67
NHT BN Trích 4 chương trong 55 chương ca BNht Bn Dưới Mt Nguòi Vit, n bn 1 gm 950 trang, n bn 2 khong 2.000 trang (sin). Phn không đọc được là chHán. CHƯƠNG 48 LCH SQUAN HNHT-VIT Ai cũng biết Vit Nam và Nht Bn cách nhau mt đi dương xa xôi hay khong 4.000 km và hai múi gi, thì chc là không có hhàng gì vi nhaNhưng chúng tôi đã gp mt sngười Nht không nghĩ như vy, hcho rng, Vit Nam và Nht Bn có ít nhiu liên hhuyết thng. Có mt sthuyết cho rng dân tc Nht ngày nay mt phn là do di dân tphương Nam lên, trong đó có cnhng người Bách Vit min nam Trung Hoa hay xNht Nam thuc min trung Vit Nam. Trong truyn thuyết Nht Bn, chuyn đi xung thy cung cưới vtiên... được hiu là đi vcác đo hay vùng đt phương Nam trong đó có cVit Nam. Phương Nam luôn vô tình phát "tín hiu" vphía Nht, càng thôi thúc người Nht đi tìm cái mi lhay vngun. Tht vy, khi xưa, nhng trái da theo sóng trôi dt đến bbin phía nam ca Nht, hoc có khi người Nht nht được nhng thân cây trôi dt đem nu nướng, khi làn hương thơm ngào ngt bc ra, tđó hmi đý đến thtrm hương (jinko / chinko) quý giá mà người Nht còn gi là trm thy hương (jinsuiko). Bin ctuy ngăn cách, nhưng cũng là con đường giao thông thun tin. Khi thuyn bè di chuyn trnên thun li hơn, người Nht đã đy mnh vic giao dch vi Trung Hoa cũng như các nước phương Nam. NGƯỜI NHT BN ĐU TIÊN TI VIT NAM Nht Bn và Vit Nam đã có giao lưu tkhong hơn 1.000 năm trước. Đó là thi đi "Nara" (Ni Lương Thi Đi) ti "Heian" (Bình An Thi Đi) Nht Bn và thi nhà Đường (618-907) Trung Hoa. Khi đó, các sgiđược Nht Bn gi đi Trung Hoa hc gi là "Kentoshi" (Khin Đường S). Vì thuyn bgió bão nhiu người bchết hay trôi dt vphương Nam ti min bc hoc trung Vit Nam hin naTrong snhng người phiêu dt y có các nhà sư như: "Kukai" (Không Hi) và "Kanjin" (Giám Chân). Theo tài liu lch s, người Nht Bn đu tiên ti Vit Nam là ông Nakamaro Abeno (A Bi Trng Ma L) và Kiyokawa Fujihara (Đng Nguyên Thanh Hà)... Năm 716,

CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

NHẬT BẢN

Trích 4 chương trong 55 chương của Bộ Nhật Bản Dưới Mắt Nguòi Việt, ấn bản 1

gồm 950 trang, ấn bản 2 khoảng 2.000 trang (sẽ in). Phần không đọc được là chữ Hán.

CHƯƠNG 48

LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VIỆT Ai cũng biết Việt Nam và Nhật Bản cách nhau một đại dương xa xôi hay khoảng 4.000 km và hai múi giờ, thì chắc là không có họ hàng gì với nhaụ Nhưng chúng tôi đã gặp một số người Nhật không nghĩ như vậy, họ cho rằng, Việt Nam và Nhật Bản có ít nhiều liên hệ huyết thống. Có một số thuyết cho rằng dân tộc Nhật ngày nay một phần là do di dân từ phương Nam lên, trong đó có cả những người Bách Việt ở miền nam Trung Hoa hay xứ Nhật Nam thuộc miền trung Việt Nam. Trong truyền thuyết Nhật Bản, chuyện đi xuống thủy cung cưới vợ tiên... được hiểu là đi về các đảo hay vùng đất ở phương Nam trong đó có cả Việt Nam. Phương Nam luôn vô tình phát "tín hiệu" về phía Nhật, càng thôi thúc người Nhật đi tìm cái mới lạ hay về nguồn. Thật vậy, khi xưa, những trái dừa theo sóng trôi dạt đến bờ biển phía nam của Nhật, hoặc có khi người Nhật nhặt được những thân cây trôi dạt đem nấu nướng, khi làn hương thơm ngào ngạt bốc ra, từ đó họ mới để ý đến thứ trầm hương (jinko / chinko) quý giá mà người Nhật còn gọi là trầm thủy hương (jinsuiko). Biển cả tuy ngăn cách, nhưng cũng là con đường giao thông thuận tiện. Khi thuyền bè di chuyển trở nên thuận lợi hơn, người Nhật đã đẩy mạnh việc giao dịch với Trung Hoa cũng như các nước ở phương Nam. NGƯỜI NHẬT BẢN ĐẦU TIÊN TỚI VIỆT NAM Nhật Bản và Việt Nam đã có giao lưu từ khoảng hơn 1.000 năm trước. Đó là thời đại "Nara" (Nại Lương Thời Đại) tới "Heian" (Bình An Thời Đại) ở Nhật Bản và thời nhà Đường (618-907) ở Trung Hoa. Khi đó, các sứ giả được Nhật Bản gởi đi Trung Hoa học gọi là "Kentoshi" (Khiển Đường Sứ). Vì thuyền bị gió bão nhiều người bị chết hay trôi dạt về phương Nam tới miền bắc hoặc trung Việt Nam hiện naỵ Trong số những người phiêu dạt ấy có các nhà sư như: "Kukai" (Không Hải) và "Kanjin" (Giám Chân). Theo tài liệu lịch sử, người Nhật Bản đầu tiên tới Việt Nam là ông Nakamaro Abeno (A Bội Trọng Ma Lữ) và Kiyokawa Fujihara (Đằng Nguyên Thanh Hà)... Năm 716,

Page 2: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

ông Nakamaro sang Trung Hoa du học vào thời nhà Đường, tức thời Nara, Heian ở Nhật, có tên Trung Hoa là Triều Hàng, sau lại đổi là Triều Hoành. Trên đường về nước, thuyền của ông bị giạt vào An Nam đô hộ xứ (Việt Nam), sau ông trở lại Trường An, Trung Hoa. Năm 753, Triều Hoành 55 tuổi, làm Bí Thư Giám phụ trách thư viện của Hoàng Đế, kiêm Vệ Úy Khanh chỉ huy đội cấm vê.. Năm 761, niên hiệu Thượng Nguyên, ông được cử sang An Nam làm Tiết Độ Sứ hay Chấn Nam Đô Hộ, tức người đứng đầu trông coi xứ Việt Nam (lúc bất giờ mới chỉ có nửa phía bắc) và có công trong việc hòa giải tranh chấp giữa các dân tộc thiểu số ở biên giới Vân Nam. Tới năm 767, ông trở về Trung Quốc và sau đó mất tại Trường An. Từ cuối thế kỷ 14, vương quốc Lưu Cầu (Ryukyu, tức quần đảo Okinawa (Xung Thằng), gần Đài Loan, sau bị sát nhập vào Nhật Bản) đã gởi một văn thư sang Việt Nam. Từ cuối thế kỷ 16, vào năm 1583, đã có tàu Nhật tới Hội An, Đà Nẵng và sau đó tới Cửa Việt thuộc Quảng Tri.. Ở Đàng Trong, đã có thư trao đổi giữa Chúa Nguyễn Hoàng và Mạc Phủ Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang) cũng như thư của Nguyễn Hoàng viết năm 1604 gởi Thiên Hoàng Hy Tôn Hiếu Văn. Ở Đàng ngoài, Chúa Trịnh cũng có thư viết năm 1610 về việc tàu buôn Nhật Bản đến Nghệ An năm 1609 bị sóng gió, phải lánh nạn và chờ tìm đường về nước. Sự buôn bán trở nên thường xuyên hơn vào đầu thế kỷ 17, các tàu Nhật Bản đi buôn ở hải ngoại gọi là "Goshuinsen" (Ngự Chu Ấn Thuyền), là các thuyền có giấy phép đóng dấu đỏ (shuin, chu ấn) của "Shogun" tức Tướng Quân thời bấy giờ, từ các phố cảng Nagasaki (Trường Kỳ) thuộc Kyushu (Cửu Châu), Sakai (Cảnh) thuộc Osaka (Đại Phản)... thường ghé Ma Cao rồi tới Hà Nội, Hội An, Thanh Hà... buôn bán. Hội An khi đó là cảng nằm trên con đường "tơ lụa biển" nối liền đông-tây, nằm trên sông Thu Bồn, gần Cửa Đại, phía Nam Đà Nẵng, thuộc tỉnh Quảng Nam. Họ đem bán vàng, bạc, gươm, đao, mành xếp, quạt xếp, những đồng tiền bằng đồng và đồ sứ "Hizen" (Phì Tiền, tên một nước cổ vùng Kyushu)... rồi mua về tơ tằm, san hô, ngà voi, da hươu, đồ gốm... Nổi bật trong số các thương gia đến buôn bán ở Đàng Ngoài, mà người Nhật thời đó gọi là An Nam (Annam), là hai cha con ông Ryoi Suminokura (Giác Thương Liễu Dĩ, 1554-1614, sau được dựng tượng ở Sagano) và Ryoi Suminokura (Giác Thương Dữ Nhất, 1571-1632), được kể là hào thương (thương gia có tài trí hơn người) thời đó. Với tư cách sứ giả mậu dịch, họ là người đầu tiên nhận giấy phép đi Việt Nam của Tướng Quân Tokugawa Ieyasu (Đức Xuyên Gia Khang). Giấy phép là một tờ giấy chỉ có ghi hàng chữ (Ji Nippon To Tokyo, Tự Nhật Bản Đáo Đông Kinh, nghĩa là Từ Nhật Bản đến Đông Kinh, Đông Kinh là tên gọi Hà Nội thời đó, còn Đông Kinh của Nhật thời đó là Giang Hộ (Edo)) và đóng dấu đỏ. Họ khởi hành chuyến đầu tiên vào cuối thu năm 1603 và trở lại Nhật tháng

Page 3: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

6/1604. Các thuyền buôn thời đó đều phải chờ gió bắc vào tháng 10 đến 11 để giăng buồm xuôi nam và sau đó chờ gió nồm (nam) vào tháng 7, mùa hè năm sau để trở lên hướng bắc, về Nhật. Vì vậy họ đã lập ra khu Cẩm Phố để cư ngụ lâu dài, trong khi người Hoa thì có phố Minh Hương. Cuộc hành trình tất nhiên rất gian nan và vất vả, kéo dài cả 8 tháng. Nhưng bù lại, lợi nhuận được phỏng đoán là lời 100 đến 200%. Từ năm 1603 đến 1634 (là năm Tướng Quân ra lệnh bế môn tỏa cảng), họ đã đi Việt Nam tất cả 17 lần, trung bình cứ hai năm một chuyến. Họ chủ yếu mua dược liệu, trầm, tơ sợi, lụa, hương liệu như hồ tiêu, nghệ, rồi chì, đá tiêu (dùng làm đạn và chế thuốc súng) và thư tịch (các sách từ Trung Quốc đưa vào). Và họ bán quạt, dù, ấm đun thuốc bằng kim loại, tiền đồng, súng đạn, đao kiếm, khoáng sản như lưu huỳnh, thiếc, đồng, bạc... Kiếm Nhật nổi tiếng là sắc bén, nên là một trong những món hàng được người Việt thời đó ưa thích nhất. Năm 1999, khu phố cổ Hội An... đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới, với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích của người Nhật và Hoạ Có thể Nhật Bản và Việt Nam đã có giao thương từ cả trước thế kỷ 16, 17, cụ thể qua các gốm men Hải Dương, Bát Tràng. Thật vậy, ngày nay, các nhà khảo cổ Nhật Bản tìm thấy rất nhiều đồ gốm Việt Nam thuộc các niên đại từ thế kỷ 14 đến 15 ở Dazaifu (ẸáÉâỂđ, Thái Tể Phủ) như các bát tráng men trắng đục và trắng vàng xám trong lòng thường trang trí hoa văn màu xanh lam nhạt. Họ cũng khám phá thấy một số đồ gốm khác niên đại thế kỷ 15 đến 17 tại Hakata (Bác Đa, là thương cảng cổ lớn nhất của Nhật Bản, sau tàn lụi và từ thế kỷ 17 chuyển sang cảng Nagasaki) thuộc Kyushu (Cửu Châu). Tuy Việt Nam đã dùng tiền đúc bằng đồng từ nhà Đinh thế kỷ thứ 10, nhưng thường gọi là Hưng Bảo, Thông Bảo, Nguyên Bảo... và chia ra quan, tiền... Nhưng chính trong thời kỳ này, chữ "đồng" (từ loại tiền bằng đồng (銅) của Nhật Bản, tiếng Nhật đọc là "do") bắt đầu phổ cập và sau đã trở thành đơn vị tiền tệ của Việt Nam cho đến naỵ Hiện vẫn còn di tích một phố cổ đã có thời khoảng 700 người Nhật Bản cư ngụ, với Chùa Cầu xây năm 1593 và một số mộ cổ. Chùa Cầu là kiến trúc độc đáo, ngôi chùa nằm ngay trên cầu, bắc qua con rạch chảy ra sông Thu Bồn, với sự đóng góp phần lớn của người Nhật và các phụ nữ Việt lấy chồng Nhật, còn gọi là Cầu Nhật Bản. Năm 1719, Chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An và đặt tên cầu là "Lai Viễn Kiều". Nhật Bản cũng tài trợ trùng tu nhiều di tích văn hóa tại Hội An cũng như đền đài tại Huế... Chùa Cầu còn gọi là Cầu Nhật Bản hay Lai Viễn Kiều. Vua Thành Thái cũng đã từng gởi quốc thư đến Thiên Hoàng Nhật lúc đó là Minh Trị nhân dịp Nhật Hoàng mời nhà Vua dự lễ chiến thắng Nga sau trận Đối Mã (Tsushima) năm 1905. Nhà vua muốn đi dự, nhưng bị Toàn Quyền P. Beau ngăn cản. Vua Thành Thái đã bí mật cử một Hoàng Thân đi thaỵ Trước khi đi, nhà vua gọi Hoàng Thân

Page 4: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

ấy vào và dặn dò: "Trong cái nón có ghép thư gởi Nhật Hoàng, mong cơ hội thượng quốc giúp đỡ Việt Nam chống Pháp". Nhưng sự kiện bị nội gián tiết lộ, nên khi sứ giả sắp xuống tàu ở Đà Nẵng thì bị Công Sứ Quảng Nam tới giữ ngay chiếc nón ấy lại và khám phá được quốc thự Đầu thế kỷ 20, Nhật Bản hùng mạnh, các nhà cách mạng Việt Nam tới Nhật Bản cầu cứu và đưa khoảng 200 du học sinh đến. Nhưng rồi Nhật vì quyền lợi, đã cấu kết với Pháp trục xuất các nhà cách mạng và du học sinh Việt. Cùng với việc Nhật bỏ rơi nhà cách mạng Trần Trung Lập và lúc thì xua đuổi, lúc thì nuôi dưỡng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đều cho thấy Nhật Bản đặt quyền lợi của họ lên trên hết, điều đó làm đã làm nhiều người Việt thất vọng và đau lòng không ít. Thời Thế Chiến Thứ 2, cuối năm 1940, quân đội Nhật do Tướng Tsuchihashi (Thổ Kiều) chỉ huy đã tới Việt Nam với quân số khoảng 80.000 người và lực lượng hậu cần khoảng 200.000 ngườị Quân Nhật ép nhà cầm quyền Pháp hợp tác, trong đó có việc thu mua lúa gạo bán cho Nhật nuôi quân tại chỗ, dự trữ gạo cho Quân Đoàn 38 của Nhật ở Đông Dương, dự trù để xuất cảng qua Nhật 1.000.000 tấn gạo trong vụ mùa năm 1942-43 và bắt nông dân trồng đay từ 18.850 mẫu năm 1942 lên 42.546 mẫu năm 1944... Đó là một trong những yếu tố gây nên nạn đói năm Ất Dậu 1945, khiến khoảng 1 triệu người Việt bị thiệt mạng (con số 2 triệu là con số thổi phồng). Yếu tố khác là bị bão và mất mùa, chiến tranh nên không chở gạo từ nam ra bắc được. Các tài liệu và sử gia đã đưa ra nhiều con số khác nhau về người chết trong nạn đói Ất Dậu, từ 100.000 đến 2.000.000. Theo suy luận tổng hợp của chúng tôi thì số người chết đói khoảng 1.000.000, con số 2.000.000 do quốc hội đầu tiên năm 1945 đưa ra và ông Hồ Chí Minh nói trong tuyên ngôn độc lập là con số quá lớn, nhằm tuyên truyền và kích động đấu tranh lúc đó hơn là thực tế. Ông Nguyễn Mạnh Côn khi đó là đại biểu Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội trong quốc hội này đã từng kể lại với nhà văn Hoàng Hải Thủy đại ý là "Chúng tôi quyết định để là 2.000.000 người chết, đâu có làm thống kê mà biết chắc con số... con số 2.000.000 do chúng tôi đặt ra trở thành số liệu lịch sử". (Hoàng Hải Thủy trong "Sống Và Chết Ở Sài Gòn", Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2002). Ngày 3/9/1945, họ bất thần làm cuộc đảo chánh chế độ thực dân của Pháp Quốc thành công. Trong lúc Nhật Bản bắt đầu yếu và sắp thua mà làm đảo chánh vì nhà cầm quyền Pháp đang thuộc chính phủ Pétain thân Đức chuyển qua thuộc Charles de Gaulle là người lãnh đạo kháng chiến Pháp chống Đức đã cùng quân đội Đồng Minh tiến vào Paris ngày 23/8/1944. Họ nêu cao danh nghĩa "Đại Đông Á" (Daitoa), giúp các dân tộc nhược tiểu vùng lên giành độc lập và "trao quyền" cai trị đất nước lại cho người Việt. Nhật Bản đã đưa kín đáo nói với vua Bảo Đại đưa cụ Trần Trọng Kim lên làm Thủ Tướng, thành lập chính phủ

Page 5: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

mà không có bộ Quốc Phòng, không có quân đội nên mặt an ninh và đường lối vẫn phải dựa vào quân Nhật. Nhưng sau khi thua trận Thế Chiến Thứ 2 thì quân đội Nhật rút đi, chỉ còn một số người giải ngũ ở lạị Họ hợp tác giúp các nhóm kháng chiến chống Pháp hoặc lập gia đình với người Việt. Sau có một số trở về Nhật, một số định cư luôn ở Nam Việt Nam, nhưng sau năm 1975, hầu như tất cả số người còn ở lại miềm Nam đã bị ép trở về nước cùng gia đình (vợ Việt và con cái). CÙNG CHỐNG QUÂN MÔNG CỔ Vào thế kỷ 13, đế quốc Mông Cổ do Hoàng Đế Hốt Tất Liệt là cháu của Thành Cát Tư Hãn cầm đầu trở nên rất hùng mạnh, chi phối Trung Hoa và một phần Châu Âụ Hốt Tất Liệt đã ba lần xua quân Mông Cổ (Moko, còn gọi là quân Nguyên) đánh Việt Nam vào các năm 1258, 1285 và 1286, nhưng cả ba lần đều bị quân Việt đánh cho đại bạị Trong khi đó, quân Mông Cổ cũng dùng thuyền đi đánh Nhật Bản, người Nhật gọi là Moko Shurai (Mông Cổ Tập Lai). Từ năm 1268, nhà Nguyên nhiều lần gởi Sứ Giả sang Nhật bắt thần phục, cuối cùng 5ứ Giả bị Nhật chém đầụ Tức giận, nhà Nguyên cho quân qua đánh Nhật. Lần thứ nhất năm 1274, gồm 28.000 quân và 900 chiến thuyền và vũ khí tối tân thời đó như tên tẩm thuốc độc, súng... tới đánh bờ biển Hakata (Bác Đa) phía tây đảo Kyushu (ẪọẺB , Cửu Châu), đã đổ bộ và kịch chiến khiến phía Nhật rất lo sợ, nhưng họ mới đánh thăm dò và vì gặp bão nên rút luị Lần thứ hai năm 1281, nhà Nguyên huy động lực lượng hải quân mạnh nhất thời bấy giờ quyết ra taỵ Sở dĩ nhà Nguyên có hải quân mạnh là do thôn tính của nhà NamTống. Quân viễn chinh gồm hai đạo quân, một đạo là Đông Lộ Quân với 40.000 quân và 900 chiến thuyền xuất phát từ nam Cao Ly (tức Triều Tiên) cùng một đạo là Giang Nam Quân với 100.000 quân và 3.500 chiến thuyền xuất phát từ vịnh Hàng Châu, Thượng Hải. Nhưng chính vì có hai đạo quân mà lại đến không cùng lúc nên không hợp sức được, Đông Lộ Quân đến trước đánh tại địa điểm cũ, không đủ sức, ngày 27/7, Giang Nam Quân mới tới nơị Dù biết khó khăn, nhưng phía Nhật với 40.000 quân nhất quyết chống lại bằng cách xây chiến lũy (bằng đất đá, cao 3 mét, dầy 2 mét, nay vẫn còn di tích) từ đó dùng cung nỏ bắn ra và nửa đêm còn dùng thuyền nhỏ ra tập kích tầu chiến gây khốn đốn cho quân Mông Cổ. Khiến suốt 70 ngày tấn công mà quân Mông Cổ không đổ bộ được, lương thực cạn dần. Bất ngờ đến đêm 30/7, đoàn thuyền của quân Mông Cổ lại bị bão lớn nên càng tan nát, đã bị quân Nhật đánh cho đại bạị Năm 1285, nhà Nguyên ra lệnh đóng những chiến thuyền lớn hơn định tấn công đợt 3, nhưng rồi Hoàng Đế Hốt Tất Liệt mất năm 1289 nên kế hoạch bị bỏ dở.

Page 6: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Nhìn vào niên biểu chúng ta sẽ thấy ngay, vào thời đó, Việt Nam hay Nhật Bản được yên hay bị xâm chiếm là tùy thuộc quân Mông Cổ tấn công ở đâụ Hai dân tộc vô hình trung đã có sự hỗ tương trong việc chống giặc, bảo vệ đất nước. BANG GIAO VIỆT-NHẬT Trước 1945, Việt Nam còn bị đô hộ nên mọi việc ngoại giao của Việt Nam do Pháp quyết đi.nh. Năm 1945 đến 54, chiến tranh tiếp diễn, bang giao chính thức bị gián đoạn. Tuy vậy, tòa Đại Sứ Việt Nam tại quận Shibuya (Sáp Cốc), Đông Kinh được xây năm 1947, xây lại năm 2002 và khánh thành năm 2003. Sau khi Việt Nam bị chia đôi năm 1954, Nhật Bản đã chỉ đặt liên hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Cộng Hòa tức miền Nam cho tới năm 30/4/1975. Ngày 21/9/1973, song song với Hiệp Định Paris về Việt Nam được ký kết, Nhật Bản đã đặt liên hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nhưng chưa trao đổi đại sứ và chưa có cơ sở). Tháng 10/75, Nhật Bản ký hiệp định viện trợ không bồi hoàn 49 triệu MK cho Việt Nam và mở Tòa Đại Sứ tại Hà Nộị Năm 1976, phía Việt Nam mới cử Đại Sứ đầu tiên tới Nhật Bản và dùng cơ sở Tòa Đại Sứ cũ của Việt Nam Cộng Hòa ở quận Shibuya (ẺaÊJ , Sáp Dịch), Đông Kinh. Năm 2002, cơ sở này đã được xây lại thành tòa nhà mới 3 tầng. Về việc viếng thăm Việt Nam, có các vị Thủ Tướng Murayama (Thôn Sơn) năm 1994, Thủ Tướng Hashimoto (Kiều Bản) năm 1997, Thủ Tướng Obuchi (Tiểu Uyên) năm 1998, Thủ Tướng Koizumi (Tiểu Tuyền) năm 2002, khi đó ông đã được giới thiệu thưởng thức nhạc truyền thống Việt Nam và đội nón quai thao đứng giữa các nữ nghệ sĩ mặc áo tứ thân... Về việc viếng thăm Nhật Bản của nhà nước CSVN, có các Thủ Tướng Võ Văn Kiệt năm 1993, Tổng Bí Thư Đỗ Mười năm 1995, Chủ Tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh năm 1995, Thủ Tướng Phan Văn Khải năm 1999, 2004 và Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh năm 2002... LỄ HỘI VIỆT -NHẬT NĂM 2003... Nhân kỷ niệm 30 năm bang giao giữa hai nước, mỗi nước Việt và Nhật đều tổ chức lễ hội tại quốc gia đối tác. Phía Việt Nam đã tổ chức "Vietnam Festival 2003" từ ngày 19 đến 20/9/2003 tại công viên Hibuya, Tokyo với khoảng 50 gian hàng từ các công ty trong nước và ở Nhật như thủ công nghệ và thực phẩm. Một số nghệ sĩ và người mẫu cũng từ Việt nam qua trình diễn ca vũ nhạc dân tộc, thời trang áo dài trong dịp này. Phía Nhật Bản đã có phần nói chuyện ngày 4/10, về văn hóa ẩm thực và giới

Page 7: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

thiệu 18 món ăn đặc thù như "Sashimi (gỏi cá sống), Sushi (cơm cá sống), Tenpura (lăn bột rán/chiên), Shabushabu (lẩu)"... Bếp Trưởng của nhà hàng Toranomon Pastoral, một nhà hàng nổi tiếng bậc nhất ở Nhật đã biểu diễn xẻ thịt một con cá ngừ (maguro) nặng khoảng 50 kg. Tòa Đại Sứ Nhật và Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam (VNSO) đã phối hợp tổ chức chương trình hòa nhạc Viê.t-Nhật tại Nhà Hát Lớn Hà Nội ngày 15, 16/10. Phía Nhật có Nhạc Trưởng Honna Tetsuji, Nghệ Sĩ vĩ cầm Urushihara Keiko và 98 nghệ sĩ khác. Nhạc Trưởng Honna Tetsuji là cố vấn cho Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam, đã có sáng kiến phối hợp hòa tấu trên và đang giúp nâng cấp dàn nhạc Việt qua viện trợ 50 triệu Yen (450.000 Mỹ Kim) của chính phủ Nhật để trang bị toàn bộ nhạc cụ mới. Ngày 19/10, tại Hà Nội có buổi thi hùng biện tiếng Nhật, sáng tác, ngâm thơ Haiku (Bài Cú) và Senryu (Xuyên Liễu). Thơ Bài Cú có 1 âm vần theo thể 5 - 7 - 5, thường diễn tả thiên nhiên. Thơ Xuyên Liễu cũng tương tự nhưng có 17 âm vần và hướng về tình người, phong tục, thường dùng lối văn bình dân, châm biếm. Đoàn kịch "Nô" Kita-Ryu (Hỷ Đa Lưu, 1 trong 5 phái Nô tĩnh) với các nghệ sĩ thế hệ thứ 14 của tập đoàn Roppeita (Nhật) đã trình diễn tại Đại Nội Huế ngày 3, 4/9 và Nhà Hát Lớn Hà Nội ngày 6, 7/9. Kịch "Nô" có từ thế kỷ 14, là một loại "nhạc kịch = opera" cổ điển của Nhật, đã được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giời từ tháng 5/2001. Ngày 20/10, Hội Hữu Nghị Viê.t-Nhật ở Nhật đã hỗ trợ nữ đạo diễn Tú Mai tự thực hiện vở kịch hiện thực "Matsu, Kẻ Sống Ngoài Vòng Pháp Luật" (Muho Matsu No Issho, Vô Pháp Tùng Nhất Sinh) đã từng được đóng thành phim năm 1943 và 1958 của cố nhà văn nổi tiếng Iwashita Shinsaku (Nham Hạ Tuấn Tác), với các diễn viên Việt Nam tại Nhà Hát Lớn Hà Nộị "Matsu" là tên nhân vật chính, một thanh niên trọng đạo lý, nhưng vì hay chống đối những bất công, nên bị gạt ra ngoài xã hội và coi như "kẻ sống ngoài pháp luật" cũng như cuộc tình ngang trái của anh... phản ánh xã hội Nhật thời đầu thế kỷ 20. Có lẽ đây là lần đầu tiên kịch "Nô" và kịch Nhật được trình diễn ở Việt Nam. Dịp này, phía Nhật Bản cũng đã cho chiếu miễn phí một số phim giới thiệu khoa học kỹ thuật của Nhật ở Hà Nội, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, như: "Một xe ô tô làm cả thế giới phải ngạc nhiên (Honda), Tàu tốc hành được sinh ra từ sự tận tụy (Shinkansen = Bullet train chạy 240 km / giờ và nay loại Nozomi 700 mới nhất với mũi hình đầu vịt lên tới 270 km / giờ), Nhà máy địa phương vươn ra thế giới (Sony). Cũng trong dịp này, công ty xe hơi Toyota (Phong Điền) đã tài trợ tổ chức buổi hòa tấu ngày 12/10 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, do dàn nhạc giao hưởng Đông Bắc Đức trình diễn, dưới sự chỉ huy của Nhạc Trưởng Koji Kawamoto và Nghệ Sĩ dương cầm Đặng Thái

