Upload
nguyendiep
View
286
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
CHUYÊN ĐỀ
TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG;
NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ,
ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, NHỮNG BIỂU HIỆN
“ TỰ DIỄN BIẾN”, “ TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
Thứ nhất, yêu cầu của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử và vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trong công tác xây dựng
Đảng và xác định đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Đây là bài học kinh nghiệm lớn, sâu sắc được rút
ra trong quá trình hoạt động của Đảng và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng,
nhiều nước trên thế giới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “…Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết đinh thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Càng
đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, càng cần phải coi
trọng công tác xây dựng Đảng. Thực tiễn cho thấy, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng
toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương đều ban hành các nghị quyết, kết luận về
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh mặt tích cực và những thành tựu đạt được, công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, trong đó có những khuyết
điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chưa được khắc phục.
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “ một số việc
chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra”. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
lợi ích nhóm… trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán
bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp không những chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà có mặt, có bộ phận diễn biễn phức tạp hơn. Bên cạnh đó, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biễn phức tạp trong
Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội.
Đại hội XII nhận định: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biều hiện
dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục
tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện
những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối,
Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”. Việc lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp
ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị
cao; trong thực hiện các giải pháp có việc, có nơi chưa nghiêm túc; còn thiếu
những cơ chế, chính sách, biện pháp có tính đột phá, đủ mạnh làm chuyển biến
cơ bản tình hình. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Trong những năm
2
tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh
hơn nữa công tác xây dựng Đảng….”
Thứ hai, yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường; nhiều vẫn đề mới, khó và phức tạp đặt ra đòi
hỏi Đảng ta phải nghiên cứu, giải quyết một cách thấu đáo cả về lý luận và thực
tiễn; cạnh tranh gay gắt và mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, sự phát triển của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội tác
động mạnh mẽ, thường xuyên, nhiều chiều đến tâm tư, tình tảm, nhận thức và
hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, tổ
chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ráo riết thực hiện âm mưu,
hoạt động “ diễn biến hòa bình”, tạo điều kiện, nhân tố chống phá ngay từ bên
trong ngày càng tinh vi, nguy hiểm. Vì vậy, đòi hỏi phải chủ động khắc phục
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; kiên quyết
đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thứ ba, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quán triệt quan điểm “dân là
gốc”, dựa vào dân để xây dựng Đảng và khẳng định sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Hiện nay, đa số nhân dân vẫn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đặc biệt, nhân dân kỳ vọng trong nhiệm kỳ khóa XII, sự quyết tâm của Đảng,
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; chống
“diễn biến hòa bình”, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ có sự chuyển
biến theo hướng tích cực. Đa số ý kiến trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi
nhận trong 5 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành
tựu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, nhân dân bất bình, giảm niềm tin đối với một bộ
phận cán bộ, đảng viên yếu kém về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm hoặc
thoái hóa, biến chất. Nhiều cán bộ tác phong quan liêu, gia trưởng, độc đoán,
chuyên quyền, thậm chí trù dập, ức hiếp quần chúng… Mặt khác, việc tổ chức
thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiệu quả
còn thấp, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, chậm làm chuyển biến tình hình.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định
sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ” và nhấn mạnh, trong những năm tới phải đẩy mạnh hơn nữa công
tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”. Đồng thời, toàn Đảng phải cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo
3
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là những nội dung cơ bản
cần thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả với trọng tâm là đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biễn”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ để Đảng ta trong sạch, vững mạnh
xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đáp ứng lòng
mong đợi của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
II. KẾT QUẢ, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CÔNG TÁC
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG SUY
THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, BIỂU HIỆN
“TỰ DIỄN BIỄN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG NỘI BỘ THỜI GIAN
QUA.
1. Những kết quả đạt được
1.1. Về một số đánh giá khái quát
- Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa
học; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày
càng lớn mạnh.
- Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ
XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng cũng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn,
thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; giữ vững ổn
định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối
ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
- Kết quả nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyển thống anh hùng và
lịch sử vẻ vang của Đảng ta – Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu
của dân tộc Việt Nam anh hùng.
1.2. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
(1) Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng
đã tạo những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Quá trình tự phê
bình và phê bình đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái
nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu
cực.
- Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phúc tạp đã được phát hiện và
tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng
tình, ủng hộ. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” đạt được một số kết quả; tích cực đấu tranh phòng,
chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Điều đó, đã góp phần quan
trọng vào thành công của Đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội XII của Đảng và bầu
cử đại biểu quốc hội khóa XIV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021.
4
- Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung uơng Đảng khóa XI trên cơ sở
đánh giá tình hình, những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, đã thông qua
Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là lần
đầu tiên Đảng ta xác định việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là vấn đề trọng tâm, xuyên
suốt và cấp bách nhất và đề ra chủ trương, hệ thống giải pháp để đấu tranh ngăn
chặn.
- Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã đề ra bốn nhóm giải pháp, trong đó
nhấn mạnh phải thực hiện tốt nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu
cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. Nội dung kiểm điểm tập trung vào
ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết, gắn với đánh giá việc thực hiện các
quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, giải quyết quyết những vấn đề bức xúc
của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; liên hệ làm rõ những khuyết điểm, hạn
chế, yếu kém đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục. Quá trình tự phê
bình và phê bình ở các cấp đã làm rõ, sâu sắc hơn ưu, khuyết điểm của tập thể,
cá nhân, góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
- Thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, các cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên đã nhận diện rõ hơn, cụ thể hơn những biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thừa nhận bản thân, cơ quan, đơn vị
mình có một số biểu hiện suy thoái ở mức độ khác nhau, như: Trong công tác và
sinh hoạt còn nể nang, né tránh, ngại và chạm, thấy đúng không dám bảo vệ,
thấy sai không dám đấu tranh; chưa hết lòng, hết sức vì công việc, vì dân, chưa
làm tròn bổn phận, chức trách được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm
công tác được giao; còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm công tác, chưa gắn bó
lâu dài với cơ quan, ngại khó, ngại khổ, chọn việc dễ, bỏ việc khó, làm việc cầm
chừng, hiệu quả thấp, chọn việc có nhiều điều kiện, cơ hội phát triển thăng tiến
hoặc thu được nhiều lợi ích, có thu nhập cao; thích làm việc ở các cơ quan đảng,
đoàn thể chính trị - xã hội, thích làm việc gần nhà, không muốn nhận nhiệm vụ ở
nơi xa, có nhiều khó khăn; trông chờ, ỷ lại cấp trên, thờ ơ, vô cảm trước nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị, dao động trước khó khăn… Một số cán bộ, đảng viên có
lối sống thực dụng, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, đoàn kết xuôi chiều; ý thức tổ
chức kỷ luật chưa nghiêm; khi nghỉ hưu, nghỉ công tác tự bỏ sinh hoạt đảng
hoặc xin miễn sinh hoạt đảng, v.v… Qua đó, nhận thức sâu sắc hơn về yêu cầu
cấp bách phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình
mới.
- Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch khắc phục, sửa chữa khuyết điểm
đã đạt được một số kết quả bước đầu, thể hiện trên một số lĩnh vực chính, như:
Nhiều cấp ủy rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định đã có và xây
dựng, ban hành các quy chế, quy định mới để thực hiện (quy đinh về nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; quy định về thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, quản lý chặt chẽ tài sản công; quy chế thi tuyển cán bộ, công
chức, viên chức…). Nhiều cấp ủy địa phương đã chỉ đạo rà soát các dự án trên
địa bàn để điều chỉnh cho phù hợp; xử lý những nhiệm vụ nổi cộm về quản lý,
5
sử dụng đất đai, khoáng sản và vi phạm trật trự xây dựng đô thị. Nhiều cấp ủy,
tổ chức đảng rà soát, bổ sung. Điều chỉnh quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý;
đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ; sắp xếp, điều chuyển
hoặc bố trí công tác khác đối với những cán bộ có khuyết điểm; tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp để đấu tranh ngăn chặn tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, các cơ quan truyền
thông đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, đấu tranh, phê phán với những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đấu tranh với những
hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phản bác các thông tin, luận điệu sai trái
của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Nhiều cấp ủy, chi bộ đã coi
trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ; tăng cường sinh
hoạt chuyên đề cung cấp thông tin và định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên.
Đại hội XII đánh giá: “Quá trình kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo
Nghị quyết Trung ương 4 và việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết
điểm đã góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, tạo được chuyển biến
tích cực bước đầu trong việc ngăn chặn trên một số mặt tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng… Quá trình triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 đã có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin trong
Đảng và nhân dân”.
(2) Về đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Nhận thức và đấu tranh ngăn chăn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, trong cuốn Đường cách mệnh (1927); tác
phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (đăng trên
báo Nhân Dân ngày 3-2-1969); trong Di chúc.
+ Giai đoạn trước đổi mới:
-> Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế,
yếu kém trong Đảng, đồng thời chỉ rõ trách nhiệm của Trung ương trong lãnh
đạo, bồi dưỡng, kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là: “… ở các cơ
quan lãnh đạo các cấp, về lề lối làm việc, về chủ trương và cách lãnh đạo còn có
những khuyết điểm khá phổ thông và nghiêm trọng. Ấy là những bệnh chủ quan,
quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Bệnh chủ quan tỏ ra ở tư
tưởng cho rằng trường kỳ kháng chiến có thể trở thành đoản kỳ kháng chiến.
Bệnh quan liêu tỏ ra ở chỗ thích giấy tờ, xa quần chúng, không điều tra nghiên
cứu, không kiểm tra theo dõi việc thi hành, không học tập kinh nghiệm của quần
chúng. Bệnh mệnh lệnh tỏ ra ở chỗ hay dựa vào chính quyền mà bắt dân làm, ít
tuyên truyền giải thích cho dân tự giác, tự động. Bênh hẹp hòi tỏ ra ở chỗ đối
với người ngoài đảng nhiều khi quá khắt khe, hoặc phớt lờ người ta đi, không
chịu bàn bạc, hỏi han ý kiến. Còn bệnh công thần thì tỏ ra: cậy mình có một ít
thành tích, thì tự kiêu tự đại cho mình là “ cứu tinh” của dân, “công thần” của
Đảng. Rồi đòi địa vị, danh vọng. Việc to không làm được, việc nhỏ không muốn
6
làm. Bệnh công thần rất có hại cho đoàn kết ở trong Đảng cũng như ở ngoài
Đảng. Cậy thế mình là người của Đảng, phớt lờ cả kỷ luật và cả cấp trên trong
các đoàn thể nhân dân hoặc cơ quan Chính phủ. Những đồng chí mắc bệnh ấy
không hiểu rằng: mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng
những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ
quan chình quyền cách mạng.
Trong Đảng có những căn bệnh ấy và bệnh khác, Trung ương cũng phải
chịu một phần trách nhiệm. Vì Trung ương chưa chú trong việc kiểm tra. Sự
huấn luyện về chủ nghĩa tuy có, nhưng chưa được khắp, chưa được đủ. Dân chủ
trong Đảng chưa được thực hiện rộng rãi. Phê bình và tự phê bình chưa thành
nền nếp thường xuyên.
-> Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đã chỉ đạo: “Khắc phục tình trạng
tổ chức cồng kềnh, phân tán, và lề lối làm việc luộm thuộm, chậm chạp. Phải
làm cho tổ chức gọn ghẽ, giảm bớt những cấp trung gian không cần thiết; phát
huy tác phong khẩn trương, hoạt bát,... kiện toàn và tăng cường tổ chức cho
những cấp và ngành nào xét ra cần thiết”.
Tăng cường sự liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Cán bộ, đảng viên phải
bồi dưỡng tác phong đi đường lối quần chúng, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh.
-> Đại hội IV (tháng 12-1976), Đảng đã yêu cầu: “… Phải kiên quyết và
kịp thời loại ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất, những người
không đủ tư cách đảng viên… Những cán bộ mà phẩm chất chính trị hoặc năng
lực công tác không tương xứng với trách nhiệm cần được sắp xếp lại cho hợp
lý…, khắc phục tư tưởng bảo thủ, hẹp hòi, cục bộ, bè phái, tránh thành kiến
hoặc cảm tình riêng”.
-> Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) chỉ rõ: “… Những khuyết điểm
trong sự lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội chậm được sữa chữa, cùng với
nhiều khuyết điểm kéo dài trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của
Đảng, nhất là những biểu hiện sa sút về phẩm chất cách mạng, ý chí chiến đấu,
tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ
phụ trách ở các cấp, các ngành đã làm giảm hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức
đảng, gây trở ngại lơn cho việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật Nhà nước, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng trong quần
chúng”. Đại hội cũng nhấn mạnh: “Công tác tư tưởng phải hướng mạnh vào việc
giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ
nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục
những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái
hóa về lối sống, quan liêu về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của
môt bộ phận cán bộ, đảng viên.
Phải kết hợp chặt chẽ các hình thức giáo dục tư tưởng, tư phê bình và phê
bình với các biện pháp tổ chức tăng cường kiểm tra thi hành kỷ luật của Đảng
một cách nghiêm minh; kết hợp công tác giáo dục tư tưởng trong Đảng với cuộc
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong các cơ quan nhà nước, trong xã
hội”. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, có tiến hành một đợt
giáo dục chính trị sâu sắc trong toàn Đảng, lấy việc nghiên cứu các văn kiện của
Đại hội làm nội dung giáo dục cán bộ, đảng viên về đường lối, chính sách của
7
Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc, phê phán những tư tưởng
sai lầm, nâng cao ý chí cách mạng và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên
cộng sản trước tình hình và nhiệm vụ mới.
+ Từ khi đổi mới đến nay:
-> Đại hội VI và các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng ta tiếp tục cảnh báo về
nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Đại hội
VI của Đảng (tháng 12-1986), với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật, đã chỉ rõ: “Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra
một cách cấp bách. Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối
sóng: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình,
có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất
nước, với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền… Đã
có lúc, có nơi, một số đảng viên thụ động, bàng quang, bất lực trước sự lan tràn
của những tin đồn nhảm, những dư luận ác ý, tê liệt trước sự tiến công của địch
về tư tưởng”. Cơ chế quản lý cán bộ có đúng thì sự đánh giá cán bộ mới chính
xác, mới phát hiện, đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những người xấu và yếu
kém.
-> Trong nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã đánh giá: “Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi
vung phí tái sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó
gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng”.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) đã
nhấn mạnh tới tính nguy hại của sự suy thoái trong Đảng, đó là: “… tình trạng
suy thoái, hư hỏng cùng với sự bất cập về năng lực, sự lỏng lẻo về ý thức, kỷ
luật và tệ quan liêu, cửa quyền của không ít cán bộ trong các tổ chức đảng và
chính quyền ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực quản lý nhầ nước và lĩnh vực
kinh doanh, đang vô hiệu hóa nhiều chủ trương, chính sách, cản trợ công cuộc
đổi mới, làm giảm lòng tin của nhân dân. Đây là trở lực lớn nhất đối với công
cuộc đổi mới và phát triển của đất nước ta, là thách thức gay gắt nhất đối với sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước”.
-> Kể từ Đại hội VIII đến nay, nhận thức của Đảng ta về phạm vi, mức độ
và tác động nguy hại của chiều hướng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống đối với bản chất và sự tồn vong của Đảng, chế độ và đối với việc phát
triển khai thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng ngày càng cụ thể, sâu sắc.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 7-1996) nhấn mạnh: “Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh
giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống”.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6-
1997) nhận định: “ Một bộ phận không nhỏ cán bộ đã thoái hóa về chính trị và
phẩm chất, đạo đức, lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, quan liêu, bè phái,
mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng”.
