Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BÔ GIAO DUC VA ĐAO TAO VIỆN HAN LÂM
KHOA HỌC VA CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ _________________________________________
NGUYỄN THỊ NGỌC LINH
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ TÍNH CHẤT CỦA CẤU TRÚC
LAI FERIT TỪ - KIM LOẠI (Ag, Au) KÍCH THƢỚC NANO
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG TRONG Y SINH
Chuyên ngành: Hóa vô cơ
Mã số: 9 44 01 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Hà Nội - 2020
BÔ GIAO DUC VA ĐAO TAO VIỆN HAN LÂM
KHOA HỌC VA CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ _________________________________________
NGUYỄN THỊ NGỌC LINH
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO VÀ TÍNH CHẤT CỦA CẤU TRÚC
LAI FERIT TỪ - KIM LOẠI (Ag, Au) KÍCH THƢỚC NANO
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG TRONG Y SINH
Chuyên ngành: Hóa vô cơ
Mã số: 9 44 01 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. LÊ TRỌNG LƢ
2. PGS. TS. NGÔ ĐẠI QUANG
Hà Nội - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Lê Trọng Lư và PGS.TS. Ngô Đại Quang. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án được trích dẫn lại từ các bài báo đã được xuất bản của tôi và
các cộng sự. Các số liệu, kết quả này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Ngọc Linh
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Trọng
Lư và PGS.TS. Ngô Đại Quang - những người Thầy đã dành cho tôi sự động viên,
giúp đỡ tận tình và những định hướng Khoa học hiệu quả trong suốt quá trình thực
hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Tuấn Dung, TS.
Nguyễn Thiên Vương, TS. Ngô Thanh Dung, TS. Phạm Hồng Nam, TS. Lê Thế
Tâm, ThS. Lê Thị Thanh Tâm và các cán bộ Phòng Kỹ thuật Điện - Điện tử, Viện
Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (KHCNVN)
đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu cũng như hoàn thiện
bản luận án.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới cán bộ, giảng viên Khoa Công nghệ Sinh học
– Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên, Khoa Sinh học - Trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên vì những hợp tác nghiên cứu trong các ứng dụng y sinh.
Tôi xin cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ của anh chị em Khoa Hóa học, Trường Đại học
Khoa học – Đại học Thái Nguyên trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi cũng xin
gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới BS. ThS. Nguyễn Thị Hường, BS. Nguyễn Văn
Đông và các cán bộ Khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Quốc tế Vinh vì sự giúp đỡ
thực hiện các phép đo và những bàn luận khoa học quý báu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Khoa học và Công nghệ;
Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm KHCNVN và Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tôi thực
hiện luận án.
Luận án được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí từ đề tài nghiên cứu cơ bản
mã số 103.02-2018.66 và đề tài Khoa học Công nghệ thuộc các hướng Khoa học
Công nghệ ưu tiên cấp Viện Hàn Lâm mã số VAST01.08/19-20. Luận án được thực
hiện tại Phòng Kỹ thuật Điện - Điện tử, Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm
KHCNVN; Phòng Vật liệu nano y sinh, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm
KHCNVN; Phòng thí nghiệm Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên và phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên.
iii
Sau cùng, tôi muốn gửi tới tất cả những người thân trong gia đình và bạn bè
lời cảm ơn chân thành nhất. Chính sự tin yêu mong đợi của gia đình và bạn bè đã
tạo động lực cho tôi thực hiện thành công luận án này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Ngọc Linh
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC .................................................................................................................iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT .......................................... vii
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ x
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ ...........................................................xi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN ..................................................................................... 4
VỀ HỆ VẬT LIỆU NANO FERIT TỪ - KIM LOẠI QUÝ .................................. 4
1.1. Giới thiệu chung về vật liệu nano ferit từ - kim loại quý ............................... 4
1.1.1. Tính chất từ của vật liệu ferit từ ............................................................... 4
1.1.2. Tính chất quang của vật liệu kim loại quý (Ag, Au) ................................ 6
1.1.3. Hệ vật liệu lai ferit từ - kim loại quý ........................................................ 9
1.2. Tính chất vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý ......................................... 13
1.2.1. Tính chất từ ............................................................................................. 13
1.2.2. Tính chất quang ...................................................................................... 14
1.2.3. Tính tương thích sinh học và ổn định hóa lý .......................................... 16
1.3. Ứng dụng của vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý trong y sinh ............ 17
1.3.1. Ứng dụng nhiệt trị trong điều trị ung thư ............................................... 17
1.3.2. Chẩn đoán hình ảnh ................................................................................ 23
1.3.3. Ứng dụng kháng khuẩn .......................................................................... 27
1.3.4. Dẫn thuốc hướng đích ............................................................................ 30
1.4. Phƣơng pháp tổng hợp vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý .................. 31
1.4.1. Tổng hợp vật liệu nano ferit từ ............................................................... 32
1.4.2. Tổng hợp vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý .................................. 33
1.4.3. Biến tính bề mặt vật liệu nano lai ........................................................... 40
CHƢƠNG 2. THỰC NGHIỆM VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 43
2.1. Nguyên liệu và hóa chất ................................................................................... 43
2.2. Tổng hợp vật liệu .............................................................................................. 44
2.2.1. Tổng hợp hạt nano ferit từ ...................................................................... 44
v
2.2.2. Tổng hợp các hệ nano lai ferit từ - kim loại (Ag, Au) ............................ 46
2.2.3. Chuyển pha hạt nano sang môi trường nước .......................................... 48
2.3. Các phƣơng pháp đặc trƣng vật liệu .............................................................. 48
2.3.1. Kính hiển vi điện tử truyền qua ............................................................. 48
2.3.2. Nhiễu xạ tia X ......................................................................................... 49
2.3.3. Từ kế mẫu rung ....................................................................................... 50
2.3.4. Phổ hấp thụ phân tử UV-Vis .................................................................. 50
2.3.5. Phổ hấp thụ hồng ngoại .......................................................................... 51
2.3.6. Phổ tán sắc năng lượng tia X .................................................................. 51
2.3.7. Phân tích nhiệt khối lượng ..................................................................... 52
2.3.8. Phương pháp tán xạ ánh sáng động ........................................................ 52
2.4. Phƣơng pháp đánh giá độc tính của vật liệu ................................................. 53
2.5. Phƣơng pháp đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu ........................ 55
2.6. Phƣơng pháp xác định hiệu ứng quang/từ - nhiệt ........................................ 56
2.7. Phƣơng pháp chụp ảnh cộng hƣởng từ hạt nhân ......................................... 58
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 60
3.1. Hạt nano ferit từ ............................................................................................... 60
3.1.1. Hình thái học .......................................................................................... 60
3.1.2. Cấu trúc pha tinh thể ............................................................................... 66
3.1.3. Tính chất từ ............................................................................................. 68
3.1.4. Cấu trúc lớp vỏ bọc hạt nano ferit .......................................................... 69
3.2. Hạt nano lai Fe3O4-(Ag, Au) ............................................................................ 71
3.2.1. Hình thái học .......................................................................................... 71
3.2.2. Cấu trúc pha tinh thể ............................................................................... 82
3.2.3. Tính chất quang ...................................................................................... 82
3.2.4. Tính chất từ ............................................................................................. 85
3.2.5. Thành phần hóa học ................................................................................ 87
3.3. Hạt nano bọc PMAO ........................................................................................ 90
3.3.1. Quá trình chuyển pha hạt nano bằng PMAO ......................................... 90
3.3.2. Tính chất quang của vật liệu ................................................................... 91
3.3.3. Cấu trúc lớp vỏ bọc của vật liệu ............................................................. 92
3.3.4. Độ bền của vật liệu ................................................................................. 93
vi
3.3.5. Đánh giá độc tính của vật liệu ................................................................ 96
3.4. Khả năng ứng dụng của vật liệu nano lai trong y sinh ................................. 102
3.4.1. Hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu ...................................................... 102
3.4.2. Hiệu ứng chuyển đổi quang/từ - nhiệt của vật liệu .............................. 105
3.4.3. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của vật liệu ................................................ 113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 118
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ..................................................... 119
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO .................................................... 120
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN .............. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 123
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 137
vii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
I. Danh mục các ký hiệu
a Hằng số mạng của tinh thể
C Nồng độ
dTEM Đường kính hạt nano tính theo phương pháp TEM
dXRD Đường kính hạt nano tính theo phương pháp XRD
D Đường kính vòng kháng khuẩn
D2 Đường kính vòng kháng khuẩn tính từ tâm đục lỗ
D1 Đường kính đục lỗ thạch
E Suất điện động cảm ứng
f Tần số
H Cường độ từ trường ngoài
Hc Lực kháng từ
K Hằng số dị hướng từ tinh thể
M Mômen từ
Ms Từ độ bão hòa
Mr Từ dư
P Mật độ công suất laze
R1 Tốc độ hồi phục dọc
R2 Tốc độ hồi phục ngang
r1 Độ hồi phục dọc
r2 Độ hồi phục ngang
T Nhiệt độ
Tmax Nhiệt độ cực đại
T1 Chụp MRI theo chế độ trọng T1
T2 Chụp MRI theo chế độ trọng T2
T1 Thời gian hồi phục spin-mạng (dọc)
T2 Thời gian hồi phục spin-spin (ngang)
V Thể tích dung dịch
@ Được bọc bởi
viii
II. Danh mục các chữ viết tắt
Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Abs Absorbance Độ hấp thụ
I-BW The first biological window Cửa sổ sinh học thứ nhất
II-BW The second biological window Cửa sổ sinh học thứ hai
CT Computed tomography Chụp cắt lớp vi tính
DLS Dynamic light scattering Tán xạ ánh sáng động
DMSO Dimethyl sulfoxide Dimetyl sunfoxit
DOX Doxorubicin Doxorubicin
DAPI 4′,6-diamidino-2-phenylindole 4′,6-diamidino-2-
phenylindol
DNA Deoxyribonucleic acid Axit deoxiribonucleic
DSPE-PEG 1,2-distearoyl-sn-glycero-3-
phosphoethanolamine-N-
[amino(polyethylene glycol)-2000]
1,2-distearoyl-sn-glycero-3-
photphoetanolamin-N-
[amino(polyetylen glycol)-
2000]
DMF N,N-dimethylformamide N,N-dimetyl formamit
HDA Hexadecylamine Hexadexylamin
HNPs Hybrid nanoparticles Hạt nano lai
LA Lauric acid Axit lauric
MFe2O4 Spinel ferrites Ferit spinel
MTT 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)-2,5-
diphenyltetrazolium bromide
3-(4,5-dimetylthiazol-2-yl)-
2,5-diphenyltetrazol bromit
MRI Magnetic resonance imaging Ảnh cộng hưởng từ hạt nhân
MHT Magnetic hyperthermia Tăng thân nhiệt dưới tác
dụng của từ trường (hiệu
ứng từ - nhiệt)
NPs Nanoparticles Hạt nano
NIR Near infrared Hồng ngoại gần
OA Oleic acid Axit oleic
OLA Oleylamine Oleylamin
ix
OCD-ol 1-octadecanol 1-octadecanol
ODE 1-octadecene 1-octadecen
PA Photoacoustic Chụp ảnh quang âm
PAA Poly(acrylic acid) Axit poly(acrylic)
PBS 1X Phosphate buffered saline Photphat buffered salin
PEG Polyethylene glycol Polyetylen glycol
PMAO Poly(maleic anhydride-alt-1-
octadecene)
Poly(maleic anhydrit-alt-1-
octadecen)
PTT Photothermal therapy Tăng thân nhiệt dưới tác
dụng của ánh sáng (hiệu
ứng quang - nhiệt)
ROS Reactive oxygen species Các dạng gốc tự do oxy hóa
RF Radio frequency Tần số vô tuyến
SLP Specific loss power Công suất tổn hao riêng
SQUID Superconducting quantum
interference device
Giao thoa kế lượng tử siêu
dẫn
SPR Surface plasmon resonance Cộng hưởng plasmon bề
mặt
TEOS Tetraethyl orthosilicate Tetraetyl orthosilicat
TOPO Trioctylphosphine oxide Trioctylphotphin oxit
VSM Vibrating sample magnetometer Từ kế mẫu rung
x
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Điều kiện tổng hợp hạt nano Fe3O4. ......................................................... 45
Bảng 2.2. Mẫu nano ferit từ tổng hợp với nồng độ cao tiền chất. ............................ 46
Bảng 2.3. Sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta .......................... 53
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của điều kiện phản ứng đến kích thước hạt nano Fe3O4. ....... 60
Bảng 3.2. Kích thước hạt ferit từ thu được khi tổng hợp với nồng độ cao tiền chất.66
Bảng 3.3. Hằng số mạng và kích thước hạt của một số ferit từ. .............................. 67
Bảng 3.4. Từ độ bão hòa và lực kháng từ của các mẫu ferit từ kích thước khác nhau. . 68
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của điều kiện tổng hợp đến cấu trúc lai Fe3O4/Ag. ............... 72
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến độ dày lớp vỏ Ag trong cấu trúc Fe3O4@Ag.
................................................................................................................................... 76
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt Ag trong cấu trúc Fe3O4-Ag.
................................................................................................................................... 77
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của dung dịch H[AuCl4] đến kích thước và hình thái vật liệu
lai Fe3O4/Au. ............................................................................................................. 81
Bảng 3.9. Cực đại hấp thụ SPR của hệ nano lai Fe3O4/Ag. ...................................... 84
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của dung dịch H[AuCl4] đến vị trí SPR của hệ Fe3O4/Au. ...... 84
Bảng 3.11. Từ độ bão hòa và lực kháng từ của vật liệu Fe3O4 và Fe3O4/Ag. ........... 86
Bảng 3.12. Thành phần hóa học của vật liệu Fe3O4/Au. ........................................... 88
Bảng 3.13. Kích thước vòng kháng khuẩn của vật liệu Fe3O4, Ag và Fe3O4/Ag. .. 104
Bảng 3.14. So sánh phương thức gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) với MHT ........ 110
Bảng 3.15. So sánh phương thức gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) với PTT ........... 111
Bảng 3.16. Độ hồi phục r1, r2 của một số chất tương phản MRI. ........................... 115
xi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Minh họa sự sắp xếp các mômen từ của vật liệu. ....................................... 4
Hình 1.2. Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt của nano kim loại quý. .............. 6
Hình 1.3. Phổ UV-Vis của nano Au với hình dạng và kích thước khác nhau ............ 9
Hình 1.4. Ảnh TEM của một số hệ nano lai ferit từ - kim loại quý khác nhau ........ 10
Hình 1.5. Cấu trúc của nano lai Fe3O4-Au ................................................................ 11
Hình 1.6. Ảnh TEM và minh họa cấu trúc hạt lai Fe3O4/Au .................................... 12
Hình 1.7. Đường cong từ trễ của nano ferit từ và hệ lai ferit từ - kim loại quý ........ 13
Hình 1.8. Phổ UV-Vis của dung dịch hạt Au rỗng và hạt lai Fe3O4 – Au rỗng ........ 14
Hình 1.9. Mô hình lai mô tả sự tương tác giữa hạt nano cầu đặc và rỗng. ............... 15
Hình 1.10. Sự tác động của nhiệt độ lên tế bào ung thư ........................................... 18
Hình 1.11. Minh họa chuyển động Néel và Brown. ................................................. 19
Hình 1.12. Các quá trình khác nhau xảy ra trên hạt nano khi được chiếu sáng . ...... 20
Hình 1.13. Độ hấp thụ quang của mô người đối với ánh sáng.................................. 21
Hình 1.14. Minh họa phương pháp quang/từ - nhiệt trị ............................................ 22
Hình 1.15. Cách tính tốc độ tăng nhiệt ban đầu . ...................................................... 23
Hình 1.16. Nguyên lý của chụp ảnh cộng hưởng từ ................................................. 25
Hình 1.17. Ảnh MRI trọng T1 và T2 của hệ lai F-AuNC@Fe3O4. .......................... 26
Hình 1.18. Cơ chế kháng khuẩn của các hạt nano Ag .............................................. 28
Hình 1.19. Sơ đồ mô tả tương tác của Ag NPs lên vi khuẩn theo thời gian . ........... 29
Hình 1.20. Quá trình điều trị kết hợp quang – nhiệt trị và hóa trị liệu ..................... 31
Hình 1.21. Các hạt nano Au-Fe3O4 kết hợp với Herceptin và phức platin để nhắm
mục tiêu tế bào và phân phối thuốc ........................................................................... 31
Hình 1.22. Minh họa sự hình thành NPs theo phương pháp heating – up ................ 32
Hình 1.23. Sự phát triển khác nhau của vật liệu A trên hạt mầm B ................................ 34
Hình 1.24. Sự hình thành hệ lai ferit từ-(Ag, Au) .................................................... 36
Hình 1.25. Sự hình thành hệ lai ferit từ@silica-(Ag, Au) ......................................... 37
Hình 1.26. Sự hình thành hệ lai ferit từ@polyme@Au ............................................ 38
Hình 1.27. Minh họa các giai đoạn hình thành hệ lai Fe3O4@Au rỗng .................... 39
Hình 1.28. Quá trình trao đổi phối tử hai bước của các hạt Fe3O4-Au dumbbell .......... 41
Hình 1.29. Minh họa liên kết giữa DSPE-PEG-COOH với NPs trước và sau khi bọc. ...... 42
xii
Hình 2.1. Hệ thiết bị tổng hợp hạt nano. ................................................................... 44
Hình 2.2. Quy trình tổng hợp hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng. ........................................ 47
Hình 2.3. Quy trình chuyển pha hạt nano sang môi trường nước bằng PMAO. ...... 48
Hình 2.4. Thiết bị xác định hiệu ứng từ - nhiệt của vật liệu. .................................... 56
Hình 2.5. Thiết bị laze diode quang sợi và cấu tạo hệ đo hiệu ứng quang - nhiệt. ... 57
Hình 2.6. Sơ đồ thí nghiệm hệ đo hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp. ...................... 57
Hình 3.1. Ảnh TEM mẫu F8, F9, F10, F11 và biểu đồ phân bố kích thước hạt (e). .. 61
Hình 3.2. Ảnh TEM mẫu F2, F6 , F10, F14 và biểu đồ phân bố kích thước hạt (e). 62
Hình 3.3. Ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt mẫu F17 và F18 . .............. 63
Hình 3.4. Ảnh TEM mẫu F15, F16, F17 và biểu đồ phân bố kích thước hạt (e). ..... 64
Hình 3.5. Ảnh TEM mẫu Fe3O4, CoFe2O4 và MnFe2O4 với nồng độ cao tiền chất
................................................................................................................................... 66
Hình 3.6. Giản đồ nhiễu xạ tia X của Fe3O4 và MFe2O4. ......................................... 67
Hình 3.7. Đường cong từ trễ của Fe3O4 và MFe2O4. ............................................... 68
Hình 3.8. Phổ FT-IR của mẫu F10, CF-673 và MF-673. .......................................... 70
Hình 3.9. Giản đồ phân tích nhiệt TGA của mẫu F10. ............................................. 70
Hình 3.10. Ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của Fe3O4 và cấu trúc lai
Fe3O4/Ag với = [Ag]/[Fe] thay đổi. ........................................................................ 73
Hình 3.11. Ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của nano Ag. ................... 75
Hình 3.12. Ảnh TEM cấu trúc lai Fe3O4/Ag tại thời gian phản ứng khác nhau ......... 76
Hình 3.13. Sơ đồ thể hiện sự phát triển hình thái cấu trúc lai Fe3O4/Ag. ................. 77
Hình 3.14. Ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của hệ lai Fe3O4/Au đặc. ...... 78
Hình 3.15. Ảnh TEM khuôn nano Fe3O4@Ag và hệ lai Fe3O4/Au. ......................... 79
Hình 3.16. Sơ đồ mô tả cơ chế hình thành hệ lai Fe3O4/Au rỗng. ............................ 79
Hình 3.17. Ảnh TEM của Fe3O4@Ag và hệ lai Fe3O4/Au . ...................................... 80
Hình 3.18. Ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến cấu trúc lai Fe3O4/Au. . 81
Hình 3.19. Giản đồ nhiễu xạ tia X của Fe3O4, Ag và hệ nano lai Fe3O4/Ag. ................ 82
Hình 3.20. Phổ UV-Vis của Fe3O4, Ag, Fe3O4/Ag và Fe3O4/Au (đặc, rỗng). ............... 83
Hình 3.21. Đường cong từ trễ của Fe3O4 và Fe3O4/Ag. ............................................ 85
Hình 3.22. Đường cong từ trễ của Fe3O4@Ag và Fe3O4/Au rỗng . ............................ 86
Hình 3.23. Phổ EDS của Fe3O4/Ag. .......................................................................... 87
Hình 3.24. Phổ EDS của Fe3O4/Au. .......................................................................... 88
xiii
Hình 3.25. Sự phân bố của các nguyên tử trong Fe3O4/Au rỗng. ............................. 89
Hình 3.26. Quá trình chuyển pha hạt nano bằng PMAO ............................................. 90
Hình 3.27. Phổ UV-Vis của Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO. ...... 91
Hình 3.28. Phổ FT-IR của Fe3O4/Au rỗng trước và sau khi chuyển pha. ................. 92
Hình 3.29. Giản đồ TGA của Fe3O4/Au rỗng trước và sau khi chuyển pha. ............ 93
Hình 3.30. Giản đồ phân bố kích thước hạt và thế Zeta của dung dịch hạt lai
Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO. ................................................... 94
Hình 3.31. Thế Zeta của dung dịch hạt lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au
rỗng@PMAO sau 12 tháng chế tạo. ......................................................................... 95
Hình 3.32. Dung dịch hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO
trong nước với nồng độ muối NaCl và pH khác nhau. ............................................. 95
Hình 3.33. Tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS (a) và MKN45 (b) sau 48 h xử lý với
Fe3O4@Ag@PMAO. ................................................................................................ 97
Hình 3.34 . Hình thái tế bào và nhân tế bào AGS sau 48 h xử lý với
Fe3O4@Ag@PMAO. ................................................................................................. 97
Hình 3.35. Hình thái tế bào và nhân tế bào MKN45 sau 48 h xử lý với
Fe3O4@Ag@PMAO. ................................................................................................. 98
Hình 3.36. Tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS và MKN45 sau 48 h xử lý với Fe3O4/Au
rỗng@PMAO. ........................................................................................................... 99
Hình 3.37. Hình thái tế bào và nhân tế bào MKN45 sau 48 h xử lý với Fe3O4/Au
rỗng@PMAO. ........................................................................................................... 100
Hình 3.38. Hình thái tế bào và nhân tế bào MKN45 sau 48 h xử lý với Fe3O4/Au
rỗng@PMAO. ........................................................................................................... 101
Hình 3.39. Hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu Fe3O4@PMAO, Ag@PMAO và
Fe3O4/Ag@PMAO. ................................................................................................. 103
Hình 3.40. Hiệu ứng MHT của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại từ trường khác
nhau ......................................................................................................................... 106
Hình 3.41. Hiệu ứng PTT của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại mật độ công suất
laze khác nhau ......................................................................................................... 107
Hình 3.42. Đường đốt quang/từ và giá trị SLP của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
................................................................................................................................. 108
xiv
Hình 3.43. Hiệu ứng (MHT + PTT) của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại từ
trường 100 ÷ 250 Oe ............................................................................................... 109
Hình 3.44. Hiệu ứng (MHT + PTT) của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại laze 0,2
÷ 0,65 W/cm2 .......................................................................................................... 110
Hình 3.45. Ảnh hưởng của nồng độ Fe3O4/Au rỗng@PMAO đến hiệu ứng (MHT +
PTT). ....................................................................................................................... 112
Hình 3.46. Ảnh MRI trọng T2 và đường tuyến tính 1/T2 của Fe3O4/Au
rỗng@PMAO . ........................................................................................................ 113
Hình 3.47. Ảnh MRI trọng T1 và đường tuyến tính 1/T1 của Fe3O4/Au
rỗng@PMAO . ........................................................................................................ 113
Hình 3.48. Ảnh MRI trọng T1 tại giá trị TR khác nhau và trọng T2 tại giá trị TE
khác nhau của Fe3O4/Au rỗng@PMAO. ................................................................. 114
1
MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, công nghệ và vật liệu nano ra đời đã tạo nên bước nhảy
đột phá trong nhiều lĩnh vực như: điện tử, xúc tác, môi trường và đặc biệt là y sinh
[1–3]. Các ứng dụng này dựa trên tính chất độc đáo của vật liệu có kích thước nano
liên quan đến hiệu ứng bề mặt. Trong lĩnh vực y sinh, nhu cầu đối với các giải pháp
công nghệ cũng như các vật liệu kích thước nano sử dụng trong chẩn đoán và điều
trị bệnh đang trở nên cấp thiết. Một trong những loại vật liệu mang lại nhiều tiềm
năng cho hướng ứng dụng này là vật liệu nano lai, trong đó phải kể đến cấu trúc lai
từ - quang [4].
Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự kết hợp của tính chất từ và tính chất
quang trên một cấu trúc nano đã cải thiện ứng dụng của hạt nano (nanoparticles -
NPs) đơn lẻ và mở ra những hướng mới trong lĩnh vực y sinh. Ưu điểm của cấu trúc
lai từ - quang trong lĩnh vực này là chỉ một lần kích hoạt bởi những kích thích vật lý
phù hợp đã đạt được mục tiêu mong muốn, do đó giảm thiểu tác dụng phụ của
chúng đối với cơ thể. Hơn nữa, một số chức năng có thể hoạt động phối hợp để
nâng cao hiệu quả trong các phương thức trị liệu [5]. Chẳng hạn, cấu trúc lõi - vỏ
của nano từ và nano kim loại quý (Ag, Au) được ứng dụng trong kháng khuẩn [6],
chẩn đoán hình ảnh [7], từ - nhiệt trị [8], quang - nhiệt trị [9] và kết hợp quang/từ -
nhiệt trị [10, 11]. Một hạt nano kim loại quý cũng có thể phát triển trên một hạt
nano từ tạo nên cấu trúc dumbbell để đạt được các thuộc tính giao thoa thú vị.
Thuộc tính này có được là do ảnh hưởng của hiệu ứng chuyển điện tử qua giao diện
của hạt nano từ và nano kim loại quý (như các hệ Fe3O4-Ag hoặc Fe3O4-Au) dẫn
đến sự hình thành bề mặt dị hướng cao [12].
Hiện nay, một số hệ lai từ - quang được nghiên cứu nhằm mục đích ứng dụng
trong y sinh, điển hình là hệ nano lai Fe3O4/Au [13, 14]. Các nghiên cứu ứng dụng
vật liệu Fe3O4/Au trong chẩn đoán hình ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (magnetic
resonance imaging - MRI) và điều trị ung thư bằng nhiệt trị (quang/từ - nhiệt) đã thu
được một số kết quả đáng chú ý [15]. Tuy nhiên, các hạt nano lai (hybrid
nanoparticles - HNPs) Fe3O4/Au cấu trúc lõi - vỏ với lớp Au đặc phủ trên bề mặt lõi
Fe3O4 đã hạn chế đáng kể sự kết nối của các proton với thành phần từ, dẫn đến giảm
2
tín hiệu tương phản ảnh MRI có trọng số T2. Ngoài ra, Fe3O4/Au với kích thước nhỏ
(dưới 20 nm) chỉ hấp thụ các bức xạ trong vùng 530 ÷ 600 nm [16] nên hạn chế sự
thâm nhập sâu vào các lớp mô, làm giảm hiệu suất gia nhiệt trong phương pháp
quang - nhiệt trị. Để tăng hiệu quả nhiệt trị, vật liệu cần hấp thụ mạnh bức xạ trong
vùng hồng ngoại gần 650 ÷ 950 nm (near infrared - NIR), vì ánh sáng NIR có khả
năng xuyên sâu vào các lớp mô, còn gọi là “cửa sổ sinh học” [17]. Để đáp ứng điều
này, gần đây các nhà khoa học đã nghiên cứu chế tạo một số hệ nano lai Fe3O4/Au
có cấu trúc rỗng. Cho đến nay các hệ lai Fe3O4/Au rỗng chế tạo được có kích thước
hạt lớn (40 ÷ 100 nm) [17, 18] nên ảnh hưởng đến sự lưu thông trong máu. Do đó,
việc chế tạo các hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng có kích thước hạt nhỏ (dưới 20 nm) và
tích hợp cả tính chất từ và quang trong vùng NIR vẫn là một thách thức lớn hiện nay.
Ở Việt Nam, theo hiểu biết của chúng tôi, các công bố về phương pháp chế
tạo hệ vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý (Ag, Au), tích hợp tính chất từ và
quang để ứng dụng trong y sinh còn rất hạn chế. Các kết quả nghiên cứu ứng dụng
hệ nano lai Fe3O4-(Ag, Au) làm chất tương phản trong chụp ảnh MRI theo cả hai
chế độ trọng T1 và trọng T2, đồng thời làm chất gia nhiệt (quang/từ - nhiệt) trong
điều trị ung thư, vẫn chưa được công bố. Bởi những lý do trên chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài luận án “Nghiên cứu chế tạo và tính chất của cấu trúc lai ferit từ -
kim loại (Ag, Au) kích thước nano định hướng ứng dụng trong y sinh”.
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Chế tạo cấu trúc lai ferit từ - kim loại (Ag, Au) kích thước nano với đỉnh cộng
hưởng plasmon bề mặt nằm trong vùng hồng ngoại gần, có khả năng chuyển đổi
quang/từ - nhiệt cao, khả năng tương phản ảnh MRI theo cả hai chế độ chụp trọng T1
và T2 và có khả năng diệt khuẩn mạnh định hướng ứng dụng trong y sinh.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án:
Nghiên cứu này mở đường cho việc thiết kế các hệ vật liệu nano lai đa chức
năng vừa chẩn đoán, vừa điều trị bệnh hiệu quả nhằm giảm thiểu thiệt hại cho các
mô lành trong quá trình điều trị.
3
Bố cục của luận án:
Luận án có 120 trang (chưa bao gồm tài liệu tham khảo), gồm các nội dung:
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan về hệ vật liệu nano ferit từ - kim loại quý
Chương 2. Thực nghiệm và các phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả và thảo luận
3.1. Hạt nano ferit từ
3.2. Hạt nano lai Fe3O4-(Ag, Au)
3.3. Hạt nano bọc PMAO
3.4. Khả năng ứng dụng của vật liệu Fe3O4-(Ag, Au) trong y sinh
Kết luận
4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
VỀ HỆ VẬT LIỆU NANO FERIT TỪ - KIM LOẠI QUÝ
1.1. Giới thiệu chung về vật liệu nano ferit từ - kim loại quý
1.1.1. Tính chất từ của vật liệu ferit từ
Tính chất từ của các vật liệu khác nhau tùy thuộc vào cấu trúc điện tử của
chúng. Các mômen từ của nguyên tử được tạo ra bởi mômen từ của các điện tử
liên quan đến chuyển động nội tại của điện tử (chuyển động spin) và mômen từ
quỹ đạo do chuyển động của điện tử quanh hạt nhân nguyên tử gây ra. Trong tự
nhiên, tất cả các vật liệu đều bị từ hóa ở một mức độ nào đó. Tính chất từ của vật
liệu được xác định bởi cấu trúc điện tử của nguyên tử tạo nên vật liệu đó. Ta có
thể phân loại các vật liệu từ theo độ cảm từ () hay hệ số từ hóa. Độ cảm từ có thể
có giá trị từ 10-5
đối với vật liệu từ rất yếu (nghịch từ) đến 10+6
đối với vật liệu từ
rất mạnh (sắt từ) [19]:
Hình 1.1. Sơ đồ minh họa sự sắp xếp các mômen từ của các vật liệu khác nhau khi
không có và có từ trường bên ngoài (H) [20].
5
Vật liệu nghịch từ: là vật liệu được hình thành từ các nguyên tử không có
mômen từ spin hoặc mômen từ quỹ đạo. Khi đặt vật liệu nghịch từ trong từ trường
ngoài thì các mômen từ sinh ra trong vật liệu định hướng ngược với hướng của từ
trường ngoài và có giá trị rất nhỏ (hình 1.1a). Độ cảm từ của vật liệu có giá trị âm
và có độ lớn khoảng 10-6
÷ 10-5
(cgs g-1
). Nguồn gốc của tính nghịch từ là chuyển
động quỹ đạo của điện tử quanh hạt nhân do tác dụng của cảm ứng điện từ bởi từ
trường ngoài. Tất cả các vật liệu có lớp vỏ điện tử được lấp đầy là các vật liệu
nghịch từ.
Vật liệu thuận từ: là vật liệu được tạo thành từ các nguyên tử có một phần
lớp vỏ điện tử được lấp đầy. Khi không có từ trường ngoài, trong vật liệu có mômen
từ nguyên tử, tuy nhiên chúng sắp xếp hỗn loạn do chuyển động nhiệt nên mômen
từ của toàn bộ vật liệu bằng không. Khi có từ trường ngoài đặt vào mẫu, các
monmet từ của mẫu sắp xếp theo hướng của từ trường ngoài (hình 1.1b). Vật liệu
thuận từ có độ cảm từ dương 10-5
÷ 10-3
(cgs g-1
).
Vật liệu sắt từ: là vật liệu mà mômen nguyên tử sắp xếp song song do năng
lượng tương tác giữa các spin là dương và có giá trị lớn, vì vậy tạo ra từ tính tự
phát rất lớn ngay cả khi không có từ trường ngoài (hình 1.1c). Các vật liệu sắt từ
thông thường nhất là các kim loại chuyển tiếp dãy 3d như Co, Fe, Ni và các hợp
kim của chúng.