Page 8: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Sơn (người Á Châu đầu tiên được giải thưởng Chopin lần thứ 10 năm 1980 tại Ba Lan, hiện định cư ở Gia Nã Đại và năm 2005 được mời trở lại làm Giám Khảo cuộc thi Chopin). Ngày 30/10, Hiệp Hội Xúc Tiến Hiện Đại Hóa Văn Hóa Truyền Thống Nhật Bản (J-Art) đã tổ chức buổi ca vũ tạo nhiều ấn tượng tại Nhà Hát Lớn Hà Nộị Giới thiệu chương trình "The Savior 3" (Cứu Tinh 3) dựa trên các câu chuyện huyền thoại, truyền thuyết cổ đại Á Châu, mang thông điệp "Ai cũng có sứ mạng tác dụng đến hòa bình thế giới" với lời nhạc và nhất là điệu múa, trang phục lạ mắt nhằm tạo cho khán thính giả những ấn tượng khác nhaụ Bộ Giáo Dục Đào Tạo Việt Nam đã hợp tác với Tòa Đại Sứ Nhật để thử nghiệm việc đưa tiếng Nhật vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Thí điểm đầu tiên là trường Trung Học Cơ Sở Chu Văn An ở Hà Nội và sau đó là các trường ở Sài Gòn... Hội chợ "Vietnam Festival 2004" ở Yokohama do Air Việt Nam bỏ ra 600.000 Mỹ Kim, tổ chức từ 4 đến 6/6/2004, với sự tham dự của 50 gian hàng Việt và Nhật. Rất nhiều tiết mục văn nghệ với các nhạc cụ cổ truyền như trống, đàn t'rưng, đàn đầu, đàn tranh, vũ và trình diễn thời trang áo dài... Có lẽ đây là hội chợ Việt Nam lớn nhất từ trước đến nay ở Nhật với tổng cộng khoảng 10.000 người tham dư.. Lễ Hội "Giao Lưu Văn Hóa Du Lịch Viê.t-Nhật" do Sở Du Lịch, Air Việt Nam... bỏ ra 600.000 Mỹ Kim, tổ chức từ ngày 19 đến 21/11/2004 tại Sài Gòn. Có 10 đoàn biểu diễn nghệ thuật và khoảng 3.000 người Nhật qua tham dư.. Lạ một điều là trong khi Thủ Tướng nhà nước Việt Nam Phan Văn Khải tới Nhật, thì ngày 2/6, lần đầu tiên chính phủ Nhật qua Đại Sứ Nhật tại Hà Nội loan báo Nhật sẽ gắn liền vấn đề viện trợ với nhân quyền tại Việt Nam. Coi nhân quyền là 1 trong 5 yếu tố để cứu xét viện trơ.. Ngày 2/10/2004, Dàn Nhạc Giao Hưởng Quốc Gia Việt Nam (VNSO) hoàn chỉnh với 82 thành viên đã tới Nhật Bản để tham dự Tuần Dân Nhạc Châu Á (Asia Orchestra Week). VNSO đã mời Nhạc Trưởng Tetsuji Honna chỉ huy và anh Bùi Công Duy đang học tại Nhạc Viện Tchaikovsky làm người độc tấu (soloist). Toàn bộ kinh phí ước nửa triệu Mỹ Kim do phía Nhật phụ đảm. VNSO biểu diễn ở Tokyo đêm ngày 4/10 và ở Osaka ngày 6/10. Tối 28/9/2004, một chương trình biểu diễn đặc biệt của nhóm trống đến từ Nhật Bản, Renkyo-Kazegumi (mang ý nghĩa "Âm thanh của trông tựa như tiếng gió thổi vô tận") đã được giới thiệu tại Nhà hát lớn ở Hà Nội và sau đó tại Sài Gòn nhân Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEM (Kinh tế Âu-Á) lần thứ 5. VIỆN TRỢ Năm 1959, Nhật Bản đã ký hiệp ước bồi thường chiến tranh với Việt Nam Cộng

Page 9: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Hòa qua việc tài trợ xây đập Đa Nhim... và các viện trợ khác cho tới năm 1975. Năm 1999, lại viện trợ tái thiết đập Đa Nhim. Sau 1975, Nhật Bản mở lại viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ không bồi hoàn là 28 triệu Mỹ Kim năm 1975 và 17 triệu Mỹ Kim năm 1976... Năm 1977, Nhật Bản hứa hẹn chương trình viện trợ khoảng 140 triệu Mỹ Kim trong 4 năm. Nhưng năm 1978 đã đình chỉ vì nhà cầm quyền Việt Nam mở cuộc tấn công Cam Bốt. Năm 1986, sau khi nhà cầm quyền Việt Nam rút quân khỏi Cam Bốt, Nhật Bản mở lại viện trơ.. Năm 1987, khi nhà cầm quyền Việt Nam quyết định "đổi mới" (ẰhẰCẰẮẰC) chuyển sang kinh tế thị trường, Nhật Bản đã cùng Pháp Quốc... giúp Việt Nam thanh toán các nợ cũ, mở đường vay tiền từ các quỹ tiền tê.. Số tiền viện trợ của Nhật Bản lúc đầu đứng thứ hai sau Thụy Điển. Nhưng từ năm 1992, Nhật Bản là nước viện trợ nhiều nhất cho Việt Nam, đặc biệt nhắm tới các công trình xây cất hạ tầng như bến cảng, xa lộ, cầu cống, nhà máy lọc dầu, phi trường, hầm mỏ, viễn thông, khai thác than đá... Số tiền viện trợ từ khoảng vài chục triệu MK lúc đầu, lên khoảng 700 triệu MK năm 1998, rồi 850 triệu MK năm 1999, 1 tỷ MK năm 2002, sau đó giảm xuống... chỉ đứng thứ 2 sau Nam Dương. Cho tới năm 2002, tổng cộng trong 10 năm khoảng 7 tỷ MK tức 40% tổng số viện trợ mà Việt Nam nhận được. Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam không những tài chính, thiết bị (hard) mà còn viện trợ đường lối (soft), tức cố vấn về chính sách kinh tế, luật pháp như Luật Dân Sư.. Luật pháp của Việt, Nhật và Pháp tương tự nhau vì cùng dựa trên bộ luật Napoleon. Theo luật này, tòa án không dùng bồi thẩm đoàn và hình phạt chiếu theo tội chung (không tính riêng như Hoa Kỳ), tương đối phải chăng không quá đáng. Cho tới năm 2005, có khoảng 1.350 du học sinh tại Nhật, phần lớn lúc đầu được học bổng của chính phủ Nhật trong 3 năm (3 năm học Nhật ngữ và 2 năm học chuyên môn, mỗi tháng khoảng 180.000 đến 200.000 Yen) hay 5 năm (3 năm học Nhật ngữ và 4 năm Đại Học). Sau đó có một số tự túc học lên Đại Học hay Cao Học. Sau này nhà nước Việt Nam cũng cấp một số học bổng. Trong số trên có khoảng 100 người đi tự túc do gia đình hoặc những người Nhật quen bảo lãnh. Hàng trăm người khác được học bổng của chính phủ Nhật đi tu nghiệp chuyên môn về y khoa, ngư nghiệp, hầm mỏ... Một số tổ chức thiện nguyện cũng giúp người mù qua học về châm cứụ Cho tới năm 2000, tức trong mười năm qua, chính phủ Nhật đã viện trợ không bồi hoàn khoảng 100 triệu Mỹ Kim, để xây khoảng 250 trường Tiểu Học tại 17 tỉnh thường xuyên bị bão lụt ở Việt Nam, bao gồm khoảng hơn 3.000 lớp học. Hàng chục làng cho người khuyết tật... Phía Việt Nam có Hội Hữu Nghị Viê.t-Nhật thành lập năm 1965 ở Hà Nội, kết

Page 10: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

hợp chặt chẽ với Hội Hữu Nghị Nhâ.t-Việt thành lập năm 1955... NGHIÊN CỨU, HỘI THẢO Nhật Bản cũng góp phần tài trợ thành lập và vận hành Trung Tâm Nghiên Cứu Nhật Bản tại số 37 Kim Mã Thượng, Công Vị, Ba Đình, Hà Nội từ năm 1993, năm 2004 có khoảng 50 nhân viên làm việc. Trung Tâm tạm thời kiêm cả Đông Bắc Á tức Nam-Bắc Triều Tiên, dịch và biên soạn nhiều sách, từ năm 1995, phát hành tạp chí chuyên môn hai tháng một kỳ, độ 80 trang và ngày 8/1/2004, đã làm lễ khai trương trang nhà tại địa chỉ:

http://www.ncnb.org.vn Trang nhà Nghiên Cứu Nhật Bản đăng tải khá chi tiết các tin tức liên quan đến Nhật Bản hay quan hệ giữa hai nước Nhâ.t-Việt, các ấn phẩm, tài liệu đã phát hành... Tới năm 2004, ở Việt Nam có khoảng 100 chuyên gia nghiên cứu về Nhật Bản. Cuộc Hội Thảo Quốc Tế về Việt Học do Đại Học Quốc Gia Hà Nội và Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam đồng tổ chức, lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1998. Sau đó dự định cứ hai năm tổ chức một lần, nhưng vì vấn đề nội dung những những bài phát biểu của các chuyên gia làm phía Việt Nam ngại ngùng, trì hoãn nhiều lần. Cuộc Hội Thảo Quốc Tế về Việt Học lần thứ hai mang chủ đề "Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập: Truyền thống và hiện đại", đã được tổ chức tại Sài Gòn trong ba ngày 14-16/7/2004 với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế. Có 316 bản báo cáo được trình bày tại cuộc hội thảo, gồm 212 báo cáo của các chuyên gia Việt Nam và 104 báo cáo của các chuyên gia đến từ 26 quốc gia, tất nhiên bao gồm cả Nhật. Cuộc hội thảo tập trung vào 5 đề tài chính: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế, những vấn đề đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam, các vấn đề về xã hội, dân số và dân tộc, những vấn đề lịch sử văn minh và phát triển văn hóa ở Việt Nam và những nghiên cứu khu vực. Cuộc Hội Thảo lần này đã đề nghị thành lập "Hội Đồng Quốc Tế Việt Nam" gồm khoảng 30 thành viên. Lần thứ ba dự trù tổ chức tại miềm Trung, năm 2009. CÁC TÀI ĐOÀN... Các tài đoàn độc lập hành chính... là những cơ quan ngoại vi của chính phủ Nhật, thường nhận tài trợ của chính phủ và hợp tác với các cơ quan khác và các công ty liên hệ để thực thi các chương trình viện trợ các nước của chính phủ. Xin liệt kê một số tài đoàn chính (có thể đánh tên tắt để tra tìm trên Liên Mạng (Internet): - AOTS (The Association for Oversea Technical Scholaship = Hiệp Hội Đào Ta.o/Tu Nghiệp Kỹ Thuật Gia Hải Ngoại = Kaigai Gijutsusha Kenshu Kyokai) chuyên

Page 11: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

thực hiện các chương trình đưa chuyên viên Việt Nam... qua tu nghiệp kỹ thuật như ngư nghiệp, hầm mỏ, y tế... và quản trị xí nghiệp. - Japan Foundation (Kokusai Koryu Kikin, Quốc Tế Giao Lưu Cơ Kim) là quỹ tài trợ rất nhiều công trình văn hóa cho Việt Nam... Đặc biệt tài trợ thiết bị cho Học Viện Âm Nhạc ở Hà Nội và Sài Gòn... - JETRO (Japan External Trade Organization = Tổ Chức Chấn Hưng Mậu Dịch Nhật Bản = Nihon Boeki Shinko Kiko), chuyên thúc đẩy tìm hiểu, hợp tác trao đổi thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam... - JICA (Japan International Corporation Agency = Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế = Kokusai Kyoryoku Kiko), thuộc Bộ Ngoại Giao, liên hệ cấp chính phủ, chuyên đưa các chuyên gia, thường là nhận tu nghiệp sinh từ Việt Nam và đưa những người trẻ tốt nghiệp Đại Học tình nguyện qua Việt Nam... giúp đỡ về kỹ thuật, nông nghiệp, y tế, xã hội... - JOCV (Japan Overseas Corporation Volunteers = Đội Tình Nguyện Hợp Tác Hải Ngoại = Seinen Kaigai Kyoryokutai), thường hợp tác với JICA, đưa những người trẻ tốt nghiệp Đại Học tình nguyện qua Việt Nam... giúp đỡ về kỹ thuật, nông nghiệp, y tế, xã hội... - OFCF (Overseas Fishery Corporation Foundation = Tài Đoàn Hợp Tác Ngư Nghiệp Hải Ngoại = Kaigai Gyogyo Kyoryoku Zaidan), thuộc Bộ Nông Lâm Thủy Sản, liên hệ cấp chính phủ nhưng chủ yếu là các xí nghiệp tư, nhận tu nghiệp sinh từ Việt Nam và đưa các chuyên gia ngư nghiệp và thiết bị qua Việt Nam... CÁC TRỢ GIÚP TƯ NHÂN Ngoài ra còn khoảng 50 đoàn thể phi chính phủ (NGO) cũng đứng ra trợ giúp Việt Nam về giáo dục, y tế, xã hội như: - Hội Hữu Nghị Nhâ.t-Việt (Nihon Vietnam Yuko Kyokai), thành lập năm 1955, tài trợ xây dựng trường Nhật Ngữ tại Hà Nội, chứa được 400 học sinh. Đang xin nâng lên cấp đại học tiếng Nhật. - Toyota Foundation, Sumitomo Foundation... là các quỹ của các đại côgn ty, đã tài trợ nhiều công trình văn hóa cho Việt Nam như trùng tu, xuất bản sách... - Hiệp Hội Xây Dựng Nhật Bản cũng viện trợ 5 triệu Mỹ Kim để xây trường Kỹ Thuật Viê.t-Nhật đào tạo chuyên viên xây dựng tại ngoại ô Sài Gòn. - Hiệp Hội Văn Hóa Nhật Việt (Nichietsu Bunka Kyokai) mở lớp dạy tiếng Nhật đầu tiên ở Sài Gòn năm 1991, rồi Huế, Đà Nẵng. Tới năm 2001 thì ngưng chương trình dạy vì hết tài chính cấp học bổng. Trong thời gian 10 năm, trường đã đào tạo khoảng 300 đến 400 người tốt nghiệp khóa học 2 năm tiếng Nhật.

Page 12: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

- Junko Association, do các sinh viên đại học Meiji Gakuin Daigaku (Minh Trị Học Viện Đại Học) thành lập. Năm 1995, đã tài trợ xây dựng trường Tiểu Học Junko với tên Việt Nam là Hoàng Hoa Thám tại Đà Nẵng. Sự kiện khởi đi từ một cô gái trẻ Nhật là Junko Takahashi (Cao Kiều Thuần Tử), muốn giúp các trẻ em nghèo Việt Nam nhưng không may bị tai nạn chết sớm, nên gia đình và bạn học đã cố gắng thực hiện ước vọng của cộ Trường có 26 lớp, thu nhận khoảng 1.000 học sinh và Junko Association cấp học bổng cho khoảng 50 học sinh nghèọ - Quỹ Lá Xanh (Aoba Kikin, Thanh Diệp Cơ Kim) tại Việt Nam và Quỹ Trẻ Em Việt Nam (Betonamu Kodomo Kikin, Việt Nam Tử Cung Cơ Kim) trụ sở tại (Asia Bunka Kaikan), cấp học bổng cho khoảng 1.200 học sinh nghèo ở Việt Nam và giúp một số du học sinh Việt Nam đến Nhật Bản. Một số cựu sinh viên du học Nhật định cư ở Hoa Kỳ cũng giúp quỹ nàỵ Năm 2003, lại lập thêm Qũy Mai Vàng (Obai Kikin, Hoàng Mai Cơ Kim), bỏ khoảng 5 triệu Yen vào ngân hàng Việt Nam, lấy tiền lời giúp các em nghèo ở những vùng xạ - Hội Yểm Trợ Nhà Trẻ Em Việt Nam (Betonamu No Kodomo No Ie O Sasaeru Kai) có trụ sở tại Chiba (ẼổỆt, Thiên Diệp) và văn phòng tại Huế, đã xây dựng cơ sở dưỡng dục cho các trẻ em mồ côi hoặc nghèo. - Tài đoàn như Bridge Asia Japan và Ounkai hướng dẫn chuyên môn và tài trợ mở phòng đấm bóp tại số trường mù như Nguyễn Đình Chiểu ở Sài Gòn, các trường ở Cần Thơ, Đà Nẵng, Huế, Ban Mê Thuột... nhằm giúp người mù có thể tự kiếm tiền sinh sống. - Hiệp Hội Giúp Đỡ Người Mù Quốc Tế (Quốc Tế Thị Giác Chướng Hại Giả Viện Hộ Hiệp Hội tức IAVI, International Association For The Visually Impaired) giúp đưa người mù qua Nhật du học về đấm bóp và châm cứu để sau này về Việt Nam chỉ dẫn lại cho những người đồng cảnh ngô.. - Các trường Nhật Ngữ Shinjuku (Tân Túc), Shizuoka (Tĩnh Cương), nhiều tổ chức khác và các thanh niên tình nguyện... cũng giúp dạy tiếng Nhật hay cung cấp tài liệu cho các trường Nhật Ngữ tại Việt Nam... - Năm 1993, Hội Hữu Nghị Okinawa - Việt Nam đã đưa ra chương trình trồng cây Anh Đào (tên khoa học là Prunus sumonobeaty) ở Hà Nội. - Năm 1998, một hội đoàn Nhật khác cũng đã tặng Việt Nam cây Anh Đào con đợt thứ hai, trồng ở Đà Lạt. Nhật Bản đã tặng đợt thứ nhất năm 1963, trồng quanh Hồ Xuân Hương... cây đã lớn, cho hoa rất đẹp, nhưng nghe nói một số người yêu thích đã lấy làm của riêng nên nay không còn mấy nữạ - Hội Nghiên Cứu Văn Tự Kính (Mojikyou Kenkyu Kai) và AI-Net tặng nhu kiện đánh Hán, Nôm và giúp thực hiện chương trình đánh chữ Hán, Nôm bằng Quốc Ngữ.

Page 13: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

HỖ TRỢ CA GHÉP GAN ĐẦU TIÊN Ở VN Ngày 31/1/2004, đã diễn ra ca ghép gan đầu tiên tại Việt Nam ở Học Viện Quân Y, Hà Nội với sự tiếp tay trực tiếp của phái đoàn Bác Sĩ Nhật gồm 5 người do Bác Sĩ Giáo Sư Masatoshi Makuuchi, Chủ Nhiệm Khoa Giải Phẩu Gan-Mật, thuộc trường Đại Học Y Khoa Tokyo hướng dẫn và đem theo các thiết bị tối tân nhất. Cầm đầu phía Việt Nam là các Bác Sĩ Lê Trung Hải, Nguyễn Thanh Liêm, Đỗ Tất Cường... và rất nhiều chuyên gia liên hệ, có 8 kíp làm việc thường xuyên, kể cả thay ca là 20 kíp, quy tụ 120 Giáo Sư và Bác Sĩ của 3 bệnh viện lớn nhất VN là bệnh viện trên cùng với Viện Nhi Trung Ương và Chợ Rẫỵ Cháu Nguyễn Thị Diệp 10 tuổi, bị sơ hư gan và nhận 1/2 lá gan trái từ bố là ông Nguyễn Quốc Phòng 32 tuổi để ghép thay vào chỗ gan cũ bị hự Ca phẫu thuật thuộc loại khó khăn bậc nhất này đã phải mất tới 5 năm chuẩn bị, nhiều chuyên gia Việt Nam đã được cử đi ra nước ngoài học thêm về chuyên môn và thực tập 2 lần trên lơ.n/heo. Ca mổ dùng loại dao siêu âm chuyên dụng "Cusa", rạch đến đâu thì hút và cầm máu đến đó, kéo dài trong 18 giờ (thay vì dự định 12 giờ) với 70 loại thuốc và 23 lít máu dự phòng nhưng chỉ phải dùng 4 lít tiếp cho cháu Diệp. Riêng phần lấy gan của ông Phòng mất 8 giờ đồng hồ và lấy gan hư của cháu Diệp ra mất 7,30 giờ đồng hồ vì gan bị dính với màng ruột, khó nhất là việc cắt và ghép các vi mạch... Ca ghép tiến hành cùng lúc tại 4 phòng, phòng lấy gan và rửa gan, phòng ghép gan và vi phẫu thuật nối động mạch gan, phòng sau mổ và hồi sức cho người hiến và nhận gan. Chi phí một ca ghép gan ước lượng phí tổn khoảng 1 tỷ đồng Việt Nam (hơn 60.000 Mỹ Kim), lần này có tính cách thử nghiệm nên bệnh nhân được miễn phí, ở các nước như Nhật và Âu-Mỹ thường tốn khoảng từ 150.000 đến 200.000 Mỹ Kim. Theo Bác Sĩ Lê Thế Trung, 78 tuổi, người đầu tiên ghép thận thành công tại Việt Nam năm 1992, sau khi nối mạch máu, gan hồng hào, tốt, coi như bước đầu thành công. Ca mổ chỉ được coi là thành công nếu bệnh nhân ở trong tình trạng ổn định sau khi ghép khoảng 15 ngàỵ Ông Phòng sẽ xuất viện sau 1 tháng, còn cháu Diệp thì phải cần tới 3 tháng theo dõi. Hình ảnh ca phẫu thuật đã được truyền ra ngoài cho các chuyên gia và giới truyền thông theo dõị Một số trang nhà ở Việt Nam đã nhanh chóng lên tin hàng giờ về ca ghép gan. Kế tiếp vụ này, Bác Sĩ Giáo Sư Masatoshi Makuuchi cũng đã nhận lời sẽ tiếp tay ca ghép gan thứ hai ở bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Sau khi ghép xong, phái đoàn Nhật dù thức suốt đêm đã bay về ngay sáng 1/2, chỉ có ông Takashi Niiya là chuyên gia về hậu giải phẫu ở lạị để theo dõi bệnh nhân. Ca ghép gan đầu tiên diễn ra tại Hoa Kỳ năm 1963, tới nay đã có hàng chục ngàn ca ghép diễn ra, tỷ lệ thành công là 67-79%, tương đối thấp hơn các loại ghép khác

Page 14: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

như võng mạc, tim, thận. Tỷ lệ bệnh nhân được ghép gan sống được sau 1 năm là 88%, sau 5 năm là 70% và sau 10 năm là 61%. Sau các ca ghép thận, giải phẫu tách đôi song sinh dính nhau, tuy về kỹ thuật và thuốc men vẫn hoàn toàn phải dựa vào máy móc của Nhật... nhưng về mặt kiến thức thì ngành y khoa Việt Nam cũng đã tiến được một bước quan trọng. Ông Phòng đã rời bệnh viện vào nhà nghĩ dưỡng sức từ cuối tháng 2. Em Diệp đã trải qua 2 lần phải ứng thải gan ghép (reject reaction) cấp tính ngày 13-24/2 nhưng đều vượt qua được, sức khỏe của em hồi phục tốt nên đã được đưa ra phòng bệnh thường từ ngày 10/3/2004. THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC Từ năm 1976, mậu dịch giữa Việt Nam và Nhật Bản chỉ đứng thứ hai sau Liên Xộ Từ thập niên 80, khi Việt Nam khai thác được dầu hỏa và bán hầu hết cho Nhật Bản thì Nhật Bản trở thành nước ngoại thương lớn nhất của Việt Nam, dần dần dầu được bán rộng cho nhiều nước. Năm 2002, Việt Nam sản xuất khoảng 16,4 triệu tấn dầu thô trị giá khoảng 2,8 tỷ Mỹ Kim, trong số đó có 80% là từ mỏ Bạch Hổ. Hầu hết dầu thô được xuất cảng, qua Hoa Kỳ 27,78%, Nhật Bản 23,89%, Trung Quốc 22,2%, Tân Gia Ba (Singapore) 21,67%... Cho tới năm 2005, có khoảng 2.000 công ty Nhật mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam (có khoảng 20.000 công ty Nhật mở chi nhánh hoạt động tại Trung Quốc). Năm 1997, Nhật Bản nhập từ Việt Nam khoảng 2 tỷ MK (90% dầu thô, hải sản, quần áo và mới đây cả rau của Việt Nam), xuất qua Việt Nam khoảng 1,2 tỷ MK gồm các máy móc, xe gắn máy, xe hơi, nguyên liệu đã chế biến, hóa chất... Người Việt ở Nhật Bản góp phần quan trọng trong việc xuất cảng sản phẩm cũ hay phế thải của Nhật Bản qua Việt Nam, đáng kể nhất là từ các đồ điện như máy hát, TV, tủ lạnh... cho đến xe gắn máy, xe hơi, máy tàu, xe xây dựng, máy cầy, máy tiện... Năm 2005, mức ngoại thương hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản lên hơn 5 tỷ Mỹ Kim, thứ hai sau mức ngoại thương hai chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là khoảng 6 tỷ Mỹ Kim. Tới năm 1997, Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 3,145 tỷ Mỹ Kim cho khoảng 150 dự án, đứng hàng thứ ba sau Đài Loan và Hồng Kông. Chú trọng vào việc thiết lập các nhà máy sản xuất, lắp ráp, dùng nhân công rẻ của Việt Nam... Năm 1999, hai nước đã đồng ý thực thi chế độ quan thuế tối huệ quốc với nhaụ Dự trù năm 2004, ký Hiệp Ước Xúc Tiến và Bảo Vệ Đầu Tư. Năm 2000, số đầu tư của Nhật lên hàng thứ 2 và số dự án thực thi lên hàng đầụ Thương vụ trao đổi giữa hai nước tổng cộng lên 4,30 tỷ MK (500 tỷ Yen), qua năm 2002 lên mức 5 tỷ MK. Có đường bay trực tiếp Tokyo - Sài Gòn, số du khách Nhật tới Việt

Page 15: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Nam là gần 150.000 người. Năm 2002, có đường bay trực tiếp Tokyo - Hà Nội. Năm 2003, có đường bay thứ ba nối phi trường Fukuoka (Phúc Cương) và Việt Nam. Tổng cộng năm này có khoảng 270.000 du khách Nhật tới Việt Nam. Năm 2005, có thêm đường bay thứ tư nối phi trường Nagoya (Danh CổThất) và Việt Nam. Kể từ 1/1/2004, người Nhật đi du lịch và buôn bán ở Việt Nam trong 2 tuần không cần xin chiếu khán, việc gia hạn tương đối cũng dễ dàng. Năm 2005, có khoảng 400.000 người Nhật tới Việt Nam. Dự trù từ nay, số người Nhật tới Việt Nam sẽ tăng mỗi năm từ 50.000 đến 100.000 ngườị Hiện công dân Thái, Phi và Mã Lai... cũng đang hưởng quy chế này ở Việt Nam. Trong khi đó, số người Việt tới Nhật mỗi năm chỉ khoảng một vài ngàn người, vì muốn du lịch phải có thân nhân bảo lãnh, thủ tục khá khó khăn. DU HỌC NHẬT BẢN Từ năm 1905, cụ Phan Bội Châu, Tăng Bạt Hổ đã mở ra Phong Trào Đông Du, đưa hơn 200 du học sinh Việt Nam qua Nhật. Ngay giữa thời Thế Chiến Thứ 2 cũng có khoảng 10 người Việt tới du học. Từ sau Thế Chiến Thứ 2 tới nay, vẫn có liên tục những đợt sinh viên Việt Nam du học Nhật Bản. Con số cao nhất trước 1975 là khoảng 900 người sau đó đa số đi nước thứ ba, ở lại Nhật khoảng 150 người và về nước khoảng 10 ngườị Con số du học sinh mới từ khoảng năm 1990 tới năm 2006 khoảng 2.000 người và đã có khoảng 200 người về nước. (Xin xem chương Lịch Sử Người Việt Ở Nhật). DU HỌC VIỆT NAM? Nghe nói người Nhật du học Việt Nam thì chắc nhiều người Việt cũng hơi ngạc nhiên, họ qua nước mình học cái gì vậỷ Thực tế họ cũng muốn học tiếng Việt để tìm hiểu văn hóa, lịch sử, kinh tế... và mở đường phát triển đất nước họ nên đã có chương trình du học từ thời Thế Chiến Thứ 2 tới naỵ Đợt 1: Thời Thế Chiến Thứ 2, nhằm đào tạo một số người thực hiện mục tiêu "Cộng tồn, cộng sinh của người Đông Dương và phát triển Nhật Bản", Bộ Giáo Dục và Ngoại Giao Nhật Bản đã thành lập một trường đặc biệt tại Việt Nam và cấp học bổng cho các học sinh trung học Nhật được tuyển chọn qua du học, coi như học trường trung học chuyên nghiệp (đệ nhị cấp/cấp 3). Chính thức khai giảng từ năm 1942, đã có 3 khóa tổng cộng 112 người Nhật qua Việt Nam du học ở Nam Dương Học Viện (Nanyo Gakuin, dành riêng cho người Nhật), thường gọi tắt là "Nam Học" tại đường Trần Hưng Đạo, quận 5, Chợ Lớn.

Page 16: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Chương trình học dạy tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Nhật, nông nghiệp... Vào năm 1945, các học sinh này bị động viên tại chỗ, bổ sung cho quân đội Nhật và cũng tham gia chiến đấụ Chương trình này chỉ kéo dài tới năm 1945 (chấm dứt Thế Chiến Thứ 2) thì trường bị đóng cửạ Những người này năm 2000 đều đã ở tuổi 75. Họ đã thành lập Hiệp Hội Văn Hóa Nhật Việt (Nichietsu Bunka Kyokai) năm 1991, quy tụ hơn 40 người còn sống sót. Hội Trưởng là ông Toranojo Ando (An Đằng Dần Chi Thừa), là một trong những thầy dạy những học sinh Nhật khi đó, nay đã ngoài 90 tuổị Để "trả ơn" những gì họ đã ăn học tại Việt Nam, hiệp hội đã đặt mục tiêu giao lưu văn hóa ở mức dân sự bằng cách yểm trợ thành lập lớp dạy Nhật ngữ tại trường Đại Học Tổng Hợp TP HCM (sau đổi là Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn) từ năm 1991. Học viên được cấp học bổng, chương trình học toàn thời gian trong 2 năm, mỗi lớp 20 người, trang bị phòng thính thị tối tân, nên trình độ tiếng Nhật của học viên rất khá. Khóa đầu, điều kiện học lực là tốt nghiệp trung học phổ thông, số người ghi tên thi rất đông đảo, lên đến 2.000. Các khóa sau nâng điều kiện học lực từ Đại Học trở lên và số người ghi tên thi khoảng 400 ngườị Năm 1993, chương trình dạy tiếng Việt được mở thêm ở Đại Học Huế. Cho tới năm 1999, tổng số người Việt theo học khoảng 250 người, một số người sau đó đã du học Nhật Bản. Đợt 2: Từ thập niên 70 cũng có một số ít người Nhật qua du học. Họ là sinh viên trường Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh (Tokyo Gaigo Daigaku)... như ông Kazuo Minagawa (Giai Xuyên Nhất Phu), qua năm 1972-74. Ngay sau khi học xong ông ở lại làm việc cho Tòa Đại Sứ Nhật tại Sài Gòn và tiếp tục làm việc tại Bộ Ngoại Giao Nhật tới naỵ Đợt 3: Từ cuối thập niên 80, đầu 90 người Nhật lại qua học, theo thời gian, số người du học khá đông nên được kể như một đợt mớị Một số lớn là sinh viên đang học tiếng Việt tại trường Đại Học Ngoại Ngữ Tokyo (Tokyo Gaigo Daigaku, Đông Kinh Ngoại Ngữ Đại Học) hay Đại Học Ngoại Ngữ Osaka (Osaka Gaigo Daigaku, Đại Phản Ngoại Ngữ Đại Học), Đại Học Ngoại Ngữ Kyoto (Kyoto Gaigo Daigaku, Kinh Đô Ngoại Ngữ Đại Học), Đại Học Ngoại Ngữ Kanda (Kanda Gaigo Daigaku, Thần Điền Ngoại Ngữ Đại Học)... Hầu hết là sinh viên du học tự túc, không nằm trong một chương trình rõ rệt nàọ Từ năm 1999, thường xuyên có khoảng 300 sinh viên Nhật du học về ngữ học, một số người học về mỹ thuật, nấu ăn... phần lớn ở Sài Gòn và Hà Nộị Ở Nhật, tổng cộng có khoảng 5.000 người Nhật học tiếng Việt. Ngày 6/4/1999, qua sự giới thiệu của chúng tôi, tài đoàn Hiệp Hội Kiểm Định Năng Lực Hán Tự Nhật Bản (Nhật Bản Hán Tự Năng Lực Kiểm Định Hiệp Hội), một tài đoàn được Bộ Giáo Dục công nhận để phát hành sách học thi tiếng Nhật và tổ chức các kỳ

Page 17: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

thi tiếng Nhật, đã trao tặng 100.000 cuốn sách học chữ Hán trong tiếng Nhật. Việc phân phối đã do Tòa Tổng Lãnh Sự Nhật Bản ở Sài Gòn trao tặng trực tiếp đến 20 trường Nhật ngữ trong vùng. Ông Tổng Giám Đốc Nobori Okubo (Đại Cửu Bảo Thăng) và Yoshihide Yamori (Thỉ Sâm Nghĩa Anh), Cục Trưởng Đông Kinh của tài đoàn này đã tới Sài Gòn dự buổi lễ trao tặng. Đầu năm 2000, tại Nhà Bè, Sài Gòn có trường Gobic chuyên dạy hàm thụ tiếng Anh và tiếng Nhật, cũng được nhiều người hưởng ứng. AI-NET TẶNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÁNH CHỮ NÔM Hội Nghiên Cứu Văn Tự Kính (Mojikyo Kenkyukai) và AI-Net đã có nhã ý trao tặng cho người Việt công trình tim óc nàỵ Ngày 20/10, tại Tokyo Kokusai Forum, ông Tadahisa Ishikawa (Thạch Xuyên Trung Cửu) Hội Trưởng Hội Nghiên Cứu Văn Tự Kính đã trao tặng đại diện trong nước là Viện Tưởng Viện Nghiên Cứu Hán Nôm Trịnh Khắc Mạnh cùng Giáo Sư Hán-Nôm Nguyễn Quang Hồng, Kỹ Sư Điện Toán Ngô Trung Việt. Có khoảng 50 người tham dự buổi trao tặng này, đa số là người Nhật thuộc giới học giả, chuyên gia hoặc những người liên hệ mật thiết với Việt Nam. Dịp này nhóm sinh viên Tokyo Gaigo Daigaku (Đông Kinh Ngoại Ngữ Đại Học) là ba cô Yoshiko Aikawa đánh đàn bầu, Shimizu Akane đánh đàn tranh và Oguri Kumiko đánh đàn t'rưng giúp vui, được sự tán thưởng của mọi người tham dư.. Nhật báo Asahi lớn thứ hai ở Nhật đã long trọng giới thiệu chương trình đánh chữ Nôm trong tờ báo phát hành cùng ngàỵ Ngày 21/10, trong buổi sinh hoạt giao lưu Viê.t-Nhật với món ăn Việt Nam do tạp chí song ngữ Plaza2 tổ chức tại Câu Lạc Bộ Giao Lưu Văn Hóa thuộc Mekong Center, ông Tsuneo Yatagai (Cốc Điền Bối Thường Phu) và Tokio Furuya (Cổ Gia Thời Hùng) đã đại diện hội trao tặng riêng chúng tôi chương trình đánh chữ Nôm tượng trưng thay cho người Việt ở hải ngoại. Sau đó, chúng tôi sẽ thêm phần tự điển để tra tìm khoảng 20.000 chữ Hán, Nôm bằng chữ Quốc Ngữ dạng Vietnet (VIQR) vào Kim Tích Văn Tự Kính và phụ trách phân phối đến người Việt ở hải ngoại kèm "Cẩm Nang Đánh Việt, Nhật, Hán, Nôm" bằng tiếng Việt... do chúng tôi biên soạn. Với chương trình này, có thể đánh chữ Quốc Ngữ, Hán, Nôm... trên hệ thống vận hành Windows phiên bản tiếng Nhật. Do đó, cho tới nay, dù hệ thống vận hành Windows 2000 phiên bản tiếng Anh là phiên bản đa ngôn ngữ (dùng một tên chung cho hầu hét mọi ngôn ngữ) nhưng chưa thể cài đặt chương trình này và dùng chung với các bộ chữ Việt UNICODE đối ứng với Windows 2000.