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đánh giá: “… Sự suy thoái về
tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”.
8
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nhấn mạnh: “… Tình trạng tham
nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trợ việc thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân…”
Đại hội X của Đảng chỉ ra cụ thể: “Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư
tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh
vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý
tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng…”.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều
ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn
định, phát triển của đất nước.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với “ tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ, đó
là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn
biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi
kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước”.
- Nhận thức và đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
+ Nội dung:
-> Có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là quá trình
diễn ra sự thay đổi từng bước, từ lượng đến chất về tư tưởng và hành động của
cá nhân cán bộ, đảng viên hoặc của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức,
đoàn thể trong hệ thống chính trị, do sự tác động từ hoạt động tuyên truyền thù
địch, sự tác động tiêu cực của diễn biến tình hình thế giới và sự tác động bởi
tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng, phân hóa
giàu – nghèo gia tăng dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội.
-> Đó là quá trình đấu tranh trong nội tâm cán bộ, đảng viên; trong đó yếu
tố tiêu cực dần dần tăng lên, yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ
nghĩa phai nhạt dần.
-> “Tự chuyển hóa” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”, đó là sự
thay đổi về chất. Khi quan điểm, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên đã bị suy thoái đến một mức độ nhất định thì sẽ dẫn đến hành động chống
lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
-> Nguyên nhân dẫn đến “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có từ các
nguyên nhân khách quan, song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ
quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên lập trường tư tưởng chính trị
9
không vững vàng, do bất mãn hay do sự buông lỏng công tác quản lý, giáo dục
của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội…
+ Hình thức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ:
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị. Đây là những
thay đổi theo hướng phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận hệ thống chính
trị của Việt Nam; phủ định đường lối, quan điểm, các chủ trương và vai trò lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng pháp quyền: Trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên, niềm tin vào chân lý, tính đúng đắn của những tư
tưởng, quan điểm pháp quyền của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng cộng sản
Việt Nam không chỉ đã và đang “tự diễn biễn” mà còn “tự chuyển hóa” thành
những tư tưởng đối lập.
-> “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng văn hóa, đạo đức: hiện
tượng sùng bái tư tưởng đạo đức, lối sống tư sản, từ bỏ các giá trị đạo đức, lối
sống mang bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao quá mức chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng, cơ hội vụ lợi, hưởng lạc, hám danh.
+ Nhận thức và chủ trưởng, giải pháp của Đảng về đấu tranh ngăn chặn
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
-> Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994),
Đảng ta đã xác định bốn nguy cơ gồm: (1) “ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế
so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ
tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh gay gắt; (2) Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục
được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; (3) Nguy
cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; (4) Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch”.
-> Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về
những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội
lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X và đến Đại hội lần thứ XI khẳng định lại với
tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần
còn nghiêm trọng hơn. Đại hội XI nêu rõ: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn
biến phức tạp”.
-> Từ những nhận định, phân tích, đánh giá quan trọng nêu trên, Đảng ta
đã đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, như: (1) Bộ Chính trị khóa X
có Kết luận số 86-KL/TW ngày 5-11-2010 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh quốc
gia trong tình hình mới; (2) Ban Bí thư khóa X có Chỉ thị số 34-CT/TW ngày
17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu
rõ cần chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; (3) Bộ
Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22-6-2015 về tăng cường
10
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình
mới…
-> Các cấp ủy, tổ chức Đảng đã coi trọng hơn công tác giáo dục chính trị
tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán
bộ, đảng viên. Đề cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với biểu hiện “tự diễn
biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là việc đấu tranh với biểu hiện nói và
làm trái với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Coi trọng xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của
các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị,
kịp thời đấu tranh, ngăn chặn biều hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong
nội bộ ngày từ khi mới manh nha.
-> Công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ được coi trọng và tăng
cường hơn, góp phần tăng cường đoàn kết trong Đảng, đã giải quyết tốt các vấn
đề liên quan đến lịch sử chính trị, gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa”,
kịp thời chuyển trọng tâm sang nằm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay của
cán bộ, đảng viên. Kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại âm
mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử
cơ hội, bất mãn chính trị.
-> Trên thực tế, thời gian qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã chủ động
phòng ngừa và từng bước ngăn chặn được tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, góp phần giữ
vững ổn định chính trị và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư
tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao.
2. Hạn chế, khuyết điểm
2.1. Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyêt điểm
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng
yêu cầu. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, nhất là việc đề cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp chưa được chú trọng. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh ở nhiều nơi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả
thấp.
- Nội dung sinh hoạt Đảng ở nhiểu nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả
chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp.
Chất lượng sinh hoạt đảng chưa cao, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê
bình còn yếu, tình trạng nể nang, né tránh, hữu khuynh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi
quý” còn xảy ra phổ biến, thậm chí có tình trạng lợi dụng tự phê bình và phê
bình để ca ngợi, nịnh bợ, tâng bốc nhau. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng quản
lý đảng viên ở một số nơi còn lỏng lẻo, vô nguyên tắc, nhất là trong việc chuyển
sinh hoạt đảng đối với đảng viên nghỉ hưu, nghỉ công tác về nơi cư trú; quản lý
đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú. Một số trường hợp đảng viên không chuyển
11
sinh hoạt đảng, bỏ sinh hoạt đảng nhưng chưa bị xóa tên, khi có vi phạm liên
quan đến vấn đề an ninh, trật tự, an toàn xã hội… các cơ quan pháp luật phải xử
lý rất phức tạp.
- Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ đảng viên còn yếu kém.
Nhiều cán bộ, đảng viên trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên
phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát
thực tế, cơ sở. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa
được khắc phục, thiếu tiêu chí khoa học, cụ thể làm căn cứ đánh giá, cách đánh
giá chưa có sự so sánh cùng chức danh trong cơ quan, đơn vị với nhau. Công tác
tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sắp xếp và thực
hiện chính sách cán bộ còn nhiều bất cập. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy chưa
gắn với tinh giản biên chế và nâng cao chất lương đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Tình trang quá nhiều cấp phó ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương
trái với quy định nhưng chậm được chấn chỉnh; gây khó khăn trong phân công,
quy trách nhiệm cá nhân.
- Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…
2.1. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt được
mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức;
vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên
thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được
giao. Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người
đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.
Việc chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm tập thể ở một số cấp ủy, tổ chức
đảng còn nặng về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, chưa đi sâu
làm rõ những hạn chế, yếu kém về ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết.
Không ít cán bộ, đảng viên và một số cán bộ lãnh đạo quản lý ở các cấp chưa
thực sự gương mẫu, chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm cá
nhân trong những hạn chế, khuyết điểm chung của tập thể.
Một số cấp ủy chậm đề ra kế hoạch, biện pháp sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, chưa gắn với khắc phục
khuyết điểm của tập thể, cá nhân; việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm
chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; xem xét xử lý đối vơi một số trường hợp vi
phạm chưa kịp thời nghiêm minh, dứt điểm; một số vụ việc nổi cộm, phức tạp,
gây bức xúc trong Đảng, trong xã hội giải quyết còn chậm.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ chưa nghiêm, chưa cụ thể hóa nguyên tắc bằng các quy định cụ
thể còn biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, bè phái, cục bộ.
Việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu.
diễn biến vẫn còn phức tạp, nghiêm trọng, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều loại đối tượng với nhiều hình thức tinh vi. Việc kê khai,
công khai tài sản, thu nhập còn hình thức và không thực chất.
12
- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có bộ phận còn diễn biến tinh
vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung
vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất
đoàn kết nội bộ không chỉ ở các cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan trung ương,
tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất
cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “ tự
chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của
các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị
động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao.
Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới
“tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy
hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu xa, thù
địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng và một số nghị quyết Trung ương đã đề ra
những giải pháp đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhưng các nhiệm kỳ gần đây,
Đảng đều đánh giá chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng này.
Đảng ta nhận định: “Bốn nguy cơ chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến
phức tạp”, như nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những
thủ đoạn tinh vi và thâm độc chống phá; sự suy thoái về tư tưởng chính trị “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên có các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống đáng lo
ngại, với mức độ khác nhau, như: sự phai nhạt về lý tưởng, nói nhiều làm ít, nói
và làm không nhất quán; không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không
thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của Đảng; không báo cáo đúng
sự thật, không trung thực, thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình; thiếu dân
chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí phấn đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy
sai không đấu tranh…
Một số cán bộ còn kén chọn chức danh, vị trí công tác; một số cán bộ
chưa sẵn sàng nhận nhiệm vụ, đưa ra nhiều lý do thiếu thuyết phục khi được
phân công công tác. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu gương mẫu
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; có những biểu hiện độc đoán, gia trưởng,
chuyên quyền trong điều hành, chỉ đạo các hoạt động tư pháp, kinh tế - xã hội;
áp đặt, thiếu dân chủ, khách quan trong bố trí, sắp xếp cán bộ. Không ít cán bộ,
đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, kèn cựa địa vị, cơ hội, thực dụng, “dĩ
hòa vi quý”, nói dựa, lấy lòng nhau. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp, kể cả cán bộ cao cấp có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, mắc bệnh “thành
tích”, bè phái, “lợi ích nhóm”, cục bộ, mất đoàn kết; tham nhũng, lãng phí;
phong cách quan liêu, lối sống sa hoa, hưởng lạc; chạy chức, chạy quyền, chạy
chỗ, chạy tội, chạy luân chuyển, chạy khen thưởng… Một số cán bộ có quan hệ
trực tiếp với dân thì thờ ơ, vô cảm, quan cách, cửa quyền, hách dịch, nhũng
nhiễu… Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, xảy ra trên nhiều
lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều người nhưng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
13
Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
thường diễn biến âm ỉ, chuyển hóa rất phức tạp, cái này là tiền đề, dung dưỡng
cho cái kia phát triển; được che đậy rất khôn khéo, tinh vi dưới nhiều hình thức,
thường gắn liền với lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm - cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền trong xã hội.
Theo kết quả điều tra xã hội học tháng 7-2016 của Viện nghiên cứu dư
luận xã hội: 56% số người được hỏi khẳng định suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có chức, có quyền là: “nghiêm trọng
36%” và “rất nghiệm trọng 20%”. Đa số những người được hỏi cho rằng: Sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tập trung chủ yếu trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên công tác tại “cơ quan nhà nước”, “cơ sở y tế, giáo dục” và tập
trung chủ yếu ở “cấp quận, huyện” và “cấp tỉnh, thành phố”.
Trong 5 năm trở lại đây, những biểu hiện suy thoái xuất hiện nhiều trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên là: (1) “Dĩ hòa vi quý”, đúng không dám bảo vệ, sai
không dám đấu tranh; (2) Vì chức, quyền, tiền bạc bất chấp thủ đoạn; chạy chức,
chạy quyền, chạy luân chuyển, chạy dự án, chạy bằng cấp, chạy danh hiệu thi
đua, chạy tội; (3) Tham nhũng, lãng phí; (4) Ngại học tập lý luận chính trị,
nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, không am hiểu thực tiễn; (5) Mất đoàn kết,
bè phái, cục bố, lợi ích nhóm.
Kết quả điều tra dư luận xã hội nêu trên cũng chỉ ra các biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống khác: (1) Tranh công đổ tội, “đánh
bóng” bản thân, né tránh trách nhiệm; (2) Đề cao chủ nghĩa “dòng tộc”, nặng về
tư tưởng “con ông cháu cha”; (3) Bao che cấp dưới, thiếu tinh thần trách nhiệm;
(4) Không yêu nghề, không có chí hướng phấn đấu, vươn lên; (5) Coi thường
công tác đảng, công tác giáo dục chính trị; (6) Không có tinh thần tự phê bình và
phê bình; (7) Ganh ghét với người giỏi, so kè, tị nạnh với đồng nghiệp; làm ít
đòi hỏi nhiều; (8) Có cách hành xử và thể hiện lối sống cậy quyền thế, tiền tài;
(9) Xa rời thực tiễn, không hiểu biết về văn hóa, phong tục truyền thống địa
phương nơi công tác; (10) Hướng ngoại, xem thường các giá trị dân tộc.
Có thể nói, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không những chưa bị đẩy lùi mà
diễn biến phức tạp hơn, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chậm được khắc phục, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, thách thức đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên
chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời có hiệu quả, cùng với những tác động
của “diễn biến hòa bình”, mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế;
những yếu kém trong lãnh đạo, điểu hành quản lý kinh tế, xã hội, đính hướng và
quản lý thông tin, mạng xã hội…dẫn tới những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng phức tạp”. Một số cán bộ, đảng viên có
những biểu hiện cụ thể như hoang mang, dao động, mất phương hướng, hoài
nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam; nói và làm không đúng, thậm chí ngược lại với chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản bác, phủ định
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã
14
hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; phủ nhận mọi thành tựu mà
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được trong cuộc đấu tranh cách mạng giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây
dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa như ngày nay; truyền bá
học thuyết, văn hóa, lối sống tư sản cũng như các qua điểm tư tưởng phi mácxit,
phi xã hội chủ nghĩa, đối lập với chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vv…
Đại hội XII của Đảng đánh giá: “… những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính
trị và trong xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất
phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xuất hiện những việc làm và
phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số
cán bộ, đảng viên”.
Trong khi đó, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế trong nhận thức và
lúng túng trong đấu tranh ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; lơ là, mất
cảnh giác trước những âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”. Tình trạng lộ,
lọt thông tin, bí mật nhà nước, nhất là qua mạng internet, qua các phương tiện
thông tin đại chúng ngày càng nghiêm trọng. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên
có yếu tố nước ngoài, quản lý báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội chưa chặt
chẽ, còn nhiều sơ hở. Việc đấu tranh, phản bác những luận điệu tuyên truyền,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn
chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả còn chưa cao. Xử lý các đối
tượng vi phạm đường lối, quan điểm, nguyên tăc của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước chưa kịp thời, nghiêm minh. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ
còn hạn chế, trách nhiệm của cấp ủy đảng và sự phối hợp của các cơ quan chức
năng trong phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, chưa xác
định rõ phạm vi trách nhiệm, quyền hạ của cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác bảo vệ Đảng, quản lý cán bộ,
đảng viên.
3. Về nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân khách quan
- Tác động từ khủng hoảng chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sụp đổ của
Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông
tin, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tê.
- Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ
thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả.
- Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo
và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình;
cổ súy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời,
cấu kết với các phần tử cơ hội bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá
cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.
15
3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán
bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu
dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động
trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị
cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình
trước Đảng, trước dân.
- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng
chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo
dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức
về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và
những hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn
hình thức, đơn điệu. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có
chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên
truyền, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi
tiêu cực.
- Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các
nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí
thư thành chương trình kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị
còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt.
- Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu
cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân tổ chưc thực
hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân
không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc.
- Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách luật pháp thích
ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Tổ
chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ
chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế
để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm
sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm ban hành quy định xử lý tổ chức cá nhân có
biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
- Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ. Một số cơ chế,
chính sách, trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền
lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức.
- Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu
hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt
chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê
bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu
tranh phê bình. Sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công
tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ
16
nghiêm minh. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
yêu cầu; việc kê khai tài sản thu nhập còn hình thức.
- Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội
phát triển mạnh mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ
mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những
luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất
mãn chính trị.
- Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, cac đoàn thể
chính trị- xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn
chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn
chế, hiệu quả chưa cao.
III. NHẬN DIỆN NHỮNG BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIỄN”, “TỰ CHUYỂN
HÓA”
1. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị
(1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
(3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập
lý luận chính trị, lười học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
(4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức Đảng; sa sút ý chí
phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách
nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không
còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được
giao.
(5) Trong tự phê bình còn giấu diếm, không dám nhận khuyết điểm; khi
có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình
thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ
trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
(6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói
một đằng làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và
làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
(7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình, không chịu học tập,
lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
(8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức,
kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc
khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn
tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá
nhân một cách không lành mạnh.
17
(9) Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề
ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người
quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản
lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lời ích.
2. Biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống
(1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu
vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kị, so bì, tị nạnh,
không muốn người khác hơn mình.
(2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn
kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ; bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức,
tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo điều hành.
(3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
(4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm,
thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi: “chạy
thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.
(5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra đôn
đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị minh; thờ ơ, vô
cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng
của nhân dân.
(6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí thất thoát tài chính, tài
sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công tràn lan, hiểu quả
thấp không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chỉ tiêu
công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm
thời gian lao động.
(7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh
nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
được giao dể dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
(8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ,
chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,… Sử dụng quyền lực được giao để
phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình để trục lợi.
(9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các
tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong,
mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình
và xã hội.
3. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
(1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực
hiện “đa nguyên, đa đảng”.
(2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển
“xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
(3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng;
18
thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo
các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
(4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội
bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội
để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ,
nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
(5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc
đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công
an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
(6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ
hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ
chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
(7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất
lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
(8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ
thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ
súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội.
Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch
sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
(9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giá cực đoan. Lợi dung vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các
dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn
giáo với Đảng và Nhà nước.
IV. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu
- Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra
các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ.
- Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý
cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động
cơ đúng đắn, thực hiện tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc
gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân
dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
2. Quan điểm
- Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp
giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống”
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.
- Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn;
phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán
bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ
19
các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
- Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là
Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư, cấp ủy và ban thường vụ
cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp
luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị.
3. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp
3.1. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong đoàn Đảng về ý
nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có
kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối
với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới
phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
- Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng; đẩy mạnh công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm
hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của
Đảng. Đổi mới nội dunng, phương pháp hình thức dạy và học lý luận chính trị
gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng
dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có
chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức,
trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ
đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân. Hằng năm, người đứng đầu và từng
cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống,
không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm
tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ
quan, đơn vị của mình.
- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương và bí thư các ủy các cấp.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp
trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp,
nơi có biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hoàn thiện quy chế
đánh giá cán bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các
cấp, các ngành định kỳ hoặc đột xuất.
- Tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, internet,
mạng xã hội. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí
trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng
20
phí, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chủ động định hướng, cung cấp
thông tin thường xuyên hoặc đột xuất; chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến,
gương người tốt, việc tốt. Khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành
tích; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có thành tích; xử lý nghiêm những tập
thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền.
- Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình;
xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan
điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ
hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử
lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi
nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại
những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu các cấp phải xây dựng kế
hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát, khắc phục tình trạng
quan liêu, xa dân. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện phong
cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp.
- Hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển điều động công tác đối
với cán bộ, tiêu chi quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng
viên là: chương trình hành động tập thể và cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ
được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống, tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu
quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3.2. Về cơ chế, chính sách
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện
nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người
có chức, có quyền theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định
rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi
phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ
làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém hiệu
quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức,
tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các
vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn
bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch,
góp phần xóa bỏ cơ chế “ xin - cho”, “ duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân
21
sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài
nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử
dung biên chế… Tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, chuyển
mạnh từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt.
- Kiên quyết thực hiện đúng mục tiêu, có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ
máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Thực hiện chế độ
hợp đồng có thời hạn đối với viên chức nhà nước. Xây dựng và thực hiện chính
sách nhà ở nhằm tạo động lực cho cán bộ, công chức theo hướng nhiều chủ thể
tham gia, hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà nước.
- Đẩy mạnh xã hội hóa, tách cung ứng dịch vụ công và quản lý sản xuất
kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; khắc phục tình trạng qua liêu,
cửa quyền, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức. Rà soát, thoái hóa, cổ
phần hóa chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp quân đội và công an sản
xuất kinh doanh thua lỗ, không phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện
các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên; khắc phục
ngay tình trạng ăn uống, chè chén, “liên hoan”, “gặp mặt” không lành mạnh, với
động cơ không trong sáng; khắc phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ
như: Phân công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, quy trình bổ nhiệm… nhằm đảm
bảo nguyên tắc bình đẳng, tổng thể, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống
chính trị và chấn chỉnh, khắc phục tình trạng kén chọn vị trí, chức danh trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ máy và công tác bảo vệ chính trị nội
bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về
chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Chú trọng
nắm tình hình và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện,
ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán bộ, đảng viên nghiên
cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài. Phát huy vai trò, trách nhiệm
của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương trong đấu tranh phòng,
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3.3. Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức
thực hiện các nghị quyết, kết luận Đảng, xử lý nghiêm tập thể cá nhân ban hành
văn bản không đúng, không phù hợp hoặc thực hiện không nghiêm túc các nội
dung nghị quyết, kết luận của Đảng; khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực
hiện có hiệu quả.
- Các cấp ủy , tổ chức đảng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và
công khai kết quả để góp phần đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, "tự diễn
biến" "tự chuyển hóa". Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban thường vụ cấp ủy các
cấp chỉ đạo rà soát ngay đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý
nghiêm những trường hợp suy thoái, "tự diễn biến" "tự chuyển hóa", không bảo
22
đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác
thấp, nhất là những trường hợp có nhiều dư luận.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo Trung ương và cơ quan
thường trực về phòng chống tham nhũng. Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền và
chế tài xử lý trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên. Rà soát, hoàn thiện các quy định
của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ
luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước.
- Tăng thẩm quyền và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc
tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm khi có dấu hiệu vi phạm,
đồng thời xem xét tư cách đảng viên và phối hợp với các cơ quan chức năng có
biện pháp ngăn chặn hành vi bao che, cản trở, gây khó khăn trong xử lý hoặc có
dấu hiệu bỏ trốn.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cũng như phát huy vai
trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp để nâng
cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, xử lý nghiêm minh đối với
những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật.
- Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc
tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời,
bảo đảm công khai, minh bạch.
Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng
và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ,
đảng viên. Cơ quan đề xuất, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định,
xác minh, đánh giá trung thực việc kê khai theo quy định.
- Xây dựng quy định xử lý những tập thể,cá nhân suy thoái nghiêm trọng
về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện "tự diễn
biến" "tự chuyển hóa" nghiêm trọng.
3.4. Về phát huy vai trò nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội
- Các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện
nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc
ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị ban hành quy định về việc mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền.
- Tăng cường công tác dân vận của Đảng và của Chính quyền; phát huy
vai trò giám sát của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, của nhân
dân, báo chí và công luận trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái " tự diễn biến"
"tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách pháp luật của Nhà nước phải theo
đúng cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng và phải xuất phát từ nguyện
vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
23
- Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc
việc tiếp dân định kì, hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe đối thoại
trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu
hiện suy thoái " tự diễn biến" " tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên.
- Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh,
tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến" "tự chuyển
hóa".
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch thực hiện, xác định rõ nhiệm vụ của các
cơ quan, tổ chức đảng ở Trung ương và trực thuộc Trung ương; phân công, chỉ
đạo cụ thể, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết.
- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan
chức năng nghiên cứu, thể chế hóa, cụ thể hóa nội dung nghị quyết thành các
văn bản pháp luật để thực hiện.
- Các ban Đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy,
cơ quan trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng
kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
24
CHUYÊN ĐỀ
MỘT SỐ CHỦ TRƯỜNG, CHÍNH SÁCH LỚN NHẰM TIẾP TỤC
ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TĂNG TRƯỞNG, NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG, SỨC CẠNH TRANH
CỦA NỀN KINH TẾ
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
- Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được được nhiều thành tựu trong
phát triển KT-XH nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng. Thế nhưng vấn đề
đặt ra, những thành tựu đạt được của chúng ta chưa thực sự bền vững, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của chúng ta đang có xu hướng giảm dần, chất lượng tăng
trưởng chậm, năng suất lao động và sức cạnh tranh của kinh tế còn thấp (năm
2001 - 2010 tốc độ trung bình 6,8% thì năm 2011 - 2015 giảm xuống 5,8%. Mục
tiêu tăng trưởng cho giai đoạn 2016 - 2020 là 6,5 - 7% sẽ khó đạt được).
- Nguyên nhân sâu xa nằm trong chính mô hình tăng trưởng với các động
lực tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn lao động, tài nguyên. Trong lúc nguồn lực
đầu vào đã tới hạn, dư địa gia tăng, các yếu tố này càng ngày càng bị thu hẹp,
kéo theo những bất ổn kinh tế vĩ mô và chất lượng tăng trưởng chững lại. Chưa
nói đến, tài nguyên đang kiệt dần, hậu quả của biến động môi trường - xã hội
của tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế
và chất lượng cuộc sống. Mô hình tăng trưởng trên tất yếu sẽ làm giảm dần tốc
độ tăng trưởng.
- Một vấn đề được đặt ra là nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới tăng
trưởng thì liệu chúng ta có theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới
không? Vậy làm thế nào để chúng ta vừa chuyển đổi tăng trưởng được cả chiều
rộng, trong đó có cả đổi mới chiều sâu. Mục đích của Đại hội XI của Đảng đã
chính thức hóa chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền
kinh tế, hướng đến mô hình tăng trưởng chất lượng hơn, năng suất cao hơn và
gắn với tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu
cầu đổi mới mô hình tăng trưởng cho giai đoạn 2016 - 2020, trong đó chỉ rõ:
Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều
rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu". Thực hiện yêu cầu quan
trọng này của Đại hội XII, Nghị quyết về "Một số chủ trương, chính sách lớn
nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng,
năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế" được ban hành với mục
đích như vậy.
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG GẮN VỚI CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ
THEO HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG, NĂNG
SUẤT LAO ĐỘNG, SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
1. Những kết quả đạt được
- Bước đầu đã có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều
sâu. Phát triển kinh tế tiếp tục được thúc đẩy theo hướng tăng thu hút đầu tư từ
25
khu vực tư nhân trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng sản suất, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
+ Tỷ lệ dân số có việc làm giai đoạn 2011 - 2015 đạt 58%, cao hơn so với
giai đoạn 2006 - 2010 là 55%.
+ Tốc độ tăng việc làm của khu vực nông thôn cao hơn thành thị, góp
phần vào ổn định xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo đã tiếp tục giảm từ 12,6% năm 2011
xuống còn 7% năm 2015.
+ Một số chỉ số tăng trưởng được cải thiện, đưa nền kinh tế có xu hướng
phát triển theo chiều sâu.
+ Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2011 - 2015 ở mức trung bình
4,3% cao hơn so với 3,4% giai đoạn 2006 – 2010.
+ Đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế được
nâng từ mức -4,5% giai đoạn trước lên 29% trong giai đoạn 2011 - 2015.
+ Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam tăng từ vị trí 65/142 nước
năm 2011 lên 56/140 nước vào năm 2015.
+ Một số doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định được vị trí, tên tuổi trên
thị trường trong nước và quốc tế.
+ Một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn tiếp tục được duy
trì và mở rộng thị trường, giữ được vị trí xuất khẩu đạt thứ hạng cao trên thế
giới như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, cá tra, tôm, dệt may...
- Việc cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là một số lĩnh vực trọng tâm, bước đầu
đã cải thiện chất lượng tăng trưởng, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
+ Cơ cấu lại đầu tư công, với việc ban hành luật đầu tư công, sửa đổi luật
đấu thầu, ưu tiên tập trung vào dự án hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, cấp
bách bước đầu đã cải thiện thể hiện qua chỉ số ICOR giảm dần trong giai đoạn
2011 - 2015 so với giai đoạn 2006 - 2010.
+ Doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu lại với trọng tâm là các tập đoàn
và tổng công ty nhà nước đang được triển khai. Thể chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước tiếp tục được hoàn thiện; nâng cao trách nhiệm kiểm tra, giám sát của
chủ sở hữu; phân định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sỡ hữu cũng
như doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Giai đoạn
2011 - 2015 đã sắp xếp được 558 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được 478
doanh nghiệp, đạt 93% kế hoạch; sắp xếp theo các hình thức khác được 80
doanh nghiệp; thoái vốn đầu tư doanh nghiệp nhà nước khỏi 5 lĩnh vực nhạy
cảm, thu được 10.742 tỉ đồng. Nhờ đó, góp phần ngăn chặn tình trạng đầu tư
ngoài ngành sản xuất kinh doanh chính, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn nhà
nước. Tỷ suất lợi nhuận của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước cao hơn mức
trung bình của hệ thống doanh nghiệp.
+ Cơ cấu lại thị trường tài chính, bước đầu đã triển khai trọng tâm cơ cấu
lại tổ chức tín dụng, giám sát chặt chẽ, sắp xếp lại được các ngân hàng yếu kém,
triển khai xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản của các tổ chức tín
dụng, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm an toàn hệ thống. Thị
trường tài chính đi dần vào ổn định, quy mô tăng, thị trường tiền tệ và trong lĩnh
vực nhân hàng từng bước được tăng cường, góp phần cải thiện môi trường kinh
26
doanh an toàn. Lãi suất cho vay trung bình giảm từ 17,9% năm 2011 xuống còn
9,08% năm 2015.
- Bước đầu triển khai ba đột phá trong chiến lược đã mang lại kết quả tích
cực, tạo điều kiện để tiến hành đổi mới mô hình tăng trưởng.
+ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ
thống luật pháp được tiếp tục hoàn thiện; thủ tục hành chính và môi trường đầu
tư kinh doanh được tập trung cải cách quyết liệt, lấy lại niềm tin cho thị trường
và cộng đồng doanh nghiệp.
+ Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, chất lượng nguồn nhân lực
bước đầu được cải thiện. Lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản
giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 44% năm 2015. Qui mô, mạng lưới cơ sở
giáo dục và đào tạo, một số chỉ số về dạy và học đã được cải thiện so với giai
đoạn trước, tỷ trọng lao động qua đào tạo cũng tăng lên, đáp ứng một phần nhu
cầu về lao động cho các ngành và lĩnh vực.
+ Hệ thống kêt cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển, tập trung
xây dựng và nâng cấp hạ tầng giao thông, thông tin truyền thông, năng lượng, hạ
tầng thủy lợi, đô thị, nông thôn... bước đầu đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho
phát triển hạ tầng bằng nhiều hình thức như BOT, BT, PPP, nhượng bán quyền
thu phí... góp phần đáp ứng nhu cầu vốn trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà
nước gặp nhiều khó khăn. Nâng cấp hạ tầng cơ sở đã góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được một
số thành quả.
+ Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong GDP tăng từ 12,9% năm
2011 lên 13,6% năm 2015. Tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần từ 11,4%
năm 2012 xuống còn 9,6% năm 2015. Tốc độ tăng trưởng của ngành thương mại
tăng lên mức hơn 10% năm 2015. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với
chế biến xuất khẩu; nhiều văn bản, chính sách được ban hành nhằm cơ cấu lại
ngành công nghiệp.
+ Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến, phát triển
theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, ứng dụng
KH-CN và mức độ cơ giới hóa được nâng lên. Khoa học kỷ thuật được quan tâm
cả về nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng; nhiều tiến bộ về kỷ thuật được đưa
vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả nhiều loại
cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp được cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng được triển khai và đạt những kết quả bước đầu; xuất khẩu tăng nhanh cả về
khối lượng và kim ngạch. Duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức khá cao, đạt
bình quân 3,1%/năm, vượt mục tiêu (2,6 - 3%/năm) do Đại hội XI Đảng đề ra.
An ninh lương thực quốc gia được đảm bảo vững chắc.
+ Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn trái phiếu Chính phủ cho
ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn giai đoạn 2011 - 2015 bằng 1,84 lần
giai đoạn 5 năm trước.
+ Mô hình sản xuất hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị trong nông nghiệp
đã xuất hiện ở nhiều địa phương. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ, tạo
27
được chuyển biến tích cực bộ mặt của nông thôn, đặc biệt là hệ thống giao thông
nông thôn đã được cải thiện.
+ Thu nhập đại bộ phận dân cư được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu
người vùng nông thôn đạt khoảng 24,4 triệu đồng/năm. Năm 2015 có 1.566 xã
đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 17,5% tổng số xã trên cả nước.
- Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, chuyển dịch theo hướng phát huy
tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển ngành, sản
phẩm được rà soát điều chỉnh phù hợp hơn theo hướng phát huy lợi thế vùng và
thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, địa phương.
+ Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch 6 vùng KT - XH, 4 vùng kinh tế trọng
điểm. Chính sách tập trung cho 5 khu kinh tế ven biển và 8 khu kinh tế cửa khẩu
trong giai đoạn 2011-2015, bước đầu đã tác động kết nối hạ tầng giao thông đến
các vùng khó khăn hơn, góp phần di chuyển nguồn lực giữa các vùng tạo điều
kiện cho phát triển KT - XH ở các địa phương.
+ Các vùng kinh tế trọng điểm được tập trung đầu tư nguồn lực đạt tăng
trưởng kinh tế cao hơn mức trung bình của cả nước, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng của cả nước, nhất là từ hai vùng kinh tế phía Bắc và phía Nam.
- Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch, chất lượng nguồn nhân lực được cải
thiện và đội ngũ doanh nhân đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã
hội.
+ Lao động làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản giảm từ 49,5%
năm 2010 xuống còn 44% năm 2015.
+ Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần
thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao
giá trị gia tăng của nền kinh tế.
Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế,
tích cực đóng góp xây dựng Cộng đồng ASEAN, hoàn thiện thị trường trong
nước theo cam kết với WTO, đàm phán ký kết và thực hiện nhiều hiệp định
thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, chất lượng cao như Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) và FTA với Liên minh Châu Âu (EU), những điều này
đã tạo ra những những cú hích quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu và
thu hút FDI tại Việt Nam, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; quy mô của nền
kinh tế được mở rộng.
2. Những hạn chế
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng chậm lại, chất lượng tăng
trưởng thấp. Phương thức phân bổ nguồn lực xã hội chưa có sự thay đổi rõ rệt;
năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp còn thấp. Kinh tế vĩ mô dù
ổn định những chưa vững chắc, bội chi ngân sách lớn, nợ công tăng nhanh, nợ
chính phủ đã vượt trần cho phép, áp lực trả nợ lớn.
- Việc thực hiện 3 đột phá chiến lược chưa đạt mục tiêu. Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm cải thiện, môi trường đầu tư, kinh
doanh còn nhiều trở ngại. Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo
hướng hiện đại còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
28
- Cơ cấu lại nền kinh tế triển khai chậm,thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa gắn kết chặt chẽ giữa tổng thể với các
trọng tâm. Cơ cấu lại đầu tư chưa gắn với cơ cấu lại tài chính ngân sách nhà
nước, bảo đảm an toàn nợ công. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu
gặp nhiều khó khăn, nợ xấu tiềm ẩn trong nền kinh tế còn cao, an toàn hệ thống
còn nhiều bất cập; thiếu cơ chế xử lý dứt điểm, triệt để các tổ chức tín dụng yếu
kém và nợ xấu. Đổi mới, sắp xếp lại và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ vốn được cổ phần hóa thấp, quản trị doanh nghiệp nhà
nước còn nhiều yếu kém.
- Cơ cấu lại nông nghiệp chưa thực sự gắn với xây dựng nông thôn mới;
sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa theo mô hình kinh tế nhỏ lẻ, manh mún,
phân tán; liên kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ còn bất cập; sự tham gia và
đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp còn hạn chế. Cơ cấu lại các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ hiệu quả thấp.
- Cơ chế, chính sách điều phối phát triển vùng chưa đủ mạnh, thiếu tính
liên kết, chưa phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của toàn
vùng, chưa phát huy được vai trò đầu tàu, trở thành trung tâm kết nối cho phát
triển kinh tế vùng.
+ Nền kinh tế chúng ta vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng
trưởng phụ thuộc vào yếu tố vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa
nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng.
+ Nợ xấu giảm dần nhưng vẫn ở mức độ cao, nợ công tăng nhanh, nợ
chính phủ vượt trần, tình trạng đầu tư công dàn trải, thất thoát, lãng phí. Trong
khi nền kinh tế vĩ mô chưa vững chắc và thuận lợi để đổi mới mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất lao động và sức cạnh tranh.
+ Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu
đồng bộ, chưa gắn chặt "tổng thể" với trọng tâm, chưa thực sự gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng. Đóng góp của 3 trọng tâm cơ cấu chưa gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng và chưa có tác động rõ nét đến nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
+ Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
+ Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng còn thiếu
liên kết và phối hợp; kinh tế của các địa phương trong vùng, giữa các vùng với
nhau bị chia cắt và phân tán, bị giới hạn bởi địa giới hành chính, làm giảm, thậm
chí triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của toàn vùng.
+ Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa
tương xứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nhận thức và tầm nhìn của các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và
cộng đồng về đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ, có nơi bị ảnh hưởng
bởi lợi ích cục bộ và tư duy nhiệm kỳ.
- Việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở các cấp, các ngành và địa phương còn thụ
động, chậm trễ.
29
- Đột phá về thể chế, nhất là thể chế thị trường các yếu tố sản xuất để huy
động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển còn bất cập.
- Đổi mới, hoàn thiện thể chế bên trong và hội nhập với bên ngoài chưa
được tiến hành đồng bộ.
- Hội nhập quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao chất lượng,
hiệu quả và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
4. Một số bài học kinh nghiệm
- Đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu là quá trình
thường xuyên, liên tục, phải gắn chặt và song hành với cơ cấu lại tổng thể, đồng
bộ cũng như từng lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế.
- Phải giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, phải có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế phải được tiến hành
trên nền tảng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát
triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Các nguồn lực nhà nước
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị
trường. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của nhà
nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng tối đa tiềm năng
và cơ hội từ hội nhập vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đa dạng hóa quan hệ, đa dạng
hóa thị trường, đa dạng hóa đối tác; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối
tác. Đồng thời phải chú ý khai thác tốt hơn các tiềm năng và cơ hội của thị
trường nội địa; đáp ứng với chất lượng tốt và giá cả hợp lý nhu cầu thị trường
nội địa.
- Bám sát chủ trương, chính sách lớn của Đảng để cụ thể hóa thành hành
động thực tiễn ở tất cả các cấp, các ngành và địa phương; phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội.
III. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
VÀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH LỚN
1. Quan điểm, định hướng đổi mới
- Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng cao chất lượng tăng trưởng,
năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền
vững toàn diện về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Không thúc đẩy tăng trưởng
bằng mọi giá, gây tác động xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng,
an ninh, tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn môi trường sinh thái.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa
nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả
các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc, trí sáng tạo của con người Việt Nam và thành tựu khoa học – công nghệ của
nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả
nước.
30
- Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện ba đột phá
chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô
và các cân đối lớn của nền kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp
dẫn, thuận lợi tạo khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng
dụng khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng
nhân tài. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu lại
đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ thống tín dụng; cơ
cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công; cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu,
có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu phá triển nhanh và bền
vững đất nước trong giai đoạn hiện nay. Các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung
ương đến địa phương phải kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện. Toàn hệ thống chính trị và toàn dân, nhất là đội ngũ trí thức, các doanh
nhân, doanh nghiệp cần chủ động, sáng tạo, tích cực tham gia và có nhiều đóng
góp to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
2. Một số mục tiêu cụ thể
- Tiếp tục củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô; kiểm soát lãm phát
bình quân dưới 5%/năm; giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước, đến năm
2020 xuống dưới 4% GĐP, đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP.
- Quy mô nợ công hằng năm giai đoạn 2016-2020 không quá 65% GDP,
nợ chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá
50% GDP. Đến năm 2030, nợ công không quá 60% GDP, nợ chính phủ không
quá 45% GDP.
- Giai đoạn 2016 – 2020, hằng năm có khoảng 30 – 35% doanh nghiệp có
hoạt động đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hằng năm
cao hơn 5,5%; tốc độ tăng năng suất nội ngành đóng góp hơn 60% vào tăng
năng suất lao động năm 2020.
- Đến năm 2020, tỷ trọng lao động có chứng chỉ đào tạo tăng lên khoảng
25%; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 40%.
- Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2016 – 2020 khoảng 30 – 35%; thu hẹp khoảng cách năng lực
cạnh tranh quốc gia với các nước ASEAN 4.
3. Một số chủ trương, chính sách lớn
3.1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô
Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát
tốt lãm phát; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; cơ cấu lại thu, chi ngân
sách nhà nước và nợ công theo hướng bảo đảm an toàn, bền vững; xử lý có hiệu
quả nợ xấu của nền kinh tế gắn với cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng, nhất là
các tổ chức tín dụng yếu kém.
3.2. Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
+ Hoàn thiện thể chế về cổ phần hóa, định giá doanh nghiệp nhà nước; thể
chế về tài sản và quyền về tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
31
định đoạt và hưởng lợi từ tài sản); thể chế về thị trường các yếu tố sản xuất, bảo
đảm để thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả
nguồn lực; thực hiện phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường vào những
ngành, lĩnh vực và vùng có hiệu quả cao, có tác động lan tỏa. Khắc phục tư
tưởng bao cấp, xin – cho, ỷ lại của các cấp, ngành, địa phương và trong xã hội.
+ Phát triển thị trường tài chính một các cân bằng hơn giữa thị trường tiền
tệ và thị trường vốn; giữa thị trường vốn cổ phiếu và trái phiếu; giữa trái phiếu
chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân
hàng phi tín dụng; quan tâm phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và tín
dụng tiêu dùng.
+ Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp
với thông lệ quốc tế, trong đó ưu tiên đổi mới cách thức thẩm định, đánh giá và
lựa chọn dự án đầu tư theo mức độ hiệu quả kinh tế dự tính của dự án. Có chính
sách thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính, cải thiện chất lượng môi
trường kinh doanh, tạo niềm tin để doanh nghiệp, người dân, kiều bào ta ở nước
ngoài đầu tư vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.
+ Khuyến khích và tạo thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo,
phát triển doanh nghiệp. Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài; tăng
cường kết nối và phát huy tác động lan tỏa với các khu vực kinh tế trong nước.
+ Hoàn thiện luật pháp liên quan về đất đai để khuyến khích và tạo điều
kiện tích tụ đất nông nghiệp; phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao
gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp.
+ Tiếp tục hoàn thiện luật pháp về lao động và thị trường lao động; tạo
thuận lợi cho việc dịch chuyển lao động ở trong nước.
+ Hoàn thiện chính sách, luật pháp, nâng cao năng lực thực thi pháp luật
về môi trường; khắc phục cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt quan
tâm các khu vực trọng điểm; giám sát các vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới; ứng
phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
+ Nghiên cứu, xây dựng thể chế vượt trội cho những địa phương, vùng
kinh tế động, khu hành chính - kinh tế đặc biệt để thực hiện tốt vai trò đầu tàu,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục phát phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện
đại. Đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối công tác công – tư,
bảo đảm tính công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư đối với từng dự án. Tập trung vốn đầu tư công và các nguồn vốn
đầu tư khác để thực hiện một số dự án đầu tư hạ tầng trọng điểm và tại các vùng
kinh tế trọng điểm của đất nước. Sớm triển khai xây dựng một số khu hành
chính – kinh tế đặc biệt; ưu tiên phát triển một số đô thị thông minh.
- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển và hội nhập của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện tốt cơ
chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học – công
nghệ; coi trọng đào tạo đại học và trên đại học, cao đẳng và dạy nghề theo chuẩn
32
khu vực và quốc tế. Tạo chuyển biến nhanh và rõ nét trong phát triển nguồn lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các nghành, lĩnh vực có tiềm năng,
lợi thế; nâng cao cao năng lực trình độ quản lý nhà nước và quản trị doanh
nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hóa, giao quyền tự chủ cho các trường đại học, cao
đẳng và dạy nghề công lập; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo
nghề.
3.3. Ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học – công nghệ, nhất là khoa
học – công nghệ hiện đại, coi đây là một yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế
- Nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, phát
triển và chuyển giao khoa học – công nghệ. Thực hiện cơ chế đối ứng hợp tác
công – tư để doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các dự án đổi mới công nghệ,
sáng tạo, nghiên cứu và phát triển.
- Tiếp tục phát triển mạnh các khu công nghiệp, khu công nghệ cao; thúc
đẩy khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo. Xây dựng và thực hiện chính sách nhập
khẩu công nghệ.
- Xây dựng, vận hành có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu và thực hành tốt
nhất về năng suất lao động để theo dõi tình hình thực hiện và phân tích, đánh
giá, dự báo
3.4. Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành; lĩnh vực kinh tế trên phạm
vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình
cụ thể; gắn kết chặ chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các
nghành, lĩnh vực trọng tâm
- Về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước:
+ Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập
đoàn, tổng công ty nhà nước. Xác định cụ thể phạm vi, nghành nghề đầu tư, sản
xuất kinh doanh; đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cơ cấu lại danh mục vốn đầu tư nhà
nước trong các nghành, nghề theo quy định.
+ Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư của Nhà nước một
cách công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường; tăng cường kiểm tra, thanh
tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước; có cơ
chế kiểm soát phù hợp nguồn vốn mua bán, sát nhập doanh nghiệp; các doanh
nghiệp cổ phần hoá phải niêm yết trong thời hạn một năm kể từ ngày phát hành
cổ phiếu lần đầu; thu hút nhà đầu tư chiến lược có năng lực, giảm tỷ lệ sở hữu
nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị doanh nghiệp một cách thực chất.
+ Xây dựng Đề án thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở
hữu đối với doanh nghiệp nhà nước trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định; sớm
xoá bỏ chức năng đại diện sở hữu của các bộ, uỷ ban nhân dân đối với vốn, tài
sản nhà nước tại các doanh nghiệp, đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước theo
nguyên tác thị trường và phụ hợp với thông lệ quốc tế.
+ Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát chặ chẽ; kiên quyết xử
lý các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, các dự đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; xem
33
xét, thực hiện biện pháp phá sản doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp
luật.
+ Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ việc vay nợ và sử dụng vốn vay
của các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhất là vay nợ nước
ngoài; hạn chế tối đa cấp bảo lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới.
- Về cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng:
+ Tiếp tục lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị
của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ
quốc tế. Từng bước xử lý và xoá bỏ tình trạng đầu tư chéo trong các tổ chức tín
dụng có liên quan; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương
mại.
