204
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH NGUYN KHC DU CHÊT L¦îNG §μO T¹O CAO CÊP Lý LUËN CHÝNH TRÞ CHO C¸N Bé L·NH §¹O, QU¶N Lý TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY LUN ÁN TIN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYN NHÀ NƯỚC Mã s: 62 31 02 03 Người hướng dn khoa hc: 1. PGS.TS. NGUYN VIT THO 2. PGS.TS. NGUYN VĂN GIANG HÀ NI - 2016

CHÊT L¦îNG §µO T¹O CAO CÊP Lý LUËN CHÝNH TRÞ …hcma.vn/Uploads/2016/10/3/Luan an NGUYEN KHAC DIU.pdf2016/10/03  · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KHẮC DỊU

CHÊT L¦îNG §µO T¹O

CAO CÊP Lý LUËN CHÝNH TRÞ CHO C¸N Bé

L·NH §¹O, QU¶N Lý TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 62 31 02 03

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT THẢO

2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN GIANG

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực và có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Khắc Dịu

MỤC LỤC

Trang MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6

1.1. Những nghiên cứu trong nước 6 1.2. Những nghiên cứu nước ngoài 15 1.3. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan và những

vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu 21

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ 24

2.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý 24

2.2. Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý - khái niệm, yếu tố quy định và tiêu chí đánh giá 43

Chương 3: CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 62

3.1. Thực trạng chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay 62

3.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra 100

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 110

4.1. Dự báo tình hình tác động và quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay 110

4.2. Các giải pháp chủ yếu 116

KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 162

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CCLLCT : Cao cấp lý luận chính trị

CCLLCT - HC : Cao cấp lý luận chính trị - hành chính

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DHTC : Dạy học tích cực

LLCT : Lý luận chính trị

Nxb : Nhà xuất bản

TC : Tiêu chuẩn

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang

Bảng 3.1: Mức độ ưu tiên đối với việc học lý luận chính trị 89

Biểu đồ 3.1: Kết quả học tập tại Trung tâm Học viện 96

Biểu đồ 3.2: Kết quả học tập tại Học viện Chính trị khu vực IV 97

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (LLCT) cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ.

Thực tiễn không ngừng biến đổi, lý luận cũng không ngừng được bổ sung,

phát triển phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội trong từng giai đoạn cách

mạng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải không ngừng học tập, nghiên

cứu để nâng cao trình độ ngang tầm nhiệm vụ. Đào tạo cao cấp lý luận chính trị

(CCLLCT) cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong nội dung quan trọng

của đào tạo, bồi dưỡng LLCT, nhằm trang bị kiến thức lý luận chính trị, lãnh đạo

quản lý, tư duy khoa học, tầm nhìn chiến lược góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị,

trình độ nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ.

Trong những năm qua, công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản

lý được các cấp uỷ đảng quan tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng: hệ thống cơ sở

đào tạo CCLLCT đã được củng cố và phát triển; quy mô đào tạo không ngừng mở

rộng, bảo đảm thực hiện kế hoạch được giao, một số lượng lớn cán bộ lãnh đạo,

quản lý đã được đào tạo CCLLCT; đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi

dưỡng; đội ngũ giảng viên tăng cả về số lượng và chất lượng; công tác quản lý đào

tạo được chú trọng, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo được cải

thiện…. Những kết quả của công tác đào tạo CCLLCT đã góp phần làm cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý nhận thức đúng đắn về tình hình đất nước, nâng cao năng lực, tư

duy công tác góp phần quan trọng vào công tác xây dựng đảng, chính quyền và

đoàn thể chính trị - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và thực hiện nhiệm vụ phát

triển kinh tế - xã hội.

Những thành tựu và kết quả nói trên là do có sự quan tâm, chăm lo của Đảng,

Nhà nước; của các cấp uỷ đảng và tinh thần trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, sự tận

tuỵ của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo đã tích cực đổi mới trong chỉ

đạo, tổ chức thực hiện đào tạo LLCT; sự ổn định về chính trị cùng với những thành

tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, chất lượng công tác đào

tạo CCLLCT trong thời gian qua còn hạn chế: nội dung, chương trình đào tạo chưa

đảm bảo yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn và rèn luyện tư tưởng chính

trị, đạo đức, tác phong cho học viên; phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, nặng về

truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực và sáng tạo của học viên;

cách đánh giá kết quả học tập của học viên còn lúng túng, chưa phản ánh đúng thực

chất, quản lý đào tạo có mặt còn yếu kém, nhất là quản lý tự học của học viên; đội

ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo có mặt chưa tương xứng với yêu cầu của

công tác đào tạo LLCT.

Những hạn chế, yếu kém nói trên do nhiều yếu tố như: một số cấp ủy, cơ

quan đơn vị chưa nhận thức sâu sắc và toàn diện về công tác đào tạo LLCT, không

ít cán bộ, đảng viên xác định chưa đúng mục tiêu đào tạo CCLLCT là nâng cao

trình độ LLCT để phục vụ công tác tốt hơn, mà coi mục tiêu đào tạo là có đủ bằng

cấp, chứng chỉ để hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh; việc cán bộ có xu hướng tập

trung vào học CCLLCT với hình thức đào tạo tại chức để hoàn thiện về tiêu chuẩn

bằng cấp, tạo ra mất cân đối giữa yêu cầu học tại chức và tập trung; hệ thống văn

bản chỉ đạo, hướng dẫn còn có bất cập, chưa đồng bộ; quy định về tiêu chuẩn trình

độ LLCT đối với các chức danh cán bộ còn có điểm chưa phù hợp, chậm đổi mới

nên việc thực hiện phân cấp đào tạo LLCT theo đối tượng, tiêu chuẩn chức danh

còn có khó khăn, lúng túng; đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo bất cập về

chất lượng, số lượng và cơ cấu, có một số hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, năng

lực hoạt động thực tiễn; một bộ phận thiếu gương mẫu đã góp phần làm cho chất

lượng dạy và học chưa bảo đảm yêu cầu

Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, quán triệt sâu sắc quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo được nêu tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban

Chấp hành Trung ương (khoá XI), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm

2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”, để bảo đảm góp phần thực hiện thắng

lợi sự nghiệp đổi mới, việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo CCLLCT cho cán

bộ lãnh đạo, quản lý là cần thiết, cấp bách.

3

Với tinh thần đó, việc nghiên cứu đề tài “Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất cấp thiết.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo CCLLCT cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý thời gian qua; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo,

quản lý thời gian qua, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ thực trạng đó. - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán

bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ là vấn đề lớn, phạm vi rộng với nhiều

vấn đề liên quan. Luận án này tập trung nghiên cứu về chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.

Luận án khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến nay và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2025.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn - Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo cán

4

bộ lãnh đạo, quản lý. Luận án có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài.

- Luận án cũng được nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn đào tạo CCLLCT

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án sử

dụng hệ thống tài liệu, tư liệu, số liệu lưu trữ của các cơ quan, địa phương, đơn vị cũng

như kết quả điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực tế của tác giả.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lôgíc

kết hợp phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, tổng kết thực

tiễn, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia….

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học Một là, làm rõ quan niệm chất lượng đào tạo CCLLCT; xây dựng hệ thống

tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Hai là, đề xuất một số giải pháp mới, mang tính đặc thù nâng cao chất lượng

đào tạo CCLLCT trong giai đoạn hiện nay:

- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo cao cấp lý luận

chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, sát hợp với từng đối tượng, từng loại chức

danh cán bộ.

- Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng nghiên cứu, phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm.

- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị, gắn

học tập lý luận với việc rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, tác phong của người

cán bộ lãnh đạo, quản lý.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Kết quả nghiên cứu luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực

trạng công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời gian vừa qua.

- Kết quả nghiên cứu của luận án là căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp và

áp dụng trong thực tiễn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo

CCLLCT, góp một phần phục vụ cho việc tham mưu đề xuất Bộ Chính trị ra Nghị

quyết về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán

5

bộ lãnh đạo, quản lý” và các hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về thực hiện

Nghị quyết trên.

- Luận án có thể làm tài liệu để các tỉnh, thành ủy trong cả nước tham khảo

trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng và nghị

quyết của cấp ủy ở từng địa phương về đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lănh đạo,

quản lý; đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng

dạy và học tập môn Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở hệ thống Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị của các tỉnh, thành phố.

7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Vai trò của công tác đào tạo cán bộ nói chung, đào tạo LLCT cho đội ngũ

cán bộ nói riêng đã được khẳng định ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng ta.

Trong thực tiễn, công tác này luôn được sự chỉ đạo của Đảng và được nhiều nhà

khoa học trong nước, ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Sau đây là những công trình

nghiên cứu tiêu biểu trong thời gian gần đây:

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Đề tài khoa học Do tầm quan trọng của công tác đào tạo LLCT đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý,

những năm gần đây, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề có liên quan: công

tác cán bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Trong các nghiên cứu đó, có nhiều đề

tài cấp Nhà nước, cấp bộ. Có thể điểm qua một số nghiên cứu quan trọng sau:

- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Nguyễn Phú Trọng [111]

đã nghiên cứu công phu, có giá trị lớn cả về phương diện lý luận và và tổng kết thực

tiễn về công tác cán bộ, đặc biệt là về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- “Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý luận chính trị các

trường đại học cao đẳng” của Tô Huy Rứa [92] đã đánh giá khái quát năng lực đào

tạo lý luận Mác - Lênin của một số trường Đại học tại Hà Nội, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất một khung chương trình

tổng thể để đào tạo giảng viên các môn lý luận Mác - Lênin.

- “Đổi mới quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên

cứu khoa học Mác - Lênin - Kiến nghị và giải pháp” của Phạm Tất Dong [41] đã làm

rõ thực trạng đào tạo và giảng dạy của đội ngũ khoa học Mác - Lênin, đồng thời đề

xuất những chế độ, chính sách để phát triển đội ngũ này. Trong số những giải pháp,

đề xuất này, có những giả pháp không còn phù hợp với yêu cầu mới, cần phải nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung phù hợp giai đoạn phát triển hiện nay.

7

- “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống

chính trị trong thời kỳ đổi mới” của Trần Xuân Sầm [94] đã tập trung nghiên cứu và

phân tích rõ vấn đề cơ cấu cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, mối quan hệ giữa cơ cấu và

tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị trong thời

kỳ đổi mới.

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Trọng Bảo [11]

đã làm rõ một số vấn đề về lý luận, đồng thời đánh giá một cách khái quát đội ngũ

cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, trên cơ sở đó đã đề xuất

phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh ở Việt Nam trong

thời kỳ mới.

- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển

cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của

Trần Đình Hoan [68] đã tập trung làm rõ những cơ sở khoa học, phân tích sâu sắc

tình hình thực tiễn, kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp cơ bản về đánh giá, quy

hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, đánh giá, phân tích

về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này trong sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, góp phần làm sáng tỏ thêm các quan điểm của Đảng về luân

chuyển cán bộ và kiến nghị các giải pháp để triển khai thực hiện tốt công tác điều

động, luân chuyển cán bộ ở các cấp, các ngành.

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Vũ Văn Hiền [63] có phạm

vi nghiên cứu rộng, nội dung đề cập tới một số vấn đề và nhiệm vụ cấp bách đặt ra

đối với công tác cán bộ nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng của

Đảng trước yêu cầu của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Bộ Nội vụ [28] đã phân tích

tính tất yếu khách quan của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu

cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN); thực trạng đội ngũ

8

và thể chế quản lý cán bộ, công chức cấp xã; phương hướng và giải pháp xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN ở nước ta.

- “Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở Việt

Nam- Những vấn đề chung” của Nguyễn Hữu Vui [122] đã đánh giá thực trạng sử

dụng phương pháp trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin hiện nay và đề ra

những giải pháp cơ bản để đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học này.

- "Đổi mới phương thức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và

nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” của Nguyễn Việt Chiến

[32] đã đánh giá thực trạng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và

nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay và đề ra các giải

pháp cơ bản để đổi mới phương thức đào tạo tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng

dạy và nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

- “Rà soát và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung một số nội dung giáo dục đạo

đức công dân, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường ở

từng cấp học” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10] là một công trình nghiên cứu

có mục tiêu tìm ra các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các môn

LLCT, đạo đức công dân trong các bậc học khác nhau. Theo nhóm tác giả, đội ngũ

giảng viên Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng nước

ta hiện nay tuy tăng nhanh về số lượng, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo.

Tình trạng dạy vượt giờ, quá tải khiến một số đông đội ngũ không có thời gian đầu tư,

hoàn thiện chuyên môn, ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của đội ngũ.

- "Đào tạo giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay” của Hoàng

Đình Cúc [38] đã minh chứng luận điểm: chất lượng đào tạo giảng viên các môn

LLCT quyết định chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy LLCT và do đó chi phối quá

trình dạy - học các môn khoa học lý luận trong các trường đại học hiện nay.

- Các đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận

chính trị trong hệ thống các trường chính trị nước ta giai đoạn hiện nay” của Ngô

Ngọc Thắng [98] và “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào giáo dục lý

luận chính trị trong giai đoạn hiện nay” của Ngô Ngọc Thắng [99] đã khái quát các

9

luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục LLCT, khảo sát thực trạng

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào công tác giáo dục LLCT hiện nay.

Từ đó đưa ra giải pháp vận dụng tư tưởng về giáo dục LLCT vào giáo dục LLCT

hiện nay.

- “Tình hình giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng và chủ trương, giải pháp cho thời

gian tới” của Ban Tuyên giáo Trung ương [9] đã nghiên cứu một cách tổng quát

về đội ngũ giảng dạy các môn khoa học này với tư cách là một trong những yếu

tố quan trọng, trực tiếp tác động đến chất lượng quá trình dạy và học. Nhóm

nghiên cứu cho rằng, bên cạnh hàng loạt các ưu điểm về gia tăng học hàm, học

vị trong đội ngũ, thì hạn chế lớn nhất của số đông đội ngũ này là sức ỳ lớn, chậm

đổi mới tư duy, ngại trau dồi kiến thức, ít chịu tìm tòi phương pháp giảng dạy

phù hợp với những đối tượng khác nhau, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy.

Đặc biệt, tâm lý coi các môn học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học

phụ, nhất là trong các trường kỹ thuật cũng là một trong những nguyên nhân cản

trở đổi mới phương pháp.

- “Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Trần Thị

Anh Đào [53] đã làm rõ được những khái niệm LLCT, phân tích được vai trò của

giáo dục LLCT đối với sinh viên; tác giả đã đã nắm vững tâm sinh lý của sinh viên,

kết hợp lý luận và thực tiễn khảo sát đưa ra phân tích có cơ sở, cần thiết và thuyết

phục; nhìn thẳng vào bức tranh thực tế: mặt tốt - xấu của sinh viên để có những

đánh giá và đưa ra những giải pháp, định hướng nâng cao giáo dục LLCT cho sinh

viên đúng đắn và mang tính khả thi cao.

- “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh” của Trần Minh Tuấn [115]

đã tập trung giải quyết các vấn đề: luận giải yêu cầu cấp thiết hiện nay về đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện, theo đó, chương trình đào tạo, bồi

dưỡng phải phân định rõ các chương trình đào tạo và các chương trình bồi dưỡng;

mỗi chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới một loại đối tượng xác định,

phải hướng tới từng chức danh đào tạo nhất định.

10

Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã nêu ở trên có giá trị tham khảo tốt để

luận án nghiên cứu và đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất

lượng công tác đào tạo CCLLTC phục vụ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.

1.1.2. Sách Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến công tác đào tạo

LLCT đã được xuất bản. Có thể liệt kê một số nghiên cứu lớn sau:

- “Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay” của

Nguyễn Văn Tài [96] đã vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta,

đồng thời, kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trước đó, đã làm rõ một

số vấn đề như: nội dung và những động lực cơ bản của quá trình tích cực hoá nhân

tố con người đối với đội ngũ cán bộ; vai trò của đội ngũ cán bộ; phân tích, đánh giá

những mặt làm được, ưu điểm, những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân của

những ưu điểm và hạn chế trong tích cực hoá nhân tố con người của đội ngũ cán bộ

nước ta hiện nay. Đề xuất một số vấn đề và những giải pháp cơ bản nhằm phát huy

tính tích cực nhân tố con người của đội ngũ cán bộ trong tình hình hiện nay.

- “Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay” của Hồ

Bá Thâm [102] đã khẳng định, tư duy và trí tuệ con người, đặc biệt là ở người cán

bộ lãnh đạo có tác dụng lớn đến hoạt động của họ và thông qua đó ảnh hưởng đến

sự phát triển của xã hội. Đó là một tiềm lực, nguồn lực to lớn của dân tộc trong phát

triển, nhất là đối với thời đại ngày nay. Tác giả xem xét một cách hệ thống bản chất,

nội dung của năng lực tư duy, phong cách tư duy, đồng thời kiến nghị một số giải

pháp, định hướng phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo trong đổi

mới tư duy, phát triển trí tuệ hiện nay.

- “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ

sở của trong giai đoạn hiện nay” của Vũ Ngọc Am [1] đã làm rõ mối quan hệ giữa

công tác giáo dục chính trị tư tưởng với việc nâng cao tính tự giác cách mạng cho

cán bộ, đảng viên và phân tích quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo

dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm chống lại âm mưu "diễn biến hoà

bình" của các thế lực thù địch.

11

- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học” của Nguyễn Duy Bắc [5] đã tập hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu lý luận chuyên sâu, tập trung phân tích chất lượng dạy và học các môn LLCT. Các nhà khoa học thống nhất cho rằng nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy các môn Mác - Lênin và chất lượng học tập các môn học này làm nên bức tranh tổng thể chất lượng đào tạo các môn LLCT cho sinh viên nước ta hiện nay.

- “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý luận chính trị” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia [86] đã giới thiệu các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin với con đường cách mạng Việt Nam, trong đó, Người nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đến việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định rõ nội dung và nhiệm vụ học tập LLCT; vấn đề để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên của Đảng.

- “Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho giảng viên giảng dạy các chương trình lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện)” của Ngô Văn Thạo [101] đã khái quát chung khái niệm LLCT và giáo dục LLCT; một số vấn đề tâm lý và giáo dục học trong giảng dạy học LLCT, phẩm chất nghề nghiệp, nghệ thuật diễn giảng, kiểm tra, đánh giá trong dạy học LLCT.

- “Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị” của Vũ Ngọc Am [2] được coi như cẩm nang nghiệp vụ của những người làm công tác giáo dục LLCT nói chung và những người trực tiếp làm công tác giảng dạy LLCT nói riêng. Nội dung chủ yếu của cuốn sách gồm có ba phần chính, đặc biệt, trong phần thứ hai (phần trọng tâm của cuốn sách này) có một nội dung rất mới, đó là đề cương một số bài giảng khá chi tiết và hữu ích dành cho giảng viên tham khảo.

- “Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị” của Phạm Huy Kỳ [78] đã trình bày một số vấn đề lý luận và phương pháp của công tác nghiên cứu, giáo dục LLCT và công tác nghiên cứu, biên soạn, giáo trình lịch sử đảng bộ địa phương. Riêng phần lý luận và phương pháp giáo giáo dục LLCT, cuốn sách chủ yếu tập trung trình bày lý luận và phương pháp dạy học LLCT - nội dung hoạt động chủ yếu trong hệ thống giáo dục LLCT của Đảng ta hiện nay.

12

- “Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của

Trần Thị Anh Đào [54] đã làm rõ được một số vấn đề chung về công tác giáo dục

LLCT cho sinh viên Việt Nam. Từ việc phân tích thực trạng công tác giáo dục

LLCT cho sinh viên Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số phương hướng cơ

bản và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác giáo dục LLCT cho sinh

viên Việt Nam hiện nay, từ đó đã chỉ ra những giải pháp khả thi để góp phần hữu

hiệu vào việc nâng cao chất lượng giáo dục LLCT cho sinh viên, nhằm đáp ứng nhu

cầu càng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- “Đo lường và đánh giá hoạt động học tập trong nhà trường” của Lâm

Quang Thiệp [103] đã nêu bật được các khái niệm về đo lường và đánh giá trong

giáo dục, từ đó đưa ra các nội dung cơ bản về đo lường và đánh giá trong giáo dục ở

mọi bậc học. Đặc biệt, đã nêu ra các phương pháp đánh giá kết quả học tập, điều

kiện, nội dung, xây dựng, thiết kế tiêu chí đánh giá kết quả của các phương pháp.

Ngoài ra còn một số nghiên cứu cũng đề cập đến một số nội dung của luận

án về giáo dục, về giảng dạy, về giáo dục chính trị trị tư tưởng liên quan đến công

tác đào tạo LLCT, như: “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức

chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” của Lê Hữu Nghĩa và cộng

sự [85]; “Các lý thuyết tổ chức hiện đại và việc vận dụng vào công tác tổ chức xây

dựng Đảng hiện nay” của Nguyễn Văn Giang, Phạm Tất Thắng [59]; “Một số ý kiến

trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học và cao

đẳng” của Lê Xuân Nam và cộng sự [84]; “Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Nguyễn Văn Sơn [95]; “Quán triệt

vận dụng nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” của Vũ Hiền, Đinh Xuân Lý [62]; “Học tập phương

pháp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh” của Nguyễn Hữu

Đổng [58]; “Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học

Mác - Lênin ở các trường Đại học, Cao đẳng” của Trường đại học Kinh tế quốc

dân - Ban Triết học [113]; “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới

nội dung, chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” của

Lương Gia Ban [5]; “Phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá các môn khoa học

13

xã hội và nhân văn” của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền [87]; “Hồ Chí Minh với

Công tác tư tưởng” của Hồng Vinh, Đào Duy Quát [120]; “Dạy và học các môn tư

tưởng Hồ Chí Minh theo phương pháp tích cực” của Nguyễn Đăng Quang [89];

“Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của

Trần Thị Anh Đào [54]; “Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác

tư tưởng” của Trần Thị Anh Đào [56]; “Công tác tư tưởng lý luận trong thời kỳ đổi

mới - Thực trạng và giải pháp” của Phạm Tất Thắng [100]; “Vấn đề đổi mới công

tác giảng dạy và học tập lý luận chính trị hiện nay” của Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh [71]...

1.1.3. Luận án tiến sĩ Việc đào tạo LLCT, do vai trò quan trọng cũng như đặc thù của công tác này

cũng được nhiều nghiên cứu sinh chọn làm đề tài nghiên cứu.

- “Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách

của sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” của Hoàng Anh

[4] đã khái quát có hệ thống các vấn đề lý luận về giáo dục lý luận Mác - Lênin, sự

hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên, kinh tế thị trường. Tác giả tiến

hành khảo sát sinh viên các trường đại học ở Hà Nội, từ đó chỉ ra thực trạng và

những vấn đề đặt ra trong giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên hiện nay.

Luận án đã đưa ra được hệ thống 4 giải pháp có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

- “Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống

chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ” của Lê Hanh Thông [104] đã trình bày

khái quát các vấn đề lý luận về giáo dục LLCT, tiến hành khảo sát thực trạng giáo

dục LLCT cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã khu vực Nam Bộ, từ

đó đưa ra hệ thống các giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đổi mới, nâng cao chất

lượng công tác giáo dục LLCT cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã

khu vực Nam Bộ.

- “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học

viện quân sự ở nước ta hiện nay” của Lương Ngọc Vĩnh [121] đã tập trung luận

giải, làm sáng rõ cấu trúc và bản chất của hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả

với mục đích và nguồn lực; bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chí, phương pháp,

hình thức đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên

14

các Học viện Quân sự. Trên cơ sở khảo sát thực trạng sự tương quan giữa kết quả

với mục đích và sử dụng nguồn lực công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học

viên các Học viện Quân sự, khái quát được các mâu thuẫn cần giải quyết để nâng

cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng. Tác giả đã đề xuất được 4 nhóm

giải pháp dưới góc độ khoa học công tác tư tưởng theo hướng huy động tối đa tiềm

năng của các Học viện Quân sự một cách hợp lý, tiết kiệm để nâng cao hiệu quả

công tác giáo dục chính trị - tư tưởng.

1.1.4. Hội thảo và bài báo Có nhiều Hội thảo khoa học và các bài viết trên các báo, tạp chí liên quan tới

nội dung của luận án.

- “Đổi mới giảng dạy, học tập môn Triết học Mác - Lênin trong các trường

đại học toàn quốc” của Bộ Giáo dục và Đào tạo [24]; “Cơ sở lý luận và thực tiễn

của chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ

thống chính trị” của Ban Tổ chức Trung ương [8]; “Nâng cao chất lượng giảng dạy,

học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng” của Bộ Giáo

dục và Đào tạo - Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh [27].

- Các bài báo trên các tạp chí khoa học có thể kể đến nghiên cứu của các tác

giả: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận” của Lương Gia Ban [6];

“Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị” của Lê Bình

[13]; “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận

chính trị trong tình hình mới” của của Đào Duy Quát [90]; “Vận dụng tư tưởng Hồ

Chí Minh vào đổi mới phương pháp giảng dạy Lý luận chính trị tại học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh” của Vũ Thị Hoa [65]; “Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ về lý luận chính trị theo quan điểm của Hồ Chí Minh” của Mạch Quang

Thắng [97]; “Vài nét về thực trạng và giải pháp tiếp tục tiếp tục đổi mới công tác

nghiên cứu lý luận chính trị” của Nguyễn Tiến Hoàng [69]; “Để thực hiện tốt

chương trình đổi mới giáo dục lý luận Mác - Lênin ở trường Đại học và cao đẳng”

của Nguyễn Công Hưng [75]; “Đổi mới Phương pháp giảng dạy ở Học viện Chính

trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thành Khải [77]; “Hiệu quả

và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị” của Vũ Ngọc Am

[3]; “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”

15

của Nguyễn Tuấn Khanh [76]; “Bồi dưỡng dự nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

cao” của Nguyễn Khắc Dịu [40]; “Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho bí thư, phó bí

thư cấp ủy cấp huyện” của Nguyễn Minh Tuấ [114]…

Các công trình trên đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về: Lý luận,

Lý luận chính trị, giáo dục LLCT nói chung và giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng

viên, nhân dân, thanh niên, sinh viên… nói riêng. Một số công trình cũng tập trung

nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của giáo dục LLCT, thực trạng những vấn đề

đặt ra và từ đó đã đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục

LLCT hiện nay có giá trị tham khảo tốt.

1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Luận án tiến sĩ nước ngoài

- “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và

Nhà nước Lào hiện nay” của Xinh Khăm Phôm Ma Xay [123] đã trình bày những

vấn đề cơ bản về cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế; chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ lãnh đạo; đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào hiện nay.

- “Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên Đảng Nhân dân cách

mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” của Bu Phết Xu Ly Vông Xác [30] đã đưa ra

khái niệm về trình độ lý luận và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên

Đảng Nhân dân cách mạng Lào; đánh giá thực trạng nâng cao trình độ lý luận, đề

xuất giải pháp nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên.

Các đề tài, công trình nêu trên cũng đã nói đến, hoặc đề cập đến công tác cán

bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ ở nhiều khía cạnh khác nhau; tuy

nhiên, chưa có đề tài, công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về chất lượng

đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay.

1.2.2. Những kinh nghiệm về đào tạo công chức ở nước ngoài

Đào tạo công chức của nhiều nước thường được thực hiện trong một môi

trường chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực quốc gia đồng bộ và hợp lý

gắn kết đào tạo theo ngành với việc phát triển nghề nghiệp, đồng thời chú trọng

công tác đào tạo nhân sự cho chính quyền các cấp địa phương.

16

Hầu hết các nước đều có quy định mang tính bắt buộc công chức phải trải

qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng trước khi nhận nhiệm vụ như là điều kiện để được

bổ nhiệm cũng như phải tham gia các khoá đào tạo lại khi đang làm việc nếu muốn

được thăng tiến vào các vị trí quản lý cao hơn.

Nhìn chung các nước trên thế giới đều chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ quản lý và công chức, coi đây là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược.

Ở nhiều nước quan niệm đây là công tác đào tạo công chức nhà nước thuộc hệ giáo

dục đặc biệt chứ không phải hệ thống giáo dục quốc dân nói chung.

Ở Trung Quốc, theo Triệu Lý Văn [117], căn cứ nhu cầu phát triển kinh tế xã

hội và yêu cầu xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng và cương vị công tác của

cán bộ, Đảng Cộng sản Trung Quốc xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ, công chức

hàng năm và dài hạn, lấy lý luận chính trị, chính sách pháp quy, kiến thức nghiệp

vụ, huấn luyện kỹ năng… làm nội dung cơ bản với nhiều phương thức khác nhau,

kết hợp giữa tổ chức điều động đào tạo, chọ học tự chủ và tự học tại chức. Nội dung

học tập là “một trung tâm, bốn mặt”, trung tâm là việc Trung Quốc hoá chủ nghĩa

Mác (gồm lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng 3 đại diện và quan điểm phát triển

khoa học), bốn mặt là: Nền tảng lý luận, nhãn quan thế giới, tư duy chiến lược và tu

dưỡng tính đảng. Phương pháp giảng dạy chủ yếu tại các trường đảng là phương

pháp gắn lý luận với thực tế, coi đây là phương pháp cơ bản; trong quá trình học tập

thì dạy và học bổ trợ nhau, học và học bổ trợ nhau nhằm huy động tính tích cực của

cả người học lẫn người dạy với phương châm “hai chính, một tăng cường”, tức tự

học là chính, đọc nguyên tác là chính, tăng cường thảo luận. Các trường đảng Trung

Quốc hiện nay đang chú ý cải cách và sáng tạo phương pháp giảng dạy, thúc đẩy

phương pháp dạy kiểu nghiên cứu và học kiếu nghiên cứu tuỳ thuộc vào nội dung

giảng dạy và đặc điểm của học viên.

Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là cơ quan chủ quản

công tác đào tạo cán bộ, chịu trách nhiệm xây dựng quy hoạch và chỉ đạo thống

nhất công tác đào tạo cán bộ, thiết lập cơ chế đào tạo cán bộ công chức cho từng cấp,

từng ngành. Cán bộ viên chức nhà nước do Học viện hành chính đào tạo, mỗi ngành lại

có trường riêng để đào tạo cán bộ, công chức cho ngành mình. Việc đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp do Trường Đảng Trung ương đảm nhiệm.

17

Thời gian đào tạo ở Trường Đảng và Trường Hành chính cao nhất là một

năm, nếu ngắn thì 3 hoặc 4 tháng. Tất cả cán bộ, công chức trước khi bổ nhiệm đều

phải qua một khoá bồi dưỡng ít nhất 3 tháng tại các học viện theo hướng dẫn của

Ban Tổ chức Trung ương.

Đảng, Chính phủ có kế hoạch thường xuyên và gửi cán bộ lãnh đạo, quản lý

đi nước ngoài học tập chủ yếu là hình thức ngắn hạn. Chỉ cán bộ, công chức chuyên

môn kỹ thật mới gửi đi học nước ngoài dài hạn. Kinh phí có loại do Nhà nước đài

thọ, có loại do cá nhân tự bỏ tiền để đi học.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức rất linh hoạt: thiếu gì bồi

dưỡng nấy. Bồi dưỡng cả tư cách nhậm chức cho cán bộ công chức. Không bồi

dưỡng đủ thì không đề bạt. Đặc biệt, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức rất chú trọng năng lực thực hành của cán bộ trong thực tiễn. Coi trọng việc rèn

luyện trong thực tiễn là một trong 3 yếu tố chủ yếu tạo nên phẩm chất cán bộ công

chức. Ba tố chất đó là: trình độ LLCT, năng lực hoạt động thực tiễn, đức tính tự

trọng, tự lập, tự nghiêm (tự nghiêm túc yêu cầu, quản lý và giám sát công việc).

Trong tình hình mới, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức đặt ra yêu cầu

mới: phải hướng nội dung, phương thức, quy trình đào tạo, bồi dưỡng vào việc hình

thành các tố chất cao cho cán bộ, công chức

Nhiều địa phương ở Trung Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

theo cả 2 hướng: đưa đi đào tạo ở trường Đảng và đưa xuống cơ sở. Ví dụ: để đề bạt

giám đốc sở, người đó phải xuống cơ sở làm 2 năm, vào học ở trưởng Đảng, trường

hành chính ít nhất 3 tháng trở lên.

Theo các nghiên cứu về công chức của một số nước của Nguyễn Danh Châu

và Lê Minh Thông [31; 107], nhiều quốc gia đã xây dựng quy trình đào tạo cán bộ

quản lý và công chức của mình theo một công nghệ đào tạo chặt chẽ, khoa học. Các

quy trình này là một quá trình gắn liền với những khoá học bắt buộc với sự phân

công công việc hợp lý, diễn ra trong suốt quá trình làm việc của công chức. Sau đây

là công tác đào tạo đội ngũ công chức ở một số nước phát triển và trong khu vực.

Ở Nhật Bản, quá trình làm việc và học tập của công chức thường xuyên đi

liền với nhau, việc đào tạo diễn ra hàng năm và trên thực tế là diễn ra liên tục trong

suốt thời gian làm việc của công chức. Đào tạo một viên chức nhà nước ở mỗi cấp

18

đều có quy trình rất chặt chẽ và cụ thể. Viện Nhân sự Nhật Bản mỗi năm chọn từ 5-

6 vạn sinh viên năm thứ tư để lấy 1000 người đào tạo quan chức nhà nước của các

bộ, ngành. Sau 1-3 năm thực tập, gửi đi đào tạo ở nước ngoài 2-3 năm, làm trưởng

nhóm công tác 2 năm, làm giám đốc trách nhiệm độc lập 1 năm, làm phó phòng 10

năm ở 5 nơi khác nhau, làm phó ty hoặc tuỳ viên sứ quán ở nước ngoài 3-4 năm,

làm trưởng phòng 6 năm di chuyển nhiều lần, làm trưởng ty, làm phó vụ trưởng, vụ

trưởng, thứ trưởng. Như vậy, để được bổ nhiệm chức trưởng phòng, công chức cần

làm việc cật lực và có thành tích xuất sắc trong 10 năm, để lên chức phó ty cần 20

năm, trưởng ty cần 25-30 năm, thứ trưởng trên 30 năm. Thời gian là một vấn đề,

nhưng quan trọng hơn là quá trình làm việc, người công chức phải có thành tích

xuất sắc. Nhật Bản đã xây dựng được một phương thức tuyển chọn và quy trình đào

tạo, không chỉ qua các lớp học nâng cao kiến thức, trình độ mà là một quá trình rèn

luyện kinh qua công việc thực tế, với một trình tự chặt chẽ và khoa học.

Ở Pháp, công tác đào tạo công chức hiện nay có sự thay đổi về mục tiêu và

nội dung, nhằm trang bị cho công chức những kiến thức và kỹ năng để thích ứng

với sự biến động của xã hội và nền hành chính diễn ra hàng ngày. Chính phủ Pháp

coi trọng việc xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn

cao, có khả năng thích ứng với những thay đổi và phát triển nghề nghiệp. Công tác

đào tạo cán bộ quản lý và công chức được coi là cốt lõi là trọng tâm của công cuộc

hiện đại hoá nền công vụ, tập trung vào 2 yếu tố cơ bản là phát huy cao độ tính

chuyên nghiệp và phát triển khả năng chịu trách nhiệm cao hơn của cán bộ quản lý

và công chức trong hệ thống công vụ hiện đại. Trường Hành chính quốc gia Pháp là

cơ sở đào tạo hành chính không chỉ cho cán bộ quản lý và công chức nước Pháp mà

còn nổi tiếng trên thế giới bởi những thành tựu nghiên cứu khoa học hành chính và

đào tạo cập nhật phát triển những kỹ năng hành chính.

Ở Phi-lip-pin, Uỷ ban công vụ là cơ quan giúp Chính phủ quản lý phát triển

nguồn nhân lực, có vai trò quan trọng trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ

quản lý và công chức nhà nước. Uỷ ban công vụ có chương trình quản lý nhân sự

thích hợp và phối hợp với các cơ quan của Chính phủ đưa ra các loại hình đào tạo

nhằm tăng cường nhận thức, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho cán bộ quản lý và

công chức, bao gồm nhiều loại công trình: đào tạo tiền công vụ, định hướng chuyên

19

môn kỹ thuật, phát triển năng lực lãnh đạo. Từ nhiều năm nay, Uỷ ban công vụ đã

thiết lập chương trình học bổng quốc gia, cho phép mọi cơ quan của Chính phủ lập

danh sách lựa chọn người và những nhu cầu ưu tiên cho đào tạo phát triển nguồn

nhân lực, đồng thời đưa ra chính sách yêu cầu tất cả những người được bổ nhiệm

vào cấp vụ trở lên đều phải có bằng trên đại học.

Ở Thái Lan, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và công chức nhà nước do Uỷ ban công vụ đảm nhận, Uỷ ban này có trách nhiệm thực hiện các chương trình đào tạo phát triển năng lực cán bộ quản lý và công chức theo Luật Công vụ năm 1992 Luật Công vụ xác định rõ khi khi một công chức được sắp xếp, bổ nhiệm sẽ phải trải quan một quá trình đào tạo nhất định để nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp và giá trị đạo đức nghề nghiệp. Cơ quan nhân sự Trung ương phải tổ chức chức một cách hệ thống, thường xuyên các chương trình đào tạo và phát triển cho công chức ngay từ lúc mới được tuyển dụng, đề bạt thuyên chuyển ở mỗi cấp bậc công chức có những chương trình đào tạo riêng phù hợp với chức nghiệp và phạm vi quản lý, không có loại chương trình dùng chung cho tất cả các cấp. Các chương trình đều có những nội dung cụ thể riêng biệt và thiết thực cho mỗi cấp, ví dụ, chương trình bồi dưỡng cho cao cấp gồm: phân tích giao tiếp với tổ chức, giao lưu thông tin và tư vấn, xây dựng đồng bộ, đào tạo tầm nhìn đối với cuộc sống. Để thực hiện tốt chức năng đào tạo, Uỷ ban công vụ thành lập nhóm chuyên gia chuyên trách về công tác đào tạo và phát triển, thành lập tiểu ban huấn luyện- đào tạo và hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo như: học viện công vụ, các trường cao đẳng công vụ để thực hiện và thúc đẩy các chương trình đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và công chức.

Ở Sing-ga-po, công tác bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức được tiến hành hằng năm theo nhiều chương trình khác nhau. Thông thường nhất, thời gian bồi dưỡng tối thiểu bắt buộc là 100 giờ trong một năm đối với mỗi công chức, trong đó 60% nội dung bồi dưỡng về chuyên môn, 40% nội dung bồi dưỡng liên quan đến phát triển. Chương trình bồi dưỡng được xây dựng cho những nhóm cán bộ, công chức khác nhau theo tư duy: công chức biết việc, thích ứng với công việc, đạt hiệu quả cao trong công việc và làm được những công việc liên quan khi cần thiết nhằm đáp ứng sự biến đổi phát triển của xã hội Sing-ga-po, đó chính là những vấn đề rất hay trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở Sing-ga-po.

20

Quy trình đào tạo gồm: 1) Đào tạo ban đầu: Bước này được thực hiện vào

tháng đầu đầu tiên khi người công chức mới vào cơ quan để hoà nhập vào tập thể,

làm đúng quy định, quy chế vận hành của cơ quan; 2) Đào tạo cơ bản: trang bị

những kiến thức, kỹ năng cần thiết tối thiểu để làm việc. Bước này thực hiện vào

năm đầu tiên khi viên chức mới vào cơ quan và 3) Đào tạo nâng cao (2-3 năm sau

khi vào cơ quan làm việc): giúp viên chức làm việc có chất lượng cao. Ngoài ra còn

có các hình thức đào tạo mở rộng: cung cấp các kiến thức, kỹ năng làm việc ở mức

độ cao hơn (được thực hiện từ năm thứ 4 đến năn thứ 6 của viên chức) và đào tạo

cấp nhật kiến thức để công chức có thể làm việc với chất lượng cao và có thể làm

các công việc khác liên quan.

Từ nghiên cứu kinh nghiệm các nước, có thể rút ra: Việc đào tạo công chức

liên quan tới nhiều bộ, ngành, do đó, hầu hết các nước đều giao việc xây dựng và

giám sát chính sách đào tạo cho một bộ ở cấp trung ương phụ trách, hoặc giao cho

một uỷ ban dịch vụ công phụ trách việc làm để cơ quan này có thể gắn kết quả đào

tạo với việc thăng tiến và đề bạt sau này.

Đối với các nước theo hình thức quản lý đào tạo tập trung, cơ quan quản lý

đào tạo cấp trung ương dựa trên cơ sở đánh giá nhu cầu đào tạo của Chính phủ nói

chung và của từng bộ, ngành cũng như khả năng của các cơ sở đào tạo để lập kế

hoạch đào tạo dài hạn và hàng năm cho Chính phủ. Kế hoạch đó phải bao gồm: ước

tính chi phí, nguồn tài chính, đảm bảo xác định các nhà cung ứng đào tạo ở cả khu

vực nhà nước và tư nhân, liên hệ với các cơ quan bộ, ngành hữu quan, thiết kế thời

gian và chương trình đào tạo.

Đối với các nước theo hình thức quản lý đào tạo phi tập trung, cơ quan quản

lý đào tạo trung ương chỉ chịu trách nhiệm đề ra các mục tiêu, chính sách đào tạo

tổng thể, còn việc quản lý hoạt động đào tạo, kể cả quản lý các chính sách ngành

được giao cho các bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Việc phân quyền này thường đi

liền với việc thành lập các cơ quan điều hành và trao quyền cho giám đốc điều hành

quản lý nhân sự.

Tuy nhiên, ngay cả ở mô hình này, cơ quan quản lý nhân sự trung ương

ngoài trách nhiệm hoạch định chính sách và lập kế hoạch cấp quốc gia, còn phải

thực hiện một số chức năng như đào tạo công chức lãnh đạo cao cấp và các cán bộ

21

ưu tú nói chung; hoặc như ở một số nước cơ quan này còn phải bảo đảm sự gắn kết

giữa đào tạo với cải cách hành chính và các chính sách quản lý nhân sự (như đánh

giá kết quả thực hiện công việc và mức độ phát triển nghề nghiệp). Chính phủ phải

đề cao và tăng cường việc giám sát và kiểm soát nhằm bảo đảm việc thực hiện đúng

các mục tiêu đào tạo đã đề ra, tối ưu hoá các nỗ lực và chi phí đào tạo, hạn chế tình

trạng đào tạo trùng lặp, lãng phí tiền của và thời gian.

Hiện nay, nhiều nước đã lựa chọn và áp dụng hình thức quản lý đào tạo hỗn

hợp. Theo đó, cơ quan quản lý đào tạo cấp trung ương được cấp các khoản tiền để

đào tạo các công chức cấp cao. Đồng thời cơ quan này cũng chịu trách nhiệm cấp

kinh phí đào tạo cho các bộ, ngành, trên cơ sở kế hoạch đào tạo của bản thân các

đơn vị này và huy động sự ủng hộ của các cơ sở đào tạo nhà nước cũng như huy

động hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà tài trợ. Theo hình thức quản lý này, các bộ, ngành

có thể linh hoạt và có quyền tự quyết định việc sử dụng các quỹ đào tạo phù hợp với

kế hoạch đã đệ trình và cũng có thể tự tổ chức các khoá đào tạo chuyên biệt.

Tóm lại, với tình hình kinh tế phát triển theo chiều hướng tri thức hoá, toàn

cầu hoá hiện nay, sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ quản lý và công chức nói riêng ngày càng được các quốc gia cũng

như các tổ chức quốc tế chú trọng đầu tư, phát triển. Việc đổi mới nội dung, phương

thức đào tạo đòi hỏi nhanh chóng, quyết liệt hơn nhằm theo sát với sự phát triển

kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN

QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN SẼ TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.3.1. Khái quát kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án được nêu ra ở trên

nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau của công tác cán bộ nói chung và công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng, đặc biệt đến vấn đề nâng cao

chất lượng đào tạo CCLLCT trong giai đoạn hiện nay. Những kết quả nghiên cứu

đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm của luận

án. Có thể rút ra một số nội dung cơ bản sau:

Một là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong

những khâu có ý nghĩa quyết định trong chiến lược cán bộ trong nâng cao chất

22

lượng đội ngũ cán bộ. Thực tiễn không ngừng biến đổi, đòi hỏi nội dung đào tạo,

bồi dưỡng cũng không ngừng được bổ sung, phát triển phù hợp với sự vận động

phát triển của xã hội trong từng giai đoạn cách mạng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ ngang tầm

nhiệm vụ. Do vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về ý

nghĩa và tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung và việc đào tạo, bồi dưỡng

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.

Hai là, đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là một trong nội dung quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng LLCT, nhằm trang bị kiến thức, trình độ LLCT, tư duy khoa học, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, để cán bộ lãnh độ, quản lý công tác tốt hơn; việc đào tạo CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh độ, quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng được Đảng - với tư cách là đảng cầm quyền giao cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng các học viện trực thuộc và hệ thống các trường đảng của các tỉnh, thành phố.

Ba là, trong những năm qua, công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh độ, quản lý được các cấp uỷ đảng quan tâm và đạt nhiều kết quả quan trọng: Hệ thống cơ sở đào tạo đã được củng cố và phát triển; quy mô đào tạo không ngừng mở rộng, bảo đảm thực hiện kế hoạch được giao, đã đào tạo được một số lượng lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý đào tạo CCLLCT; có nhiều cố gắng đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng; đội ngũ giảng viên tăng về số lượng, được đào tạo cơ bản; công tác quản lý đào tạo được chú trọng, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo được cải thiện…. Những kết quả của công tác đào tạo CCLLCT đã góp phần làm cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức đúng đắn về tình hình đất nước, nâng cao năng lực, tư duy công tác góp phần quan trọng vào công tác xây dựng đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Bốn là, từ kinh nghiệm của một số nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức có thể rút ra một số vấn đề cần tham khảo nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam, đó là:

- Xác định rõ vị trí, tầm quan trọng có ý nghĩa của công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm nâng

23

cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền trong việc lãnh đạo,

chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

- Chú trọng thiết kế, xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp

với từng đối tượng. Kết hợp đào tạo ở trường lớp với đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện

năng lực thực hành của cán bộ trong thực tiễn.

- Xây dựng và hoàn thiện các quy trình đào tạo, bồi dưỡng, gắn đào tạo với

quy hoạch, bố trí, sử dụng, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trước khi đề bạt, bổ nhiệm

cán bộ.

- Xây dựng, bổ sung hoàn thiện các quy chế, quy định về chế độ học tập của

cán bộ hàng năm, nhằm đưa công tác này trở thành nề nếp, thường xuyên.

- Xây dựng và thực hiện tốt thể chế quản lý thống nhất công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ.

1.3.2. Những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu Mặc dầu đã có nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu, phân tích và làm rõ vai

trò của đào tạo LLCT, trong đó có CCLLCT, nhưng vấn đề đang đặt ra là làm thế

nào để công tác này đạt hiệu quả cao hơn, thiết thực hơn để nâng cao chất lượng đào

tạo CCLLCT đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Đây chính là những vấn đề mà

luận án cần phải làm rõ. Luận án sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:

Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng đào tạo CCLLCT, từ

đó khái quát lại những tiêu chí để đánh giá chất lượng của đào tạo CCLLCT cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Hai là, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo CCLLCT cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thời gian qua, xác định nguyên nhân và những vấn đề

đặt ra từ thực trạng đó.

Ba là, đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng đào tạo

CCLLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay ở nước ta.

24

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ

LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

2.1. CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN

CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

2.1.1. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ lãnh đạo quản lý diện

đào tạo cao cấp lý luận chính trị

2.1.1.1. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta * Lãnh đạo, quản lý

Theo Từ điển Tiếng Việt, lãnh đạo là “đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức

thực hiện” [88, tr.838], còn quản lý là “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo

yêu cầu nhất định” [88, tr.1242]. Như vậy, lãnh đạo và quản lý là hai hoạt động

khác nhau nhưng cũng có những nội dung giống nhau. Do đó, cán bộ lãnh đạo và

cán bộ quản lý với tư cách là chủ thể của hoạt động lãnh đạo và quản lý hai khái

niệm có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt.

Về nội dung công việc, lãnh đạo và quản lý khác nhau khá xa. Hoạt động lãnh

đạo thường được hiểu là: xác định phương hướng, mục tiêu lâu dài (cả trung hạn và

dài hạn), lựa chọn chủ trương chiến lược, điều hoà phối hợp các mối quan hệ và động

viên, thuyết phục con người, trong khi hoạt động quản lý bao gồm các việc: xây dựng

kế hoạch (bao gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, quy định tiêu chuẩn đánh giá và thể

chế hoá), sắp xếp tổ chức (phân bổ nhân lực, vật lực, thời gian...), chỉ đạo, điều hành

(hướng dẫn, động viên...), kiểm soát (mục tiêu, sửa chữa sai sót nếu có).

