làm việc rất
nguy hiểm này, tốn kém và không hiệu quả.
Giờ đây, các kỹ sư của Viện tự động hóa
Thẩm Dương thuộc Viện hàn lâm khoa học
Trung Quốc (Shenyang Institute of
Automation of the Chinese Academy of
Sciences) đã thiết kế một giải pháp thay thế
đầy hứa hẹn - một robot có thể di chuyển
xung quanh các bức tường và thậm chí thực
hiện các thao tác lau chùi.
Các nhà khoa học cho biết robot mới có
thể giải quyết một số vấn đề cùng một lúc,
không chỉ kiểm tra các toà nhà. Khác với các
robot biết leo, loại robot bay có thể vượt
chướng ngại và nhảy qua các rãnh trên tường.
Robot bay bao gồm bộ điều khiển một
nấc với khung hình khối và hệ thống thiết bị
bay không người lái với một cánh quạt hình
lục giác. Để phát triển, các kỹ sư trước tiên
làm cho robot hoạt động giống như một hệ
thống lò xo bình thường để có thể vượt qua
các chướng ngại vật. Hơn nữa, hệ số đàn hồi
có thể dễ dàng thay đổi.
Các kỹ sư đã thử nghiệm hệ thống: họ
gắn một công tắc vào tường để robot nhấp
vào hàng trăm lần để bật và tắt đèn.
Trong một thí nghiệm khác, robot di
chuyển trơn tru dọc theo một bức tường kính,
tạo áp lực cố định lên tường. Sau đó, robot sử
dụng một cây bút gắn vào đầu tay máy để viết
một vài từ.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 11/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Đại học Thiên Tân phát triển robot hoàn toàn mềm đầu tiên trên thế giới
Dịch vụ Cung cấp Thông tin Trọn gói Tháng 12 6/56
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Thiên
Tân đã phát triển một loại robot mới kết hợp
các thiết bị điện tử linh hoạt với các giọt chất
lỏng - robot có thân mềm hoàn toàn đầu tiên
trên thế giới và dự kiến sẽ trở thành một bước
tiến đầy hứa hẹn cho sự phát triển của ngành
công nghiệp điện tử linh hoạt và các thiết bị y
tế cấy ghép.
Lấy cảm hứng từ các sinh vật sinh học,
chẳng hạn như sứa, có cơ học mềm và tùy
biến dễ dàng với các lực bên ngoài, các giọt
chất lỏng với chức năng của các thiết bị điện
tử linh hoạt và kỹ thuật sử dụng các giọt vật
liệu làm vật mang các thiết bị linh hoạt.
Chúng có cơ chế tương tự như các cơ quan
mềm và cung cấp các chức năng tinh vi đã
được chứng minh cho việc cảm nhận, hiển
thị, tính toán và thu thập thông tin và lưu trữ
năng lượng.
Nghiên cứu, được thực hiện bởi một
nhóm do Giáo sư Huang Xian của Khoa Dụng
cụ Chính xác của Đại học Thiên Tân thực
hiện, đã được công bố trên tạp chí khoa học
Advanced Science. So với các robot mềm hiện
có, vẫn chủ yếu dựa vào các thành phần và
mạch cứng, robot mới hoàn toàn dựa trên các
vật chất mềm có một lợi thế là nó có thể chịu
được biến dạng lớn thông qua sự dịch chuyển
hình dạn. Các giọt chất lỏng có thể cải thiện
tính di động của thiết bị điện tử linh hoạt, cho
phép các thiết bị linh hoạt thực hiện các nhiệm
vụ ở các vị trí và môi trường khác nhau.
Nó cũng có tính năng nhận thức và kiểm
soát tự chủ, cho phép các ứng dụng tiềm năng
trong giám sát môi trường, phân tích phân tử,
đánh giá thuốc và tổng hợp hóa học.
P.A.T, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 19/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Nga phát triển tổ hợp robot để săn máy bay không người lái gián điệp
Máy bay không người lái gián điệp gần đây
đang trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các nhóm
dân cư khác nhau, số trường hợp gián điệp
công nghiệp ngày càng nhiều - Ảnh: Pixaba
Theo TASS, các nhà khoa học thuộc
Khoa công nghệ sáng tạo tại Đại học quốc gia
Tomsk, Nga, đã phát triển thành công tổ hợp
robot để săn máy bay không người lái gián
điệp.
Tổ hợp bao gồm máy bay không người
lái, không giống như các thiết bị tương tự
hiện có, không yêu cầu điều khiển của nhà
điều hành và có thể chặn các kênh điều khiển
thiết bị của kẻ vi phạm.
Theo cơ quan dịch vụ báo chí của
trường, các máy bay không người lái gần đây
đang trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các
nhóm dân cư khác nhau, số trường hợp gián
điệp công nghiệp và "côn đồ" sử dụng ngày
càng tăng.
Đồng thời, các phương pháp được sử
dụng để giải quyết các vấn đề hiện tại là
không hoàn hảo về mặt kỹ thuật - phải dùng
một máy bay không người lái tấn công được
điều khiển bởi một người hoặc các loài chim
được huấn luyện đặc biệt để săn máy bay
không người lái.
Được tài trợ của Bộ quốc phòng Nga,
các nhà khoa học đã hợp tác với các đối tác
công nghiệp phát triển một hệ thống phần
cứng và phần mềm để săn máy bay không
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 7/56
người lái gián điệp. Đặc điểm của hệ này là
máy bay không người lái canh gác có thể hoạt
động không cần người điều khiển và phong
toả các kênh chỉ huy của gián điệp.
Một đặc điểm khác biệt trong phát minh
của các nhà khoa học là máy bay không
người lái giám sát hoạt động tự chủ và không
cần người điều khiển thủ công. Cần lưu ý
rằng tổ hợp trên bao gồm cả máy bay không
người lái hoạt động trên không và robot trên
mặt đất.
Máy bay không người lái trên không
phát hiện, xác định và theo dõi kẻ xâm nhập
bằng thị giác kỹ thuật, sau đó chặn tín hiệu
gián điệp hoặc bắt nó bằng một lưới đặc biệt
rồi đưa về căn cứ. Nếu trọng lượng của thiết
bị bị bắt quá lớn (hơn 10 kg) thì nó được
trung hòa và hạ xuống mặt đất bằng dù. Ở đó,
một robot chạy bánh xích sẽ đến tóm “tù
binh”.
Cần lưu ý rằng máy bay không người lái
cảnh vệ được thiết kế để ngăn chặn gián điệp
công nghiệp trên lãnh thổ của các công trình
quan trọng về mặt chiến lược: các xi nghiệp
của các ngành công nghiệp hạt nhân và kỹ
thuật chế tạo máy, các tổ hợp nhiên liệu và
năng lượng.
Ngoài ra, chức năng của máy bay không
người lái cảnh giới có thể được ứng dụng
trong các cơ quan cảnh sát và đặc vụ.
Vũ Trung Hương
Nguồn: dantri.com.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Thuỵ Sĩ dùng trí tuệ nhân tạo dự báo sét
Theo Climate and Atmospheric Science,
các khoa học từ Lausanne,Thuỵ Sĩ, đã phát
triển một hệ thống máy học đơn giản, có thể
dự báo sét 30 phút trước khi xảy ra, chỉ dựa
vào dữ liệu thời tiết thông thường.
Cơ quan báo chí của Trường bách khoa
Liên bang Thụy Sĩ Lausanne (EPFL), dẫn lời
nhà nghiên cứu Amirhossein Mostajabi cho
biết: "Các hệ thống dự báo sét hiện tại rất
chậm, chúng cần các nguồn dữ liệu chuyên
dụng như radar hoặc vệ tinh. Phương pháp
của các nhà khoa học Thuỵ Sĩ sử dụng thông
tin có thể được thu thập bởi bất kỳ trạm thời
tiết nào. Điều này có nghĩa là có thể chuẩn bị
dự báo ngay cả cho những nơi xa xôi nhất
trên Trái đất".
Ngay từ năm 1749, Benjamin Franklin,
chính trị gia và nhà khoa học tự nhiên nổi
tiếng, đã làm sáng tỏ bản chất của sét. Các thí
nghiệm của ông với các cột thu lôi và diều
cho thấy rằng, các tia sét là các luồng phóng
điện chạy giữa những đám mây chứa sấm sét
và bề mặt Trái đất.
Vào đầu thập niên này, qua nghiên cứu
của các nhà vật lý Nga, bức tranh trở nên
sáng tỏ hơn. Hóa ra, các tia vũ trụ có liên
quan đến sự xuất hiện sét, hoạt động như một
loại "cò súng" để phóng điện. Như được các
nhà khoa học Nhật Bản phát hiện gần đây,
các vụ nổ tia gamma đều báo trước các tia sét.
Về nguyên tắc, có thể sử dụng các vụ nổ tia
gamma để dự đoán chính xác thời điểm và
nơi tia sét tiếp theo sẽ được sinh ra.
Amirhossein Mostajabi và các đồng
nghiệp đã phát triển một hệ thống ít chính xác
hơn, nhưng với giá cả phải chăng và có khả
năng mở rộng hơn để dự đoán các vụ sét đánh
bằng cách nghiên cứu xem các vụ sét đánh xảy
ra trong các loại đám mây nào và trong điều
kiện khí tượng nào. Những quan sát này đã
đưa họ đến ý tưởng rằng sét phát sinh trong
những điều kiện rất đặc thù, có thể dự đoán và
tính toán bằng hệ thống trí tuệ nhân tạo.
Được cổ vũ bởi ý tưởng này, các nhà vật
lý đã chuẩn bị một bộ thuật toán học máy với
ý tưởng rằng, một số hệ thống dự đoán tương
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 8/56
đối kém chính xác có thể học hỏi từ những sai
lầm trước đó và dần dần đi đến câu trả lời
chính xác được kết hợp trong một chuỗi.
Để đào tạo chương trình này, các nhà
vật lý đã chuẩn bị một bộ dữ liệu đặc biệt mà
hàng chục trạm khí tượng được lắp đặt ở các
khu vực khác nhau của Thụy Sĩ thu thập trong
hàng chục năm. Trong thời gian này, hàng
ngàn vụ sét đánh đã xảy ra ở khu vực lân cận.
Điều này cho phép trí tuệ nhân tạo tìm hiểu
các đặc điểm nhận dạng của sét và học cách
dự đoán sét dựa qua những thay đổi đặc trưng
về nhiệt độ, độ ẩm và áp suất không khí cũng
như các dữ liệu thời tiết khác.
Phiên bản hiện tại của hệ thống máy học
này, qua thử nghiệm, đã dự đoán chính xác
76% các vụ sét đánh trong nửa giờ trước khi
chúng thực sự xuất hiện ở khu vực gần các
trạm thời tiết. Điều này, theo các nhà khoa
học, có thể làm tăng đáng kể sự an toàn của
máy bay và đảm bảo hoạt động liên tục của
mạng điện cùng các cơ sở hạ tầng khác
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 11/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Trí tuệ nhân tạo chuyển đổi hình ảnh 2D thành 3D bằng kỹ thuật học sâu
Một nhóm nghiên cứu tại trường Đại
học California đã phát minh ra kỹ thuật mở
rộng khả năng của kính hiển vi huỳnh quang,
cho phép các nhà khoa học dán nhãn chính xác
các bộ phận của tế bào sống và mô bằng thuốc
nhuộm phát sáng dưới tác động của ánh sáng
đặc biệt. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng trí tuệ
nhân tạo để biến đổi hình ảnh 2D thành 3D
cho thấy hoạt động bên trong của các sinh vật.
Trong một nghiên cứu được công bố trên
tạp chí Nature Methods vào ngày 4/11/2019,
các nhà khoa học cũng nêu rõ kết cấu Deep
Deep-Z đã có thể sửa lỗi hoặc quang sai trong
ảnh, như khi một mẫu bị nghiêng hoặc cong.
Hơn nữa, nhóm nghiên cứu đã chứng minh hệ
thống có thể lấy hình ảnh 2D từ một loại kính
hiển vi và gần như tạo ra hình ảnh 3D của mẫu
như thể chúng được tạo ra bằng kính hiển vi
khác, hiện đại hơn.
“Đây là phương pháp mới, rất mạnh mẽ
có sự hỗ trợ của kỹ thuật học sâu để tạo nên
hình ảnh 3D về các mẫu vật sống tiếp xúc ít
với ánh sáng nhất vì ánh sáng có thể ảnh
hưởng xấu đến các mẫu”, Aydogan Ozcan,
giáo sư điện và máy tính và là đồng tác giả
nghiên cứu cho biết.
Ngoài để các mẫu vật tránh được liều
lượng ánh sáng có khả năng gây hại, hệ thống
này có thể cung cấp cho các nhà sinh vật học
và các nhà nghiên cứu khoa học sự sống một
công cụ mới để chụp ảnh 3D đơn giản, nhanh
và ít tốn kém hơn nhiều so với các phương
pháp hiện tại. Cơ hội để sửa chữa quang sai
sẽ cho phép các nhà khoa học nghiên cứu sinh
vật sống để thu thập dữ liệu từ các hình ảnh,
đáng lẽ không thể sử dụng được. Các nhà
nghiên cứu cũng có quyền truy cập ảo vào các
thiết bị đắt tiền và phức tạp.
Nghiên cứu này dựa trên một kỹ thuật
trước đó mà Ozcan và các cộng sự của ông đã
phát triển, cho phép tạo ra hình ảnh kính hiển
vi huỳnh quang 2D có độ phân giải siêu cao.
Cả hai kỹ thuật này đều cải tiến kính hiển vi
bằng cách dựa vào kỹ thuật học sâu - sử dụng
dữ liệu để “đào tạo” mạng lưới thần kinh,
một hệ thống máy tính mô phỏng não người.
Deep-Z được “dạy” sử dụng hình ảnh
thử nghiệm từ kính hiển vi huỳnh quang quét,
lấy hình ảnh tập trung tại nhiều độ sâu để thu
được hình ảnh 3D của mẫu. Trong hàng nghìn
lần đào tạo, mạng lưới thần kinh đã học cách
chụp ảnh 2D và suy ra các lát 3D chính xác ở
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 9/56
độ sâu khác nhau trong mẫu. Sau đó, khung
Deep-Z được kiểm tra.
Nhóm nghiên cứu đã áp dụng khung
Deep-Z cho hình ảnh của C. Elegans, loài
giun tròn là mô hình phổ biến trong khoa học
thần kinh vì nó có hệ thống thần kinh đơn
giản và được hiểu rõ. Khi chuyển đổi một bộ
phim 2D về loài giun này sang 3D, từng
khung hình, các nhà nghiên cứu có thể theo
dõi hoạt động của từng tế bào thần kinh trong
cơ thể giun. Và bắt đầu bằng một hoặc hai
hình ảnh 2D của C. Elegans được chụp ở các
độ sâu khác nhau, Deep-Z đã tạo ra hình ảnh
3D ảo cho phép nhóm nghiên cứu xác định
các tế bào thần kinh riêng lẻ trong giun, phù
hợp với đầu ra 3D của kính hiển vi quét,
ngoại trừ cho sinh vật sống tiếp xúc ít ánh
sáng nhất.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra
rằng Deep-Z có thể tạo ra hình ảnh 3D từ các
bề mặt 2D nơi các mẫu bị nghiêng hoặc cong
- mặc dù mạng lưới thần kinh chỉ được đào
tạo với các lát 3D hoàn toàn song song với bề
mặt của mẫu.
Trong các thí nghiệm khác, Deep-Z đã
được đào tạo với hình ảnh từ hai loại kính
hiển vi huỳnh quang: trường rộng cho toàn bộ
mẫu tiếp xúc với nguồn sáng; và tiêu điểm, sử
dụng tia laser để quét từng phần của mẫu.
Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng khung của
họ sau đó có thể sử dụng hình ảnh kính hiển
vi trường rộng 2D về mẫu để tạo ra hình ảnh
3D gần giống với hình ảnh được chụp bằng
kính hiển vi đồng tiêu. Chuyển đổi này có giá
trị vì kính hiển vi đồng tiêu cho hình ảnh sắc
nét hơn, có độ tương phản cao hơn so với
trường rộng. Mặt khác, kính hiển vi trường
rộng chụp ảnh với chi phí thấp hơn và ít yêu
cầu kỹ thuật hơn.
“Đây là nền tảng thường áp dụng cho
các cặp kính hiển vi khác nhau, mà không chỉ
chuyển đổi từ trường rộng sang tiêu điểm”,
Yair Rivenson, phó giáo sư kỹ thuật điện và
máy tính tại UCLA nói. “Mỗi loại kính hiển
vi có ưu, nhược điểm riêng. Với khuôn khổ
này, bạn có thể khai thác tốt nhất cả hai thế
giới bằng cách sử dụng trí tuệ nhân tạo để kết
nối các loại kính hiển vi khác nhau bằng kỹ
thuật số”.
N.P.D, theo sciencedaily
Nguồn: vista.gov.vn, 14/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Mỹ thử nghiệm thành công hệ thống laser chiến đấu mới
Hệ thống vũ khí laser ATHENA
Ảnh: Lockheed Martin Corporation
Theo Popular Mechanics, Mỹ đã thử
nghiệm thành công tổ hợp laser thử nghiệm
năng lượng cao (Advanced Test High Energy
Asset - ATHENA) tiên tiến công suất mạnh.
Hệ thống laser ATHENA đã phá hủy
một số thiết bị bay không người lái tại một
căn cứ quân sự ở Oklahoma, chứng tỏ rằng có
thể được sử dụng hiệu quả trong chiến đấu
thực sự. Đặc biệt, có thể dùng để bảo vệ căn
cứ (đặc biệt đúng với các căn cứ không quân
với các thiết bị nhiều triệu đô la) khỏi các
cuộc tấn công bằng máy bay không người lái.
ATHENA là một hệ thống vũ khí laser
30 kilowatt sử dụng công nghệ ALADIN
( Accelerated Laser Demonstration Initiative).
Trong đó, 3 tia laser 10 kilowatt đã được
kết hợp thành một chùm 30 kilowatt. Nếu cần
thiết, sức mạnh của phức tạp có thể giảm bớt.
Mỹ đang cho thấy sự tiến bộ to lớn trong
việc tạo ra các hệ thống laser chiến đấu. Đặc
biệt, vào năm 2019, người Mỹ đã dùng tia
laser bắn hạ tên lửa trên không trung.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 10/56
Các thử nghiệm được thực hiện như một
phần của ý tưởng lá chắn SHiELD.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 10/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Điện cực mới có thể làm tăng hiệu suất của xe điện và máy bay
Xe điện và máy bay được sử dụng ngày
càng phổ biến. Dù những tiến bộ công nghệ
quan trọng đã làm tăng đáng kể hiệu suất của
các phương tiện này, nhưng vẫn còn một số
hạn chế về phương thức triển khai áp dụng
rộng rãi.
Một trong những thách thức quan trọng
nhất phải kể đến là khối lượng, vì pin và siêu
tụ điện hiện cũng rất nặng. Nhóm nghiên cứu
tại trường Kỹ thuật thuộc Đại học Texas
A&M đang tiếp cận vấn đề khối lượng từ góc
độ độc đáo.
Hầu hết nghiên cứu giảm khối lượng xe
điện đều tập trung vào tăng mật độ năng
lượng, sau đó, giảm trọng lượng của pin hoặc
chất siêu tụ điện. Tuy nhiên, nhóm nghiên
cứu do TS. Jodie Lutkenhaus dẫn đầu, tin
rằng xe điện và máy bay sẽ có trọng lượng
nhẹ hơn nhờ lưu trữ năng lượng trong các kết
cấu thân. Cách tiếp cận này đặt ra những
thách thức kỹ thuật riêng, vì nó đòi hỏi chế
tạo pin và siêu tụ điện có tính chất cơ học
tương tự như kết cấu thân. Cụ thể, pin và điện
cực siêu tụ điện thường được tạo nên từ các
vật liệu giòn và không mạnh về mặt cơ học.
Trong bài báo công bố trên tạo chí
Matter, nhóm nghiên cứu đã mô tả quy trình
chế tạo điện cực siêu tụ điện mới có tính chất
cơ học được cải thiện mạnh mẽ. Trong nghiên
cứu này, các nhà khoa học đã tạo ra các điện
cực rất mạnh dựa vào graphene có chức năng
của dopamine và sợi nano Kevlar. Dopamine,
cũng là một chất dẫn truyền thần kinh và là
phân tử có độ kết dính cao mô phỏng các
protein cho phép vẹm bám vào mọi bất kỳ bề
mặt. Việc sử dụng dopamine và các ion canxi
đã cải thiện đáng kể hiệu suất cơ học.
Nghiên cứu này dẫn đến sự ra đời của
loại điện cực kết cấu hoàn toàn mới, mở ra cơ
hội chế tạo xe điện và máy bay trọng lượng
nhẹ. Dù nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào
các siêu tụ điện, nhưng TS. Lutkenhaus hy
vọng sẽ chuyển sang nghiên cứu pin cứng.
N.P.D, phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 12/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Siêu vật liệu thông minh có giác quan và khả năng tự lập trình lại
Ngày nay, các nhà khoa học vật liệu
nhắm đến mục tiêu đưa thiết kế trí thông
minh vào kết cấu của vật liệu hoặc siêu vật
liệu để họ có thể lập trình chức năng. Các nỗ
lực kỹ thuật có thể thay đổi từ hình thức thụ
động sang hình thức chủ động để phát triển
các siêu giao diện có thể lập trình bằng cách
sử dụng các trường sóng điện từ động và tùy
ý (EM). Tuy nhiên, các siêu giao diện như
vậy yêu cầu điều khiển thủ công để chuyển
đổi giữa các chức năng.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 11/56
Trong một nghiên cứu mới được công
bố trên Light: Science & Application, Qian
Ma và một nhóm nghiên cứu liên ngành thuộc
Phòng thí nghiệm trọng điểm nhà nước, Khoa
học và Công nghệ không gian mạng, và Khoa
điện tử (Trung Quốc) đã thiết kế một siêu dữ
liệu thông minh có khả năng tự thích ứng.
Sử dụng hệ thống cảm biến phản hồi tự
động, các metasurface được được gắn các bộ
cảm biến bổ trợ bao quanh, có thể tùy chỉnh
chức năng hoạt động EM. Để chứng minh
khái niệm này, nhóm nghiên cứu đã phát triển
thử nghiệm một metasurface thông minh nhạy
cảm với chuyển động được tích hợp vào một
con quay hồi chuyển ba trục (để đo hoặc duy
trì chuyển động quay) với khả năng tự điều
chỉnh các chùm bức xạ EM bằng cách quay
metasurface này.
Qian Ma và các cộng sự đã phát triển một
thuật toán phản hồi trực tuyến cùng với phần
mềm tiêu khiển để điều khiển các metasurface
thông minh và thực hiện các phản ứng động
thích ứng. Họ đã mở rộng các metasurface này
để các bộ cảm biến vật lý lập trình có thể phát
hiện độ ẩm, nhiệt độ hoặc ánh sáng. Chiến
lược thiết kế vật liệu sẽ mở ra một con đường
mới để phát triển các thiết bị lập trình tự động
có thể cảm nhận và phát hiện chuyển động
trong môi trường xung quanh.
Siêu vật liệu có các đặc tính điện từ
đáng chú ý nhờ cấu trúc nửa bước sóng và
chức năng sắp sếp của chúng. Metasurface có
thể vượt qua những thách thức thông thường
trong các siêu vật liệu khối do đó có thể xử lý
triệt để được sóng EM để định hình mặt sóng,
kiểm soát bức xạ và chuyển đổi phân cực.
Do các metasurface có tính linh hoạt nên
trước đó nhiều nhóm nghiên cứu đã đề xuất
một loạt các ứng dụng liên quan bao gồm tạo
ảnh, tàng hình và ảo ảnh, phản xạ và khúc xạ
dị thường, và chủ yếu tập trung vào tính điều
tiết liên tục trên các metasurface. Để khám phá
những triển vọng mới của các metasurface,
nhóm nghiên cứu đã đề xuất liên kết vật lý
metasurface với khoa học thông tin kỹ thuật
số. Để khám phá các khả năng mới của
metasurface, các nhà nghiên cứu đã đề xuất
các metasurface mã hóa kỹ thuật số bao gồm
vật lý, khoa học thông tin và xử lý tín hiệu số.
Tuy nhiên, các hệ thống như vậy vẫn phải có
sự điều khiển của con người (thủ công).
