48
Ths BSCKII Nguyn Hng Hà Ths BS Nguyn Quc Thái Tài liu phbiến kiến thc BNH UN VÁN Vin Các bnh Truyn nhim và Nhit đới Quc gia HÀ NI tháng 3 - 2008

BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Ths BSCKII Nguyễn Hồng Hà

Ths BS Nguyễn Quốc Thái

Tài liệu phổ biến kiến thức

BỆNH UỐN VÁN

Viện Các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc gia HÀ NỘI tháng 3 - 2008

Page 2: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

1. Lịch sử bệnh uốn ván và những vấn đề nổi bật hiện nay

Uốn ván [UV] được mô tả rất sớm trong lịch sử y học ở Ai Cập, Trung Hoa

và Hy Lạp với đặc trưng cứng hàm và co cứng cơ có liên quan đến vết thương

[22]. Các tác phNm của Hippocrates đã nói nhiều đến UV [42], trong đó có

một số điểm tiên lượng như “bệnh nhân co giật do UV chết trong vòng 4

ngày, nếu qua được thì sẽ hồi phục” (Cách ngôn, V.6), hoặc “UV xuất hiện

trên nền bỏng nặng thì diễn biến xấu” (Cách ngôn, VII.13). Diện mạo lâm

sàng sinh động của bệnh được Aretaeus xứ Cappadocia ghi chép vào thế kỉ

thứ hai: “Một tai ương man rợ! Một cảnh tượng khó coi! Một cảnh gây đớn

đau cho đến cả người chứng kiến, một bệnh nan y! Nhờ vào sự xoắn vặn mà

những thân bằng yêu quí nhất chẳng nhận ra, và bởi sự nguyện cầu của những

người mục kích, trước đây vốn được cho là không ngoan đạo, nay trở nên tử

tế, thế là bệnh nhân có thể từ giã cõi đời, hoặc giải thoát khỏi đớn đau và

những tội lỗi xấu xa đeo đẳng. Nhưng ngay cả người thày thuốc, dù cho có

đến và xem bệnh cũng không thể giúp ích gì thêm, ví như duy trì cuộc sống,

giảm đau hoặc làm cho đỡ dị hình. Vì nếu muốn làm thẳng chi, ông ta chỉ có

thể cắt và bẻ chi của người đang sống. Rồi, với những người bị căn bệnh này

chế ngự, ông ta chỉ có thể bày tỏ niềm cảm thông. Đây là điều bất hạnh lớn

nhất của người thầy thuốc.” [17]. Sau đó Galen đã để ý rằng cắt dây thần kinh

làm ngừng co giật UV nhưng gây liệt bộ phận được chi phối [22].

Nền y học Trung Hoa ngay từ thời Tiên Tần đã có những mô tả chi tiết về

bệnh UV. Trong cuốn sách được coi là cổ nhất của nền y học cổ truyền Trung

Quốc, sách “Ngũ thập nhị bệnh phương” được khai quật từ mộ thời Hán ở Mã

Vương Đôi, bệnh được gọi tên là “thương kinh” và cuốn sách này đã có tới 6

phương thuốc để điều trị căn bệnh này. Đến thời Tuỳ Đường, lần đầu tiên

trong cuốn sách “Lý thương tục đoạn phương” của Lạn Đạo Nhân, bệnh được

1

Page 3: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

mô tả kỹ hơn dưới tên gọi “phá thương phong” vẫn còn được dùng cho tới

ngày nay [82].

Vào thế kỉ XIV, nhà phẫu thuật người Anh tên là John of Arderne (1307-

1380) mô tả một trường hợp UV với cứng hàm (“chuột rút má”) sau vết

thương làm vườn 11 ngày [22]. Đến thế kỉ XVIII, UV được cho là hậu quả

của tổn thương thần kinh. Người ta vẫn còn lẫn giữa UV toàn thể với động

kinh [22].

Hình 1. Minh họa một bệnh nhân uốn ván của Charles Bell năm 1809 [22]

UV sơ sinh được gọi là “bệnh bảy ngày” ở Mĩ, “bệnh ngày thứ tám” ở Ấn Độ

và “cơn chín ngày” ở Dublin. Năm 1846, Sims đưa ra giả thuyết “sung huyết”

về UV sơ sinh. Ông cho rằng đặt đứa trẻ nằm ngửa sẽ ép chNm và gây tắc tĩnh

mạch tủy. Beumer xác định rốn là đường vào của UV năm 1887 [19].

Cho đến đầu thế kỉ XIX, người ta vẫn chữa UV bằng các liệu pháp tưởng

tượng hơn là có ích thực sự. Họ có thể cho đỉa hút máu, trích máu tĩnh mạch,

cắt cụt, dùng acid hydrocyanic, phụ tử, gây nôn với ipecac. Năm 1811 đã có

gợi ý rằng dùng cura kèm theo hô hấp nhân tạo là có lợi trong UV. Cách này

được dùng trên động vật năm 1835, và trên người năm 1858 nhưng không

thành công do thuốc dùng ở dạng chế phNm thô và thiếu toàn bộ kiến thức về

sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy kéo dài thu được trong dịch bại

2

Page 4: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

liệt những năm 1950 cuối cùng đã làm cho điều trị bằng thuốc giãn cơ trở nên

khả thi [56]. Năm 1829, Ceroli đã mô tả dùng morphin điều trị UV. Năm

1861, Hutchinson và Jackson đã báo cáo dùng ether trong UV [22]. Năm

1872, Rose mô tả UV thể đầu với liệt mặt [15]. Antonio Carle và Giorgio

Rattone chứng tỏ khả năng truyền nhiễm của UV trên thỏ thực nghiệm năm

1884 [87]. Cũng trong năm này, Arthur Nicolaier báo cáo về một độc tố tác

dụng giống strychnin chiết từ vi khuNn kị khí trong đất, chứng minh vai trò

của đất trong bệnh sinh UV. Dù nhìn thấy vi khuNn này, ông vẫn không thể

phân lập được nó [54]. Tuy nhiên chỉ trước đó 5 năm, trên báo chí y học vẫn

còn có người cho rằng tổn thương do kim chọc vào dây thần kinh gây nên UV

[77]. Năm 1887, Rosenbach mô tả một trực khuNn có đầu tận chứa bào tử tròn

ở trong mủ lấy từ người, UV xuất hiện khi tiêm dịch tiết mủ này cho động vật

[87]. Năm 1888, trong cuốn sách giáo khoa của mình, Sir William Gowers đã

mô tả hoàn toàn chính xác bệnh cảnh điển hình của UV: “UV là một bệnh của

hệ thần kinh có đặc điểm co cứng tăng trương lực kéo dài với các cơn kịch

phát ngắn. Co cứng gần như luôn bắt đầu từ cơ cổ và hàm gây khít chặt hàm

(trimus – cứng hàm) và bị các cơ ở thân mình nhiều hơn ở chi. Khởi phát

bệnh luôn cấp tính, và một tỉ lệ lớn những người bị bệnh phải tử vong”. Ông

cũng đã nhận thấy có tới 20% bệnh nhân UV không liên quan gì đến chấn

thương và giải thích bệnh do rét run đột ngột hoặc cơn sợ hãi. Mặc dù Gower

thấy UV giống triệu chứng ngộ độc strychnin nhưng ông không tán thành

chúng cùng cơ chế sinh lí bệnh, đồng thời ông cũng bỏ qua báo cáo đầu tiên

của Nicolaier về một độc tố tác dụng giống strychnin chiết từ vi khuNn kị khí

trong đất [22]. Shibasaburo Kitasato, một học trò của Koch, phân lập được

Clostridium tetani, làm thỏa mãn được định đề Koch và báo cáo việc trung

hòa độc tố bằng kháng thể đặc hiệu vào năm 1889 [87]. Năm 1890, Von

Behring và Kitasato chứng tỏ rằng tiêm chủng chất tinh chiết đã bất hoạt từ vi

khuNn này phòng được bệnh UV trên động vật, lần đầu tiên mô tả miễn dịch

3

Page 5: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

chủ động với giải độc tố UV [15,54]. Năm 1890, Tizzoni và Cattani và Knud

Faber phân tách được độc tố UV và chứng minh độc tố là tác nhân gây biểu

hiện lâm sàng. Năm 1892, Bruschettini khẳng định rằng độc tố UV di chuyển

ngược dòng trong sợi trục của tế bào thần kinh tới thần kinh trung ương [59].

Từ 1893 Roux và Vaillard đã chế kháng huyết thanh chống UV. Năm 1897,

Nocard chứng minh hiệu quả bảo vệ của kháng độc tố khi truyền thụ động, và

kháng huyết thanh chống UV chế từ ngựa đã được dùng rộng rãi trên người

trong Chiến tranh thế giới I [21,28]. Năm 1898, Roux và Picard đã đề xuất

liệu pháp huyết thanh nội tủy nhưng thất bại do chất bảo quản phenol trong

huyết thanh [15]. Năm 1906, Blake báo cáo 2 trường hợp UV điều trị bằng

magiê sulfat dùng nội tủy [21]. Năm 1923, Gaston Ramon thông báo việc

thêm formol vào độc tố bạch hầu trong những điều kiện nhất định để chuyển

thành “giải độc tố” không có độc tính nhưng còn khả năng sinh miễn dịch, và

hai năm sau ông cũng làm như vậy với độc tố UV [15]. Năm 1924,

Descombey chế giải độc tố UV và tính hiệu quả của việc tạo miễn dịch chủ

động đã được chứng minh trong chiến tranh Thế giới thứ hai [21,28].

Hình 2. Shibasaburo Kitasato, người đầu tiên phân lập được trực khuNn uốn ván năm 1889

4

Page 6: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Năm 1940, Dietrich chán nản viết: “Một tổng kết toàn bộ y văn về bệnh UV

sẽ thật đồ sộ, gây khó hiểu, rốt cuộc mâu thuẫn nhau và chẳng giúp ích gì mấy

đối với người thầy thuốc đang cố gắng điều trị dù chỉ một đứa bé bị UV.”

[56]. Sáu năm sau, Pillemer và cộng sự lần đầu tiên tinh chiết được độc tố UV

gây co giật là tetanospasmin [7,87]. Trong thập kỉ 50 của thế kỉ XX, nhiều

phòng thí nghiệm trên thế giới đã phát hiện ra rằng độc tố UV gắn vào tận

cùng thần kinh cơ và synap neuron vận động, giải thích cơ chế xuất hiện các

triệu chứng co cứng, co giật [59]. Năm 1955, Mollaret và cộng sự mô tả “hội

chứng huyết động sớm khi dùng cura” gợi mở vấn đề rối loạn thần kinh thực

vật trong UV [15]. Trước đó Gower (1888) đã mô tả rối loạn thần kinh thực

vật trong UV nhưng chỉ khi kéo dài được sự sống của bệnh nhân UV bằng

máy thở thì người ta mới để ý nhiều đến vấn đề này. Năm 1968, Kerr và cs

mô tả hội chứng cường hoạt động thần kinh giao cảm, đặt vấn đề khống chế

rối loạn thực vật bên cạnh khống chế co giật [13]. Tuy nhiên, một nghiên cứu

gần đây của các tác giả Brazil [42] lại nhận định rằng rối loạn chức năng tim

mạch, nhất là các rối loạn cường giao cảm gặp ở trong mọi thể uốn ván, kể cả

ở những thể nhẹ. Điều quan trọng là trước đây chúng chưa được để ý đến và

xử trí thích đáng.

Năm 1954, Lewis và cs lần đầu tiên cố gắng chứng tỏ corticosteroid có thể

làm giảm tỉ lệ tử vong của UV. Tuy nhiên, kết quả các nghiên cứu sau này

vẫn còn chưa thống nhất và cơ chế tác dụng của corticosteroid ở bệnh nhân

UV vẫn còn chưa rõ nên cho dù đây là hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn thì việc

sử dụng corticosteroid trong UV vẫn được coi là có tính chất thử nghiệm [22].

Từ những năm 1960 người ta bắt đầu dùng diazepam trong điều trị UV và

mặc dù đôi lúc còn có ý kiến phản bác [38] nhưng diazepam vẫn được dùng

cho đến hiện nay như một thuốc đầu tay trong điều trị UV [55].

5

Page 7: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Năm 1965 lần đầu tiên một Hội nghị Quốc tế về UV được tổ chức tại

Bombay. Sau đó cứ khoảng 3-4 năm một lần lại có một hội nghị quốc tế về

UV được tổ chức.

Các tác giả lẻ tẻ đưa ra thang phân độ dành cho tiên lượng: Ramond, Patel,

Mollaret, Ablett, Phillips, Vakil, Veronesi, Bleck, Udwadia…, cho đến Hội

nghị Quốc tế về UV lần thứ tư họp ở Dakar (1975) đã thống nhất phân độ dựa

trên việc cho điểm các yếu tố tiên lượng, và thang phân độ của Vakil còn

được biết đến với tên gọi thang phân độ Dakar [32]. Sau đó, việc phân độ

bệnh UV vẫn còn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu [1,6], và các

thang phân độ ngày càng được đề xuất hoàn chỉnh hơn với những cứ liệu

khoa học hơn [78].