Vật liệu phản sắt từ: cũng giống vật liệu sắt từ ở chỗ nó tạo thành từ các
nguyên tử có mômen từ với độ lớn bằng nhau. Tuy nhiên, các mômen từ này định
hướng ngược nhau (đối song) nên từ hóa tổng thể của vật liệu phản sắt từ gần bằng
0 khi không có mặt từ trường (hình1.1d). Các loại vật liệu phản sắt từ điển hình là:
CoO, NiO, FeO.
Vật liệu ferit từ: là vật liệu có các mômen từ không có độ mạnh như nhau và
chúng sắp xếp đối song (hình 1.1.e). Vật liệu ferit từ có từ tính tự phát, nhưng thấp
hơn trong vật liệu sắt từ. Các oxit của kim loại chuyển tiếp như Fe3O4 hoặc ferit như
CoFe2O4 là ví dụ điển hình cho vật liệu ferit từ.
Để giảm tối đa năng lượng khử từ, các vật liệu từ như sắt từ hoặc ferit từ có
xu hướng chia nhỏ thành các đômen. Kích thước của đômen từ vài chục đến vài
trăm nanomet và được xác định bởi hằng số dị hướng và tính chất từ của mỗi vật
liệu. Trong một đômen, các mômen từ có xu hướng định hướng theo một hướng
6
nhất định gọi là hướng dễ từ hóa. Khi kích thước của hạt giảm xuống thấp hơn kích
thước của một đômen, hạt nano từ là các đơn đômen và trở thành vật liệu siêu thuận
từ ở nhiệt độ phòng. Vật liệu siêu thuận từ cũng tương tự như vật liệu thuận từ, tức
là khi không có từ trường ngoài, mômen từ tổng thể của vật liệu sẽ bằng không. Khi
đặt chúng trong từ trường ngoài mômen từ của các nguyên tử sẽ định hướng theo
hướng từ trường ngoài, tổng mômen từ của các hạt giống như một mômen từ
“khổng lồ” duy nhất [21]. Tuy nhiên khác với vật liệu thuận từ, giá trị từ hóa của
vật liệu siêu thuận từ lớn hơn rất nhiều.
1.1.2. Tính chất quang của vật liệu kim loại quý (Ag, Au)
* Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt:
Các kim loại quý (Ag, Au) có mật độ điện tử tự do lớn nên khi được kích
thích bởi điện trường của ánh sáng tới thì chúng dao động. Thông thường các dao
động này bị dập tắt nhanh bởi các sai hỏng mạng hay bởi chính các nút mạng tinh
thể trong kim loại khi quãng đường tự do trung bình của điện tử nhỏ hơn kích
thước vật liệu. Nhưng khi kích thước của kim loại nhỏ hơn quãng đường tự do
trung bình thì hiện tượng dập tắt không còn nữa mà dao động sẽ lan truyền trên bề
mặt kim loại và điện tử sẽ dao động cộng hưởng với ánh sáng kích thích nếu tần số
của sóng ánh sáng tới trùng với tần số dao động riêng của hệ điện tử. Do vậy, sự
dao động tập thể của các điện tử dẫn khi tương tác với sóng ánh sáng đã tạo ra một
hiệu ứng quang đặc biệt trong các cấu trúc nano kim loại quý. Hiện tượng tất cả
các điện tử dẫn trên bề mặt kim loại được kích thích đồng thời tạo thành một dao
động đồng pha được gọi là hiện tượng “cộng hưởng plasmon bề mặt” [22]. Dao
động của các điện tử này xung quanh bề mặt hạt gây ra sự phân tách điện tích, tạo
thành dao động lưỡng cực dọc theo hướng điện trường của ánh sáng (hình 1.2).
Cộng hưởng plasmon bề mặt gây ra sự hấp thụ mạnh ánh sáng tới và có thể đo
được bằng máy quang phổ hấp thụ UV - Vis.
Hình 1.2. Sơ đồ minh họa hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt của các hạt nano
kim loại quý (LSP: plasmon bề mặt cục bộ) [23].
7
* Lý thuyết Mie:
Để giải thích tính chất quang của các hạt nano kim loại quý, Mie đã giải bài
toán tán xạ của sóng điện từ trên một hạt cầu kim loại với giả thiết các hạt và môi
trường xung quanh nó là đồng nhất. Phương trình được mô tả bằng các hàm điện môi
quang học trong tọa độ cầu với điều kiện biên thích hợp. Điều kiện biên được xác
định bởi tính gián đoạn rõ nét của mật độ điện tử tại bề mặt của hạt bán kính R. Kích
thước hạt, các hàm quang học của hạt và hàm điện môi của môi trường xung quanh
được sử dụng như là các thông số đầu vào [24].
Khi đường kính của hạt cầu nhỏ hơn nhiều so với bước sóng ánh sáng (d << ),
điện trường của ánh sáng có thể được coi là không đổi và tương tác bị chi phối bởi
trường tĩnh điện hơn là điện động lực học. Khi đó, plasmon của một hạt nano kim
loại được xem là một dao động lưỡng cực có tần số plasmon phụ thuộc vào hằng số
điện môi của chúng. Do hằng số điện môi của hạt kim loại và m của môi trường
xung quanh phụ thuộc vào bước sóng, nên trong trường hợp này người ta gọi là gần
đúng giả tĩnh (quasi-static). Trong chế độ giả tĩnh, các dịch chuyển pha hay các hiệu
ứng trễ của trường điện động là không đáng kể, trường điện từ trong hạt là đồng
nhất. Nếu d >> , trường điện từ trong hạt là không đồng nhất, sẽ có sự dịch pha
dẫn tới kích thích dao động đa cực.
Lý thuyết Mie đã tìm ra tiết diện dập tắt (ext), bao gồm tiết diện hấp thụ
(abs) và tiết diện tán xạ (sct) của hạt như sau:
ext j j2j=1
2σ = (2j + 1) Re(a + b )
x
(1.1)
abs = ext - sca (1.2)
2 2
sca j j2j=1
2σ = (2j + 1) a + b
x
(1.3)
Với m2πRnx =
ω
(1.4)
Trong đó: R là bán kính hạt, là tần số góc của ánh sáng tới trong chân
không, aj và bj là các hệ số tán xạ, nm là chiết suất thực của môi trường xung quanh.
Trong các biểu thức này, j là chỉ số tổng hợp của các sóng từng phần: j = 1 tương
ứng với dao động lưỡng cực, j = 2 tương ứng với dao động tứ cực.
8
Khi kích thước hạt nhỏ hơn nhiều so với bước sóng ánh sáng (d << ), thì
dao động của điện tử được xem là dao động lưỡng cực và tiết diện dập tắt được viết
dưới dạng đơn giản:
23/2
ext m 22
1 m 2
ε ωωσ = 9 ε V
c ε (ω) + 2ε + ε ω
(1.5)
Trong đó V = (4/3)R3 là thể tích hạt cầu, c là vận tốc ánh sáng, là tần số
góc của ánh sáng kích thích, m là hằng số điện môi của môi trường quanh hạt và
() = 1() + i1() là hàm điện môi của hạt. Ở đây () được coi là không phụ
thuộc vào tần số của ánh sáng tới, còn () là một hàm phức của năng lượng. Hiện
tượng cộng hưởng plasmon xảy ra khi 1() = -2m nếu 2 là nhỏ và phụ thuộc yếu
vào . Điều này có nghĩa là tiết diện dập tắt của hạt lớn nhất khi ánh sáng truyền
toàn bộ năng lượng của nó cho hạt để kích thích plasmon. Có thể chia sự đóng góp
vào hằng số điện môi thành hai phần: một là từ sự chuyển tiếp liên vùng inter
() và
hai là sự chuyển tiếp trong vùng
intra() bao gồm hiệu ứng bề mặt:
1() = 1inter
() + 1intra
() (1.6)
2() = 2inter
() + 2intra
() (1.7)
Trong đó
intra() có thể được tính toán theo mô hình Drude cho điện tử gần tự do:
2p
2 2
ωintra
1 ω + Γε ω = 1 -
(1.8)
2p
2 2
ωintra
2 (ω + Γ )ε ω = 1 -
(1.9)
Với p là tần số plasmon khối, là hệ số suy hao liên quan đến độ rộng phổ
cộng hưởng plasmon.
Từ lý thuyết Mie người ta có thể tính được tiết diện hấp thụ (abs) và tiết diện
tán xạ (sct) của một hạt như sau:
2
4 6 msca
m
ε - ε512πσ = k R
3 ε + ε
(1.10)
3 m
m
ε - εσ = 32 kR Im
ε + 2εabs
(1.11)
Trong đó, k là số sóng, R là bán kính hạt.
9
Công thức (1.10) và (1.11) cho thấy tiết diện tán xạ của một hạt tỉ lệ với R6
trong khi tiết diện hấp thụ tỉ lệ với R3. Vì vậy khi kích thước hạt nhỏ thì hiệu suất
tán xạ nhỏ hơn so với hiệu suất hấp thụ.
Độ hấp thụ A của một mẫu gồm các hạt nano phân tán trong một môi trường
đồng nhất được cho bởi:
0
1A = log . .
2,303ext
IN l
I
(1.12)
Trong đó (ext) là hệ số dập tắt của mẫu tại bước sóng và N là số hạt trong
một lít, l là độ dày của môi trường hấp thụ (cm).
Các kết quả của lý thuyết Mie đã được sử dụng rộng rãi để giải thích phổ hấp
thụ của các hạt nano kim loại quý cả về định tính cũng như định lượng. Việc điều
khiển hình dạng và kích thước của nano kim loại quý cho phép điều chỉnh tính chất
quang học của chúng (hình 1.3).
Hình 1.3. Phổ UV-Vis của nano Au với hình dạng và kích thước khác nhau [25]:
a) Thanh nano Au, b) Hạt nano SiO2@Au cấu trúc lõi - vỏ và c) Hạt nano Au rỗng.
1.1.3. Hệ vật liệu lai ferit từ - kim loại quý
Không giống như nanocompozit, thường được hình thành trên cơ sở đưa các
yếu tố kích thước nano (chất độn) vào trong một chất rắn dạng ma trận, vật liệu
nano lai là sự kết hợp của hai hoặc nhiều thực thể với thành phần khác nhau để tạo
ra vật liệu mới, đa chức năng mà vẫn mang kích thước nano. Khi các vật liệu khác
nhau được tích hợp với nhau trên một cấu trúc nano, ngoài việc kế thừa các tính
chất riêng của từng thành phần, cấu trúc lai còn thể hiện những tính chất mới do sự
tương tác giữa hai hệ vật liệu tạo nên [26, 27].
Các hạt nano Fe3O4-Au dumbbell được chế tạo đầu tiên vào năm 2005 bởi
Sun và cộng sự [28]. Cho đến nay, một số hệ nano lai ferit từ - kim loại quý cũng
10
được tổng hợp cho các mục đích khác nhau. Fantechi và cộng sự đã tổng hợp hạt
nano lai Fe3O4/Au cấu trúc dumbbell (hình 1.4a) và dạng lõi – vệ tinh thông qua
phương pháp phân hủy nhiệt với sự có mặt của các hạt mầm là các hạt nano vàng
[14]. Kích thước, hình thái và thành phần của hệ lai được điều khiển bằng cách thay
đổi nồng độ tiền chất, nồng độ chất hoạt đồng bề mặt, loại dung môi và nhiệt độ
phản ứng. Bằng phương pháp nuôi mầm, nhóm nghiên cứu của Reguera đã chế tạo
thành công các hạt nano lai Fe3O4/Au với cấu trúc khác nhau trong đó tính chất
quang của vật liệu được cải thiện trong vùng NIR [29]. Lin và cộng sự đã tổng hợp
hệ lai Fe3O4@Au cấu trúc lõi - vỏ (hình 1.4b) dựa trên các copolyme khối được
tổng hợp bằng phương pháp trùng hợp gốc chuyển nguyên tử [30]. Việc điều khiển
kích thước lõi và độ dày lớp vỏ Au trong hệ lai làm thay đổi đáng kể các tính chất từ
và quang của chúng. Gần đây, Dinh và cộng sự đã tổng hợp các hạt lai Fe3O4/Ag
cấu trúc dumbbell (hình 1.4c) cho các ứng dụng từ - nhiệt trị với hiệu suất gia nhiệt
tăng đáng kể so với các hạt nano Fe3O4 riêng lẻ [8]. Hiện tượng này có thể được giải
thích do hiệu suất truyền nhiệt của các hạt kim loại Ag lớn hơn các hạt nano Fe3O4
là thành phần phi kim loại. Ngoài ra, khả năng tương thích sinh học và hiệu suất
chuyển đổi quang - nhiệt của cấu trúc nano lai cũng được cải thiện so với các hạt
nano Fe3O4 và Ag riêng lẻ.
Hình 1.4. Ảnh TEM của một số hệ nano lai ferit từ - kim loại quý khác nhau
a) Fe3O4-Au (dumbbell) [14], b) Fe3O4@Au (lõi - vỏ ) [30], c) Fe3O4-Ag (dumbbell)
[8], d) Fe3O4/Pt [31], e) Fe3O4/Pd [32], f) CoFe2O4/Pd [33].
11
Trong những năm gần đây, một số cấu trúc nano lai cấu tạo bởi thành phần
Fe3O4 và Pt/Pd được tổng hợp cho các ứng dụng xúc tác [31, 32] (hình 1.4d, e).
Ngoài Fe3O4, một số ferit khác cũng được lựa chọn làm thành phần từ tính cho các
hệ lai ferit từ - kim loại quý như CoFe2O4/Au, CoFe2O4/Ag và CoFe2O4/Pd (hình
1.4f) [33–35].
Ngày nay, các hạt nano ferit từ và đặc biệt là nano Fe3O4 đóng vai trò quan
trọng trong các ứng dụng y sinh khi chúng được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược
phẩm Hoa Kỳ (Food and Drug Administration - FDA) chấp thuận cho các phương
pháp điều trị y tế khác nhau và đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng
[36]. Tại Liên minh Châu Âu, các hạt nano Fe3O4 chức năng hóa được chấp nhận để
điều trị các khối u não bằng phương pháp nhiệt trị. Theo lộ trình này, các cấu trúc lai
khác nhau trên cơ sở các hạt nano từ, như Fe3O4/Au, Fe3O4/Ag với kích thước hạt và
hình thái khác nhau được thiết kế cho các ứng dụng y sinh [37, 38].
Trong số các hệ lai ferit từ - kim loại quý được chế tạo cho mục đích y sinh,
các hạt nano lai Fe3O4/Au thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Hiện nay,
các hệ lai Fe3O4/Au được chế tạo với một số cấu trúc khác nhau tùy thuộc vào mục
đích sử dụng (hình 1.5):
Hình 1.5. Cấu trúc của nano lai Fe3O4-Au: a) lõi – vệ tinh; b) lõi - vỏ hình cầu;
c) lõi - vỏ không hình cầu và d) Cấu trúc rỗng [15].
Trong số các dạng cấu trúc của hệ lai Fe3O4/Au, cấu trúc rỗng (hollow) có
nhiều ưu điểm hơn cho các ứng dụng y sinh. Ngoài thể hiện tính chất từ, các hạt lai
Fe3O4-Au cấu trúc rỗng còn hấp thụ mạnh các bức xạ trong vùng NIR. Vì vậy, có
thể sử dụng chúng như một vật liệu đa chức năng trong chẩn đoán và điều trị ung
thư. Nghiên cứu của Yongdong Jin và đồng tác giả cho thấy các hạt lai
Fe3O4@polyme@Au có lõi từ và vỏ Au được ngăn cách nhau bởi một lớp polyme
12
điện môi (hình 1.6a, b), có khả năng hấp thụ ánh sáng NIR cho phép tăng cường độ
tương phản ảnh MRI theo chế độ trọng T2 [39]. Xiaoyuan Chen và cộng sự đã chế
tạo hệ lai Fe3O4@Au rỗng với lớp vỏ Au xốp (hình 1.6c, d), ứng dụng trong chẩn
đoán hình ảnh và quang – nhiệt trị [18]. Ngoài ra, cấu trúc lai với phía trong rỗng nên
cung cấp bề mặt riêng cao vì vậy có thể sử dụng chúng như chất mang thuốc trong
điều trị bệnh ung thư. Thuốc có thể được nạp bằng cách “đóng gói” bên trong cấu
trúc rỗng hoặc gắn lên bề mặt lớp vỏ Au, các phân tử thuốc được liên kết với bề mặt
Au bên trong hoặc bên ngoài bằng các liên kết kém bền [18]. Hạn chế chính của các
hệ lai Fe3O4/Au rỗng đã công bố là kích thước hạt của chúng lớn (từ 40 ÷ 100 nm),
nên ảnh hưởng đến sự xâm nhập vào các mô và quá trình lưu thông máu trong cơ
thể. Do đó, việc chế tạo các hệ lai Fe3O4/Au rỗng với kích thước hạt nhỏ, tích hợp cả
tính chất từ và quang (trong vùng NIR) vẫn là một thách thức lớn hiện nay.
Hình 1.6. Ảnh TEM và minh họa cấu trúc hạt lai Fe3O4/Au:
Fe3O4@polyme@Au (a, b) [39] và Fe3O4@Au rỗng (c, d) [18].
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu về chế tạo và ứng dụng các hạt nano từ và
nano kim loại quý đã và đang được tiến hành chủ yếu ở Viện Khoa học Vật liệu,
Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Vật lý thuộc Viện Hàn lâm KHCNVN; Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm nghiên
cứu của GS. Nguyễn Xuân Phúc ở Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm
KHCNVN là một trong những nhóm đầu tiên chế tạo các hạt nano từ cho ứng dụng y
sinh, đặc biệt là ứng dụng đốt từ trong điều trị bệnh ung thư [40–42]. Các nhóm
nghiên cứu của GS. Nguyễn Hoàng Lương (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội) và
PGS. Lê Anh Tuấn (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) có quan tâm đặc biệt đến
chế tạo các hạt nano từ và nano bạc cho mục đích y sinh. Nhóm nghiên cứu của
PGS. Trần Hồng Nhung thuộc Viện Vật lý, Viện Hàn lâm KHCNVN là những người
đi đầu trong việc chế tạo nano vàng làm tác nhân quang - nhiệt trị [43, 44]. Các
13
nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào chế tạo các hạt nano từ hoặc nano kim loại
quý riêng rẽ vì vậy sẽ hạn chế phạm vi ứng dụng của chúng. Thời gian gần đây,
nhóm nghiên cứu của TS. Lê Trọng Lư ở Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm
KHCNVN đã phát triển các loại vật liệu nano lai giữa nano từ và nano kim loại quý
tạo ra vật liệu đa chức năng cho ứng dụng y sinh [45, 46]. Kết quả bước đầu cho thấy
hệ vật liệu lai ferit từ - kim loại quý đã khắc phục những hạn chế của các vật liệu
riêng rẽ.
1.2. Tính chất vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý
1.2.1. Tính chất từ
Để ứng dụng trong y sinh, vật liệu chế tạo được phải siêu thuận từ (lực kháng
từ và từ dư bằng không). Nếu không, các hạt sẽ kết tụ thành khối, gây ra tác dụng
không mong muốn như hiện tượng tắc mạch máu. Tính chất từ của các hạt lai ferit
từ - kim loại quý chủ yếu được điều khiển bởi thành phần từ tính của chúng, nó phụ
thuộc vào kích thước, thành phần và cấu trúc của lõi từ [15].
Hình 1.7. Đường cong từ trễ của một số nano ferit từ và hệ lai ferit từ - kim loại
quý: a) MnFe2O4 và MnFe2O4/Ag [47], b) Fe3O4 và Fe3O4/Au [48].
Nghiên cứu của Dinh và cộng sự cho thấy từ độ của các hạt lai Fe3O4/Ag
giảm đáng kể so với các hạt nano từ Fe3O4 [8]. Huy và cộng sự cũng chỉ ra rằng sự
có mặt của nano Ag trong cấu trúc lai MnFe2O4/Ag dẫn đến giảm mạnh giá trị từ độ
của hệ lai [47] (hình 1.7a). Sự giảm từ độ bão hòa của Fe3O4/Au HNPs cũng được
Pascuala báo cáo trong một nghiên cứu khác [48] (hình 1.7b). Giá trị từ độ của hệ
lai ferit từ - kim loại quý giảm so với các ferit từ tinh khiết được giải thích bằng sự
tồn tại của thành phần kim loại quý (như Au, Ag) là những thành phần phi từ. Ngoài
14
ra, tương tác lưỡng cực từ giữa các hạt ferit từ trong hệ lai giảm, dẫn đến các giá trị
từ độ bão hòa (Ms), lực kháng từ (Hc) và từ dư (Mr) của hạt lai cũng giảm so với
các ferit từ tinh khiết. Bên cạnh đó, sự thay đổi cấu trúc và hiệu ứng chuyển điện tử
(tại giao diện của thành phần ferit từ và kim loại quý) cũng làm thay đổi đáng kể
các mômen từ và tính dị hướng từ của vật liệu [49].
1.2.2. Tính chất quang
Tính chất quang của cấu trúc lai ferit từ - kim loại quý gây ra bởi sự hoạt
động của các điện tử trên bề mặt lớp vỏ kim loại quý khi được kích thích bởi sóng
điện từ (hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt). Hệ lai Fe3O4/Au có đỉnh SPR được
mở rộng và dịch chuyển về phía bước sóng dài trong phạm vi 530 ÷ 600 nm với các
cấu trúc đặc có kích thước dưới 20 nm [16] hoặc 650 ÷ 950 nm với các cấu trúc
rỗng [17] (hình 1.8), trong khi các hạt nano Au tinh khiết có vị trí SPR thường là
520 nm (dạng hình cầu đặc) [30]. Nghiên cứu tính chất quang trên các hệ lai ferit từ
- kim loại quý khác cũng cho thấy đỉnh SPR của vật liệu được mở rộng và dịch
chuyển về phía bước sóng dài so với các hạt kim loại quý riêng rẽ [50].
Hình 1.8. a) Ảnh và phổ UV-Vis của dung dịch chứa các hạt Au rỗng và hạt lai
Fe3O4 – Au rỗng: mẫu Au rỗng (mẫu 1 ÷ 4, với tỷ lệ (Ag, Au) tăng dần) và các hạt
lai Fe3O4 – Au rỗng (mẫu 5 ÷ 8, với tỉ lệ kích thước khoang trống/vỏ Au tăng dần);
b) Ảnh TEM của các hạt lai Fe3O4 – Au rỗng tương ứng (thang chuẩn 20 nm) [17].
Cường độ hấp thụ plasmon bề mặt cũng được coi là một tiêu chí quan trọng
cho hiệu quả ứng dụng của các hạt nano lai ferit từ - kim loại quý trong lĩnh vực y
15
sinh [51]. Sự thay đổi cường độ và vị trí SPR của hạt nano lai phụ thuộc vào tính
chất điện tử bề mặt của vật liệu [52]. Nếu các điện tử trên bề mặt hạt nano kim loại
quý bị dư thừa dẫn đến sự dịch chuyển vị trí SPR sang vùng bước sóng ngắn, trong
khi thiếu điện tử gây ra sự dịch chuyển sang vùng bước sóng dài [30]. Các hạt nano
ferit từ là thành phần thiếu điện tử so với các hạt kim loại quý (Ag, Au), trong hệ lai
các điện tử sẽ được chuyển từ kim loại quý sang ferit từ gây ra sự thiếu hụt điện tử
trên bề mặt của nano kim loại quý [50]. Do đó, đỉnh SPR của các hạt nano lai ferit
từ - kim loại quý bị dịch chuyển về phía bước sóng dài so với các hạt nano kim loại
quý tinh khiết.
Theo Mie tính chất quang của các hạt Fe3O4-(Ag, Au) cấu trúc lõi - vỏ được
giải thích dựa trên mô hình lai, chúng có thể được xem như sự tương tác giữa một
hạt nano cầu đặc (Fe3O4) và một hạt nano cầu rỗng (Ag, Au). Độ lớn của lực tương
tác giữa các hạt nano đặc và hạt nano rỗng phụ thuộc vào độ dày của lớp vỏ. Tương
tác là yếu trong trường hợp lớp vỏ dày và tương tác mạnh trong trường hợp lớp vỏ
mỏng. Vì tồn tại hai plasmon cộng hưởng của các quả cầu đặc và rỗng nên có thể
xem hiệu ứng plasmon cộng hưởng của hạt lai là kết quả của sự tương tác giữa 2
nguyên tử, lai với nhau tạo thành hai mode: mode liên kết với năng lượng thấp hơn
và phản liên kết với năng lượng cao hơn (hình 1.9).
Hình 1.9. Mô hình lai mô tả sự tương tác giữa hạt nano cầu đặc và rỗng [53].
16
Các tần số cộng hưởng plasmon được xác định như sau:
2n+1
p2 1n±
2
ω R1ω = 1 ± 1 + 4n(n + 1)
2 2n + 1 R
(1.13)
Trong đó: R1 là bán kính lõi, R2 là bán kính vỏ, n là thứ tự của sóng hình cầu,
p tần số plasmon khối, + là tần số cộng hưởng plasmon ứng với mode phản liên
kết, - là tần số cộng hưởng plasmon ứng với mode liên kết.
Ta thấy tần số cộng hưởng plasmon n phụ thuộc vào tỷ lệ lõi - vỏ của hạt.
Vì vậy, muốn tạo ra được bước sóng hấp thụ plasmon nằm trong vùng hồng ngoại
gần ta phải điều chỉnh n chính là điều chỉnh tỷ lệ lõi - vỏ của hạt.
Xue và cộng sự đã áp dụng lý thuyết Mie để tính toán sự hấp thụ quang của
cấu trúc lõi - vỏ Fe3O4@Au cho hai kích thước hạt khác nhau 60 và 100 nm với các
tỷ lệ khác nhau giữa độ dày vỏ và bán kính lõi là 10%, 20%, 30% và 40%. Phổ thu
được cho thấy đỉnh SPR bị dịch chuyển sang vùng hồng ngoại gần khi tỷ lệ giữa độ
dày vỏ và bán kính lõi giảm [54]. Lin và cộng sự đã chỉ ra rằng cực đại hấp thụ của
các hạt lõi - vỏ Fe3O4@Au dịch chuyển về phía bước sóng dài hơn so với các hạt
nano Au tinh khiết và cường độ của sự dịch chuyển tăng cùng với sự gia tăng kích
thước lõi Fe3O4. Khi tỷ lệ thể tích Au/Fe3O4 tăng, đỉnh hấp thụ bị dịch chuyển về
phía bước sóng ngắn hướng tới vị trí của các hạt nano Au tinh khiết [30].
1.2.3. Tính tương thích sinh học và ổn định hóa lý
Để sử dụng thành công các vật liệu nano khác nhau trong các ứng dụng y
sinh, tính tương thích sinh học là yếu tố rất cần thiết. Khả năng tương thích sinh học
của hạt nano được đánh giá bằng cách sử dụng các phân tích in vitro, thử nghiệm
mô hình động vật và cuối cùng là thử nghiệm lâm sàng trước khi sử dụng trong các
ứng dụng y sinh. Bên cạnh tính tương thích sinh học, tính ổn định hóa lý cũng là
một trong những đặc điểm quan trọng của các hạt nano cho mục đích y sinh. Sự ổn
định hóa lý của các hạt nano không chỉ ngăn chặn sự biến đổi pha, mà còn hỗ trợ
việc kiểm soát các tính chất của vật liệu.
Các nghiên cứu cho thấy thành phần ferit từ thường thể hiện tính tương thích
sinh học trong đó Fe3O4 thể hiện khả năng tương thích sinh học cao [55, 56]. Thành
phần kim loại quý như Au và Ag có tính ổn định hóa học cao, chúng được sử dụng
để bảo vệ các hạt nano ferit từ khỏi quá trình oxy hóa và thay đổi trạng thái điện tử
17
của chúng [57]. Sự kết hợp giữa thành phần ferit từ và kim loại quý tạo ra cấu trúc
nano lai với tính tương thích sinh học và ổn định hóa lý cao hơn khi chúng ở dạng
tinh khiết [4]. Dinh và cộng sự đã nghiên cứu độc tính của vật liệu nano Ag và
Fe3O4/Ag HNPs trên dòng tế bào ung thư gan (SMMC-7721) và dòng tế bào gan
bình thường (L02) ở người. Kết quả cho thấy độc tính của nano Ag thể hiện rõ ở
nồng độ Ag lớn hơn 10,35 g/mL trong khi Fe3O4/Ag HNPs không gây độc trên hai
dòng tế bào ở nồng độ Ag lên tới 24,83 g/mL. Như vậy, cấu trúc lai Fe3O4/Ag thể
hiện khả năng tương thích sinh học cao hơn so với Ag NPs riêng lẻ [8]. Hoskins và
cộng sự đã nghiên cứu độc tính của các hạt nano lai Fe3O4/Au trên các tế bào ung thư
sắc tố da, kết quả cho thấy không có sự suy giảm tỉ lệ sống của tế bào sau 7 ngày xử
lý trong phạm vi nồng độ 25 ÷ 50 g/mL [58]. Gần đây, Lee và cộng sự báo cáo việc
sử dụng lớp phủ polyetylen glycol (PEG) trên các hạt lai MnFe2O4@SiO2@Au lõi -
vỏ để tăng tính ổn định keo và hiệu quả liên hợp kháng thể [59]. Việc tạo một lớp
tương thích sinh học trên bề mặt hạt lai là phương pháp rất hiệu quả để giảm độc tính.
Như vậy, sự kết hợp giữa thành phần ferit từ và kim loại quý trên một cấu
trúc nano duy nhất đã ảnh hưởng đáng kể đến các tính chất từ và tính chất quang
cũng như tính tương thích sinh học và ổn định hóa lý, từ đó có thể sử dụng để điều
chỉnh các đặc tính cho các ứng dụng khác nhau.
1.3. Ứng dụng của vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý trong y sinh
Tính chất siêu thuận từ của thành phần ferit từ cho phép các ứng dụng như từ
- nhiệt trị, chất tương phản ảnh MRI, tách từ và phân phối thuốc hướng đích. Ngoài
ra, tính chất quang của nano kim loại quý (Ag, Au) cho phép các ứng dụng như
quang – nhiệt trị, chụp ảnh quang, sensor sinh học. Sự kết hợp của thành phần ferit
từ và kim loại quý tạo ra các ứng dụng đa dạng hơn so với các hạt nano riêng lẻ.
Hiệu quả ứng dụng của các hạt lai ferit từ - kim loại quý phụ thuộc vào thành phần,
cấu trúc, tính chất bề mặt, kích thước và hình thái hạt lai. Một số định hướng ứng
dụng chính của hạt nano lai ferit từ - kim loại quý trong lĩnh vực y sinh được trình
bày trong các phần dưới đây.
1.3.1. Ứng dụng nhiệt trị trong điều trị ung thư
Phương pháp nhiệt trị (hay tăng thân nhiệt) trong điều trị ung thư dựa trên
nguyên tắc: các tế bào ung thư nhạy cảm với nhiệt độ, chúng bị tổn thương hoặc bị
18
tiêu diệt trong một phạm vi nhiệt độ cho phép, trong khi tế bào lành không bị ảnh
hưởng trong khoảng nhiệt độ đó.
Phản ứng của các tế bào ung
thư khi tiếp xúc với nhiệt độ phụ thuộc
vào thời gian tiếp xúc và độ cao của
nhiệt độ. Sự tác động của nhiệt độ lên
tế bào ung thư được trình bày trên hình
1.10. Các nghiên cứu cho thấy khi
nhiệt độ tế bào lớn hơn 39 oC, quá
trình biến tính protein bắt đầu xảy ra
[60, 61]. Kết quả của sự biến tính là
các protein dễ bị kết tụ và sau đó có
thể gây ra sự tổn thương hoặc sự hủy
diệt tế bào. Khi nhiệt độ của tế bào đạt 40 ÷ 41 oC, không chỉ gây biến tính protein
mà còn làm cho tế bào mất hoạt động tạm thời, quá trình này có thể kéo dài trong
vài giờ. Các tế bào sống sót xuất hiện đề kháng khi được tiếp xúc thêm với khoảng
nhiệt độ này do tạo ra khả năng chịu nhiệt tạm thời (còn gọi là khả năng chịu nhiệt)
[62]. Ap dụng nhiệt độ cao hơn khoảng 41÷ 42 oC trong thời gian vài giờ, sẽ làm
mất khả năng chịu nhiệt tạm thời của tế bào. Khi nhiệt độ tế bào đạt 43 ÷ 45 oC,
các tế bào bị mất hoạt động lâu dài [63]. Trong phạm vi nhiệt độ này, tốc độ của
các phản ứng sinh hóa tăng lên đáng kể dẫn đến sự xuất hiện “hiệu ứng oxy hóa” do
sự gia tăng mật độ tế bào dạng oxy phản ứng. Những dạng tế bào này có thể gây
tổn thương oxy hóa cho protein, lipit và axit nucleic [64]. Trong khoảng nhiệt độ
45 ÷ 48 oC gây ra sự chết tế bào ung thư rất nhanh [65]. Các nghiên cứu cho thấy
khoảng nhiệt độ phù hợp nhất sử dụng trong nhiệt trị là 42 ÷ 46 oC (vùng cửa sổ
nhiệt độ trị liệu) [9].