Trong nghiên cứu hiện tại, Qian Ma
cùng các đồng nghiệp đã đề xuất và phát triển
một metasurface mã hóa kỹ thuật số thông
minh với bề mặt có khả năng tự thích ứng và
tái lập trình chức năng. Metasurface sử dụng
các bộ điều biến phản hồi riêng biệt cho các
vị trí không gian và các thay đổi khác.
Nhóm nghiên cứu tích hợp một cảm biến
con quay hồi chuyển, một hệ thống điều
khiển thông minh và thuật toán phản hồi
nhanh vào thiết lập thử nghiệm để nhận ra các
chức năng tự lập trình tự thích ứng mà không
cần sự trợ giúp của con người.
Trong thiết lập thử nghiệm, họ đã sử
dụng một cảm biến trên metasurface để có thể
phát hiện các dấu hiệu đặc biệt xung quanh
cấu trúc trong môi trường và chuyển tín hiệu
đến một bộ vi điều khiển (MCU). MCU xác
định các phản ứng với các biến thể này và sau
đó truyền đến các vi mạch dùng cấu trúc mảng
phần tử logic mà người dùng có thể lập trình
được (FPGA) thông qua các mẫu mã hóa, để
thay đổi cấu hình metasurface trong thời gian
thực. Các siêu giao diện thông minh có các
chức năng tự lập trình tự thích ứng tự động
dựa trên hệ thống phản hồi và phần mềm tính
toán cảm biến được cài đặt trên bề mặt. Khả
năng tương thích bề mặt tuyệt vời của MCU
đã cho phép nhóm nghiên cứu của Qian Ma
tích hợp một loạt các cảm biến cho những
metasurface thông minh này có thể để “cảm
nhận” được các mức độ thay đổi khác nhau.
Nghiên cứu này sẽ mở đường cho việc
phát triển các siêu giao diện thông minh và
nhận diện trong tương lai.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 12/56
P.T.T , theo phys.org
Theo vista.gov.vn, 15/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị lai mới có thể vừa thu và lưu trữ năng lượng mặt trời
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Houston
vừa công bố một thiết bị mới có thể thu năng
lượng mặt trời một cách hiệu quả và lưu trữ
cho đến khi cần thiết để sử dụng.
Không giống như các tấm pin mặt trời,
vốn dựa vào công nghệ quang điện để tạo ra
điện trực tiếp, thiết bị lai thu nhiệt từ mặt trời
và lưu trữ dưới dạng năng lượng nhiệt. Nó
giải quyết một số vấn đề đã cản trở việc áp
dụng năng lượng mặt trời ở quy mô rộng hơn,
cho thấy một con đường sử dụng năng lượng
mặt trời suốt ngày đêm, mặc dù thời gian ánh
sáng mặt trời hạn chế. Thậm chí ngay cả ngày
nhiều mây và các hạn chế khác.
Mô phỏng thiết bị mới của các nhà khoa học
tại Đại học Houston (Mỹ)
Công trình được mô tả trong một báo
cáo mới nhất kết hợp lưu trữ năng lượng phân
tử và lưu trữ nhiệt ẩn để tạo ra một thiết bị thu
hoạch, lưu trữ tích hợp cho hoạt động tiềm
năng 24/7.
Các nhà nghiên cứu báo cáo hiệu quả
thu hoạch 73% khi vận hành quy mô nhỏ và
lên tới 90% khi vận hành quy mô lớn. Thậm
chí lên đến 80% năng lượng dự trữ đã được
phục hồi vào ban đêm và các nhà nghiên cứu
cho biết khả năng phục hồi vào ban ngày
thậm chí còn cao hơn.
Các nhà nghiên cứu Hadi Ghasemi, Bill
D. Cook cho biết khả năng thu hoạch hiệu
quả cao, một phần là do khả năng của thiết bị
thu được toàn bộ ánh sáng mặt trời, thu hoạch
nó sử dụng ngay lập tức và chuyển đổi phần
dư thừa thành lưu trữ năng lượng phân tử.
Thiết bị được tổng hợp sử dụng
norbornadiene - quadricyclane làm vật liệu
lưu trữ phân tử, một hợp chất hữu cơ mà các
nhà nghiên cứu cho thấy năng lượng đặc biệt
cao và giải phóng nhiệt đặc biệt trong khi vẫn
ổn định trong thời gian lưu trữ kéo dài.
Ghasemi cho biết khái niệm tương tự có
thể được áp dụng bằng cách sử dụng các vật
liệu khác nhau, cho phép hiệu suất bao gồm
cả nhiệt độ vận hành và hiệu quả của chế độ
tối ưu.
Giáo sư hóa học T. Randall Lee tiết lộ
thiết bị này mang lại hiệu quả cải thiện theo
nhiều cách. Năng lượng mặt trời được lưu trữ
ở dạng phân tử thay vì nhiệt, tiêu tan theo thời
gian và hệ thống tích hợp cũng giảm tổn thất
nhiệt vì không cần vận chuyển năng lượng
lưu trữ qua các đường ống.
Vào ban ngày, năng lượng nhiệt mặt trời
có thể được thu hoạch ở nhiệt độ cao tới 120
độ C. Vào ban đêm, khi có ít hoặc không có
bức xạ mặt trời, năng lượng dự trữ được thu
hoạch bằng vật liệu lưu trữ phân tử, có thể
chuyển đổi từ phân tử năng lượng thấp hơn
sang phân tử năng lượng cao hơn. Điều đó
cho phép năng lượng dự trữ tạo ra năng lượng
nhiệt ở nhiệt độ cao hơn vào ban đêm so với
ban ngày, tăng cường lượng năng lượng có
sẵn ngay cả khi mặt trời không chiếu sáng.
Minh Long, theo Techxplore
Nguồn: dantri.com.vn, 23/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 13/56
Nga Mỹ hợp tác truyền tín hiệu siêu nhanh đi khoảng cách xa
Theo IEEE Photonics Technology
Letters, các nhà vật lý từ Viện vật lý và công
nghệ Moscow, công ty T8 và tập đoàn
Corning Incorporated của Mỹ đã phát triển hệ
thống có tên Volga để truyền tín hiệu tốc độ
cao qua khoảng cách xa mà không cần
khuếch đại trung gian.
Trong thử nghiệm đầu tiên, họ đã thành
công trong việc truyền tín hiệu ở khoảng cách
520 km với tốc độ 200 Gb/s, trong khi kỷ lục
trước đó trong điều kiện thực địa không vượt
quá 500 km với tốc độ 100 Gb/s. Các nhà
khoa học đã từng đạt được tốc độ như vậy
trong điều kiện phòng thí nghiệm, tuy nhiên,
những kết quả này không thể được áp dụng
trên thực tế .
Loại dây cáp của công ty Corning, có
sẵn rộng rãi trên thị trường mở, đã được sử
dụng để tạo ra cường độ tín hiệu này. Để tín
hiệu không bị giảm, nó được khuếch đại ngay
ở đầu và ở cuối tại hai điểm trung gian.
Cáp truyền có 3 phần, mỗi phần đều
gồm 2 loại dây được kết nối lần lượt với nhau
Tại điểm kết nối, các nhà khoa học đã đặt các
máy thu để dùng sóng điện từ tăng cường
quang lực từ xa, giúp khuếch đại tín hiệu.
Nhờ hệ thống Volga, các nhà khoa học
đã có thể tăng tốc độ truyền tín hiệu lên 600
Gb/s, nhưng họ không nâng tiếp trong khuôn
khổ của thí nghiệm, vì điều này ảnh hưởng
tiêu cực đến khoảng cách.
Công nghệ này sẽ cho phép truy cập
Internet ở các khu vực hẻo lánh, ví dụ, ở
Siberia, trên các đảo của Canada hoặc ở
Indonesia. Để sử dụng công nghệ này, các
nhà cung cấp thậm chí không cần lắp đặt các
trạm trung gian.
Vũ Trung Hương
Nguồn: dantri.com.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Phát triển được công nghệ đột phá trong sử dụng năng lượng Mặt trời
Công ty khởi nghiệp Heliogen trình diễn
công nghệ của mình - Ảnh: Heliogen
Công ty khởi nghiệp Heliogen đã tạo
được bước đột phá giúp cho ngành công
nghiệp nặng - nhà máy thép hoặc nhà máy
hóa dầu - từ bỏ nhiên liệu hóa thạch bằng một
phương pháp tập trung ánh sáng Mặt trời
(concentrating the Sun’s rays) đạt được nhiệt
độ trên 1.000 độ C - đủ để ngành công nghiệp
nặng có thể từ bỏ việc đốt than hoặc khí đốt.
Theo Ars Techinca, công ty khởi nghiệp
Heliogen được tài trợ từ Quỹ Bill Gates vừa
tuyên bố đã tạo ra được công nghệ đầu tiên
trên thế giới để thay thế xứng đáng về mặt
kinh tế cho nhiên liệu hóa thạch bằng nhiệt
Mặt trời tập trung không có carbon. Rất khó
cho ngành công nghiệp nặng - nhà máy thép
hoặc nhà máy hóa dầu - từ bỏ nhiên liệu hóa
thạch vì chúng đòi hỏi nhiệt độ cực cao để
sản xuất.
Không có gì đáng ngạc nhiên, 1/5 lượng
khí thải carbon dioxide của thế giới là do lỗi
của ngành công nghiệp nặng. Heliogen, công
ty được tạo ra trong vườn ươm công nghệ đầu
tiên trên thế giới Idealab và nhận được tài trợ
từ Quỹ Bill Gates, đã đưa ra một phương pháp
tập trung ánh sáng Mặt trời (concentrating the
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 14/56
Sun’s rays) độc đáo. Công nghệ cho phép đạt
được nhiệt độ trên 1.000 độ C - đủ để ngành
công nghiệp nặng có thể từ bỏ việc đốt than
hoặc khí đốt. Công ty khởi nghiệp này đã đạt
được một bước đột phá như vậy bằng cách kết
hợp phần mềm tiên tiến và thị giác máy với
công nghệ điều khiển cực kỳ chính xác các
gương phản chiếu tia nắng Mặt trời. Hiện tại,
Heliogen chưa tiết lộ các chi tiết kỹ thuật của
sáng chế, nhưng có thể giả định rằng hệ thống
các camera được dùng để ghi lại vị trí của các
gương và liên tục điều chỉnh vị trí đó để duy
trì chùm sáng tập trung nhất.
Chùm tia tập trung (concentrating the
Sun’s rays) vào một bể chứa có tác nhân nhạy
cảm nhiệt - thường là nước hoặc muối. Nhiệt
độ cao có nghĩa là chúng ta có thể lưu trữ
cùng một lượng nhiệt trong một thể tích nhỏ
hơn. Và điều này đơn giản hóa các hệ thống
nhiệt Mặt trời và giảm tiêu thụ vật liệu, đồng
thời, làm cho năng lượng nhiệt Mặt trời có
sức cạnh tranh cao hơn so với các nguồn năng
lượng tái tạo khác.
Được biết, vào tháng 9 vừa qua, tỷ phú
Bill Gates thậm chí đã kêu gọi ngừng cung
cấp các khoản trợ cấp của chính phủ cho việc
phát triển năng lượng gió và Mặt trời - vì hai
lĩnh vực này đã phát triển đủ để các nhà sản
xuất có thể hạ giá và cạnh tranh với nhiên liệu
hóa thạch một cách ngang ngửa. Đã đến lúc
bảo vệ các công nghệ dễ bị tổn thương hơn.
Vũ Trung Hương
Nguồn: dantri.com.vn, 21/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà địa chất Hoa Kỳ phát triển các công nghệ mới để cải thiện dự báo động đất và sóng thần
Các nhà địa chất Hoa Kỳ đã phát triển
và thử nghiệm thành công công nghệ cao
mới có thể phát hiện các trận động đất nhỏ,
núi lửa và sóng thần. Hệ thống này có khả
năng phát hiện các chuyển động nhỏ từ 1 đến
2 cm.
Hệ thống sẽ có thể phát hiện những thay
đổi nhỏ làm căng lớp vỏ Trái đất, GS. Tim
Dixon với Trường Khoa học Địa chất USF,
người đứng đầu dự án nghiên cứu. Hệ thống
trắc địa đáy biển được cấp bằng sáng chế là
một phao câu neo được đặt trên đỉnh bởi Hệ
thống Định vị Toàn cầu (GPS) có độ chính
xác cao.
Theo Dixon, hướng của phao được đo
bằng la bàn kỹ thuật số cung cấp thông tin về
tiêu đề, cường độ và cuộn sóng - giúp ghi lại
chuyển động từ bên này sang bên kia của trận
động đất tạo ra động đất.
Nghiên cứu của họ đã được công bố trên
Tạp chí Nghiên cứu Địa vật lý - Trái đất rắn.
Theo nhóm nghiên cứu, vùng nước nông ven
biển là một môi trường khó khăn hơn nhưng
cũng rất quan trọng đối với nhiều hoạt động
ven biển, do vậy cần lưu ý động đất và sóng
thần.
P.A.T, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 25/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 15/56
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Sinh viên chế tạo xe điện chạy 900 km trong một lần sạc
Chiếc Helia do sinh viên Đại học
Cambridge phát triển có tỷ lệ tiêu hao năng
lượng chỉ bằng 1/10 so với xe điện thương
mại hiện nay.
Ô tô điện Helia tham dự một cuộc đua ở Australia
hôm 13 - 14/10. Ảnh: Đại học Cambridge
Helia là đứa con tinh thần của đội đua
Eco Eco đến từ Đại học Cambridge - gồm 20
sinh viên, dẫn đầu bởi giám đốc chương trình
Xiaofan Zhang. Đây là một chiếc xe điện 4
chỗ ngồi hiệu suất cao, có khả năng di chuyển
liên tục quãng đường dài 900 km chỉ trong
một lần sạc.
Nhờ thiết kế khung xe bằng sợi carbon
siêu nhẹ, xe có trọng lượng chỉ 550 kg. Khi
chở đủ 4 người, nó có thể chạy với tốc độ tối
đa 120 km/h và tốc độ hành trình khoảng 80
km/h. Xe được mô tả là tiết kiệm nhiên liệu
gấp 10 lần so với các mẫu ôtô điện đang được
bán trên thị trường.
Hiệu suất cao của phương tiện không chỉ
đến từ cấu trúc nhẹ mà còn nhờ thiết kế khí
động học và lốp kháng lăn thấp (low-rolling
resistance tire) - giúp giảm ma sát giữa bề mặt
cao su của lốp với mặt đường. Trên nóc xe
còn được lắp đặt các tấm pin năng lượng mặt
trời hiệu suất 25% với tổng diện tích bề mặt
là 5 m2.
Ngay cả khi không sử dụng pin mặt trời,
chiếc Helia vẫn có phạm vi hoạt động gấp đôi
so với xe điện Tesla hiện nay. Hệ thống pin
của phương tiện có thể được sạc bằng bộ sạc
điện tiêu chuẩn. Đội đua Eco Eco cho biết sẽ
tổ chức các chuyến lưu diễn với xe điện Helia
tại các trường học trên khắp Vương quốc Anh
vào mùa hè tới, với mục đích truyền cảm
hứng cho thế hệ kỹ sư tương lai.
Theo VnExpress
Nguồn: tapchigiaothong.vn, 04/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Canon phát triển ống kính máy ảnh tự lọc bụi từ không khí
Sơ đồ cấu tạo ống kính mới của Canon có thể
giúp loại bỏ bụi từ không khí vốn gây các
điểm tối trong ảnh - Ảnh: Petapixel
Theo PetaPixel, các kỹ sư của Canon đã
phát triển một ống kính máy ảnh hút không
khí vào, xoay không khí qua ma trận trong
thân máy và sau đó đẩy ra khỏi máy ảnh.
Công ty Canon giải thích rằng bằng cách
này có thể giúp loại bỏ các điểm tối trong
ảnh. Ống kính hút không khí qua các kênh
xung quanh viền ngoài của thiết bị. Không
khí này được đưa trở lại hộp gương của máy
ảnh khi gương được nâng lên và cảm biến
được mở.
Không khí lẫn bụi sau đó được dẫn qua
bên trong ống kính cho đến khi nó thoát ra
phía trước ống kính qua các kênh bao quanh
mặt trước của máy ảnh.
Công ty Canon đã nộp đơn xin cấp bằng
sáng chế “để tạo ra một thiết bị có thể dễ
dàng loại bỏ bụi bám vào yếu tố hình thành
hình ảnh bên trong thân máy”.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 16/56
Chức năng làm sạch cảm biến trong
nhiều máy ảnh hiện đại thường sử dụng sự
rung. Ý tưởng của Canon tiến thêm một bước
và loại bỏ bụi mà không cần bổ sung thêm
thiết bị.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 04/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Thiết kế vòi nước Da Vinci 2 trong 1: kết hợp vòi rửa với vòi nước sạch có thể uống trực tiếp
Hiện nay, vòi nước công cộng đang
ngày càng trở nên phổ biến và được coi là
một phương pháp tiếp cận "văn minh" trong
thế giới hiện đại. Tuy nhiên, nhiều người vẫn
có thói quen uống nước không đúng cách, họ
thường đưa miệng sát với miệng vòi và điều
này không đảm bảo vệ sinh. Thiết bị vòi rửa
Da Vinci mới được phát triển và thiết kế theo
hình thức kết hợp vòi rửa với vòi nước sạch
có thể uống trực tiếp, vừa tiện lợi lại đảm bảo
vệ sinh cũng như giúp tiết kiệm nước hiệu
quả hơn.
Kỹ sư Steve Waddel hiện đang làm việc
cho một công ty có trụ sở ở bang Virginia,
Hoa Kỳ đã phát minh ra thiết bị này sau khi
ông quan sát một vòi nước công cộng ở Ý sử
dụng nguyên lý tương tự. Tại đây, người dân
có thể uống nước phun ra từ một lỗ nhỏ phía
trên đỉnh vòi bằng cách dùng tay bịt nhằm
ngăn dòng nước chảy ra từ phía dưới vòi.
Vòi nước Da Vinci được đánh giá là một
giải pháp tinh tế hơn vì nó sử dụng một van
kích hoạt đòn bẩy tích hợp để tạm thời giữ
nước không chảy ra từ bên dưới vòi. Người
dùng sau đó có thể uống trực tiếp nguồn nước
sạch phun ra từ lỗ ở phía trên vòi mà không
cần đưa sát miệng lại gần, giúp đảm bảo vệ
sinh.
Bên cạnh yếu tố vệ sinh, thiết bị mới còn
mang lại những lợi ích khác, như tính tiện lợi
khi người dùng không cần phải cúi quá thấp
người xuống khi uống nước hay giúp tiết
kiệm nước hiệu quả hơn so với sử dụng vòi
nước truyền thống.
Ngoài ra, Waddell cũng nhấn mạnh rằng
với thiết kế của Da Vinci, người dùng có thể
thực hiện các thao tác như rửa mặt và rửa
sạch kem cạo râu dễ dàng và hiệu quả hơn.
Hơn nữa, công nghệ mới được sản xuất và lắp
đặt theo đúng tiêu chuẩn, chất lượng nên
trường hợp nước bị bắn ra bên ngoài trong
quá trình sử dụng hầu như không xảy ra.
Người mua quan tâm đến sản phẩm vòi
nước Da Vinci có thể đặt qua Kickstarter. Dự
kiến mô hình vòi mạ crôm khi được bày bán
trên thị trường sẽ có giá thành khoảng 239 đô
la Mỹ, trong khi giá bán dự kiến sẽ là 479 đô
la đối với thiết bị lớn hơn và mạ niken.
Theo P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 06/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 17/56
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nga phát triển bê tông có thành phần vỏ trấu siêu bền
Bê tông với độ bền được cải thiện - Ảnh: Dịch vụ
báo chí Đại học liên bang Viễn Đông, Nga
Theo EurekAlert, các nhà khoa học từ
Trung tâm nghiên cứu quân sự thuộc Đại học
liên bang Viễn Đông, Nga, đã phát triển loại
bê tông thân thiện với môi trường mới, với
khả năng chống va đập tăng.
Loại bê tông mới bao gồm 40% chất thải
như vỏ trấu, chất thải nghiền đá vôi và cát
silic, có khả năng chống xói mòn gấp 9 lần so
với bê tông được sản xuất theo tất cả các tiêu
chuẩn nhà nước Nga.
Một loại bê tông mới này phù hợp cho
cả xây dựng dân dụng và quân sự. Các nhà
khoa học lưu ý rằng vật liệu này thậm chí có
thể được sử dụng để xây dựng các tòa nhà ở
Bắc Cực và các khu vực khác với điều kiện
thời tiết khắc nghiệt.
Trong thử nghiệm với các tác động, bức
tường bê tông không vỡ vụn, mà trở nên đàn
hồi. Theo các kỹ sư, cấu trúc hấp thụ sốc do
độ nhớt động lực của nó. Hiệu ứng này được
gây ra bằng cách gia cố bê tông thêm sợi kim
loại hoặc sợi cảm biến.
Các nhà khoa học lưu ý rằng loại bê
tông này không chỉ chịu được tác động của
đạn pháo mà còn cả sóng thần. Ngoài ra, vật
liệu này có khả năng chống động đất.
Hiện tại, các nhà khoa học của trường
đang đàm phán với chính quyền Nga về việc
dùng vật liệu mới trong việc xây dựng các cơ
sở khác nhau. Đồng thời, giá thành sản xuất
bê tông sẽ rẻ hơn so với việc sản xuất vật liệu
tương tự theo tiêu chuẩn nhà nước Nga nhờ
giảm lượng xi măng trong bê tông.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 01/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Vật liệu mới có khả năng giãn nở theo hệ số 100 khi bị truyền điện
Các nhà khoa học vừa phát hiện ra một
vật liệu mới có khả năng mở rộng hoặc co lại
đáng kể khi tiếp xúc với dòng điện yếu.
Nhiều vật liệu mở rộng và co lại theo sự
thay đổi của nhiệt độ và độ pH. Các vật liệu
tương tự, cả chất rắn và gel, thường được sử
dụng trong các ứng dụng robot và y sinh.
Hình ảnh của loại vật liệu mới khi chịu
tác động của dòng điện.
Đặc biệt, các nhà khoa học trước đó
cũng chưa tìm thấy một vật liệu có thể thay
đổi đáng kể khối lượng của nó để đáp ứng với
tác động của dòng điện.
Tuy nhiên, trong khi chế tạo và thử
nghiệm các vật liệu thí nghiệm trong phòng
thí nghiệm, các nhà nghiên cứu ở Thụy Điển
và Anh đã tổng hợp một loại polymer mới có
thể mở rộng và co lại để đáp ứng với dòng
điện yếu.
Khi được đặt trong dung dịch điện phân,
vật liệu sẽ giãn nở theo hệ số 100 để đáp ứng
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 18/56
với xung điện dương yếu. Xung điện âm làm
cho vật liệu trở về thể tích ban đầu.
Trong các thí nghiệm tiếp theo, các nhà
khoa học đã cách điện một dây với vật liệu
mới. Khi dòng điện chạy qua dây dẫn, màng
mỏng polymer hấp thụ nước và chuyển thành
dạng gel giãn nở nhanh chóng. Khi các nhà
khoa học lặp lại các xung điện mạnh hơn, gel
mở rộng đến thể tích lớn hơn 300% so với
kích thước ban đầu.
Nếu được tích hợp vào một miếng bọt
biển hoặc bộ lọc, các nhà khoa học cho rằng
vật liệu mới có thể thao tác thông qua điện để
kiểm soát sự đi qua của các hạt có kích thước
khác nhau.
"Chúng tôi có thể kiểm soát kích thước
lỗ rỗng của bộ lọc điện tử và có khả năng chủ
động kiểm soát kích thước của các hạt đi qua.
Điều này cũng có nghĩa là các tính chất
của bộ lọc thông minh có thể được thay đổi
linh hoạt để cho phép các loại hạt hoặc kích
cỡ hạt khác nhau đi qua. Chức năng này có
thể được sử dụng để sàng, lọc, tinh chế và
trong quá trình hóa học. Nó cũng có thể có
các ứng dụng trong y học và hóa sinh”,
Magnus Berggren, giáo sư điện tử hữu cơ và
là giám đốc Phòng thí nghiệm Điện tử hữu cơ
tại Đại học Linköping, cho biết.
Khôi Nguyên, theo Upi
Nguồn: dantri.com.vn, 04/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Vải biến hình hoạt động chỉ bằng nhiệt độ cơ thể
Nhóm nghiên cứu do các nhà khoa học
tại Phòng thí nghiệm Thiết kế vật liệu và cấu
trúc hoạt động (DAML) và Phòng thí nghiệm
Công nghệ may mặc (WTL) thuộc trường Đại
học Minnesota dẫn đầu, đã tạo ra loại vải chịu
nhiệt dùng để may quần áo tự chỉnh hoạt
động nhờ thân nhiệt.