Cho tới nay đã hơn 100 năm biết về độc tố UV, trình tự acid deoxyribonucleic

của vi khuNn đã được giải mã [26] và cơ chế tác dụng của độc tố UV đã được

xác lập [59]; chúng ta đã có kháng độc tố và vắc-xin để dự phòng bệnh nhưng

UV vẫn còn là vấn đề lớn về y tế công cộng trên toàn thế giới, nhất là ở các

nước đang phát triển. Việc điều trị bệnh nhân UV nặng và làm giảm tỉ lệ tử

vong do UV vẫn rất nan giải. Hiện nay có rất ít nghiên cứu hoặc thử nghiệm

thực sự chặt chẽ mang tính thuyết phục cao về điều trị và dự phòng UV.

Trong vòng hơn 30 năm vừa qua, tính đến năm 2003, chỉ có 9 thử nghiệm

ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện trên thế giới [77]. Con số này thực sự

không tương xứng với ước tính một triệu trường hợp mắc UV mỗi năm và tỉ

lệ tử vong của bệnh dao động từ 6% đến 60% [23].

6

Page 8: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

2. Tình hình bệnh uốn ván hiện nay

Mặc dù có những thành công của Chương trình Tiêm chủng Mở rộng, bệnh

UV vẫn là vấn đề sức khỏe toàn cầu [66]. Cuối những năm 1970, Tổ chức Y

tế Thế giới ước tính mỗi năm có 1 triệu trường hợp tử vong do UV, trong đó

có tới 99% là ở các nước đang phát triển [15]. Các nước phát triển hiện nay

cũng vẫn gặp UV nhưng chủ yếu tập trung ở đối tượng cao tuổi và thường ở

phụ nữ [31]. Năm 2000 chỉ có 18.833 trường hợp UV trên toàn cầu được báo

cáo với Tổ chức Y tế Thế giới. Bảy mươi sáu quốc gia, trong đó có nhiều

nước nguy cơ cao đã không cung cấp dữ liệu, và thông tin ở các nước này

thường không đầy đủ. Các cuộc điều tra cho thấy chỉ có 3% UV trẻ sơ sinh

được báo cáo. Trên cơ sở dữ liệu và nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới và

dữ liệu từ Trung tâm Bệnh Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003, các

tác giả Thwaites và Farrar ước tính tỉ lệ mắc thực sự toàn cầu là 700.000 đến

1.000.000 trường hợp mỗi năm [77]. Tuy nhiên, chỉ trước đó 10 năm, các ước

tính của Tổ chức Y tế Thế giới cho biết mỗi năm đã có 800.000 đến 1 triệu

trường hợp tử vong do UV, trong đó 80% ở châu Phi và Đông Nam Á. UV

vẫn còn lưu hành ở 90 quốc gia trên thế giới [37].

Ở Pháp, tỉ lệ mắc chung trước đây là 1,06/100.000/năm [39], hầu như không

gặp ở tuổi dưới 40. Hai phần ba số người mắc trên 65 tuổi. Tỉ lệ mắc ở nhóm

tuổi này vào khoảng 3/100.00. Chủ yếu bị ở nữ, nhất là trong độ tuổi 40 đến

65. Phần lớn các trường hợp bị ở vùng nông thôn [15]. Tổng kết trong năm

2000-2001 của Antona [16] cho biết hiện nay tỉ lệ mắc chung đã giảm xuống

còn dưới 1/1.000.000 dân, có tới 87% là người trên 70 tuổi và 78% là phụ nữ,

tỉ lệ tử vong 20%.

Ở Ý, qua tổng kết từ năm 1971 đến 2000 [58], tỉ lệ mắc giảm từ 0,5/100.000

dân những năm 1970 xuống còn 0,2/100.000 dân những năm 1990. Trong

7

Page 9: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

khoảng thời gian này, tỉ lệ tử vong của bệnh giảm từ 68% xuống 39%. Ý là

nước có số trường hợp UV được báo cáo nhiều nhất châu Âu. Đối tượng mắc

bệnh chủ yếu là phụ nữ cao tuổi: tỉ lệ bệnh nhân nữ trên 64 tuổi chiếm 60%

những năm 1970 tăng lên 76% những năm 1990.

UV hầu như không còn gặp ở Anh, mỗi năm chỉ có khoảng 12-15 trường hợp

[33]. Ở Ba Lan, năm 2001 gặp 21 trường hợp, tất cả đều trên 50 tuổi, chiếm tỉ

lệ 0,04/100.000 dân, tỉ lệ tử vong 33,3% [72].

Ở Mỹ tỉ lệ mắc 0,2/100.000/năm [39]. Hàng năm có khoảng 50 đến 70 trường

hợp mắc, hầu hết là do chưa được tiêm phòng hoặc tiêm phòng không đầy đủ

[17]. Tổng kết 110 trường hợp năm 1989-1990 ở Mĩ cho thấy 58% là bệnh

nhân trên 60 tuổi, 78% có vết thương đường vào cấp tính và 5% là người

nghiện chích [61]. Mười năm sau, tổng kết 1998-2000, ở Mĩ có trung bình 43

trường hợp UV mỗi năm, 15% là người nghiện chích. Nhóm nguy cơ cao vẫn

là người cao tuổi, nhất là người cao tuổi bị đái đường. Tỉ lệ tử vong 18%,

trong đó 75% là người trên 60 tuổi [57].

Brazil là một nước phát triển ở Nam Mĩ, tình hình bệnh UV ở nước này cũng

như các nước phát triển khác. Đó là xu hướng giảm tỉ lệ mắc chung nhưng

tăng tỉ lệ mắc và tử vong ở nhóm người cao tuổi [53].

Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ mắc bệnh mỗi năm trên 50/100.000, đặc biệt

cao ở Ấn Độ (200/100.000), châu Phi (Bờ Biển Ngà 100/100.000, Kenya

146/100.000). Ở Lesotho UV hiếm gặp nhưng ở Nigeria rất thường gặp và có

khi chiếm tới 14% các trường hợp nhập viện và 7% các trường hợp tử vong

tại một viện-trường ở Ibadan [74]; ở Dakar là 32,5/100.000 [39].

Một số nước châu Á tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc hiện nay gặp rất ít

UV. Một tổng kết trong 21 tháng tại một bệnh viện-trường 900 giường có 17

8

Page 10: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

trường hợp UV, chủ yếu là phụ nữ nông dân lớn tuổi. Chỉ có 53% được chNn

đoán đúng ngay từ tuyến đầu [71]. Tại Nhật Bản, từ 1982, tỉ lệ tử vong do UV

đã là 0,02/100.000 dân/năm, các bệnh nhân tử vong chủ yếu do bệnh nền, rất

ít do bản thân bệnh UV [35].

Trước đây Iran là khu vực UV lưu hành nhưng hiện nay có một xu hướng rất

rõ là tỉ lệ mắc bệnh đang giảm đi nhanh chóng. Qua tổng kết trọng điểm tình

hình bệnh UV trong 20 năm 1978-1997 từ hai bệnh viện tỉnh chuyên tiếp

nhận các bệnh nhân UV, tác giả nhận thấy tỉ lệ mắc bệnh tính chung trên cả

quần thể giảm đi rõ rệt: 1,8/100.000 dân năm 1978, 0,31/100.000 dân năm

1987 và 0,02/100.000 dân năm 1997. Người ta cho đó là do nâng cao trình độ

dân trí; tăng cường cơ sở y tế, nhất là cơ sở dành cho phụ nữ có thai; giáo dục

thay đổi hành vi nguy cơ, đặc biệt là cho các bà đỡ và bác sĩ đa khoa; và thành

công của chương trình tiêm chủng mở rộng. Tình hình cũng tương tự như vậy

ở các nước khác cùng khu vực Trung-Cận đông [20].

Các yếu tố được coi là có ảnh hưởng đến tình hình mắc bệnh UV là (1) kinh

tế kém phát triển; (2) không được phòng bệnh đầy đủ bằng vắc-xin và (3) vẫn

còn các hành vi nguy cơ như đi chân đất, đẻ tại nhà, theo các tập tục lạc hậu

như bôi phân bò hay đất sét vào rốn dẫn đến UV rốn trẻ sơ sinh [17].

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ước tính có khoảng 300.000 bệnh nhân UV tử

vong vào năm 2000 [85]. Tỉ lệ tử vong chung của UV có thể đến 70% [87].

Ngay như ở Pháp năm 1997, tỉ lệ tử vong cũng tới 30% [31]. Ở Thổ Nhĩ Kì, tỉ

lệ tử vong của UV là 58% [36], ở Brazil là 35% [41] và ở Hàn Quốc là 24%

[71]. Một số cơ sở điều trị có kinh nghiệm và được trang bị phương tiện tiên

tiến có thể giảm được tỉ lệ tử vong xuống còn 18% [21, 25, 57], 15% [81]

thậm chí 11% [37]. Tính trên cả quần thể thì tỉ lệ tử vong do UV ở mức 7-

9

Page 11: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

15/100.000 dân/năm ở châu Phi, 40-60/100.000 dân/năm ở Ấn Độ nhưng chỉ

0,13/100.000 dân/năm ở Mĩ và 0,72/100.000 dân/năm ở Pháp [39].

Việt Nam là một nước nhiệt đới đang phát triển, nằm trong khu vực các nước

có tỉ lệ mắc UV cao. Theo thống kê năm 1990 của Viện Vệ sinh dịch tễ Hà

Nội thì tính trên toàn quốc tỉ lệ mắc UV chung là 1,87/100.000 dân/năm, tỉ lệ

tử vong chung do UV là 0,24/100.000 dân/năm [5]. Tại Trung tâm bệnh Nhiệt

đới Thành phố Hồ Chí Minh, qua thời gian theo dõi 21 tháng (5/1997-2/1999)

có 500 trường hợp UV không phải sơ sinh nhập viện, 68,6% là nam, bệnh

nhân dưới 15 tuổi chiếm 18,8%, trên 65 tuổi chiếm 12,2%, tỉ lệ tử vong là

19% [37]. Tổng hợp dữ liệu từ 1993 đến 2003 với 2072 bệnh nhân, tỷ lệ tử

vong tại bệnh viện này là 19,6% [78]. Qua số liệu công bố theo một nghiên

cứu ngẫu nhiên đối chứng trong 3 năm 2002 đến 2005 tại bệnh viện này [78]

thì tỷ lệ tử vong với các trường hợp nặng (điểm Dakar trung bình 2,0) vẫn còn

là 13-16%. Tại Viện Y học Lâm sàng Các bệnh Nhiệt đới ở Hà Nội trước đây

hàng năm có khoảng 110-130 trường hợp nhập viện, tỉ lệ tử vong khoảng

25%. Theo tổng kết của Viện từ năm 1985 đến năm 1994 có 982 bệnh nhân,

tử vong 227 bệnh nhân chiếm 23,1% [5]. Tuy nhiên, với sự phát triển của các

phương tiện kỹ thuật hồi sức thì tỷ lệ tử vong do UV hiện nay đã giảm nhiều.

Theo con số thống kê tại Khoa Điều trị tích cực Viện Các bệnh truyền nhiễm

và Nhiệt đới Quốc gia từ tháng 7/2006 đến tháng 8/2007, trong tổng số 114

bệnh nhân UV nhập viện chỉ có 1 bệnh nhân tử vong (0,9%).

10

Page 12: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

3. Sự lây truyền bệnh uốn ván và cách phòng chống

Do trực khuNn UV không phát triển được trên mô người lành, cần phải có sự

hiện diện của những yếu tố cần thiết để sinh độc tố UV tetanospasmin trên vật

chủ người. Điều kiện thuận lợi đó chính là sự kết hợp từ hai yếu tố sau đây trở

lên [67]: (1) Vết thương xuyên làm bào tử C. tetani xâm nhập; (2) Đồng

nhiễm các vi khuNn khác; (3) Mô chết tại vết thương; (4) Dị vật trong vết

thương; (5) Có hiện tượng thiếu máu cục bộ.

Bảng 1. Phân loại vết thương [63]

Biểu hiện lâm sàng Có xu hướng UV Không có xu hướng UV Thời gian bị vết thương > 6 giờ ≤ 6 giờ Hình thái Hình sao, nham nhở Thành đường thẳng Độ sâu > 1 cm ≤ 1 cm Cơ chế tổn thương Đâm, giập, bỏng, nứt Bề mặt sắc nhọn (kính, dao) Mô chết Có Không Nhiễm bNn (phân, nước bọt...) Có Không

Uốn ván gặp ở khắp nơi trên thế giới, nhưng thường xuyên nhất là ở những

vùng đông dân cư khí hậu nóng, Nm có đất giàu chất hữu cơ. Mầm bệnh thấy

chủ yếu ở trong đất và đường ruột của động vật và người. Lây truyền chủ yếu

do vết thương nhiễm bNn (nhìn thấy rõ hoặc không). Vết thương có thể lớn

hoặc nhỏ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số các trường hợp có vết

thương nhỏ đã trở nên nhiều hơn, có lẽ vì những vết thương nặng có nhiều

khả năng được xử trí đúng cách hơn. Uốn ván có thể xuất hiện sau mổ, bỏng,

vết thương xuyên sâu, vết thương giập, viêm tai giữa, nhiễm trùng răng

miệng, động vật cắn-đốt, sNy thai và chửa. Uốn ván không lây nhiễm trực tiếp

từ người sang người. Đây là bệnh duy nhất phòng tránh được bằng vắc-xin

mà chỉ bị nhiễm trùng chứ không lây nhiễm [28].