Cho đến nay, đa số các kỹ thuật nhiệt trị trong điều trị ung thư được thực
hiện bằng việc đưa một thiết bị vào vị trí khối u để làm nóng và tiêu diệt các tế bào
ung thư. Tuy nhiên, nhược điểm chính của phương pháp này liên quan đến việc
phẫu thuật để đưa thiết bị vào trong cơ thể nên dễ làm tổn thương thậm chí tiêu diệt
các mô khỏe mạnh xung quanh. Ngoài ra, trong một số trường hợp như ung thư di
căn, phương pháp này sẽ không có tác dụng do các tế bào ung thư phân tán khắp cơ
Hình 1.10. Sự tác động của nhiệt độ lên
tế bào ung thư [25].
19
thể. Việc sử dụng các hạt nano lai ferit từ - kim loại quý để tăng thân nhiệt cục bộ
trong điều trị ung thư là một giải pháp tiềm năng cho vấn đề này.
1.3.1.1. Từ - nhiệt trị
Là phương pháp điều trị ung thư dựa vào hiệu ứng đốt nóng cảm ứng từ, tức là
hiện tượng nhiệt độ của các hạt nano từ tăng lên khi chúng hấp thụ năng lượng của từ
trường ngoài [66].
Hai cơ chế chính đóng góp vào
quá trình sinh nhiệt của chất lỏng từ
trong từ trường xoay chiều là tổn hao
từ trễ và tổn hao hồi phục. Với các hạt
nano từ được sử dụng trong y sinh đòi
hỏi phải siêu thuận từ nên đóng góp
chính vào quá trình sinh nhiệt là cơ chế
hồi phục (bao gồm hồi phục Néel và
hồi phục Brown) và đóng góp của cơ
chế từ trễ là không đáng kể [67–69].
Khi các hạt nano từ được đưa đến vị trí khối u (bằng cách tiêm trực tiếp hoặc
dẫn thuốc hướng đích), dưới tác dụng của từ trường xoay chiều có cường độ và tần số
đủ lớn, các hạt nano sẽ tham gia vào hai quá trình chuyển động là chuyển động quay
của các mômen từ bên trong hạt (chuyển động Néel) và chuyển động quay của toàn
bộ hạt bên trong khối u (chuyển động Brown) gây ra nhiệt ma sát (hình 1.11). Hai
quá trình này sinh nhiệt làm nóng môi trường xung quanh các hạt. Khó khăn chủ
yếu đối với phương pháp từ - nhiệt trị là việc đưa một lượng hạt nano phù hợp để tạo
ra lượng nhiệt đủ lớn dưới tác dụng của từ trường ngoài trong khi phải duy trì tần số
(f) và cường độ (H) nằm trong phạm vi an toàn cho phép đối với cơ thể (H.f = 5.109
A/ms) [70].
Phương pháp nhiệt trị dựa trên các hạt nano Fe3O4 và các ferit từ tương thích
sinh học khác là một phương pháp đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư [71, 72]. Nhược
điểm chính của các vật liệu này là hiệu suất truyền nhiệt thấp nên hiệu quả nhiệt trị
không cao. Để khắc phục hạn chế này, trong những năm gần đây các hệ lai ferit từ -
kim loại quý đã được chế tạo [50]. Vai trò quan trọng của kim loại quý trong cấu trúc
Hình 1.11. Minh họa chuyển động Néel
và Brown ảnh hưởng đến tính chất gia
nhiệt của hạt nano từ [67].
20
lai đối với phương pháp từ - nhiệt trị là làm tăng độ “nhạy nhiệt” của tế bào ung thư
và chúng nhanh chóng bị tiêu diệt trong cả môi trường in vitro và in vivo. Như đã đề
cập trong phần 1.2.1, các kim loại quý như Au, Ag đều làm giảm từ độ bão hòa của
hệ lai, nhưng chúng có tác dụng đáng kể đối với việc truyền nhiệt nên có thể cải thiện
hiệu suất tăng nhiệt tổng cộng của cả hệ. Gần đây, Ding và cộng sự đã nghiên cứu
phương pháp từ - nhiệt trị của các hạt nano lai Fe3O4/Ag với các mô hình in vitro và
in vivo [8]. Phương pháp này đã ngăn chặn sự phát triển nhanh của khối u SMMC-
7721 trên chuột và hiệu suất chuyển đổi từ - nhiệt trị của hạt nano lai cao hơn nhiều
so với hạt nano Fe3O4 tinh khiết. Bằng cách sử dụng các hạt nano lai Fe3O4/Ag cho
hiệu ứng từ - nhiệt trị, các khối u ngừng phát triển trong thời gian 7 ngày. Ngoài ra,
kết quả mô bệnh học của các mẫu cho thấy hiện tượng hoại tử và xơ hóa của các mô
ung thư đã xảy ra, điều đó chứng minh tính hiệu quả của các hạt nano lai Fe3O4/Ag
trong phương pháp từ - nhiệt trị.
1.3.1.2. Quang - nhiệt trị
Phương pháp quang - nhiệt trị được áp dụng để tiêu diệt các tế bào ung thư
thông qua nhiệt được tạo ra bởi các hạt nano có tính chất quang khi được chiếu xạ
bởi các photon có bước sóng và năng lượng phù hợp [57].
Hình 1.12. Sơ đồ biểu diễn các quá trình khác nhau xảy ra trên hạt nano
khi được chiếu sáng [25].
Cơ chế sinh nhiệt của hạt nano khi được chiếu sáng có thể mô tả như sau:
Khi một hạt nano được chiếu sáng bởi một chùm ánh sáng, một số photon tới sẽ bị
hấp thụ hoặc tán xạ bởi các hạt nano. Các photon bị hấp thụ đóng vai trò sinh nhiệt
21
(phát ra các phonon) và phát quang (phát ra các photon có năng lượng khác nhau)
như được minh họa trên hình 1.12 [25].
Tổng số các photon tương tác với hạt nano được xác định bởi tiết diện dập tắt
(ext). Giá trị này bằng tổng tiết diện hấp thụ (abs) và tiết diện tán xạ (sct) của các
hạt nano:
ext = abs + sct (1.14)
Hiệu suất hấp thụ (abs) của một hạt nano được tính bằng tổng số photon hấp
thụ (abs) chia cho tổng số photon tới (ext) tương tác với hạt nano:
absabs
ext
αΦ =
α
(1.15)
Năng lượng hấp thụ bởi hạt nano (tính bằng năng lượng của các photon tới
nhân với tổng số photon bị hấp thụ) được giải phóng dưới hai dạng: 1) phát ra các
photon có năng lượng khác với năng lượng của photon tới (sự phát quang) hoặc
2) bằng sự phát ra các phonon (tức là bằng cách tạo ra nhiệt) (hình 1.12) [25]. Để trị
liệu bằng phương pháp quang – nhiệt hiệu quả, các hạt nano phải có hiệu suất hấp
thụ lớn và hiệu suất lượng tử phát quang phải thấp.
Bên cạnh đó, nguồn chiếu sáng
cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu suất chuyển đổi
quang - nhiệt. Như đã đề cập, ánh sáng
NIR với độ sâu thâm nhập tối đa trong
mô, với hai vùng bước sóng: cửa sổ
đầu tiên nằm giữa 650 ÷ 950 nm, với
giá trị tối ưu ở khoảng 808 nm và cửa
sổ thứ hai 1000 ÷ 1350 nm với giá trị
tối ưu khoảng 1064 nm [73]. Giới hạn
cho cửa sổ sinh học NIR chủ yếu được xác định bởi các hệ số hấp thụ của máu và
nước (hình 1.13).
Các hạt nano lai ferit từ - (Ag, Au) sau khi được chiếu sáng sẽ chuyển đổi
năng lượng quang thành năng lượng nhiệt cho phép phá hủy và tiêu diệt có chọn lọc
các tế bào ung thư trong phạm vi nhiệt độ 42 ÷ 46 oC [50]. Do vậy, các hệ lai ferit
Hình 1.13. Độ hấp thụ quang của mô
người đối với ánh sáng [25].
22
từ - (Ag, Au) có tiềm năng trong điều trị ung thư bằng phương pháp quang - nhiệt trị.
Nghiên cứu của Multari và cộng sự cho thấy sự kết hợp của thành phần Au và Fe3O4
trên một cấu trúc nano duy nhất đã tăng cường hiệu suất chuyển đổi quang – nhiệt so
với các hệ đơn lẻ [9]. Với nồng độ hạt lai 50 μg/mL, sau khi được chiếu sáng các tế bào
ung thư biểu mô vảy (HO-1-N-1) đã bị tiêu diệt trong khi đó các tế bào lành nguyên
bào sợi ở người (Human Gingivalis Fibroblast - HGF) không bị ảnh hưởng do các
hạt lai được định vị trực tiếp trên khối u nhờ tác dụng của từ trường ngoài.
1.3.1.3. Kết hợp quang/từ - nhiệt trị
Để đạt được nhiệt độ trị liệu bằng các kỹ thuật từ - nhiệt hoặc quang - nhiệt
như đã đề cập ở trên đòi hỏi phải sử dụng một lượng mẫu đủ lớn. Mặt khác, các kỹ
thuật này cũng gặp phải một số hạn chế trong các thử nghiệm lâm sàng như: việc sử
dụng từ trường với tần số và cường độ lớn hoặc laze có công suất cao sẽ gây thiệt
hại cho các mô sinh học khỏe mạnh [74]. Sử dụng phương pháp quang/từ - nhiệt kết
hợp dựa trên cấu trúc lai ferit từ - (Ag, Au) nhằm khắc phục đáng kể những hạn chế
của các phương pháp nhiệt trị riêng rẽ. Quá trình nhiệt trị bằng phương pháp kết
hợp có thể mô tả tóm tắt theo sơ đồ hình 1.14.
Hình 1.14. Minh họa phương pháp quang/từ - nhiệt trị [75]
a) Thuốc được tiêm vào chuột, dưới tác dụng của từ trường và laze các tế
bào khối u bị tiêu diệt. b) Tăng nhiệt độ cục bộ trong quá trình nhiệt trị
được theo dõi bằng nhiệt hồng ngoại.
Espinosa và cộng sự đã nghiên cứu hiệu ứng quang/từ - nhiệt của hệ lai
Fe3O4@Au (cấu trúc đa lõi từ và lớp vỏ Au). Kết quả cho thấy sự gia tăng nhiệt độ
23
khi áp dụng đồng thời cả từ trường và laze cao gấp 2 lần so với các kỹ thuật riêng rẽ
[11]. Das và cộng sự đã tổng hợp các sợi nano lai Fe3O4-Ag cho các liệu pháp
quang/từ - nhiệt kết hợp. Kết quả cho thấy giá trị SLP tăng dưới tác dụng đồng thời
của từ trường và laze NIR [74]. Sự tăng cường đáng kể hiệu quả sinh nhiệt của các
hạt nano oxit sắt-Au khi bị kích thích đồng thời từ trường và laze cũng được báo
cáo bởi Ovejero và cộng sự [76]. Như vậy, phương pháp nhiệt trị dựa trên kỹ thuật
quang/từ - nhiệt kết hợp là phương pháp đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư [50].
Để đánh giá khả năng sinh nhiệt
của vật liệu nano người ta thường sử
dụng đại lượng công suất tổn hao riêng
(specific loss power - SLP). Giá trị này
đặc trưng cho khả năng sinh nhiệt của
hệ hạt nano trên một đơn vị khối lượng
và được xác định theo công thức [57,
77]:
s
n
m .C dTSLP =
m dt
(1.16)
Trong đó: ms là tổng khối lượng của mẫu (g), C là nhiệt dung riêng của mẫu
(với Cnước = 4,185 J/gK), mn là khối lượng của vật liệu sinh nhiệt có trong mẫu (g)
và dT/dt là tốc độ tăng nhiệt ban đầu được xác định từ đường cong nhiệt độ theo
thời gian (hình 1.15).
1.3.2. Chẩn đoán hình ảnh
Hình ảnh sinh học đóng vai trò quan trọng trong kỹ thuật chẩn đoán y sinh, nó
là công cụ đắc lực giúp cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh được hiệu quả. Hiện nay
nhiều hệ nano lai ferit từ - kim loại quý được sử dụng làm chất tương phản ảnh cho các
kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác nhau: hệ lai Fe3O4/Au, Fe3O4/Ag được sử dụng làm
chất tương phản ảnh trong các kỹ thuật MRI, chụp cắt lớp vi tính (computed
tomography - CT) hay chụp ảnh quang âm (photoacoustic - PA) [78]. Hiệu quả của hầu
hết các kỹ thuật hình ảnh bị ảnh hưởng bởi tính chất từ và quang của vật liệu nano lai
được sử dụng làm chất tương phản. Trong phần này, chúng tôi tập trung nghiên cứu
định hướng ứng dụng hạt nano lai ferit từ - (Ag, Au) làm chất tăng tương phản ảnh
trong kỹ thuật MRI.
Hình 1.15. Cách tính tốc độ tăng nhiệt
ban đầu [67].
24
Phƣơng pháp cộng hƣởng từ hạt nhân (MRI):
Cộng hưởng từ hạt nhân là một kỹ thuật chẩn đoán y khoa tạo ra hình ảnh
giải phẫu chi tiết của cơ thể nhờ sử dụng từ trường và sóng radio. Phương pháp này
cho phép quan sát hình ảnh lớp cắt của các bộ phận cơ thể từ nhiều góc độ trong
một khoảng thời gian ngắn. Ảnh MRI có độ tương phản cao, rõ ràng, chi tiết, giải
phẫu tốt và có khả năng tái tạo 3D mang lại hiệu quả chẩn đoán cho bác sĩ đối với
bệnh lý của bệnh nhân.
Cơ thể người cấu tạo chủ yếu từ nước (60 ÷ 70%). Trong thành phần của
phân tử nước luôn có nguyên tử hydro. Về mặt từ tính, nguyên tử hydro là một
nguyên tử đặc biệt vì hạt nhân của chúng chỉ chứa 1 proton. Mặc dù mômen từ của
1 proton rất nhỏ (bằng 1,5x10-3 mômen từ của điện tử) nhưng trong cơ thể người có
một lượng rất lớn proton (khoảng 6 x1019
proton/mm3
nước) nên có thể tạo ra một
hiệu ứng có thể đo được [69]. Điều đó dẫn đến một hệ quả là: nếu ta dựa vào hoạt
động từ của các nguyên tử hydro để ghi nhận sự phân bố nước khác nhau của các
mô trong cơ thể thì có thể ghi hình và phân biệt được các mô đó. Mặt khác, trong
cùng một cơ quan, các tổn thương bệnh lý đều dẫn đến thay đổi sự phân bố của các
phân tử nước tại vị trí tổn thương, dẫn đến hoạt động từ tại đó sẽ thay đổi so với mô
lành, nên ta cũng ghi hình được các thương tổn.
Như vậy, nguyên lý của phương pháp MRI là dựa trên tín hiệu hồi phục spin
của các proton có trong phân tử nước của các khối mô sinh học khi bị kích thích bởi
các chuỗi xung tần số radio (Radio Frequency - RF) dưới tác dụng của từ trường
ngoài cố định (Bo) [20]. Các proton sẽ dao động cộng hưởng nếu như tần số của từ
trường trùng với tần số Larmor của proton:
ω0 = B0 (1.17)
Trong đó: 0: là tần số Larmor, B0: cường độ từ trường ngoài, : là hệ số từ
cơ của proton.
Bằng cách áp dụng một từ trường xoay chiều có tần số radio theo phương
vuông góc với Bo (hình 1.16a), spin của các proton sẽ bị kích thích và dẫn đến lệch
khỏi hướng ban đầu (hình chiếu của mômen từ lên phương của từ trường cố định Mz
giảm xuống trong khi hình chiếu của nó lên mặt phẳng vuông góc với từ trường
ngoài cố định Mzy tăng lên) (hình 1.16b). Sau khi ngắt từ trường xoay chiều, các
proton sẽ trở về trạng thái ban đầu thông qua việc giải phóng năng lượng kích thích
25
qua hai quá trình trao đổi spin-mạng và spin-spin được xác định bởi thời gian hồi
phục T1 và T2 tương ứng (hình 1.16c, d). Bằng cách sử dụng các chất tương phản
dẫn đến thay đổi thời gian hồi phục T1 và T2 của spin của các proton và do đó làm
thay đổi độ tương phản ảnh MRI. Hiệu quả của một tác nhân tương phản thường
được biểu thị bằng độ hồi phục r1 hoặc r2. Đối với các tác nhân tương phản T1
(tương phản dương), chúng có giá trị r1 cao và tỷ lệ r2/r1 nhỏ, trong khi các tác nhân
tương phản T2 (tương phản âm) cho giá trị r2 cao hơn nhiều so với r1 [20].
Hình 1.16. Nguyên lý của chụp ảnh cộng hưởng từ
a) spin của các proton của phân tử nước quay tròn dưới sự tác dụng của từ trường
ngoài B0 với tần số Larmor (ω0). b) sau khi áp dụng từ trường xoay chiều tần số
radio (RF) có hướng vuông góc với B0 spin proton sẽ bị kích thích và lệch khỏi
hướng ban đầu. Khi ngắt từ trường xoay chiều, spin trở lại trạng thái ban đầu và
giải phóng năng lượng thông qua 2 quá trình gọi là hồi phục dọc (tương tác spin-
mạng) với thời gian hồi phục T1 và quá trình hồi phục ngang (tương tác giữa các
spin-spin với nhau) với thời gian hồi phục T2. c) thời gian hồi phục dọc T1. d) thời
gian phục hồi ngang T2 [20].
Cho đến nay, các tác nhân tương phản T1 và T2 đã được sử dụng rộng rãi
trong lâm sàng [69]. Tác nhân tương phản dương T1 thường sử dụng là các phức của
Gd3+
thuận từ có trị số mômen spin lớn như gadopentetat (tên thương mại là
Magnevist), gadobenat (Multihance), gadodiamit (Omniscan), gadoteridol
(Prohance) hoặc gadobutrol (Gadovist). Trong quá trình hồi phục, sự tương tác giữa
mômen từ của proton với mômen từ của các ion thuận từ làm cho thời gian T1 giảm,
nhờ vậy tốc độ hồi phục r1 tăng lên. Hạn chế lớn nhất của các phức chất Gd3+
là thời
26
gian lưu thông trong cơ thể ngắn do chúng bị bài tiết nhanh qua nước tiểu, làm hạn
chế hình ảnh độ phân giải cao nên đòi hỏi thời gian quét dài [79]. Ngoài ra, các chất
tương phản dựa trên Gd3+
không được sử dụng cho các bệnh nhân bị bệnh thận [79].
Để khắc phục nhược điểm trên, các nghiên cứu gần đây trên thế giới tập trung phát
triển các chất tương phản T2, là những vật liệu nano từ sử dụng oxit và ferit của các
kim loại chuyển tiếp nhóm 3d (Fe, Co hoặc Mn) và bọc chúng bằng các polyme sinh
học để tạo ra chất lỏng từ [80]. So với các phức của Gd3+
, vật liệu nano từ nêu trên
có khả năng tương thích sinh học tốt và có thể được phát hiện ở nồng độ nhỏ hơn
trong sử dụng lâm sàng [56, 81]. Tuy nhiên, tín hiệu tối được tạo ra bởi các chất
tương phản T2 đôi khi bị nhầm lẫn với một số điều kiện nội sinh như vôi hóa, không
khí, xuất huyết và đông máu. Hơn nữa, từ tính cao của các chất tương phản T2 gây
ra sự nhiễu loạn của từ trường cục bộ, có thể phóng đại kích thước của vùng được
đánh dấu và làm mờ hình ảnh [81].
Hình 1.17. a) Ảnh MRI trọng T1 và T2 của hệ lai F-AuNC@Fe3O4 (b, c) đồ thị 1/T1
và 1/T2 theo nồng độ Fe của các hạt lai F-AuNC@Fe3O4 [82].
Để khắc phục nhược điểm của các chất tương phản đơn phương phức nói trên
(chỉ T1 hoặc T2), hiện nay các nhà khoa học đã thiết kế các hệ lai ferit từ - kim loại quý
có khả năng tương phản kép (rút ngắn cả T1 và T2) nhằm nâng cao hiệu quả trong chẩn
đoán MRI [82]. Trong số các hệ lai ferit từ - kim loại quý cho mục đích MRI, các hạt
nano lai Fe3O4-(Ag, Au) được quan tâm nhiều hơn cả do chúng ổn định về mặt hóa
học, khả năng tương thích sinh học cao và có tính chất siêu thuận từ [83, 84]. Wang và
27
cộng sự đã nghiên cứu chế tạo hệ lai gồm hạt nano Au rỗng với các hạt Fe3O4 rất
nhỏ (2,2 nm) được chức năng hóa bằng axit folic (F-AuNC@Fe3O4) với kích
thước hạt trung bình 70 nm cho hiệu quả tương phản ảnh MRI với cả hai chế độ
chụp trọng T1 và trọng T2 (r1 = 6,263 mM-1
s-1
, r2 = 28,117 mM-1
s-1
) (hình 1.17). Các
nghiên cứu in vivo cho thấy hệ lai F-AuNC@Fe3O4 tương thích sinh học và có khả
năng tích lũy chọn lọc trong các mô khối u. Kết quả chụp MRI phương thức T1 và
T2 trên chuột ở các khoảng thời gian khác nhau cho thấy hiệu quả tăng cường độ
tương phản ảnh MRI sau khi tiêm dung dịch chứa các hạt lai F-AuNC@Fe3O4 được
thể hiện rất rõ [82]. Tín hiệu tăng cường độ tương phản ảnh có thể được duy trì hơn
6 giờ, dài hơn nhiều so với các phức chất của Gd3+
với tốc độ bài tiết cao (khoảng
vài phút ở động vật nhỏ) [85]. Kết quả này đã mở ra tiềm năng ứng dụng của hệ lai
ferit từ - kim loại quý trong chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân theo phương thức kép.
1.3.3. Ứng dụng kháng khuẩn
Hiện nay, sự xuất hiện các chủng vi khuẩn mới kháng thuốc đã trở thành một
vấn đề nghiêm trọng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng [86]. Ở Anh, vi khuẩn
MRSA (Methicillin-resistant Staphylococcus aureus) giết chết 5000 bệnh nhân mỗi
năm [87]. Do đó, việc tìm ra các vật liệu mới có khả năng tiêu diệt các chủng vi
khuẩn kháng thuốc là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy các hạt nano Ag, Au, CuO, TiO2 và ZnO
đều có hoạt tính kháng khuẩn [88–90], trong đó Ag NPs được chứng minh là chất
kháng khuẩn mạnh, chúng có khả năng chống lại các loài vi khuẩn, vi rút và các vi
sinh vật nhân thực khác [91]. Ưu điểm của nano Ag trong vai trò kháng khuẩn là
khả năng tiêu diệt mạnh các vi khuẩn gây bệnh trong khi các chủng vi khuẩn này
không có khả năng kháng lại bạc. Do đó, nano bạc được sử dụng rộng rãi trong
nhiều ứng dụng kháng khuẩn.
Theo Qing và cộng sự, hoạt tính kháng khuẩn của nano Ag diễn ra theo 2 cơ
chế [92]: (1) Cơ chế kháng khuẩn thông qua tiếp xúc trực tiếp của Ag NPs với vi
sinh vật và (2) Cơ chế kháng khuẩn thông qua sự giải phóng các ion bạc từ Ag NPs.
Ở cơ chế thứ nhất, nano Ag có thể bám dính vào thành tế bào vi khuẩn và
thâm nhập vào màng tế bào, gây ra những thay đổi vật lý trong màng tế bào, như
tổn thương màng, thay đổi tính chất của tế bào (hình 1.18a) [93]. Khi hệ Ag NPs
thâm nhập vào bên trong tế bào vi khuẩn, nó có thể tương tác với các cấu trúc tế bào
28
và các phân tử sinh học như protein, lipit và DNA dẫn đến rối loạn các chức năng
của vi khuẩn và sau đó tử vong. Đặc biệt, sự tương tác của nano Ag với ribosom sẽ
ức chế quá trình dịch mã tổng hợp protein (hình 1.18b). Các hạt nano Ag tương tác
với các nhóm cacboxyl và thiol, ức chế chức năng sinh học nội bào và dẫn đến chết
tế bào. Hơn nữa, cơ chế kháng khuẩn của nano Ag cũng được giải thích do khả năng
tạo ra các dạng gốc tự do oxy hóa (reactive oxygen species - ROS) làm phá vỡ
màng tế bào hoặc thành tế bào của vi khuẩn [94].
Hình 1.18. Cơ chế kháng khuẩn của các hạt nano Ag [92]
(a) Ag NPs dính lên màng, gây tổn thương màng và dò rỉ nội chất của tế bào (cơ chế 1).
(b) Ag NPs xâm nhập sâu, tương tác với các cấu trúc tế bào và các phân tử sinh học
như protein, lipit và DNA làm rối loạn các chức năng và làm chết vi khuẩn (cơ chế 1).
(c) Ag NPs có thể giải phóng Ag+ trong và ngoài vi khuẩn sau đó chúng tương tác
với protein và enzym (cơ chế 2).
Ở cơ chế thứ hai, các hạt nano Ag có thể giải phóng Ag+ ở trong và ngoài tế
bào vi khuẩn. Nồng độ Ag+ được giải phóng cao nhất trong trường hợp Ag NPs có
kích thước nhỏ nhất. Ion Ag+ (mang điện tích dương) tương tác với thành tế bào vi
29
khuẩn (mang điện tích âm) làm biến đổi hình thái tế bào và tăng tính thấm màng hoặc
rò rỉ tế bào gây chết tế bào. Ag+ có ái lực lớn với photpho và các phân tử sinh học có
chứa lưu huỳnh có trong ngoại bào và các thành phần nội bào (DNA, protein), những
phân tử sinh học này ảnh hưởng đến sự phân chia, sự hô hấp và sự sống của tế bào
[95, 96]. Ngoài ra, sự tương tác của Ag+ với nhóm thiol có thể là nguyên nhân gây ra
các dạng ROS, dẫn đến ức chế enzym hô hấp và gây chết tế bào (hình 1.18c). Ion bạc
hoạt động như một chất kháng khuẩn bằng cách tương tác với thành tế bào
peptidoglycan và màng sinh chất, ngăn cản sự sao chép DNA của vi khuẩn bằng cách
can thiệp vào các nhóm thiol trong protein [97]:
Mặc dù nano Ag có thể tiêu diệt vi khuẩn thông qua hai phương thức hoạt động
khác nhau được đề cập ở trên, nhưng cơ chế kháng khuẩn thường được coi là tác dụng
đồng thời của Ag NPs và Ag+. Quá trình này có thể mô tả theo sơ đồ hình 1.19:
Hình 1.19. Sơ đồ mô tả tương tác của Ag NPs lên vi khuẩn theo thời gian [97].
Để cải thiện khả năng kháng khuẩn của Ag NPs, hiện nay các nghiên cứu tập
trung vào các hệ nano lai giữa Ag với các ferit từ như Fe3O4/Ag, MnFe2O4/Ag [98].
Nghiên cứu của Chudasama và cộng sự trên hệ lai Fe3O4@Ag cấu trúc lõi - vỏ cho
thấy hoạt tính kháng khuẩn của các hạt lai chống lại vi khuẩn Gram âm Escherichia
coli và Proteus vulgaris tốt hơn so với các hạt nano Ag tự do [87]. Gong và cộng sự
đã chỉ ra rằng các hạt nano Fe3O4@Ag có khả năng kháng lại nhiều chủng vi khuẩn
khác nhau trong đó có Escherichia coli, Staphylococcus epidermidis và Bacillus
subtilis [99]. Đặc tính nổi bật của các hạt nano lai ferit từ - bạc so với các hạt Ag đơn
30
lẻ có cùng kích thước là hoạt tính kháng khuẩn trong cấu trúc lai được tăng cường do
đó sẽ nâng cao hiệu quả điều trị cũng như giảm thiểu tình trạng kháng kháng sinh
[100]. Vấn đề này có thể được giải thích như sau: i) tốc độ giải phóng Ag+ ở cấu trúc
lai nhanh hơn ở các hạt nano Ag đơn lẻ do sự chuyển điện tử từ thành phần Ag sang
Fe3O4 và ii) quá trình ion hóa hạt nano Ag được tăng tốc bởi các ion Fe3+
trong cấu
trúc lai.
Ngoài ra, sự kết hợp của các hạt lai ferit từ - bạc với thuốc kháng sinh cũng
làm tăng hoạt lực của thuốc. Ivashchenko và cộng sự đã nghiên cứu khả năng diệt
khuẩn của hệ Fe3O4/Ag gắn kháng sinh rifampicin (hệ thuốc Fe3O4/Ag-rifampicin) trên
các chủng vi khuẩn khác nhau, kết quả cho thấy hệ Fe3O4/Ag-rifampicin có hoạt tính
diệt khuẩn cao hơn so với trường hợp chỉ sử dụng thuốc kháng sinh [101].
1.3.4. Dẫn thuốc hướng đích
Phương pháp hóa trị và xạ trị trong điều trị ung thư hiện nay bị hạn chế bởi
độc tính liên quan đến liều lượng và tác dụng phụ mà chúng gây ra cho các mô lành
[102, 103]. Do đó việc điều trị hướng đích nhằm làm tăng nồng độ của thuốc tại vị
trí khối u mà không bị phân tán ở những vùng mô khoẻ mạnh được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu [104]. Ưu điểm của phương pháp này là: (i) thu hẹp phạm
vi phân bố của thuốc trong cơ thể nên làm giảm tác dụng phụ của thuốc và (ii) giảm
lượng thuốc điều trị.
Các tác nhân hướng đích hiện nay thường là các vật liệu có tính chất từ như
các ferit từ và hệ lai ferit từ - (Ag, Au). Li và đồng tác giả đã chế tạo hệ lai
Fe3O4@Au với lớp phủ silica tương thích sinh học cho phép vận chuyển hướng đích
thuốc chống ung thư doxorubicin (DOX) [105]. Các oligonucleotit liên kết
(dsDNA) đã được sử dụng làm chất chặn mao quản, lớp vỏ silica chứa DOX cho
phép giải phóng thuốc có kiểm soát. Việc dẫn thuốc hướng đích và giải phóng thuốc
được điều khiển từ xa bằng từ trường ngoài và chiếu xạ laze trong vùng NIR (hình
1.20). Phương pháp này cũng chứng minh việc tăng hiệu quả điều trị khối u nhờ sự
kết hợp giữa quang/từ - nhiệt trị và hóa trị liệu thông qua từ trường và laze NIR
[105]. Việc dẫn thuốc hướng đích cũng được Sun và cộng sự nghiên cứu trên hệ
nano lai Au-Fe3O4 cấu trúc dumbbell [106]. Theo nghiên cứu này các hạt lai Au-
Fe3O4 có khả năng dẫn phức platin hướng đích đến tế bào ung thư vú Sk-Br3 ở
người (hình 1.21). So với các hạt nano Fe3O4 đơn lẻ được sử dụng cho các ứng dụng
y sinh [107], các hạt nano Au-Fe3O4 dumbbell có nhiều ưu điểm hơn: (1) sự có mặt
31
của cả hai thành phần Fe3O4 và Au trên một cấu trúc nano tạo điều kiện thuận lợi
cho sự gắn kết HER2 (kháng thể herceptin) và phức platin lên cấu trúc lai và (2) cấu
trúc lai có thể đóng vai trò như đầu dò từ tính và quang học để theo dõi phức platin
trong tế bào và hệ thống sinh học.
Hình 1.20. Minh họa quá trình điều trị kết hợp quang – nhiệt trị và hóa trị liệu tế
bào ung thư in vivo theo phương pháp nhắm mục tiêu từ tính [105].
Hình 1.21. Minh họa các hạt nano Au-Fe3O4 cấu trúc dumbbell kết hợp với
Herceptin và phức platin để nhắm mục tiêu tế bào và phân phối thuốc [106].
1.4. Phƣơng pháp tổng hợp vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý
Với mục đích tổng hợp các hạt lai nhằm hướng tới ứng dụng y sinh, đòi hỏi
các hạt phải phân tán tốt, độ đồng đều cao. Hiện nay, có nhiều phương pháp tổng
hợp hệ lai ferit từ - kim loại quý (Ag, Au), thông thường quy trình tổng hợp gồm hai
bước cơ bản sau [15]:
1) Tổng hợp hạt mầm: có thể là hạt nano ferit từ hoặc nano kim loại quý (Ag, Au).
2) Phát triển thành phần còn lại (kim loại quý hoặc ferit từ) trên hạt mầm đã
tổng hợp trước.
Luận án này tập trung vào phương pháp tổng hợp hạt mầm là nano ferit từ,
sau đó phát triển thành phần kim loại quý (Ag, Au) trên hạt ferit từ đã tổng hợp trước.
32
1.4.1. Tổng hợp vật liệu nano ferit từ
Vật liệu ferit từ thường được chế tạo bằng một số phương pháp hoá học như
phương pháp đồng kết tủa, sol-gel, thủy nhiệt và phân hủy nhiệt. Trong đó, phương
pháp phân hủy nhiệt trong dung môi hữu cơ đã được chứng minh là một trong những
phương pháp kiểm soát tốt kích thước và hình dạng của các hạt nano từ [108].
Có hai kỹ thuật được sử dụng để tổng hợp các hạt nano bằng phương pháp
phân hủy nhiệt trong dung môi hữu cơ [109]: i) quá trình tổng hợp hạt nano được
thực hiện bằng cách phun nhanh các tiền chất là các hợp chất hữu cơ của nguyên tố
kim loại cần tổng hợp vào dung môi hữu cơ đang sôi với sự có mặt của chất hoạt
động bề mặt (phương pháp hot - injection) hoặc ii) đun nóng từ từ hỗn hợp phản
ứng từ nhiệt độ phòng lên nhiệt độ sôi của dung môi (phương pháp heating - up).