Như vậy, có thể nói hoạt động lãnh đạo giống như một nghệ thuật, cho nên,

người lãnh đạo chắc chắn cần có tài năng; còn hoạt động quản lý thiên về mặt kỹ

thuật, đòi hỏi người quản lý phải có kỹ năng, có thể thông qua học tập mà trở thành

thành thạo. Trong những tình huống có nhiều biến động, thường cần có lãnh đạo để

xử lý và ứng phó với những rủi ro có tính chiến lược. Còn trong những thời kỳ ổn

định, biến động ít hoặc nhỏ, các quy luật hoạt động vẫn giữ bình thường thì lại cần

những nhà quản lý để tạo ra những năng suất và hiệu quả cần thiết. Khi công việc

phức tạp, đụng chạm đến nhiều người tham gia, mục đích không thật rõ ràng, nhiệm

25

vụ khó khăn, nhân tố ảnh hưởng nhiều thì cần làm rõ mục tiêu, điều tiết các mối

quan hệ, động viên thuyết phục nên phải có bàn tay lãnh đạo. Còn với công việc

tương đối đơn giản thường ít người tham gia, mục tiêu rõ ràng, khó khăn ít, chỉ cần

có kế hoạch chu đáo, tổ chức chặt chẽ, nắm tình hình chắc là là có thể quản lý thành

công được. Lãnh đạo quan tâm đến hiệu quả toàn cục, còn quản lý thường chú ý đến

hiệu suất của mỗi công việc được giao.

Có thể hiểu: Lãnh đạo là chỉ đường, vạch lối, nhìn xa trông rộng, hướng tới

mục tiêu cuối cùng, còn quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu

cầu đó. Lãnh đạo quan tâm đến những vấn đề chiến lược, những mục tiêu lâu dài,

còn quản lý chú trọng những yêu cầu có tính chiến thuật, mục tiêu cụ thể và thường

là ngắn hạn. Lãnh đạo có thể gắn với các khía cạnh trừu tượng của cuộc sống, còn

quản lý thường phải xử lý những vấn đề rất thực tế. Lãnh đạo thuộc lĩnh vực chính

trị, người lãnh đạo là nhà chính trị, còn quản lý thuộc lĩnh vực hành chính, người

làm quản lý là những “nhà hành chính”.

Về phương thức hoạt động thì lãnh đạo dùng biện pháp động viên, thuyết

phục, gây ảnh hưởng dựa vào đạo lý là chính, trái lại quản lý phải sử dụng các biện

pháp tổ chức chặt chẽ, dựa vào ràng buộc của pháp chế, thể chế. Lãnh đạo tác động

đến ý thức của con người, còn quản lý sử dụng con người như một nguồn lực,

nguồn nhân lực bên cạnh nguồn tài lực và vật lực. Lãnh đạo thuộc về phạm trù tư

tưởng, lý luận và đạo đức, không có tính cưỡng chế, còn quản lý lại thuộc phạm trù

luật pháp, pháp qui, có ý nghĩa cưỡng chế rõ rệt.

Về phạm vi và mức độ tác động, lãnh đạo liên quan đến mục tiêu dài hạn,

đến những nhiệm vụ, chủ trương chiến lược, đến việc động viên, thuyết phục con

người, còn quản lý thường gắn với kế hoạch cụ thể, tổ chức cụ thể, chỉ đạo cụ thể,

nắm chặt tình huống cụ thể.

Tuy nhiên, lãnh đạo và quản lý cũng hoàn toàn không phải là hai khái niệm

đối lập, trái lại, giữa lãnh đạo và quản lý lại có nhiều chỗ tương đồng, gần như bổ

sung cho nhau, công việc quan trọng quốc gia hay chỉ của một doanh nghiệp cũng

cần cả lãnh đạo và quản lý.

Lãnh đạo và quản lý đều phục vụ chung một mục đích cuối cùng, dù là của

một tổ chức kinh tế, văn hoá hay một địa hạt lãnh thổ, một quốc gia, mục tiêu dài

26

hạn hay ngắn hạn cũng đều là để đạt được mục đích cuối cùng mà thôi. Các nhiệm

vụ kế hoạch cụ thể có đạt thì các chủ trương chiến lược mới có cơ thực hiện, sự chỉ

đạo thường xuyên có chặt chẽ, đúng quy phạm pháp luật, thì sự nghiệp mới hoàn

thành, có hiệu suất công việc thì cuối cùng mới có hiệu quả, Như vậy, lãnh đạo và

quản lý là hai góc độ của một công việc, một công vụ. Đương nhiên, lãnh đạo phải

đi trước một bước, biết nhìn xa trông rộng, vạch đường chỉ lối, phải biết theo dõi

tiến trình quản lý bằng con mắt chiến lược và cuối cùng đánh giá kết quả chung,

không chỉ của quá trình quản lý.

Trong tiến trình thực hiện một đường lối hay một chủ trương quan trọng, hai

quá trình lãnh đạo và quản lý thường bổ sung cho nhau, đan xen nhau mà không cản

trở nhau. Tuy phải đợi kiểm tra hoàn thành mục tiêu cuối cùng thì hai quá trình mới

gần như cùng kết thúc, song quá trình lãnh đạo phải đi trước một bước và chiếm

nhiều thời gian hơn về giai đoạn đầu, còn quá trình quản lý chiếm nhiều thời gian

hơn ở giai đoạn sau. Nếu ta coi đơn giản tiến trình tiến hành một công việc lớn nhỏ

là bao gồm 3 khâu: ra quyết định, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả thì

khâu ra quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của người lãnh đạo, khâu thực hiện

thuộc trách nhiệm của người quản lý, còn khâu kiểm tra đánh giá thì thuộc cả hai

chức năng, mỗi chức năng thực hiện theo các tiêu chí riêng. Nếu đặt vấn đề đơn

giản hơn nữa, chỉ có hai khâu quyết sách và thực thi thì ranh giới giữa lãnh đạo và

quản lý đã quá rõ ràng.

Tuy nhiên, trong thực tế sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý không phải

lúc nào cũng rành rọt như vậy. Về lý thuyết, người ta phân biệt lãnh đạo và quản lý

theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng, lãnh đạo theo nghĩa rộng bao gồm cả quản lý (nghĩa

hẹp), và trong khái niệm quản lý theo nghĩa rộng lại bao gồm cả lãnh đạo (nghĩa

hẹp). Đối với một quá trình dài thì lãnh đạo đi trước để ra quyết định, quản lý đi sau

thực hiện, song nếu tách quá trình quản lý thành nhiều công việc cụ thể thì trong

từng việc, người quản lý vẫn phải lựa chọn và ra một số quyết định cụ thể để cấp

quản lý dưới thực hiện. Như vậy, dù có những sự khác biệt giữa người quản lý và

người lãnh đạo, nhưng cả hai có cấu trúc trùng lắp nhau: khi nhà quản lý dấn thân

gây tác động đến một nhóm để đạt được mục tiêu đề ra, họ đang làm nhiệm vụ của

lãnh đạo; khi nhà lãnh đạo dấn thân vào việc lập kế hoạch, hoặc định đội ngũ cán

27

bộ, và kiểm soát thì họ đang làm công việc quản lý. Cả hai đều gắng tác động đến

một nhóm các cá nhân nhằm hướng tới đạt được mục tiêu đã xác định.

Chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Trong cơ chế này, chủ thể lãnh đạo và quản

lý có thể hiểu là: Ban Chấp hành Trung ương là lãnh đạo, Chính phủ quản lý (ở

Trung ương); cấp uỷ các cấp lãnh đạo, chính quyền quản lý (ở địa phương) và ngay

trong một đơn vị nhỏ cũng có vai trò của chi bộ và chính quyền. Nói một cách giản

đơn, có thể coi cán bộ Đảng là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chính quyền là cán bộ quản

lý. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Ở cơ sở, một bí thư đảng uỷ xã không

chỉ là người lãnh đạo (trong việc đề xuất chủ trương, chính sách) mà còn làm những

việc cụ thể trong tổ chức thực hiện; một chủ tịch xã là người thực hiện nghị quyết

của đảng bộ xã nhưng đồng thời cũng là thành viên trong Ban Chấp hành đảng bộ.

Lên các cấp cao hơn, việc phân biệt lãnh đạo và quản lý có rõ hơn nhưng cũng

không hoàn toàn khác biệt. Ngay trong công việc quản lý quốc gia, Chính phủ vẫn

phải luôn luôn ra những quyết định, hoặc là để xử lý một số vấn đề cụ thể, hoặc là

để ban hành một số quy định có tính thể chế lâu dài, nghĩa là thực hiện một số

nhiệm vụ lãnh đạo; về phía Đảng lãnh đạo cũng vậy, có những công việc hiện nay

chưa cải tiến được, tổ chức lãnh đạo vẫn phải kiêm quản lý như công tác khoa học

xã hội. Rõ ràng là rất khó tách bạch giữa lãnh đạo và quản lý, hình thức lãnh đạo

trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối cũng là một cách hoà lẫn lãnh đạo và quản lý.

* Cán bộ lãnh đạo, quản lý

Những năm trước đây, những người làm việc trong các cơ quan của hệ thống

chính trị được gọi chung là cán bộ. Sau khi có Luật cán bộ, công chức, Luật viên

chức thì các khái niệm liên quan đến người lao động trong hệ thống chính trị từng

bước được hình thành.

Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức: cán bộ là người được bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; công chức là người được

tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng

sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp

huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [91].

28

Cán bộ lãnh đạo, quản lý là cán bộ, công chức làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý. Họ có điểm phân biệt khác nhau, nhưng có một điểm chung nhất đều là người được bầu cử hoặc bổ nhiệm giữ một chức vụ nhất định trong một tổ chức hoặc một cơ quan lãnh đạo hoặc quản lý đề tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khác nhau trong đời sống kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước hoặc theo điều lệ của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

Như vậy, cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người giữ chức vụ nhất định, làm việc trong hệ thống tổ chức của hệ thống chính trị và thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý theo quy định. Trong thực tế ở nước ta, sự phân biệt cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chưa tường minh, càng xuống cấp thấp thì điều này thể hiện càng rõ, nhất là ở cấp cơ sở, đặc biệt trong điều kiện cán bộ luân chuyển thường xuyên như hiện nay. Với phần đông cán bộ đứng đầu cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, trong mối quan hệ với cấp trên thì là cán bộ quản lý, còn trong quan hệ với cấp dưới lại là cán bộ lãnh đạo. Cho nên, khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là khái niệm dùng chung để chỉ những người có chức vụ, có quyền hạn, đảm nhiệm những trọng trách của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến địa phương trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học- kỹ thuật….

Từ khái niệm chung về cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể phân loại cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiều cách, chẳng hạn:

- Phân loại theo cấp bậc, chức vụ, tức là căn cứ vào vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo cách phân loại này, ta có các loại cán bộ lãnh đạo, quản lý như: cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp, cán bộ sơ cấp….

- Phân loại theo hình thức tổ chức trong hệ thống chính trị. Theo cách phân loại này có thể có các loại cán bộ như: cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan chính quyền nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức đoàn thể xã hội.

- Phân loại theo lĩnh vực hoạt động thì có các loại cán bộ hoạt động chính trị, hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động sản xuất, kinh doanh….

2.1.1.2. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý diện đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Theo Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị về “Chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng” [16], các đối tượng được đào tạo CCLLCT

29

gồm: đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, thành, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành Trung ương, uỷ viên thường vụ các đoàn thể Trung ương, ban giám đốc các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn của nhà nước... (có quy định riêng); đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện, quận và cán bộ lãnh đạo một số ban, ngành cấp tỉnh, một số doanh nghiệp.... (có quy định riêng).

Cụ thể hoá Quy định này phù hợp với yêu cầu giai đoạn mới, Ban Tổ chức

Trung ương đã ban hành quy định về đối tượng đào tạo CCLLCT, cụ thể cán bộ

lãnh đạo, quản lý được cử đi đào tạo CCLLCT gồm hai nhóm cán bộ:

Nhóm cán bộ thứ nhất là các vụ trưởng, phó vụ trưởng và tương đương trở

lên của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đảng uỷ trực thuộc Trung ương; tỉnh uỷ viên,

thành uỷ viên, trưởng, phó các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, thành phố trở lên; cán

bộ chủ chốt cấp huyện (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân) và tương đương; cán bộ được quy hoạch vào các chức danh này.

Nhóm cán bộ thứ hai là các trưởng, phó phòng và tương đương của các bộ,

ban, ngành, đoàn thể, đảng uỷ trực thuộc Trung ương; trưởng phòng và tương

đương của các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, thành phố; cấp uỷ viên cấp huyện, Phó

Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và tương

đương; trưởng phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; cán bộ được

quy hoạch vào các chức danh nêu trên.

Tiêu chuẩn cán bộ cử đi học cao cấp lý luận chính trị

Cán bộ thuộc diện đào tạo CCLLCT phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt

Nam; có bằng tốt nghiệp đại học trở lên trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

hoặc ở nước ngoài.

Về độ tuổi: đối với hệ tại chức, cán bộ có tuổi đời từ 40 trở lên đối với nam,

35 trở lên đối với nữ đang giữ chức danh theo quy định; đối với hệ tập trung, cán bộ

có tuổi đời dưới 40 đối với nam, dưới 35 đối với nữ đang giữ chức danh theo quy.

Có một số quy định riêng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện đang công tác từ

3 năm trở lên ở huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các huyện

biên giới, hải đảo, đơn vị và vị trí công tác đặc thù, nếu chưa có bằng tốt nghiệp đại học

thì phải có bằng tốt nghiệp trung cấp hoặc cao đẳng về chuyên môn và bằng tốt nghiệp

trung cấp lý luận chính trị - hành chính.

30

Những trường hợp được xem xét, vận dụng về độ tuổi tham gia đào tạo CCLLCT hệ không tập trung ít hơn 5 tuổi so với quy định gồm: cán bộ lãnh đạo, quản lý đang công tác 3 năm trở lên ở huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, huyện biên giới, hải đảo; cán bộ lãnh đạo, quản lý là cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Theo Quyết định số 289-QĐ/TW, ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Ban Bí thư về ban hành “Quy chế cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”); cán bộ, phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí (Theo Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 31-7-2008 của Ban Bí thư “Về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí”); cán bộ lãnh đạo, quản lý là cấp trưởng ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (thuộc đối tượng đi học) khi đi học không có người thay thế; cán bộ đang công tác giảng dạy, nghiên cứu ở các học viện; viện nghiên cứu; trường đại học; trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị (bao gồm: cán bộ cấp vụ, khoa, phòng, giảng viên chính trở lên); cán bộ đang công tác trong lực lượng vũ trang có quân hàm từ trung tá trở lên; cán bộ, công chức có thời gian giữ ngạch chuyên viên chính (và tương đương) từ 4 năm trở lên và có trong kế hoạch được dự thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp (và tương đương); cán bộ là thư ký các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, bộ trưởng, bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương và tương đương trở lên.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc trong quy hoạch thuộc đối tượng được đi học, nếu chưa phải là đảng viên thì phải là đoàn viên ưu tú, có triển vọng kết nạp Đảng cộng sản Việt Nam, được xét cử đi đào tạo CCLLCT hệ tập trung.

Các chức sắc tôn giáo có yêu cầu đào tạo CCLLCT thì được học tại các Học viện Chính trị khu vực, do cấp uỷ trực thuộc Trung ương đề nghị và có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương.

Như vậy, cán bộ lãnh đạo, quản lý diện đào tạo cao cấp lý luận chính trị, là những cán bộ trung, cao cấp đang giữ các chức vụ nhất định trong hệ thống chính trị, được cấp có thẩm quyền xét, cử đi đào tạo theo đúng đối tượng, tiêu chuẩn do Trung ương quy định.

2.1.2. Đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý - khái niệm, vai trò, nội dung, phương thức và đặc điểm

2.1.2.1. Khái niệm đào tạo cao cấp lý luận chính trị Lý luận là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn tại và

phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực tự nhiên và

31

xã hội. Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi đường cho hoạt

động thực tiễn có hiệu quả hơn. Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống

những tư tưởng được khái quát hoá từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo

thực tiễn”; “là kiến thức được khái quát hoá và hệ thống hoá trong một lĩnh vực nào

đó” [88, tr.872].

Lý luận được hiểu là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn khách

quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, được biểu đạt dưới dạng các

khái niệm, phạm trù, quy luật, tư tưởng, quan điểm,... nhằm giúp con người chi phối

và cải tạo thực tiễn trên lĩnh vực nào đó.

Chính trị là “những vấn đề về tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước, hoặc

những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền

điều khiển bộ máy nhà nước”; là “những hiểu biết hoặc những hoạt động để nâng cao

hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính

đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước” [88, tr.266].

Như vậy, lý luận chính trị được hiểu là hệ thống tri thức về những vấn đề về

tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước, hoặc những hoạt động của một giai cấp,

một chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước”.

Lý luận chính trị là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của nhân loại

giới hạn trong lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp trong việc

giành và giữ chính quyền. Nói cách khác, lý luận chính trị là hệ thống tri thức về

lĩnh vực chính trị thể hiện thái độ và lợi ích giai cấp đối với quyền lực nhà nước

trong xã hội có giai cấp, là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn

chính trị của nhiều người, qua nhiều thế hệ.

Lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lý luận và thực tiễn

chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và xây dựng chính quyền nhà

nước, phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội, thể

hiện lợi ích và thái độ của giai cấp đối với quyền lực nhà nước nhằm trang bị thế giới

quan và thúc đẩy hành vi thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai cấp.

Lý luận chính trị của giai cấp công nhân là sự khái quát tri thức nhân loại và

tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới, làm công cụ đắc lực cho

việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân tộc. Theo

32

Lênin, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng: “Không có

lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ đảng nào

được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến

sĩ tiên phong” [118, tr.30-32]. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Đảng không có chủ

nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [79, tr.268].

Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị của dân tộc và

nhân loại. Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội, thể

hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với việc xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lý luận chính trị bao gồm những tri thức tổng hợp, liên ngành mang tính

đảng, tính giai cấp rõ rệt, đồng thời có tính khái quát hoá, trừu tượng hoá và tính dự

báo khoa học cao. Điều này khẳng định vai trò và tầm quan trọng to lớn của nó đối

với nhận thức và hành động của từng cá nhân nói riêng và sự phát triển của toàn xã

hội nói chung, đồng thời cho thấy sự khó khăn, phức tạp của quá trình sáng tạo,

nhận thức và vận dụng lý luận chính trị.

Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25/4/2015 của Bộ Chính trị xác định “Lý

luận chính trị là hệ thống tri thức được rút ra từ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa

học và được khái quát hoá bằng phương pháp khoa học, làm cơ sở lý luận, khoa học

cho các hoạt động của Đảng, Nhà nước” [23].

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là

đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi

ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, lý luận của mình. Cơ sở lý

luận của đường lối, chủ trương của Đảng được xây dựng trên nền tảng tư tưởng lý luận

cách mạng và khoa học đó. LLCT ở đây là LLCT của Đảng Cộng sản Việt Nam, là

những kinh nghiệm được khái quát từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công

nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, có tác động chỉ đạo sự nghiệp đấu tranh

vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.

33

Cao cấp lý luận chính trị

Quy định số 54 của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong

Đảng đã thống nhất tên gọi các cấp chương trình lý luận chính trị được sử dụng

trong hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên của Đảng là: sơ cấp lý luận

chính trị, trung cấp lý luận chính trị (hoặc trung học chính trị), cao cấp lý luận chính

trị (hoặc cử nhân chính trị) [16].

Theo Quy định này, có 3 cấp trong học tập lý luận chính trị. Các cấp học này

có mục tiêu chung cơ bản như nhau, đó là: Trang bị cho người học những kiến thức

cơ bản và cần thiết về lý luận chính trị - hành chính; củng cố, nâng cao bản lĩnh

chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ lãnh đạo, quản lý; kỹ năng tổ chức thực hiện

nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Sự khác nhau của mỗi cấp

thể hiện trên các mục tiêu, yêu cầu cụ thể, đối tượng, thời gian và nhất là nội dung

chương trình đào tạo của mỗi cấp học lý luận chính trị.

Cao cấp lý luận chính trị là bậc cao nhất trong hệ thống chương trình lý luận

chính trị dành riêng cho các đảng viên là cán bộ trung, cao cấp đang giữ những chức

vụ lãnh đạo, quản lý nhất định trong hệ thống chính trị với mục tiêu trang bị cho

người được đào tạo hệ thống tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh ở tầm khái quát nhất, đầy đủ nhất cùng với nhưng tri thức, kỹ năng lãnh đạo,

quản lý nhằm phát triển tư duy, tầm nhìn chiến lược cũng như lề lối làm việc, tác

phong công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) hiện nay.

Đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Đào tạo là quá trình truyền đạt một lượng kiến thức nhất định cho một đối

tượng học tập cụ thể nhằm đạt đến một mục tiêu xác định. Quá trình truyền đạt này

phải là một qui trình khép kín với những chuẩn mực và hệ phương pháp dạy và học

cụ thể với kết quả là sự thay đổi của người học về kiến thức, kỹ năng và thái độ để

đảm nhận và đáp ứng được yêu cầu của một chuyên ngành đã được học. Khái niệm

đào tạo có nghĩa hẹp hơn giáo dục. Đào tạo đề cập đến một giai đoạn nhất định, khi

người học đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào

tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu; đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào

tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo…

34

Đào tạo cao cấp lý luận chính trị là một bộ phận trong hệ thống đào tạo cán

bộ của Đảng, bao gồm tổng thể các hoạt động dạy và học nhằm trang bị cho người

học kiến thức cao cấp lý luận chính trị, kỹ năng hoạt động chính trị, quản lý kinh tế

- xã hội; nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trung,

cao cấp, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của Đảng.

Chủ thể lãnh đạo của đào tạo cao cấp lý luận chính trị là Đảng Cộng sản Việt

Nam, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các ban Thường vụ tỉnh,

thành uỷ thành phố trực thuộc Trung ương; Chủ thể thực hiện là hệ thống Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Công an nhân dân cùng với lực

lượng tham gia đào tạo là các tổ chức đảng trong hệ thống chính trị, các cơ sở đào

tạo, nghiên cứu có liên quan; đối tượng tham gia đào tạo là cán bộ có chức vụ nhất

định (đã nêu ở phần trên).

2.1.2.2. Vai trò của đào tạo cao cấp lý luận chính trị Đào tạo lý luận chính trị nói chung, đào tạo cao cấp lý luận chính trị nói

riêng có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã khẳng định: "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc

kém. "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", nên "huấn luyện cán bộ là công việc

gốc của Đảng" [80, tr.240, 269].

Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan

điểm của Đảng ta, cho thấy đào tạo cao cấp lý luận chính trị có những vai trò chủ

yếu sau:

Thứ nhất, đào tạo cao cấp lý luận chính trị nhằm trang bị cho cán bộ trung,

cao cấp thế giới quan và phương pháp luận cách mạng và khoa học, từ đó vận dụng

vào thực tiễn công tác của mình.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trước hết phải bắt đầu

từ việc đào tạo, bồi dưỡng về LLCT. Về vai trò định hướng của lý luận, Hồ Chí

Minh chỉ rõ: “Cần phải dạy bảo lý luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lý

luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù” [80, tr.513], thông qua học tập lý luận

chính trị, đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng được định hướng rõ ràng và nhận thức

sâu sắc về con đường phát triển của cách mạng nói chung và thời kỳ quá độ lên Chủ

nghĩa xã hội ở nước ta. Tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng về LLCT đã

35

được Bác dẫn lời Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận

động” [79, tr.259]. Đi vào cụ thể, nói về vai trò của việc học tập lý luận, trong diễn

văn khai mạc khoá đầu tiên của trường Nguyễn Ái Quốc, Bác Hồ đã nói:

Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý

luận của Đảng ta, để giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình

hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình,

hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình [83, tr.294].

Định hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở

Việt Nam hiện nay, vì thế, phải bắt đầu từ việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng

về LLCT như Đảng ta đã khẳng định trong Dự thảo văn kiện của Ban Chấp hành

Trung ương khoá XI trình Đại hội toàn quốc lần thứ XII [52].

Thứ hai, đào tạo cao cấp lý luận chính trị giúp củng cố niềm tin và bản lĩnh

chính trị, ý thức giai cấp và tinh thần yêu nước; từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự

giác, tự nguyện, hăng hái hành động, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng do

Đảng đề ra.

Đào tạo CCLLCT chính là trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý những kiến

thức có hệ thống về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước

nhất là quan điểm đổi mới được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc của Đảng, từ đó nâng cao phẩm chất chính trị, vững vàng tư tưởng và chủ động

sáng tạo trong lãnh đạo quản lý, góp phần tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp đổi

mới của cách mạng, nâng cao niềm tin vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của

Đảng; kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh: đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý được đào tạo CCLLCT đã trưởng thành thực sự về nhận thức lý luận và thực tiễn,

có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và lý tưởng độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội; gương mẫu về đạo đức, có trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn,

có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình

36

mới. Mỗi cán bộ sau khi được đào tạo, trở về vị trí công tác của mình, với những kiến

thức đã lĩnh hội được, mỗi đồng chí thực sự là những người tham gia vào việc hoạch

định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; nâng cao năng lực tổng kết, chỉ đạo

thực tiễn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, đào tạo cao cấp lý luận chính trị cung cấp tri thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, giúp cán bộ nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý.

Tại Quy chế Đào tạo Cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, mục tiêu đào tạo được xác định là:

Giúp học viên nắm vững một cách cơ bản, có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; những vấn đề lý luận và thực tiễn mới trong nước và trên thế giới; khoa học chính trị; khoa học lãnh đạo quản lý; kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn [74].

Như vậy, bên cạnh những tri thức lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện qua các môn triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... đã phần nào được nghiên cứu trong thời gian học đại học (sẽ được khái quát và nâng cao trong chương trình CCLLCT), học viên được trang bị thêm những tri thức mới liên quan đến hình thành kỹ năng lãnh đạo, quản lý qua các môn học như: chính trị học, khoa học quản lý, nhà nước và pháp luật, quản lý kinh tế, tôn giáo tín ngưỡng, tâm lý học trong lãnh đạo quản lý, xã hội học trong lãnh đạo quản lý.... với thời gian học chiếm tới hai phần ba trong số gần 1000 giờ học của chương trình CCLLCT. Đây là những môn học liên quan trực tiếp đến công việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Những tri thức lý luận về các môn học này được khái quát hoá cùng với kinh nghiệm thực tiễn trong công tác lãnh đạo, quản lý góp phần nâng cao hơn một bước kiến thức và kinh nghiệm của học viên trong cương vị công tác của mình sau này.

Thứ tư, đào tạo cao cấp lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cao cấp của Đảng.

Đào tạo cao cấp lý luận chính trị có ý nghĩa trực tiếp là nâng cao trình độ lý luận chính trị cho mỗi cán bộ tham gia đào tạo và qua đó, làm cho toàn Đảng thống nhất mục tiêu lý tưởng, cương lĩnh, đường lối, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của mỗi cán bộ cũng như trong toàn Đảng.

37

Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, giáo dục lý luận chính trị cũng góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định lập trường, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng, có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn.

Là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng do Đảng ta tiến hành, công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT có vai trò rất quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, thống nhất ý chí và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng. Nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng qua các thời kỳ, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện công việc quan trọng này nên đã khơi dậy và phát huy được sức mạnh to lớn của toàn Đảng và toàn dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Trong tình hình mới, xác định vai trò to lớn và sự cần thiết của LLCT đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, ngày 26-5-2014, Bộ Chính trị khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý [22], coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ.

Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, có thể khẳng định công tác đào tạo LLCT, trong đó có đào tạo CCLLCT luôn giữ vai trò quan trọng trong công tác cán bộ. Các cơ quan tham mưu của Đảng, các cấp uỷ đảng, các cơ sở đào tạo thường xuyên quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng về đào tạo đào tạo CCLLCT đối với đội ngũ cán bộ. Trong nhiều năm qua, với chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng, Ban Tổ chức Trung ương đã tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư có những chỉ đạo kịp thời trong công tác đào tạo LLCT, trong đó đào tạo CCLLCT chiếm vị trí quan trọng, đáp ứng nhu cầu đào tạo đối với đội ngũ cán bộ còn rất lớn hiện nay chưa được đào tạo CCLLCT.

Học tập LLCT đối với mọi đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý là vấn đề

thuộc nguyên tắc xây dựng Đảng, bắt buộc phải thực hiện, nhằm không ngừng nâng

38

cao trí tuệ, phẩm chất, trước hết là giác ngộ chính trị, góp phần làm cho Đảng luôn

giữ được vai trò tiên phong, gương mẫu, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ

thật trung thành của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động; vững vàng

trước mọi thử thách, khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

2.1.2.3. Mục tiêu, nội dung chương trình, phương thức và thời gian đào

tạo cao cấp lý luận chính trị Mục tiêu đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Mục tiêu đào tạo cao cấp lý luận chính trị là:

Giúp học viên nắm vững một cách cơ bản, có hệ thống chủ nghĩa Mác -

Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; những vấn đề lý luận và

thực tiễn mới trong nước và trên thế giới; khoa học chính trị; khoa học

lãnh đạo quản lý; kỹ năng vận dụng lý luận vào thực tiễn. Bồi dưỡng cho

học viên thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, củng cố lập

trường cách mạng, ý thức trách nhiệm chính trị - xã hội trước Đảng, trước

nhân dân và tinh thần tích cực tu dưỡng, rèn luyện nhân cách người lãnh

đạo, quản lý trong điều kiện mới [74].

Nội dung chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Để đáp ứng mục tiêu trên, nội dung chương trình đào tạo CCLLCT bao gồm:

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước nhất là quan

điểm đổi mới được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của

Đảng và một số nội dung về khoa học lãnh đạo, quản lý, từ đó nâng cao phẩm chất

chính trị, vững vàng tư tưởng và chủ động sáng tạo trong lãnh đạo quản lý, góp

phần tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp đổi mới của cách mạng; góp phần nâng

cao niềm tin vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng; kiên định với mục

tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống của

cán bộ, đảng viên.

Các nội dung đó, trước đây được thể hiện trong 20 học phần và hiện nay

được kết cấu thành 4 khối kiến thức: 1) Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh; 2) Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; 3) Khoa học chính trị

39

và lãnh đạo quản lý và 4) Các chuyên đề đặc thù và bổ trợ, trong đó, 3 khối kiến

thức đầu là chung cho toàn hệ thống Học viện và là phần cứng của chương trình,

khối kiến thức thứ tư phụ thuộc vào các điều kiện đặc thù của các khu vực và tình

hình cụ thể.

Mỗi khối kiến thức được chia thành các môn học hoặc chuyên đề.

Phương thức đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Phương thức chính là đào tạo theo niên chế, dưới hình thức tập trung và

không tập trung. Ngoài ra, trong các trường hợp cụ thể, có thể xem xét đào tạo dưới

hình thức tích luỹ các chứng chỉ theo khối kiến thức.

Hình thức tuyển sinh: xét tuyển.

Thời gian đào tạo cao cấp lý luận chính trị

Hệ đào tạo tập trung: học tập trung liên tục 8 tháng (từ năm 2013 về trước là

12 tháng); hệ đào tạo không tập trung: học không tập trung 18 tháng (từ năm 2013

về trước là 24 tháng); hệ đào tạo hoàn chỉnh kiến thức: học không liên tục tối đa 5

tháng (Hình thức này chỉ áp dụng đối với Trung tâm Học viện).

Thời gian tuyển sinh: tuyển sinh không quá 3 lần trong năm đối với hình

thức đào tạo tập trung, nhiều lần trong năm đối với hình thức đào tạo không tập

trung và hoàn chỉnh kiến thức.

2.1.2.4. Đặc điểm của đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý Đào tạo CCLLCT có thể nói là một loại hình đào tạo đặc thù và có đặc điểm

riêng rất khác biệt so với các loại hình đào tạo khác đó là:

Một là, đối tượng đào tạo là những cán bộ trung, cao cấp đang giữ các chức

vụ nhất định trong hệ thống chính trị.

Theo quy định của Ban Tổ chức Trung ương, đào tạo CCLLCT là chương

trình dành cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp, (không đào tạo cho

cán bộ, viên chức không giữ chức vụ); là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, có

bằng tốt nghiệp đại học trở lên trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hoặc ở

nước ngoài; có quy định về độ tuổi học hệ tại chức hoặc hệ tập trung cho các học

viên là nam hoặc nữ.

Đối tượng cán bộ thuộc diện đào tạo CCLLCT có một số đặc điểm sau:

40

Là các cán bộ có chức vụ, có quyền hạn.

Theo quy định, tham gia đào tạo CCLLCT là các đồng chí trưởng phòng,

ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương trở lên; cán bộ được quy hoạch vào

các chức danh nêu trên. Đa số các đồng chí thuộc diện này bận công thường xuyên

của đơn vị nên có một bộ phận, nhất là các cán bộ đứng đầu đơn vị, khó có điều

kiện tập trung cho học tập. Vì thế, công tác tổ chức và quản lý lớp học cũng gặp

không ít khó khăn, bất cập.

Có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú.

Về chuyên môn, những cán bộ diện đào tạo CCLLCT là những cán bộ phải

có bằng tốt nghiệp đại học trở lên trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hoặc

ở nước ngoài. Những đồng chí có chức vụ, nhưng không có trình độ chuyên môn

như trên thì không được xét đi đào tạo CCLLCT. Thêm nữa, những cán bộ thuộc

diện này, để đảm nhận được chức vụ theo tiêu chuẩn đào tạo CCLLCT, đã trải qua

một quá trình công tác lâu dài, có vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn phong phú.

Với đối tượng này, chỉ có các giảng viên có trình độ chuyên môn cao, có vốn sống

và kinh nghiệm thực tiễn nhất định mới đảm bảo được yêu cầu của bài giảng và yêu

cầu ngày càng cao của học viên.

Nhiều cán bộ diện được đào tạo CCLLCT có độ tuổi khá cao

Theo quy định hiện nay, độ tuổi cán bộ diện đào tạo CCLLCT được quy định

như sau: đối với hệ tại chức, cán bộ đang giữ chức danh trong nhóm cán bộ được cử

đi học có tuổi đời từ 40 tuổi trở lên đối với nam, 35 tuổi trở lên đối với nữ; Đối với

hệ tập trung, cán bộ đang giữ chức danh quy định trong nhóm cán bộ được cử đi

học có tuổi đời dưới 40 tuổi đối với nam, dưới 35 tuổi đối với nữ.

Các cán bộ được đào tạo có trình độ không đồng đều trong một lớp, một khoá.

Trình độ chuyên môn, lý luận của các học viên đào tạo CCLLCT khác nhau:

có người là cử nhân nhưng cũng có không ít học viên là thạc sĩ, tiến sĩ, thậm chí có

cả các đồng chí có học hàm giáo sư, phó giáo sư; có người học các ngành khoa học

xã hội nhưng cũng không ít học viên thuộc các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật.

Về trình độ LLCT cũng không đồng nhất: có học viên đã có trình độ trung cấp,

nhiều người không qua trung cấp LLCT mà học thẳng cao cấp LLCT. Thêm vào đó,

trong xu hướng trẻ hoá cán bộ hiện nay, nhiều học viên là cán bộ trong diện quy

41

hoạch cũng cần được đào tạo CCLLCT nên sự phân hoá trong học viên cũng ngày

càng cao cả về trình độ ban đầu đến khả năng tiếp thu kiến thức.

Với đặc điểm trên có thể thấy: học viên được đào tạo CCLLCT là những

người: có chức vụ và vị thế xã hội nhất định; là những người có kinh nghiệm công

tác, vốn sống thực tiễn phong phú, do đó, họ có nhu cầu cao về chất lượng bài

giảng, trình độ cũng như phương pháp sư phạm của giảng viên.

Hai là, học viên vào học thông qua xét tuyển.

Đào tạo CCLLCT là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cán bộ trung, cao cấp.

Chương trình CCLLCT không phải là chương trình cho bất cứ đối tượng nào, vì thế,

việc cử cán bộ diện đào tạo CCLLCT là do cấp uỷ, trên cơ sở quy hoạch cán bộ và

nhiệm vụ của cán bộ mà xét để cử đi đào tạo CCLLCT chứ không qua thi tuyển.

Ba là, các cơ sở đào tạo CCLLCT là hệ thống các học viện thuộc Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Cơ sở đào tạo cấp LLCT, theo quy định của Trung ương, không phải cơ sở

đào tạo nào cũng có thể đào tạo CCLLCT được, cụ thể là: theo Quyết định số 224-

QĐ/TW ngày 06/01/2014 của Bộ Chính trị và Nghị định số 48/2014/NĐ-CP ngày

19/5/2014 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Học viện Chính trị Hồ Chí Minh, Học viện vừa là cơ quan trực thuộc Ban

Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp,

thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trong đó có giao Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức

và trong quy hoạch. Đây là đặc thù của Học viện so với các cơ sở đào tạo khác

trong hệ thống giáo dục quốc dân. Như vậy việc đào tạo và cấp bằng CCLLCT do

hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện. Chỉ có một số rất ít

cơ sở khác (ví dụ Học viện Chính trị Công an nhân dân) mới được phép đào tạo

CCLLCT sau khi thống nhất chương trình, nội dung đào tạo với Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

Bốn là, đào tạo CCLLCT được thực hiện cả hệ tập trung và hệ tại chức.

Đối với đào tạo CCLLCT hệ tập trung là nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đương

chức và dự nguồn có độ tuổi còn trẻ, được chiêu sinh học tập trung tại hệ thống học

viện, thời gian trước kia là 1 năm, từ năm 2014 là 8 tháng và được đánh giá là có

42

chất lượng. Đào tạo CCLLCT hệ tại chức dành cho cán bộ đương chức, tuổi cao, do

đặc thù công tác, không có điều kiện đi học tập trung. Hệ đào tạo không tập trung

nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo với số lượng lớn cán bộ hiện nay trong hệ thống

chính trị chưa được đào tạo CCLLCT.

Việc mở hệ đào tạo không tập trung xuất phát từ nhu cầu đào tạo CCLLCT

đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị trong những năm qua và hiện nay là

rất lớn; việc hằng năm mở các lớp đào tạo CCLLCT tập trung chưa đáp ứng được

nhu cầu đồi hỏi của thực tế. Các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được khả năng đó vì cơ

sở vật chất còn thiếu từ hội trường, phòng học, nhà ở cho học viên; đội ngũ giảng

viên còn thiếu… Xuất phát từ tình hình đó, Ban Tổ chức Trung ương cùng Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tham mưu Trung ương Đảng tăng cường mở các

lớp đào tạo CCLLCT hệ tại chức là nhằm đáp ứng nhu cầu còn lớn đó. Những năm

trước đây, khi khả năng mở các lớp đào tạo CCLLCT tập trung tại hệ thống học

viện còn hạn chế, hằng năm Ban Tổ chức Trung ương đã tham mưu cho Bộ Chính

trị, Ban Bí thư tăng cường mở thêm nhiều lớp đào tạo CCLLCT tại chức (có năm

đạt tỷ lệ 5 lớp tại chức/1 lớp tập trung).

Năm là, thời gian mở lớp không cố định.

Do đặc thù của đào tạo CCLLCT, thời gian mở các lớp đào tạo CCLLCT

thường không cố định (đặc biệt là các lớp không tập trung). Do điều kiện cơ sở vật

chất còn khó khăn nên địa điểm học mở tại nhiều địa phương, tỉnh, thành phố trong

cả nước nên công tác giảng dạy, kiểm tra, giám sát, quản lý còn gặp nhiều khó

khăn. Vì thế, thời gian mở lớp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như: việc bố

trí giảng viên, nhiệm vụ của từng địa phương....

Sáu là, công tác đào tạo CCLLCT gắn với công tác quy hoạch và sử dụng

cán bộ.

Đào tạo CCLLCT gắn bó chặt chẽ với công tác quy hoạch và sử dụng cán

bộ. Trước kia, công tác đào tạo cán bộ có lúc, có nơi mang tính tự phát, không theo

kế hoạch, thậm chí có những cán bộ được cử đi học do không bố trí được công việc

phù hợp. Sau hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII), đặc biệt từ khi ban hành Nghị

quyết 42 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ thì công tác đào tạo cán bộ

đã được đặt đúng vị trí của nó. Hiện nay, quy hoạch cán bộ là công tác thường

43

xuyên của các cấp uỷ đảng nhằm chuẩn bị đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để có

được đội ngũ này, cán bộ cần phải được đào tạo, bồi dưỡng. Đào tạo CCLLCT

hướng tới đối tượng là cán bộ đương chức hoặc trong quy hoạch, những cán bộ không

thuộc diện quy hoạch cho các chức danh theo quy định sẽ không thuộc diện đào tạo

CCLLCT. Trên thực tế, những cán bộ thuộc diện đào tạo CCLLCT là những cán bộ đã

được cấp uỷ dự kiến giữ những chức vụ nhất định trong ngắn hạn và trung hạn. Chính

vì thế, việc cử cán bộ đào tạo CCLLCT cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ

các cấp với cơ quan tham mưu ở Trung ương và các cơ sở đào tạo nhằm từng bước

tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT.

Thực tế trong thời gian qua, các địa phương, cơ quan, đơn vị đã có nhận thức

sâu sắc và quan tâm đến công tác đào tạo CCLLCT, đáp ứng tiêu chuẩn chức danh

cán bộ, từng bước nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác cho

cán bộ. Nhiều cấp uỷ đã quan tâm chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ dài hạn, gắn công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng với bố trí sử

dụng cán bộ. Nhiều tỉnh, thành uỷ đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đội

ngũ cán bộ, căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh cán bộ để lập kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng nói chung và lập danh sách cán bộ cần thiết được đào tạo CCLLCT cho phù

hợp với từng đối tượng.

Việc nghiên cứu kỹ và nắm bắt được những đặc điểm mang tính đặc thù của

đào tạo CCLLCT đòi hỏi giảng viên, cán bộ quản lý cơ sở đào tạo những yêu cầu

cao hơn, khác biệt hơn trong cách thức ứng xử, trong quá trình đào tạo, quản lý

nhằm đạt được mục tiêu đào tạo. 2.2. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO

CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ - KHÁI NIỆM, YẾU TỐ QUY ĐỊNH VÀ TIÊU

CHÍ ĐÁNH GIÁ

2.2.1. Khái niệm chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị Khái niệm chất lượng được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày, tuy

nhiên, tuỳ theo góc độ tiếp cận mà người ta có cách hiểu và định nghĩa khác nhau.

Theo Từ điển bách khoa tiếng Việt: Chất lượng, theo định nghĩa triết học, là

phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính

ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với các sự vật khác. Chất lượng là đặc tính

44

khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính. Nó là cái

liên kết các thuộc tính của sự vật lại là một, gắn bó với sự vật như một tổng thể, bao

quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó

thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của

sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số

lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự

thống nhất của chất lượng và số lượng [112].

Ở lĩnh vực kinh tế, chất lượng được quan niệm là tập hợp những tính chất

của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn những yêu cầu định trước cho nó, trong

điều kiện xác định về kỹ thuật, kinh tế, xã hội.

Với nghĩa thường dùng trong đời sống xã hội, chất lượng được hiểu là: “1.

Cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật; 2. Cái tạo nên bản chất sự vật,

làm cho sự vật này khác với sự vật khác” [112, tr.331].

Như vậy, dù xem xét dưới các góc độ, lĩnh vực khác nhau, và có những quan

niệm khác nhau, nhưng đều có cái chung là: chất lượng của sự vật là tổng hợp các

thuộc tính bản chất, những giá trị đặc trưng của sự vật.

Trong đời sống xã hội, khái niệm "chất lượng" hàm chứa trong nó tính chỉnh

thể, tổ hợp các thuộc tính, cấu thành nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự

vật; quy định mức độ đáp ứng của sự vật so với yêu cầu, hoặc nhu cầu xác định của

con người, của xã hội; làm nên tác dụng, giá trị của đối tượng.. Ví dụ, chất lượng của

hàng hoá; chất lượng của đội ngũ đảng viên; chất lượng công tác cán bộ…

Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trọng nhất của tất cả các cơ sở đào

tạo, các cơ quan quản lý, tổ chức thụ hưởng sản phẩm đào tạo và xã hội. Chất lượng

đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý đã và đang là mối

quan tâm lớn của Đảng ta.

Đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý bao gồm nhiều khâu, nhiều

việc, nhiều yếu tố được đặt ra với các yêu cầu xác định để thực hiện nhiệm vụ đào tạo

ra đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng

lực; có phong cách làm việc khoa học, hiệu quả đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, như: yêu cầu về tính tính khoa

học của nội dung, chương trình đào tạo; tính hiện đại của hình thức, phương pháp đào

45

tạo; cách tổ chức đào tạo; kết quả đào tạo... Việc thực hiện tốt hay không tốt các yêu

cầu đó xác định chất lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý…

Với các cách tiếp cận khác nhau, mỗi tổ chức hay mỗi cá nhân có thể có cách

hiểu, cách đánh giá khác nhau về chất lượng đào tạo CCLLCT. Nhưng dù chủ thể

đánh giá là ai, tổ chức đảng các cấp, cơ sở đào tạo hay bản thân người học, việc

đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT phải căn cứ vào mức độ đạt được so với mục

tiêu, yêu cầu mà Đảng đặt ra cho công tác này.

Từ khái niệm chất lượng và khái niệm đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý, có thể quan niệm: Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý là tổng hợp giá trị của các yếu tố về tổ chức đào tạo; về

thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo; về kết quả và hiệu quả đào

tạo, phản ánh mức độ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo CCLLCT nhằm góp phần

xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức,

trình độ, năng lực; có phong cách làm việc khoa học, hiệu quả đáp ứng đòi hỏi của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2.2.2. Những yếu tố quy định chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính

trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý

2.2.2.1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương về đào tạo cao cấp lý luận

chính trị Đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng đào tạo CCLLCT, bởi vì,

khác với các loại hình đào tạo khác, đào tạo CCLLCT phải bảo đảm đạt được mục

tiêu do Trung ương đề ra, theo đó, đào tạo CCLLCT là đào tạo theo chức danh; đối

tượng, tiêu chuẩn, yêu cầu đào tạo do Trung ương quy định, toàn bộ quá trình chiêu

sinh, giảng dạy phải bảo đảm theo đúng chỉ đạo của Trung ương, do đó công tác

lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương về đào tạo CCLLCT là nhân tố tác động đến chất

lượng đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về Chiến lược cán bộ thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [45] và Nghị quyết của các

Đại hội Đảng toàn quốc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành các nghị quyết và

nhiều quy định, quyết định quan trọng định hướng cho hoạt động đào tạo, bồi

dưỡng LLCT, trong đó có đào tạo CCLLCT, như đề ra mục tiêu đào tạo, quy định

46

về đối tượng, tiêu chuẩn người học, định hướng về nội dung chương trình đào tạo,

quy định về tiêu chuẩn giảng viên, quyết định về chức năng, nhiệm vụ của cơ sở

đào tạo CCLLCT, tăng cường cơ sở vật chất cơ sở đào tạo… tạo cơ sở pháp lý cho

hoạt động đào tạo CCLLCT hiện nay.

2.2.2.2. Công tác hướng dẫn, tham mưu, quản lý đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị nói chung, đào tạo cao cấp lý luận chính trị nói riêng Trên cơ sở các quyết định, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đào tạo lý

luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, việc hướng dẫn thực hiện chỉ đạo của

Trung ương có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo, bởi vì các

hướng dẫn nó bảo đảm cho việc thực hiện được nghiêm túc và đúng đắn.

Triển khai chủ trương, định hướng lớn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban

xây dựng Đảng ở Trung ương, theo chức năng, nhiệm vụ cần tham mưu cho Bộ Chính

trị, Ban Bí thư ban hành các quyết định liên quan đến công tác đào tạo CCLLCT như:

kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố; các văn bản hướng dẫn về đào tạo

CCLLCT (về đối tượng, tiêu chuẩn đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo, phân bổ chỉ

tiêu đào tạo…); hướng dẫn, tổng kết công tác giáo dục LLCT trong các Học viện,

trường đại học, cao đẳng; xây dựng đề án về công tác giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh trong các học viện, trường đại học, cao đẳng trình…

2.2.2.3. Sự quan tâm của cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan cử cán bộ đi đào tạo

cao cấp lý luận chính trị Sự quan tâm này thể hiện ở các nội dung sau:

Một là, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết, hướng dẫn của Trung

ương để tạo sự thống nhất cao, sự nhận thức đúng về đào tạo CCLLCT.

Hai là, trên cơ sở nghị quyết, quy định, quyết định của Trung ương và hướng

dẫn của các cơ quan Trung ương, các cấp uỷ Đảng đã xây dựng nghị quyết, chương

trình hành động, đề án, kế hoạch đào tạo CCLLCT; quán triệt đến cấp uỷ và đảng

viên, qua đó góp phần nâng cao nhận thức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về công

tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT, đào tạo CCLLCT nói riêng trong thời kỳ mới.