Việc sử dụng kháng sinh chống UV để dự phòng khi có vết thương vừa không

có ích lại không thực tế, và trong những trường hợp có vết thương thì tạo

11

Page 13: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

miễn dịch chống UV phù hợp có vai trò quan trọng hơn. Rất hiếm khi xảy ra

UV trên bệnh nhân đã được tiêm phòng đầy đủ vắc-xin UV [70]. Chỉ định

tiêm vắc-xin và kháng huyết thanh UV tuỳ thuộc vào tiền sử tiêm vắc-xin và

tình trạng vết thương.

Bảng 2. TIÊM PHÒNG UV KHI BN VẾT THƯƠNG

Tiền sử tiêm vắc-xin Vết thương nhỏ, sạch Các vết thương khác

Vắc-xin Kháng huyết thanh Vắc-xin Kháng huyết

thanh Không rõ hoặc < 3 liều Có Không Có Có Từ 3 liều trở lên Không* Không Không** Không *Có, nếu liều cuối cùng đã tiêm trên 10 năm **Có, nếu liều cuối cùng đã tiêm trên 5 năm

Nếu như vết thương lớn, giập nát và bNn mà bệnh nhân chỉ mới tiêm dưới 3

mũi vắc-xin hoặc có tiền sử tiêm vắc-xin UV không rõ ràng thì nên tiêm cả

vắc-xin và kháng huyết thanh. Đó là do các mũi vắc-xin trước có thể chưa gây

được miễn dịch mà mới chỉ kích thích hệ miễn dịch. Kháng huyết thanh trong

trường hợp này có tác dụng cung cấp miễn dịch tạm thời với kháng độc tố

trực tiếp, đảm bảo cho cơ thể được bảo vệ chống UV trong thời gian chờ đợi

cơ thể sinh miễn dịch theo đáp ứng với vắc-xin [28].

Mặc dù tiêm phòng vắc-xin có hiệu quả phòng bệnh với việc có được quần

thể tế bào TCD4(+) mang ký ức miễn dịch hữu hiệu [28] nhưng tính miễn

dịch này vẫn giảm đi theo thời gian. Thăm dò tại một khoa cấp cứu ở bệnh

viện tại Bỉ thì chỉ có 64% bệnh nhân có đủ miễn dịch bảo vệ chống uốn ván,

qua đó cho thấy việc hỏi tiền sử tiêm phòng chưa đủ tin cậy và đòi hỏi phải có

các công cụ khách quan hơn trong đánh giá, chẳng hạn như que thử nhanh

miễn dịch uốn ván [74]. Các khuyến cáo hiện nay thống nhất trong việc

khuyên tiêm nhắc lại vắc-xin sau mỗi 5-10 năm [28].

12

Page 14: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Bên cạnh việc cung ứng đầy đủ vắc-xin và kháng huyết thanh UV, sự hiểu

biết đầy đủ về cách phòng bệnh UV của nhân viên y tế và người dân đóng vai

trò thực sự quan trọng trong việc đNy lùi và tiến tới thanh toán căn bệnh đáng

sợ này. Qua điều tra ở thủ đô Đê-li, Ấn Độ, một nước có con số mắc và chết

do UV có thể nói là nhiều nhất trên thế giới [50], chỉ có 7% bác sỹ tiêm phòng

UV theo lịch, còn lại đa số chỉ tiêm vắc-xin khi có vết thương. Có chưa đến

một nửa các bác sỹ được hỏi biết được chỉ định đúng đắn của kháng huyết

thanh UV. Tuy nhiên, tình hình cũng không khả quan hơn ở các nước phát

triển. Qua một nghiên cứu điều tra nhân viên y tế ở khoa cấp cứu ngoại của 67

bệnh viện ở Anh năm 2007 [67], có tới 29% người được hỏi công nhận rằng

vẫn còn chưa tuân thủ đúng các khuyến cáo hướng dẫn phòng UV đã ban

hành. Thế nhưng tại Cuba, một quốc gia đang phát triển và đang phải gánh

chịu nhiều khó khăn do Mỹ bao vây cấm vận thì đến năm 2004, quốc gia này

không còn một người nào mắc bệnh UV, là căn bệnh mà khoảng 3 thập kỷ

trước đây có tỷ lệ tử vong cao ở nước này. Để đạt được thành tích này, Cuba

đã thực hiện một cách hệ thống và triệt để chiến dịch tiêm chủng mở rộng trên

toàn quốc. Riêng bệnh uốn ván ở trẻ sơ sinh đã được loại trừ cách đây 33

năm. Các chương trình tiêm phòng được phát động thường xuyên ở Cuba với

sự tham gia của tất cả các cấp, ngành, tổ chức quần chúng và toàn thể nhân

dân. Công tác tuyên truyền là vũ khí chiến lược để đạt được thành tích to lớn

này [12].

Ở Việt Nam, từ năm 1981 Chương trình Tiêm chủng mở rộng đã được triển

khai thí điểm tại Hà Nội. Từ năm 1995 đến nay, 100% xã phường trong cả

nước đều được bao phủ bởi dịch vụ này. Với đối tượng của Chương trình là

trẻ em và phụ nữ có thai hoặc phụ nữ trong độ tuổi 15-35 ở một số vùng trọng

điểm, nhiều bệnh truyền nhiễm đã bị đNy lùi, trong đó có UV, nhất là UV sơ

sinh. Mục tiêu của Chương trình cho đến năm 2010 là tiêm đủ liều vắc xin

UV cho phụ nữ có thai đạt > 80% và cho phụ nữ tuổi sinh đẻ ở vùng có nguy

13

Page 15: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

cơ cao đạt > 90% và loại trừ UV sơ sinh trên quy mô huyện. Dưới đây là lịch

tiêm chủng định kỳ UV cho trẻ em dưới 1 tuổi và phụ nữ theo Chương trình

Tiêm chủng mở rộng [2].

Bảng 3. LNCH TIÊM CHỦNG VẮC-XIN UV CHO PHỤ NỮ

Mũi 1: Càng sớm càng tốt khi có thai lần đầu hoặc nữ 15 -35 tuổi ở vùng có nguy cơ mắc uốn ván sơ sinh cao

Mũi 2: Ít nhất 4 tuần sau mũi 1 Mũi 3: Ít nhất 6 tháng sau mũi 2 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau Mũi 4: Ít nhất 1 năm sau mũi 3 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau Mũi 5: Ít nhất 1 năm sau mũi 4 hoặc trong thời kỳ có thai lần sau

Bảng 4. LNCH TIÊM CHỦNG CHO TRẺ DƯỚI 1 TUỔI

Tên vắc xin Số lần tiêm/uống

Phạm vi áp dụng

Tháng tuổi <1 2 3 4 ... 9

Vắc xin phòng lao (BCG) 1 Toàn quốc Vắc xin phòng bại liệt (OPV) 3 Toàn quốc Vắc xin phòng bạch hầu - ho gà - uốn ván (DPT) 3 Toàn quốc

Vắc xin sởi 1 Toàn quốc

Vắc xin viêm gan B 3 Toàn quốc

Vắc xin UV bảo vệ cơ thể phòng bệnh uốn ván. Vắc xin UV có dạng dung

dịch đóng trong lọ thủy tinh. Ngoài ra nó còn được đóng sẵn trong bơm kim

tiêm tự khóa. Có một vài dạng chế phNm chứa thành phần UV [1]:

- Vắc-xin TT (giải độc tố UV) có tác dụng phòng bệnh UV và bệnh UV sơ

sinh.

- Vắc-xin DPT (bạch hầu - ho gà - uốn ván ) phòng được các bệnh bạch hầu,

ho gà, uốn ván.

14

Page 16: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

- Vắc xin DT (bạch hầu - uốn ván) phòng các bệnh bạch hầu, uốn ván. Do loại

vắc xin này có chứa giải độc tố bạch hầu ở mức cao nên nó không được sử

dụng để tiêm cho trẻ trên 6 tuổi hoặc người lớn.

- Vắc xin Td (vắc xin uốn ván - bạch hầu cho người lớn) cũng giống như DT

nhưng thành phần bạch hầu thấp hơn. Loại vắc xin này phù hợp với những trẻ

trên 6 tuổi và người lớn kể cả phụ nữ có thai. Sự xuất hiện của Td càng tăng

thêm khả năng phòng bệnh bạch hầu và uốn ván.

Vắc xin TT hoặc Td khi tiêm cho phụ nữ có thai không chỉ bảo vệ bệnh uốn

ván cho mẹ mà còn phòng uốn ván sơ sinh cho con. Sau khi tiêm vắc xin TT

hoặc Td, kháng thể hình thành sẽ truyền cho thai nhi để bảo vệ cho trẻ trong

khi sinh và sau đó 1 vài tháng. Đồng thời kháng thể cũng phòng uốn ván cho

bà mẹ. Ba liều vắc xin TT hoặc Td có khả năng phòng uốn ván cho bà mẹ và

uốn ván sơ sinh ít nhất 5 năm. Nếu tiêm 5 liều có thể phòng uốn ván trong

suốt thời kỳ sinh đẻ.

Nếu để lắng lọ vắc xin TT trong thời gian dài, lọ vắc-xin sẽ chia thành 2 phần

dung dịch và phần lắng cặn ở dưới đáy lọ. Do đó phải lắc kỹ trước khi sử

dụng. Vắc-xin TT/DT/Td/DPT không được để đông băng. Nếu vắc-xin đã bị

đông băng phải hủy bỏ. Những vắc-xin có chứa thành phần uốn ván thường là

phản ứng nhẹ, ít gây phản ứng nặng. Có khoảng 1/10 trường hợp sau tiêm 1 –

3 ngày có biểu hiện đau nhẹ, nổi mNn, nóng và sưng tấy nhẹ tại chỗ tiêm.

Những phản ứng nhẹ này trở nên phổ biến hơn ở những lần tiêm sau và có thể

gặp ở 50% đến 80% những người tiêm nhắc lại. Khoảng 1/10 trường hợp

được tiêm có biểu hiện sốt nhẹ sau tiêm.

Để phòng bệnh UV cho mẹ và UV sơ sinh cần tăng tỷ lệ nữ được tiêm vắc xin

có thành phần UV khi còn nhỏ hoặc ở tuổi học đường. Khi đến tuổi sinh đẻ,

15

Page 17: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

tỷ lệ mắc UV mẹ và UV sơ sinh sẽ giảm xuống: tiêm đúng, đủ 3 liều DPT ở

trẻ nhỏ có giá trị bảo vệ tương đương 2 liều uốn ván/Td ở người lớn.

16

Page 18: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

4. Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn uốn ván

Hình 3. Trực khuNn uốn ván

Bệnh UV do Clostridium tetani gây nên. Thể hoạt động của C. tetani là trực

khuNn Gram dương, có tạo nha bào, di động và kị khí tuyệt đối, phát triển tốt

nhất ở 330C đến 370C. Vi khuNn nhạy cảm với nhiệt và không thể tồn tại được

khi có mặt oxy, còn nha bào thì ở nhiệt độ 1200C trong vòng 30 phút mới chết

và đề kháng với các chất sát khuNn thông thường [7].

Hình 4. C. tetani với nội bào tử thể ở đầu tận giống hình dùi trống (nhuộm da cam

acridine) [37]

Trực khuNn UV có thể gặp ở khắp nơi, sống hoại sinh trong ruột người, bò, và

một số động vật nhai lại khác. Khoảng 10% người bình thường có C. tetani

17

Page 19: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

trong đại tràng [17]. Nó sống lâu trong đất, nhất là đất Nm ướt. Tỉ lệ gặp trong

các mẫu đất khảo sát từ 2% đến 23% [66], nhưng cũng có thể tới 20% đến

65% [17]. Cũng có thể thấy trực khuNn ở trên bề mặt da và và trong heroin

nhiễm bNn [76].

Trực khuNn UV sinh hai loại ngoại độc tố là tetanolysin và tetanospasmin,

trong đó tetanospasmin (còn gọi là độc tố UV) là độc tố thần kinh rất mạnh,

trong số các độc tố vi sinh chỉ đứng hàng thứ hai sau độc tố botulinum. Liều 1

mg độc tố UV có thể giết chết 50-70 triệu con chuột [17]. Có tác giả đã ước

tính liều độc trên người là khoảng 500 pg/kg, tức là 25 ng/người lớn 70 kg

[37], còn ước tính liều chết tối thiểu là 2,5 ng/kg thể trọng [28].

Tetanospasmin là độc tố chịu nhiệt, có tính kháng nguyên mạnh nên người ta

đã dùng để sản xuất vắc-xin phòng bệnh [7].

Sau khi xâm nhập cơ thể, trong điều kiện yếm khí của vết thương hoặc vùng

hoại tử, trực khuNn UV tiết ra tetanolysin gây hủy hoại tổ chức xung quanh ổ

nhiễm và tạo điều kiện cho vi khuNn nhân lên [33], đồng thời cũng tiết ra

tetanospasmin là độc tố thần kinh gây các biểu hiện lâm sàng.