Page 18: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

- - - - - -

CHƯƠNG 49

TƯƠNG QUAN VĂN HÓA NHẬT-VIỆT

ẢNH HƯỞNG NHẬT BẢN ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Ảnh hưởng Nhật Bản ở Việt Nam biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử, nên không liên tục, có thể chia làm năm giai đoạn. - Giai đoạn buôn bán từ cuối thế kỷ 16 cho tới khi Pháp đô hộ Việt Nam. - Giai đoạn Nhật Bản tới và chiếm đóng Việt Nam (1940 đến 1945), nặng về chính tri.. - Giai đoạn bang giao với Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam (1954-1975), bồi thường, viện trợ và buôn bán. - Giai đoạn bang giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc (1973-1976), chưa chính thức trao đổi Đại Sứ. Sau là Việt Nam thống nhất (1976-1986), trao đổi Đại Sứ, nhưng Việt Nam đóng cửa, nên chỉ ở mức độ rất thấp. - Giai đoạn phát triển toàn diện từ 1986, nhất là từ đầu thập niên 90 đến naỵ Đã thực hiện rất nhiều những chương trình trao đổi nhân sự, văn hóa, kỹ thuật... Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia hàng đầu viện trợ cho Việt Nam (năm 2000 là 1 tỷ Mỹ Kim), nên tất nhiên có ảnh hưởng lớn về kinh tế... Người Việt yêu chuộng và dùng khá nhiều hàng hóa Nhật, nhất là đồ điện gia dụng, máy hình, xe gắn máy, xe hơi... Về mặt tinh thần, nói chung, người Việt ở Nhật có lẽ cũng học được tính chăm chỉ, cẩn thận, đàng hoàng. Thế hệ du học sinh chúng tôi thời trước hay thời này cũng vậy, khi so với tập thể du học sinh Việt Nam ở các nước khác thì thấy có điểm nổi bật ở chỗ đó là một tập thể tương đối có trên dưới như quan hệ đàn anh - đàn em (tiền bối - hậu bối) của Nhật. Nhật Bản qua các Giáo Sư Kinh Tế đã cố vấn trong việc hoạch định đường lối kinh tế và Giáo Sư Luật cũng cố vấn trong việc soạn thảo Bộ Luật Dân Sự của Việt Nam. Nói chung ảnh hưởng văn hóa giữa hai dân tộc chưa nhiều, một số phim võ sĩ đạo thời thập niên 60 vẫn còn xa lạ với người Việt, nhưng xét cho kỹ thì thấy cũng có một số tương quan khá đặc biệt. Do trao đổi thương mại từ thế kỷ 17 mà người Việt thấy tiền đồng của Nhật rồi lấy chữ "đồng" làm đơn vị tiền tệ của mình, dù trước đó người Việt đã dùng tiền đồng. Và từ thời ấy, người Việt đã thích những cây kiếm thật sắc của người Nhật. Về mặt nghệ thuật,

Page 19: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

từ đầu thập niên 1940, đã có hai phụ nữ Việt đi Nhật học cắm hoa (ikebana, sinh hoa), sau này một số người lớn tuổi thích chơi "bonsai" (bồn tài, loại cây kiểng thu nhỏ), người Việt cũng biết vườn Nhật Bản (Nihonniwa, Nhật Bản Đình) nổi tiếng là đẹp. Không biết từ bao giờ, người Việt đã truyền tụng với nhau câu: "Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật". Người vợ Nhật nổi tiếng chiều chồng, được coi là mẫu người lý tưởng của người Việt. Đó là quan niệm của người Việt, nên khi gặp người Nhật, dù là nam hay nữ, người Việt hay hỏi là có biết là người Việt nghĩ như vậy không. Với phụ nữ Nhật thì như vậy, nhưng với đàn ông Nhật, người Việt nghĩ họ có vẻ e dè vì tính kỷ luật, lạnh lùng và hơi phong kiến. HIỆN TƯỢNG PHIM "OSHIN" Mươi năm trước, có một hiện tượng đã ăn sâu vào tâm trí người Việt thời nay đó là phim bộ "Oshin", kể về cuộc đời cô bé nhà nghèo đi ở đợ bị hành hạ, gặp không biết bao nhiêu điều khốn khổ và những chuyện đầy tình nghĩạ Nguyên tác truyện phim của Sugako Hashida (Kiều Điền Thọ Gia Tử). Phim do đài NHK số 1 thực hiện, chiếu hàng ngày, mỗi ngày 15 phút, suốt từ tháng 4 năm 1983 qua tháng 3 năm 1984, tổng cộng 298 lần. Phim kể về hoàn cảnh của cô bé Oshin sống ở miền quê thuộc tỉnh Yamagata (Sơn Hình), ở phía tây Bản Châu (Honshu, đảo lớn nhất), thời Minh Trị năm 40 (tức năm 1907), mới 7 tuổi đã phải đi ở đợ, cũng giống hoàn cảnh của khá nhiều người Việt. Ban đầu Oshin sợ lắm, nhất định không đi, vì còn quá bé, không dám rời xa gia đình. Nhưng sau khi thấy vô phương, vì cứ ở nhà thì chết đói, Oshin đành chấp nhận đị Khi thấy mẹ và bà quá lo lắng và khóc vì không biết đứa bé 7 tuổi sẽ làm được việc gì và làm sao đối phó với đời... thì Oshin ngược lại lấy hết can đảm quay ra an ủi, bà và mẹ yên tâm, cháu, con sẽ làm được. Oshin ra đi bằng chiếc bè chòng trành, quay lại gào thét gọi mẹ, bố... Người bố ngoài mặt cứng rắn, độc đoán nhưng trong lòng cũng thương con vô hạn, lén ra tiễn con trong tâm trạng bất lực hay có lúc đắp chăn cho con ngủ. Vừa tới nơi làm việc, Oshin đã bị cảm, sáng hôm sau dậy trễ liền bị người làm la mắng. Oshin có nhiệm vụ lo việc vặt trong nhà cho tới giặt quần áo và cõng em. Có lần thấy trẻ con trong vùng đi học, Oshin tò mò đi theo đến trường, lén đứng ở ngoài học ké. Ông thầy bắt gặp, thấy tội nghiệp nên nói sẽ giúp cho Oshin đi học. Nhưng vì mải học lén, Oshin về nhà trễ, cả nhà lo lắng đi tìm, trong khi đó thì em đói khóc nên bị la một trận. Oshin đâm ra sợ không còn dám nghĩ đến việc đi học. Nhưng cuối cùng thì ông thầy cũng đến nhà thuyết phục được gia chủ cho Oshin đi học, với điều kiện Oshin vẫn phải cõng em. Oshin vào lớp học, hết em khóc, rồi em i.... bị học trò chung quanh phản đối, chê cườị Có lúc phải Oshin ra khỏi lớp thay tã cho em, nghe trong lớp đọc toán cộng 6+5 thành "juichi" (11), ở ngoài hành lang Oshin cũng ngóng cổ đọc theo "juichi",

Page 20: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

cảnh tượng thật cảm động... Bị bạn bè hăm dọa, bắt nghỉ học, thế mà Oshin vẫn cố gắng tự học, nhiều lúc lén học, vì học là mất đi thì giờ làm việc, sau này Oshin viết được thư bằng ký tự Katakana nhờ người đưa về cho gia đình khiến cả gia đình ai cũng ngạc nhiên không tin nổi... Thời đó, là con bé đi ở đợ, nhiệm vụ giữ em, mà đọc được chữ, nhớ được bốn phép toán cộng trừ nhân chia căn bản là điều không ai ngờ. Oshin còn quá bé để có thể được tín nhiệm trong bất cứ việc gì, do đó, luôn luôn bị người lớn la mắng, nghi ngờ, thậm chí bị đánh. Ở nhà có người mất tiền cũng nghi ngờ Oshin lấỵ Bắt Oshin cởi áo cho xét, khi thấy đồng tiền cắc 50 Sen (ẸK = 1/100 ẦẢYen) thì cho đúng là Oshin ăn cắp, dù Oshin phân trần là tiền bà Ngoại cho nhưng không ai tin. Xa nhà, nhớ mẹ, nhớ bà, mỗi khi ngồi giặt áo bên sông, Oshin hay tâm sự với mẹ và bà, vì tin rằng tiếng nói của mình sẽ theo dòng sông đến với mẹ và bà. Có lần Oshin phải giặt quần áo giữa mùa đông lạnh cóng tay, bị cho là giặt không sạch, bắt đi giặt lại, uất ức quá, Oshin bỏ đi giữa cơn bão tuyết và ngất xỉu... Khi về được đến nhà, mẹ và bà ra mừng, còn bố thì đánh, vì Oshin bỏ đi nên phía chủ đã tới đòi lại gạo!!! Nhà quá nghèo, gặp lúc mất mùa, bà Ngoại già, nghĩ mình vô dụng, sống chỉ tốn cơm nên ra bờ sông định tự tử, Oshin thấy hai em khóc, không thấy bà đâu vội chạy đi tìm và cứu được bà. Cháu Oshin thương mắng bà là "Khờ quá!". Mẹ Oshin cũng phải ra tỉnh làm gái bán ba... Câu chuyện là cả cuộc đời trôi nổi của Oshin, kéo dài từ năm 1900 đến 1983, là năm thực hiện phim. Oshin phải đối phó với không biết bao nhiêu là nghịch cảnh, xã hội luôn có người tốt xấu, nên Oshin tuy bị đầy đọa, ức hiếp mà cũng được giúp đỡ nhiều, phim rất cảm động và Oshin diễn xuất thật tài tình, khiến người xem khó mà cầm được nước mắt. Phim quay quanh nhân vật chính là Oshin với bối cảnh là xã hội Nhật trong gần suốt thế kỷ 20, nên phải có tới ba nữ tài tử thay nhau đóng vai này theo từng thời kỳ, thứ tự từ nhỏ đến lớn là Ayako Kobayashi (Tiểu Lâm Lăng Tử), Nobuko Otowa (Ất Vũ Tín Tử), Yuko Tanaka (Điền Trung Dụ Tử). Tỷ lệ khán giả xem lúc đầu là 40%, và lúc cao nhất lên tới 62,9%. Đương thời, cuốn phim có ảnh hưởng tức khắc và mạnh mẽ đến chính giới, tài giới, giáo dục và thể thao... tức toàn thể xã hội Nhật Bản. Đâu đâu cũng thấy người ta dẫn dụng từ "Oshin". "Oshin" tiếng Nhật chỉ viết bằng chữ Hiragan, không rõ nghĩa, nhưng dựa theo câu chuyện, được hiểu theo một nghĩa đặc biệt. Với "O" dùng như một cách nói kính ngữ quen thuộc của người Nhật như "Okane" là tiền. Còn "Shin" là "Shin" trong "Shinbo" tức (tân bão), nguyên nghĩa là ôm sự đắng cay, ý chỉ sự nhẫn nại, kiên trì. Tác giả truyện phim cho rằng thời đó, người xem không mấy hiểu ý nghĩa mà bà muốn nói, chính lúc này (năm 2003), kinh tế cực kỳ khó khăn mới là lúc hiểu rõ phim hơn. Năm 2003, đài

Page 21: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

NHK cũng phát hành đầy đủ bộ phim dưới dạng DVD, như thiên Thiếu Nữ 4 đĩa giá 15.200 Yen, thiên Thanh Xuân 5 đĩa giá 19.000 Yen... Phim "Oshin" được chuyển âm ra nhiều thứ tiếng, tới năm 2003, tổng cộng đã chính thức chiếu tại 59 quốc giạ Phiên bản tiếng Việt được đài truyền hình Việt Nam chiếu từ mùa hè năm 1994 kéo dài khoảng một năm, và Việt Nam là quốc gia thứ 41 chiếu phim nàỵ Mỗi lần chiếu một giờ, người Việt rất hâm mộ nên khi đó mọi người tập trung ở nhà xem, ngoài đường vắng hẳn bóng người, là hiện tượng hầu như chưa từng có ở Việt Nam. Phim còn được yêu cầu chiếu tới lần thứ hai và trước khi xem, nhiều người bảo nhau chuẩn bị khăn để lau nước mắt! Có điều, nhiều người Việt ở Nhật nhưng không xem trên đài NHK năm 1983 hay không ở Việt Nam thời năm 1994, thì lại không biết gì về "Oshin". Nay muốn xem phải ra tiệm thuê băng loại hoạt họa hay DVD do NHK vừa phát hành năm 2003 hay tìm phiên bản tiếng Việt thu từ truyền hình tại Việt Nam. Ngày nay, người Việt hay nói đùa với nhau: - "Nhà có Oshin không?", có nghĩa là nhà có nuôi người làm không? - "Oshin kìa", mỗi khi gặp phụ nữ Nhật ở Việt Nam. - "Đi Oshin", có nghĩa là đi làm lao động ở Nhật bất kể là nữ hay nam. - Khi lấy chồng người Nhật, các cô và bà mẹ ruột đều nghĩ tới "Oshin", vì cũng sợ rơi vào hoàn cảnh bị đối xử tàn tệ như đối với mẹ con "Oshin"... Vì "Oshin" quá nổi tiếng, nên có tiệm ăn Nhật ở đường Đệ Tam, Sài Gòn cũng lấy tên là "Oshin". Tuy nhiên, phim "Oshin" chiếu đã khoảng 20 năm trước, lại liên tục nhiều kỳ nên vẫn có rất nhiều người Nhật không biết đến phim nàỵ Nhân kỷ niệm 50 năm truyền hình Nhật Bản và phim "Oshin" được 20 năm, đài NHK số 1 đã chiếu lại tóm lược bộ phim "Oshin" thể theo lời yêu cầu của nhiều khán thính giả. Bộ phim nổi tiếng "Oshin" thiên Thiếu Nữ được chiếu liên tiếp 4 kỳ từ ngày 17 đến 20/3/2003, từ 7:30 đến 8 giờ 45 tốị Chương trình vệ tinh BS2 của NHK thì chiếu toàn bộ từ ngày 31/3, mỗi tuần từ thứ Hai đến thứ Bảy, từ 7:30 đến 7 giờ 45 tốị Tất nhiên rất nhiều người Nhật và cả người ngoại quốc háo hức đón xem. VỚI TRẺ VIỆT Riêng đối với trẻ em Việt thì chúng say mê các truyện bằng tranh ấn bản tiếng Việt như "Đôrêmon" (tiếng Nhật là Doraemon, Con Mèo), gồm 65 tập. Đây là tác phẩm trường thiên nổi tiếng làm say mê biết bao nhiêu triệu trẻ em Nhật và thế giới của nhà danh họa Fujio Fujiko (Bất Nhị Hùng Đằng Tử, mất năm 1996). Đầu thập niên 90, khi tác giả còn sống, ông đã từng sang thăm Việt Nam và được tiếp đón nồng nhiệt. Truyện "Thám Tử Lừng Danh Conan" (Meitantei Konan, Danh Thám Trinh...) của nhà danh họa Gosho Aoyama (Thanh Sơn Cương Xương), gồm 25 tập, cũng rất thu hút... Nhà xuất bản

Page 22: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Kim Đồng đã chính thức được nhà xuất bản Shogakukan (Tiểu Học Quán) nhượng tác quyền in các cuốn trên, mỗi cuốn mỗi lần in khoảng 25.000 đến 30.000 bản. Ngoài ra, qua đó còn có Câu Lạc Bộ "Đôrêmon", Câu Lạc Bộ Thám Tử... để thúc đẩy các hoạt động của trẻ em. Nhật Bản cũng muốn phổ biến ở Việt Nam loại kịch tranh liên hoàn gọi là "Kamishibai" (Chí Chi Cư) nên đã có những phái đoàn qua Việt Nam cũng như mời phái đoàn họa sĩ tranh thiếu nhi Việt Nam qua tham quan những buối trình diễn ở Nhật Bản. Đây là một loại kịch vẽ bằng nhiều bức tranh dành cho trẻ em, rất thông dụng ở nhà trẻ và Tiểu Học Nhật. Người hướng dẫn sẽ lần lượt nói dựa theo câu truyện diễn tả bằng những bức tranh liên tục nhau. THỨC ĂN Món ăn Nhật nói chung khó ăn đối với người Việt, nhưng không những người Việt ở Nhật mà ở khắp nơi trên thế giới đang bắt đầu làm quen với "sushi" (cơm nắm cá) và "sashimi" (gỏi cá). Đối với nhiều người, cá sống thật khó ăn, nhưng với nhiều người khác, khi đã vượt qua được ngại ngùng ban đầu thì mỗi khi nghe đến cá sống là sáng mắt ra như người Việt nghe đến thịt chó vậy, cũng mê wasabi, nhất là gừng muốị Các chợ Việt Nam ở Hoa Kỳ nay cũng thấy bán món giả cua, tiếng Nhật gọi là "kani kamaboko" (giải bồ mâu, chả làm bằng cá nhưng có vị cua). Có tin là món "cao lầu" (bún sợi lớn màu vàng ăn với thịt heo và tương) nổi tiếng của Hội An nguồn gốc từ Ise Udon (Y Thế ôn Đồn) của Nhật, được truyền qua thời thương thuyền Nhật tới đây. Năm 1997, người Nhật còn đem lúa của họ qua Việt Nam và khuyến khích trồng. Đã có 300 nông dân trồng ở Long Xuyên... theo hợp đồng với công ty Angimex Kitokụ Năm 2002, canh tác diện tích 460 ha, sản xuất được 1.200 tấn, huê lợi cao hơn trồng lúa Việt. Giá lúa thường 2.400 đồng/1kg và lúa giống 3.000 đồng/1kg. Người Việt trồng lúa từ ngàn năm rồi, nhưng đây là lần đầu tiên trồng lúa Nhật và học biết được quy trình chăm sóc lúa cực kỳ khoa học, rất tinh vi và công phu của người Nhật để luôn đạt hiệu năng tốt nhất. Năm 2003, đã có khoảng 100 tiệm ăn và tạp hoá Nhật ở Việt Nam. Đặc biệt tại Sài Gòn có cả một tiệm bách hoá Nhật Nam (Nhật Nam Bách Hoá Điếm), vào đây thì tha hồ xem hàng Nhật, có điều giá rất đắt so với mức sống của người Việt. Ngày nay, một số tiệm ăn Việt Nam ở Hoa Kỳ cũng dùng loại đũa tách đôi kiểu Nhật, dùng một lần rồi bỏ. Y PHỤC, MỸ NGHỆ, NHẠC KỊCH... Có điểm lạ lùng là y phục Nhật cũng vừa với người Việt, nhưng người Việt không

Page 23: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

chuộng thời trang Nhật mà lại thích thời trang Hồng Kông và nay là Nam Triều Tiên, còn Nam Triều Tiên thì lại thích thời trang Nhật! Người Việt cũng như các dân tộc khác, cũng thích trang trí trong nhà một số đồ thủ công nghệ, mỹ nghệ của Nhật, tạo vườn Nhật Bản... Bên cạnh hoa giấy, hoa vải, cô Yumiko, người Nhật gốc Việt đã tới Việt Nam mở lớp dạy làm hoa bằng đất xét. Đất xét màu trắng như bột mì dẻo, thực ra là một loại đất xét pha thêm hóa chất khiến cho sau khi khô có thể giữ được lâu không bị nứt nẻ gọi là "pando". Nhờ mềm dẻo, dễ tạo hình dáng và khi tô sơn dầu rất đẹp nên thường được dùng làm hoa giả gọi là "pan flower" hay đồ trang sức, trang trí... Bắt đầu xuất hiện ở Nhật khoảng giữa thế kỷ 20 và nay khá phổ biến. Về nhạc, người Việt không chịu ảnh hưởng nhiều nhạc của Nhật, nhưng thỉnh thoảng có dịch một số nhạc Pob như "Người Tình Mùa Đông" từ bài "Rouge"... Năm 1996, có chị Hồng Kim Nhung (vợ anh Đỗ Văn Dũng) qua Nhật học về hội họa và làm hoa bột (thường là một loại bột mì, nặn thành hoa, lá rồi dùng sơn dầu sơn lên). Năm 1997, chị lại qua nghiên cứu về âm nhạc và nhạc cụ cổ truyền của Nhật, ngược lại đã giới thiệu nhạc Việt Nam với người Nhật. Năm 1999, chị Nhung về Việt Nam sáng tác hội họa và âm nhạc, triển lãm và trình diễn các nơị Một số Nhạc Trưởng Nhật như Honna Tetsuji, Koji Kawamoto qua điều khiển dàn nhạc giao hưởng Việt Nam và năm 2003 giúp trang bị nhạc cụ mới cho dàn nàỵ Ngoài ra có "Hanoi International Choir" là ban hợp xướng tài tử quy tụ khoảng 30 đến 40 người, gồm người Việt, Nhật và ngoại quốc khác. Đoàn kịch "Nô" Kita-Ryu (Hỷ Đa Lưu, 1 trong 5 phái Nô tĩnh) với các nghệ sĩ thế hệ thứ 14 của tập đoàn Roppeita (Nhật) đã trình diễn tại Đại Nội Huế ngày 3, 4/9 và Nhà Hát Lớn Hà Nội ngày 6, 7/9. Kịch "Nô" có từ thế kỷ 14, là một loại "nhạc kịch = opera" cổ điển của Nhật, đã được cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giời từ tháng 5/2001. Ngày 20/10, Hội Hữu Nghị Viê.t-Nhật ở Nhật đã hỗ trợ nữ đạo diễn Tú Mai tự thực hiện vở kịch hiện thực "Matsu, Kẻ Sống Ngoài Vòng Pháp Luật" (Muho Matsu No Issho, Vô Pháp Tùng Nhất Sinh) đã từng được đóng thành phim năm 1943 và 1958 của cố nhà văn nổi tiếng Iwashita Shinsaku (Nham Hạ Tuấn Tác), với các diễn viên Việt Nam tại Nhà Hát Lớn Hà Nộị "Matsu" là tên nhân vật chính, một thanh niên trọng đạo lý, nhưng vì hay chống đối những bất công, nên bị gạt ra ngoài xã hội và coi như "kẻ sống ngoài pháp luật" cũng như cuộc tình ngang trái của anh... phản ánh xã hội Nhật thời đầu thế kỷ 20. Có lẽ đây là lần đầu tiên kịch "Nô" và kịch Nhật được trình diễn ở Việt Nam. Từ 19 đến 21/11/2004, Lễ hội giao lưu văn hoá, du lịch Viê.t-Nhật đã diễn ra tại khuôn viên hội trường Thống Nhất, Sài Gòn, với 4 khu vực chính là "Lễ hội", "Du lịch

Page 24: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

biển, "Sông nước Nam bộ" và "Con đường di sản miền Trung". Về phía Nhật có ca sĩ Hiramatsu Eri, đoàn ca nhạc dân tộc Nhật Bản, các nghệ nhân giới thiệu nghệ thuật cắm hoa, vẽ phong cảnh và nhiếp ảnh... Người Nhật cũng như nhiều người ngoại quốc khác thích đi dạo phố bằng xích-lô Việt Nam, nếu qua Nhật, người Việt viếng thăm chùa và đền Asakusa (Thiển Thảo) ở Tokyo thì cũng nên đi thử xe kéo gọi là "jinrikusha" (nhân lực xa), bánh lớn hơn xe kéo ngày xưa của Việt Nam và mạ kền bóng loáng, giá đi 10 phút năm 2001 là 3.000 Yen. VÕ THUẬT, THỂ THAO Nhật nổi tiếng về võ thuật, tuy người Việt ở Nhật ít ai học võ vì thấy tập cực quá, nhưng từ thập niên 60 cũng đã có một số võ sư Nhật đã qua Việt Nam mở võ đường "Judo" (Nhu Đạo), "Aikido" (Hợp/Hiệp Khí Đạo), "Karatedo" (Không Thủ Đạo), "Kendo" (Kiếm Đạo), sau này nhiều người Việt tự đứng ra mở võ đường. Từ cuối thập niên 90, có thêm một số người Nhật qua Việt Nam làm việc, rồi mở các câu lạc bộ thể thao như dã cầu (yakyu, bóng chày), bóng bầu dục... Người Việt qua Nhật học võ thời thập niên 60, 70 thì có Thượng Tọa Thích Tâm Giác học Nhu Đạo, võ sư Đặng Thông Phong học Hiệp Khí Đạo, võ sư Văn Bình học Không Thủ Đạo... Một số người Nhật cũng muốn đưa dã cầu tức bóng chày (base ball) vào Việt Nam. Khoảng năm 1996, 97, đã có hai người Việt được qua Nhật học vài tháng về dã cầu, năm 2002 lại có hai người khác qua học. Năm 2001, ông Matsui (Tùng Tỉnh), thân phụ của tuyển thủ lừng danh Matsui và Hội Rotary ở thành phố Nabari, tỉnh Mie (ÈOẺd , Tam Trọng) đã tặng trường Trung Học cấp hai Nhân Đức ở Củ Chi và một trường ở Tây Ninh dụng cụ chơi dã cầụ BÍ ẨN BỘ BÀI TỔ TÔM Có một chuyện cũng lạ, liên quan tới cả Nhật và Việt, đó là bộ bài Tổ Tôm. Bài Tổ Tôm thì nhiều người miền Bắc và một số người trí thức Việt Nam hay chơi, nên cũng đã biết. Bộ bài gồm 120 lá, có 30 hình vẽ, chia đều mỗi hình vẽ 4 lá, đặc biệt có 7 hình vẽ có thêm dấu đỏ... Lối chơi Tổ Tôm cần bốn người, có nhiều nước, khá caọ Người không quen có thể chơi theo kiểu Đánh Chắn (bỏ bớt hàng nhất) cần năm người hoặc đếm số như "xì dách (tối đa 21 nút tức điểm, black jack)" của bài Tây gọi là Đánh Bất (tối đa 11 nút) thì mấy người chơi cũng được. Những người mới chơi, không đọc được số bằng chữ Hán thì nhờ người biết đọc viết số bằng La Tinh trên lá bàị Lạ ở chỗ là bộ bài này chỉ có người Việt chơi, người Nhật không chơi, người Hoa cũng không chơi (trừ một số ít Hoa Kiều ở Việt Nam và Hồng Kông). Nhưng những chữ

Page 25: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

viết trên lá bài là một loại chữ Hán (Kanji) kiểu cách, hơi giống Lệ Thư (Reisho) với nét cứng mạnh, gồm có bốn loại chữ là "văn, vạn, sách, thang, không biết có liên hệ gì với mạt chược, tiếng Nhật gọi là "majan" (ma tước) không? Còn các hình vẽ đều là hình vẽ của Nhật, có lẽ gốc là một lối tranh mộc bản (mokuhan, học từ Trung Hoa nhưng trở thành đỉnh cao mỹ thuật độc đáo của Nhật) đơn giản và nay thường do người Hoa in ra bán. Đặc trưng có lẽ Nhật Bản rõ rệt nhất là tất cả các nhân vật đều mặc "Kimono" (Trước Vật) thời Edo (Giang Hộ), trong số này có 18 hình đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em. Các hình cá chép (koi, lý), trái đào (momo), thành (shiro), thuyền (une) cũng là những hình ảnh Nhật? Tới nay, đã có một vài người nêu vấn đề xuất xứ của bộ bài từ đâu, lưu lạc thế nào mà để lại một dấu tích "bí ẩn" như vậỵ Nếu ai biết xin lên tiếng hô.. Phần trên được tôi chính thức đưa lên nguyệt san Mekong số 53, tháng 11/1999. Trong khi báo còn đang in, thì ngày 1/11/1999, tình cờ xem TV đài NHK băng tần số 3, thấy Giáo Sư Yumio Sakurai (Anh Tĩnh Do Cung Hùng) thuộc Đại Học Todai (Đông Kinh Đại Học) trình bày trong chương trình Rekishi De Miru Sekai, Thế Giới Nhìn Bằng Lịch Sử cũng đã đề cập đến "bí ẩn" của bộ bài Tổ Tôm. Tôi liên liên lạc hỏi thăm, thì được biết: - Ông Nguyễn Văn Vĩnh đã đề cập tới vấn đề này trong "Le To Tom, L'Annam Nouveau", 1932, vol. 125 - vol 143. - Giáo Sư Kim Vĩnh Kiện (có lẽ là một người gốc Triều Tiên) biết đến Tổ Tôm qua cuốn trên và lần đầu tiên đề cập tới ở Nhật trong cuốn Ấn Độ Chi Na - Nhật Bản Quan Hệ tức Quan Hệ Nhật Bản Và Đông Nam Á do nhà xuất bản Fuzanbo (Phú Sơn Phòng), Đông Kinh, năm 1943). Giáo Sư đã cố gắng tra tìm nhưng không biết gì hơn chắc chắn đó là những hình thuần túy Nhật. - Giáo Sư Yumio Sakurai đã giới thiệu trong cuốn Nihon No Kinsei 1, Nhật Bản Cận Thế, tập 1, do nhà xuất bản Chuo Koron Sha, Trung Ương Công Luận Xã xuất bản năm 1992. Theo Giáo Sư, loại chữ ghi trên đó cũng lạ, không hẳn là chữ Hán bình thường, một số chữ có thể là chữ Nôm? Thực ra, tất cả chỉ là những chữ Hán kép (2 chữ hình chữ nhật theo thứ tự từ phải qua trái, đứng cạnh nhau thành hình vuông) viết kiểu cách (cách điệu) đị Tôi có đưa cho một số người Nhật đọc thử, họ đọc không được hoặc vừa đọc vừa đoán. Đặc biệt lá bài "nhất văn" tức "chi chi", "nhất vạn" tức "nhất ông cụ" dùng chữ nhất cổ rất khó đọc và quân "nhất thang" (viết theo lối cổ ngược lại là) có hình bà mẹ cho con bú, nét viết rất lạ (bộ ba chấm thủy viết thành hình số 8, chữ nhất dạng cổ cũng khó nhận ra) thì hầu như không ai đọc được. Thêm một điểm cũng lạ là người Việt chơi bài và cờ hầu như không biết chữ Hán,

Page 26: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

nhưng nhận diện quân Cờ Tướng, Mạt Chược và quân bài Tam Cúc hay Tổ Tôm viết bằng chữ Hán thì không saị Cửa tiệm Mekong Center chúng tôi ở Nhật Bản thường bán bài Tổ Tôm cho người Việt (thanh niên miền Bắc) và cho người Nhật, họ không biết chơi, nhưng mua để nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc.