Ba là, lựa chọn, xét cử cán bộ đi đào tạo CCLLCT đúng đối tượng, tiêu

chuẩn. Như trên đã trình bày, Trung ương đã quy định cụ thể đối tượng, tiêu chuẩn

47

cán bộ được đào tạo CCLLCT. Việc lựa chọn, xét cử đi đào tạo CCLLCT sao cho

đúng đối tượng, đủ tiêu chuẩn sẽ tránh được tình trạng đào tạo không đúng đối

tượng nên gây lãng phí, đồng thời cũng khắc phục tình trạng cán bộ chỉ muốn được

đào tạo CCLLCT mà không muốn học trung cấp LLCT.

Bốn là, quan tâm tạo mọi điều kiện để người học yên tâm học: tạo điều kiện

về thời gian, bố trí người đảm đương công việc thay thế nếu đi học tập trung, hỗ trợ

về kinh phí (nếu có).

Các cấp uỷ địa phương, cơ quan, đơn vị, Học viện và các cơ sở đào tạo cần

quan tâm xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế phối hợp trong quản lý công tác đào

tạo, đảm bảo sự phân công trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các bộ phận; đề ra và thực

hiện một số biện pháp nâng cao chất lượng quản lý và bước đầu có kết quả: chú trọng

công tác thanh tra giáo dục; làm tốt công tác đảng trong học viên; tăng cường phối

hợp với các cấp uỷ địa phương tổ chức chiêu sinh đúng đối tượng; quản lý chặt chẽ

quá trình học tập, rèn luyện của học viên trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng.

2.2.2.4. Nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo Mục tiêu đào tạo có đạt được hay không phụ thuộc vào việc trả lời các câu hỏi:

Dạy cái gì và dạy như thế nào - tức là nội dung đào tạo và phương pháp đào tạo.

Nội dung đào tạo xuất phát từ mục tiêu đào tạo. Mục tiêu đào tạo CCLLCT

là trang bị cho cán bộ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà

nước, từ đó nâng cao phẩm chất chính trị, tư tưởng và chủ động sáng tạo trong lãnh

đạo quản lý. Để đáp ứng mục tiêu này, các chuyên gia phải lựa chọn trong kho tàng

tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các yêu cầu về chuẩn

mực nhân cách, kỹ năng của cán bộ lãnh đạo, quản lý mà thiết kế nội dung chương

trình CCLLCT thể hiện qua hệ thống các môn học, các chuyên đề và tổ chức quá

trình dạy và học nhằm trang bị cho người học những tri thức lý luận chính trị, hình

thành những phẩm chất và năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng

nhiệm vụ của Đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng. Nội dung chương trình càng sát

thực thì kết quả đào tạo càng gần mục tiêu đào tạo.

Phương pháp đào tạo là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng

không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Phương pháp đào tạo là hệ thống những hành

48

động có chủ đích theo một trình tự nhất định của người dạy nhằm tổ chức hoạt động

nhận thức và hoạt động thực hành của người học nhằm đảm bảo cho họ lĩnh hội nội

dung đào tạo và do đó mà đạt được mục tiêu đào tạo. Một phương pháp giảng dạy

khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giảng viên, và học viên phát huy hết khả năng

của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và phát triển tư duy, đồng thời tạo

nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo của người học. Đổi mới phương pháp đào tạo

có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, cung cấp những cơ hội

đặc biệt để nhận thức rõ những giá trị quan trọng, thực chất của nội dung đào tạo.

2.2.2.5. Chất lượng đội ngũ giảng viên Tục ngữ Việt Nam có câu “Không thầy đó mày làm nên” đã xác định vai trò

của người thầy trong xã hội Việt Nam. Hiện nay, quan điểm “đào tạo lấy người học

làm trung tâm” đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình đào tạo không có

nghĩa là phủ nhận hay xem nhẹ vai trò chủ đạo của giáo viên trong việc tổ chức quá

trình đào tạo. Cần phải nhận thức rằng học viên là đối tượng của đào tạo, cho nên

mọi nỗ lực của cơ sở đào tạo, của giảng viên trong hoạt động đào tạo đều phải

hướng tới nhu cầu và lợi ích của học viên. Trong quá trình này, vai trò chủ động,

tích cực, sáng tạo của học viên được phát huy, nhưng vai trò của giảng viên không

hề bị hạ thấp, yêu cầu đối với người dạy không hề giảm nhẹ, trái lại, giáo viên càng

phải có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ mới có thể đóng vai trò tổ chức quá

trình dạy và học. Chính vì vậy, khi nói về người thầy trong quá trình đào tạo, giáo

sư Hoàng Tuỵ khẳng định: “Vai trò quyết định đối với chất lượng giáo dục vẫn

thuộc về các yếu tố có liên quan trực tiếp tới người thầy” [116]. Câu nói hàm nghĩa

rất rộng về vai trò của người đứng trên bục giảng bao hàm cả ý nghĩa muốn có được

sản phẩm đào tạo tốt thì phải có những người thầy giỏi, những người thầy giàu tâm

huyết với nghề. Điều này cũng hoàn toàn đúng đối với đào tạo CCLLCT. Những

giảng viên có chuyên môn sâu, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú và có tâm huyết

là nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo trong hệ thống cơ sở đào tạo lý

luận chính trị hiện nay.

2.2.2.6. Chất lượng học viên tham gia đào tạo Chất lượng đầu vào của học viên là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả

cuối cùng của quá trình đào tạo. CCLLCT là những tri thức lý luận được khái quát

49

hoá về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính trừu tượng, khái

quát hoá cao. Để lĩnh hội được hệ thống tri thức này, cần có trình độ hiểu biết nhất

định về văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật và cả vốn sống thực tiễn nhất định

qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý. Đó là kết quả của một quá trình học tập và rèn

luyện lâu dài trong quá trình học tập chuyên môn, nghiệp vụ và công tác thực tiễn.

Mặt khác, học tập, suy cho cùng là hoạt động của mỗi cá nhân nhằm nâng cao tri

thức của mỗi người, nó đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực của mỗi cá nhân. Kết quả học tập

phụ thuộc rất nhiều vào tính tự giác, ý chí phấn đấu của mỗi cá nhân. Nếu việc tham

gia đào tạo CCLLCT là động cơ bên trong, trở thành nhu cầu tự thân của mỗi cá

nhân với mục tiêu nâng cao kiến thức thì nó sẽ trở thành một yếu tố tác động rất lớn

đến kết quả đào tạo của mỗi người.

2.2.2.7. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ đào tạo Trong quá trình đào tạo, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ quá trình đào tạo,

bao gồm: Hội trường, phòng học, thư viện, ký túc xá, sân chơi thể thao cùng với các

phương tiện kỹ thuật như máy tính, máy chiếu, trang âm, ánh sáng… góp một phần

không nhỏ trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo nói chung, đào tạo CCLLCT nói

riêng. Cơ sở vật chất có vai trò lớn trong việc đảm bảo nơi ăn, chốn ở cho học viên,

là điều kiện giúp học viên nắm vững kiến thức, phát triển năng lực và hình thành

nhân cách của người học. Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới đòi hỏi

phải có những tài liệu dạy - học mới, các phương tiện kỹ thuật tương ứng sẽ tăng

cường không chỉ khả năng nhớ mà cả khả năng hiểu, các kỹ năng thực hành và sáng

tạo của học viên. Vì thế, để nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT, cần quan tâm

đến xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đào tạo.

2.2.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho

cán bộ lãnh đạo, quản lý

2.2.3.1. Đánh giá chất lượng đào tạo Chất lượng đào tạo, như đã trình bày ở phần trên, là một khái niệm động, đa

chiều, và gắn với các yếu tố chủ quan thông qua quan hệ giữa người và người. Do vậy

không thể dùng một phép đo đơn giản để đánh giá và đo lường chất lượng đào tạo.

Trong giáo dục đại học người ta thường dùng một bộ thước đo bao gồm các

tiêu chí và các chỉ số ứng với các lĩnh vực trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa

50

học và dịch vụ của các trường đại học. Bộ thước đo này có thể dùng để đánh giá đo

lường các điều kiện đảm bảo chất lượng, có thể đánh giá đo lường bản thân chất

lượng đào tạo của một cơ sở đào tạo. Các chỉ số đó có thể là chỉ số định lượng, tức

là đánh giá và đo được bằng điểm số và các chỉ số định tính, tức là đánh giá bằng

nhận xét chủ quan của người đánh giá.

Việc đánh giá, đo lường chất lượng giáo dục đại học có thể được tiến hành

bởi chính cán bộ giảng dạy, sinh viên của trường nhằm mục đích tự đánh giá các

điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo cũng như đánh giá bản thân chất lượng đào

tạo của trường mình. Việc đánh giá, đo lường chất lượng cũng có thể được tiến

hành từ bên ngoài do các cơ quan hữu quan thực hiện với các mục đích khác nhau

(khen, chê, xếp hạng, khuyến khích tài chính, kiểm định công nhận...).

Dù đối tượng của việc đo lường, đánh giá chất lượng là gì và chủ thể của

việc đo lường, đánh giá là ai thì việc đầu tiên, quan trọng nhất vẫn là xác định mục

đích của việc đo lường, đánh giá. Từ đó mới xác định được việc sử dụng phương

pháp cũng như các công cụ đo lường tương ứng.

Ngày 01-11-2007, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số

65/2007/QĐ-BGDĐT về “Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học”, theo

đó, chất lượng giáo dục của cơ sở đại học được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn sau:

1. Tiêu chuẩn 1: Sứ mạng và mục tiêu của trường đại học;

2. Tiêu chuẩn 2: Tổ chức và quản lý;

3. Tiêu chuẩn 3: Chương trình đào tạo;

4. Tiêu chuẩn 4: Hoạt động đào tạo;

5. Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên;

6. Tiêu chuẩn 6: Người học;

7. Tiêu chuẩn 7: Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển

giao công nghệ;

8. Tiêu chuẩn 8: Hoạt động hợp tác quốc tế;

9. Tiêu chuẩn 9: Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác;

10. Tiêu chuẩn 10: Tài chính và quản lý tài chính [26].

Bộ Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học Việt Nam được quan tâm và xây

dựng từ những năm mới bắt đầu của thế kỷ 21 và được ban hành tạm thời năm

51

2004, trong đó có 10 tiêu chuẩn (TC), 53 tiêu chí, bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt

động của một trường đại học: sứ mạng, mục tiêu (TC 1), tổ chức, cơ cấu quản lý và

đội ngũ (TC 2 và 5), chương trình và hoạt động đào tạo (TC 3 và 4), người học (TC

6), nghiên cứu khoa học (TC 7), quan hệ quốc tế (TC 8) và cơ sở vật chất, tài chính

(TC 9 và 10). Sau hai năm tiến hành đánh giá thử nghiệm cho 20 trường đại học đầu

tiên, Bộ tiêu chuẩn đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp và được tiến hành chỉnh

sửa. Hiện nay, các tiêu chuẩn đã được ban hành chính thức với 10 tiêu chuẩn và 61

tiêu chí. Bộ tiêu chuẩn chất lượng giáo dục Việt Nam, nhìn chung được các trường

đại học Việt Nam ủng hộ và thực hiện theo đúng qui định của nhà nước cho thấy sự

định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với sự phát triển của hệ thống giáo dục

đại học Việt Nam nói chung và các trường đại học nói riêng [26].

Cùng xu hướng chung, ngày 30-01-2015, Giám đốc Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 565/QĐ-HVCTQG ban hành “Bộ tiêu chuẩn

đánh giá chất lượng đào tạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” gồm 11 tiêu

chuẩn với 86 tiêu chí:

Tiêu chuẩn 1: Sứ mạng và mục tiêu (với 6 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 2: Tổ chức và quản lý (với 11 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 3: Chương trình đào tạo (với 10 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 4: Hoạt động đào tạo (với 11 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 5: Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (với 9 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 6: Người học (với 10 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 7: Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và xã hội hoá

kết quả nghiên cứu (với 8 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 8: Hoạt động hợp tác quốc tế (với 5 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 9: Thư viện, trang thiết bị giảng dạy, nghiên cứu, học tập và

cơ sở vật chất khác (với 8 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 10: Tài chính và quản lý tài chính (với 5 tiêu chí);

Tiêu chuẩn 11: Tính thống nhất (với 3 tiêu chí) [70].

So với bộ tiêu chuẩn chung, bộ tiêu chuẩn chất lượng đào tạo của Học viện

có nhiều hơn 1 tiêu chuẩn (Tiêu chuẩn về tính thống nhất) với số lượng tiêu chí là

86 so với 61 tiêu chí đánh giá chung. Tên các tiêu chuẩn còn lại và hệ thống tiêu chí

52

cơ bản tương đồng đáp ứng yêu cầu chung của một cơ sở đào tạo đại học và phù

hợp với đặc thù của Học viện.

Việc đánh giá chất lượng đào tạo không chỉ được áp dụng với hệ thống đào

tạo đại học mà còn được quan tâm, áp dụng trong một số loại hình đào tạo khác, ví

dụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tại Công văn số 4524/BNV-ĐT, ngày

27/10/2014, Bộ Nội vụ đã đề xuất "Bộ chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức" [29] nhằm cung cấp cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng

một phương thức thu thập những thông tin khách quan về chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng thông qua sự hài lòng của các bên liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng

và sự đáp ứng mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên 6 nội dung:

- Đánh giá chất lượng chương trình đào tạo, bồi dưỡng;

- Đánh giá chất lượng học viên tham gia khoá đào tạo, bồi dưỡng;

- Đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên;

- Đánh giá chất lượng cơ sở vật chất phục vụ khoá đào tạo, bồi dưỡng;

- Đánh giá hiệu quả sau đào tạo, bồi dưỡng;

- Đánh giá chất lượng khoá đào tạo, bồi dưỡng.

2.2.3.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị Các tiêu chí về chất lượng đào tạo bồi dưỡng của Bộ Giáo dục và đào tạo,

của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là để đánh giá chất lượng đào tạo

toàn diện của cơ sở đào tạo, còn tiêu chí đánh giá chất đào tạo CCLLCT được dùng

để đánh giá chất lượng đào tạo của một loại hình đào tạo chuyên ngành tổng hợp.

Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT là mức độ, yêu cầu và điều kiện

mà Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí minh, các học viện chính trị khu vực và người

học phải đáp ứng để được công nhận đạt chất lượng đào tạo, là công cụ để Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí minh, các học viện khu vực tự đánh giá nhằm không

ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và để giải trình với các cơ quan có thẩm quyền

về thực trạng chất lượng đào tạo để cơ quan cơ quan có thẩm quyền đánh giá và

công nhận về chất lượng đào tạo.

Trên cơ sở các tiêu chí về chất lượng đào tạo bồi dưỡng của Bộ Giáo dục và đào

tạo, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn chất lượng đào tạo,

chúng tôi đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT như sau:

53

Tiêu chí 1. Sự phù hợp của kết quả đào tạo cao cấp lý luận chính trị với mục

tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng.

Xuất phát điểm đầu tiên khi đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT là căn cứ

vào mục tiêu đào tạo CCLLCT; đào tạo để đạt được mục tiêu gì, làm thế nào để đạt

được mục tiêu đó, từ đó toàn bộ quá trình đào tạo phải tập trung thực hiện các nội

dung đào tạo (đối tượng, chiêu sinh, nội dung chương trình đào tạo...) đề đạt được

mục tiêu đề ra.

Mục tiêu đào tạo CCLLCT đã được Đảng quy định trong các văn kiện, chí

thị của Đảng. Mục tiêu của quá trình đào tạo CCLLCT phân tích cụ thể chính là:

Một là, trang bị cho học viên hệ thống về những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối chính sách

của Đảng, pháp luật Nhà nước, nhất là quan điểm đổi mới được thể hiện trong các

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và một số nội dung về khoa học

hành chính, từ đó nâng cao phẩm chất chính trị, vững vàng tư tưởng và chủ động

sáng tạo trong lãnh đạo quản lý, góp phần tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp đổi

mới của cách mạng.

Hai là, đào tạo CCLLCT góp phần nâng cao niềm tin vào sự nghiệp cách

mạng, công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng; kiên định với mục tiêu độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ,

đảng viên.

Học viên sau đào tạo CCLLCT phải đạt được các yêu cầu sau:

Một là, phải nắm tương đối có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, củng cố

thế giới quan và phương pháp khoa học.

Hai là, phải nâng cao năng lực tổ chức chỉ đạo thực tiễn một cách chủ động,

sáng tạo có hiệu quả, góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới của cách mạng theo

mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Ba là, phải củng cố quan điểm, lập trường giai cấp công nhân, rèn luyện về

đạo đức cách mạng, giữ vững phẩm chất chính trị. Kiên quyết đấu tranh chống mọi

biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, của sự thoái hoá, biến chất... góp phần xây dựng

Đảng trong sạch, vững mạnh. Rèn luyện đạo đức tác phong người cán bộ cách

54

mạng: cần kiệm, liêm chính chí công vô tư. Có tình cảm trong sáng, lối sống giản dị

và quan hệ mật thiết với nhân dân.

Việc xác định mục tiêu, yêu cầu đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với quá

trình đào tạo, là cơ sở xác định chương trình và phương pháp đào tạo.

Mục tiêu đào tạo CCLLCT xuất phát từ yêu cầu khách quan đối với cán bộ

lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị trong mỗi giai đoạn cụ thể được Đảng ta

xác định; từ nhu cầu đào tạo của tổ chức và bản thân cán bộ.

Trong giai đoạn hiện nay, đào tạo LLCT (trong đó có CCLLCT) phải:

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của công tác đào

tạo, bồi dưỡng LLCT, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý các cấp có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, phong cách

làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [22].

Mục tiêu đào tạo CCLLCT được xác định cụ thể theo từng thời kỳ phù hợp

với yêu cầu phát triển của đội ngũ cán bộ và tình hình phát triển của đất nước trước

yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng.

Để đánh giá được chất lượng đào tạo, cần đánh giá mức độ phù hợp của kết

quả đào tạo so với mục tiêu đào tạo. Kết quả đào tạo CCLLCT của mỗi học viên sau

quá trình đào tạo được thể hiện cơ bản trên 3 phương diện: nhận thức, kỹ năng và

thái độ.

Thứ nhất, về nhận thức: nâng cao hiểu biết qua việc nắm được những nội

dung cơ bản và cần thiết về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm,

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; một số nội dung của khoa

học hành chính và khoa học lãnh đạo, quản lý.

Thứ hai, về kỹ năng: trên cơ sở nhận thức, nâng cao khả năng vận dụng kiến

thức lý luận Mác-Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng vào thực tiễn công tác

của mình; nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý, nghiệp vụ về công tác Đảng, chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân, năng lực tổ chức thực tiễn, tổ chức

quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị ở đơn vị.

Thứ ba, về thái độ: củng cố và tăng niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo; kiên định mục tiêu

55

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trau dồi phẩm chất, đạo đức của người cán bộ

lãnh đạo, quản lý.

Đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT là đánh giá kết quả quá trình đào tạo

trên 3 phương diện trên. Kết quả đó được thể hiện qua điểm số của các bài kiểm tra

trong quá trình học, kết quả thi cuối khoá; qua tự đánh giá của học viên và đánh giá

năng lực, thái độ học viên sau đào tạo của các tổ chức, đơn vị sử dụng cán bộ.

Tiêu chí 2. Sự tương thích của nội dung, chương trình và phương pháp đào

tạo với mục tiêu, yêu cầu và đối tượng đào tạo

Nội dung, chương trình đào tạo là yếu tố quan trọng nhất trong đào tạo. Nội

dung đào tạo cao cấp lý luận chính trị được xác định trên cơ sở định hướng chính trị

của Đảng đối với cán bộ lãnh đạo quản lý. Trên cơ sở đó, Ban Tuyên giáo Trung

ương định hướng chính trị của nội dung đào tạo và Học viện triển khai nội dung cụ

thể thành chương trình, các bài học, các chuyên đề đào tạo cao cấp lý luận chính trị.

Nội dung chương trình đào tạo CCLLCT là một tiêu chí quan trọng để đánh

giá chất lượng đào tạo CCLLCT bởi vì, nội dung chương trình đào tạo CCLLCT thể

hiện mục tiêu đào tạo CCLLCT; quy định chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ, đạo

đức, phạm vi và cấu trúc nội dung, phương pháp giảng dạy và hình thức đào tạo,

cách thức đánh giá kết quả đào tạo với mỗi môn học, khối kiến thức và toàn bộ

chương trình. Việc xác định sự tương thích của nội dung, chương trình đào tạo

CCLLCT bao gồm các nội dung sau: 1) Sự phù hợp của nội dung chương trình với

mục tiêu tiêu đào tạo CCLLCT; 2) Sự phù hợp của nội dung chương trình với đối

tượng đào tạo; 3) Sự phù hợp của nội dung chương trình với trình độ đào tạo

CCLLCT; 4) Nội dung chương trình có bảo đảm tính khoa học và thực tiễn không?

Tính khoa học của nội dung chương trình thể hiện ở tính chính xác của nội

dung chương trình và là sự cân đối giữa nội dung chương trình với thời lượng khoá

đào tạo, giữa các chuyên đề, học phần trong chương trình; giữa nội dung lý thuyết

và thực hành, thực tế.

Có thể nói tính phù hợp của chương trình là thể hiện ở sự tương đồng với

mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng và trình độ, nhu cầu kiến thức của học viên. Chương

trình đào tạo có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, cấu trúc hợp lý, được thiết kế một cách hệ

thống, đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng của đào tạo trình độ CCLLCT.

56

Chương trình đào tạo CCLLCT phải có những học phần được định kỳ bổ sung, điều

chỉnh phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu cán bộ trong từng thời kỳ.

Phương pháp đào tạo không ngừng được đổi mới phù hợp với yêu cầu người học và tình hình mới.

Phương pháp đào tạo bao gồm các cách thức tiến hành hoạt động dạy và học nhằm đào tạo được những con người theo đúng mục tiêu đã xác định. Nói cách khác, phương pháp đào tạo là cách thức hoạt động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của học viên nhằm đạt mục tiêu đào tạo.

Một phương pháp đào tạo tốt là phương pháp phù hợp với trình độ của người học, với điều kiện cụ thể của môi trường đào tạo, là phương pháp đạt mục tiêu đào tạo nhưng tiết kiệm được chi phí, tiết kiệm được thời gian đào tạo. Trong xu hướng giáo dục hiện đại, phương pháp đào tạo gắn liền với thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống và sự phát triển của khoa học, công nghệ, ngày càng tiếp cận với phương pháp nghiên cứu khoa học, ngày càng gắn liền với các thiết bị và phương tiện dạy học hiện đại.

Chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của người học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm của người học.

Phương pháp và quy trình kiểm tra đánh giá được đa dạng hoá, đảm bảo nghiêm túc, khách quan, chính xác, công bằng và phù hợp với hình thức đào tạo, hình thức học tập, mục tiêu môn học và đảm bảo mặt bằng chất lượng giữa các hình thức đào tạo; đánh giá được mức độ tích luỹ của người học về kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề.

Tiêu chí 3. Khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy cao cấp lý luận chính trị của đội ngũ giảng viên Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các học viện chính trị khu vực

Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy CCLLCT, giảng viên phải là người có phẩm chất chính trị vững vàng, có chuyên môn sâu, tâm huyết với nghề.

Để đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT, cần đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo CCLLCT, theo đó:

Học viện phải có đủ số lượng giảng viên để thực hiện chương trình đào tạo và nghiên cứu khoa học đáp ứng nhu cầu đào tạo CCLLCT do Ban Tổ chức Trung ương phân bổ.

57

Đội ngũ giảng viên đảm bảo đạt trình độ chuẩn về chuyên môn và nghiệp vụ

sư phạm; đảm bảo cơ cấu chuyên môn và trình độ theo quy định; có trình độ ngoại

ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học; đảm bảo

tính kế thừa về độ tuổi và kinh nghiệm công tác.

Có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên; quy hoạch

bổ nhiệm cán bộ quản lý đáp ứng mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với

điều kiện cụ thể của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Có chính sách, biện pháp tạo điều kiện cho cán bộ quản lý và giảng viên tham

gia các hoạt động để naag cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ở trong và ngoài nước.

Tiêu chí 4. Chất lượng công tác quản lý đào tạo

Là quá trình đào tạo, theo nghĩa tiếp cận hệ thống, có thể xác định nội dung

quản lý đào tạo bao gồm các nhiệm vụ: Quản lý mục tiêu đào tạo; quản lý kế hoạch

đào tạo; quản lý công tác tổ chức đào tạo; quản lý chương trình và phương pháp đào

tạo; quản lý giảng viên; quản lý học viên; quản lý công tác kiểm tra, đánh giá chất

lượng và hiệu quả đào tạo; quản lý cơ sở vật chất cho đào tạo.

Do đặc thù của hệ CCLLCT là chịu sự quản lý của nhiều cơ quan, trong đó

có Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương. Học viện cũng có sự

phân cấp giữa Trung tâm Học viện với các Học viện trực thuộc, do đó, nội dung

quản lý đào tạo CCLLCT cũng liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị thuộc Học viện

và các tỉnh, thành uỷ có học viên tham gia đào tạo.

Quản lý kế hoạch đào tạo

Kế hoạch đào tạo là sự dự kiến hệ thống công việc trên cơ sở nhu cầu đào tạo

và những điều kiện về giáo viên, cơ sở vật chất nhằm đạt được mục tiêu trong thời

gian đã xác định. Việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch là

một yêu cầu quan trọng của công tác đào tạo. Đây là quá trình thiết lập các mục tiêu

và những phương thức hành động thích hợp để đạt được mục tiêu; giúp xác định

đúng nhu cầu, dự kiến quy mô, nhận thức rõ đối tượng, tiêu chuẩn, mục tiêu, nội

dung đào tạo, phương pháp giảng dạy; nguồn lực; các hoạt động, các khóa học; thời

gian, kinh phí thực hiện.

Chất lượng công tác quản lý kế hoạch đào tạo CCLLCT thể hiện ở tính hợp

lý trong phân bổ chỉ tiêu đào tạo; sự phân công trách nhiệm cụ thể cho mỗi thành tố

58

trong quá trình đào tạo; kết quả thực hiện kế hoạch đào tạo theo tiến độ thời gian

(tính khả thi) trong thực hiện kế hoạch đào tạo.

Trong đào tạo CCLLCT, việc lập kế hoạch liên quan đến nhiều cơ quan: Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức các tỉnh, thành uỷ (và tương đương) và thực hiện kế hoạch đào tạo CCLLCT là nhiệm vụ quan trọng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Để lập và thực hiện kế hoạch đúng, việc xác định nhu cầu đào tạo và đánh giá năng lực đào tạo là những khâu rất quan trọng của quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo. Trên cơ sở nhu cầu đào tạo CCLLCT và khả năng đáp ứng của cơ sở đào tạo mà xác định quy mô số lớp, số học viên cần tuyển sinh hằng năm, từ đó, Học viện phân bổ chỉ tiêu, bố trí giảng viên, thời gian triển khai thực hiện từng học phần của chương trình đào tạo CCLLCT cho các lớp đào tạo.

Quản lý nội dung và phương pháp đào tạo Quản lý nội dung đào tạo CCLLCT bảo đảm cho quá trình đào tạo đạt được

chất lượng đào tạo toàn diện cho học viên nhằm đạt mục tiêu đào tạo. Chất lượng đào tạo dựa trên kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động của quá

trình đào tạo. Quản lý nội dung đào tạo với tư cách là yếu tố quan trọng nhất nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo phải được tiến hành trong suốt quá trình đào tạo. Công cụ chủ yếu của quản lý mục tiêu đào tạo là khung chương trình, chương trình chi tiết môn học, giáo trình, sách giáo khoa và hệ thống các văn bản có liên quan của Đảng, của các cơ quan tham mưu và của Học viện.

Quản lý phương pháp đào tạo có tác dụng quan trọng đối với hiệu quả công tác đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT. Yêu cầu của phương pháp đào tạo hiện nay là kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp dạy học tích cực (DHTC) thể hiện qua phân bổ hợp lý thời gian lên lớp với thời gian thảo luận, tự học của học viên; ở thực tiễn giảng dạy của giáo viên; ở việc tổ chức các khoá huấn luyện và thực hành phương pháp DHTC cho giảng viên của Học viện cũng như việc biên soạn hệ thống bài giảng, chuẩn bị các điều kiện vật chất - kỹ thuật cho triển khai dạy theo phương pháp DHTC của các cơ sở đào tạo.

Quản lý người dạy, người học Quản lý đội ngũ giảng viên là bố trí, phân công giảng viên tham gia giảng

dạy phù hợp với năng lực chuyên môn và bố trí thời gian hợp lý cho giảng viên

tham gia quá trình đào tạo.

59

Nội dung công tác quản lý giảng viên bao gồm: chất lượng giảng viên (học

hàm, học vị, kinh nghiệm, thâm niên giảng dạy, năng lực sư phạm); phẩm chất, đạo

đức nghề nghiệp của giảng viên thông qua việc thực hiện các nội quy, quy định, tác

phong sư phạm và ứng xử với học viên; trách nhiệm của giảng viên thông qua việc

chuẩn bị bài giảng; phương pháp giảng dạy của giảng viên qua việc sử dụng các

phương pháp và phương tiện dạy học.

Học viên là chủ thể tích cực của quá trình đào tạo, là những người đang học

tập rèn luyện để đạt mục tiêu đào tạo của nhà trường. Quản lý học viên là xác định

rõ động cơ, thái độ học tập; quản lý thời gian học tập thông qua các quy chế, quy

định đối với người học nhằm đảm bảo mục tiêu đào tạo.

Kiểm tra và đánh giá kết quả đào tạo

Kiểm tra - Đánh giá có chức năng đánh giá và thẩm định chất lượng đào tạo.

Việc kiểm tra - đánh giá nhằm mục đích thu thập kịp thời các mối liên hệ ngược về

các hoạt động học tập, nghiên cứu của người học, phát hiện kịp thời những thiếu sót

của người dạy và người học để điều chỉnh và hoàn thiện quy trình đào tạo.

Quản lý cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo

Cơ sở vật chất là điều kiện đảm bảo hiệu quả quá trình đào tạo và thực hiện

được mục tiêu đào tạo. Có cơ sở vật chất, thiết bị đầy đủ, hiện đại mới có thể thực

hiện tốt nội dung đào tạo.

Cơ sở vật chất cho đào tạo là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật

được sử dụng để phục vụ việc dạy và học trong cơ sở đào tạo (Hội trường, giảng

đường, bàn ghế, ánh sáng, thiết bị, thư viện…).

Tiêu chí 5. Mức độ bảo đảm chất lượng đầu vào trong việc xét cử và chiêu

sinh học cao cấp lý luận chính trị

Việc xét cử và chiêu sinh đào tạo CCLLCT, bảo đảm theo đúng quy định

được xác định là một tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT, đây được coi là

chất lượng đầu vào.

Đối với học viên đào tạo CCLLCT, Trung ương quy định rõ đối tượng, tiêu

chuẩn học, nơi đào tạo và cấp bằng cao cấp chính trị,

Theo quy định, đối tượng đào tạo CCLLCT là dành cho cán bộ lãnh đạo,

quản lý, theo phân cấp quản lý là dành cho đối tượng lãnh đạo, quản lý các cấp

60

trong hệ thống chính trị, người dược học phải đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định,

phải là đảng viên, phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên…. Các yêu cầu này nhằm

đảm bảo cán bộ diện đào tạo CCLLCT có đủ tri thức khoa học cũng như vốn sống

thực tế đủ để tiếp thu tri thức khoa học của lý luận chính trị trình độ cao cấp. Với

việc học chuyên môn kỹ thuật và các loại đào tạo khác, không hạn chế về độ tuổi học,

không hạn chế về nơi đào tạo và các yêu cầu khác; ví dụ học cử nhân chuyên môn, kỹ

thuật thì không hạn chế về tuổi, 20 tuổi học cũng được, 60 tuổi học cũng được; không

là đảng viên học cũng được, không học trường này thì học trường khác, không là cán

bộ lãnh đạo quản lý học cũng được. Vì vậy, xác định chất lượng đầu vào, bảo đảm

theo quy định cũng là một tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT.

Tiêu chí 6. Mức độ bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, học tập

Cơ sở vật chất cho đào tạo là hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ thuật

được sử dụng để phục vụ việc dạy và học trong cơ sở đào tạo (Hội trường, giảng

đường, bàn ghế, ánh sáng, thiết bị, thư viện…). Cơ sở vật chất là điều kiện đảm bảo

hiệu quả quá trình đào tạo và thực hiện được mục tiêu đào tạo. Có cơ sở vật chất,

thiết bị đầy đủ, hiện đại mới có thể thực hiện tốt nội dung đào tạo.

Đảm bảo cơ sở vật chất cho dạy và học bao gồm: Có đủ diện tích sử dụng đất

theo quy định của tiêu chuẩn TCVN 3981-85; có đủ số phòng học, giảng đường với

diện tích theo quy định phục vụ cho dạy, học và nghiên cứu khoa học; có thư viện,

ký túc xá, trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt động văn hoá, thể thao cho học viên;

có đủ phòng làm việc cho các cán bộ, giảng viên và nhân viên cơ hữu và có các biện

pháp bảo vệ tài sản, trật tự, an toàn cho cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên và

người học.

Tiểu kết chương 2 Đào tạo cao cấp lý luận chính trị là một bộ phận trong hệ thống đào tạo cán

bộ của Đảng, bao gồm tổng thể các hoạt động dạy và học nhằm trang bị cho người

học kiến thức cao cấp lý luận chính trị, kỹ năng hoạt động chính trị, quản lý kinh tế

- xã hội; nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trung,

cao cấp, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ của Đảng.

Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là

tổng hợp giá trị của các yếu tố về tổ chức đào tạo; về thực hiện nội dung, hình thức,

61

phương pháp đào tạo; về kết quả và hiệu quả đào tạo, phản ánh mức độ đáp ứng

mục tiêu, yêu cầu đào tạo CCLLCT nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực; có phong cách

làm việc khoa học, hiệu quả đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam XHCN.

Đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT trên 6 tiêu chí sau:

- Sự phù hợp của kết quả đào tạo cao cấp lý luận chính trị với mục tiêu, yêu

cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng.

- Sự tương thích của nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo với mục

tiêu, yêu cầu và đối tượng đào tạo;

- Khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy cao cấp lý luận chính trị của đội ngũ giảng

viên Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện Chính trị khu vực;

- Chất lượng ông tác quản lý đào tạo;

- Mức độ bảo đảm chất lượng đầu vào trong việc xét cử và chiêu sinh học

cao cấp lý luận chính trị;

- Mức độ bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, học tập.

62

Chương 3

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH

TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1.1. Ưu điểm và kết quả Mặc dầu còn có không ít khó khăn, những năm vừa qua, công tác đào tạo

CCLLCT đã đạt được nhiều kết quả đáng được ghi nhận, “đã có bước phát triển cả

về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính

trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng

lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ ở các cấp từ cơ sở đến Trung ương”, “đã

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách cơ bản và tương đối hệ thống những tri thức lý

luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và các

khoa học chính trị, hành chính” [21]. Chất lượng đào tạo CCLLCT cũng từng bước

được nâng cao, thể hiện trên các nội dung sau:

3.1.1.1. Công tác đào tạo cao cấp lý luận chính trị đã từng bước bảo đảm

theo đúng mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng Căn cứ mục tiêu, yêu cầu đào tạo CCLLCT mà Trung ương đặt ra cho mỗi

thời kỳ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã chọn lọc những nội dung phù

hợp để xây dựng chương trình, cụ thể hoá thành các giáo trình. Nội dung chương

trình đã tập trung làm sáng tỏ bản chất khoa học và cách mạng, những nguyên lý

phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nội dung căn bản của tư tưởng Hồ Chí

Minh, phản ánh những vấn đề cơ bản và những nội dung phát triển mới của lý luận

để làm sáng tỏ cơ sở khoa học của các quan điểm đường lối của Đảng. Kết quả đánh

giá quá trình đào tạo đã chứng tỏ về cơ bản, công tác đào tạo CCLLCT đã thực hiện

được mục tiêu, những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ tham gia đào tạo.

Đào tạo CCLLCT đã cung cấp cho học viên những hiểu biết tương đối có hệ

thống về những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các

quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Có

63

thể nói, nội dung chương trình CCLLCT nói chung đã đảm bảo được tính cơ bản,

tính hệ thống, tính thực tiễn và một phần tính hiện đại. Trong từng nội dung của các

môn học, các chuyên đề đã kết hợp được giữa lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước và

với tình hình thực tiễn trong nước, thế giới đương đại. Nhờ đó, đã tạo được nền kiến

thức cần thiết giúp cho người học xem xét và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn

công tác trên cơ sở căn cứ khoa học.

Ngoài những nội dung trên, đào tạo CCLLCT còn trang bị cho học viên một

hệ thống những tri thức cơ bản về một số ngành khoa học xã hội và nhân văn cần

thiết nhất cho công tác lãnh đạo quản lý như chính trị học, các môn khoa học về

Đảng, về văn hoá, về tín ngưỡng tôn giáo... Nội dung chương trình đã chứa đựng

được các kiến thức cơ bản, cơ sở và chuyên môn, nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý. Đây

là những bộ phận kiến thức cần thiết, có mối liên hệ hữu cơ nhằm chuẩn bị cho một

nghề nghiệp đặc biệt - “nghề lãnh đạo quản lý”, cho một nguồn nhân lực đặc biệt -

những chính trị gia, trong đó có một bộ phận sẽ trở thành những chính khách của

đất nước.

Quá trình đào tạo CCLLCT cũng cung cấp cho học viên những tri thức mới

về khoa học quản lý; về nghiệp vụ công tác lãnh đạo chính trị; đồng thời rèn luyện

năng lực tư duy, năng lực hoạt động thực tiễn; rèn luyện đạo đức, phong cách của

người cán bộ lãnh đạo quản lý, đáp ứng được những đòi hỏi của giai đoạn cách

mạng mới. Nội dung chương trình đã thể hiện được yêu cầu toàn diện, vừa nâng cao

tri thức lý luận, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng vận dụng vào thực tiễn, vừa

nâng cao lực lãnh đạo quản lý, năng lực tổ chức thực tiễn với khả năng tập hợp,

thuyết phục, lôi cuốn quần chúng, huy động sức mạnh tổng hợp để hoàn thành tốt

các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước các cấp giao phó; vừa tiếp tục xây dựng, bồi

bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, vừa rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn, yêu

cầu của người cán bộ lãnh đạo quản lý...

Hầu hết các bộ môn đều dùng hai cách sau để đánh giá kết quả học tập của

học viên: Một là, tự luận (viết một vấn đề mang tính tổng hợp thuộc lĩnh vực môn

học, có lý luận và vận dụng thực tiễn với thời gian thi là 120-180 phút và hai là thi

vấn đáp.

64

Việc tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên, những năm

gần đây được đổi mới, theo hướng ra đề thi, kiểm tra với nội dung tổng hợp, đòi hỏi

học viên không chỉ nắm chắc, hiểu sâu kiến thức lý luận, mà còn biết liên hệ, vận

dụng kiến thức để giải đáp vấn đề thực tiễn đặt ra.

Khảo sát của Ban Tổ chức Trung ương về kết quả học tập đối với các lớp đào

tạo CCLLCT cho thấy, hầu hết học viên đạt từ loại khá trở lên, trong đó phần lớn

đạt loại giỏi và xuất sắc. Chỉ tính riêng các lớp mở tại Trung tâm Học viện từ 2012 -

2015, gồm 146 lớp với 11115 học viên, kết quả thống kê cho thấy, đa số học viên

có kết quả thi cuối khoá đạt loại giỏi, trong đó có nhiều học viên đạt loại xuất sắc;

kết quả đào tạo của các lớp tập trung cao hơn kết quả của các lớp hoàn chỉnh và

không tập trung. Trong những năm gần đây, kết quả đào tạo CCLLCT của các lớp

tập trung có xu hướng ngày càng cao: tỉ lệ học viên xuất sắc và giỏi ngày càng tăng

(từ 2.43% và 30.52% năm học 2012-2013 tăng lên 4.06% và 91.34% năm học

2014-2015) trong khi tỉ lệ học viên khá giảm dần (từ 67.04% xuống còn 4.05%) [8].

Bên cạnh việc tiếp thu tri thức, việc nâng cao chất lượng đào tạo một cách

toàn diện ngày càng được coi trọng. Với trách nhiệm của Trung tâm quốc gia đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Đảng và Nhà nước, chất lượng

đào tạo là rất quan trọng. Yêu cầu đặt ra không chỉ là phải đảm bảo trang bị cho học

viên một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản gắn với những vấn đề thực tiễn

của thời đại, của đất nước, kỹ năng xử lý tình huống thực tế mà còn phải đặc biệt

chú ý việc rèn luyện đạo đức, nhân cách cán bộ cho học viên để họ có thể hoàn

thành những nhiệm vụ quan trọng của thực tiễn.

Hầu hết học viên trong quá trình đào tạo tại Học viện có thái độ học tập tốt: thể

hiện ý thức tổ chức kỷ luật trong học tập, nghiêm túc chấp hành các quy chế, quy định

của lớp học; tích cực đổi mới phương pháp học, bước đầu đã phát huy được tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của người học; làm tốt công tác đảng trong học viên và các mặt

công tác quản lý đào tạo khác đã góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém trong

tuân thủ giờ giấc lên lớp, ý thức tự giác học tập, tự nghiên cứu của học viên.

Về ý kiến đánh giá của học viên sau đào tạo CCLLCT, kết quả điều tra xã

hội học của Ban Tổ chức Trung ương cho thấy sự phản hồi khá tốt về hiệu quả đào

tạo CCLLC.

65

Khi được hỏi: “Đồng chí hãy đánh giá mức độ tác dụng của chương trình đào

tạo, bồi dưỡng CCLLCT mà đồng chí tham gia đối với việc nâng cao trình độ và

năng lực công tác của bản thân”, trong số 1672 người được hỏi, có 540 đánh giá

“Rất tốt” (chiếm 32.3%); 972 đánh giá “Tốt” (58.1%); còn lại 9.5% đánh giá “Bình

thường” và “Yếu”).

Với câu hỏi: “Đồng chí đánh giá thế nào về hiệu quả của đào tạo CCLLCT

đối với công việc của mình sau khi tốt nghiệp”, kết quả như sau: Có 52.3% tự thấy

kiến thức, trình độ lý luận chính trị được nâng cao; 47.6% cho rằng kỹ năng làm

việc được hoàn thiện và nâng cao và 46.3% có ý kiến đánh giá hiệu suất công tác tốt

hơn trước khi đi học.

Số liệu trên phần nào đã minh hoạ cho chất lượng đào tạo CCLLCT theo

đánh giá của bản thân học viên đã tham gia đào tạo.

3.1.1.2. Có nhiều cố gắng đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp

đào tạo cao cấp lý luận chính trị nhằm bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu

của tình hình mới

Về đổi mới nội dung, chương trình đào tạo CCLLCT

Trong những năm vừa qua, nội dung chương trình, giáo trình và bài giảng

CCLLCT đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với mục tiêu đào tạo

cũng như nhu cầu của người học. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo theo

hướng bám sát cương lĩnh, chiến lược và đường lối, chính sách của Đảng, cập nhật

thông tin về sự biến động mang tính toàn cầu trên các lĩnh vực của khoa học- công

nghệ, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tăng cường tri thức thực tiễn qua tổng kết

kinh nghiệm đổi mới của đất nước ta, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã

chủ trì tổ chức nhiều hội nghị khoa học - thực tiễn ở cả ba miền đất nước với sự

tham gia của các nhà khoa học, các đồng chí lãnh đạo có kinh nghiệm phong phú về

công tác tư tưởng và giáo dục - đào tạo, tập trung thảo luận về mục tiêu, đối tượng,

chương trình và phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của

Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Tiếp thu ý kiến đóng góp của các đại

biểu từ các cuộc hội thảo khoa học nêu trên, Học viện đã chính thức ban hành bộ

chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của hệ thống chính

66

trị áp dụng thống nhất cho toàn hệ thống Học viện. Chương trình CCLLCT trước

đây gồm 18 học phần đã đem đến cho người học một hệ thống tri thức rộng, cơ bản,

tương đối toàn diện. Bên cạnh việc khẳng định vị trí chủ đạo, cốt lõi của các bộ môn

lý luận chính trị (chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh), chương trình

còn chứa đựng nhiều nội dung cơ bản của những khoa học chính trị, xã hội cần

thiết. Trong nội dung chương trình, những môn học cấu thành của chủ nghĩa Mác -

Lênin (Triết học Mác - Lênin, kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội

khoa học) và các bộ môn khoa học chính trị khác (tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng, Chính trị học) đã được đặc biệt quan

tâm ưu tiên về thời lượng để bảo đảm chuyển tải đến người học đầy đủ những

nguyên lý lý luận quan trọng. Ngoài ra, chương trình còn được bố trí tăng cường

nhiều môn học mới, có tác dụng thiết thực cho việc hình thành bản lĩnh chính trị và

năng lực công tác của người lãnh đạo, quản lý chủ chốt, như Quan hệ quốc tế và

đường lối đối ngoại của Đảng, Khoa học quản lý, Quản lý kinh tế, Kinh tế phát

triển, Xã hội học trong lãnh đạo quản lý, Tâm lý học trong lãnh đạo quản lý, Lý

luận về tôn giáo và tín ngưỡng...

Trước đây, việc đào tạo CCLLCT được tiến hành cơ bản theo 2 chương

trình; Chương trình 105 chuyên đề cho hệ tập trung và Chương trình 20 học phần

cho hệ không tập trung.

Chương trình 105 chuyên đề rất chú ý tới tính hiện đại của giáo trình

nhưng kết cấu chương trình sắp xếp theo khối kiến thức và các chuyên đề, chưa

bảo đảm được kết cấu tổng thể của một chương trình đào tạo; vai trò của các đơn

vị giảng dạy trong Học viện không rõ; việc bố trí giảng viên cho các lớp không

tập trung tổ chức tại các địa phương không thực hiện được; việc đánh giá chất

lượng học tập cũng khó khăn vì khá nhiều chuyên đề nằm rải rác ở các bộ môn

khác nhau.

Chương trình 20 học phần lấy các đơn vị giảng dạy làm cơ sở, bố trí theo

môn và bài, thể hiện cách bố trí của chương trình đào tạo nhưng nội dung nhiều

phần còn dàn trải, trùng lặp nhau, nhắc lại quá nhiều kiến thức cơ bản đã có trong

chương trình đại học, cao đẳng, trung cấp lý luận chính trị...

67

Giai đoạn trước những năm 2004, chương trình, nội dung đào tạo CCLLCT

tại Trung tâm Học viện gồm 2 phần: lý luận chính trị và quốc phòng-an ninh, được

kết cấu thành 18 học phần.

Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007, thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW

của Bộ Chính trị và các Nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng, từ năm 2006 Học viện

đã xây dựng các chương trình, giáo trình mới gồm: Chương trình CCLLCT tại

Trung tâm Học viện; Chương trình CCLLCT ở các Học viện trực thuộc; Chương

trình CCLLCT dành cho cán bộ các dân tộc thiểu số và Chương trình CCLLCT cho

chuyên viên chính và tương đương;

Giai đoạn sau khi hợp nhất Học viện Hành chính quốc gia với Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh: Học viện xây dựng Chương trình cao cấp lý luận chính trị - hành chính

(CCLLCT - HC) để các cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ học một chương trình và được

cấp một bằng; bổ sung thêm học phần khoa học hành chính 150 tiết, lúc này kết cấu

chương trình, nội dung đào tạo CCLLCT - HC thành 20 học phần.

Giai đoạn từ 2008 đến 2013, bám sát mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết số

52-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày từ năm 2008 Học viện đã tiến hành điều chỉnh

nội dung chương trình đào tạo cho các lớp CCLLCT - HC và chuyển kết cấu

chương trình theo các môn học sang kết cấu gồm các khối kiến thức, đồng thời

chuyển từ hệ thống các bài giảng sang hệ thống các chuyên đề; lược bớt những nội

dung không cần thiết, hoặc trùng lặp; bổ sung nhiều nội dung mới thiết thực; tăng

thêm tính thực tiễn, tính ứng dụng của nội dung. Cơ cấu và thời lượng các môn đã

hợp lý hơn: Chương trình theo khối kiến thức được chia thành 2 loại: một chương

trình cho đối tượng đào tạo tại Trung tâm Học viện và một chương trình cho Học

viện khu vực. Sự khác biệt của 2 chương trình này là học phần riêng biệt cho Trung

tâm Học viện và các học viện khu vực (khoảng 20% dung lượng chương trình).

Từng Học viện khu vực thiết kế nội dung các chuyên đề cho học phần này, phù hợp

với địa bàn mà Học viện khu vực đó đảm nhận đào tạo.

Chương trình đào tạo CCLLCT - HC lúc này, kết cấu gồm các khối kiến thức

đã khắc phục được một số nhược điểm của chương trình cũ; thời gian đào tạo không

68

tăng, nhưng đã đưa vào nhiều kiến thức mới, mang tính hiện đại, thiết thực và bổ

ích cho học viên.