+ Ban hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín
dụng; giao thẩm quyền và nâng cao năng lực của Công ty Quản lý tài sản các tổ
chức tín dụng (VAMC) trong mua bán nợ theo giá thị trường gắn với xử lý tài
sản thế chấp, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ nợ, đồng thời bố trí
nguồn lực phù hợp để xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu trong nền kinh tế.
+ Tăng cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín
dụng. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; xử lý căn bản triệt để nợ xấu và
các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường
trên nguyên tác thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững ổn
định, an toàn hệ thống.
- Tiếp rà soát, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh
tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu tư của các ngành kinh tế. Thực hiện cơ
cấu lại đầu tư công gắn với cơ cấu lại tài chính, ngân sách nhà nước và nợ công;
thực hiện tốt kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung
hạn và kế hoạch vay, trả nợ công.
+ Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát đối với đầu tư
công. Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tham
nhũng, thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tập trung tháo gỡ vấn đề chi
ngân sách, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài. Xác định rõ trách nhiệm trực
tiếp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với hiệu quả kinh tế của các dự án
đầu tư.
- Đổi mới, cơ cấu lại khu vục sự nghiệp công lập:
+ Tiếp tục thực hiện giao quyền tự chủ đầy đủ về tài chính, tổ chức, biên
chế và hoạt động cho các đơn vị sự nghiệp công lập; tính đúng, tính đủ chi phí
hợp lý, điều chỉnh giá các loại dịch vụ công theo cơ chế thị trường; chuyển từ cơ
chế cấp phát sang đặt hàng, từ hỗ trợ cho các đơn vị cung cấp sang hỗ trợ trực
tiếp cho các đối tượng thụ hưởng, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các đơn vị sự
nghiệp công lập. Khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham
gia phát triển, cung cấp dịch vụ công; phát triển thị trường dịch vụ công có sự
quản lý, điều tiết phù hợp Nhà nước.
+ Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện hạch toán
như doanh nghiệp đối với các đơn vị sự nhiệp công lập có đủ điều kiện, cổ phần
hoá các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện, trừ các bệnh viện, trường
học; giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động kém hiệu quả; không để
34
cổ phần hoá thành tư nhân hoá và xã hội hoá thành thương mại hoá dịch vụ
công.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới:
+ Nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học – công nghệ và các quy
trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng tới nền công nghiệp sạch, công nghệ
cao, thân thiện với môi trường; chuyển mạnh từ sản xuất lấy số lượng làm mục
tiêu sang sản xuất nâng cao chất lượng, hiệu quả, có giá trị gia tăng cao, phù hợp
với điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng để lựa chọn phát triển các sản
phẩm phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương, từng vùng và cả nước.
+ Tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp;
nhân rộng các mô hình tổ chức sản xuất mới, hiệu quả đã được kiểm chứng; phát
triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản theo
chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ ở cả trong nước và ngoài nước;
chuyển mạnh sản xuất theo hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình sản xuất hợp tác,
liên kết, tập trung, quy mô lớn; có cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút
mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
+ Phát triển mạnh công nghiệp chế biến sâu, chế biến tinh nông, lâm, thuỷ
sản; phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, góp phần tạo việc làm và
chuyển đổi cơ cấu lao động nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của người dân.
+ Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng thương hiệu nông sản Việt
Nam; có chính sách phù hợp để phát triển và tiêu thụ đối với các nhóm sản
phẩm xuất khẩu chủ lực.
+ Tiếp tục đầu tư, phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn
- Cơ cấu lại một cách thực chất các ngành công nghiệp:
+ Xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia,đột phá vào
hướng tăng năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh.
+Tập trung vào những ngành công nghiệp nền tảng có lợi thế cạnh tranh
và ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng nhanh, bền vững
+ Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất linh kiện, thúc đẩy một số
mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mảng sản xuất và chuỗi giá trị, phân
phối toàn cầu.
- Thực hiện cơ cấu lại và phát triển nhanh các ngành dịch vụ, duy trì tốc
độ tăng trưởng các các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP:
+ Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri
thức và công nghệ cao
+ Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển du lịch quốc gia, tạo
chuyển biến mạnh để đến năm 2020 du lịch cơ bản trở thành kinh tế mũi nhọn
của đất nước.
- Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng lẫn chất lượng:
+ Hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, cùng với sự phát triển
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, nâng cao sức cạnh tranh với doanh
nghiệp nước ngoài.
35
+ Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển mạnh khu vực daonh
nghiệp chính thức có đăng ký, giảm dần và thu hẹp quy mô kinh doanh phi
chính thức.
+ Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí đối với doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đổi mới cách thức thực hiện liên kết, phối hợp giữa các địa phương
trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện hiệu quả quá trình đô thị hóa:
+ Hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu lực thực thi các quy hoạch phát
triển kinh tế vùng.
+ Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của chính quyền
địa phương và hình thành thể chế điều phối phát triển kinh tế theo vùng
+ Thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch tổng thể đô thị quốc gia tầm
nhìn đến năm 2050.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh:
+ Chính sách quốc phòng, an ninh phải tạo thuận lợi và hỗ trợ phát triển
kinh tế- xã hội; đồng thời phát triển kinh tế phải góp phần gia tăng tiềm lực quốc
phòng, an ninh. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp quốc
phòng, an ninh tiên tiến, hiện đại. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù đối với
doanh nghiệp quốc phòng, an ninh.
+ Ưu tiên phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, gắn với bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến
khiachs các thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành khai thác, chế biến dầu
khí, cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải
sản. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng
biển, đảo. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người dân định cư lâu dài
trên các đảo.
+ Đổi mới phương thức quản lý nahf nước về kinh tế theo hướng xây
dựng nhà nước quản lý và phục vụ; đồng thời, tăng cường khả năng điều tiết,
giám sát kiểm tra và thanh tra; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật.
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện điện tử hóa
nghiệp vụ quản lý nhà nước và xã hội hóa việc xây dựng các dữ liệu thông tin
quản lý nhà nước.
+ Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền lương; đổi
mới mạnh mẽ qui trình, phương thức tổ chức tuyển dụng, trả lương, đề bạt cán
bộ; tăng cường trách nhiệm giải trình của người đứng đầu đối với cán bộ, công
chức thuộc quyền quản lý và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Tăng cường năng lực các cơ quan chức năng quản lý và giám sát thị
trường. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, liêm chính, thông suốt, hiệu lực,
hiệu quả. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan nhà nước và người
đứng đầu.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các ban đảng trung ương, các ban cán sự đảng đoàn, ca cs tỉnh ủy,
thành ủy, đảng ủy trực thuộc trung ương tổ chức, học tập, quán triệt Nghị quyết;
36
xác định nhiệm vụ, chủ trương, các giải pháp phù hợp, cụ thể thực hiện ngay
trong phạm vi tổ chức, cơ quan, đơn vị, ngành và địa phương.
2. Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo, bổ sung chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp hỗ trợ trợ đổi mới mô hình tăng
trưởng,tăng cường giám sát của Quốc hội, Hội đồng dân tộc về đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
3. Ban cán sự đảng, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực
thuộc Chính phủ, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương:
- Xây dựng kế hoạch hành động với lộ trình và phân công cụ thể trách
nhiệm cho các tổ chức, đơn vị thực hiện phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và điều
kiện cụ thể.
- Tập trung chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách và trọng tâm:
+ Đẩy mạnh cơ cấu lại đầu tư công; khắc phcuj tình trạng đầu tư dàn trải,
tham nhũng, lãng phí
+ Cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công theo hướng bảo đảm
an toàn, bền vững; siết chặt kỉ luật, kỉ cương tài chính, ngân sách nhà nước.
+ Xử lý có hiệu quả các tổ chức tín dụng yếu kemstieeps tục cơ cấu lại
các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu
+ Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước một cách minh bạch,
thực chất, thận tọng theo cơ chế thị trường; xử lý các doanh nghiệp nhà nước
thua lỗ không thể phục hồi.
+ Đẩy mạnh, sắp xếp, cơ cấu lại và giao quyền tự chủ đầy đủ cho các tổ
chức, đơn vị sự nghiệp công lập.
+ Phát huy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; hỗ trợ và phát triển
mạnh mẽ doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng.
+ Tập trung, tích tụ ruộng đất, cơ cấu lại nông ghiệp gắn với xây dựng
nông thôn mới có hiệu quả, phù hợp với thực tế biến đổi khí hậu.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể các cấp xây dựng chương
trình, kế hoạch tham gia và giám sát kết quả thực hiện.
5. Ban tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Thông tấn xã Việt
Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, các cơ quan thông tin,
báo chí tổ chức tuyên truyền sâu rộng và liên tục về Nghị quyết, kết quả thực
hiện, những cách làm sáng tạo, điển hình tốt cũng như phê bình những cá nhân,
tổ chức thụ động hoặc thực hiện không đạt kết quả.
6. Ban kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Văn phòng trung ương
Đảng, các ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc trung ương thường xuyên theo
dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai Nghị quyết; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, ban
Bí thư.
37
CHUYÊN ĐỀ
THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ, GIỮ VỮNG ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI
TRONG BỐI CẢNH NƯỚC TA THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH NGHỊ QUYẾT
- Thời gian quan, Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế và đã tham gia, ký
kết nhiều thỏa thuận kinh tế song phương và đa phương quan trọng.
- Trong thời gian tới, với nhiều cơ hội và thách thức, cần phải có chủ
trương và sự chỉ đạo quyết liệt đối với: Hiệp định thương mại tự do (FTA) với
Liên minh kinh tế Á - Âu (Nga, Bêlarút, Ácmênia Cadắcxtan, Cưgơrưxtan),
Hiệp định FTA với Hàn Quốc, Hiệp định FTA với Liên minh Châu Âu (EU),
Cộng đồng ASEAN 2015, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và
đang đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định
FTA với một số đối tác.
- Việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế kể
từ Nghị quyết số 08-NQ/TW (khóa X) đã đạt đươc nhiều thành tựu song cũng
còn nhiều hạn chế, yếu kém về kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, đồng
thời đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết trong thời gian tới.
- Từ nay đến năm 2018, nước ta phải thực hiện đầy đủ các cam kết còn lại
đối với WTO, đồng thời thực hiện các cam kết trong các thỏa thuận kinh tế,
thương mại mới.
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập mới có thể mang lại những thuận
lợi to lớn để nước ta tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển, góp phần
tăng GDP, xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, nâng
cao trình độ sản xuất; tạo thêm cơ hội tham gia các chuỗi sản xuất, tiêu thụ quốc
tế và khu vực; tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội, tuy
nhiên bên cạnh đó cũng đặt ra những thách thức lớn đối với việc giữ vững ổn
định kinh tế, chính trị - xã hội và thực hiện các mục tiêu phát triển nhanh, bền
vững của đất nước.
Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý
nghiã lịch sử nhưng cũng đứng trước những khó khăn, thách thức lớn hơn. Bối
cảnh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức
tạp, khó lường... Để thực hiện thắng lợi mực tiêu Đại hội XII của Đảng và thực
hiện hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế gắn với giữ vững ổn định kinh tế, chính
trị - xã hội, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết về "Thực
hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới".
II. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA
ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TỪ KHI NƯỚC TA GIA NHẬP
WTO
38
1. Bối cảnh thế giới và trong nước tác động tới quá trình triển khai
chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế từ khi nước ta
gia nhập WTO
- Sau khi nước ta gia nhập WTO, thế giới có nhiều biến động. Khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2010 đã tác động nhiều mặt, sâu sắc và lâu dài
đối với các khu vực và các nước trên thế giới. Nhiều nước đầy mạnh cơ cấu lại
nền kinh tế, phát triển khoa học - công nghệ, tăng cường liên kết kinh tế, làm gia
tăng đáng kể năng lực cạnh tranh. Trong khi vòng đàm phán Đôha của WTO về
tự do hóa thương mại toàn cầu không có nhiều tiến triển thì liên kết kinh tế
thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực lại
phát triển mạnh mẽ.
- Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng bất ổn xảy ra
nhiều nơi, đặc biệt là Trung Đông, Bắc Phi. Các vấn đề an ninh phi truyền thống
như: an ninh mạng, chủ nghĩa khủng bố, khủng hoảng di dân... đe dọa sự ổn
định của nhiều nước. Các thách thức toàn cầu như: biến đổi khí hậu, an ninh
lương thực, nguồn nước, năng lượng, thiên tai, dịch bệnh... ngày càng gay gắt,
thúc đẩy các nước phải tăng cường hợp tác xử lý và thực hiện các mô hình phát
triển bền vững.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động với nhiều cơ
chế hợp tác, liên kết mới tiếp tục định hình. Đây cũng là khu vực nổi lên nhiều
vấn đề phức tạp về tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, cạnh tranh địa chiến lược giữa
các nước lớn. ASEAN tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm, dẫn dắt các vấn đề
an ninh khu vực, quan hệ các nước lớn; song vấn đề hòa bình, ổn định ở Biển
Đông và cạnh tranh của các nước lớn ở khu vực ngày càng thách thức sự đoàn
kết và vai trò trung tâm của Hiệp hội.
- Năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình thấp. Sau khi gia nhập WTO, cùng với tác động không thuận của
khủng hoảng tài chính và trì trệ kinh tế toàn cầu, những mặt trái của chính sách
kích cầu, những yếu kém nội tại của nền kinh tế ngày càng bộc lộ nặng nề hơn,
lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ
tăng trưởng, sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân. Trong khi đó, biến
đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại lớn; nhiệm vụ bảo đảm an ninh xã
hội, tăng cường QP-AN đặt ra yêu cầu ngày càng cao.
2. Kết quả triển khai đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Thành tựu
- Hội nhập kinh tế quốc tế đa trở thành một trong những động lực quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc
đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng
thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công
nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm
nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế từ Trung ương
đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý
nhà nước được củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đội ngũ doanh nhân
Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.
39
- Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và
đưa quan hệ của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích,
góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội; quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt
Nam, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Thứ nhất, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, sức mạnh tổng hợp
quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế từ sau khi gia nhập WTO đến nay đã giúp mở
rộng đáng kể thị trường quốc tế, tranh thủ khối lượng lớn đầu tư, tri thức, công
nghệ tiên tiến và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế và tạo việc làm.
Việc thực hiện các cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực
thúc đẩy doanh nghiệp trong nước đổi mới quản trị, công nghệ và phương thức
kinh doanh, tiếp cận vốn, tri thức để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đã hình
thành một số ngành chế biến, hàng hóa và dịch vụ có khả năng cạnh tranh (dệt
may, thủy sản, sữa, hồ tiêu, điều, sản phẩm gỗ, viễn thông, hàng không...). Sau
khi gia nhập WTO, cơ cấu xuất khẩu chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng một số
hàng sử dụng nhiều vốn và công nghệ (điện tử, điện thoại, máy tính...). Một số
ngành hàng bị tác động mạnh khi gia nhập WTO đã dần cải thiện được sức cạnh
tranh, đứng vững ở thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu (thép, phân bón,
xi măng, vật liệu xây dựng, lắp ráp xe máy...)
Thứ hai, góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện đột phá chiến lược về đổi mới thể chế kinh tế, nhiều luật liên
quan đến hội nhập kinh tế quốc tế được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Quy
định pháp luật trong các lĩnh vực quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quản lý
thương mại, đầu tư, ngân sách, thuế, dân sự... từng bước hoàn thiện theo định
hướng thị trường, phù hợp với nguyên tắc, quy định của WTO và thông lệ quốc
tế. Đến nay, đã hình thành hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, ngày càng minh
bạch, tương thích và đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết WTO.