"Đây là bước tiến quan trọng hướng đến
cho ra đời loại vải như robot cho các ứng
dụng trên cơ thể", GS. Brad Holschuh nói.
"Điều này đặc biệt thú vị bởi nó giải quyết
đồng thời hai vấn đề quan trọng: làm thế nào
để tạo ra chuyển động có thể sử dụng, mà
không cần sử dụng nhiều điện hoặc nhiệt và
làm sao để một loại vải phù hợp với các vùng
trên cơ thể có hình dạng khác nhau".
Loại vải mới giống vải dệt kim thông
thường, ngoại trừ chúng được tạo ra từ loại
vật liệu hoạt tính đặc biệt, được gọi là hợp
kim nhớ hình (SMAs) - thay đổi hình dạng
khi được nung nóng.
Cùng hợp tác với NASA, các nhà khoa
học đã nghiên cứu kích thước độc đáo của
chân người. Sau đó, nhóm nghiên cứu đã thiết
kế, sản xuất và thử nghiệm loại vải làm từ
SMA, có thể phù hợp với bề mặt của chân.
"Công nghệ này đòi hỏi tiến bộ trên
nhiều quy mô", Abel nói. "Ở quy mô vật liệu,
chúng tôi điều chỉnh nó để phản ứng với nhiệt
độ cơ thể mà không cần thêm năng lượng. Về
mặt cấu trúc, chúng tôi đã sản xuất nó để thích
ứng hoàn hảo với hình dạng phức tạp của cơ
thể người. Ở cấp độ hệ thống, chúng tôi đã tạo
ra một hoạt động thể hiện hiệu suất cơ học của
vải để giải phẫu con người. Mỗi tiến bộ đều
quan trọng, nhưng kết hợp lại, chúng tạo ra
một chức năng không có trước đây".
Loại vải mới có thể được sử dụng cho
các sản phẩm may mặc tùy chỉnh dễ dàng
chuyển từ dạng nới lỏng sang bó sát và thậm
chí uốn cong theo những cách độc đáo để phù
hợp với các vùng có hình dạng phức tạp của
cơ thể (ví dụ: mặt sau của đầu gối). Các ứng
dụng trong tương lai có thể tạo ra các sản
phẩm may mặc ban đầu nới lỏng cho vừa và
dễ mặc, sau đó có thể co lại để siết chặt vào
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 19/56
người mặc. Bước tiếp theo, nhóm nghiên cứu
sẽ tích hợp vải dệt may vào các sản phẩm
may mặc.
N.P.D, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 05/11/2019
**************
Tấm phủ mỏng giúp pin năng lượng mặt trời hấp thu ánh sáng hồng ngoại để tạo năng lượng
Trên thực tế, các tấm pin mặt trời không
thể hấp thu được tất cả lượng ánh sáng khổng
lồ chiếu xuống mặt đất. Nói cách khác, hầu
như pin mặt trời chỉ có khả năng thu được
ánh sáng khả kiến để tạo ra năng lượng, điều
này có nghĩa là phần còn lại của dải phổ điện
từ, trong đó có ánh sáng hồng ngoại bị lãng
phí. Hiện nay, các nhà khoa học tại Viện
Công nghệ Hoàng gia KTH của Thụy Điển đã
vừa phát triển một tấm màng mới được thiết
kế để có thể được xếp chồng lên trên đỉnh của
pin mặt trời, nhờ đó, giúp cải thiện hiệu suất
của pin mặt trời lên tới 25%.
Một trong những giải pháp nhằm gia
tăng hiệu suất của pin mặt trời mà các nhà
khoa học áp dụng là sử dụng các loại hạt nano
đặc biệt. Việc phủ các hạt nano lên thuốc
nhuộm có chứa các ion kim loại như
lanthanide cho phép pin mặt trời hấp thu được
nhiều hơn từ phổ ánh sáng và sau đó chuyển
đổi các loại ánh sáng khác, bao gồm ánh sáng
cận hồng ngoại thành ánh sáng nhìn thấy và
thành nguồn năng lượng có ích.
Các hạt này được gọi là hạt nano chuyển
đổi ngược (UCNP) và chúng chứa các ion
kim loại của lanthanide như ytterbium và
erbium và được coi là bước đột phá tại Viện
Công nghệ Hoàng gia KTH. Nhóm nghiên
cứu cho biết hiện tại họ vẫn đang tìm kiếm
phương pháp nhằm của thiện công nghệ này,
vì UCNP có ngưỡng kích thích "cao hơn
nhiều" so với năng lượng được hấp thu và
khai thác từ ánh sáng hồng ngoại.
Giải pháp của nhóm nghiên cứu là phát
triển một dải vật liệu polymer được làm từ
hỗn hợp gồm các tinh thể nano trộn với một
loạt các vi song (microlense), để định hình
cách thức ánh sáng đi tới và cải thiện hiệu
suất của UCNP.
Hans Ågren, giáo sư về hóa học lý
thuyết và là trưởng nhóm nghiên cứu cho
biết, khả năng tập trung ánh sáng của các vi
hạt cho phép các hạt nano chuyển đổi bức xạ
ánh sáng hồng ngoại yếu thành ánh sáng khả
kiến, cho phép pin mặt trời biến đổi ánh sáng
không nhìn thấy thành năng lượng có ích.
Tấm màng mỏng được thiết kế để có thể
đặt lên trên đỉnh của tấm pin mặt trời thông
thường, điều này có tác dụng điều chỉnh
không gian và tập trung ánh sáng hồng ngoại
đúng cách nhằm cải thiện đáng kể hiệu suất
của quá trình chuyển đổi năng lượng.
Ågren cho biết: “Bước đầu tiên, công
nghệ mới của chúng tôi khi chưa tối ưu hóa
đã giúp cải thiện hiệu suất hấp thu năng
lượng của pin mặt trời ở mức 10%. Chúng tôi
tin rằng trong tương lai mức độ cải thiện hiệu
suất hấp thu năng lượng của pin năng lượng
mặt trời với công nghệ mới sẽ tăng lên từ 20
đến 25%”.
Kết quả nghiên cứu được đăng tải trên
tạp chí Nanoscale.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 05/11/2019
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 20/56
Các nhà nghiên cứu tại học viện MIT tạo ra lớp phủ tốt hơn để bảo vệ pin mặt trời
Các nhà nghiên cứu từ Viện Công
nghệ Massachusetts (MIT) đã tạo ra một lớp
phủ dẫn điện, có thể làm tăng hiệu quả và sự
ổn định của pin mặt trời.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Science Advances mô tả vật liệu trong suốt có
độ dẫn điện cao. Độ trong suốt và độ dẫn là
hai yêu cầu đối với pin mặt trời. Thông
thường, indium titan oxide (ITO) được sử
dụng để bảo vệ pin mặt trời, nhưng nó khá
giòn và có thể bị nứt sau một thời gian sử
dụng.
Các nhà nghiên cứu MIT đã phát triển
một phiên bản linh hoạt của vật liệu dẫn điện
trong suốt hai năm trước, nhưng nó không
phù hợp với sự kết hợp độ trong suốt quang
học cao và độ dẫn điện của ITO. Độ trong
suốt và độ dẫn kết hợp được đo bằng đơn vị
Siemens trên mỗi centimet với ITO dao động
từ 6.000 đến 10.000, theo nghiên cứu.
Vật liệu mới được phát triển bởi các
nhà nghiên cứu MIT hiện ở mức 3.000, và
nhóm vẫn đang nghiên cứu để điều chỉnh quá
trình để nâng cao hơn nữa. Vật liệu linh hoạt
hiệu suất cao là một polymer hữu cơ được gọi
là PEDOT. Nó được lắng đọng trong một lớp
siêu mỏng chỉ dày vài nanomet, theo nghiên
cứu. PEDOT cùng tạo thành một pin mặt trời
dựa trên perovskite. Những tế bào quang điện
này được coi là một sự thay thế tuyệt vời cho
silicon vì hiệu quả cao và dễ sản xuất, nhưng
sự thiếu độ bền của chúng là một nhược điểm
lớn. Với sự bảo vệ của PEDOT, hiệu quả và
tính ổn định của perovskite tăng gấp đôi, theo
nghiên cứu. Lớp PEDOT được áp dụng cho
các chất nền có đường kính sáu inch (khoảng
15 cm) trong các thử nghiệm, nhưng quy trình
này có thể được áp dụng trực tiếp cho quy
trình sản xuất quy mô công nghiệp.
Các nhà nghiên cứu cho biết, lớp phủ
có thể được xử lý ở 140 độ C, nhiệt độ thấp
hơn nhiều so với các vật liệu thay thế.
P.A.T, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 25/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Chất xơ tách các ống nano cacbon hiệu quả
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Nagoya ở Nhật Bản đã đưa ra một phương
pháp mới, giá rẻ để tách 2 loại ống nano
cacbon một cách dễ dàng và hiệu quả.
Quy trình này có thể được mở rộng để sản
xuất các mẻ ống nano cacbon một lớp dùng
cho các thiết bị điện tử hiệu suất cao.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Applied Physics Express. Ống
nano cacbon một lớp (SWCNT) có tính chất
cơ học và điện tử tuyệt vời, nên chúng trở
thành ứng cử viên lý tưởng để sử dụng trong
rất nhiều thiết bị điện tử, bao gồm bóng bán
dẫn màng mỏng trong màn hình LCD. Tuy
nhiên, vấn đề là chỉ có 2/3 SWCNT được sản
xuất phù hợp để dùng trong các thiết bị điện
tử. SWCNT bán dẫn có ích phải được tách ra
khỏi các kim loại không cần thiết. Nhưng quá
trình tinh chế mạnh nhất, được gọi là chiết
xuất hai pha bằng nước, hiện liên quan đến
việc sử dụng dextran, loại polysacarit đắt tiền.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 21/56
Haruka Omachi, nhà hóa học hữu cơ và các
cộng sự tại trường Đại học Nagoya đã đưa ra
giả thuyết về hiệu quả của dextran trong việc
tách chất bán dẫn ra khỏi SWCNT kim loại
có liên kết với các đơn vị glucose. Thay vì sử
dụng dextran để tách hai loại SWCNT, nhóm
nghiên cứu đã thử dùng isomaltodextran giá
rẻ và có nhiều liên kết này hơn.
Mẻ SWCNT được ngâm 15 phút trong
dung dịch chứa polyethylen glycol và
isomaltodextrin và sau đó được quay ly tâm
trong 5 phút. Ba loại isomaltodextrin khác
nhau đã được thử, mỗi loại có số lượng liên
kết và trọng lượng phân tử khác nhau. Nhóm
nghiên cứu đã phát hiện thấy SWCNT được
tách ra ở phần isomaltodextrin dưới cùng của
dung dịch, trong khi SWCNT bán dẫn nổi lên
ở phần polyethylen glycol trên cùng.
Loại isomaltodextrin có trọng lượng
phân tử cao và liên kết nhiều nhất, đạt hiệu
quả tách hai loại SWCNT cao nhất lên đến
99%. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một
loại polysacarit khác, được gọi là pullulan, có
đơn vị glucose liên quan đến các loại kết nối
khác, không hiệu quả trong việc tách 2 loại
SWCNT. Các nhà nghiên cứu cho rằng số
lượng và loại liên kết trong isomaltodextrin
đóng vai trò quan trọng về khả năng tách ống
nano cacbon một cách hiệu quả. Nhóm
nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng bóng bán
dẫn màng mỏng được chế tạo bằng SWCNT
bán dẫn tinh khiết hoạt động rất tốt.
Isomaltodextrin là loại polysacarit rẻ
tiền và phổ biến được sản xuất từ tinh bột
dùng làm chất xơ. Đây là lựa chọn chi phí -
hiệu quả cho quá trình chiết xuất SWCNT.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học đang cải thiện
hiệu suất của bóng bán dẫn màng mỏng bằng
cách sử dụng SWCNT bán dẫn trong màn
hình dẻo và các thiết bị cảm biến. Nhóm
nghiên cứu hiện đang thảo luận với các công
ty để thương mại hóa quy trình mới.
N.P.D, theo scitechdaily.com
Nguồn: vista.gov.vn.vn, 07/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Vật liệu cấy ghép có khả năng tiêu diệt tới 98% vi khuẩn
Các nhà khoa học từ Đại học Khoa học
và Công nghệ Quốc gia (NUST MISiS) cùng
với các đồng nghiệp Séc và Mỹ đã phát triển
một loại vật liệu cấy ghép mới giúp ngăn ngừa
vấn đề nhiễm trùng sau phẫu thuật.
Vật liệu được tiết lộ là sản phẩm kết hợp
giữa hạt nano bạch kim và sắt có thể tiêu diệt
tới 98% vi khuẩn trong vòng 12 giờ sau khi
cấy.
Vật liệu cấy ghép mới của các nhà khoa học
đến từ Nga được cho có khả năng tiêu diệt
hàng loạt loại vi khuẩn
Trong thực tế, vấn đề nhiễm trùng do vi
khuẩn xảy ra trong 1- 4% các trường hợp sau
khi can thiệp phẫu thuật. Trong các ca bệnh
nhân bị gãy xương cần cấy ghép, khả năng xuất
hiện của các loại vi khuẩn gây nhiễm trùng lên
đến 30%. Nếu nhiễm trùng xảy ra, bệnh nhân
cần thường xuyên phải có sự can thiệp của các
bác sĩ. Trong trường hợp nhẹ hơn, bệnh nhân
cũng cần điều trị bằng kháng sinh.
Trong suốt quá trình điều trị, cơ thể bệnh
nhân phải chịu áp lực rất lớn. Ngoài ra, vi
khuẩn gây bệnh rất nhanh phát triển khả năng
kháng kháng sinh, và nhiều người bị dị ứng
nặng với kháng sinh.
Trước thực trạng này, các nhà khoa học
của NUST MISiS và các đồng nghiệp của họ
đã phát triển một vật liệu cấy ghép mới với các
hạt nano kim loại, có tác dụng ức chế sự phát
triển và lây lan của vi khuẩn gây bệnh mà
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 22/56
không có bất kỳ tác dụng ức chế nào đối với tế
bào lympho hoặc tế bào của hệ thống miễn
dịch.
"Chúng tôi đã cấy các ion bạch kim và sắt
vào một ma trận, đó là lớp phủ tương thích sinh
học TiCaPCON (titan-calci-phospho-carbon-
oxy-nitơ). Kết quả là, các hạt nano kim loại có
kích thước vài nanomet ở trên bề mặt lớp phủ.
Khi tiếp xúc với bề mặt vật liệu, màng vi khuẩn
có thể bị phá hủy", Viktor Ponomarev, tác giả
chính của nghiên cứu cho biết.
Bên cạnh đó, khi cấy ghép được khử
trùng bằng bức xạ cực tím, một số lượng lớn
các gốc tự do được tạo ra, điều này cũng dẫn
đến cái chết của vi khuẩn.
Theo các tác giả của nghiên cứu, dù mới
ở giai đoạn thử nghiệm, vật liệu mới được phát
triển đã tiêu diệt 98% vi khuẩn trong 8-12 giờ,
bao gồm các loại vi khuẩn như Staphylococcus
Aureus, Epidermal Staphylococcus Aureus,
Escherichia Coli và Klebsiella Pneumoniae.
Các nhà khoa học hiện đang xem xét các
thử nghiệm của các mẫu thu được và hé lộ một
ứng dụng đầy hứa hẹn khác cho vật liệu mới
được phát triển có thể là tạo ra các bộ lọc nước
trong tương lai.
Minh Long, theo Sputnik
Nguồn: dantri.com.vn, 09/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Tách keo dán công nghiệp bằng từ trường
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Sussex đã tạo ra được loại keo không dính
khi đặt trong từ trường, nghĩa là các sản phẩm
đáng lẽ được đưa đến bãi chôn lấp, giờ có thể
được tháo dỡ và tái chế vào cuối vòng đời.
Hiện nay, các mặt hàng như điện thoại
di động, lò vi sóng và chắn bùn ô tô được lắp
ráp bằng chất keo. Đó là cách nhanh chóng và
tương đối rẻ để chế tạo các sản phẩm nhưng
do hạn chế trong việc tháo dỡ các vật liệu đa
dạng cho những phương pháp tái chế khác
nhau, nên hầu hết các sản phẩm này sẽ được
chôn lấp. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu tại
trường Đại học Sussex đã tìm ra giải pháp.
Trong một bài báo nghiên cứu mới đăng
trên tạp chí Polymer của châu Âu, các nhà
khoa học đã mô tả loại keo mới chứa các hạt
kim loại nhỏ. Khi đi ngang qua một trường
điện từ xoay chiều, keo tan và các sản phẩm
tách nhau ra. Keo có thể sử dụng cho nhựa,
gỗ, thủy tinh và kim loại và về độ bền, có thể
sánh với các loại keo công nghiệp hiện nay.
Barnaby Greenland, đồng tác giả nghiên
cứu cho biết: "Chỉ trong 30 giây, chúng tôi có
thể tách rời các vật phẩm bằng từ trường
tương đối yếu. Một nguồn năng lượng được
kết nối với cuộn cảm từ, tạo ra từ trường điện
sản sinh nhiệt trong các hạt kim loại bên
trong keo và làm tan chảy nó một cách hiệu
quả để các vật liệu khác nhau trước đó gắn
kết, nay được tách ra. Có ít dư lượng keo còn
sót lại, dù đây sẽ không thành vấn đề đối với
các vật dụng bằng kim loại bị nung chảy để
tái chế. Sử dụng các mức từ trường cụ thể để
làm nóng cũng rất an toàn. Năng lượng chỉ
làm nóng các đốm kim loại trong keo, vì vậy
chúng tôi có thể đặt tay lên và hoàn toàn
không cảm thấy nóng".
Về nguyên tắc, công thức có thể được áp
dụng cho bất kỳ chất keo nhiệt nào và sau
này, sử dụng cho ngành công nghiệp tương
đối dễ dàng. Nhóm nghiên cứu cũng đã chứng
minh kỹ thuật làm nóng này có thể được sử
dụng để gắn các vật dụng lại với nhau. Quy
trình này sẽ được nghiên cứu sâu hơn.
N.P.D , theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 10/11/2019
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 23/56
Chất xúc tác mới sản xuất hydro hiệu quả từ nước biển
Nước biển là một trong những nguồn tài
nguyên phong phú nhất trái đất, hứa hẹn
cung cấp hydro, nguồn năng lượng sạch và cả
nước uống cho vùng khí hậu khô cằn. Nhưng
ngay cả khi các công nghệ tách nước có khả
năng sản xuất hydro từ nước ngọt trở nên hiệu
quả hơn, nhưng với nước biển vẫn là một
thách thức.
Các nhà nghiên cứu tại trường Đại học
Houston đã tạo bước đột phá với chất xúc tác
phản ứng tiến hóa oxy mới (là phản ứng hóa
học trong đó một trong những sản phẩm cuối
cùng là oxy), kết hợp với chất xúc tác phản
ứng tiến hóa hydro để đạt mật độ dòng điện
có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghiệp,
trong khi cần điện áp tương đối thấp để bắt
đầu điện phân nước biển.
Các nhà nghiên cứu cho rằng thiết bị
này, bao gồm nitrua kim loại không phải loại
quý hiếm và giá rẻ, đã khắc phục được nhiều
trở ngại hạn chế những nỗ lực trước đây để
sản xuất hydro hoặc nước uống an toàn với
chi phí thấp từ nước biển. Nghiên cứu đã
được công bố trên tạp chí Nature
Communications.
Zhifeng Ren, giám đốc Trung tâm siêu
dẫn Texas thuộc trường Đại học Houston và
là tác giả bài báo, cho biết khó khăn lớn là
thiếu chất xúc tác để tách nước biển một cách
hiệu quả nhằm sản xuất hydro mà không tạo
ra các ion natri, clo, canxi tự do và các thành
phần khác của nước biển, khi được giải phóng
có thể lắng xuống chất xúc tác và khiến nó
không hoạt động. Các ion clo đặc biệt khó xử
lý, một phần vì clo cần điện áp cao hơn một
chút để giải phóng hydro.
Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm các chất
xúc tác với nước biển được lấy từ vịnh
Galveston ngoài khơi Texas. “Hầu hết mọi
người sử dụng nước ngọt sạch để sản xuất
hydro bằng cách tách nước", Zhifeng Ren nói.
"Nhưng nguồn nước ngọt sạch bị hạn chế".
Để giải quyết những thách thức này,
nhóm nghiên cứu đã thiết kế và tổng hợp chất
xúc tác phản ứng tiến hóa oxy vỏ lõi ba chiều
bằng cách sử dụng nitrat kim loại chuyển tiếp,
với các hạt nano được tạo thành từ hợp chất
nickle-sắt-nitrit và thanh nano nickle -
molybdenum-nitride trên bọt xốp nickle.
Luo Yu, nghiên cứu sinh và là đồng tác
giả nghiên cứu cho biết chất xúc tác phản ứng
tiến hóa oxy mới đã được kết hợp với chất
xúc tác phản ứng tiến hóa hydro trước đây
của thanh nano nickle-molybdenum-nitrit.
Các chất xúc tác được kết hợp vào máy
điện phân kiềm hai điện cực, hoạt động bằng
nhiệt thải thông qua một thiết bị nhiệt điện
hoặc pin AA. Điện áp pin cần để tạo ra mật
độ dòng điện là 100 milliamperes trên mỗi
cm2, dao động từ 1,564V đến 1,581V.
Yu cho rằng cần điện áp ít nhất 1,23V để
sản xuất hydro, nhưng clo được sản xuất ở
điện áp 1,73 V, nghĩa là thiết bị có khả năng
tạo ra mật độ dòng điện có điện áp dao động
giữa hai cấp độ.
N.P.D , theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 15/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 24/56
Triển vọng chế tạo tấm pin mặt trời không chì từ vật liệu mới
Nhóm nghiên cứu tại trường Đại học
Purdue đã chế tạo được loại vật liệu mới dùng
để chế tạo các tấm pin mặt trời mà không đến
cần chì. Kết quả nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Nature Chemistry.
Trong thập kỷ qua, nỗ lực chế tạo tấm
pin mặt trời hoạt động hiệu quả đều tập trung
vào khoáng chất perovskite. Các tấm pin mặt
trời được sản xuất bằng cách sử dụng khoáng
chất canxi titan oxit hấp thụ 28% năng lượng
mặt trời, trong khi các tấm pin mặt trời
thương mại tốt nhất chỉ đạt hiệu suất từ 15-
18%. Nhưng rất khó để tạo ra các tấm
perovskite. Vật liệu này không ổn định và
chứa chì tan trong nước, gây nguy hiểm cho
sức khỏe.
Để chế tạo tấm pin mặt trời an toàn hơn,
các nhà khoa học đã phát triển loại vật liệu
hybrid mới kết hợp vật liệu hữu cơ và vô cơ.
Cấu trúc giống bánh sandwich của vật liệu
không cần đến chì và ổn định hơn nhiều.
Các tác giả cho rằng: "Việc truyền năng
lượng và điện tích giữa các lớp hữu cơ và vô
cơ liền kề được chứng minh là nhanh và hiệu
quả, nhờ vào giao diện phẳng nguyên tử và
khoảng cách các lớp xen kẽ siêu nhỏ của vật
liệu perovskite". Vật liệu mới có thể được sử
dụng trong nhiều loại linh kiện điện tử và
công nghệ.
"Các cấu trúc này rất thú vị", Letian
Dou, phó giáo sư kỹ thuật hóa học tại trường
Đại học Purdue nói. "Các cấu trúc bánh
sandwich giống như các giếng lượng tử bán
dẫn được sử dụng rộng rãi ngày nay trong
nhiều thiết bị điện tử và quang điện tử, nhưng
chúng dễ sản xuất và ít bị khiếm khuyết".
Trước đây, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
vật liệu perovskite hybrid hữu cơ - vô cơ để
chế tạo bóng bán dẫn hiệu ứng trường, một
thành phần trong nhiều công nghệ điện tử sử
dụng điện trường để kiểm soát dòng điện.
Theo Yao Gao, tác giả chính của nghiên
cứu mới, vật liệu mới vượt trội và rẻ hơn chất
bán dẫn vô cơ truyền thống. "Pin mặt trời,
như nhiều nhà khoa học đã chứng minh, có
thể đạt hiệu quả cao", Gao nói. "Với công
nghệ mới, chúng tôi có thể làm cho vật liệu
perovskite hybrid về cơ bản ổn định hơn.