Từ năm học 2014-2016, thực hiện Kết luận số 57-KL/TW ngày 08 tháng 3

năm 2013 của Ban Bí thư về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Thực hiện Nghị quyết số 32-

NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới nâng cao

chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo quản

lý, với nội dung giao “Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp

với các cơ quan liên quan…Xây dựng thống nhất các chương trình, thời gian đào

tạo lý luận chính trị phù hợp với hệ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị”, Nghị

quyết số 52 -NQ/TW, ngày 30 tháng 7 năm 2011 của Bộ Chính trị về “đổi mới,

nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh”, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng khung chương

trình, biên soạn mới, biên soạn lại nhiều giáo trình, tài liệu nghiên cứu, học tập và

Học viện đã xây dựng một chương trình CCLLCT thống nhất cho các hệ tập trung,

không tập trung, được giảng dạy, học tập trong toàn quốc.

Chương trình CCLLCT mới được được xây dựng theo hướng chuyển đổi

kết cấu chương trình CCLLCT theo các môn học sang kết cấu theo các khối kiến

thức; hệ thống các bài giảng sang hệ thống chuyên đề; lược bớt những nội dung

không cần thiết và bổ sung các nội dung mới thiết thực và tăng thêm tính thực

tiễn, ứng dụng và được kết cấu thành 4 khối kiến thức: 1) Chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh; 2) Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt

Nam; 3) Khoa học chính trị và lãnh đạo quản lý và 4) Các chuyên đề đặc thù và

bổ trợ, trong đó, 3 khối kiến thức đầu là chung cho toàn hệ thống Học viện và là

phần cứng của chương trình.

Mỗi khối kiến thức được chia thành các môn học hoặc chuyên đề.

Khối kiến thức thứ nhất: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

gồm 355 tiết, 4 môn: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác- Lênin, Chủ

nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh.

69

Khối kiến thức thứ hai: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,

gồm 375 tiết, 4 môn: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng, Giáo dục

quốc phòng an ninh, Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực

chủ yếu của đời sống xã hội.

Khối kiến thức thứ ba: Các vấn đề khoa học chính trị và lãnh đạo quản lý,

gồm 390 tiết, 5 môn: Chính trị học, Khoa học lãnh đạo, Nhà nước pháp luật, Quản

lý kinh tế, quan hệ quốc tế, ta thấy, Khối kiến thức này, ngoài các môn học đã có

trong chương trình trước đây, nay bổ sung thêm môn Khoa học lãnh đạo quản lý.

Môn học này có nhiều tư liệu khai thác từ kinh nghiệm các nước nhằm giúp học

viên tiếp cận với những vấn đề mới của lý luận lãnh đạo quản lý hiện đại. Mặt khác,

các bài trong chương trình đều yêu cầu phải cập nhật những vấn đề mới về lý luận

và thực tiễn.

Khối kiến thức thứ tư: Các chuyên đề đặc thù và bổ trợ, với 200 tiết, gồm các

chuyên đề có những đặc điểm nhất định (có tính chất chung không thuộc môn học

nào, mang tính thời sự, có tính đặc thù do đối tượng đào tạo cụ thể quy định và có

thể thay đổi phù hợp với thực tiễn…) được cấu tạo thành 2 phần: các chuyên đề bắt

buộc (60 tiết) gồm 12 chuyên đề, mỗi chuyên đề 5 tiết và các chuyên đề tự chọn (40

tiết) gồm 8 chuyên đề, mỗi chuyên đề 5 tiết được chọn từ ít nhất 16 chuyên đề dự kiến.

Các chuyên đề bắt buộc và tự chọn do Trung tâm Học viện và học viện khu

vực chuẩn bị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia phê duyệt. Khối kiến thức này

là nội dung mới so với các chương trình từ trước đến nay. Mục đích là nhằm bổ

sung những kiến thức mới cập nhật, đặc biệt là kiến thức thực tiễn để đáp ứng

những nhu cầu của người học ở những địa bàn khác nhau và ở những thời điểm

khác nhau. Vì vậy, khối kiến thức được biên soạn riêng cho mỗi cơ sở đào tạo như

Trung tâm Học viện và các Học viện khu vực. Đó là “phần mềm” của chương trình.

Các chuyên đề bắt buộc do từng cơ sở đào tạo lựa chọn, bố trí người biên soạn

thành bài giảng và phải được Ban Chủ nhiệm thông qua, được Giám đốc Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phê duyệt. Các chuyên đề tự chọn, chỉ xác định tên

chuyên đề và mỗi khoá học, tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể tại thời điểm đó, các cơ sở

đào tạo chọn 8 chuyên đề để đưa vào chương trình.

70

So với chương trình sử dụng năm 2014 về trước, chương trình hiện hành có

những điểm mới:

Một là, chương trình CCLLCT của Học viện là chương trình đào tạo dành

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Mục tiêu Chương trình được xác định rõ là: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo trung, cao cấp, công chức hành chính, viên chức quản lý các đơn vị sự nghiệp

công lập và doanh nghiệp nhà nước, cán bộ khoa học chính trị của hệ thống chính

trị có kiến thức nền tảng về lý luận chính trị, làm cơ sở cho việc củng cố lập trường

cách mạng, nâng cao năng lực tư duy khoa học và năng lực, phương pháp lãnh đạo,

quản lý, phương pháp tu dưỡng nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đáp

ứng yêu cầu đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước, hội nhập và phát triển.

Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản, hệ thống, hiện đại và cấp nhật

về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước, kiến thức về các khoa học lãnh đạo, quản lý và kiến thức thực tiễn.

Hai là, chương trình CCLLCT được xây dựng là thống nhất cho toàn hệ

thống Học viện (bao gồm Trung tâm Học viện, các Học viện khu vực I, II, III và

IV), đồng thời cũng được sử dụng thống nhất cho các đối tượng đào tạo là các cán

bộ người Kinh và cán bộ người dân tộc thiểu số, cho các hệ đào tạo tập trung và hệ

không tập trung.

Đây được coi là một chuyển biến có tính bước ngoặt về quan điểm đào tạo

trong hệ thống Học viện. Theo đó, bằng CCLLCT của các cơ sở đào tạo trong hệ

thống Học viện có giá trị như nhau, không có sự phân biệt về trình độ được đào tạo.

Quyết định này cũng giúp cho việc tập trung trí tuệ vào việc xây dựng một chương

trình thống nhất của Học viện, khắc phục sự đầu tư dàn trải thiếu hiệu quả của nhiều

năm trước đây.

Ba là, xuất phát từ mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể của chương

trình mới, chương trình đã kế thừa các chương trình đã có, đặc biệt là hai chương

trình đang thực hiện ở hai hệ tập trung và không tập trung tại Trung tâm Học viện.

Chương trình dùng cho hệ tập trung trước đây có ưu điểm là rất chú ý tới tính hiện

71

đại của giáo trình nhưng việc triển khai thực hiện rất khó khăn: kết cấu chương trình

sắp xếp theo khối kiến thức và các chuyên đề nên chưa bảo đảm được kết cấu tổng

thể của một chương trình đào tạo; vai trò của các đơn vị giảng dạy trong Học viện

không rõ; việc bố trí giảng viên cho các lớp không tập trung tổ chức tại các địa

phương không thực hiện được; việc đánh giá chất lượng học tập cũng khó khăn vì

khá nhiều chuyên đề nằm rải rác ở các bộ môn khác nhau. Chương trình đang dùng

cho hệ tại chức có ưu điểm là lấy các đơn vị giảng dạy làm cơ sở, bố trí theo môn và

bài, thể hiện cách bố trí của chương trình đào tạo. Tuy nhiên, nội dung nhiều phần

còn dàn trải, trùng lặp nhau, nhắc lại quá nhiều kiến thức cơ bản đã có trong chương

trình đại học, cao đẳng, trung cấp lý luận chính trị...

Do đó, không thể giữ nguyên những chương trình nêu trên mà cần kế thừa có

chọn lọc, đồng thời phải cơ cấu sắp xếp lại và nâng cao.

Bốn là, đặc biệt coi trọng khâu thảo luận của học viên.

Trong chương trình CCLLCT hiện hành, số buổi thảo luận tăng nhiều so với

trước. Bình quân 10 hoặc 15 tiết giảng có 5 tiết thảo luận. Điều này nhằm phát huy

tính tích cực của người học không chỉ trong việc tiếp thu kiến thức mà còn tạo điều

kiện để học viên có thể học hỏi lẫn nhau.

Năm là, những bổ sung quan trọng trong việc đánh giá kết quả học tập.

Chương trình quy định rõ, trong mỗi môn học đều có điểm thi hoặc điểm

kiểm tra. Điểm trung bình của mỗi môn học là điểm trung bình cộng của các bài

kiểm tra (tính theo hệ số 1) và điểm bài thi hết môn (tính theo hệ số 3). Điểm của

khối kiến thức là điểm trung bình cộng của các môn trong khối kiến thức đó (tất cả

các môn đều tính theo hệ số1). Kết thúc khoá học, mỗi học viên phải viết đề án tốt

nghiệp và bảo vệ trước hội đồng.

Tóm lại: Những năm 2013 về trước, việc đào tạo CCLLCT được thực hiện

theo giáo trình, kết cấu chương trình có khác nhau, không thống nhất, Trung tâm

Học viện, dạy một chương trình, các Học viện khu vực dạy một chương trình, từ đó

nảy sinh bất cập, cùng một bằng tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị nhưng giáo

trình lại khác nhau. Từ năm học 2014, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã

thống nhất một giáo trình dạy CCLLCT.

72

Thực hiện việc đổi mới căn bản nội dung, chương trình đào tạo, Học viên đã

triển khai giảng dạy theo chương trình CCLLCT mới thống nhất trong cả nước.

Mặc dù đây là chương trình mới được triển khai, chưa có giáo trình chuẩn, song về

cơ bản các đơn vị giảng dạy khắc phục khó khăn, tự soạn những nội dung bài giảng

đáp ứng được yêu cầu của học viên và mục tiêu chương trình.

Chương trình đào tạo CCLLCT mới có hiệu lực từ năm 2014, hiện đang

trong những năm đầu triển khai, cần có sự theo dõi, đánh giá của các cơ quan quản

lý và sự phản hồi của các đơn vị sử dụng cán bộ nên nội dung của việc quản lý

chương trình hiện nay là đảm bảo cho chương trình được thực hiện đúng thông qua

công tác quản lý kế hoạch đào tạo.

Ngày 7/8/2015, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị “Sơ

kết một năm thực hiện chương trình cao cấp lý luận chính trị”. Các báo cáo tại hội nghị

đã chỉ ra những mặt được và hạn chế của chương trình mới. Chương trình đào tạo

CCLLCT áp dụng từ tháng 8-2014 cho toàn hệ thống Học viện, được thực hiện trong

thời gian 8 tháng với các lớp hệ tập trung và 18 tháng với các lớp hệ không tập trung.

Sau 1 năm thực hiện chương trình, các ý kiến phản hồi từ đội ngũ giảng viên

và học viên cho thấy một số ưu điểm cơ bản sau:

- Lần đầu tiên có sự thống nhất về chương trình đào tạo CCLLCT trong toàn

hệ thống Học viện, giúp công tác quản lý chuyên môn chặt chẽ, hiệu quả hơn và tạo

điều kiện thuận lợi cho học viên khi có nhu cầu thay đổi giữa các cơ sở đào tạo

trong hệ thống Học viện;

- Xác định mục tiêu rõ ràng, các khối kiến thức được thiết kế và tổ chức

giảng dạy bám sát mục tiêu đặt ra;

- Chuyển từ truyền thụ một chiều mang nặng lý luận kinh viện sang đề cao

tranh luận và phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản lý, đáp ứng tinh thần đổi mới giáo

dục lý luận chính trị hiện nay;

- Đổi mới căn bản công tác kiểm tra đánh giá với nhiều hình thức, hướng tới

kết quả thực chất, khách quan, toàn diện;

- Học viên có sự chuyển biến tích cực, được trang bị nhiều kiến thức thực

tiễn, nhiều kỹ năng bổ ích.

73

Tuy còn có những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh, nhìn

chung, chương trình mới đã bám sát mục tiêu, tiệm cận dần được với yêu cầu đối

với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới.

Phương pháp giảng dạy cao cấp lý luận chính trị không ngừng được đổi mới

phù hợp với đối tượng đào tạo.

Đổi mới phương pháp giảng dạy là yêu cầu và nhiệm vụ của người giảng

viên. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học có ý nghĩa như một

cuộc cách mạng về phương pháp. Cuộc cách mạng này sẽ mang lại sức sống mới

cho giáo dục nói chung và giáo dục lý luận chính trị nói riêng nhằm khắc phục

những hạn chế trong giảng dạy. Lâu nay, việc giảng dạy lý luận chính trị hầu như

nặng về thầy đọc, trò ghi, chưa thực sự gây hứng thú và phát huy tính tích cực, chủ

động của người học. Đổi mới phương pháp giảng dạy đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ

giữa giảng viên và học viên, trong đó, giảng viên giữ vai trò chủ đạo.

Phương pháp dạy học tích cực (DHTC) là hệ thống những giải pháp có tính

phổ biến của khoa học sư phạm mà ở đó người học tham gia tích cực giải quyết vấn

đề. Người dạy là người tổ chức, điều chỉnh quá trình lĩnh hội tri thức nhằm đạt hiệu

quả cao hơn.

Trong một nỗ lực nhằm đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất

lượng giáo dục lý luận chính trị đối với đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý những

năm gần đây, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã rất khuyến

khích và tạo điều kiện để đưa phương pháp DHTC vào thực tế giảng dạy ở Học viện

và hệ thống học viện trực thuộc. Qua những bước tiến hành chủ yếu ở các lớp học

tập trung, có thể nhận thấy nhiều tín hiệu tích cực:

Một là, để có một tiết giảng theo phương pháp mới, buộc người giảng viên

phải huy động nhiều công sức hơn, theo đó, bài giảng sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng,

mọi vấn đề của bài học được nghiên cứu một cách nghiêm túc hơn, tính trách nhiệm

của người dạy vì thế đã được nâng lên rõ rệt.

Hai là, mối quan hệ giữa người dạy và người học được cải thiện rõ rệt.

Khoảng trống giữa người dạy và người học vốn được phương pháp giảng dạy

truyền thống tự nó tạo ra là một vấn đề lớn, một rào cản vô hình ngăn cản sự tham

74

gia một cách chủ động và tích cực của học viên trong quá trình học tập. Phương

pháp cũ đã biến giảng đường thành một sân khấu mà giảng viên vừa là đạo diễn vừa

là diễn viên duy nhất. Với phương pháp DHTC, mối quan hệ giữa giảng viên và

người học được thay đổi. Chủ thể đích thực của nó đó là người học, còn người dạy

trở thành đạo diễn. Nội dung chính của bài học được giảng viên tổ chức thành một

quá trình tuyến tính để học viên được tham gia giả quyết các vấn đề của lý luận và

thực tiễn; thay vì giảng viên thuyết trình từ đầu đến cuối, tri thức được chính chủ

thể nhận thức là người học làm sáng tỏ.

Ba là, phương pháp DHTC tự nó tạo ra nhiều cách thức giải quyết vấn đề.

Với người giảng dạy, nó giúp họ có thêm nhiều sự lựa chọn để tiếp cận và làm sáng

tỏ nội dung. Những phương pháp được xây dựng, ở một số môn học có tính tác

nghiệp cụ thể, giúp người dạy tìm ra con đường ngắn nhất để đưa học viên nhận

thức bản chất vấn đề. Thông qua các phương pháp cụ thể, việc mổ xẻ, làm sáng tỏ

nội dung bài học được thực hành theo một cách thức khoa học hơn. Thay vì những

nhận định, kết luận chủ yếu dựa trên lối tư duy định tính, chung chung, trừu tượng,

mơ hồ, thiếu khách quan.., đó là khả năng phân tích định lượng, hình thành phong

cách tư duy phân tích, so sánh, đối chiếu..giúp bảo đảm tính khách quan, khoa học

trong quá trình nhận thức.

Bốn là, mối quan hệ của học viên với bài học là một trong những điểm ấn

tượng nhất của phương pháp DHTC. Những tương tác cụ thể từ thực tiễn cũng như

những kết quả nghiên cứu mới được cập nhật (dĩ nhiên cần một khả năng tổng hợp,

phân tích và chọn lọc của giảng viên) được xuất hiện trong bài giảng như yếu tố

tham chiếu giúp cho vấn đề được giải đáp một cách thoả đáng nhất. Đây cũng chính

là điểm mấu chốt giúp khắc phục một cách đáng kể mối quan hệ thầy - trò, tình

trạng áp đặt một cách máy móc các vấn đề của tri thức vốn chỉ được thông qua lăng

kính chủ quan của giảng viên đã được thay thế bằng sự trao đổi qua lại giữa hai

phía. Môi trường sư phạm vì thế đã trở nên “dân chủ” hơn.

Trước đây, phương pháp giảng dạy phổ biến là “giảng viên đọc, học viên

ghi”. Phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp DHTC được sử dụng

kết hợp ở các mức độ khác nhau trong các đơn vị đào tạo của hệ thống học viện và

75

phụ thuộc vào yêu cầu nội dung từng môn học, kỹ năng của đội ngũ giảng viên. Đến

nay, đã có những sự đổi mới nhất định về phương pháp giảng dạy, từ “đọc - chép”

chuyển sang “giảng - đọc - chép” và “giảng viên giảng, học viên tự ghi”. Phương pháp

“giảng viên nêu vấn đề, học viên thảo luận”; “giảng viên cung cấp tư liệu cho học viên

tự nghiên cứu” còn ít được áp dụng. Một bộ phận giảng viên đã vận dụng, kết hợp linh

hoạt các phương pháp giảng dạy, sử dụng tốt giáo án điện tử cùng với việc trình bày

bảng, kết hợp với khả năng diễn đạt và thuyết trình nên đã phát huy được vai trò chủ

động, sáng tạo của người học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT.

Trong giảng dạy CCLLCT, giảng viên đã có nhiều cố gắng đổi mới về

phương pháp, nâng cao chất lượng và hiệu quả, gắn lý luận với thực tiễn. Học viện

và các cơ sở đào tạo đã quan tâm đến các khâu của quá trình đào tạo, tích cực sử

dụng và kết hợp các phương pháp giảng dạy tích cực trên cơ sở lấy người học làm

trung tâm; tăng cường đối thoại giữa người dạy và người học, hướng dẫn học viên

thực hành các bài tập tình huống.

Có thể nói, những năm gần đây, phương pháp DHTC trở thành một tiêu

chuẩn, yêu cầu bắt buộc đối với giảng viên của Học viện. Nhiều Hội thảo và nhiều

lớp tập huấn về phương pháp DHTC được tổ chức cho toàn hệ thống. Có thể tìm

thấy nhiều điểm tích cực của phương pháp DHTC tại Trung tâm Học viện và các

học viện trực thuộc.

3.1.1.3. Đội ngũ giảng viên của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

và các học viện chính trị khu vực ngày càng phát triển, đáp ứng được yêu cầu

giảng dạy cao cấp lý luận chính trị trong thời kỳ mới

Những năm vừa qua, Học viện luôn quan tâm đến nâng cao chất lượng đội

ngũ độ ngũ giảng viên, vì vậy trong những năm lại đây đội ngũ giảng viên đã có

bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu đội ngũ giảng viên từng bước

được sắp xếp phù hợp hơn.

Trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên được nâng lên, số lượng giáo

sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ chiếm tỷ lệ ngày càng cao, một số giảng viên trẻ

được đào tạo từ nước ngoài, trình độ ngoại ngữ tốt, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu và

truy cập thông tin nước ngoài phục vụ giảng dạy, nghiên cứu.

76

Đến nay, Học viện có gần 2.872 cán bộ, công chức, viên chức (cả biên chế và

hợp đồng), tăng khoảng 10% so với trước năm 2005. Trong đó, số cán bộ khoa học

chiếm khoảng 60%; gần 10% có chức danh giáo sư, phó giáo sư, hơn 20% có học vị

tiến sĩ và khoảng 45% thạc sĩ. Giảng viên cao cấp và tương đương chiếm khoảng

10,7%; ngạch giảng viên chính và tương đương chiếm khoảng 30,1%; ngạch giảng

viên và tương đương chiếm khoảng 47,9%; ngạch khác chiếm khoảng 14,3%. Riêng

cán bộ là giảng viên, tính đến tháng 9/2015, Học viện có 699 giảng viên cơ hữu: 07

giáo sư, 128 phó giáo sư, 215 tiến sĩ, 326 thạc sĩ, 65 đại học [73].

Các giảng viên tham gia đào tạo CCLLCT là những cán bộ có lập trường

chính trị vững vàng và phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết với

nghề nghiệp, đồng thời có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, được đào tạo chính

quy, đặc biệt là tinh thần học hỏi, rèn luyện để trau dồi phẩm chất chính trị, vươn lên

trong công tác chuyên môn nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác

đào tạo CCLLCT cũng như đòi hỏi ngày càng cao của học viên trong thời kỳ mới.

Đa số các giảng viên đã kết hợp các phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện

đại, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của người

học; kết hợp giảng dạy với nghiên cứu, vận dụng kết quả nghiên cứu vào giảng dạy.

Trong thời gian vừa qua, Học viện đã bước đầu luân chuyển được một số

cán bộ lãnh đạo, quản lý, giảng viên trẻ về địa phương, cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng

tạo nguồn. Việc này đã đem lại những kết quả bước đầu, có nhiều bổ ích trong việc

nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận và đào tạo cán bộ. Đa số các giảng

viên đã kết hợp các phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện đại, khơi dậy tính

chủ động, sáng tạo của người học; kết hợp giảng dạy với nghiên cứu, vận dụng kết

quả nghiên cứu vào giảng dạy. Nhiều đồng chí nay đã vững vàng trên bục giảng, trở

thành cán lãnh đạo, quản lý.

Học viện đã và đang quan tâm đảm bảo các chế độ, chính sách đối với đội

ngũ làm công tác giảng dạy về cả tinh thần và điều kiện vật chất. Đời sống của đội

ngũ giảng viên, cán bộ, công chức tại Học viện ngày càng được cải thiện, trở thành

động lực quan trọng đối với nhiệm vụ đảm bảo chất lượng đào tạo CCLLCT cho

đội ngũ cán bộ hiện nay.

77

3.1.1.4. Công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị ngày càng chặt

chẽ, từng bước khoa học hoá công tác quản lý đào tạo

- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương về đào tạo lý luận chính trị, đào

tạo cao cấp lý luận chính trị

Trong những năm qua, công tác đào tạo lý luận chính trị nói chung, đào tạo

CCLLCT nói riêng, luôn được sự quan tâm của Trung ương; Bộ Chính trị, Ban Bí

thư đã ra nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng định hướng cho hoạt động đào

tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, trong đó có đào tạo CCLLCT, chẳng hạn: Chỉ thị số

25-CT/TW của Ban Bí thư ngày 12 tháng 10 năm 1983 về việc cải cách giáo dục lý

luận chính trị trong các trường đại học và cao đẳng; Quy định số 54-QĐ/TW, ngày

12/5/1999 của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Nghị

quyết số 52-NQ/TW, ngày 30/7/2005, Bộ Chính trị (khoá IX) “Về đổi mới nâng cao

chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và công tác nghiên cứu khoa

học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”; Kết luận số 57-KL/TW ngày

08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận

chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp... và gần đây là Nghị quyết số 32-

NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao

chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cùng hệ thống Học viện trực

thuộc - các cơ sở chủ chốt đào tạo lý luận chính trị và hệ thống các trường chính trị

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng được quan tâm chỉ đạo sâu sát thông

qua các quyết định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cũng như chỉ đạo, định

hướng về chuyên môn, nghiệp vụ: Quyết định số 149-QĐ/TW, ngày 02/8/2005,

Quyết định số 100-QĐ/TW, ngày 22/10/2007 và gần nhất là Quyết định số 224-

QĐ/TW, ngày 06/01/2014 của Bộ Chính trị (cùng với các Nghị định tương ứng của

Chính phủ) quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh; Quyết định về việc thành lập Học viện Chính trị khu vực IV

tại Cần Thơ (năm 2006); Quyết định số 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 về chức năng,

nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương… cùng nhiều văn kiện khác.

78

- Công tác hướng dẫn, tham mưu, quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị đã

bám sát mục tiêu và yêu cầu đào tạo cán bộ từng thời kỳ.

Triển khai chủ trương, định hướng lớn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban

xây dựng Đảng ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ: công văn số 947-CV/TCTW ngày 24/1/2002 của Ban Tổ

chức Trung ương về việc tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ về lý luận chính trị; Hướng dẫn số 09-HD/TTVH, ngày 17/3/2004 của

Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương về việc thực hiện Quy định 54; Quy định liên

ban số 12-QĐ/TC-TTVH, ngày 09/1/2004 của Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tư

tưởng - Văn hoá Trung ương quy định việc xác định trình độ lý luận chính trị;

Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW, ngày 30/3/2005 của Ban Tổ chức Trung ương về

thực hiện chế độ trợ cấp đối với cán bộ đi học tại Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh; Thông báo số 1115-

TB/BTCTW-HVCTQGHCM, ngày 15/7/2005 về điều chỉnh tiêu chuẩn xét tuyển

vào đào tạo CCLLCT tại chức; Công văn số 1611-CV/BTCTW, ngày 29/3/2007 Về

một số vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Công văn số 3645-CV/BTCTW, ngày

02 tháng 4 năm 2008 về một số vấn đề trọng tâm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ; Công văn số 4741-CV/BTCTW, ngày 20/5/2013 về đối tượng, tiêu chuẩn,

độ tuổi đi đào tạo CCLLCT - HC….

Các ban xây dựng Đảng ở Trung ương đã tham mưu Bộ Chính trị, Ban Bí

thư ban hành các quyết định kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ

của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị

tỉnh, thành phố.

Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện chức năng hướng dẫn, tổng kết, tham

mưu Trung ương trong việc định hướng chính trị cho công tác đào tạo, bồi dưỡng lý

luận chính trị trong các cơ sở đào tạo của Đảng.

- Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo cao cấp lý luận chính trị thực hiện một

cách khoa học, bám sát nhu cầu đào tạo của các địa phương và các bộ, ban, ngành

Trung ương, phù hợp với yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và

nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới.

79

Trong những năm qua, việc xây dựng kế hoạch đào tạo được tiến hành

thường xuyên nề nếp, theo đúng quy định của Bộ Chính trị.

Theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương là cơ quan xây

dựng kế hoạch và phân bổ chỉ tiêu đào tạo CCLLCT cho các cơ quan, đơn vị, địa

phương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các học viện khu vực là cơ sở

đào tạo và cấp bằng CCLLCT.

Trên cơ sở kế hoạch giao của Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, căn cứ vào tình hình cụ thể, khả năng đào tạo của các Học

viên khu vực để phân bổ kế hoạch đào tạo cho các Học viện khu vực và Trung tâm

Học viện một cách phù hợp và thông báo cho các địa phương, đơn vị biết để phối

hợp chiêu sinh mở lớp. Các địa phương, đơn vị đã tích cực phối hợp với Trung tâm

Học viện và các học viện khu vực trong khâu tuyển sinh, quản lý đào tạo CCLLCT.

Hằng năm, trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đào tạo bồi

dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, cùng Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch đào tạo CCLLCT. Kế hoạch đào tạo CCLLCT

được xây dựng phù hợp với khả năng đào tạo (đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất

phục vụ đào tạo) của Trung tâm Học viện và các Học viện khu vực; căn cứ nhu cầu

đào tạo CCLLCT hàng năm và tình hình thực hiện kế hoạch năm trước của các địa

phương, cơ quan đơn vị và của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để phân

bổ một cách phù hợp.

Việc phân chỉ tiêu đào tạo CCLLCT thường được thực hiện đảm bảo các

nguyên tắc cơ bản: 1) Phân bổ chỉ tiêu đào tạo CCLLCT phải gắn với công tác quy

hoạch cán bộ và yêu cầu của tiêu chuẩn các chức danh cần phải đào tạo CCLLCT,

không phân chỉ tiêu một cách tràn lan; 2) Đầu mối để phân chỉ tiêu là các tỉnh uỷ,

thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương; các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đơn vị sự

nghiệp Trung ương; riêng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hạng đặc biệt

quan trọng có xem xét một cách cụ thể; 3) Khuyến khích tăng cường đào tạo

CCLLCT hệ tập trung.

Quy trình xây dựng kế hoạch cũng được xây dựng theo quy trình chặt chẽ

hơn trước.

80

Căn cứ kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hằng năm của Ban Tổ chức

Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phân bổ chỉ tiêu

số lớp, số học viên cho các cơ sở đào tạo thuộc hệ thống Học viện theo phân cấp

đào tạo; xây dựng kế hoạch cụ thể theo từng đợt học, năm học, hoặc khoá học tuỳ

theo hình thức đào tạo và điều kiện thực tế của từng lớp học.

Các cơ sở đào tạo căn cứ kế hoạch đào tạo của Giám đốc Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, xây dựng lịch giảng dạy, cử giảng viên giảng dạy, kiểm tra,

quản lý học viên, coi thi kết thúc môn học.

Về cơ bản, kế hoạch tuyển sinh, giảng dạy (cho toàn khóa học) đối với các

lớp hệ tập trung hoàn thành trước khi bước vào năm học mới; kế hoạch tuyển sinh,

giảng dạy các lớp hệ không tập trung được xây dựng sau khi khai giảng năm học

mới (vào đầu tháng 9).

Xây dựng kế hoạch giảng dạy và học tập của từng lớp cao cấp lý luận chính

trị hệ không tập trung (nêu rõ giáo viên chủ nhiệm, thời gian, phương thức học tập,

địa điểm học tập, tổng số học viên, phương tiện đưa đón giảng viên; lịch giảng dạy,

học tập các chuyên đề nêu rõ số tiết, giảng viên…).

Nhìn chung, trong những năm qua việc xây dựng kế hoạch học cao lý luận

chính trị được thực hiện nề nếp, được các cơ quan, địa phương đồng tình.

- Công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị của Học viện không ngừng

được đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo

Công tác quản lý đào tạo luôn được Học viện quan tâm và coi đây là một

trong những nội dung quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Học viện

và các cơ sở đào tạo đã ban hành và hoàn thiện hệ thống quy chế quy định, nội quy,

đào tạo; chú trọng công tác thanh tra giáo dục; làm tốt công tác đảng trong học viên;

tăng cường phối hợp với các địa phương, đơn vị có cán bộ cử đi học... để quản lý tốt

quá trình đào tạo, đây chính là cơ sở pháp lý bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất

trong lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp tổ chức thực hiện công tác đào tạo cán bộ; có sự

phân công trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan, đơn vị.

Quản lý đào tạo LLCT thực hiện theo Quyết định số 1774/QĐ-HVCT-

HCQG, ngày 12/7/2007 của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

81

về ban hành Bộ quy chế đào tạo; quản trị bằng Quy chế giảng viên và học viên, Quy

chế kiểm tra, thi, viết luận văn và công nhận tốt nghiệp. Các Học viên trực thuộc đã

tổ chức triển khai các quyết định của Học viên trung tâm và cụ thể hoá thành các

quy định, quy chế riêng phù hợp với điều kiện quản lý của từng học viện.

Trong những năm qua, công tác quản lý đào tạo tại hệ thống Học viện có

những chuyển biến tốt. Ban Giám đốc Học viện đã quán triệt sâu sắc nhiệm vụ nâng

cao chất lượng đổi mới công tác đào tạo của Học viện theo yêu cầu Nghị quyết số

52/NQ-TW của Bộ Chính trị, tiếp tục đưa công tác quản lý đào tạo vào nền nếp và

hiệu quả hơn. Công tác quản lý đào tạo trong toàn hệ thống đã có sự thống nhất,

đồng bộ từ Ban Giám đốc Học viện, cơ quan quản lý đào tạo, thanh tra đến các Học

viện trực thuộc, các đơn vị nghiên cứu giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả và chất

lượng đào tạo.

Học viện và các cơ sở đào tạo đã ban hành Quy chế phối hợp công tác, tạo cơ

sở pháp lý, bước đầu bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo và

phối hợp tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; có sự phân công

trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan, đơn vị. Việc ban hành Quy chế đào tạo

CCLLCT đã đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, khung chương trình

mới, đánh giá đúng chất lượng đào tạo, chống tiêu cực trong thi cử, chống bệnh

thành tích trong giảng dạy và học tập CCLLCT.

Trong công tác quản lý đào tạo, lãnh đạo Học viện bảo đảm thống nhất

nguyên tắc chỉ đạo tập trung của Ban Giám đốc Học viện, các học viện trực thuộc

và phân cấp mạnh các nhiệm vụ cụ thể cho các cơ sở trực tiếp đào tạo.

Công tác tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo của các cơ sở đào tạo và sự phối

hợp giữa cơ sở đào tạo với các cơ quan, đơn vị chức năng ở tất cả các khâu về cơ bản

đạt kết quả tốt: tổ chức chiêu sinh, quản lý lớp học; về xây dựng nội dung chương

trình học tập cho các lớp học khác nhau; phân loại đối tượng và chất lượng học của

học viên; quản lý học tập theo quy chế và xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả học tập;

công tác thanh tra, kiểm tra học tập, thi hết môn và tổ chức thi tốt nghiệp....

- Công tác quản lý học viên được tăng cường đã có tác dụng nâng cao chất

lượng đào tạo, nhất là rèn luyện cán bộ tham gia đào tạo.

82

Công tác quản lý học viên chú trọng phát huy vai trò tự quản của học viên

thông qua các trưởng đoàn, ban cán sự chi uỷ, ban cán sự lớp học; sự phối hợp giữa

vụ (ban) quản lý đào tạo với các viện, khoa, phòng, vụ (ban) liên quan, ban tổ chức

các tỉnh, thành trong công tác quản lý học viên, đặc biệt là đội ngũ chủ nhiệm lớp,

giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy; duy trì chế độ sinh hoạt lớp, sinh hoạt đảng.

Có thể khẳng định, công tác quản lý học viên, theo dõi giờ lên lớp của giảng

viên được thực hiện nghiêm túc, các khâu điểm danh, theo dõi kế hoạch các lớp

dược thực hiện thường xuyên, kịp thời xử lý một số trường hợp đổi lịch, dời lịch.

Đặc biệt đối với các lớp hệ tập trung, tình trạng học viên vắng trong giờ lên lớp

giảm hẳn, không còn tình trạng vắng không xin phép; đối với các lớp hệ không tập

trung, sự phối hợp với một số bộ, ngành hoặc địa phương trong công tác quản lý lớp

tại chức được thực hiện thường xuyên hơn, kịp thời trao đổi và thống nhất những

vấn đề như sĩ số lớp, kỷ luật học viên…

Trong công tác quản lý đào tạo Học viện đã ra quy định thành lập các tổ

chức giúp việc.

Đối với các lớp tập trung tại Học viện, các đơn vị trực thuộc Giám đốc Học

viện thực hiện chức năng tổ chức, quản lý hoạt động học tập và rèn luyện của học

viên. Đối với các lớp hệ không tập trung ngoài Học viện, từ năm 2014 trở về trước,

việc quản lý học tập và rèn luyện của học viên được được giao cho Ban chỉ đạo lớp

học do Ban thường vụ tỉnh (thành) uỷ ra quyết định thành lập. Thông thường bố trí

01 đồng chí uỷ viên ban thường vụ làm trưởng ban và một số phó trưởng ban; Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cử một giảng viên tham gia ban chỉ đạo đồng

thời làm chủ nhiệm lớp học phối hợp với trường chính trị trực tiếp chỉ đạo ban cán sự

lớp học thực hiện đúng nội quy, quy chế học tập. Ban chỉ đạo có trách nhiệm giúp ban

thường vụ tỉnh (thành) uỷ trong việc chỉ đạo, quản lý, điều hành và tổ chức lớp học.

Ban thường vụ tỉnh (thành) uỷ giao trường chính trị trực tiếp quản lý lớp học tại địa

phương, kịp thời báo cáo ban chỉ đạo lớp học những vấn đề phát sinh, vướng mắc.

Trường chính trị tỉnh phân công cán bộ lãnh đạo khoa, phòng làm đồng chủ nhiệm lớp.

Học viên và giảng viên của lớp thực hiện nghiêm túc nội quy của Nhà trường và quy

chế học viên của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

83

Mỗi khoá học, ban chỉ đạo đều tổ chức họp sơ kết sau mỗi kỳ học và họp

tổng kết khi khoá học kết thúc. Trong quá trình học tập, ban chỉ đạo lớp học phối

hợp chặt chẽ với cơ sở đào tạo và trường chính trị nắm tình hình lớp học và báo cáo

thường xuyên cho ban thường vụ tỉnh (thành) uỷ. Sau khi kết thúc khoá học, cơ sở

đào tạo có quyết định ra trường đối với học viên, ban tổ chức tỉnh (thành) uỷ có

quyết định chuyển học viên về địa phương, đơn vị nhận công tác.

Ban chỉ đạo lớp học, chủ nhiệm các lớp CCLLCT có trách nhiệm cao trong

công tác điều hành, quản lý lớp học, thông qua kế hoạch, các giáo viên chủ nhiệm

(của Vụ, Ban quản lý đào tạo, chủ nhiệm bộ môn của các viện, khoa) theo dõi quá

trình lên lớp của giảng viên, nghe giảng của học viên. Cuối mỗi buổi giảng, giảng

viên đều ghi nhận xét, xác nhận sĩ số trong lớp học, ghi rõ tên học viên vắng mặt đã

giúp cho công tác quản lý chương trình, quản lý lớp học được tốt hơn.

Từ năm học 2015, Giám đốc Học viện ban hành Quy chế đào tạo CCLLCT

mới (Quyết định số 3842/QĐ-HVCTQG ngày 17/9/2015 của Giám đốc Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), theo đó, Giám đốc Học viện chịu trách nhiệm chỉ

đạo, tổ chức quản lý các hoạt động học tập và rèn luyện của học viên.

Mỗi lớp thành lập một Ban Tổ chức lớp học do Giám đốc Học viện quyết

định thành lập. Ban Tổ chức lớp học giúp Giám đốc Học viện triển khai, giám sát,

quản lý các hoạt động học tập và rèn luyện của học viên, thực hiện hợp đồng đào

tạo giữa Giám đốc Học viện và đơn vị phối hợp mở lớp.

- Quy định đối với chủ nhiệm lớp

Các lớp đào tạo CCLLCT trước đây thực hiện “Quy chế chủ nhiệm lớp Hệ

đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội”

[70], theo đó, chủ nhiệm lớp do Giám đốc Học viện (và các Học viện trực thuộc)

quyết định, là người giúp trưởng đơn vị quản lý đào tạo trong việc quản lý, điều

hành thực hiện kế hoạch học tập, rèn luyện của học viên và công tác học viên, theo

dõi và phản ánh tình hình giảng dạy của giảng viên với lãnh đạo đơn vị quản lý đào

tạo và lãnh đạo các đơn vị giảng dạy. Mỗi lớp thuộc hệ đào tạo tập trung do một chủ

nhiệm phụ trách. Các lớp không tập trung áp dụng chế độ đồng chủ nhiệm, trong đó

một cán bộ của đơn vị quản lý đào tạo và một cán bộ do lãnh đạo đơn vị mở lớp cử.

84

Giám đốc Học viện còn quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của chủ nhiệm

lớp đối với các đơn vị giảng dạy và giảng viên, công tác đảng, đối với lớp và học

viên trong việc tổ chức và theo dõi quá trình học tập của lớp; theo dõi quá trình rèn

luyện của học viên. Chủ trì phối hợp với các bộ phận hữu quan tổ chức, quản lý các

cuộc tham quan và nghiên cứu thực tế theo kế hoạch học tập năm học và khoá học.

- Quy định đối với học viên

Giám đốc Học viện đã ban hành Quy chế học viên và công tác học viên quy

định tiêu chuẩn, quyền và nhiệm vụ học viên, công tác học viên, tổ chức quản lý

học viên thuộc hệ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và đoàn thể

chính trị - xã hội tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Nội dung công tác học viên gồm: tổ chức xét chọn, thi tuyển, tiếp nhận học

viên đủ tiêu chuẩn vào học; tổ chức quản lý việc học tập, rèn luyện của học viên

theo đúng chương trình, kế hoạch, các nội quy và quy chế hiện hành; tổ chức quản

lý đời sống vật chất của học viên nội trú; tiến hành công tác tư tưởng, tổ chức xây

dựng đời sống văn hoá tinh thần, rèn luyện phẩm chất đạo đức, hoạt động văn hoá -

văn nghệ, thể dục thể thao và các hoạt động xã hội khác trong học viên; thực hiện

các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quyết định, quy định của Học

viện đối với học viên; khen thưởng những học viên đạt thành tích xuất sắc trong học

tập, rèn luyện; xử lý kỷ luật những học viên vi phạm nội quy, quy chế; phối hợp với

cấp uỷ địa phương, cơ quan cử học viên đi học để quản lý học viên.

- Quản lý công tác kiểm tra, thi cuối khoá học.

Học viện đã ban hành Quy chế kiểm tra, thi, viết luận văn và công nhận tốt

nghiệp, điều kiện miễn học, miễn thi; công tác chuẩn bị cho việc kiểm tra, thi, tổ

chức thi, chấm thi, bảo vệ luận văn tốt nghiệp, khiếu nại và giải quyết khiếu nại về

điểm thi, xử lý vi phạm (Quyết định số 1774/QĐ-HVCTQG ngày 12 tháng 7 năm

2007). Đầu các khoá học, Học viện thông báo cho học viên nắm vững quy chế trên

để thực hiện. Học viện thông báo cho học viên những học phần sẽ học, sẽ thi và

hình thức thi của từng học phần trong năm học đó.

Đối với công tác tổ chức kiểm tra, thi đối với kết thúc môn học, Giám đốc

Học viện thành lập hội đồng thi và các ban giúp việc của Hội đồng như Ban đề thi,

85

Ban coi thi, Ban chấm thi, Ban thư ký (chủ nhiệm lớp không tham gia Hội đồng thi

và các ban của Hội đồng thi lớp mình). Đối với các ban có trưởng ban (01 đ/c lãnh

đạo đơn vị quản lý đào tạo) và các uỷ viên là cán bộ quản lý, chuyên viên đơn vị

quản lý đào tạo. Trường hợp kết quả thi lần đầu dưới 5,0 điểm, học viên được thi lại

môn không đạt trong lần thi trước với lớp thi tốt nghiệp gần nhất.

Những khoá học 2012- 2014 về trước, các lớp cao cấp lý luận chính trị và đại

học chính trị đều thi tốt nghiệp 02 môn, trong đó 01 môn lý luận cơ bản, 01 môn cơ

sở và nghiệp vụ công tác lãnh đạo, quản lý. Cụ thể: Môn lý luận cơ bản thi 01 trong

04 môn: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội

khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh; môn cơ sở và nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý thi 01

trong 04 môn do Giám đốc Học viện quyết định cụ thể cho từng khoá.

Từ khoá học 2014-2016, tất cả các học viên đào tạo CCLLCT đều phải làm

đề án tốt nghiệp; Học viện xác định: đề án tốt nghiệp là công trình khoa học, thể

hiện sự vận dụng lý luận và các kiến thức tiếp thu trong quá trình học tập vào giải

quyết một vấn đề thực tiễn cụ thể, gắn với yêu cầu, nhiệm vụ, tính chất, điều kiện

công tác chuyên môn, nghiệp vụ của học viên, do học viên tự lựa chọn và thực hiện

một cách độc lập không có người hướng dẫn.

Đối với viết đề án tốt nghiệp: Học viên học đủ các học phần trong chương

trình và có kết quả thi các học phần từ điểm 5 trở lên. Trong quá trình học tập

không bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên hoặc nếu bị kỷ luật thì phải có quyết

định của cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xoá kỷ luật mới đủ điều kiện viết Đề

án tốt nghiệp. Những học viên có đề án được đánh giá không đạt sẽ không được

công nhận tốt nghiệp.

- Công tác thanh tra, giám sát chất lượng đào tạo được tăng cường.

Để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, Học viện đã thường xuyên tổ

chức kiểm tra, thanh tra, giám sát công tác đào tạo các loại hình đào tạo nói chung,

trong đó rất chú trọng chất lượng đào tạo CCLLCT. Hàng năm Giám đốc Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đều thành lập Đoàn Thanh tra, tiến hành thanh tra,

kiểm tra công tác tổ chức thi và việc thực hiện nội quy phòng thi đối với thi học phần

của các hệ đào tạo tại Trung tâm Học viện.

86

Nhìn chung, qua thanh tra cho thấy các buổi thi học phần đã được tổ chức

khá tốt (có thông báo lịch thi, cán bộ coi thi nghiêm túc, thực hiện đúng các khâu

trong một buổi thi, duy trì trật tự và kỷ luật phòng thi). Học viên tham gia buổi thi

trật tự, tập trung làm bài với thái độ tương đối nghiêm túc.

3.1.1.5. Chất lượng đầu vào được đảm bảo thông qua việc xét cử và chiêu

sinh đào tạo cao cấp lý luận chính trị đúng đối tượng, tiêu chuẩn Việc xét cử và chiêu sinh tham gia đào tạo CCLLCT trong những năm qua

nói chung nghiêm túc, đúng đối tượng quy định.

Những năm trước đây, cán bộ được cử đi đào tạo CCLLCT thực hiện theo

quy định tại Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị. Hiện nay, đối tượng đào tạo CCLLCT

thực hiện theo quy định tại Công văn số 4741-CV/BTCTW, ngày 20 tháng 3 năm

2013 của Ban Tổ chức Trung ương.

Quy trình xét cử và thẩm định và quyết định cán bộ đào tạo cao cấp lý luận

chính trị ngày càng chặt chẽ.

Cấp uỷ, cơ quan, đơn vị cử cán bộ đi học trên cơ sở chỉ tiêu được giao, lập

hồ sơ cán bộ cử đi học theo quy định. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và

các Học viện khu vực theo phân cấp, xét duyệt hồ sơ, lập danh sách học viên theo

từng lớp đúng đối tượng, tiêu chuẩn (theo mẫu đính kèm) và chuyển danh sách học

viên về cơ quan được giao thẩm định là Ban Tổ chức Trung ương.

Ban Tổ chức Trung ương thẩm định danh sách học viên do Trung tâm Học

viện chiêu sinh và gửi thông báo kết quả thẩm định (kèm theo danh sách học viên

đã thẩm định) cho Trung tâm Học viện trong vòng 10 ngày làm việc, tính từ ngày

nhận được danh sách học viên do Trung tâm Học viện chuyển đến; thực hiện việc

thẩm định danh sách học viên do các Học viện khu vực chiêu sinh khi cần thiết.

Trung tâm Học viện thẩm định danh sách học viên do Học viện khu vực

chiêu sinh và gửi thông báo kết quả thẩm định (kèm theo danh sách học viên đã

thẩm định) cho các Học viện khu vực trong vòng 10 ngày làm việc, tính từ ngày

nhận được danh sách học viên do các Học viện khu vực chuyển đến và báo cáo kết

quả thẩm định về Ban Tổ chức Trung ương để theo dõi, kiểm tra.

Trong thẩm định những trường hợp đặc biệt, thực sự cần thiết, có nhu cầu

nhưng chưa bảo đảm tiêu chuẩn cử đi đào tạo CCLLCT hoặc số lượng học viên một

87

lớp thay đổi so với quy định mà được cấp uỷ trực thuộc Trung ương đề nghị, thì

Lãnh đạo cơ sở đào tạo (Trung tâm Học viện, Học viện khu vực) báo cáo Ban Tổ

chức Trung ương, sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung

ương mới gọi nhập học.

Danh sách học viên đã được Ban Tổ chức Trung ương và Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh thẩm định là danh sách chính thức để Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, các Học viện khu vực gọi học viên nhập học và là căn cứ

khi xét tốt nghiệp cho học viên.

Công tác chiêu sinh được tiến hành tương đối chặt chẽ, kịp thời, thực hiện

đầy đủ, nghiêm túc theo các quy định của Ban Tổ chức Trung ương và Giám đốc

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn, đối tượng, đảm bảo tính

khách quan, công khai, công bằng trong tổ chức xét tuyển.

Khảo sát của Ban Tổ chức Trung ương cho thấy, các học viên được xét, cử đi

học đều đúng đối tượng, tiêu chuẩn quy định: Về trình độ chuyên môn: 100% tốt

nghiệp đại học; về chính trị, năm 2013 lại đây 100% là đảng viên; năm 2012 có 70

trường hợp là đoàn viên cũng được xét cử đi học (những đoàn viên ưu tú, trong quy

hoạch) [8].

Về độ tuổi học cao cấp lý luận hệ tại chức, nhìn chung đều bảo đảm theo

đúng quy định, trong 3 năm (2013, 2014, 2015) chỉ có 22 trường hợp được vận

dụng độ tuổi là những đồng chí cấp trưởng, đi học không có người thay thế, là thư

ký đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng hoặc Bí thư tỉnh uỷ hoặc là cán

bộ đoàn thuộc diện được vận dụng về tuổi [8].

Hằng năm các cơ sở đào tạo thực hiện việc chiêu sinh đảm bảo theo đúng quy

định, cơ bản hoàn thành việc mở các lớp CCLLCT theo kế hoạch.

