Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BẢO TÁNH LUẬN (Gyu lama)
Tác giả: Ngài Di Lặc
Nhật Hạnh-Tenzin Yangchen
Chuyển từ Tạng sang Việt ngữ
Tiếng Phạn: Mahayana-uttara-tantrasastra
Tiếng Tạng: Thekpa-chenpo-Gyu-lame-tenchoe
Tiếng Việt: Đại thừa Bảo tánh luận
Kính lễ tất cả chư Phật và Bồ tát
I.PHẨM NHƯ LAI TẠNG
CHƯƠNG MỘT (3 kệ tụng)
1.Phật, pháp, tăng, giới và bồ đề
Thiện đức, Phật sự nghiệp cuối cùng
Tóm lược nội dung toàn bộ luận
Đây là Kim cang bảy xứ (điểm)
2.Chúng liên quan theo thứ tự
Như định nghĩa trong Tự tại vương vấn kinh
Nên biết trong thành tựu phẩm
(Nhân duyên thuyết kinh) có ba (quả Tam bảo)
Bốn (xứ còn lại) dạy trong bậc có trí (bồ tát), Pháp Phật
3.Pháp từ Phật, Thánh chúng từ pháp
Từ Tăng đạt được tinh tuý (giới-Phật tính) trí giới
Đạt được trí, đắc Bồ đề tối thắng…
Đầy đủ các pháp (sự nghiệp)
Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
CHƯƠNG HAI (5 kệ tụng)
4.Con thành kính đảnh lễ đức Phật
Không có điểm đầu, giữa và cuối cùng, an tịnh
Phật thể tự tướng trạng Phật Đà
Phật khiến người chưa chứng ngộ được chứng ngộ
Thường dẫn đạo chỉ đường vô uý
Cầm cây kiếm kim cang tối thắng của lòng bi toàn tri
Chặt đứt mầm khổ đau
Đập đổ bức tường hoài nghi
Do nhiều loại quan kiến che tối.
5.Vô vi và tự nhiên thành (vô công dụng)
Chẳng phải chứng tri bởi ngoại duyên
Phật có trí, bi, năng lực,
Và hai lợi (tự lợi và lợi tha)
6.Vì Tự tính là vô vi
không đầu, giữa và cuối
Sở hữu pháp thân, tịch tĩnh
Gọi là tự nhiên thành
7.Bởi vì đối tượng tự chứng tri
Chẳng phải chứng biết bởi duyên khác
Trí chứng ba tướng như thế
Do lòng bi chỉ dẫn con đường.
8.Nhờ năng lực, trí, lòng bi
Đoạn trừ phiền não khổ
Ba cái đầu là tự lợi
Ba cái sau là lợi tha.
CHƯƠNG BA (4 kệ tụng)
9.Pháp nào chẳng phải có, chẳng phải không
Chẳng phải vừa có lại vừa không
Cũng không khác với vừa có vừa không(không cả hai)
Không thể khảo sát, ly ngôn từ xác quyết
Tự chứng tri, tịch tĩnh
Vô nhiễm, rạng ngời ánh tuệ quang
Chiến thắng tham, sân và si mê
Đối với mọi cảnh tượng
Con kính lễ mặt trời diệu pháp này.
10.Không thể nghĩ bàn, không hai (bất nhị), vô phân biệt
Thanh tịnh, trong sáng và phương diện đối trị
Cái gì (diệt đế) lìa tham dục bởi cái gì (đạo đế)
Pháp có đặc tính hai đế.
11.Lìa tham dục bao gồm
Trong diệt đế và đạo đế
Chúng theo như trình tự nên biết
Mỗi đế thì có ba đức.
12.Do chẳng thể khảo sát
Và chẳng thể diễn đạt bằng ngôn từ
Bậc Thánh chứng tri nên không thể nghĩ bàn
Tịch tĩnh, không hai, vô phân biệt…
Ba đức: Thanh tịnh v.v..ví như mặt trời.
CHƯƠNG 4 (10 kệ tụng)
13.Con xin kính lễ tự tính tâm quang minh
Thấy phiền não không có bản thể
Chân chánh chứng tri tịch tĩnh biên tế
Tất cả chúng sinh vô ngã
Tâm không bị chướng ngại
Thấy chúng sinh theo sau Phật toàn giác
(Phật tính trong chúng sinh)
Với trí tuệ chứng tri
Tâm thanh tịnh của vô biên chúng sinh.
14.Vì thanh tịnh, trí thấy
Bên trong tương đối và tuyệt đối (chân tục)
Người trí, bất thối chuyển tăng già
Với thiện đức vô thượng.
15.Do chứng biết như thật chân đế
Chúng sinh, pháp tính an tịnh
Vì tự tính hoàn toàn thanh tịnh
Phiền não ban sơ vốn vắng bặt.
16.Trí chứng đối tượng nhận thức tột cùng
Pháp tính của nhất thiết chủng trí- toàn tri
Có trong tất cả chúng sinh
Vì (Thánh Bồ tát) thấy có pháp tương đối.
17.Những chứng tri như trên
Là tính thấy tự chứng tri
Vô tham đối với bản nguyên vô cấu nhiễm
Vô chướng ngại, thuần khiết.
18.Trí chứng tri thanh tịnh
Là Phật trí vô thượng
Bậc Thánh không thối chuyển
Là nơi nương nhờ tất cả mọi chúng sinh.
19.Đấng Đạo sư, giáo pháp và đồ đệ
Ba thừa (cổ xe) và chia thành ba
Tuỳ theo các nguyện vọng tín giải
Thiết lập tam quy y.
20.Vì phải từ bỏ, vì pháp lừa dối
Vì không có (phiền nã0), vì còn có sợ hãi (sở tri chướng)
Hai pháp (giáo chứng) và Thánh chúng
Chẳng phải là nơi quy y tối thắng kiên định.
21.Độc nhất chỉ có Phật là nơi
Quy y chân thật của chúng sinh
Vì Năng Nhân sở hữu pháp thân
Vì Tăng chúng cũng (đạt) cứu cánh ấy
(đức tính của pháp thân).
22.Vì hiếm hoi xuất hiện,
Vì không có ô nhiễm,
Vì có đủ năng lực,
Vì trở thành trang nghiêm cho thế gian,
Vì bản thể tối thắng,
Vì không có biến chuyển
Chính là quý hiếm tối thắng bảo.
CHƯƠNG 5 (145 kệ tụng)
23.Chân như còn nhiễm ô (Phật tính) và vô cấu nhiễm (Bồ đề)
Phật công đức vô nhiễm (đức tính),
Hoạt hành của đấng Chiến thắng (sự nghiệp)
Chúng sinh ra Tam bảo thiện lành
Chỉ là đối tượng của các đấng
Thấy chân như thắng nghĩa.
24.Chủng tính này của Tam bảo
Là đối tượng của những bậc Toàn giác
Bốn tướng trạng cũng theo thứ tự
Bốn nguyên nhân không thể suy lường.
25.Thanh tịnh và còn có phiền não (Phật tính)
Vì không có phiền não tạp nhiễm (Bồ đề)
Vì là pháp không thể phân chia (đức tính)
Vì vô tưởng phân biệt tự nhiên thành (sự nghiệp).
26.Bởi vì đối tượng được chứng (chủng tính), chứng (Bồ đề)
Chi phần của chứng đắc (đức tính),
Làm cho chứng đắc (sự nghiệp)
Theo thứ tự xứ (chủng tính) thứ nhất
Là nguyên nhân thanh tịnh
Ba (đức tính, Bồ đề và sự nghiệp) là duyên.
KIM CANG GIỚI
28.Phật tạng thường hằng trong tất cả chúng sinh
Bởi vì Phật thân viên mãn phổ khắp
Bởi vì chân như không thể phân chia
Vì vốn có chủng tính (Phật).1
29.Vì Trí Phật nhập vào chúng hữu tình
Tự tính vô cấu nhiễm, không hai
Vì Phật chủng tính đặt tên quả
Nên nói tất cả chúng sinh có Phật tạng.
30.Bản thể2, nhân3, quả4, nghiệp5, sở hữu6 và nhập7
Tạm thời8, cho đến nghĩa biến hành9
Đức bất biến thường hằng10, không thể phân11
Gọi là mật nghĩa của thắng nghĩa giới.
31.Tinh khiết như bảo châu, hư không và nước
Tự tính vô phiền não thường hằng
Xuất sinh từ trí tuệ, thắng giải pháp (Đại thừa)
Thiền định và tâm bi.
32.Vì tự thể tính của ẩm ướt
Năng lực và không đổi khác
Pháp tương đồng với tính nước
Bảo châu và hư không
(Vì thể tính của nó giống năng lực bảo châu
Vì tính không đổi khác giống như hư không
Vì tính ẩm ướt giống như nước).
33.Người nhiều tham dục thì sân hận ghét bỏ pháp (Đại thừa)
Ngoại đạo có ngã kiến,
Thanh văn do sợ khổ luân hồi
Duyên giác không màn lợi ích cho chúng sinh
Đó là bốn chướng ngại.
34.Nguyên nhân thanh tịnh chẳng hạn như
Thắng giải pháp (Đại thừa) v.v.. (trí tuệ, định và tâm bi)
Đó chính là bốn pháp.
35.Tín giải thừa tối thắng là hạt giống
Trí tuệ là mẹ sinh ra Phật Pháp
Bào thai an lạc của thiền định
Nhũ mẫu của lòng bi
Chúng làm sinh ra con của Đấng Năng nhân
36.Thường, lạc, ngã và tịnh
Đức tính quả Ba-la-mật
Là chức năng của tâm nhàm lìa khổ đau,
Cầu nguyện và khát khao đạt được tịch tĩnh.
37.Những quả này (Thắng giải Đại thừa, trí, định và bi)
Tóm lược nơi Pháp thân
Đoạn trừ bốn loại (thường, lạc, ngã và tịnh) điên đảo
Đối trị rất sai biệt
Vì(Pháp thân của Như Lai) đó tự tính thanh tịnh
Đoạn diệt tập khí cho nên tịnh
Dứt trừ các hý luận ngã và vô ngã
Là thắng nghĩa ngã (chân ngã).
38.Vì diệt ý sinh thân tự tính uẩn
Và nguyên nhân này cho nên lạc
Tính bình đẳng của Luân hồi
Và Niết bàn là Thường.
39.Tuệ chặt đứt mọi ngã ái
Vì lòng bi, thương chúng sinh
Mà không chứng tịch tĩnh (Niết bàn)
Nương bồ đề phương tiện, bi, trí
Thánh giả không rơi vào hữu tịch.
40.Nếu không có Phật giới
Thì chẳng nhàm chán khổ
Cũng không có lòng mong cầu
Khát khao nơi Niết bàn.
41.Bởi vì có chủng tánh
Đối với cõi hữu và Niết bàn
Thấy lỗi lầm của khổ, an lạc thiện đức
Mà không có nơi không chủng tánh.
42.Ví như biển lớn vô lượng
Công đức quí báu vô tận xứ
Vì bản thể có đức tính bất phân
Giống như ngọn đèn ánh sáng của ngọn đèn.
43.Vì Giới (chủng tính) bao hàm trong
Pháp thân, Phật trí và tâm bi
Tương đồng với vật chứa, bảo châu
Và nước trong biển cả.
44.Bất phân, (chân như) trí vô nhiễm
Và thần thông ở trong vô cấu xứ
Cho nên tương đồng với pháp
(7 pháp : Ngũ thông, vô cấu trí lậu tận và đọạn vô cấu)
Màu sắc, sức nóng và ánh sáng của ngọn đèn.