Hình 5. Cấu trúc tinh thể ba chiều của chuỗi Hc [37]

18

Page 20: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Gen độc tố UV được mã hóa trên một plasmid 75kb và tổng hợp nên một

chuỗi polypeptid đơn có trọng lượng 150.000 Da. Polypeptid này sau đó được

biến đổi sau dịch mã thành hai đoạn nối nhau bằng cầu disulfid gọi là chuỗi

nhẹ (L) và chuỗi nặng (H) (hình 5). Phần tận carboxyl của chuỗi H, gọi là HC

bắc cầu gắn với gangliosid (GD1b và GT1b) trên dây thần kinh ngoại vi, sau đó

độc tố được nhập bào. Từ đó độc tố di chuyển từ hệ thần kinh ngoại vi vào

đến trung ương nhờ vận chuyển ngược dòng sợi trục và lan truyền xuyên

synap. Toàn bộ phân tử độc tố nhập bào vào trong tế bào tiền synap và qua

một quá trình đòi hỏi có đoạn HN (phần tận amin của chuỗi H), chuỗi L được

giải phóng từ nội thể (endosome). Chuỗi L là một metalloprotease kẽm, phá

vỡ synaptobrevin. Đây là một thành phần tích hợp màng của túi synap và cần

cho việc hòa túi synap vào màng tiền synap. Sự phá hủy của chuỗi L làm cho

chất chứa trong các túi synap (chủ yếu là chất dẫn truyền thần kinh ức chế

acid γ-aminobutyric (GABA) và glycin) không được giải phóng vào trong khe

synap [37]. Như vậy, độc tố gây phong tỏa tiền synap các synap tế bào

Renshaw ức chế và sợi 1a thần kinh vận động alpha của hệ dẫn truyền GABA

và glycin, dẫn đến sự mất sự kiểm soát ức chế các tế bào thần kinh thuộc hệ

dẫn truyền GABA và glycin [33]. Độc tố UV cũng có thể gây phong tỏa thần

kinh cơ ngoại vi qua việc ngăn cản giải phóng acetylcholin giống như độc tố

botulinum. Tác dụng này giải thích cơ chế liệt thần kinh ngoại biên trong UV

thể đầu [84].

Hình 6. Sơ đồ cấu trúc độc tố UV [68]

19

Page 21: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Hình 7. Cấu trúc không gian ba chiều của độc tố UV [68]

Mất kiểm soát ức chế các nơ-ron vận động α ở sừng trước tủy sống dẫn đến

tình trạng hưng phấn liên tiếp gây ra biểu hiện co cứng và co giật cơ đặc trưng

của UV. Độc tố UV còn tác động đến tủy sống, thân não, thần kinh ngoại

biên, liên kết thần kinh cơ và trực tiếp tới cơ. Ngoài ra, độc tố UV còn có khả

năng tác động đến các cấu trúc trên thân não [46]. Cơ chế gây co cứng cơ là

do tăng điện thế nghỉ (mất ức chế) của nơ-ron vận động cùng với mất sự ức

chế đáp ứng phản xạ vận động trước kích thích cảm giác hướng tâm. Cơ vùng

hàm, mặt và đầu thường biểu hiện trước tiên do chúng có đường đi sợi trục

thần kinh chi phối ngắn hơn. Mất ức chế thần kinh thực vật dẫn đến rối loạn

kiểm soát thần kinh thực vật với tăng hoạt tính hệ giao cảm (vã mồ hôi, nhịp

tim nhanh và tăng huyết áp...) và nồng độ catecholamine máu tăng cao [33].

Tốc độ di chuyển của độc tố theo đường thần kinh vào khoảng 75 đến 250

mm mỗi ngày [66]. Nếu độc tố được sinh ra với một lượng lớn thì sẽ thấm

vào máu và bạch huyết, tác dụng của độc tố sẽ xảy ra nhanh và lan rộng hơn

[37].

20

Page 22: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Tác dụng của độc tố UV trên các tế bào sừng trước tủy sống, thân não và các

nơ-ron thần kinh thực vật kéo dài khá lâu. Độc tố gắn hệ thần kinh không đảo

ngược, để hồi phục, cơ thể cần sinh các tận cùng trục thần kinh mới và độc tố

phải bị phân hủy, điều này giải thích diễn biến kéo dài của bệnh UV, thường

là từ 4 đến 6 tuần [33].

21

Page 23: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

5. Biểu hiện lâm sàng của bệnh uốn ván

5.1. Vết thương đường vào

Vết thương đường vào thường sau chấn thương, tai nạn, đứng hàng đầu,

chiếm 40-60% với tỉ lệ tử vong 29% [39]. Thường thấy các vết thương ở chi

dưới (2/3 các trường hợp [15]). Các vết thương có thể nhỏ như gai đâm, đinh

đâm, xước da, giập móng, ngoáy tai, xỉa răng... đến các vết thương to, rộng,

nhiều ngóc ngách như gãy xương hở, bỏng sâu..., thậm chí có thể gặp sau đẻ

có kiểm soát tử cung, có sót rau, nạo thai, sau mổ đường tiêu hóa, cắt trĩ, cắt

rốn với các dụng cụ bị nhiễm bNn [5]. Ở châu Phi, gặp một tỉ lệ không nhỏ

(20% ở Dakar) do cắt bao qui đầu ở nam và xâu tai ở phụ nữ [39]. Ngoài ra

còn có các trường hợp UV sau tiêm quinin (rất nặng, tỉ lệ tử vong trên 90%

[39]), tiêm chủng, nhất là tiêm chích ma túy [76]. Đã có báo cáo về UV xuất

hiện sau khi thắt trĩ [47].

Có một tỉ lệ nhất định không tìm thấy đường vào, dao động từ 8% [39] đến

30% [37] tùy theo các tác giả. Những trường hợp này trước đây được xếp vào

UV nội khoa-không có vết thương [10], nhưng hiện nay nhiều tác giả cho là

do bệnh nhân vùng nông thôn bị các vết thương rất nhỏ lặp đi lặp lại nhiều lần

[15, 67].

Hiện nay, với tình hình bệnh đái đường đang gia tăng, các vết thương loét

hoặc hoại thư do đái đường cũng đóng vai trò đáng kể trong việc dẫn tới bệnh

uốn ván [63].

5.2. Thời gian ủ bệnh

Thời gian này tính từ lúc bị thương, trực khuNn UV xâm nhập cơ thể cho đến

lúc bệnh xuất hiện, thay đổi theo từng tác giả, nói chung từ 1 đến 60 ngày

[33], thường là khoảng 5-10 ngày [10]. Nói chung vị trí vết thương càng xa 22

Page 24: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

5.3. Thời kì khởi phát

Thời kì này tính từ lúc mỏi hàm đến khi co cứng toàn thân và có cơn co giật

đầu tiên, kéo dài trung bình 1 đến 7 ngày [5]. Thời gian khởi phát càng ngắn

thì bệnh càng nặng [4,10]. Triệu chứng khởi đầu là cứng hàm gặp ở khoảng

75% các trường hợp [17]. Cứng hàm là hiện tượng co cứng cơ nhai và cơ thái

dương, biểu hiện bằng sự hạn chế độ mở của miệng [31]. Lúc đầu chỉ là mỏi

hàm, khó nhai, khó há miệng, sau đó cứng hàm tăng dần và xuất hiện liên tục.

Bệnh nhân thấy đau vùng cơ nhai khi há miệng rồi đau liên tục vùng cơ nhai,

không thể ăn và nói được. Trong những trường hợp cứng hàm kín đáo, người

ta tìm dấu hiệu đè lưỡi [signe de l'abaisse langue captif]: dùng cái đè lưỡi

khám thì thấy cơ hàm co rõ, hàm cắn chặt hơn [31]. Các tác giả ở Dakar rất

tâm đắc với dấu hiệu này [39]. Cũng có thể làm nghiệm pháp đè lưỡi [the

spatula test] mà Apte và Karnad mô tả (1995): chạm họng miệng bằng cái đè

lưỡi, thông thường nghiệm pháp này gây phản xạ ọe, bệnh nhân cố đNy cái đè

lưỡi ra (nghiệm pháp âm tính) còn trong uốn ván, bệnh nhân sẽ co cứng cơ

nhai kiểu phản xạ và cắn vào cái đè lưỡi (nghiệm pháp dương tính). Trong

một nghiên cứu 400 bệnh nhân, nghiệm pháp này có độ nhạy 94% và độ đặc

hiệu 100%, không thấy hậu quả có hại gì (như co thắt thanh quản) từ nghiệm

pháp này [34].

Bên cạnh cứng hàm, các cơ khác co cứng hình thành nên biểu hiện đặc biệt

của bệnh UV. Cơ bám da mặt co cứng, bệnh nhân cười thì mặt nhăn già trước

tuổi, nụ cười rất đau khổ [risus sardonicus]. Cơ cổ co cứng, cổ ngửa dần, hai

cơ ức đòn chũm nổi rõ. Cơ dọc sống co cứng làm bệnh nhân ở tư thế ưỡn

23

Page 25: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

5.4. Thời kì toàn phát

Thời kì này kéo dài từ 1 đến 3 tuần [5] với ba biểu hiện rõ nhất là co cứng cơ

toàn thân liên tục, các cơn co giật toàn thân trên nền co cứng và rối loạn thần

kinh thực vật mà có tác giả đã gọi là tam chứng UV [33].

Co cứng cơ toàn thân liên tục tăng lên khi có kích thích và rất đau. Điển hình

thì người bệnh nhân ưỡn cong. Co cứng các cơ hô hấp làm giảm khả năng ho

khạc, khạc yếu gây ứ đọng đờm rãi. Nhiều trường hợp bệnh nhân co cứng cơ

hô hấp tới mức độ di động lồng ngực không đảm bảo đủ chức năng thông khí,

bệnh nhân trong tình trạng “chẹn ngực”, cần hỗ trợ hô hấp cấp cứu. Cơ thanh

quản có thể co cứng gây ngạt, ngừng thở-ngừng tim. Phản xạ nuốt bị rối loạn:

bệnh nhân khó nuốt, dễ sặc và ứ đọng đờm rãi. Các cơ vòng cũng co cứng gây

bí đại tiểu tiện [10].

24

Page 26: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Hình 8. Cơn co cứng của bệnh nhân uốn ván

Trên nền co cứng cơ như vậy, bệnh nhân xuất hiện các cơn co giật toàn thân

một cách tự nhiên, cơn tăng khi có các kích thích. Trong cơn, bệnh nhân vẫn

tỉnh nhưng dễ bị co thắt thanh quản, co cứng cơ hô hấp dẫn đến ngạt. Cơn giật

kéo dài từ vài giây đến vài phút hoặc lâu hơn. Sau cơn bệnh nhân mệt lả, vã

nhiều mồ hôi.

Rối loạn thần kinh thực vật gặp trong các thể nặng, xuất hiện vài ngày sau co

giật và kéo dài trong 1-2 tuần [33]. Bệnh nhân có tình trạng nhiễm độc toàn

thân, da xanh tái, nổi vân tím, thân nhiệt tăng cao, nhịp tim nhanh, huyết áp

dao động, thở nhanh, tăng tiết đờm rãi, vã nhiều mồ hôi... Tình trạng này

thường có các biến chứng suy tuần hoàn, suy hô hấp... dễ dẫn đến tử vong.

Sốt hầu như bao giờ cũng có. Trong các trường hợp nặng, sốt tới 390C và khi

có cơn co cứng thì lên tới 400C. Sau khi bệnh nhân tắt thở, nhiệt độ vẫn còn

lên [10].

25

Page 27: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Bảng 5. Các rối loạn thần kinh thực vật gặp trong UV [21] • Tăng huyết áp kéo dài hoặc thoáng qua • Hạ huyết áp tiến triển và dai dẳng • Co mạch ngoại vi • Nhịp tim nhanh (thường từng cơn) • Nhịp tim chậm và vô tâm thu • Loạn nhịp tim • Sốt • Vã mồ hôi, ứa nước bọt • Tăng dịch tiết phế quản • Ứ trệ dạ dày và liệt ruột • Bí đái

Trong giai đoạn toàn phát, về mặt xét nghiệm có thể thấy mất nước ngoại bào.

Do dùng thuốc điều trị barbituric và diazepam có thành phần tá dược gây rối

loạn tính thấm thành mạch mà Na, protein và nước có thể thoát ra khoảng kẽ,

gây phù kẽ và giảm thể tích tuần hoàn. Muộn hơn, có thể thấy thiếu máu và

tăng bạch cầu [15], chức năng điều hòa glucose bị rối loạn [10] và có thể tăng

đường niệu thoáng qua [62]. Những trường hợp co giật nhiều có thể tăng

creatin phosphokinase trong máu [9].

5.5. Thời kì lui bệnh

Sau khi trải qua thời kì toàn phát, các cơn giật thưa dần rồi hết giật. Tình

trạng co cứng toàn thân còn kéo dài nhưng mức độ giảm dần. Miệng bệnh

nhân há rộng dần ra, phản xạ nuốt trở lại. Bệnh nhân thở tốt lên, phản xạ ho

khạc dần về bình thường. Thời kì này kéo dài vài tuần đến hàng tháng tùy

theo mức độ bệnh [5].

5.6. Các thể lâm sàng

Theo tiến triển của bệnh, từ thời Dieulafoy (1897) đã nhận định hai thể UV

diễn biến nhanh và chậm. Năm 1931, Ramond [32] đã chia ra các thể tối cấp,

bán cấp và mạn tính. Ngoài ra, các tác giả còn mô tả rõ thể trường diễn và

26

Page 28: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Trên cơ sở khu trú các triệu chứng lâm sàng, có ba thể UV được mô tả theo

định khu. Đó là UV toàn thể, còn gọi là UV thể điển hình như đã mô tả trên

đây; UV khu trú và UV đầu.