Hàng ngày có khoảng 40 người Việt chơi bài Tổ Tôm tại trụ sở hội Cao Niên Mỹ-Á, ở Little Saigon thuộc Cali, Hoa Kỳ. CHÚT ÁNH SÁNG VỀ GỐC BỘ BÀI TỔ TÔM Giữa năm 2002, tình cờ chúng tôi gặp một người Trung Quốc tên Vu Thục Quyên sinh trưởng ở Thiên Tân. Khi cho bà ấy xem bộ bài tổ tôm thì bà ấy nói rằng nhớ mang máng hồi nhỏ đã thấy trong phim ảnh Trung Quốc. Theo bà, có lẽ đây là bộ bài gốc từ miền nam Trung Quốc, thuộc các vùng như Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông... Các trang phục của hình vẽ đó thuộc thời Đường là thời văn hóa thịnh đạt nhất, nhưng chính bà ấy lúc đầu cũng không đọc được các chữ Hán trên bộ bàị Cũng theo bà, nguyên thủy bộ bài làm bằng thẻ tre, sau này mới làm bằng giấy cho tiện. Chúng tôi đã tặng bà ấy một bộ và nhờ truy tầm thêm hô.. Riêng tôi suy luận cũng thấy có lý phần nào, vì có thế thì người Hoa mới in bộ bài này và một số người chơị Nhật Bản là một nước bảo tồn văn hóa rất kỹ, mà đây là một bộ bài thì số người chơi phải khá đông, nên nếu gốc của Nhật thì dù có bị mai một, cũng không thể không để lại dấu vết nàọ Chúng tôi vẫn mang thắc mắc về nguồn gốc bộ bài, nên ngày 24/12/2003, nhân dịp gặp lại cô Vu Thục Quyên, tôi yêu cầu cô gọi điện trực tiếp qua hỏi công ty sản xuất bộ Bài Tô Tôm (chỉ ghi tên tiếng Việt rất lớn mà không có tên nào khác) ở Hồng Kông thì được biết gốc gác từ phía nam Trung Quốc và có tên tiếng Hoa là Vân Nam Bài. ẢNH HƯỞNG VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHẬT BẢN Nhật Bản vốn có nhiều quan tâm tới Việt Nam, ngoài việc trao đổi thương mại, đã có rất nhiều tác phẩm viết về Việt Nam, có thể chia ra làm năm thời kỳ. - Thời Edo (Giang Hộ), ở Nhật Bản đã có những nghiên cứu về Việt Nam, qua tác phẩm "An Nam Kỷ Lược Khảo" và "Nam Biểu Ký" xuất bản thời Khoan Chính (1789-1801). - Thời Minh Trị 19 (1880), đã có cuốn "Pháp-Việt Giao Binh Ký" và "Lịch Sử An Nam Và Quan Hệ Pháp-Việt". Năm 1885, toàn tập "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" và "An Nam Sử Lược" đã được sắp chữ và in lại ở Nhật. Các sách của cụ Phan Bội Châu như "Việt Nam Vong Quốc Sử, Ngục Trung Thư, Thiên Hồ Đế Hồ" được dịch sang tiếng Nhật năm

Page 27: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

1029-32... - Thời kỳ Nhật Bản mở rộng ảnh hưởng ở Đông Á trong Thế Chiến Thứ 2, với cuốn "An Nam Thông Sử" dày 500 trang phát hành năm 1941, "Lịch Sử Dân Tộc Vận Động Ở Việt Nam" phát hành năm 1944, đưa khoảng 200 du học sinh qua Việt Nam năm 1942. - Thời chiến tranh Việt Nam (1960-1975), gần 400 tác phẩm liên quan đến chiến tranh, lịch sử... ra đời, phần lớn thiên tả. Năm 1961, mở phân khoa tiếng Việt tại Đại Học Ngoại Ngữ Tokyo và năm 1971, tại Đại Học Ngoại Ngữ Osaka. - Thời hiện đại (1975-), đặc biệt từ 1990 trở đi, phát hành rất nhiều sách về thương mại, văn hóa, du lịch, thực phẩm, mỹ nghê... Nay ở Nhật có Hội Các Nhà Nghiên Cứu Việt Nam, quy tụ khoảng một trăm chuyên gia Nhật về Việt Nam, hầu hết là những người nghiên cứu Việt Nam trực tiếp bằng tiếng Việt. Về các nhân vật lịch sử của Việt Nam, người Nhật biết đến thi hào Nguyễn Du qua Truyện Kiều, Lê Lợi qua đại lộ ở Sài Gòn, Phan Bội Châu đã qua Nhật vận động từ năm 1905, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp qua chiến tranh Việt Nam... Ngày nay, đủ mọi thành phần người Nhật tới Việt Nam, năm 1999: 110.000 người, năm 2000: 150.000 người, năm 2002: 200.000 người, năm 2002: 250.000 người, năm 2003: 300.000 ngườị Có điểm lạ là hầu hết phái nam thuộc chính quyền hay giới thương mại, đi lo những việc "lớn", kể cả việc lớn nhất đời người là tìm vợ Việt, vì họ mê cái dáng gầy mặc áo dài của phụ nữ Việt Nam lắm. Cứ nói tới phụ nữ Việt Nam là luôn luôn đi đôi với tính từ "đẹp". Không có thông kê về số người Nhật lấy vợ Việt, nhưng chắc chắn là không ào ạt như bên Đài Loan, tới nay ước khoảng vài trăm. Sau lưng các bà vợ Việt, các ông chồng Nhật thường to nhỏ "Coi vậy chứ phụ nữ Việt dữ lắm", có vẻ khiếp vía các bà vợ Việt. Còn phái nữ đông đảo hơn thì đa số qua Việt Nam may áo dài, mua sắm đồ thủ công nghệ và ăn thức ăn Việt Nam, trái cây... một số người trẻ còn tự lo học tiếng Việt để qua Việt Nam nói chuyện xã giaọ Người Nhật biết nhiều nhất đến bánh tráng và nước mắm Việt Nam. Họ thích nhất là gỏi cuốn gọi là "nama harumaki" (sinh xuân quyển) và chả giò gọi là "age harumaki" (dương xuân quyển), người rành hơn thì biết cả bánh cuốn gọi là "mushiharumaki" (chưng xuân quyển), rồi gỏi bì, bò bía cho đến bánh tráng rế (dạng lưới) mới chế ra từ khoảng năm 1998... Ngày 29/11/2000, trong chương trình giáo dục của đài NHK số 3, đã giới thiệu việc trồng lúa và làm bánh tráng Việt Nam qua câu chuyện một em gái Nhật qua Việt Nam làm bạn với một em gái Việt Nam. Ngày 11/6/2001, cũng đài này giới thiệu về cách làm gỏi cuốn. Ngày 22/3/2002, ông Ota Ryo (Thái Điền Lượng) thuộc đài NHK số 1 đã đến Mekong Center hỏi thăm về bánh tráng cuốn (đa nem) và

Page 28: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

vua Quang Trung. Sở dĩ hai điều đó liên hệ với nhau vì có thuyết cho rằng khi vua Quang Trung hành quân thần tốc đem 100.000 quân từ nam ra bắc đánh thắng 200.000 quân Thanh, chiếm lại thành Thăng Long ngay mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu 1789, để tiết kiệm thời gian nấu nướng, quân sĩ đã dùng bánh tráng cuốn thay cơm. Chương trình này đã phát ngày 30/4/2002, từ 11:15 đến 11:45 đêm. Nhật Bản hay Trung Quốc chỉ có bánh tráng sống làm bằng bột mì, muốn ăn phải chiên hay hấp, chứ không thể ăn sống như của Việt Nam. Loại bánh tráng xuất cảng từ Thái Lan cũng là do người Việt ở đông-bắc Thái làm ra. Người Nhật mê gỏi cuốn đến độ công ty SBHP đã sản xuất một loại khoai với tôm, rau nghiền chiên (pha trộn giữa potato chip và phồng tồm) đóng bao mà cũng quảng cáo là có hương vị gỏi cuốn. Nhiều người ăn thử thì thấy ngon, nhưng chẳng thấy hương vị gỏi cuốn ở chỗ nàọ Ở Nhật nay có tiệm ăn bán 9 loại, có tiệm bán 10 loại gỏi cuốn, là điều ngay ở Việt Nam chắc cũng không có. Họ dùng bánh tráng Việt Nam cuốn tôm, thịt heo, thịt gà, trứng tráng thái sợi và nhiều thứ khác như đồ biển như cá hồi hun khói... do họ tự chế rạ Đặc biệt có tiệm cuốn bằng bánh tráng Việt Nam chung với rêu biển Nhật Bản, tiếng Nhật gọi là nori (hải đài, rêu được cán mỏng phơi khô như tờ giấy). Không biết cuộc tình giữa nam-nữ Nhâ.t-Việt đằm thắm như thế nào, nhưng coi bộ hai thứ này "giao duyên" như vậy thì thật là khắng khít. Năm 2002, công ty thực phẩm hàng đầu của Nhật là Aji No Moto (Vị Tố) đã tung ra thị trường "phở gà ăn liền" một gói 60 gam giá 100 Yen, vì phở là một trong những món nổi tiếng nhất của Việt Nam. Một số người Việt (các cô trẻ mặc áo dài trắng) và Nhật được mời thực hiện quảng cáo món ăn mới này ở Nhật. Năm 2003, công ty Kanebo (Chung Phưởng) sản xuất gỏi cuốn đông lạnh, vật liệu và nước chấm được cho vào từng bao riêng, hướng dẫn cách dùng, người dùng chỉ cần thêm rau thôị Từ tháng 5/2005, một công ty thực phẩm hàng đầu khác là Nisshin Shokuhin (ẾựẼỨẼHỂi, Nhật Thanh Thực Phẩm) đã quảng cáo tô phở gà ăn liền giá khoảng 140-150 Yen, với 5 cô mặc áo dài đỏ như chiêu đãi viên hàng không Việt Nam trên TV. Có thể xem trong địa chỉ: http:www.nisshinfoods.co.jp/produc/cm/shocm.html?cmtype=B&cmid=124 Tới năm 2003, đã có hơn 15 cuốn sách dạy nấu món ăn Việt Nam và 4, 5 cuốn về du lịch viết bằng tiếng Nhật ở Nhật, mà năm 2001 ở Việt Nam mới thấy có cuốn đầu tiên giới thiệu một số món ăn Nhật, nhưng vẫn chưa có cuốn nào về du lịch Nhật bằng tiếng Việt nào ở Việt Nam. Người Nhật không chỉ tìm đến người Việt ở Nhật để học nấu ăn mà đôi khi họ qua tận Việt Nam tìm hiểu chính gốc luôn, nhất là một số người định mở tiệm ăn. Như cô

Page 29: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Mari Tsuno, từ năm 1998, mỗi năm qua Việt Nam vài tháng để học nấu ăn. Cô đã đi khá nhiều nơi, khắp Việt Nam để tìm hiểu cả các món ăn địa phương nữa. Ở Việt Nam nay có nhiều trường dạy nấu ăn cho du khách, nhất là du khách Nhật, như: La Fenetre Soliel, Over Land Club (dạy tới 400 món), Bảo, Song Ngư... Các nơi này đều có thông dịch, xe đưa đón, nhận dạy từ 2 người trở lên và trung bình dạy từ 2 đến 3 giờ đồng hồ với giá khoảng 35 đến 50 Mỹ Kim/1 người. Ngày 4/10/2003, đài Fuji TV số 8, chiều nghệ sĩ trẻ đẹp Yamaguchi Moe (Sơn Khẩu) qua Việt Nam học nấu ăn tài tử, món cô học đầu tiên là phở bò. Cô đã đi xuyên khắp bắc nam, tuy không thể thưởng thức tất cả món ăn Việt Nam, nhưng qua những món cô đã thưởng thức thì cô thích 3 món sau: 1- Bún chả (món Bắc). 2- Xôi chiên phồng (sticky rice ball, đồ gạo nếp trộn đậu xanh thêm chút nước cốt dừa, đường... rồi giã hay xay nhuyễn, sau đó nặn thành viên rồi chiên/rán, sẽ phồng lên tương tự như bánh rán mè, nhưng to như trái bưởi nhỏ, cắt ra ăn với gà quay...) (món Nam). 3- Cá tai tượng chiên xù, ăn bánh tráng cuốn (món Nam). Theo một cuộc thăm dò ở Việt Nam năm 2004, về mức độ quan tâm của du khách Nhật khi đi Việt Nam: - Thực phẩm: 80%. - Cảnh quan: 53%. - Mua sắm: 41%. Khoảng 400 cửa tiện bán đồ ăn, đồ thủ công nghệ và thực phẩm, sách nhạc... của Việt Nam ở Nhật cũng đã góp phần đáng kể trong việc đẩy mạnh giao lưu giữa hai dân tộc. NGƯỜI NHẬT ĂN TRỨNG GÀ LỘN!!! Người Nhật rất thích món ăn Việt Nam, hầu như món nào họ cũng thích, được mời ăn họ mừng lắm. Có lẽ họ chỉ sợ trứng vịt lộn và trứng gà lộn thôi, nhưng rồi cũng có một số người ăn thử và mê luôn. Ngày Chủ Nhật 3/10/2004, đúng hẹn 12 giờ, ký giả Yoshinori Hashida (Kiều Điền Hân Điển) đã kéo cả hai ông xếp là Chi Cục Trưởng Tokyo Satoshi Fujiwara (Đằng Nguyên Thông) và "Thứ Trưởng" (Jicho, tương đương Phó Giám Đốc) Yugata Yano (Thỉ Dã Dụ) thuộc hãng thông tấn Kyodo (Cộng Đồng) đến Mekong Center để thử ăn trứng/hột gà lộn với muối, tiêu và cả và rau răm (tiếng Nhật gọi là "tade", ở Nhật cũng có nhưng không thấy bán ở chợ nên người Nhật hầu như không ăn, không biết tới). Người Việt hay nói "mắt lá răm", là mắt nhỏ và dài như lá rau răm, những tranh cổ Nhật Bản vẽ

Page 30: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

phụ nữ thường vẽ "mắt lá răm". Trong khi chờ đợi luộc trứng khoảng 20 phút, chúng tôi đã nói những chuyện liên quan tới gà ở Việt Nam. Trứng có trống (thụ tinh) ấp ra con thì gà mất 21 ngày, còn vịt mất 30 ngàỵ Nhưng thực ra gà mái nào cũng ấp, còn vịt thì đẻ bừa bãi và không ấp, may sao mà không tuyệt giống, người nuôi vịt phải đi lượm trứng ở ngoài đồng rồi đem về lò ấp. Gà thường đẻ một lứa khoảng 15 trứng, những trứng đầu không bảo quản tốt nên thường không nở ra con được. Thường người nuôi gà cho 2, 3 con gà mái đẻ, rồi gom độ 15 trứng mới nhất cho 1 con ấp thôị Hầu hết gà không phân biệt được đâu là trứng của mình đâu là trứng gà khác, nhưng cũng có con phân biệt được thì mổ phá trứng gà khác. Gà mái lo ấp, ít ăn, người gầy nhẹ hẳn đi, gà mẹ nuôi con tới khoảng 3, 4 tháng sau mới đẻ lứa trứng mớị Còn gà mái không được cho ấp thì chỉ độ 1 tháng sau sẽ đẻ lứa mớị Gà mái thường rất hiền, nhưng khi có con, một đôi khi chúng trở nên dữ, có khi dám đánh nhau với cả người để bảo vệ con. Ở Việt Nam đôi khi mua thêm gà mới nở ở chợ về để cho gà mái nhà vừa ấp lứa con nuôi chung. Thường thì gà mẹ nhận biết được đuổi gà con lạ đi, nhưng cũng có con không phân biệt gì cả, con nào cũng là con, có khi cả gà Mỹ con, vịt con cũng chấp nhận tuốt cho tiện sổ sách. Nhìn cảnh một gà mẹ chăm chút nuôi một đàn có khi lên tới 30 hay 40 gà vịt con cũng vui. Loại trứng lộn ăn là loại ấp được khoảng 2/3 thời gian cần cho gà nở, tức gà thì 2 tuần, vịt thì 3 tuần. Khi đó con bên trong vừa ăn và ngon nhất, nhỏ quá thì chưa ngon, mà lớn quá thì xương cứng, nhiều lông nhìn cũng thấy ớn ớn. Năm 1978, đài truyền hình lớn nhất nước Nhật là NHK số 1 đã thực hiện phim bộ "Vợ Và Con Gái Đến Từ Sài Gòn" (Saigon Kara Kitta Tsuna To Musume, nguyên tác của cố ký giả Kondo Koichi (Cận Đằng Hoành Nhất) thuộc nhật báo Sankei (Sản Kinh). Nam diễn viên đóng vai Koichi Kondo phải ăn từ từ và còn phải để chừa cái chân gà ra để thu hình. Ông sợ muốn ói luôn, nên vừa đóng xong là ông phải chạy ù đi xúc miê.ng. Khoảng năm 1999, có một cô Nhật có bồ là người Việt đến Mekong Center chơi, chúng tôi mời cô ăn thử trứng gà lộn. Ban đầu cô nhất định từ chối nhưng sau cả nể, cô cũng ráng ăn thử. Cô vừa nhìn vừa sợ, cứ rụt rè mãị Khi bỏ vào miệng, người cô rùng lên, sợ hãi đến cực độ, thấy thật tội nghiệp! Nhưng đôi với người Việt thì việc ăn cá nhỏ còn đang bơi lội hay ăn cá sống ( sashimi), gắp miếng cá từ con cá "tai" (Ẹõ, điêu) nằm há miệng ngáp ngáp chấm xì dầu rồi bỏ vào miệng lại đáng sợ hơn! Rất nhiều người Nhật đã từng đi Việt Nam thì cũng mê trứng vịt lộn hay gà lộn lắm. Người mình có câu: "Nhất phao câu, nhì đầu cánh", là những thứ khoái khẩu trong con gà và tất nhiên cũng thích cả "lòng gà"... Nghe nói ăn đầu gà, mấy người Nhật ngạc nhiên hỏi ăn làm sao, có ăn mào gà không? Chúng tôi nói thường là bổ đôi theo

Page 31: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

chiều dọc, ăn óc và mắt rất ngon, giống như người Nhật ăn "trứng cá non" và mắt cá ngừ (maguro) vậỵ Còn mào gà cũng ăn chứ, nó hơi dòn, sật sật. Nhưng người Nhật thì nhắm cái "đùi gà", rồi mới tới "cánh gà". Người Việt hay ăn gà luộc với lá chanh thường chấm muối tiêu hay nước mắm, ngoài ra có gà kho gừng, gà xào xả ớt... tiệm Y-Saigon ở Shibuya có món "gà nướng lá chanh". Người Nhật thì thích xâuthịt gà nướng (yakitori, thiêu điểu). Chúng tôi đã nói về một số ca dao hay ngụ ngôn liên quan tới gà như: Gà trống nuôi con (như cảnh bố nuôi con vậy) Gà mái gáy gở (gà mái mà gáy là điềm gở) Mẹ gà con vịt (mẹ một đằng, con một nẻo, như vịt con thấy nước thì nhào xuống còn gà mẹ chỉ biết đứng trên bờ ngó) Đầu gà đít vịt (ý nói không hợp nhau) Luýnh quýnh như gà mắc đẻ (lu bu, rối cả lên) Hay một bài học thuộc lòng ở Việt Nam: Con gà cục tác lá chanh, Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, Con chó khóc đứng khóc ngồi, Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng... Ở Việt Nam, khi làm gà cúng thì luộc gà trống vì gà trống có mào trông oai, đep. Đặc biệt một số nơi còn xem chân gà để bói tốt xấu... Còn người đi thi thì "tuyệt đối" không nên ăn trứng, sợ xui, điểm bài mà là 1 hay 2 quả trứng như "0" hay "00" thì khốn rồi! Cả ba ông thuộc hãng thông tấn Kyodo bắt chước chúng tôi đập nhẹ đầu lớn quả trứng, bóc vỏ và màng, cho muối tiêu... húp nước, ăn thử, ông nào cũng không ngờ là ngon hơn dự tưởng, lại nhắm với chút bia nữa thì thật là tuyệt. Mỗi ông làm một hơi 2 trái trứng gà lộn, ăn rất tự nhiên và khen rối rít nhất là khi húp nước, rồi lại thêm rau răm... Sở dĩ họ kéo tới Mekong Center vì ông Yoshinori Hashida muốn tìm hiểu và viết bài về những chuyện gà ở Việt Nam... năm tới 2005 là năm Ất Dậu mà. NGƯỜI NHẬT VÀ HƯƠNG VỊ XƯA: "NƯỚC MẮM" Người Nhật hầu như chỉ dùng xì dầu chứ không dùng nước mắm, nhưng rất thích nước mắm Việt Nam. Nay chỉ có tỉnh Akita (Thu Điền) ở phía bắc Nhật Bản sản xuất ít nước mắm gọi là "shotsuru" (diêm ngư chấp), "gyosho" (ngư tương) hay "iwashi gyoju" (nhược ngư chấp: nước mắm cá mòi), các chợ thật lớn mới thấy bán.

Page 32: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Người Việt thường làm nước mắm bằng cá cơm, cá lục (một loại cá mòi), trộn muối để cho lên men trong khoảng 6 tháng cho cá tự phân hủy mà không cần gia nhiệt hay thêm bất cứ hóa chất nào, và nước mắm chảy ra chính là axit amin. Ở Việt Nam, nổi tiếng về nghề làm nước mắm là Phú Quốc, Phan Thiết, Nam Ô thuộc Đà Nẵng, Cửa Lò thuộc Nghệ An và Vạn Vân, Cát Hải thuộc Hải Phòng... Truy nguyên ra thì từ xưa, các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Việt Nam, Mã Lai, Thái, Miến Điện, Nam Dương... đều có sản xuất và dùng nước mắm. Theo tài liệu của Nhật Bản ghi chép dấu tích vào năm 927, người Nhật đã làm nước mắm bằng cá mòi (iwashi, nhược). Ở Nhật, các tỉnh làm nhiều nước mắm nhất đều ở vùng biển phía tây tức biển Nhật Bản của Bản Đảọ Nhưng vì lượng cá và loại cá mòi thu hoạch không ổn định, nên từ thời Edo (Giang Hộ) cách nay khoảng 200 đến 300 năm, người Nhật bắt đầu dùng xì dầu (làm bằng đậu nành, muối và khuẩn "koji") thay nước mắm và nay thì đã coi như thay hoàn toàn, nên nhiều người Nhật không biết là chính Nhật Bản đã từng sản xuất nước mắm. Sở dĩ thay thế được như vậy vì thành phần và hương vị tương đối gần nhaụ Thực ra thì vị nước mắm Nhật Bản nhạt và ít hắc hơn nước mắm Việt Nam, nhưng nước mắm Trung Quốc còn nặng mùi hơn nước mắm Việt Nam. Nay thì chỉ còn lại Akita sản xuất nước mắm như một cách bảo tồn văn hóa và nhớ lại hương xưạ Ngày nay, nếu người Việt mời người Nhật dùng nước mắm Việt Nam, cũng là cách đưa họ về với nước chấm quá khứ, và họ tiếp nhận dễ dàng. Ba tôi kể rằng, khi còn ở trong quân đội, khi ra công tác ở Đông Hà, có gặp một Trung Tá Hoa Kỳ gốc Nhật. Ông ta cho biết, mỗi ngày ông ấy uống một ly nước mắm nhỏ (loại ly cỡ ngón tay cái) và khi gặp sĩ quan Việt Nam, ông chào: "Nước mắm muôn năm!". NGƯỜI NHẬT VÀ HƯƠNG MỚI: CÀ PHÊ VIỆT Ngày 7/8/2002, nhật báo kinh tế Sankei (Sản Kinh) có đăng một bản tin dài cho hay là cà phê Việt Nam có vị thơm ngọt đang được ưa thích ở Nhật Bản, nhất là giới phụ nữ. Tại nhiều cửa hàng bách hóa (đề-pa-tô), cà phê Việt Nam có số bán vượt qua cà phê Ba Tây (Brazil) và Ý. Nói đến cà phê Việt Nam là nói đến lối pha đặc biệt, mỗi ly một cái lọc, tuy không có gì là tối tân, nhưng có cái lãng mạn, tình tứ riêng của nó. Cho độ một thìa cà phê bột vào cái lọc rồi vặn nắp trong cho chặt, đổ chút nước sôi cho thấm đều và bột cà phê nở ra để nước khỏi chảy xuống nhiều quá, sau đó mới đổ đầy nước sôị Chờ khoảng 4, 5 phút, nước chảy xuống hết đem theo hương vị cà phê lan tỏa khắp nơi. Tuỳ theo cách uống, cà phê đen, cà phê đá hay cà phê sữa... nhưng người Nhật

Page 33: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

cũng bị lối uống cà phê với sữa đặc của Việt Nam chinh phục. Song song với cà phê, để cho đúng gu, sữa đặc Ông Thọ của Việt Nam cũng được nhập vào Nhật, bán giá 580 Yen (gần 5 MK) trong khi Nhật cũng có sữa đặc chỉ bán giá khoảng một nửa, tức độ 300 Yen. Công ty Daitsu của Nhật đã hợp tác với Cà Phê Trung Nguyên nổi tiếng với 3 đến 400 tiệm ở Việt Nam, mở tiệm cà phê đầu tiên ở Roppongi đầu hè 2002, bán cả thức ăn nhẹ của Việt Nam như gỏi cuốn, bánh mì thịt... và hy vọng sẽ lập thành hệ thống tiệm trong tương laị Tại tiệm Printemps Ginza, trong mùa hè năm 2002, cà phê hột của Việt đã vượt qua Expesso của Ý. Cà phê Việt Nam bán được tới 60% trong số khoảng 20 loại cà phê bán ở đâỵ Đại công ty thực phẩm ăn liền (fast food) là Mos Food Service cũng đã thêm vào thực đơn món thạch cà phê Việt Nam, bán giá 200 Yen. Năm 2000, có công ty ở Yokohama sản xuất cà phê sữa Việt Nam đóng hộp giấy 500 cc, qua năm 2002 công ty Nọ 1 Kohi sản xuất cà phê đen Việt Nam đóng hộp giấy 1 lít. Năm 2004. công ty Azumino (An Vân Dã) ở tỉnh Nagano (ÊỮỄờ , Trường Dã) sản xuất cà phê sữa Việt Nam thêm bột báng đóng hộp giấy 220 gram. Công ty Esu Cook ở Osaka (ẸốÉọ , Đại Phản) sản xuất miến hộp ăn liền, nhưng đố trúng giải là 10 cặp vé đi Việt Nam 4 ngày và tiền mặt tiêu vặt là 10 triệu đồng Việt Nam (khoảng 65.000 Yen hay 600 Mỹ Kim) và 3.000 giải trúng đồ gốm Việt Nam. RƯỢU NHẬT LÀM Ở VIỆT NAM!? Năm Minh Trị thứ 38 tức năm 1905, dưới thời Pháp Thuộc, đã có một Hội Chợ Quốc Tế được tổ chức tại Hà Nội, khi đó công ty bia Asahi, đồ gốm của Nhật... đã đem hàng qua triển lãm. Thời nay, khi tính về thực tế thị trường, nhiều công ty sản xuất không cần giữ khư khư truyền thống nữạ Làm ở Nhật đắt thì đem qua Việt Nam... làm, như khâu "Kimono", bàn sưởi "kotatsu" (loại bàn vuông thấp, có bộ phận sưởi điện ở dưới, dùng ngồi trên chiếu hay thảm không cần ghế), trồng "wasabi", làm rượu... Một công ty Nhật ở Kumamoto đã bỏ vốn đầu tư 100%, lập nhà máy làm rượu tại Huế, với thiết bị hầu như hoàn toàn của Nhật. Khoảng 20% sản phẩm được bán ra thị trường Việt Nam, còn lại xuất cảng trở qua Nhật. Ban đầu là rượu trắng, loại "sake" (Èú, tửu) mang tên "Thập Tự Tinh" (Jujisei) sau đổi ra là "Việt Nhất" (Etsuichi) bằng chai thủy tinh màu xanh ve, và loại "shochu" (thiêu trữu/trụ) tức loại rượu mạnh nấu bằng khoai kiểu Nhật mang tên "Đế Vương" (Teio) trong bình gốm Bát Tràng... Một công ty khác là Tanaka (Điền Trung) thì chế rượu "sake" ngay tại Sài Gòn cùng với một số rượu trái cây khác như nho... cũng để xuất cảng ngược về Nhật.