45.Đi vào sự phân chia chân như theo
Phàm phu, Thánh giả, Phật
(Phật) thấy và chỉ bày Phật tạng này
Có trong chúng hữu tình.
46.Kẻ phàm phu điên đảo
Vị kiến đế (thấy sự thật) thì ngược lại
(đoạn diệt điên đảo)
Như Lai thấy đúng như chân thật
Không điên đảo, không hý luận.
47.Bất tịnh, vừa bất tịnh vừa tịnh
Và cực kỳ thanh tịnh
Như thứ tự gọi là chúng sinh,
Bồ tát và Như lai.
48.Bao hàm bởi sáu nghĩa này
Chẳng hạn như bản thể v.v..
(nhân, quả, nghiệp, sở hữu và nhập)
Giới được trình bày ba danh hiệu
(chúng sinh, Bồ Tát và Phật)
Trong ba giai đoạn
(bất tịnh, vừa bất tịnh vừa tịnh và cực kỳ thanh tịnh).
49.Thể tính vô phân biệt
Như hư không có mặt cùng khắp
Tâm tự tính vô cấu giới
Cũng như vậy có mặt cùng khắp.
50.Đặc tính chung (Phật tính) này hàm chứa
Cả lỗi lầm, đức tính và cứu cánh
Giống hư không có mặt cùng khắp
Sắc tướng kém, trung bình và thù thắng.
51.Vì lỗi lầm thuộc khách trần ngẫu nhiên
Và thiện đức thuộc tự tính
Trước sau cũng như nhau
Pháp tính của bất biến.
52.Như hư không trùm khắp
Vi tế nên không bị nhiễm lỗi lầm
Cũng vậy Xứ này trong tất cả chúng sinh
Không hề bị nhiễm lỗi lầm (hoen ố).
53.Như tất cả thế gian
Sinh và hoại trong hư không
Cũng vậy các căn (giác quan) sinh và hoại
Ở trong vô vi giới.
54.Như hư không từ trước nay chẳng bao giờ
Bị các lửa thiêu huỷ
Cũng thế (pháp giới tạng) này không bị thiêu huỷ
Bởi lửa của già, bệnh và chết.
55.Đất trụ ở trong nước, nước trụ trong gió
Gió trụ trong hư không
Hư không thì không trụ
Trong yếu tố đất, nước và gió.
56.Tương tự uẩn, giới, căn
Trụ nơi nghiệp và phiền não
Nghiệp và phiền não thường trú
Phi như lý tác ý.
57.Phi như lý tác ý
Khéo trụ nơi tâm thanh tịnh
Tự tính tâm cũng không trụ
Trong tất cả các pháp.
58.Các uẩn, giới và xứ
Nên biết như là đất
Nghiệp và phiền não của hữu tình
Nên biết như yếu tố nước.
59.Phi như lý tác ý
Nên xem như yếu tố gió
Tự tính như hư không giới
Không trụ, chẳng có cơ sở.
60.Phi như lý tác ý
Trụ trong tự tính của tâm
Phi như lý tác ý
Phân thành nghiệp và phiền não.
61.Nước của nghiệp và phiền não
Sinh khởi uẩn, giới, xứ
(Uẩn, giới, xứ) chúng trở thành sinh và diệt
Như (nước luân) có thành hoại.
62.Tự tính của tâm như hư không giới
Không nhân cũng không duyên
Không có tổ hợp, cũng là
không có sinh, trụ và diệt.
63.Tự tính của tâm quang minh trong sáng
Nó không biến đổi như hư không
Từ phân biệt phi chân chánh
Sinh khởi các tham dục v.v…
Nhiễm ô khách trần nhất thời
Không thể làm hoen ố tạp nhiễm.
64.Nước nghiệp và phiền não v.v…
Chẳng thể chuyển thành (tâm chân như) này
Ngọn lửa tàn khốc của già,
Bệnh và chết cũng không thể thiêu đốt.
65.Ba loại lửa của già, bệnh và chết
Nên biết theo thứ tự
Chúng giống như lửa thời mạc kiếp
Lửa địa ngục và lửa thường.
66.Chứng tri đúng như là tự tính (tâm) này
Giải thoát khỏi sinh, già, bệnh và chết
Nên lìa xa và đoạn tuyệt sự sinh v.v..
Cùng nguyên nhân của chúng
Người trí vì phát lòng bi
Đối với chúng sinh mà thị hiện.
67.Thánh giả đã đoạn trừ hết
Khổ của già, bệnh và chết
Không sinh bởi nghiệp và phiền não
Vì các Ngài không có (nhân phi như lý tác ý) này
Nên không kia (quả khổ).
68.Vì thấy đúng như thật
Tuy vượt thoát những sinh v.v…
Dùng bản nguyện lòng bi
Thị hiện có sinh, già, bệnh và chết.
69.Thật kỳ lạ lắm thay
Những kẻ vô minh mù quáng thấy
Con của đấng Chiến thắng đã chứng
Pháp tính bất biến này
Lại còn có sinh v.v…
70.Đạt hành cảnh (phạm vi hoạt động) của bậc Thánh
Thị hiện hành cảnh của phàm phu ngây ngô
Vì lòng bi tối thắng và phương tiện
Để thân cận chúng sinh.
71.Bồ tát tuy vượt thoát mọi thế gian
Nhưng không bỏ thế gian
Ở thế gian làm lợi cho thế gian
Không nhiễm thế gian cấu uế.
72.Như hoa sem sinh trong nước
Mà không bị nhiễm nước
Tuy sinh trong thế gian
Mà không nhiễm thế gian pháp.
73.Tâm mãi như ngọn lửa sáng rực
Thành tựu các việc làm (lợi ích)
Lại thường hằng nhập định
Trụ trong bình đẳng định tịch tĩnh.
74.Do lìa hết thảy tưởng phân biệt
Nhờ nguyện lực phát khởi trước kia
Bồ tát không cần vận dụng nổ lực
Mà vẫn thuần thục chúng sinh.
75.Biết pháp nào thích hợp
Điều phục vị đồ đệ nào
Dùng lời dạy, sắc thân
Hành vi và oai nghi nào có thể độ.
76.Như vậy, người trí vô ngại
Thường tự nhiên thành tựu
Lợi lạc cho chúng sinh
Như hư không bao la.
77.Cách thức của Bồ tát này
Thực hành vào lúc hậu đắc trí (xuất định)
Chân chánh độ thoát cho chúng sinh trong thế gian
Đồng với chư Như Lai.
78.Tuy nhiên sự khác biệt
Giữa Phật và Bồ tát
Như đất với vi trần (hạt bụi nhỏ)
Như nước trong dấu chân trâu với biển cả.
79.Vì pháp vô tận và không đổi khác
Vì qui y của chúng sinh vô hậu tế cứu cánh
Vì (Pháp thân của chư Như lai) kia thường hằng,
Không hai, vô phân biệt
Vì pháp bất hoại cùng tự tính phi tác.
80.Không sinh cũng không chết
Không tổn hại cũng không già
Bởi vì nó thường hằng và kiên cố
Vì tịch tĩnh và bất hoại.
81.Bởi vì nó thường hằng
Tự tính ý vô sinh
không thể suy lường về cái chết chuyển di
Vì nó bất tử nên kiên cố.
82.Vì tịch tịnh nên không thể tổn hại
Bởi các bệnh vi tế
Vì không già nên bất hoại
Bởi hành tưởng vô lậu.
83.Bản nguyên của vô vi
Nên hiểu nghĩa là thường hằng
Tương tự hai câu (thường) và hai (kiên cố)
Theo thứ tự hai (tịch tịnh) và hai (bất hoại).
84.Vì sở hữu đức tính vô tận
Bản thể bất biến là nghĩa thường hằng
Vì đồng với biên tế sau
Bản thể quy y là nghĩa kiên cố
Vì tự tính vô phân biệt
Pháp tính không hai là nghĩa của tịch tĩnh
Vì đức tính bất cải biến
Ý nghĩa không chết tức bất hoại.
85.Bởi vì đó là pháp thân, là Như lai
Đó là Thánh đế, thắng nghĩa niết bàn
Vì đức tính bất phân như ánh sáng và mặt trời
Ngoại trừ Phật (tính) thì không có Niết bàn.
85.Tóm lại vô lậu giới
Phân chia thành bốn nghĩa
Nên biết pháp thân v.v…
Là bốn cái tên khác.
86.Phật pháp không thể phân chia
Đạt được chân như chủng tính
Pháp tính không giả dối, không hư vọng
Bổn lai tự tính tịch tĩnh.
87.Nhứt thiết chủng giác ngộ
Đoạn diệt tập khí cấu nhiễm
Đức Phật nhập niết bàn
Thắng nghĩa thì không hai
Vô số Nhứt thiết chủng
Không thể nghĩ bàn, đức tính vô cấu
Đặt tính bất phân, giải thoát
Cái gì giải thoát đó là Như lai.
88.Thí như các hoạ sỹ
Mỗi người thiện xảo mỗi phần
Người am tường phần này
Thì không biết phần khác.
89.Bấy giờ có Quốc vương
Truyền lệnh cho tất cả họ
Hãy vẽ hình của Vua
Lên trên tấm vải này.
90.Các hoạ sỹ được lệnh
Cẩn trọng việc vẽ tranh
Nhưng một người trong họ
Đi đến một nơi khác.
91.Vì thiếu mất một hoạ sỹ
Đã đi đến nơi khác
Chân dung không thể vẽ
Xong tất cả mỗi phần
Phải hiểu lấy đây làm thí dụ.
92.Những gì là các hoạ sỹ
Bố thí, giới, nhẫn nhục v.v..
Không sai khác trình hiện không tính(hoàn toàn tịnh diệu)
Không tính cho là chân dung.
93.Các trí tuệ và giải thoát
Vì trong sáng, thanh tịnh và hiện hữu khắp cùng
Vì không có khác biệt nên chúng giống như
Vầng mặt trời và ánh sáng mặt trời.
94.Do vậy chưa thành Phật
Không chứng đắc niết bàn
Nếu như bỏ ánh sáng mặt trời
Thì không thể thấy mặt trời.
95.Như vậy nói Phật tạng (Phật tính)
Thiết lập có mười tướng
Nên biết qua những (9) ví dụ
Ở trong bọc vỏ phiền não.
96.Như trong hoa sen có Phật
Con ong có mật ngọt
Tinh tuý bọc ở giữa quả
Vàng ở trong ô uế
Kho tàng ở dưới đất
Nầm non ở trong quả nhỏ
Tượng Phật trong tấm giẻ rách
(Chuyển luân thánh vương) Nhân chủ trong thai cung
Của cô gái hạ liệt
Tượng ngọc trong bùn lầy (đất)
Tương tự giới này trụ trong những chúng sinh
Bị nhiễm ô phiền não khách trần che chướng nhất thời.
98.Nhiễm ô tương ứng với hoa sen
Hữu tình (con ong), vỏ bọc, đất, ô uế, trái quả
Giẻ rách, cô gái khốn khổ bị khổ đau thiêu đốt, địa giới.
Vô cấu diệu giới tương ứng với
Phật, mật ngọt, tinh tuý, vàng, kho tàng
Cây Nadro, Phật tượng, châu báu,
Chủ vương các châu và tượng ngọc.
99.Người có được thiên nhãn vô cấu
Thấy Như lai rực sáng nghìn tướng
Ở trong hoa sen héo tàn
Lấy ra từ cánh sen khép.
100.Đấng Thiện thệ dùng Phật nhãn
Thấy các chúng sinh ở vô gián địa ngục
Cũng có tự pháp tính, không có chướng ngại
An trụ tận cùng biên tế về sau
Với bản thể bi tâm
Ngài làm cho họ giải thoát chướng ngại.