Bằng cách thay thế chì độc hại, vật liệu mới
này tốt hơn cho môi trường và cũng có thể
được sử dụng an toàn cho các cảm biến điện
tử sinh học trên cơ thể".
N.P.D, theo upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 20/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Sơn bồn cầu có thể tiết kiệm nước
Các nhà nghiên cứu Mỹ vừa tìm ra cách
có thể giúp giảm một nửa lượng nước cần
thiết cho mỗi lần xả bồn cầu với việc sử dụng
một loại sơn dạng lỏng để phủ trong lòng bồn
cầu (liquid-entrenched smooth surface -
LESS).
Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà
khoa học tại Đại học bang Pennsylvania. Họ
dùng một loại sơn dạng lỏng có thể chống
thấm và kháng khuẩn, dùng để phủ trong lòng
bồn cầu, giúp bồn cầu tự làm sạch, qua đó
không cần lượng nước nhiều như hiện nay để
làm sạch. Quy trình sơn phủ gồm 2 bước. Thứ
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 25/56
nhất, các hợp chất polymer được ghép phân
tử tạo ra một bề mặt mịn và chống thấm. Hợp
chất này khi khô sẽ giúp tạo ra các phân tử
trông giống như những sợi lông nhỏ, với
đường kính nhỏ hơn khoảng 1 triệu lần so với
sợi tóc con người. Sau đó, lần phủ hợp chất
thứ hai được áp dụng sẽ thấm một lớp bôi
trơn mỏng xung quanh những sợi lông để tạo
ra một bề mặt siêu trơn.
Tiến sỹ Wang Jing, đồng tác giả của
nghiên cứu, cho biết: “Khi chúng tôi phun lớp
phủ này lên bồn cầu vệ sinh trong phòng thí
nghiệm và đổ chất thải tổng hợp vào đó, chất
thải tổng hợp hoàn toàn trôi xuống và không
có gì dính vào bồn cầu nữa”. Quy trình phủ
hợp chất này chỉ mất chưa đầy 5 phút để tạo
ra bề mặt trơn trượt và đánh bay vi khuẩn, đặc
biệt là những vi khuẩn gây ra các bệnh truyền
nhiễm và mùi khó chịu. Với lớp sơn phủ này,
bồn cầu sẽ tiết kiệm đáng kể lượng nước mỗi
lần xả. Các nhà nghiên cứu ước tính lớp sơn
phủ này “đủ dùng” cho khoảng 500 lần xả
bồn cầu vệ sinh thông thường trước khi cần
phủ một lớp mới.
Là một lợi ích bổ sung, người ta cũng
thấy rằng lớp phủ đã đẩy lùi vi khuẩn có thể
lây lan bệnh hoặc gây ra mùi khó chịu. Với
những tính năng này, người ta hy vọng rằng
công nghệ này không chỉ giúp nhà vệ sinh xả
nước hiệu quả hơn mà còn có thể cho phép
nhà vệ sinh không nước (được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nơi trên thế giới).
Lớp phủ đang được thương mại hóa bởi
Công ty khởi nghiệp Vật liệu spotLESS, bang
Pennsylvania. Và đã được công bố trên tạp
chí Nature Sustainability.
Đ.T.V, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Phân tách CO2 với tốc độ nhanh, chi phí thấp và hiệu quả hơn
Nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học vật
liệu Steve Suib đã tạo ra chất xúc tác mới có
khả năng phân tách CO2 thành các hóa chất
hữu ích với tốc độ nhanh, chi phí thấp và hiệu
quả hơn phương pháp thông thường. Phát
hiện này có thể biến CO2 thành nhiên liệu
một cách kinh tế.
CO2 là loại khí ổn định và dồi dào. Trên
thực tế, khí thải này có khối lượng lớn và
CO2 dư thừa trong khí quyển đang làm biến
đổi khí hậu của hành tinh. Do đó, nhiều nhà
hóa học đang nghiên cứu những phương thức
hiệu quả để biến đổi CO2 thành các sản phẩm
hữu ích khác. Nhưng tính ổn định của CO2
làm cho quá trình này trở nên khó khăn. Thật
khó để phân tử này phản ứng với bất cứ phân
tử khác.
Kỹ thuật tốt nhất hiện để tách CO2 về
mặt điện hóa thành các phần sẽ thúc đẩy phản
ứng hóa học là sử dụng chất xúc tác từ bạch
kim. Nhưng bạch kim là kim loại quý hiếm và
đắt tiền. Vì thế, nhóm nghiên cứu đứng đầu là
Yongtao Meng tại Viện Khoa học vật liệu
Steve Suib và hiện là nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Stanford, đã đưa ra một
phương thức hiệu quả hơn. Nhóm nghiên cứu
đã chế tạo pin điện hóa chứa đầy chất xúc tác
bọt xốp được làm từ niken và sắt. Cả hai đều
rẻ tiền và dồi dào. Khi khí CO2 đi vào pin
điện hóa và điện áp xuất hiện, chất xúc tác
giúp CO2 (một nguyên tử cacbon với 2
nguyên tử oxy) phân tách oxy tạo thành CO
(một nguyên tử cacbon với một nguyên tử
oxy.) CO rất dễ phản ứng và là tiền chất hữu
ích để tạo ra nhiều loại hóa chất, bao gồm cả
nhựa và nhiên liệu như xăng.
Chất xúc tác sắt-niken mới không chỉ
hoạt động tốt, mà còn thực sự hiệu quả hơn
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 26/56
quy trình bạch kim đắt đỏ mà nó có thể thay
thế. Pin điện hóa sử dụng chất xúc tác sắt-
niken đạt hiệu suất gần 100%.
Suib nói: "Đây là điều gần như chưa
từng nghe thấy trước đây. Thông thường
trong một hệ thống tốt, bạn sẽ đạt hiệu suất từ
90 - 95%, nhưng nó không thể ổn định, nên
không hoạt động ở cùng điện áp thấp hoặc
không thể rẻ".
Phòng thí nghiệm của Suib đã sử dụng
kính hiển vi điện tử quét để xác định các mặt
cắt của chất xúc tác sắt niken mới, cho thấy
cấu trúc bên trong của nó. Về mặt kỹ thuật,
đây là cacbonat hydroxit sắt niken với cấu
trúc xốp cho phép khí CO2 di chuyển qua
kính hiển vi. Nghiên cứu đã chứng minh chất
xúc tác vẫn còn nguyên và không bị hỏng hóc
do quá trình sử dụng.
Bước tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ
xem xét khả năng mở rộng quy trình và thử
nghiệm trong các tình huống công nghiệp như
các nhà máy điện phát thải khối lượng lớn
CO2.
N.P.D, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sản xuất vodka tinh khiết từ không khí
Cỗ máy sản xuất rượu từ không khí nhỏ gọn có thể
để vừa trong một xưởng rộng cỡ phòng ngủ
- Ảnh: Air Co.
Theo Popular Mechanics, công ty khởi
nghiệp của Anh Air Co. tuyên bố đã sản xuất
được loại vodka, hoàn toàn vô hại với môi
trường mà chỉ sử dụng điện tái tạo, nước và
không khí.
Để làm điều này, công ty, sử dụng điện,
chuyển đổi carbon từ không khí thành
ethanol. Các nguyên tử carbon, oxy và hydro
sau đó được kết nối lại do kết quả của phản
ứng xúc tác. Trong sản xuất rượu vodka, công
ty không sử dụng phương pháp lên men
truyền thống, mà là một công nghệ mới mà
họ tự phát minh ra. Trong đó, khí thải carbon
dioxide được chuyển đổi thành ethyl, từ đó
sản xuất đồ uống có cồn cao cấp.
Stafford Sheehan, đồng sáng lập và giám
đốc kỹ thuật của Air Co. chia sẻ rằng quy
trình này sử dụng các nguyên tắc tương tự
như quang hợp ở thực vật, nhưng thực hiện
nó hiệu quả hơn, ông nói.
Lò phản ứng chuyển đổi Air Co. tạo ra
khoảng 10% dung dịch ethanol trong nước,
không có chất rắn hoặc các thành phần khác
thường hình thành trong quá trình lên men.
Stafford Shihan giải thích rằng sau khi
chuyển đổi, công ty chưng cất dung dịch
ethanol 10% thành 96,5% và sau đó, bằng
cách sử dụng các quy trình được cấp bằng
sáng chế bổ sung, tinh chế và pha loãng nó
thành rượu vodka 40% cổ điển.
Do đó, một startup, khác với các đối thủ
cạnh tranh, đã không sử dụng các cánh đồng
rộng lớn trồng ngũ cốc, lên men và chưng cất
phức tạp để loại bỏ tạp chất. Mà các nhà khoa
học lưu ý rằng tất cả các quá trình này ảnh
hưởng mạnh đến môi trường.
“Chúng tôi có một thiết bị có thể để vừa
trong phòng ngủ bình thường. Nó thực hiện
vai trò tương tự như hệ thống chưng cất truyền
thống, chỉ nhanh hơn và hiệu quả hơn, không
ảnh hưởng đến môi trường và cũng hoạt động
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 27/56
trên năng lượng mặt trời, nguồn năng lượng
sạch” - Stafford Shihan nhấn mạnh.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 10/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu tăng chất lượng quả và khả năng phát triển của dưa hấu trong thời kỳ biến đổi khí hậu
Các nhà nghiên cứu đã xem xét bộ gien
của dưa hấu, tạo ra một nguồn tài nguyên có
thể giúp các nhà nhân giống cây trồng tăng
chất lượng và khả năng phát triển của quả
trong thời kỳ biến đổi khí hậu.
Một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế
đã xem xét toàn diện bộ gien của tất cả 7 loài
dưa hấu, tạo ra một nguồn tài nguyên có thể
giúp các nhà nhân giống cây trồng tìm ra các
gien dưa hấu hoang dã có khả năng kháng sâu
bệnh, hạn hán và các khó khăn khác, và cải
thiện hơn nữa chất lượng quả .
Các nhà nghiên cứu cho biết việc đưa
các gien này vào dưa hấu được trồng có thể
mang lại dưa hấu ngọt chất lượng cao, có khả
năng phát triển ở vùng khí hậu đa dạng hơn,
điều này đặc biệt quan trọng khi biến đổi khí
hậu ngày càng thách thức nông dân.
Zhang Như Fei, một giảng viên tại Viện
Boyce Thompson (BTI), cho biết, khi con
người thuần hóa dưa hấu trong hơn 4.000
năm qua, họ đã lựa chọn trái có màu đỏ, ngọt
và ít đắng hơn. Thật không may, khi người ta
làm dưa hấu ngọt hơn và đỏ hơn, quả bị mất
một số khả năng chống lại bệnh tật và các loại
căng thẳng khác.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng
dưa hấu được trồng đã được thuần hóa bằng
cách loại bỏ vị đắng và tăng độ ngọt, kích
thước quả và màu ruột. Các giống hiện đại đã
được cải thiện hơn nữa trong vài trăm năm
qua bằng cách tăng độ ngọt, hương vị và kết
cấu giòn.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra
các khu vực của bộ gien dưa hấu có thể được
khai thác để tiếp tục cải thiện chất lượng trái
cây, chẳng hạn như làm cho chúng to hơn,
ngọt hơn và giòn hơn.
“Dưa hấu ngọt có cơ sở di truyền rất
hẹp”, Amnon Levi, nhà nghiên cứu di truyền
học và nhà tạo giống dưa hấu tại Phòng thí
nghiệm Rau quả ở Nam Carolina thuộc Cơ
quan Nghiên cứu Nông nghiệp, Bộ
Nông nghiệp Hoa Kỳ, và đồng tác giả của bài
báo cho biết. Tuy nhiên, có sự đa dạng di
truyền rộng rãi giữa các loài hoang dã, điều
này mang lại cho chúng tiềm năng lớn để
chứa các gien giúp chúng chống chịu sâu
bệnh và căng thẳng môi trường.
“Dưa hấu dễ bị mắc nhiều bệnh nhiệt đới
và sâu bệnh, có phạm vi dự kiến sẽ tiếp tục mở
rộng cùng với biến đổi khí hậu. Chúng tôi
muốn xem liệu có thể mang lại một số gien
kháng bệnh hoang dã đã bị mất trong quá trình
thuần hóa hay không”, Levi cho biết thêm.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Nature Genetics.
T.P, theo Newfoodmagazine
Nguồn: mard.gov.vn, 06/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 28/56
Phương pháp “đóng gói” các chất dinh dưỡng nhằm tăng cường vi chất thiết yếu vào thực phẩm
Trên thế giới có khoảng 2 tỷ người bị
thiếu các vi chất dinh dưỡng thiết yếu như sắt
và vitamin A. Mỗi năm có gần 2 triệu trẻ em
bị chết vì những thiếu hụt này và những
người bị thiếu những vi chất dinh dưỡng có
thể dẫn đến bị mù, thiếu máu và suy giảm
nhận thức.
Mới đây, các nhà nghiên cứu của MIT
đã phát triển thành công một phương pháp
tăng cường vi chất thiết yếu vào thực phẩm
mới bằng cách đóng gói chúng vào trong một
loại polymer tương thích sinh học để ngăn
chặn các chất dinh dưỡng bị biến chất trong
quá trình bảo quản hoặc nấu nướng. Trong
thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ, họ đã cho
thấy rằng những phụ nữ ăn bánh mì bổ sung
chất sắt được đóng gói dễ dàng hấp thụ sắt từ
thực phẩm này tốt hơn.
Tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực
phẩm là cho một lượng nhất định một hoặc
một số loại vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm
nào đó mà được nhiều người ăn nhất, tiêu thụ
thường xuyên. Tăng cường vi chất dinh
dưỡng vào thực phẩm giúp dự phòng thiếu vi
chất dinh dưỡng.
Robert Langer, giáo sư Viện David H.
Koch tại MIT và là thành viên của Viện
Nghiên cứu Ung thư Tích hợp của MIT vui
mừng nói: “Chúng tôi thực sự rất vui mừng vì
nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã phát triển
thành công “hệ thống” cung cấp chất dinh
dưỡng độc đáo mà có khả năng hỗ trợ cho
hàng tỷ người thiếu vi chất ở các nước đang
phát triển, từ lúc mới bắt đầu hình thành đến
triển khai thử nghiệm lâm sàng”.
Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng sẽ mở
rộng các thử nghiệm lâm sàng ở các quốc gia
đang phát triển - nơi có tình trạng thiếu hụt vi
chất dinh dưỡng rất phổ biến.
Nhóm tác giả nghiên cứu bao gồm:
Langer và Ana Jaklenec, nhà khoa học nghiên
cứu tại Viện Koch, tác giả cao cấp của nghiên
cứu. Tác giả chính của bài báo là Aaron
Anselmo, cựu nghiên cứu sinh bậc sau tiến sỹ
của MIT và Xian Xu, cựu sinh viên Trường
ETH Zurich Simone Buerkli.
Vi chất quan trọng
Thiếu vitamin A là nguyên nhân gây mù
lòa nhưng lại có thể phòng ngừa hàng đầu
trên thế giới và nó cũng có thể làm giảm khả
năng miễn dịch của cơ thể, khiến trẻ dễ mắc
các bệnh như bệnh sởi. Thiếu sắt có thể dẫn
đến thiếu máu và cũng làm suy yếu sự phát
triển nhận thức ở trẻ em, dẫn đến nguy cơ rơi
vào “vòng nghèo đói”, Jaklenec nói.
“Những đứa trẻ thiếu vi chất quan trọng
sẽ không phát triển toàn diện về thể chất và
sức khỏe, có nguy cơ trở nên học kém ở trường
vì sức khỏe yếu và khi lớn lên chúng có thể
gặp khó khăn trong việc tìm việc làm, vì vậy
những đứa trẻ của chúng ta có nguy cơ sống
trong nghèo đói vì thu nhập thấp và thường
không được tiếp cận với giáo dục”, cô nói.
Nhóm nghiên cứu của MIT, được Quỹ
tài trợ Bill và Melinda Gates tài trợ, đã nỗ lực
triển khai nghiên cứu phát triển công nghệ
mới nhằm có thể giúp tăng cường thực phẩm
với các vi chất dinh dưỡng thiết yếu.
Fortification đã chứng minh thành công với
muối iốt và đưa ra các cách kết hợp các chất
dinh dưỡng theo những cách không yêu cầu
mọi người phải thay đổi thói quen ăn uống.
Tuy nhiên, bổ sung thêm vitamin A hoặc
sắt vào thực phẩm là một công việc rất khó
bởi Vitamin A rất nhạy cảm với nhiệt và có
thể bị biến chất trong khi nấu, và sắt có thể
liên kết với các phân tử khác trong thực
phẩm, tạo cho thực phẩm có vị kim loại. Để
khắc phục điều đó, nhóm MIT đã tìm ra cách
“đóng gói” các vi chất dinh dưỡng này trong
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 29/56
một loại vật liệu có thể bảo vệ chúng không
bị phá vỡ hoặc tương tác với các phân tử
khác, chúng sau đó sẽ được giải phóng sau
khi được ăn vào.
Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm
khoảng 50 loại polymer (màng chất dẻo) khác
nhau và đã lựa chọn được loại polymer có tên
là BMC. Loại polymer này hiện đang được sử
dụng trong các loại thực phẩm chức năng, và
tại Hoa Kỳ, nó được xếp vào loại “an toàn khi
sử dụng”.
Khi sử dụng polymer này, các nhà
nghiên cứu cho biết họ có thể gói gọn 11 loại
vi chất dinh dưỡng khác nhau, bao gồm kẽm,
vitamin B2, niacin, biotin và vitamin C, cũng
như sắt và vitamin A. Họ cũng chứng minh
rằng chúng có thể đóng gói kết hợp tới bốn
loại vi chất dinh dưỡng với nhau.
Các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm
cho thấy các vi chất đóng gói không bị ảnh
hưởng sau khi được đun sôi trong hai giờ.
Việc đóng gói cũng bảo vệ các chất dinh
dưỡng khỏi tia cực tím và khỏi các hóa chất
oxy hóa, như polyphenol, được tìm thấy trong
trái cây và rau quả. Khi tiếp xúc với môi
trường axit trong dạ dày (độ pH 1.5, điển hình
của độ pH trong dạ dày), polymer bọc chứa vi
chất này sẽ hòa tan và các vi chất dinh dưỡng
được giải phóng. Trong các thử nghiệm trên
chuột, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các
polymer bọc vi chất bị phá vỡ trong dạ dày
(đúng như mong đợi của họ) và được chuyển
đi đến ruột non, nơi phần lớn các chất dinh
dưỡng sẽ được hấp thu tốt nhất.
Tăng cường sắt
Sau khi thử nghiệm thành công trên
động vật, các nhà nghiên cứu đã quyết định
thử nghiệm các vi chất dinh dưỡng đóng gói
này ở con người. Thử nghiệm được dẫn dắt
bởi Michael Zimmerman, giáo sư khoa học
sức khỏe và công nghệ tại ETH Zurich,
chuyên gia nghiên cứu về dinh dưỡng và tăng
cường thực phẩm.
Trong thử nghiệm đầu tiên của họ, các
nhà nghiên cứu đã kết hợp sắt sunfat đóng gói
vào cháo ngô, một sản phẩm có nguồn gốc từ
ngô phổ biến ở các nước đang phát triển và
trộn ngô với nước sốt rau.
Trong nghiên cứu ban đầu đó, họ phát
hiện ra rằng những người tham gia nghiên
cứu (đều các nữ sinh viên đại học ở Thụy Sĩ,
hầu hết trong số họ bị thiếu máu) đã không
hấp thụ được nhiều chất sắt khi được cho ăn
cháo ngô được đóng gói. Lượng sắt được hấp
thụ ở nhóm này ít hơn một nửa so với nhóm
tiêu thụ sắt sunfat không được đóng gói.
Sau đó, các nhà nghiên cứu quyết định
thay đổi tỷ lệ thành phần và phát hiện ra rằng
nếu tăng tỷ lệ % sắt sunfat từ 3% lên khoảng
18% thì có thể đạt được tỷ lệ hấp thụ sắt rất
giống với tỷ lệ phần trăm đối với sunfat sắt
không đóng gói. Trong thử nghiệm thứ hai,
cũng được tiến hành tại ETH, họ đã trộn sắt
đóng gói vào bột và sau đó sử dụng nó để
nướng bánh mì.
Anselmo nói: “Việc thay đổi nhằm có
thể điều chỉnh và phù hợp với các phương
pháp sản xuất quy mô lớn và nhằm có được
công thức tối ưu nhất”.
Jaklenec cho biết, bước tiếp theo là tiến
hành thử nghiệm một nghiên cứu tương tự ở
một đất nước - nơi có nhiều người bị tình
trạng thiếu vi chất dinh dưỡng. Các nhà
nghiên cứu hiện đang chờ sự chấp thuận theo
quy định từ Tổ chức Nông nghiệp Thực
phẩm/Tổ chức Y tế Thế giới về Phụ gia Thực
phẩm. Họ cũng đang nghiên cứu thêm nhằm
xác định các loại thực phẩm khác có khả năng
tăng cường hấp thu vi chất hữu hiệu, và mở
rộng quy trình sản xuất này để họ có thể sản
xuất một lượng lớn các vi chất dinh dưỡng
dạng bột.
P.T.T, theo medicalxpress.com
Nguồn: vista.gov.vn, 18/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 30/56
Thịt nhân tạo tổng hợp từ không khí
Công ty Air Protein có trụ sở tại
California (Mỹ) thông báo chế tạo thành công
thịt nhân tạo từ các hợp chất hóa học và
nguyên tố có trong không khí như carbon
dioxide, oxy và nitơ.
Ảnh: NBC News
Công nghệ độc quyền của Air Protein
biến đổi những thành phần nói trên trở thành
protein chứa các amino axit giống như thịt
động vật.
Sản phẩm của Air Protein bắt nguồn từ ý
tưởng trước đây của Cơ quan Hàng không Vũ
trụ Mỹ (NASA) nhằm chuyển đổi khí CO2 do
phi hành gia thở ra thành protein nhờ vào một
nhóm vi khuẩn gọi là hydrootrophs – quá
trình tương tự việc lên men sữa chua hoặc ủ
men bia.
“Loại thịt mới cũng được bổ sung thêm
nhiều vitamin và khoáng chất, đặc biệt là
vitamin B12. Do đó, hàm lượng dinh dưỡng
của nó hơn hẳn các loại thịt chay hiện nay”,
Lisa Dyson, Giám đốc điều hành của Air
Protein, cho biết.
Công ty Air Protein hy vọng, công nghệ
sản xuất thịt nhân tạo của họ sẽ tạo ra một
cuộc cách mạng thực phẩm trong tương lai,
bởi vì nó gần như không lệ thuộc vào những
nguồn tài nguyên như đất, nước, điều kiện thời
tiết và giảm tối đa tác động đến môi trường.
Công ty dự kiến sẽ thương mại hóa sản
phẩm thịt nhân tạo vào năm 2020.
Quốc Hùng, theo Businessinsider
Nguồn: khoahocphattrien.vn,
22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Biến đổi chất độc nguy hại thành cảm biến sinh học
Một số loại vi khuẩn có khả năng đục lỗ
các tế bào khác và tiêu diệt chúng. Để làm
được điều đó, chúng đã giải phóng các
protein chuyên biệt được gọi là "độc tố đục
lỗ" (PFT) bám vào màng tế bào và tạo thành
một rãnh giống như ống đi qua nó. Cấu trúc
này trên màng được gọi là lỗ. Tế bào đích bị
đâm thủng bởi nhiều PFT, nên tự hủy.
Tuy nhiên, ngoài việc gây nhiễm khuẩn,
PFT được quan tâm nhiều hơn. Các lỗ kích
thước nano mà chúng tạo thành, được sử
dụng để cảm biến các phân tử sinh học: Một
phân tử sinh học như ADN hoặc ARN, đi qua
lỗ nano giống như một chuỗi được điều khiển
bởi điện áp và các thành phần riêng lẻ của nó
(ví dụ, axit nucleic trong ADN) phát ra tín
hiệu điện riêng biệt có thể đọc được. Trên
thực tế, cảm biến lỗ nano đã có mặt trên thị
trường như một công cụ chính để lập trình tự
ADN hoặc ARN.