- UV khu trú là một thể bệnh không hay gặp. Trong thể này bệnh nhân có sự

co cơ liên tục ở cùng vùng giải phẫu với vết thương. Cơ có thể co liên tục vài

tuần trước khi giảm dần. UV khu trú có thể báo trước khởi phát UV toàn thể,

nhưng nói chung là nhẹ hơn. Tỉ lệ mắc chiếm khoảng 13% các UV [45], chỉ

khoảng 1% các trường hợp là tử vong [28].

- UV đầu là một thể hiếm của bệnh, chiếm khoảng 6% các trường hợp UV

[45], thỉnh thoảng gặp cùng viêm tai giữa, hoặc sau vết thương vùng đầu. Có

sự tổn thương các dây thần kinh sọ, nhất là vùng mặt, thậm chí trong 42% các

trường hợp có liệt thần kinh sọ trước cứng hàm [45]. Thời gian ủ bệnh có khi

chỉ 1-2 ngày [17]. Kinh điển chia UV đầu thành hai thể nhỏ là UV đầu thể

Rose có liệt mặt ngoại biên thường cùng bên với vết thương và UV liệt vận

nhãn thể Worms sau khi bị vết thương vùng hốc mắt có liệt vận nhãn và liệt

mặt ngoại biên [31]. Thể đầu có thể tiến triển thành UV toàn thể ở 2/3 số

trường hợp với tỉ lệ tử vong 15-30% [45].

- UV toàn thể là thể hay gặp nhất (chiếm khoảng 80% đến 90% [17, 45]).

Theo hoàn cảnh xuất hiện UV, cần phải xem xét một số trường hợp đường

vào đặc biệt. UV sơ sinh là một dạng của UV toàn thể xuất hiện ở trẻ mới đẻ,

thường gặp trên trẻ không có miễn dịch thụ động bảo vệ vì mẹ không được

tiêm chủng. Đường vào thông thường là từ cuống rốn, nhất là khi cắt rốn bằng

dụng cụ nhiễm bNn. UV sơ sinh gặp nhiều ở một số nước đang phát triển (ước

27

Page 29: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

tính 270.000 tử vong hàng năm trên thế giới) [28]. UV nội tạng cũng là một

dạng của UV toàn thể với vết thương từ một nội tạng như ruột, tử cung...

nhưng nguy kịch và tiên lượng rất nặng [10].

28

Page 30: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

6. Chẩn đoán bệnh UV

Không như phần lớn các bệnh nhiễm trùng khác, chNn đoán UV thường là dễ

thấy và chủ yếu dựa vào lâm sàng [67]. Nếu có điều kiện định lượng kháng

độc tố UV trong huyết thanh, kết quả trên 0,01 đơn vị/dl thì ít nghĩ đến UV

[17]. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp bệnh nhân đã được tiêm phòng đầy

đủ thì khả năng bị UV vẫn không thể loại trừ [70]. Các xét nghiệm khác thực

ra không có giá trị chNn đoán ngoại trừ việc loại trừ ngộ độc strychnin [66].

Ngoài việc loại trừ các nguyên nhân nhiễm trùng khác, chấn thương, khối u

và các bệnh tại chỗ gây cứng hàm [31], cần phân biệt UV với các bệnh có

bệnh cảnh tương tự như: hạ calci máu, loạn trương lực (như do phenothiazin),

ngộ độc strychnin, hội chứng an thần kinh ác tính [67], viêm não [63], thậm

chí cả histeria [10]. Nhiều tác giả đã đề xuất các tiêu chuNn chNn đoán bệnh

UV. Các tiêu chuNn này giúp ích nhiều trong công tác nghiên cứu và điều tra

bệnh.

Theo Nguyễn Duy Thanh [11] thì tiêu chuNn chNn đoán UV là: (1) cứng hàm;

(2) co cứng cơ với đặc điểm: đau và liên tục, xuất hiện trình tự khởi đầu là cơ

nhai, cơ mặt, cơ bụng rồi cuối cùng là tứ chi; (3) co giật toàn thân từng cơn

trên nền co cứng; (4) có thể phát hiện được đường vào của trực khuNn UV.

Theo J.B. Greco và cộng sự [41] thì bệnh nhân UV có ít nhất 2 trong số các

triệu chứng sau: (1) Đau ở nhiều nhóm cơ; (2) Di chuyển khó khăn; (3) Cứng

hàm; (4) Co cứng cơ; (5) Co cứng khi kích thích; (6) Mặt nhăn; (7) Cứng ưỡn

người; (8) Vẫn còn ý thức; (9) Các dấu hiệu cường giao cảm (rối loạn nhịp

tim, huyết áp biến động không ổn định, vã nhiều mồ hôi).

29

Page 31: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

CDC Hoa Kỳ định nghĩa lâm sàng ca bệnh UV [28] như sau: (1) tăng trương

lực cơ khởi phát cấp tính hoặc (2) co cứng cơ gây đau (thường là cơ hàm và

cổ) và co giật toàn thể mà không thấy căn nguyên nội khoa rõ ràng nào khác.

30

Page 32: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

7. Điều trị bệnh uốn ván

Duy trì thông khí và oxy hóa máu trong khi kiểm soát co cứng-co giật cơ là

mấu chốt của xử trí ban đầu [66]. Nguyên tắc của việc xử trí UV bao gồm:

- Tiêu diệt vi khuNn để ngăn không cho giải phóng thêm độc tố. Kinh điển

thường dùng Penicillin. Tuy nhiên do thuốc này có tác dụng đối kháng với hệ

GABA, gây hưng phấn hệ thần kinh trung ương nên xu hướng hiện nay thay

bằng Metronidazol [67].

- Trung hòa độc tố còn trong cơ thể, ngoài hệ thần kinh trung ương. Xu hướng

hiện nay dùng Globulin miễn dịch UV từ người hoặc Huyết thanh kháng UV

từ ngựa, dùng đường tiêm bắp hoặc đường trong ống sống [67]. Từ năm 1898,

Roux và Picard đã đi tiên phong trong việc dùng kháng huyết thanh UV

đường ống sống nhưng sau đó phải ngừng do tai biến bởi chất bảo quản

phenol [15]. Gần đây thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng của các

tác giả Brazil [50] cho thấy dùng globulin miễn dịch kháng UV đường ống

sống có tiến triển lâm sàng tốt hơn và rút ngắn thời gian nằm viện hơn là chỉ

dùng tiêm bắp. Một số tác giả Ấn Độ cũng nhận thấy dùng globulin miễn dịch

kháng UV đường ống sống có hiệu quả đối với các thể bệnh vừa và nhẹ [39].

- Giảm thiểu tối đa tác dụng của độc tố đã gắn vào hệ thần kinh. Các biện

pháp bao gồm khống chế cơn giật và giảm co cứng cơ, khống chế rối loạn

thần kinh thực vật và rất quan trọng là chăm sóc hỗ trợ [14, 24, 37, 60].

Baclofen dùng đường ống sống hoặc đường uống [42] đã từng được ca ngợi

những cũng có nhiều trường hợp báo cáo thất bại [77]. Magiê sulfat [78] đang

là hướng nghiên cứu hiện nay nhưng thực sự không làm giảm được việc bệnh

nhân phải thở máy mà chỉ có hiệu quả phối hợp với các thuốc khác trong

kiểm soát co cứng-co giật và rối loạn thần kinh thực vật.

31

Page 33: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Về việc xử trí vết thương đường vào, đa số tác giả khuyến cáo cần rạch rộng,

lấy hết dị vật, mô hoại tử và rửa sạch, nhưng có một số tác giả, trong đó có

Bleck T.P. lại cho rằng việc xử trí vết thương đường vào không có lợi điểm gì

rõ rệt đối với bản thân bệnh UV [22, 23, 54]. Xử trí bệnh UV khá phức tạp,

đòi hỏi sự hỗ trợ từ nhiều chuyên khoa. Tác giả Bleck T.P. đã hệ thống hóa

các bước điều trị dưới dạng phác đồ dễ thực hiện tại các tuyến có đơn vị hồi

sức [22]. Tuy nhiên, lựa chọn kiểm soát đường thở của nhiều tác giả khi có

suy hô hấp là đặt nội khí quản, sau đó mới mở khí quản khi đặt ống quá lâu

[27]. Ở các nước đang phát triển hiện nay, khi có chỉ định thường mở khí

quản ngay nhằm tránh các kích thích không cần thiết [5, 82]. Các chỉ định mở

khí quản [5] là: (1) có nguy cơ đe dọa ngạt do co thắt thanh quản, chẹn ngực;

(2) ứ đọng nhiều đờm rãi đường thở. Xu hướng hiện nay nhiều nơi đã áp dụng

kĩ thuật mở khí quản qua da tại giường thay vì mở khí quản phẫu thuật truyền

thống như trước đây [37]. Trong xử trí bệnh UV thường cần bảo vệ đường thở

và hỗ trợ thông khí từ sớm. Hiện chưa có được sự đánh giá về tác dụng khác

nhau của các phương thức thông khí hỗ trợ khác nhau. Trong giai đoạn sớm

của bệnh, khi co cứng và co giật nổi trội thì cần làm liệt cơ và thông khí điều

khiển có kiểm soát. Độ giãn nở và oxy hóa kém do co cứng cơ hoặc do các

biến chứng phổi có thể giải quyết được bằng cách kết hợp thông khí kiểm soát

áp lực và áp lực dương tính cuối kì thở ra. Ở giai đoạn cuối của bệnh, nói

chung người ta ưa dùng các phương thức cho phép thông khí tự nhiên (thông

khí điều khiển ngắt quãng đồng thì, áp lực đường thở dương tính liên tục và

áp lực đường thở dương tính hai pha) và các phương thức này có thể tối ưu

hóa kiểu thở, giảm nhu cầu an thần, giảm thiểu vận cơ thừa và giảm khả năng

bị bệnh lí dây thần kinh hoặc bệnh lí cơ mắc phải sau bệnh lí hồi sức. Tuy

nhiên vẫn chỉ có rất ít luận chứng trong UV về phương thức thở hỗ trợ [37].

Sau đây là phác đồ điều trị bệnh UV do T. Bleck đề xuất [22]

32

Page 34: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

1. ChNn đoán và ổn định tình hình: giờ đầu tiên sau khi vào khám A. Đánh giá đường thở và thông khí. Nếu cần, chuNn bị đặt nội khí quản và thuốc giãn cơ (như vecuronium 0,1 mg/kg). B. Lấy mẫu bệnh phNm để xét nghiệm nồng độ kháng độc tố, strychnine và thử nghiệm đối kháng dopamine, xét nghiệm điện giải đồ, urê máu, creatinin, creatine kinase và myoglobin niệu. Nếu thấy cần chNn đoán phân biệt viêm màng não thì tiến hành chọc dịch não tủy. C. Xác định đường vào, thời gian ủ bệnh, thời gian khởi phát và tiền sử tiêm chủng. D. Cho dùng benztropine 1-2 mg tĩnh mạch (TM) hoặc dyphenhydramine 50 mg TM để giúp loại trừ phản ứng loạn trương lực. E. Cho dùng benzodiazepine TM (diazepam mỗi lần tăng 5 mg hoặc lorazepam mỗi lần tăng 2 mg) để kiểm soát co giật và giảm co cứng. Ban đầu, dùng liều đủ để gây an dịu và giảm co giật phản xạ xuống mức tối thiểu. Nếu liều này gây ức chế đường thở hoặc thông khí thì đặt ống nội khí quản, trước đó có dùng thuốc giãn cơ tác dụng ngắn để rồi chuyển bệnh nhân tới khu vực yên tĩnh, tối của đơn vị chăm sóc tăng cường.

II. Giai đoạn xử trí sớm: 24 giờ đầu A. Cho dùng globulin miễn dịch uốn ván của người (HTIG), 500 đơn vị tiêm bắp (TB). B. Tiêm bắp tại vị trí khác một giải độc tố uốn ván đã hấp phụ như vắc-xin uốn ván-bạch hầu 0,5 ml hoặc vắc-xin bạch hầu-uốn ván-ho gà 0,5 ml tùy theo lứa tuổi. Sẵn có giải độc tố uốn ván đã hấp phụ không chứa giải độc tố bạch hầu dành cho các bệnh nhân có tiền sử phản ứng với giải độc tố bạch hầu; nếu không, nên dùng vắc-xin kết hợp đúng theo lứa tuổi. C. Nếu cân nhắc việc dùng kháng độc tố trong ống sống thì nên dùng vào thời điểm này. D. Bắt đầu metronidazol 500 mg TM cứ 6 giờ một lần trong 7 đến 10 ngày. E. Tiến hành mở khí quản sau khi đặt ống nội khí quản và dùng thuốc giãn cơ nếu co giật gây cản trở hô hấp ở bất cứ mức độ nào, hoặc nếu xuất hiện khó nuốt hoặc xuất tiết khó xử trí. F. Cắt lọc vết thương nếu đây là chỉ định về phía vết thương (việc này không có ảnh hưởng rõ nét trong diễn biến bệnh uốn ván). G. Đặt một ống mềm, khNu kính nhỏ cho ăn đường mũi hoặc một catheter tĩnh mạch trung ương để nuôi dưỡng. H. Dùng benzodiazepine khi cần để kiểm soát co giật và gây an dịu. Nếu không đạt được sự kiểm soát thích đáng thì dùng thuốc giãn cơ tác dụng kéo dài (như truyền vecuronium hoặc tiêm pancuronium cách quãng). Tiếp tục benzodiazepine để gây an dịu có theo dõi điện não đồ để đảm bảo ngủ đều. I. Bắt đầu lý liệu pháp để làm thông thoáng phổi và tập biên độ vận động thụ động sau khi bệnh nhân đã dùng thuốc ổn định càng sớm càng tốt. Nên dùng thêm thuốc gây an dịu trước mỗi lần trị liệu và lại dùng trong khi trị liệu nếu liệu pháp gây co giật.