101.Thí như thiên nhãn thấy
Thiện thệ bao bọc trong hoa sen tàn
Mà khai mở cánh hoa
Thấy chúng sinh có Phật tạng đẳng giác
Bị chướng bởi cấu nhiễm: Tham, sân v.v… bao bọc
Đấng Năng nhân đại bi thiện xảo diệt trừ chướng kia.
102.Cho đến khi nào Phật tính
Còn xen tạp với nhiễm ô
Phiền não còn trong chúng sinh
Vẫn chưa giải thoát tạp nhiễm phiền não
Cho đến khi ấy Đấng Chiến thắng
Vẫn còn ở lại trong ba cõi.
103.Như bầy ong quay quanh mật ngọt
Người trí khéo thấy muốn lấy
Dùng phương pháp khéo tách ly
Đàn ong ra khỏi mật ngọt.
104.Đại Tiên nhân với Biến tri nhãn (Phật nhãn)
Thấy Minh giới (Phật tính) như mật ngọt
Chướng của minh giới như đàn ong
Làm cho đoạn triệt căn nguyên.
104.Thí như người muốn lấy mật ong
Có nghìn vạn ức con ong chướng ngăn
Xua tan đàn ong kia như ý muốn
Để lấy mật ong dùng
Tương tự, hữu tình vốn có trí vô lậu
Giống như mật của con ong
Cũng vậy người chiến thắng thiện xảo
Như loại trừ đàn ong phiền não.
105.Như hạt gạo bọc trong vỏ
Người ta không thể dùng
Những ai muốn dùng nó v.v…
Họ bốc nó ra khỏi vỏ.
106.Tương tự, cho đến bao giờ
Phật (tạng) trong chúng sinh
Còn tạp lẫn với phiền não
Cũng như chưa thoát khỏi
Tạp nhiễm phiền não ô nhiễm
Khi ấy Phật hạnh không thể
Biểu hiện trong ba cõi.
107.Thí như hạt lúa và hạt lúa mì
Chưa bóc ra khỏi vỏ
Những người không khéo làm
Thì khó thành thức ăn ngon
Cũng vậy chúng sinh có pháp tự tại
Chưa thoát khỏi vỏ bọc não phiền
Không thể đem pháp vị hỷ lạc
Chúng sinh đang khổ bởi phiền não đói khát.
108.Vàng của người đi đường
Rơi xuống nơi hôi thối
Vàng ở nơi đó nhiều trăm năm
Vàng là pháp bất hoại như trên.
109.Vị Thần với thiên nhãn thanh tịnh
Thấy rồi bảo người kia
Đây có vàng châu báu quý giá nhất
Hãy làm sạch châu báu này.
110.Cũng vậy Đấng Năng nhân thấy
Đức tính hữu tình chìm đắm
Trong phiền não như rác thối
Vì tịnh trừ bùm lầy
Phiền não cho chúng sinh
Nên Ngài tuôn mưa diệu pháp.
111.Như vàng trong rác thối
Vì tịnh hoá hoàn toàn
Thiên thần thấy chỉ cho
Người ấy thấy (vàng) tuyệt đẹp nhất
Phật cũng thấy hữu tình
Đẳng giác bảo rơi vào
Phiền não đại bất tịnh
Vì để tịnh hoá chúng
Nên thuyết pháp cho hữu tình.
112.Như ở dưới lòng đất
Trong nhà người nghèo khó
Có kho tàng vô tận
Nhưng người kia không biết kho tàng đó
Kho tàng cũng chẳng nói “Ta ở đây”.
113.Tương tự như kho báu trong tâm ý
Vô cấu, pháp tính chẳng thể lập trừ
Nhưng do chúng sinh không biết
Tiếp tục trải qua khổ đau của nghèo khó.
114.Thí như trong nhà người nghèo khốn
Có kho báu nhưng nó không thể nói
“Ta là kho báu ở đây”
Thì người kia không biết.
Cũng vậy chúng sinh như người nghèo
Trong ngôi nhà tâm có pháp tàng
Vì khiến hữu tình đạt được chúng (hai thanh tịnh pháp thân)
Tiên nhân (Phật) đản sinh nơi thế gian.
115.Giống như hạt nầm không hư hoại
Có sẳn trong quả xoài v.v…
Nếu hội đủ đất đã xới, nước v.v…
Dần dần thành cây vua.
116.Cũng như thiện pháp giới
Bọc trong vỏ vô minh v.v…của hữu tình
Nương vào thiện này thiện kia
Dần dần thành bản chất đấng Năng nhân.
117.Nhờ các duyên của nước, gió,
Ánh nắng, đất, thời gian và hư không
Giống như một cái cây mọc từ bên trong vỏ
Từ quả Tala hay quả xoài
Cũng vậy hạt mần Phật Đẳng Giác
Bọc trong quả phiền não của hữu tình
Tương tự nhờ thiện duyên này và duyên kia
Kiến pháp được tăng trưởng.
118.Như từ ngọc báu tạo Phật tượng
Bọc trong chiếc giẻ rách hôi dơ ở trên đường
Vị Thiên thần thấy liền mở ra
Bảo người kia vật ấy ở trên đường.
119.Bậc Vô ngại thấy trong loài súc sinh
Cũng có bản chất của Thiện thệ
Bị nhiều loại phiền não trói buộc
Vì làm cho họ giải thoát
(Ngài) chỉ bày phương tiện.
120.Giống như tượng Như lai tự tính quý báu
Bị bọc trong giẻ rách hôi thối nằm trên đường
Với Thiên nhãn của vị thần thấy
Vì khiến giải thoát mà chỉ cho người.
121.Thí như cô gái xấu xí
Không có nơi nương tựa
Cô mang thai đức Quốc vương
Nhưng tự mình không hay biết.
122.Sinh trong cõi hữu như ở trong nhà
Không có người cứu giúp
Chúng sinh bất tịnh ở trong thai cô gái
Vì những gì có trong đó thì được nương nhờ
Như vô cấu giới ở trông bụng của cô.
123.Giống như một cô gái nghèo
Dung mạo thì xấu xí
Mặc quần áo hôi dơ
Quốc vương ở trong thai
Cô trải nghiệm thống khổ
Trong ngôi nhà không ai cứu giúp
Cũng vậy tự trong ta có nương tựa bảo hộ
Nhưng tâm tưởng không nơi nương tựa bảo hộ
Chúng sinh do phiền não, sống trong nền khổ não
Tâm không được an tịnh.
124.Như tôn tượng Phật vàng tinh luyện tĩnh lặng ở trong
Bên ngoài có bản chất của đất
Thấy biết Phật vàng bên trong
Mà tẩy trừ ngọai chướng.
125.Chứng tri tự tính tâm quang minh
Những ô nhiễm cũng là khách trần chợt hiện
Chúng sinh giống như nguồn (xuất xứ) châu báu
Tịnh hoá chướng ngại đạt Bồ đề tối thắng.
126.Như rực sáng vàng vô cấu
Bên trong đất có tôn tượng tịch lặng
Người trí biết loại sạch đất
Cũng vậy đấng Biến tri biết
Tâm tịnh lặng như vàng tinh luyện
Bằng cách thuyết pháp thực hành
Loại trừ tịnh hoá chướng.
127.Thí như hoa sen, con ong,
Lớp vỏ, bất tịnh và đất
Vỏ của quả, giẻ rách
Thai cung của cô gái và lớp đất.
128. Tương ứng Phật, mật ong và tinh tuý
Vàng, kho báu và cây
Tượng ngọc, Chuyển luân vương
Cũng giống như tượng vàng.
129.Vô thuỷ chẳng liên quan
Vỏ phiền não của chúng sinh giới
Tự tính vô nhiễm của chúng sinh
Nói là không có điểm bắt đầu..
130.Tập khí và hiện hành mãnh liệt
Của tham, sân và si
Nương vào kiến tu đạo sở đoạn
Chưa thanh tịnh và thanh tịnh địa.
131.Lấy thí dụ như hoa sen bao bọc v.v…
khéo nói chín loại cấu nhiễm
Vỏ bọc của tuỳ phiền não
Phân ra vô biên sai khác.
132.Chín nhiễm ô : Tham dục v.v…
Tóm lược theo thứ tự
Đã chân chánh trình bày
Qua chín dụ : Hoa sen bao bọc v.v…
133.Nhiễm ô này theo thứ tự
Phàm phu bốn bất tịnh
A-la-hán một bất tịnh
Địa vị học đạo hai bất tịnh
Người có trí hai bất tịnh.
134.Như hoa sen sinh trong bùn lầy
Trước khiến tâm hoan hỷ
Sau trở thành không vui
Vui tham dục cũng như vậy.
135.Giống như đàn ong chích
Rất bấn loạn đau đớn
Cũng vậy sân hận phát tác
Khiến cho tận tâm cang đau đớn.
136.Giống như cái vỏ bọc
Bên ngoài lõi hạt lúa v.v…
Cũng vậy vỏ trứng của vô minh
Chướng ngại thấy nghĩa tinh tuý.
137.Như mùi hôi thối không hợp ý
Cũng vậy những người có tham dục
Do vì nguyên nhân nương vào dục
Mọi hành vi bộc phát như phân thối.
138.Như kho báu bị che chướng
Không biết nên không được kho tàng
Vô minh địa tập khi
Chướng bản thể tự nhiên (Như Lai tạng) trong chúng sinh.
139.Như nầm non v.v… sinh từ từ
Phá tung vỏ hạt giống
Cũng vậy thấy chân như
Chư vị Kiến đoạn loại trừ.
140. Chiến thắng tụ hội tạng (thân kiến)
Liên quan với thánh đạo
Tu đạo trí sở đoạn
Nói giống như giẻ rách.
141.Cấu nhiễm nương vào bảy địa
Giống như cấu nhiễm bọc thai
Trí vô phân biệt thuần thục
Ví như thoát ra cái bọc thai.
142.Các cấu nhiễm thuộc ba địa
Nên biết như đất nhiễm
Đó là đại chủ Vương
Dùng Kim cang định hoại diệt.
143.Thí như chín cấu nhiễm: Tham v.v…
Tương đồng với hoa sen v.v…
Vì gom bởi ba tự tính
Giới (Phật tính) tương đồng với Phật.
144.Tự tính Pháp thân của (giới) này
Chân như và chủng tính
Ba tính được hiểu theo
Thí dụ ba, một và năm.
145.Nên biết hai pháp thân
Pháp giới cực vô nhiễm
Thâm sâu hợp với nhân của pháp thân
Tuyên thuyết bằng nhiều phương cách.
146.Vì siêu xuất thế gian nên trong thế gian
Không thấy có ví dụ nơi đây
Cho nên nói Như lai
Tương tợ như giới (Phật tính).
147. Trình bày vi tế thâm sâu
Nhất vị như mật ong
Nên biết trình bày nhiều phương cách
Như là tinh tuý được bọc trong nhiều vỏ.
148.Tự tính không biến đổi
Vì lương thiện và thanh tịnh
Nói chân như này giống như
Tôn tượng bằng vàng kim.
149.Nên biết hai chủng tính
Như kho tàng và trái cây
Vô thuỷ trụ tự tính
Và chân chánh tu tập thành tối thắng.
150.Từ hai chủng tính này
Khát khao đạt ba thân Phật
Ban sơ đạt thân thứ nhất
Thứ hai đạt hai thân sau.
151.Tự tính thân đoan nghiêm
Nên biết như tượng báu
Vì tự tính chẳng phải được tạo tác
Và công đức bảo tàng.