Nhóm nghiên cứu dẫn đầu là Matteo Dal
Peraro tại trường Đại học Bách khoa liên
bang Lausanne (EPFL) đã nghiên cứu một
PFT quan trọng khác có thể được sử dụng
hiệu quả cho cảm biến phức tạp hơn như lập
trình tự protein. Độc tố aerolysin, được sản
sinh bởi vi khuẩn Aeromonas hydrophila và
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 31/56
là "thành viên sáng lập" dòng PFT chính
được tìm thấy trên nhiều sinh vật.
Một trong những ưu điểm chính của
aerolysin là nó hình thành các lỗ rất hẹp có
thể phân biệt các phân tử có độ phân giải cao
hơn nhiều so với các độc tố khác. Trước đây,
các nghiên cứu đã chỉ ra rằng aerolysin có thể
được sử dụng để "cảm biến" một số phân tử
sinh học, nhưng đã có một số nghiên cứu về
mối quan hệ giữa cấu trúc của aerolysin và
khả năng cảm biến phân tử của nó.
Đầu tiên, các nhà khoa học đã sử dụng
mô hình cấu trúc của aerolysin để nghiên cứu
cấu trúc của nó nhờ các mô phỏng máy tính.
Protein aerolysin được tạo thành từ các axit
amin và mô hình đã giúp các nhà khoa học
hiểu cách các axit amin đó ảnh hưởng đến
chức năng của aerolysin nói chung.
Khi hiểu được mối quan hệ đó, các nhà
nghiên cứu đã biến đổi các axit amin trong
mô hình máy tính một cách chiến lược. Sau
đó, mô hình đã dự đoán tác động có thể của
mỗi thay đổi đối với chức năng tổng thể của
aerolysin.
Vào cuối quá trình tính toán, TS. Chan
Cao, tác giả chính của nghiên cứu, đã tạo ra
16 lỗ biến đổi gen, "đột biến" và nhúng chúng
vào hai lớp lipit để mô phỏng vị trí của chúng
trong màng tế bào và thực hiện các phép đo
khác nhau để tìm hiểu cách độ dẫn ion, độ
chọn lọc ion và tính chất chuyển vị của lỗ
aerolysin được điều chỉnh ở cấp độ phân tử.
Nhờ có phương pháp này, cuối cùng, các
nhà nghiên cứu đã tìm thấy yếu tố thúc đẩy
mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng của
aerolysin, đó là nắp của nó. Lỗ aerolysin
không chỉ là một ống đi qua màng, mà còn có
cấu trúc giống như nắp thu hút và xâu chuỗi
phân tử mục tiêu và "kéo" nó qua rãnh của lỗ.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chính trạng
thái tĩnh điện tại khu vực nắp này quyết định
mối quan hệ này.
"Thông qua tìm hiểu chi tiết cách cấu
trúc của lỗ aerolysin kết nối với chức năng
của nó, giờ đây, chúng tôi có thể thiết kế lỗ
tùy chỉnh cho các ứng dụng cảm biến khác
nhau", Dal Peraro nói. "Điều này sẽ mở ra
những cơ hội mới, chưa được khám phá để
sắp xếp các phân tử sinh học như ADN,
protein và sửa đổi sau dịch mã của chúng với
các ứng dụng triển vọng trong lập trình tự
gen và phát hiện chỉ dấu sinh học phục vụ
chẩn đoán". Các nhà khoa học đã xin cấp
sáng chế cho khả năng lập trình tự và đặc tính
của các lỗ aerolysin biến đổi gen.
N.P.D, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 06/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Độc tố mới cản trở sự phát triển của vi khuẩn
Một nghiên cứu hợp tác quốc tế đã phát
hiện ra loại độc tố diệt khuẩn mới có triển
vọng tác động đến các bệnh truyền nhiễm do
siêu khuẩn. Việc phát hiện ra độc tố ức chế
tăng trưởng mà vi khuẩn tiêm vào vi khuẩn đối
thủ để có được lợi thế cạnh tranh, đã được công
bố trên tạp chí Nature.
Phát hiện này là kết quả của sự hợp tác
nghiên cứu giữa John Whitney, phó giáo sư
Khoa Hóa sinh và Khoa học Y sinh tại trường
Đại học McMaster và Mike Laub, giáo sư sinh
học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).
PGS. Whitney và nghiên cứu sinh tiến sĩ
Shehryar Ahmad tại Viện nghiên cứu bệnh
truyền nhiễm Michael G. DeGroote thuộc
trường Đại học McMaster đang nghiên cứu
cách vi khuẩn tiết ra các phân tử kháng khuẩn
khi chúng thấy một độc tố mới. Độc tố này là
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 32/56
loại enzyme kháng khuẩn, chưa được các nhà
nghiên cứu phát hiện trước đây.
Sau khi xác định cấu trúc phân tử của chất
độc này, các nhà khoa học đã nhận thấy nó
giống các enzyme tổng hợp phân tử phát tín
hiệu vi khuẩn nổi tiếng có tên là (p) ppGpp.
Phân tử này thường giúp vi khuẩn sống sót
trong điều kiện căng thẳng như tiếp xúc với
kháng sinh.
"Cấu trúc 3D của chất độc này ban đầu
rất khó hiểu vì không có chất độc nào được biết
đến trông giống enzyme tạo ra (p) ppGpp và
(p) ppGpp không phải là chất độc", Ahmad nói.
Nghi ngờ khả năng chất độc này có thể
diệt khuẩn bằng cách sản xuất quá mức (p)
ppGpp có hại, nhóm nghiên cứu đã chia sẻ phát
hiện của họ với Laub, nhà nghiên cứu tại Viện
Y khoa Howard Hughes của Hoa Kỳ.
Boyuan Wang, nghiên cứu sinh sau tiến
sỹ tại phòng thí nghiệm Laub, người chuyên
nghiên cứu tín hiệu (p) ppGpp, đã kiểm tra hoạt
động của enzyme mới được phát hiện. Kết quả
cho thấy thay vì tạo ra (p) ppGpp, enzyme này
thay vào đó lại sản sinh một phân tử chưa được
biết đến nhưng có liên quan được gọi là (p)
ppApp. Theo cách nào đó, việc sản sinh (p)
ppApp gây hại cho vi khuẩn.
Các nhà nghiên cứu đã xác định được
rằng việc sản sinh nhanh (p) ppApp bởi độc tố
enzyme này làm cạn kiệt các tế bào của phân tử
có tên là ATP. Khi nguồn cung ATP cạn kiệt,
các quá trình tế bào thiết yếu đã bị tổn thương
và vi khuẩn chết.
Charu Kaushic, đồng tác giả nghiên cứu
cho rằng: "Đây là một phát hiện quan trọng có
ý nghĩa để phát triển các lựa chọn thay thế
kháng sinh, ưu tiên toàn cầu trong cuộc chiến
chống lại tình trạng kháng kháng sinh”.
N.P.D, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 11/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Công nghệ chế tạo Vật liệu cellulose sinh học dạng khô
Cellulose sinh học, còn được gọi là
cellulose vi khuẩn hay cellulose vi sinh, là
cellulose do vi khuẩn sinh tổng hợp. Bản chất
của nó là một polysacarit mạch thẳng được
hình thành nhờ các đơn phân glucose liên kết
với nhau theo liên kết ß-1,4 glycosid. Trong
công nghiệp, cellulose sinh học thường được
sản xuất bởi Acetobacter xylinum. So với sợi
thực vật, cellulose sinh học có đường kính nhỏ
hơn (khoảng 25nm - 100nm) và có cấu trúc
chặt chẽ hơn. Thành phần hóa học tinh khiết
hơn sợi thực vật chưa qua xử lý vì sợi thực vật
thường có chứa hemicellulose và lignin. Ngoài
ra, so với sợi thực vật nói chung, khả năng chịu
kéo, độ dẻo và khả năng giữ nước của cellulose
sinh học tốt rất phong phú, tốt hơn và cao hơn.
Do đó, cellulose sinh học phù hợp hơn để sử
dụng làm vật liệu y tế như băng vết thương, da
nhân tạo và mặt nạ.
Các sản phẩm từ cellulose sinh học bán
trên thị trường, như mặt nạ cellulose sinh học,
hầu hết đều ở dạng nước. Tuy nhiên, cellulose
sinh học ngậm nước dễ bị hư hỏng do vi khuẩn
hoặc nấm mốc, vì vậy các sản phẩm ở dạng này
thường phải bổ sung thêm chất kìm hãm vi
khuẩn hoặc chất bảo quản. Hơn nữa, cần có
không gian rộng để vận chuyển và lưu trữ vì
khối lượng cellulose sinh học chứa nước lớn,
làm chi phí vận chuyển và lưu trữ tăng lên. Để
giải quyết các vấn đề trên, các nhà nghiên cứu
Đài Loan, gồm: Lin Yung-hsiang; Ho Cheng-
yu; Chuang Wei-hsiu đã cố gắng tạo vật liệu
cellulose sinh học khô, có cấu trúc sợi không bị
phá hủy, có thể nhanh chóng lấy lại trạng thái
ngậm nước như ban đầu sau khi tiếp xúc với
nước. Họ đã đăng ký sáng chế này tại Mỹ số
US20190023811 và được công bố ngày
24/01/2019.
Quy trình sản xuất mặt nạ Cellulose
sinh học khô:
1. Tạo màng cellulose sinh học: cellulose
sinh học được sản xuất bởi các vi sinh
vật khác nhau, chẳng hạn như
Acetobacter xylinum,
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 33/56
Gluconacetobacter hansenii hoặc
Acetobacter pasteurianus
2. Ngâm cellulose sinh học trong dung
dịch glycerin có nồng độ từ 10% trở lên
trong khoảng thời gian 30-60 phút để
tạo vật liệu cellulose sinh học -
glycerin. Trong quá trình ngâm, có thể
lắc, khuấy để cellulose sinh học có thể
được tiếp xúc hoàn toàn với glycerin.
Mục đích của việc ngâm này là để
ngăn ngừa sự suy giảm không thể đảo
ngược đối với cấu trúc sợi do xử lý sấy
khô ở bước 3; nhờ vậy, vật liệu
cellulose sinh học khô có thể được phục
hồi về trạng thái ngậm nước cao sau khi
ngâm lại trong nước.
3. Sấy: làm khô vật liệu cellulose sinh học
có chứa glycerin để thu được vật liệu
cellulose sinh học khô bằng lò sấy ở
nhiệt độ từ 80°C - 85°C trong 2-4 giờ.
Thời gian sấy có thể khác nhau tùy
thuộc vào nhiệt độ sấy.
4. Tạo hình vật liệu cellulose sinh học
khô, theo hình khuôn mặt với mắt, mũi
và miệng.
Theo sáng chế, vật liệu cellulose sinh học
khô có thể nhanh chóng khôi phục vẻ ngoài,
cảm giác chạm, độ dày và lấy lại trạng thái
ngậm nước cao sau khi tiếp xúc với nước trong
10 phút và trọng lượng của vật liệu cellulose
sinh học khô sau khi tiếp xúc với nước nặng
hơn 10-20 lần so với trọng lượng của vật liệu
cellulose sinh học khô. Đồng thời, vật liệu
cellulose sinh học khô được điều chế theo
phương pháp này dễ bảo quản hơn vật liệu
cellulose sinh học ẩm, cần một không gian lưu
trữ nhỏ hơn và không cần thêm chất bảo quản,
do đó giảm chi phí sản xuất và vận chuyển.
Hình ảnh của vật liệu cellulose sinh học được ngâm
trong các nồng độ dung dịch glycerin khác nhau
và mặt nạ cellulose sinh học khôi phục lại trạng thái
bù nước.
Minh Thư dịch
Nguồn: freepatentsonline.com,
25/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Y DƯỢC
Phương pháp không xâm lấn phát hiện bệnh gan giai đoạn đầu
Một loại thuốc nhuộm cản quan an toàn
và nhạy hơn cho các xét nghiệm chụp cộng
hưởng từ (MRI) do các nhà nghiên cứu tại
trường Đại học Georgia tạo ra, có thể cung
cấp một phương pháp không xâm lấn hiệu
quả đầu tiên để phát hiện và chẩn đoán bệnh
gan giai đoạn đầu, trong đó có xơ gan.
"Đó là sự thay đổi đột phá đối với lĩnh
vực này như là phát hiện đầu tiên giai đoạn
đầu của bệnh xơ gan", Jenny Yang, Giáo sư
hóa học và là đồng tác giả nghiên cứu nói.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 34/56
"Điều này sẽ giúp các bác sĩ theo dõi việc
điều trị trước khi không thể can thiệp và giúp
các công ty dược phẩm lựa chọn đúng bệnh
nhân cho thử nghiệm lâm sàng hoặc xác định
đối tượng để phát triển thuốc".
Các loại thuốc được sử dụng trong xét
nghiệm MRI, được gọi là các chất cản quang,
là các chất được sử dụng để tăng cường khả
năng hiển thị của các cấu trúc bên trong cơ
thể trong quá trình chụp cộng hưởng từ. Chất
cản quang được cấp sáng chế là
ProCA32.collagen1, được phát triển thông
qua sự phối hợp giữa công ty khởi nghiệp
Yang, InLighta BioScatics và các nhà nghiên
cứu sinh học và hóa học tại trường Đại học
Georgia và Đại học Emory nhằm vào biểu
hiện quá mức collagen - chỉ dấu sinh học
trong quá trình tiến triển của bệnh và liên kết
chặt chẽ với gadolinium, kim loại cản quang.
Các thử nghiệm trên mô hình động vật
cho thấy ProCA32.collagen1 dựa vào protein
có thể phát hiện giai đoạn đầu của bệnh xơ
gan do rượu và viêm gan nhiễm mỡ không do
rượu, dạng bệnh nặng nhất của gan nhiễm mỡ
không do rượu. Nghiên cứu cũng đã chứng
minh chất cản quang mới có độ chính xác gấp
đôi so với các chất cản quang thông thường
với khả năng phát hiện các khối u nhỏ cỡ 0,1
đến 0,2 mm, nhỏ hơn 100 lần các khối u được
phát hiện bởi các chất cản quang hiện đã được
phép sử dụng. Vì chất cản quang mới chỉ cần
liều lượng thấp hơn nhiều so với các chất cản
quang thông thường, nên nó làm giảm nguy
cơ độc tính kim loại.
Từ năm 2010 đến 2015, tử vong do bệnh
gan mạn tính tăng 31% ở Hoa Kỳ trong số
những người ở độ tuổi từ 45 đến 64, do một
số yếu tố, bao gồm lạm dụng rượu và béo phì.
Bệnh gan là một quá trình diễn biến chậm,
nhưng không có phương pháp chẩn đoán sớm
hiệu quả, không xâm lấn để điều trị kịp thời,
thì nó có thể tiến triển đến giai đoạn xa hơn
với hậu quả nghiêm trọng.
Hình ảnh tương phản đen trắng của
ProCA32.collagen1 có thể phân biệt các vùng
xơ hóa "vô hình" với mô nền khỏe mạnh,
khắc phục những hạn chế của sinh thiết xâm
lấn không thể phân tích toàn bộ gan. Bước
tiếp theo, nhóm nghiên cứu chờ sự chấp thuận
của Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm để
tiến hành thử nghiệm lâm sàng tại Bệnh viện
Đại học Emory.
N.P.D, theo medicalxpress.com
Nguồn: vista.gov.vn, 04/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Nga phát triển phương pháp chữa khỏi hoàn toàn viêm gan B mạn tính
Viêm gan là một trong 3 bệnh truyền nhiễm
gây ra mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe
của người Nga trưởng thành - Ảnh: Istock
Các phương pháp mới do Viện nghiên
cứu dịch tễ học trung ương Nga phát triển có
thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh viêm gan B
mạn tính dựa trên công nghệ chỉnh sửa gien,
đảm bảo thủ tiêu tới 99% các thành phần vi
rut, nhưng không ảnh hưởng đến bộ gien của
người.
Theo Rossijskaja Gazeta, Cơ quan liên
bang giám sát bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng và phúc lợi Nga Rospotrebnadzor đã
công bố các phương pháp mới trong điều trị
viêm gan B mạn tính. Bà Anna Popova, phụ
trách cơ quan này khẳng định hiện nay, Viện
nghiên cứu dịch tễ học trung ương trực thuộc
Rospotrebnadzor đã phát triển các phương
pháp mới để chữa khỏi hoàn toàn bệnh viêm
gan B mạn tính dựa trên công nghệ chỉnh sửa
gien, đảm bảo thủ tiêu tới 99% các thành
phần vi rut, nhưng không ảnh hưởng đến bộ
gien của người.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 35/56
Thêm vào đó, Viện nghiên cứu dịch tễ
học trung ương trực thuộc Rospotrebnadzor đã
tạo ra các chất phản ứng nội địa đầu tiên có thể
phát hiện khả năng vi rút viêm gan B đột biến
đề kháng được liệu pháp chống vi rút.
Báo cáo của cơ quan Rospotrebnadzor
cho biết Viện nghiên cứu dịch tễ đã đăng ký
và triển khai 190 bộ thuốc phản ứng trong
thực hành giám sát dịch tễ học và y tế của
Liên bang Nga, hơn 260 bộ thuốc phản ứng
được đăng ký tại EU và tuân thủ các tiêu
chuẩn châu Âu. Ngày nay, một trong những
định hướng chính của viện là tạo ra các hệ
thống xét nghiệm sáng tạo để chẩn đoán các
bệnh khác nhau.
Trước đó, Bộ y tế Nga đã gọi viêm gan là
một trong 3 bệnh truyền nhiễm gây ra mối đe
dọa lớn nhất đối với sức khỏe của người Nga
trưởng thành (2 bệnh còn lại là sởi và HIV).
Theo Vladimir Chulanov, chuyên gia về
bệnh viêm gan vi rut thuộc Viện nghiên cứu
dịch tễ học trung ương của Rospotrebnadzor,
tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B và C mạn tính cao
nhất là ở những người trong độ tuổi 35-50.
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO) có trên 1
triệu người chết vì viêm gan B mạn tính hàng
năm.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 12/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Mỹ lần đầu tiên phát triển được da nhân tạo có mạch máu
Miếng cấy ghép ăn liền vào da và không gây
ra sự đào thải - Ảnh: Viện Bách khoa Rensselaer
Theo news.rpci.edu, các nhà nghiên cứu
ở Viện Bách khoa Rensselaer (Mỹ) lần đầu
tiên đã phát triển một phương pháp in 3D thu
được da cùng với các mạch máu. Theo các
thử nghiệm sơ bộ, loại da này có thể thay thế
hoàn toàn cho mô tự nhiên ở động vật và
thậm chí ở người.
Nhà nghiên cứu Pankaj Karand cho biết,
hiện nay các mô được sử dụng để thay thế mô
da giống như một miếng dán thời trang. Loại
mô như vậy có thể chữa lành vết thương
nhanh chóng, nhưng từ trước đến nay nó chưa
thể hoà hợp hoàn toàn vào cơ thể. Ông lưu ý
rằng một trở ngại đáng kể cho sự tích hợp này
là thiếu hệ thống mạch máu hoạt động trong
các mô thay thế da.
Các nhà nghiên cứu cho biết để điều
chỉnh mô, họ đã thêm các tế bào nội mô
người vào hỗn hợp giúp phát triển mạch máu
và tế bào pericyte của người bao bọc các tế
bào nội mô. Cùng với collagen động vật và
các tế bào cấu trúc khác, trong vài tuần chúng
bắt đầu hình thành mạch máu.
Để chứng minh tính hiệu quả của công
nghệ mới, các nhà khoa học đã tạo ra da nhân
tạo với các mạch máu từ tế bào chuột và cấy
ghép thành công vào chuột thí nghiệm. Miếng
cấy ghép ăn liền vào da và không gây ra sự
đào thải. Ngoài ra, các mạch còn kết nối với
hệ thống tuần hoàn của chuột và bắt đầu cung
cấp máu cho các tế bào mô.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 03/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 36/56
Singapore đạt bước tiến trong chế tạo da người trong phòng thí nghiệm
Giám đốc phòng thí nghiệm DeNova
Sciences John Koh cho biết sản phẩm trên
được làm từ các tế bào da của người hiến tặng
và collagen, do đó, mẩu da này có tính chất
hóa học và sinh học giống da người.
Mẩu da này có tính chất hóa học và sinh học
giống da người. (Nguồn: Reuters)
Các nhà khoa học Singapore mới đây
tuyên bố đã phát triển được công nghệ giúp in
ra mẩu da người có kích cỡ bằng móng tay
cái chỉ trong chưa đầy một phút.
Đây được xem là bước ngoặt lớn trong
việc thử nghiệm mỹ phẩm và các sản phẩm
khác không phải trên động vật trong tương lai.
Giám đốc phòng thí nghiệm DeNova
Sciences John Koh cho biết sản phẩm trên
được làm từ các tế bào da của người hiến tặng
và collagen. Do đó, mẩu da này có tính chất
hóa học và sinh học giống như da người.
DeNova Sciences hiện đang hợp tác với
Đại học Công nghệ Nanyang của Singapore
để phát triển sản phẩm này.
Trong bối cảnh nền công nghiệp đang có
xu hướng tránh thử nghiệm trên động vật, các
nhà khoa học Singapore mong muốn tìm ra
giải pháp để có thể tiến hành thử nghiệm trên
da mà không phải cần đến động vật hay con
người. Theo đó, nhóm nghiên cứu đã đẩy
nhanh quá trình sản xuất thông qua việc sử
dụng máy in để đặt chính xác các lớp mẫu
giống với da người. Từng mẩu da nhỏ này
mất chưa tới một phút để in ra và đây được
xem là điểm nổi bật của dự án.
Hỗn hợp này sau đó được ủ trong 2 tuần
khi những tế bào da này được nhân lên và
ngày càng đục dần, giống như lớp màng trắng.
Mẩu da này có thể được dùng để thử nghiệm
mức độc hại hoặc nguy cơ kích ứng từ các
chất, cũng như khả năng thẩm thấu của các
hoạt chất trong các sản phẩm như mỹ phẩm.
Nhóm nghiên cứu hiện đang tập trung
vào việc phát triển mẫu da có sắc tố giống với
tế bào da của người châu Á để kiểm tra tác
dụng làm trắng của các mỹ phẩm.
Đặng Ánh
Nguồn: vietnamplus.vn, 14/11/2019
**************
Mỹ phát triển phương pháp điều trị tiểu đường không dùng thuốc
Các tế bào tụy được thiết kế để tiết ra insulin
dưới ánh sáng xanh - Ảnh : Tufts University
Theo Eurekalet, các nhà nghiên cứu của
Đại học Tufts, Mỹ, đã cấy các tế bào beta của
tuyến tụy vào cơ thể những con chuột bệnh
tiểu đường, dẫn đến sự gia tăng 2-3 lần lượng
insulin do các tế bào tuyến tụy sản sinh ra. Họ
đã thu được thành công này với các protein
thay đổi hoạt động tùy thuộc vào ánh sáng.
Những tế bào này được thiết kế để bù
đắp cho việc sản sinh insulin thấp hơn hoặc
giảm đáp ứng insulin ở bệnh nhân tiểu đường.
Công bố kết quả nghiên cứu trên ACS
Synthetic Biology, các nhà khoa học tuyên bố
nồng độ glucose có thể được kiểm soát mà
không cần sự can thiệp của dược lý.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng insulin là
một loại hormone đóng vai trò trung tâm
trong việc kiểm soát mức độ lưu thông
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 37/56
glucose - nhiên liệu được các tế bào sử dụng.
Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa
dịch bệnh Mỹ (CDC), hơn 30 triệu người Mỹ
mắc bệnh tiểu đường. Khi bị bệnh tiểu đường
thể 2, dạng bệnh phổ biến nhất, các tế bào cơ
thể mất khả năng đáp ứng với insulin và do
đó, mức đường huyết có thể ở ngưỡng nguy
hiểm và tuyến tụy không thể sản xuất đủ
insulin để bù đắp.
Khi được điều trị bằng thuốc khiến các
tế bào beta tuyến tụy tăng sản xuất insulin
hoặc bằng cách tiêm trực tiếp insulin thì
ngoài nguồn insulin tự nhiên, việc điều chỉnh
lượng đường trong máu là quy trình thủ công.