Phương pháp heating - up được sử dụng rộng rãi hơn, nó cho phép tạo ra các hạt
nano đồng đều với sự phân bố kích thước hẹp. Quá trình hình thành các hạt nano
theo phương pháp heating - up có thể được mô tả như hình 1.22.
Hình 1.22. Minh họa sự hình thành NPs theo phương pháp heating – up [110].
Các tiền chất phổ biến nhất được sử dụng trong phương pháp này là các phức
chất cacbonyl, axetylaxetonat và oleat của kim loại chuyển tiếp. Ngoài ra, một số
muối vô cơ như sunphat hoặc clorua cũng được sử dụng. Các axit béo (axit oleic -
OA, axit lauric - LA), các amin (oleylamin - OLA, hexadexylamin - HDA),
trioctylphotphin oxit (TOPO) hoặc hỗn hợp của chúng được sử dụng như các chất
hoạt động bề mặt. Các thông số phản ứng như: tỉ lệ nồng độ của tiền chất/chất hoạt
33
động bề mặt, nồng độ của các chất tham gia phản ứng và loại dung môi thường
được sử dụng để điều khiển hình thái và độ đồng đều của hạt nano. Ngoài ra, các
yếu tố thực nghiệm khác như nhiệt độ phản ứng, tốc độ gia nhiệt và thời gian phản
ứng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định hình dạng, kích thước và độ
đồng đều của các hạt nano [108].
Tổng hợp hạt nano bằng phương pháp phân hủy nhiệt trong dung môi hữu cơ
ở nhiệt độ cao có nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác. Thứ nhất, sản phẩm
thu được ở nhiệt độ cao có mức độ tinh thể hóa cao. Thứ hai, tốc độ tạo mầm và
phát triển mầm có thể điều khiển dễ dàng bằng cách thay đổi nhiệt độ phản ứng. Sự
phát triển của các hạt nano có thể được dừng lại ở bất kỳ thời điểm nào bằng cách
làm nguội phản ứng, điều đó là rất quan trọng và nó quyết định không chỉ kích
thước, độ đồng đều hạt mà còn ảnh hưởng đến hình dạng, cấu trúc pha tinh thể và
tính chất của sản phẩm. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là sản phẩm
sau khi tổng hợp không tan trong nước, để ứng dụng trong y sinh thì phải chuyển
pha các hạt nano sang dạng ưa nước, đây là một quy trình tương đối khó khăn và
phức tạp. Dung môi sử dụng là các dung môi hữu cơ nên trước khi thải ra ngoài môi
trường phải được xử lý triệt để, tránh gây ô nhiễm môi trường.
1.4.2. Tổng hợp vật liệu nano lai ferit từ - kim loại quý
1.4.2.1. Phương pháp nuôi mầm
Đây là phương pháp tạo mầm không đồng nhất, trong đó các hạt mầm được
tạo hình trước và đưa vào dung dịch phản ứng. Sự phát triển của các hạt mầm được
thực hiện bằng cách chúng hấp phụ các chất tan và sau đó hình thành các monome
trên bề mặt. Phương pháp này có thể được sử dụng để tổng hợp các hạt nano đơn
pha [111] hoặc các hạt nano lai [112].
Gần đây có nhiều nghiên cứu liên quan đến việc tổng hợp cấu trúc nano lai
với hình thái khác nhau chúng đều bắt nguồn từ quá trình tạo mầm không đồng
nhất, tuy nhiên cơ chế phát triển của chúng không giống nhau. Để tìm ra cơ chế chi
tiết, việc hiểu rõ vai trò của sự không phù hợp mạng tinh thể (F) tồn tại giữa vật liệu
lắng đọng và các hạt mầm là rất quan trọng. Vì kích thước của các nguyên tử và tinh
thể của hai vật liệu này thường khác nhau, dẫn đến sự sắp xếp theo hướng ưu tiên
đặc trưng cho mỗi vật liệu cũng khác nhau. Ví dụ, các nguyên tử A hình thành trên
34
bề mặt hạt mầm B, sự không phù hợp mạng tinh thể F giữa hai vật liệu A và B có
thể được xác định qua biểu thức 1.18 [113]:
A B
B
a - aF =
a (1.18)
Trong đó: aA và aB là các hằng số mạng của vật liệu A và B tương ứng.
Sự không phù hợp này tạo ra một năng lượng biến dạng dương (γstrain), tăng
nhanh với sự phát triển của hạt nhân. Sự không phù hợp càng lớn, năng lượng biến
dạng càng lớn. Phần bề mặt chung được hình thành giữa các vật liệu A và B tạo ra
một năng lượng mới được gọi là năng lượng bề mặt chung (γi). Sự tương tác giữa
năng lượng bề mặt chung và năng lượng bề mặt riêng của hai vật liệu này (γA và γB)
có thể quyết định kết quả của quá trình phát triển. Năng lượng dư tổng thể (Δγ) của
hệ được tạo ra bao gồm sự đóng góp của bốn dạng năng lượng trên như thể hiện
trong phương trình 1.19 [113]:
= A + i + γstrain - B (1.19)
Dựa vào các giá trị năng lượng dư tổng thể , ba mô hình phát triển khác
nhau của vật liệu A trên hạt mầm B được mô tả như hình 1.23.
Hình 1.23. Mô hình thể hiện sự phát triển khác nhau của vật liệu A trên hạt mầm B [113].
35
+ Nếu tổng năng lượng bề mặt của vật liệu lắng đọng A, năng lượng biến dạng
và năng lượng bề mặt chung nhỏ hơn năng lượng bề mặt của vật liệu mầm B dẫn đến
giá trị âm trong quá trình phát triển. Trong trường hợp này, vật liệu A sẽ lắng đọng
trên bề mặt vật liệu B theo kiểu từng lớp hình thành cấu trúc lõi - vỏ. Mô hình phát
triển này gọi là Frank - van der Merwe (FM) hay phát triển dạng lớp (hình 1.23a).
+ Nếu tổng năng lượng bề mặt của vật liệu lắng đọng A, năng lượng biến
dạng và năng lượng bề mặt chung lớn hơn năng lượng bề mặt của vật liệu hạt mầm
B dẫn đến giá trị dương trong quá trình tăng trưởng. Điều đó có nghĩa là sự lắng
đọng sẽ làm tăng năng lượng bề mặt của cấu trúc, các lớp có thể giảm năng lượng
tổng của nó bằng cách hình thành các nhánh 3D dày bị cô lập và có thể làm giảm
năng lượng biến dạng bằng cách tạo ra những khuyết tật về cấu trúc giữa hai bề mặt
hình thành giao diện chung. Mô hình phát triển này gọi là Volmer - Weber (VW)
hay phát triển dạng nhánh (hình 1.23c).
+ Mô hình phát triển thứ ba xảy ra trong các hệ có sự không phù hợp mạng tinh
thể giữa các mặt phẳng đang phát triển của hai vật liệu nhưng giá trị âm ở giai đoạn
phát triển ban đầu, vì vậy sự phát triển từng lớp của vật liệu A trên hạt mầm B là phù
hợp hơn. Tuy nhiên, năng lượng biến dạng tăng tuyến tính với số lớp của nguyên tử A
lắng đọng và đạt đến một giá trị ngưỡng khi đó trở nên dương dẫn đến sự phát triển
thay đổi từ mô hình FM sang VW, tức là các nhánh 3D phát triển trên các lớp 2D (đã
hình thành trước đó) để giảm năng lượng biến dạng. Mô hình phát triển này gọi là
Stranski - Krastanov (SK) hay phát triển dạng nhánh trên lớp (hình 1.23b).
Ba mô hình trên rất hữu ích để dự đoán và điều chỉnh kết quả phát triển của
cấu trúc nano đa thành phần. Ví dụ, để thu được cấu trúc dumbbell, sự phát triển
phải đáp ứng các điều kiện áp dụng trong mô hình VW. Bằng cách đó, sự phát triển
sẽ hình thành nhánh 3D bị cô lập thu được cấu trúc dumbbell thay vì hình thành các
lớp tạo cấu trúc lõi - vỏ. Trong sự phát triển của cấu trúc nano đa thành phần, ngoài
năng lượng bề mặt và sự không phù hợp mạng tinh thể, các yếu tố khác như năng
lượng liên kết kim loại, nhiệt độ, tốc độ khuấy cũng ảnh hưởng đến hình thái và cấu
trúc của hệ lai thu được [114].
36
1.4.2.2. Tổng hợp một số hệ nano lai ferit từ-(Ag, Au) bằng phương pháp nuôi mầm
a) Cấu trúc ferit từ-(Ag, Au)
Lin và cộng sự [30] đã tổng hợp hệ lai Fe3O4@Au cấu trúc lõi - vỏ dạng hình
cầu bằng phương pháp nuôi mầm với sự kiểm soát kích thước lõi Fe3O4 (6 ÷ 20 nm)
và độ dày vỏ Au (5 ÷ 18 nm) dựa vào các copolyme khối. Sun và đồng tác giả [28]
đã chế tạo hệ Fe3O4-Au dumbbell thông qua việc điều khiển sự phát triển của nano
Fe3O4 trên bề mặt hạt nano Au (hạt mầm). Kích thước của thành phần Fe3O4 và Au
trong hệ lai được điều khiển bằng sự thay đổi tỉ lệ giữa Fe(CO)5 và Au (hạt mầm).
Như vậy, với phương pháp này nano kim loại quý như Ag và Au được lắng đọng
trực tiếp trên bề mặt các hạt nano ferit từ MFe2O4 (hạt mầm) thông qua việc khử
các tiền chất Ag+ hoặc Au
3+ sử dụng các chất khử phù hợp. Bằng việc điều khiển
các thông số phản ứng như: tỷ lệ tiền chất/hạt mầm, chất hoạt động bề mặt, chất
khử, dung môi và nhiệt độ phản ứng có thể thu được các cấu trúc lai khác nhau
(hình 1.24).
Hình 1.24. Sự hình thành hệ lai ferit từ-(Ag, Au) [15, 115, 116].
37
b) Cấu trúc ferit từ@silica/polyme -(Ag, Au)
Nhóm nghiên cứu của Baoliang đã chế tạo thành công hệ lai Fe3O4@SiO2-Ag
với cấu trúc lõi - vệ tinh [117]. Đầu tiên lớp SiO2 được hình thành trên bề mặt các
hạt nano từ Fe3O4 tạo cấu trúc Fe3O4@SiO2 bằng phương pháp sol-gel, sau đó nano
Ag được lắng đọng trên bề mặt các hạt Fe3O4@SiO2 bằng cách sử dụng Sn2+
làm
chất khử. Các hạt nano lai Fe3O4@SiO2@Au cũng được chế tạo thành công bởi Xue
và cộng sự [118]. Sau khi hình thành lớp SiO2 trên bề mặt hạt nano từ bằng phương
pháp sol-gel sử dụng TEOS và dung dịch amoniac, các hạt Fe3O4@SiO2 được chức
năng hóa bằng hợp chất chứa nhóm amin (N-[3-(trimethoxysilyl)propyl] etylen
điamin) để thu hút hạt nano vàng thông qua tương tác điện tích – điện tích, một
lượng nhỏ mầm tinh thể nano Au được thêm vào hệ, chúng hoạt động như những
tâm phản ứng cho sự phát triển lớp vỏ Au liên tục nhờ phản ứng của dung dịch Au3+
với fomandehit [118].
Hình 1.25. Sự hình thành hệ lai ferit từ@silica-(Ag, Au) [15].
Các giai đoạn chính của quá trình chế tạo hệ lai ferit từ@silica-(Ag, Au) bao
gồm: i) phủ một lớp silica lên các hạt nano ferit từ (thường sử dụng phương pháp
sol - gel với tiền chất là tetraetyl orthosilicat (TEOS)), ii) lắng đọng thành phần kim
loại quý lên bề mặt lớp silica (hình 1.25). Việc lựa chọn chất khử đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển hình thái lớp phủ Au cuối cùng. Sử dụng các chất khử
như hydroquinon [119] và N,N-dimetyl formamit (DMF) [120] thường tạo ra vỏ
38
vàng phân nhánh, khi đó hệ lai thu được thể hiện sự hấp thụ mạnh ánh sáng trong
vùng hồng ngoại gần.
Ngoài phương pháp tạo lớp silica ở giữa lõi từ và lớp vỏ kim loại quý (Ag,
Au), các hệ lai ferit từ@polyme-(Ag, Au) cũng được quan tâm nghiên cứu do khả
năng hấp thụ mạnh ánh sáng trong vùng NIR. Jin và cộng sự đã mô tả các bước
chính trong phương pháp chế tạo hệ lai ferit từ@polyme@Au như hình 1.26 [39].
Các hạt ferit từ đơn phân tán với bề mặt được bao phủ bởi các phân tử axit oleic
(OA) kỵ nước được hòa tan vào nước sử dụng photpholipit-polyetylen glycol tận
cùng với nhóm chức axit cacboxylic (PL-PEG-COOH). Gốc PL kỵ nước liên kết
với axit oleic thông qua các tương tác kỵ nước – kỵ nước, trong khi đó khối PEG
hướng ra ngoài làm cho hạt ferit từ tan trong nước và tích điện âm do có nhóm
chức axit cacboxylic tận cùng. Để tạo “điểm neo” cho sự phát triển vỏ vàng, một
lớp peptit tích điện dương, poly-L-histidin (PLH), được hấp phụ lên bề mặt ngoài
của cấu trúc ferit-PEG thông qua tương tác điện tích – điện tích ở pH 5 - 6. Các
phân tử hữu cơ đa lớp (OA, PL-PEG và PLH) được phủ trên bề mặt các hạt ferit từ
có chức năng như một hàng rào hiệu quả ngăn chặn các ion vàng phát triển trực
tiếp trên lõi ferit từ. Việc khử thêm Au3+
bằng các chất khử dẫn đến hình thành các
hạt lai đa chức năng với vỏ vàng và lõi ferit từ được ngăn cách nhau bởi các phân
tử hữu cơ [39].
Hình 1.26. Sự hình thành hệ lai ferit từ@polyme@Au [39].
Ưu điểm nổi bật của hệ vật liệu ferit từ@silica (polyme) - (Ag, Au) là khả
năng hấp thụ mạnh bức xạ quang trong vùng NIR. Tuy nhiên, nhược điểm chính của
hệ này là kích thước hạt lai tương đối lớn (> 60 nm), do đó dễ gây hiện tượng kết
đám khi phân tán chúng trong nước nên ảnh hưởng đến việc ứng dụng thực tế.
c) Cấu trúc ferit từ - Au rỗng
Lin và cộng sự [18] đã chế tạo hệ lai Fe3O4@Au rỗng gồm các giai đoạn như
thể hiện trên hình 1.27a. Các hạt nano từ Fe3O4 với lớp phủ OA có đường kính 15 nm
39
được sử dụng làm lõi từ (hình 1.27b). Sau đó, lớp SiO2 (≈ 18 nm) được phủ trực
tiếp trên bề mặt các hạt nano Fe3O4 kỵ nước bằng phương pháp mixen đảo hình
thành cấu trúc Fe3O4@SiO2 (hình 1.27c). Sau khi phủ lớp SiO2, các hạt Fe3O4@SiO2
có thể được phân tán trong nước mà không bị kết tụ. Sau đó, các hạt Fe3O4@SiO2
được chức năng hóa với 3-aminopropyl triethoxysilan để gắn hạt mầm nano Au
(hình 1.27d). Các mầm tinh thể nano Au được thêm vào hệ, chúng hoạt động như
những tâm phản ứng cho sự phát triển lớp vỏ Au liên tục thông qua phương pháp
nuôi mầm, sản phẩm thu được các hạt lai Fe3O4@SiO2@Aushell (hình 1.27e), lớp vỏ
Au hình thành dày và liên tục hơn khi lượng tiền chất Au tăng. Sau khi thêm dung
dịch NaOH, lớp SiO2 dần bị hòa tan cho sản phẩm là Fe3O4@Au với khoang rỗng
phía trong và lớp vỏ Au tương đối xốp (hình 1.27f). Với phương pháp này, cấu trúc
lai ferit từ - Au rỗng thu được hấp thụ ánh sáng trong vùng NIR, tuy nhiên kích
thước của vật liệu lớn (65 ÷ 100 nm). Ngoài ra, quá trình tổng hợp gồm nhiều bước
thường đòi hỏi các điều kiện công nghệ phức tạp.
Hình 1.27. Minh họa các giai đoạn hình thành hệ lai Fe3O4@Au rỗng (a)
và ảnh TEM các hạt nano Fe3O4 (b), Fe3O4@SiO2 (c), Fe3O4@SiO2@Auhạt mầm (d),
Fe3O4@SiO2@Aushell (e), Fe3O4@Au rỗng (f) [18].
40
Phương pháp mới chế tạo cấu trúc nano rỗng hiện nay là sử dụng phản ứng
thế Galvanic dựa vào sự khác nhau về thế điện cực giữa các cặp oxi hóa – khử. Với
phương pháp này các lỗ trống được tạo thành do quá trình oxi hóa của tinh thể kim
loại, các tinh thể này sau đó hoạt động như những khuôn nano cho sự hình thành
cấu trúc rỗng. Các bước chế tạo hạt nano lai ferit từ - Au rỗng bằng phương pháp
thế Galvanic có thể mô tả tóm tắt như sau: đầu tiên chế tạo hệ nano lai ferit từ - Ag
bằng phương pháp nuôi mầm, sau đó sử dụng các hạt nano lai ferit từ - Ag làm
khuôn cho quá trình tổng hợp cấu trúc rỗng thông qua phản ứng thế Galvanic giữa
Ag (trên hạt lai) và dung dịch H[AuCl4] theo phương trình [17]:
3Ag0 + Au
3+ Au
0 + 3Ag
+
Các nguyên tử Au tạo thành được lắng đọng trên bề mặt khuôn nano, do đó
hình dạng và kích thước của cấu trúc rỗng được quyết định bởi hình thái của vật liệu
làm khuôn. So với các phương pháp trên, phương pháp thế Galvanic thu được các
hạt nano lai, cấu trúc rỗng với kích thước nhỏ hơn rất nhiều do đó có thể dễ dàng
phân tán chúng trong môi trường nước, đồng thời đây là phương pháp tương đối
đơn giản và tiết kiệm chi phí do chỉ sử dụng một lượng nhỏ tiền chất Au.
1.4.3. Biến tính bề mặt vật liệu nano lai
Để ứng dụng trong lĩnh vực y sinh, một trong những yêu cầu cơ bản đối với
các hạt nano lai ferit từ - kim loại quý là chúng phân tán ổn định trong cả môi
trường nước và môi trường sinh lý. Với những mục đích này, người ta thường sử
dụng phương pháp biến tính bề mặt các hạt nano lai sau khi tổng hợp. Việc biến
tính bề mặt hạt nano lai ferit từ - kim loại quý đòi hỏi phải đảm bảo tính chất từ,
tính chất quang cũng như tính tương thích sinh học. Hiện nay một số phương pháp
thường được sử dụng để biến tính bề mặt các hạt nano lai như phương pháp trao đổi
phối tử và phương pháp bọc hạt bằng các polyme lưỡng cực. Việc sử dụng vật liệu
để biến tính bề mặt hạt lai phụ thuộc vào mục đích ứng dụng của chúng đồng thời
đảm bảo tương tác đẩy giữa các hạt là lớn nhất để tránh sự kết đám cũng như thu
được chất keo ổn định.
1.4.3.1. Phương pháp trao đổi phối tử
Với phương pháp này các phối tử trên bề mặt hạt nano lai ferit từ - kim loại
quý như polyme hoặc chất hoạt động bề mặt sử dụng trong quá trình tổng hợp sẽ
được thay thế bằng các phối tử mới nên được gọi là phương pháp trao đổi phối tử.
Việc lựa chọn phối tử để trao đổi phải phù hợp với từng loại vật liệu và mục đích sử
41
dụng [20]. Các nghiên cứu cho thấy các nhóm cacboxylat, photphat liên kết mạnh
với bề mặt của nano ferit từ trong khi đó, nhóm thiol có ái lực cao với bề mặt của
các kim loại quý như Au, Ag và Pt [121, 122]. Jishkariani và cộng sự đã phát triển
phương pháp trao đổi phối tử để thay thế lớp phủ axit oleic trên bề mặt các hạt nano
Fe3O4-Au dumbbell bằng các phối tử mới gồm hai bước: bước trao đổi phối tử đầu
tiên được thực hiện với lượng dư phối tử chứa nhóm chức axit photphorơ không
phân cực trong cloroform ở 35 °C trong 12 giờ để phủ lên phần Fe3O4. Sau đó, các
hạt được tinh chế bằng cách kết tủa với ancol rồi ly tâm và phân tán lại trong
cloroform. Bước trao đổi phối tử thứ hai được thực hiện trong các điều kiện tương
tự bằng cách sử dụng các đisunfit phân cực hoặc không phân cực. Bước này chức
năng hóa phần kim loại Au của hạt lai. Bằng phương pháp này có thể tạo ra các hạt
lai với tính chất ưa nước hoặc kỵ nước, sơ đồ mô tả quá trình trao đổi phối tử như
thể hiện trên hình 1.28 [123].
Hình 1.28. Quá trình trao đổi phối tử hai bước của các hạt Fe3O4-Au dumbbell [123].
Đây là phương pháp đơn giản để biến tính bề mặt vật liệu, nhưng có nhược
điểm là phụ thuộc vào liên kết hóa học giữa bề mặt của hạt nano lai và nhóm chức
của phối tử sử dụng. Các phân tử phối tử phải có khả năng liên kết mạnh với bề mặt
hạt nano lai. Điều này có nghĩa là mỗi phối tử với một nhóm chức cụ thể phải được
chọn riêng cho từng vật liệu nano. Vì vậy, không có phương pháp chung để áp dụng
cho tất cả các vật liệu. Ngoài ra, một số vật liệu không có phối tử nào phù hợp cho
việc trao đổi [20].
1.4.3.2. Bọc hạt lai bằng các polyme lưỡng cực
Phương pháp “bọc hạt” dựa trên việc thêm một lớp phụ xung quanh lớp chất
hoạt động bề mặt kỵ nước hình thành trong quá trình tổng hợp. Ưu điểm chính của
phương pháp này là có thể áp dụng cho hầu hết các loại hạt nano tổng hợp trong dung
môi hữu cơ. Để bọc các hạt nano sau khi tổng hợp, các phân tử polyme lưỡng cực
(amphiphilic polyme) thường được sử dụng như poly(maleic anhydrit-alt-1-octadecen)
42
(PMAO), polyetylen glycol (PEG), fluronic 127, 1,2-đistearoyl-sn-glycero-3-
photphoetanolamin-N-[amino(polyetylen glycol)-2000] (DSPE-PEG), axit
poly(acrylic) (PAA) [124]. Các polyme này với cấu trúc phân tử gồm 2 phần chính:
phần kỵ nước của phân tử polyme liên kết với lớp chất hoạt động bề mặt kỵ nước
trên các hạt nano lai thông qua các tương tác kỵ nước – kỵ nước trong khi phần ưa
nước của chúng hướng ra ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân tán trong nước.
Minh họa liên kết giữa polyme lưỡng cực với hạt nano trước và sau khi bọc được
thể hiện trên hình 1.29.
Hình 1.29. Minh họa liên kết giữa DSPE-PEG-COOH với NPs trước và sau khi bọc [125].
Nhận xét:
Ưu điểm chính của việc kết hợp thành phần ferit từ và kim loại quý là tạo ra
một hệ vật liệu đa chức năng: vừa chẩn đoán, vừa điều trị bệnh. Xuất phát từ mục
tiêu nghiên cứu của đề tài, từ việc nghiên cứu tình hình trong và ngoài nước, tổng
quan chi tiết về tính chất và các phương pháp chế tạo vật liệu nano lai ferit từ - kim
loại quý (Ag, Au) cho ứng dụng y sinh, chúng tôi xây dựng nội dung nghiên cứu
của luận án bao gồm:
1. Tổng hợp hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) kích thước hạt đồng
đều, đơn phân tán và từ độ bão hòa cao bằng phương pháp phân hủy nhiệt trong
dung môi hữu cơ.
2. Tổng hợp hệ vật liệu lai Fe3O4/Ag kích thước nhỏ (dưới 20 nm) bằng phương
pháp nuôi mầm. Tổng hợp hệ lai Fe3O4/Au rỗng, kích thước nhỏ (dưới 20 nm), hấp
thụ ánh sáng NIR, sử dụng khuôn nano Fe3O4/Ag bằng phương pháp thế Galvanic
trong dung môi hữu cơ.
3. Chuyển pha các mẫu tổng hợp được từ dung môi hữu cơ sang dung môi
nước. Nghiên cứu đánh giá độc tính và độ bền của dung dịch hạt nano lai trong nước.
4. Nghiên cứu khả năng ứng dụng của dung dịch hạt nano lai trong y sinh: hoạt
tính kháng khuẩn, khả năng chuyển đổi quang/từ - nhiệt, khả năng tương phản ảnh MRI.
43
CHƢƠNG 2. THỰC NGHIỆM VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu và hóa chất
*) Các hóa chất dùng để tổng hợp vật liệu:
Các hóa chất sử dụng trong luận án đều là hóa chất tinh khiết của hãng
Sigma-Aldrich, với độ sạch 99,9%:
- Các tiền chất: sắt (III) axetylaxetonat (Fe(acac)3), sắt (II) sunfat heptahiđrat
(FeSO4.7H2O), sắt (II) clorua tetrahiđrat (FeCl2.4H2O), mangan (II) axetylaxetonat
(Mn(acac)2), coban (II) axetylaxetonat (Co(acac)2), bạc nitrat (AgNO3), axit
tetracloro auric (III) (H[AuCl4].3H2O).
- Dung môi sử dụng trong tổng hợp và rửa mẫu: 1-octadecen (ODE), etanol,
n-hexan, cloroform.
- Chất hoạt động bề mặt và chất khử: axit oleic (OA), oleylamin (OLA),
1-octadecanol (OCD-ol).
- Hóa chất dùng trong quá trình chuyển pha các hạt nano từ dung môi hữu cơ
sang nước: poly(maleic anhydrit-alt-1-octadecen) (PMAO), natri hiđroxit (NaOH).
*) Nguyên liệu sử dụng để đánh giá độc tính:
- Dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến dạ dày AGS và MKN45 có nguồn gốc
từ hãng RIKEN, BRC Cell Engineering Division (Nhật Bản) được nuôi cấy trong
môi trường chứa: 89% môi trường cơ bản RPMI 1640, 10% huyết thanh bò có chửa
và 1% kháng sinh penicillin/streptomycin.
- Các hóa chất: DAPI (4′,6-diamidino-2-phenylindol), MTT (3-(4,5-
dimetylthiazol-2-yl)-2,5-diphenyltetrazolium bromit), PBS 1X (Photphat Buffered
Salin), DMSO (dimetyl sunfoxit) của hãng Thermo Fisher Scientific.
*) Nguyên liệu sử dụng để đánh giá hoạt tính kháng khuẩn:
Các loài vi khuẩn kiểm định:
+ Gram dương: Bacillus subtilis (viết tắt: B. subtilis), Lactobacillus
plantarum (L.plantarum), Sarcina lutea (S. lutea).
+ Gram âm: Serratia marcescens (S. marcescens), Escherichia coli (E. coli).
44
Môi trường nuôi cấy vi khuẩn kiểm định: Môi trường LB (Luria Bertani) có
thành phần gồm cao nấm men 0,5%; NaCl 1,0%; pepton 1,0%. Môi trường LB đặc
bổ sung 2,0% thạch agar.
2.2. Tổng hợp vật liệu
2.2.1. Tổng hợp hạt nano ferit từ
2.2.1.1. Tổng hợp hạt nano Fe3O4 với
tiền chất ở nồng độ thấp
Trong luận án này hạt nano
Fe3O4 được tổng hợp bằng phương
pháp phân hủy nhiệt [108]. Lấy một
lượng tiền chất sắt (Fe(acac)3 hoặc
hỗn hợp Fe(acac)3 và muối sắt (II) vô
cơ (với Fe(III)/Fe(II) = 2/1) cho vào
bình cầu 3 cổ dung tích 100 mL. Cho
thêm một lượng chất hoạt động bề
mặt OA/OLA và chất khử OCD-ol trong 40 mL dung môi ODE. Tỷ lệ các thành
phần được thay đổi như trong bảng 2.1. Bình phản ứng được đặt lên bếp gia nhiệt có
khuấy từ và hệ sinh hàn hồi lưu (hình 2.1). Khuấy hỗn hợp phản ứng ở nhiệt độ
phòng trong 30 phút, sau đó tăng dần nhiệt độ lên 100 oC và duy trì trong 30 phút để
loại bỏ hơi nước có mặt trong dung dịch phản ứng. Tiếp tục tăng nhiệt độ đến 200 oC,
hồi lưu trong 30 phút. Cuối cùng tăng nhiệt độ lên 270 ÷ 315 oC duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định (bảng 2.1). Toàn bộ quá trình được thực hiện trong điều
kiện cấp khí nitơ liên tục.
Các thông số điều kiện tổng hợp như thời gian, nhiệt độ phản ứng, nồng độ
chất hoạt động bề mặt và tiền chất vô cơ được thay đổi như trong bảng 2.1.
Hình 2.1. Hệ thiết bị tổng hợp hạt nano.
45
Bảng 2.1. Điều kiện tổng hợp hạt nano Fe3O4.
Nồng độ tiền chất (mM)
Nồng độ chất
HĐBM
(mM)
OCD-
ol
(mM)
Nhiệt
độ
phản
ứng
(oC)
Thời
gian
phản
ứng
(ph t)
Ký
hiệu
mẫu Fe(acac)3
FeSO4.
7H2O
FeCl2.
4H2O OA OLA
190 0 0 372 372 300 295
30 F1
60 F2
120 F3
190 0 0 558 558 300 295
10 F4
30 F5
60 F6
120 F7
190 0 0 744 744 300 295
10 F8
30 F9
60 F10
120 F11
190 0 0 930 930 300 295
10 F12
30 F13
60 F14
126,7 0 63,3 558 558 300
270
60
F15
295 F16
315 F17
126,7 63,3 0 558 558 300 315 F18
Sau khi tổng hợp, vật liệu được thu hồi và rửa sạch theo quy trình như sau:
lấy 0,2 mL dung dịch mẫu trộn đều với 0,5 mL etanol để tạo ra sự kết đám giữa các
hạt, sau đó quay ly tâm với tốc độ 8000 ÷ 12000 (vòng/phút) trong thời gian 5 ÷ 8
phút. Thu hồi phần kết tủa và đem phân tán trong 0,5 mL n-hexan, kết tủa lại bằng
etanol, sau đó sử dụng thanh từ để thu hạt nano. Quy trình rửa mẫu được lặp lại từ
3 ÷ 5 lần.
46
2.2.1.2. Tổng hợp nano ferit từ với tiền chất ở nồng độ cao
Trong phần nghiên cứu này các hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn)
được chế tạo theo quy trình tương tự như phần 2.2.1.1, nhưng sử dụng nồng độ
tiền chất lớn gấp 3,5 ÷ 5 lần (bảng 2.2). Nồng độ OA và OLA sử dụng bằng nhau
là 744 mM, nồng độ OCD-ol là 300 mM. Phản ứng được thực hiện ở 295 oC trong
30 phút. Ký hiệu các mẫu được thể hiện trong bảng 2.2.
Bảng 2.2. Mẫu nano ferit từ tổng hợp với nồng độ cao tiền chất.
Ký hiệu mẫu Công thức
hóa học
Nồng độ tiền chất (mM)
Fe(acac)3 Co(acac)2 Mn(acac)2
F-673 Fe3O4 673 0 0
F-920 Fe3O4 920 0 0
CF-673 CoFe2O4 448,67 224,33 0
CF-920 CoFe2O4 613,33 306,67 0
MF-673 MnFe2O4 448,67 0 224,33
MF-920 MnFe2O4 613,33 0 306,67
2.2.2. Tổng hợp các hệ nano lai ferit từ - kim loại (Ag, Au)
2.2.2.1. Hệ nano lai Fe3O4/Ag
Các hạt nano lai Fe3O4/Ag được tổng hợp bằng phương pháp nuôi mầm
[126] với quy trình như sau:
Hòa tan 6 mL OLA và 0,3 g OCD-ol trong 40 mL ODE trong bình cầu 3 cổ.
Cho thêm 0,1 g Fe3O4 phân tán trước trong 5 mL n-hexan. Tiếp tục cho vào một
lượng bạc nitrat sao cho tỉ lệ mol = [Ag]/[Fe] thay đổi trong khoảng 0,5 ÷ 13,6.
Lắp đặt bình vào hệ phản ứng như hình 2.1. Hỗn hợp phản ứng được khuấy ở nhiệt
độ phòng trong 30 phút. Sau đó tăng nhiệt độ lên 80 0C, giữ trong 30 phút. Tiếp tục
tăng nhiệt độ đến 200 0C, hồi lưu trong thời gian từ 30 ÷ 120 phút. Toàn bộ quá
trình được thực hiện trong điều kiện cấp khí nitơ liên tục. Các hạt nano lai Fe3O4/Ag
sau khi tổng hợp được rửa sạch tương tự như mục 2.2.1.1. Hạt nano Ag (đối chứng)
được tổng hợp tương tự nhưng không sử dụng hạt mầm Fe3O4.