152.Vì đại pháp sở hữu đại Vương quyền
Báo thân giống như Chuyển luân vương
Vì tự tính như ảnh tượng
Hoá thân giống như tượng vàng.
153.Chư vị Độc giác tự sinh đối với thắng nghĩa
Phải dùng niềm tin thông đạt
Ánh sáng vầng thái dương chói lọi
Người không mắt thì không thấy.
154.Giới này chẳng có gì để loại trừ
Chẳng có may may nào thành lập
Chánh kiến chân thật tính
Thấy chân chánh thì giải thoát.
155.Thuộc đặc tính có thể phân ly
Khách trần thì rỗng không giới
Thuộc đặc tính không thể phân
Pháp vô thượng thì chẳng rỗng không.
156.(Phật) thuyết kinh này và kinh khác
Tất cả mọi đối tượng nhận thức đều là không
Như vầng mây, như giấc mộng, như huyễn ảo
Đây cớ sao chư Phật lại dạy
Chúng sinh có Phật tạng?
157.Vì khiếm bỏ năm lỗi cho những ai
Khiếp nhược, khinh mạn người yếu kém,
Chấp không đúng sự thật, phỉ báng chánh pháp
Quá tham chấp mình hơn.
158. Chánh biên là vắng lặng
Tất cả tướng hữu vi
Phiền não, nghiệp và quả chín mùi
Nghĩa giống như áng mây v.v…
159.Phiền não tựa như áng mây
Nghiệp tựa như thọ dụng trong mộng
Các uẩn chín mùi của nghiệp phiền não
Tựa như ảo thuật huyễn hoá.
160.Trước đã kiến lập như vậy
Lại nói trong Thượng tục (Bảo tánh luận) này
Vì đoạn trừ năm lỗi
Mà dạy rằng có giới (Phật tính).
161.Không nghe được điều này
Nên bị lỗi tự khinh mình
Một số người khiếp nhược
Không phát tâm Bồ đề
162.Với người đã phát tâm Bồ đề
Kiêu mạn tuyên bố rằng ta tối thắng
Đối với người chưa phát tâm Bồ đề
Sinh khởi tưởng thấp hèn.
163.Như vậy trong tâm người kia
Không sinh khởi chánh trí
Họ chấp không đúng với sự thật
Nên không chứng chân nghĩa.
164.Lỗi lầm của chúng sinh chẳng là thật
Vì giả tạo khách trần ngẫu nhiên
Chánh thực lỗi lầm là vô ngã
Công đức tự tính thanh tịnh.
165.Chấp lỗi chẳng phải đúng sự thật
Vu khống thêm vào chánh công đức
Người có trí không có được lòng bi
Thấy mình đồng đẳng với chúng sinh.
166.Nếu nghe được điều này hân hoan
Kính trọng chúng sinh như là Phật
Sinh trí tuệ và lòng đại bi
Cho nên năm pháp sinh khởi.
167.Giống như không có tội
Không lỗi lầm, đủ công đức
Chúng sinh bình đẳng như tôi
Từ lòng bi chóng thành Phật
II.PHẨM BỒ ĐỀ (73 kệ tụng)
1.Tịnh, đạt, ly, tự tính lợi
Nương tựa, rộng và sâu
Bản thể to lớn cũng (tồn tại) pháp tính
Cho đến khi nào (còn luân hồi).
2.Nhập vào Bản thể nhân,
Quả, nghiệp và sở hữu
Thường hằng, không thể suy lường
An trụ nơi Phật địa.
3.Nói rằng tự tính quang minh
Như mặt trời và hư không
Bị che chướng bởi phiền não khách trần
Áng mây dày ngăn che đối tượng nhận thức
Vô cấu phật, thường đủ mọi đức tính
Phật kiên cố bất biến
Nương vô phân biệt đối với pháp
Trí phân biện để đạt Bồ đề.
4.Chính Phật là bất phân
Tịnh pháp có thể phân chia
Đặc tính của hai: Đoạn và trí
Như mặt trời và hư không.
5.Quang minh trong sáng không phải do tạo tác
Lưu nhập không thể phân
Hơn số cát sông Hằng
Chư pháp của Phật đủ tất cả.
6.Tự tính vốn chẳng có
Cùng khắp và tính khách trần
Bị phiền não sở tri chướng
Nói giống như áng mây.
7.Viễn ly nguyên nhân của hai chướng
Tức là hai trí tuệ
Đó là vô phân biệt trí
Và hậu đắc trí kia.
8.Như hồ nước tinh khiết
Hoa sen nở rộng dần
Như mặt trăng tròn trịa
Thoát khỏi miệng La-hầu (nhật thực, nguyệt thực)
Như mặt trời ra khỏi
Áng mây của phiền não
Vì ánh sáng quang minh
Có đức tính vô cấu.
9.(Phật tính) Như Đấng Năng nhân chúng trung tôn
Mật ong, tinh tuý, châu báu,
Vàng, kho tàng và cây
Vô cấu, ngọc quý, tôn tượng Thiện thệ
Quốc vương và tượng vàng.
10.Tịnh hoá phiền não khách trần: Tham v.v…
Ví như hồ nước tinh khiết v.v…
Giản lược khéo giải bày
Quả của trí vô phân biệt.
11.Nhất định đạt được Phật thân
Nhứt thiết chủng tối thượng
Đó tức là trình bày
Quả của hậu đắc trí.
12.Vì đoạn trừ bụi trần tham dục
Đệ tử là hoa sen
Ở trong dòng nước thiền định
Giống như nước hồ tinh khiết.
13.Do thoát khỏi La-hầu sân hận
Ánh sáng đại từ bi
Chiếu toả khắp chúng sinh
Như trăng tròn vô cấu.
14.Thoát khỏi mây si mê
Ánh sáng trí hào quang
Xoá tan bóng tối cho chúng sinh
Phật như mặt trời vô cấu.
15.Ban cho vị diệu pháp
Pháp bình đẳng và bất bình đẳng
Vì tách rời khỏi vỏ (hai chướng)
Thiện thệ giống như mật ong, tinh tuý.
16.Vì thanh tịnh, chất đức tính
Tiêu trừ sự nghèo khốn
Xuất sinh quả giải thoát
Như vàng, bảo tàng và cây lớn (đại thụ).
17.Vì pháp thân tôn quí
Tối thắng trong loài người (lưỡng túc tôn)
Vì hình tướng tôn quí
Như châu bảo, Quốc vương và vàng.
18.Vì là pháp vô lậu, cùng khắp và bất hoại
Kiên cố, tịch lặng, thường hằng và không chuyển dời
Như lai như hư không làm nguyên nhân
Cho sáu giác quan cảm nghiệm cảnh.
19.Thấy cảnh sắc (bốn đại) vô sinh
Nghe vi diệu ngữ thanh tịnh
Ngửi tịnh giới hương Thiện thệ
Nếm đại Thánh pháp vị.
20.Cảm nghiệm sự xúc chạm định lạc
Trầm tư tinh tế nguyên nhân
Chứng tự tính thâm sâu
Thị hiện lạc thắng nghĩa lìa nguyên do
Như lai ví như hư không.
21.Tóm lại nên biết rằng
Hoạt hạnh của hai trí này
Tịnh hoá tức là Pháp thân
Và giải thoát viên mãn thân.
22.Giải thoát thanh tịnh thân
Nên biết hai tướng (vô lậu và cùng khắp)
Một tướng (đức tính vô vi)
Vì vô lậu, vì cùng khắp
Vì là xứ vô vi.
23.Các phiền não thuộc tập khí
Đã đoạn diệt nên vô lậu
Vì không còn vướng mắc và chướng ngại
Gọi là trí châu biến cùng khắp.
24.Nguyên bản vốn bất hoại
Vì tự tính là vô vi
Nói rằng tính bất hoại
Được giải thích: Kiên cố v.v…
25.Nên biết bốn tướng hoại
Là ngược với các tướng
Thường hằng v.v… suy hoại,
Biến chuyển và đoạn tuyệt
(Chết) chuyển di là không thể nghĩ bàn.
26.Vì không có (bốn tướng) đó nên biết
Kiên cố, tịch tịnh, thường hằng và không chuyển dời
Bởi vì trí vô nhiễm
Y cứ nơi (xứ) pháp trắng (thiện).
27.Như hư không chẳng phải là nguyên nhân
Nhưng là nguyên nhân của thấy, nghe v.v…
Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
28.Tương tự hai thân vô ngại
Hoạt hành trong cảnh, giác quan kiên cố
Làm nguyên nhân sinh khởi
Những đức tính vô lậu.
29. Phật thì không thể suy lường, thường hằng
Kiên cố, tịch tịnh, vĩnh hằng
Rất tịch lặng, châu biến, ly phân biệt
Như hư không vô tham, tất cả không chướng ngại
Đoạn trừ xúc chạm thô
Không thể thấy, không thể nắm bắt, thiện và vô cấu.
30.Lấy giải thoát pháp thân
Biểu hiện tự và tha lợi
Nương vào tự tha lợi có những đức tính
Không thể nghĩ bàn v.v…
31.Cảnh đối tượng của Phật nhứt thiết trí
Không phải là cảnh của ba trí
Các chúng sinh đối với trí thân
Nên biết không thể nghĩ bàn.
32.Vi tế cho nên chẳng phải đối tượng của cái nghe
Thắng nghĩa cho nên chẳng phải đối tượng tư duy
Vì pháp tính thậm thâm nên chẳng phải cảnh
Tu tập của thế gian v.v…
33.Bởi vì Kẻ mù đối với sắc
Người ngu chưa từng thấy trước đây
Trẻ sơ sinh ở trong nhà
Cũng như Bậc thánh giả
Nhìn thấy ánh sáng mặt trời.
34.Thường hằng vì viễn ly sinh
Kiên cố vì không diệt
Tịch tịnh vì không hai
Vĩnh viễn vì trụ pháp tính.
35.Diệt đế vì cực tịch tịnh
Cùng khắp vì chứng tất cả
Vô phân biệt vì vô trụ
Vô tham vì đoạn diệt phiền não.
36.Vì tịnh hoá sở tri chướng
Tất cả không chướng ngại
Viễn ly xúc chạm thô
Vì không hai có thể dễ sử dụng.
37.Không thể thấy vì không sắc
Không thể nắm bắt vì vô tướng
Thiện vì tự tính thanh tịnh
Vô nhiễm vì đoạn nhiễm ô.
38.Không đầu, giữa và cuối, bất phân chia
Không hai, ly ba, vô cấu, vô phân biệt tưởng
Chứng tự tính pháp giới
Vị Du già thấy do nhập định.
39.Vô cấu giới của Như lai
Đoạn lỗi lầm tập khí
Đủ các đức tính không thể lượng
Không thể nào so sánh
Không thể suy lường hơn cả các sông Hằng.
40.Thân quang minh, diệu pháp đa dạng
Tinh cần thành tựu việc giải thoát cho chúng sinh
Thí như ngọc như ý, như ma ni vương
Tuy muôn hình vạn trạng
Nhưng chẳng phải tự tính của nó.
41.Nhân của sắc thân là
Khiến cho người thế gian
Nhập vào đạo lộ tịch tịnh
Làm cho thành thục chín mùi và thọ ký
Sắc thân ấy cũng thường an trụ thế gian này
Như sắc giới trong hư không giới.
42.Biến trí của những cái tự sinh khởi
Đó gọi chính là Phật
Niết bàn vô thượng, không thể nghĩ bàn
Chủ thể của mỗi vị A-la-hán.
43.Đây phân thành sâu và rộng
Đức tính Đại chúa tể
Ba pháp chia theo tự tính
Tương ứng với ba thân.