Page 34: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

ÁO DÀI Trong cuốn từ điển quốc ngữ Kojien (Quảng Từ Uyển) nổi tiếng của Nhật Bản có các từ "Hà Nội, Sài Gòn, áo dài...". Quảng cáo trên TV của hãng phim Konica, Ajinomoto hay trên báo của công ty hàng không ANA là hình ảnh phụ nữ Việt mặc áo dài... Người Nhật rất thích áo dài Việt Nam, số phụ nữ Nhật có áo dài rất nhiều, có người có hai, ba cái, và kỷ lục được biết là 15 cáị Mỗi khi đi du lịch Việt Nam, họ thường rủ nhau may áo dài và diện trong các sinh hoạt giao lưu với người Việt hoặc đôi khi trong lễ hội hoàn toàn trong không khí Nhật. Ngày 31/12/2002, đài TV Tokyo số 12 chiếu sinh hoạt văn nghệ Kitaro Silk Road của ông Kitaro (Hỷ Đa Lang) ở Bắc Kinh và Tây An, Trung Quốc nhân kỷ niệm 30 năm đặt bang giao giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Trong nhóm trình diễn có một cô đàn vĩ cầm màu trắng, đặc biệt là cô này mặc áo dài Việt Nam màu xanh rêu đậm và quần trắng. Năm 2001, hai nhà vẽ kiểu Liên Hương ở Việt Nam và Pascal Valéry Tùng Lâm cư ngụ ở Pháp đã có cuộc triển lãm tại Tour và đặc biệt ngay tại trụ sở UNESCO, trước khoảng 40 vị Đại Sứ các nước khu vực Á Châu và hàng trăm quan khách. Qua cuộc triển lãm này, áo dài đang được đưa ra như một ứng viên "Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể". Kịch "No" của nhận đã từng được công nhận là di sản thuộc loại nàỵ Ngày 26/7/2001, nhân dịp tham dự Diễn Đàn An Ninh Khu Vực ASEAN tại Hà Nội, trong "nhạc kịch" chàng cao bồi Texas yêu cô gái Việt, NT Hoa Kỳ Collin Powell đóng chung với NT Nhật Makiko Tanaka (Điền Trung Chân Kỷ Tử) mặc áo dài Việt Nam, tay cầm nón lá, bộ điệu hơi õng ẹọ Trong khi ông Powell vừa hát vừa nằm lăn dưới đất thì bà Tanaka nhào tới hôn ông rất thắm thiết... khiến mọi người cười vang. Đây cũng là chuyện lạ xảy ra ở ngay trên một diễn đàn quốc tế. Có lẽ sau những giây phút căng thẳng vì quốc gia đại sự, mọi người cũng muốn được thoải mái hơn. Nhà thiết kế thời trang Sawamura Takayuki (Trạch Thôn Hiếu Chi) năm 1994 đã đến và ở lại Việt Nam để hoạt động về thiết kế quần áo, giỏ xách, giày dép xuất cảng đi Nhật, Hoa Kỳ, Anh... cũng như cho thị trường Việt với nhãn hiệu Opla và Thacạ Anh có cả cửa hiệu riêng tại Sài Gòn. Từng tham dự Tuần Lễ Thời trang năm 2002 ở Sài Gòn. Cô Naomi Misawa (Tam Trạch Trực Mỹ) đã đến nhờ Mekong Center chúng tôi giúp đỡ và qua Việt Nam để viết luận văn tốt nghiệp Đại Học Tokyo Joshi năm 2003 với đề tài "Áo Dài". Có lẽ đây là bài khảo cứu tỉ mỹ nhất về áo dài được viết bằng tiếng Nhật. Trong chương trình TV Asahi số 10 ngày 25/5/2003 với hai nghệ sĩ nổi tiếng là danh hài Cha Kato (Gia Đằng Trà), Haruhiko Kato (Gia Đằng Tình Ngạn) và nữ tài tử trẻ đẹp nổi tiếng Shoko Aida (Tương Điền Tường Tử) thăm Sài Gòn, Nha Trang và Huế, gặp người mẫu Võ Thị Thu Trâm... Cô Shoko đã đặt may và mặc chiếc áo dài cụt tay màu đỏ.

Page 35: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Trong chương trình TBS TV số 6 ngày 1/8/2004, nữ tài tử Noriko Nagagoshi nổi tiếng với phim Kokoro (Tấm Lòng)... đã qua Việt Nam trong chương trình giới thiệu cách ướp chè sen, dịp này cô đã may một bộ áo dài trắng thêu hoa thật đẹp. Nếu nhìn cảnh những cô gái mặc áo dài ngồi bán tạp hóa Việt Nam trong dịp lễ hội chắc không ai tưởng tượng được đó là những sinh viên Nhật thuộc Junko Association ở trường Meiji Gakuin Daigaku (Minh Trị Học Viện Đại Học). Nhóm này đã từng đi Việt Nam nhiều lần, có khoảng 20 cô có áo dàị Không chỉ người Nhật mặc áo dài mà đôi khi thấy cả người ngoại quốc ở đây mặc áo dàị Như hôm 28/6/2003, tình cờ đài TV NHK số 3, trong chương trình thi hùng biện bằng tiếng Nhật dành cho người ngoại quốc ở Sapporo, Hokkaido (Trát Hoảng, Bắc Hải Đạo), chúng tôi rất lấy làm ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô Trisha Lamers, một người Mỹ trắng mặc áo dài trong phần phim tài liệụ Cô qua Nhật năm 1999, dạy tiếng Anh tại trường Fukui-Shi Jinai Joshi Koko, mới 4 năm mà nói tiếng Nhật rất lưu loát. Trong cảnh dạy các nữ sinh Trung Học cấp 3 về nhạc Mỹ, thấy cô mặc áo dài tím thêu hoa trắng ngồi đàn và hát. Nhiếp ảnh gia Alao Yokogi, sinh năm 1949, đã qua Việt Nam 12, 13 lần, đã mở cuộc triển lãm hình ảnh Việt Nam tại Tokyo Photographic Culture Center, Tokyo, từ ngày 28/5 đến 21/7/2003 với chủ đề " An Early Afternoon of Saigon 1994-2003", tạm dịch là "Sài Gòn Chiều Xuống". Bộ 5 bức hình độc đáo chụp một cô gái Việt mặc áo dài và quần dài trắng toát đang bước vội ngang đường mà ông tình cờ chụp được năm 1994 rất sống đô.ng. Sau đó chính ông cố gắng tìm mà không gặp người đẹp. Bức hình đã được giới thiệu trên NHK hồi đầu năm 2003. Cạnh đó là các hình ảnh sinh hoạt, phong cảnh và nhiều người đẹp là các tài tử, ca sĩ, người mẫu... như Hồng Nhung, Thanh Lam, Diễm Hương, Mỹ Duyên, Mỹ Tâm, Hà Kiều Anh, Ngọc Anh, Thanh Xuân, Mỹ Uyên, Minh Thu, Mai Thu Nguyên, Phan Lan, Hương Giang... Ông Alao Yokogi còn viết ký sự “Sai Gon No Hirusagari" với nhiều hình do Shinchosha (Tân Triều Xã) phát hành năm 1999 và tiểu thuyết cũng bắt đầu từ sự gợi hứng của bức hình cô gái bước ngang đường mang tên " Netsu O Hamu, Hada No Kajitsu" (tạm dịch là "Những Trái Cây Trần Ăn Nắng") do Kodansha (Cấu Đàm Xã) phát hành năm 2003... Dự trù tháng 4/2004, ông sẽ làm một cuộc hành trình bằng xe gắn máy xuyên nam-bắc, từ mũi Cà Mau ra tới Móng Cáị Cuối tháng 12/2003, nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh đã có buổi trình diễn 60 bộ áo dài đặc biệt với chủ đề "Trở Lại Thiên Đường" trước khoảng 100 vị khách và hàng ngàn người Nhật tại cảnh chùa Kiyomizu (Thanh Thủy) ớ Kyoto (Kinh Đô), cất trên sàn gỗ, cheo leo vách núi, rất nổi tiếng ở Nhật. Để giới thiệu các kiểu mẫu tại Nhật, lần này

Page 36: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Minh Hạnh đã chọn đường nét phối hợp đặc biệt giữa áo dài Việt Nam và "Kimono" của Nhật nên có nhiều chiếc rất lạ mắt và mầu chủ là mầu nâu, vàng... Các nghệ sĩ Nhật khi qua Việt Nam thường tới các nhà may nổi tiếng đặt may áo dàị Ngày nay, du khách tới Việt Nam có thể sáng đặt may áo dài, tối lấy (ngày xưa, phụ nữ Việt đặt may thường phải mất một tuần). Ngoài ra một số tiệm cũng nhận thiết kế đặt hoa văn trên ví, trên nhẫn... theo ý khách. Một nhóm nhiếp ảnh gia và ký giả Nhật cũng đang tính thực hiện tuyển tập hình "Như Quỳnh Và Áo Dài" mà người mẫu chính là Như Quỳnh... Đây sẽ là tuyển tập đầu tiên thuộc loại này và niềm vinh dự lớn cho người Việt. Như Quỳnh như đã xuất hiện ở trong và ngoài nước mươi năm qua, hầu hết với chiếc áo dài dân tộc. Vóc dáng Như Quỳnh thể hiện đường nét rất Việt Nam mà mọi người Việt Nam đều hãnh diện. Như Quỳnh không những được người Việt mà còn rất nhiều người Nhật ái mô.... Từ đầu thập niên 90, một số công ty "Kimono" Nhật đã đem vải qua Việt Nam để thuê người Việt ráp áo và sau đó thêu cả hoa văn. HOA VIỆT Ở NHẬT Công ty Dalat Hasfarm do Hà/Hòa Lan đầu tư, sau 10 năm hoạt động đã có hệ thống khoảng 400 tiệm hoa Dalat Hasfarm khắp nước, trở thành công ty hàng đầu ở Đông Nam Á. Có 35% số hoa của công ty bán taị thị trường quốc nội và 65% bán ra thị trường hải ngoại như Nhật Bản, Úc, Tân Gia Ba (Singapore), Thái Lan, Gia Nã Đại (Canada), Saudi Arabia... Tại Nhật, hoa được phân phối qua hệ thống tiệm Clover Hill - Fresh Cut Flower... ÂM NHẠC Họ ái mộ các nghệ sĩ như "Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ái Vân, Như Quỳnh, Hương Lan, Hồng Nhung, Thanh Lam, Tam Ca Áo Trắng, Mỹ Linh, Hồng Hạnh, Lam Trường, Mỹ Tâm...", biết đến các bản nhạc như "Diễm Xưa (Utsukushii Mukashi, Mỹ Tích), Hạ Trắng (Gekka Bijin, Nguyệt Hạ Mỹ Nhân)...", nhạc khí như "đàn tranh, đàn bầu, đàn t'rưng, đàn cò..." cho tới "múa rối nước "mà họ gọi là "thủy thượng kịch trường" (suijo gekijo). Nữ ca sĩ nổi tiếng Midori Satsuki (Ngũ Nguyệt), sinh năm 1039, đã qua Việt Nam năm 1958 và hát tại Hội Chợ Thị Nghè bài Nắng Chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyên (1926-2004, http://www.letrongnguyen.com). Phải chăng đây là ca sĩ Nhật đầu tiên hát nhạc Việt. Bà Nguyễn Nga ở Cali, vợ nhạc sĩ Lê Trọng Nguyên đã nhờ tôi tìm, và giúp cho hai bên liên lạc với nhau, nhắc lại kỷ niệm 47 năm trước...

Page 37: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Nhạc Sĩ được dư luận biết và ái mộ nhất là Trịnh Công Sơn. Cô Michiko Yoshii (Cát Tỉnh Mỹ Tri Tử), sinh viên Đại Học Kyoto (Kinh Đô) về Pháp Văn. Khi qua Pháp du học, có dịp tiếp xúc với người Việt, chị bắt đầu mê nhạc Việt, nhất là nhạc của Trịnh Công Sơn, chị nhớ được khoảng 100 bàị Chị đã chọn viết luận án tốt nghiệp bậc Cao Học khi học Việt Văn tại Đại Học 7 ở Paris, Pháp với đề tài "Nhạc Trịnh Công Sơn" năm 1991. Khiến có tin là hai người rất "thắm thiết" với nhaụ Sau này, Michiko đã lập gia đình với người Việt, hai vợ chồng tham gia "Chương Trình Bạn Trẻ Em Bụi Đời", mở trường cho trẻ mồ côi, có 8 cơ sở ở Sài Gòn, quy tụ khoảng 1.700 em. Michiko thường xuyên đi lại giữa Nhật Bản và Việt Nam nên vẫn thường ghé thăm gia đình Trịnh Công Sơn. Tháng 4/2004, nhân giỗ Trịnh Công Sơn, Michiko cũng có tớị Nhân dịp này, các em gái Trịnh Công Sơn đã công bố bản nhạc trích trong "Album Michiko", viết riêng tặng Michiko, chưa hề được hát. Năm 2004, Michiko Yoshii trở lại Nhật theo học khóa trình Tiến Sĩ tại Đại Học Tokyo Daigaku Daigakuin (Đông Kinh Đại Học Đại Học Viện). Ngày 1/10/2004, bà ghé Mekong Center mua CD có bài "Trả Lại Em Yêu" của Nhạc Sĩ Phạm Duy, do Thanh Lan hát để nghiên cứu, bổ túc cho luận án Tiến Sĩ của bà. Năm 1970, ca sĩ Khánh Ly đã hát bài Diễm Xưa lần đầu tiên tại Nhật nhân hội chợ quốc tế Osakạ Cũng năm đó, hãng đĩa Myrica Music đã mời Khánh Ly sang Tokyo thu bài "Diễm Xưa và Ca Dao Mẹ (tiếng Nhật là Nen Nen Boya, Niệm Niệm Phường)" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bằng hai lời Việt và Nhật. Kế đó, hãng đĩa Columbia đã thu Khánh Ly hát 10 bài của nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn bằng tiếng Việt và Nhật. Năm 1992, trung tâm Làng Văn ở Little Saigon, Cali, Hoa Kỳ đã phát hành lại dưới tên đĩa "Ướt Mi". Năm 1978, được đài truyền hình lớn nhất nước Nhật là NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho phim bộ "Vợ Và Con Gái Đến Từ Sài Gòn" (Saigon Kara Kitta Tsuna To Musume, nguyên tác của ký giả Kondo Koichi (Cận Đằng Hoành Nhất) thuộc nhật báo Sankei (Sản Kinh) chiếu nhiều kỳ và được tái chiếu, nội dung về những khác biệt văn hóa trong gia đình giữa một người đàn ông Nhật lấy vợ Việt Nam. Năm 1997, đài NHK đã cử một toán chuyên viên và ông Norio Kato (Gia Đằng Tắc Phu, Trưởng Ban Việt Ngữ đài phát thanh NHK) qua Hoa Kỳ và đi Việt Nam để thực hiện một phim tài liệu dài khoảng một giờ đồng hồ mang tựa: "Ca Sĩ Sài Gòn: Tổ Quốc 22 Năm Qua". Chương trình này đã được tái chiếu nhiều lần. Đạo Diễn Hideo Kaku (Giác Anh Phu, thuộc đài NHK) đã viết một cuốn sách về cuộc đời của Khánh Ly, do NHK phát hành cùng năm. Năm 1998, nữ ca nhạc sĩ nổi tiếng Tokiko Kato (Gia Đằng Đăng Ký Tử) đã mời Khánh Ly qua trình diễn chung và hát chung bài Diễm Xưa - Utsukushii Mukashi tại công viên Hibiya, ngay cạnh Hoàng Cung. Chương trình đã được đài NHK thu hình và

Page 38: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

chiếu nhiều lần. Bà Tokiko Kato cũng đã hát thu đĩa bài "Diễm Xưa" bằng tiếng Nhật, và xếp đầu tiên trong đĩa 12 bài "TOKIKO-CRY". Nữ ca sĩ enka (diễn ca) nổi tiếng Tendo (Thiên Đồng), 44 tuổi, đã chọn bài Diễm Xưa bằng tiếng Nhật để hát trong chương trình Hồng Bạch (Hồng chỉ bên nữ và Bạch chỉ bên nam) tối ngày 31/12/2003, từ 7 giờ 30 đến 11 giờ 45, do đài NHK số 1 tổ chức. Ca sĩ Tendo đã đi Việt Nam, hát bài này cùng với Hồng Nhung tháng 8/2002 cũng do NHK thu và phát hình. Chương trình Hồng Bạch (Kohaku) là chương trình văn nghệ vĩ đại nhất, coi như tổng kết thành tích nghệ sĩ trong năm. Năm nay là lần thứ 54, được tiếp vận tới khoảng 50 quốc gia khác trên thế giớị Năm nay phái nam thắng, tỷ số chung từ trước đến nay thành 27-27. Bà Tendo đã hát và thu đĩa bài Utsukushi Mukashi phiên bản 1 tháng 9/2003 và tháng 2/2004 đã ra phiên bản 2 với lối hòa âm dễ hát Karaoke hơn. Cả hai phiên bản đều lọt vào vòng 10 bài hay nhất theo thăm dò của Oricon Entertainment Site ngày 1/3/2004. Đây là chuyện lạ chưa từng có ở Nhật và có lẽ ở khắp nơi trên thế giớị Cùng một bài hát mà hai phiên bản cùng lọt vào "top 10". Thật là hiếm có bài hát nào như bài Diễm Xưa tiếp tục được lan truyền và gây xúc động cho người Nhật từ 1970 tới tận ngày naỵ Ngày 6/8/2004, tôi thử tra trên mạng chữ "Diễm Xưa (Utsukushii Mukashi, Mỹ Tích), thấy có tới cả ngàn tài liệu bằng tiếng Nhật về bài này. Bài Diễm Xưa nổi tiếng như vậy ở Nhật nên Đại Học Kansai Gakuin (Quan Tây Học Viện) ở thành phố Nishimiya (Tây Cung) và Kobe (Ẽ_Ậầ , Thần Hộ), tỉnh Hyogo (Binh Khố) đã chọn dạy trong môn văn hóa Việt Nam từ niên khóa 2004. Ngoài tài liệu viết về bài hát, còn kèm theo DVD, để sinh viên học tập được dễ dàng. Đài RFA, Hoa Kỳ, trong chương trình Việt Ngữ ngày 20/7/2004, Thy Nga đã phỏng vấn ca sĩ Khánh Ly về chuyện này... CÔ "DIỄM" TRONG "DIỄM XƯA" LÀ AI? Có lẽ ai cũng biết bài "Diễm Xưa", nhưng chắc rất ít người biết nhân vật "Diễm" mà Trịnh Công Sơn say đắm là ai, huyền thoại chăng? Xin thưa đó là nhân vật có thật, Ngô Vũ Bích Diễm hiện đang sinh sống tại Little Saigon, nam Cali, Hoa Kỳ (2005). - - - - - Năm 1999 và 2000, Tam Ca Áo Trắng được mời hát và thu đĩa nhạc Pob của Nhật và Việt mang tên "Chào". Có một bài hát nhi đồng rất nổi tiếng của Nhật tên là "Akatombo, Xích... , Chuồn Chuồn Đỏ" do Kosaku Yamada (Sơn Điền Canh Tạc) sáng tác, đã được nhạc sĩ Minh Thành trình diễn bằng đàn bầu ở Sài Gòn, Việt Nam khoảng năm 1993. Tiếng đàn bầu

Page 39: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

tấu khúc nhạc Nhật khi đó đã làm say mê tầm hồn Shino Midori, là một Giáo Sư dạy tiếng Nhật tại Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, và bà quyết định học đàn bầu và trở thành học trò "khó dạy" nhất của nhạc sĩ Minh Thành. Bà đã phải vượt qua biết bao khó khăn trở ngại về văn hóa và ngôn ngữ. Do tiếp xúc với văn hóa Việt, bà cũng có dịp gặp gỡ các nhạc sĩ hàng đầu như Giáo Sư Trần Văn Khê, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Vĩnh Bảo, Phan Chí Thanh, các Giáo Sư tiếng Việt và Nhật như Tô Đình Nghĩa, Lý Kim Hoa... Để rồi gần mười năm sau, năm 2003, bà giỏi cả đàn bầu (có bằng trung cấp) và tiếng Việt, đã phát hành đĩa CD "Làng Tôi" với tiếng đàn bầu đầu tiên của bà gồm 12 bài như Bèo Dạt Mây Trôi, Hòn Vọng Phu, Làng Tôi và có cả bài "Akatombo"... Tiếng đàn chưa hoàn mỹ lắm, nhưng cũng khá, và nỗ lực của một người ngoại quốc đến với nhạc khí cổ truyền Việt như vậy đáng kể là tuyệt. Năm 2003, bà Midori Thúy trở về Nhật, và có ai ngờ đâu sau đó bà lại trở thành Giáo Sư dậy đàn bầu cho người Việt ở Nhật. Nam ca sĩ Ryo Sasaki (Tá Tá Mộc Lương) ra mắt tại Việt Nam chứ không phải Nhật Bản. Anh đã hát nhạc Việt chung với Lam Trường, Phương Thanh trong các năm 2000, 2001 và với Như Quỳnh (Ề@òữ) năm 2001, 2002... tại Nhật. Đây là lần đầu tiên công ty nhạc Nhật Toho và Victor (JVC, hàng đầu thế giới của Nhật) mời Như Quỳnh hát nhạc Nhật, lời Nhật bài "Ame No Yokohama" (Vũ Hoành Tân, Yokohama Trong Mưa) loại Enka (diễn ca, nhạc mùi), coi như một Teresaten (Đặng Lệ Quân gốc Đài Loan) thứ hai... Nhân kỷ niệm 10 năm hoạt động văn nghệ (1991-2001), ngày 14/1/2002, Như Quỳnh ra mắt Single CD đầu tiên với bài trên cùng nam ca sĩ Ryo Sasaki tại khách sạn Shinagawa Prince Tokyo. Hai nam ca sĩ Tsuneharu Sakai (Cảnh Hằng Xuân) qua Việt Nam năm 2001 lúc 22 tuổi, làm đệ tử ca sĩ Ngọc Sơn, đã đi hát với Ngọc Sơn cả trăm lần... Họ đều khởi đầu cuộc đời ca sĩ của mình tại Việt Nam và Wada Shogo (Hòa Điền Thượng Ngộ) qua Việt Nam năm 2002 lúc mới 18 tuổi, làm đệ tử ca sĩ Ngọc Sơn rồi đi hát với Lam Trường. Họ phát âm tiếng Việt rất khó khăn, nhưng cố gắng ở cả 6 tháng hay một năm để học và hát được nhiều bài hát tiếng Việt. Tháng 8/2002, Sakai ra mắt đĩa đơn (single CD) "Lời Tỏ Tình Dễ Thương" của Ngọc Sơn bằng tiếng Việt và Nhật trong đó có cả tiếng hát Ngọc Sơn cũng bằng tiếng Việt và Nhật. Chúng tôi đã giúp Sakai tập luyện thêm về phát âm tiếng Việt khi thâu, từ giọng lơ lớ độ 70% hy vọng nâng lên từ 90 đến 95%. Tháng 7/2003, anh đã đặt may bộ áo dài đàn ông màu xanh dương với hoa văn chữ thọ và quần trắng ngay tại Mekong Center và hát ra mắt bộ quần áo này tại thành phố Mito (Thủy Hộ), tỉnh Ibaraki ngày 9/8/2003 trước khoảng 250 quan khách. Sakai thỉnh thoảng xuất hiện trên TV, báo chí Nhật. Giữa năm 2004, anh Sakai đã đi Việt Nam cùng hát với Ngọc Sơn trên TV trong chương trình "Với Ngôi Sao" bài "Lời Tỏ Tình Dễ Thương" lời 1 và 2 của Ngọc

Page 40: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Sơn bằng tiếng Việt và Nhật, thu hình quảng cáo cho nhà xuất bản Byakuya Shobo (Bạch Dạ Thư Phòng) của Nhật... Tháng 7/2005, Sakai và Wada đã cho ra mắt đĩa "First Impression", gồm 9 bài, trong số đó cỏ 4, 5 bài của Ngọc Sơn như Đêm Cuối, Đam Mê, Vầng Trăng Cô Đơn, Oh! Baby... Sakai, còn trẻ, độc thân, đi hát khắp các quán ăn, nơi hội họp... Ngày 20/3/2003, Hồng Hạnh đã có buổi ra mắt CD "Hồng Hạnh First Memorial Album 2003" với cơm tối rất trịnh trọng tại khách sạn sang trọng Nikko Tokyo ở Daiba (Đài Ba), quận Minato, Tokyọ Giá vào cửa lên tới 50.000 Yen (415 đô la Mỹ), với sự tham dự của khoảng 200 quan khách. Hồng Hạnh đã trình bày liên tiếp khoảng hơn 10 bài hát Việt và Nhật, hầu hết bằng cả hai thứ tiếng Việt và Nhật với ban nhạc Line Up của Nhật. Ở khoảng giữa, có lúc Hồng Hành đã tự đệm đàn ghi ta và hát bài Diễm Xưa. Nhật Bản đang ở vào thời kỳ "boom (phong trào) Việt Nam". Lần thứ nhất khoảng năm 1990 đến 1997 là "boom đầu tư", và lần thứ hai từ năm 2000 tới nay là "boom văn hóa, du lịch". Chỉ riêng trong tháng 3/2001, chúng tôi ghi nhận có khoảng 10 cuốn sách và tạp chí chuyên về hay chủ đề về Việt Nam. Trên TV quảng cáo phim Konica là hình ảnh phụ nữ Việt mặc áo dài ngồi xích lô... Như Quỳnh đã tới trong bối cảnh đó, nên dễ thu phục khán thính giả Nhật. Nhắc đến xe xích lô mới nhớ một chuyện lạ lùng được nhật báo Asahi (ÊỚẾự , Triều Nhật) cuối tháng 5/2001 nói tớị Việt Nam nhập hàng triệu xe của Nhật Bản, vậy liệu có xuất cảng được chiếc nào không? Việt Nam đã xuất cảng độ mươi chiếc xích lô đi một số nước, trong đó có một chiếc để chưng ở trước tiệm ăn Vietnamse Cyclo ngay Tokyo, nhưng ông Okumura (Ốc Thôn) nhập mấy chiếc về tận Hokkaido (Bắc Hải Đạo) không phải để chưng mà để chở người thực sự, ông chủ trương dùng xích lô khỏi gây công hạị Khi mùa đông có tuyết thì có thể chuyển vùng xuống Okinawa (Xung Thằng)?... Tại Sài Gòn, có tiệm K Cafe mà chủ là người Nhật, đã hoạt động với cả thuyền loại 45 tấn, có mái và trang trí như một "yakatabune" (ốc hình thuyền, một loại thuyền nhỏ có treo đèn lồng, chở du khách ăn tối trên sông hay vịnh) tại Nhật. Thuyền hoạt động vào buổi tối với những người chạy bàn mặc "Kimono" loại đơn giản và phần trình diễn nhạc cổ truyền Việt Nam bởi các phụ nữ Việt mặc áo dài, đội khăn... Ngoài nhiều tiệm cá sống hay các món ăn kiểu Nhật, đại công ty hamburger (bánh mì thịt bằm kiểu Đức) Lotteria với hệ thống tiệm khắp nước Nhật cũng qua Việt Nam, năm 2002 đã có 4 tiệm ở Sài Gòn. Ca sĩ Khánh Ly đã chinh phục người Nhật từ năm 1970, tức suốt trong 35 năm qua với nhạc Trinh Công Sơn, có lẽ nay là lúc ca sĩ thế hệ trẻ hãy cố gắng tiếp nối bằng những bản nhạc Việt chuyển lời Nhật mới cũng như những bài hát của chính người Nhật... Có một số người Nhật tới Việt Nam dạy tiếng Nhật hay học tiếng Việt... rồi học

Page 41: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

thêm nhạc khí cổ truyền của Việt Nam như đàn tranh, đàn bầu, tỳ bà, đàn nhị, đàn t'rưng... Như bà Shino Midori (tên Việt là Thúy), nguyên Giáo Sư của Đại Học Jochi (Thượng Trí) qua Việt Nam học tiếng Việt, dạy tiếng Nhật rồi học đàn bầu từ năm 1996 và ra cả sách "Đàn Bầu - Nhạc Khí Dân Tộc Của Người Việt" do nhà xuất bản Trẻ phát hành. Như bà Keiko Todoroki (Đẳng Đẳng Lực) học tại Nhạc Viện Hà Nội, đánh đàn bầu rất tớị Rồi Giảng Sư Đại Học Mejiro (Mục Bạch) là Akihiko Hiyoshi (Nhật Cát Chiêu Ngạn) chơi được cả đàn bầu, tranh, tỳ bà và nhi.. Anh đã đi Việt Nam khoảng 15 lần và năm 1998, qua cả Hoa Kỳ chỉ để nghe nhạc trình diễn sống nhạc Việt và tham dự buổi văn nghệ kỷ niệm 15 năm thành lập của trung tâm Thúy Nga tại Long Beach, Calị Ngày 23/8/2003, anh đã đi dự buổi văn nghệ kỷ niệm 20 năm thành lập của trung tâm Thúy Nga tại San Josẹ Trong suất 1, anh được MC Nguyễn Ngọc Ngạn mời lên phỏng vấn bằng tiếng Việt và anh đã đánh đàn bầu bài "Qua Cầu Gió Bay", được 2.500 khán thính giả Việt hưởng ứng nhiệt liệt. Trong Văn Nghệ Magazine số 20, 2003 và tuần báo Trẻ của anh Kỳ Phát ở Hoa Kỳ..., đã đăng bài ký sự của chúng tôi về chuyến đi xem chương trình Thúy Nga Kỷ Niệm 20 Năm của chúng tôi cùng anh Hara và Hiyoshi , ngày 23/8/2003 ở San Jose, thêm nhiều hình ảnh, tổng cộng là 7 trang, coi như bài giới thiệu về DVD Thúy Nga 71 luôn. Trong DVD Thúy Nga 72 mới nhất năm 2004, chủ đề "Tiếng Hát Từ Nhịp Tim", sau bài Mùa Đông Hoa Trắng do Tâm Đoan và các vũ công trình diễn, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn khi giới thiệu về Nhật Bản đã trích dẫn những tài liệu do chúng tôi thu thập. Các cô Yoshiko Aikawa (Hội Xuyên Quý Tử) chơi đàn bầu, Akane Shimizu (Thanh Thủy Thiến) chơi đàn tranh và Kumiko Oguri (ẺỠẬIẪvỀỳÈq, Tiểu Lật Cửu Mỹ Tử) chơi đàn t'rưng. Cả ba cô đều học khoa Việt Ngữ tại Tokyo Gaigo nên tiếng Việt khá rành. Nếu chỉ nhìn các cô gái mặc áo dài chơi đàn cổ truyền Việt Nam, không ai có thể biết được đó là những người Nhật. Năm 2004, cô Kumiko Oguri đang học Cao Học tiếng Việt thì xin nghĩ một năm để đi Việt Nam tu nghiệp rồi mới trở lại làm luận văn tốt nghiệp. Cô chơi cả trống thường trong ban nhạc và nhất là mộc cầm. Là hội viên của Bắc Tinh Hội (Hokusei), Hiệp Hội Mộc Cầm Nhật Bản (Nihon Mokkin Kyokai) của Nhật và hội viên danh dự của Hội Mộc Cầm Bắc Kinh (Beijing Marimba Kyokai), đã từng qua Trung Quốc biểu diễn cả chục lần. Cô thường được nhiều nơi ở Nhật mời đi biểu diễn đàn t'rưng. Với thân hình thon nhỏ như phụ nữ Việt, khi cô mặc áo dài biểu diễn, trông cô hoàn toàn như người Việt. Tới năm 2001, bên cạnh khoảng 5.000 người Nhật học tiếng Việt, còn có khoảng 20 người học chơi nhạc cụ cổ truyền Việt Nam. Lâu lâu họ lại được mời đi trình diễn âm nhạc, đôi khi cả trình diễn áo dài, đã đóng góp rất tính cực trong các sinh hoạt giao lưu Viê.t-Nhật.