III. Giai đoạn xử trí trung gian: 2 đến 3 tuần kế tiếp A. Điều trị cường giao cảm bằng labetalol TM 0,25 đến 1,0 mg/phút hoặc morphine 0,5 đến 1 mg/kg/giờ. Xem xét phong bế ngoài màng cứng bằng thuốc tê cục bộ. Tránh dùng lợi niệu để kiểm soát huyết áp vì giảm khối lượng tuần hoàn sẽ làm xấu thêm tình trạng mất ổn định hệ thực vật. B. Nếu có hạ huyết áp, đặt catheter động mạch phổi và một đường động mạch, và cho bù dịch, dùng dopamine hoặc norepinephrine. C. Nhịp tim chậm kéo dài thường cần phải tạo nhịp. Atropine hoặc isoproterenol có lẽ có ích trong khi đang đặt máy tạo nhịp. Nên tránh tạo nhịp ngoài trừ khi bệnh nhân đang dùng thuốc giãn cơ. D. Bắt đầu heparin dự phòng để phòng tránh tắc mạch phổi. E. Nếu có thể, dùng giường đệm nước để phòng loét da và liệt thần kinh chày. Nếu không thì phải đảm bảo lăn trở thường xuyên và dùng bốt chống xoay. F. Duy trì benzodiazepine cho đến khi không còn cần dùng thuốc giãn cơ, nếu có dùng, và khi mức độ co giật giảm rõ rệt. Giảm dần liều trong vòng 14 đến 21 ngày. G. Bắt đầu vạch kế hoạch phục hồi chức năng.

IV. Giai đoạn phục hồi

33

Page 35: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

A. Khi không còn co giật nữa, bắt đầu lí liệu pháp. Nhiều bệnh nhân cần liệu pháp tâm lí hỗ trợ. B. Trước khi ra viện, dùng liều giải độc tố uốn ván thích hợp kế tiếp.

C. Hẹn liều giải độc tố thứ ba 4 tuần sau khi dùng liều thứ hai.

Tại Khoa Điều trị tích cực Viện Các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới Quốc

gia hiện nay đang áp dụng phác đồ điều trị bệnh UV như sau:

1. Nguyên tắc - Đảm bảo yên tĩnh và tránh các kích thích đối với người bệnh. - Dùng kháng sinh tiêu diệt trực khuNn uốn ván. - Trung hoà độc tố uốn ván còn lưu hành trong máu bằng SAT. - Khống chế co cứng cơ, co giật và rối loạn thần kinh thực vật. - Duy trì chức năng sống bằng các điều trị hỗ trợ. 2. Kháng sinh tiêu diệt trực khuẩn uốn ván: - Metronidazol 0,5 g x 3 lần, truyền tĩnh mạch cách 8 giờ/lần. - Dùng trong 7-10 ngày. 3. Trung hoà độc tố uốn ván còn lưu hành trong máu: - Nếu đã được tiêm SAT tại bệnh viện tuyến trước thì cân nhắc việc tiếp tục dùng SAT. - SAT 1500 đơn vị x 6-10 ống tiêm bắp. Thử test trước tiêm. - Nếu thử test SAT dương tính thì giải mẫn cảm theo phương pháp Besredka. 4. Khống chế co cứng cơ, co giật và rối loạn thần kinh thực vật: - Thuốc dùng ban đầu: Diazepam

+ Cách 2-4 giờ dùng thuốc một lần. + Dùng xen kẽ thuốc tiêm (tiêm tĩnh mạch) và thuốc uống (bơm qua ống thông dạ dày). + Tuỳ đáp ứng lâm sàng, điều chỉnh liều tối thiểu để bệnh nhân nằm yên, không còn co giật nhưng vẫn co cứng cơ mức độ nhẹ khi kích thích. + Không nên dùng quá 240 mg Diazepam/ngày.

- Khi dùng Diazepam liều tối đa mà không hiệu quả thì dùng thêm Thiopental + Pha Thiopental 1-2 g vào chai NaCl 0,9% 250-500 ml. Truyền bolus qua catheter tĩnh mạch trung tâm khi bệnh nhân co giật. Ngừng truyền ngay khi bệnh nhân hết co giật. + Khi dùng Thiopental nên mở khí quản cho bệnh nhân để hỗ trợ hô hấp khi cần. + Không nên dùng quá 4 g Thiopental/ngày

- Những trường hợp bệnh nhân co giật doạ ngạt có thể dùng ngay hỗn hợp Cocktailytique: + Thành phần hỗn hợp: Aminazin 0,025g x 1 ống + Dolargan 0,1g x 1 ống + Dimedrol 0,01g x 1 ống + Hỗn hợp các thuốc sau khi lấy vào bơm tiêm được tiêm bắp ngay ½ - 1 liều.

5. Hỗ trợ và chăm sóc hô hấp: - Mở khí quản

+ Chỉ định sớm cho những trường hợp tiên lượng nặng. + Chỉ định khi bệnh nhân co cứng chẹn ngực (không thở được) hoặc ứ đọng đờm rãi (không ho khạc được).

- Thở oxy + Chỉ định khi bệnh nhân còn tự thở được, thở khí trời SpO2 < 92% + Thở oxy qua gọng mũi (chưa mở khí quản) hoặc qua ống chữ T (đã mở khí quản).

34

Page 36: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

- Thở máy: + Chỉ định khi bệnh nhân rối loạn nhịp thở, không tự thở được hoặc thở oxy nhưng SpO2 < 92%. + Bệnh nhân đang dùng Thiopental nên cho thở máy.

- Chú ý vệ sinh răng miệng và hút sạch đờm rãi. 6. Hỗ trợ tuần hoàn - Đảm bảo khối lượng tuần hoàn bằng truyền dịch trên cơ sở cân bằng nước và điện giải. - Những trường hợp dùng Diazepam tiêm liều cao và dùng Thiopental phải đặt catheter tĩnh mạch trung tâm. - Duy trì huyết áp tâm thu luôn > 90mmHg bằng dịch truyền và các thuốc vận mạch. 7. Loét stress - Dự phòng và điều trị loét stress bằng thuốc giảm tiết acid dịch vị kết hợp với thuốc băng niêm mạc dạ dày. - Những trường hợp xuất huyết tiêu hoá cao kéo dài cần nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch. 8. Các hỗ trợ và chăm sóc khác: - Cho ăn qua ống thông dạ dày. - Bệnh nhân táo bón kéo dài dùng thuốc nhuận tràng Sorbitol. Có thể dùng thuốc tNy Magiê sulfat. Nếu không hiệu quả thì thụt tháo bằng nước ấm. - Bệnh nhân bí đái nên đặt thông tiểu sớm. - Những trường hợp bội nhiễm sử dụng thêm kháng sinh chống nhiễm khuNn bệnh viện. - Chỉ xử trí vết thương đường vào khi bệnh nhân đã được kiểm soát tốt về hô hấp, tuần hoàn và đã dùng kháng sinh tiêu diệt trực khuNn uốn ván và SAT:

+ Rạch rộng vết thương lấy hết tổ chức hoại tử và dị vật + Bơm rửa nước oxy già + Không khâu kín ngay vết thương.

- Vệ sinh cơ thể và các hốc tự nhiên. Chăm sóc thay đổi tư thế chống loét.

35

Page 37: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

8. Biến chứng và tiên lượng bệnh UV

8.1. Diễn biến và kết cục

Tỉ lệ tử vong của bệnh và nguyên nhân tử vong thay đổi rất nhiều tùy theo cơ

sở điều trị. Với điều trị chăm sóc tăng cường, có tác giả đã báo cáo tỉ lệ tử

vong giảm từ 44% xuống còn 15% [81]. Trong số các bệnh nhân tử vong với

chăm sóc tăng cường này thì có 40% là do ngừng tim đột ngột và 15% là do

hậu quả các biến chứng hô hấp. Với nhóm chứng lịch sử trước đây khi không

có đơn vị chăm sóc tăng cường thì 80% tử vong là do suy hô hấp cấp sớm. Ở

các nước đang phát triển, khi không có cơ sở chăm sóc tăng cường và hỗ trợ

thông khí dài ngày thì tử vong do UV nặng có thể lên tới trên 50% do tắc

đường thở, suy hô hấp, suy thận. Mục tiêu chấp nhận được cho các nước phát

triển là hạ tỉ lệ tử vong của bệnh xuống dưới 10%. Chăm sóc tăng cường hiện

đại ngăn không để cho bệnh nhân chết vì suy hô hấp cấp nhưng kết quả là lại

làm cho rối loạn thần kinh thực vật ở những UV nặng trở nên dễ thấy hơn.

Ngoài ra, những biến chứng quan trọng của chăm sóc tại đơn vị chăm sóc

tăng cường bao gồm nhiễm trùng bệnh viện, nhất là viêm phổi liên quan thở

máy, nhiễm trùng huyết, thuyên tắc mạch và xuất huyết tiêu hóa.

Nói chung những trường hợp UV nặng cần nằm ở đơn vị chăm sóc tăng

cường khoảng 3-5 tuần. Bệnh nhân có thể hồi phục hoàn toàn, trở về hoạt

động chức năng bình thường. Tuy nhiên, qua một nghiên cứu theo dõi bệnh

nhân UV sống được thì thường thấy những vấn đề về thể chất và tâm lí kéo

dài dai dẳng [33].

8.2. Biến chứng

Cook T.M. và cộng sự [33] đã liệt kê các biến chứng của UV trong bảng sau:

36

Page 38: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Bảng 6. Các biến chứng của UV

Hệ cơ quan Biến chứng Đường thở Sặc*

Co thắt thanh môn/tắc nghẽn đường thở* Tắc nghẽn đường thở liên quan thuốc an thần*

Hô hấp Ngừng thở* Thiếu oxy* Suy hô hấp typ I* (xẹp phổi, sặc, viêm phổi) và typ II (co thắt thanh môn, co giật toàn thân kéo dài, an thần quá nhiều) ARDS* Các biến chứng do hỗ trợ thông khí kéo dài (như viêm phổi) Các biến chứng do mở khí quản (như hẹp khí quản)

Tim mạch Nhịp tim nhanh*, tăng huyết áp*, thiếu máu* Tụt huyết áp*, nhịp tim chậm* Loạn nhịp nhanh, loạn nhịp chậm* Vô tâm thu* Suy tim*

Thận Suy thận đa niệu* Suy thận thiểu niệu* Ứ trệ đường tiết niệu và nhiễm trùng

Tiêu hóa Ứ trệ dạ dày Liệt ruột Ỉa chảy Xuất huyết*

Cơ quan khác Sút cân* Huyết khối thuyên tắc mạch* Nhiễm trùng huyết và suy đa tạng* Gãy xương cột sống do co giật Bong gân do co giật

Dấu * chỉ các biến chứng đe dọa tính mạng.

Các biến chứng có thể là hậu quả của bệnh như co thắt thanh quản, gãy

xương, tiêu cơ vân; là hậu quả của điều trị như mất tri giác, sặc hoặc ngừng

thở do thuốc an thần; là hậu quả của can thiệp như nhiễm trùng bệnh viện,

viêm phổi do thở máy.

8.3. Phân độ và tiên lượng

Từ đầu thế kỉ XX tới nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về phân độ và tiên

lượng UV [1, 32, 78]. Trên cơ sở phân tích diễn biến và kết cục bệnh, một số

37

Page 39: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

đặc điểm, triệu chứng và dấu hiệu được coi là có ý nghĩa tiên lượng bệnh UV

như vết thương đường vào, thời gian ủ bệnh, thời gian khởi phát, mức độ co

cứng cơ, mức độ co giật, sốt, nhịp tim... [1]. Các tác giả đã cố gắng hệ thống

hóa những yếu tố này theo các thang điểm hoặc bảng phân độ [6]. Tuy nhiên,

từ những thang điểm tiên lượng ban đầu như của Patel (1959) [41], Ablett

(1967) [21] cho đến những thang điểm ra đời gần đây như của Udwadia

(1994) [82] hay của đơn vị Oxford tại thành phố Hồ Chí Minh [78] đều có ưu-

nhược điểm riêng. Tùy theo điều kiện cơ sở, khả năng theo dõi và đánh giá

cũng như đặc điểm nhóm bệnh nhân mà thầy thuốc điều trị hoặc nhà nghiên

cứu chọn lựa các thang điểm hoặc các nhóm yếu tố tiên lượng khác nhau.

Theo Patel và Joag (1959) [41,50], dựa trên năm tiêu chuNn phân độ: Cứng

hàm; Co cứng kiểu phản xạ; Thời gian ủ bệnh không quá 7 ngày; Thời gian

khởi phát không quá 48 giờ; Nhiệt độ nách trên 37,20C (990F) khi nhập viện

hoặc trong vòng 24 giờ khi nhập viện đã phân chia làm 5 độ UV tuỳ theo có

được bao nhiêu tiêu chuNn phân độ.