44.Trong đó nên biết là
Tự tính thân của chư Phật
Đầy đủ năm loại tướng
Tóm lược có năm đặc tính.
45.Vô vi và bất phân
Đoạn trừ tướng hai biên
Xác định giải thoát khỏi ba chướng
Phiền não, sở tri và định chướng.
46.Vô cấu, vô phân biệt
Vì là cảnh của Du già hành giả
Vì bản thể pháp giới thanh tịnh
Cho nên quang minh trong sáng.
47.Tự tính thanh tịnh thân
Vốn có các đức tính
Không thể do lường, vô số
Không thể nghĩ bàn, không thể so sánh (vô tỷ),
Thanh tịnh cứu cánh.
48.Vì rộng lớn, vì vô số
Vì chẳng phải cảnh của suy lường
Vì duy nhất đoạn tập khí
Theo trình tự như: Không thể do lường v.v…
49.Vì tự tính pháp hiển hiện
hoạt dụng viên mãn pháp đa dạng
Nhân tương hợp với lòng bi thanh tịnh
Cho nên không gián đoạn lợi ích cho chúng sinh.
50.Vô phân biệt, tự nhiên thành (vô công dụng hạnh)
Thoả mãn mọi nguyện ước
Thần thông như ý bảo châu
Trụ trong thọ dụng viên mãn.
51.Thuyết dạy, thị hiện và sự nghiệp
Liên tục không gián đoạn
Không hiện hành tạo tác
Phi tự tính mà biểu hiện
Đây nói năm tướng đa dạng.
52.Như thấy nhiều màu sắc
Chẳng phải là bản chất ngọc Ma-ni
Cũng vậy, tuỳ hữu tình duyên khác biệt
Chẳng phải việc biểu hiện của Biến chủ (Phật).
53.Đại bi biết thế gian
Quán nhìn khắp thế gian
Từ pháp thân bất động
Biến hoá đa dạng thể tính.
54.Từ nơi Hỷ túc thiên (Trời Đâu suất)
Thị hiện sự giáng hạ
Nhập thai và đản sinh
Thiện xảo về công nghệ.
55.Vui vẻ với thê thiếp
Xuất gia tu khổ hạnh
Đến dưới cội Bồ đề
Hàng phục chúng ma quân.
56.Thành chánh giác, chuyển pháp luân
Thị hiện nhập Niết bàn
Thị hiện trụ ở cõi hữu
Cho đến khi nào các quốc độ chưa thanh tịnh.
57.Dùng phương tiện khéo léo
Qua lời dạy về vô thường, khổ
Vô ngã và tịch tịnh
Làm cho hữu tình sinh nhàm chán ba cõi
Mà khéo nhập vào Niết bàn.
58.Khéo vào đạo tịch tịnh
Người nghĩ tưởng đạt Niết bàn
Tuyên thuyết pháp chân như
Diệu pháp Liên hoa trắng v.v…
59.Phá trừ cho họ chấp thủ trước kia
Thọ giữ phương iện và trí tuệ
Làm cho thuần thục trong cổ xe tối thắng (Đại thừa)
Thọ ký cho vô thượng Bồ đề.
60.Thâm sâu và năng lực viên mãn
Khéo dẫn dắt thuận theo
Trình độ của phàn phu ấu trĩ
Nên biết theo (ba thân) này gọi là
Thâm sâu, rộng lớn và Đại chủ vương.
61.Ở đây, đầu tiên là Pháp thân
Sau (báo thân và hoá thân) là sắc thân
Như sắc dung chứa trong hư không
Sau dung chứa trong đầu tiên.
62.Hộ chủ thế gian là thường hằng
Vì nguyên nhân vô biên, chúng sinh vô tận,
Lòng bi, thần thông, trí, viên mãn
Pháp tự tại, diệt tử ma và không bản thể.
63.Xả bỏ thân, mạng và các thọ dụng
Vì giữ gìn diệu pháp
Vì lợi ích cho tất cả chúng sinh
Vì hoàn thành nguyện ban sơ.
64. Phật bản thể thanh tịnh
Lòng bi thuần khiết khéo chuyển
Hiển bày thần túc thông
Do vậy ở (luân hồi) mà hoạt hành.
65.Trí giải thoát hai chấp
luân hồi và Niết bàn
Vì có sự an lạc viên mãn
Của định vô biên thường hằng.
66.Hoạt hành ở thế gian
Mà không nhiễm pháp thế gian
Đạt được sự an trú tịch tịnh bất tử
Vì không động chuyển của tử ma.
67.Vì tự tính của vô vi
(Pháp thân) Năng nhân bản lai cực tịch tịnh
Vì mãi mãi là nơi quy y v.v… thích hợp
Cho những ai không nơi nương tựa.
68.Ban đầu là bảy nguyên nhân
Nói sắc thân thường hằng
Ba nguyên nhân sau nói về
Thường hằng của pháp thân.
69.Vì không phải đối tượng ngôn từ
Vì bao hàm thắng nghĩa
Vì chẳng phải phạm vi của tư duy phân biệt
Vì vượt ngoài ví dụ
Vì vô thượng, vì không hàm chứa
Hữu (luân hồi) tịch (niết bàn)
Đối tượng Phật cảnh giới
Với các bậc Thánh giả
Cũng không thể suy lường.
70.Không thể suy lường vì không thể diễn bày
Không thể diễn bày vì là thắng nghĩa
Thắng nghĩa vì vô phân biệt tư duy
Vô phân biệt tư duy vì không thể suy đón
Không thể suy đón vì vô thượng
Vô thượng cho nên không hàm chứa
Không hàm chứa cho nên vô trụ
Vì không có phân biệt ưu và khuyết.
71. Năm nguyên nhân đầu là vi tế
Do pháp thân không thể nghĩ bàn
Thứ sáu chẳng phải là thực thể
Do sắc thân không thể nghĩ bàn.
72.Đức tính: Vô thượng, trí, đại bi v.v…
Không thể nghĩ bàn đức tính Ba-la-mật (đến bờ bên kia)
Của đấng Chiến thắng
Do đó, tướng tối hậu của các vị tự tại (Duyên giác)
Cũng như các vị đắc quán đảnh Đại tiên nhân (Bồ tát thập địa)
Đều khó mà thấu hiểu
(Pháp thân và sắc thân không thể nghĩ bàn này)
III. PHẨM ĐỨC TÍNH
(chương 7: 39 kệ tụng)
1.Thắng nghĩa thân là tự lợi thân
Thế tục thân là tha lợi thân
Ly hệ quả và quả chín mùi
Đức tính chia thành sáu mươi bốn.
2.Thắng nghĩa thâm là nền tảng
Tự lợi viên mãn thân
Tiên nhân được gọi là
Nơi viên mãn tha lợi thân.
3.Thân thứ nhất có các đức tính
(Mười) lực v.v… đoạn lìa (chướng)
Thân thứ hai có đức tính
Tướng Đại sỹ và chín mùi.
4.Lực như kim cang (phá dẹp) vô minh chướng
Vô uý như Sư tử trước hội chúng
Như lai (18 pháp) bất cộng như hư không
Hai tướng của Năng nhân
Như trăng hiện trong nước.
5.Trí biết Xứ và phi xứ,
Quả chín mùi của các nghiệp,
Căn, các giới (khí chất) và thắng giải (khát vọng)
Đạo biến hành và thiền định v.v…
6.Vô cấu nhiễm phiền não
Cho đến tuỳ niệm xứ,
Thiên nhãn và tịch tịnh
Là mười loại trí lực.
7.Xứ, phi xứ, quả chín mùi, giới
Khát vọng của chúng sinh, đạo lộ đa dạng
Nhiều căn tính tạp nhiễm thanh tịnh
Nhớ lại các đời trước, thiên nhãn
Và phương pháp lậu tận
Các lực như kim cương
Xuyên thủng áo giáp vô minh
Phá huỷ bức tường kiên cố
Và chặt đứt các cây v.v….
8.Bồ đề tất cả pháp
Ngăn trở và làm ngăn trở
Chỉ bày đạo lộ và chỉ bày diệt
Là bốn loại vô uý.
9.Tự toàn tri các đối tượng nhận thức
Và làm cho người khác biết
Tự đoạn diệt pháp cần đoạn
Và làm cho người khác đoạn diệt
Nương tựa được nương tựa
Đạt và làm cho đạt được vô thượng cực vô cấu
Vì tự lợi và tha lợi mà tuyên thuyết
Tiên nhân cũng vô ngại bất cứ ở đâu.
10.Như chúa tể sơn lâm
Thường không có sợ hãi
Nó tự tại du hành
Mà chẳng sợ các loài thú khác
Cũng vậy giữa hội chúng
Năng nhân vương sư tử
An trụ, không phụ thuộc
Trụ với sức mạnh kiên định.
11.Đạo sư không nhầm lẫn, không nói chuyện ba hoa
Nhớ niệm không suy giảm
Tâm không lúc nào không trụ trong định
Cũng không có nhiều loại tưởng.
12.Không phải chẳng quán sát
Xả, dục, tinh tấn, niệm, tuệ,
Giải thoát và tuệ giải thoát
Quán thấy không suy giảm.
13.Trí tuệ đi trước các hành động
Trí không có chướng ngại trong thời gian
Như thế mười tám pháp này và khác
Là đức tính bất cộng (riêng biệt) của Đạo sư.
14.Đại Tiên nhân không có nhầm lẫn
Không tạp vọng ba hoa
Tâm bất động, (không có tưởng) khác biệt, xả tự nhiên.
Dục, tinh tấn và niệm
Trí thanh tịnh vô nhiễm, thường giải thoát
Thấy mọi đối tượng nhận thức
Trí giải thoát không suy hoại.
15.Tất cả hành động của ba nghiệp
Đều có tuệ đi trước
Trí rộng lớn thường thâm nhập
Cả ba thời không ngăn trở
Những gì chư Phật chứng đắc
Chuyển bánh xe lớn diệu pháp
Một cách vô uý cho chúng sinh
Vì Phật có lòng đại bi.
16.Pháp tính của pháp nào
Có tính cứng như đất v.v…
Nó không phải là hư không
Những gì đặc tính của hư không
Như tính không ngăn trở v.v…
Nó không có trong sắc
Đất, nước, lửa, gió và hư không
Tương đồng chung với thế gian
Bất cộng chỉ là hạt bụi nhỏ
Cũng chẳng phải chung với thế gian.
17.Lòng bàn chân phẳng với tướng bánh xe;
Bàn chân rộng, mắt cá chân không hiện;
Ngón tay ngón chân thẳng và thon dài;
Giữa các ngón tay ngón chân có màng lưới nối dính nhau;
18.Da tay chân mềm mại, thịt trẻ trung;
Thân có 7 nơi đầy đặn tròn trịa;
Xương bắp đùi tròn nhỏ như xương đùi của nai chúa;
(Nam căn) ẩn kín trong thân như âm tàng voi;
19.Thân trên giống thân trên sư tử;
Xương vai đầy đặn, không lõm;
Hai vai tròn đẹp; tay mềm mại;
20.Tay dài; toàn thân thanh tịnh;
Có vầng sáng hào quang;
Cổ vô cấu như chiếc tù và;
Má như má của chúa tể sơn lâm;
21.Bốn mươi chiếc răng;
Đều đặn rất tinh khiết;
Răng khít ngang hàng;
Răng màu trắng tuyệt đẹp;
22.Không thể nghĩ bàn Lưỡi dài rộng vô biên;
Mỹ vị tột bực của vị giác;
Âm thanh tự nhiên của chim Ca-lăng-tầng-già
Và diệu âm của Phạm thiên;
23.Mắt đẹp như hoa sen xanh;
Lông mi như lông mi ngưu chúa;
Lông trắng đầu mày vô cấu (bạch hào)
Gương mặt đẹp đoan nghiêm;
Có nhục kế trên đỉnh đầu;
24.Da sáng mịn lóng lánh màu vàng kim
Của nhân vật đẹp nhất;
Lông trên thân mỏng mềm tuyệt mỹ
Từng sợi cuộn về bên phải và hướng lên;
Tóc vô cấu như viên ngọc bích;
Và thân như hình cây Nadro. (Tam thập tam tướng).