47
2.2.2.2. Hệ nano lai Fe3O4/Au
a) Hệ nano lai Fe3O4/Au đặc
Vật liệu nano lai Fe3O4/Au đặc được tổng hợp bằng phương pháp nuôi mầm
sử dụng hạt mầm Fe3O4. Quy trình tổng hợp và rửa mẫu tương tự hệ lai Fe3O4/Ag
(mục 2.2.2.1) chỉ thay AgNO3 bằng H[AuCl4].3H2O.
b) Hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng
Hạt nano Fe3O4/Ag sau khi tổng hợp (mục 2.2.2.1) được sử dụng làm khuôn
cho quá trình hình thành hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng, quy trình tổng hợp được thể
hiện trên hình 2.2:
Hình 2.2. Quy trình tổng hợp hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng.
Phân tán 3 mg hạt Fe3O4/Ag trong 10 mL dung môi ODE thu được dung dịch A.
Hòa tan 15 mg H[AuCl4].3H2O và 0,5 mL OLA trong 15 mL ODE thu được dung
dịch H[AuCl4] (dung dịch B). Dung dịch B với lượng thay đổi từ 0,5 ÷ 3,5 mL được
thêm từ từ vào dung dịch A. Phản ứng diễn ra tại nhiệt độ phòng và khuấy liên tục
trong 60 phút. Sản phẩm được rửa với etanol và n-hexan, sử dụng thanh từ để thu
hạt, sau đó thêm một lượng dư dung dịch amoniac bão hòa để loại bỏ AgCl dư. Thu
hồi sản phẩm hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng bằng thanh từ, sau đó rửa sạch bằng nước
cất để loại bỏ [Ag(NH3)2]Cl và amoniac dư.
48
2.2.3. Chuyển pha hạt nano sang môi trường nước
Hạt nano tổng hợp trong dung môi hữu cơ bị bao phủ một lớp chất hoạt động
bề mặt OA và OLA do đó chúng phân tán được trong dung môi hữu cơ không phân
cực. Để ứng dụng trong y sinh thì chúng phải phân tán được trong nước. Do đó các
hạt nano sau khi tổng hợp được chuyển pha sang môi trường nước sử dụng PMAO.
Quy trình chuyển pha hạt nano bằng PMAO được thực hiện như đã công bố [46]
(hình 2.3):
Hình 2.3. Quy trình chuyển pha hạt nano sang môi trường nước bằng PMAO.
Phân tán 50 mg hạt nano trong 1 mL cloroform, rung siêu âm 3 ÷ 5 phút để
các hạt phân tán đều (dung dịch A). Cho 1 g PMAO vào 10 mL cloroform, rung
siêu âm 3 ÷ 5 phút để hòa tan hết PMAO (dung dịch B). Cho từ từ dung dịch A vào
dung dịch B và rung siêu âm 5 ÷ 10 phút đảm bảo dung dịch được trộn đều, không
lắng cặn. Sản phẩm thu được để ở nhiệt độ phòng và khuấy từ đến khi cloroform
bay hết. Sau đó thêm 12 mL dung dịch NaOH 1M, tiếp tục khuấy ta thu được các
mẫu có khả năng phân tán trong nước. Sản phẩm sau khi chuyển pha được rửa sạch
bằng nước cất, sau đó sử dụng để nghiên cứu một số ứng dụng trong y sinh.
2.3. Các phƣơng pháp đặc trƣng vật liệu
2.3.1. Kính hiển vi điện tử truyền qua
Kính hiển vi điện tử truyền qua (transmission điện tử microscopy - TEM) là
một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn, sử dụng chùm điện tử có năng lượng cao
chiếu xuyên qua mẫu vật rắn mỏng và sử dụng các thấu kính từ để tạo ảnh với độ
49
phóng đại lớn (tới hàng triệu lần), ảnh có thể tạo ra trên màn huỳnh quang, film
quang học, hay ghi nhận bằng các máy chụp kỹ thuật số [127].
Độ tương phản trong TEM liên quan đến khối lượng và chiều dày mẫu cũng
như số nguyên tố Z được sử dụng trong kỹ thuật ảnh TEM. Các mẫu dày và có
mật độ khối cao hơn sẽ tán xạ chùm điện tử mạnh hơn so với các mẫu mỏng và
mật độ khối thấp hơn. Các mẫu chứa các nguyên tố có Z lớn sẽ tán xạ mạnh hơn
so với các mẫu có chứa các nguyên tố có Z nhỏ hơn, do đó nó sẽ xuất hiện ảnh tối
hơn trên màn hình. Với kỹ thuật chụp ảnh TEM sử dụng cho các hạt nano có Z lớn
(ví dụ hạt nano Au, Ag hoặc Pt) thường cho chất lượng ảnh tốt hơn nhiều so với
các mẫu chứa các nguyên tố có Z nhỏ (ví dụ hạt nano Al2O3, MnO...). Tuy nhiên
để thu được ảnh TEM có chất lượng cao, các hạt nano phải được phân tán trong
dung dịch với nồng độ rất loãng và chỉ sử dụng 1 ÷ 2 giọt dung dịch mẫu để đo
(khoảng 0,01 ÷ 0,02 mL) [127].
Ảnh TEM của vật liệu trong luận án được chụp trên kính hiển vi điện tử
truyền qua JEM JEOL - 1010 tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương với hiệu điện thế
từ 40 ÷ 100 kV, độ phân giải đối với điểm ảnh là 0,2 nm.
2.3.2. Nhiễu xạ tia X
Nhiễu xạ tia X (XRD) là hiện tượng chùm tia X nhiễu xạ trên các mặt tinh thể
của chất rắn do tính tuần hoàn của cấu trúc tinh thể tạo nên các cực đại và cực tiểu
nhiễu xạ. Kỹ thuật nhiễu xạ được sử dụng phổ biến để phân tích cấu trúc pha của vật
liệu. Đối với các tinh thể có cấu trúc nano, ngoài việc cho biết pha cấu trúc của tinh
thể, kỹ thuật này còn cho phép tính kích thước hạt tinh thể của mẫu [127].
Theo Wulf – Bragg , điều kiện để có cực đại nhiễu xạ tia X là các tia phản xạ
từ các mặt phẳng liên tiếp phải cùng pha hay hiệu đường đi phải bằng số nguyên lần
bước sóng. Phương trình Bragg xác định điều kiện nhiễu xạ:
2dhkl sin = n (2.1)
Trong đó: dhkl là khoảng cách giữa hai mặt phẳng mạng (hkl) liên tiếp, là
bước sóng bức xạ tia X tới, là góc tới, n là bậc phản xạ (n = 1, 2, 3,…)
Như vậy, việc đo các cực đại nhiễu xạ tia X theo góc khác nhau sẽ cho
phép xác định khoảng cách giữa hai mặt phẳng mạng (hkl) liên tiếp (dhkl), từ đó cho
50
phép xác định hằng số mạng (a) của tinh thể thu được thông qua biểu thức:
2 2 2
hkla = d h + k + l (2.2)
Kích thước tinh thể trong mẫu được tính theo công thức Debye - Scherrer với
điều kiện các hạt tinh thể đủ nhỏ để xảy ra hiệu ứng mở rộng vạch phổ nhiễu xạ:
XRD
0,89d
cos
(2.3)
Trong đó: dXRD là kích thước tinh thể trung bình (nm), λ là bước sóng tia X
(nm), β là độ rộng nửa vạch phổ của pic cực đại (rad), là vị trí góc xuất hiện nhiễu
xạ cực đại.
Phương pháp này cho phép xác định pha cấu trúc, phân tích định tính, định
lượng các pha tinh thể, hằng số mạng, mức độ biến dạng mạng, so sánh xác định
tương đối hàm lượng pha tạp, từ đó cho phép điều chỉnh quy trình chế tạo vật liệu
và góp phần lý giải các hiện tượng vật lý [127].
Trong luận án, cấu trúc tinh thể của vật liệu được phân tích nhiễu xạ tia X
trên thiết bị Siemens D5005 sử dụng bức xạ Cu-kα (λ = 1,5406 Å) tại khoa Vật lý,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.3.3. Từ kế mẫu rung
Từ kế mẫu rung (vibrating sample magnetometer - VSM) là một trong những
kỹ thuật thông dụng nhất dùng để đo các tính chất từ của vật liệu. VSM là phương
pháp có thể sử dụng để đo đường cong từ trễ và đường cong từ nhiệt. Đường cong từ
trễ cho phép xác định lực kháng từ, từ dư và từ độ bão hòa. Để đo đường cong từ trễ
ta tăng từ trường ngoài từ giá trị bằng 0 đến từ trường cực đại dương của máy sau đó
giảm từ trường về giá trị cực đại âm. Đường cong từ - nhiệt (ZFC - FC) thường được
sử dụng để xác định nhiệt độ chuyển pha của mẫu, ngoài ra còn cho phép xác định
trạng thái đơn pha hay đa pha của vật liệu [127].
Phép đo tính chất từ đối với các mẫu sử dụng trong luận án được thực hiện
trên hệ từ kế mẫu rung thuộc Viện khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm KHCNVN.
2.3.4. Phổ hấp thụ phân tử UV-Vis
Phương pháp phổ hấp thụ phân tử UV-Vis (ultra violet - visible) được sử dụng
để nghiên cứu sự tương tác của vật liệu với ánh sáng chiếu vào, qua đó có thể biết
51
được thông tin về các quá trình hấp thụ xảy ra tương ứng với các chuyển dời quang
học, từ đó xác định được bước sóng kích thích hiệu quả với từng vật liệu. Do các
thuộc tính quang học của dung dịch chứa hạt nano lai ferit từ - kim loại quý (Ag, Au)
phụ thuộc vào hình dạng, kích thước và nồng độ của vật liệu, nên ta có thể sử dụng
phương pháp phổ hấp thụ phân tử UV-Vis để xác định các thuộc tính trên [127].
Phổ hấp thụ phân tử UV-Vis tuân theo định luật Bughe – Lambert – Beer:
A = - lgT = lg (I0/It) = εbC với T = It/I0 (2.4)
Trong đó: T là độ truyền qua của môi trường, I0 là cường độ của chùm tia
chiếu tới mẫu, It là cường độ của chùm tia truyền qua môi trường. Đại lượng lg(I0/It)
gọi là mật độ quang hay độ hấp thụ (A), ε là hệ số hấp thụ mol có giá trị bằng mật
độ quang của dung dịch khi nồng độ chất hấp thụ C và độ dày chất hấp thụ b
bằng một đơn vị. Mỗi chất đều hấp thụ lọc lựa những tần số hay bước sóng khác
nhau [127].
Phổ hấp thụ UV-Vis của vật liệu trong luận án được ghi trên máy quang phổ
Jasco V-670 (Nhật Bản) tại Viện Kỹ thuật Nhiệt đới – Viện Hàn lâm KHCNVN.
2.3.5. Phổ hấp thụ hồng ngoại
Phương pháp quang phổ hồng ngoại (fourrier transformation infrared, FT-IR)
là một trong những kỹ thuật phân tích rất hiệu quả cấu trúc vật liệu dựa trên việc ghi
nhận các dao động đặc trưng của các liên kết hóa học giữa các nguyên tử. Phương
pháp này cho phép phân tích với hàm lượng mẫu rất thấp và có thể phân tích cấu
trúc, định tính và cả định lượng với độ nhạy cao [127].
Các phép đo phổ hồng ngoại trong luận án được thực hiện trên máy FTIR
NEXUS 670 của hãng Nicolet tại Viện Kỹ thuật Nhiệt đới, Viện Hàn lâm
KHCNVN.
2.3.6. Phổ tán sắc năng lượng tia X
Phổ tán sắc năng lượng tia X (energy dispersive X-ray spectroscopy - EDX
hoặc EDS) là một kỹ thuật xác định thành phần hóa học của vật liệu bằng việc ghi
lại phổ tia X phát ra từ vật rắn do tương tác với các bức xạ.
Phân tích thành phần hóa học của vật liệu trong luận án được thực hiện trên
kính hiển vi điện tử quét SEM-EDX (Jeol 6490 – JED 2300) tại Viện Khoa học Vật
liệu, Viện Hàn lâm KHCNVN.
52
2.3.7. Phân tích nhiệt khối lượng
Phân tích nhiệt khối lượng (TGA) là phương pháp hóa lý thường dùng để
phân tích cấu trúc vật liệu, cung cấp những thông tin về tính chất nhiệt của vật liệu.
Phương pháp này dựa trên cơ sở xác định khối lượng của mẫu vật chất bị mất đi
(hoặc nhận vào) trong quá trình chuyển pha như là một hàm của nhiệt độ [127].
Tính chất nhiệt của mẫu được khảo sát bằng phương pháp phân tích nhiệt
TGA trên thiết bị SETRM Labsys Evo 1600 tại Viện Kỹ thuật Nhiệt đới, Viện Hàn
lâm KHCNVN. Mẫu được đo trong môi trường khí trơ, tốc độ quét 20 °C/phút.
2.3.8. Phương pháp tán xạ ánh sáng động
Phương pháp tán xạ ánh sáng động (dynamic light scattering - DLS) được sử
dụng để phân tích kích thước hạt keo trong chất lỏng (kích thước thủy động). Phương
pháp này dựa vào phép đo cường độ dao động của tán xạ ánh sáng bởi các hạt trong
dung dịch. Trong hệ keo, các hạt chuyển động liên tục và ngẫu nhiên do sự tương tác
của chúng với phân tử dung môi bao quanh. Đây được gọi là chuyển động Brown.
Tốc độ của chuyển động Brown hoặc sự phân tán của các hạt có liên quan tới kích
thước của chúng (các hạt lớn di chuyển chậm và ngược lại). Khi mẫu được chiếu sáng
bởi một chùm tia laze thì các hạt tán xạ ánh sáng. Do sự chuyển động Brown, quan hệ
của tán xạ ánh sáng từ các hạt khác nhau và số lượng hạt trong một thể tích tán xạ sẽ
bị biến đổi liên tục, dẫn đến một dao động về cường độ tán xạ ánh sáng. Phân tích
cường độ dao động cho biết thông tin về quá trình phân tán, do đó có thể tính được
kích thước hạt [127].
Điện tích trên bề mặt hạt được xác định bằng phương pháp đo thế Zeta trong
mẫu huyền phù. Thế Zeta là đại lượng đặc trưng cho sự ổn định của hệ phân tán các
hạt rắn trong chất lỏng (còn gọi là hệ keo). Các hạt với điện tích bề mặt nhất định sẽ
hấp thụ những ion có điện tích trái dấu từ trong dung dịch để tạo thành một lớp điện
tích bao quanh hạt. Những ion trên lớp điện tích này lại hấp thụ các ion trái dấu với
chúng trong dung dịch hình thành nên một lớp điện tích kép: lớp trong (lớp Sterm)
gồm các ion liên kết mạnh với bề mặt hạt và lớp ngoài (lớp khuếch tán) liên kết yếu
hơn với bề mặt hạt. Giá trị thế Zeta lớn chỉ ra rằng các hạt tích điện lớn và hệ có xu
hướng bền vững. Sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta được thể
hiện trong bảng 2.3 [127].
53
Bảng 2.3. Sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta.
Thế Zeta (mV) Độ ổn định của hệ keo
0 ± 5 Kết tụ hay tập hợp thành từng đám rất nhanh
±10 ± 30 Bắt đầu không ổn định
±30 ± 40 Độ ổn định trung bình
±40 ± 60 Độ ổn định tốt
≥ ± 61 Độ ổn định rất tốt
Kích thước thủy động và giá trị thế Zeta của hạt nano lai ferit từ - kim loại
quý được xác định trên thiết bị Malvern Zetasizer version 6.0 tại Viện Khoa học Vật
liệu, Viện Hàn lâm KHCNVN.
2.4. Phƣơng pháp đánh giá độc tính của vật liệu
Độc tính của hệ vật liệu nano lai lên các dòng tế bào sinh học được nghiên cứu
tại phòng thí nghiệm Khoa Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học
Thái Nguyên.
*) Quy trình nuôi cấy tế bào và xử lý với vật liệu nano lai:
1. Thu tế bào từ hộp nuôi cấy.
2. Chuyển 20.000 tế bào/giếng nuôi cấy, nuôi cấy ở điều kiện 37 oC, 5% CO2
trong 24h để các tế bào bám dính hoàn toàn trên bề mặt giếng nuôi cấy. Thể tích
môi trường cho mỗi giếng nuôi cấy là 100 μL.
3. Sau 24h, các tế bào được xử lý với vật liệu nano lai ở các nồng độ khác
nhau bằng cách loại bỏ môi trường trên mỗi giếng nuôi cấy và bổ sung môi trường
mới chứa nồng độ vật liệu nano tương ứng. Lặp lại 3 giếng nuôi cấy với mỗi nồng độ.
4. Tiếp tục nuôi cấy ở điều kiện 37 oC, 5% CO2 và quan sát, đánh giá hình
thái tế bào sau 48 h.
*) Phương pháp MTT [128]:
Đây là phương pháp đánh giá mức độ phân chia và sống sót của tế bào in vitro
thông qua quá trình oxy hóa – khử của MTT có màu vàng thành formazan có màu
tím nhờ hoạt động của enzym dehydrogenase trong quá trình hô hấp tế bào xảy ra ở
ti thể. Do vậy, sự khác biệt về tần số tín hiệu màu thu được ở bước sóng thích hợp
(570 nm) sẽ phản ánh tỉ lệ tế bào sống/chết giữa các mẫu thí nghiệm.
54
Độc tính hệ vật liệu nano lai trên các dòng tế bào AGS và MKN45 được
đánh giá bằng phương pháp MTT. Các thí nghiệm được lặp lại ba lần cho mỗi điều
kiện thí nghiệm trong các đĩa 96 giếng (100 μL/giếng) với nồng độ 5x103 tế
bào/cm2. Các tế bào được xử lý với các nồng độ khác nhau của hạt nano lai phân tán
trong dung môi nước, ở đây nước cất được sử dụng làm đối chứng với cùng lượng
nước như trong mẫu chứa hạt lai.
Quy trình xử lý tế bào với MTT:
1. Loại bỏ môi trường nuôi cấy tế bào.
2. Bổ sung 100 μL môi trường nuôi cấy mới chứa 20 μL dung dịch MTT (5
mg/mL) trên mỗi giếng.
3. Ủ 4 h ở điều kiện 37 oC, 5% CO2, độ ẩm 95%.
4. Loại bỏ môi trường nuôi cấy và rửa bề mặt đĩa với dung dịch PBS 1X.
5. Bổ sung dung dịch chứa 100 μL DMSO và 12 μL đệm Sorensen (0,1M
NaCl, 0,1M Glyxin, pH = 10,5), ủ 15 phút ở 37oC.
6. Đưa đĩa nuôi cấy tế bào 96 giếng vào máy đọc ở bước sóng 570 nm. Tỉ lệ
sống sót của tế bào được tính theo công thức:
% tế bào sống = (tần số thu được/tần số mẫu đối chứng)*100 (2.5)
*) Phương pháp nhuộm nhân tế bào bằng thuốc nhuộm DAPI [129]
DAPI là mẫu dò huỳnh quang có khả năng gắn chủ yếu vào vùng giàu A-T
thuộc nhánh nhỏ của chuỗi xoắn kép DNA (axit deoxiribonucleic), tần số huỳnh
quang tại đây có thể cao gấp 20 lần so với các vị trí khác.
Quá trình chết của tế bào theo chương trình (apoptosis) là một quá trình khác
với hoại tử (necrosis). Trong khi necrosis xảy ra hiện tượng các tế bào tổn thương
sưng phồng và vỡ vụn thì apoptosis là chuỗi các giai đoạn đặc trưng dẫn đến phá
hủy dần các bào quan bên trong tế bào. Ở giai đoạn đầu của apoptosis, DNA tách
rời nhau ở vùng rìa của nhân và thể tích tế bào chất giảm dần. Sau đó, tế bào tạo ra
những khoảng nhỏ dạng bóng khí, nhân và các bào quan phân mảnh. DNA bị cắt
nhỏ bởi các enzym tạo ra các đoạn DNA ngắn chứa trình tự khoảng 20 nucleotit.
Cuối cùng, tế bào bị phân nhỏ thành các thể apoptosis.
55
Hình ảnh huỳnh quang của tế bào được nhuộm với thuốc nhuộm DAPI thể
hiện hình thái nhân bình thường và hình thái nhân đang ở trong quá trình apoptosis
với sự phân mảnh DNA tạo thành vùng nhỏ thay vì một khoảng nhân đều màu.
Quy trình nhuộm nhân tế bào với DAPI:
1. Loại bỏ môi trường nuôi cấy.
2. Rửa bề mặt đĩa nuôi cấy với 50 µL PBS 1X.
3. Loại bỏ PBS 1X và bổ sung 50 µL dung dịch paraformandehit 4%, để ở
nhiệt độ phòng 10 phút.
4. Loại bỏ paraformandehit và rửa bề mặt đĩa nuôi cấy 2 lần với PBS 1X.
5. Bổ sung 70 µL dung dịch nhuộm nhân tế bào DAPI (0,1 μg/mL).
6. Quan sát dưới kính hiển vi huỳnh quang soi ngược (Eclipe Ts2, NIKON)
và ghi nhận hình ảnh bằng phần mềm chuyên dụng được cài đặt kèm theo.
2.5. Phƣơng pháp đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu
Thí nghiệm đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu bằng phương pháp
khuếch tán giếng thạch [130] được thực hiện tại phòng thí nghiệm Khoa Sinh học,
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
*) Phƣơng pháp tiến hành:
(1) Chuẩn bị các đĩa petri chứa môi trường LB đặc. (2) Hút 30 µL dịch nuôi
mỗi loài vi khuẩn trong môi trường LB lỏng (đã được hoạt hóa bằng nuôi từ 4 ÷ 8 h
trong môi trường LB lỏng ở 28 oC, lắc 200 vòng/phút) lên đĩa môi trường LB đặc và
trải đều trên mặt thạch cho đến khi khô. (3) Dùng khoan nút chai vô trùng có đường
kính 1 cm đục 5 giếng trên đĩa thạch và nhỏ 100 µL dung dịch hạt nano lai vào 4
giếng ở các nồng độ 0,1; 0,3; 0,5 và 1,0 mg/mL, giếng đối chứng bổ sung nước cất
khử trùng. (4) Đặt các đĩa petri đã bổ sung dung dịch hạt nano lai vào tủ lạnh 4 °C
khoảng 1 ÷ 2 h cho dung dịch nano lai khuếch tán đều vào môi trường và đặt vào tủ
ấm nuôi ở 30 °C, từ 18 ÷ 24 h. (5) Đo đường kính vòng kháng khuẩn, chụp hình và
ghi lại kết quả. Mỗi thí nghiệm lặp lại 3 lần.
Đường kính vòng kháng khuẩn (D) được xác định theo công thức:
D = D2 – D1 (mm) (2.6)
Trong đó: D2 là đường kính vòng kháng khuẩn tính từ tâm đục lỗ (mm);
D1 là đường kính đục lỗ thạch (mm).
56
Quy ước:
(D2 – D1): ≤ 15 mm: Vật liệu có hoạt tính kháng khuẩn yếu.
(D2 – D1): 15 ÷ 20 mm: Vật liệu có hoạt tính kháng khuẩn trung bình.
(D2 – D1): 20 ÷ 25 mm: Vật liệu có hoạt tính kháng khuẩn mạnh.
(D2 – D1): ≥ 25 mm: Vật liệu có hoạt tính kháng khuẩn rất mạnh.
2.6. Phƣơng pháp xác định hiệu ứng quang/từ - nhiệt
Hiệu ứng quang/từ - nhiệt của vật liệu được thực hiện trong ba điều kiện:
(i) hiệu ứng từ - nhiệt (MHT) tại từ trường có cường độ 100 ÷ 300 Oe và tần số
450 kHz, (ii) hiệu ứng quang - nhiệt (PTT) tại laze 808 nm, mật độ công suất 0,2 ÷
0,65 W/cm2 và (iii) hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp (MHT + PTT) được thực hiện
bằng cách tác dụng đồng thời cả từ trường và laze với điều kiện như trong từng hệ
riêng rẽ. Nhiệt độ của các mẫu được đo bằng cảm biến nhiệt độ PT100 và được kết
nối với máy tính qua cổng USB. Giá trị công suất tổn hao riêng (SLP) được xác
định từ công thức 1.16. Các thí nghiệm đánh giá hiệu suất gia nhiệt của vật liệu
được thực hiện tại Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm KHCNVN.
*) Hiệu ứng từ - nhiệt (MHT):
Hiệu ứng từ - nhiệt của các hạt nano lai được thực hiện trong từ trường xoay
chiều với từ trường được tạo ra bởi hai cuộn dây cảm ứng của một máy phát thương
mại cải tiến có công suất lối ra 20 kW. Cường độ từ trường được tính theo công thức:
H = nI (2.7)
Trong đó: n là số vòng dây trên một đơn vị chiều dài, I là biên độ của cường
độ dòng điện xoay chiều chạy trong cuộn dây.
Hình 2.4. Thiết bị xác định hiệu ứng từ - nhiệt của vật liệu.
57
Các mẫu hạt nano lai được phân tán trong nước và được đặt cách nhiệt với
môi trường ngoài bằng một vỏ bình thuỷ tinh được hút chân không 10-3
÷ 10-4
Torr.
Thí nghiệm xác định hiệu ứng từ - nhiệt của hệ nano lai được trình bày trên hình 2.4.
*) Hiệu ứng quang - nhiệt (PTT)
Hiệu ứng quang - nhiệt của các mẫu nano lai được thực hiện dưới bức xạ laze
808 nm, mật độ công suất 0,2 ÷ 0,65 W/cm2. Sự thay đổi nhiệt độ theo thời gian
chiếu laze được ghi lại bằng máy tính. Sơ đồ mô tả cấu tạo của hệ đo hiệu ứng
quang - nhiệt được thể hiện trên hình 2.5:
Hình 2.5. Thiết bị laze diode quang sợi 2W (a) và sơ đồ cấu tạo hệ đo
hiệu ứng quang - nhiệt (b).
*) Hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp (MHT + PTT)
Hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp (MHT + PTT) được thực hiện bằng cách
tác dụng đồng thời cả từ trường và laze với điều kiện như trong từng hệ riêng rẽ.
Sơ đồ mô tả hệ đo hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp được thể hiện trên hình 2.6:
Hình 2.6. Sơ đồ thí nghiệm hệ đo hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp.
58
2.7. Phƣơng pháp chụp ảnh cộng hƣởng từ hạt nhân
Hình ảnh MRI ở các nồng độ vật liệu khác nhau được thực hiện trên thiết bị
cộng hưởng từ Siemens (Model: MAGNETOM Avanto 1.5 T), với từ trường xoay
chiều có tần số 64 MHz, từ trường 1,5 tesla tại Bệnh viện Quốc tế Vinh, thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An. Bằng thử nghiệm này, khả năng tăng độ tương phản của dung
dịch hạt nano lai được khảo sát.
*) Chuẩn bị mẫu:
Pha 500 mL agar 2%, đun nóng và khuấy đều trong 10 ÷ 15 phút.
Chuẩn bị đĩa 24 giếng, ghi rõ kí hiệu lên cả nắp lẫn cạnh giếng để tránh
nhầm lẫn.
Dung dịch hạt nano lai được pha loãng với nồng độ Fe lần lượt là 0,03 mM;
0,09 mM; 0,18 mM; 0,3 mM và 0,45 mM và cho vào các giếng có dung tích 2 mL
với 1 lớp dưới có chứa 0,3 mL agar 2%. Cho tiếp 0,7 mL agar 2% lên phía trên của
giếng (có thể thay đổi sao cho phù hợp nhưng phải đảm bảo cột dung dịch cuối cùng
đủ cao để tiến hành cắt lớp chụp MRI). Dãy đĩa giếng cuối cùng được cho dung
dịch agar 2% dùng làm mẫu đối chứng.
*) Phƣơng pháp đo:
Dung dịch hạt lai được pha loãng với nồng độ Fe lần lượt là 0,03 mM; 0,09 mM;
0,18 mM; 0,3 mM; 0,45 mM và đặt trong các lọ 2 mL. Hệ số r1 (độ hồi phục dọc) được
đo bằng chuỗi Turbo Spin-Echo với TR thay đổi, còn r2 (độ hồi phục ngang) được
đo bằng chuỗi Spin-Echo với TR cố định.
Phương trình xác định thời gian hồi phục T1 và T2:
(
) (2.8)
(2.9)
Tốc độ hồi phục dọc và hồi phục ngang (1/Ti hoặc Ri, i = 1,2; s-1
) được biểu
diễn là một hàm của nồng độ sắt (biểu thị bằng mM của sắt).
Đường cong phân rã được gắn với phương trình phân rã theo cấp số mũ để
tính toán T2, trong đó A là độ lệch tuyệt đối và C là cường độ tín hiệu T2 của các mẫu,
được đo bằng cách sử dụng chuỗi xung Spin-Echo (SE) với các tham số sau: thời
gian vọng (TE) với 07 tiếng vọng trong vùng từ 11 đến 91 ms, thời gian lặp lại (TR)
59
cố định là 4000 ms, trường quan sát (FOV) 208 x 230 mm2, độ dày lát cắt (Slide
thickness) 4 mm, số lần lấy trung bình = 1. Thời gian hồi phục dọc T1 của mẫu được
đo bằng cách sử dụng xung Turbo Spin-Echos (TSE) với chuỗi xung TR biến thiên,
với các tham số sau: TE cố định là 11 ms, TR từ 300 ÷ 700 ms, trường quan sát
(FOV) 200 mm x 200 mm, độ dày lát cắt 4 mm, kích thước ma trận 192 × 320 cho độ
phân giải x-y 200 µm2, số lần lấy trung bình bằng 1.
Từ các phép làm khớp các đường hồi phục bằng các hàm mũ thu được giá trị
thời gian hồi phục T1, T2 theo biểu thức (2.8) và (2.9). Nghịch đảo của thời gian hồi
phục T1, T2 là các giá trị tốc độ hồi phục R1, R2 tương ứng cho mẫu nano lai. Tuy
vậy, khả năng tăng hay giảm tín hiệu lại phụ thuộc vào độ hồi phục r i (i = 1; 2
tương ứng cho hồi phục dọc và hồi phục ngang) của mẫu nghiên cứu. Độ hồi phục
ri có thể xác định từ quan hệ tuyến tính giữa tốc độ hồi phục Rx với nồng độ Cx
của chất tương phản trong dung dịch pha loãng [127]:
R1,2 = 1/T1,2 = Ro1,2 + r1,2.C (2.10)
Trong đó: R1,2 - tốc độ hồi phục, Ro1,2 - tốc độ hồi phục khi không có chất
tương phản, r1,2 - hằng số độ hồi phục tính theo đơn vị mM-1
s-1
, C - nồng độ chất
tương phản tính theo đơn vị mM (1 mM = 10-3
mol/L).
60
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hạt nano ferit từ
3.1.1. Hình thái học
3.1.1.1. Tổng hợp hạt nano Fe3O4 với tiền chất ở nồng độ thấp
Quá trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 theo phương pháp phân hủy nhiệt thường
được tiến hành trong dung môi dibenzyl ete [131], đây là loại dung môi hữu cơ có
độc tính cao. Trong luận án này, chúng tôi thử nghiệm sử dụng 1-octadecen là loại
dung môi có độc tính thấp hơn nhiều. Quy trình tổng hợp được trình bày trong mục
2.2.1.1. Ảnh hưởng của một số điều kiện tổng hợp (thời gian, nhiệt độ phản ứng,
nồng độ chất hoạt động bề mặt và nồng độ tiền chất vô cơ) đến kích thước hạt nano
Fe3O4, được xác định bằng phương pháp phân tích TEM, kết quả trình bày trong
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của điều kiện phản ứng đến kích thước hạt nano Fe3O4.
Nồng độ tiền chất (mM)
Nồng độ
chất HĐBM
(mM)
Nhiệt
độ
phản
ứng
(oC)
Thời
gian
phản
ứng
(ph t)
Mẫu dTEM
(nm)
Fe(acac)3 FeSO4.
7H2O
FeCl2.
4H2O OA OLA
190 0 0 372 372 295
30 F1 3,6 ± 0,7
60 F2 4,5 ± 0,7
120 F3 7,2 ± 1,0
190 0 0 558 558 295
10 F4 3,2 ± 0,5
30 F5 4,1 ± 0,6
60 F6 6,3 ± 0,9
120 F7 10,7 ± 1,4
190 0 0 744 744 295
10 F8 3,4 ± 0,5
30 F9 6,7 ± 0,7
60 F10 8,1 ± 0,7
120 F11 13,9 ± 1,1
190 0 0 930 930 295
10 F12 5,8 ± 0,9
30 F13 11,3 ± 1,2
60 F14 14,7 ± 1,3
126,7 0 63,3 558 558
270
60
F15 4,8 ± 1,0
295 F16 8,4 ± 1,5
315 F17 10,2 ± 0,5
126,7 63,3 0 558 558 315 F18 10,8 ± 2,4
61
a) Ảnh hưởng của thời gian phản ứng
Hình 3.1 trình bày ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của các mẫu
đại diện F8, F9, F10 và F11, tổng hợp với thời gian phản ứng khác nhau trong
trường hợp nồng độ chất hoạt động bề mặt là 744 mM.
Hình 3.1. Ảnh TEM của các mẫu F8 (a), F9 (b), F10 (c), F11(d) và biểu đồ phân bố
kích thước hạt tương ứng (e).