Các nhà nghiên cứu quyết định phát
triển một cách mới để tăng cường sản xuất
insulin trong khi duy trì mối liên hệ giữa việc
tiết insulin và nồng độ glucose trong máu. Họ
đã đạt được điều này bằng cách sử dụng
phương pháp optogenetic (một kỹ thuật sinh
học liên quan đến việc sử dụng ánh sáng để
kiểm soát các tế bào trong mô sống) dựa trên
các protein thay đổi hoạt tính của chúng tùy
thuộc vào lượng ánh sáng.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng
việc cấy ghép tế bào beta tuyến tụy vào cơ thể
chuột mắc bệnh tiểu đường đã cải thiện sự
dung nạp và điều hòa glucose.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 03/11/2019
**************
Bước tiến đáng khích lệ trong cuộc chiến phòng chống sốt xuất huyết
Kết quả nghiên cứu cho thấy vắcxin
TAK-003 đem lại hiệu quả đến 80,2% trong
việc phòng ngừa sốt xuất huyết ở trẻ em và
thanh thiếu niên trong năm đầu tiên sau khi
được tiêm đủ liều.
Loại vắcxin mới nhất được sản xuất để
phòng sốt xuất huyết đem lại hiệu quả cao
trong việc phòng ngừa bệnh, tuy nhiên giới
khoa học vẫn cần nghiên cứu thêm về tính an
toàn và hiệu quả của vắcxin này.
Nội dung này được đề cập trong nghiên
cứu công bố trên tạp chí Medicine của New
England ngày 6/11.
Kết quả nghiên cứu cho thấy
vắcxin TAK-003 do hãng dược phẩm Takeda
sản xuất đem lại hiệu quả đến 80,2% trong
việc phòng ngừa sốt xuất huyết ở trẻ em và
thanh thiếu niên trong năm đầu tiên sau khi
được tiêm đủ liều.
Trong số 12.700 trẻ ở độ tuổi từ 4-16
tuổi được tiêm 2 liều vắcxin với mỗi liều cách
nhau 3 tháng, các nhà khoa học ghi nhận 61
ca nhiễm sốt xuất huyết so với 149 ca trong
số 6.316 trẻ chưa được tiêm.
Ngoài ra, TAK-003 cũng giảm 95%
trường hợp mắc sốt xuất huyết phải nhập
viện. Các nhà nghiên cứu cho biết sẽ tiếp tục
theo dõi kết quả trên trong 3 năm rưỡi tới.
Tuy nhiên, kết quả phân tích sơ bộ của
Takeda cho thấy TAK-003 không có khả năng
bảo vệ những trẻ và thanh thiếu niên chưa từng
mắc khỏi nguy cơ nhiễm loại virus sốt xuất
huyết tuýp 3 và chưa đủ bằng chứng để chứng
tỏ có hiệu quả ngừa loại virus tuýp 4.
Mặc dù vậy, các nhà khoa học không
tham gia nghiên cứu trên đánh giá kết quả này
rất đáng khích lệ khi khả năng bảo vệ của
vắcxin đạt mức cao.
Kết quả nghiên cứu năm 2015 cho thấy
vắcxin ngừa sốt xuất huyết đầu tiên trên thế
giới Dengvaxia do hãng dược phẩm Sanofi
Pasteur của Pháp sản xuất đem lại hiệu quả
khoảng 60% trong năm đầu tiên theo dõi sau
tiêm.
Tuy nhiên, năm 2017, công ty này đưa
ra khuyến cáo không nên tiêm cho những trẻ
chưa từng mắc sốt xuất huyết do Dengvaxia
làm gia tăng nguy cơ mắc căn bệnh này trầm
trọng hơn.
Sốt xuất huyết là loại virus do muỗi lan
truyền phổ biến nhất trên thế giới. Mỗi năm,
gần 400 triệu người trên toàn cầu mắc sốt
xuất huyết, trong đó 25.000 người tử vong.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 38/56
Bên cạnh những biện pháp tiêu diệt
muỗi truyền bệnh, việc điều chế vắcxin phòng
ngừa sốt xuất huyết hiệu quả là yếu tố then
chốt trong cuộc chiến xóa sổ một trong những
bệnh lây lan nhanh nhất thế giới.
Nguyễn Hằng
Nguồn: vietnamplus.vn, 07/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Israel thử nghiệm thành công thuốc điều trị nhiễm trùng huyết cấp
Loại thuốc được thử nghiệm có tên là
Allocetra, có khả năng tái cân bằng hệ thống
miễn dịch bằng cách sử dụng các cơ chế hoạt
động tự nhiên của hệ miễn dịch.
Theo phóng viên TTXVN tại Tel Aviv,
Công ty sản xuất thuốc miễn dịch Enlivex
Therapeutics của Israel đã thử nghiệm thành
công một loại thuốc chữa trị bệnh nhiễm
trùng huyết cấp.
Loại thuốc được thử nghiệm có tên là
Allocetra, có khả năng tái cân bằng hệ thống
miễn dịch bằng cách sử dụng các cơ chế hoạt
động tự nhiên của hệ miễn dịch.
Việc phân tích tác dụng của thuốc được
tiến hành trên 43 bệnh nhân bị nhiễm trùng
huyết cấp. Tất cả những bệnh nhân này được
điều trị tại Trung tâm y tế Hadassah ở thành
phố Jerusalem.
Sáu trong số những bệnh nhân trên đã
được điều trị với thuốc Allocetra, trong khi
những bệnh nhân còn lại được chữa trị theo
tiêu chuẩn điều trị đã được kiểm soát trước đó.
Kết quả cho thấy sau quá trình điều trị 28
ngày, không có bệnh nhân nào trong số những
người được điều trị bằng thuốc Allocetra tử
vong trong giai đoạn này, trong khi 11 trong
số 37 bệnh nhân còn lại đã tử vong.
Theo công ty Enlivex Therapeutics, việc
điều trị bằng thuốc Allocetra đã cho kết quả
tốt hơn trong tất cả các phác đồ điều trị như
đánh giá hoạt động không đúng chức năng
của các cơ quan nội tạng (SOFA), đánh giá
chỉ số các điều kiện y học của nhiều cơ quan
trong cơ thể, khả năng phục hồi và thời gian
chữa trị bằng thuốc đặc trị.
Nhiễm trùng huyết là căn bệnh đe dọa
đến mạng sống của người bệnh do phản ứng
miễn dịch của cơ thể đối với các vết thương
nghiêm trọng trong tế bào và các cơ quan của
cơ thể.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO),
nhiễm trùng huyết đã ảnh hưởng đến khoảng
hơn 30 triệu người trên thế giới mỗi năm.
Công ty Enlivex được thành lập năm
2012, có trụ sở tại thành phố Ness Ziona,
miền Trung Israel. Công ty này đã được niêm
yết trên sàn chứng khoán Nasdaq tại Mỹ và
sàn chứng khoán Tel Aviv.
Công Đồng
Nguồn: vietnamplus.vn, 05/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Công nghệ mới truyền thuốc trực tiếp vào não cho bệnh nhân Alzheimer
Viện Công nghệ Israel (Technion) ngày
17/11 cho biết các nhà nghiên cứu Israel đã
phát triển một công nghệ mới để truyền
thuốc trực tiếp vào não cho bệnh nhân
Alzheimer bằng các chíp silicon.
Các chíp silicon nhỏ cỡ một phần tỷ mét
này sẽ cung cấp một loại protein quan trọng,
có thể kiềm chế sự phát triển bệnh.
Phát hiện trên do các nhà nghiên cứu của
Technion và Đại học Bar-Ilan thực hiện và
được công bố trên nhật báo Small. Bệnh
Alzheimer có biểu hiện là mất trí nhớ, ngôn
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 39/56
ngữ kém, vận động kém, nhiều vấn đề về định
hướng,...
Ảnh minh họa. Nguồn: technion
Bệnh này phổ biến ở người già, do sự
thoái hóa không ngừng của não bộ, xuất phát
từ vận chuyển protein trong các mô não làm
chết các mô thần kinh và hỏng các cơ chế
quan trọng cho chức năng não.
Cung cấp các protein đặc biệt sẽ ngăn
chặn việc này, nhưng đưa các protein vào khu
vực cần trong não không phải là việc đơn giản
vì các hàng rào chằng chịt các mạch máu não.
Hàng rào này vốn để bảo vệ hệ thống thần
kinh trung ương khỏi vi khuẩn và các chất có
hại, song cũng ngăn sự di chuyển của thuốc.
Giải pháp của nhóm nghiên cứu trên là
đưa protein vào não và giải phóng nó vào tế
bào trọng tâm bằng cách sử dụng các chíp có
cấu trúc xốp nhỏ li ti, cho phép chúng mang
một lượng lớn protein. Con chíp này được
đưa vào não bằng một "gene súng", tức là một
hệ thống phóng ra các hạt kim loại phủ đầy
các phân tử này.
Bích Liên
Nguồn: vietnamplus.vn, 18/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà khoa học Hoa Kỳ xác định chủng HIV mới
Một nhóm các nhà nghiên cứu của Hoa
Kỳ đã xác định được một chủng HIV mới,
đây là lần đầu tiên một phân nhóm mới của
HIV-1 đã được xác định trong gần 20 năm.
Nghiên cứu được công bố trực tuyến
trên Tạp chí Syndromes đã mô tả chủng HIV
chưa được xác định trước đó thuộc Nhóm M,
là nguyên nhân cho phần lớn các trường hợp
nhiễm trùng ở người.
Đây là chủng HIV nhóm M mới đầu tiên
được phát hiện kể từ khi hướng dẫn phân loại
các phân nhóm HIV được lập năm 2000.
Các nhà nghiên cứu từ Phòng thí nghiệm
Abbott và Đại học Missouri đã độc lập phát
hiện ra ba trường hợp của chủng mới: hai
mẫu đầu tiên được phát hiện tại Cộng hòa
Dân chủ Congo vào năm 1983 và 1990, và
mẫu thứ ba được thu thập vào năm 2001 tại
quốc gia đó.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các kỹ
thuật giải trình tự mới để thu hẹp phần nhỏ
của mẫu có virus HIV để giải trình tự bộ gen.
Đồng tác giả của nghiên cứu Carole
McArthur, giáo sư tại Đại học Missouri, cho
biết phát hiện này nhắc nhở chúng ta rằng để
chấm dứt đại dịch HIV. “Chúng ta phải tiếp
tục vượt qua virus thay đổi liên tục này và sử
dụng những tiến bộ mới nhất về công nghệ và
nguồn lực để theo dõi nó. Không có lý do để
hoảng sợ hoặc thậm chí lo lắng về điều đó.
Không có nhiều người bị nhiễm chủng này",
Anthony Fauci, Giám đốc Viện Dị ứng và
Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ, cho
biết.
P.A.T, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 12/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 40/56
Nghiên cứu mới giải thích cách thức virus HIV có thể né tránh ZAPped
Nguồn: Rajani Aroroa,U-M Life Sciences Institute
Loài người đã phát triển các cơ chế bảo
vệ linh hoạt để chống lại các loại virut tìm cách
lây nhiễm vào trong cơ thể. Ví dụ như các
protein chịu trách nhiệm nhận dạng, xác định,
bắt giữ và phá hủy các vật liệu di truyền mà
các virus cố gắng lẻn vào bên trong các tế bào.
Một nghiên cứu mới, công bố trong Kỷ
yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia,
giờ đây cho thấy không chỉ một trong số các
protein này đeo bám để tiêu diệt những “kẻ
xâm lược” bên ngoài, mà còn có cả một số
chủng virus gây suy giảm miễn dịch ở người.
Việc hé lộ cơ chế làm cho cho protein
này kháng vi-rút hiệu quả trong một số trường
hợp sẽ là bước đầu tiên quan trọng trong con
đường hướng tới các phương pháp tấn công
các vi-rút mà trong đó có thể né tránh được
các protein này tốt hơn.
Protein đang được đề cập đến có tên gọi
là ZAP (zinc-finger antiviral protein) được
các tế bào tạo ra nhằm hạn chế virus sao chép
và lây nhiễm. Khi các tế bào phát hiện virus,
gen ZAP được bật lên và sản sinh ra nhiều
protein hơn. ZAP sẽ lọc ra vật liệu di chuyền
(ARN) của virus bên trong các ARN tự nhiên
của tế bào và sau đó sẽ nhắm mục tiêu vào
ARN của virus và tiêu diệt chúng.
Nhóm chuyên gia nghiên cứu Viện
Khoa học Đời sống (LSI) thuộc Trường Đại
học Michigan (U-M) và Đại học Rockefeller
rất mong muốn xác định cách ZAP nhận ra bộ
gen của virus và cách một số virus né tránh
được protein này.
Nghiên cứu trước đây của Rockefeller
đã tiết lộ rằng ZAP chỉ ‘bắt” được một chuỗi
các nucleotide lân cận (khối xây dựng vật
chất AND và ARN): một cytosine bị theo sát
bởi một guanine hoặc một CG dinucleotide.
Các ARN của người có ít CG dinucleotide và
do đó ARN của virus HIV đã tiến hóa bắt
chước đặc điểm này.
“Động lực chính của nghiên cứu là xem
xét làm thế nào virus HIV tránh né được
protein kháng virus này? và vì chúng tôi là
các nhà sinh vật học nghiên cứu cấu trúc nên
chúng tôi muốn xác định cách ZAP “tìm
thấy” CG dinucleotide và xem xét sự liên kết
của nó với ARN về mặt cấu trúc như thế nào”,
Jennifer Meagher, nhà nghiên cứu tại LSI và
là một trong những tác giả chính của nghiên
cứu cho biết.
Khi sử dụng một đoạn ARN của virus đã
được biến đổi gen để bổ xung thêm chuỗi CG,
Meagher và các đồng nghiệp của cô tại U-M
đã xác định được cấu trúc của protein ZAP
liên kết với ARN.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng
ZAP liên kết với ARN của virus chỉ tại vị trí
của một trong bốn “ngón tay kẽm” mà chúng
coi là các vị trí gắn kết tiềm năng trên protein
này. Họ cũng chứng minh thêm rằng thậm chí
một thay đổi nhỏ - thay đổi chỉ một nguyên tử
đơn duy nhất - cũng cản trở khả năng liên kết
của ZAP.
Khi nghiên cứu các tế bào này, các nhà
nghiên cứu Rockefeller cũng đã tìm thấy kết
quả tương tự khi họ thay đổi thành phần của
ZAP. Chúng đã tạo ra các phiên bản ZAP đột
biến được biểu hiệu trong các tế bào bị nhiễm
HIV bình thường hoặc một phiên bản virus
được “làm giàu” bằng các chuỗi CG.
Các protein ZAP đột biến rất kém trong
việc “nhận diện” các vùng được làm giàu bằng
CG của ARN của virus trong các tế bào.
Chúng cũng biểu hiện sự gia tăng gắn kết với
các khu vực của ARN không được làm giàu
trong CG dinucleotide. Điều này chỉ ra rằng sự
thay đổi đã làm giảm khả năng phân biệt ARN
của virus với ARN của người của protein ZAP.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 41/56
“Đây là bước nghiên cứu rất quan trọng
về cách thức tế bào làm suy giảm ARN của
virus. Giờ đây chúng ta đã biết được bước
này được diễn ra như thế nào và tại sao nó
không hiệu quả đối với HIV và các loại virus
thiếu chuỗi CG khác”, Janet Smith, giáo sư
nghiên cứu LSI và giáo sư hóa học sinh học
tại Trường Đại học Y Đại học U-M nói.
Công trình nghiên cứu được thực hiện
thông qua Trung tâm Nghiên cứu ARN HIV
và được hỗ trợ bởi Viện Y tế Quốc gia, Viện
Y khoa Howard Hughes, Tập đoàn Phát triển
Kinh tế Michigan và Hành lang Công nghệ
Michigan.
P.T.T, theo phys.org
Nguồn: vista.gov.vn, 15/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Các nhà nghiên cứu Israel phát triển lớp phủ chống vi khuẩn đa mục đích
Hàng trăm ngàn ca tử vong mỗi năm
trên thế giới được coi là do nhiễm trùng bệnh
viện, đặt ra thách thức đối với các cơ sở chăm
sóc sức khỏe, bệnh viện, phòng khám và viện
dưỡng lão.
Trong một phòng thí nghiệm nhỏ ở miền
trung Israel, một nhóm các nhà nghiên cứu đã
tìm ra một lớp phủ như một cách chống nhiễm
trùng. Lớp phủ có thể được đặt trên giường
bệnh viện và giảm vi khuẩn đáng kể. Nó cũng
có thể được sử dụng trên các bề mặt khác, từ
áo choàng mà bệnh nhân mặc đến tất và thảm.
Được phát triển bởi Aharon Gedanken,
giáo sư của Khoa Hóa học tại Đại học Bar Ilan,
phương pháp này sử dụng sóng siêu âm để
chèn các hóa chất chống vi khuẩn vào vải. Quá
trình này chủ yếu là vật lý, không phải hóa học,
mà theo Gedanken và nhóm của ông, là lý do
chính cho khả năng phục hồi của lớp phủ. Có
một liên kết mạnh mẽ giữa các hạt cực nhỏ giữ
chúng ở vị trí để tiêu diệt vi khuẩn.
"Tôi bọc bông bằng các hạt nano oxit
kẽm và giặt nó 65 lần trong máy giặt của
bệnh viện ... với 75 đến 92 độ C", nhà khoa
học 79 tuổi nói. Các thử nghiệm này được
thực hiện từ năm 2009 đến 2013.
Những hạt nhỏ này là chìa khóa thành
công vì chúng cung cấp vùng phủ bề mặt cao,
Gedanken nói trong một cuộc phỏng vấn độc
quyền với Tân Hoa Xã.
Sonovia, một công ty dệt may của Israel,
đã mua bản quyền thương mại hóa từ Đại học
Bar Ilan. Khăn trải giường, vỏ gối và đồ ngủ
được thử nghiệm thành công tại Bệnh viện
Pirogov ở Bulgaria năm 2013. Họ thấy "sự
khác biệt về tỷ lệ lây nhiễm giữa những người
ngủ trên tấm vải của chúng tôi và những
người không", Gedanken giải thích. Theo
ông, các xét nghiệm đã chứng minh giảm ít
nhất 50% nguy cơ lây bệnh. Công nghệ này
có thể được áp dụng cho nhiều mục đích
chống vi khuẩn. Lớp phủ có thể làm cho bề
mặt chống cháy, chống nước và chống mùi.
Ví dụ, tất có thể được sản xuất với lớp phủ và
các hạt chống vi khuẩn sẽ ngăn chặn mùi hôi.
Ngoài ra còn có một lợi thế môi trường.
"Chúng tôi sử dụng ít hơn 60% hóa chất và
tiết kiệm nước và năng lượng trong quá trình
này", Gedanken nói.
Gedanken và Sonovia đang tìm cách
thâm nhập vào thị trường quần áo thể thao và
ngành công nghiệp thời trang. Túi dùng trong
siêu thị phủ các hạt chống vi khuẩn ăn được
cũng đang được thử nghiệm, sẽ kéo dài thời
gian bảo quản trái cây và rau quả.
P.A.T , theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 13/11/2019
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 42/56
Vi khuẩn biển mới có thể tạo ra nhiều loại kháng sinh mới
Các nhà khoa học Đức và Hà Lan đã
nuôi cấy thành công hàng chục loại vi khuẩn
biển mới trong phòng thí nghiệm. Phân tích
mới về các chủng khuẩn này cho thấy chúng
có khả năng sản xuất các loại kháng sinh mới.
Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí
Nature Microbiology.
Hầu hết các loại kháng sinh hiện nay đều
là hợp chất tự nhiên do vi khuẩn tạo ra. Do
tình trạng lạm dụng kháng sinh, nên nhiều
loại kháng sinh đang mất dần hiệu quả điều
trị vì ngày càng nhiều mầm bệnh phát triển
khả năng đề kháng.
Đến nay, việc tìm kiếm các hợp chất
kháng sinh chỉ tập trung vào 1% các loài vi
khuẩn được biết đến. Nhiều loài vi khuẩn quá
khó nuôi cấy trong phòng thí nghiệm nên các
nhà khoa học đã bỏ qua trong quá trình tìm
kiếm thuốc mới. Tuy nhiên, các nhà khoa học
bắt đầu đạt được bước tiến trong việc nghiên
cứu các nguồn hợp chất kháng sinh mới.
Dù vi khuẩn rất phong phú và vô cùng
đa dạng, nhưng không phải tất cả các chủng
và loài đặc biệt hữu ích để các nhà khoa học
nghiên cứu phát hiện kháng sinh. Các loại vi
khuẩn có khả năng sản sinh các hợp chất
kháng sinh là những loại tham gia vào các
cuộc chiến chống vi khuẩn lại hạn chế về
nguồn cung.
"Nguồn cung chủ yếu là các vi sinh vật
có lối sống phức tạp có tế bào bất thường và
bộ gen lớn", Christian Jogler, đồng tác giả
nghiên cứu và cũng là nhà vi trùng học tại
Đại học Friedrich Schiller ở Đức. “Các vi
khuẩn này tạo ra những hợp chất kháng sinh
và sử dụng trong cuộc chiến chống những vi
khuẩn khác để tranh giành chất dinh dưỡng
và môi trường sống".
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã
sử dụng cả thợ lặn và robot dưới biển sâu để
tìm kiếm Planctomycetes, hệ vi khuẩn thủy
sinh độc nhất tại một số địa điểm ở biển Địa
Trung Hải, biển Bắc, biển Baltic và biển Đen,
cũng như Đại Tây Dương, Đại dương, Thái
Bình Dương và Bắc Cực.
"Chúng tôi biết rằng Planctomycetes
sống cùng các vi sinh vật khác và cạnh tranh
nhau về nơi cư trú và chất dinh dưỡng",
Jogler nói.
Những nỗ lực lấy mẫu của nhóm nghiên
cứu đã mang lại kết quả nuôi cấy 79
Planctomycetes mới, bao gồm 31 chi mới và
65 loài mới. Trong phòng thí nghiệm, sau khi
nuôi cấy, các nhà khoa học đã phát hiện ra
tiềm năng của mỗi vi khuẩn trong việc tạo ra
các phân tử nhỏ như các hợp chất kháng sinh.
Các phương pháp phân tích cũng cho thấy
mức độ truyền tín hiệu tế bào của mỗi vi
khuẩn, thể hiện sự phức tạp về lối sống của vi
khuẩn.
Sandra Wiegand, nhà nghiên cứu tại Đại
học Radboud, Hà Lan, cho biết: "Kết quả của
những phân tích này cho thấy Planctomycetes
mới được thu thập có lối sống cực kỳ phức
tạp và có khả năng sản xuất kháng sinh mới".
Nội dung quan trọng nhất trong nghiên cứu
mới là nhiều loài vi khuẩn bị loại bỏ vì không
thể nuôi cấy trên thực tế, lại có thể được thu
gom và nuôi cấy.
N.P.D, theo www.upi.com
Nguồn: vista.gov.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 43/56
Giường bệnh bằng đồng có tác dụng diệt khuẩn
Theo một nghiên cứu mới của trường
Đại học South Carolina, giường bệnh bằng
đồng trong Cơ sở Chăm sóc chuyên sâu
(ICU) chứa ít vi khuẩn hơn 95% so với
giường bệnh thông thường và duy trì mức độ
rủi ro thấp này trong suốt thời gian nằm viện
của bệnh nhân. Nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Applied and Environmental
Microbiology.
"Nhiễm trùng bệnh viện đã gây tổn
thương khoảng 2 triệu người Mỹ mỗi năm và
cướp đi sinh mạng gần 100.000 người",
GS.TS. Michael G. Schmidt, đồng tác giả
nghiên cứu nói. Nhiễm trùng bệnh viên là
nguyên nhân thứ 8 gây tử vong ở Mỹ.
Giường bệnh là một trong số những bề
mặt ô nhiễm nhất trong môi trường chăm sóc
người bệnh. GS.TS. Schmidt cho rằng: “Dù
các nhân viên dịch vụ môi trường đã nỗ lực
rất nhiều, nhưng họ không làm sạch xuể”.
Tuy nhiên, gần đây, giường bệnh có bề mặt
đồng, từ lâu được biết đến về khả năng đẩy
lùi và kháng khuẩn, vẫn chưa được thương
mại hóa.
Từ thời Ayurveda cổ đại, con người đã
hiểu về tính chất kháng khuẩn của đồng có,
do đó, họ thường tích trữ nước uống trong các
bình đồng để ngăn ngừa bệnh tật. Trong thời
y học hiện đại, nhiều nghiên cứu đã nhấn
mạnh đến tính chất kháng khuẩn của đồng.
"Dựa vào kết quả tích cực của các thử
nghiệm trước đó, chúng tôi đã nghiên cứu chế
tạo giường bằng đồng hoàn chỉnh", TS.