25.Phổ hiền (đẹp toàn diện), không thể dùng ví dụ
Đại tiên nhân, thân tráng kiện,
Sức lực của Vô ái tử
Không thể suy lường 32 tướng tốt
Đây là dạy về tướng hảo Vua của loài người.
26.Như thấy vầng trăng trên bầu trời không mây
Hiện trong hồ nước xanh mùa thu
Như vậy Phật tử chúng cũng thấy
Hình Biến chủ trong Phật luân.
27.Nên biết sáu mươi bốn đức tính
Chúng có riêng từng nguyên nhân
Theo thứ tự trích dẫn
Ở trong Kinh Bảo nữ.
28.Bất hoại và không khiếp đảm yếu kém (khiếp nhược)
Vì không thể so sánh, vì bất động
Được ví như kim cương, sư tử, hư không
Như vầng trăng trong nước.
29.Các lực theo thứ tự
Sáu lực, ba và một
Trừ tất cả chướng tập khí,
Định chướng và sở tri chướng.
30.Như áo giáp, bức tường và cây
Bị xuyên thủng, phá sập và chặt đứt
Thâm thuý và tinh tuý, kiên cố, bất hoại
Sức mạnh Tiên nhân như kim cương..
31.Tại sao thâm thuý vì tinh tuý
Tại sao tinh tuý vì kiên cố
Tại sao kiên cố vì bất hoại
Vì bất hoại như kim cương.
32.Vì không khiếp đảm, vì không phụ thuộc
Vì kiên định, do năng lực viên mãn
Giống như Năng nhân sư tử
Vô uý trong hội chúng.
33.Do hiện chứng toàn triệt
Ngài an trụ không khiếp đảm bất kỳ ai
Không phụ thuộc vì thấy
Ngay cả hữu tình thanh tịnh
Cũng không bằng với mình.
34.Kiên định vì chuyên tâm nhứt cảnh
Trong tất cả mọi pháp
Đủ năng lực vì siêu việt
Vô minh địa tập khí.
35.Người thế gian, Thanh văn.
Thực hành một phương diện
Người trí (Bồ tát) và tự sinh độc giác
Tâm trí của họ chuyển lên vi tế
Ví dụ có năm loại.
36.Vì sinh mạng hết thảy thế gian
Đồng với đất, nước, lửa và gió
Giống như hư không siêu vượt
Tướng của thế gian xuất thế gian.
37.Như ba mươi hai đức tính này
Khéo phân thành pháp thân
(Nhưng trụ bản thể bất phân)
Vì không thể phân chia
Hình dạng, màu sắc và ánh sáng của viên ngọc.
38.Thấy những đức tính nào
Làm cho hài lòng mãn túc
Gọi là ba mươi hai (tướng hảo)
Hoá thân, pháp viên mãn (Đại thừa)
Nương vào hai (sắc thân) Thọ dụng viên mãn thân.
39.Những người xa (phàm phu, Thanh văn)
Và gần (Bồ tát thập địa) thanh tịnh
Họ thấy có hai loại
Mạn-đà-la của thế gian và của Phật
Như mặt trăng trong nước và trăng trên hư không.
IV. PHẨM SỰ NGHIỆP
(Chương 8: 98 kệ tụng)
1.Chư Phật Biến chủ thường hoạt hành
Một cách tự nhiên thành tựu
Đến thời thích hợp và nơi chốn
Khiến điều phục tuỳ tính khí (giới) nguyện vọng của đồ đệ
Phương pháp điều phục và khí chất của đồ đệ.
2.Có đủ nhiều đức tính quí báu thù thắng
Trí nước biển cả, phước trí ánh mặt trời
Quyết định thành tựu toàn diện các thừa
Không điểm giữa và vô biên
Rộng lớn bao khắp như hư không
Phật thấy không khác nhau
Đức tính vô cấu tạng trong mọi chúng sinh
Lưới mây phiền não sở tri
Chư Phật dùng gió của lòng bi để xoá tan.
3.Năng nhân thường vô công dụng hạnh
Vì không khởi tưởng phân biệt
Làm gì để điều phục đồ đệ nào
Vào lúc nào và nơi đâu.
4.Tính khí nguyện vọng của bất cứ vị đồ đệ nào
Nhiều phương tiện điều phục
Làm những gì để điều phục
Ở nơi chốn nào và khi nào.
5.(Đạo) xuất ly, tin cậy vào đạo
Quả Bồ đề của nhân duyên và nắm giữ toàn diện
Vì không có tưởng phân biệt
Chướng, đoạn và duyên đại bi.
6.Nhân của hai tư lương
Là thập địa quyết định xuất ly
Quả Bồ đề tối thượng
Bồ đề bảo hộ toàn diện chúng sinh.
7.Chướng vô biên phiền não
Tuỳ phiền não tập khí
Diệt trừ tất cả trong mọi thời
Tâm đại bi là duyên.
8.Sáu xứ này nên biết
Theo thứ tự như là
Biển cả, hư không, kho tàng
Áng mây và làn gió.
9.Nước tuệ có đức tính ngọc báu
Các địa như biển cả
Hai tư lương như mặt trời
Vì trưởng dưỡng hữu tình.
10.Bồ đề như hư không giới
Do rộng lớn, không có giữa và giới hạn
Vì Phật chánh đẳng giác pháp tính
Chúng sinh giới như kho tàng.
11.Phiền não như cụm mây
Khách trần bất chợt biến khắp và không có
Nó tụ lại và phân tán
Lòng bi vô tận giống như gió.
12.Nhờ tha lực để xuất ly
Thấy mình bình đẳng với chúng sinh
Công hạnh không gián đoạn
Cho đến khi hết luân hồi.
13.Như Đế thích, cái trống và áng mây
Phạm thiên, mặt trời, ngọc ma ni
Như lai giống như âm hưởng tiếng vang
Như hư không và như trái đất.
14.Như trên mặt đất này chuyển thành
Bản chất ngọc Lưu ly sáng trong
Thấy có Thiên vương Vua trời
Và các chúng Thiên nữ.
15.Cung điện tôn thắng nguy nga
Thiên giới và những thứ khác (vườn hỷ lạc v.v…)
Nhiều cung điện của Thiên thần
Và nhiều loại thiên vật.
16.Sau đó nam nữ chúng
Ở trên mặt đất thấy
Hiển hiện Thiên vương chúng
Phát ý nguyện như vầy.
17.Nguyện ta chẳng bao lâu
Trở thành như Thiên vương này
Muốn đạt như ước nguyện
Phải chân chánh hành thiện.
18.Do họ làm điều thiện
Đây chỉ là sự hiển hiện
Tuy không biết như vậy
Nhưng giã từ mặt đất
Họ được sinh làm Thiên thần.
19.Hiển hiện ấy thì tuyệt nhiên
Không có phân biệt và bất động
Nhưng sự hiển hiện ấy trên mặt đất này
Có lợi ích lớn lao.
20.Tương tự do tu tập đức tính
Niềm tin v.v…và tín vô nhiễm v.v…
Phật hiển hiện trong tự tâm
Tướng hảo với vẻ đẹp.
21.Thị hiện các oai nghi
Nhiều hành xử khác biệt
Đi, đứng, ngồi và nằm
Thuyết dạy pháp tịch tịnh.
22.Khi không nói trụ định
Hiện nhiều loại tướng thần biến
Đầy đủ đại uy thế
Các hữu tình có thể thấy.
23.Thấy vậy sinh lòng khát khao
Vì Phật tu các hạnh
Nên chân chánh thực hành
Nguyên nhân đạt qủa vị mong muốn.
24.Hiển hiện kia tuyệt đối bất động,
Không có tưởng phân biệt
Tuy nhiêm trụ ở thế gian
Lợi ích to lớn cho hữu tình.
25.Kẻ phàm phu tuy không biết
Nói đây là tự tâm hiện
Thấy hình sắc như vậy
Đều có lợi ích to lớn.
26.Trình tự nương cái thấy kia
Họ trụ vào thừa này
Bằng con mắt trí tuệ
Thấy bên trong pháp thân.
27.Như khắp mặt đất không còn
Những nơi đầy sợ hãi
Và chuyển thành ngọc Lưu ly vô cấu
Sáng trong và mỹ lệ,
Chất ngọc tinh khiết, trong suốt mặt bằng phẳng
Nên hiển hiện hình sắc của Thiên thần
Thiên vương và nhiều cõi Thiên giới
Vì về sau, đức tính đất mất dần
Chúng không hiện lại nữa.
28.Vì đạt được hiện tượng đó
Cư sỹ (cận trụ) giữ giới luật, bố thí v.v…
Nam nữ chúng phát nguyện
Mà tung hoa v.v…(cầu sinh thiên giới)
Tâm trong sáng như ngọc Lưu ly
Nên Năng nhân hiển hiện
Tâm Phật tử hoan hỷ vô vàn
Cũng như thế phát tâm (Bồ đề).
29.Như nền Lưu ly sáng trong
Thấy hiện ra thân tượng của Thiên vương
Cũng vậy nền đất tâm của chúng sinh trong sạch
Sẽ hiện hình ảnh sắc thân của Năng nhân.
30.Hình ảnh có thể hiện nơi chúng sinh
Tuỳ tự tâm vướng nhiễm hay không
Như các hình ảnh hiển lộ trong thế gian
Tương tự không nên thấy (pháp thân) kia có và diệt.
31.Như Thiên trong chư Thiên
Do sức mạnh của nghiệp trắng trước kia
Không cần nổ lực (vô công dụng hạnh), xứ
Ý sắc và phân biệt tưởng.
32.Chiếc trống pháp lập đi lập lại
Tiếng vô thường, khổ, vô ngã
Và tiếng tịch tịnh phát ra
Khuyến khích tất cả Thiên thần (bỏ) buông lung.
33.Tương tự, Phật Biến chủ không có nổ lực v.v…
Lời Phật dạy biến khắp
Thuyết pháp cho những ai hữu duyên
Không sót chúng sinh nào.
34.Như tiếng trống trời tự động phát
Do nghiệp của chư Thiên
Cũng vậy Năng nhân thuyết pháp
Xuất phát từ nghiệp riêng của người đời.
34.Như âm thanh không có tâm,
Thân, xứ và nổ lực
Làm cho được tịch tĩnh
Tương tự, (Phật) pháp không có nổ lực v.v…
Làm cho (chúng sinh khổ) được tịch tịnh.
35.Ví như nhân tiếng trống Thiên thành
Phát khởi vô uý thí
Khi tham gia chiến đấu với phiền não
Chiến thắng loài phi Thiên
Bỏ lại cuộc vui chơi
Cũng vậy những nguyên nhân phát khởi
Thiền thế gian vô sắc v.v…
Chiến thắng phiền não khổ cho chúng sinh
Thuyết đạo vô thượng đem đến tịch tịnh.
36.Vì an lạc và ba loại thần biến
Cho Tất cả mọi hữu tình
Cho nên diệu âm của Năng nhân
Siêu thắng hơn các lạc của thiên vật.
37.Tiếng trống trời vang lớn
Không đến được tai người ở trên đất
Tiếng trống Phật đến được
Chúng sinh ở hạ giới.