Kết quả cho thấy các hạt Fe3O4 thu được đều có dạng hình cầu, đơn phân
tán, phân bố đồng đều với kích thước trung bình tăng dần: 3,4; 6,7; 8,1 và 13,9 nm
tương ứng với thời gian phản ứng 10; 30; 60 và 120 phút. Trường hợp sử dụng
nồng độ chất hoạt động bề mặt là 372, 558 và 930 mM, hiện tượng cũng xảy ra
tương tự (bảng 3.1). Khi thời gian phản ứng tăng từ 10 ÷ 120 phút, kích thước hạt
tăng và nằm trong khoảng 3,2 ÷ 14,7 nm. Điều này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu về hạt coban ferit trong tài liệu [108]. Kết quả này có thể được giải thích
như sau: khi thời gian phản ứng tăng, các tinh thể nano lớn hơn thu được bằng sự
hòa tan của các hạt nhỏ hơn để giảm tổng năng lượng bề mặt của các hạt trong hệ
phản ứng (hiệu ứng Ostwald) [132].
62
b) Ảnh hưởng của nồng độ chất hoạt động bề mặt
Hình 3.2 trình bày ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt Fe3O4 của
các mẫu F2, F6, F10 và F14, được tổng hợp với thời gian phản ứng 60 phút, nồng
độ OA và OLA thay đổi lần lượt là 372, 558, 744 và 930 mM.
Hình 3.2. Ảnh TEM của các mẫu F2 (a), F6 (b), F10 (c) và F14 (d) và biểu đồ phân
bố kích thước hạt tương ứng (e).
Kết quả cho thấy các hạt thu được ở dạng hình cầu, đồng đều, đơn phân tán,
kích thước hạt trung bình tăng khi nồng độ OA và OLA tăng: với nồng độ chất
hoạt động bề mặt là 558; 744 mM, kích thước hạt trung bình tăng tương ứng là 1,4
và 1,8 lần so với trường hợp nồng độ 372 mM; khi nồng độ chất hoạt động bề mặt
đạt 930 mM, kích thước hạt tăng 3,3 lần. Như vậy, chất hoạt động bề mặt đóng vai
trò quan trọng trong việc điều khiển kích thước cũng như độ đồng đều của hạt
nano từ. Kết quả này cũng phù hợp với công bố về nghiên cứu tổng hợp hạt coban
ferit [108] và mangan ferit [133]. Sự tăng kích thước hạt Fe3O4 khi nồng độ chất
hoạt động bề mặt tăng có thể là do sự hình thành một phần phức oleat của sắt
trong quá trình tổng hợp. Sắt (III) axetylaxetonat bắt đầu bị phân hủy ở khoảng
190 °C [134], tuy nhiên nếu chúng tạo phức với OA cho các oleat kim loại, thì
nhiệt độ phân hủy của chúng tăng lên gần 300 oC [135]. Khi nồng độ OA và OLA
thấp, nguồn sắt chủ yếu dưới dạng phức axetylaxetonat sẽ bị phân hủy hoàn toàn ở
63
khoảng nhiệt độ 230 ÷ 250 oC tạo thành các mầm tinh thể. Khi đó sẽ giảm nguồn
sắt để nuôi giai đoạn sinh trưởng của các mầm tinh thể này, do đó các hạt nano
Fe3O4 thu được sẽ nhỏ hơn. Khi nồng độ OLA và OA cao, sắt (III) chủ yếu tạo phức
với OA tạo thành các phức oleat. Ở nhiệt độ phân hủy cao của phức oleat, nguồn sắt
là có sẵn trong dung dịch tạo điều kiện cho sự phát triển các mầm tinh thể. Kết quả
thu được các hạt nano Fe3O4 có kích thước lớn hơn.
c) Ảnh hưởng của tiền chất vô cơ
Trong các nghiên cứu trước đây, tiền chất Fe(acac)3 thường được sử dụng
trong quá trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 theo phương pháp phân hủy nhiệt. Trong
luận án này chúng tôi thử nghiệm thay thế một phần Fe(acac)3 bằng muối sắt (II) vô
cơ có giá rẻ hơn nhiều, để giảm giá thành sản phẩm, mở rộng phạm vi ứng dụng của
vật liệu.
Hợp chất muối sắt (II) vô cơ được lựa chọn khảo sát gồm: FeSO4.7H2O và
FeCl2.4H2O. Thí nghiệm được tiến hành ở 315 oC với tổng nồng độ Fe là 190 mM,
trong đó tỷ lệ mol Fe(III)/Fe(II) = 2/1, điều kiện phản ứng như trình bày ở bảng 3.1
(mẫu F17 và F18).
Hình 3.3. Ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của mẫu F17 (a, b) và F18 (c, d).
64
Kết quả hình 3.3 cho thấy hình dạng và kích thước hạt nano Fe3O4 phụ thuộc
vào bản chất muối sắt (II) vô cơ trong hỗn hợp phản ứng. Khi sử dụng hỗn hợp tiền
chất gồm Fe(acac)3 và FeSO4 các hạt thu được không có hình dạng xác định, biên hạt
không rõ ràng, kích thước hạt trung bình đạt 10,8 ± 2,4 nm, sai số kích thước hạt 22%
(hình 3.3a, b). Với hỗn hợp tiền chất gồm Fe(acac)3 và FeCl2 các hạt thu được phần
lớn là hình cầu, tương đối đồng đều, biên hạt rõ ràng, kích thước hạt trung bình là
10,2 ± 0,5 nm, sai số kích thước hạt trong trường hợp này gần 5% (hình 3.3c, d). Như
vậy, trong hai loại muối vô cơ được sử dụng, tiền chất FeCl2 hình thành hạt nano
Fe3O4 đồng đều tương tự như trường hợp chỉ sử dụng tiền chất Fe(acac)3, sự khác
nhau này có thể là do kích thước ion Cl- nhỏ hơn SO4
2-. Kết quả này mở ra hướng
mới trong việc tổng hợp nano ferit từ bằng phương pháp phân hủy nhiệt có sử dụng
tiền chất vô cơ.
d) Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng
Ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến sự hình thành hạt nano Fe3O4 được
khảo sát với hỗn hợp tiền chất gồm Fe(acac)3 và FeCl2, tại các nhiệt độ 270, 295 và
315 oC, tương ứng với các mẫu F15, F16 và F17 (bảng 3.1). Hình 3.4 trình bày kết
quả phân tích TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt thu được.
Hình 3.4. Ảnh TEM của mẫu F15 (a), F16 (b), F17 (c) và biểu đồ phân bố kích
thước hạt tương ứng (d).
65
Quan sát hình 3.4 ta thấy, đối với hai mẫu tổng hợp tại 270 oC và 295
oC, hạt
Fe3O4 thu được không đồng đều, biên hạt không rõ nét, kích thước hạt tương ứng là
4,8 ± 1,0 nm và 8,4 ± 1,5 nm, sai số kích thước hạt trong hai trường hợp này tương
ứng là 20% và 18%. Với mẫu chế tạo ở 315 oC (nhiệt độ sôi của dung môi), hạt
Fe3O4 có kích thước trung bình 10,2 ± 0,5 nm, sự phân bố kích thước hạt đồng đều,
biên hạt rõ nét hơn. Như vậy nhiệt độ phản ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
hình thành và phát triển các mầm tinh thể. Trong trường hợp này do sử dụng tiền
chất FeCl2 nên ở giai đoạn trung gian của quá trình phản ứng đã hình thành phức
oleat có nhiệt độ phân hủy ( 300 oC), cao hơn phức axetylaxetonat (230 ÷ 250
oC).
Do đó, phản ứng thực hiện ở nhiệt độ sôi của dung môi sẽ cho các hạt có kích thước
đồng đều hơn. Mặt khác khi tăng nhiệt độ phản ứng đã làm tăng chuyển động nhiệt
của các tiểu phân Fe3O4, dẫn đến năng lượng bề mặt của các tiểu phân tăng, do đó
chúng sẽ kết hợp với nhau để giảm năng lượng bề mặt, kết quả thu được các hạt có
kích thước lớn hơn.
3.1.1.2. Tổng hợp nano ferit từ với tiền chất ở nồng độ cao
Ảnh hưởng của điều kiện phản ứng tổng hợp theo phương pháp phân hủy
nhiệt đến hình thái cấu trúc của các hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) tương
tự nhau và đã được chỉ ra trong các nghiên cứu trước đây [108, 133]. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này đều được thực hiện ở điều kiện sử dụng nồng độ tiền chất thấp, dưới
100 mM. Với mục đích nâng cao công suất tổng hợp vật liệu, chúng tôi khảo sát
trường hợp sử dụng nồng độ tiền chất cao hơn, 673 và 920 mM, với các điều kiện
như trình bày trong mục 2.2.1.2. Kết quả phân tích TEM và xác định kích trước hạt
trung bình được trình bày trên hình 3.5 và bảng 3.2. Ta thấy trường hợp mẫu F-673,
tổng hợp với nồng độ tiền chất là 673 mM (cao gấp 3,5 lần so với mẫu F9), các hạt
Fe3O4 thu được vẫn duy trì sự đồng đều và đơn phân tán, kích thước hạt trung
bình tăng nhẹ và đạt 7,2 ± 0,9 nm (hình 3.5a1). Trường hợp nồng độ tiền chất lớn
gấp 5 lần (mẫu F-920) kích thước hạt đạt 14,3 ± 1,5 nm (hình 3.5a2), tăng 2,1 lần so
với mẫu F9. Xu hướng biến đổi hình thái, kích thước hạt CoFe2O4 (hình 3.5b1, 2) và
MnFe2O4 (hình 3.5c1, 2) cũng xảy ra tương tự Fe3O4. Việc chế tạo được các hạt ferit
từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) với nồng độ tiền chất cao vẫn đạt được độ đồng đều
cao và có khả năng điều khiển tốt kích thước hạt mang một ý nghĩa thực tế lớn, có
thể tiết kiệm thời gian chế tạo, giảm chi phí sản xuất.
66
Hình 3.5. Ảnh TEM các mẫu Fe3O4 (a1, a2), CoFe2O4 (b1, b2) và MnFe2O4 (c1, c2)
tổng hợp với nồng độ cao tiền chất.
Bảng 3.2. Kích thước hạt ferit từ thu được khi tổng hợp với nồng độ cao tiền chất.
Mẫu Công thức
hóa học
Nồng độ tiền chất (mM) dTEM (nm)
Fe(acac)3 Co(acac)2 Mn(acac)2
F-673 Fe3O4 673 0 0 7,2 ± 0,9
F-920 Fe3O4 920 0 0 14,3 ± 1,5
CF-673 CoFe2O4 448,67 224,33 0 7,5 ± 1,2
CF-920 CoFe2O4 613,33 306,67 0 14,5 ± 1,3
MF-673 MnFe2O4 448,67 0 224,33 7,6 ± 1,1
MF-920 MnFe2O4 613,33 0 306,67 13,8 ± 1,2
3.1.2. Cấu trúc pha tinh thể
Độ kết tinh và cấu trúc tinh thể của các ferit từ được phân tích bằng phương
pháp nhiễu xạ tia X (XRD). Hình 3.6 trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của một số mẫu
đại diện Fe3O4 tổng hợp ở nồng độ tiền chất 190 mM: mẫu F4, F10, F14, F17 và các
mẫu ferit từ tổng hợp ở nồng độ tiền chất 673 mM: mẫu F-673, CF-673 và MF-673.
Kết quả cho thấy mẫu tổng hợp được có các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng cho cấu trúc ferit
spinel, gồm các pic điển hình tương ứng với các mặt phẳng mạng (220), (311), (222),
(400), (422), (511) và (440). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các mẫu ferit từ thu
được là đơn pha, khớp với các thẻ PDF chuẩn của các hệ mẫu Fe3O4 (JCPDS 19-
0629), CoFe2O4 (JCPDS 00-022-1086) và MnFe2O4 (JCPDS 01-075-0035) [136].
67
Hình 3.6a cho thấy độ rộng các vạch nhiễu xạ giảm dần theo thứ tự mẫu F4, F10,
F17 và F14 chứng tỏ kích thước tinh thể tăng. Dấu hiệu này thể hiện rõ hơn khi
quan sát đỉnh nhiễu xạ (222) của các mẫu: đỉnh nhiễu xạ (222) khá rõ nét ở mẫu F14
và F17 nhưng mờ dần ở mẫu F10 và hầu như không quan sát được ở mẫu F4.
Giá trị hằng số mạng (a) và kích thước tinh thể trung bình (dXRD) của các
mẫu vật liệu (tính theo công thức Debye-Scherrer với pic tại góc 2θ = 35,0o) được
xác định và trình bày trong bảng 3.3. Có thể thấy rằng kích thước tinh thể trung
bình xác định được từ giản đồ nhiễu xạ tia X phù hợp với kết quả thu được từ ảnh
TEM (dTEM).
Hình 3.6. Giản đồ nhiễu xạ tia X của Fe3O4 được tổng hợp tại nồng độ tiền chất
190 mM (a) và MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) tại nồng độ tiền chất 673 mM (b).
Bảng 3.3. Hằng số mạng và kích thước hạt của một số ferit từ.
Mẫu Công thức
hóa học a (Å) dTEM (nm) dXRD (nm)
F4
Fe3O4
8,360 3,2 ± 0,5 3,0
F9 8,362 6,7 ± 0,7 6,2
F10 8,364 8,1 ± 0,7 7,4
F17 8,365 10,2 ± 0,5 9,1
F11 8,374 13,9 ± 1,1 12,6
F14 8,376 14,7 ± 1,3 14,0
F-673 Fe3O4
8,361 7,2 ± 0,9 6,7
F-920 8,374 14,3 ± 1,5 13,5
CF-673 CoFe2O4
8,391 7,5 ± 1,2 6,2
CF-920 8,393 14,5 ± 1,3 13,8
MF-673 MnFe2O4
8,521 7,6 ± 1,1 7,0
MF-920 8,525 13,8 ± 1,2 12,6
68
3.1.3. Tính chất từ
Tính chất từ của các mẫu nano ferit được khảo sát bằng phương pháp từ kế mẫu
rung VSM. Hình 3.7 trình bày đường cong từ trễ của một số mẫu nano Fe3O4 kích
thước khác nhau, từ 3,2 ÷ 14,7 nm, và MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) kích thước 7 nm.
Hình 3.7. Đường cong từ trễ của vật liệu Fe3O4 kích thước 3,2 ÷ 14,7 nm (a)
và MFe2O4 kích thước 7 nm (b).
Từ kết quả đo đường cong từ trễ có thể xác định giá trị từ độ bão hòa (Ms) và
lực kháng từ (Hc) như thể hiện trên bảng 3.4.
Bảng 3.4. Từ độ bão hòa và lực kháng từ của các mẫu ferit từ kích thước khác nhau.
Mẫu Công thức
hóa học dTEM (nm) Ms (emu/g) Hc (Oe)
F4
Fe3O4
3,2 ± 0,5 40,0 0
F9 6,7 ± 0,7 50,3 3,0
F10 8,1 ± 0,7 57,1 6,0
F17 10,2 ± 0,5 59,0 5,0
F11 13,9 ± 1,1 64,3 25,0
F14 14,7 ± 1,3 66,5 60,0
F-673 Fe3O4
7,2 ± 0,9 52,3 1,0
F-920 14,3 ± 1,5 60,2 54,0
CF-673 CoFe2O4
7,5 ± 1,2 55,8 2,0
CF-920 14,5 ± 1,3 73,5 74,0
MF-673 MnFe2O4
7,6 ± 1,1 46,0 4,0
MF-920 13,8 ± 1,2 50,3 28,0
69
Kết quả cho thấy khi kích thước hạt Fe3O4 tăng từ 3,2 đến 14,7 nm, giá
trị Ms tăng từ 40,0 đến 66,5 emu/g, giá trị này nhỏ hơn so với Ms của mẫu khối
( 90 emu/g) [19]. Ngoài ra, kết quả đo đường từ trễ của các mẫu ở từ trường
thấp cho thấy giá trị lực kháng từ tăng từ 0 lên tới 57 Oe. Với các mẫu có kích
thước 10 nm, lực kháng từ đều nhỏ hơn 6 Oe. Xu hướng biến đổi này cũng được
thể hiện rõ với các ferit từ tổng hợp ở nồng độ cao của tiền chất. Mặt khác, kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy với cùng kích thước hạt, từ độ bão hòa của các ferit từ giảm
dần theo thứ tự CoFe2O4, Fe3O4 và MnFe2O4.
Sự giảm từ độ bão hòa ở kích thước nano so với mẫu khối của các ferit từ
được lý giải như sau: Từ độ của một vật liệu là tổng số các mômen từ trên một đơn
vị thể tích của vật liệu đó. Khi kích thước của vật liệu từ giảm đến cỡ nm, sự cạnh
tranh giữa hiệu ứng bề mặt và hiệu ứng kích thước là nguyên nhân dẫn đến sự khác
nhau giữa từ độ hạt nano so với từ độ của vật liệu khối tương ứng. Đối với vật liệu
khối, có thể coi từ độ phần vỏ bé hơn nhiều so với phần lõi. Đối với vật liệu ở kích
thước nm, tỷ lệ giữa diện tích bề mặt và thể tích là rất lớn, dẫn đến phần vỏ không
từ đóng góp đáng kể vào toàn bộ thể tích của hạt. Nói cách khác, sự giảm của từ độ
bão hòa chính là do sự tồn tại của lớp vỏ không từ (lớp chết từ) trên bề mặt hạt. Do
vậy, từ độ của hạt nano từ thường nhỏ hơn từ độ của mẫu khối tương ứng và giá trị
từ độ của hạt nano từ giảm theo kích thước hạt.
3.1.4. Cấu trúc lớp vỏ bọc hạt nano ferit
Các chất hoạt động bề mặt OA và OLA đóng vai trò quan trọng trong việc
kiểm soát hình thái cũng như kích thước hạt nano ferit từ. Để đặc trưng cấu trúc lớp
vỏ bọc xung quanh các hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn), các mẫu sau khi
chế tạo được phân tích phổ hấp thụ hồng ngoại (FT-IR) bằng cách ép viên với KBr.
Kết quả hình 3.8 cho thấy phổ hấp thụ hồng ngoại của cả ba mẫu có các đỉnh
hấp thụ tương đối giống nhau. Một băng rộng nằm giữa 3600 và 3000 cm-1
được gán
cho dao động hóa trị của liên kết O-H trong nhóm chức axit (COOH) của OA. Các
đỉnh hấp thụ tại số sóng 2923 cm-1
và 2852 cm-1
tương ứng với các dao động hóa trị
bất đối xứng và đối xứng của liên kết C - H trong nhóm CH2 của chất hoạt động bề
mặt OA và OLA. Đỉnh hấp thụ xuất hiện tại số sóng 1630 cm-1
đặc trưng cho liên
kết N - H của phân tử OLA. Hai đỉnh hấp thụ tại 1450 cm-1
và 1384 cm-1
lần lượt gán
70
cho dao động hóa trị bất đối xứng và đối xứng của nhóm chức cacboxylat (COO-)
của phân tử OA. Kết quả này chứng minh OA và OLA đã phủ trên bề mặt các hạt
nano ferit từ [137].
Hình 3.8. Phổ FT-IR của mẫu F10, CF-673 và MF-673.
Để xác định hàm lượng của lớp vỏ hữu cơ chúng tôi sử dụng phương pháp
phân tích nhiệt TGA với mẫu Fe3O4 đại diện (F10), kết quả trình bày trên hình 3.9.
Hình 3.9. Giản đồ phân tích nhiệt TGA của mẫu F10.
71
Quan sát hình 3.9 ta thấy có hai giai đoạn mất khối lượng: (i) giai đoạn thứ
nhất trong khoảng nhiệt độ 50 ÷ 240 oC, khối lượng giảm 3 %, đây là quá trình
bay hơi của dung môi hữu cơ hấp phụ trên bề mặt hạt; (ii) giai đoạn thứ hai trong
khoảng nhiệt độ 240 ÷ 550 oC, khối lượng giảm 7 %, do sự phân hủy của các phân
tử chất hoạt động bề mặt OA/OLA. Như vậy, dựa vào quá trình mất khối trên đường
TGA ta có thể xác định được giá trị khối lượng thực của lõi Fe3O4 90%.
Tóm tắt kết quả phần 3.1:
1. Các hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) được chế tạo thành công
bằng phương pháp phân hủy nhiệt trong dung môi ODE. Vật liệu thu được có độ
đồng đều cao, cấu trúc spinel, đơn phân tán. Bằng việc thay đổi các điều kiện tổng
hợp (thời gian, nhiệt độ phản ứng, nồng độ chất hoạt động bề mặt và nồng độ tiền
chất) kích thước hạt được điều khiển tốt trong phạm vi 3,2 ÷ 14,7 nm. Việc thay thế
một phần tiền chất Fe(acac)3 bằng muối FeCl2 và tổng hợp ở nồng độ tiền chất cao
vẫn thu được các hạt ferit từ có độ đồng đều cao, đơn phân tán.
2. Giá trị từ độ bão hòa của vật liệu Fe3O4 tăng từ 40,0 đến 66,5 emu/g khi
kích thước hạt tăng từ 3,2 đến 14,7 nm. Ở nhiệt độ phòng vật liệu thu được có lực
kháng từ rất nhỏ, có thể coi là siêu thuận từ, đáp ứng yêu cầu cho ứng dụng y sinh.
3. Các hạt nano ferit từ MFe2O4 được bao bọc bởi lớp chất hoạt động bề mặt
(OA/OLA) với khối lượng 10%.
3.2. Hạt nano lai Fe3O4-(Ag, Au)
Từ kết quả nghiên cứu về tổng hợp hạt nano ferit từ chúng tôi lựa chọn 4
mẫu Fe3O4 có kích thước khác nhau: 6,7 ± 0,7 nm (F9); 8,1 ± 0,7 nm (F10); 10,2 ±
0,5 nm (F17) và 13,9 ± 1,1 nm (F11) làm hạt mầm cho quá trình tổng hợp hệ nano
lai Fe3O4-(Ag, Au). Phần này của luận án trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng
của điều kiện tổng hợp đến hình thái, cấu trúc và tính chất của hạt lai.
3.2.1. Hình thái học
3.2.1.1. Hệ nano lai Fe3O4/Ag
Trong luận án này, hệ nano lai Fe3O4/Ag được tổng hợp bằng phương pháp
nuôi mầm trong dung môi ODE. Hạt nano Fe3O4 được phân tán trong dung dịch có
chứa AgNO3. Ở nhiệt độ cao, các ion Ag+ bị khử ngay trên bề mặt hạt Fe3O4 tạo
thành các mầm tinh thể nano bạc, các mầm hạt này sẽ phát triển và hình thành hệ
72
nano lai Fe3O4/Ag. Các thông số: tỷ lệ mol [Ag]/[Fe] và thời gian phản ứng được
thay đổi như mô tả trong mục 2.2.2.1. Hình thái cấu trúc lai được phân tích bằng
phương pháp hiển vi điện tử truyền qua TEM và trình bày trên bảng 3.5.
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của điều kiện tổng hợp đến cấu trúc lai Fe3O4/Ag.
= [Ag]/[Fe] Thời gian phản ứng (ph t) Cấu tr c lai Fe3O4/Ag
0,5 30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
1,4 30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
2,3 30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
3,2 30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
4,5
30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
120 Lõi - vỏ
6,8
30 Lõi - vỏ
60 Lõi - vỏ
120 Lõi - vỏ
9,0
30 Dumbbell, lõi - vỏ
60 Dumbbell, lõi - vỏ
120 Dumbbell, lõi - vỏ
11,4
30 Dumbbell
60 Dumbbell
120 Dumbbell
13,6
30 Dumbbell
60 Dumbbell
120 Dumbbell
73
a) Ảnh hưởng của tỉ lệ mol giữa tiền chất và hạt mầm ([Ag]/[Fe])
Hình 3.10 trình bày ảnh TEM một số mẫu đại diện của cấu trúc lai Fe3O4/Ag,
sử dụng hạt mầm Fe3O4 kích thước 8,1 nm, tỉ lệ [Ag]/[Fe] thay đổi, phản ứng được
thực hiện trong 60 phút.
Hình 3.10. Ảnh TEM (a - g) và biểu đồ phân bố kích thước hạt (h) của Fe3O4 (hạt
mầm) và cấu trúc lai Fe3O4/Ag với = [Ag]/[Fe] thay đổi.
Kết quả cho thấy, khi = 1,4 (hình 3.10b) trên ảnh TEM xuất hiện những hạt
cầu nhỏ, có màu nhạt, cùng với các hạt cầu lớn, màu đậm hơn. Các hạt nano nhỏ này
là Fe3O4 không được phủ hoặc được phủ một lớp vỏ Ag rất mỏng, kích thước thay
74
đổi không nhiều so với ban đầu. Các hạt lớn kích thước 12,5 ± 1,9 nm là hạt lai có
cấu trúc lõi - vỏ, với lõi là Fe3O4 và lớp vỏ là Ag (Fe3O4@Ag). Tuy nhiên, lớp vỏ
này được hình thành với độ dày không đều có thể do nồng độ AgNO3 trong tiền chất
sử dụng còn thấp. Do vật liệu sau khi tổng hợp được thu hồi bằng nam châm, nên
trên ảnh TEM không thể hiện các hạt nano Ag tự do. Khi tăng giá trị = 3,2 ÷ 6,8,
cấu trúc lõi - vỏ được hình thành đồng đều hơn, hầu như không còn các hạt Fe3O4 tự
do (hình 3.10c, d). Đặc biệt, mẫu vật liệu tổng hợp với = 6,8 có hình thái khá đồng
đều, kích thước hạt lai đạt 16,0 ± 0,8 nm, sự phân bố kích thước hẹp với sai số kích
thước 5%.
Sự hình thành cấu trúc lõi – vỏ phụ thuộc vào = [Ag]/[Fe] có thể được giải
thích bằng mô hình La Mer [138]. Trong phản ứng trung gian tạo lớp vỏ Ag, các
nguyên tử Ag sinh ra sẽ lắng đọng trên bề mặt Fe3O4 NPs. Khi trên lõi Fe3O4 đã có
các nguyên tử Ag thì những vị trí đó trở nên hoạt động và một lượng lớn Ag bị lắng
đọng tiếp theo. Từ đó lớp vỏ Ag được hình thành liên tục thông qua việc tạo ra các
tinh thể nano Ag. Tuy nhiên khi lượng tiền chất của Ag thấp, lúc này trên lõi từ sẽ có
những vị trí hoạt động có nhiều Ag và những vị trí trống, khi đó hiệu ứng Ostwald bắt
đầu cạnh trạnh và chiếm ưu thế hơn phản ứng lắng đọng [139]. Dẫn đến quá trình
hình thành vỏ Ag diễn ra không đồng đều. Vì vậy, khi giá trị < 3,2, sẽ hình thành
hỗn hợp các hạt nano bao gồm các hạt nano Fe3O4@Ag có lớp vỏ Ag dày và các hạt
nano Fe3O4 không có lớp vỏ hoặc chỉ có lớp vỏ Ag rất mỏng. Trong trường hợp =
6,8 nồng độ tiền chất Ag đủ cao để ngăn chặn quá trình Ostwald do đó lớp vỏ Ag
phát triển một cách đồng nhất, các hạt lai Fe3O4@Ag cấu trúc lõi - vỏ thu được tương
đối đồng đều.
Khi = 9, ngoài các hạt lai có cấu trúc lõi - vỏ (chiếm khoảng 20 ÷ 25%) còn
xuất hiện các hạt lai có cấu trúc dạng dumbbell (Fe3O4 – Ag) gồm một hạt nano từ
được gắn với một hạt nano Ag (hình 3.10e). Phần nhỏ hơn và có màu nhạt hơn là
hạt nano từ Fe3O4 với kích thước 8,1 ± 0,7 nm (không thay đổi so với kích thước
ban đầu) hạt to và đậm hơn là nano Ag với kích thước 16,3 ± 0,9 nm. Khi = 13,6
các hạt lai thu được hầu hết có cấu trúc dumbbell (hình 3.10g), ở đây kích thước hạt
Ag thay đổi không nhiều so với trường hợp = 9 nhưng sự phân bố kích thước trong
trường hợp này lớn hơn. Có thể thấy rằng, kích thước và hình dạng hạt nano Ag
75
trong cấu trúc dumbbell tương đương với hạt nano Ag tự do (15,0 ± 1,2 nm) được
tổng hợp trong điều kiện tương tự (hình 3.11). Sự hình thành cấu trúc dumbbell khi
9 có thể được giải thích theo mô hình Volmer - Weber (VW) [113]: Khi tăng
nồng độ tiền chất Ag dẫn đến tổng năng lượng bề mặt của các mầm tinh thể Ag,
năng lượng biến dạng và năng lượng bề mặt chung (giữa Ag và Fe3O4) lớn hơn
năng lượng bề mặt của hạt mầm (Fe3O4) làm cho giá trị năng lượng dư tổng thể ()
dương trong quá trình phát triển hạt lai. Nghĩa là sự lắng đọng sẽ làm tăng năng
lượng bề mặt của cấu trúc, chúng có thể giảm năng lượng tổng bằng cách hình
thành các nhánh 3D dày bị cô lập và cũng có thể làm giảm năng lượng biến dạng
bằng cách tạo ra những khuyết tật về cấu trúc giữa hai bề mặt hình thành giao diện
chung, kết quả thu được cấu trúc dumbbell.
Hình 3.11. Ảnh TEM (a) và biểu đồ phân bố kích thước hạt (b) của nano Ag.
Sự phụ thuộc hình thái cấu trúc lai vào giá trị = [Ag]/[Fe] cũng xảy ra tương
tự với trường hợp các hạt mầm Fe3O4 có kích thước khác nhau, kết quả được trình
bày trong bảng 3.5. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị 6,8 các hạt lai thu được có
cấu trúc dạng lõi - vỏ, khi tăng giá trị này đến 9 thì cấu trúc dumbbell được hình
thành. Như vậy, khi giá trị = [Ag]/[Fe] tăng, hình thái hạt lai Fe3O4/Ag chuyển từ
dạng lõi - vỏ sang dumbbell.
b) Ảnh hưởng của thời gian phản ứng
Hình 3.12 trình bày ảnh TEM của các mẫu đại diện cho hệ lai cấu trúc lõi - vỏ
( = 6,8) và dumbbell ( = 9,0) tổng hợp với thời gian phản ứng khác nhau: 30, 60 và
120 phút, sử dụng hạt mầm Fe3O4 kích thước 8,1 nm. Kết quả cho thấy với cấu trúc
lõi - vỏ Fe3O4@Ag (hình 3.12 a1 - a3), kích thước hạt lai tăng 12,8 ÷ 18,5 nm, tương
ứng với lớp vỏ Ag tăng 4,7 ÷ 10,4 nm khi thời gian phản ứng tăng từ 30 ÷ 120 phút.
76
Với cấu trúc dumbbell Fe3O4 – Ag (hình 3.12 b1 - b3), kích thước hạt Ag tăng
14,1 ÷ 19,2 nm khi thời gian phản ứng tăng từ 30 ÷ 120 phút. Trong trường hợp
thời gian phản ứng là 30 và 60 phút, các hạt thu được tương đối đồng đều. Khi kéo
dài thời gian phản ứng đến 120 phút bắt đầu xuất hiện sự trùng chập của hai hoặc
nhiều hạt nano (hình 3.12 a3 và b3). Xu hướng này xảy ra tương tự với các trường
hợp sử dụng hạt mầm Fe3O4 có kích thước khác nhau (bảng 3.6 và 3.7).
Hình 3.12. Ảnh TEM cấu trúc lai Fe3O4/Ag được tổng hợp với thời gian phản ứng
khác nhau: a1,b1) 30 phút, a2,b2) 60 phút, a3,b3) 120 phút.
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến độ dày lớp vỏ Ag trong cấu trúc Fe3O4@Ag.
3 4Fe Od
(nm)
Độ dày lớp vỏ Ag (dsAg) (nm)
30 phút 60 phút 120 phút
Mẫu dsAg Mẫu dsAg Mẫu dsAg
6,7 ± 0,7 F9@A30 3,3 ± 0,4 F9@A60 5,6 ± 0,6 F9@A120 7,8 ± 1,0
8,1 ± 0,7 F10@A30 4,7± 0,6 F10@A60 7,9 ± 0,8 F10@A120 10,4 ± 1,2
10,2 ± 0,5 F17@A30 6,2 ± 0,6 F17@A60 8,4 ± 0,9 F17@A120 13,7 ± 1,8
13,9 ± 1,1 F11@A30 7,8 ± 1,1 F11@A60 12,5 ± 1,3 F11@A120 17,3 ± 2,0
77
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến kích thước hạt Ag trong cấu trúc Fe3O4-Ag.
3 4Fe Od
(nm)
Kích thƣớc hạt Ag (dAg) (nm)
30 phút 60 phút 120 phút
Mẫu dAg Mẫu dAg Mẫu dAg
6,7 ± 0,7 F9-A30 11,5 ± 0,5 F9-A60 13,8 ± 0,7 F9-A120 15,8 ± 1,2
8,1 ± 0,7 F10-A30 14,1 ± 0,6 F10-A60 16,3 ± 0,9 F10-A120 19,2 ± 1,4
10,2 ± 0,5 F17-A30 18,2 ± 0,8 F17-A60 19,5 ± 1,0 F17-A120 24,7 ± 2,1
13,9± 1,1 F11-A30 23,4± 1,2 F11-A60 27,1 ± 2,2 F11-A120 33,0 ± 2,4
Trong phạm vi khảo sát, kích thước của lớp vỏ Ag (dsAg) trong cấu trúc lõi - vỏ
và hạt Ag (dAg) trong cấu trúc dumbbell tăng khi thời gian phản ứng tăng. Từ những
kết quả phân tích ở trên chúng tôi có thể tóm tắt sơ đồ mô tả sự hình thành cấu trúc
lai Fe3O4/Ag như hình 3.13.