Page 42: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Anh Hara (Tomohiko Adachibara, An Đạt Nguyên Tri Ngạn) cũng đi Việt Nam hơn 10 lần, không chơi nhạc cụ nào, nhưng rất rành về các nghệ sĩ, những băng hình mà anh thích, anh xem đi xem lại khoảng vài chục lần. Từ năm 2000, anh tình nguyện phụ trách Trang Tiếng Nhật trong nguyệt san Mekong để làm nhịp cầu giao lưu Viê.t-Nhật. Tháng 4 năm 2003, anh đã theo chúng tôi qua thăm sinh hoạt của cộng đồng người Việt ở nam và bắc Cali, Hoa Kỳ. Qua tháng 8/2003, anh lại đi lần thứ hai để dự chương trình văn nghệ kỷ niệm 20 năm thành lập trung tâm Thúy Nga ở San Josẹ Anh Hara được kể là người Nhật chụp hình nghệ sĩ Việt Nam nhiều nhất. LỜI SEA GAME 22 BẰNG TIẾNG NHẬT Cô Izumi Takahashi (Cao Kiều Tuyền), một sinh viên Khoa Việt Ngữ cũa Đại Học Tổng Hợp Hà Nội và sau đó là sinh viên năm thứ 1 Khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn đã dịch bài hát SEA (South East Asia = Thế Vận Hội Đông Nam Á) GAME 22 "Vì Một Thế Giới Ngày Mai = For The World of Tomorow" của nhạc sĩ Quang Vinh ra tiếng Nhật. SEA GAME 22 lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam đã được long trọng khai mạc đầu tháng 12 tại sân vận động Mỹ Đình vừa hoàn tất ở ngoại ô Hà Nội. NHẠC SĨ TRẦN QUANG HẢI TRÌNH DIỄN Nhạc sĩ nhạc dân tộc nổi tiếng Trần Quang Hải từ Pháp qua đã có các buổi họp về nhạc dân tộc ở Kyoto, Nara và một buổi trình diễn đặc biệt cùng với Shuji Okayama (Cương Sơn Thủ Trị) và Leo Tadagawa (Chân Xuyên Lễ Chư). Nhạc sĩ Trần Quang Hải qua Pháp sinh sống từ năm 1961, đã đi khắp thế giới khoảng 200 lần, qua khoảng 65 quốc gia. Đây là lần thứ 7 hay 8 Nhạc sĩ Trần Quang Hải tới Nhật và là lần thứ 2 trình diễn ở Tokyọ Ngày Thứ Năm 8/4, ba người đã trình diễn tại phòng nhạc "Shakkyo" ở Yotsuya, Tokyo với khoảng 100 người tham dư.. Mở đầu, anh Hải mặc áo dài đen ra trình diễn 3 loại đàn môi của Nga, Nam Dương và Việt Nam qua bài "Đi Viếng Miền Thượng" do chính anh sáng tác. Với lối dẫn giải giản dị và biểu diễn thật xuất sắc anh đã thu hút sự chăm chú lắng nghe của tất cả mọi ngườị Đàn môi là một loại đàn ngậm ở môi thổi, thường bằng kim thuộc hay tre..., kích thước khoảng 5-20 cm, căn bản thường gồm 1 thanh uốn hình chữ "Omega" nhưng 2 đầu thẳng dài ra và 1 thanh giữa dùng tay gạt và biến đổi của lưỡi để phát ra những âm khác nhau... dân gian các nước Á Châu trong có cả người sắc tộc VN như Mong, Êdê, Bana.. và Âu Châu dùng, tất cả có đến hàng loại đàn môị Tiếng Nhật gọi là ẽkokinẹ (khẩu cầm) hay loại bằng tre có dây kéo của người Inu ở Hokkaido (Bắc Hải Đạo) gọi là "mukkuri". Mới chợt nghe đàn môi, chúng tôi hơi liên tưởng đến tiếng kêu đều đều của "ễng ương" hay "cóc nhái", nhưng càng nghe càng thấy nhiều âm thanh lạ, mà bình

Page 43: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

thường có thể chưa bao giờ nghe thấỵ Người điêu luyện như anh Hải có thể tạo ra những âm thanh phong phú và biến hóa vô lường. Sau đó anh giới thiệu về cách gõ muỗng do anh sáng chế, chỉ với 2 cái muỗng đơn giản, tùy theo tốc độ và gõ lên đùi, tay, mặt... sẽ cho ra những âm khác nhau như giai điện một bản nhạc. Về đàn môi thì phái nam và nữ sử dụng như nhau, nhưng về hát đồng song thanh thì phái nam phát âm dễ hơn phái nữ vì có thanh đới ở cổ (phần yết hầu) dài hơn. Kế đến là anh Leo Tadagawa cũng biểu diễn đàn môi, cho tới nhạc cụ đơn giản là thìa và dao ăn bằng nhựa, nghĩa là bất cứ vật dụng nào, nếu chúng ta khéo léo sử dụng đều có thể biến chúng thành nhạc cu.. Sau phần đầu như hút được hồn người nghe rồi bây giờ anh Hải mới biểu diễn hát đồng song thanh và nói mọi người thử tập. Thường chúng ta chỉ nói hay hát lần lượt từng âm một, nhưng hát đồng song thanh là 1 người hát 1 lúc 2 âm, lối hát gốc Mông Cổ, thí dụ ban đầu phát âm chữ "i", răng chạm nhau và miệng bè ra, sau đó trong đầu vẫn nghĩ tới âm "i", vẫn giữ răng chạm nhau nhưng hãy thu môi tròn lại chuyển dần sang "u", khi đó sẽ nghe thấy 2 âm cùng lúc, âm nền "i" và nổi lên âm "u", tương tự anh chỉ cho mọi người tập âm "o" đổi sang "a" và "ngu" đổi sang "a" rồi "ôm" hay "ru" đổi sang "lăng" rồi "long"... Anh Hải từ từ chỉ dẫn và điều ngạc nhiên thích thú là hầu như ai cũng tập được những âm đơn giản. Mấy người Nhật được mời lên hát thử đều thành công ngoài tưởng tươ.ng. Người quen hát có thể lấy hơi và biến điệu âm "u" này lên xuống thành giai điệu bản nhạc. Tiếng Nhật gọi là "baion shoho" (bội âm xướng pháp). Mọi người đều cảm thấy thích thú nên anh Hải đã được khán thỉnh giả vỗ tay nhiệt liệt. Thực ra, "bội âm" nguyên nghĩa là gấp bội âm, tức tạo ra âm có tần số gấp gội lên... Anh Shuji Okayama ra biểu diễn cả đàn môi, cả hát đồng song thanh, anh mới tập 4 năm, nhưng tiếng hát rất điêu luyện. Anh Hải trở lại giới thiệu những nét độc đáo của đàn bầu (chiếc đàn của anh Leo), qua bài dân ca "Cò Lả". Cuối cùng cả ba anh hợp tấu đàn môi rất nhịp nhàng và chấm dứt chương trình lúc 9 giờ. Sau đó khoảng 30 người tiếp tục ở lại dùng tiệc trà và vây quanh anh Hải hỏi thăm và đó đây vẫn có tiếng "ễnh ương" cho tới khoảng hơn 10 giờ 30 mới giải tán. Về nhạc cổ điển, người Nhật biết đến danh thủ dương cầm Đặng Thái Sơn. Sau khi chiếm giải nhất Chopin tại Ba Lan năm 1980, anh đã qua Nhật sinh sống và dạy nhạc trong nhiều năm. Năm 2003, người Nhật cũng qua Việt Nam trình diễn nhạc giao hưởng... NHẠC NHÂ.T-VIỆT

Page 44: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Ông Hiroya Terakawa (Tự Xuyên Bác Dã) đã qua Việt Nam làm việc về xây dựng, nhưng cũng đồng thời là một nhạc sĩ tài tử, đã sáng tác và thực hiện đĩa đơn (single CD) lời Nhật và dịch sang lời Việt mang tên "Như Đã Thân Quen - Du Khách Trong Hà Nội" được giải thưởng của Tòa Đại Sứ Nhật và phát trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam chương trình tiếng Nhật do ca sĩ trẻ đang lên Hồ Quỳnh Hương ở Việt Nam hát. Ông Hiroya Terakawa rất mong có dịp ra mắt đĩa nhạc này và đưa Quỳnh Hương qua Nhật hát. NGƯỜI NHẬT DIỄN NHẠC KỊCH VỀ VIỆT NAM

"MISS SAIGON" Người Nhật đã từng diễn các vở nhạc kịch "Miss Saigon", "Bích Câu Kỳ Ngộ", "Bài Ca Tạm Biệt" bằng tiếng Nhật và qua Việt Nam giới thiệu trống Nhật, nhạc "Nô", nhạc Okinawa... với người Việt. "Miss Saigon" đã từng được công ty Toho (Đông Bảo) diễn ở Nhật lần đầu năm 1992 và tái diễn từ giữa tháng 8/2004 tại Teikoku Gekijo (Đế Quốc Kịch Trường, hội trường hàng đầu ở Nhật) ở ga Yurakucho (Hữu Lạc Đinh), cạnh Hoàng Cung, công viên Hibiya (Nhật Tỷ Cốc), giá vé 4.000 Yen-13.500 Yen. Lần này tổng cộng 81 nghệ sĩ được tuyển trong số 12.000 người ghi tên và chi phí cho vở nhạc kịch ước độ 3 tỷ Yen, gần 30 triệu Mỹ Kim. Nội dung kể chuyện một đôi nam nữ sinh ra ở vùng quê, cha mẹ hai bên hứa hôn với nhau, nhưng chàng lớn lên đi theo Cộng Sản, còn nàng thì về Sài Gòn làm gái bán ba tên Kim nên mới có tên "Miss Saigon". Từ đó cô ta quen với một anh lính Hoa Kỳ, anh này thương và cưới làm vơ.. Hai người có với nhau một đứa con traị Ngày 30/4/1975 đến, anh lính Hoa Kỳ cố gắng đưa vợ con di tản nhưng bất thành. Người bạn trai mà gia đình hứa hôn theo đoàn quân Công Sản chiến thắng trở về, muốn cưới cô bạn cũ nhưng cô không chịu vì đã có chồng con... Khi về Hoa Kỳ, sau này anh lính Hoa Kỳ lấy vơ.. Trong khi đó "Miss Saigon" sống vất vả, không lo được cho con, nghĩ đến tương lai của con, cô đã theo đoàn người tìm đường vượt biên. Anh cựu chiến binh Hoa Kỳ có người bạn làm tại cơ quan thiện nguyện ở Thái, nên khi thấy phong trào vượt biên lên cao, đã cùng người vợ mới bay qua tìm với hy vọng gặp được Miss Saigon. Miss Saigon lại ở ngay trại của anh bạn, khi hay tin chồng cũ tới Thái, cô đến tìm thì anh ta đi vắng, chỉ gặp một người đàn bà, hỏi ra mới biết là bà vợ mới của chồng mình! Biết nói gì bây giờ!? Khi hiểu chuyện bà vợ mới cũng muốn giúp đỡ mẹ con Miss Saigon, nhưng Miss Saigon tự nghĩ sự hiện diện của mình sẽ phá hỏng hạnh phúc của vợ chồng Hoa Kỳ này nên cô đã trao con trai nhờ nuôi nấng hộ rồi tự sát!!!

Page 45: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Tuy là vở kịch, nhưng cũng không xa với thực tế mấy, nói kết quả bi thảm của con người trong chiến tranh... đã làm rơi nược mắt của mọi người xem. Có người Nhật đã đi xem tới 5 lần. Để thực hiện nhạc cảnh này, thường phải mở cuộc tuyển lựa nam và nữ ca sĩ chính, tuy một vai nhưng cần tới hai và có khi bốn người, vì như thế mới có thể diễn hai suất và để thế nhau khi cần, công ty tổ chức phải mở cả một trường huấn luyện trong khoảng một năm trờị Đây là loại nhạc giao hưởng, phải có giọng thật cao (tenor) và các ca sĩ chính chia nhau nhớ khoảng 25 bàị Nên tuy là kịch bối cảnh Việt mà ở một số nơi nói tiếng Anh, cũng không có ca sĩ Việt nào hát tiếng Anh lọt vào, trong khi có ca sĩ Phi Luật Tân... được chọn, còn như ở Nhật thì ca sĩ Nhật hát. Năm 1992, Minako Honda (ỄđẾcỀỳẾịÈq, Bản Điền Mỹ Nại Tử) là một trong hai nữ ca sĩ chính. Quý độc giả có thể tưởng tượng không, trong thời gian diễn một năm rưỡi, nhiều khi cô chỉ nói và hát trên sân khấu còn ra ngoài thì không nói nữa vì sợ khản gio.ng. Cần tới 3 em trai trong vở kịch, vì các em còn bận đi học hoặc dễ cảm cúm, mắc bệnh... Vì có nhiều ca sĩ một vai, nên khán thính giả còn chọn lựa đi xem đúng người mình ái mộ, việc lấy vé đôi khi cũng khó, thường phải giữ chỗ trước cả một vài tháng. Còn ban nhạc là cả một dàn giao hưởng, chơi nhạc sống. Thông thường, các nhà viết kịch bản phải dựa theo sân khấu để xây dựng khung cảnh, nhưng riêng nhạc kịch này, sây khấu phải được sửa cho thích hợp với nội dung. Trong đó có cảnh máy bay trực thăng đáp xuống để bốc người di tản ngày 30/4/1975... Chiếc máy bay trực thăng giả khá lớn, có kích thước lớn như thật. Đây là vở nhạc kịch tầm vóc quốc tế, nếu người Việt có dịp thì cũng nên đi xem cho biết.

"BÀI CA TẠM BIỆT" Đó cũng là tên bài ca chủ đề, một trong tổng cộng 24 bài ca của nhạc kịch Nhật lấy bối cảnh Việt Nam những thập niên cuối thế kỷ 20 và biểu tượng là hoa sen do TS Music Foundation thực hiện tại Tokyo và Osaka trong tháng 4/2004. Hai diễn viên ca sĩ nổi bật nhất là cô Mire Aika và Yuko Doi, trong tấm quảng cáo đều thấy mặc áo dài tuyệt đẹp cùng với khoảng 15 diễn viên nam nữ hkác. Đây là một vở nhạc kịch đã được chuẩn bị trong suốt một năm trời, hơi tương tự như vở nhạc kịch "Miss Saigon" nhưng nhỏ hơn, dài 2 giờ 30 phút. Cốt chuyện nhạc kịch "Bài Ca Tạm Biệt" do bà Shatamae (Tạ Châu Vinh) viết và kịch bản do bà Wakagiefu viết. Chuyện kể về hai chị em, chia tay và hẹn gặp lại nhau vào một ngày mai tươi sáng hơn, trong lúc chiến tranh đang thời kỳ khốc liệt cao đô.. Cô em sau đó đi Anh Quốc, sống cuộc sống an bình, 20 năm sau trở về với quốc tịch Anh như

Page 46: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

một người xa la.. Thời điểm chia tay thì trong nước diễn ra những nghịch cảnh, chém giết và khi hết chiến tranh người em trở về đã gặp những chuyện vui buồn, đặc biệt nhất là lại gặp những nghịch cảnh khác!!! Hết chiến tranh, nhưng người Việt vẫn chưa thực sự được bình an vì bị những nghi ngờ và cuộc sống đầy khó khăn... Tóm lại, thân phận người dân chịu đủ thứ tai ương, từ những người Mỹ hống hách đến những người chiến thắng hà hiếp. Trước hội tường, có ba cô Nhật mặc áo dài, tay cầm đóa sen nở, ở giữa cắm hương/nhan đốt cháy tỏa mùi thơm bay phảng phất, tạo ngay một không khí đặc biệt thu hút người đến dư.. Hội trường chứa được khoảng hơn 400 ngườị Ba mặt sân khấu được thiết kế chính bằng những dây thừng, phông cảnh bị giới hạn nhưng cũng cố gắng thay đổi thường xuyên cùng với việc thay đổi ánh sáng. Có cả một chiếc xích lô làm bối cảnh cho bài ca "Xích Lô". Phối hợp nhạc Nhật-Việt và nhạc Tây Phương, xen lẫn với tiếng bom, đạn, trực thăng, hò hét... khá haỵ Hầu hết các diễn viên đều ăn mặc y phục Việt, phụ nữ mặc tổng cộng khoảng 10 áo dài, phái nam thì mặc áo cánh kiểu miền Nam, diễn xuất sôi động, khá công phụ Đúng ra đây là ca vũ kịch, các diễn viên đều múa hát, đặc biệt là cô Shinki Fujimori (Đằng Sâm Chân Quý), nguyên là vũ công Ba-Lê, mặc áo dài trắng và đội vương miện, múa rất đẹp. Thể theo lời yêu cầu của nhiều khán thính giả, nhóm thực hiện dự trù sẽ diễn lại trong năm 2004 hay 2005. Vở nhạc kịch này đã được giới thiệu trong tạp chí kịch nghệ "Musical" số tháng 4/2004.

"SAIGON HOTEL CỦA TỊCH DƯƠNG ĐỎ" Nhạc kịch "Saigon Hotel Của Tịch Dương Đỏ " (Akai Sekiyo No Saigon Hotel) được trình diễn tại Tokyo, Osaka, Nagoya từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 9/2005. Vai nữ chính là cô Naomi Fujiyama (Đằng Sơn Trực Mỹ) đương nhiên là mặc áo dài, đóng chung với nam diễn viên Kiyotaka Imai (Kim Tĩnh Thanh Long). Giá vé đồng hạng 10.000 Yen. NGƯỜI VIỆT DIỄN KỊCH NHẬT "HẠC CHIỀU" Vở kịch nổi tiếng "Yuzuru" (Tịch Hạc tức "Hạc Chiều") của ông Junji Kinoshita (Mộc Hạ Thuận Nhị, sinh năm 1914). Đây là tác phẩm rất nổi tiếng, trong tập truyện in lần đầu năm 1954, nay đã tái bản khoảng 60 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng và diễn kịch, phổ nhạc... được hầu hết người Nhật biết đến. Nhân vật chính là con hạc hóa thân làm mỹ nữ để thử lòng người, đã lấy lông hạc dệt áo bán nuôi người yêu... Chúng tôi đã tìm mua tác phẩm "Yuzuru" và gởi một bộ "Kimono" đàn ông qua cho anh Hải Triều để diễn vở kịch nàỵ Được biết tại Sài Gòn cũng diễn vở kịch tương tự vào tháng 2/2005 với các diễn

Page 47: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

viên Nhật và dẫn chương trình bởi nghệ sĩ Việt. Trên truyền thông của Nhật còn thấy có quảng cáo kêu gọi người Nhật du lịch Việt Nam nhân dịp nàỵ PHIM VIỆT Ở NHẬT Tới năm 2004, đã có khoảng 30 phim liên quan tới Việt Nam được chiếu tại Nhật như "Trời và Đất, Trung Đội, Xích Lô, Ba Mùa, Lưỡi Dao, Lời Thề, Thương Nhớ Đồng Quê, Hạ Chí, Vũ Khúc Con Cò...". CHUYỆN LẠ: "VÂN SƠN IN TOKYO"!!! Ngày 5/9/2004, toàn thể lực lượng trung tâm Vân Sơn và các ca sĩ thượng thặng đã kéo qua Nhật trình diễn. Bên hài có Vân Sơn, Văn Chung, Bảo Liêm, Chí Tài, Quang Minh, Hồng Đào, Lê Tín, Lê Huỳnh, Trang Thanh Lan, nam ca sĩ có Chế Linh, Tuấn Ngọc, Trường Vũ, Nguyễn Thắng, Nguyễn Khang, Minh Trí, bên nữ ca sĩ có Thái Thảo, Cát Tiên, Hạ Vi, Diễm Liên, Nhã Thanh, Vy Nguyễn... và 20 vũ công. Giới thiệu chương trình vẫn là "Đệ nhất MC" Việt Thảọ Chương trình do Charlie Nguyễn đạo diễn. Họ đã bay qua Nhật trình diễn chung với một số nghệ sĩ Nhật tại hội trường Kyurian, Đông Kinh. Phía người Nhật có vũ công nổi tiếng Mizuho Asano (Thiển Dã Thụy Tuệ), kimono với 4 phụ nữ Nhật và Hoa Hậu - Á Hậu Ảnh Nhật Bản 2004 là Thiên Vân và Minh Trinh (sau khi trình diễn kimono Nhật Bản đã cởi ra để lộ chiếc áo dài Việt Nam bên trong), samurai với Sakai và Wada và lễ hội với Edo Kabukiren (Giang Hộ Ca Vũ Kỹ Liên) gồm 40 người, nữ ca sĩ trẻ Asuka Hayashi (Lâm Minh Nhật Hương). Đây được coi là một chương trình văn nghệ giao lưu Viê.t-Nhật lớn nhất và thành công nhất từ trước tới nay, để lại một dấu ấn khó quên trong lòng người Việt và người Nhật quan tâm đến Việt Nam. Có khoảng 1.200 khán thính giả Việt và Nhật tham dự trong hi đó, có khoảng 400 người không có vé vào đã phải ra về. Tổng cộng cả nghệ sĩ và chuyên viên Việt, Nhật, Hoa Kỳ, Phi Luật Tân và Tân Gia Ba (Singapore) tham gia lên tới 200 ngườị Đây là lần đầu tiên một chương trình quy mô chưa từng có như vậy được tổ chức thu hình ở Nhật (Vấn Sơn 29), nhằm giao lưu văn hóa Viê.t-Nhật và phóng sự về văn hóa, du lịch của Nhật cũng như về đời sống của người Việt ở đâỵ Thật là một chuyện độc đáo ít ai dám nghĩ tớị Thế nên chương trình tốn kém 50 triệu Yen (450.000 Mỹ Kim), gồm 25 tiết mục kéo dài trong 5 giờ đồng hồ này đã để lại dấu ấn không thể quên trong lòng người Việt và Nhật ở đây cũng như người Việt ở khắp nơi trên thế giớị HỘI HỌA Năm 1994, nữ họa sĩ Mika Toba (Mỹ Quả Điểu Vũ) qua Việt Nam, thực hiện

Page 48: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

loại tranh dán và tô màu phong cảnh Việt Nam, thành quả 10 năm của cô sau được triển lãm tại Việt Nam và Nhật Bản. Năm 2000, nữ họa sĩ Motoko Uda (Vũ Điền Tư Tử) qua Việt Nam nghiên cứu về hội họa và mở phòng tranh "Moco" thường trực. Năm 2001, có người Nhật qua học sơn mài Việt Nam rồi thực hiện tranh sơn mài, triển lãm 40 tấm ở Nhật như bà Saiko Ando (An Đằng Thái Anh Tử)... Tiệm La Fenêtre Soleil ở Sài Gòn do người Nhật làm chủ, là nơi bán cà phê, thức ăn nhẹ và nhất là triển lãm tranh cũng như tụ họp nghệ sĩ Việt Nam và thế giới... Rất nhiều nhiếp ảnh gia Nhật đã đi Việt Nam thời trước hay sau chiến tranh và đã mở rất nhiều cuộc triển lãm. Một số họa sĩ hay nhiếp ảnh gia Việt Nam cũng đã có triển lãm ở Nhật như Bé Ký, Nguyễn Đình Đăng, Lê Văn Xuân... NHẬT BẢN IN TEM HÌNH ẢNH VIỆT NAM Ngày 16/6/2003, nhân năm giao lưu giữa Nhật Bản và khối ASEAN, Bưu Điện Nhật Bản đã phát hành loạt tem kỷ niệm 10 quốc gia thuộc khối ASEAN. Trọn bộ có 10 con tem. mỗi con trị giá 80 Yen, con tem số 10 là hình Văn Miếu, xây dựng thời nhà Lý năm 1070, nơi được coi là đại học đầu tiên của Việt Nam, chuyên đào tạo quan lạị ĐÁM CƯỚI NHẬT TẠI VIỆT NAM Quan hệ văn hóa giữa hai nước càng lúc càng tăng. Đầu năm 2003, anh Shinji Mtasumoto và chị Rio Kusano đã quyết định tới Việt Nam để tổ chức đám cưới theo phong tục Việt. Cả hai mặc áo dài khăn đống, còn phù dâu và phù rể, hai họ thì lấy đâu ra người, nên mượn tạm nhân viên của công ty mà họ nhờ đứng ra tổ chức là Bến Thành Tourist. 300 NĂM TRƯỚC VOI VIỆT ĐÃ TỚI NHẬT Ngày 30/11/2002, đài truyền hình Nhật TBS số 6 đã đặc biệt thuật lại chuyện đưa một con voi từ Việt Nam qua Nhật thời Edọ Tài liệu của Nhật đã ghi và vẽ lại câu chuyện kỳ lạ độc đáo nàỵ Thật vậy, thể theo ước muốn của Sứ Quân Yoshimune Tokugawa (Đức Xuyên Cát Tôn(g) 1684-1751), năm 1728, một con voi đã được chở bằng thuyền từ Việt Nam tới cảng Nagasaki (ÊỮÉỗ , Trường Kỳ). Sang năm sau, đã phải mất đến 74 ngày để dẫn chú voi đi bộ một đoạn đường dài khoảng 1.500 km, từ Nagasaki lên tới Edo tức Tokyo ngày naỵ Trên đường đi, chú voi cũng đã được ghé Kyoto để ra mắt Thiên Hoàng, vì thời đó, voi là một động vật lớn nhất mà Nhật Bản không có nên rất quý. Ước đoán hiện tại ở Việt Nam còn khoảng 200 con voi rừng. TÂM TÍNH NGƯỜI VIỆT-NHẬT

Page 49: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Hầu hết người Nhật cảm thấy gần gũi, thoải mái và rất vui khi đi du lịch Việt Nam, mặc dầu đa số gặp trở ngại bất đồng ngôn ngữ, một đôi khi thì bị trộm cắp hay làm khó dễ ở phi trường. Họ thấy nhiều người Việt nghèo, nhưng ngạc nhiên thấy người Việt luôn tươi cười, ít có bộ mặt khó đăm đăm như những người Nhật giàu có. Họ muốn tiếp thu cái tinh thần lạc quan và vui tươi ấy của người Việt. Điều này cũng giống như truyện ngụ ngôn "Thằng Bờm (và ông Phú Hộ)" của Việt Nam vậỵ Có người nhận xét rằng: "Người Nhật ở ngoài đời thì nghiêm trang nhưng lên TV thì hay cười, người Việt ngược lại, ở ngoài đời hay cười mà lên TV lại nghiêm trang.". Bạn đọc nghĩ gì về điểm nàỷ Theo chúng tôi, nhận xét này có điểm đúng nhưng chưa chính xác. Người Nhật trên TV thường là người giữ vai trò tạo niềm vui, và người được mời lên thì cũng với mục đích góp vuị Còn người Việt bình thường vui vẻ tự nhiên, nhưng khi đột nhiên được đưa lên TV là phương tiện truyền thông đại chúng thì thường mắc cở, nên khẩn trương hoặc sợ hớ người khác cười nên đâm ra nghiêm trang. Thêm điểm nữa mà nhiều người Việt Nam cũng dễ nhận ra là sau thời gian dài làm quen với người Việt thì người Nhật dễ lây cái máu tiếu lâm của người Việt, họ lột bỏ được cái vỏ cứng rắn bên ngoài mà chính họ hay gọi là cái mặt nạ để cười đùa nhiều hơn. Và người Việt hay nói đùa, nói hai nghĩa, nên họ không chỉ để ý nghĩa đen mà suy ngẫm về cả nghĩa bóng nữạ Khi hiểu ra họ cười nghiêng ngả. Khi chúng tôi hỏi cô Yoshiko Aikawa (Hội Xuyên Quý Tử), một sinh viên tốt nghiệp trường Đại Học Ngoại Ngữ Tokyo ban tiếng Việt, nghĩ gì về người Việt, thì cô cho biết: "Tôi thích sinh hoạt với người Việt Nam vì người Việt Nam tử tế, hiếu khách, thoải mái và không khách sáo lắm. Những điểm tôi không thích lắm (hồi xưa) là mới gặp nhau mà cứ xen vào chuyện riêng tư cá nhân và điểm không chính xác về thời gian (không đúng giờ) lắm. Nhưng hiện nay, tôi không chỉ đã quen những điểm tôi không thích ấy, mà tôi còn bị ảnh hưởng nhiềụ "Trời ơi!". Cô Yukiko Henmi (Dật Kiến Hữu Kỳ Tử) đã từng qua Việt Nam bốn lần, đang học tiếng Việt, thì cho rằng: "Xưng hô trong tiếng Nhật giống như tiếng Anh và Pháp nên phần lớn chỉ có watashi - anata (tôi - anh, chị), nhưng khi qua Việt Nam, tôi được gọi là con, cháu, chị, em... tôi cảm thấy mình như liên hệ với mọi người và đang ở trong một gia đình rất rộng lớn, tôi thấy thật gần gũi và rất thích". Tuy nhiên, người Việt còn có những cách xưng hô thân mật, mà nếu không quen thì dễ nhầm lẫn, như_người Bắc thì cha mẹ đôi khi gọi con rể là "anh", con dâu là "chị", nhiều người Bắc trẻ gọi bạn gái là "cậu", người Nam hay gọi người ngoài hàng cháu là "con", vợ gọi chồng là "bố", chồng gọi vợ là "mẹ" hay chữ "mình" có nghĩa là "thân mình", "chính mình" và còn có nghĩa là "người phối ngẫu"... Cũng như người Nhật hay gọi trẻ con là "chan", nhưng họ cũng dùng chữ này một cách thân mật với người già hay người họ ái mô..