38.Hàng triệu triệu lạc thú Thiên giới
Làm phát thêm lửa dục
Nhưng một âm thanh của Đấng Đại bi
Cũng làm dập tắt lửa khổ.
39.Mỹ lệ, âm thanh say lòng của Thiên thần
Là nhân tăng trưởng trạo cử phóng tâm
Lời Như lai bản thể lòng bi
Làm chú tâm định ý.
40.Tóm lại nguyên nhân an lạc
Ở dưới đất, thần tiên
Không sót cõi giới nào
Đều nương theo lời (Phật) dạy
Hiện khắp mọi thế giới.
41.Nếu người không có tai
Không nghe được âm thanh vi tế
Như tất cả cũng không đến
Lỗ tai của Thiên thần
Cũng vậy, pháp vi tế tối thắng
Hành cảnh trí cực vi
Lọt vào tai của một vài người
Tâm ý không phiền não.
42.Giống như áng mây thu
Là nhân của vụ mùa sung mãn
Tuôn mưa xuống mặt đất
Liên tục, không nổ lực.
43.Cũng vậy áng mây lòng bi
Là nhân vụ mùa thiện của chúng sinh
Tuôn mưa diệu pháp Phật
Mà không cần nổ lực dụng công.
44.Thế gian đi vào con đường thiện
Như gió khởi mây tuôn mưa
Cũng vậy gió bi tăng trưởng thiện cho chúng sinh
Sự nghiệp của Phật tuôn diệu pháp.
45.(Luân hồi) biến chuyển do đại bi và trí đối với cõi hữu
(Niết bàn) bất biến, không nhiễm, trụ giữa hư không
Tinh tuý vô cấu, nước định tổng trì
Áng mây Năng nhân là nhân của vụ mùa thiện.
46.Như nước tuôn từ áng mây
Nước mát, ngọt, trơn nhẹ
Trộn lẫn nơi đất mặm v.v…
Chuyển thành rất nhiều vị
Cũng vậy nước mưa Thánh đạo tám ngành
Tuôn ra từ giữa áng mây bi bao la
Chuyển thành nhiều hương vị
Theo khát vọng khác nhau của chúng sinh.
47.Như có ba hạng người
Tịnh tín, trung dung và sân hận
Đối với thừa tối thắng
Giống như người, con công và ngạ quỹ.
48.Cuối xuân trời không mây
Con người (không thích), con công (xả thọ và ngạ quỹ thích thú)
Mùa hạ mưa thấm đất thì ngạ quỹ sầu khổ
Áng mây của lòng bi tuôn mưa pháp
Xuất hiện và không xuất hiện
Đây chính là thí dụ cho thế gian
Cầu pháp và sân hận pháp.
49.Như áng mây không lệ thuộc
Tuôn hạt mưa to, tuôn mưa đá (hoả thạch)
Và sấm sét (kim cương hoả)
Đến loài vật nhỏ bé, trong hang núi
Mây bi trí phương tiện tuôn giọt mưa mỏng, rộng lớn
Mà không lệ thuộc hoàn toàn
(Người) đã tịnh hoá phiền não
Hay (người còn) ngã kiến tập khí.
50.Luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu và kết thúc
Có năm đường chúng sinh
Như không có mùi thơm ngát trong bất tịnh hôi thối
Không có an lạc trong năm loài chúng sinh
Thường xúc chạn đau đớn
Như lửa đốt, vũ khí (chém), muối (sát vết thương) v.v…
Từ áng mây lòng bi tuôn xuống trận mưa lớn diệu pháp
Làm cho đau đớn được tịch lặng.
51.Vì biết thiên thần khổ khi chết
Con người khổ tìm cầu
Người có trí không còn mong muốn
Dù là địa vị tối cao Tự tại thiên,
(hay Chuyển luân thánh vương ở cõi) người
Trí tuệ kèm với niềm tin vào lời Phật dạy
Thấy biết “đây là khổ”, “đây là nhân”, “đây là diệt”.
52.Bệnh cần được chẩn đoán
Nguyên nhân gây bệnh phải từ bỏ
Sức khoẻ cần được phục hồi
Thuốc hay cần được nương theo
Cũng vậy khổ cần chẩn đoán
Nhân khổ cần từ bỏ
Diệt khổ cần đạt được
Con đường diệt khổ cần nương theo.
53.Giống như Phạm thiên
Không chuyển động khỏi Phạm giới
Thị hiện ở tất cả thiên giới
Mà không cần nổ lực dụng công.
54.Cũng vậy pháp thân Phật
Bất động, thị hiện biến hoá
Tự nhiên không cần nổ lực
Trước những người hữu duyên
Ở khắp tất cả cõi giới.
55.Như Phạm thiên thường không rời cung điện
Nhưng nhập vào dục giới
Chư thiên thấy Phạm thiên
Khiến bỏ vui thích cảnh (diệu dục)
Cũng vậy Pháp thân Phật bất động
Ở tất cả thế gian
Người hữu duyên chiêm ngưỡng (Phật)
Nhìn thấy cũng thường khiến họ đoạn trừ mọi nhiễm ô.
56.Nguyện lực trước chính mình
Và thiện lực của chư Thiên
Phạm thiên hiện không cần nổ lực
Hoá thân Phật tự sinh cũng vậy.
57.Giáng hạ, nhập thai, đến thành của cha
Hưởng vui thú, tu hành tịch lặng, chiến thắng ma quân
Đắc đại giác, chỉ dạy con đường đến thành tịch tịnh (Niết bàn)
Người vô duyên mắt họ không thấy sự thị hiện này.
58.Như ban ngày mặt trời chói chang
Hoa sen v.v… xoè nở và hoa Kumuta khép nụ
(Huệ trắng tây nở ban đêm)
Mặt trời không phân biệt về ưu khuyết
Làm hoa sen (nước sinh) nở và khép.
Mặt trời của bậc Thánh (Phật) cũng vậy.
59.Như mặt trời vô phân biệt rằng
Chính ta đồng một lúc phát sáng
Làm cho hoa sen xoè nở
Làm cho những cái khác chín mùi.
60. Cũng vậy, mặt trời của Như lai
Toả ánh sáng diệu pháp
Đi vào đồ chúng hoa sen
Không có tưởng phân biệt.
61.Pháp thân và sắc thân
Hiện trên bầu trời Bồ đề tạng
Mặt trời Biến tri (Toàn tri) phóng chiếu
Ánh sáng trí tuệ đến chúng sinh.
62.Vầng mặt trời Như Lai
Vô lượng hiện đồng thời
Trong tất cả vật chứa nước
Của đồ đệ thanh tịnh.
63.Pháp giới giữa hư không
Thường bao khắp tất cả
Như mặt trời Phật chiếu sáng
Hợp với đỉnh núi của đồ đệ.
64.Như mặt trời mọc với hàng ngàn tia sáng rộng lớn
Lần lượt chiếu sáng khắp thế gian
Chiếu xuống núi cao, trung và thấp
Cũng vậy, mặt trời Phật
Trình tự chiếu xuống chúng hữu tình.
65.Nhưng mặt trời không chiếu đến
Tất cả giữa hư không
Cũng không thể chỉ bày nghĩa của đối tượng nhận thức
Cho người bị bóng tối vô minh che lấp
Đấng bản thể lòng bi với hào quang nhiều sắc màu
Soi sáng cho chúng sinh
Chỉ bày nghĩa của đối tượng sở tri.
66.Khi đức Phật đi vào Thành thị
Những người có mắt thấy
Do thấy họ lìa bỏ điều vô nghĩa
Cảm nghiện sự lợi ích
Những người si mê rơi xuống biển luân hồi
Bị bóng tối của quan kiến chướng ngại
Ánh mặt trời Phật chiếu sáng
Trí tuệ thấy nơi chưa từng thấy.
67.Giống như Bảo châu như ý (viên ngọc ước)
Tuy không có phân biệt nhưng cùng một lúc
Làm thoả mãn tất cả từng ước nguyện
Hành vi, cảnh, nơi chốn v.v…
68.Dựa vào Như ý bảo châu Phật
Những tâm tư khác biệt
Nghe những bài pháp khác nhau
Tuy Phật pháp không tưởng phân biệt.
69.Như Bảo châu như ý không có tưởng phân biệt
Ban cho tài sản theo ước muốn của hữu tình
Một cách tự nhiên vô công dụng
Cũng vậy Phật thường ở lại
Không cần nổ lực dùng (pháp) thích hợp
Làm lợi tha cho đến khi luân hồi chưa chấm dứt.
70.Chúng sinh này có muốn cũng rất khó tìm
Viên ngọc quý như thế ở dưới đáy biển cả
Cũng vậy nên biết chúng sinh duyên kém
Bị phiền não áp bức trong tâm
Khó tìm thấy được Thiện thệ.
71.Thí như âm vang sinh ra
Do nhận thức của người nghe
Không có phân biệt và tạo tác
Chẳng ở bên trong và bên ngoài.
72.Cũng vậy lời dạy của Như lai phát ra
Do nhận thức của người khác
Không có phân biệt và tạo tác
Chẳng ở bên trong và bên ngoài.
73.Không có dù mảy nay cũng không hiển hiện
Không đối tượng sở duyên cũng không nương tựa
Mà mắt không thể thấy
Không có hình sắc và không thể diễn bày.
74.Thấy cao và thấp trong hư không
Nhưng chẳng có giống như vậy
Cũng vậy thấy tất cả (thị hiện) của Phật
Nhưng chẳng có giống như vậy.
75.Mọi vật sinh từ đất
Không có tưởng phân biệt nương vào đất
Tăng trưởng, nương nhờ và phát triển tươi tốt.
76.Cũng vậy nếu nương tựa vào
Phật địa viên mãn không phân biệt
Khiến các thiện căn của chúng sinh
Tất cả được tăng trưởng.
77. Do chúng sinh không thấy được
Hoạt động mà không cần nổ lực
Nói chín loại ví dụ này
Để cắt đứt nghi ngờ của đồ đệ.
78.Trong kinh dạy rộng rãi
Chín loại ví dụ này
Chính tên của kinh này
(Kinh Trang nghiêm ánh sáng trí tuệ nhập vào cảnh Phật)
Tuyên thuyết sự cần thiết ấy.
79.Nghe phát sinh trí tuệ
Đại Quang Minh Trang Nghiêm
Có trí nhanh nhập vào
Tất cả hành cảnh của chư Phật.
80.Nắm chắc nghĩa tóm lược
Của chín loại ví dụ
Lưu ly, Đế thích tượng v.v…
81.Thị hiện, nói, châu biến
Biến hoá, tuệ phát tán
Bí mật của thân, ngữ và ý
Đạt bản thể tâm bi.
82. Không có ý phân biệt
Tịch lặng tất cả sự nổ lực liên tục
Như ngọc Lưu ly vô cấu
Phản chiếu ảnh của Đế Thích v.v…
83.Nguyện tịch tịnh nổ lực
Ý vô phân biệt làm nhân chứng minh
Tự tính nghĩa thành lập nghĩa
Ví dụ: Hình ảnh của Đế thích v.v…
84.Đây là nghĩa trong phẩn này
Chín loại ví dụ: Thị hiện v.v…
Đạo sư lìa sinh tử
Không cần nổ lực thực hành.
85.Như Đế Thích, chiếc trống và áng mây
Như Phạm thiên, mặt trời và bảo vương
Hư không, âm hưởng và trái đất
Vị Du già biết không cần nổ lực
Làm lợi tha cho đến hết sinh tử.