Schmidt nói. "Chúng tôi cần thuyết phục các
nhà sản xuất rằng rủi ro để thực hiện nỗ lực
này là đáng giá".
Nghiên cứu tại chỗ đã so sánh tình trạng
nhiễm bẩn tương đối giữa các giường bệnh tại
cơ sở chăm sóc chuyên sâu (ICU) được trang
bị đường ray, chỗ để chân và điều khiển
giường bằng đồng và các giường bệnh truyền
thống với bề mặt nhựa. Gần 90% mẫu vi
khuẩn được lấy từ mặt trên của đường ray
nhựa có nồng độ vi khuẩn vượt quá mức được
coi là an toàn.
"Các phát hiện chỉ ra rằng giường đồng
kháng khuẩn có thể hỗ trợ các bác sỹ kiểm
soát tình trạng nhiễm trùng nhằm giữ vệ sinh
bề mặt giữa các lần vệ sinh thường xuyên, do
đó giảm nguy cơ truyền vi khuẩn liên quan
đến nhiễm khuẩn trong chăm sóc sức khỏe",
TS. Schmidt nói. Sự ra đời của giường bệnh
bằng đồng sẽ mang lại lợi ích cho bệnh nhân
và tiết kiệm chi phí chăm sóc sức khỏe.
N.P.D, theo sciencedaily.com
Nguồn: vista.gov.vn, 14/11/2019
**************
Phát hiện mới mở đường cho liệu pháp điều trị tăng huyết áp kháng trị
Tăng huyết áp kháng trị, thường gặp ở
người cao tuổi, béo phì, khi người bệnh
không đạt được huyết áp mục tiêu dù đã
dùng tới 3 nhóm thuốc hạ áp ở liều tối ưu và
1 trong 3 nhóm thuốc là lợi tiểu.
Các nhà nghiên cứu Australia đã phát
hiện một "mắt xích" quan trọng bị thiếu giữa
các vùng kiểm soát chức năng thở của não bộ
và các vùng kiểm soát hệ tim mạch.
Kết quả này được kỳ vọng sẽ mở đường
cho các liệu pháp mới điều trị bệnh tăng
huyết áp kháng trị, yếu tố chính gây ra bệnh
tim mạch làm tăng tỷ lệ tử vong trên toàn cầu.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12 /2019 44/56
Trong công trình nghiên cứu chung công
bố ngày 19/11, các nhà khoa học thuộc Đại
học Macquarie và Đại học New South Wales
đã xác định được một nhóm tế bào thần kinh
có nhiệm vụ đồng bộ hóa hệ tim mạch và
nhóm cơ vùng cổ với hệ hô hấp.
Phó giáo sư Khoa học Y sinh Simon
McMullan tại Đại học Macquarie cho biết phát
hiện này đã giải đáp khúc mắc của các nhà
nghiên cứu từ những năm 30 của thế kỷ trước.
Các thí nghiệm cho thấy các tế bào thần
kinh trong một vùng não có đường kính nhỏ
hơn 1mm đóng vai trò chính trong việc kết
nối hoạt động hô hấp với 2 hệ sinh lý chính
gồm cơ hô hấp và hệ tuần hoàn.
Phó Giáo sư McMullan và nhóm nghiên
cứu tin rằng kết nối này giúp cải thiện hiệu
quả của hệ hô hấp và hệ tuần hoàn bằng cách
tăng cường trao đổi khí trong phổi - một cơ
chế bị cho là không thích ứng trong một số
trường hợp mắc các bệnh thông thường như
tăng huyết áp và bệnh thận.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy
nhóm tế bào thần kinh nêu trên cũng có thể
đóng vai trò nòng cốt trong việc kiểm soát
chức năng nuốt.
Điều này đồng nghĩa một nhóm tế bào
đơn lẻ có thể phối hợp nhiều chức năng cơ
bản để hỗ trợ sự sống.
Huyết áp kháng trị là khi người bệnh
không đạt được huyết áp mục tiêu dù đã dùng
tới 3 nhóm thuốc hạ áp ở liều tối ưu và một
trong ba nhóm thuốc là lợi tiểu.
Bệnh này thường gặp ở những người cao
tuổi, thừa cân - béo phì, người mắc bệnh thận
mãn tính, đái tháo đường hay huyết áp ban
đầu cao.
Phan An
Nguồn: vietnamplus.vn, 20/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu đột phá có thể giúp chế tạo vắcxin ngừa bệnh dại
Các nhà nghiên cứu Australia đã tìm ra
một phương pháp để ngăn chặn virus bệnh
dại, qua đó mở đường cho việc phát triển
vắcxin phòng dại.
Các nhà nghiên cứu Australia đã tìm ra
một phương pháp để ngăn chặn virus bệnh dại
làm tê liệt hệ thống miễn dịch trong cơ thể
người khi chúng xâm nhập, mở đường cho
việc phát triển vắcxin phòng dại mới.
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp
chí Cell số ra ngày 13/11, tác giả công trình
nghiên cứu, tiến sỹ Greg Moseley, Viện
Nghiên cứu y sinh học Monash (BDI), cho
biết lâu nay khi xâm nhập một cơ thể, nhiều
loại virus nhắm vào loại protein có tên
STAT1 và các protein liên quan nhằm làm tê
liệt hệ thống phòng thủ miễn dịch của vật
chủ. Tuy nhiên, các nhà khoa học không thể
biết chính xác cách thức các virus này kiểm
soát protein do thiếu dữ liệu cấu trúc trực
tiếp.
Để khám phá điều này, các nhà nghiên
cứu của BDI đã cấy một protein bệnh dại và
một protein STAT1 trong cùng một ống
nghiệm, sau đó theo dõi kết quả bằng quang
phổ cộng hưởng từ hạt nhân.
Qua theo dõi, họ quan sát thấy chính xác
các khu vực mà virus dại kết dính với protein
STAT1, khiến STAT1 không thể kích hoạt hệ
thống miễn dịch.
Các nhà khoa học hy vọng rằng với kết
quả nghiên cứu này, họ có thể phát triển một
loại vắcxin ngừa bệnh dại mới an toàn, hiệu
quả hơn và có thể dùng bằng đường uống.
Đây sẽ là một bước tiến lớn trong phòng
chống bệnh dại. Vì STAT1 là mục tiêu của
nhiều loại virus như virus sởi nên các kết quả
nghiên cứu trên được đánh giá là hữu ích cho
nghiên cứu các bệnh khác.
Hằng năm, bệnh dại đã cướp đi sinh
mạng của khoảng 60.000 người trên thế giới
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 45/56
và phần lớn là ở những nước đang phát triển.
Nguyên nhân chủ yếu là do bị chó dại cắn.
Thanh Hải
Nguồn: vietnamplus.vn, 13/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Phương pháp mới giúp chữa bệnh lão hoá sớm Progeria
Dân trí Bệnh Progeria là căn bệnh cực
hiếm dẫn đến tình trạng lão hóa nhanh ở
người. Những người mắc phải bệnh này
thường chết vì bệnh tim do biến chứng ở độ
tuổi trung bình chỉ khoảng 14 tuổi.
Trong một nghiên cứu được công bố
trên tạp chí Nature Communications, một
nhóm các nhà khoa học Thụy Điển và Italia
đã tiết lộ một phương pháp điều trị mới có thể
chống lại căn bệnh Progeria.
Các nhà khoa học tìm ra phương pháp mới
để điều trị bệnh lão hoá sớm
Các nhà nghiên cứu từ Viện Karolinska
của Thụy Điển và Viện nghiên cứu Ung thư
phân tử FIRC ở Italia tập trung vào cách trị
liệu bằng liệu pháp gene Oligonucleotide
Antisense có thể được sử dụng để chống lại
căn bệnh gây tử vong di truyền rất hiếm gặp
có tỉ lệ 1/18 triệu trẻ em, dẫn đến lão hóa sớm
và tử vong ở tuổi vị thành niên biến chứng
của bệnh tim mạch.
Giáo sư Maria Eriksson của Viện
Karolinska cho biết, các nhà khoa học đã nhìn
thấy những tác động tích cực trong điều trị
chuột, nhưng ở người, tác dụng của nó quá
nhỏ, đó là lý do tại sao họ cần phải suy nghĩ
lại và tìm ra những cách mới để điều trị bệnh
bệnh.
Chính Eriksson đã xác định vào năm
2003, đột biến ức chế sự phân chia tế bào liên
quan đến Progeria, còn được gọi là hội chứng
progeria Hutchinson-Gilford, có liên quan
đến Progerin, một dạng khiếm khuyết của
protein A được tìm thấy trong nhân tế bào.
Trong một mô hình chuột Progeria được
điều trị theo cách tương tự, các nhà nghiên
cứu đã nhận thấy sự gia tăng đáng kể ở mức
độ tuổi thọ trung bình.
Một điều thú vị cần lưu ý đó là
Oligonucleotide antisense hiện đã được đưa
vào làm thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng
tiên tiến, một số trong đó đã được Cục quản
lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phê
duyệt.
Nghiên cứu được thực hiện sau hơn một
chục phương pháp điều trị Progeria đã được
thử nghiệm trong vài năm qua, không có kết
quả rõ ràng nào liên quan đến các thử nghiệm
lâm sàng được thực hiện ở những bệnh nhân
mắc bệnh.
Trang Phạm, theo Sputnik
Nguồn: dantri.com.vn, 20/11/2019
**************
Thuỵ Điển bào chế thành công vắc xin uống ngừa tiêu chảy
Vắc xin uống ETVAX ngừa tiêu chảy do các
nhà khoa học Thuỵ Điển phát triển đã được
thử nghiệm thành công ở Bangladesh trên trẻ
nhỏ và trẻ sơ sinh.
Theo MedicalXpress, các nhà nghiên cứu
tại Đại học Gothenborg, Thuỵ Điển, đã hoàn
thành thử nghiệm thành công đầu tiên loại vắc
xin uống để ngăn ngừa tiêu chảy do vi khuẩn
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 46/56
E. Coli (Enterotoxigenic E. coli - ETEC) gây
ra. Nghiên cứu giai đoạn I/II về vắc xin
ETVAX thử nghiệm đã được tiến hành ở
Bangladesh trên trẻ em từ 6 tháng đến 5 tuổi.
Nghiên cứu cho thấy ETVAX là một
loại thuốc an toàn và có khả năng miễn dịch
cao, kích thích sự phát triển của phản ứng
miễn dịch đối với các thành phần vắc xin
quan trọng.
Chỉ có một vài phản ứng bất lợi từ nhẹ
đến trung bình được quan sát thấy giữa những
trẻ tham gia; vắc xin gây ra phản ứng miễn
dịch trong huyết thanh và đường ruột ấn
tượng ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh, với 80% -
100% trẻ em từ 2 đến 5 tuổi và 50 - 80% trẻ
sơ sinh từ 6 đến 11 tháng tuổi đáp ứng với tất
cả các kháng nguyên chính của vắc xin.
Enterotoxigenic E. coli là nguyên nhân
chính gây tiêu chảy ở trẻ em ở các nước thu
nhập thấp và trung bình cũng như khách du
lịch đến các khu vực có nguy cơ cao bị nhiễm
E. Coli và việc phát triển vắc xin là ưu tiên
của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Hiện tại
không có thuốc dự phòng trên thị trường có
thể bảo vệ chống nhiễm trùng.
Sau khi có được dữ liệu thuyết phục từ
nghiên cứu đầu tiên, các nhà khoa học Thụy
Điển đã tiến hành thử nghiệm vắc xin cho
những du khách Phần Lan đến thăm các nước
châu Phi, kết quả thử nghiệm dự kiến sẽ được
công bố trong quý đầu tiên của năm 2020.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 22/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Công nghệ tái tạo nhanh xương bị gãy hay bị tổn thương do u xương
Một phần của xương bị u, có thể được phục hồi
bằng cách thúc đẩy quá trình tái tạo xương
- Ảnh: Nephron
Nhóm khoa học gia quốc tế đã phát
triển được aerogel lai - một silicagel với các
sợi tơ tằm (silica-silk fibroin hybrid aerogel)
rất bền, nhẹ và ưa nước dùng để kích thích sự
phát triển của mô xương mới thay thế cho mô
xương bị tổn thương hoặc bị mất.
Theo Inverse, 3 phòng nghiên cứu thí
nghiệm có trụ sở ở Iran, Đức và Áo đã hợp
tác phát triển thành công một loại protein kết
hợp với aerogel rất nhẹ và xốp. Protein là sợi
tơ tằm làm cho aerogel bền và đủ cứng để sử
dụng cho sự phát triển của xương. Đó là
aerogel lai, là một silicagel với các sợi tơ tằm
(silica-silk fibroin hybrid aerogel) rất bền,
nhẹ và ưa nước.
Trong một sinh vật sống, aerogel kích
thích sự phát triển của mô xương mới để thay
thế cho mô xương bị tổn thương hoặc bị mất.
Công nghệ này sẽ giúp điều trị gãy xương
trong vài ngày và mang lại hy vọng về một
cuộc sống đầy đủ cho những người bị ung thư
xương. Một khối u xương là một bệnh ung
thư hiếm gặp, nhưng hậu quả của nó rất
nghiêm trọng: bệnh nhân mắc bệnh phát triển
có thể phải cắt cụt chân tay để ngăn ngừa di
căn. Để giúp những bệnh nhân này, cũng như
những người mắc các bệnh lý về xương khác,
các nhà khoa học đã phát triển một loại
aerogel lai đã bắt rễ thành công ở chuột và
kích thích sự phát triển của xương mới.
Các nhà khoa học giải thích rằng mô
xương cần sự trợ giúp từ bên ngoài để tái sinh
và phát triển. Đồng thời, rất khó để làm cho
một mô mới phát triển chính xác đúng như
một người cần. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã
tạo ra một khung phân hủy sinh học, đưa
aerogel vào khung và điều khiển các mô đang
phát triển dọc theo hướng được chỉ định trong
khung.
Trong các thử nghiệm trên các mẻ nuôi
cấy tế bào người, sự an toàn của vật liệu đối
với cơ thể con người đã được chứng minh.
Sau đó, các nhà khoa học đã tiến hành thử
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 47/56
nghiệm với chuột. Aerogel được dùng cho
nhóm chuột và các nhà khoa học đã theo dõi
sự phục hồi xương trong 25 ngày, ghi nhận
quá trình lành mô nhanh và tốt. Quá trình tái
tạo này cho thấy khả năng phục hồi nhanh
chóng của xương gãy trong một vài ngày chứ
không phải vài tuần. Ngoài ra, công nghệ này
rất quan trọng đối với những bệnh nhân bị u
xương với nguy cơ phải cắt cụt.
Vũ Trung Hương
Nguồn: motthegioi.vn, 21/11/2019
**************
Thử nghiệm công nghệ chỉnh sửa gene trong điều trị ung thư
Nguồn: nbcnews.com
Phương pháp chỉnh sửa gene CRISPR
xóa bỏ 3 gene gây ảnh hưởng đến khả năng
chữa bệnh của các tế bào và thêm vào 1 gene
khác để hỗ trợ diệt tế bào ung thư.
Ngày 6/11, các bác sỹ Mỹ đã tuyên bố
lần đầu tiên thử nghiệm công nghệ chỉnh sửa
gene CRISPR trong điều trị ung thư. Tuy
nhiên, hiện chưa thể khẳng định liệu công
nghệ mới này có gia tăng cơ hội sống cho các
bệnh nhân hay không.
Theo phóng viên TTXVN tại New York,
các bác sỹ đã lấy tế bào của hệ thống miễn
dịch trong máu bệnh nhân và chỉnh sửa gene
để các tế bào này nhận ra và chống lại các tế
bào ung thư, đồng thời gây ra ít phản ứng phụ
nhất và hoàn toàn có thể kiểm soát được.
Phương pháp này xóa bỏ 3 gene gây ảnh
hưởng đến khả năng chữa bệnh của các tế bào
và thêm vào 1 gene khác để hỗ trợ diệt tế bào
ung thư.
Các bác sỹ đã điều trị cho 3 bệnh nhân,
trong đó hai bệnh nhân mắc bệnh đa u tủy
xương (multiple myeloma) - một dạng ung thư
máu - và bệnh nhân thứ ba mắc chứng
sarcoma - một loại ung thư mô mềm.
Sau 3 tháng thử nghiệm, kết quả bệnh
tình của bệnh nhân thứ nhất tiếp tục tiến triển
xấu, nhưng bệnh tình của bệnh nhân thứ hai lại
khá ổn định. Bệnh nhân thứ ba mới được điều
trị bằng phương pháp này nên chưa thể đưa ra
nhận định.
Các bác sỹ dự định sẽ điều trị bằng công
nghệ này cho khoảng 15 bệnh nhân nữa, sau
đó sẽ có đánh giá về mức độ an toàn cũng như
hiệu quả của phương pháp mới này.
Theo hãng tin NBC của Mỹ, trưởng
nhóm nghiên cứu, bác sỹ Edward Stadtmauer
thuộc Đại học Pennsylvania, cho biết thử
nghiệm này là bằng chứng cho thấy hoàn toàn
có thể thực hiện chỉnh sửa gene của các tế bào
một cách an toàn.
Đến nay các tế bào được chỉnh sửa gene
đưa vào cơ thể các bệnh nhân thử nghiệm vẫn
ổn và nhân lên như dự tính. bác sỹ chuyên
điều trị ung thư Aaron Gerds thuộc viện
Cleveland cho biết các phương pháp trị liệu tế
bào đối với ung thư máu hiện cũng cho kết quả
tích cực, và công nghệ chỉnh sửa gene này có
thể sẽ giúp cải thiện cả các phương pháp trị
liệu tế bào.
Chỉnh sửa gene CRISPR là phương pháp
thay đổi ADN vĩnh viễn nhằm tấn công vào
tận gốc rễ của bệnh, cắt ADN ở một điểm
nhất định.
Công nghệ này từ lâu đã được sử dụng
trong các phòng thí nghiệm và hiện đang được
thử nghiệm điều trị cho bệnh nhân. Công nghệ
điều chỉnh gien này không nhằm làm thay đổi
ADN trong cơ thể con người.
Thay vào đó, tế bào của người bệnh được
lấy ra, chỉnh sửa và đưa trở lại vào cơ thể
người bệnh để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Trước đó, các nhà khoa học Trung Quốc
đã thử điều trị ung thư cho người bệnh bằng
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 48/56
phương pháp này nhưng đây là lần đầu tiên
việc thử nghiệm được tiến hành ở Mỹ. Hải Vân
Nguồn: vietnamplus.vn, 07/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Giải pháp “Bẫy ung thư” được cấy ghép dưới da có thể thay thế thủ thuật sinh thiết để phát hiện ung thư
Một trong những nguyên nhân chính
khiến căn bệnh ung thư trở nên nguy hiểm là
khả năng lây lan, di căn khắp cơ thể. Chính vì
vây, việc tầm soát ung thư là rất quan trọng.
Mới đây, các nhà nghiên cứu đến từ trường
Đại học Michigan, Hoa Kỳ đã phát triển giải
pháp bẫy ung thư bằng phương pháp cấy ghép
ngay dưới da thay vì thực hiện thủ thuật sinh
thiết gây xâm lấn các bộ phận cơ thể. Trong
các thử nghiệm trên chuột, bẫy ung thư đã lưu
được các dấu ấn sinh học mà qua đó, các bác
sĩ có thể nhận biết dấu hiệu của bệnh ung thư
(nếu có) hoặc trong trường hợp bệnh đang
trong tình trạng di căn hay thậm chí trong giai
đoạn ủ bệnh.
Sinh thiết là thủ thuật có độ chính xác
cao, được thực hiện bằng việc lấy một mẫu mô
nhỏ từ bất cứ vị trí nào trên cơ thể người bệnh
để phân tích và kiểm tra sự bất thường về chức
năng hoặc sự thay đổi cấu trúc tế bào bất
thường. Đây là thủ tục mang lại cảm giác khó
chịu cho người bệnh nhưng lại rất cần thiết,
giúp chẩn đoán ung thư chính xác hơn hoặc
theo dõi tiến triển của bệnh. Trong nghiên cứu
mới, các nhà khoa học đã tìm ra giải pháp đưa
các dấu ấn sinh học đến gần bề mặt lớp da vốn
là vị trí ít xâm lấn để tiếp cận chúng.
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra các “giàn
giáo bằng vật liệu sinh học tổng hợp” có khả
năng kích thích mô phát triển ở đó. Các
chuyên gia sau đó có thể lấy sinh thiết của
những mô mới phát triển này để chẩn đoán
ung thư hoặc kiểm tra mức độ hiệu quả của
phương pháp điều trị đang được áp dụng ở
thời điểm hiện tại.
Lonnie Shea, tác giả chính của nghiên
cứu cho biết “Sinh thiết phổi là một thủ tục
đầy rủi ro. Chúng tôi đặt những “giàn giáo”
này ngay bên dưới lớp da của người bệnh nên
việc phân tích, kiểm tra có thể dễ dàng được
thực hiện”.
Các “giàn giáo” hoạt động bằng cách
thu hút và bẫy các tế bào miễn dịch đến vị trí
mục tiêu. Ngay sau đó, các tế bào ung thư
(nếu có trong cơ thể) cũng sẽ bắt đầu kéo đến
và tập hợp ở đó. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu
nhận thấy rằng việc chờ đợi sự xuất hiện của
các tế bào ung thư để chẩn đoán bệnh là
không thực sự cần thiết.
Theo ông Shea, ý tưởng ban đầu của
nghiên cứu là sẽ sinh thiết “giàn giáo” và tìm
kiếm các tế bào khối u ung thư bám theo các tế
bào miễn dịch tại vị trí mục tiêu. Tuy nhiên,
các chuyên gia nhận ra rằng họ vẫn có thể phát
hiện dấu hiệu của bệnh ung thư trước khi các tế
bào ung thư di căn đến các bộ phận khác của
cơ thể bằng phương pháp phân tích các tế bào
miễn dịch tập hợp ngay thời điểm đầu tiên.
Trong các thử nghiệm trên chuột, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành sinh thiết các giàn giáo
và phân tích 635 gen trong các tế bào bị thu giữ
tại giàn giáo. Sau đó, họ đã xác định được 10
trong số các gen này đóng vai trò là dấu ấn
sinh học qua đó cho biết cá thể chuột đó có
mắc bệnh ung thư hay không, và nếu mắc thì
tình trạng bệnh đang ở giai đoạn nào, đã di căn
hay chưa. Kỹ thuật này có thể được áp dụng
hiệu quả đối với nhiều loại ung thư khác nhau,
trong đó có bệnh ung thư tuyến tụy.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 49/56
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng
nhấn mạnh rằng thiết bị mới cũng có thể được
sử dụng để theo dõi mức độ đáp ứng với điều
trị ung thư của bệnh nhân theo thời gian thực,
trong khi nếu thực hiện thủ tục sinh thiết
thông thường có thể mất thời gian. Trong các
thử nghiệm khác, thiết bị được chứng minh có
khả năng thực sự làm hạn chế sự phát triển
của các khối u di căn mới bằng cách bẫy các
tế bào ung thư trên đường chúng di chuyển
đến các vị trí mới trong cơ thể.
Các nhà nghiên cứu cho biết những “giàn
giáo” này có thể được chế tạo để theo dõi sức
khỏe điện tử trong thời gian dài hơn. Với thiết
bị cảm biến chuyên dụng và Bluetooth, các
chuyên gia có thể theo dõi sự xuất hiện hoặc
phát triển các tế bào ung thư, từ đó, gửi tín
hiệu cảnh báo đến bệnh nhân và bác sĩ trong
trường hợp phát hiện dấu hiệu bất thường mà
không cần thực hiện thủ thuật sinh thiết.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Cancer Research.
P.K.L, theo newatlas.com
Nguồn: vista.gov.vn, 10/11/2019
**************
Thành công trong thử nghiệm CRISPR chống ung thư
Các nhà khoa học Mỹ đã sử dụng liệu pháp
chỉnh sửa gen để điều trị thử nghiệm
trên bệnh nhân ung thư. Ảnh: AP
Trong thử nghiệm lâm sàng đầu tiên
thuộc loại này, các nhà nghiên cứu đã sử
dụng công cụ chỉnh sửa gen CRISPR để tinh
chỉnh DNA người của các tế bào miễn dịch
với hy vọng chống được bệnh ung thư.
Hiện dữ liệu sơ bộ từ thử nghiệm cho
thấy, kỹ thuật này an toàn để sử dụng ở bệnh
nhân ung thư. “Đây là bằng chứng cho thấy,
chúng ta có thể thực hiện chỉnh sửa gen của
các tế bào này một cách an toàn”, đồng tác
giả nghiên cứu, GS.TS Edward Stadtmauer,
chuyên gia về ung thư tại Đại học
Pennsylvania (Mỹ), nói với truyền thông.