Page 50: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Ông Hiroya Terakawa (Tự Xuyên Bác Dã), người sáng tác bài "Như Đã Thân Quen - Du Khách Trong Hà Nội" đã nói với chúng tôi đại ý rằng: "Người Việt không để ý chi tiết, sống ở đó thoải mái, còn ở Nhật sống bị nhiều câu thúc (cùng khuất). Người Việt giữ quan hệ gia đình và bạn bè thân thiết, tốt hơn người Nhật. Nhưng người Việt không đoàn kết làm việc như người Nhật.". Ông Sarashi Furukawa (Cổ Xuyên Canh Tử) đã từng đi khoảng 30 quốc gia trên thế giới, ban đầu chỉ định qua Việt Nam để tìm hiểu văn hóa mà rồi yêu thích Việt Nam, ông đã từng ở lại trong 8 năm và lấy vợ Việt. Theo ông, phê bình một dân tộc khác là điều nên tránh, nhưng khi nói chuyện với tôi, vì thấy tôi muốn biết thực sự ông nhận xét ra sao thì ông đã thẳng thắn nói rằng: "Người Việt Nam vui tươi, giao tiếp với người Việt thấy thoải máị Nhưng nói là người Việt cần cù thì thường chỉ chịu đựng khi gặp khó khăn, khi đã có ăn hay có chút tiền là phần lớn buông lơi không cố gắng nữa. Người Việt hay than "mệt rồi, nghỉ, không làm nữa", là điều tôi rất ngạc nhiên vì người Nhật rất hiếm khi kêu ca như vậy". Nhân tiện, xin kể hầu quý độc giả những câu chuyện về leo núi của người Nhật, thể hiện ý óc mạo hiểm và ý chí đặc biệt của ho.. Tới nay, đã có hàng chục người Nhật leo lên đến đỉnh núi cao nhất thế giới là Everest. Nhưng kỷ lục cao tuổi nhất về tay cụ Yuichiro Miura (Tam Phổ Hùng Nhất Lang) khi cụ đã 70 tuổi mà leo lên đén đỉnh ngọn núi Everest cao nhất thế giới 8.848 mét ngày 22/5/2003. Nếu chúng ta biết rằng số người leo lên đỉnh Everest còn ít hơn số phi hành gia bay vào không gian thì mới thấy rằng leo lên đỉnh Everest là cả một kỳ công, không dựa trên kỹ thuật mà dựa trên đôi chân và nhất là ý chí của người leo. Cụ Miura đã từng trượt tuyết sườn dốc Everest với dù và bị té lao đi rất nguy hiểm. Năm 65 tuổi, cụ muốn leo lên đỉnh Everest nhưng bác sĩ nói là thể lực cụ không đủ sức chịu đựng với ôn độ -30 độ C và không khí loãng với lượng oxygen chỉ bằng 1/3 dưới mặt đất. Thế là cụ bỏ ra suốt 5 năm để tập, đi đâu thì lưng cũng đeo ba lô như khi leo núi... Cụ càng già càng trẻ, đã thực sự "hoàn đồng", thử nghiệm sức khỏe cho thấy, ở tuổi 70 mà cụ có sức khỏe của người 39,6 tuổị Cụ đã leo cùng với người con trai thứ hai của mình và đội leo núi Nhật, lên đến đỉnh núi Everest, phá kỷ lục trước đó cũng của một người Nhật là cụ Ishikawa (Thạch Xuyên) 65 tuổi, leo lên đỉnh Everest tháng 5/2002. Ngày 28/12, nhật báo Yomiuri (Độc Mãi) đã đưa lên câu chuyện của một người leo núi lạ lùng, đó là cụ Narao Higashiura (78 tuổi), quê ở tỉnh Mie (Tam Trùng). Năm 1960, lúc còn trẻ, cụ có dịp cùng gia đình leo lên ngọn đồi Norikura (Thừa Ngoa), từ trên đỉnh nhìn thấy biển mây và những ngọn núi trắng hùng vĩ... khiến cụ cực kỳ cảm đô.ng. Thế nên, từ đó, cứ tới ngày nghỉ làm việc là cụ đi leo núị Và rồi ngay hôm sau ngày về hưu 26/10/1984, cụ quyết chí mỗi ngày đều leo núi, với mục tiêu "mỗi ngày

Page 51: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

một ngọn núi". Ban đầu, cụ tính leo liên tục độ 1.000 ngày tức gần 3 năm, nhưng rồi cụ cứ tiếp tục leo và sau khi leo liên tục như vậy đến ngày thứ 2.000 thì cụ thấy tự tin hơn và nhất định leo tiếp... và nay đã đến ngày thứ 7.000 khi cụ leo lên ngọn núi Horizaka (Quật Phản) cao 757 mét ở thành phố Matsuzaka (Tùng Phản) thuộc tỉnh Mie, như vậy là liên tục gần 20 năm. Và mục tiêu của cụ bây giờ là leo đến ngày thứ 10.000, tức thêm hơn 8 năm nữạ Cụ leo liên tục, không nghỉ ngày nào, hết nơi gần tới nơi xa, thường là cụ đi xe điện tới các nơi vào buổi tối rồi hôm sau leo, dù có lúc bị tai nạn xe cộ, bị thương ở chân, thế mà ngay hôm sau cụ vẫn chống gậy leo núị Tất nhiên, núi Phú Sĩ cao 3.776 mét, nhất nước Nhật, thì không thể không có bước chân của cụ. Người Nhật có câu nói đại ý: "Trong đời người, nên một lần leo lên đỉnh núi Phú Sĩ, còn leo hai lần là dại". Tại sao thế, vì từ trên đỉnh núi cao nhất Nhật Bản nhìn mặt trời mọc, hay quang cảnh bên dưới thật là đẹp, có thể nhớ đời, do đó, nên leo cho biết thắng cảnh nổi tiếng với người ta và thỏa tính tò mò. Nhưng leo núi Phú Sĩ vất vả lắm, nên chớ dại mà leo hai lần. Nếu thế thì cụ Higashiura dại, quá dại là đằng khác, vì cho tới nay, cụ đã leo tới mức kỷ lục không ai dám nghĩ tới là 362 lần. Mỗi năm có hàng trăm ngàn người Nhật leo lên đỉnh núi Phú Sĩ, trong khi đó hầu như không nghe người Việt nào leo lên đỉnh ngọn núi cao nhất nước của mình là Fansipan cao 3.134 mét. Việt Nam dù với 2.500 km bờ biển và khoảng 2/3 đất đai là núi, mà hầu như không nghe nói tới một nhà thám hiểm Việt Nam nào! Cùng lắm là đi cắm trại hay hành hương núi Bà Đen, Châu Thới mà thôi, nếu lên Sapa thì bỏ tiền nhờ quân "cửu vạn" (tiếng miền Bắc chỉ phu khuân vác, dựa theo tên quân bài Tổ Tôm) mang hành lý hộ! Hình ảnh một cụ già nhỏ con, đeo kính lão, chống gậy leo núi thật đáng cảm kích và kính phục. Nhân chuyện này chúng tôi mới nhớ là khi nói chuyện với ông Furukawa Sarashi, ông kể rằng có lần ở Đà Lạt, thấy có ngọn núi cao nên muốn leo, nhưng khi hỏi thăm người địa phương thì hầu như không ai biết đường lên núi cả, họ hỏi ngược lại: "Leo lên núi làm chi vậy, trên đó đâu có gì đâu!?". Sau ông phải nhờ một người chuyên làm rừng dẫn đường leo lên tới đỉnh. Ông đã từng leo 25 trong số 100 ngọn núi nổi tiếng nhất của Nhật và 4 ngọn núi ở Đà Lạt, Huế. Theo ông, có lẽ người Việt không thích leo núi (đúng ra là không có tinh thần mạo hiểm). Ông nói rằng, leo núi là vấn đề văn hóa lớn của Nhật. Nước Nhật là nơi thuộc hàng có nhiều người leo núi nhất thế giới và đặc biệt là rất nhiều người già vẫn leo núị Như núi Phú Sĩ, chia ra làm 10 nấc, thường xe hơi đưa đến nấc thứ 5, gọi là "Gogome" rồi từ đó đi bộ lên, tới đỉnh là nấc thứ 10, gọi là "Jugome". Với người Nhật, điều đó có hai ý nghĩa, một là tuổi thọ, thí dụ tới "Gogome" là coi như nửa đời người, nhưng quan trọng là

Page 52: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

nghĩa thứ hai với ý là mục tiêu lớn trong cuộc đời, nếu nói "Gogome" tức là mới đạt một nửa mục tiêu, phải lên đến "Jugome" mới là đạt mục tiêu tối hậu, cao nhất. Cũng theo ông, trong lúc leo núi, tất nhiên là rất cực nhọc, nguy hiểm, có khi cô đơn và nhất là phải bằng chính sức của mình, thì đó là sự thử thách về ý chí và sức lực với chính mình (đó cũng là một cách làm thực tế thay vì chỉ lý thuyết hay nói suông?), khi lên đến đỉnh rồi coi như đạt được mục tiêụ Cạnh đó, khi người leo núi vượt lên trên các tầng mây, nhìn xuống thế gian bên dưới hay phong cảnh tuyệt đẹp chung quanh còn cho ta cảm giác cao cả, thoát tục, lâng lâng khó tả... và tất nhiên là rất khó quên. Người Nhật thường đặt ra mục tiêu cao và khó khăn, rồi họ cố gắng thực hiện cho bằng được. Khi đạt được thì họ nói: "đã vượt qua một ngọn núi". Ông cho rằng, người Việt không thích leo núi và "lúc nào cũng ở nấc thứ 2, 3 trong 10 nấc!!!". Ở Nhật, hầu như Đại Học nào cũng có câu lạc bộ leo núi, ngoài xã hội rất nhiều tổ chức leo núi chuyên nghiệp. Bất cứ ngọn núi, vùng băng tuyết hay sa mạc nào trên thế giới, dù hiểm trở đến đâu cũng có bước chân người Nhật (mỗi năm thiệt mạng khoảng 10-20 người). Người Nhật coi ngọn núi là nơi để thử thách, là nấc thang để leo, họ vượt hết thử thách này đến thử thách khác, còn người Việt hầu như chỉ coi đó là đống đất đá vô hồn trừ khi có vàng hay đá quý, còn thường chỉ là nơi rừng thiêng nước độc, nơi dành cho các sắc tộc thiểu số kém văn minh. Một số người cho là tại mình nghèo, tại chiến tranh... Thử hỏi hơn 2 triệu người Việt ở hải ngoại, không còn nghèo và không còn chiến tranh thì 30 năm qua cũng đâu có gì khác đâu, có thấy xuất hiện nhà thám hiểm nào đâu!? DÃ CẦU: NGUYỄN TRẦN PHƯỚC AN Nguyễn Trần Phước An, 16 tuổi, là người Việt nhỏ tuổi nhất và nổi tiếng Nhất ở Nhật Bản. Lần đầu tiên có một người Việt chính thức tham dự trận dã cầu "Zenkoku" (Trung Học Toàn Quốc lần thứ 83) quy tụ 49 đội ở Koshien, Osaka, đó là em Nguyễn Trần Phước An, mang số áo cũng là 16, học sinh lớp 10, với tư cách chính là tuyển thủ ném banh của trường Trung Học Toyodai Himeji (Đông Dương Đại Cơ Lộ). Trở thành học sinh nhỏ tuổi nhất và mang trách nhiệm khó khăn nhất. Trước đó, trong tháng 7, em Phước An đã góp công lớn trong việc đưa đội Toyodai Himeji dẫn đầu hơn 160 đội trong tỉnh để được đại diện tỉnh đi dự giảị Và 49 đội tham dự là kết quả tranh đua của 4.163 đội trên toàn quốc. Vì vậy, được đi tranh ở Koshien đã là một vinh dự lớn, ước mơ của thanh niên Nhật.

Page 53: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

(Một phần bài này đã được trình bày tóm lược trong buổi nói chuyện ngày 20/1/2001 ở Little Saigon, 3/2/2001 tại San Jose, ngày 14/7/2001 bằng tiếng Nhật với sinh viên Đại Học Meiji Gakuin Daigaku..., đăng trên nhiều báo) - - - - - - -

CHƯƠNG 50

TƯƠNG QUAN VĂN HIẾN NH NHẬT-VIỆT Cho tới năm 2000, ở Việt Nam đã có khoảng một trăm nhà nghiên cứu về Nhật Bản, đa số gốc từ chuyên ngành khác. Nhưng cũng có những lớp người từng du học Nhật Bản hay tốt nghiệp Cử Nhân Nhật Bản Học, có căn bản vững vàng. Ở Nhật Bản có khoảng hai trăm nhà nghiên cứu về Việt Nam. Trung Tâm Nghiên Cứu Nhật Bản đã ra đời ở Hà Nội năm 1993, nay phát hành tạp chí Nghiên Cứu Nhật Bản hai tháng một lần, dịch một số tác phẩm... Ngoài ra còn có Hội Đồng Phối Hợp Nghiên Cứu Nhật Bản... Từ khoảng 1990, các Đại Học lớn đều có phân khoa tiếng Nhật. Cho tới năm 2000, tại Việt Nam đã dịch ra tiếng Việt khoảng 100 tác phẩm văn học nổi tiếng và một số ít về kinh doanh... của Nhật. Theo tài liệu "Modern Written Vietnamese" mới viết đây của Sonny Nguyễn thuộc UCLA, Hoa Kỳ, thì năm 1548, một người Nhật cải đạo theo Thiên Chúa Giáo là Yajiro đã bắt đầu La Tinh hóa chữ Nhật. Và khi phố Nhật thành lập ở Hội An thế kỷ thứ 16, 17, có vị Linh Mục đã dùng sách loại này đó để giảng đạo cho người Nhật ở đâỵ Phải chăng đó là một "bước ngắn" gợi ý, dẫn tới việc La Tinh hóa chữ Việt? Nhật Bản qua các Giáo Sư Kinh Tế đã cố vấn trong việc hoạch định đường lối kinh tế và Giáo Sư Luật cũng cố vấn trong việc soạn thảo Bộ Luật Dân Sự của Việt Nam. NGƯỜI NHẬT VÀ SÁCH VIỆT Những người Nhật học tiếng Việt hai, ba năm hầu như ai cũng biết qua về Truyện Kiều, chữ Nôm là gì... Một số sách viết về Việt Nam cũng thường trích dẫn Truyện Kiềụ Qua việc bán sách, chúng tôi nhận thấy, trước đây người Nhật quan tâm nhiều đến các truyện như Truyện Kiều, Bích Câu Kỳ Ngộ, Chinh Phụ Ngâm, Từ Thức Gặp Tiên, Hồn Bướm Mơ Tiên, Đoạn Tuyệt, Sự Tích Cây Nêu, Tấm Cám... là các sách đã được dịch

Page 54: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

ra tiếng Nhật cũng như những sách liên quan đến chiến tranh Việt Nam. BỐN BẢN DỊCH TRUYỆN KIỀU Đặc biệt là có tới bốn, năm người dịch Truyện Kiều (Kim Vân Kiều hay ẪòẦ_ọâẼVẾấ , Kim Vân Kiều Tân Truyện của Nguyễn Du) từ tiếng Việt ra tiếng Nhật. Truyện Kiều gốc từ bên Trung Hoa, người Nhật cũng từng dịch từ bản gốc ra tiếng Nhật nhưng không nổi tiếng. Thấy Truyện Kiều Việt Nam là tác phẩm văn học hàng đầu nên họ lại một lần nữa dịch từ bản phóng tác bằng văn Nôm tiếng Việt ra tiếng Nhật. 1- Người đầu tiên dịch là học giả Kiyoshi Komatsu (Tiểu Tùng Thanh), ông đã dịch từ bản tiếng Pháp. 2- Người thứ hai dịch là học giả Yonosuke Takeuchi (Trúc Nội Dự Tự Chi Trợ), ông đã dịch một phần. 3- Người thứ ba là ông Tokio Akiyama (Thu Sơn Thời Phu), tác giả dành ra 6 năm để phiên dịch ra văn suôi nhưng vần điệu như thợ Được kể là bản dịch xuất sắc nhất, ông tự bỏ tiền in và phát hành chỉ có 600 cuốn nhân kỷ niệm sinh nhật thứ 80 của dịch giả. 4- Người thứ tư và năm là ông Seiji Sato (Tá Đằng Thanh Nhị) và bà Kuroda Yoshiko (Hắc Điền Giai Tử) dịch toàn bộ ra văn suôi, cũng tự bỏ tiền in và phát hành năm 2005. - - - - - Từ khoảng 1990, các thư viện Nhật thì thích mua sách về giáo dục, tiểu thuyết, truyện bằng tranh. Còn giới trí thức Nhật thích đọc sách khảo cứu văn học của Võ Phiến, Nguyễn Hưng Quốc, sách của các nhân vật phản kháng như Dương Thu Hương, Bùi Tín, Trần Độ, Bảo Ninh, Chân Tín và các tác phẩm biên khảo về dân tộc học, đồ gốm... Thời đại điện tử, trên Liên Mạng (Internet), ước tính có tổng cộng khoảng 100 trang nhà bằng tiếng Nhật có liên quan tới Việt Nam. Các trang nhà này chú trọng tới tin tức, văn hóa, du lịch, giới thiệu sản phẩm... Trong số đó có cả những trang nhà do người Nhật và Việt hợp tác thực hiện ngay tại Việt Nam như các cơ quan du lịch, khách sạn, Mekong Agency giới thiệu áo dài ở Sài Gòn, cà phê Một ở Hà Nội... Từ năm 2000, ở Việt Nam có tờ nguyệt san "Sketch" (Phác Họa) viết bằng tiếng Nhật, chuyên về giới thiệu văn hóa và quảng cáo các lãnh vực như thức ăn, đồ tạp hóa, du lịch bằng tiếng Nhật do ban biên tập Nhật và Việt thực hiện. Qua giữa năm 2002, thấy có thêm tờ tạp chí "Hachiyon = 84 (số điện thoại quốc tế quốc gia Việt Nam)" cũng bằng tiếng Nhật và hướng tới du khách Nhật. Cả hai tờ đều phát hành cả ở Việt Nam và Nhật Bản. "Little Tokyo"? Ở đâu? Vâng "Little Tokyo", đó là tên quen thuộc dùng chỉ những

Page 55: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

khu phố Nhật ở hải ngoại như ở Los Angeles, Cali, Hoa Kỳ. Nhưng ở Việt Nam cũng đã có khu các tiệm Nhật bắt đầu được gọi là "Little Tokyo" nằm ngay trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn. Cho tới năm 2001, ghi nhận đã có 24 tiệm Nhật tại đâỵ Như vậy, văn hóa Nhật cũng bắt đầu du nhập mạnh vào Việt Nam. Trong mối giao lưu Nhâ.t-Việt, về phía Nhật Bản, có thể nói ở cấp cao thì công của phái nam, còn cấp đại chúng thì là công lớn của phái nữ. Về phía Việt Nam, thì không biết bên nào công lớn hơn? Hay là bằng nhaủ TƯƠNG QUAN NGÔN NGỮ Thời Thế Chiến Thứ 2, người Việt biết đến các từ "Joto" (thượng đẳng, tốt), "Jotonai" (thượng đẳng (vô), không tốt) của quân đội Nhật, nay hiếm khi dùng và "Arigato" (cám ơn), "Sayonara" (tạm biệt) v.v... Ngày nay, người Việt biết tiếng Nhật qua các nhãn hiệu xe cộ như "Honda, Suzuki, Yamaha, Toyota, Matsuda, Mitsubishi, Hitachi, Sony, Sanyo, Canon, Nikkon, Ajinomoto, Itochu, Nisho Iwai...", rồi "Kimono (Trước Vật), Judo (Nhu Đạo), Akido (Hợp/Hiệp khí đạo), Karatedo (Không Thủ Đạo), Sumo (Tương Bộc)...", các địa danh "Tokyo, Osaka, Kyoto, Kobe, Hiroshima, Nagasaki, Fuji...", sau này biết thêm shogun (tướng quân), samurai (thị, võ sĩ đạo), geisha (nghệ giả, nữ tiếp viên rượu), koi (lý, cá chép), sushi (thọ ty, cơm nắm cá), sashimi (thích thân, gỏi cá), wasabi (mù tạt xanh), ofuro (phong lữ, nhà tắm), tatami (điệp, chiếu với người học Judo), bonsai (bồn tài,trồng cây trong chậu) và mới nhất có lẽ là tsunami (tân ba, sóng thần)...". Người Việt cũng mở trường tư dậy kèm kiểu Nhật gọi là Kumon (Công Văn, là tên của ông Toru Kumon, người chủ trương lối dạy học này từ năm 1958, nay phổ biến khắp nước Nhật) như tại Staton, Cali, Hoa Kỳ và tại Úc... Còn người Nhật biết đến tiếng Việt qua các từ "áo dài, nón lá, bánh tráng, nước mắm, chả giò, gỏi cuốn, phở bò, phở gà, nước mắm..., đổi mới", các địa danh "Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Hạ Long, Hội An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Hải Phòng, Sapa, Phú Quốc...". Có dữ kiện cho rằng ông Yajiro (Di Thứ Lang) đã viết chữ Nhật bằng La Tinh đầu tiên năm 1548. Rồi thế kỷ 17 đem vào phố Nhật ở Hội An. Linh Mục người Pháp là Alexandre de Rhodes thấy vậy mới nghĩ đến việc viết tiếng Việt bằng Ta Tinh (Trước đó, Linh Mục Tây Ban Nha cũng đã làm như vậỷ). Năm 1885, Bác Sĩ Nhãn Khoa người Hoa Kỳ là ông James Curtis Hepburn là người đầu tiên đã công bố bảng 46 ký tự Nhật bằng La Tinh và dùng trong tự điển. Sau này, chính phủ Nhật... đã công bố tổng cộng 9 cách viết bằng La Tinh hơi khác nhau, nhưng bảng của Hepburn vẫn là thông dụng nhất. Và nếu đi sâu hơn, thì chúng ta thấy hai dân tộc không chỉ biết nhau có vậỵ Người Việt đã dùng hàng trăm từ Hán-Việt trong lãnh vực khoa học tự nhiên và khoa học

Page 56: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

nhân văn do người Nhật ghép các chữ Hán đơn thành chữ Hán kép mà cứ tưởng do người Hoa đặt rạ Như các từ "Tự Do, Dân Chủ, Cộng Sản, triết học, xã hội, kinh tế, chính trị, diễn đàn, vấn đề, phương pháp, lập trường, diễn thuyết..." và khoảng 30 đến 40 % số các thuật ngữ toán trong bậc Trung Học là do người Nhật chế ra, du nhập vào Trung Hoa, được dùng trong Tân Thư rồi truyền vào Việt Nam. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn khi soạn cuốn Tự Điển Danh Từ Khoa Học khoảng 60 năm trước, để tìm từ đối dịch, ông đã tham khảo chính các từ điển Trung Hoa và Nhật Bản. Nay người Việt còn biết thêm "Oshin, Đôrêmon, nam ca sĩ Ryo Sasaki...". Dưới thời Quân Chủ, khi dịch từ "Democracy", các học giả Nhật đã băn khoăn không ít, họ hiểu khái niệm mới mẻ này, nhưng có lúc đã phải tránh dùng từ "Dân Chủ" (ỄÙÈố = Minshu) vì sợ đụng chạm. Cũng may vào thời Minh Trị bắt đầu có Quân Chủ Lập Hiến, nên việc dùng chữ Dân Chủ không còn là tội "khi quân" như trước nữạ Tới năm 2004, có khoảng 150.000 người học tiếng Nhật ở Việt Nam và 14.000 người Việt ở Nhật, thì chắc chắn còn tiếp tục du nhập thêm rất nhiều từ nữạ Ngược lại, số người Nhật qua Việt Nam khá nhiều, từ năm 2001, mỗi năm khoảng 170.000 người, nên họ biết khá nhiều địa danh Việt như "Biên Hoà, Cần Thơ, Mỹ Tho, Nha Trang, chùa Hương, Lạng Sơn, Sapa, Bát Tràng, Đà Lạt, Củ Chi, Tân Sơn Nhất, Nội Bài...". Những thức ăn, sản phẩm thủ công nghệ Việt Nam được giới thiệu ở Nhật, nên người Nhật biết đến các từ "phở bò, phở gà, nem, bánh chưng, bánh tét, bánh dầy, bánh cuốn, bún bò huế, giò lụa, thịt chó, bia, rượu đế, mắm tôm... ", trái cây như "đu đủ, mít, soài, thanh long, vú sữa, măng cụt, nhãn, rau muống...". Chúng tôi định sưu tập khoảng một ngàn từ loại này và đưa vào trong cuốn Từ Điển Nhâ.t-Việt do chúng tôi biên soạn để đẩy mạnh thêm sự giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc (sẽ hoàn tất trong vài năm tới). Tôi có dạy tiếng Việt cho một số người Nhật, bao giờ cũng vậy, bắt đầu bằng màn giáo đầu kéo dài khoảng một giờ đồng hồ giới thiệu sơ về tiếng Việt và tương quan giữa tiếng Việt, Nhật và Hoạ Mục đích là để người học có khái niệm cơ bản về ngôn ngữ họ học, thấy gần gũi hơn vì chúng vốn có nhiều quan hê.. Qua đó, họ biết rõ thế nào là âm Nôm (tương đương với âm kun của Nhật), âm Hán-Việt (tương đương với âm ON của Nhật), chữ Hán và chữ Nôm (tương đương với Quốc Tự của Nhật), đặc trưng phát âm của 12 mẫu âm Việt so với 5 mẫu âm Nhật và 6 dấu thinh Việt so với hầu như không có dấu thinh của Nhật v.v... ra sao. Thời Bắc thuộc (năm 111 trước Tây Lịch đến năm 939), khi Trung Hoa cai trị Việt Nam, người Việt có tiếng nói nhưng chưa có chữ viết (trừ một vài dân tộc thiểu số như Mường, Chàm... có chữ viết kiểu Khoa Đẩu còn thô sơ là biến dạng của văn tự Ấn Độ). Thí dụ: 1, 2, 3, là "một, hai, ba...".

Page 57: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Người Hoa đưa vào chữ Hán và âm đọc đời Đường: 一 二 三 và "dách, dì, xám...". Trí thức Việt thời đó học chữ Hán và nói tiếng Hoạ Nhưng từ thời Ngô Quyền giành độc lập, người Việt bắt đầu có khuynh hướng bỏ tiếng Hoa và quay ra đọc chữ Hán theo phiên âm Hán-Việt. Qua thế kỷ 13, để viết tiếng Việt, bắt đầu tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để diễn tả "một, hai, ba...". Có tổng cộng khoảng 7.000 chữ thuần Nôm (do người Việt chế ra, người Hoa và Nhật không đọc được) và 5.000 chữ trùng hình với chữ Hán. Trong khi đó, chữ Hán vào Nhật Bản qua ngả Triều Tiên hay trực tiếp vào thế kỷ thứ 5. Khi đó người Nhật cũng có tiếng nói mà không có chữ viết. Thí dụ: 1, 2, 3... là hitotsu, futatsu, mitsu...", ban đầu họ mượn chữ Hán có cùng âm để phiên gọi là Van Diệp Giả Danh (ManyoKana), từ đó tiếng Nhật từ khẩu ngữ được ghi lại thành bút ngữ, như người Tây Phương dùng chữ La Tinh để phiên tiếng Việt, sau thấy phức tạp quá mới đổi ra Hiragan あ。 Du nhập vào: 一 二 三 và đọc theo âm Hán-Nhật (ON) là " ichi, ni, san...". Qua thế kỷ thứ 8, 9, để viết tiếng Nhật, họ đã dựa vào chữ Hán để tạo ra thêm 46 ký âm Hiragana (Bình Giả Danh, theo lối mượn chữ Hán viết tháu để dùng âm cho bình dị hơn) và 46 ký âm Katakana (Phiến Giả Danh, theo lối mượn lấy một phần chữ Hán nên gọi là phiến) gọn gàng và tiện dụng hơn. Thí dụ: 1, 2, 3... = ひとつ、ふたつ、みつ.... (nét mềm do viết tháu chữ Hán). 1, 2, 3... = イチ、ニ、サン... (nét cứng do lấy một phần chữ Hán). Từ thế kỷ thứ 10, họ bắt đầu tạo ra Quốc Tự (Kokuji, nếu theo nghĩa rộng thì bao gồm cả Hiragana và Katakana), còn gọi là Wasei Kanji (Hòa Chế Hán Tự, chữ Hán do người Nhật chế ra), có tổng cộng khoảng 5.000 Quốc Tự nhưng nay chỉ thông dụng 5, 7 chữ, sở dĩ như vậy vì họ đã có ký âm Hiragana và Katakanạ Như vậy, Việt Nam và Nhật Bản (kể cả Triều Tiên) có hoàn cảnh khá giống nhau, cùng thuộc khối văn hóa Hán, có âm Hán-Việt và Hán-Nhật đọc gần giống nhau vì cùng dựa trên âm đọc của Trung Hoạ Như "quốc kỳ - kokki, quốc ca, kokka, trà - cha (ÊẰ) (tiếng Hoa nhiều vùng cũng cũng đọc y như vậy)...", còn âm Nôm và âm Nhật thì hoàn toàn khác nhaụ Tiếng Việt đơn âm, tiếng Nhật đa âm (tiếng Hán-Nhật cũng thuộc loại đơn âm, âm thứ hai nếu có là âm câm). Từ đó, có sự quan hệ đặc biệt sau (ở đây thí dụ bằng La Tinh phiên âm Bắc Kinh hay Quan Thoại của tiếng Hoa, âm Quảng Đông v.v... cũng tương tự): - Tiếng Việt và Hoa ít nét (3 mẫu tự trở xuống) thì tiếng Nhật là đoản âm. 古 = cổ - gu - ko

Page 58: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

所 = sở - suo - sho 祖 = tổ - zu - so 都 = đô - du - to - Tiếng Việt và Hoa nhiều nét (3 mẫu tự trở lên) thì tiếng Nhật là trường âm (lý do là tiếng Nhật không có "tận cùng bằng ng, mẫu âm kép, dấu thinh..." nên đã thay bằng trường âm). 工 = công - gong - kò 商 = thương - sang - shò 想 = tưởng - xiang - sò 東 = đông - dong - tò - Tiếng Việt và Hoa 3 mẫu tự thì tiếng Nhật có thể là đoản âm, có thể là trường âm. 構= cấu - gou - kò 書= thư - shu - sho 宗= tôn(g) - zong - shù (nguyên là tông, nhưng vì kỵ húy tên vua nên đổi là tôn) Quy luật trên đúng khoảng 95%. Có một số ngoại lệ vì tiếng Hoa có nhiều âm mà tiếng Việt và Nhật khi phiên đã dựa trên những âm khác nhau. 数 = số - shu - sù, tiếng Nhật có cả su nhưng rất ít dùng. Trong khi Việt Nam tạo từng chữ Nôm, thì người Nhật cũng tạo ra ký tự Hiragana, Katakana và sau đó thêm Quốc Tự (Kokuji) tức Hòa Tự (Waji) là thứ chữ Hán do người Nhật chế rạ Cho tới nay, người Việt thường chỉ viết tay chữ Nôm, nhưng từ năm 2000, với chương trình đánh chữ Nôm của Nhật thì người Việt có thể đánh chữ Nôm dạng TrueType thật là đẹp chung với chữ Hán và chữ Quốc Ngữ. Câu tiếng Việt căn bản là: danh từ - tính từ - động từ - túc từ, tiếng Nhật là: tính từ - danh từ - túc từ - động từ. Tiếng Việt khi dùng âm ghép Hán-Việt thì hầu hết cũng là: tính từ - danh từ như tiếng Nhật. Đặc biệt tiếng Việt không chia động từ và tính từ như tiếng Nhật. TƯƠNG DỊ TIẾNG VIỆT - TIẾNG NHẬT Nhân nói về cấu tạo tiếng Việt, xin trình bày một chút về tiếng Nhật. Như biểu đồ "Cây Văn Tự" nơi trang 7, chúng ta thấy bối cảnh hình thành văn tự Nhật cũng có nhiều điểm tương tự như Việt Nam, vì vậy họ cũng dùng chữ Hán, rồi tự tạo ra "Quốc Tự" hay "Hòa Tự" tương tự chữ Nôm, có âm "ON" (âm Hán-Nhật tương tự âm Hán-Việt) và "kun" (âm Nhật tương tự âm Nôm). Tất nhiên, trong tiếng Nhật cũng có nhiều pha trộn với tiếng Hoa như trường hợp tiếng Việt với tiếng Hoa về văn tự cũng như âm đọc. Hầu như người Nhật chỉ thu dụng chữ Hán, đọc theo âm "ON", nhưng khác với