3.1.1.6. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, bồi dưỡng đã được tăng cường

Cơ sở vật chất kỹ thuật trong hệ thống các học viên tương đối đầy đủ, có khả

năng đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và đào tạo CCLLCT nói

riêng theo nhiệm vụ được giao hằng năm. Hệ thống giảng đường được trang bị công

nghệ thông tin phục vụ cho dạy và học như máy tính, đèn chiếu, âm thanh, điều

hoà; hệ thống thư viện và tư liệu đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập và nghiên cứu của

88

học viên, internet, máy tính, wifi đáp ứng yêu cầu nhất định cho giảng viên và học

viên tập trung tại các học viện. Hệ thống ký túc xá đủ tiện nghi tối thiểu cho người

học như tivi, nước nóng lạnh, quạt…

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (không kể Học viện Chính trị khu

vực và Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có: Tổng diện tích đang sử dụng

1102.399,06m2, 452 phòng làm việc, 06 hội trường với sức chứa 1280 chỗ ngồi, 54

phòng học đáp ứng được chỗ ngồi học tập; 9 ký túc xá với 627 phòng nghỉ đủ cho

1517 học viên nghỉ [72].

Cơ sở vật chất của Học viện và các trường chính trị tỉnh (nơi đăng cai mở

lớp cao cấp lý luận chính hệ tại chức ở địa phương) đã và đang tiếp tục được đầu

tư, xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa. Đến nay về cơ bản các địa phương đã đầu

tư, xây dựng các trường chính trị tỉnh trường lớp khá khang trang, kiên cố, cao

tầng và trang bị tương đối đầy đủ và đáp ứng điều kiện dạy và học (số lượng

phòng học, hội trường, phòng làm việc, phòng máy vi tính, thư viện, ký túc xá,

nhà ăn …), cụ thể:

Học viện khu vực (không tính Học viện Chính trị khu vực IV) có: 17 hội

trường với sức chứa 5.500 học viên; 105 phòng học đáp ứng được 6000 chỗ ngồi

học tập; 1264 phòng nghỉ đủ cho 3.500 học viên nghỉ. Với cơ sở vật chất như trên,

Trung tâm Học viện và các học viện khu vực cơ bản đáp ứng chỗ ngồi học và ăn

nghỉ cho các lớp tập trung theo kế hoạch đào tạo [8].

Khối các trường chính trị tỉnh, thành phố hiện có: 204 hội trường với sức

chứa 30.922 học viên; 454 phòng học đáp ứng 32.939 chỗ ngồi học tập; 3.226

phòng nghỉ đủ cho 15.935 học viên nghỉ. 63 trường chính trị tỉnh, thành phố có: 576

hội trường, trong đó có 408 hội trường loại 100 chỗ, 168 hội trường trên 100 chỗ;

3296 phòng ở với 15.417 chỗ ở cho học viên; 232 phòng làm việc của Ban Giám

hiệu, 1103 phòng làm việc của cán bộ, giảng viên, 1787 máy vi tính, 152 máy chiếu,

156 ô tô các loại [8].

3.1.2. Hạn chế và khuyết điểm

Chất lượng đào tạo CCLLCT còn có những bất cập, thể hiện ở một số nội

dung sau:

89

3.1.2.1. Việc bảo đảm mục tiêu đào tạo có mặt còn hạn chế

Mục tiêu của công tác đào tạo CCLLCT mặc dầu đã được quán triệt ngay từ

đầu khoá học, nhưng trên thực tế không ít cán bộ, đảng viên xác định chưa đúng

mục tiêu đào tạo lý luận chính trị là nâng cao trình độ lý luận chính trị để phục vụ

công tác tốt hơn, mà coi mục tiêu đào tạo là có đủ bằng cấp, chứng chỉ để hoàn

thiện tiêu chuẩn chức danh; chưa thấy được vinh dự vẻ vang và nhiệm vụ cao cả của

học viên trường Đảng. Những năm vừa qua, cán bộ có xu hướng tập trung vào đào

tạo CCLLCT với hình thức đào tạo tại chức để hoàn thiện về tiêu chuẩn chứng chỉ,

bằng cấp để bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lý theo quy định, tạo ra mất cân

đối giữa yêu cầu học tại chức và tập trung.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, học tập lý luận chính trị là yêu cầu bắt

buộc đối với cán bộ của Đảng với tư cách là đảng cầm quyền nhưng cán bộ, đảng

viên vẫn còn có tâm lý ngại học tập lý luận chính trị.

Khi được đề nghị phân thứ bậc ưu tiên cho các mục đích của việc tham gia

đào tạo lý luận chính trị (cả cao cấp và trung cấp), kết quả cho ở bảng sau cho thấy

động cơ học tập LLCT của cán bộ, đảng viên hiện nay đang có khuynh hướng học

để đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định đối với các chức vụ, các ngạch cán bộ,

công chức trong khi mục tiêu đặt ra là học để nâng cao trình độ LLCT cho bản

thân cán bộ.

Bảng 3.1: Mức độ ưu tiên đối với việc học lý luận chính trị

Đơn vị tính: %

TT Mục đích Ưu

tiên 1

Ưu

tiên 2

Ưu

tiên 3

1 Để đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định đối với

các chức vụ, các ngạch cán bộ, công chức 63.3 30.7 6.0

2 Để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho bản

thân 65.6 32.1 2.3

3 Để có thêm các văn bằng, chứng chỉ có thể sử dụng

khi cần thiết 37.6 19.0 43.4

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [8].

90

3.1.2.2. Nội dung chương trình, phương thức và nhất là phương pháp đào

tạo chưa thật sự được đổi mới Về nội dung chương trình đào tạo

Chương trình đào tạo CCLLCT cơ bản dựa trên nội dung chương trình trước

đây; chương trình theo các khối kiến thức và hệ thống chuyên đề vừa chưa đảm bảo

yêu cầu bồi dưỡng kỹ năng và rất khó áp dụng đối với các lớp hệ tại chức; trùng lặp về

nội dung ở các hệ, bậc đào tạo; phần liên hệ thực tiễn, cập nhật kiến thức mới còn ít.

Nội dung chương trình mới đưa vào giảng dạy năm 2014, tuy đã có đổi mới

nhưng nội dung vẫn có phần còn dàn trải, trùng lặp nhau, nhắc lại nhiều kiến thức

cơ bản đã có trong chương trình đại học, trung cấp LLCT....

Thực tế hiện nay cho thấy, ở Học viện và không ít trường chính trị địa

phương còn rất lúng túng trong đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ; đổi mới còn mang tính chắp vá, dẫn đến sự trùng lặp về nội dung, chương

trình đào tạo, bồi dưỡng giữa các cấp học, bậc học, giữa các ngành, chuyên ngành

đào tạo, giữa các loại cán bộ, giữa đào tạo tập trung với đào tạo tại chức, giữa đào

tạo với bồi dưỡng cán bộ. Chính vì thế hệ thống sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu

bài giảng, tài liệu tham khảo phục cho đào tạo bồi dưỡng cán bộ vừa thừa vừa thiếu,

vừa trùng lặp, lạc hậu, làm giảm sút chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng cán

bộ đội ngũ cán bộ trước yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.

Thời gian đào tạo CCLLCT nhìn chung còn dài, nội dung chương trình đào

tạo, bồi dưỡng chưa đảm bảo tính liên thông.

Về phương thức và phương pháp đào tạo

Phương thức đào tạo CCLLCT hiện nay chưa thật đa dạng. Ngoài 3 phương

thức chính là đào tạo tập trung, đào tạo tại chức và đào tạo hoàn chỉnh (chỉ áp dụng

đối với một số hạn chế cán bộ tại Học viện), chưa có phương thức đào tạo nào khác,

trong khi đối tượng đào tạo CCLLCT rất khác nhau, đặc biệt trong điều kiện mở

rộng như hiện nay. Điều đó đã hạn chế cơ hội tham gia đào tạo CCLLCT cho các

đối tượng có nhu cầu.

Mặc dù đã đưa phương pháp giảng dạy tích cực vào triển khai và bước đầu

thu được những thành công nhất định, nhưng kết quả mang lại chưa tương xứng với

mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.

91

Phương pháp đào tạo nhìn chung vẫn theo nếp cũ, hình thức lên lớp ở nhiều

lúc, nhiều nơi chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết trình nhằm đảm bảo nội dung bài

giảng; việc trao đổi, thảo luận trong học tập còn ít; các phương tiện hỗ trợ giảng dạy

sử dụng ở các trường chính trị còn thiếu, một số giảng viên sử dụng phương tiện hỗ

trợ chưa thông thạo.

Trong không ít giờ lên lớp, nhiều giảng viên còn duy trì thói quen giảng dạy

theo phương pháp thuyết trình truyền thống (truyền kiến thức một chiều, giảng viên

giảng bài, học viên nghe, ghi chép), chưa phát huy tính tích cực, chủ động của

người học. Đã từ lâu, trong học tập lý luận, hình ảnh người thầy thuyết trình một

cách say sưa còn học viên thì nghe giảng và chép bài đã thành một dấu ấn trong mỗi

người giảng viên và chưa dễ thay đổi.

Nhiều giảng viên còn ngại tiếp cận và sử dụng phương pháp giảng dạy tiên

tiến do trình độ chuyên môn còn giới hạn nên không tự tin trong việc định hướng, tư

vấn cho học viên; kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn còn non yếu, phiến diện; kỹ

năng sử dụng các thiết bị hiện đại hỗ trợ cho việc sử dụng các kỹ thuật sư phạm của

phương pháp DHTC như sử dụng máy tính, tra cứu tìm kiếm thông tin trên mạng,

sử lý thông tin, ngoại ngữ… còn hạn chế.

Một số giảng viên trẻ khi giảng rất ít liên hệ thực tế nên bài giảng không sinh

động, thiếu tính thuyết phục; e ngại, lúng túng khi cho học viên thảo luận vì sợ học

viên nêu lên những vấn đề “nhạy cảm”, quá khó, không giải đáp được.

Trong môi trường giáo dục lý luận chính trị, cần nhìn nhận vấn đề đổi mới

phương pháp một cách thận trọng hơn. Đó chính là những khó khăn khi áp dụng

phương pháp DHTC vào chương trình đào tạo lý luận chính trị chủ yếu là từ phía

khách thể. Thực ra, vấn đề không phải do bản thân phương pháp mới mà do chính từ

phía người áp dụng cũng như điều kiện cụ thể của môi trường giáo dục lý luận chính

trị đã thực sự thuận lợi và cho phép áp dụng rộng rãi chưa. Những khó khăn có thể

nhận thấy là:

Một là, khối lượng chương trình là rào cản lớn ảnh hưởng đến khả năng triển

khai phương pháp dạy học mới. Dung lượng kiến thức ở mỗi bài giảng đòi hỏi phải

được đề cập, làm sáng tỏ là quá nhiều so với quỹ thời gian được ấn định. Trong khi

92

đó, để triển khai theo cách dạy và học mới lại mất khá nhiều thời gian do những

thao tác kỹ thuật. Vì thế, trong không ít giờ học, phương pháp truyền thống vẫn giữ

vai trò chủ đạo.

Hai là, tính đặc thù của loại hình các môn học lý luận chính trị đòi hỏi khả

năng tổng hợp, khái quát cao. Khác với các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật, các môn

học lý luận chính trị với những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, nguyên tắc… đã

được tổng kết qua nhiều cấp độ càng trở nên trừu tượng. Đối với người học, việc

tham gia từ những thao tác giản đơn, cụ thể đến việc tổng kết, rút ra kết luận không

phải là chuyện dễ dàng. Ngay cả trong hệ thống các môn học, việc lựa chọn phương

pháp cũng cần đầu tư, suy nghĩ cho giáo án rất chi tiết, cẩn thận. Điều này trên thực tế

không phải ai cũng làm được.

Ba là, một khó khăn trực tiếp đối với việc áp dụng phương pháp DHTC chính là

thái độ của học viên. Tinh thần và thái độ của người học chưa thực sự cầu thị và chủ

động tham gia vào quá trình học tập, nghiên cứu trong khi, phương pháp GDTC đòi hỏi

tính tương tác giữa người học, tính tự chủ sáng tạo trong việc tự tích lũy tri thức. Nói

cách khác, người học là trọng tâm của quá trình này nếu người học không cầu thị,

không thể hiện tinh thần trách nhiệm và tự giác cao thì hiệu quả của phương pháp

giảng dạy tích cực không thể đạt hiệu quả như mong muốn. Thực tế đối với đa số

người học, việc đến lớp là cố gắng theo cho hết chương trình để lấy bằng, phương pháp

học nhiều khi không quan trọng đối với họ. Trong không ít giờ học, nhất là các lớp

không tập trung, khả năng tham gia của học viên là rất thấp. Bản thân họ, một phần do

ngại phải thao tác những động tác nhiều khi “giống như trẻ con”, một phần do “dị ứng”

với việc học chính trị nên việc tham gia quá trình dạy và học còn rất hạn chế.

Bốn là, việc áp dụng phương pháp DHTC chậm được thực hiện trong thực tế

giảng dạy lý luận chính trị là do yêu cầu kỹ thuật khá phức tạp của nó. Việc chuẩn bị

bài dạy theo phương pháp DHTC đòi hỏi sự đầu tư khá công phu và phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như: thư viện, trang thiết bị, phương tiện hỗ trợ (máy tính, máy chiếu),

cơ sở hạ tầng mạng... trong khi cơ sở vật chất - kỹ thuật của một số cơ sở đào tạo,

nhất là các trường chính trị tỉnh, thành phố chưa đáp ứng được. Trong giảng dạy

truyền thống, người ta đã quen với việc bám sát vào giáo trình, thậm chí, chỉ cần

93

mang theo giáo án, giáo trình là đủ dùng. Việc phải chuẩn bị giáo cụ trực quan, các

phương tiện hỗ trợ nhiều khi trở nên rối rắm, lỉnh kỉnh... do đó đã dẫn đến tâm lý ngại

áp dụng phương pháp mới. Bên cạnh đó, một bộ phận giảng viên, do tuổi tác cũng

như khả năng tiếp cận và sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện

đại cũng khó khăn. Đó là chưa kể đến chi phí bỏ ra để mua sắm giáo cụ, phương tiện

để tác nghiệp cũng khá tốn kém. Bên cạnh đó cũng cần kể đến thái độ cũng như khả

năng phối hợp, đáp ứng của các đơn vị mở lớp không phải lúc nào cũng thuận lợi...

Có thể nói rằng, trên thực tế việc áp dụng phương pháp DHTC mặc dù đã tạo

được ấn tượng mạnh bằng những bước đột phá của nó. Những thay đổi mà nó mang

lại là rất cần thiết và đáp ứng kỳ vọng nâng cao chất lượng dạy và học lý luận chính

trị. Tuy nhiên, trong điều kiện giáo dục lý luận chính trị hiện nay, việc áp dụng

phương pháp DHTC đang đứng trước những khó khăn đáng kể. Những khó khăn

này không phải do bản thân phương pháp mà chủ yếu là từ phía chủ thể thực hiện

nó và môi trường ứng dụng nó tạo ra.

3.1.2.3. Công tác quản lý đào tạo còn có một số bất cập trong mô hình

quản lý, thể chế quản lý và phương thức quản lý

- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương có lúc chưa kịp thời.

Hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn còn có bất cập, chưa đồng bộ; quy định

về tiêu chuẩn trình độ lý luận chính trị đối với các chức danh cán bộ còn có điểm

chưa phù hợp, chậm đổi mới nên việc thực hiện phân cấp đào tạo LLCT theo đối

tượng, tiêu chuẩn chức danh còn có khó khăn, lúng túng.

Quy định chế độ học tập theo tiêu chuẩn chức chức danh còn trùng lặp, dẫn

đến một cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề. Quy định về mối quan hệ

công tác giữa các ban Đảng Trung ương với các cơ sở đào tạo còn chưa rõ ràng,

thiếu chặt chẽ nên chưa tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan tham mưu, quản lý đào tạo

phát huy vai trò, chức năng hướng dẫn, kiểm tra.

- Công tác hướng dẫn, tham mưu, quản lý đào tạo, bồi dưỡng có thời gian

còn lúng túng.

Các Ban Đảng Trung ương chưa tham mưu có hiệu quả việc đổi mới cơ chế,

chính sách về đào tạo, bồi dưỡng; chậm bổ sung, sửa đổi tiêu chuẩn, đối tượng đào

94

tạo CCLLCT; chế độ, chính sách đối với giảng viên, học viên chưa được hệ thống

hoá, còn đề cập ở các văn bản khác nhau, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện.

Sự phối hợp giữa các địa phương, cơ quan, đơn vị với Ban Tổ chức Trung

ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chưa được nề nếp, ví dụ như trong

công tác kiểm tra, giám sát tiêu chuẩn đầu vào, xét tuyển cử đi đào tạo CCLLCT,

đánh giá chất lượng dạy và học, quản lý học viên … Sự phối hợp giữa Học viện với

cấp uỷ cử cán bộ đi học và cơ quan quản lý cán bộ trong việc theo dõi, quản lý và

bố trí công tác cho cán bộ sau khi ra trường còn nhiều hạn chế.

- Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo có lúc, có nơi chưa thực sự phù hợp

với yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ thời kỳ mới.

Việc xác định nhu cầu đào tạo CCLLCT ở không ít địa phương chưa sát với

yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ. Một số cơ quan, đơn vị, địa phương xây dựng nhu

cầu học quá cao, không sát với thực tế. Một phần khá đong cán bộ, đảng viên coi

việc học lý luận chính trị không xuất phát từ mục đích nâng cao trình độ và chất

lượng công tác mà chủ yếu là để có đủ điều kiện thi nâng ngạch, chuyển ngạch, quy

hoạch, bổ nhiệm, đề bạt… nên việc học tập mang tính đối phó, ý thức tự giác, tình

thần chủ động, ham học hỏi không cao.

- Quy mô đào tạo, bồi dưỡng chưa hợp lý.

Mặc dù đã mở rộng quy mô, tăng số lớp, đa dạng hoá về hình thức mở lớp

(cả tại chức và tập trung), song công tác tổ chức đào tạo CCLLCT vẫn chưa đáp

ứng được nhu cầu của các ngành, địa phương: đào tạo lý luận chính trị đáp ứng

được khoảng 70% nhu cầu mở lớp [72]. Hàng năm hầu hết các ngành, địa phương

đều có yêu cầu mở các lớp CCLLCT hệ tại chức, nhưng không phải địa phương,

đơn vị nào cũng được mở lớp. Dẫn tới tình trạng các ngành, địa phương luôn có cán

bộ chờ đến lượt để được đi học.

- Công tác phân cấp đào tạo của Học viện cũng còn có những bất cập.

Việc thực hiện phân cấp đào tạo tại Trung tâm Học viện và các Học viện

khu vực theo tinh thần Nghị quyết 52 và Quyết định 149 của Bộ Chính trị vẫn còn

chồng chéo, chưa triệt để. Theo quy định thì các đối tượng là Vụ trưởng, phó vụ

trưởng và tương đương trở lên của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đảng uỷ trực thuộc

95

Trung ương; tỉnh uỷ viên, thành uỷ viên, trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh,

thành phố và bí thư huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ trở lên học tại Trung tâm Học viện;

Trưởng, phó phòng và tương đương của các bộ, ban, ngành, đoàn thể, đảng uỷ trực

thuộc Trung ương; cấp phó các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh, thành phố; cấp uỷ

viên và trưởng phòng, ban, ngành, đoàn thể huyện, quận, thị xã học tại các Học viện

khu vực; Trưởng, phó phòng trở lên của các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung

ương, ở các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và tỉnh, thành phố; phó trưởng

ban tuyên giáo tỉnh uỷ, thành uỷ; trưởng, phó ban tuyên giáo huyện uỷ, quận uỷ, thị

uỷ học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhưng thực tế có nhiều cán bộ, lẽ ra

phải học tại Trung tâm Học viện nhưng do điều kiện đi lại nên học ở Học viện khu

vực; ngược lại, nhiều cán bộ cấp phòng lại học ở Trung tâm Học viện. Đặc biệt là

một số lượng không nhỏ cán bộ không thuộc đối tượng đào tạo CCLLCT được Học

viện Báo chí và Tuyên truyền cấp chứng chỉ tương đương CCLLCT, điều này đã

gây ra những bất cập trong công tác bổ nhiệm cán bộ hiện nay.

- Công tác quản lý học viên thiếu linh hoạt và phối hợp đồng bộ, nhất là từ

phía các cơ quan quản lý đào tạo và các đơn vị giảng dạy. Sự phối hợp và phân

công trách nhiệm quản lý học viên giữa các bộ phận còn lúng túng, chưa rõ ràng,

nhất là quản lý giờ tự học của học viên.

- Công tác đánh giá sau đào tạo chưa được tiến hành một cách đồng bộ.

Những năm gần đây, Học viện mới phát phiếu thăm dò ý kiến của học viên sau

khoá đào tạo. Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng học viên sau đào tạo từ các đơn

vị sử dụng cán bộ thì hầu như không có. Bởi vậy, chưa có sự điều chỉnh kịp thời

những bất cập về nội dung và phương pháp đào tạo CCLLCT phù hợp với yêu cầu

của công tác lãnh đạo, quản lý.

Có một số vấn đề bất cập xung quanh việc ra đề thi, nhất là với các đề thi tổng

hợp được sử dụng tài liệu, chưa thống nhất về hình thức văn bản của đề thi; về thái độ

chấp hành quy chế của học viên trong khi làm bài; về một số cán bộ tham gia coi thi.

Xin lấy kết quả tốt nghiệp 3 năm học gần đây nhất của hệ đào tạo CCLLCT

hệ tập trung tại Trung tâm Học viện và Học viện Chính trị khu vực IV để xem xét

và đánh giá (xem biểu đồ kết quả).

96

Từ kết quả trên, có thể có nhận xét như sau:

- Chất lượng đào tạo CCLLCT tại Trung tâm Học viện cao hơn nhiều so với

Học viện khu vực IV thể hiện qua tỉ lệ Xuất sắc, giỏi so với khá lần lượt qua các

năm học (2012-2014, 2013-2014 và 2014-2015) lần lượt là 0.5 - 1.28 và 20.74 tại

Trung tâm Học viện, trong khi tỉ lệ tương ứng ở Học viện Chính trị khu vực IV là

0.11 - 0.10 và 2.00 [8]. Tỉ lệ tốt nghiệp trung bình (thống kê là trung bình khá) hầu

như rất thấp trong toàn hệ thống Học viện.

- Chất lượng đào tạo CCLLCT có xu hướng ngày càng tăng, thể hiện ở mức

độ tăng tỉ lệ giỏi so với khá qua các năm học. Chất lượng đào tạo CCLLCT tăng là

một tín hiệu đáng mừng đối với công tác đào tạo CCLLCT những năm gần đây.

- Tuy nhiên, việc tăng chất lượng một cách rất đáng kể trong năm học 2014-2015

là năm bắt đầu áp dụng chương trình mới với kết quả tất cả học viên đều đạt loại xuất

sắc, giỏi và khá, không có loại trung bình (Trong thống kê của Học viện là trung bình

khá), trong đó, tỉ lệ giỏi trên 95%, tỉ lệ khá còn chưa đến 5% ở Trung tâm Học viện, còn

ở Học viện Chính trị khu vực IV cũng toàn là giỏi, chiếm 66.7% và 33.3% khá là điều

phải quan tâm nghiên cứu. Phải chăng nội dung chương trình còn quá thấp so với trình

độ nhận thức hiện nay của học viên hay bản thân các cơ sở đào tạo đặt ra yêu cầu quá

thấp trong việc kiểm tra, thi và viết luận văn tốt nghiệp. Đó là những câu hỏi mà chương

trình CCLLCT mới phải nghiên cứu làm rõ. Một chương trình không tạo được sự phân

hóa không thể là một chương trình tốt bới nó không tạo ra sự phát triển của mỗi học viên.

32.90

65.42

1.68

56.19

43.81

0

95.40

4.60

0

10

2030

40

50

60

70

8090

100

2012-2013 2013-2014 2014-2015

XS&GiỏiKháTB

Biểu đồ 3.1: Kết quả học tập tại Trung tâm Học viện

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [8].

97

9.02

84.59

6.399.39

90.61

0

66.67

33.33

0

0

10

20

30

40

50

60

70

80

90

100

2012-2013 2013-2014 2014-2015

GiỏiKháTB

Biểu đồ 3.2: Kết quả học tập tại Học viện Chính trị khu vực IV

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [8].

- Công tác quản lý đào tạo một số lớp tổ chức ở các địa phương chưa chặt

chẽ, nghiêm túc, hiện tượng học viên vắng học nhiều. Cán bộ quản lý, chủ nhiệm

lớp chưa thường xuyên có mặt theo dõi các lớp học, do đó chưa nắm hết tình hình

chất lượng học tập của lớp và tinh thần thái độ học tập của học viên hoặc những

phản ảnh, kiến nghị của học viên về chất lượng giảng viên, chất lượng nội dung,

chương trình học. Có một số giảng viên coi nhiệm vụ của mình là giới thiệu các

chuyên đề bài giảng là hết trách nhiệm, chưa thực sự gắn bó với học viên, chưa tạo

được không khí trao đổi, tranh luận với học viên về các vấn đề học tập, nghiên cứu

gắn với thực tiễn.

- Việc thực hiện chính sách, đầu tư kinh phí về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

chính sách đối với người đi học chưa thống nhất, phụ thuộc vào khả năng ngân sách

của các địa phương, đơn vị, do đó tạo nên sự chênh lệch giữa các lớp, các vùng, có

sự phân tâm, so sánh giữa các đối tượng học viên đi học.

Sự phối hợp giữa Học viện với Ban Tổ chức Trung ương trong xác định,

phân bổ chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng; giữa Học viện với các Bộ, ban ngành trung

ương và địa phương có lúc chưa nhịp nhàng, hiệu quả nên việc tổ chức khai giảng,

bế giảng, triển khai thực hiện kế hoạch giảng dạy còn chậm, kéo dài. Phối kết hợp

giữa vụ quản lý đào tạo với các Học viện trực thuộc, với các viện chuyên ngành và

các đơn vị chức năng của Học viện đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa chặt

chẽ, kịp thời, hiệu quả.

98

3.1.2.4. Đội ngũ giảng viên còn có những bất cập so với yêu cầu giảng dạy

cao cấp lý luận chính trị trong thời kỳ mới Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo CCLLCT còn bất cập về chất

lượng, số lượng và cơ cấu, hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực hoạt động

thực tiễn; có lúc có nơi có một bộ phận thiếu gương mẫu đã góp phần làm cho chất

lượng dạy và học chưa bảo đảm yêu cầu, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đào

tạo lý luận chính trị.

Hẫng hụt cán bộ nghiên cứu, giảng dạy đầu ngành, có nhiều kinh nghiệm

thực tiễn lãnh đạo, quản lý và kiến thức, kỹ năng xử lý tình huống. Hạn chế trên,

chủ yếu là do công tác bồi dưỡng giảng viên chưa được quan tâm đúng mức, giảng

viên đi thực tế cơ sở chưa trở thành chế độ thường xuyên.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với giảng viên thuộc hệ thống Học

viện Chính trị là nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học chính trị. Công tác này

dù đã được quan tâm nhưng nhìn chung, chất lượng nghiên cứu của các công trình

của giảng viên của Học viện vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là một yếu tố tác động

không nhỏ đến hiệu quả công tác đào tạo nói riêng và việc thực hiện nhiệm vụ chính

trị của Học viện.

3.1.2.5. Chất lượng đầu vào có lúc, có nơi chưa đảm bảo Công tác xét duyệt, cử đi học còn chưa đúng đối tượng. Một số cơ quan, đơn

vị, địa phương, xét duyệt chưa bám sát vào tiêu chuẩn, đối tượng, cử đi học do đó

đề nghị có trường hợp là đoàn viên, một số chức vụ chưa đúng, một số thiếu tuổi

học tại chức…

Vẫn còn tình trạng đào tạo không gắn với quy hoạch, bổ nhiệm. Do đó có tình

trạng: mở lớp, chiêu sinh ồ ạt, “châm chước” về tiêu chuẩn để đủ số lượng; ngược lại,

nhiều cán bộ, đảng viên được đề bạt, bổ nhiệm cho “nợ” chứng chỉ về lý luận chính

trị … Thực tế đó dẫn tới “hình thức hoá” yêu cầu học tập lý luận chính trị, ảnh hưởng

xấu tới chất lượng và ý nghĩa việc học tập.

Các lớp đào tạo tập trung còn ít, các lớp đào tạo tại chức đặt tại các địa

phương, cơ sở còn nhiều. Số lượng học viên ở các lớp tại chức đông, có lớp lên tới

140 người (những năm 2011 trở về trước), nên quản lý quá trình dạy và học gặp khó

khăn, chất lượng học tập hạn chế.

99

Một bộ phận học viên chưa tích cực học tập, chưa có ý thức tự giác chấp

hành nội quy, quy chế đào tạo của Học viện, tu dưỡng, rèn luyện kém dẫn đến vi

phạm phải xử lý kỷ luật.

3.1.2.6. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn

Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa

học của cả giảng viên và học viên còn nhiều khó khăn, bất cập. Số giảng đường, thư

viện, khu ký túc xá, các phương tiện phục vụ phương pháp dạy học tích cực còn

thiếu thốn, hư hỏng, xuống cấp. Một số hạng mục công trình mới xây dựng phục vụ

cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bị chậm tiến độ, khả năng tiếp nhận học

viên nội trú hạn hẹp trong khi yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo tập trung, mở rộng

các lớp bồi dưỡng…

Việc xây dựng cơ sở vật chất của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

và các trường chính trị tỉnh, thành phố (nơi đăng cai tổ chức học các lớp CCLLCT

hệ tập trung) trong những năm qua đã được Đảng, Chính phủ; các cấp uỷ, chính

quyền các địa phương quan tâm, song nhìn chung nơi ăn, ở, học tập, làm việc của

cán bộ giảng viên, học viên còn thiếu thốn, lạc hậu, hệ thống thư viện, tư liệu chưa

được đầu tư tương xứng. Hiện nay, tại Trung tâm Học viện cũng như các Học viện

trực thuộc, số phòng làm việc của cán bộ, giảng viên vừa thiếu lại chật chội; phòng

họp chung, sinh hoạt khoa học của các đơn vị thiếu dẫn đến tình trạng 2, 3 viện

chung 1 phòng họp đã dẫn đến những khó khăn trong sinh hoạt chung, sinh hoạt

chuyên môn của các đơn vị.

Một số trường chính trị (thường là nơi tổ chức đào tạo của các lớp

CCLLCT hệ không tập trung tại địa phương) vẫn còn nghèo về cơ sở vật chất và

trang thiết bị dạy và học như: Trường Chính trị tỉnh Điện Biên, hội trường, nhà

bếp, nhà ăn, nhà ở... đều là nhà cấp 4 được xây dựng và sử dụng từ năm 1990 đã

hư hỏng nhiều, thiếu phòng học (chỉ có 3 phòng); Trường Chính trị tỉnh Sơn La,

số phòng học, hội trường còn hạn chế (tổng cộng chỉ có 640 chỗ ngồi); cả trường

có 2 máy chiếu hắt, các khoa chưa có máy vi tính; Trường Chính trị tỉnh Đắk

Nông đang xây dựng nên hiện nay vẫn phải sử dụng 6 trung tâm bồi dưỡng chính

trị các huyện và thị xã thuộc tỉnh.

100

3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Việc đào tạo cao cấp lý luận chính trị (CCLLCT) luôn dành được sự quan

tâm của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương Đảng

và Chính phủ, được thể hiện ở các Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI và các nghị quyết

Trung ương trong những năm qua về công tác tư tưởng, lý luận, công tác cán bộ, cơ sở

quan trọng định hướng cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị nói chung,

đào tạo CCLLCT nói riêng; đồng thời đã có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn, đối

tượng học, định hướng nội dung, chương trình giảng dạy CCLLCT…

3.2.1. Nguyên nhân của thực trạng

3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm Những kết quả đã đạt được trong công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý những năm vừa qua là do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đặc biệt quan tâm, có những nghị quyết,

chỉ thị và chỉ đạo kịp thời về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tạo được những

chuyển biến trong nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và

cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ; trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cơ sở đào tạo và cán bộ, đảng viên trong

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được nâng lên.

Hai là, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan

tham mưu chiến lược của Trung ương đã tích cực tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban

Bí thư trong triển khai các Nghị quyết về công tác đào tạo cán bộ nói chung, trong

đó có công tác đào tạo CCLLCT.

Ban Tổ chức Trung ương cũng các cơ quan có liên quan đã tiến hành các

tổng kết: “Tổng kết 10 năm thực hiện Quy định số 54-QĐTW, ngày 12/5/1999 của

Bộ Chính trị (khoá VIII) về Chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”; “Tổng kết

10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; “Tổng kết 5 năm

(2006-2010) công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản

lý (bao gồm cả Đề án 165)”; “Tổng kết Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30/7/2005

của Bộ Chính trị về Học viện Chính trị (khoá IX) về đổi mới, nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh…

101

Kết quả các tổng kết trên là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc đề

xuất phương hướng, giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

theo quan điểm, mục tiêu, yêu cầu Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26 tháng 5 năm

2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo quản lý, trong đó có đào tạo CCLLCT.

Việc tổng kết này cho thấy quyết tâm chính trị của Trung ương và yêu cầu,

đòi hỏi về nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; khẳng định vai

trò của các cấp uỷ cơ quan, đơn vị, địa phương trong công tác bồi dưỡng lý luận

chính trị cho cán bộ và trách nhiệm cá nhân các đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý

được đi học.

Ba là, các cấp uỷ, tổ chức đảng các địa phương, các ban, ngành, đoàn thể

quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về

công tác đào tạo CCLLCT. Các cơ quan tổ chức - cán bộ đã giúp cấp uỷ nắm chắc

nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành, địa phương, đơn vị; giúp cấp uỷ

nắm chắc nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chủ động đề xuất với cấp uỷ kế

hoạch mở lớp, cử cán bộ đi học; phối hợp với các cơ quan và các cơ sở đào tạo

trong chiêu sinh, tổ chức và quản lý lớp học; giải quyết các vướng mắc phát sinh.

Bốn là, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm đào tạo cán bộ

lớn của Đảng và Nhà nước, có bề dày truyền thống, có uy tín và nhiều kinh nghiệm

trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ qua các thời kỳ cách mạng, có đội ngũ giảng viên

hùng hậu, nhiều chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu

khoa học chính trị, đây là vốn rất quý của Học viện, của Đảng, Nhà nước ta. Học

viện còn xây dựng một đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm gồm các cán bộ lãnh đạo,

quản lý ở các bộ, ban, ngành, các nhà khoa học có uy tín ở các cơ sở đào tạo và

nghiên cứu khoa học tham gia giảng dạy. Đây là những nhân tố góp phần nâng cao

chất lượng đào tạo nói chung, trong đó có các lớp CCLLCT hiện nay.

Những năm vừa qua, Học viện đã có nhiều cố gắng đổi mới chương trình,

nội dung, phương thức và phương pháp đào tạo CCLLCT, quyết tâm thực hiện các

quy định trong quy chế quản lý đào tạo, quy chế tuyển sinh, chế độ học tập, quan

tâm xây dựng đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy,

nghiên cứu, học tập.

102

Về cơ sở vật chất, trang thiết bị tại các cơ sở đào tạo thuộc hệ thống Học

viện, trong những năm qua, nguồn kinh phí đầu tư cho xây dựng mới, cải tạo nâng

cấp phòng học, phòng ở và các phương tiện cho dạy và học cùng các điều kiện về

ăn ở, thể dục thể thao... được nâng lên đáng kể. Do đó, việc thực hiện chủ trương tổ

chức đào tạo CCLLCT tại Trung tâm Học viện và các học viện khu vực rất thuận lợi

cho các tác quản lý lớp học, quản lý học viên, trong việc thực hiện quy chế, kỷ luật

học tập nghiêm túc hơn; học viên có điều kiện để tiếp xúc trao đổi với đội ngũ giảng

viên ở các viện, các khoa; học viên có cơ hội đọc sách nghiên cứu tài liệu tại thư

viện của trường, của khoa và của viện. Vì vậy, chất lượng học tập của học viên tốt

hơn đối với các lớp tổ chức học tại các cơ quan, địa phương bên ngoài cơ sở đào tạo.

3.2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế và khuyết điểm

Những hạn chế, yếu kém trong công tác đào tạo CCLLCT do một số nguyên

nhân chủ yếu sau:

Một là, ở tầm vĩ mô, chúng ta đang thiếu quy hoạch tổng thể mang tính chiến

lược về đào tạo CCLLCT, chưa khắc phục được sự chồng chéo về chức năng,

nhiệm vụ giữa các cơ quan quản lý và các cơ sở đào tạo.

Quyết định số 224-QĐ/TW ngày 06-01-2014 của Bộ Chính trị xác định Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung

ương Đảng và Chính phủ; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, theo đó, Học viện có 2 chủ thể lãnh đạo là Trung ương

Đảng và Chính phủ. Sự lãnh đạo của Chính phủ (thông qua Bộ Giáo dục và Đào

tạo) chỉ thể hiện ở các công tác liên quan đến việc đào tạo trình độ đại học và trên

đại học của Học viện. Đào tạo CCLLCT được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực

tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trên thực tế, Ban Bí thư không thể

chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên được công tác này nhưng lại không có sự uỷ nhiệm

chính thức cho các Ban đảng Trung ương trong khi công tác nghiên cứu, tổng kết

thực tiễn của các ban xây dựng Đảng ở Trung ương về đào tạo, bồi dưỡng LLCT

chưa theo kịp thực tiễn, chưa tham mưu đề xuất cho Trung ương những chủ trương,

định hướng chính trị, tư tưởng có giá trị nhằm đổi mới nội dung chương trình đào

tạo một cách đồng bộ, thiết thực và phù hợp; thiếu các quy định, định hướng thống

103

nhất của Trung ương về yêu cầu, nội dung chương trình khung đào tạo dẫn đến sự

trùng lặp về nội dung kiến thức giữa các bậc học LLCT; tư duy quản lý đào tạo của

các cơ quan tham mưu ở Trung ương chậm đổi mới, chưa nắm bắt kịp thời yêu cầu

công tác đào tạo đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các giai đoạn với các yêu

cầu mới, điều kiện mới.

Quy định về mối quan hệ công tác giữa các ban Đảng ở Trung ương với các

cơ sở đào tạo chưa chặt chẽ nên có lúc, có nơi còn buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng

và làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ nói chung, công tác đào tạo CCLLCT nói riêng. Cho đến nay, chức

năng quản lý nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý,

trong đó có đào tạo CCLLCT chưa được thể hiện cụ thể, rõ ràng trong các Quy định

của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ban Tổ chức

Trung ương và Ban Tuyên giáo Trung ương.

Hai là, nhận thức của một số cấp uỷ, cơ quan, đơn vị về công tác đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị chưa sâu sắc, toàn diện; chưa làm tốt việc gắn kết công tác

đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ sau đào tạo chưa căn cứ

trên kết quả đào tạo.

Việc quán triệt, triển khai cụ thể hoá và tổ chức thực hiện nghị quyết của

Trung ương ở một số cấp uỷ địa phương, đơn vị chưa sát với tình hình thực tiễn;

ban hành nghị quyết, đề án về đào tạo, bồi dưỡng còn hình thức, thiếu nguồn lực và

điều kiện thực hiện. Xây dựng nhu cầu đào tạo CCLLCT còn hình thức không sát,

không bám sát vào tiêu chuẩn đối tượng để xây dựng nhu cầu.

Ba là, những nguyên nhân nội tại của chính Học viện thể hiện trong công tác

tổ chức, triển khai thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp và quản

lý đào tạo CCLLCT.

Những khó khăn trong công tác tổ chức, nhất là sau khi sáp nhập Học viện

Hành chính vào Học viện Chính trị quốc gia, Học viện chưa tích cực, chủ động phối

hợp chặt chẽ với các ban Đảng Trung ương tham mưu kịp thời cho Bộ Chính trị,

Ban Bí thư và Chính phủ chỉ đạo giải quyết các vướng mắc nảy sinh trong quá trình

phát triển Học viện.

104

Công tác nghiên cứu khoa học của Học viện chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có

nhiều đóng góp quan trọng vào công tác nghiên cứu lý luận, giảng dạy, tổng kết

thực tiễn. Những hạn chế, yếu kém trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực

tiễn hiện nay là hạn chế lớn cho quá trình tư duy khoa học, tạo cơ sở lý luận và thực

tiễn cho việc đề xuất quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, nội dung và giải pháp đổi mới

công tác đào tạo lý luận chính trị, trong đó có CCLLCT.

Nếu so sánh các kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện với một số trung

tâm nghiên cứu khoa học khác như Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Đại học Quốc

gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. HCM… thì những kết quả nghiên cứu khoa học

của Học viện với một số lượng các nhà khoa học không nhỏ (trên 1.400 người có

học vị thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó có trên 100 giáo sư, phó giáo sư) vẫn còn rất khiêm

tốn. Tại Học viện, nếu so sánh với các giai đoạn trước khi có Nghị quyết 52, đặc

biệt giai đoạn là Trường Đảng Trung ương mang tên Nguyễn Ái Quốc - trung tâm

nghiên cứu lý luận hàng đầu của đất nước thời kỳ đó với nhiều nghiên cứu khoa học

có giá trị đã góp phần quan trọng vào việc hoạch định các chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước thì phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, công tác

nghiên cứu khoa học của Học viện “nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu, chưa có

những đóng góp quan trọng vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của

Đảng” (Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Lễ khai giảng năm học

2011 - 2012 của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh ngày 07

tháng 9 năm 2011).

Những hạn chế trong công tác nghiên cứu khoa học là một trong những

nguyên nhân quan trọng dẫn đến những bất cập trong việc đổi mới nội dung,

chương trình CCLLCT hiện nay.

Nguyên nhân những hạn chế trong đổi mới phương pháp giảng dạy một phần

liên quan đến cơ sở vật chất, trong đó có phương tiện dạy học. Về việc sử dung

phương tiện: phải nói rằng, bản thân phương pháp dạy học mới - dạy học tích cực

không hoàn toàn phụ thuộc vào phương tiện (ở đây là công nghệ thông tin), nhưng

việc giảng dạy có sử dụng công nghệ thông tin, phương tiện nghe nhìn cũng vẫn

gặp nhiều khó khăn do cơ sở vật chất thiếu thốn, trình độ công nghệ thông tin của

105

nhiều giảng viên các môn lý luận chính trị còn yếu, nhất là giảng viên đứng tuổi.

Quy mô của lớp học cũng phần nào hạn chế sử dụng các công cụ hỗ trợ trên lớp.

Bên cạnh đó, sĩ số học viên trong một lớp, nhất là hệ không tập trung, dù đã

giảm xuống 90 nhưng vẫn còn quá đông; trình độ học viên lại không đồng đều, học

viên lớn tuổi khó thích ứng với phương pháp học tập mới nên nhiệt tình chưa cao,

không dễ hợp tác với giảng viên trong việc áp dụng phương pháp GDTC.

Đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị có sự khác biệt trong các độ

tuổi. Lớp lớn tuổi (40 tuổi trở lên) thường có kinh nghiệm, chuyên môn vững, bản lĩnh

cao nhưng lại yếu về ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Ngược lại, lớp giảng viên trẻ

thì khá hơn về công nghệ thông tin, ngoại ngữ, nhạy cảm với cái mới, nhưng kinh

nghiệm giảng dạy, hiểu biết thực tiễn kinh tế-xã hội còn hạn chế … Đây là một cản trở

cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng bài giảng.

Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kinh phí và chế độ, chính sách đối với

người dạy, người học còn có những điểm chưa hợp lý, chưa tận dung được khả

năng của các loại cán bộ, giảng viên tham gia giảng dạy LLCT.

Bốn là, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa xác định đúng mục tiêu

đào tạo CCLLCT dẫn tới động cơ học tập còn lệch lạc; xu hướng cán bộ muốn chờ

đợi để được đào tạo CCLLCT, trong khi tiêu chuẩn chức danh cán bộ chỉ cần đào

tạo trung cấp LLCT. Đối tượng đào tạo CCLLCT là cán bộ lãnh đạo, quản lý, giữ

các chức vụ nhất định trong cơ quan, đơn vị nên trong quá trình học dù nỗ lực học

tập, vẫn phải giải quyết công việc cơ quan, do đó chất lượng học tập có bị ảnh

hưởng không nhỏ.

Năm là, những tiêu cực xã hội, mặt trái của cơ chế thị trường và những yếu

kém của nền giáo dục quốc dân tác động đến cả đội ngũ giảng viên và học viên.

Tình hình kinh tế xã hội còn có nhiều khó khăn, đời sống của cán bộ, công nhân

viên chức còn có khó khăn nhất định ảnh hưởng một phần tới tâm tư của người dạy,

người học.

3.2.2. Những vấn đề đặt ra

Trong những năm vừa qua, công tác đào tạo CCLLCT đã đạt được nhiều kết

quả rất đáng ghi nhận, góp phần quan trọng nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ

106

cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, trong công tác này còn không ít khuyết điểm,

hạn chế cần khắc phục.

Từ việc đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác đào tạo

CCLLCT và yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện đẩy

mạnh CNH, HĐH hiện nay, đặt ra một số vấn đề sau:

- Về phân cấp đối tượng đào tạo

Nhiều năm nay sự phân cấp đối tượng đào tạo cao cấp lý luận không được

thực hiện đúng theo quy định nên đối tượng đào tạo ở Trung tâm Học viện cũng

không khác đối tượng đào tạo ở các học viện khu vực, không tạo được sự phân cấp,

phân luồng, phận loại chất lượng trong đào tạo.

- Về nội dung chương trình đào tạo

Tuy chia ra 3 cấp: sơ cấp, trung cấp, cao cấp nhưng không được thực hiện

nghiêm túc trình tự đào tạo mà rất nhiều trường hợp bỏ qua 2 cấp đầu học thẳng vào

cao cấp lý luận chính trị. Do đó, khá nhiều học viên học cao cấp lý luận nhưng non

nớt về lý luận do thiếu kiến thức cơ bản ở các cấp dưới.

Sau nhiều năm nghiên cứu, thử nghiệm, hiện nay Học viện đã có một chương

trình thống nhất cho Trung tâm Học viện và các học viện trực thuộc. Vấn đề đặt ra

là nhu cầu, mục đích học tập và trình độ, năng lực của mỗi người khác nhau, yêu

cầu cho mỗi loại chức danh cũng khác nhau, cho nên, trên cơ sở chương trình thống

nhất, phải có nội dung đào tạo cụ thể, riêng cho từng loại chức danh cán bộ. Trong

việc xây dựng nội dung, chương trình, thời gian đào tạo, điều rất cần được quan tâm

là xây dựng chương trình theo hướng chọn lọc, thiết thực và quan trọng hơn là phải

phù hợp với từng loại chức danh cán bộ như yêu cầu mà Bộ Chính trị đã nêu trong

Nghị quyết 32.

- Về phương pháp đào tạo

Việc tập huấn và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực đã được triển

khai khá đồng bộ trong đội ngũ giảng viên của hệ thống Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh, thành phố. Nhiều giảng viên trẻ rất

tích cực áp dụng các phương pháp này. Tuy nhiên một bộ phận giảng viên vẫn chưa

chủ động áp dụng phương pháp DHTC, trên lớp vẫn còn nặng về thuyết trình,

107

truyền thu kiến thức, làm cho học viên thụ động. Mặt khác, nhiều trường hợp rất

khó áp dụng phương pháp dạy học tích cực do bàn ghế lớp học không phù hợp, số

lượng học viên trong một lớp quá đông…

Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng

phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung

tâm, người học tham gia tích cực vào quá trình đào tạo. Việc đổi mới phương pháp

đào tạo không thể chỉ dừng lại ở cách thức lên lớp mà liên quan đến cả một hệ

thống giải pháp, trong đó có cả tài liệu học tập (Sách giáo khoa), không thể buộc

học viên tự nghiên cứu trong khi đã có bộ tài liệu in sẵn, đầy đủ đáp án như hiện

nay. Yêu cầu đối với học viên cũng đòi hỏi một hệ thống tài liệu phong phú (Thư

viện sách, thư viện điện tử...) và quan trọng hơn là năng lực tiếp thu và sử dụng

phương pháp mới của đội ngũ cán bộ tham gia giảng dạy. Do đó, muốn đổi mới

được phương pháp giảng dạy thì không thể không có những nghiên cứu bài bản về

phương pháp dạy học mới đối với các môn lý luận chính trị.

- Về đội ngũ giảng viên

Để đào tạo được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi phải có đội ngũ giảng

viên không chỉ giỏi về lý luận mà phải có kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Tuy

nhiên, nhiều năm qua rất khó thu hút những cán bộ lãnh đạo, quản lý có kinh nghiệm

và khả năng sư phạm về làm giảng viên của các trường đào tạo cán bộ vì không có

chính sách hỗ trợ gì cho họ. Vừa qua, bổ sung cho đội ngũ giảng viên của Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ yếu là sinh viên vừa tốt nghiệp các trường đại học,

do đó, nếu không có những biện pháp kịp thời thi chất lượng đội ngũ giảng viên trong

hệ thống đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý sắp tới sẽ ngày càng hạn chế.

Mặt khác, việc xây dựng và phát huy đội ngũ giảng viên kiêm chức và thỉnh

giảng chưa đáp ứng yêu cầu. Tình hình chung là rất khó mời những cán bộ lãnh đạo,

quản lý, cán bộ hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm tham gia giảng dạy vì thiếu cơ

chế trách nhiệm, chế độ thù lao rất thấp, rất bất hợp lý.