86.Như ngọc hiện Đế thich thiên
Khéo giáo giới tựa như chiếc trống trời
Áng mây lớn Biến chủ trí và bi
Bao khắp vô biên chúng sinh đến Hữu đảnh.
87.Như Phạm thiên không rời cõi vô lậu
Mà thị hiện rất nhiều hoá thân
Như mặt trời, ánh sáng trí tuệ phóng ra
Ý tựa như Như ý bảo châu tinh khiết.
88.Lời của chư Phật như tiếng vang không ngôn từ
Thân bao khắp như hư không thường hằng vô sắc
Phật địa như đất làm nền tảng cho tất cả
Dược thảo pháp trắng của chúng sinh.
89.Thanh tịnh như Lưu ly
Nhân thấy Phật trong tâm
Nền đất không thối chuyển
Tăng trưởng tính tín căn.
90.Vì thiện có sinh và diệt
Sắc thân Phật có sinh và diệt
Như Đế thích, Năng nhân
Pháp thân không sinh diệt.
91. Cũng vậy không cần nổ lực
Pháp thân không sinh không diệt
Thị hiện các công hạnh v.v…
Cho đến khi nào luân hồi còn tồn tại.
92.Tóm lược các ví dụ này
Nghĩa theo thứ tự này
Trước sau pháp không đồng
Qua đoạn trừ mà nói.
93.Phật giống như ảnh tượng
Nhưng Phật không giống (ảnh tượng) không có âm thanh;
Như chiếc trống trời, nhưng (Phật) không giống
(Trống trời) không làm lợi ích cho tất cả;
94.Giống như áng mây lớn
Nhưng (Phật) không giống (mây)
Không loại ra hạt giống vô ích;
Giống như Đại Phạm thiên
Nhưng (Phật) không giống Phạm thiên
Không làm cho thuần thục lâu dài.
95.Giống như hình mặt trời
Nhưng (Phật) không giống mặt trời
Không xoá tan bóng tối mãi mãi
Giống như Bảo châu như ý
Nhưng (Phật) không giống
Bảo châu như ý không khó tìm.
96.Như tiếng vang, nhưng (Phật) chẳng giống
Từ duyên mà sinh ra
Thanh tịnh như hư không
Vì không là cơ sở.
97.Như Mạn-đà-la đất
Làm nơi chốn nương ở viên mãn
Cho tất cả chúng sinh
Thế gian và xuất thế gian.
98.Nhờ nương tựa Phật Bồ đề
xuất sinh con đường xuất thế gian
Nghiệp đạo thiện, thiền định
Sinh khởi vô lượng và vô sắc
LỢI ÍCH PHẨM 5
(28 kệ tụng)
1.Phật giới, Phật Bồ đề
Phật pháp và Phật sự nghiệp
Hữu tình thanh tịnh cũng không thể suy lường
Đây là hành cảnh của những vị dẫn đạo.
2.Người trí tin cảnh của Phật
Trở thành vật chứa của nhiều đức tính Phật
Hoan hỷ nhiều đức tính không thể suy lường
Áp chế phước của tất cả chúng sinh.
3.Người hy cầu Bồ đề mỗi ngày thường dâng cúng Chư Phật
Cõi đất vàng kim trang hoàng ngọc ma ni
Số lượng bằng số bụi ở cõi Phật
Người khác chỉ nghe ngôn từ này
Nghe xong có niềm tin (luận) này
Đạt phước đức nhiều hơn
Thiện có được từ bố thí.
4.Người trí cầu vô thượng Bồ đề
Trải qua nhiều kiếp thân khẩu ý không cần nổ lực
Trì giới không cấu nhiễm
Người khác nghe chỉ ngôn từ này
Nghe xong có niềm tin luận này
Đạt phước nhiều hơn thiện có được do trì giới.
5.Người này tu tập phương tiện Bồ đề không biến chuyển
Thành tựu viên mãn cõi Trời và Phạm thiên
Thiền định đoạn trừ lửa phiền não ba cõi
Người khác chỉ nghe ngôn từ trong đây
Nghe xong có niền tin
Phước nhiều hơn thiện có từ thiền định.
6.Bởi vì bố thí được giàu sang
Trì giới sinh cõi cao
Tu thiền đoạn phiền não
Trí tuệ đoạn tất cả phiền não sở tri
Trí tuệ tối thắng này (duy nhất học, nghe và khát ngưỡng)
Nguyên nhân của trí này là nghe (bốn phẩm) này.
7.Xứ (Phật tánh) và chuyển biến xứ (Bồ đề)
Đức tính của Bồ đề (đức tính), thành tựu nghĩa (sự nghiệp)
Đây nói là bốn loại
Cảnh của Phật chứng tri.
8.Người trí tin tưởng rằng
Có (Phật tánh), khả năng và đức tính
Trở thành hữu duyên nhanh chóng
Đạt quả vị Như lai.
9.Cảnh không thể suy lường này
Ta có (Phật tánh) và như ta có thể đạt
Đạt được đức tính giống như đây
Vì niềm tin thắng giải.
10.Vật chứa các đức tính:
Dục, tinh tấn, niệm, định, tuệ v.v…
Tâm bồ đề thường trụ ở gần
Trong họ (chư vị Bồ tát).
11.Tâm bồ đề đó thường an trụ
Phật tử bất thối chuyển
Phước đức Ba-la-mật viên mãn
Chuyển thành tính thanh tịnh.
12.Phước đức trong năm Ba-la-mật đầu
Không phân biệt ba tướng
Chúng thanh tịnh viên mãn
Vì đã đoạn trừ phương diện đối lập.
13.Phước bố thí sinh từ bố thí
Phước trì giới sinh từ trì giới
(Phước của) cả hai nhẫn và định sinh từ tu tập
Tinh tấn đi cùng tất cả (ba phước).
14.Phân biệt tam luân (tác nhân, hành động và đối tượng)
Gọi là sở tri chướng
Các phân biệt: Bỏn xẻn v.v…
Chúng là phiền não chướng.
15.Ngoại trừ trí tuệ ra
Không có nhân khác đoạn trừ (hai chướng)
Trí tuệ tối thắng, nền tảng (tuệ) là nghe
Cho nên nghe là tối thượng.
16.Dựa vào giáo và luận lý đáng tin như trên
Giải thích này để hộ trì người trí,
Vì tự thanh tịnh bản thân
Những người có niềm tin thiện viên mãn.
17.Như nương nhờ ánh sáng ngọn đèn, điện,
Viên ngọc, mặt trời và mặt trăng
Người có mắt có thể thấy
Cũng vậy nương nhờ Năng nhân phóng hào quang
Nghĩa, từ, pháp và biện tài (tứ vô ngại giải)
Mà khéo giải thích luận này.
18.Nghĩa liên hệ thân thiết với pháp
Lời Phật đoạn trừ phiền não tạp nhiễm trong tam giới
Tuyên thuyết lợi ích của tịch tĩnh
Đó là lời Tiên nhân (Phật) dạy
Lời dạy khác thì ngược lại.
19.Luận giải giáo lý Phật
Với tâm không tán loạn
Thuận hợp đạt giải thoát đạo
Xem như lời Tiên nhân
Tôn kính trên đỉnh đầu.
20.Bởi vì trên thế gian này
Không có pháp thiện xảo hơn Phật
Toàn tri như lý chứng tri
Chân thật tối thượng không hư dối
Ngoài Phật không ai biết
Không nên quấy loạn kinh tạng
Mà do Tiên nhân tự thành lập.
Vì sẽ phá hoại Phật đạo lý
Cũng làm tổn hại chánh pháp.
21.Những người do si mê phiền não, phỉ báng thánh giả
Khinh thường lời dạy của bậc Thánh
Tất cả do kiến chấp
Đừng để tâm bị nhiễm ô kiến chấp
Nhuộn được vải sạch mà không nhuộn được vải đã loan dầu.
22.Do trí kém, do thiếu niềm tin thiện lành,
Do ỷ vào tà mạn
Tính chướng ngại do từ bỏ chánh pháp
Do chấp bất liễu nghĩa (tương đối) là liễu nghĩa (tuyệt đối)
Do tham đắm lợi dưỡng,
Do sức mạnh quan kiến
Do nương theo người phá hoại pháp
Do cách xa người hộ trì pháp
Do tin điều thấp kém
Khiếm bỏ pháp của chư vị A-la-hán (Phật).
23.Người trí cũng không nên sợ lửa tàn khốc,
Rắn độc, kẻ sát nhân và sấm sét
Giống như sợ làm suy hoại pháp thâm sâu
Lửa tàn khốc, rắn độc, kẻ sát nhân và sấm sét
Chỉ chấm dứt mạng sống nhưng không ném ta vào
Vô gián địa ngục rất khiếp đảm.
24.Do thường xuyên kết giao bạn tội lỗi,
Người đó có ác tâm với Phật
Giết cha mẹ, giết A-la-hán và phá hoà hợp tăng
Nếu (người ấy) quyết định tư duy về pháp tính
Sẽ nhanh chóng thoát khỏi tội trên
Tâm người sân giận pháp thì làm gì có giải thoát?
25.Những phước thiện có được nhờ giải thích đúng
Bảy xứ: Tam bảo, thanh tịnh giới (Phật tính),
Bồ đề vô cấu, đức tính và sự nghiệp
Nguyện chúng sinh này thấy được ánh sáng vô biên
Vô lượng thọ Tiên nhân (Phật A-di-đà)
Nhờ thấy (Phật) cũng nguyện cho họ
Sinh khởi pháp nhãn vô cấu, đạt vô thượng Bồ đề.
26.Dựa vào đâu, nguyên nhân gì
Bằng cách nào và giải thích như thế nào
Những gì là nhân tương ứng
Được dạy qua bốn kệ tụng (16-17-18-19).
27.Hai (kệ tụng 20-21) nói về phương pháp tự thanh tịnh
Một nói nhân suy hoại(kệ tụng 22)
Lại nói hai kệ tụng (kệ tụng 23-24)
Là nói về kết quả.
28.Nhẫn nhục Mạn-đà-la chúng
Thuyết pháp đạt Bồ đề
Tóm lược có hai quả
Nói trong kệ tụng cuối cùng (kệ tụng 25).
Dharamsala ngày 4/5/2019
Con thành kính tri ân Geshe Kunkhenla (Tu viện Drepung Loseling), Geshe Sangke Jangchupla (Viện trưởng Tu viện
Gaden Shartse) đã dạy Bảo tánh luận cho con vào năm 2014.
Đặc biệt tri ân Geshe Ngawang Sangkela (Tu viện Drepung Loseling) hướng dẫn phiên dịch 4/ 2019.
Tài liệu tiếng Tạng
Gyu-La-Ma của Ngài Di Lặc soạn tác.
Gyu-Lame manshe Chimidrokpa sengke ngaro của Ngài Jamgon Lodro- Thaye luận giải.
Thegpa chenpo Gyu-La-Ma trika của Gyatshap Tharma-Rinchen luận giải.
Tham khảo tiếng anh
The Changeless Nature (Mahayana Uttara Tantra Sastra) by Arya Maitreya & Acarya Asanga, translated from the Tibetan by Ken
& Katia Holmes.
Maitreya’s the Uttaratantra by Khenchen Thrangu Rinpoche
Tham khảo tiếng Hoa
Bảo tánh luận của dịch giả Giang Ba dịch từ tiếng Tạng sang tiếng Hoa
Tham khảo bản tiếng Việt
Luận Phật tính của dịch giả Đỗ Đình Đồng dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt
Tri ân tất cả tài liệu và dịch giả mà con đã tham khảo. Bản dịch chưa hiệu đính, chuẩn bị pháp hội đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng cho người Nga
thỉnh ngày 10-12/5/2019.