Ở Pháp, nói chung người ta theo phân độ của Mollaret và cộng sự (1965) [15]

chia làm 3 nhóm theo các tiêu chuNn diễn tiến, triệu chứng và điều trị:

• Nhóm I: các thể thô sơ, thực tế chỉ có cứng hàm, không cần phải dùng đến các kĩ thuật

hồi sức

• Nhóm II: uốn ván khởi phát nhanh, co cứng toàn thân, kiểm soát tối thiểu phải mở khí

quản và điều trị an thần

• Nhóm III: các thể nặng, tiến triển rất nhanh, các cơn giật mau, chẹn ngực và cơn giật

kịch phát tự nhiên, khó kiểm soát bằng an thần, mở khí quản và thông khí nhân tạo, có

thể phải cần thuốc giãn cơ.

Phân độ này đơn giản, dễ áp dụng ở các nước đang phát triển, nhất là trên các

đối tượng UV không rõ đường vào. 38

Page 40: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Phân loại của Phillips (1967) [37] chi tiết và khá phức tạp. Mặc dù vậy, khi

so sánh với các thang phân độ khác, việc dựa trên thang điểm Philips cũng

không giúp ích nhiều trong phân loại bệnh nhân [78].

Yếu tố Điểm Thời gian ủ bệnh < 48 giờ 5 2-5 ngày 4 5-10 ngày 3 10-14 ngày 2 > 14 ngày 1 Vị trí nhiễm trùng Nội tạng và rốn 5 Đầu, cổ và thành khoang cơ thể 4 Ngoại vi gần 3 Ngoại vi xa 2 Không rõ 1 Tình trạng tiêm phòng Không 10 Mơ hồ 8 Đã tiêm > 10 năm 4 Đã tiêm < 10 năm 2 Tiêm phòng hoàn hảo 0 Các yếu tố làm nặng thêm Thương tổn hoặc bệnh đe dọa cuộc sống 10 Thương tổn hoặc bệnh nặng nhưng không ngay lập tức đe dọa cuộc sống 8 Thương tổn hoặc bệnh không đe dọa cuộc sống 4 Thương tổn hoặc bệnh nhẹ 2 Độ I thang ASA* 0 Tổng số điểm * Độ I thang ASA: Xếp độ I trong Hệ thống Phân loại Tình trạng Thực thể của Hiệp hội Các nhà gây mê Hoa Kì [American Society of Anesthesiologist Physical Status Classification System], bao gồm:

sức khỏe rất tốt, không có bệnh toàn thân không hạn chế hoạt động không có nguy cơ đe dọa tử vong loại trừ bệnh nhân ở các cực tuổi: quá nhỏ, quá già

39

Page 41: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Thang phân độ của Ablett (1967) [21,33] khá đơn giản, và theo Udwadia thì

phân độ này chủ quan và độc đoán nhưng đã đứng vững trước thử thách của

thời gian [82].

Độ Các biểu hiện lâm sàng I Nhẹ Cứng hàm nhẹ đến vừa; nói chung có co cứng ; không khó thở; khó

nuốt nhẹ hoặc không II Vừa cứng hàm vừa; co cứng rất rõ; co giật nhẹ đến vừa nhưng ngắn; khó

thở vừa phải với nhịp thở tăng trên 30 nhịp/phút; nuốt khó nhẹ III Nặng cứng hàm nặng; co cứng toàn thân; co giật kiểu phản xạ kéo dài;

nhịp thở tăng trên 40 nhịp/phút; có cơn ngừng thở; nuốt rất khó; nhịp tim nhanh trên 120 lần/phút

IV Rất nặng độ III và các rối loạn thực vật dữ dội liên quan đến hệ tim mạch. Huyết áp tăng cao và nhịp tim nhanh xen kẽ hạ huyết áp tương đối và chậm nhịp tim, bất cứ biểu hiện loại nào cũng có thể kéo dài.

Tác giả Veronesi ở Brazil cũng đề nghị thang phân độ của mình (1974) [86]:

Thông số Nhẹ Rất nặng Thời gian ủ bệnh > 10 ngày < 10 ngày Tiến triển > 48 giờ < 48 giờ Co giật Không có cho đến nhẹ Nặng Tăng trương lương lực cơ Không có cho đến nhẹ Nặng Khó nuốt Không Nặng Cơn ngừng thở Không Nặng Suy hô hấp Không Nặng Hiệu quả của thuốc Rất tốt Tồi Sốt Không Cao

Bệnh nhân bị bệnh vừa cho đến nặng có những thay đổi các thông số trên trong khoảng

nhẹ và rất nặng.

Phân độ lâm sàng Tỉ lệ tử vong nhẹ không hoặc rất thấp nặng 20-40% rất nặng 50-90%

40

Page 42: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

Tại hội nghị Quốc tế về UV tổ chức tại Dakar năm 1975 [32], thang phân độ

sau đây đã được chấp nhận và sử dụng rộng rãi hiện nay trên thế giới:

Yếu tố tiên lượng Điểm Dakar Điểm 1 Điểm 0

Thời gian ủ bệnh < 7 ngày ≥ 7 ngày Thời gian khởi phát < 2 ngày ≥ 2 ngày Đường vào Rốn, bỏng, tử cung, gãy hở, vết

thương ngoại khoa, tiêm bắp Các đường vào khác và đường vào không rõ

Co giật Có Không Sốt > 38,40C < 38,40C Nhịp tim nhanh Người lớn > 120 nhịp/phút

Trẻ sơ sinh > 150 nhịp/phút Người lớn < 120 nhịp/phút Trẻ sơ sinh < 150 nhịp/phút

Tổng số điểm

Tổng số điểm Dakar Tỉ lệ tử vong 0 và 1 Không có 2 4% 3 16% (gấp 4 lần 2 điểm) ≥ 4 ≥ 64% (gấp 4 lần 3 điểm)

Theo các tác giả Armitage và Clifford [18], trong những năm 1960, qua phân

tích hồi quy logistic 1385 bệnh nhân uốn ván, các yếu tố tiên lượng tử vong

có liên quan đến: thời gian khởi phát (thời gian từ triệu chứng đầu tiên đến

khi có co cứng cơ toàn thân khi kích thích), thời gian từ khi có triệu chứng

đầu tiên đến khi nhập viện, đánh giá lâm sàng mức độ nặng khi nhập viện.

Cuối những năm 1970, các tác giả này đã đưa ra một nhóm ba yếu tố tiên

lượng mới: thời gian từ triệu chứng đầu tiên cho đến khi đến viện, có co cứng

cơ khi kích thích lúc nhập viện hay không và uốn ván trẻ sơ sinh.

Tác giả chuyên về lĩnh vực bệnh UV là T. Bleck cũng đề xuất cách phân độ

tiên lượng UV của mình (1991) [28] như sau:

Cho mỗi biểu hiện sau đây 1 điểm: • Thời gian ủ bệnh dưới 7 ngày • Thời gian khởi phát dưới 48 giờ

41

Page 43: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

• Uốn ván mắc phải sau bỏng, vết thương ngoại khoa, gãy xương phức hợp hoặc sảy thai nhiễm trùng

• Nghiện ma túy • Uốn ván toàn thể • Nhiệt độ trên 400C • Nhịp tim nhanh > 120 nhịp/phút

Tổng số điểm chia làm 4 mức độ: Nhẹ: 0 – 1 điểm Vừa: 2 – 3 điểm Nặng: 4 điểm Rất nặng: 5 – 6 điểm

Tại Khoa Điều trị tích cực của Viện Các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới

Quốc gia hiện đang áp dụng bảng phân độ sau đây [5], trong đó chú trọng yếu

tố thực tế dễ sử dụng trên lâm sàng mà vẫn đánh giá được các yếu tố quan

trọng có ảnh hưởng đến kết cục của bệnh nhân.

Yếu tố tiên lượng Độ I (nhẹ và vừa) Độ II (nặng) Độ III (rất nặng) Thời gian ủ bệnh > 12 ngày 7-12 ngày < 7 ngày Thời gian khởi phát > 5 ngày 2-5 ngày < 48 giờ Cơn co giật toàn thân Tác dụng của thuốc an thần

Không hoặc rất nhẹ Seduxen tác dụng tốt

Ngắn và thưa Seduxen liều cao

Nặng và mau Mở khí quản và thông khí nhân tạo

Mạch Huyết áp

< 100 lần/phút Bình thường

100-140 lần/phút Bình thường

> 140 lần/phút Hạ

Xuất huyết dạ dày (Dịch nâu đen)

Không Không hoặc có ít Không kèm chướng bụng

Nhiều và kèm chướng bụng

Sở dĩ có quá nhiều thang và bảng phân loại tiên lượng bệnh nhân UV như vậy

là do kết cục bệnh nhân UV nặng, điều trị lâu dài và tốn kém, việc tiên lượng

bệnh UV thực sự khó khăn [10]. Trong tương lai, chúng ta hy vọng tất cả

những công trình kể trên sẽ chỉ để lại cho chúng ta học tập về phương pháp,

khi mà bệnh UV được khống chế và thanh toán trên phạm vi toàn thế giới.

42

Page 44: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt 1. Chương trình Tiêm chủng mở rộng. Trang tin điện tử. Xem tại:

http://www.cimsi.org.vn/TCMR/defaults/default.asp 2. Chương trình Tiêm chủng mở rộng. Trang tin điện tử. Xem tại:

http://www.moh.gov.vn/homebyt/vn/portal/HomeArea.jsp?area=207 3. Đỗ Duy Cường (1997). Đánh giá tiên lượng và góp phần nghiên cứu độc tố tự do lưu

hành và kháng độc tố trong máu bệnh nhân UV. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú bệnh viện. Trường Đại học Y Hà Nội.

4. Bùi Đại, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Hoàng Tuấn (2002). Bệnh uốn ván. Bệnh học Truyền nhiễm. XB lần thứ hai. NXB Y học. Hà Nội. 401-10.

5. Nguyễn Hồng Hà (2001). Bệnh UV. Tài liệu đào tạo chuyên ngành Truyền nhiễm. Viện Y học Lâm sàng Các bệnh Nhiệt đới-Phòng Chỉ đạo tuyến Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. 234-48.

6. Nghiêm Mạnh Hà (1994). Góp phần nghiên cứu lâm sàng và một số yếu tố tiên lượng ở bệnh nhân UV. Luận văn tốt nghiệp Cao học. Học viện Quân Y.

7. Bùi Khắc Hậu (2001). Trực khuNn UV. Vi sinh Y học. Bộ môn Vi sinh vật Trường Đại học Y Hà Nội. Nxb Y học. 264-9.

8. Hoàng Đình Ngọc (2001). Nghiên cứu những chỉ định và tai biến của mở khí quản trong điều trị bệnh UV tại Viện Y học Lâm sàng Các bệnh Nhiệt đới. Luận văn thạc sĩ Y học. Trường Đại học Y Hà Nội.

9. Đỗ Thị Nhàn (1995). Chỉ định mở khí quản và biến chứng tiêu cơ vân trong UV. Luận văn Thạc sĩ khoa học Y dược. Trường Đại học Y Hà Nội.

10. Trịnh Ngọc Phan (1985). Bệnh UV. Bệnh truyền nhiễm, tập II. Nxb Y học. 111-7. 11. Nguyễn Duy Thanh (1992). Bệnh UV. Bệnh truyền nhiễm. Nxb Y học. 459-77. 12. Thông tấn xã Việt Nam. Cuba thanh toán xong bệnh uốn ván. Bản tin. 19/01/2005. Tài liệu tiếng nước ngoài 13. Abdelmoneim T., DeNicola L.K., Hasan M.Y. (1997). Tetanus: Complications and

Management in a Pediatric Intensive Care Unit. In: The Rare Case Registry of PedsCCM: The Pediatric Critical Care Web Site, September 16, 1997. Available from: http://PedsCCM.wustl.edu/RARE/Tetanus.html

14. Abrahamian F.M. (2001). Management of Tetanus: A Review. Current Treatment Options in Infectious Diseases, 3, 2001. 209–216

15. Amstutz Ph., Levy F.M., Offenstadt G. (1982). Tétanos. Encycl. Méd. Chir., Paris, Maladies Infectieuses. 8038 G10. 11, 1982.

16. Antona D. (2002). Le tétanos en France en 2000 et 2001. BEH, 40. 10-2002, 197-9 17. Aretaeus. The Extant Works of Aretaeus, The Cappadocian. Edited by: Francis Adams

LL.D. (trans.). Boston Milford House Inc. 1972 (Republication of the 1856 edition). 18. Armitage P, Clifford R. Prognosis in tetanus: Use of data from therapeutic trials. J

Infect Dis. 1978 Jul;138(1):1-8. 19. Bartlett J.G. (2001). Tetanus. Cecil Textbook of Medicine. Goldman Lee, Bennett J.C.

(eds). 21stEd. W.B. Saunders, Philadelphia, 2001. 1675-7. 20. Beheshti S., Khajehdehi A., Rezaian G.R., Khajehdehi P. (2002). Current Status of

Tetanus in Iran. Arch Iranian Med 2002; 5 (4): 216 – 218 21. Bhatia R., Prabhakar S., Grover V.K. (2002). Tetanus. Neurol. India, 2002. 50:398-

407.