- Về đánh giá kết quả học tập

Tuy đã có một số cải tiến nhưng hình thức chủ yếu vẫn là thi viết theo dạng

đề “đóng” và chấm điểm theo thang điểm 10. Cách đánh giá này làm cho không ít

học viên không đồng tình vì phải học thuộc lòng, không khuyến khích sáng tạo,

108

phát huy kinh nghiệm của học viên đã và đang là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cách

đánh giá này cũng dẫn đến tình trạng không đánh giá, phân loại đúng kết quả học

tập. Do nể nang, do không kiểm soát được chặt chẽ kỷ luật phòng thi nên khá phổ

biến tình trạng bài thi của học viên các lớp không tập trung chỉ là chép lại bài giảng

hoặc các đề cương được chuẩn bị sẵn.

Thực trạng đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới hình thức và phương pháp thi,

kiểm tra và đánh giá kết quả đào tạo bảo đảm thực chất. Hình thành hệ thống kiểm

định đánh giá chất lượng các cơ sở đào tạo, các chương trình đào tạo, quy trình và

tiêu chí đánh giá cán bộ sau đào tạo.

- Về hệ thống cơ sở đào tạo

Đã có sự phát triển khá mạnh nhưng chất lượng đội ngũ giảng viên ở các cơ

sở đào tạo cao cấp lý luận hiện nay có chênh lệch lớn và có dấu hiệu canh tranh, đua

nhau mở lớp, mở hệ sau đại học trong khi đội ngũ giảng viên chưa thật sự bảo đảm

yêu cầu. Có những cơ sở đào tạo có khoa chuyên ngành quan trọng, đảm nhận đào

tạo qui mô lớn nhưng giảng viên phần lớn không được đào tạo chuyên ngành. Đang

có tình trạng thiếu thống nhất trong hệ thống cơ sở đào tạo, ngay tên các cơ sở đào

tạo cán bộ cấp tỉnh hiện nay cũng khác nhau, chức năng, nhiệm vụ khác nhau.

- Về việc học tập lý luận gắn với rèn luyện của học viên

Đây là một yêu cầu rất cơ bản của đào tạo nói chung, đào tạo CCLLCT nói

riêng. Nhưng trên thực tế, gần như học viên tham gia đào tạo CCLLCT được tự do

khi không có giờ lên lớp. Trong khi số giờ lên lớp giảm đi, số giờ thảo luận và tự

nghiên cứu của học viên tăng lên nhưng các biện pháp quản lý học viên ngoài giờ

lên lớp, các hình thức rèn luyện phẩm chất, phong cách cho học viên - những người

đã và sẽ là cán bộ lãnh đạo hầu như không có những thay đổi gì ngoài một số đợt đi

thực tế theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”.

- Về việc gắn đào tạo với sử dụng kết quả đào tạo đào tạo

Nhìn chung, những năm vừa qua, việc sử dụng cán bộ của cơ quan quản lý

chưa gắn được với kết quả đạo tạo của học viên. Khi cử cán bộ đi học, cơ quan quản

lý lựa chọn những cán bộ trong diện quy hoạch đưa đi đào tạo, cán bộ học như thế

nào, làm luận văn tốt nghiệp về vấn đề gì thì cơ quan sử dụng cán bộ không nắm

chắc. Cán bộ trở về thì cơ quan cũng không nắm được chất lượng quá trình học tập

109

và nội dung luận văn có những đóng góp gì cho cơ quan, đơn vị, địa phương. Nội

dung đào tạo thì chung cho tất cả đối tượng, đề tài luận văn thì tự học viên lựa chọn

theo ý chủ quan, không liên quan đến chức danh quy hoạch, đến công việc thực tế

mà học viên đang đảm nhiệm. Điều này gây lãng phí trong đào tạo, không gắn đào

tạo với quy hoạch và sử dụng mà lâu nay Đảng ta luôn chỉ ra những yếu kém,

khuyết điểm trong công tác cán bộ [114].

Tiểu kết chương 3

Chất lượng đào tạo CCLLCT thực sự góp phần nâng cao trình độ nhận thức

chính trị, tư tưởng, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp

trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới của đất nước trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, chất lượng đào tạo CCLLCT còn có nhiều bất cập, thể hiện ở sự

hạn chế trong việc bảo đảm mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng; trong công tác xây dựng

kế hoạch đào tạo có lúc, có nơi chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển đội ngũ

cán bộ thời kỳ mới; chưa thực sự đảm bảo chất lượng đầu vào thông qua việc xét cử

và chiêu sinh học cao cấp lý luận chính trị đúng đối tượng, tiêu chuẩn quy định; nội

dung chương trình và phương pháp đào tạo chưa thật sự đổi mới; chất lương đội ngũ

giảng viên dù đã được nâng lên nhưng vẫm còn có những bất cập so với yêu cầu

giảng dạy cao cấp lý luận chính trị trong thời kỳ mới; mô hình quản lý, thể chế quản

lý và phương thức quản lý công tác đào tạo CCLLCT cũng cần được cải tiến; cơ sở

vật chất chó đào tạo cũng vẫn còn thiếu thốn... đã phần nào ảnh hưởng tới chất

lương của đâò tạo CCLLCT những năm vừa qua.

Trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ lãnh

đạo quản lý đặt ra cho công tác đào tạo CCLLCT một số vấn đề cần quan tâm giải

quyết liên quan đến phân cấp đối tượng đào tạo, nội dung chương trình và phương

pháp đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đánh giá kết quả học tập, hệ

thống cơ sở đào tạo, việc học tập lý luận gắn với rèn luyện của học viên, việc gắn

đào tạo với sử dụng kết quả đào tạo đào tạo... để đưa chất lượng đào tạo CCLLCT

lên một bước, đáp ứng mục tiêu đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng trong

giai đoạn cách mạng hiện nay.

110

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH TÁC ĐỘNG VÀ QUAN ĐIỂM NÂNG CAO

CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.1.1. Dự báo tình hình tác động đến công tác đào tạo cao cấp lý luận

chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý

4.1.1.1. Tình hình trong nước và thế giới

Hiện nay và những năm năm tới, tình hình thế giới, khu vực còn nhiều diễn

biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ, thách thức. Hoà

bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá,

hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được

đẩy manh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở

thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh

tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh

tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ,

chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín

quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các

cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự

do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn

trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó

khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt

hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn

biến hoà bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển

hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn

tồn tại và có những diễn biến phức tạp.

111

Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đặt trong bối cảnh bối cảnh toàn cầu hóa

diễn ra ngày càng mạnh mẽ, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đảng ta đang lãnh

đạo toàn dân thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội với các nội dung cụ thể là xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhằm mục tiêu tổng quát là

đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Sự nghiệp đổi mới đó có được, là do một đội ngũ các nhà lãnh đạo Đảng,

Nhà nước có tầm tư duy cao, sáng tạo, đổi mới; do một đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý đúng tầm ở tất cả các cấp, các ngành. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của

Đảng và Nhà nước phải đạt các yêu cầu về phẩm chất chính trị, trình độ và năng lực

chuyên môn, mà theo Hồ Chí Minh, đó là đạo đức và tài năng (hồng và chuyên); có

trình độ lãnh đạo, quản lý đạt chuẩn mực của khu vực và quốc tế, đủ khả năng chủ

động, tích cực hội nhập quốc tế; có đủ trình độ để lãnh đạo, quản lý nền kinh tế thị

trường; có hiểu biết khoa học pháp lý để điều hành nhà nước pháp quyền; không chỉ

hiểu biết khoa học, kỹ thuật, công nghệ mà còn phải có khả năng tổ chức, hoạt

động, bảo đảm cho các lĩnh vực đó vận hành một cách khoa học. Nghĩa là, đội ngũ

cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị phải có đủ tư chất và trình độ tư duy

thời đại, tư duy công nghiệp, năng lực thực tiễn để điều hành quốc gia trong tình

hình mới.

Diễn biến của tình hình thế giới và trong nước đặt ra nhiều vấn đề mới mà

bản thân lý luận chưa theo kịp với thực tiễn. Đảng và Nhà nước ta cần phải có các

giải pháp tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lí luận, nâng cao bản lĩnh chính trị cho

cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tình hình đó đòi hỏi công tác giáo dục

LLCT nói chung, đào tạo CCLLCT nói riêng phải có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn

nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay của Đảng.

4.1.1.2. Tình hình nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng

Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28 tháng 3 năm

1992 của Bộ Chính trị khóa VII, công tác lý luận của Đảng đã đạt được những kết

quả quan trọng. Tư duy lý luận tiếp tục có bước phát triển: đã chú trọng tổng kết

thực tiễn, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ

112

Chí Minh; bước đầu hình thành hệ thống lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những kết quả đó góp phần tích cực vào

thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước, từng bước

đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tình trạng nước

nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, phấn

đấu tạo nền tảng để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Công tác giáo dục lý luận chính trị được quan tâm, định hướng với nội dung,

hình thức đa dạng, phong phú hơn, được triển khai sâu rộng trong Đảng và hệ thống

chính trị. Công tác nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, kết luận của Đảng có đổi

mới. Đội ngũ cán bộ lý luận được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng phát triển. Việc phát

huy dân chủ, tự do sáng tạo trong nghiên cứu lý luận được coi trọng. Cuộc đấu tranh

tư tưởng, lý luận, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chống âm mưu "diễn

biến hòa bình" và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng

đã đạt kết quả bước đầu.

Tuy nhiên, công tác lý luận còn có những hạn chế, khuyết điểm: lý luận còn

lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của

thực tiễn; nghiên cứu về hình hình thế giới, khu vực và vấn đề thời đại chưa sâu sắc,

toàn diện; kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực

tiễn đang đặt ra; nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới

chưa được nhiều; kết quả thực hiện nhiệm vụ cung cấp luận cứ khoa học làm cơ sở

cho việc hoạch định đường lối, quan điểm của Đảng còn hạn chế, nhiều vấn đề thực

tiễn đặt ra chưa được làm rõ; đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận đông, nhưng không

mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực; công tác đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị còn hạn chế về chất lượng, trùng lắp về nội dung, chương

trình, giáo trình, chậm đổi mới về phương pháp…

4.1.1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng về công tác đào tạo lý luận

chính trị

Sau gần 17 năm thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12-5-1999 của Bộ

Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng, công tác đào tạo, bồi

113

dưỡng lý luận chính trị đã đạt được một số kết quả quan trọng, góp phần xây dựng

Đảng, hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống cơ

sở đào tạo lý luận chính trị được củng cố, phát triển; số lượng cán bộ được đào tạo

lý luận chính trị tăng nhanh; nội dung, chương trình bước đầu đổi mới; đội ngũ

giảng viên tăng cả về số lượng và chất lượng; điều kiện vật chất, kỹ thuật của các cơ

sở đào tạo được cải thiện.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính

trị còn một số hạn chế, yếu kém: việc mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng chưa

gắn liền với nâng cao chất lượng; nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chậm

được đổi mới, bổ sung, cập nhật, còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao

năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách

lãnh đạo, quản lý, thiếu sự liên thông giữa các cấp học, các hệ đào tạo; phương

pháp giảng dạy, học tập chậm được đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa

phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học viên; quản lý đào tạo còn có mặt yếu

kém, nhất là quản lý tự học của học viên; chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ

quản lý đào tạo còn có mặt hạn chế; điều kiện vật chất - kỹ thuật trong nhiều cơ sở

đào tạo còn thiếu thốn.

Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định “tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện chiến

lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ; triển khai nội dung

này có nhiều giải pháp, nhưng trong đó sẽ có giải pháp tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao

chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đây là cơ sở quan trọng cho việc nâng cao chất

lượng đào tạo lý luận nói chung, đào tạo CCLLCT nói riêng.

Trong những năm tới, đối tượng đào tạo CCLLCT vẫn là những cán bộ lãnh

đạo quản lý chủ chốt đương chức và quy hoạch từ cấp huyện trở lên. Tuy nhiên,

việc quy định độ tuổi đi học hệ không tập trung như hiện nay, sẽ không còn là yếu

tố quyết định, thay vào đó, cử cán bộ đi đào tạo chủ yếu căn cứ vào chức danh cán

bộ và yêu cầu công việc của cán bộ trước và sau đào tạo. Chức danh cán bộ sẽ là

yếu tố hàng đầu quy định và chi phối, tác động trực tiếp đến mục tiêu, yêu cầu, nội

dung chương trình, phương thức, phương phápvà tổ chức quản lý đào tạo CCLLCT.

114

Cùng với việc quy định chặt chẽ về chế độ đào tạo CCLLCT đối với một số

chức danh cán bộ, việc học đào tạo CCLLCT sẽ không còn là tiêu chuẩn bắt buộc đối

với mọi đối tượng cán bộ ở mọi ngành, nghề... trong đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện

chính sách cán bộ. Cho nên, quy mô đào tạo CCLLCT sẻ giảm dần trên cơ sở điều

chỉnh tiêu chuẩn cán bộ trong bổ nhiệm, luân chuyển và thực hiện chính sách cán bộ;

theo tinh thần Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị, hình thức đào tạo không tập trung sẽ

thu hẹp dần, chất lượng đào tạo đào tạo CCLLCT sẽ ngày càng được ưu tiên.

Đối tượng đào tạo CCLLCT hiện nay là cán bộ lãnh đạo, quản lý trung cấp,

cao cấp trong hệ thống chính trị. Trong đội ngũ này, đa số không kinh qua cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc, được học tập, đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong

môi trường hòa bình, được đào tạo, bồi dưỡng trong nền giáo dục hiện đại. Ưu điểm

của đội ngũ cán bộ này là năng động, nhạy bén, sáng tạo, được tiếp nhận tri thức

khoa học phong phú của các nền khoa học - công nghệ hiện đại, các mô hình và

cách thức hoạt động chuyên môn của các nước tiên tiến. Đó là một lợi thế trong

điều kiện mới hiện nay. Điều mà chúng ta cần chú ý hiện nay là một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên (thường là cán bộ lãnh đạo, quản lý) thoái hóa biến chất về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà sự suy thoái trong đội ngũ này ngày càng tăng

cả về số lượng, cả về cấp độ; năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là

cán bộ trẻ - yếu tố tạo lên sức chiến đấu của Đảng, sức mạnh có tính quyết định sự

thành bại của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước đang ngày càng có vấn đề và bị

xem nhẹ. Đó đang là nguy cơ đối với sự cầm quyền của Đảng, với sự tồn vong của

dân tộc hiện nay. Tình hình đó đặt ra cho công tác đào tạo, trước hết là đào tạo

CCLLCT những yêu cầu cao hơn không những trong việc truyefn thụ những tri

thức khoa học về lãnh đạo, quản lý mà trong cả việc rèn luyện phẩm chất đạo đức

của người cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn hiện nay.

Chính vì thế, việc đào tạo nâng cao trình độ lý luận luôn nhận được sự qua

tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị,

Ban Bí thư, của Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương. Bản

thân đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã nhận thức được yêu cầu phải nâng

cao chất lượng học tập CCLLCT để góp phần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai

đoạn mới.

115

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được Đảng, nhà nước giao nhiệm

vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, đào tạo CCLLCT nói riêng, trong thực

hiện nhiệm vụ, Học viện có những thuận lợi cơ bản:

Một là, Học viện được sự quan tâm và thường xuyên chỉ đạo sát sao của Trung

ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ,

có hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giữa Học viện với các bộ, ban, ngành

Trung ương, đặc biệt Ban Tổ chức Trung ương, Văn phòng Trung ương, Bộ Giáo dục

và Đào tạo, Bộ Tài chính... và cấp uỷ các cấp ở Trung ương và địa phương.

Hai là, Học viện có bề dày truyền thống, có môi trường thuận lợi, có kinh

nghiệm trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn. Đội ngũ cán bộ

nghiên cứu, giảng dạy của Học viện không ngừng phát triển cả về số lượng và chất

lượng; vững vàng, kiên định về chính trị, đoàn kết, tâm huyết, say mê với nghề

nghiệp, có trình độ chuyên môn cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao.

4.1.2. Quan điểm đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo cao cấp

lý luận chính trị

Đào tạo LLCT cho cán bộ, đảng viên là sự nghiệp của toàn Đảng; mỗi cán

bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh: học tập suốt đời, học đi đôi

với hành, lý luận gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất, đạo đức,

tư cách người cách mạng.

Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT là vấn đề lớn, cốt lõi, cấp

thiết, từ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách,

điều kiện đảm bảo thực hiện; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà

nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở đào tạo. Trong quá trình đổi mới, cần kế

thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc

những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm

lệch lạc.

Để tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của công tác

đào tạo CCLLCT, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng đội

ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao,

bảo đảm sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi

116

mới; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, thực hiện thắng lợi

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chủ nghĩa xã hội, cần quán triệt

những quan điểm định hướng sau:

Một là, đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo,

quản lý trung, cao cấp là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản

lý phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi với hành,

lý luận gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư cách

người cách mạng.

Hai là, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; bảo đảm tính hệ thống và liên thông

giữa các bậc học lý luận chính trị; nội dung chương trình và phương pháp đào tạo

phù hợp với tiêu chuẩn chức danh cán bộ để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị.

Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận

chính trị phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lượng cán bộ và

gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ. 4.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

Để nâng cao chất lượng nhằm thực hiện được mục tiêu của công tác đào tạo

CCLLCT, cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau:

4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với

công tác đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý

4.2.1.1. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

đối với công tác đào tạo lý luận chính trị Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải

pháp đổi mới công tác đào tạo LLCT nói chung, đào tạo CCLLCT nói riêng, tạo sự

thống nhất về nhận thức trong hệ thống chính trị, hệ thống cơ sở đào tạo và đồng

thuận xã hội. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng

viên để nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác đào tạo CCLLCT.

Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, chú trọng

nhận thức đúng mục tiêu, yêu cầu và tầm quan trọng của công tác đào tạo LLCT

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế,

117

góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo

đức, lối sống, phong cách và kỹ năng công tác của người cán bộ cách mạng, trên cơ

sở đó tiếp tục điều chỉnh nội dung chương trình, phương thức, phương pháp và thời

gian đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng chức danh cán bộ.

Các cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị gắn việc xây dựng quy hoạch cán bộ

với xây dựng kế hoạch đào tạo LLCT cho cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh của

từng giai đoạn; cử, chọn cán bộ đi đào tạo đúng đối tượng, thiết thực, tránh tràn lan,

gây tốn kém lãng phí.

Quán triệt quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị.

Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là bảo

vệ và xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều kiện bảo đảm vai

trò cầm quyền của Đảng trong hệ thống chính trị và đối với toàn xã hội không chỉ ở

việc Đảng được nhân dân tin yêu, tín nhiệm; Đảng định ra được đường lối, chính sách

đúng đắn và thể chế hoá đường lối, chính sách ấy thành luật pháp nhà nước; cũng

không chỉ bằng tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước và toàn xã hội... mà còn là ở chỗ

Đảng nắm chắc đội ngũ cán bộ, công chức, trước hết và quyết định nhất là đội ngũ cán

bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, nắm chắc đảng viên của mình trong hệ thống chính trị.

Không xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tài năng và tuyệt đối trung

thành với Đảng thì Đảng sẽ mất vai trò cầm quyền của mình. Một trong những nguyên

nhân đánh mất vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô mà cho đến nay nhiều

người vẫn còn ngỡ ngàng chính là ở chỗ đa số "đảng viên" của Đảng nắm giữ các chức

vụ trong hệ thống chính trị đã ngả nghiêng, không còn trung thành với đảng nữa. Trong

quá trình lịch sử của mình, nhất là từ khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta luôn coi

cán bộ và công tác cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt ở các cấp là vấn đề sinh mệnh

của Đảng. Pháp lệnh cán bộ công chức nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo

công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, trong đó công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, quản lý là khâu trọng yếu với nội dung quan trọng nhất là đào tạo, bồi

dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Đảng thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo, quản lý nghĩa là Đảng đề ra chủ trương, đường lối, phương hướng, nhiệm vụ,

118

mục tiêu, chính sách... của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở

mỗi giai đoạn nhất định. Cấp uỷ các cấp và các cơ quan tổ chức đảng cùng cấp tổ

chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối chính sách đó với các

khâu trong công việc như đánh giá, quy hoạch cán bộ; xác định mục tiêu cụ thể; tổ

chức tuyển chọn cán bộ đi học (đầu vào), kết quả (đầu ra)... Trong quá trình đó,

Đảng có phân công, phân cấp nhưng không phân quyền, nghĩa là mọi việc liên quan

đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành đều

do cấp uỷ cùng cấp quyết định, ban tổ chức đảng các cấp tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Đảng tập trung, thống nhất hệ thống đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Đào tạo, bồi

dưỡng tập trung nghĩa là cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp huyện trở lên trong hệ

thống chính trị đều phải được đào tạo, bồi dưỡng tập trung ở các cơ sở đào tạo của

Đảng, do Đảng tổ chức, lãnh đạo, quản lý, điều hành. Bởi vì nếu không đào tạo bồi

dưỡng tập trung ờ các cơ sở đào tạo của Đảng thì rất khó thống nhất về ý chí, lập

trường, tư tưởng... với hành động, mà đây lại là yêu cầu cao nhất của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý. Chỉ có đào tạo, bồi dưỡng tập trung ở các cơ sở đào tạo của Đảng

thì yêu cầu trên mới được thực hiện. Tập trung với nghĩa như vậy bao gồm cả học

tập trung và học tại chức, mà học tập trung là chủ yếu. Ngoài ra có thể còn có nhiều

hình thức khác như báo cáo chuyên đề, báo cáo kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn...

Các hình thức này như thế nào do tình hình và yêu cầu cụ thể quyết định...

Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng tập trung ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Đảng

đòi hỏi các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng phải được tổ chức thành một hệ

thống hoàn chỉnh, hợp lý và thống nhất trong cả nước. Trong hệ thống đó có sự phân

công, phân cấp theo thứ bậc, trình độ rõ ràng, không có sư chồng chéo, lẫn lộn về chức

năng nhiệm vụ và quyền hạn; mục tiêu đào tạo; chương trình, giáo trình; văn bằng,

chứng chỉ... phải phù hợp và phán ánh đúng theo sự phân công, phân cấp đó.

4.2.1.2. Nhận thức cụ thể hơn nữa về yêu cầu về phẩm chất, năng lực của

người cán bộ lãnh đạo, quản lý, xứng đáng với vị trí, vai trò của họ trong sự

nghiệp cách mạng hiện nay

Phẩm chất, năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói rõ họ khác với

người cán bộ không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý như thế nào; quy định vị trí và

119

vai trò đặc biệt quan trọng của họ trong hệ thống chính trị, cũng như quy định rõ

trách nhiệm chính trị rất nặng nề của họ trong việc giải quyết những công việc hàng

ngày. Phẩm chất, năng lực ấy chỉ có thể là tổng hợp các tiêu chuẩn về đức và tài mà

ở người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải cao hơn nhiều so với người cán bộ thường.

Những tiêu chuẩn ấy không cố định, bất biến, đúng mãi với mọi thời, mọi lúc mà có

sự biến đổi nhất định do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng ở mỗi thời kỳ đòi hỏi.

4.2.1.3. Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của

Đảng và Nhà nước hiện nay

Đào tạo, bồi dưỡng con người là “sự nghiệp trăm năm” với nhiều quá trình

kế tiếp, xen kẽ nhau, đó là: giáo dục bước đầu (giáo dục phổ thông), đào tạo nghề

nghiệp, kỹ năng chuyên môn (đào tạo nghề nghiệp, cao đẳng, đại học và trên đại

học - gọi tắt là đào tạo cơ bản), đào tạo tiếp tục có tính chất bổ sung, nâng cao thêm

và đào tạo lại (nếu cần). Các quá trình đó phụ thuộc rất lớn vào sự tự giáo dục, tự

đào tạo của mỗi người. Toàn bộ quá trình đó hợp thành quá trình đào tạo nói chung.

Do tính chất đặc thù của quá trình thứ 3 là sự bổ sung, đổi mới kiến thức và kỹ năng

lao động (nhất là lao động trí tuệ) nên gọi chung là bồi dưỡng. Bồi dưỡng là tiếp tục

quá trình đào tạo cơ bản nhằm bổ sung, nâng cao kiến thức và kỹ năng lao động cho

con người. Như vậy ở bồi dưỡng cũng có đào tạo nhưng không quay lại đào tạo cơ

bản mà chỉ bổ sung, nâng cao những kiến thức cần thiết, trong đó có kiến thức về

LLCT. Đào tạo CCLLCT là quá trình đào tạo dành riêng cho một bộ phận cán bộ

lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta cho đến nay hầu hết đã qua đào tạo

cơ bản ở hệ thống đào tạo quốc dân. Vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh

đạo, quản lý về cơ bản ở vị trí, quá trình thứ 3 - quá trình tiếp tục, có vai trò bồi

dưỡng kiến thức và kỹ năng công tác chứ không có vai trò đào tạo cơ bản. Tuy

nhiên “nghề lãnh đạo, quản lý” - nghề chính của đội ngũ cán bộ này, từ trước đến

nay, vẫn chưa được đào tạo “chính quy”. Do đó, đào tạo nghề này với nội dung cơ

bản nhất là đào tạo LLCT trở thành nhiệm vụ chính, vai trò chính - vai trò chủ đạo ở

hệ thống các cơ sở đào tạo của Đảng.

120

Sự ra đời của hệ cử nhân chính trị và các hình thức đào tạo khác như là hệ

quả của nó (như hoàn chỉnh, đổi bằng...) đã chứng tỏ rằng khuynh hướng “đại học

hoá” các cơ sở đào tạo chính trị của Đảng và Nhà nước là “lợi bất cập hại”; là kết

quả của sự lẫn lộn trong nhận thức về vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ lãnh đạo, quản lý những năm trước đây. Yêu cầu khắc phục sự lẫn lộn đó

trong nhận thức để nhận thức cho đúng vị trí và vai trò của công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý với nội dung quan trọng là đào tạo LLCT trong hệ

thống cơ sở đào tạo của Đảng là giải pháp có ý nghĩa quyết định nâng cao chất

lượng và hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ hiện nay và

cũng là giải pháp chủ yếu quán triệt quan điểm đào tạo theo chức danh.

4.2.2. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo cao

cấp lý luận chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, sát hợp với từng đối

tượng, từng loại chức danh cán bộ

Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo trên cơ sở phải bảo đảm tính hệ

thống, tính cơ bản, tính hiện đại và tính thực tiễn; phải thể hiện được những nội

dung cốt lõi, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, sự vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo của Đảng ta vào thực tiễn cách

mạng Việt Nam, những nội dung cơ bản trong đường lối của Đảng, đồng thời bổ

sung những vấn đề lý luận và thực tiễn mới của thời đại. Trong nội dung, chương

trình, cùng với những kiến thức khoa học, cần có những nội dung về bồi dưỡng, rèn

luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên cộng sản; phương

pháp công tác của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chương trình cũng cần dành thời

gian hợp lý cho việc thực hiện các báo cáo thực tế và nghiên cứu thực tế của học

viên. Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cần phải được thực hiện đồng bộ

trong hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh với các yêu cầu cơ bản:

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chương trình các hệ đào tạo CCLLCT theo

hướng thống nhất một chương trình đào tạo CCLLCT trong cả nước, chọn lọc, thiết

thực, sát hợp với từng đối tượng, từng loại chức danh cán bộ và mục tiêu đào tạo;

nâng cao chất lượng, rút ngắn thời gian đào tạo phù hợp, bảo đảm tính kế thừa, liên

thông từ giáo dục quốc dân đến đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý, theo hướng bậc

121

đào tạo càng cao, nội dung càng chuyên sâu; chú trọng hơn về mặt phương pháp

luận, tính định hướng, đổi mới tư duy; tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm hoạt

động thực tiễn và rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, kỹ năng công tác và tác

phong cho học viên.

Để đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng CCLLCT cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý các cấp giai đoạn hiện nay cần nghiên cứu thực hiện một số giải

pháp định hướng cơ bản sau đây:

4.2.2.1. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng nói chung và

chương trình cao cấp lý luận chính trị nói riêng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp phải xuất phát và phục vụ nhu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý trong điều kiện mới

Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta khẳng định:

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến

lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư

duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác

cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện,

tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Nâng cao chất lượng công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp [51].

Quán triệt quan điểm trên của Đảng, trong đổi mới nội dung, chương trình

đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp hiện nay cần

tính toán dựa trên nhu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng ở các cấp, các ngành,

các lĩnh vực, trong đó có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng nhằm phục vụ tốt nhu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo

định hướng XHCN, không thể đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ lãnh

đạo, quản lý một cách chủ quan, tuỳ tiện.

Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cao cấp

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải bám sát nhu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ,

trên cơ sở quán triệt các quan điểm, nguyên tắc, phương châm trong chiến lược cán

bộ của Đảng trong thời kỳ mới gắn với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ

122

lãnh đạo, quản lý. Có như vậy, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

mới đáp ứng được nhu cầu của người học - trang bị cho người học những gì họ cần,

những gì mà cương vị công tác đòi hỏi cần phải có, tạo điều kiện cho cán bộ tiếp tục

phát triển lên cương vị công tác cao hơn.

Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng CCLLCT cho cán bộ là căn cứ để

biên soạn giáo khoa, giáo trình, tài liệu bài giảng, tài liệu học tập, tham khảo của

Học viện và các cơ sở đào tạo cho mỗi cấp học, bậc học. Nội dung, chương trình

đào tạo, bồi dưỡng mà chắp vá, thường xuyên thay đổi, xáo trộn… sẽ làm cho hệ

thống giáo khoa, giáo trình, tài liệu bài giảng cũng chắp vá, trùng lặp, lạc hậu.

4.2.2.2. Đổi mới nội dung chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cần đáp ứng yêu cầu về phẩm chất, năng lực công

tác và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp Đại hội XI của Đảng xác định phải chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh

đạo và quản lý các cấp, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản

lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý

nhà nước” [51, tr.252].

Trong đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng CCLLCT cần quan

tâm thoả đáng yêu cầu về phẩm chất, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ tập trung vào trang bị kiến thức lý luận,

lý thuyết, bồi dưỡng năng lực thực tiễn mà còn bồi dưỡng phẩm chất chính trị,

phẩm chất đạo đức, lối sống, các phẩm chất nhân cách khác cho người cán bộ lãnh

đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực giỏi mà suy thoái về đạo

đức, lối sống thì năng lực đó cũng không có ý nghĩa gì. Không phải đã là cán bộ

lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt các cấp thì không cần bồi dưỡng về phẩm chất

chính trị, đạo đức, lối sống, mà càng những đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý có

cương vị công tác cao lại càng cần bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, tư cách của

người cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng để họ không chỉ là cán bộ giỏi về năng lực

công tác mà còn mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trước cấp dưới

và nhân dân, đó chính là uy tín, là sức quy tụ của người lãnh đạo.

Vì vậy, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo LLCT cần bám sát điều kiện

tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực của các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các

123

cấp để xác định nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với mô hình,

mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng và đặc điểm, trình độ của chính đối tượng đào tạo, bồi

dưỡng. Khắc phục tình trạng chỉ tập trung vào nội dung trang bị kiến thức, bồi dưỡng

kỹ năng công tác, về chuyên môn nghiệp vụ mà xem nhẹ các nội dung lý luận của

chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những nội dung giáo dục, bồi dưỡng

về thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm, lập trường tư tưởng, giáo dục, bồi

dưỡng các phẩm chất nhân cách, tư cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý của

Đảng và Nhà nước, góp phần đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ngăn

chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng bao gồm cán bộ lãnh đạo quản lý

cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp cơ sở. Vì vậy, đổi mới nội dung, chương

trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần tính toán để đáp ứng nhu cầu, yêu

cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở mỗi cấp đồng thời, đáp ứng yêu

cầu và tạo khả năng phát triển của cán bộ lên cấp cao hơn. Để những nội dung đã

được đào tạo, bồi dưỡng không chỉ giúp cho người cán bộ hoàn thành tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao sau khi được đào tạo, bồi dưỡng mà còn có khả năng phát triển,

hoàn thành cương vị, chức trách cao hơn khi được bổ nhiệm theo quy hoạch.

4.2.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần đảm báo tính toàn diện, hiện đại nhưng

có trọng tâm, trọng điểm, bám sát chuyên môn của đội ngũ cán bộ

Đánh giá về công tác giáo dục đào tạo những năm qua, Đảng ta đã chỉ rõ:

Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là

đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển mạnh

sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội… Chương trình, nội dung, phương

pháp dạy và học còn lạc hậu, đổi mới chậm, cơ cấu giáo dục không hợp lý

giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, chất lượng giáo dục toàn diện giảm

sút chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá [51, tr.167-168].

Trên cơ sở đó, trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng đã xác định rõ:

124

Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, phương pháp

thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,

đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách

mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong

công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội [51, tr.216].

Như vậy, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp nói chung và chương trình CCLLCT nói riêng vừa phải đảm bảo tính toàn diện,

hiện đại, vừa phải xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm. Đảng ta xác định

phải “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Thực hiện đồng bộ các giải

pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo” [51, tr.216], cho nên, đổi

mới nội dung, chương trình đào tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp

cần phải đổi mới một cách toàn diện, không đổi mới một cách nửa vời, cầm chừng,

không bảo thủ trì trệ, không đổi mới mang tính hình thức, có tính chất đối phó… mà

đổi mới thực sự, đổi mới một cách cơ bản, toàn diện nhằm tạo ra bước ngoặt có tính

đột phá thúc đẩy công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển. Tuy nhiên, đổi mới không có

nghĩa là thay đổi tất cả, làm lại từ đầu, tất cả đều mới, đổi mới nhưng phải cụ thể,

thiết thực, phải có trọng tâm, trọng điểm, phải có khâu then chốt, giải pháp đột phá có

tính khả thi.

Dựa trên kế hoạch tổng thể đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cần xác định những nội dung trọng tâm, trọng điểm

cần tập trung đổi mới một cách mạnh mẽ, căn bản, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều

hành chặt chẽ, đầu tư thoả đáng về ngân sách và nhân lực, phải xác định những

khâu then chốt trong đổi mới, những giải pháp đột phá để thực hiện cho được nội

dung đổi mới, không thể đổi mới một cách tràn lan. Không đổi mới theo cách học

tập một cách máy móc, giáo điều kinh nghiệm của nước ngoài, cũng như học tập

theo cách chắp vá, nhặt nhạnh, gom góp của mỗi nước một ít đưa về Việt Nam mà

không tính đến đặc điểm riêng của nước ta.

Để xác định được nội dung trọng tâm, trọng điểm trong đổi mới nội dung,

chương trình đào tạo cần căn cứ đường lối, chủ trương, chính sách công tác cán bộ,

công tác giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước, vào mô hình, mục tiêu, yêu cầu

125

đào tạo, bồi dưỡng; thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý của mỗi cấp, ngành; nhu cầu đào tạo bồi dưỡng; đặc điểm nguồn đào tạo bồi

dưỡng; điều kiện nhân lực, cơ sở vật chất đảm bảo… Vì vậy, chủ thể lãnh đạo, quản

lý ở mỗi cấp cần tính đến những yếu tố trên để việc đổi mới nội dung, chương trình

đào tạo, bồi dưỡng mang lại hiệu quả thiết thực, tránh gây lãng phí ngân sách của

nhà nước, tiền bạc của nhân dân như đã từng diễn ra trong những năm qua.

4.2.2.4. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần đảm bảo tính linh hoạt, tạo cơ sở thuận

lợi cho việc bổ sung, hoàn thiện, phát triển

Trên bình diện xã hội, đổi mới là nhu cầu của cuộc sống, là yêu cầu thường

xuyên, không đổi mới đồng nghĩa với bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, thoái bộ. Tuy nhiên,

đổi mới nhưng không để gây ra những mâu thuẫn, ách tắc, không cản trở sự phát

triển. Đối với công tác giáo dục, đào tạo nói chung, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng đòi hỏi việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo

cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa phải đảm bảo tính ổn định, tình toàn diện, đồng thời

đảm bảo tính linh hoạt, tạo cơ sở thuận lợi cho việc bổ sung, hoàn thiện, phát triển

đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ.

Muốn vậy, trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ

lãnh đạo, quản lý, chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, các cơ quan chức năng cần

làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo sự phát triển của tình hình thế giới, khu vực,

tình hình mọi mặt của đất nước, đặc biệt dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ

cán bộ của Đảng nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nói riêng… để chủ

động thực hiện việc “đi trước, đón đầu” trong công tác cán bộ, trong đó có việc đổi

mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Yêu cầu

nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi công tác đào tạo cán bộ của Đảng phải có tầm nhìn xa,

phải xây dựng được chiến lược cán bộ, phải làm tốt khâu quy hoạch, tạo nguồn, đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng tốt sự phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng,

đảm bảo cho đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp

nói riêng phát triển đồng bộ, vững chắc, không rơi vào tình trạng lúc thì ùn tắc, lúc

lại hẫng hụt.

126

Do đó, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cần đảm bảo tính linh hoạt,

tính cơ động cao, khi nhu cầu thực tiễn có sự phát triển có thể nhanh chóng bổ sung,

hoàn thiện, phát triển nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng một cách nhanh

nhất, tiết kiệm và hiệu quả nhất.

4.2.2.5. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, sớm hoàn thành đưa vào thực

hiện nội dung, chương trình đào tạo mới

Để nâng cao toàn diện chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói

chung, trong đó có đào tạo CCLLCT, cần quan tâm hơn tới đào tạo CCLLCT hệ

không tập trung, vì đây là loại hình dễ buông lỏng quản lý trong điều kiện các lớp

học tập trung theo định kỳ, đa số lớp tổ chức ở các địa phương. Đối với các lớp

CCLLCT không tập trung, nội dung, chương trình phải thiết thực, phù hợp với đối

tượng, loại hình đào tạo này; tránh trùng lặp nội dung giữa nhiều môn học khác

nhau; tăng cường đi nghiên cứu thực tế; thường xuyên cập nhật nhật kiến thức mới

trong nước và thế giới.

Cần phân định rõ các loại đối tượng đào tạo để xây dựng nội dung, chương

trình phù hợp, thích ứng với từng loại hình đào tạo và đối tượng đào tạo, tương lai

có thể xây dựng mới 3 loại nội dung, chương trình cho 3 đối tượng cụ thể: Chương

trình CCLLCT dành cho đối tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nguồn;

Chương trình đào tạo chuyên viên; Chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên.

Việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cần quán triệt các quan điểm

định hướng sau: lấy tiêu chuẩn chức danh cán bộ trong từng thời kỳ và nhu cầu thực

tiễn làm căn cứ; nội dung, thời gian đào tạo phải thiết thực, phù hợp với đối tượng

đào tạo.

Nội dung, chương trình cần dành thời gian thích đáng cho việc khảo sát,

nghiên cứu thực tế, giảm bớt thời lượng lý thuyết. Trong quá trình đào tạo cần chú

trọng đến việc hình thành những kỹ năng quản lý, kỹ năng giải quyết các tình huống

trong thực tiễn. Quan tâm hơn hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên.

Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp hiện nay là vấn đề lớn và khó, vì vậy, trên cơ sở tổng kết công tác

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong những năm qua, đánh giá đúng những thành công

127

và hạn chế, đặc biệt những nguyên nhân của những hạn chế và những bài học kinh

nghiệm được rút ra trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp, đồng thời nắm bắt sự vận động, phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng,

nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong điều kiện mới để xác định hệ

thống giải pháp đồng bộ, có tính khả thi nhằm đổi mới nội dung, chương trình đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp mang lại hiệu quả cao, góp phần

xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng vững mạnh, hoàn thành tốt

chức trách, nhiệm vụ trong điều kiện mới.

4.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng nghiên

cứu, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học

làm trung tâm

Một trong những vấn đề rất quan trọng hiện nay là đổi mới phương pháp

giảng dạy trong giáo dục nói chung, đào tạo LLCT nói riêng đã và đang đặt ra đòi

hỏi cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy, khắc phục tình trạng thuyết trình

đơn điệu như hiện nay. Quan điểm lấy người học làm trung tâm đi cùng với phương

pháp giảng dạy tích cực đã xuất hiện từ khá lâu trong giáo dục phổ thông và hiện

nay trở thành một khuynh hướng trong giáo dục, đào tạo nói chung.

Cần phải thấy rằng, trong giảng dạy có thể sử dụng nhiều phương pháp, cả những

phương pháp truyền thống lẫn những phương pháp hiện đại. Một chủ đề, chuyên đề, bài

giảng đều có thể sử dụng một phương pháp và cũng có thể sử dụng nhiều phương pháp

theo lối lồng ghép, kết hợp một cách hợp lý các phương pháp đó. Song, việc lựa chọn

phương pháp nào, các phương pháp nào để kết hợp thì lại tuỳ thuộc không chỉ vào nội

dung chuyên đề cần giảng dạy, mà còn vào đối tượng người học.

Lý luận chính trị là môn khoa học đặc thù, mang tầm khái quát và tính trừu

tượng cao. Do đó, việc giảng dạy môn học này trước đây thường và chủ yếu là sử

dụng phương pháp thuyết trình. Cho đến nay, khi giảng viên đã có sự kết hợp

phương pháp này với một số phương pháp khác, song thuyết trình vẫn chiếm vị trí

chủ đạo trong không ít trường hợp. Thuyết trình là phương pháp giảng dạy truyền

thống theo lối thầy diễn giải, người học nghe và ghi chép. Với phương pháp thuyết

trình, người thầy đóng vai trò như một cuốn sách, một tập giáo trình truyền đạt lại

128

nội dung cần giảng dạy một cách trực tiếp và người học luôn trong tâm thế tiếp thu

một cách thụ động. Ngày nay, với việc sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy mới,

hiện đại, phương pháp thuyết trình đã cho thấy những hạn chế nhất định của nó. Có

thể nói, hạn chế lớn nhất của phương pháp này là cản trở khả năng chủ động, tính

sáng tạo của người học. Ngoài hạn chế làm hao phí nhiều thời gian và sức lực của

người thầy, gây ra sự mệt mỏi, nhàm chán cho người học và làm cho không khí học

tập trở nên nặng nề và do vậy, hiệu quả giảng dạy cần đạt tới chưa thật sự cao.

Song, không phải do những hạn chế đó mà giờ đây, phương pháp thuyết trình đã trở

nên lạc hậu. Với những ưu thế vốn có, nó vẫn là phương pháp không thể loại trừ,

nhất là với việc giảng dạy LLCT.

Trong điều kiện dạy và học ở nước ta hiện nay, việc tìm kiếm một phương

pháp nào đó khả dĩ có thể thay thế được hoàn toàn phương pháp thuyết trình trong

giảng dạy LLCT có là điều chưa thực tế. Tuy nhiên, có những phương pháp mới,

hiện đại cần quan tâm nghiên cứu, ứng dụng trong đổi mới phương pháp đào tạo

LLCT, nhất là đào tạo CCLLCT trên cơ sở lấy người học làm trung tâm.

Quan điểm “Lấy người học làm trung tâm” là quan điểm cho rằng người học

đóng vai trò chủ đạo trong tiến trình học, theo đó, người học phải năng động và hoà

nhập vào quá trình học tập. Họ cần có động cơ học tập bên trong nhiều hơn động cơ

học tập bên ngoài, nghĩa là học vì sự tiến bộ của bản thân hơn là học để đạt điểm

tốt, để có bằng cấp đẹp. Việc học xét ở khía cạnh này mang tính cá nhân hơn là tính

chuẩn mực. Người học không nhất thiết phải đạt được điểm cao, để vượt qua kỳ thi

mà học là để hoàn thiện chính mình. Nguyên lý dạy học này phát triển khả năng học

cách học như giải giải quyết vấn đề, tư duy để chỉ trích và biện luận, tư duy phản

ánh. Nó khác với nguyên lý dạy học lấy giáo viên làm trung tâm ở chỗ nó có thể

đáp ứng nhu cầu từng cá nhân riêng biệt trong lớp học trong khi nguyên lý dạy học

lấy giáo viên làm trung tâm cho rằng quá trình dạy học là một quá trình truyền tải

thông tin từ người dạy đến người học và người dạy là “chuyên gia của tri thức”

trong khi người học chỉ đơn thuần là “người tiếp nhận thụ động”.

Hiện thực hoá quan điểm lấy người học làm trung tâm, đối với việc đổi mới

phương pháp đào tạo CCLLCT, có một số hướng sau:

129

4.2.3.1. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập theo hướng nghiên cứu Phương pháp đào tạo có mối quan hệ biện chứng với nội dung đào tạo. Việc

sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ

môn. Các phương pháp dạy học bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ

môn. Ví dụ: Thí nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của các môn

khoa học tự nhiên như hoá học, vật lý; suy diễn là phương pháp đặc thù của toán học;

trừu tượng, hoá, khái quát hoá là đặc thù của một số môn khoa học xã hội…

Dạy học có mục đích trực tiếp là hình thành ở người học tri thức mới. Muốn

nắm vững những tri thức đó, người học phải nắm được và vận dụng các phương

pháp đích thực của các khoa học như: quan sát và so sánh, phân tích và tổng hợp,

quy nạp và suy diễn, khái quát hoá và cụ thể hoá…. Các phương pháp đó được hình

thành và rèn luyện thông qua các phương pháp cụ thể của các môn học. Dạy học

hình thành tri thức thống qua việc vận dụng các phương pháp của các khoa học như

vậy là phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu.

Đây là một trong những phương pháp cơ bản của quan điểm dạy học lấy

người học làm trung tâm. Phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu dựa trên cơ

sở tâm lý học là nhân cách con người được hình thành thông qua hoạt động có ý

thức của người học. J. Piaget cho rằng trí thông minh của con người mở rộng trường

hoạt động của nó nhờ đối thoại giữa chủ thể hoạt động với đối tượng và môi trường.

I. Kant cũng đã nói “cách tốt nhất để hiểu là làm”. Phương pháp dạy học theo

hướng nghiên cứu có giá trị ở chỗ làm cho người học quen với hoạt động sáng tạo.

Bản chất của phương pháp này là cách thức tổ chức hoạt động, tìm tòi, sáng tạo,

nhằm làm cho người học giải quyết những vấn đề cần thiết về lý luận và thực tiễn.

Biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo.

Trong quá trình tổ chức dạy học theo phương pháp này, vai trò của giáo viên

là xây dựng những vấn đề nhằm yêu cầu người học ứng dụng sáng tạo những kiến

thức cơ bản (quan điểm, khái niệm, phương pháp) để giải quyết vấn đề. Trong qúa

trình làm việc tự lực của người học, giảng viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn,

kiểm tra kết quả và cùng người học đánh giá công việc.

Phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu có thể tổ chức theo hình thức

làm bài tập trên lớp với thời gian thích hợp, hoặc tổ chức làm bài tập ở nhà. Phương

130

pháp dạy học theo hướng nghiên cứu cần thực hiện theo quy trình sau đây: Đặt vấn

đề; tìm các giả thuyết để giải quyết vấn đề; thu thập thông tin (số liệu và dữ kiện

thích hợp); xử lý thông tin và kết luận và khái quát hoá vấn đề.

Trong dạy học theo định hướng nghiên cứu cần nhấn mạnh vai trò của giả

thuyết nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu là một nhận định sơ bộ, một kết luận giả

định về một vấn đề do người học nêu ra để chứng minh hay bác bỏ. Giả thuyết có

vai trò rất quan trọng, là khởi điểm của mọi nghiên cứu, không có khoa học nào mà

không có giả thuyết. Cho nên D.I. Mendeleev đã nói “có một giả thuyết sai còn hơn

là không có giả thuyết nào cả”. Giả thuyết có những thuộc tính: 1) tính giả định (giả

thuyết là nhận định chưa chính xác, có thể sai), 2) tính đa phương án (nhiều câu trả

lời), 3) tính dị biệt (dễ thay đổi). Giả thuyết có các tiêu chí: 1) giả thuyết phải dựa

trên sự quan sát, 2) giả thuyết cần phải kiểm nghiệm và kiểm chứng. Cần tổ chức

cho người học tìm giả thuyết.

Để kiểm định giả thuyết, cần nhấn mạnh vai trò thu thập và xử lý thông tin.

Thu thập và xử lý thông tin thuần thục, chuẩn xác là phản ánh năng lực nghiên cứu

của người học. Ngày nay, với sự phát triển của điện tử - tin học, người học có thể sử

dụng máy vi tính để hỗ trợ trong việc tìm tòi và lựa chọn phương án tối ưu. Muốn

đạt được kết quả thu thập và xử lý thông tin, học viên cần xây dựng danh mục các

tư liệu thông tin khoa học, cần tiếp xúc với các thư viện, các học giả và các cơ quan

nghiên cứu.