Thứ ba, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia.
Thông qua đẩy mạnh hội nhập quốc tế đã tạo lập và củng cố cục diện
quan hệ đa phương hóa, đa dạng hóa và mở rộng, tranh thủ sự ủng hộ của quốc
tế cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Việc tăng cường hợp tác
nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, nhiều kênh và thúc đẩy các quan hệ đi vào chiều sâu
và ổn định đã góp phần gia tăng đan xen lợi ích với các đối tác, nhất là các đối
tác chiến lược, đối tác toàn diện, góp phần quan trọng củng cố môi trường hòa
bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Hội nhập quốc tế đã góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông
qua thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, chủ động tham gia các thỏa thuận
thương mại mới, tích cực đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề chung của
khu vực và thế giới cũng như tham gia xây dựng, định hình "luật chơi chung" tại
40
các diễn đàn đa phương, nhất là Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, Tiểu
vùng Mê Kông...
Thứ tư, góp phần tích cực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường.
Thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thương mại, hợp tác lao
động, thu hút đầu tư, du lịch, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tạo nhiều việc
làm, cải thiện thu nhập và nâng cao đời sống cho người lao động.
Bên cạnh đó, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc được coi trọng. Di tích lịch sử, văn hoá được giữ gìn, phát triển; nhiều di
sản được UNESCO công nhận, tạo động lực thúc đẩy bảo vệ và phát huy giá trị
và mở ra cơ hội khai thác du lịch, thương mại và đầu tư. Hợp tác văn hóa, giáo
dục - đào tạo.. đạt được nhiều thành tựu. Cơ bản thực hiện đầy đủ các cam
kết WTO trong lĩnh vực dịch vụ môi trường. Ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi
trường được nâng lên; xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường được triển khai tích
cực.
2.2. Hạn chế, yếu kém
- Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
hội nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và
thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận
phiến diện, ngắn hạn và cục bộ, do đó chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng
phó hữu hiệu với các thách thức.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước,
nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn chặt chẽ với quá
trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an
ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội
nhập trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến
lược lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với
những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn
bị động, lúng túng.
Những hạn chế, yếu kém trên thể hiện ở một số nội dung cụ thể sau
đây:
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết và
chưa phù hợp với tiến tình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chưa có sự đồng bộ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với bên ngoài và đổi
mới ở bên trong; hiệu quả thực thi pháp luật còn thấp.
- Thiếu các giải pháp hiệu quả để hạn chế tác động không thuận của hội
nhập, nhất là trong các lĩnh vực lao động, văn hóa, xã hội, môi trường.
- Chủ trương kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc
phòng, an ninh chưa được triển khai đồng bộ; chưa lường trước và ngăn chặn
hiệu quả tác động từ bên ngoài sau khi gia nhập WTO.
41
Các hạn chế, yếu kém nói trên cùng với việc chậm khắc phục các yếu kém
nội tại của nền kinh tế dẫn đến nhiều hệ quả về phát triển kinh tế - xã hội trong
gần 10 năm qua, cụ thể là:
Một là, tăng trưởng kinh tế sau khi gia nhập WTO về cơ bản chưa đạt
được mục tiêu "kinh tế phát triển nhanh và bền vững".
Kinh tế tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững:
-> Ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, nhập siêu lớn liên tục trọng
nhiều năm sau khi gia nhập WTO; mất cân đối tiết kiệm - đầu tư, thu - chi ngân
sách, nợ công tăng nhanh...
-> Hiệu quả, chất lượng tăng trưởng kinh tế chậm cải thiện, trình độ nhân
lực và công nghệ chưa được nâng cao; thách thức lún sâu vào gia công - lắp ráp,
khai thác lao động rẻ ngày càng bộc lộ rõ.
-> Vấn đề môi trường tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp FDI lớn
chưa được xử lý có hiệu quả, tiềm ẩn rủi ro trở thành "bãi thải" công nghiệp.
-> Tỷ trọng xuất khẩu, đầu tư của khu vực kinh tế trong nước tăng chậm
và thấp hơn so với khu vực FDI và WTO; nhập siêu ngày càng lớn đối với một
số thị trường.
Hai là, chưa tranh thủ hiệu quả cơ hội, tác động tích cực của hội nhập
quốc tế để nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-> Nền kinh tế cơ bản vẫn phát triển theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào
tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên, gia công-lắp ráp. Chưa tranh thủ tốt cơ hội
để huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
-> Năng suất, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và chất
lượng sản phẩm của Việt Nam chậm được cải thiện. Hệ thống kết cầu hạ tầng,
nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ còn nhiều bất cập.
-> Chưa phát triển được nhiều sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao;
hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng gia công, giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nhiều
vào linh kiện, nguyên liệu nhập khẩu.
Ba là, các thành quả của hội nhập kinh tế quốc tế chưa được lan tỏa đồng
đều.
-> Có vùng miền, địa phương thu được lợi ích thừ hội nhập kinh tế quốc
tế, một số vùng miền, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp nhiều khó khăn,
làm gia tăng chênh lệch vùng miền.
-> Các nhóm xã hội yếu thế, nhất là nông dân, lao động giản đơn, dân tộc
thiểu số gặp nhiều bất lợi, có xu hướng tụt hậu khi hội nhập kinh tế quốc tế sây
rộng hơn, khiến phân hóa giàu - nghèo thêm sâu sắc.
Bốn là, nhiều vấn đề xã hội nảy sinh từ hội nhập kinh tế quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường ngày càng phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
-> Đời sống của đa số người lao động chậm cải thiện, còn nhiều khó khăn,
nhất là nông dân, công nhân ở các khu công nghiệp.
-> Phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế và yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế; còn tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống, du nhập văn
42
hóa ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục của một bộ phận người dân, nhất là
giới trẻ có chiều hướng gia tăng.
-> Các vi phạm quy định về môi trường ngày càng nhiều ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe cộng đồng và trật tự an toàn xã hội.
3. Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân của thành công
- Sự đổi mới tư duy của Đảng về lợi ích quốc gia - dân tộc và phương
cách bảo đảm tối ưu lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, thay
đổi cục diện khu vực và thế giới. Đảng ta đã nhận thức đúng tính tất yếu của xu
thế hội nhập, xác định hội nhập kinh tế quốc tế là định hướng chiến lược lớn để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ đó có quan điểm chỉ đạo đúng đắn, kịp thời
nhằm nâng cao hiệu và đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Quá trình thể chế hóa các quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc
tế thành chính sách, chiến lược, kế hoạch được thực hiện khá đồng bộ và kịp
thời, nhất là những vấn đề liên quan đên lựa chọn và đàm phán ký kết các thỏa
thuận kinh tế, thương mại quốc tế.
- Nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai đường
lối, chính sách đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế và quan trọng nhất là sự
chủ động, tích cực của các doanh nghiệp, của người dân trong việc tranh thủ các
cơ hội từ cải cách và mở cửa, hội nhập.
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
- Nguyên nhân khách quan:
+ Những thay đổi nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới.
+ Sau khi trở thành thành viên WTO năm 2007, kinh tế thế giới rơi vào
khủng hoảng tài chính 2008 - 2009 và phục hồi chậm kéo dài; khủng hoảng nợ
công Châu Âu 2010 - 2011; khủng hoảng giá lương thực năm 2009; kinh tế của
nhiều đối tác lớn của Việt Nam gặp khó khăn...
+ Tại thời điểm gia nhập và những năm đầu là thành viên WTO, chúng ta
còn thiếu kinh nghiệm, chưa lường trước được để ngăn chặn hiệu quả các tác
động bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc
gia - dân tộc của Đảng chưa được quán triệt sâu rộng và tuân thủ nghiêm túc,
triệt để.
+ Chưa nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế
quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Có biểu hiện nhận thức đơn giản, chủ quan,
mất cảnh giác; chỉ thấy cái "được" mà ít cân nhắc đầy đủ đến cái "mất", hoặc chỉ
thấy cái "mất" trước mắt nhiều hơn cái "được" căn bản về lâu dài.
+ Triển khai chính sách, chiến lược, kế hoạch liên quan đến hội nhập chưa
đồng bộ, chưa thúc đẩy được sự tham gia đông đảo của các tổ chức, doanh
nghiệp và người dân. Chưa thực hiện đúng quan điểm của Đảng về yêu cầu gia
tăng nội lực, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, liên kết giữa
các vùng, miền và thu hẹp khoảng cánh giàu - nghèo, khoảng cách phát triển,
bảo vệ nền văn hóa và môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, công tác dự báo tình
43
hình, sự phối hợp của các bộ, ban, ngành còn bất cập dẫn tới việc hoạch định
chính sách hoặc triển khai các giải pháp chưa thật kịp thời, hiệu quả.
+ Quá trình đổi mới ở bên trong và tiến trình hội nhập với bên ngoài chưa
được tiến hành một cách đồng bộ, nhất là trong bối cảnh nước ta chịu tác động
tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới.
+ Năng lực của cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn hạn
chế; chưa tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tiên tiến cũng như chưa tự giác
nâng cao trình độ quản lý, chưa phấn đấu đạt chuẩn quốc tế để thích ứng với môi
trường hội nhập, chưa chủ động và tích cực tìm hiểu các cam kết hội nhập, học
hỏi các quy tắc và luật lệ trong hợp tác quốc tế. Chậm đổi mới tư duy, phương
thức quản lý, thiếu tinh thần nâng cao năng lực để vươn lên trong hội nhập kinh
tế quốc tế. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, chế độ trách nhiệm, nhất là người
đứng đầu chưa rõ.
4. Một số bài học kinh nghiệm
- Kịp thời đổi mới tư duy và nhận thức, linh hoạt nắm bắt thời cơ, nỗ lực
triển khai chiến lược phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh khu
vực và quốc tế có nhiều biến động, nhất là kinh tế thế giới phục hồi chậm.
- Kiên định mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế là vì lợi ích quốc gia - dân
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng
có lợi. Quán triệt quan điểm "đối tác, đối tượng" trong quan hệ với từng nước,
từng nền kinh tế và trên từng lĩnh vực.
- Lựa chọn trọng tâm và lộ trình hội nhập phù hợp với xu thế chung và
điều kiện của đất nước. Xử lý tốt mối quan hệ giữa đốc lập, tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế, giữa đổi mới bên trong và hội nhập với bên ngoài nhằm phát
huy tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó nội lực là yếu tố quyết
định.
- Phát huy sự tham gia đông đảo của mọi người dân, nhất là doanh nhân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước là nhân tố có ý nghĩa
quyết định thành công của hội nhập kinh tế quốc tế.
III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG 5- 10 NĂM TỚI
1. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước
- Tình hình khu vực và thế giới: Thế giới trong 5 - 10 năm tới dự báo tiếp
tục có những chuyển biến quan trọng, trong đó nổi lên những đặc điểm lớn sau
đây:
Một là, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin. Trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học thúc đẩy thế giới bước vào
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là cơ hội lớn cho sự phát triển vượt bậc
về lực lượng sản xuất thế giới. Nếu biết tranh thủ cách mạng công nghiệp lần
này ngay từ giai đoạn khởi phát, các nước đang phát triển sẽ có cơ hội rút ngắn
khoảng cách phát triển, song ngược lại sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn.
Hai là, kinh tế thế giới tiếp tục chiều hướng phục hồi, song tốc độ tăng
trưởng dự báo chậm hơn giai đoạn trước. Các nước tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tranh thủ cơ hội về khoa học -
công nghệ tiên tiến gắn với tăng trưởng xanh và nỗ lực thực hiện các mục tiêu
44
phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 nhằm thúc đẩy thay đổi
căn bản phương thức sản xuất kinh doanh, việc làm. Thực tế này đặt ra cho các
quốc gia, nhất là các nước đang phát triển yêu cầu mới.
Ba là, hòa bình, hợp tác, liên kết để phát triển tiếp tục là xu thế lớn,
nhưng xung đột, bất ổn chính trị, xã hội tiếp tục diễn ra ở nhiều nước, khu vực;
các vấn đề sắc tộc, tôn giáo; các thách thức an ninh phi truyền thống như biến
đổi khí hậu, an ninh tài chính, an ninh mạng, di cư bất hợp pháp... có chiều
hướng gia tăng cùng với một số biểu hiện mới của chủ nghĩa dân túy, xu hướng
ly tâm, co cụm (như Anh rời Liên minh Châu Âu, Thụy Sỹ rút đơn xin gia nhập
khối này) và chủ nghĩa dân tộc cực đoan trỗi dậy ở một số nơi có thể làm gián
đoạn tiến trình hợp tác, liên kết và thách thức xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, quá trình thế giới chuyển sang cục diện đa cực dự kiến sẽ còn
nhiều phức tạp và khó lường. Hợp tác và cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn ngày càng quyết liệt và phức tạp hơn. Các nước lớn vẫn giữ vai trò chủ đạo,
chi phối quan hệ quốc tế, song xu hướng dân chủ hóa quan hệ quốc tế vẫn tiếp
tục phát triển, tập hợp lực lượng diễn ra linh hoạt hơn. Các nước vừa và nhỏ một
mặt chủ động tham gia hội nhập, liên kết, mặt khác không ngừng đấu tranh cho
một trật tự thế giới mới công bằng hơn, dựa trên sự tôn trọng luật pháp quốc tế.
Năm là, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ngày càng khẳng định vị trí
và vai trò là một trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng, đầu tàu thúc đẩy toàn
cầu hóa, khu vực hóa của thế giới. Nổi bật là khu vực tiếp tục đi đầu thúc đẩy xu
thế liên kết, hội nhập, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với sự phát triển mạnh mẽ
của các thỏa thuận kinh tế - thương mại thế hệ mới như Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP),
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và khả năng hình thành Khu vực thương mại
tự do Châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP).
Trong 5-10 năm tới, dự báo Mỹ và Trung Quốc tiếp tục tăng cường hợp
tác, song cạnh tranh chiến lược sẽ gay gắt hơn trong quá trình xác lập mối quan
hệ "đối tác kiểu mới". Hai thách thức lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương
trong thời gian tới là:
(1) Lòng tin chính trị giữa các nước bị thách thức nghiêm trọng bởi tranh
chấp lãnh thổ, biển, đảo và sự cạnh tranh giữa các nước lớn.
(2) Căng thẳng thường xuyên và nguy cơ xung đột cục bộ có thể gia tăng
do chủ nghĩa dân tộc, bá quyền nước lớn, trong khi những cơ chế hợp tác chính
trị - an ninh và các biện pháp ngoại giao phòng ngừa ở khu vực chưa đủ mạnh.
- Tình hình trong nước:
+ Sau 30 năm đổi mới, thế, lực và uy tín quốc tế của đất nước ta được
nâng lên đáng kể, tạo tiền đề vật chất và tinh thần quan trọng để tiếp tục đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, gữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hội nhập sâu hơn, hiệu quả hơn vào đời
sống chính trị, kinh tế - xã hội quốc tế, bước lên những thang bậc cao hơn trong
kinh tế toàn cầu.
+ Tuy nhiên, giai đoạn 5 - 10 năm tới, chúng ta vừa phải khắc phục những
hạn chế, khó khăn nội tại của nền kinh tế, vừa phải cơ cấu lại nền kinh tế và
chuyển đổi mô hình tăng trưởng; đây cũng là giai đoạn nước ta bước vào thực
45
thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhất là các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới với nhiều khó khăn, thử thách hơn giai đoạn trước. Đồng
thời nước ta phải dành nhiều nguồn lực hơn cho củng cố quốc phòng, giữ vững
an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền và ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu,
bảo đảm an sinh xã hội...