Hình 3.13. Sơ đồ thể hiện sự phát triển hình thái cấu trúc lai Fe3O4/Ag.
78
3.2.1.2. Hệ nano lai Fe3O4/Au
a) Hệ nano lai Fe3O4/Au đặc
Tương tự phương pháp tổng hợp hệ nano lai Fe3O4/Ag, các hạt nano lai
Fe3O4/Au đặc được hình thành bằng cách khử Au3+
trên bề mặt các hạt mầm
Fe3O4 kích thước 8,1 nm với sự có mặt của OLA và OCD-ol trong dung môi
ODE. Hình 3.14 trình bày ảnh TEM và biểu đồ phân bố kích thước hạt của hệ nano
lai Fe3O4/Au. Kết quả nghiên cứu cho thấy các hạt nano lai Fe3O4/Au cấu trúc lõi -
vỏ ở dạng đặc được hình thành với tỉ lệ mol [Au]/[Fe] trong hỗn hợp phản ứng là
6,8. Các hạt lai thu được có kích thước đồng đều, không thấy các hạt Fe3O4 tự do,
kích thước hạt lai đạt 15,7 ± 0,9 nm, sự phân bố kích thước hẹp với sai số 5,7%.
Như vậy, trong cùng điều kiện phản ứng các hạt nano lai Fe3O4/Au đặc có hình
dạng và kích thước tương đương Fe3O4/Ag.
Hình 3.14. Ảnh TEM (a) và biểu đồ phân bố kích thước hạt (b) của hệ lai Fe3O4/Au đặc.
b) Hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng
Trong nghiên cứu này, hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng được tổng hợp bằng cách
sử dụng các hạt nano lai Fe3O4@Ag (lõi - vỏ ) làm khuôn (template) thông qua phản
ứng thế Galvanic giữa Ag và Au3+
trong dung môi ODE:
3Ag0 + Au
3+ Au
0 + 3Ag
+
*) Ảnh hưởng của khuôn nano Fe3O4@Ag đến sự hình thành cấu trúc Fe3O4/Au rỗng:
Để nghiên cứu sự ảnh hưởng của cấu trúc khuôn Fe3O4@Ag đến quá trình
hình thành cấu trúc lai Fe3O4/Au rỗng, chúng tôi lựa chọn hai mẫu Fe3O4@Ag có
kích thước hạt 12,8 nm (mẫu F10@A30) và 16,0 nm (mẫu F10@A60) với độ dày
lớp vỏ Ag tương ứng là 4,7 nm và 7,9 nm, thể tích dung dịch H[AuCl4] sử dụng là
1,5 mL, sản phẩm thu được với ký hiệu tương ứng là F10@A30/Au và F10@A60/Au.
79
Hình 3.15 trình bày kết quả phân tích TEM và ảnh dung dịch khuôn nano
Fe3O4@Ag và hệ lai Fe3O4/Au thu được.
Hình 3.15. Ảnh TEM và ảnh dung dịch tương ứng của các khuôn nano Fe3O4@Ag
(a1, a2) và hệ nano lai Fe3O4/Au (b1, b2).
Dựa vào ảnh TEM và màu sắc của dung dịch hạt lai ta thấy, trường hợp sử
dụng khuôn có kích thước 12,8 nm không thu được hạt lai Fe3O4/Au rỗng (hình
3.15 b1). Trong trường hợp khuôn Fe3O4@Ag kích thước 16,0 nm, trên ảnh TEM
xuất hiện những lỗ trống nhỏ ở giữa hạt nano lai, đồng thời dung dịch thu được có
màu xanh đặc trưng, chứng tỏ sự hình thành hạt nano lai Fe3O4/Au cấu trúc rỗng
(hình 3.15 b2). Như vậy, sự hình thành hệ lai Fe3O4/Au rỗng phụ thuộc vào khuôn
nano Fe3O4@Ag, theo cơ chế được giả thiết như trên hình 3.16.
Hình 3.16. Sơ đồ mô tả cơ chế hình thành hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng.
80
*) Ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến sự hình thành cấu trúc Fe3O4/Au rỗng
Để có thêm thông tin về sự hình thành cấu trúc nano lai Fe3O4/Au rỗng, chúng
tôi nghiên cứu sự ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] sử dụng trong phản ứng
với Fe3O4@Ag kích thước 16,0 nm (mẫu F10@A60). Hình 3.17 trình bày ảnh TEM
của khuôn nano Fe3O4@Ag và hệ lai Fe3O4/Au được tổng hợp với thể tích dung
dịch H[AuCl4] khác nhau. Kết quả cho thấy: khi thể tích dung dịch H[AuCl4] sử dụng
trong phản ứng là 0,5 mL cấu trúc rỗng chưa được hình thành (hình 3.17b). Tăng thể
tích dung dịch H[AuCl4] từ 1,0 ÷ 2,0 mL hệ lai thu được có dạng hình cầu rỗng với
kích thước lỗ trống tăng dần, tại 2,0 mL vật liệu có kích thước lớn nhất đạt 17,0 nm
(tăng nhẹ so với khuôn nano Fe3O4@Ag hình 3.17k). Kết quả này chứng minh các
nguyên tử Au sinh ra lắng đọng bên ngoài bề mặt của hạt lai. Tăng tiếp thể tích
H[AuCl4] thì cấu trúc rỗng dần bị phá vỡ, ở mẫu 2,5 mL H[AuCl4] ngoài những hạt
cầu rỗng còn thu được những hạt nano bị phân mảnh hoặc dạng đặc (hình 3.17g).
Cấu trúc Fe3O4/Au rỗng bị phá vỡ hoàn toàn khi lượng dung dịch H[AuCl4] là 3,5 mL
(hình 3.17i). Như vậy, kích thước và hình thái của hệ lai Fe3O4/Au thu được phụ
thuộc vào lượng dung dịch H[AuCl4] sử dụng trong quá trình tổng hợp (bảng 3.8),
kết quả này xảy ra tương tự trường hợp cấu trúc Au rỗng (phụ lục 1).
Hình 3.17. Ảnh TEM của Fe3O4@Ag (a), hệ lai Fe3O4/Au (b-i) được tổng hợp với
lượng dung dịch H[AuCl4] khác nhau và sự phân bố kích thước hạt (k) của (a và e).
81
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến kích thước và hình thái
vật liệu lai Fe3O4/Au.
Lƣợng dung dịch
H[AuCl4] (mL) Kích thƣớc hạt lai (nm)
Hình thái vật liệu
lai Fe3O4/Au
0 16,0 ± 0,8 Hình cầu đặc
(khuôn nano)
0,5 16,1 ± 0,8 Hình cầu đặc
1,0 16,4 ± 0,9 Hình cầu rỗng
1,5 16,6 ± 1,0 Hình cầu rỗng
2,0 17,0 ± 1,1 Hình cầu rỗng
2,5 18,8 ± 2,1 Hình cầu rỗng và đặc
3,0 26,3 ± 3,4 Hình cầu rỗng và đặc
3,5 33,2 ± 5,7 Hình cầu đặc
Sự phát triển hình thái cấu trúc lai Fe3O4/Au phụ thuộc vào lượng dung dịch
H[AuCl4] sử dụng hay tỉ lệ mol [Au]/[Ag]. Mối quan hệ này có thể tóm tắt theo sơ
đồ hình 3.18:
Hình 3.18. Ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến hình thái cấu trúc lai Fe3O4/Au.
82
3.2.2. Cấu trúc pha tinh thể
Sự hình thành cấu trúc lai Fe3O4/Ag cũng được chứng minh bằng phương
pháp nhiễu xạ tia X. Hình 3.19 trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của một số mẫu đại
diện cho vật liệu: Fe3O4 (mẫu F10), Ag, Fe3O4@Ag (mẫu F10@A60) và Fe3O4-Ag
(mẫu F10-A60). Kết quả phân tích cho thấy các hạt Fe3O4 (hạt mầm) có các đỉnh
nhiễu xạ đặc trưng cho cấu trúc spinel của Fe3O4, gồm các pic điển hình tương ứng
với các mặt phẳng mạng (220), (311), (400), (511) và (440) tại các vị trí 30,0o;
35,0o; 43,0
o; 57,0
o và 62,5° (JCPDS 19-0629). Với cấu trúc lõi - vỏ Fe3O4@Ag,
không quan sát thấy các pic của Fe3O4, chỉ xuất hiện các pic đặc trưng cho Ag cấu
trúc lập phương tâm mặt tại các vị trí 2 = 38,21o; 43,61
o và 64,21
o tương ứng với
mặt phẳng mạng tinh thể (111), (200) và (220) (JCPDS 004-0783) [98]. Điều này có
thể giải thích là do hạt Fe3O4 đã được bọc hoàn toàn bởi lớp vỏ Ag như quan sát ảnh
TEM hình 3.12 a2. Trong khi đó, cấu trúc dumbbell Fe3O4-Ag xuất hiện các pic đặc
trưng cho Fe3O4 spinel với cường độ giảm mạnh, một số đỉnh như (222) và (422)
không quan sát thấy trên giản đồ; ngoài ra còn xuất hiện các đỉnh của Ag với cường
độ mạnh. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả phân tích ảnh TEM đã chỉ ra ở hình
3.12 b2.
Hình 3.19. Giản đồ nhiễu xạ tia X của hạt nano Fe3O4, Ag và hệ nano lai Fe3O4/Ag.
3.2.3. Tính chất quang
Để xác nhận sự hình thành cấu trúc lai chúng tôi tiến hành đo phổ UV-Vis của vật
liệu chế tạo được trong dải bước sóng 300 ÷ 900 nm. Hình 3.20a trình bày phổ UV-Vis
83
của một số mẫu đại diện cho vật liệu: Fe3O4 (mẫu F10, 8,1 nm), Ag (15,0 nm),
Fe3O4@Ag (mẫu F10@A60; 16,0 nm) và Fe3O4-Ag (mẫu F10-A60; 8,1 – 16,3 nm).
Trong vùng bước sóng 300 ÷ 900 nm, hạt nano Fe3O4 không xuất hiện đỉnh hấp thụ.
Điều này là hoàn toàn hợp lý vì Fe3O4 không có hiệu ứng plasmon bề mặt hay các
cơ chế quang học khác. Với mẫu Ag, do hiệu ứng plasmon bề mặt nên trên phổ hấp
thụ xuất hiện một đỉnh tại vị trí 405 nm, với độ bán rộng của đỉnh hấp thụ plasmon
khá hẹp. Với các hạt nano lai Fe3O4/Ag, xuất hiện vị trí cực đại SPR ở bước sóng
410 nm với cấu trúc lõi - vỏ và 420 nm với cấu trúc dumbbell. Sự hình thành cấu
trúc lai giữa Ag và Fe3O4 dẫn đến sự mở rộng và dịch chuyển đáng kể đỉnh SPR so
với các hạt nano Ag riêng lẻ. Sự tăng cường tính chất cộng hưởng plasmon bề mặt
của các hạt lai được giải thích dựa vào sự thay đổi tính chất điện tử bề mặt của các
thành phần trong hệ lai. Các hạt nano Fe3O4 là thành phần thiếu điện tử so với các
hạt nano Ag, nên trong hệ lai các điện tử sẽ được chuyển từ Ag sang Fe3O4 gây ra
sự thiếu hụt điện tử trên bề mặt của các hạt nano Ag [50]. Yang và cộng sự đã chỉ ra
rằng, nếu các điện tử trên bề mặt hạt nano kim loại quý bị dư thừa có thể dẫn đến sự
dịch chuyển vị trí SPR sang vùng bước sóng ngắn, trong khi sự thiếu điện tử gây ra
sự dịch chuyển sang vùng bước sóng dài hơn [30]. Trong nghiên cứu này, cấu trúc
dumbbell có sự dịch chuyển đỉnh SPR mạnh hơn do tính chất dị hướng cũng như
kích thước tổng thể của hạt dumbbell lớn hơn lõi - vỏ.
Hình 3.20. Phổ UV-Vis của các hạt nano trong dung môi n-hexan:
a) Fe3O4, Ag và hệ nano lai Fe3O4/Ag, b) Fe3O4 và hệ nano lai Fe3O4/Au (đặc và rỗng).
Tính chất quang của các hạt nano lai Fe3O4/Ag cũng được nghiên cứu với
các mẫu có kích thước khác nhau. Kết quả được thể hiện trong bảng 3.9.
84
Bảng 3.9. Cực đại hấp thụ SPR của hệ nano lai Fe3O4/Ag.
Fe3O4@Ag Fe3O4-Ag
Mẫu dhạt lai (nm)
Vị trí
SPR
(nm)
Mẫu dAg (nm)
Vị trí
SPR
(nm)
F10@A30 12,8 ± 0,6 415 F10-A30 14,1 ± 0,6 417
F10@A60 16,0 ± 0,8 410 F10-A60 16,3 ± 0,9 420
F10@A120 18,5 ± 1,2 407 F10-A120 19,2 ± 1,4 425
F17@A30 16,4 ± 0,6 421 F17-A30 18,2 ± 0,8 428
F17@A60 18,6 ± 0,9 418 F17-A60 19,5 ± 1,0 430
F17@A120 23,9 ± 1,8 415 F17-A120 24,7 ± 2,1 434
Từ bảng 3.9 cho thấy: với cấu trúc lõi - vỏ, nếu cùng kích thước lõi Fe3O4 độ
dày lớp vỏ Ag tăng thì vị trí SPR dịch chuyển về phía bước sóng ngắn hướng tới vị
trí của các hạt nano Ag tinh khiết. Vấn đề này đã được Mie giải thích cho hệ lai cấu
trúc lõi – vỏ như đã trình bày trong mục 1.2.2. Với cấu trúc dumbbell, cực đại hấp
thụ SPR dịch chuyển về phía bước sóng dài hơn khi kích thước hạt Ag tăng do ảnh
hưởng của tính chất dị hướng và hiệu ứng kích thước. Nhìn chung kết quả phân tích
phổ UV – Vis với các hạt nano lai Fe3O4/Ag cho thấy cực đại hấp thụ SPR của
chúng nhỏ hơn 450 nm. Các kết quả nghiên cứu tính chất quang của hệ nano lai
Fe3O4/Ag trong luận án hoàn toàn phù hợp với nhận định của thuyết Mie [140].
Tương tự hệ nano lai Fe3O4/Ag, tính chất quang của Fe3O4/Au NPs cũng phụ
thuộc vào hình thái và cấu trúc của vật liệu (hình 3.20b). Kết quả nghiên cứu cho
thấy hệ nano lai Fe3O4/Au đặc có cực đại hấp thụ tại 530 nm trong khi đó hệ
Fe3O4/Au rỗng có cực đại hấp thụ tại 707 nm (mẫu 2 mL Au3+
). Như vậy, với cùng
lõi từ và kích thước hạt lai tương đương nhau (ảnh TEM hình 3.14 và 3.17e) nhưng
cấu trúc Fe3O4/Au rỗng có vị trí SPR dịch chuyển mạnh về vùng bước sóng dài
đồng thời sự mở rộng đỉnh SPR khá lớn so với cấu trúc Fe3O4/Au đặc.
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến vị trí SPR của hệ Fe3O4/Au.
H[AuCl4] (mL) 0 0,5 1,0 1,5 2,0 2,5 3,0 3,5
Vị trí SPR
Fe3O4/Au (nm) 410 587 627 645 707 592 585 565
85
Bảng 3.10 trình bày sự ảnh hưởng của lượng dung dịch H[AuCl4] đến vị trí
SPR của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng. Kết quả cho thấy khi tăng thể tích dung dịch
H[AuCl4] từ 0 ÷ 2 mL, đỉnh cộng hưởng plasmon bề mặt của vật liệu dịch
chuyển từ 410 ÷ 707 nm. Sự dịch chuyển mạnh cực đại hấp thụ của vật liệu về
vùng hồng ngoại gần là do kích thước lỗ trống trong vật liệu tăng khi tăng thể tích
dung dịch H[AuCl4] (ảnh TEM hình 3.17). Tính chất này cũng được chỉ ra trong hệ
Au rỗng: khi thể tích dung dịch H[AuCl4] tăng từ 0 ÷ 2 mL thì đỉnh SPR dịch
chuyển từ 405 ÷ 700 nm (phụ lục 1). Tuy nhiên, nếu tiếp tục tăng lượng dung dịch
H[AuCl4] đỉnh SPR dịch chuyển dần về vùng bước sóng ngắn: mẫu 2,5; 3,0 và 3,5 mL
H[AuCl4] vị trí SPR tương ứng là 592; 585 và 565 nm. Như vậy, vị trí SPR của hệ
nano lai Fe3O4/Au phụ thuộc vào lượng dung dịch H[AuCl4] sử dụng.
3.2.4. Tính chất từ
Tính chất từ của vật liệu được khảo sát bằng phương pháp từ kế mẫu rung
VSM. Hình 3.21a trình bày đường cong từ trễ của vật liệu: Fe3O4 (mẫu F10; 8,1 nm),
Fe3O4@Ag (mẫu F10@A60; 16,0 nm) và Fe3O4-Ag (mẫu F10-A60; 8,1 - 16,3 nm).
Kết quả cho thấy các mẫu đều đạt tới trạng thái bão hòa và giá trị từ độ bão hòa của
Fe3O4, Fe3O4@Ag và Fe3O4-Ag tương ứng là 57,1 emu/g, 16,5 emu/g và 15,1 emu/g.
Phân tích đường từ trễ trong vùng từ trường thấp (hình nhỏ bên trong hình 3.21a)
cho thấy giá trị lực kháng từ ở mẫu lai đều bằng 0 trong khi ở mẫu hạt mầm Fe3O4
là 6 Oe.
Hình 3.21. a) Đường cong từ trễ của vật liệu Fe3O4 và Fe3O4/Ag. b) Dung dịch hạt
nano lai Fe3O4/Ag phân tán trong n-hexan khi không có và có nam châm.
86
Bảng 3.11. Từ độ bão hòa và lực kháng từ của vật liệu Fe3O4 và Fe3O4/Ag.
Fe3O4 (hạt mầm) Fe3O4@Ag Fe3O4-Ag
Mẫu Ms
(emu/g) Mẫu
Ms
(emu/g)
Hc
(Oe) Mẫu
Ms
(emu/g)
Hc
(Oe)
F9 50,3 F9@A30 14,6 0 F9-A30 12,8 0
F9@A120 9,3 0 F9-A120 7,3 0
F10 57,1 F10@A60 16,5 0 F10-A60 15,1 0
F10@A120 13,5 0 F10-A120 10,6 0
F11 64,3 F11@A30 26,9 1 F11-A30 22,9 3
F11@A120 12,8 0,5 F11-A120 11,6 2
Bảng 3.11 trình bày giá trị từ độ bão hòa và lực kháng từ của một số hệ lai
Fe3O4/Ag được chế tạo với kích thước hạt mầm khác nhau. Kết quả cho thấy phần
lớn các hệ lai Fe3O4/Ag chế tạo được có tính chất siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng.
Giá trị từ độ bão hòa và lực kháng từ của mẫu lai thấp hơn so với mẫu hạt từ tinh
khiết (hạt mầm). Kết quả này có thể được giải thích bằng sự tồn tại của thành phần
Ag phi từ trong cấu trúc lai. Ngoài ra, các mẫu lai có cùng kích thước hạt mầm Fe3O4,
nếu tăng thời gian phản ứng thì từ độ bão hòa của chúng giảm do sự tăng độ dày lớp
vỏ Ag trong cấu trúc lõi - vỏ và tăng kích thước hạt Ag trong cấu trúc dumbbell (ảnh
TEM hình 3.12). Mặc dù từ độ bão hòa giảm mạnh ở cấu trúc lai nhưng khả năng đáp
ứng từ của các mẫu lai đều tương đối tốt (hình 3.21b).
Hình 3.22. Đường cong từ trễ của khuôn nano Fe3O4@Ag và Fe3O4/Au rỗng, ảnh lồng
bên trong là hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng trong n-hexan khi không có và có nam châm.
87
Hình 3.22 trình bày đường cong từ trễ của khuôn nano Fe3O4@Ag (mẫu
F10@A60) và các hạt lai Fe3O4/Au rỗng. Kết quả cho thấy từ độ bão hòa của
Fe3O4@Ag là 16,5 emu/g và mẫu Fe3O4/Au rỗng tăng 17,1 ÷ 22,2 emu/g tương ứng
với thể tích dung dịch H[AuCl4] tăng 1,0 ÷ 2,0 mL. Vật liệu đều thể hiện tính chất
siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng. Như vậy, sự hình thành cấu trúc Fe3O4/Au rỗng
không làm thay đổi tính chất siêu thuận từ so với vật liệu Fe3O4@Ag sử dụng làm
khuôn, nhưng giá trị từ độ bão hòa tăng nhẹ. Điều này có thể được giải thích bằng
sự thay thế của 3 nguyên tử Ag trên khuôn nano Fe3O4@Ag bằng 1 nguyên tử Au
trong quá trình hình thành cấu trúc Fe3O4/Au rỗng. Quá trình đó làm giảm % khối
lượng của thành phần phi từ và tăng % khối lượng của thành phần từ tính (phương
pháp EDS - bảng 3.12). Mặc dù từ độ bão hòa của các hạt nano Fe3O4/Au rỗng
không cao nhưng chúng thể hiện khả năng đáp ứng từ tương đối tốt (hình nhỏ trong
hình 3.22).
3.2.5. Thành phần hóa học
Thành phần hóa học của hạt nano lai được kiểm tra bằng phương pháp phổ
tán sắc năng lượng EDS. Hình 3.23 trình bày phổ EDS và thành phần nguyên tố của
hệ lai Fe3O4/Ag với hai mẫu đại diện: F10@A60 và F10-A60. Kết quả cho thấy
thành phần cấu trúc lai gồm các nguyên tố chính là Fe, Ag và O. Giá trị =
[Ag]/[Fe] thực tế thu được từ kết quả EDS với mẫu Fe3O4@Ag và Fe3O4-Ag tương
ứng là 2,1 và 4,5 trong khi giá trị tính theo lý thuyết lần lượt là 6,8 và 9,0. Kết quả
này được giải thích bằng sự hình thành các hạt Ag tự do và chúng bị loại bỏ trong
quá trình rửa mẫu. Kết quả phân tích EDS cũng chỉ ra rằng giá trị = [Ag]/[Fe] của
cấu trúc lõi – vỏ Fe3O4@Ag nhỏ hơn của cấu trúc dumbbell Fe3O4-Ag.
Hình 3.23. Phổ EDS của vật liệu Fe3O4/Ag: mẫu F10@A60 (a) và F10-A60 (b).
88
Hình 3.24. Phổ EDS của vật liệu Fe3O4/Au được tổng hợp với thể tích dung dịch
H[AuCl4] khác nhau: 0 mL (a), 1,5 mL (b), 2,0 mL (c) và 2,5 mL (d).
Hình 3.24 trình bày phổ EDS của vật liệu lai Fe3O4/Au được tổng hợp với
thể tích dung dịch H[AuCl4] khác nhau (0 ÷ 2,5 mL). Kết quả cho thấy tất cả các
mẫu nghiên cứu đều xuất hiện các đỉnh đặc trưng của nguyên tố chính gồm Fe, Ag,
Au và O. Ngoài ra, trên phổ còn xuất hiện các đỉnh với cường độ thấp của các
nguyên tố C và N là do sự đóng góp của chất hoạt động bề mặt. Khi tăng lượng dung
dịch H[AuCl4], hàm lượng của nguyên tố Au trong mẫu lai Fe3O4/Au tăng và hàm
lượng Ag giảm (bảng 3.12). Với thể tích dung dịch H[AuCl4] là 2,0 mL ứng với tỉ lệ
[Au]/[Ag] = 0,83 thì kích thước lỗ trống của hệ lai thu được lớn nhất. Khi thể tích
dung dịch H[AuCl4] lớn hơn 2,0 mL ứng với tỉ lệ [Au]/[Ag] > 0,83 cấu trúc rỗng bị
phá vỡ (ảnh TEM hình 3.17).
Bảng 3.12. Thành phần hóa học của vật liệu Fe3O4/Au được tổng hợp với thể tích
dung dịch H[AuCl4] khác nhau.
Thể tích dung dịch
H[AuCl4] (mL)
% Nguyên tử (EDS) Tỉ lệ
[Au]/[Ag] Fe Ag Au O
0 16,18 34,41 0 31,54 0
1,5 18,59 17,51 7,20 34,85 0,41
2,0 19,35 11,34 9,46 38,74 0,83
2,5 20,42 6,71 13,33 39,88 1,98
89
Hình 3.25. Sự phân bố của các nguyên tử trong hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng theo
phương pháp mapping EDS-SEM.
Tính đồng nhất của các nguyên tử trong hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng (mẫu 2 mL
H[AuCl4]) được phân tích bằng phương pháp mapping EDS-SEM (hình 3.25). Kết
quả cho thấy sự phân bố đồng đều của tất cả các nguyên tử trong hệ nano lai
Fe3O4/Au rỗng. Như vậy, bằng phương pháp chế tạo đơn giản, có thể thu được các
hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng với thành phần và cấu trúc được kiểm soát.
Tóm tắt kết quả phần 3.2:
1. Hệ vật liệu nano lai Fe3O4/Ag được chế tạo thành công bằng phương pháp
nuôi mầm trong dung môi ODE, có thể điều khiển hình thái cấu trúc lai thông qua
việc thay đổi tỷ lệ = [Ag]/[Fe] và thời gian phản ứng:
- Với 6,8 các hạt lai có cấu trúc dạng lõi - vỏ Fe3O4@Ag (giá trị xác định
từ kết quả EDS là 2,1), khi tăng đến 9,0 thì cấu trúc dumbbell Fe3O4-Ag được hình
thành (giá trị xác định từ kết quả EDS là 4,5);
- Khi thời gian phản ứng tăng kích thước của lớp vỏ Ag trong cấu trúc lõi - vỏ
và hạt Ag trong cấu trúc dumbbell tăng.
2. Hệ vật liệu nano lai Fe3O4/Au hình cầu rỗng được chế tạo thành công sử dụng
khuôn nano Fe3O4/Ag thông qua phản ứng thế Galvanic giữa Ag và Au3+
. Vật liệu thu
được có kích thước trung bình 17 nm với đỉnh SPR được điều khiển đến 707 nm. Với
tỉ lệ [Au]/[Ag] = 0,83 vật liệu Fe3O4/Au rỗng có kích thước lỗ trống lớn nhất và các
nguyên tố phân bố đồng đều.
3. Hệ nano lai Fe3O4-(Ag, Au) chế tạo được có tính chất siêu thuận từ ở nhiệt
độ phòng, giá trị từ độ bão hòa trong khoảng 7 ÷ 27 emu/g, thấp hơn so với mẫu hạt
mầm Fe3O4 (50 ÷ 64 emu/g).
90
3.3. Hạt nano bọc PMAO
Yêu cầu quan trọng đối với vật liệu nano ứng dụng y sinh là khả năng phân
tán trong nước. Trong luận án này chúng tôi nghiên cứu khả năng chuyển pha các
hạt nano chế tạo được từ dung môi hữu cơ sang dung môi nước bằng PMAO. Từ kết
quả nghiên cứu thu được chúng tôi lựa chọn một số mẫu để chuyển pha sử dụng cho
các nghiên cứu tiếp theo:
+ Hạt nano đơn lẻ: Ag kích thước 15,0 nm và Fe3O4 (mẫu F10) kích thước
hạt 8,1 nm, từ độ bão hòa Ms = 57,1 emu/g.
+ Hạt nano lai:
Hệ Fe3O4/Ag: cấu trúc lõi - vỏ Fe3O4@Ag (mẫu F10@A60), kích
thước hạt 16 nm, từ độ bão hòa Ms = 16,5 emu/g và cấu trúc dumbbell
Fe3O4-Ag (mẫu F10-A60) kích thước hạt 8,1 ÷ 16,3 nm, từ độ bão hòa
Ms = 15,1 emu/g.
Hệ Fe3O4/Au rỗng: các mẫu Fe3O4/Au rỗng được chuẩn bị trong trường
hợp sử dụng dung dịch H[AuCl4] từ 0,5 ÷ 2 mL. Kích thước hạt 16 ÷ 17 nm.
Từ độ bão hòa 17,1 ÷ 22,2 emu/g.
3.3.1. Quá trình chuyển pha hạt nano bằng PMAO
Hình 3.26. Quá trình chuyển pha hạt nano bằng PMAO (a), dung dịch hạt nano lai
Fe3O4@Ag (b), Fe3O4-Ag (c) và Fe3O4/Au rỗng (d) trước (1) và sau khi chuyển pha (2).
91
Quá trình chuyển pha các hạt nano từ kỵ nước sang ưa nước bằng PMAO có
thể được mô tả như sau: PMAO là một polyme gồm có hai phần, phần kỵ nước là
chuỗi hydrocacbon có chức năng giúp các phân tử PMAO bám vào hạt thông qua
liên kết kỵ nước – kỵ nước với các phân tử OA/OLA trên bề mặt hạt, phần ưa nước
chứa gốc anhydrit có vai trò giúp các hạt phân tán trong môi trường nước (hình
3.26a). Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các hạt nano lai trước khi bọc PMAO
phân tán tốt trong n-hexan và sau khi bọc PMAO thì chúng phân tán tốt trong nước
(hình 3.26b, c, d). Như vậy, có thể nhận định rằng lớp polyme đã bao phủ trên bề
mặt hạt nano lai giúp chúng ổn định và phân tán tốt trong nước.
3.3.2. Tính chất quang của vật liệu
Tính chất quang của dung dịch hạt nano lai sau khi chuyển pha sang môi
trường nước được nghiên cứu bằng phương pháp phổ UV-Vis, kết quả được trình
bày trên hình 3.27:
Hình 3.27. Dung dịch (a) và phổ UV-Vis (b) của Fe3O4@Ag@PMAO và hệ nano lai
Fe3O4/Au rỗng@PMAO với lượng Au3+
khác nhau.
Hình 3.27a là hình ảnh các hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng bọc PMAO phân tán
ổn định trong dung môi nước, màu sắc của dung dịch thay đổi khi lượng dung dịch
H[AuCl4] sử dụng trong phản ứng tăng. Sự thay đổi màu sắc của dung dịch hạt lai
cũng được thể hiện bằng sự dịch chuyển đỉnh SPR của vật liệu (hình 3.27b). Kết
quả khảo sát cũng cho thấy vị trí SPR của các hạt lai trước (bảng 3.10) và sau khi
bọc PMAO (hình 3.27b) không có sự dịch chuyển, như vậy lớp PMAO bao bọc trên
bề mặt hạt lai không ảnh hưởng tới tính chất quang của vật liệu. Với khả năng hấp
thụ mạnh ánh sáng trong vùng NIR, vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO có nhiều tiềm
năng cho ứng dụng y sinh.
92
Trong số các dung dịch Fe3O4/Au rỗng bọc PMAO, mẫu 2,0 mL Au3+
có vị trí
SPR dịch chuyển mạnh nhất về vùng hồng ngoại gần. Do đó, chúng tôi lựa chọn mẫu
này đại diện cho hệ Fe3O4/Au rỗng thực hiện các nghiên cứu tiếp theo.
3.3.3. Cấu trúc lớp vỏ bọc của vật liệu
Để đặc trưng cấu trúc lớp vỏ bọc xung quanh các hạt nano lai trước và sau
khi chuyển pha bằng PMAO chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích phổ hấp thụ
hồng ngoại (FT-IR) bằng cách ép viên với KBr. Mẫu Fe3O4/Au rỗng trước và sau
khi chuyển pha được sử dụng để nghiên cứu, kết quả được trình bày trên hình 3.28.
Hình 3.28. Phổ FT-IR của nano lai Fe3O4/Au rỗng trước và sau khi chuyển pha.
Kết quả cho thấy, trên mẫu trước khi chuyển pha có một đỉnh hấp thụ tại số
sóng 3456 cm-1
, đỉnh này được gán cho dao động của nhóm OH trong phân tử OA.
Đỉnh 3442 cm-1
trên mẫu sau khi chuyển pha được gán cho dao động của nhóm OH
của các phân tử nước hấp phụ trên lớp vỏ PMAO. Cả hai mẫu đều xuất hiện các đỉnh
hấp thụ tại số sóng 2923 cm−1
và 2853 cm−1
tương ứng với các dao động hóa trị bất
đối xứng và đối xứng của liên kết C - H trong nhóm CH2. Trong mẫu trước khi
chuyển pha, xuất hiện hai đỉnh hấp thụ tại 1450 cm-1
và 1384 cm-1
lần lượt gán cho
dao động hóa trị bất đối xứng và đối xứng của nhóm chức cacboxylat (COO-) của
phân tử OA. Ngoài ra, trên phổ còn xuất hiện một đỉnh tại 1630 cm-1
đặc trưng cho
liên kết N - H của phân tử OLA. Sự có mặt của các phân tử PMAO trên bề mặt hạt lai
sau khi chuyển pha được khẳng định thông qua sự xuất hiện một đỉnh rất mạnh ở số
93
sóng 1570 cm-1
đặc trưng cho nhóm COO- được hình thành do sự mở vòng
anhydrit của các phân tử PMAO trong môi trường kiềm [46]. Sự có mặt của các
nhóm cacboxylat giúp cho các hạt lai sau khi bọc PMAO phân tán tốt trong nước.
Phổ FT - IR xác nhận việc chức năng hóa thành công các hạt nano lai bằng PMAO.
Hình 3.29. Giản đồ TGA của nano lai Fe3O4/Au rỗng trước và sau khi chuyển pha.