Trong thực tế dạy học theo theo hướng nghiên cứu, thông thường giảng viên

căn cứ vào nội dụng tài liệu cần cho học viên nhận thức, nêu ra vấn đề sau đó

hướng dẫn người học đặt giả thuyết và tổ chức tiếp tục các bước tiếp theo để giải

quyết vấn đề. Nhiều người cho rằng đây cũng là phương pháp dạy học nêu vấn đề,

nhưng thật ra giữa phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu và phương pháp

nêu vấn đề có sự khác nhau cơ bản ở chỗ khi giảng viên sử dụng phương pháp

nghiên cứu thì không có giai đoạn tạo tình huống có vấn đề, còn trong phương pháp

dạy học nêu vấn đề thì phải có bước tạo tình huống có vấn đề và phát biểu vấn đề.

Muốn sử dụng có hiệu qủa phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu,

giảng viên cần phải chuẩn bị chu đáo bài dạy và luôn luôn đóng vai trò là người tổ

131

chức, hướng dẫn, cung cấp các dữ kiện, thông tin và các câu hỏi tìm tòi sáng tạo và

bài tập tự nghiên cứu. Học viên cần phải biết cách làm việc độc lập và rèn luyện

năng lực tư duy với việc sử dụng các dữ liệu, thông tin cũng như các phương pháp

nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề nảy sinh. Trong hình thức tổ chức lớp

học cũng cần chú ý để học viên có thời gian tra cứu, tìm tòi tài liệu, giáo trình, sách

tham khảo.

Phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu là một phương thức hiệu quả

nhất gắn lý luận với thực tiễn - một trong những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin và cũng là một phương pháp cơ bản để học tập chủ nghĩa Mác-Lênin.

Phương pháp này phù hợp với đặc điểm của học viên được đào tạo cao cấp lý luận

chính trị, những người là cán bộ lãnh đạo, quản lý, có vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn

phong phú và trình độ lý luận nhất định. Thông qua việc dạy và học theo hướng này,

học viên có cơ hội hiểu sâu hơn những vấn đề lý luận được học cũng như nắm chắc

hơn bản chất những vấn đề của thực tiễn. Ngược lại, giảng viên, qua quá trình chuẩn bị

bài và quá trình tổ chức nghiên cứu cho học viên sẽ có cơ hội bổ sung cho mình những

hiểu biết về thực tiễn đa dạng của công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay.

4.2.3.2. Chủ động và tăng cường sử dụng phương pháp đào tạo theo

phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo

của người học

Phương pháp dạy học tích cực (DHTC) là một thuật ngữ được dùng để chỉ

những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,

sáng tạo của người học. Tích cực trong học tập có nghĩa là hoàn thành một cách chủ

động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng kiến và đầy hào hứng,

những hành động trí óc và tay chân nhằm nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, vận

dụng chúng vào học tập và thực tiễn. Như vậy tích cực là một đức tính quý báu rất

cần thiết cho mọi quá trình nhận thức, là nhân tố quan trọng tạo nên hiệu quả dạy

học. Phương pháp DHTC có những đặc trưng cơ bản là: người học tập trung cao độ

trong học tập, chủ động tìm tòi khám phá nội dung học tập, chủ động giải quyết các

vấn đề phù hợp với khả năng hiểu biết của mình, đề xuất các ý tưởng sáng tạo.

Người dạy linh hoạt, mềm dẻo, luôn tạo cơ hội để người học tham gia và làm chủ

132

hoạt động nhận thức. Người dạy xây dựng được những môi trường có khả năng thúc

đẩy người học tự điều khiển hoạt động học tập, cung cấp những nhiệm vụ học tập

có mức độ phù hợp với từng học viên, tạo điều kiện cho từng học viên được phép

lựa chọn, tự lập kế hoạch, tự đưa ra mục đích hoạt động, tự mình hoặc hợp tác để

thực hiện nhiệm vụ học tập, cuối cùng tự nhận xét đánh giá kết quả học tập của bản

thân. Người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình nhận thức. Phương

pháp dạy học theo hướng tích cực đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa người

dạy và người học. Nếu người dạy muốn đổi mới phương pháp mà học viên không

tích cực tham gia, vẫn quen với lối học tập thụ động thì cũng không thể có được sự

đổi mới. Trái lại, có trường hợp học viên đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng

giảng viên chưa đáp ứng được, thì cũng không thể thực hiện được. Như vậy, việc

dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động". Để

phát huy vai trò của người học trong quá trình học tập, khoa học lý luận dạy học

nêu lên rất nhiều phương pháp. Đối với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý

hiện nay, chúng tôi cho rằng có 4 phương pháp mà người dạy có thể sử dụng được

để phát huy tính tích cực của người học:

Một là, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng dạy học nêu vấn đề.

Dạy học nêu vấn đề là phương pháp giảng dạy dễ áp dụng nhất trong việc

giảng dạy CCLLCT hiện nay. Phương pháp này xuất phát từ luận điểm cho rằng

con người chỉ tích cực tư duy khi ở vào hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh, khi con

người phát hiện các mâu thuẫn của lý thuyết hay thực tế mà tư duy cũ không giải

quyết một cách tốt nhất. Dạy học nêu vấn đề là một thành tựu mới của lý luận dạy

học, đó là bước tiến của khoa học sư phạm từ cổ điển sang hiện đại. Thực chất của

kiểu dạy học này là một chuỗi tình huống có vấn đề và điều khiển hoạt động của

người học nhằm giúp họ độc lập giải quyết các vấn đề học tập. Dạy học nêu vấn đề

là hoạt động có chủ đích của giảng viên bằng cách tạo ra các tình huống có vấn đề,

hướng dẫn người học học tập nhằm giải quyết các vấn đề học tập, tạo điều kiện cho

việc lĩnh hội tri thức mới và hành động mới, hình thành năng lực sáng tạo cho người

học. Vấn đề nêu ra trong học tập và giảng dạy có thể là một câu hỏi, một luận đề

phải chứng minh, lý giải hay bác bỏ. Vấn đề học tập được đặt ra khi giảng bài, toạ

133

đàm, khi người học nghiên cứu tài liệu, giáo trình v.v.. Tất cả đòi hỏi giải quyết một

cách khoa học. Người học cần giải quyết được bài toán phải do chính mình tìm ra,

sáng tạo ra qua một tiến trình tìm hiểu bài toán, đặt vấn đề, tưởng tượng các mối

liên quan, đặt giả thuyết và so sánh, đánh giá các giả thuyết, lựa chọn giả thuyết

thích hợp, rồi tiếp đó dùng các kiến thức đã có cùng với các giả thuyết mới để đề

xuất các lời giải cho bài toán, đánh giá các lời giải cho đến khi tìm được lời giải

thoả đáng, có thể chấp nhận được.

Như vậy, "giải quyết vấn đề" thực tế là một quá trình sáng tạo của người học,

người học phải tự mình vận dụng các năng lực trí tuệ của mình để liên tục tưởng tượng,

tìm kiếm, sáng tạo..., để rồi có được cái cảm giác là tự mình sáng tạo ra cái kiến thức

mà mình cần có, chứ kiến thức không phải là cái mà mình được hưởng sẵn từ đâu đó

một cách thụ động. Vì vậy quá trình dạy học nêu vấn đề phải bảo đảm những yêu cầu

sau: chuẩn bị tâm thế cho chủ thể khi tham gia đào tạo, thiết kế nội dung đào tạo mang

tính có vấn đề, xây dựng câu hỏi, tình huống, bài tập mang tính tương tác cao, kỹ năng

tổ chức cho người học học tập theo nhóm để tăng cường tính tương tác, kỹ năng giao

tiếp, ứng xử của giảng viên trong dạy học, kỹ năng kiểm tra, đánh giá…

Hai là, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng dạy và học theo nhóm hợp tác.

Dạy học theo nhóm nhỏ hay nhóm hợp tác là phương pháp giảng dạy phổ

biến ở nhiều trường đại học trên thế giới. Đối với chúng ta, khái niệm làm việc

nhóm đã được nói đến nhiều nhưng nó vẫn chưa được thực hiện theo đúng nghĩa.

Học tập nhóm là một phương pháp học tập mà theo đó, học viên trong nhóm

trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau trong học tập. Điều đó rất phù hợp trong thời

đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc theo

nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Làm việc theo nhóm có thể tập trung những mặt

mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu. Làm việc

theo nhóm nhỏ trong và ngoài giờ học là một phần bổ sung quan trọng cho các bài

giảng, giúp học viên nắm vững các khái niệm và áp dụng vào các tình huống cần

đến các kỹ năng suy nghĩ, đào sâu vấn đề.

Các nhà nghiên cứu giáo dục cho rằng, cho dù nội dung môn học như thế

nào thì người học làm việc theo từng nhóm nhỏ cũng có khuynh hướng học được

134

nhiều hơn những gì được dạy và nhớ lâu hơn so với các hình thức dạy học khác

[61]. Phương pháp dạy học theo nhóm là cơ hội rất tốt rèn luyện cho người học

khả năng phát biểu trước đám đông, điều mà đa số học viên ngày nay rất yếu.

Không những thế, nó còn rèn luyện người học kỹ năng sống hoà đồng trong tập

thể, biết lắng nghe người khác nói. Đó là tiền đề để xây dựng nên văn hoá lãnh

đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay. Qua sinh hoạt nhóm, tình

đoàn kết sẽ được tăng lên nhờ thông hiểu nhau và cũng qua đó, các thành viên

trong nhóm sẽ biết tuân thủ các qui định, trước hết là của nhóm. Đó cũng là tiền

đề để để rèn luyện và nâng cao tính kỷ luật, tinh thần đấu tranh phê và tự phê của

người lãnh đạo, quản lý.

Ba là, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng tổ chức cho người học

thuyết trình.

Phương pháp tổ chức cho người học thuyết trình hay thảo luận theo nhóm

lớn (Xêmina) là phương pháp giảng dạy và học tập được sử dụng nhiều ở nước trên

thế giới. Ở nước ta gần đây, một số trường đại học và cao đẳng trong nước, một số

môn học các giảng viên dạy các môn LLCT, cũng đã bước đầu thử nghiệm phương

pháp học này và bước đầu mang lại những kết quả tích cực. Đối với đào tạo cán bộ

lãnh đạo quản lý tại hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các

trường chính trị tỉnh, phương pháp thuyết trình đã được áp dụng nhiều trong các

khoá bồi dưỡng, trong các môn học của các chương trình đào tạo thì ít hơn.

Thuyết trình là một kỹ năng quan trọng trong quá trình học tập và rèn luyện.

Nó giúp cho người học thể hiện trước người khác tri thức và năng lực của mình.

Thuyết trình là hình thức học tập mà trong đó người học thảo luận các vấn đề khoa

học hay thực tiễn đã tự tìm hiểu được, dưới sự hướng dẫn của một giảng viên am

hiểu về lĩnh vực đó. Nếu trong diễn giảng, sự hoạt động nhiều ở phía giảng viên thì

trong thuyết trình tính năng động, tích cực của học viên được phát huy cao hơn

nhiều. Muốn thuyết trình được, người học phải nghiên cứu tài liệu một cách khoa

học, biết phân tích phê phán và lựa chọn những ý kiến khác nhau về một vấn đề đặt

ra, biết lập luận để bảo vệ ý kiến của mình trước tập thể, có dịp để suy nghĩ về một

vấn đề dưới nhiều góc độ, làm nảy sinh các thắc mắc, kích thích sự tìm tòi sâu sắc.

135

Vì vậy, người ta xem thuyết trình là phòng “thí nghiệm sáng tạo”, là “vườn ươm”

các nhà khoa học trẻ tuổi.

Bốn là, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng sử dụng phương pháp

thuyết trình kết hợp với giáo án điện tử.

Thuyết trình là một trong những phương pháp giảng dạy chủ yếu trong đào

tạo, bồi dưỡng chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở

nước ta hiện nay. Đặc điểm nổi bật của phương pháp thuyết trình là tính thông báo

trong lời nói của giảng viên, còn học viên thì tiếp nhận thông tin đó một cách thụ

động mà không cần tác động trực tiếp gì đến đối tượng nghiên cứu. Đây chính là một

trong những nguyên nhân làm cho chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của

xã hội, chưa đào tạo ra được những đội ngũ năng động, sáng tạo, chủ động trong công

việc. Theo một kết quả điều tra, việc sử dụng phương pháp thuyết trình có 70% chỉ

chú ý ghi, 10% chú ý nghe, 20% lơ đãng. Như vậy, chất lượng hiệu quả bài giảng

không cao [64].

Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay theo hướng tích cực hoá

hoạt động của người học, cần đổi mới phương pháp thuyết trình với việc kết hợp

nhiều phương pháp khác như: thuyết trình kết hợp với giải quyết vấn đề, thuyết

trình với thảo luận nhóm, thuyết trình kết hợp với giảng dạy theo giáo án điện tử…

Trong đó thuyết trình kết hợp với việc sử dụng giáo án điện tử là một giải pháp. Để

thực hiện phương pháp giảng dạy trên phải thực hiện hai yêu cầu:

Thứ nhất, xây dựng giáo án điện tử bảo đảm tính khoa học và tính sư phạm.

Muốn vậy, khi thiết kế giáo án điện tử phải bảo đảm các yêu cầu về mặt nội dung,

hình thức các trang trình chiếu, màu sắc, cách sử dụng các hiệu ứng, bố cục….

Thứ hai, kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp thuyết trình và sử dụng

giáo án điện tử. Việc xây dựng được giáo án điện tử bảo đảm tính khoa học và tính

sư phạm mới là điều kiện cần, nhưng chưa đủ, điều quan trọng là giảng viên cần

phải biết kết hợp thật nhuần nhuyễn giữa phương pháp giảng dạy thuyết trình với

giáo án điện tử. Điều này đòi hỏi giảng viên phải sử dụng thành thạo máy vi tính và

máy chiếu đồng thời phải nhận thức thấu đáo nội dung bài giảng, có khả năng khái

quát cao, tư duy và phong cách làm việc theo hướng hiện đại, có sự giao tiếp giữa

136

giảng viên và học viên năng động và hiệu quả hơn. Đó là nghệ thuật sư phạm của

người giảng viên và thiết kế các trang trình chiếu.

Như vậy, đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng

LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là một yêu cầu khách quan của thực tiễn vừa là

động lực phát triển, đòi hỏi mỗi người thầy giáo nhận thức sâu sắc được vai trò và

trách nhiệm tích cực tham gia vào quá trình đổi mới, đòi hỏi người học phải thay

đổi vai trò, cách học cho phù hợp. Nó cũng đặt ra cho những nhà quản lý những yêu

cầu mới trong việc trang bị cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học, đánh giá xếp

loại học viên, giảng viên… Đây là nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng là lương tâm của

mỗi chúng ta trước những thử thách to lớn trong công cuộc đổi mới, hội nhập và

phát triển của đất nước.

4.2.4. Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính

trị, gắn học tập lý luận với việc rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, tác

phong của người cán bộ lãnh đạo, quản lý

4.2.4.1. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về đào tạo lý luận chính trị

theo tiêu chuẩn chức danh cán bộ

Cần tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định

về quản lý đào tạo CCLLCT tại các cơ sở đào tạo; quy chế phối hợp giữa địa

phương, đơn vị cử cán bộ đi đào tạo và cơ sở đào tạo; quy chế phối hợp trong công

tác nghiên cứu tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, quản lý và tổ chức thực hiện kế

hoạch đào tạo.

Bổ sung, hoàn thiện quy định tiêu chuẩn về trình độ LLCT theo tiêu chuẩn

chức danh cán bộ, phù hợp với yêu cầu, vị trí công tác của từng loại cán bộ, đảng

viên theo quy định: cán bộ, công chức chưa là đảng viên thì việc học tập lý luận

chính trị thực hiện theo Luật Công chức; đối với học sinh, sinh viên học ở các

trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thì việc học tập lý luận chính trị thực hiện

theo quy định của Đảng và Nhà nước; đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản

lý phải học xong chương trình sơ cấp lý luận chính trị; cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp

cơ sở và tương đương phải học xong chương trình trung cấp lý luận chính trị; cán

bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện và tương đương trở lên phải học xong chương trình

137

cao cấp lý luận chính trị; cán bộ là công chức, viên chức ngạch chuyên viên, chuyên

viên chính và tương đương phải học xong chương trình trung cấp lý luận chính trị;

chuyên viên cao cấp và tương đương phải học xong chương trình cao cấp lý luận

chính trị.

4.2.4.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đào tạo lý luận chính

trị bảo đảm sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước

Điều chỉnh, bổ sung chế độ chính sách, cơ chế đãi ngộ đối với người dạy và

người học, có sự ưu tiên đối với cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác

ở vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các

cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho công tác đào tạo

LLCT. Tôn vinh các nhà giáo giảng dạy LLCT; tạo điều kiện thuận lợi để các bộ

giảng dạy, cán nghiên cứu trẻ phấn đấu rèn luyện sớm trưởng thành.

Có chính sách ưu tiên đào tạo cán bộ ở những vùng trọng điểm, xung yếu và

các cơ quan, đơn vị then chốt trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc

phòng - an ninh, xây dựng Đảng và các đơn vị làm công tác nghiên cứu lý luận,

khoa học và đào tạo, bồi dưỡng LLCT. Trước mắt vẫn đảm bảo nhu cầu đào tạo hệ

tại chức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý lớn tuổi, khó có điều kiện đi học tập

trung, nhưng về lâu dài phải giảm mạnh tỷ lệ học viên CCLLCT hệ tại chức so với

CCLLCT hệ tập trung. Việc xét cử cán bộ đi đào tạo CCLLCT kể cả hệ tại chức,

nhất thiết phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ, đảm bảo tiêu chuẩn, đúng đối tượng

theo quy định.

Quy định thành chế độ yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp làm giảng

viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng tại các cơ sở đào tạo LLCT.

4.2.4.3. Lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý đào tạo thống nhất, đồng bộ hệ

thống cơ quan quản lý đào tạo

Thứ nhất, các cơ quan chức năng, các cơ sở đào tạo cần rà soát lại hệ thống

các văn bản liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm sửa đổi những

quy định không còn phù hợp; tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản

mới về công tác đào tạo LLCT nói chung trong đó có đào tạo CCLLCT. Các cơ

quan liên quan cần tổng kết, đánh giá những kết quả đã đạt được và chưa được về

138

đào tạo CCLLCT trong những năm gần đây để có phương hướng, giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT trong thời gian tới.

Thứ hai, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tăng cường phối hợp giữa các cơ

quan, đơn vị có liên quan trong công tác đào tạo CCLLCT.

Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 của Bộ Chính trị về chế độ học tập

LLCT trong Đảng quy định rõ: Thực hiện đúng quy định về phân công, phân cấp

quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về LLCT trong hệ thống trường lớp của Đảng,

Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và hệ thống giáo dục quốc dân, tránh sự

chồng chéo, lãng phí. Theo tinh thần quy định trên, về tổng thể sự phối hợp giữa các

cơ quan chức năng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT như sau:

Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu, tham mưu về chủ trương, chính sách,

xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, kế

hoạch về đào tạo, bồi dưỡng nói chung và đào tạo CCLLCT đối với đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.

Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, các cơ sở đào tạo và các đơn vị có liên quan kiểm tra định kỳ và đột xuất việc

triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các cơ sở đào tạo LLCT

và các địa phương có mở lớp để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm nâng cao

chất lượng đào tạo LLCT tại chức; hằng năm tiến hành tổng kết đánh giá kết quả

công tác quản lý và chất lượng đào tạo CCLLCT tại chức trong những năm qua và

bàn phương hướng, biện pháp khắc phục những hạn chế, bất cập còn tồn tại nhằm

nâng cao năng lực quản lý và chất lượng đào tạo trong giai đoạn mới.

Rà soát lại chế độ, chính sách hiện hành để bổ sung, sửa đổi những điểm

không phù hợp, đáp ứng kịp thời chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý và học

viên; đội ngũ giảng viên, kể cả giảng viên kiêm chức, báo cáo viên, học viên các

trường, lớp LLCT.

Ban Tuyên Giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương

và các cơ quan tham mưu trong việc hướng dẫn, kiểm tra các cấp uỷ đảng, ban cán

sự đảng, đảng đoàn xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng LLCT trong

Đảng. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thống nhất nội dung

139

chương trình LLCT trong hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng,

Nhà nước, đoàn thể; hướng dẫn việc sử dụng hệ thống văn bằng, chứng chỉ, khắc

phục sự chồng chéo, trùng lặp trong đào tạo, bồi dưỡng LLCT hiện nay.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phối hợp với Ban Tổ chức Trung

ương trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hằng năm; căn cứ kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân bổ và

thông báo chỉ tiêu về số lớp, số học viên cho các cơ sở đào tạo thuộc hệ thống Học

viện và các địa phương đơn vị để tiến hành chiêu sinh mở lớp. Các cơ sở đào tạo

thực hiện nghiêm túc việc phân cấp đào tạo, địa bàn đào tạo cụ thể cho từng học

viện khu vực (I, II, III, IV) trong hệ thống Học viện.

Chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo tổ

chức biên soạn, đổi mới nội dung, chương trình học tập cho các đối tượng được

phân công đào tạo, bồi dưỡng; tổ chức biên soạn giáo khoa, tài liệu tham khảo cho

các chương trình đào tạo, bồi dưỡng LLCT; đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, đồng bộ

công tác đào tạo LLCT, có trọng tâm, trọng điểm về công tác tổ chức lớp học, công

tác quản lý đào tạo, phương pháp đào tạo.... Đảm bảo để công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ bám sát mục tiêu, yêu cầu, định hướng của chiến lược cán bộ, gắn kết

chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ. Coi trọng chất lượng đào tạo. Rút ngắn thời

gian đào tạo một cách hợp lý; có quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên

LLCT trong hệ thống Đảng, tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ

cho đội ngũ giảng viên LLCT các cấp.

Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện một số

biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo CCLLCT.

Để khắc phục hạn chế, phát huy kết quả đạt được, từng bước nâng cao chất

lượng đào tạo CCLLCT (nhất là hệ không tập trung), trong thời gian tới cần tăng

cường sự phối hợp giữa Ban Tổ chức Trung ương với Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương có liên

quan trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Tăng cường vai trò, nâng cao trách nhiệm của cấp uỷ đảng các cấp trong

công tác quy hoạch cán bộ gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và xét cử cán bộ đi

140

học đúng đối tượng, tiêu chuẩn quy định. Đào tạo phải gắn với quy hoạch, đánh giá,

bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Tiếp tục khẳng định tiêu chuẩn đề bạt cán bộ theo Nghị

quyết Trung ương ba (khoá VIII); kiên quyết không đề bạt những đối tượng chưa đủ

tiêu chuẩn.

Để có căn cứ cho cấp uỷ các cấp bố trí, sử dụng cán bộ đúng, đòi hỏi các cơ sở

đào tạo thực hiện chế độ đánh giá chất lượng học tập của học viên nghiêm túc, khách

quan. Các cơ sở đào tạo phối hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, đảng đoàn, ban cán

sự đảng bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành uỷ có liên quan trong quá trình chỉ

đạo, triển khai thực hiện kế hoạch, tổ chức lớp học; phối hợp chặt chẽ trong công tác

quản lý đào tạo hệ CCLLCT tại chức đảm bảo chất lượng, đặc biệt là tăng cường

kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy chế về đào tạo đối với các lớp học.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư sớm ban hành quy chế về quan hệ, phối hợp công

tác nói chung, trong đó có công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giữa Học viện CTQG

Hồ Chí Minh với Ban Tổ chức Trung ương với các ban Đảng Trung ương, đảng đoàn,

ban cán sự đảng bộ, ngành và các tỉnh uỷ, thành uỷ, với mục đích phối hợp vì nhiệm

chung, tránh tình trạng chồng chéo lẫn nhau về chức năng, nhiệm vụ, thiếu hiệu quả.

Thứ ba, đổi mới đồng bộ, toàn diện các khâu của công tác đào tạo CCLLCT

trên cơ sở quán triệt đầy đủ các quan điểm, mục tiêu và tiêu chuẩn cán bộ do các

Nghị quyết Hội nghị Trung ương đề ra.

Tiếp tục thực hiện chủ trương đào tạo CCLLCT, đào tạo không chỉ ở diện

cán bộ lãnh đạo, quản lý, mà còn tăng cường đào tạo những cán bộ chuyên môn

đang ở ngạch chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính và giảng viên chính, kể cả

những người ngoài Đảng nhưng là những người có trình độ năng lực, giữ các cương

vị chủ chốt ở khối kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội….

Chất lượng đào tạo CCLLCT phụ thuộc vào sự phối hợp thực hiện tốt tất cả

các khâu của quá trình đào tạo, không xem nhẹ khâu nào từ xây dựng, ban hành kế

hoạch đào tạo đến triển khai thực hiện theo phân cấp đào tạo, sự phối hợp thực hiện

giữa các đơn vị có liên quan phải đúng chức năng, nhiệm vụ; từ công tác quản lý lớp

học, thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy đến đánh giá

chất lượng đào tạo; việc đánh giá cán bộ và bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo...

141

Đào tạo CCLLCT gắn với việc rèn luyện đạo đức, tác phong công tác là vấn

đề có ý nghĩa quan trọng. Tăng cường công tác quản lý học viên, thực hiện nghiêm

túc Bộ Quy chế đào tạo, theo đó, cùng với đảm bảo quyền lợi của học viên, cần tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát học viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn

luyện theo chương trình, kế hoạch đào tạo của cơ sở đào tạo; cần thực hiện nghiêm túc

quy định về đánh giá rèn luyện học viên trên 3 mặt: 1) Tính chuyên cần trong học tập;

2) Ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu

hiện ở lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống và tác phong trong học tập, rèn luyện,

sinh hoạt; 3) Tinh thần tích cực tự học tập, nghiên cứu, tham gia các hoạt động tập thể

và thực hiện nghiêm túc các quy định chung thể hiện ở thái độ tích cực trong việc tự

học, tự nghiên cứu; tham gia đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao các hoạt động cơ sở

đào tạo phát động và tổ chức; không vi phạm các nội quy, quy chế của cơ sở đào tạo,

chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong việc rèn luyện của học viên, thủ trưởng cơ sở đào tạo và các đơn vị

trực thuộc, nhất là ban tổ chức lớp học (với các lớp không tập trung) có vai trò quan

trọng trong việc triển khai, giám sát và quản lý hoạt động học tập và rèn luyện của

học viên. Mỗi thành viên trong các tổ chức này cần bám sát các lớp CCLLCT, tăng

cường quan hệ, trao đổi với giảng viên nhằm nắm vững chất lượng học tập, thái độ

học tập của học viên; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế học tập của học viên

và thực hiện quy chế giảng dạy của giảng viên để cuối môn học, cuối khoá học có

cơ sở đánh giá chất lượng học tập, rèn luyện của học viên, đồng thời có căn cứ để

đánh giá nhận xét trình độ, năng lực của đội ngũ giảng viên.

Đánh giá kết quả, chất lượng học tập của học viên phải nghiêm túc, thực

chất. Thực hiện tốt các chính sách đối với học viên; có biểu dương, khen thưởng kịp

thời những học viên có thành tích học tập, rèn luyện và nghiên cứu khoa học tốt.

Thực hiện phương thức, phương pháp đào tạo lấy chất lượng, hiệu quả làm

mục tiêu chính. Từng bước giảm đào tạo CCLLCT hệ không tập trung so với hệ tập

trung (tăng cường đào tạo CCLLCT hệ tập trung cho cán bộ trẻ). Rút ngắn thời gian

đào tạo CCLLCT, giảm số lượng học viên cho một lớp phù hợp với việc áp dụng

phương pháp giảng dạy học tập hiện đại.

142

Đổi mới phương pháp dạy và học theo Quyết định số 80, Quyết định 435,

Quyết định 685 của Giám đốc Học viện về công tác quản lý và đổi mới nội dung,

phương pháp giảng dạy, cùng với đổi mới nội dung chương trình, cần quan tâm đổi

mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực, hiện đại, sử dụng những phương

pháp đào tạo thích hợp đối với từng đối tượng, lấy người học làm trung tâm, hướng

vào rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo của học viên, phát huy cao độ tính chủ động,

tích cực, khả năng độc lập suy nghĩ, sáng tạo của người học; đòi hỏi sự tham gia tối

đa của học viên vào quá trình học, tìm tòi tích luỹ kiến thức từ khâu tham gia thể

hiện kiến thức của mình tới khâu đánh giá kết quả; giảng viên giảng dạy theo

phương pháp nêu vấn đề, tăng thời gian thảo luận, đối thoại, hướng dẫn xử lý tình

huống, trang bị kỹ năng, thực hành công việc; biến quá trình đào tạo, bồi dưỡng

thành quá trình tự đào tạo như dành thời gian thoả đáng cho tự học, tự nghiên cứu

rồi trao đổi, thảo luận theo từng nhóm phù hợp với chuyên ngành, đến trao đổi, thảo

luận theo lớp, khối, v.v. để xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý trong thực tiễn.

Song song với đó là phải đa dạng hoá các loại hình và phương thức đào tạo trên cơ

sở xây dựng được một hệ thống thống nhất các hệ đào tạo. Tích cực sử dụng các

thiết bị, phương tiện tiên tiến, hiện đại vào công tác giảng dạy như các nước tiên

tiến trong khu vực và trên thế giới đã thực hiện.

Thứ tư, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ

giảng dạy và học tập.

Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công

nghệ thông tin; cơ sở đào tạo có đủ điều kiện, cơ chế phục vụ, có quyền quản lý mọi

nguồn kinh phí đào tạo; tăng cường đầu tư xây dựng, trang bị cơ sở vật chất, điều

kiện, phương tiện giảng dạy, nghiên cứu, học tập sinh hoạt và kinh phí mở lớp.

Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí minh để

tương xứng với một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng LLCT và nghiên cứu khoa học lý

luận hàng đầu của quốc gia và có tầm ảnh hưởng, uy tín lớn; tiếp tục đầu tư nâng cấp

các phòng học đa năng, bổ sung tư liệu học tập, máy vi tính, đèn chiếu... cho hệ thống

cơ sở đào tạo LLCT để có thể vận dụng phương pháp giảng dạy mới có hiệu quả.

Từ nay đến năm 2020, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cần được

ưu tiên đầu tư, từng bước hiện đại hoá trang thiết bị để trở thành một trung tâm đào

143

tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu lớn của đất nước và khu vực. Đối với các học viện

khu vực cần được tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và kinh phí đáp ứng nhu cầu đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ của các khu vực, tỉnh, thành phố. Quan tâm đến những địa

phương còn khó khăn, nhất là những nơi chưa có hội trường bảo đảm hoặc trang

thiết bị còn thiếu, lạc hậu...

4.2.5. Đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

của hệ thống cơ sở đào tạo cao cấp lý luận chính trị

4.2.5.1. Hoàn thiện hệ thống cơ sở đào tạo lý luận chính trị, xây dựng chức

năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ sở đào tạo phù hợp với tình hình mới

Trước mắt ổn định hệ thống cơ sở đào tạo LLCT như hiện nay. Hệ thống

trường Đảng ở Trung ương có Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các học

viện chính trị khu vực; ở cấp tỉnh, thành phố có trường chính trị; cấp huyện có trung

tâm bồi dưỡng chính trị; trường của các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương có khoa

(tổ) giảng dạy LLCT. Việc cấp bằng xác nhận trình độ LLCT do hệ thống các

trường Đảng cấp (Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các học viện chính trị

khu vực cấp đến bằng CCLLCT; trường chính trị cấp tỉnh cấp đến bằng trung cấp

LLCT; trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện cấp bằng sơ cấp LLCT).

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phải giữ vững bản chất một trường

Đảng, thông qua việc xác định mục tiêu, yêu cầu, nội dung, đối tượng, phương pháp

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp

của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung cao cấp và nghiên cứu khoa học

LLCT của Đảng. Bộ Chính trị phân công một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư

Trung ương Đảng làm Giám đốc. Cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm

vụ, tổ chức bộ máy của Học viện phù hợp với tình hình mới, theo hướng bộ máy

tinh gọn, hiệu quả, nhiệm vụ rõ ràng, không chồng chéo; bảo đảm nâng cao chất

lượng hoạt động.

Xây dựng đội ngũ giảng viên đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng,

giỏi chuyên môn, giàu kiến thức, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, phong cách giảng

dạy, quản lý tiên tiến, có đạo đức nghề nghiệp và tâm huyết với sự nghiệp đào tạo;

144

tăng cường đội ngũ giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý và

chuyên gia trong nước, có kế hoạch mời các chuyên gia nước ngoài tham gia báo cáo,

giảng dạy một số chuyên đề phù hợp với chương trình học tập.

Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ khoa học, giảng viên, đảm bảo ít nhất 50% là

giảng viên kiêm chức, kiêm nhiệm, thỉnh giảng, gồm những cán bộ lãnh đạo quản lý

cao cấp các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp; các chuyên gia, nhà

khoa học có uy tín trong nước và nước ngoài.

Đẩy mạnh công tác kiểm tra, đôn đốc, công tác khảo sát, đánh giá việc giảng

dạy, nghiên cứu học tập LLCT để có hướng giải quyết kịp thời đối với những giảng

viên không bảo đảm yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.

4.2.5.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đội ngũ cán bộ nghiên

cứu tham mưu công tác đào tạo lý luận chính trị

Kết luận số 94 - KL/TW ngày 28 tháng 3 năm 2014 của Ban Bí thư về việc

tiếp tục đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân đặc biệt quan

tâm đến đào tạo đội ngũ giảng viên, Kết luận chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ việc đào

tạo, bồi dưỡng giáo viên LLCT, bảo đảm sát hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu tiếp

tục đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân. Xây dựng cho

được đội ngũ giáo viên LLCT tâm huyết, yêu nghề, tuyệt đối trung thành, có niềm

tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn. Đây là nhân tố quyết định sự thành công của

việc tiếp tục đổi mới học tập LLCT trong nhà trường”. Để xây dựng được đội ngũ

giảng viên LLCT đáp ứng yêu cầu giảng dạy trong giai đoạn mới, cần thực hiện tốt

các nhiệm vụ sau:

Một là, cần quan tâm đến công tác tuyển dụng giảng viên.

Do tính đặc thù của công tác giảng dạy LLCT, việc tuyển dụng giảng viên cũng

cần có những tiêu chuẩn khắt khe hơn. Nghề giáo là nghề đặc thù, giảng dạy LLCT lại

là nghề đặc thù trong đặc thù đó. Chúng ta không thể đòi hỏi tuyển được giảng viên

giảng dạy LLCT có khả năng nói giỏi, viết giỏi - bởi những người hội đủ các tiêu chí

này là rất hiếm. Tuy nhiên, không thể không quan tâm đến những kỹ năng này của

người giảng viên LLCT. Do đó, trong tuyển dụng không chỉ xét hồ sơ mà cần có hội

đồng đánh giá bài giảng của thí sinh. Ngoài ra, cần phải cho một chủ đề để thí sinh tự

145

luận nhằm xem xét khả năng tư duy lôgíc, suy luận và khả năng nghiên cứu khoa học

của ứng viên.

Trong những năm vừa qua, chúng ta vẫn thực hiện việc tuyển dụng giảng

viên theo kiểu tốt nghiệp chuyên ngành nào thì sẽ được tuyển dụng đưa về giảng

dạy bộ môn đó. Đây là việc làm phù hợp. Tuy nhiên, để đào tạo đội ngũ giảng viên

LLCT “dài hơi” cần phải thay đổi cách thức tuyển dụng, đào tạo. Các Học viện có

thể lựa chọn những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi các trường, kể cả sinh viên tốt

nghiệp khối ngành khoa học kỹ thuật, miễn là có đam mê giảng dạy và nghiên cứu

LLCT. Sau khi tuyển dụng sẽ đưa đi đào tạo văn bằng 2 về chuyên môn LLCT và

đào tạo ngoại ngữ. Các bước đào tạo lên cao tiếp theo sẽ dần tính tiếp, nhưng trước

hết phải thực hiện tốt các khâu đầu vào và bồi dưỡng kiến thức.

Hai là, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội

ngũ giảng viên, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

Các cơ sở đào tạo cần xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy, tạo điều kiện cho

giảng viên đi đào tạo sau đại học, dự các lớp tập huấn về nghiệp vụ, phương pháp

giảng dạy.

Thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức kinh điển, kiến thức thực tiễn,

tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế

cho đội ngũ giảng viên LLCT. Thế giới thay đổi từng ngày, mỗi sự kiện, hiện tượng

trong thế giới ngày nay cũng luôn thay đổi một cách chóng mặt. Người giảng viên

LLCT không thể nằm ngoài những sự kiện chính trị sôi động đó. Có những vấn đề,

những nội dung có thể hôm nay đúng, ngày mai sai, ngày mốt lại có thể đúng.

Trong thế giới phẳng như hiện nay, khi mà các luồng thông tin trái ngược nhau tràn

ngập trên internet, thì việc cung cấp, cập nhật kiến thức kịp thời cho đội ngũ giảng

viên LLCT là hết sức cần thiết.

Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên, cán bộ

quản lý đào tạo về tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Tổ chức

cho giảng viên LLCT tham gia các lớp bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm, về phương

pháp dạy học tích cực. Có thể phối hợp với các cơ sở giáo dục có uy tín thực hiện

146

nhiệm vụ này. Việc bồi dưỡng không chỉ chú trọng những nội dung chuyên môn mà

cần chú trọng kỹ năng sư phạm, tâm lý, bồi dưỡng cách thức sử dụng các phương tiện

hiện đại trong giảng dạy LLCT. Quán triệt quan điểm lấy người học làm trung tâm,

giảng viên phải làm tốt vai trò là người giới thiệu, hướng dẫn, gợi mở các vấn đề,

phương pháp luận để học viên độc lập, sáng tạo nghiên cứu, đưa ra cách giải quyết các

vấn đề của mình; thay đổi thói quen của học viên từ thụ động nghe giảng sang chủ

động tích cực chiếm lĩnh tri thức bài giảng. Giảng viên thiết kế các chuyên đề theo

hướng giảm thời gian thuyết trình trên lớp, tăng thời gian trao đổi, thảo luận.

Nên tổ chức thông qua bài giảng cho các giảng viên trước khi thực hành

giảng bài trên lớp (chủ yếu lần đầu); tiến hành thăm dò chất lượng bài giảng của

giảng viên qua phiếu tín nhiệm của học viên....

Có kế hoạch thường xuyên tổ chức cho giảng viên đi nghiên cứu thực tế; đưa

cán bộ giảng dạy đi công tác thực tế theo định kỳ ở các địa phương, ngành nhằm

giúp đội ngũ cán bộ giảng dạy vừa có năng lực tư duy giảng dạy, nghiên cứu lý

luận, vừa có kiến thức, am hiểu thực tiễn, kết hợp tốt lý luận và thực tiễn trong

giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

Đẩy mạnh quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy trẻ, đào tạo ở trong nước

và đào tạo ở nước ngoài, tạo điều kiện để cán bộ trẻ sớm khẳng định vị trí và sự đóng

góp của mình trong hệ thống Học viện và các trường chính trị tỉnh, thành phố.

Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của giảng viên.

Cần phải có những hội thảo chuyên đề thường xuyên để thông tin cho đội

ngũ giảng viên LLCT những thành quả nghiên cứu, những phát hiện, bổ sung mới

trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học chính trị, về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh; thường xuyên cập nhật, thông tin tình hình phong trào cộng sản, công

nhân quốc tế, phong trào cánh tả trên thế giới, đặc biệt chú ý thông tin về những

trào lưu chính trị mới, khác lạ của thế giới, những công trình nghiên cứu trong nước

và thế giới có ảnh hưởng - cả tích cực và tiêu cực đến công tác giảng dạy và nghiên

cứu LLCT; ký kết quy chế phối hợp với các địa phương để hàng năm đều có kế

hoạch đưa giảng viên đi nghiên cứu thực tế. Có thể ký kết quy chế phối hợp để đưa

giảng viên đi thực tế cơ sở dài ngày nhưng vẫn gắn với quá trình giảng dạy.

147

Bốn là, có chính sách sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ.

Bên cạnh việc tận dụng các cán bộ đương chức đã có, nên có kế hoạch mở

rộng đội ngũ cán bộ kiêm chức (đương chức hoặc đã về hưu, nhưng còn sức khoẻ và

có trình độ đáp ứng nhu cầu); đặc biệt chú trọng mời những cán bộ lãnh đạo, quản lý

ở các bộ, ban, ngành, địa phương vừa có kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn, vừa có trình

độ lý luận, có khả năng sư phạm tham gia giảng dạy.

Để xây dựng được đội ngũ giảng viên LLCT đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn

hiện nay là rất khó khăn. Tuy nhiên, hy vọng rằng, bằng quyết tâm và trách nhiệm,

nhất định chúng ta sẽ đào tạo được đội ngũ giảng viên LLCT có số lượng, cơ cấu và

chất lượng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục hiện nay.

Chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tạo nên bởi

nhiều yếu tố, nhưng trước hết và quan trọng nhất là chất lượng của đội ngũ cán bộ

giảng dạy, nghiên cứu, cán bộ quản lý. Trong thực tế vẫn còn tâm lý coi nhẹ công tác

quản lý và cán bộ quản lý lớp, do đó vẫn còn tình trạng buông lỏng công tác quản lý

các lớp tại chức như công tác kiểm tra về chấp hành nội quy, quy chế học tập, thời

gian lên lớp, việc theo dõi, trao đổi, kiểm tra chất lượng nội dung, chương trình học

và chất lượng giảng dạy của giảng viên…

Tiểu kết chương 4

Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ

đủ năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ của công tác đào tạo,

trong đó có đào tạo CCLLCT có vị trí ngày càng quan trọng và luôn nhận được sự

qua tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính

trị, Ban Bí thư, của Chính phủ, các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương.

Diễn biến của tình hình thế giới và trong nước đặt ra nhiều vấn đề mới đòi

hỏi công tác giáo dục LLCT nói chung, đào tạo CCLLCT nói riêng phải có sự

chuyển biến mạnh mẽ hơn theo hương phải bám sát và phục vụ thắng lợi mục tiêu,

yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ, gắn kết chặt chẽ với công tác đánh giá,

quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sử dụng, và chính sách cán bộ, đổi mới nội dung

chương trình phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, có trọng tâm, trọng

148

điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, phù hợp với tiêu chuẩn chức danh cán bộ, bậc đào

tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay của Đảng.

Để thực hiện được mục tiêu của công tác đào tạo CCLLCT, cần thực hiện

đồng bộ hệ thống các giải pháp, tập trung vào các giải pháp sau:

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác

đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

- Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo cao cấp lý luận

chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, sát hợp với từng đối tượng, từng loại chức

danh cán bộ.

- Đổi mới phương pháp đào tạo cao cấp lý luận chính trị trên cơ sở lấy người

học làm trung tâm, giảng dạy và học tập theo hướng nghiên cứu, phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo của người học.

- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị, gắn

đào tạo với việc rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, tác phong của người cán bộ

lãnh đạo, quản lý.

- Đổi mới tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của hệ

thống cơ sở đào tạo cao cấp lý luận chính trị.

Thực hiện các giải pháp trên sẽ góp phần từng bước nâng cao chất lượng đào

tạo CCLLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp

cách mạng của Đảng hiện nay.

149

KẾT LUẬN

1. Trong công tác cán bộ, Đảng ta luôn coi trọng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

Văn kiện của các Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức là một trong những nội dung trọng yếu, luôn luôn là mối

quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý, đội ngũ công chức giỏi, gương mẫu về đạo đức, có trí tuệ và năng

lực hoạt động thực tiễn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức đáp ứng yêu cầu thực

hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước, Bộ Chính trị (khoá XI) đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014

của về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý” nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo CCLLCT cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý thời kỳ mới.

2. Chất lượng đào tạo cao cấp lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là

tổng hợp những tình hình thực hiện nội dung, hình thức đào tạo; kết quả học tập cán bộ

lãnh đạo, quản lý trong quá trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị, nhằm đạt được mục

tiêu đề ra, góp phần xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất chính trị, đạo

đức và năng lực, phong cách làm việc hiệu quả đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHXN.

Tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo CCLLCT là: (1) Sự phù hợp của kết quả

đào tạo CCLLCT với mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng; (2) Sự

tương thích của nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo với mục tiêu, yêu

cầu và đối tượng đào tạo; (3) Khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy cao cấp lý luận

chính trị của đội ngũ giảng viên Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các

học viện chính trị khu vực; (4) Chất lượng công tác quản lý đào tạo; (5) Mức độ bảo

đảm chất lượng đầu vào trong việc xét cử và chiêu sinh học cao cấp lý luận chính trị

và (6) Mức độ bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy, học tập.

3. Trong những năm vừa qua, công tác đào tạo CCLLCT cũng đã đạt được

nhiều kết quả đáng được ghi nhận, đã có bước phát triển cả về số lượng và chất

150

lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp; góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, quản lý

của đội ngũ cán bộ ở các cấp từ cơ sở đến Trung ương, đã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

một cách cơ bản và tương đối hệ thống những tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và các khoa học chính trị, hành chính.

4. Để thực hiện được mục tiêu của công tác đào tạo CCLLCT, cần thực hiện

đồng bộ hệ thống các giải pháp liên quan đến nhận thức, đổi mới chương trình, nội

dung đào tạo, đổi mới phương pháp đào tạo, đổi mới công tác quản lý đào tạo và đổi

mới tổ chức bộ máy và cán bộ hệ thống cơ sở đào tạo cao cấp lý luận chính trị trên cơ

sở quan điểm lấy người học làm trung tâm của quá trình đào tạo, đó là: (1) Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác đào tạo lý luận chính

trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; (2) Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội

dung đào tạo cao cấp lý luận chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, sát hợp với

từng đối tượng, từng loại chức danh cán bộ; (3) Đổi mới phương pháp giảng dạy và

học tập theo hướng nghiên cứu, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của

người học, lấy người học làm trung tâm; (4) Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý đào

tạo cao cấp lý luận chính trị, gắn học tập lý luận với việc rèn luyện tư tưởng chính

trị, đạo đức, tác phong của người cán bộ lãnh đạo, quản lý; (5) Đổi mới tổ chức bộ

máy và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của hệ thống cơ sở đào tạo cao cấp

lý luận chính trị.

Đây là công việc còn nhiều khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực lớn không chỉ của Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh mà cần có sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí

thư, của các ban đảng có liên quan và cả các cấp uỷ các bộ, ngành Trung ương và địa

phương trên cả nước./.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Khắc Dịu (2013), “Mấy vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng,

(5), tr.49-55.

2. Nguyễn Khắc Dịu (2013), “Một số suy nghĩ về đào tạo, bồi dưỡng lý luận

chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp

chí Giáo dục lý luận, (197), tr.57-60.

3. Nguyễn Khắc Dịu (2013), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

các doanh nghiệp nhà nước”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), tr.19-23.

4. Nguyễn Khắc Dịu (2013), “Về công tác bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý”,

Tạp chí Xây dựng Đảng, (8), tr.41-43.

5. Nguyễn Khắc Dịu (2015), “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.15-17.

6. Nguyễn Khắc Dịu (2016), “Bồi dưỡng dự nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp

cao”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (3), tr.7-9.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán

bộ, đảng viên ở cơ sở của trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

3. Vũ Ngọc Am (2011), “Hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị”, Tạp chí Tuyên giáo, (11).

4. Hoàng Anh (2006), Giáo dục lý luận Mác - Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

5. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung, chương trình các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Lương Gia Ban (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận”, Tạp chí Triết học, (1).

7. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Báo cáo Tổng kết 5 năm (2006-2010) công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý (bao gồm cả đề án 165), Hà Nội.

8. Ban Tổ chức Trung ương (2015), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước, Hà Nội.

9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tình hình giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng và chủ trương, giải pháp cho thời gian tới, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.

10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Rà soát và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung một số nội dung giáo dục đạo đức công dân, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường ở từng cấp học, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ban, Hà Nội.

153

11. Nguyễn Trọng Bảo (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán

bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

12. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

13. Lê Bình (2004), “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính

trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).

14. Lê Bình (2009), “Vấn đề năng lực tư duy khoa học của cán bộ chủ chốt cấp

huyện các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý

luận, (9), tr.34-38.

15. Nguyễn Đức Bình (2004), “Về đánh giá cán bộ lãnh đạo”, Tạp chí Cộng sản, (11).

16. Bộ Chính trị (1999), Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12/5/1999 về chế độ học tập

lý luận chính trị trong Đảng, Hà Nội.

17. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 11-NQ/TW về luân chuyển cán bộ lãnh đạo

và quản lý, Hà Nội.

18. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42-NQ/TW về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản

lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.

19. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30/7/2005 về đổi mới,

nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

20. Bộ Chính trị (2007), Quyết định số 60-QĐ/TW, ngày 07-5-2007 về hợp nhất

Học viện Chính trị Hành chính quốc gia, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

21. Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 57-KL/TW, ngày 08 tháng 3 năm 2013 về tiếp

tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ

lãnh đạo, quản lý các cấp, Hà Nội.

22. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 về tiếp tục đổi

mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán

bộ lãnh đạo, quản lý, Hà Nội.

154

23. Bộ Chính trị (2015), Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25-4-2015 về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở các cơ quan đảng, nhà nước, Hà Nội.

24. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Đổi mới giảng dạy, học tập môn Triết học Mác - Lênin trong các trường đại học toàn quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.

25. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội.

27. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Bộ Nội vụ (2008), Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Hà Nội.

29. Bộ Nội vụ (2014), Bộ chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (theo Công văn số 5424/BNV-ĐT, ngày 27/10/2014), Hà Nội.

30. Bu Phết Xu Ly Vông Xác (1994), Nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

31. Nguyễn Danh Châu (2009), Đào tạo và sử dụng công chức ở một số nước trên thế giới, Tổng hợp báo cáo của một số đoàn nghiên cứu nước ngoài, Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội.

32. Nguyễn Việt Chiến (2002), Đổi mới phương thức đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

33. Nguyễn Quốc Chí (2012), Đại cương Khoa học quản lý, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

34. Chính phủ (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07-9-2006 về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Hà Nội.

155

35. Chính phủ (2008), Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11-01-2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07-9-2006, Hà Nội.

36. Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.

37. Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012, phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020, Hà Nội.

38. Hoàng Đình Cúc (2008), Đào tạo giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Báo chí - Tuyên truyền, Hà Nội.

39. Phạm Hùng Cường (2013), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Nguyễn Khắc Dịu (2016), “Bồi dưỡng dự nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (3).

41. Phạm Tất Dong (1996), Đổi mới quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học Mác - Lênin - Kiến nghị và giải pháp, Đề tài cấp Nhà nước, Ban Khoa giáo Trung ương, Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Thùy Dung (2015), Phương hướng đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội.

43. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 3 (khoá VII), Nghị quyết TW 3 và Nghị quyết TW 7 (khoá VIII) về công tác tổ chức cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, Hà Nội.

53. Trần Thị Anh Đào (2009), Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp B, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.

54. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ làm công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Nguyễn Phương Đông (2015), Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị-nội dung căn cốt trong Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội.

58. Nguyễn Hữu Đổng (2002), Học tập phương pháp tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Giang, Phạm Tất Thắng (2012), Các lý thuyết tổ chức hiện đại và việc vận dụng vào công tác tổ chức xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

60. Nguyễn Văn Giang (2015), Một số ý kiến về đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.

157

61. Lê Tấn Huỳnh Cẩm Giang (2009), “Những rào cản của đổi mới phương pháp dạy học ở đại học”, tại trang www.ier.edu.vn, [truy cập ngày 4/8/2015].

62. Vũ Hiền, Đinh Xuân Lý (2002), Quán triệt vận dụng nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Trịnh Thị Hoa (2008), “Đổi mới phương pháp giảng dạy Lý luận chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (21).

65. Vũ Thị Hoa (2006), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đổi mới phương pháp giảng dạy Lý luận chính trị tại học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”, Tạp chí giáo dục Lý luận, (11).

66. Trần Đình Hoan (2004), "Mấy ý kiến về công tác tổ chức, cán bộ hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.6-12.

67. Trần Đình Hoan (2008), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Trần Đình Hoan (2009), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.

69. Nguyễn Tiến Hoàng (2009), “Vài nét về thực trạng và giải pháp tiếp tục tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu lý luận chính trị”, Tạp chí Tuyên giáo, (9).

70. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Quy chế chủ nhiệm lớp Hệ đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành theo Quyết định số 1774/QĐ-HVCTQG ngày 12 tháng 7 năm 2007 của Giám đốc Học viện), Hà Nội.

71. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Vấn đề đổi mới công tác giảng dạy và học tập lý luận chính trị hiện nay, Thông tin chuyên đề, Hà Nội,

72. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Báo cáo số 54/BC-HVCT-HCQG, ngày 5-9-2013 tổng kết việc thực hiện Nghị quyết

158

số 52-NQ/TW, ngày 30-7-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) và phương hướng, giải pháp phát triển Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới, Hà Nội.

73. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất

lượng đào tạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Ban hành kèm theo

Quyết định số 565/QĐ-HVCTQG ngày 30 tháng 01 năm 2015), Hà Nội.

74. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Quy chế Đào tạo Cao cấp lý

luận chính trị (Ban hành kèm theo Quyết định số 3842/QĐ-HVCTQG

ngày 17 tháng 9 năm 2015), Hà Nội.

75. Nguyễn Công Hưng (2010), “Để thực hiện tốt chương trình đổi mới giáo dục lý

luận Mác - Lênin ở trường Đại học và cao đẳng”, Tạp chí Tuyên giáo, (6).

76. Nguyễn Tuấn Khanh (2015), “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

cho cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3).

77. Nguyễn Thành Khải (2009), “Đổi mới Phương pháp giảng dạy ở Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính

trị, (9).

78. Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận

chính trị, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Lê Xuân Nam và cộng sự (2002), Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng

dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở đại học và cao đẳng, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

85. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo và Bùi Đình Bôn (2008), Đổi mới quan hệ

giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống

chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2007), Hồ Chí Minh với công tác giáo dục lý

luận chính trị, Hà Nội.

159

87. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (2004), Phương pháp dạy - học, kiểm tra

đánh giá các môn khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

88. Hoàng Phê (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

89. Nguyễn Đăng Quang (2007), Dạy và học các môn tư tưởng Hồ Chí Minh theo

phương pháp tích cực, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Đào Duy Quát (2006), “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu quả công

tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới”, Tạp chí Tư tưởng văn

hoá, (6).

91. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ,

công chức, Hà Nội.

92. Tô Huy Rứa (1994), Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý

luận chính trị các trường đại học cao đẳng, Đề tài khoa học cấp nhà

nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

93. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của

Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ

chốt trong hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

95. Nguyễn Văn Sơn (2002), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Văn Tài (2002), Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ

nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Mạch Quang Thắng (2008), “Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận

chính trị theo quan điểm của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tuyên giáo, (11).

98. Ngô Ngọc Thắng (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo

dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị nước ta giai

đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

99. Ngô Ngọc Thắng (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào

giáo dục lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp

Bộ, Hà Nội.

160

100. Phạm Tất Thắng (2010), Công tác tư tưởng lý luận trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Ngô Văn Thạo (2008), Phương pháp giảng dạy lý luận chính trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho giảng viên giảng dạy các chương trình lý luận chính trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện), Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.

102. Hồ Bá Thâm (2003), Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Lâm Quang Thiệp (2012), Đo lường và đánh giá hoạt động học tập trong nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

104. Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

105. Lê Minh Thông (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng trong Văn kiện Đại hội X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Lê Minh Thông, Nguyễn Tài Đức (2008), Cơ sở khoa học của công tác tổ chức trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Lê Minh Thông, Nguyễn Danh Châu (2009), Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Bùi Thị Nguyệt Thu (2013), Giải pháp đổi mới công tác quản lý đào tạo theo hướng hiện đại, hiệu quả tại Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực II, Đề tài nghiên cứu khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.

109. Nguyễn Tiến Thủ (2003), Quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

110. Nguyễn Phú Trọng (2005), Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển bách khoa tiếng Việt, Hà Nội.

161

113. Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Ban Triết học (2002), Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở các trường Đại học, Cao đẳng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

114. Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho bí thư, phó bí thư cấp ủy cấp huyện”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5).

115. Trần Minh Tuấn (2011), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, Hà Nội.

116. Hoàng Tụy (2005), Người thầy trong nhà trường hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 117. Triệu Lý Văn (2009), Lý luận và thực tiễn công tác giáo dục cán bộ của Đảng

Cộng sản Trung Quốc, Tài liệu học tập phục vụ lớp nghiên cứu của cán bộ cấp Cục, Vụ Đảng và Nhà nước Việt Nam, Bắc Kinh.

118. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 119. Lê Kim Việt (2015), Gắn kết cơ quan sử dụng cán bộ với cơ sở đào tạo cán bộ

nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.

120. Hồng Vinh, Đào Duy Quát (2006), Hồ Chí Minh với Công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

121. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Báo chí - Tuyên truyền, Hà Nội.

122. Nguyễn Hữu Vui (2002), Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin ở Việt Nam- Những vấn đề chung, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

123. Xinh Khăm Phôm Ma Xay (2003), Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

162

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

CÁC VĂN BẢN CHỈ ĐẠO VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ

1. Quy định số 54-QĐ/TW, ngày 12/5/1999 về chế độ học tập lý luận chính

trị trong Đảng; Nghị quyết 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2. Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 09/11/2004 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

3. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30/7/2005 về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ban hành kèm theo Quyết định 149-QĐ/TW, ngày 02/8/2005 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

4. Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg, ngày 15/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010.

5. Quyết định số 184-QĐ/TW, ngày 03/9/2008 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quyết định số 185, ngày 03/9/2008 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là trung tâm bồi dưỡng cấp huyện) và Nghị định số 129/2008/NĐ-CP, ngày 17/12/2008 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

6. Quy định số 256-QĐ/TW, ngày 16/9/2009 của Ban Bí thư về việc xác định trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên đã học lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo ngoài hệ thống trường chính trị của Đảng, hoặc đã học đại học chính trị chuyên ngành và sau đại học ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

7. Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức.

163

8. Quy định số 79-QĐ/TW, ngày 10/4/2012 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Tổ chức Trung ương.

9. Quy định số 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

10. Kết luận số 57-KL/TW, ngày 08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

11. Quy định số 224-QĐ/TW, ngày 06/01/2014 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

12. Nghị định số 48/2014/NĐ-CP, ngày 19/5/2014 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

13. Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

164

Phụ lục 2

CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN CỦA CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG 1. Công văn số 947 - CV/TCTW ngày 24/1/2002 về việc tăng cường quản lý,

nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị; 2. Hướng dẫn số 09-HD/TTVH, ngày 17/3/2004 của Ban Tư tưởng - Văn hoá

Trung ương về việc thực hiện Quy định 54; 3. Quy định liên ban số 12-QĐ/TC-TTVH, ngày 09/1/2004 của Ban Tổ chức

Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương quy định việc xác định trình độ lý luận chính trị;

4. Tờ trình số 381 TTr/BTCTW, ngày 29/9/2004 quy định chế độ trợ cấp đối với cán bộ đi học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh ban hành kèm theo Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW, ngày 30/3/2005 của Ban Bí thư về thực hiện trợ cấp đối với học viên đi học tại các trường chính trị...;

5. Thông báo số 1115-TB/BTCTW-HVCTQGHCM, ngày 15/7/2005 Về điều chỉnh tiêu chuẩn xét tuyển vào học cao cấp lý luận chính trị tại chức;

6. Thông báo số 1235-TB/BTCTW, ngày 21/02/2006 Về mở lớp đào tạo cao cấp lý luận chính trị (đợt 1 năm 2006) quy định bổ sung tiêu chuẩn, đối tượng học cao cấp lý luận chính tri;

7. Công văn số 1611-CV/BTCTW, ngày 29/3/2007 Về một số vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;

8. Công văn số 3645-CV/BTCTW, ngày 02 tháng 4 năm 2008 Về một số vấn đề trọng tâm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;

9. Công văn số 6177-CV/BTCTW, ngày 13/7/2009 về độ tuổi đi học cao cấp lý luận chính trị - hành chính;

10. Quy chế phối hợp công tác giữa Ban Tổ chức Trung ương và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương (Ban hành kèm theo quyết định số 272-QĐ/TW, ngày 11/11/2009 của Ban Bí thư).

11. Công văn số 4741-CV/BTCTW, ngày 20/5/2013 của Ban Tổ chức Trung ương V/v một số vấn đề về đào tạo cao cấp lý luận chính trị-hành chính.

12. Công văn số 5763-CV/BTCTW, ngày 07/11/2013 của Ban Tổ chức Trung ương V/v hướng dẫn một số nội dung về đào tạo cao cấp lý luận chính trị-hành chính.

Nguồn: Tác giả tổng hợp.

165

Phụ lục 3 THỐNG KẾ ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

(tính đến tháng 9/2015)

Đơn vị tính: người

Cán bộ, công chức Trình độ giảng viên Số TT

Cơ sở

đào tạo Tổng số

Giảng viên GS PGS TS ThS

Đại học

1 Học viện CTQG Hồ Chí Minh

284 + thỉnh giảng nhiều

07 96 81 69 30

2 Học viện CTKV 1

356 169 + thỉnh giảng 30

0 17 50 127 9

3 Học viện CTKV 2

243 118+ thỉnh giảng 50

0 1 29 55 22

4 Học viện CTKV 3

95 0 12 38 48 04

5 Học viện CTKV 4

101 34+ thỉnh giảng

0 2 17 27 0

Tổng cộng 699 7 128 215 326 65

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

166

Phụ lục 4 THỐNG KÊ SỐ LỚP VÀ SỐ LƯỢNG HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CAO CẤP

LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

(Từ năm 2011 - 2016)

Đơn vị tính: học viên

Năm Số lớp Tập trung Không tập trung

Trung tâm Học viện

Học viện khu vực

2011 149 65 84 3,500 9,240

2012 148 65 83 3,600 9,130

2013 144 65 79 2,600 8,690

2014 151 62 89 3,058 8,010

2015 159 69 90 3,455 8,100

2016 159 71 88 3,164 7,920

Cộng 910 397 513 19,377 42,990

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

167

Phụ lục 5a THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN TRUNG TÂM

(Khóa học 2014 - 2015) STT Lớp Sĩ số Xuất sắc % Giỏi % Khá %

1 A126 36 0 0.00 35 97.22 1 2.78 2 A127 37 0 0.00 35 94.59 2 5.41 3 A128 36 2 5.56 33 91.67 1 2.78 4 A129 37 1 2.70 33 89.19 3 8.11 5 A130 38 2 5.26 33 86.84 3 7.89 6 A131 37 2 5.41 34 91.89 1 2.70 7 A132 37 1 2.70 34 91.89 2 5.41 8 A133 33 3 9.09 30 90.91 0 0.00 9 A134 36 1 2.78 34 94.44 1 2.78 10 A135 35 0 0.00 33 94.29 2 5.71 11 A136 36 1 2.78 34 94.44 1 2.78 12 A137 37 3 8.11 32 86.49 2 5.41 13 A138 36 0 0.00 33 91.67 3 8.33 14 A139 35 4 11.43 29 82.86 2 5.71 15 A140 37 3 8.11 33 89.19 1 2.70

Cộng 543 23 4.24 495 91.16 25 4.60

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

168

Phụ lục 5b

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN TRUNG TÂM

(Khóa 2013 - 2014)

Lớp Cuối khóa Viết LV Thi Tốt nghiệp Xuất sắc % Giỏi % Khá % A115 37 9 28 37 0 0.00 3 8.11 25 67.57

A116 33 7 26 33 0 0.00 16 48.48 9 27.27

A117 37 9 28 37 0 0.00 13 35.14 5 40.54

A118 37 8 29 37 0 0.00 13 35.14 16 43.24

A119 37 8 29 37 0 0.00 11 29.73 18 48.65

A120 35 11 24 35 1 2.86 15 42.86 9 25.71

A121 38 9 29 38 0 0.00 13 34.21 16 42.11

A122 37 8 29 37 0 0.00 12 32.43 16 43.24

A123 37 8 29 37 0 0.00 8 21.62 21 56.76

A124 36 7 29 36 0 0.00 13 36.11 16 44.44

A125 40 9 31 40 0 0.00 16 40.00 16 40.00

Cộng 404 93 311 404 1 0.25 133 32.92 177 43.81

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

169

Phụ lục 5c THỐNG KÊ TỐT NGHIỆP CÁC LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN TRUNG TÂM (Khóa 2012 - 2013)

STT Lớp Đầu khóa

Cuối khóa

Đủ ĐK thi

Thi viết

Luận văn Xs % Giỏi % Khá % TB

khá %

1 A101 38 38 38 30 8 0 0.00 16 42.11 21 55.26 1 2.63 2 A102 36 36 36 29 7 1 2.78 12 33.33 23 63.89 0 0.00 3 A103 38 38 38 29 9 2 5.26 10 26.32 24 63.16 2 5.26 4 A104 37 37 37 29 8 0 0.00 13 35.14 23 62.16 1 2.70 5 A105 33 33 33 26 7 2 6.06 9 27.27 22 66.67 0 0.00 6 A106 37 37 37 29 8 0 0.00 16 43.24 21 56.76 0 0.00 7 A107 37 37 37 29 8 1 2.70 9 24.32 26 70.27 1 2.70 8 A108 38 37 37 30 7 0 0.00 11 29.73 26 70.27 0 0.00 9 A109 35 35 35 28 7 1 2.86 15 42.86 19 54.29 0 0.00 10 A110 38 37 37 30 7 1 2.70 6 16.22 27 72.97 3 8.11 11 A111 36 36 36 28 8 0 0.00 9 25.00 27 75.00 0 0.00 12 A112 40 40 40 32 8 3 7.50 17 42.50 20 50.00 0 0.00 13 A113 45 44 44 35 9 2 4.55 11 25.00 31 70.45 0 0.00 14 A114 50 50 50 43 7 0 0.00 9 18.00 40 80.00 1 2.00

Cộng 538 535 535 427 108 13 2.43 163 30.47 350 65.42 9 1.68

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

170

Phụ lục 6a THỐNG KÊ SỐ LỚP VÀ SỐ LƯỢNG HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ

LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III (Từ năm 2011 - 2016)

Trong đó Số lượng đào tạo

trong năm Tập trung Không tập trung Năm

Số lớp số học viên Số lớp số học viên Số lớp số học

viên

2011 25 2129 13 624 12 1505

2012 26 2084 13 569 13 1515

2013 27 2100 13 584 14 1516

2014 23 1566 11 490 12 1076

2015 27 1805 13 573 14 1232

2016 26 1780 12 520 14 1260

Cộng 154 11464 75 3360 79 8104

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

171

Phụ lục 6b THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III (Khóa 2014 - 2015)

STT Lớp Sĩ số Xuất sắc % Giỏi % Khá %

1 41A 45 0 0% 14 31.11% 31 68.89%

2 41B 45 0 0% 21 46.67% 24 53.33%

3 41C 43 0 0% 17 39.53% 26 60.47%

4 41D 43 0 0% 19 44.19% 24 55.81%

5 41E 44 0 0% 18 40.91% 26 59.09%

6 41G 44 0 0% 13 29.55% 31 70.45%

7 42A 44 0 0% 27 61.36% 17 38.64%

8 42B 44 0 0% 19 43.18% 25 56.82%

9 42C 42 0 0% 16 38.10% 26 61.90%

10 42D 43 0 0% 17 39.53% 26 60.47%

11 42E 44 0 0% 14 31.82% 30 68.18%

12 42G 43 0 0% 18 41.86% 25 58.14%

13 42H 45 0 0% 27 60.00% 18 40.00%

Cộng 569 0 0% 240 42.18% 329 57.82%

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

172

Phụ lục 6c THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III (Khóa 2013 -2014)

STT Lớp Cuối khóa Viết LV Thi Tốt nghiệp Giỏi % Khá % TB Khá %

1 38A 46 7 39 46 7 15.22% 35 76.09% 4 8.70% 2 38B 45 5 40 45 5 11.11% 36 80.00% 4 8.89% 3 38C 46 4 42 46 4 8.70% 39 84.78% 3 6.52% 4 38D 46 6 40 46 5 10.87% 41 89.13% 0 0.00% 5 38E 44 8 36 44 8 18.18% 32 72.73% 4 9.09% 6 38G 45 7 38 45 4 8.89% 39 86.67% 2 4.44% 7 39A 44 10 34 44 7 15.91% 36 81.82% 1 2.27% 8 39B 45 8 37 45 6 13.33% 37 82.22% 2 4.44% 9 39C 46 5 41 46 4 8.70% 40 86.96% 2 4.35%

10 39D 46 3 43 46 3 6.52% 39 84.78% 4 8.70% 11 39E 45 4 41 45 4 8.89% 38 84.44% 3 6.67% 12 39G 44 8 36 44 3 6.82% 39 88.64% 2 4.55%

Cộng 542 75 467 542 60 11.07% 451 83.21% 31 5.72%

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

173

Phụ lục 6d THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III (Khóa 2012 -2013)

STT Lớp Đầu khóa

Cuối khóa Viết LV Thi Tốt

nghiệp Giỏi % Khá % TB Khá %

1 36A 42 42 9 33 42 10 23.81% 29 69.05% 3 7.14%

2 36B 44 44 5 39 44 5 11.36% 38 86.36% 1 2.27%

3 36C 42 42 6 36 42 6 14.29% 34 80.95% 2 4.76%

4 36D 42 42 7 35 42 7 16.67% 33 78.57% 2 4.76%

5 36E 41 41 7 34 41 7 17.07% 34 82.93% 0 0.00%

6 36G 43 43 3 40 43 3 6.98% 38 88.37% 2 4.65%

7 36H 43 43 2 41 43 2 4.65% 40 93.02% 1 2.33%

8 37A 45 45 7 38 45 7 15.56% 30 66.67% 8 17.78%

9 37B 44 44 4 40 44 4 9.09% 38 86.36% 2 4.55%

10 37C 45 45 5 40 45 5 11.11% 39 86.67% 1 2.22%

11 37D 45 45 4 41 45 5 11.11% 39 86.67% 1 2.22%

12 37E 43 43 4 39 43 5 11.63% 38 88.37% 0 0.00%

Cộng 519 519 519 66 12.72% 430 82.85% 23 4.43%

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

174

Phụ lục 7a THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV (Khóa học 2011 - 2012)

CÁC LỚP KHÔNG TẬP TRUNG

STT Lớp Đầu khoa

Cuối khóa

Đủ ĐK thi

Luận văn Thi XS % Giỏi % Khá % TB

khá %

1 B14HG 119 119 119 3 116 0 0.00 03 2,52 73 61,35 39 32.8

2 B15ST 114 110 110 0 110 0 0.00 0 0.00 89 80,19 22 19.8

3 B16CT 122 120 120 2 118 0 0.00 02 1,66 96 80,01 22 18.3

4 B17CM 112 109 109 0 109 0 0.00 0 0.00 83 76,16 22 20.2

5 B18VL 109 105 105 2 103 0 0.00 02 1,90 83 79,06 18 17.1

Cộng 576 563 563 7 556 0 0.00 7 1.30 424 75.31 123 21.8

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

175

Phụ lục 7b THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV (Khóa học 2011 - 2012)

CÁC LỚP TẬP TRUNG

STT Lớp Đầu khoa

Cuối khóa

Đủ ĐK thi

Luận văn Thi XS % Giỏi % Khá % TB

khá %

6 A17BL 49 49 49 2 47 0 0.00 02 4,08 40 81,63 7 14.3

7 A18KG 50 50 50 2 48 0 0.00 02 4,0 38 76,0 10 20

8 A19ĐT 50 50 50 2 48 0 0.00 02 4,0 36 72,0 10 20

9 A20ST 50 50 50 4 46 0 0.00 04 8,0 40 80,0 6 12

10 A21TG 55 55 55 2 53 0 0.00 02 3,63 42 76,36 11 20

11 A22CT 59 57 57 2 55 0 0.00 02 3,51 53 92,98 2 3.50

Cộng 313 311 311 14 297 0 0.00 14 4.50 249 80.06 46 14.8

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

176

Phụ lục 7c

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV

(Khóa học 2012 - 2013)

CÁC LỚP KHÔNG TẬP TRUNG

STT Lớp Đầu khoa

Cuối khóa

Đủ ĐK thi

LV Thi XS % Giỏi % Khá % TB Khá %

1 B19ĐT 119 118 118 4 114 0 0.00 4 3,38 94 79,66 20 16.94

2 B20CM 110 110 110 0 110 0 0.00 0 0.00 75 68,18 35 38.81

3 B21VL 110 107 107 2 105 0 0.00 2 1,86 93 86,91 12 11.21

4 B22CT 117 114 114 5 109 0 0.00 5 4,38 88 77,19 21 18.42

Cộng 456 449 449 11 438 0 0.00 11 2.45 350 77.95 88 19.59

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

177

Phụ lục 7d

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG

MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV (Khóa học 2012 - 2013)

CÁC LỚP TẬP TRUNG

STT Lớp Đầu khoa

Cuối khóa

Đủ ĐK thi

LV Thi XS % Giỏi % Khá % TB Khá %

1 A23CT 55 55 55 5 50 0 0.00 5 9,09 49 89,09 1 1.81

2 A24BT 52 52 52 3 49 0 0.00 3 5,76 44 84,61 5 9.61

3 A25KG 50 49 49 5 44 0 0.00 5 10,2 43 85,72 1 2.04

4 A26TV 55 55 55 4 51 0 0.00 4 7,27 44 80,01 7 12.72

5 A27VL 56 55 55 7 48 0 0.00 7 12,5 45 80,3 3 5.45

Cộng 268 266 266 24 242 0 0.00 24 9.02 225 84.58 17 6.39

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

178

Phụ lục 7e

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV

(Khóa học 2013 - 2014)

CÁC LỚP KHÔNG TẬP TRUNG

STT Lớp Cuối khóa Viết LV Thi TN Xuất sắc % Giỏi % Khá %

1 B23CT 110 10 100 110 0 0.00 10 9.09 88 80

2 B24VL 110 8 102 110 0 0.00 8 7.27 85 77.27

3 B25TV 109 3 106 109 0 0.00 3 2.75 94 86.23

4 B26ST 107 6 101 107 0 0.00 6 5.60 86 80.37

Cộng 436 27 409 436 0 0.00 27 6.19 353 80.96

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

179

Phụ lục 7g

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC VIỆN KHU VỰC IV

(Khóa học 2013 - 2014)

CÁC LỚP TẬP TRUNG

STT Lớp Cuối khóa Viết LV Thi TN Xuất sắc % Giỏi % Khá %

1 A28CT 50 2 48 50 0 0.00 2 4.0 44 88

2 A29ST 30 4 26 30 0 0.00 4 13.33 26 86.66

3 A30BL 30 4 26 30 0 0.00 4 13.33 26 86.66

4 A31CM 51 5 46 51 0 0.00 5 9.80 46 90.19

5 A32KG 52 5 47 52 0 0.00 5 9.61 47 90.38

Cộng 213 20 193 213 0 0.00 20 9.39 189 88.73

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

180

Phụ lục 7h

THỐNG KÊ CÁC LỚP TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỆ TẬP TRUNG, KHÔNG TẬP TRUNG MỞ TẠI HỌC KHU VỰC IV

(Khóa học 2014 - 2015)

CÁC LỚP TẬP TRUNG

STT Lớp Sĩ số Xuất sắc % Giỏi % Khá %

1 A33AG 45 0 0.00 31 68.9 14 31.1

2 A34PQ 50 0 0.00 45 90 5 10

3 A35KG 50 0 0.00 37 74 13 26

4 A36BL 40 0 0.00 24 60 16 40

5 A37CT 61 0 0.00 31 50.8 30 49.2

6 A38CM 45 0 0.00 26 57.8 19 42.2

Cộng 291 0 0.00 194 66.7 97 33.3

Nguồn: Ban Tổ chức Trung ương [10].

181

Phụ lục 8

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌCVỀ ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1. Bảng hỏi điều tra xã hội học.

Thưa đồng chí! Ban Tổ chức Trung ương triển khai xây dựng Dự thảo Nghị quyết của Bộ

Chính trị về “Đổi mới công tác đào tạo lý luận chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”.

Để có thêm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu xây dựng Nghị quyết, Tổ biên tập tiến hành điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi đối với một số vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu.

Trân trọng đề nghị đồng chí dành thời gian nghiên cứu và trả lời các câu hỏi đặt ra dưới đây bằng cách đánh dấu x vào ô tương ứng với ý kiến của cá nhân đồng chí. Ý kiến trả lời của đồng chí trực tiếp phục vụ cho việc nghiên cứu xây dựng Nghị quyết.

Chân thành cảm ơn đồng chí. ---------------------------------------------------------------------------------------

Câu 1: Đồng chí vui lòng cho biết các thông tin sau đây:

- Giới tính: Nam Nữ Năm sinh - Trình độ học vấn: Phổ thông Đại học, CĐ Trên ĐH - Lĩnh vực chuyên môn được đào tạo: Xã hội Tự nhiên Kỹ thuật - Trình độ lý luận chính trị hiện nay: Sơ cấp Trung cấp Cao cấp - Đảng viên: Có Tuổi đảng - Lĩnh vực công tác chính hiện nay: Đảng Chính quyền Đoàn thể - Cơ quan đang công tác thuộc : Cấp tỉnh Cấp huyện Cấp xã - Hệ số phụ cấp chức vụ (nếu có):

Câu 2: Trong quá trình công tác, đồng chí đã được tham gia các chương trình

(khóa) đào tạo, bồi dưỡng nào?

1) Lý luận chính trị sơ cấp 2) Lý luận chính trị trung cấp 3) Lý luận chính trị cao cấp

182

4) Quản lý nhà nước trung cấp 5) Quản lý nhà nước cao cấp 6) Các khóa bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

Câu 3: Đồng chí hãy đánh giá mức độ tác dụng của chương trình đào tạo, bồi dưỡng mà đồng chí tham gia đối với việc nâng cao trình độ và năng lực công tác của bản thân.

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng Rất tốt Tốt Bình

thường Ít tác dụng

Không t.dụng

1 Đào tạo lý luận chính trị 2 Quản lý nhà nước 3 Bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ

Câu 4: Đồng chí hãy xếp loại thứ tự ưu tiên cho các mục đích của việc tham gia

vào chương trình đào tạo lý luận chính trị (cao cấp và trung cấp).

Mục đích Ưu tiên 1

Ưu tiên 2

Ưu tiên 3

1 Để đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định đối với các chức vụ, các ngạch cán bộ, công chức

2 Để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho bản thân 3 Để có thêm các văn bằng, chứng chỉ có thể sử dụng khi

cần thiết

4 Những lý do khác Câu 5: Đồng chí hãy cho biết ý kiến của mình về một số nội dung của công

tác đào tạo lý luận chính trị hiện nay.

Công tác đào tạo trung cấp Hợp lý

Tương đối hợp lý

Không hợp lý

Lạc hậu

1. Nội dung chương trình lý luận chính trị 2. Phương pháp đào tạo lý luận chính trị 3. Thời gian đào tạo lý luận chính trị

Công tác đào tạo cao cấp Hợp lý

Tương đối hợp lý

Không hợp lý

Lạc hậu

1. Nội dung chương trình lý luận chính trị 2. Phương pháp đào tạo lý luận chính trị 3. Thời gian đào tạo lý luận chính trị

183

Câu 6: Đồng chí đánh giá thế nào về hiệu quả của đào tạo lý luận chính trị đối với công việc của mình sau khi tốt nghiệp.

Đánh giá hiệu quả Cao cấp

Trung cấp

1. Kiến thức, trình độ lý luận chính trị được nâng cao rõ rệt 2. Kỹ năng làm việc được hoàn thiện và nâng cao 3. Hiệu xuất công tác tốt hơn trước khi đi học 4. Ít có hiệu quả và tác dụng nâng cao năng lực, trình độ của

cá nhân trong thực tiễn

5. Không có tác dụng thiết thực đối với cá nhân trong công tác chuyên môn

6. Ý kiến khác Câu 7: Nếu công tác đào tạo lý luận chính trị chưa thật sự đáp ứng yêu cầu

nâng cao trình độ lý luận chính trị và năng lực công tác của cán bộ trong tình huống mới, theo đồng chí do nguyên nhân nào dưới đây:

Các nguyên nhân Cao cấp Trung cấp 7. Chương trình đào tạo không phù hợp (ôm đồm,

chồng chéo, trùng lặp và lạc hậu)

8. Chương trình quá nặng về lý luận chung, ít tính thiết thực và chưa chú trọng đến đào tạo kỹ năng công tác

9. Phương pháp giảng dạy không phù hợp 10. Chất lượng đội ngũ giảng viên còn nhiều hạn chế 11. Thời gian đào tạo quá dài 12. Phương tiện kỹ thuật phục vụ đào tạo, học tập lạc hậu 13. Ý kiến khác

Câu 8: Để đổi mới nội dung chương trình lý luận chính trị, đồng chí lựa chọn phương án nào trong các phương án sau đây:

Các phương án Cao cấp Trung cấp 1. Giữ nguyên cơ cấu nội dung như hiện nay, nhưng nâng

cấp, hoàn thiện

2. Giữ nguyên các môn học như hiện nay, nhưng rút gọn và thời lượng các môn học để giảm thời gian học tập

3. Rút gọn nội dung chương trình đào tạo theo hướng loại bỏ các môn đã được học trong các trường đại học, cao đẳng, tập trung chủ yếu vào lý luận chính trị

184

Câu 9: Đồng chí đánh giá thế nào về thời gian đào tạo lý luận chính trị cao

cấp hiện nay

Hệ đào tạo Hợp lý Không hợp lý 1. Đào tạo hệ tại chức (24 tháng) 2. Đào tạo hệ tập trung (10 tháng)

Câu 10: Nếu cần rút ngắn thời gian đào tạo lý luận chính trị cao cấp, trên cơ

sở đổi mới nội dung chương trình đào tạo, đồng chí sẽ lựa chọn phương án nào?

Thời gian học (tháng) 24 18 12 9 6 4 1 Đối với hệ tại chức 2 Đối với hệ tập trung

Câu 11: Đồng chí đã tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nào trong 5

năm công tác gần đây?

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng Đã tham gia 1. Lý luận chính trị 2. Quản lý nhà nước 3. Công tác xây dựng Đảng 4. Chuyên môn nghiệp vụ 5. Kiến thức an ninh - quốc phòng 6. Các khóa bồi dưỡng khác

Câu 12: Đồng chí đánh giá thế nào về tính thiết thực và hiệu quả của các khóa

bồi dưỡng mà đồng chí đã tham gia trong 5 năm qua?

Các khóa đào tạo, bồi dưỡng Rất tốt Tốt Bình thường

Ít hiệu quả

Không hiệu quả

1. Lý luận chính trị 2. Quản lý nhà nước 3. Công tác xây dựng Đảng 4. Chuyên môn, nghiệp vụ 5. Kiến thức an ninh - quốc phòng 6. Các khóa bồi dưỡng khác

185

Câu 13: Theo đồng chí những nguyên nhân nào đang hạn chế chất lượng hiệu quả của công tác bồi dưỡng cán bộ? (Xếp theo thứ tự mức độ quan trọng của nguyên nhân)

Nguyên nhân 1 2 3 4 5

1. Nội dung vẫn nặng về lý thuyết 2. Nội dung không sát với nhu cầu người học 3. Nhà trường bồi dưỡng những gì mình có, chưa bồi

dưỡng những gì học viên cần

4. Học viên ít có cơ hội tự lựa chọn khóa bồi dưỡng theo nhu cầu

5. Phương pháp bồi dưỡng không hiện đại 6. Những lý do khác

Câu 14: Đồng chí hãy xếp loại mức độ của các giải pháp đổi mới công tác bồi

dưỡng cán bộ, công chức.

Giải pháp Rất cần Cần Bình

thường Chưa cần

1. Đa dạng hóa các loại hình bồi dưỡng để cán bộ tự lựa chọn

2. Nội dung bồi dưỡng đổi mới theo hướng bổ sung kiến thức mới

3. Hướng trọng tâm, bồi dưỡng vào xử lý tình huống mới và kỹ năng mới

4. Huy động các trường đại học tham gia công tác bồi dưỡng cán bộ theo chuyên ngành

5. Huy động cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước tham gia công tác bồi dưỡng cán bộ

6. Rút ngắn thời gian các khóa bồi dưỡng Câu 15: Theo đồng chí có cần thiết phải đào tạo cán bộ theo chức danh quy

hoạch trước khi được bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp

Chức danh quy hoạch Cần thiết

Không cần thiết

1. Bí thư Đảng ủy cấp xã 2. Chủ tịch UBND cấp xã 3. Bí thư Huyện ủy 4. Chủ tịch UBND huyện 5. Bí thư Tỉnh ủy 6. Chủ tịch UBND tỉnh

186

2. Kết quả điều tra. Câu 2-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 1319 78.9 78.9 78.9 Đã học 353 21.1 21.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 2-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 874 52.3 52.3 52.3 Đã học 798 47.7 47.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 2-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 717 42.9 42.9 42.9 Đã học 955 57.1 57.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Bỏ Tr. cấp

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Hợp lệ Học TC 234 14.0 14.0 14.0 Bỏ TC 721 43.1 43.1 57.1 Chưa CC 564 33.7 33.7 90.8 Chưa CC & TC 153 9.2 9.2 100.0 Total 1672 100.0 100.0

Câu 2-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 1118 66.9 66.9 66.9 Đã học 554 33.1 33.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 2-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 1566 93.7 93.7 93.7 Đã học 106 6.3 6.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

187

Câu 2-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa học 392 23.4 23.4 23.4 Đã học 1280 76.6 76.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 3-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Rất tốt 540 32.3 32.3 32.3 Tốt 972 58.1 58.1 90.4 Bình thường 84 5.0 5.0 95.5 Yếu 76 4.5 4.5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 3-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Rất tốt 318 19.0 19.0 19.0 Tốt 676 40.4 40.4 59.4 Bình thường 674 40.3 40.3 99.8 Yếu 4 .2 .2 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 3-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Rất tốt 468 28.0 28.0 28.0 Tốt 1034 61.8 61.8 89.8 Bình thường 156 9.3 9.3 99.2 Yếu 14 .8 .8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 4-1 (Bổ nhiệm)

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Ưu tiên 1 1059 63.3 63.3 63.3 Ưu tiên 2 513 30.7 30.7 94.0 Ưu tiên 3 100 6.0 6.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 4-2 (Kiến thức)

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Ưu tiên 1 1097 65.6 65.6 65.6 Ưu tiên 2 537 32.1 32.1 97.7 Ưu tiên 3 38 2.3 2.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

188

Câu 4-3 (Chứng chỉ)

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Ưu tiên 1 628 37.6 37.6 37.6 Ưu tiên 2 318 19.0 19.0 56.6 Ưu tiên 3 726 43.4 43.4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 4-4 (Khác)

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1150 68.8 68.8 68.8 Ưu tiên 1 42 2.5 2.5 71.3 Ưu tiên 2 132 7.9 7.9 79.2 Ưu tiên 3 348 20.8 20.8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 5-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 192 11.5 11.5 11.5 Hợp lý 499 29.8 29.8 41.3 Thường 740 44.3 44.3 85.6 Không hợp lý 225 13.5 13.5 99.0 Lạc hậu 16 1.0 1.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 5-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 144 8.6 8.6 8.6 Hợp lý 367 21.9 21.9 30.6 Thường 818 48.9 48.9 79.5 Không hợp lý 297 17.8 17.8 97.2 Lạc hậu 46 2.8 2.8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 5-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 41 2.5 2.5 2.5 Hợp lý 498 29.8 29.8 32.2 Thường 714 42.7 42.7 74.9 Không hợp lý 407 24.3 24.3 99.3 Lạc hậu 12 .7 .7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

189

Câu 5-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 199 11.9 11.9 11.9 Hợp lý 481 28.8 28.8 40.7 Thường 588 35.2 35.2 75.8 Không hợp lý 400 23.9 23.9 99.8 Lạc hậu 4 .2 .2 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 5-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 178 10.6 10.6 10.6 Hợp lý 429 25.7 25.7 36.3 Thường 680 40.7 40.7 77.0 Không hợp lý 312 18.7 18.7 95.6 Lạc hậu 73 4.4 4.4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 5-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 274 16.4 16.4 16.4 Hợp lý 409 24.5 24.5 40.8 Thường 578 34.6 34.6 75.4 Không hợp lý 373 22.3 22.3 97.7 Lạc hậu 38 2.3 2.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 6-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 324 19.4 19.4 19.4 Cao cấp 874 52.3 52.3 71.7 Trung cấp 374 22.4 22.4 94.0 Cả hai 100 6.0 6.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 6-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 372 22.2 22.2 22.2 Cao cấp 796 47.6 47.6 69.9 Trung cấp 416 24.9 24.9 94.7 Cả hai 88 5.3 5.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

190

Câu 6-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 392 23.4 23.4 23.4 Cao cấp 774 46.3 46.3 69.7 Trung cấp 400 23.9 23.9 93.7 Cả hai 106 6.3 6.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 6-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1408 84.2 84.2 84.2 Cao cấp 114 6.8 6.8 91.0 Trung cấp 134 8.0 8.0 99.0 Cả hai 16 1.0 1.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 6-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1442 86.2 86.2 86.2 Cao cấp 76 4.5 4.5 90.8 Trung cấp 138 8.3 8.3 99.0 Cả hai 16 1.0 1.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 6-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1610 96.3 96.3 96.3 Cao cấp 28 1.7 1.7 98.0 Trung cấp 34 2.0 2.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 7-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1258 75.2 75.2 75.2 Cao cấp 130 7.8 7.8 83.0 Trung cấp 232 13.9 13.9 96.9 Cả hai 52 3.1 3.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

191

Câu 7-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 496 29.7 29.7 29.7 Cao cấp 532 31.8 31.8 61.5 Trung cấp 476 28.5 28.5 90.0 Cả hai 168 10.0 10.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 7-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1266 75.7 75.7 75.7 Cao cấp 184 11.0 11.0 86.7 Trung cấp 178 10.6 10.6 97.4 Cả hai 44 2.6 2.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 7-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1142 68.3 68.3 68.3 Cao cấp 164 9.8 9.8 78.1 Trung cấp 316 18.9 18.9 97.0 Cả hai 50 3.0 3.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 7-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1228 73.4 73.4 73.4 Cao cấp 162 9.7 9.7 83.1 Trung cấp 240 14.4 14.4 97.5 Cả hai 42 2.5 2.5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 7-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 968 57.9 57.9 57.9 Cao cấp 258 15.4 15.4 73.3 Trung cấp 354 21.2 21.2 94.5 Cả hai 92 5.5 5.5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

192

Câu 7-7

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1626 97.2 97.2 97.2 Cao cấp 12 .7 .7 98.0 Trung cấp 24 1.4 1.4 99.4 Cả hai 10 .6 .6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 8-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 816 48.8 48.8 48.8 Cao cấp 474 28.3 28.3 77.2 Trung cấp 204 12.2 12.2 89.4 Cả hai 178 10.6 10.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 8-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1106 66.1 66.1 66.1 Cao cấp 260 15.6 15.6 81.7 Trung cấp 228 13.6 13.6 95.3 Cả hai 78 4.7 4.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 8-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 528 31.6 31.6 31.6 Cao cấp 580 34.7 34.7 66.3 Trung cấp 318 19.0 19.0 85.3 Cả hai 246 14.7 14.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 9-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 157 9.4 9.4 9.4 Hợp lý 736 44.0 44.0 53.4 Không hợp lý 779 46.6 46.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

193

Câu 9-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 189 11.3 11.3 11.3 Hợp lý 753 45.0 45.0 56.3 Không hợp lý 730 43.7 43.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 10-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 402 24.0 24.0 24.0 24 tháng 198 11.8 11.8 35.9 18 tháng 634 37.9 37.9 73.8 12 tháng 412 24.6 24.6 98.4 9 tháng 22 1.3 1.3 99.8 6 tháng 2 .1 .1 99.9 4 tháng 2 .1 .1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 10-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 522 31.2 31.2 31.2 24 tháng 23 1.4 1.4 32.6 18 tháng 52 3.1 3.1 35.7 12 tháng 160 9.6 9.6 45.3 9 tháng 649 38.8 38.8 84.1 6 tháng 264 15.8 15.8 99.9 4 tháng 2 .1 .1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 11-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 852 51.0 51.0 51.0 Đã tham gia 820 49.0 49.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 11-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 946 56.6 56.6 56.6 Đã tham gia 726 43.4 43.4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

194

Câu 11-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 1266 75.7 75.7 75.7 Đã tham gia 406 24.3 24.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 11-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 646 38.6 38.6 38.6 Đã tham gia 1026 61.4 61.4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 11-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 836 50.0 50.0 50.0 Đã tham gia 836 50.0 50.0 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 11-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Chưa 1124 67.2 67.2 67.2 Đã tham gia 548 32.8 32.8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 12-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 728 43.5 43.5 43.5 Rất tốt 264 15.8 15.8 59.3 Tốt 574 34.3 34.3 93.7 Bình thường 94 5.6 5.6 99.3 Yếu 12 .7 .7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 12-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 858 51.3 51.3 51.3 Rất tốt 186 11.1 11.1 62.4 Tốt 502 30.0 30.0 92.5 Bình thường 116 6.9 6.9 99.4 Yếu 10 .6 .6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

195

Câu 12-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1164 69.6 69.6 69.6 Rất tốt 142 8.5 8.5 78.1 Tốt 290 17.3 17.3 95.5 Bình thường 70 4.2 4.2 99.6 Yếu 6 .4 .4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 12-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 570 34.1 34.1 34.1 Rất tốt 364 21.8 21.8 55.9 Tốt 606 36.2 36.2 92.1 Bình thường 124 7.4 7.4 99.5 Yếu 8 .5 .5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 12-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 792 47.4 47.4 47.4 Rất tốt 202 12.1 12.1 59.4 Tốt 558 33.4 33.4 92.8 Bình thường 102 6.1 6.1 98.9 Yếu 16 1.0 1.0 99.9 Kém 2 .1 .1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 12-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1140 68.2 68.2 68.2 Rất tốt 108 6.5 6.5 74.6 Tốt 286 17.1 17.1 91.7 Bình thường 132 7.9 7.9 99.6 Yếu 6 .4 .4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 13-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 260 15.6 15.6 15.6 Rất Qt 840 50.2 50.2 65.8 Q.trọng 290 17.3 17.3 83.1 B.thường 160 9.6 9.6 92.7 ít Qt 66 3.9 3.9 96.7 Không Qt 56 3.3 3.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

196

Câu 13-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 534 31.9 31.9 31.9 Rất Qt 234 14.0 14.0 45.9 Q.trọng 422 25.2 25.2 71.2 B.thường 244 14.6 14.6 85.8 ít Qt 142 8.5 8.5 94.3 Không Qt 96 5.7 5.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 13-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 426 25.5 25.5 25.5 Rất Qt 366 21.9 21.9 47.4 Q.trọng 360 21.5 21.5 68.9 B.thường 326 19.5 19.5 88.4 ít Qt 108 6.5 6.5 94.9 Không Qt 86 5.1 5.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 13-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 366 21.9 21.9 21.9 Rất Qt 404 24.2 24.2 46.1 Q.trọng 280 16.7 16.7 62.8 B.thường 254 15.2 15.2 78.0 ít Qt 208 12.4 12.4 90.4 Không Qt 160 9.6 9.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 13-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 500 29.9 29.9 29.9 Rất Qt 228 13.6 13.6 43.5 Q.trọng 260 15.6 15.6 59.1 B.thường 222 13.3 13.3 72.4 ít Qt 172 10.3 10.3 82.7 Không Qt 290 17.3 17.3 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

197

Câu 13-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 1380 82.5 82.5 82.5 Rất Qt 18 1.1 1.1 83.6 Q.trọng 26 1.6 1.6 85.2 B.thường 60 3.6 3.6 88.8 ít Qt 38 2.3 2.3 91.0 Không Qt 142 8.5 8.5 99.5 6 8 .5 .5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 14-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 178 10.6 10.6 10.6 Rất cần 864 51.7 51.7 62.3 Cần 556 33.3 33.3 95.6 B,thường 44 2.6 2.6 98.2 Chưa cần 30 1.8 1.8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 14-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 110 6.6 6.6 6.6 Rất cần 992 59.3 59.3 65.9 Cần 542 32.4 32.4 98.3 B,thường 26 1.6 1.6 99.9 Chưa cần 2 .1 .1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 14-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 154 9.2 9.2 9.2 Rất cần 914 54.7 54.7 63.9 Cần 556 33.3 33.3 97.1 B,thường 48 2.9 2.9 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

198

Câu 14-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 280 16.7 16.7 16.7 Rất cần 436 26.1 26.1 42.8 Cần 730 43.7 43.7 86.5 B,thường 152 9.1 9.1 95.6 Chưa cần 74 4.4 4.4 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 14-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ Hợp lệ 0 280 16.7 16.7 16.7 Rất cần 470 28.1 28.1 44.9 Cần 636 38.0 38.0 82.9 B,thường 214 12.8 12.8 95.7 Chưa cần 72 4.3 4.3 100.0 Total 1672 100.0 100.0

Câu 14-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 398 23.8 23.8 23.8 Rất cần 258 15.4 15.4 39.2 Cần 592 35.4 35.4 74.6 B,thường 248 14.8 14.8 89.5 Chưa cần 176 10.5 10.5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 15-1

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 100 6.0 6.0 6.0 Cần 1410 84.3 84.3 90.3 Chưa cần 162 9.7 9.7 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 15-2

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 100 6.0 6.0 6.0 Cần 1412 84.4 84.4 90.4 Chưa cần 160 9.6 9.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

199

Câu 15-3

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 144 8.6 8.6 8.6 Cần 1348 80.6 80.6 89.2 Chưa cần 180 10.8 10.8 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Câu 15-4

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 144 8.6 8.6 8.6 Cần 1352 80.9 80.9 89.5 Chưa cần 176 10.5 10.5 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 15-5

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 166 9.9 9.9 9.9 Cần 1304 78.0 78.0 87.9 Chưa cần 202 12.1 12.1 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0 Câu 15-6

Tần suất Tỉ lệ % Tỉ lệ hợp lệ Tỉ lệ tích luỹ 0 166 9.9 9.9 9.9 Cần 1312 78.5 78.5 88.4 Chưa cần 194 11.6 11.6 100.0

Hợp lệ

Total 1672 100.0 100.0

Nguồn: Tác giả tổng hợp.