2. Cơ hội và thách thức từ việc triển khai các hiệp định thương mại tự
do thế hệ mới
2.1. Cơ hội
Một là, việc thực hiện các FTA thế hệ mới sẽ tạo cơ hội, động lực mới để
thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực, sức cạnh tranh quốc gia. Dự
kiến khi toàn bộ 16 FTA nước ta tham gia đi vào thực thi, Việt Nam sẽ nằm
trong mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 59 đối tác, trong đó có 5 nước
thành viên thường trực Hội đồng Bảo an liên hợp quốc, 15/20 nước thuộc Nhóm
G20 và nhiều nền kinh tế mới nổi khác.
- Về tăng trưởng kinh tế, theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB),
nếu các điều kiện đều thuận lợi, riêng Hiệp định TPP khi đi vào thực hiện sẽ
giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 8% (so với kịch bản không có Hiệp định
TPP) vào năm 2035; Hiệp định FTA Việt Nam - EU giúp kinh tế Việt Nam tăng
thêm 0,5% GDP, xuất khẩu tăng từ 4 - 6%/năm và tăng thêm 16 tỷ USD vào
năm 2020... Nhiều tổ chức nghiên cứu quốc tế cũng đánh giá Việt Nam là một
trọng những nước có cơ hội hưởng nhiều lợi ích kinh tế từ các FTA thế hệ mới.
- Cơ hội tăng mạnh xuất khẩu nhờ hưởng lợi đáng kể từ cắt giảm thuế
quan và hàng rào phi thuế quan. Tham gia các FTA thế hệ mới, trong trung hạn,
nhiều hàng hóa của Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hàng hóa của các
nước khác tại thị trường của các đối tác ký kết FTA với Việt Nam (như Mỹ, EU,
Nhật Bản, Canađa...) nhờ thuế suất thuế nhập khẩu giảm xuống 0%. Dự báo các
mặt hàng như: giày dép, dệt may, nông - thủy sản, đồ gỗ sẽ có kim ngạch xuất
khẩu tăng mạnh sau khi các FTA thế hệ mới đi vào thực hiện.
- Mở rộng và đa dạng hóa thị trường, đối tác, thúc đẩy quá trình cơ cấu lại
thị trường xuất nhập khẩu góp phần tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế.
- Tạo thêm cơ hội thuận lợi để tiếp cận, lựa chọn nguồn vốn đầu tư chất
lượng cao từ các trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới với cam kết lâu dài, gắn với
công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến với những tác động lan tỏa đáng kể để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Cơ hội tăng cường nội lực và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm:
+ Việc thực hiện các cam kết về đầu tư của các thỏa thuận kinh tế, thương
mại mới sẽ thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng cởi mở
và minh bạch, nhờ đó sẽ giải phóng các tiềm năng, sức sản xuất trong nước.
+ Các quy định về quy tắc ứng xử trong các thỏa thuận kinh tế, thương
mại mới sẽ thúc đẩy sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tăng cường kết nối các
doanh nghiệp trong nước cũng như hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp nước ngoài.
46
+ Cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ giảm chi phí đầu
vào, đơn giản hóa và hài hòa hóa quy trình, tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục hải
quan, thuận lợi hóa thương mại...
Hai là, góp phần thúc đẩy đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập quốc tế
nói chung và việc triển khai các FTA thế hệ mới nói riêng sẽ tạo cơ hội tiếp cận
tư duy, công nghệ và phương thức quản lý mới của thế giới, tạo động lực nâng
cao năng lực quản trị quốc gia, góp phần đẩy mạnh hơn quá trình xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ, hiện
đại, tương thích với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Ba là, có thêm thuận lợi mới để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, củng cố an ninh, quốc phòng và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Bốn là, hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm sẽ
góp phần tích cực nâng cao đời sống nhân dân, nhờ đó tăng cường lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, củng cố sự thống nhất, đồng thuận và ổn định
chính trị - xã hội.
2.2. Thách thức
Thứ nhất, thách thức lớn và trực diện nhất là sức ép cạnh tranh sẽ gay gắt
hơn trên cả ba cấp độ (quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm) do phải thực hiện
những cam kết sâu rộng, tiêu chuẩn cao chưa từng có với thời gian chuyển đổi
ngắn hơn so với WTO; khả năng tranh thủ các ưu đãi thuế quan tại thị trường
của các đối tác FTA thế hệ mới cũng gặp những thách thức không nhỏ. Bên
cạnh đó, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
các hàng hóa, công đoạn sản xuất sử dụng lao động giản đơn và giá trị gia tăng
thấp mà hiện là các lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (gia công, lắp ráp,
dệt may...) sẽ giảm dần lợi thế. Một số nước đẩy mạnh di chuyển các công đoạn
sản xuất sử dụng nhiều lao động giản đơn, ít than thiện với môi trường ra nước
ngoài...
Thứ hai, việc triển khai cộng đồng kinh tế ASEAN theo hướng hình thành
một thị trường - một công xưởng chung và đặc biệt là thực thi các cam kết có
tiêu chuẩn cao trong các FTA thế hệ mới đặt ra các thách thức rất lớn đối với
nước ta về đổi mới, cải cách thể chế, pháp luật.
Thứ ba, thách thức trong xử lý mối quan hệ giữa đẩy mạnh hội nhập kinh
tế quốc tế với giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng, giữ gìn
bản sắc văn hóa và bảo vệ môi trường đang đặt ra những vấn đề mới, cấp bách.
Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn có thể làm gia tăng nguy cơ nước ta dễ bị
tác động cả về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh trước các cú sốc biến động từ
bên ngoài, nhất là tác động khủng hoảng kinh tế - tài chính, an ninh mạng, chủ
nghĩa khủng bố, xung đột, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo.
Về văn hóa, trong bối cảnh "sức đề kháng" về văn hóa của nước ta còn
nhiều hạn chế, nếu không có chiến lược phát triển văn hóa phù hợp, việc mở
rộng giao lưu quốc tế có thể thúc đẩy sự xâm nhập mạnh hơn của văn hóa độc
hại, ngoại lai làm xói mòn các giá trị văn hóa truyền thống.
Về xã hội, sự phân bổ không đồng đều thành quả thu được từ hội nhập
kinh tế quốc tế giữa các vùng, miền và các đối tượng dân cư xã hội, nhất là việc
47
đầu tư công nghiệp về nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế, làm gia
tăng phân hóa giàu - nghèo và đặt ra những vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm,
tác động không thuận đến các mặt chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội của đất
nước.
Về môi trường, trong điều kiện tiêu chuẩn môi trường còn thấp và năng
lực giám sát, quản lý môi trường ở nước ta còn yếu, các doanh nghiệp, nhà đầu
tư nước ngoài có thể lợi dụng để di chuyển dây chuyền sản xuất có tiêu chuẩn
công nghệ thấp sang Việt Nam để dành các ưu đãi về thị trường theo cam kết
của nước ta trong các FTA. Nếu không tỉnh táo để có biện pháp bảo vệ môi
trường hiệu quả thì thách thức suy thoái môi trường sẽ ngày càng lớn, ảnh
hưởng đến an ninh môi trường, sức khỏe cộng đồng và trật tự, an toàn xã hội.
3. Cơ hội và thách thức từ việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động
quốc tế của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
3.1. Cơ hội
- Các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động trong các Công ước của
ILO thể hiện các giá trị tiến bộ của nhân loại về quan hệ lao động, phản ánh kết
quả đấu tranh lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong việc
giành các quyền lao động cơ bản, tiến bộ và văn minh. Việc thực hiện các tiêu
chuẩn của ILO, nhất là thực hiện tốt các quyền cơ bản của người lao động bằng
pháp luật và trên thực tế sẽ tăng cường lòng tin của nhân dân lao động vào
Đảng, Nhà nước, là cơ sở để củng cố ổn định chính trị - xã hội.
- Các quan hệ lao động ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang
quan hệ lao động của nền kinh tế thị trường hiện đại. Việc thực hiện các tiêu
chuẩn của ILO sẽ thúc đẩy xây dựng các quan hệ lao động lành mạnh, tiến bộ
trên cơ sở tôn trọng và thực thi các quyền cơ bản của người lao động.
- Việc chủ động thực hiện các tiêu chuẩn của ILO theo kế hoạch, lộ trình
phù hợp sẽ thúc đẩy phát triển, hoàn thiện hệ thống quản lý thị trường lao động
và quan hệ lao động theo hướng phục vụ tốt hơn lợi ích, nhu cầu của người lao
động, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích, nhu cầu của người sử dụng lao
động; tạo động lực mới đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao
động - công đoàn; góp phân thúc đẩy các tổ chức công đoàn trong hệ thống
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đối mới tổ chức, phương thức hoạt động để
thực sự là tổ chức đại diện cho ý chí, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động.
- Thực hiện hiệu quả các tiêu chuẩn lao động của ILO sẽ góp phần đảm
bảo môi trường cạnh tranh công bằng giữa các đối tác trong quan hệ thương mại,
thúc đẩy di chuyển tự do của các thể nhân lao động và tạo thuận lợi để các
doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới cung ứng, chuỗi giá trị của các tập đoàn
lớn.
3.2. Thách thức
- Việc thành lập và hoạt động của các tổ chức đại diện của người lao động
tại các doanh nghiệp (các tổ chức này có quyền tự chủ trong việc bầu ra đại diện
của mình; thông qua điều lệ và nội quy; quản lý tài chính và tài sản; thay mặt
người lao động tiến hành thương lượng tập thể, tổ chức và lãnh đạo đình công
48
cũng như các hành động tập thể liên quan đến quyền lợi kinh tế - xã hội và nghề
nghiệp của người lao động).
- Sau khi đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ
các quy định liên quan, các tổ chức đại diện của người lao động có thể nhận hỗ
trợ từ các tổ chức phi chính phủ (trong và ngoài nước) đăng ký hợp pháp tại Việt
Nam và chỉ hỗ trợ cho các công việc chủ yếu liên quan đến nâng cao nhận thức
về quyền và lợi ích cho người lao động.
Các thách thức lớn nhất bao gồm:
Một là, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức đại diện của người lao
động tại cơ sở sẽ đặt ra thách thức về vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam.
Hai là, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức đại diện của người lao động
tại doanh nghiệp nếu không được kiểm soát chặt chẽ và quản lý hiệu quả sẽ có
thể bị lợi dụng gây bất ổn chính trị - xã hội.
Ba là, với khả năng phát triển nhanh của các tổ chức đại diện của người
lao động tại doanh nghiệp, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam sẽ gặp khó khăn
hơn trong việc thu hút người lao động tham gia tổ chức Công đoàn, dẫn đến khả
năng giảm sút số lượng công đoàn viên. Do đó, thách thức lớn là khi vai trò của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam suy yếu, các tổ chức đại diện của người lao
động tại doanh nghiệp có thể được hình thành theo hướng không có lợi cho phát
triển quan hệ lao động lành mạnh, ổn định, thậm chí có thể trở thành các tổ chức
chính trị đối lập:
- Tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp có thể bị chủ
doanh nghiệp thao túng thông qua hỗ trợ thành lập, dẫn đến vô hiệu hóa tổ chức
đại diện của người lao động, làm mất tính đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người lao động;
- Tổ chức đại diện của người lao động do các tổ chức bên ngoài hậu
thuẫn, thao túng có thể lợi dụng việc bảo vệ quyền lợi của người lao động để tập
hợp lực lượng phục vụ các mục tiêu, ý đồ chính trị.
- Ngay cả khi tổ chức đại diện của người lao động không bị thao túng bởi
chủ doanh nghiệp và/hoặc bên ngoài, nhưng vẫn có khả năng xảy ra nguy cơ
"chệch hướng" trong hoạt động của các tổ chức này.
Để xử lý các thách thức nói trên, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam và quan hệ lao động - công đoàn; ban hành các quy định phù
hợp, chặt chẽ về thành lập, đăng ký, quản lý, giám sát các tổ chức của người lao
động tại doanh nghiệp; tăng cường vai trò, năng lực và phát triển mạng lưới cơ
sở của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong tình hình mới...
IV. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH
SÁCH LỚN
1. Mục tiêu
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường,
tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc
49
văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
nâng cao uuy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Quan điểm chỉ đạo
Một là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì
lợi ích quốc gia - dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các mối
quan hệ lớn, nhất là mối quan hệ giữa tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội
nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội
ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nhà nước cần tập trung khuyến khích, tạo điều
kiện cho sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp
và sản phẩm của Việt Nam, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế.
Ba là, đảm bảo đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy
mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động
xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá trình thực
hiện cam kết trong các FTA thế hệ mới, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề
liên quan đến ổn định chính trị - xã hội.
Bốn là, đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các FTA thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là công đoàn,
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
3. Một số chủ trương, chính sách lớn
3.1. Chủ trương, chính sách chung
- Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những
biến động kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh kinh tế.
- Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế,
coi đây vừa là tiền đề vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có
tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức
của giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới, bảo đảm nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững. Xác định gia tăng xuất khẩu, số lượng và chất lượng thu hút
đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức
cạnh tranh của nền kinh tế là các tiêu chí kinh tế trực tiếp để đánh giá kết quả
hội nhập quốc tế về kinh tế.
- Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược, tạo môi trường đầu tư, kinh
doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững; thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình hình mới và
thực thi các cam kết quốc tế. Tập trung nghiên cứu triển khai thực hiện các giải
50
pháp mới có hiệu quả để phát huy sức mạnh tổng hợp và sự sáng tạo của cộng
đồng doanh nghiệp, doanh nhân; huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực trong và
ngoài nước cho đầu tư phát triển.
- Trong 5 - 10 năm tới, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế,
xây dựng các cơ chế, chính sách phòng vệ thương mại, phòng ngừa và giải quyết
các tranh chấp quốc tế; có chính sách phù hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực
cạnh tranh thấp vươn lên; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình
độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động
phù hợp.
3.2. Các chủ trương, chính sách cụ thể
- Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập
quốc tế nói chung.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh. Nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực
hiện Nghị quyết TW4 khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp
tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn
mới.
- Tăng cường quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân, đặc biệt là xây dựng thế trận lòng dân vững chắc; kết hợp tốt
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nâng cao và phát huy hiệu quả, uy tín và vị thế quốc tế.
- Bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
- Giải quyết tôt các vấn đề môi trường.
- Đổi mới, tổ chức, hoạt động của tổ chức công đoàn và quản lý tốt sự ra
đời, hoạt động của các tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo phê chuẩn kịp thời vào thời điểm phù hợp
các FTA thế hệ mới, trước hết là hiệp định đối tác Thái Bình Dương (TPP) để
tạo điều kiện thuận lợi cho Hiệp định có hiệu lực theo cam kết, cùng với
Chương trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan phù
hợp với điều kiện trong nước và cam kết quốc tế của Việt Nam.
2- Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc
tế, các ban chỉ đạo liên ngành về hội nhập kinh tế quốc tế xây dựng và chỉ đạo
triển khai thực hiện chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết.
3- Các tỉnh ủy, thành ủy, ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy
trực thuộc Trung ương và đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương quán triệt Nghị
quyết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết trong phạm vị chức năng, nhiệm vụ của mình.