Page 59: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Việt Nam là họ ghép cả âm "kun" vào chữ Hán, do đó, có khi như chữ "nhất" mà có tới 20 âm đọc (2 cách đọc "ON" là: ichi, itsu và 18 cách đọc "kun" là: hajime, hajimu, hide, hiji, hito, hitoshi, hitotsu, kata, katsu, kazu, kuni, makoto, masashi, moto, nobu, osamu, susumu, tada), chữ "minh" có tới 25 âm đọc, phức tạp như vậy nên chính người Nhật cũng khó mà nhớ hết được. Họ có văn phạm riêng như Việt Nam chứ không dùng văn phạm Hoa, vì văn phạm thuộc tiếng nói, có trước khi có chữ viết, tức trước khi du nhập chữ Hán. Tuy rằng thứ tự danh từ và tính từ (hình dung từ) thì trùng hợp với tiếng Hoa, tính từ đứng trước danh từ, danh từ riêng đứng trước danh từ chung. Nhưng họ lại chia động từ và tính từ là điều không có trong văn phạm Việt và Hoa. Thêm nữa, trong khi tiếng Việt và Hoa là tiếng đơn âm tiết (một chữ một âm) thì tiếng Nhật thuộc loại đa âm tiết (một chữ nhiều âm) riêng như "ohayò, arigatò, sayonara, samurai"... 1- Văn tự Nhật. Thường chữ Hán đi với Hán. 科学 kagaku, khoa học 社会 shakai, xã hội Nhưng cũng đôi khi chữ Hán đi với Quốc Tư.. 労働 rodo, lao động (chữ động có bộ nhân đứng trước là Quốc Tự của Nhật) 駆け込む (kake)ko(mu), khu vào (chạy vào, chữ vào là Quốc Tự của Nhật) 2- Âm đọc Nhật. Thường ON đi với ON. 日本 Nihon = Nippon, Nhật Bản 東京 Tokyo, Đông Kinh 植物 shokubutsu, thực vật (cây) kun đi với kun. 広島 Hiroshima, Quảng Đảo 横浜 Yokohama, Hoành Tân/Banh 笑顔 egao, tiếu nhan (khuôn mặt cười) Đặc biệt cùng là chữ Hán mà có khi từ đơn đọc theo ON đồng thời cũng có kun và từ ghép đọc theo ON-ON đồng thời cũng có kun-kun. 食する shoku(suru) và 食べる (taberu), ăn 食物 shokumotsu và (tabe)mono, thực vật (thức ăn) 一言 ichigen, ichigon và hitokoto, nhất ngôn (một lời)

Page 60: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

一年 ichinen và hitotose, nhất niên (một năm) Nhưng cũng đôi khi pha trộn. ON-kun. 新橋 Shinbashi, Tân Kiều (địa danh) 大好き daisu(ki), đại hiếu (rất thích) kun-ON. 重役 omoyaku, trọng dịch (trách nhiệm nặng nề) và juyaku (Giám Đốc) Thường thì từ đơn đọc theo kun. 形 katachi, hình 人 hito, nhân (người) Thường thì từ ghép đọc theo ON. 形式 keishiki, hình thức 人間 ningen, nhân gian Do hoàn cảnh tương đồng như đã trình bầy trong "Cây Văn Tự Nhật - Hoa - Việt" (Chương: Bước Vào Thế Giới Chữ Nôm), người Việt đã tạo ra chữ Nôm, trong khi đó người Nhật tạo ra chữ Quốc Tự (国字 = Kokuji) hay còn gọi là Wasei Kanji (和製漢字 , Hòa Chế Hán Tự, chữ Hán do người Nhật chế ra). Người Việt cố gắng tạo ra chữ Nôm để viêt tất cả những âm Nôm của mình, còn người Nhật tạo ra Quốc Tự để viết những âm Nhật không có chữ Hán chỉ nghĩa đó như "dò, hataraku" (động như trong lao động "働", là làm việc, chứ không phải lay đô.ng. Phải chăng vì người Nhật chế ra chữ động này nên họ đã nổi tiếng là người chịu khó lao động nhất trên thế giớị Có lẽ thấy chữ này hay nên từ lâu đã được đưa vào dùng trong tự điển chữ Hán). Rồi có các chữ "en" 円 (coi như biến thể của ỈÔ nên âm Hán-Việt cũng đọc là viên, đơn vị tiền yen của Nhật) và "komu" 込む (vào...)... Hoặc có chữ Hán nhưng không dùng mà tạo chữ riêng của mình như "tako" 凧 (diều), chữ Hán là 紙鳶 (chỉ diên) và "tòge" 峠 (đèo), chữ Hán là 隘道 (ải đạo)... Tuy nhiên điểm khác biệt chính là người Việt chia ra đọc chữ Hán bằng âm Hán-Việt như Ấơ là nhất, còn chữ Nôm bằng âm Nôm như Ễv là một, còn người Nhật đọc một chữ Hán bằng cả âm "ON" và "kun" như cùng là chữ Ấơ vừa đọc âm "ON" là ichi, itsu vàvừa đọc âm "kun" là hito, hitotsu... CHỮ NÔM VÀ QUỐC TỰ GIỐNG NHAU? "Chí lớn" hai dân tộc gặp nhau trong việc tạo chữ Nôm và Quốc Tự để bổ sung cho văn tự của mình. Trong khoảng 7.000 chữ thuần Nôm và 5.000 Quốc Tự, nghe nói có một số chữ giống hệt nhau nên chúng tôi cố gắng tra tìm và giai đoạn đầu đã thấy được ba chữ giống hệt nhaụ Chữ thứ nhất là "辻", tiếng Nôm là "mười", (loại hài thanh, với chữ thập "十"

Page 61: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

tượng ý mười và sước là tượng thanh để cho âm "mười"), Quốc Tự có âm là "つじ" (loại hội ý, với chữ "十" là chỗ giao nhau và "sước" chợt đi chợt dừng) và nghĩa "ngã tư". Chữ thứ hai là "畑", tiếng Nôm là "đèn", (loại hài thanh, với chữ hỏa "火" tượng ý ngọn lửa và điền "田" là tượng thanh để cho âm "đèn"), Quốc Tự có âm là "hata, hatake" (loại hội ý, với chữ "火" tượng ý dùng lửa đốt rừng để làm ruộng "田" khô) tức "rẫy", cùng âm và nghĩa với một Quốc Tự khác là "畠, vườn". Chữ thứ ba là "椥", tiếng Nôm là "tre", (loại hài thanh, với chữ mộc "木" tượng ý cây và tri "知" là tượng thanh để cho âm "tre"), Quốc Tự có âm là "nagi" là tên một loại thông, cùng nghĩa "梛" có âm "Nagi, da, na, tiếng Hoa gọi là "竹柏" (chikuhaku / trúc bách), Chinese black pine. Nhưng coi kỹ văn tự giữa hai nước, còn hai chữ đáng nói hơn vì vừa giống dạng vừa giống nghĩa. Chữ thứ nhất là chị "姉", (loại tượng ý kiêm hài thanh, với chữ nữ "女" tượng ý con gái và thị "市" tượng ý đi chợ và cho thanh "chị"), Quốc Tự có âm là "SHI, dùng thay cho chử tỷ ", ý chỉ cô lớn đi chợ tức nghĩa "chị". Chữ thứ hai là nước (loại hài thanh, với bộ ba chấm thủy tượng ý nước và nhược "若" tượng thanh để cho âm "nước"), Quốc Tự có âm là "mizu, shitamizu" (nước, nước thải ra), ý chỉ "nước". AI ĐÃ DỊCH CÁC THUẬT NGỮ KHOA HỌC NHÂN VĂN VÀ TỰ NHIÊN? Trong giai đoạn khoảng đầu thế kỷ 20, các từ như: tự do 自由, dân chủ 民主, tư bản 資本, cộng sản 共産 (communist, đúng ra phải dịch là chủ nghĩa cộng đồng), triết học 哲学, kinh tế 経済, diễn đàn 演壇, pháp nhân 法人... người Việt thường biết các từ này dưới dạng âm Hán-Việt, và cho là do người Hoa dịch, nhưng thực ra các từ này là do người Nhật ghép từ đơn tiếng Hoa để dịch các thuật ngữ Âu-Mỹ. Khoảng đầu thế kỷ 20, du học sinh người Hoa ở Nhật đem các từ này về nước, dùng trong Tân Thư (新書), rồi truyền vào Việt Nam. TẠI SAO CHỈ CÓ CHỮ VIỆT ĐỔI RA LA TINH? Trong các ngôn ngữ thuộc hệ chữ Hán như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Mãn Châu và Việt Nam, chỉ có Việt Nam đổi ra dùng mẫu tự La Tinh. Tiếng nói các nước trên đều có thể ghi bằng La Tinh, có phần còn dễ hơn tiếng Việt, nhưng mỗi quốc gia có hoàn cảnh riêng nên không thay đổi được. Việt Nam, do bị Pháp đô hộ hoàn toàn, nên năm 1911 nhà cầm quyền Pháp ra nghị định dùng chữ Quốc Ngữ và năm 1945 nhà cầm quyền cả hai miền Nam Bắc cổ động dùng. Nhưng cũng do yếu tố quan trọng là tiếng Việt có tới khoảng 15.000 âm, nên ít bị

Page 62: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

đồng âm dị nghĩạ Về các chữ Hán đồng âm và dị nghĩa, nhiều nhất là âm "kỳ" có 22, chữ "hoàng" có 17, chữ "hoa" có 10, chữ "kiều" có 7, chữ "minh" có 5... còn đa số một âm có chỉ một hay hai nghĩa. Nhật Bản do chỉ có 120 âm, nên đồng âm dị nghĩa rất nhiều, như âm "kò" có khoảng hơn 400 chữ Hán, "yoshí hay "shò" mỗi âm có khoảng 300 chữ Hán, nên nếu viết bằng La Tinh thì không rõ nghĩa. Trung Hoa, tiếng Bắc Kinh hay Quan Thoại có 1.300 âm, còn Quảng Đông, Phúc Kiến cũng 5.000 đến 7.000 âm. Nhưng nếu viết La Tinh theo tiếng Bắc Kinh hay Quan Thoại thì các vùng khác không hiểu được. Vì Trung Hoa rộng lớn, có 8 tiếng nói chính và hằng trăm tiếng nói của người thiểu số. Chỉ viết bằng chữ Hán thì cả nước mới có thể đọc và hiểu được, do đó, chữ Hán là văn tự duy nhất có thể dùng để thống nhất cách viết, còn vùng nào cũng vẫn cứ đọc theo tiếng vùng đó. VIỆT NGỮ, NHẬT NGỮ Tới năm 2003, ở Việt Nam đã có tổng cộng khoảng 150.000 người Việt học tiếng Nhật. Riêng trường Seinendan (Thanh Niên Đoàn) từ năm 1989 đến nay, đã dạy khoảng 40.000 người. Chưa kể khoảng hơn 10.000 người Việt ở Nhật cũng biết ít nhiều tiếng Nhật. Trường Nhật ngữ được lập ra khá nhiều ở Việt Nam. Riêng Sài Gòn có khoảng 20 trường, rồi Cần Thơ, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội... tổng cộng khoảng 50 trường, lớp. Mỗi khóa, trường lớn nhất là Đông Du khoảng 4.000 học sinh (năm 2005); Seinendan có 150 lớp, với khoảng 1.500 học sinh; Sakura khoảng 600 học sinh... tại Sài Gòn, các trường lớn ở Hà Nội khoảng 400 học sinh. Về viêc du học Nhật Bản, cho tới năm 2002, trường Đông Du đã có hơn 150 sinh viên, trường Sakura cũng có khoảng 100 sinh, đa số thuộc diện tự túc. Ngoài ra còn có một số lớp dạy cấp tốc cho khoảng 1.000 tu nghiệp sinh thực thụ và người lao động dưới danh nghĩa thực tập sinh qua Nhật. Tại Sài Gòn, có thành lập câu lạc bộ nói tiếng Nhật gọi là "Tonichi" (Đông Nhật), dành cho những người muốn có dịp nói chuyện thường xuyên bằng tiếng Nhật, do Giáo Sư Tiến Sĩ Lý Kim Hoa làm cố vấn. Ngoài ra còn có câu lạc bộ Hán-Nôm do những người yêu thích những văn tự này thành lập, để nghiên cứu, học hỏi cũng như truyền bá. Khoảng năm 1997, là năm cao điểm của việc học Nhật ngữ, có trường tuyển học sinh mà phải bắt đầu làm việc từ 5 giờ sáng vẫn không giải quyết hết các đơn xin nhập học. Tháng 12/1996, lần đầu tiên ở Việt Nam có kỳ thi tiếng Nhật, với 319 người tham dư.. Qua năm 1997, riêng Hà Nội có 400 người dự thi, từ năm 2000 ở Sài Gòn cũng

Page 63: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

tổ chức thị Kỳ thi có các cấp 4 , 3, 2, 1, tổ chức cùng ngày với kỳ thi ở Nhật Bản. Từ năm 2000 có kỳ thi "Toichi Shiken" (Thống Nhất Thí Nghiệm) bao gồm Nhật Ngữ, Anh Văn và Toán, tương đương với Trung Học cấp 3. Thành tích kỳ thi này là cơ sở để xin thi vào thẳng Đại Học Nhật mà không cần qua Nhật học tiếng Nhật như trước. Từ tháng 7/1997, tại Việt Nam có chương trình dạy tiếng Nhật trên đài truyền hình và sau đó trên đài phát thanh "Tiếng Nói Việt Nam" với sự yểm trợ của tòa đại sứ Nhật Bản. Từ đầu năm 2000, ở Sài Gòn còn có trường Top Globic Training Centre chuyên dạy Anh ngữ và Nhật ngữ theo lối hàm thu.. Năm 2003, Bộ Giáo Dục Đào Tạo Việt Nam đã hợp tác với Tòa Đại Sứ Nhật để thử nghiệm việc đưa tiếng Nhật vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Thí điểm đầu tiên là trường Trung Học Cơ Sở Chu Văn An ở Hà Nội và sau đó là các trường ở Sài Gòn... Đài NHK (Nihon Hoso Kyokai, Nhật Bản Phóng Tống Hiệp Hội) thành lập năm 1935, có chương trình phát thanh tiếng Việt từ năm 1961. Nay phát hàng ngày, mỗi ngày ba buổi, buổi sáng 20 phút, chiều và tối mỗi buổi 30 phút. Mỗi tuần có bốn lần phát chương trình dạy Nhật ngữ. Nhưng vì chỉ hướng về Việt Nam nên người ở Nhật hầu như không nghe được. Nay bước vào thời đại Liên Mạng (Internet) người ta có thể nghe được từ mọi nơị Từ tháng 2/2000, đài đã có chương trình "Radio On Line" phát thanh qua Liên Mạng, gồm 22 ngôn ngữ, trong số đó có tiếng Việt. Người nghe nếu có máy điện toán và nối với Liên Mạng thì ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào cũng có thể nghe qua địa chỉ: http://www.nhk.or.jp/rj/ Người Nhật dùng chữ Hán nên không gặp khó khăn nhiều trong việc đọc các văn kiện cổ của Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu còn học cả chữ Quốc Ngữ và Nôm để có thể đọc tường tận. Do sự quan tâm đến chữ Nôm và nhờ kỹ thuật cao, ở Nhật có khả năng in chữ Nôm bằng cục chì hay loại True Type trên máy điện toán rất đẹp. Vào cuối thập niên 90, tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn nở rộ phong trào viết và thưởng thức nét bút rồng bay phượng múa gọi là thư pháp, người Nhật gọi là thư đạo (shodo).. Khoảng 50% thư pháp của Việt Nam là chữ Hán, nên chúng tôi cho hiện tượng này có quan hệ rất chặt chẽ với phong trào học tiếng Nhật và tiếng Hoa, hay nói cách khác là sự thăng hoa từ nền tảng những người học chữ Hán từ trước và khoảng hơn 200.000 người học hai thứ tiếng trên trong 15 năm quạ TIẾNG VIỆT CŨNG LÀ MỘT LỢI KHÍ KIẾM TIỀN Song song với phong trào thích món ăn, đồ thủ công nghệ Việt Nam, số người

Page 64: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Nhật học tiếng Việt cũng gia tăng theo với thời gian. Sách học tiếng Việt sơ cấp và trung cấp bằng tiếng Nhật đã có trên 10 cuốn (có cuốn tái bản đến 20 lần), nhưng vẫn chưa có các từ điển Nhâ.t-Việt hay Viê.t-Nhật tương đối đầy đủ. Cho tới năm 2005, ước tính có khoảng 50 trường hay lớp dạy tiếng Việt ở Nhật và đã có khoảng 5.000 người Nhật học tiếng Việt. Từ những trường chuyên môn nổi tiếng lâu đời như Tokyo Gaigo Daigaku (Đông Kinh Ngoại Ngữ Đại Học, từ cuối năm 1999 đã dời về thành phố Chufu thuộc Tokyo), Osaka Gaigo Daigaku (Đại Phản Ngoại Ngữ Đại Học), Kyoto Gaikokugo Senmongakko (Kinh Đô Ngoại Ngữ Chuyên Môn Học Hiệu), Asia Africa Gogakuin (Á Phi Ngữ Học Viện), Waseda Hoshien (Tảo Đạo Điền Phụng Sự Viên), một số đại học có lớp tiếng Việt như Đại Học Keio Gijuku (Khánh Ứng Nghĩa Thục), Waseda Daigaku (Tảo Đạo Điền Đại Học), Kanda Gaigo Daigaku (Thần Điền Ngoại Ngữ Đại Học), Daito Bunka Daigaku (Thần Điền Ngoại Ngữ Đại Học); Daigaku Shorin (Đại Học Thư Lâm, thực ra là một nhà xuất bản ngoại văn, nhưng cũng mở lớp tiếng Việt)... cho tới những hội đoàn cũng mở lớp dạy tiếng Việt. Đa số sinh viên Nhật học bốn năm Đại Học hay thêm hai năm Cao Học về tiếng Việt đều đi Việt Nam ít nhất một năm để học thêm cũng như nghiên cứu viết luận án. Nói chung, người Nhật rất chăm học, nhưng vì phát âm của họ vốn quá đơn giản, nên khi họ phát âm tiếng Việt với 12 mẫu âm, nhiều mẫu âm kép và 6 dấu thinh thì cảm thấy rất khó khăn. Người dạy là người Việt cũng như Nhật, trong số đó, chỉ có một ít là chuyên môn, còn đa số là tay ngang, như ở Nhật lâu năm hay du học rồi đi dạy thêm để kiếm tiền, một giờ trung bình 1.500 đến 2.500 Yen (14 đến 23 Mỹ Kim), tính ra cao gấp hai đi làm bình thường. Trong khi đó, người Nhật qua Việt Nam dạy tiếng Nhật thường với tính cách thiện chí, mức trợ cấp chỉ khoảng 100 đến 200 Mỹ Kim/1 tháng. VỀ SÁCH HÁN, NÔM VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN Lâu nay, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn được một vài thân hữu hỏi thăm về sách Hán, Nôm của Việt Nam ở Nhật như thế nàỏ Chúng tôi không thể trả lời rõ ràng vì trình độ còn non kém không đọc thông và nhất là vì không được phép vào các thư viện xem. Sau một thời gian liên lạc thu thập tin tức, chúng tôi được biết, ở Nhật có tổng cộng khoảng 500 cuốn sách Hán, Nôm của Việt Nam, phần lớn được đem về thời trước và sau Thế Chiến Thứ 2. Các nơi lưu trữ loại sách này như Thư Viện Quốc Hội (Kokkai Toshokan), Văn Khố Matsumoto (Tùng Bản Văn Khố) thuộc Đại Học Keio (Khánh Ứng), Thư Viện Nghiên Cứu Văn Hóa Đông Dương thuộc Đại Học Tokyo (Đông Kinh), nhưng quan trọng

Page 65: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

nhất là Đông Dương Văn Khố (Toyo Bunko) ở Tokyo. Năm 1939, đã có bảng liệt kê các sách Hán, Nôm ở Đông Dương Văn Khố, thấy được 106 cuốn. Năm 1993, bà Nguyễn Thị Oanh thuộc Viện Hán-Nôm Việt Nam đã được cử qua Nhật làm bảng liệt kê sách Hán, Nôm ở viện này thấy có 234 cuốn kể cả vi phim hoặc tả bản (bản chép)... và đã liệt kê ra 193 cuốn, trong số này có 13 cuốn ở Việt Nam không có. Các sách mà Việt Nam không có gồm: 1- Dã Sử Tập Biên, bản chép tay, ghi lại lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến Gia Long và nói sơ về các nước lân cận như Cao Miên, Miến Điện... 919 trang. 2- Đại Nam Đương Án, bản chép tay, sách do các quan Bộ Lễ soạn năm 1892. 3- Đại Nam Hội Điển Toát Yếu, bán chép từ vi phim. Do các quan lại ở Lục Bộ soạn. Hội điển triều Nguyễn, gồm các chỉ dụ, nghị định về thuế, công việc của Lục Bộ, Đô Sát Viện, Nội Các, Hàn Lâm Viện... 424 trang. 4- Đại Nam Pháp Lệnh Tập, bản chép tay, 122 trang. 5- Hình Bộ Điều Lệ Vựng Biên, bản chép tay, 150 trang. 6- Hội Đồng Thích Cải Nghĩ, bản chép tay năm 1901, 4 quyển. 7- Khâm Định An Nam Kỷ Lược, bản sao từ bản chép tay, có quyển 28, 30. 8- Lạng Thành Kỷ Thắng, bản chép tay, thơ đề vịnh Lạng Sơn của Ngô Thì Sĩ, bài đề vịnh năm Cảnh Hưng 40 của Hà Đình Nguyễn Thuật Hiên, văn bia ghi lại sắc phong Gia Long tặng Khâm Mục Bá Đa Lộc... 9- Lê Quý Ký Sự, bản chép tay, lịch sử Việt Nam từ năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777) đến Chiêu Thống thứ 3 (1788), 241 trang. 10- Như Tây Nhật Trình, bản chép tay, Vũ Văn Báo, Nguyễn Trưng... soạn năm Thành Thái thứ 1, 146 trang. 11- Ông Phán Trinh Thủ Bình An Bộ, bản chép tay, soạn năm Bính Dần, không rõ niên hiệu, sổ biên lai ghi số tiền và ngày tháng nhận tiền của ông Phán Trinh. 12- Toàn Hạt Quan Lại Lệ Tổng Lý Lý Lịch Sách, bản chép tay, soạn năm Duy Tân thứ 6 (1920), 206 trang. 13- Việt Sử Tiết Yếu, Trần Đình Lượng viết tựa, tổng tự về cương vực diên cách, in năm Duy Tân thứ 2 (1908), 260 trang. Năm 1998, Bà Nguyễn Thị Oanh được cử qua Nhật lần thứ hai cùng với ông Trần Nghĩa để đọc và viết tóm lược nội dung các sách Hán, Nôm lưu trữ trong Đông Dương Văn Khố. Xem như vậy thì số sách Hán, Nôm do Việt Nam biên soạn hiện có ở Nhật Bản không nhiều lắm so với ở Pháp, Ý, Hoa Kỳ (ở Đại Học Cornell có khoảng 550 cuốn Hán, Nôm)... Những sách Việt Nam không còn thì các cơ quan thẩm quyền ở Việt Nam có thể yêu cầu được sao lại.

Page 66: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Năm 1964, sau khi Đông Dương Văn Khố in lại bản đồ Việt Nam thời Hồng Đức đã trao trả bản chỉnh về lại cho viện bảo tàng ở Hà Nội. Đầu hậu thập niên 70, có người Nhật phát hiện tại một tiệm bán đồ cổ ở Nhật một cái chuông đồng của Việt Nam thuộc chùa Ngũ Hộ, làng Kim Thôi, miền Bắc. Chuông hình ống, cao 1 mét, đường kính 42 cm, nặng khoảng 120 kg, bên trên có trạm hình con rồng hai đầu, bốn phía có khắc bốn chữ " Ngũ Hộ Tự Chung". Nhiều người Nhật đã đứng ra quyên góp tiền mua lại chuông này để gởi trả về Việt Nam, được giới truyền thông ủng hô.. Phía tiệm đồ cổ đòi giá 5 triệu Yen, trong khi đó tiền quyên góp được tới 9,6 triệu Yen. Ngày 14/6/1978, đã có một buổi lễ trao trả chuông tại chùa Quán Sứ và sau đó đem về chùa Bút Tháp ở tỉnh Bắc Ninh (tên cũ là Hà Bắc). Từ đó, tiếng chuông lại vang vọng ở Việt Nam, quê hương của chính cái chuông đó! THƯ VIỆN NHẬT CÓ SÁCH VIỆT Ở Nhật, để đáp ứng với số người Việt và Nhật tìm đến tiếng Việt gia tăng, một vài thư viện có cả sách báo Việt. - Gunma Kenritsu Toshokan T371-0017 Gunma-Ken, Maebashi-Shi, Hiyoshi-Cho 1-9-1 Tel: 027- 231-3008, Fax: 027-235-4196 http://www.library.preg.gunma.jp (hướng dẫn tiếng Việt) - Kawasaki Shiritsu Saiwai Toshokan T212-0023 Kanagawa-Ken, Kawasaki-Shi, Saiwai-Ku, Totehoncho 1-11-2 Tel: 044-541-3915, Fax: 044-541-4747 - Kokuritsu Kokkai Toshokan T169-0073 Tokyo-To, Chiyoda-Ku, Nagata-Cho 1-10-1 Tel: 03-3581-2331 <4802> - Osaka-Fu Yao Shititsu Toshokan T.581- Osaka-Fu, Yao-Shi, Hon-Machi 2-1-12 Tel: 0729-93-3606, Fax: 0729-23-2923 http://www.city.yao.osaka.jp (hướng dẫn tiếng Việt) - Toyo Bunko (lưu trữ một số sách Hán-Nôm của Việt Nam) T113-0021 Tokyo-To, Bunkyo-Ku, Honnagome 2-28-21 Tel: 03-3942-0121 - Thư viện trong một vài trại giam cũng có sách Việt. Các thư viện khác như Shinnagata ở Kobe, Kokusai Kodomo ở Tokyo, Jiyo ở

Page 67: CHƯƠNG 48 LỊCH SỬ QUAN HỆ NHẬT-VI ỆT · Cuộc hành trình t ất nhiên rất gian nan và v ất vả, ... với 1.310 di tích, trong số đó có hơn 20 di tích

Kyoto... cũng có sách Việt. Một số trại giam có đông người Việt (vài chục người) như Fuchu (Phủ Trung), Maebashi (Tiền Kiều)... cũng có sách Việt. THỐNG NHẤT CÁCH VIẾT CHỮ VIỆT BẰNG KATAKANA Ngày 17/8/2000, chúng tôi đã lần đầu tiên đưa đề nghị tìm cách thống nhất cách phiên âm tiếng Việt ra Katakana với một số giáo sư Nhật về Việt ngữ ở Tokyo, Osaka và những người quan tâm. Sở dĩ chúng tôi nêu lên vấn đề này vì càng ngày, giới truyền thông Nhật và viết sách càng loan nhiều tin về Việt Nam. Các tên người, địa danh, tên món ăn, đồ thủ công nghệ v.v... được viết khá nhiều bằng Katakanạ Vì số âm của Katakana (120 âm) rất giới hạn nên việc phiên âm tiếng Việt (khoảng 15.000 âm) rất khó, thường không được thống nhất. Vì vậy, chúng tôi mới đề nghị các chuyên gia góp sức làm công việc này để mọi người có từ thống nhất dùng. Năm 2001, chúng tôi đã chính thức đưa ra "Quy Tắc Phiên Âm Tiếng Việt Ra Katakana". Xin xem ở Phụ Lục 10. VỀ TỪ ĐIỂN KATAKANA CỦA NHẬT Người Nhật thường nói tới "3K" là "Kiken, Kitanai, Kitsui" để chỉ loại công việc "Nguy hiểm, Dơ bẩn, Cực nhọc". Họ cũng có từ "Sanshu No Jingi" (Tam Chủng Thần Khí), nguyên là ba thứ báu vật tượng trưng cho sự truyền ngôi Thiên Hoàng gồm "Cái gương, Thanh kiếm, Khúc ngọc", sau được dùng theo nghĩa rộng để chỉ ba thứ quý giá, như đối với người Việt ở trong nước là "Xe gắn máy, TV, Tủ Lạnh"... Theo chiều hướng đó thì về mặt văn học, chúng tôi thấy Nhật Bản có một thứ "Sanshu No Jingi" cũng mang tên "3K", đó là các từ điển "Kokugo, Kanwa, Katakana" (国語 = Quốc Ngữ, 漢和 = Hán Hòa, カタ

カナ = Katakana). Từ điển "Kokugo và Kanwa" khá tốt, nhưng trong lúc càng ngày người Nhật càng lạm dụng "Katakana" (nhiều tên công ty đang là chữ Hán đổi ra "Katakana") và số chữ tăng lên gấp bội, khoảng từ 200.000 đến 300.000 từ, mà từ điển "Katakana" thì nhiều và vẫn nhỏ chỉ ở mức độ tối đa khoảng 50.000 từ, tra cứu rất bất tiện. Từ năm 1993, bên Trung Quốc đã có từ điển "Katakana" giải thích bằng tiếng Hoa dành cho người Hoa đọc sách Nhật lên tới khoảng 110.000 từ. Do đó, chúng tôi thường kêu gọi người Nhật hãy soạn một cuốn từ điển "Katakana" cỡ 150.000 từ. Hy vọng lời kêu gọi này được đáp ứng và vài năm sau, sẽ có cuốn sách như ý. Và nếu có cuốn như vậy thì vượt trội các cuốn cùng loại, có thể bán tới hàng triệu cuốn vì đây là cuốn sách rất cần yếu đối với người Nhật cũng như người ngoại quốc học tiếng Nhật.