43

Page 45: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

22. Bleck T.P., Brauner J.S. (1997). Tetanus. In: Infections of the Central Nervous System. Scheld W.M., Whitley R.J., Durack D.T. eds. 2nd Ed. Raven Press, New York, 1997. 629-53

23. Bleck T.P. (2000). Clostridium tetani (Tetanus). Principles and Practice of Infectious Diseases. Mandell G.L., Bennett J.E., Dolin R. (eds). Churchill Livingstone, 2000. 2537-43.

24. Boyles C.S., Mills M.H., Trupiano P. (1998). Tetanus: critical implications for nursing. Crit Care Nurse. 1998 Jun;18(3):44-9.

25. Brauner J.S., Vieira S.R.R., Affonso S.S. (2001). Comparison of two cohort of patients with severe tetanus in ICU. 21st International Symposium on Intensive Care and Emergency Medicine: Poster abstracts Brussels, Belgium. 20-23 March 2001. Crit Care 2001 5(Suppl 1):P095

26. Bruggemann H, Baumer S, Fricke WF, et al (2003). The genome sequence of Clostridium tetani, the causative agent of tetanus disease. Proc Natl Acad Sci. 2003 Feb 4;100(3):1316-21. Epub 2003 Jan 27.

27. Bunch T.J., Thalji M.K., Pellikka P.A., Aksamit T.R. (2002). Respiratory failure in tetanus: case report and review of a 25-year experience. Chest. 2002 Oct;122(4):1488-92.

28. Cavalcante N.J.F., Sandeville M.L., Medeiros E.A.S.. Incidence of and Risk Factor for Nosocomial Pneumonia in Patients with Tetanus. Clin. Infec. Dis., 2001. 33(11).1842-6.

29. Cellerai C, Harari A, Vallelian F, Boyman O, Pantaleo G. Functional and phenotypic characterization of tetanus toxoid-specific human CD4+ T cells following re-immunization. Eur J Immunol. 2007 Apr;37(4):1129-38.

30. Centers for Disease Control and Prevention. (2007). Tetanus. In: Epidemiology & Prevention of Vắc-xine-Preventable Diseases "The Pink Book". Atkinson W, Hamborsky J, McIntyre L, Wolfe S, eds. 10th ed. Washington DC: Public Health Foundation, 2007. 71-80.

31. Ciroldi M., Gachot B. (1999). Tétanos: Physiopathologie, diagnostic, prévention. Rev. prat. 1999. 49:2145-2148.

32. Comptes rendus de la quartrième conférence internationale sur le tétanos – Dakar, Sénégal, 6-12/4/1975. Fondation Mérieux, ed., Lyon 1975.

33. Cook T.M., Protheroe R.T., Handel J.M. (2001). Tetanus: a review of the literature. Br. J. Anaesth., 2001. 87:477-87.

34. Dire D.J. (2002). Tetanus. eMedicine, July 17, 2002. Available from: http://www.emedicine.com/emerg/topic574.htm

35. Ebisawa I., Homma R. (1986). Tetanus in Japan: trends of mortality, case fatality and causes of death. Jpn J Exp Med. 1986 Aug;56(4):155-61.

36. Ergonul O., Erbay A., Eren S., Dokuzoguz B. (2003). Analysis of the case fatality rate of tetanus among adults in a tertiary hospital in Turkey. Eur J Clin Microbiol Infect Dis 2003; 22:188

37. Farrar J.J., Yen L.M., Cook T., et al (2000). Tetanus. J. Neurol. Neurosurg. Psychiatry 2000. 69:292-301.

38. Gangadharan N., Chandrasekar S., Adithan C., Shashindran C.H. (1982). Evaluation of diazepam in the management of tetanus. Ind. J. Pharmac., 1982,14 (3) 223-228

39. Geeta MG, Krishnakumar P, Mathews L. Intrathecal tetanus immunoglobulins in the management of tetanus. Indian J Pediatr. 2007 Jan;74(1):43-5.

40. Gentilini M., Dufflo B. (2000). Le Tétanos. Médicine Tropicale. AUPELF 2000.[online version]

44

Page 46: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

41. Greco J.B., Tavares-Neto J., Greco Junior J.B. (2003). Accidental tetanus: prognosis evaluation in a historical series at a hospital in Salvador, Bahia, Brazil. Rev. Inst. Med. Trop. S. Paulo, 2003 Jan-Feb. 45(1):35-40.

42. Guglani L, Lodha R. Enteral baclofen in the management of tetanus-related spasms: case report and review of literature. J Trop Pediatr. 2007 Apr;53(2):139-41. Epub 2006 Dec 10.

43. Henriques Filho GT, Lacerda HR, Albuquerque A, Ximenes RA. Sympathetic overactivity and arrhythmias in tetanus: electrocardiographic analysis. Rev Inst Med Trop Sao Paulo. 2007 Jan-Feb;49(1):17-22.

44. Hippocrates. Aphorisms. Hippocrates Works. Francis Adams transl. Sydenham Society, London, 1849. sec. V-VII.[online version]

45. Hsu S.S., Groleau G. (2001). Tetanus in the emergency department: a current review. J Emerg Med 2001 May; 20(4): 357-65

46. Ijichi T., Yamada T., Yoneda S., Kajita Y., Nakajima K., Nakagawa M. (2003). Brain lesions in the course of generalised tetanus. J Neurol Neurosurg Psychiatry. 2003 Oct;74(10):1432-4.

47. Kasher JA, Mathisen G. Acquiring tetanus after hemorrhoid banding and other gastrointestinal procedures. J Gastrointest Surg. 2007 Apr;11(4):515-9.

48. Khajehdehi P., Rezaian G.R. (1997). Early acute respiratory failure due to severe tetanus: evidence for intrapulmonary shunting of blood. Irn J Med Sci. 1997; 22: 63 – 6

49. Kimura F., Sasaki N., Uehara H. (2001). Long-term recurrent infection of tetanus in an elderly patient. J Emerg Med 2001 March; 19(2) [online version]

50. Kumar R, Taneja DK, Dabas P, Ingle GK. Practices and knowledge regarding prevention of tetanus among doctors in Delhi. Asia Pac J Public Health. 2006;18(3):30-2.

51. Miranda-Filho DB, Ximenes RA, Barone AA, Vaz VL, Vieira AG, Albuquerque VM. Clinical classification of tetanus patients. Braz J Med Biol Res. 2006 Oct;39(10):1329-37.

52. Miranda-Filho D.B., Ximenes R.A.A., Barone A.A., Vaz V.L., Vieira A.G., Albuquerque V.M.G. (2004). Randomised controlled trial of tetanus treatment with antitetanus immunoglobulin by the intrathecal or intramuscular route. BMJ 5 March 2004.[online version]

53. Moraes E.N., Pedroso Ê.R.P. (2000). Tétano no Brasil: doença do idoso? Rev Soc Bras Med Trop. 2000 May-Jun;33(3):271-5

54. Nathan B.R., Bleck T.P. (1999). Tetanus. Tropical Infectious Diseases: Principles, Pathogens & Practice. Guerrant R.L., Walker D.H., Weller P.F. (eds). Churchill Livingstone, 1999. 517-26.

55. Okoromah C.N., Lesi F.E.A. (2004). Diazepam for treating tetanus. The Cochrane Library, Issue 1, 2004.[online version]

56. Palmer P.E.S., Reeder M.M. (2000). Tetanus. The Imaging of Tropical Diseases, with Epidemiological, Pathological and Clinical Correlation. Springer-Verlag, Heidenberg, 2000. Chap 33.[online version]

57. Pascual F.B., McGinley E.L., Zanardi L.R., et al (2003). Tetanus surveillance--United States, 1998--2000. MMWR Surveill Summ 52(3), 2003.1-8.

58. Pedalino B., Cotter B., Ciofi degli Atti M., et al. (2002). Epidemiology of tetanus in Italy in years 1971-2000. Euro Surveill. 2002 Jul;7(7):103-10.

59. Pellizzari R., Rossetto O., Schiavo G., Montecucco C. (1999). Tetanus and botulinum neurotoxins: mechanism of action and therapeutic uses. Philos Trans R Soc Lond B Biol Sci. 1999 Feb 28;354(1381):259-68.

45

Page 47: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

60. Prabhakar S., Grover V.K. (2002). Tetanus. Current Treatment Options in Infectious Diseases 2002, 4:473–484

61. Prevots R., Sutter R.W., Strebel P.M., et al. (1992). Tetanus surveillance--United States 1989-1990. MMWR CDC Surveill. Summ 41,1992.1-9.

62. Rezaian GR, Khajehdehi P, Beheshti S. (1998). Transient renal glucosuria in patients with tetanus. Nephron. 1998 Nov;80(3):292-5.

63. Rhee P, Nunley MK, Demetriades D, Velmahos G, Doucet JJ. Tetanus and trauma: a review and recommendations. J Trauma. 2005 May;58(5):1082-8.

64. Rogers LC, Frykberg RG. Tetanus prophylaxis for diabetic foot ulcers. Clin Podiatr Med Surg. 2006 Oct;23(4):769-75, vii-i.

65. Saito T., Miyai I., Matsumura T., et al. (2000). A case of Bickerstaff's brainstem encephalitis mimicking tetanus. J Neurol Neurosurg Psychiatry 2000;69:695-696

66. Sanford J.P. (1995). Tetanus-Forgotten but Not Gone. NEJM Vol. 332 (12), March 23, 1995. 812-813

67. Savage EJ, Nash S, McGuinness A, Crowcroft NS. Audit of tetanus prevention knowledge and practices in accident and emergency departments in England. Emerg Med J. 2007 Jun;24(6):417-21.

68. Schiavo, G., Matteoli, M., Montecucco, C. Neurotoxins affecting neuroexocytosis. Physiol. Rev. 80: 2000. 717-766.

69. Sexton D.J., Westerman E.L. (2007). Tetanus. UpToDate online 15.2. 2007. Available frrom: http://www.uptodate.com

70. Shimoni Z., Dobrousin A., Cohen J., Pitlik S. (1999). Tetanus in an immunised patient. BMJ 1999; 319: 1049

71. Shin D.H., Yu H.S., Park J.H., Shin J.H., Kim S.J. (2003). Recently Occurring Adult Tetanus in Korea: Emphasis on Immunization and Awareness of Tetanus. J.Korean Med.Sci. 2003; 18: 11-6

72. Simpson J, Inglis A, Gordon MW. Back pain as the presenting symptom of generalised tetanus. Emerg Med J. 2007 Jan;24(1):e5.

73. Sitarska-Golebiowska J., Zielinski A. (2003). [Tetanus in 2001] Przegl Epidemiol. 2003;57(1):135-7. [Article in Polish] [Medline]

74. Stubbe M, Swinnen R, Crusiaux A, Mascart F, Lheureux PE. Seroprotection against tetanus in patients attending an emergency department in Belgium and evaluation of a bedside immunotest. Eur J Emerg Med. 2007 Feb;14(1):14-24.

75. Talabi O.A. (2003). A 3-year review of neurologic admissions in University College Hospital Ibadan, Nigeria. West Afr J Med 2003; 22:150

76. Talan D.A., Moran G.J. (1998). Tetanus among injecting-drug users--California, 1997. Ann Emerg Med September 1998;32:385-386

77. Thomas RM, Bellamy MC. Tetanus in a subcutaneous drug abuser: ineffectiveness of intrathecal baclofen. Anaesth Intensive Care. 2006 Dec;34(6):811-5.

78. Thwaites CL, Yen LM, Loan HT, Thuy TT, Thwaites GE, Stepniewska K, Soni N, White NJ, Farrar JJ. Magnesium sulphate for treatment of severe tetanus: a randomised controlled trial. Lancet. 2006 Oct 21;368(9545):1436-43.

79. Thwaites CL, Yen LM, Glover C, et al. Predicting the clinical outcome of tetanus: the tetanus severity score. Trop Med Int Health 2006; 11: 279–87.

80. Thwaites C.L., Farrar J.J. (2003). Preventing and treating tetanus. BMJ 2003:326:117-8 81. Trujillo M.H., Castillo A., Espana J., Manzo A., Zerpa R. (1987). Impact of intensive

care management on the prognosis of tetanus. Analysis of 641 cases. Chest. 1987 Jul;92(1):63-5

82. Trung Quốc Y học thông sử giản biên.

46

Page 48: BỆNH UỐN VÁN - dulieu.tailieuhoctap.vndulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_775068.pdf · sinh lí học hô hấp. Những bài học về thở máy

47

83. Udwadia F.E. (1994). Tetanus. New York: Oxford University Press, 1994 84. Udwadia F.E. (1996). Tetanus. Oxford’s Textbook of Medicine. Weatherall D.J.,

Ledingham J.G.G., Warrell D.A. (eds). 3rd Ed. Oxford University Press 1996, 624-630. 85. Vandelaer J., Birmingham M., Gasse F., et al. (2003). Tetanus in developing countries:

an update on the Maternal and Neonatal Tetanus Elimination Initiative. Vắc-xine 2003; 21:3442

86. Veronesi R. (1981). Tetanus-Important new concepts. Excerpta Medica, Amsterdam, 1981. 144-152.

87. Weinstein L.L., Harrison R.E., Cherry J.D. (1999). Tetanus. Textbook of Pediatric Infectious Diseases. 4th Ed., Vol. 2. W.B. Saunders, 1999. 1577-87.