Tuy nhiên, “điều trị này chưa sẵn sàng
để đi tới thời kỳ đỉnh cao”, ông Sergemauer
nói thêm trong một cuộc phỏng vấn với NPR.
“Nhưng nó chắc chắn rất hứa hẹn”.
Cho đến nay, chỉ có ba bệnh nhân được
điều trị tiên phong - hai bệnh nhân bị ung thư
máu gọi là đa u tủy và một bệnh nhân mắc
sarcoma, ung thư mô liên kết, theo một tuyên
bố từ Đại học Pennsylvania. Các nhà nghiên
cứu đã có thể loại bỏ, chỉnh sửa và trả lại các
tế bào một cách an toàn cho cơ thể bệnh nhân.
An toàn được đo lường về mặt tác dụng phụ
và các tác giả nhận thấy rằng, không có tác
dụng phụ nghiêm trọng nào từ việc điều trị.
Một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I,
như thử nghiệm này, thường chỉ bao gồm một
số ít bệnh nhân, theo Hiệp hội Ung thư Hoa
Kỳ. Thử nghiệm nhỏ nhằm xác định cách cơ
thể phản ứng với một loại thuốc mới và liệu
bệnh nhân có gặp bất kỳ phản ứng bất lợi nào
không. Các thử nghiệm ở giai đoạn I không
giải quyết được liệu một loại thuốc có thực sự
có tác dụng điều trị một tình trạng hay không
- câu hỏi đó sẽ xuất hiện trong các thử
nghiệm sau này. Như hiện tại, nghiên cứu
CRISPR cho thấy, rằng liệu pháp điều trị ung
thư mới ít nhất là an toàn cho ba người trên.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học
lần đầu tiên sử dụng CRISPR để cắt ba gen từ
DNA của các tế bào miễn dịch. Hai trong số
các gen chứa các hướng dẫn để xây dựng các
cấu trúc trên bề mặt tế bào đã ngăn các tế bào
ung thư (T) liên kết với các khối u đúng cách,
theo tuyên bố của trường đại học. Gen thứ ba
cung cấp các hướng dẫn cho một loại protein
có tên PD-1, một loại “công tắc tắt” mà các tế
bào ung thư tác động vào để ngăn chặn các
cuộc tấn công của tế bào miễn dịch.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 50/56
“Việc sử dụng chỉnh sửa CRISPR của
chúng tôi là hướng tới việc cải thiện hiệu quả
của các liệu pháp gen, chứ không phải chỉnh
sửa DNA của bệnh nhân”, đồng tác giả
GS.TS Carl June, chuyên gia về liệu pháp
miễn dịch tại Đại học Pennsylvania, cho biết
trong tuyên bố.
Với những điều chỉnh này được thực hiện,
các nhà nghiên cứu đã sử dụng một loại virus
đã được sửa đổi để đặt một thụ thể mới trên các
tế bào T trước khi tiêm chúng trở lại vào bệnh
nhân. Các thụ thể mới sẽ giúp các tế bào xác
định vị trí và tấn công các khối u hiệu quả hơn.
Cho đến nay, các tế bào được chỉnh sửa
vẫn tồn tại bên trong cơ thể bệnh nhân và
được nhân lên như dự định, ông Sergemauer
nói với truyền thông. Tuy nhiên, không rõ
liệu và khi nào các tế bào sẽ phát động một
cuộc tấn công hiệu quả lên căn bệnh ung thư
của bệnh nhân, ông nói thêm.
Hai đến ba tháng sau khi điều trị, bệnh
ung thư của một bệnh nhân tiếp tục xấu đi như
trước khi điều trị và một bệnh nhân khác vẫn
ổn định, theo báo cáo. Bệnh nhân thứ ba mới
được điều trị nên chưa có đánh giá phản ứng.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu đặt
mục tiêu tuyển dụng thêm 15 bệnh nhân vào
thử nghiệm để đánh giá cả sự an toàn của kỹ
thuật và hiệu quả của nó trong việc loại bỏ
ung thư. Các kết quả an toàn sớm sẽ được
trình bày vào tháng tới tại một cuộc họp của
Hiệp hội Huyết học Hoa Kỳ tại Orlando,
Florida, theo tuyên bố của trường đại học.
Lê Đức, theo Livescience
Nguồn: giaoducthoidai.vn, 12/11/2019
Trở về đầu trang
**************
FDA thông qua thuốc chống ung thư do công ty Trung Quốc bào chế
Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ
Stevens đã phát triển được một kỹ thuật dựa
Nguồn: Wikimedia Commons
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược
phẩm Mỹ (FDA) ngày 15/11 đã phê chuẩn
một liệu pháp chống ung thư mới, do công ty
của Trung Quốc nghiên cứu và phát triển.
FDA đã nhất trí việc ứng dụng viên nang
Brukinsa (zanubrutinib) - một sản phẩm mới
của công ty công nghệ sinh học BeiGene có
trụ sở tại Bắc Kinh - vào điều trị cho người
trưởng thành mắc bệnh ung thư hạch tế bào
vỏ đại não, với điều kiện bệnh nhân này đã áp
dụng ít nhất một liệu pháp điều trị ung thư
trước đó.
Ông Richard Pazdur - Giám đốc Trung
tâm Ung thư của FDA, cho biết: "Ung thư
hạch tế bào thần kinh thường đáp ứng tốt với
điều trị ban đầu, nhưng sau đó lại ngừng đáp
ứng, và các tế bào ung thư tiếp tục phát triển.
Diễn biến này có thể đe dọa đến tính mạng
của người bệnh. Đối với những bệnh nhân bị
bệnh tái phát hoặc trở nên khó điều trị, các
liệu pháp thứ cấp có thể thành công trong việc
đưa ra một giải pháp khác giúp căn bệnh
thuyên giảm, và sự chấp thuận (của FDA)
ngày hôm nay sẽ cung cấp cho bệnh nhân một
lựa chọn điều trị khác."
Trong một thử nghiệm lâm sàng thực
hiện đối với 86 bệnh nhân mắc ung thư hệ bạch
huyết tế bào vỏ đại não đã được điều trị ít nhất
một lần trước đó, kết quả cho thấy 84% số
bệnh nhân có khối u co nhỏ với thời gian đáp
ứng trung bình là 19 tháng rưỡi.
Thanh Phương
Nguồn: vietnamplus.vn, 15/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 51/56
NÔNG NGHIỆP
Hóa chất mới giữ cho cây xanh tốt
Nhóm nghiên cứu UC Riverside đã tạo
ra một loại hóa chất giúp cây trồng giữ được
nước, qua đó ngăn chặn thiệt hại hàng năm do
hạn hán và giúp nông dân trồng cây lương
thực cho dù khí hậu thay đổi.
“Hạn hán là nguyên nhân số 1, bên cạnh
lũ lụt, làm mất mùa trồng trọt hàng năm trên
toàn thế giới”, ông Sean Cutler, giáo sư sinh
học tế bào thực vật tại UC Riverside, người
đứng đầu nghiên cứu đã cho biết. Hóa chất
này là một công cụ mới thú vị có thể giúp
nông dân quản lý tốt hơn hiệu suất cây trồng
khi lượng nước thấp.
Thông tin chi tiết của nhóm nghiên cứu về
công nghệ chống mất nước mới hơn, hiệu quả
hơn được mô tả trong bài báo được đăng trên
Science hôm nay. Hóa chất này, Opabactin, còn
được biết đến với tên gọi là “OP”.
Cả hai cây lúa mì đều bị hạn hán, nhưng
chỉ có cây bên phải được xử lý bằng OP
Một phiên bản trước đó của OP được
phát triển bởi nhóm Cutler vào năm 2013,
được gọi là Quinabactin, là phiên bản đầu tiên
thuộc loại này. Nó giả axit abscisic, hoặc
ABA, hormone tự nhiên được sản xuất bởi
thực vật để đối phó với áp lực hạn hán. ABA
làm chậm sự tăng trưởng của cây, vì vậy, nó
không tiêu thụ nhiều nước hơn mức có sẵn và
không héo rũ.
“Đã từ lâu các nhà khoa học biết rằng
việc phun các loại cây bằng ABA có thể cải
thiện khả năng chịu hạn của chúng”, Cutler
đã nói. “Tuy nhiên, nó quá không ổn định và
đắt tiền đối với hầu hết nông dân”.
Quinabactin dường như là một thay thế
khả thi cho hormone tự nhiên ABA và các
công ty đã sử dụng nó như là cơ sở của nhiều
nghiên cứu bổ sung. Tuy nhiên, Quinabactin
không hoạt động tốt đối với một số loại cây
quan trọng, chẳng hạn như lúa mì, cây trồng
chủ yếu được trồng rộng rãi nhất thế giới.
Khi ABA liên kết với một phân tử thụ
thể hoóc môn trong tế bào thực vật, nó tạo
thành hai liên kết chặt chẽ, giống như bàn tay
nắm lấy tay cầm. Quinabactin chỉ nắm lấy
một trong những tay cầm này.
Nhóm của Cutler đã tìm kiếm hàng
triệu phân tử bắt chước hormone khác nhau sẽ
bám vào cả hai tay cầm. Tìm kiếm này, kết
hợp với một số kỹ thuật hóa học, kết quả là
phát hiện OP.
OP nắm lấy cả hai tay cầm và mạnh hơn
10 lần so với ABA, điều này khiến nó trở
thành một “siêu hoóc môn”. Và nó hoạt động
rất nhanh. Trong vài giờ, nhóm Cutler đã tìm
thấy một sự cải thiện có thể đo được lượng
nước cây giảm hấp thu.
Bởi vì OP hoạt động rất nhanh, nó có
thể giúp người trồng linh hoạt hơn xung
quanh cách họ đối phó với hạn hán.
Giảm mất nước nhìn thấy trong cà chua sau khi
xử lý bằng OP. Ảnh nhiệt cho thấy nhiệt độ lá tăng
(phải), tương ứng với mất nước ít hơn
Một điều chúng ta có thể làm là có thể
dự đoán tương lai gần với độ chính xác hợp
lý, theo ông Cutler. Sau hai tuần, nếu chúng
tôi nghĩ rằng có hạn hán, chúng tôi có đủ thời
gian để đưa ra quyết định - như áp dụng OP –
để cải thiện năng suất cây trồng.
Đội ngũ Cutler hiện đang cố gắng
“khám phá” phát hiện của họ. Trong khi OP
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 52/56
làm chậm sự tăng trưởng, nhóm hiện muốn
tìm một phân tử sẽ tăng tốc nó. Một phân tử
như vậy có thể hữu ích trong môi trường
được kiểm soát như nhà kính, nơi lượng mưa
không phải là một nhân tố lớn.
“Có thời gian bạn muốn tăng tốc độ tăng
trưởng và có thời gian bạn muốn làm chậm
nó”, Cutler nói. “Nghiên cứu của chúng tôi là
tất cả về việc quản lý cả hai nhu cầu đó”.
Nguyễn Thị Quỳnh Thuận, theo UC
Riverside
Nguồn: iasvn.org, 04/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Kiểm soát tuyến trùng (Meloidogyne spp.) gây thối rễ tiêu bằng biện pháp sinh học
Các khối u trên rễ tiêu
Nguồn: Narasimhamurthy H B
Tuyến trùng gây thối rễ (Root Knot
Nematode) Meloidogyne spp. là một trong
những loài gây hại nguy hiểm cho hồ tiêu,
gây ra héo cây. Đánh giá tác động kiểm soát
tuyến trùng gây thối rễ của ba loại vi khuẩn
nội sinh đối kháng Pseudomonas sp. chủng
A175 và F23 và Micrococcus sp. chủng S54
đã được thí nghiệm trong điều kiện nhà kính
ở Indonesia.
Hiệu quả của các vi khuẩn nội sinh này
đã được chứng minh rõ hơn bằng cách so
sánh với thuốc hóa học trừ tuyến trùng. Kết
quả thu được cho thấy ba loại vi khuẩn nội
sinh này làm giảm đáng kể sự hình thành khối
u và quần thể tuyến trùng trên 23% và trên
41%. Hiệu quả của các vi khuẩn đối kháng
này ngang bằng với nghiệm thức xử lý thuốc
hóa học trị tuyến trùng (3% carbofuran) với
tỷ lệ hiệu quả lần lượt là 24% và 40,9% theo
thứ tự đối với việc hình thành khối u và giảm
mật số tuyến trùng. Điều này cho thấy rằng
những vi khuẩn này có khả năng làm giảm
khả năng sinh sản của M. incognita trong đất.
Thí nghiệm trong nhà kính cũng cho
thấy rằng áp dụng của Pseudomonas sp.
chủng A175 và chủng F23 và Micrococcus
sp. chủng S54 làm tăng đáng kể sự phát triển
của cây tiêu thông qua các chỉ tiêu như chiều
cao cây, số nhánh, số lá, số đốt, trọng lượng
tươi của chồi, trọng lượng khô của chồi, trọng
lượng tươi của rễ và trọng lượng khô của rễ.
Trên cơ sở các kết quả đã nói ở trên,
các nhà nghiên cứu đề xuất đưa Pseudomonas
sp. chủng A175 và chủng F23 và
Micrococcus sp. chủng S54 làm tác nhân
kiểm soát sinh học phòng trừ tuyến trùng gây
thối rễ tiêu.
Nguyễn tiến Hải, theo IPC
Nguồn: iasvn.org, 05/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 53/56
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc phát triển cà chua tím giàu anthocyanin
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã phát
triển một loại cà chua tím biến đổi gen giàu
anthocyanin, theo Viện Hàn lâm Khoa học
Trung Quốc.
Anthocyanin là một nhóm các sắc tố
tăng cường chất chống oxy hóa, tạo màu tím,
đỏ hoặc xanh của nhiều loại trái cây và rau
quả. Một số nghiên cứu cho thấy tiêu thụ
anthocyanin trong chế độ ăn uống có thể làm
giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và ung thư.
Mặc dù hầu hết các giống cà chua không tự
sản xuất anthocyanin, nhưng riêng giống cà
chua tím Indigo Rose thể hiện sự tích lũy
anthocyanin phụ thuộc vào ánh sáng. Các nhà
nghiên cứu của Viện Di truyền học và Sinh
học phát triển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Trung Quốc đã nghiên cứu các cơ chế sinh
tổng hợp anthocyanin ở Indigo Rose, xác định
các gen liên quan đến quá trình và tạo ra cà
chua có lòng màu tím tích tụ anthocyanin
trong cả vỏ và lòng.
Nghiên cứu đã cung cấp các gen mục
tiêu quan trọng để sản xuất cà chua giàu
anthocyanin. Thông qua việc tiết lộ cơ chế
tổng hợp anthocyanin, nó cũng cung cấp
những ý tưởng và phương pháp kỹ thuật mới
để tăng cường hàm lượng anthocyanin trong
cây trồng, theo Li Chuanyou, nhà nghiên cứu
hàng đầu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
Trung Quốc.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí
Molecular Plant.
P.A.T, theo Xinhua
Nguồn: vista.gov.vn, 19/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Công cụ mới đo lường tính bền vững của thủy sản
Một công cụ dữ liệu mới để đo lường
tính bền vững của thủy sản – từ cả nuôi trồng
và đánh bắt tự nhiên - hiện đang trực tuyến và
có sẵn cho công chúng sử dụng.
Công cụ dữ liệu thủy sản bền vững được
thiết kế để phục vụ cho người dùng một bức
tranh rõ ràng hơn về hoạt động môi trường và
xã hội đối với sản xuất thủy sản toàn cầu,
cùng với một cái nhìn chi tiết hơn về tám lĩnh
vực ngành thủy sản ưu tiên.
Công cụ này được phát triển bởi Liên
minh Chứng nhận và xếp hạng thủy sản , một
nhóm gồm 5 tổ chức phi chính phủ (NGO) -
Chương trình theo dõi thủy sản vịnh
Monterey, Hiệp hội thủy sản bền vững (SFP),
Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC),
Hội đồng quản lý biển (MSC) và Hội chợ
thương mại Hoa Kỳ. Nó bao gồm dữ liệu liên
quan đến tính bền vững từ cả 5 NGO.
Thông tin có sẵn thông qua công cụ bao
gồm xếp hạng và trạng thái chứng nhận khi
áp dụng, cho dù thủy sản nuôi trồng hay khai
thác đang cải thiện thông qua một dự án mục
tiêu và có cần cải thiện tính bền vững trong
một trang trại nuôi hay nghề đánh bắt thủy
sản cụ thể hay không. Người dùng có thể lọc
dữ liệu theo đối tượng nuôi hay khai thác tự
nhiên, vùng hoặc quốc gia.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 54/56
"SFP đang nỗ lực để đảm bảo rằng đến
năm 2020, ít nhất 75% sản lượng toàn cầu
trong các lĩnh vực thủy sản chính là bền vững
hoặc hướng tới sự bền vững", ông Braddock
Spear, giám đốc bộ phận hệ thống SFP cho
biết.
H.T, theo Thefishsite
Nguồn: mard.gov.vn, 20/11/2019
**************
MÔI TRƯỜNG
Phương pháp loại bỏ một trong những độc tính chủ yếu trong nước được sử dụng để chiết xuất bitum
Công nghệ mới do các kỹ sư tại trường
Đại học Alberta phát triển, có tiềm năng làm
sạch và khử trùng nước được sử dụng trong
sản xuất cát dầu. Quy trình này dựa vào ozon
hóa và bộ lọc sinh học để loại bỏ các hợp chất
hữu cơ khỏi nước ô nhiễm.
Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí
Science of the Total Environment, chứng
minh phương pháp này trước đây được sử
dụng để làm sạch nước thải dược phẩm, loại
bỏ hiệu quả axit naphthenic, được coi là một
trong những thành phần độc hại chính của
nước dùng sản xuất cát dầu.
Mohamed Gamal El-Din, giáo sư chuyên
về xử lý nước thải và là trưởng nhóm nghiên
cứu cho rằng phương pháp này cũng giúp đẩy
nhanh quá trình xử lý mà phải mất hàng thập
kỷ để tự nhiên hoàn tất quá trình này.
"Quá trình này thay vì phải mất 10 - 20
năm để diễn ra một cách tự nhiên, thì ozon
hóa nước ô nhiễm sẽ phân tách các hợp chất
hữu cơ thành nguồn năng lượng và thức ăn
cho vi khuẩn trong bộ lọc sinh học trong vòng
vài phút", GS. Gamal El-Din nói.
Thông thường, phải mất ba lít nước chiết
xuất bitum từ các mỏ dầu mới cho ra một
thùng dầu thô. Sau khi quá trình hoàn tất,
nước đã qua sử dụng chứa một số hợp chất
hữu cơ và kim loại nặng, được lưu trữ trong
các bể chứa chất thải. Theo Khung quản lý
chất thải của chính phủ Alberta đối với cát
dầu Athabasca có thể khai thác, gần 1 nghìn
tỷ lít nước thải từ cát dầu đã được lưu trữ
trong các bể chứa chất thải vào năm 2013.
Sang năm, nhóm nghiên cứu sẽ khởi
động dự án thử nghiệm hiệu quả xử lý của
công nghệ mới.
N.P.D, theo medicalxpress.com
Nguồn: vista.gov.vn, 04/11/2018
Trở về đầu trang
**************
Australia phát triển công nghệ mới tái chế các loại rác thải nhựa
Các nhà khoa học Australia đang nghiên
cứu phát triển một công nghệ mới hướng tới
việc có thể tái chế tất cả các loại nhựa để giải
quyết cuộc khủng hoảng rác thải hiện nay.
Theo phóng viên TTXVN tại Sydney,
công nghệ mới này đã được cấp bằng sáng chế
và là kết quả hợp tác nghiên cứu của Tiến sỹ
Len Humphreys, đồng sáng lập và giám đốc
điều hành công ty Licella, cùng Giáo sư
Thomas Maschmeyer thuộc Đại học Sydney.
Công nghệ này được kỳ vọng có thể xử
lý hầu hết các loại rác thải nhựa hiện đang
không thể tái chế.
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 55/56
Các tác giả của công nghệ mới này cho
biết, cơ chế hoạt động của công nghệ mới là
chuyển đổi các loại rác thải nhựa thành chất
lỏng hoặc hóa chất hình thành nên chất liệu đó.
Công nghệ này sử dụng lò phản ứng thủy
nhiệt xúc tác (Cat-HTR) xử lý các loại rác thải
nhựa thông qua một hình thức tái chế hóa học
làm thay đổi nhựa ở cấp độ phân tử, sử dụng
nước nóng ở áp suất cao để biến chúng trở lại
thành dầu. Từ đó, dầu có thể biến thành hóa
chất bitumen, xăng hoặc các loại nhựa khác.
Tiến sỹ Humphreys cho biết công nghệ
Cat-HTR đã được cấp bằng sáng chế khác với
các công nghệ nhựa-dầu hiện có như nhiệt phân.
Không giống như phương thức tái chế vật
lý truyền thống, công nghệ mới không yêu cầu
phải phân tách nhựa theo loại và màu sắc mà
có thể tái chế mọi thứ, từ hộp sữa đến đồ lặn
và thậm chí cả các phụ phẩm gỗ.
Công nghệ này đã được công ty Licella
thử nghiệm trong gần 10 năm qua tại một nhà
máy thí điểm ở một bờ biển tại bang New
South Wales và đã sẵn sàng được đưa ra
thương mại hóa.
Hiện, công ty Licella đang triển khai mở
nhà máy tái chế thương mại đầu tiên theo công
nghệ mới tại Vương quốc Anh.
Ông Humphreys cho biết Chính phủ Anh
có chính sách tài trợ và môi trường phát triển
thuận lợi hơn nhiều so với ở Australia.
Thông tin từ công ty Licella cho biết với
công nghệ mới, một cơ sở thương mại có thể
xử lý khoảng 20.000 tấn nhựa mỗi năm.
Công nghệ mới được các chuyên gia
đánh giá cao và Bộ trưởng Môi trường
Australia Sussan Ley cũng cho biết chính phủ
đang đàm phán với công ty Licella để có thể
hỗ trợ phát triển công nghệ tái chế mới này tại
Australia.
Trung bình, người dân Australia thải ra
khoảng 3,5 triệu tấn rác thải nhựa mỗi năm,
nhưng hiện tại chỉ có khoảng 10% trong số đó
được tái chế. Phần còn lại thường được xử lý
bằng cách chôn xuống đất, đốt cháy hoặc vận
chuyển ra nước ngoài.
Hoàng Linh
Nguồn: vista.gov.vn, 20/11/2019 Trở về đầu trang
**************
Robot phân loại rác thế hệ mới
Đó là loại robot phân loại rác sử dụng
trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ máy học
(machine learning), cho phép nhận dạng
thêm các loại rác thải. Điều đặc biệt là nó có
thể học nhận biết các loại rác mới để xử lý.
Các nhà nghiên cứu của công ty chuyên
sản xuất robot công nghiệp ABB Trung Quốc
đã giới thiệu mẫu robot phân loại rác tự động
mới này tại Triển lãm Nhập khẩu Quốc tế
(CIIE) lần thứ 2 diễn ra tại thành phố Thượng
Hải mới đây. Robot phân loại rác là sự kết
hợp giữa robot 2 cánh tay có tên là YuMi và
robot xử lý vật liệu IRB 1200. Nó có nhiệm
vụ phân loại rác thành 4 nhóm khác nhau, từ
chất thải nguy hiểm đến vật liệu có thể tái
chế. Rác sau khi phân loại được chuyển tới
robot IRB 1200 bằng băng chuyền, nơi chúng
được thu gom để tái chế.
Theo công ty ABB, hệ thống sử dụng trí
tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ máy học
(machine learning), cho phép nhận dạng thêm
các loại rác thải mới có thể được tạo ra trong
tương lai. Robot có khả năng tự học hỏi và
nâng cấp để vận hành tốt hơn trong một quy
trình kỹ thuật số hoàn toàn tự động. Nó còn
có thể tùy chỉnh để sử dụng trong nhiều lĩnh
vực khác như kiểm tra chất lượng, quản lý
Bản tin Thành tựu KHCN Thế giới số 12/2019 56/56
sản phẩm trên dây chuyền lắp ráp và phân
loại các loại rác.
P.A.T, theo Xinhuanews
Nguồn: vista.gov.vn.vn, 10/11/2019 Trở về đầu trang
**************