51
4- Ban Tuyên giáo Trung ương hướng dẫn việc học tập, quán triệt Nghị
quyết, chỉ đạo công tác tuyên truyền, tạo nhận thức đúng trong toàn bộ hệ thống
chính trị, toàn dân, toàn quân, tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo thực hiện hiệu
quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong
bối cảnh nước ta tham gia các FTA thế hệ mới.
5- Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xây dựng Đề án "Đổi
mới tổ chức và hoạt động công đoàn trong tình hình mới".
6- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Văn phòng Trung ương
Đảng, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung
ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết;
định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
CHUYÊN ĐỀ
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM
2016; KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, DỰ TOÁN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2017
I. BỐI CẢNH VÀ TÌNH HÌNH NĂM 2016
- Năm 2016 là năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng, bên cạnh những thuận lợi đã xuất hiện nhiều khó khăn, thách
thức gay gắt. Tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh
tế và thương mại toàn cầu thấp hơn dự báo; giá nhiều hàng hóa cơ bản, nhất là
giá dầu thô ở mức thấp. Biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn dự báo. Thiên tai,
rét đậm, rét hại ở phía Bắc, hạn hạn kéo dài ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, xâm
nhập mặn chưa từng có ở đồng bằng sông Cửu Long, bão, lũ và sự cố ô nhiễm
môi trường Biển ở miền Trung...đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế - xã hội
nhất là sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong bối cảnh đó nhờ có sự đổi mới
mạnh mẽ, năng động, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và sự
nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã
chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh
vực.
- Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát khoảng 4%, các cân đối
lớn cơ bản được đảm bảo. Tỷ giá và thị trường ổn định, dự trữ ngoại hối tăng
cao. Môi trường đầu tư, kinh doanh doanh được cải thiện; tập trung tháo gỡ khó
khăn và hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh; phát động khởi nghiệp, nhất là trong
thanh niên; số doanh nghiệp thành lập mới cao nhất từ trước đến nay. Tăng
trưởng kinh tế đạt khá, quý sau cao hơn quý trước, cả năm 2016 ước đạt 6,3 -
6,5%. Thực hiện ba đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế đạt được một số
kết quả. Văn hóa, xã hội có tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc
gia được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn kế hoạch đề ra; công nghiệp
khai khoáng giảm, sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nặng nề; sản xuất kinh
doanh còn khó khăn. Xuất khẩu tăng thấp hơn cùng kỳ. Thu ngân sách nhà nước
52
khó khăn, nhất là ngân sách Trung ương; giải ngân vốn đầu tư công còn chậm;
nợ công cao, áp lực trả nợ lớn. Cơ cấu lại nhiều ngành, lĩnh vực còn chậm. Xử lý
nợ xấu và tổ chức tín dụng yếu kém, chưa căn bản và triệt để. Cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước chưa đạt kế hoạch; tỷ lệ vốn được cổ phần hóa còn thấp; một
số dự án đầu tư lớn của doanh nghiệp nhà nước chậm tiến độ, kéo dài từ trước,
hiệu quả thấp, thua lỗ, láng phí, phải dừng đầu tư, dừng hoạt động. Nợ xây dựng
nông thôn mới lớn, đa số địa phương mắc phải. Đời sống nhân dân, nhất là vùng
bị thiên tai và sự cố môi trường gặp khó khăn. Chất lượng môi trường nhiều nơi
bị xuống cấp; vi phạm môi trường còn xảy ra gây bức xúc xã hội. Chất lượng
giáo dục, y tế cải thiện còn chậm; ứng dụng khoa học - công nghệ chưa được
nhiều. Giải quyết việc làm khó khăn; lĩnh vực văn hóa chưa được quan tâm phát
triển tương xứng với kinh tế. Quản lý báo chí còn bất cập, xảy ra nhiều vi phạm.
Kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy hành chính và trong xã hội chưa nghiêm. Tình
trạng tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức.
II. VỀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NĂM
2017
1. Một số dự báo tình hình thế giới và trong nước năm 2017
- Tình hình thế giới năm 2017 dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp; kinh tế
thế giới phục hồi chậm, không đồng đều và còn nhiều rủi ro. Giá một số hàng
hóa cơ bản và dầu thô vẫn ở mức thấp. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn
ở khu vực diễn ra gay gắt.
- Tình hình Biển Đông tiếp tục căng thẳng, khó lường. Ở trong nước, bên
cạnh những thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, yếu kém.
- Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp
trong khi thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Việc thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về phát
triển bền vững và thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, nhất là các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi nhưng cũng đặt ra
không ít khó khăn, thách thức.
- Thiên tai diễn biến bất thường. Nhu cầu tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia và ứng phó với biến đổi khí hậu rất lớn trong
khi nguồn lực còn hạn hẹp.
2. Mục tiêu tổng quát; các chỉ tiêu và nhiệm vụ, giải pháp
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo chuyển biến rõ rệt trong việc thực
hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, khuyến
khích khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.
- Bảo đảm an sinh xã hội và chăm lo đời sống nhân dân. Phát triển văn
hóa, thực hiện dân chủ và tiến bộ, công bằng xã hội.
- Ứng phó với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai; tăng
cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
53
- Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; tăng cường kỷ
luật, kỷ cương; đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
- Giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, đưa quan hệ với các đối tác đi
vào chiều sâu, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt nam
trên trường quốc tế.
2.2. Các chỉ tiêu chủ yếu
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6,7%; tốc độ tăng giá tiêu
dùng bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 6-7%; tỷ lệ
nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 3,5%; tỷ lệ bội chi ngân sách
nhà nước so với GDP không quá 3,5%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
khoảng 31,5% GDP; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm
1-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
dưới 4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55-57%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào
tạo từ 3 tháng trở lên có chứng chỉ đạt 22,5%; số giường bệnh trên một vạn dân
đạt 25,5 giường (không tính giường trạm y tế xã); tỷ lệ dân số tham gia bảo
hiểm y tế đạt 82,2%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ
thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 87%; tỷ lệ che phủ
rừng đạt 41,45%.
2.3. Nhiệm vụ, giải pháp
- Ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế. Điều hành
hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và
các chính sách khác. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo và ứng phó kịp thời
với những biến động quốc tế và trong nước. Điều hành chủ động, linh hoạt công
cụ lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ;
nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm vốn tín dụng cho nền kinh tế, nhất là các
lĩnh vực ưu tiên; quản lý hiệu quả thị trường ngoại tệ, vàng, tăng dự trữ ngoại
hối. Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính
- ngân sách nhà nước; tập trung chống thất thu, chuyển giá, giảm nợ đọng thuế;
triệt để tiết kiệm chi ngân sách; thực hiện khoán chi hành chính, đấu thầu, đặt
hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ trong cung cấp dịch vụ công. Thực hiện hiệu
quả kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước trung hạn, cơ cấu lại ngân sách nhà
nước và quản lý nợ công giai đoạn 2016 - 2020. Tăng cường huy động các
nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính
sách phù hợp để huy động nguồn lực vàng và ngoại tệ trong xã hội. Đẩy mạnh
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu gắn với nâng cao chất lượng,
xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu; phát triển mạnh thị trường trong nước, hệ thống bán lẻ, gắn sản xuất
với tiêu thụ hàng nội địa. Tăng cường quản lý thị trường, phòng, chống buôn
lậu, gian lận thương mại. Tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với dịch
vụ y tế, giáo dục... gắn với hỗ trợ đối tượng chính sách, hộ nghèo.
54
- Tạo chuyển biến rõ nét về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng
công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc, xóa bỏ rào cản, phát triển mạnh doanh nghiệp, thúc đẩy khởi
nghiệp, đổi mới, sáng tạo. Thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi, nhất là
về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, phát
triển công nghiệp hỗ trợ, khuyến nông, sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.
Phát triển hợp tác xã kiểu mới và các mô hình kinh tế hợp tác hiệu quả.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Thực hiện hiệu quả
kế hoạch đầu tư công trung hạn; tập trung vốn cho các dự án phát triển hạ tầng
trọng điểm, tạo sức lan tỏa và kết nối phát triển. Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức
tín dụng; phát triển thị trường mua bán nợ, kiểm soát chặt chẽ, xử lý hiệu quả nợ
xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm an
toàn hệ thống và quyền lợi của người gửi tiền. Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái
vốn, thực hiện đấu giá, niêm yết trên thị trường chứng khoán đảm bảo công
khai, minh bạch; sử dụng một phần số tiền thu được cho đầu tư phát triển; đối
với doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài, mất vốn chủ sở hữu mà không thể
tháo gỡ được thì xem xét cho bán hoặc phá sản theo quy định của pháp luật. Sắp
xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp. Tăng cường
giao quyền tự chủ; đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ
điều kiện.
Tập trung thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn
mới; thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; nhân rộng
các mô hình sản xuất hiệu quả; sử dụng công nghệ cao, liên kết sản xuất theo
chuỗi giá trị, bảo đảm an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực
hiện nghiêm việc đóng cửa rừng tự nhiên. Phát triển mạnh các ngành kinh tế
biển, hỗ trợ diêm dân, ngư dân đánh bắt xa bờ, người dân sinh sống trên các đảo.
Thúc đẩy phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp
điện tử, công nghệ thông tin, sinh học, môi trường và công nghiệp hỗ trợ; chú
trọng các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh phát triển các
ngành dịch vụ có lợi thế, công nghệ và giá trị gia tăng cao, tăng cường hội nhập,
thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;
thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử từ đầu năm 2017.
- Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách người có công,
giảm nghèo bền vững theo chuẩn nghèo đa chiều và các chương trình mục tiêu
về an sinh xã hội; ưu tiên nguồn lực phát triển vùng khó khăn, đồng bào dân tộc
thiểu số. Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng dạy nghề. Hoàn
thiện hệ thống bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục - đào tạo, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức,
lối sống cho học sinh, sinh viên. Đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển các trường
chất lượng cao. Tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng khám,
chữa bệnh và giảm quá tải bệnh viện; xã hội hóa, phát triển y tế ngoài công lập
và hợp tác công tư trong khám, chữa bệnh; đẩy nhanh thực hiện bảo hiểm y tế
55
toàn dân gắn với hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo. Làm tốt
công tác bảo đảm an toàn thực phẩm. Chú trọng phòng, chống tệ nạn xã hội.
Khuyến khích mạnh mẽ nghiên cứu, sáng tạo; phát triển thị trường khoa học -
công nghệ, coi doanh nghiệp là trung tâm đổi mới, sáng tạo; tăng cường bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ. Làm tốt việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Quan tâm công tác
người cao tuổi, người khuyết tật, gia đình, phụ nữ, trẻ em, thanh niên, thiếu niên
và thể dục, thể thao. Hoàn thiện các chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo và hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật, cơ chế, chính sách và quản lý tài
nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đỏi khí hậu. Nâng cao năng lực
dự báo, cảnh báo và chủ động phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai. Thực hiện hiệu
quả các mục tiêu, cam kết quốc tế COP-21 được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh
Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và các giải pháp phòng, chống hạn hán, xâm
nhập mặn, bão lũ, ưu tiên những vùng bị ảnh hưởng nặng. Làm tốt công tác quy
hoạch và tăng cường quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên,
khoáng sản; quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất. Khai thác, sử dụng hiệu quả
nguồn nước và chủ động hợp tác quốc tế trong việc sử dụng bền vững nguồn
nước xuyên quốc gia. Thực hiện nghiêm quy định về bảo vệ và phát triển rừng.
Cải thiện chất lượng môi trường; kiểm soát chặt chẽ việc đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án đầu tư, kiên quyết không cấp phép đối với các dự án
không bảo đảm tiêu chuẩn môi trường.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, cơ
chế, chính sách, nhất là về quy hoạch, hỗ trợ khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và
vừa, tháo gỡ khó khăn cho đầu tư kinh doanh. Xây dựng nền hành chính hiệu
lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương. Tập trung đơn giản hóa thủ tục hành chính,
tăng cường công khai, minh bạch; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây
dựng chính phủ điện tử. Tăng cường thanh, kiểm tra công vụ, xử lý nghiêm các
hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, vi phạm pháp luật. Đổi mới công tác cán bộ, kiên
quyết tinh giản biên chế. Đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ
quan nhà nước và trong toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cao; làm tốt công tác tiếp dân. Phát hiện, xử lý nghiêm các vụ
tham nhũng.
- Triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Tăng cường tiềm lực và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Củng
cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Phát triển kinh tế kết hợp với
quốc phòng, an ninh, nhất là vùng biên giới, hải đảo. Giữ vững an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh phòng, chống tội phạm; bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông; tăng cường phòng, chống cháy nổ.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia.
Chủ động có những giải pháp phù hợp, yêu cầu các bên tôn trọng tiến
trình ngoại giao, pháp lý, tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về
Luật Biển 1982, thực hiện đầy đủ Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC) và thúc đẩy sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông
(COC).
56
Chủ động làm sâu sắc, thực chất hơn quan hệ với các nước và đối tác tạo
sự đan xen, gắn kết lợi ích. Tích cực tham gia Cộng đồng ASEAN, tổ chức tốt
Hội nghị cấp cao APEC 2017. Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đẩy mạnh công tác truyền
thông, chủ động chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hiệu quả các hiệp định
thương mại tự do. Nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp quốc tế. Làm tốt
công tác người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân, nhất là ngư dân. Tạo
mọi điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài tham gia, đóng góp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông. Phát huy
truyền thống và vai trò của báo chí cách mạng. Thực hiện nghiêm quy chế phát
ngôn, cung cấp thông tin về tình hình kinh tế - xã hội và những vấn đề dư luận
quan tâm. Tập trung tuyên truyền xây dựng xã hội lành mạnh, sống và làm việc
theo hiến pháp, pháp luật. Biểu dương, khen thưởng kịp thời và xử lý nghiêm
các vi phạm trong hoạt động báo chí. Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng.
Làm tốt công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức chính trị - xã hội trong vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, góp phần tạo đồng thuận xã hội.
- Về dự toán ngân sách nhà nước năm 2017: Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về tài chính - ngân sách
nhà nước và nợ công. Thực hiện thu, chi trong phạm vi dự toán; vay nợ, giải
ngân trong phạm vi kế hoạch được cấp thẩm quyền phê duyệt; hạn chế tối đa
việc ứng trước dự toán, chuyển nguồn. Không chuyển vốn vay, bảo lãnh chính
phủ thành vốn cấp phát ngân sách nhà nước. Tăng cường kiểm soát chi nhân
sách nhà nước theo hướng thống nhất quy trình, tập trung đầu mối và hoàn thiện
cơ chế quản lý. Chú trọng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thực hiện công khai,
minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình về ngân sách nhà nước và nợ công.
Từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng tăng dần tỷ trọng thu nội
địa, tỷ trọng chi đầu tư và giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, bảo đảm chi trả
nợ. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhất là
đối với các khoản vay mới, vay có bảo lãnh của Chính phủ, vay về cho vay lại,
khắc phục tình trạng các khoản vay bị tăng chi phí do chậm tiến độ và hạn chế
tối đa cấp bảo lãnh mới. Tiếp tục cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng
vay trung hạn, dài hạn và giảm chi phí vay vốn; bảo đảm dư nợ công, nợ Chính
phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định và an toàn tài chính
quốc gia.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Ban cán sự Đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội căn cứ Kết luận này
hoàn chỉnh các báo cáo, dự thảo Kế hoạch để trình Quốc hội xem xét, quyết
định.
2- Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp xây dựng
các chương trình hành động cụ thể thực hiện Kết luận này và quyết định của
Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước
năm 2017.