Để xác định hàm lượng của lớp vỏ hữu cơ chúng tôi sử dụng phương pháp
phân tích nhiệt TGA với mẫu Fe3O4/Au rỗng trước và sau khi chuyển pha. Kết quả
hình 3.29 cho thấy, trước khi chuyển pha xuất hiện sự mất khối lượng 10% trong
khoảng nhiệt độ 100 ÷ 550 oC do sự thoát dung môi hữu cơ hấp phụ trên bề mặt hạt
và sự phân hủy của các phân tử chất hoạt động bề mặt OA/OLA. Như vậy, khối
lượng thực của hạt lai trước khi chuyển pha chiếm 90%. Sau khi chuyển pha, sự suy
giảm khối lượng lớn hơn (58%) trong khoảng nhiệt độ từ 70 ÷ 550 oC. Quá trình
này được gán cho sự mất nước hấp phụ trên bề mặt hạt trong quá trình lưu trữ mẫu
( 10%), sự phân hủy OA/OLA (≈ 10%) và PMAO (≈ 38 %). Như vậy, khối lượng
thực của hạt lai Fe3O4/Au rỗng chiếm 42% khối lượng mẫu.
3.3.4. Độ bền của vật liệu
Để ứng dụng trong y sinh, vật liệu cần phải phân tán tốt và ổn định trong môi
trường nước. Đánh giá sự phân bố kích thước hạt cũng như độ bền của hệ nano lai
trong nước chúng tôi sử dụng phương pháp phổ tán xạ ánh sáng động (DLS) trên
máy đo thế Zetasizer.
94
Hình 3.30. Giản đồ phân bố kích thước hạt và thế Zeta tương ứng của dung dịch hạt
lai Fe3O4@Ag@PMAO (a, b) và Fe3O4/Au rỗng@PMAO (c, d).
Hình 3.30 là giản đồ phân bố kích thước hạt và thế Zeta của dung dịch các hạt
lai Fe3O4@Ag và Fe3O4/Au rỗng bọc PMAO. Kết quả cho thấy, kích thước động
(DLS) của hạt lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO tương ứng là
25,85 nm là 28,84 nm. Như vậy, sau khi bọc PMAO kích thước hạt lai tăng so với
trước khi bọc (đã được xác định bằng phương pháp TEM). Kết quả này được giải
thích bằng sự liên kết của PMAO với các hạt nano lai làm cho kích thước động
của chúng tăng. Thế Zeta của dung dịch hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và
Fe3O4/Au rỗng@PMAO trong nước tương ứng là -42,5 mV và -40,0 mV. Theo tiêu
chuẩn sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta [127] (mục 2.3.8) cho
thấy dung dịch các hạt lai chế tạo được trong nghiên cứu này bền trong môi trường
nước. Thế Zeta của dung dịch hạt lai sau 12 tháng chế tạo giảm nhẹ ( 38 mV)
(hình 3.31). Các kết quả này chứng minh dung dịch hạt nano lai chế tạo được có độ
bền và ổn định cao.
95
Hình 3.31. Thế Zeta của dung dịch hạt lai Fe3O4@Ag@PMAO (a)
và Fe3O4/Au rỗng@PMAO (b) sau 12 tháng chế tạo.
Bên cạnh đó, khả năng đáp ứng về độ bền trong môi trường sinh lý cơ thể
cũng là một trong những yêu cầu đối với hạt nano lai cho ứng dụng y sinh. Do nồng
độ muối trong cơ thể duy trì trong khoảng 165 ÷ 180 mM với độ pH ≈ 7,5, nên
chúng tôi tiến hành khảo sát độ bền của hệ nano lai trong khoảng nồng độ muối
150 ÷ 275 mM và pH từ 1 ÷ 11.
Hình 3.32. Dung dịch hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO (a, c)
và Fe3O4/Au rỗng@PMAO (b, d) với nồng độ muối NaCl và pH khác nhau.
NaCl:
pH:
96
Kết quả hình 3.32 cho thấy trong môi trường có nồng độ muối NaCl từ 150 ÷
250 mM, hệ nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO duy trì khả
năng phân tán tốt trong nước và tương đối ổn định. Khi nồng độ muối đạt 275 mM,
xuất hiện sự kết đám giữa các hạt (hình 3.32a, b). Ngoài ra, pH cũng ảnh hưởng rõ rệt
đến độ bền của dung dịch hạt nano lai trong nước, tại pH = 1 các hạt lai không bền,
chúng bị kết đám và sa lắng. Trong khoảng pH từ 2 ÷ 11 các hạt phân tán tốt và bền
trong nước, không có sự sa lắng (hình 3.32c, d). Như vậy, sự ảnh hưởng của nồng độ
muối NaCl và pH đến độ bền dung dịch các hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và
Fe3O4/Au rỗng@PMAO tương đối giống nhau. Sự phụ thuộc độ bền của vật liệu lai
vào nồng độ muối NaCl và pH trong nghiên cứu này tương tự với kết quả công bố
trước đây của nhóm trên hệ CoFe@Pt@PMAO [46]. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy dung dịch hạt nano lai bền ở khoảng nồng độ muối và pH rộng do đó chúng có
thể ứng dụng được trong điều kiện y sinh.
3.3.5. Đánh giá độc tính của vật liệu
Độc tính của dung dịch hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au
rỗng@PMAO được đánh giá trên hai dòng tế bào ung thư dạ dày AGS và MKN45
bằng phương pháp MTT. Các tế bào được xử lý với nồng độ 10 ÷ 100 μg/mL hạt
nano lai phân tán trong nước, ở đây nước cất được sử dụng làm đối chứng với thể
tích như trong mẫu chứa hạt lai. Tỉ lệ tăng sinh của tế bào, hình thái và nhân tế bào
sau khi xử lý ở nồng độ vật liệu khác nhau được đánh giá sau 48 h.
*) Hệ nano lai Fe3O4@Ag@PMAO:
Hình 3.33 trình bày tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS (a) và MKN45 (b) sau
48 h xử lý với vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO. Kết quả cho thấy trong cả hai trường
hợp, độc tính tế bào phụ thuộc vào nồng độ vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO. Trong
trường hợp nồng độ vật liệu dưới 20 µg/mL, tốc độ phân chia các tế bào ung thư
dạ dày AGS và MKN45 không thay đổi nhiều so với mẫu đối chứng. Tuy nhiên, ở
nồng độ vật liệu cao hơn (20 ÷ 100 µg/mL) xảy ra sự ức chế tế bào. Độc tính của
vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO lên dòng tế bào AGS cao hơn MKN45, điều này
được chứng minh bằng sự giảm đáng kể số lượng tế bào AGS khi tăng nồng độ hạt
lai từ 40 ÷ 100 µg/mL (hình 3.33a). Giá trị IC50 xác định được cho dòng tế bào
AGS và MKN45 lần lượt là 42 µg/mL và 58 µg/mL.
97
Hình 3.33. Tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS (a) và MKN45 (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO.
Hình 3.34 . Hình thái tế bào (a) và nhân tế bào AGS (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO.
98
Hình 3.35. Hình thái tế bào (a) và nhân tế bào MKN45 (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO.
Các phân tích định lượng trong hình 3.33 được xác nhận bằng đặc tính hình thái
và nhân tế bào AGS (hình 3.34) và MKN45 (hình 3.35) sau khi xử lý với nồng độ
Fe3O4@Ag@PMAO khác nhau trong 48 giờ. Ở nồng độ mẫu dưới 20 µg/mL, quan sát
thấy các tế bào AGS và MKN45 phát triển bình thường, không có sự khác biệt so với
mẫu đối chứng. Ở nồng độ mẫu cao hơn (20 ÷ 100 µg/mL) hình thái tế bào bị thay
đổi (hình 3.34a và 3.35a). Quan sát hình thái nhân tế bào AGS và MKN45 (hình
3.34b và 3.35b) nhận thấy: ở mẫu xử lý với nồng độ vật liệu dưới 20 µg/mL, hình thái
nhân tế bào không có nhiều khác biệt so với mẫu đối chứng. Tuy nhiên, ở mẫu xử lý
với nồng độ vật liệu 20 ÷ 100 µg/mL, nhân tế bào to hơn so với mẫu đối chứng. Sự
tăng kích thước nhân tế bào được thể hiện rõ nhất ở mẫu 60 và 100 µg/mL. Điều đó
chứng tỏ vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO đã ảnh hưởng đến hình thái và kích thước của
99
nhân tế bào. Độc tính của vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO lên các tế bào AGS và
MKN45 có thể được giải thích như sau: thành phần Ag trong hệ lai có thể tương tác
với các tế bào, dẫn đến tổn thương màng tế bào. Ngoài ra, các hạt lai có thể xâm nhập
vào tế bào gây rối loạn chức năng ty thể, tạo ra các loại oxy phản ứng (ROS), làm
thay đổi protein và axit nucleic bên trong tế bào và do đó ức chế sự tăng sinh tế bào.
Như vậy, vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO thể hiện độc tính với dòng tế bào
AGS và MKN45 phụ thuộc vào nồng độ vật liệu. Do đó, chúng có nhiều tiềm năng
ứng dụng trong điều trị khối u hướng đích nhờ sử dụng từ trường ngoài. Phương
pháp này làm giảm tác dụng phụ của thuốc thường gặp trong phương pháp hóa trị
liệu thông thường. Ngoài ra, độc tính của vật liệu có thể được cải thiện thông qua sự
kết hợp với các thuốc điều trị khối u khác, như doxorubicin, cisplatin. Vấn đề này
chúng tôi sẽ nghiên cứu tiếp trong tương lai.
*) Hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO:
Hình 3.36 trình bày tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS (a) và MKN45 (b) sau 48 h
xử lý với vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO. Kết quả cho thấy ở nồng độ vật liệu dưới
60 g/mL tốc độ phân chia của tế bào AGS và MKN45 tăng nhẹ so với mẫu đối
chứng. Khi nồng độ vật liệu 60 ÷ 100 g/mL nhận thấy tỉ lệ tăng sinh gần như không
thay đổi so với đối chứng (94 ÷ 96%). Như vậy, hệ vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO
không gây độc trên tế bào AGS và MKN45 trong phạm vi nồng độ thử nghiệm
10 ÷ 100 g/mL.
Hình 3.36. Tỉ lệ tăng sinh của tế bào AGS (a) và MKN45 (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
100
Hình 3.37. Hình thái tế bào (a) và nhân tế bào MKN45 (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
Bên cạnh đó, hình thái tế bào được chỉ ra ở hình 3.37a và 3.38a cho thấy các
tế bào AGS và MKN45 phát triển bình thường giữa các điều kiện xử lý so với mẫu
đối chứng. Ngoài ra, không quan sát thấy sự xuất hiện của các tế bào apoptosis (tức
là các tế bào chết theo chương trình) điều này được chứng minh bằng phương pháp
nhuộm DAPI (hình 3.37b và 3.38b). Ở cả hai dòng tế bào, hình ảnh nhân tế bào bắt
màu với thuốc nhuộm DAPI cho thấy hình thái nhân điển hình của các tế bào sống.
Hình thái nhân tế bào không có sự khác biệt rõ ràng so với mẫu đối chứng tại các
nồng độ khảo sát.
101
Hình 3.38. Hình thái tế bào (a) và nhân tế bào MKN45 (b)
sau 48 h xử lý với vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
Như vậy, các hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO không ảnh hưởng đến khả
năng phân chia, sống sót và hình thái của cả hai dòng tế bào ung thư dạ dày AGS và
MKN45 tại các nồng độ khảo sát. Đây là cơ sở để tiến hành nghiên cứu các hiệu ứng
quang/từ - nhiệt và khả năng tăng độ tương phản ảnh MRI sẽ được trình bày trong
phần sau.
Tóm tắt kết quả phần 3.3:
1. Hạt nano lai được chuyển pha thành công sang môi trường nước bằng PMAO,
tính chất quang của vật liệu trong nước không bị thay đổi so với môi trường hữu cơ. Hệ
lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO có vị trí SPR nằm trong vùng NIR, có thể đạt tới 707 nm.
Các hạt nano lai sau khi chuyển pha có độ bền và ổn định trong 12 tháng, với giá trị thế
102
Zeta đạt trên 37 mV. Hệ nano lai Fe3O4@Ag@PMAO và Fe3O4/Au rỗng@PMAO bền
trong môi trường có nồng độ muối từ 150 ÷ 250 mM và pH từ 2 ÷ 11.
2. Hạt nano lai Fe3O4@Ag@PMAO thể hiện độc tính với dòng tế bào AGS và
MKN45 phụ thuộc vào nồng độ vật liệu, giá trị IC50 xác định được cho dòng tế bào
AGS và MKN45 lần lượt là 42 µg/mL và 58 µg/mL. Vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO
không thể hiện độc tính trên tế bào AGS và MKN45 trong phạm vi nồng độ 10 ÷
100 g/mL.
3.4. Khả năng ứng dụng của vật liệu nano lai trong y sinh
Trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu khả năng ứng dụng của hệ nano lai với
các mẫu đại diện:
+ Nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn của dung dịch hạt nano lai Fe3O4/Ag
bọc PMAO với hai cấu trúc: lõi - vỏ Fe3O4@Ag@PMAO (mẫu F10@A60@PMAO)
và dumbbell Fe3O4-Ag@PMAO (mẫu F10-A60@PMAO), so sánh với các hệ riêng
lẻ Fe3O4@PMAO (mẫu F10@PMAO) và Ag@PMAO.
+ Nghiên cứu hiệu ứng chuyển đổi quang/từ - nhiệt và tương phản ảnh MRI với
vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO (mẫu 2 mL Au3+
).
3.4.1. Hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu
Hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu được đánh giá bằng phương pháp khuếch
tán giếng thạch. Kết quả hình 3.39 cho thấy dung dịch hạt nano Ag@PMAO có khả
năng ức chế vi khuẩn, tuy nhiên các vòng tròn kháng khuẩn thu được không rõ nét
với tất cả các vi khuẩn thử nghiệm. Mặc dù các hạt nano Fe3O4@PMAO (hạt mầm)
không có tác dụng kháng khuẩn tuy nhiên khi chúng kết hợp với nano bạc cho cấu
trúc lai Fe3O4/Ag@PMAO thì hoạt tính kháng khuẩn của hệ lai tăng.
Dựa vào kích thước vòng kháng khuẩn bảng 3.13 chúng tôi thấy rằng khi
nồng độ hạt là 0,1 mg/mL dung dịch Ag@PMAO chỉ thể hiện hoạt tính kháng khuẩn
yếu với E.coli, không thể hiện hoạt tính kháng khuẩn với các chủng còn lại, trong khi
các mẫu lai Fe3O4/Ag@PMAO đều thể hiện hoạt tính kháng khuẩn từ yếu (S. lutea)
đến trung bình (S. marcessens), mạnh (L. plantarum và E. coli) và rất mạnh
(B. subtilis). Khi nồng độ mẫu tăng từ 0,3 ÷ 1,0 mg/mL, dung dịch Ag@PMAO thể
hiện hoạt tính kháng khuẩn từ yếu (S. marcescens) đến trung bình (L. plantarum và
B. subtilis), trong khi các dung dịch hạt nano lai Fe3O4/Ag@PMAO ức chế vi khuẩn
từ trung bình (S. lutea và S. marcescens) đến mạnh (L. plantarum) và rất mạnh (B.
subtilis, và E. coli). Khi nồng độ hạt lai tăng 0,1 ÷ 1,0 mg/mL, kích thước vòng
103
kháng khuẩn tăng nhẹ điều này có thể được giải thích bằng sự tăng số lượng các tâm
hoạt động, tuy nhiên do ảnh hưởng của lớp vỏ bọc PMAO nên khả năng khuếch tán
của chúng ra môi trường bị cản trở. Hoạt tính kháng khuẩn của dung dịch hạt lai tăng
so với hạt nano Ag@PMAO có kích thước tương đương, điều này được giải thích
bằng tốc độ giải phóng Ag+ trong hệ nano lai nhanh hơn ở nano Ag tự do [89].
Fe3O4@PMAO Ag@PMAO Fe3O4@Ag@PMAO Fe3O4-Ag@PMAO
Hình 3.39. Hoạt tính kháng khuẩn của vật liệu Fe3O4@PMAO, Ag@PMAO
và Fe3O4/Ag@PMAO.
104
Bảng 3.13. Kích thước vòng kháng khuẩn của vật liệu Fe3O4@PMAO, Ag@PMAO
và Fe3O4/Ag@PMAO.
Vi khuẩn
Nồng độ
vật liệu
(mg/mL)
Kích thƣớc vòng kháng khuẩn (mm)
Fe3O4@PMAO Ag@PMAO Fe3O4@Ag
@PMAO
Fe3O4-Ag
@PMAO
L. plantarum
0 0 0 0 0
0,1 0 0 23 21
0,3 0 19 23 21
0,5 0 19 23 21
1,0 0 16 23 20
B. subtilis
0 0 0 0 0
0,1 0 0 25 28
0,3 0 15 28 29
0,5 0 19 29 29
1,0 0 16 28 28
S. lutea
0 0 0 0 0
0,1 0 0 15 0
0,3 0 0 14 19
0,5 0 14 24 19
1,0 0 16 25 24
S.marcessens
0 0 0 0 0
0,1 0 0 14 9
0,3 0 10 15 14
0,5 0 12 15 14
1,0 0 10 16 14
E. coli
0 0 0 0 0
0,1 0 12 24 25
0,3 0 12 25 25
0,5 0 16 28 27
1,0 0 15 28 28
105
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cấu trúc lõi - vỏ và dumbbell thể hiện hoạt
tính kháng khuẩn không khác nhau nhiều đối với cùng một chủng vi khuẩn thử
nghiệm do kích thước hạt bạc trong hai trường hợp này là tương đương nhau (theo
phân tích ảnh TEM mục 3.2.1.1). Trong số 5 chủng vi khuẩn thử nghiệm, hệ lai
Fe3O4/Ag@PMAO thể hiện hoạt tính kháng khuẩn mạnh với E.coli (Gram âm) là
hại khuẩn và L. plantarum, B. subtilis (Gram dương) là những lợi khuẩn, các
chủng vi khuẩn này sống ký sinh trong đường ruột của người và các loài động vật
máu nóng. Hoạt tính kháng khuẩn ở mức trung bình với các vi khuẩn S. lutea (Gram
dương) và S. marcescens (Gram âm). Vi khuẩn S. lutea có thể gây bệnh nhiễm trùng
da và S. marcescens có thể gây nên bệnh viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm màng
não, áp xe não và nhiễm trùng mắt. Như vậy, kết quả khác nhau giữa các chủng
vi khuẩn cho thấy hệ nano lai Fe3O4/Ag@PMAO tác động lên vi khuẩn một cách
chọn lọc.
Trong nghiên cứu này, hệ nano lai Fe3O4/Ag tổng hợp trong dung môi hữu cơ
có hoạt tính kháng khuẩn tốt hơn hệ lai tương tự được tổng hợp trong dung môi nước
như công bố trong các tài liệu [98, 100]. Điều này có thể được giải thích bằng sự hình
thành các hạt nano lai Fe3O4/Ag trong dung môi hữu cơ cho độ đồng đều cao, đơn
phân tán trong khi các hạt lai tổng hợp trong dung môi nước thường không đồng đều và
xuất hiện sự kết đám giữa các hạt. Như vậy, dung dịch hạt nano lai Fe3O4/Ag@PMAO
chế tạo được có thể sử dụng để chống lại các mầm bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn
gây ra.
3.4.2. Hiệu ứng chuyển đổi quang/từ - nhiệt của vật liệu
Đánh giá khả năng sinh nhiệt của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO trong ba
điều kiện: (i) hiệu ứng từ - nhiệt (MHT) tại từ trường có cường độ H = 100 ÷ 300 Oe
và tần số f = 450 kHz, (ii) hiệu ứng quang - nhiệt (PTT) thực hiện dưới laser 808 nm,
mật độ công suất P = 0,2 ÷ 0,65 W/cm2 và (iii) hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp
(MHT + PTT) được thực hiện bằng cách tác dụng đồng thời từ trường và laser với
điều kiện như trong từng hệ riêng rẽ. Trong các phép đo, 200 µL dung dịch hạt nano
lai và đối chứng nước cất được sử dụng. Phần này của luận án trình bày kết quả
nghiên cứu hiệu ứng chuyển đổi quang/từ - nhiệt của vật liệu.
106
3.4.2.1. Hiệu ứng từ - nhiệt
Hiệu ứng MHT của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO, nồng độ 3,0 mg/mL
thực hiện tại từ trường 100 ÷ 300 Oe, tần số 450 kHz, kết quả được trình bày trên
hình 3.40.
Hình 3.40. Hiệu ứng MHT của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại từ trường
khác nhau (100 ÷ 300 Oe), tần số 450 kHz (a) và giá trị SLP tương ứng (b).
Hình 3.40a cho thấy sự phụ thuộc của nhiệt độ vào cường độ của từ trường
ngoài và chúng đều có xu hướng tăng khi cường độ từ trường tăng. Nhiệt độ tăng tuyến
tính ở giai đoạn đầu (300 s), sau đó tăng chậm và gần như bão hòa ở 1200 s. Để đạt
nhiệt độ đến vùng cửa sổ nhiệt trị cần phải áp dụng từ trường với cường độ tối thiểu là
150 Oe. Nguồn gốc của quá trình sinh nhiệt của hạt nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO
dưới tác dụng của từ trường ngoài là do sự đóng góp của cơ chế tổn hao hồi phục
(Néel, Brown) [141] vì hệ nano lai hoàn toàn siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng (mục
3.2.4).
Hình 3.40b cho thấy giá trị SLP tăng khi cường độ từ trường tăng. Giá trị
SLP tăng chậm khi áp dụng từ trường có cường độ nhỏ hơn 200 Oe, điều này có thể
được giải thích như sau: ở cường độ từ trường thấp sẽ hạn chế sự định hướng của
các mômen từ dọc theo hướng của từ trường ngoài. Các quá trình sinh nhiệt xảy ra
chậm cho đến khi cường độ từ trường được áp dụng đủ cao để tất cả các mômen từ
quay theo hướng của từ trường ngoài. Giá trị tối đa của SLP ~ 310 W/g đạt được
khi áp dụng từ trường có cường độ 300 Oe, tần số 450 kHz. Kết quả này cao hơn
đáng kể so với giá trị SLP thu được với vật liệu Fe3O4 trong nghiên cứu trước đây
của nhóm chúng tôi [41].
107
3.4.2.2. Hiệu ứng quang - nhiệt
Hiệu ứng PTT của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO, nồng độ 3,0 mg/mL
tại laze 808 nm, mật độ công suất 0,2 ÷ 0,65 W/cm2, kết quả được trình bày trên
hình 3.41.
Hình 3.41. Hiệu ứng PTT của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại laze 808 nm với
mật độ công suất khác nhau (0,2 ÷ 0,65 W/cm2) và giá trị SLP tương ứng (b).
Từ hình 3.41a cho thấy khi chiếu laze có công suất 0,2 ÷ 0,35 W/cm2 nhiệt
độ cao nhất đạt được dưới 40 oC sau 1200 s chiếu xạ. Để đạt đến cửa sổ nhiệt độ trị
liệu (42 ÷ 46 oC), cần phải chiếu laze có công suất tối thiểu là 0,50 W/cm
2. Tại mật
độ công suất laze 0,65 W/cm2, nhiệt độ cao nhất đạt giá trị 55
oC. Như vậy, sự tăng
nhiệt độ của mẫu phụ thuộc nhiều vào mật độ công suất laze và chúng có xu hướng
tăng khi mật độ công suất laze tăng. So với hiệu ứng từ - nhiệt, hiệu ứng quang -
nhiệt xảy ra với tốc độ nhanh hơn trong 300 s đầu của quá trình xử lý, nhiệt độ gần
như đạt đến trạng thái bão hòa sau 900 s. Kết quả cũng cho thấy khả năng chuyển
đổi quang – nhiệt và ổn định nhiệt cao trong suốt quá trình gia nhiệt. Xu hướng biến
đổi này xảy ra tương tự với các hạt nano Au rỗng khi khảo sát ở mật độ công suất
laze 0,35 ÷ 1,6 W/cm2 (phụ lục 1).
Hình 3.41b trình bày sự phụ thuộc của giá trị SLP vào mật độ công suất laze. Khi
mật độ công suất laze tăng 0,2 ÷ 0,65 W/cm2, giá trị SLP tăng 152,70 ÷ 1074,62 W/g.
Xu hướng biến đổi này cũng tương tự với báo cáo của Chen-Sheng Yeh và cộng sự
với các thanh nano Au [73].
108
3.4.2.3. Hiệu ứng quang/từ - nhiệt kết hợp
So sánh hiệu suất gia nhiệt của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO theo ba
phương thức khác nhau: hiệu ứng MHT tại từ trường có cường độ 200 Oe, tần số
450 kHz, hiệu ứng PTT sử dụng laze 808 nm, mật độ công suất P = 0,65 W/cm2 và
hiệu ứng (MHT + PTT), sử dụng đối chứng nước cất. Kết quả được trình bày trên
hình 3.42.
Hình 3.42. Đường đốt quang/từ (a) và giá trị SLP (b) của hệ nano lai
Fe3O4/Au rỗng@PMAO và H2O dưới tác dụng của từ trường và laze.
Hình 3.42a cho thấy với hệ lai trong 300 s đầu của quá trình xử lý, tốc độ gia
nhiệt trong trường hợp (MHT + PTT) và PTT xảy ra nhanh hơn trường hợp MHT:
độ biến thiên nhiệt độ (T) sau 300 s của phương thức gia nhiệt kép (MHT + PTT)
là 36 oC, lớn hơn 6 lần so với trường hợp MHT (6
oC) và PTT (21
oC) lớn hơn 3,5
lần so với MHT. Sau 1200 s xử lý, nhiệt độ thay đổi đáng kể ở tất cả các điều kiện
thí nghiệm. Nhiệt độ cao nhất đạt được theo ba phương thức gia nhiệt MHT, PTT và
(MHT + PTT) tương ứng là 52,0; 55,0 và 68,5 oC, ứng với độ biến thiên nhiệt độ
T là 38,5; 25,0 và 22,0 oC. Với mẫu đối chứng (nước cất) cho thấy mức tăng nhiệt
độ rất thấp (1,0 ÷ 2,5 oC) với cả ba phương thức thí nghiệm. Kết quả hình 3.42b cho
thấy giá trị SLP của mẫu lai thu được từ thực nghiệm trong các điều kiện MHT,
PTT và (MHT + PTT) tương ứng là 84,75 W/g, 1074,62 W/g và 1082,75 W/g. Như
vậy, việc áp dụng đồng thời các tác nhân gia nhiệt quang/từ (MHT + PTT) đã làm
tăng đáng kể hiệu suất gia nhiệt của vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
109
*) Ảnh hưởng của cường độ từ trường (H):
Ảnh hưởng của cường độ từ trường H đến quá trình sinh nhiệt của hệ nano
lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO trong trường hợp (MHT + PTT) cũng được khảo sát.
Kết quả được trình bày trên hình 3.43.
Hình 3.43. Hiệu ứng (MHT + PTT) của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại từ
trường 100 ÷ 250 Oe (a), giá trị SLP tương ứng của a (b), nhiệt độ đốt cao nhất Tmax
(sau 1200 s) (c) và giá trị SLP tương ứng (d) trong điều kiện MHT và (MHT + PTT).
Hình 3.43a biểu diễn đường cong gia nhiệt của vật liệu nano lai
Fe3O4/Au rỗng@PMAO nồng độ 3,0 mg/mL trong điều kiện (MHT + PTT) với mật
độ công suất laze không đổi 0,5 W/cm2 và từ trường có tần số 450 kHz, cường độ thay
đổi 100 ÷ 250 Oe. Nhận thấy, độ biến thiên nhiệt độ (T) tăng nhanh trong 300 s
đầu của quá trình đốt nóng. Nhiệt độ gần như đạt trạng thái bão hòa sau 900 s. Khi
cường độ từ trường tăng 100 ÷ 250 Oe nhiệt độ cao nhất (Tmax) thu được tăng 47 ÷
68 oC. Từ kết quả hình 3.43b cho thấy giá trị SLP có sự thay đổi khi áp dụng từ
trường có cường độ khác nhau. Giá trị SLP cao nhất thu được trong trường hợp này
là 748,02 W/g ứng với từ trường có cường độ 250 Oe và tần số 450 kHz.
So sánh phương thức gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) với MHT kết quả được
trình bày trên hình 3.43c, d và bảng 3.14. Nhận thấy, tại từ trường H = 100 Oe nhiệt
110
độ đốt cao nhất thu được với MHT là 34,6 oC, trong khi phương thức (MHT + PTT)
nhiệt độ thu được là 47 o
C và giá trị SLP trong điều kiện kết hợp tăng 6 lần so với
MHT. Đặc biệt, để đạt được nhiệt độ trị liệu với phương thức MHT cần áp dụng từ
trường tối thiểu H = 150 Oe, trong khi đó kỹ thuật (MHT + PTT) thì H = 100 Oe (tại
laze có P = 0,5 W/cm2). Như vậy, bằng phương pháp kết hợp hai phương thức gia
nhiệt (MHT + PTT), cường độ từ trường đã giảm 1,5 lần so với trường hợp chỉ áp
dụng MHT mà vẫn đạt được nhiệt độ trị liệu. Nhìn chung, nhiệt độ đốt và giá trị
SLP trong điều kiện kết hợp (MHT + PTT) tăng đáng kể so với trường hợp MHT.
Bảng 3.14. So sánh phương thức gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) với MHT
H (Oe) 100 150 200 250
MHT
(f = 450 kHz, P = 0)
Tmax (oC) 34,6 42,3 52,0 56,0
T(oC) 4,6 12,3 22,0 26,0
SLP (W/g) 42,09 83,02 84,75 139,52
MHT + PTT
(f = 450 kHz,
P = 0,5 W/cm2)
Tmax (oC) 47,0 50,5 57,4 68,0
T(oC) 17,0 20,5 27,4 38,0
SLP (W/g) 254,17 304,15 349,51 748,02
* Ảnh hưởng của mật độ công suất laze (P):
Hình 3.44. Hiệu ứng (MHT + PTT) của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO tại laze
0,2 ÷ 0,65 W/cm2 (a), giá trị SLP tương ứng của a (b), nhiệt độ đốt cao nhất Tmax
(sau 1200 s) (c) và giá trị SLP tương ứng (d) trong điều kiện PTT và (MHT + PTT).
111
Ảnh hưởng của mật độ công suất laze P đến quá trình sinh nhiệt của hệ nano lai
Fe3O4/Au rỗng@PMAO trong điều kiện (MHT + PTT) cũng được khảo sát tại từ trường
không đổi (f = 450 kHz, H = 200 Oe) và laze có mật độ công suất 0,2 ÷ 0,65 W/cm2.
Kết quả hình 3.44a cho thấy nhiệt độ của mẫu lai có sự thay đổi đáng kể trong suốt
quá trình đo. Khi chiếu laze với mật độ công suất tăng 0,2 ÷ 0,65 W/cm2, nhiệt độ
cao nhất (Tmax) thu được tăng 46 ÷ 68,5 oC. Từ kết quả hình 3.44b cho thấy giá trị
SLP có sự thay đổi khi áp dụng laze có mật độ công suất khác nhau. Giá trị SLP
lớn nhất thu được trong trường hợp này là 1082,75 W/g ứng với laze 0,65 W/cm2.
Sự tăng cường hiệu suất gia nhiệt của vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO
trong trường hợp (MHT + PTT) so với trường hợp PTT cũng được thể hiện trong
hình 3.44c, d và bảng 3.15. Để đạt đến cửa sổ nhiệt độ trị liệu với phương thức PTT
cần phải chiếu laze có mật độ công suất tối thiểu là 0,5 W/cm2, trong khi đó kỹ thuật
(MHT + PTT) cần chiếu laze có P = 0,2 W/cm2 (tại từ trường 200 Oe) (hình 3.44c).
Như vậy, sau khi kết hợp hai phương thức gia nhiệt (MHT + PTT), mật độ công
suất laze đã giảm 2,5 lần so với phương pháp PTT mà vẫn đạt được nhiệt độ trong
vùng cửa sổ nhiệt trị.
Bảng 3.15. So sánh phương thức gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) với PTT
P (W/cm2) 0,2 0,35 0,50 0,65
PTT
(H = 0)
Tmax (oC) 32,5 39,5 43,3 55,0
T(oC) 2,5 9,5 13,3 25,0
SLP (W/g) 152,70 304,73 344,20 1074,62
MHT + PTT
(H = 200 Oe,
f = 450 kHz)
Tmax (oC) 46,0 52,3 57,4 68,5
T(oC) 16,0 22,3 27,4 38,5
SLP (W/g) 246,41 332,71 349,51 1082,75
*) Ảnh hưởng của nồng độ hạt lai:
Để đạt được nhiệt độ trị liệu (42 ÷ 46 oC) ngoài việc áp dụng đồng thời hai
phương thức gia nhiệt quang/từ (MHT + PTT) thì vai trò của nồng độ hạt lai trong
dung dịch cũng rất quan trọng. Ảnh hưởng của nồng độ hạt lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO
đến hiệu ứng gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) được thể hiện trên hình 3.45. Thí
112
nghiệm được thực hiện tại từ trường có cường độ 200 Oe, tần số 450 kHz và laze
808 nm với mật độ công suất 0,65 W/cm2.
Hình 3.45. Ảnh hưởng của nồng độ hạt lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO đến hiệu ứng
gia nhiệt kết hợp (MHT + PTT) (a) và giá trị SLP tương ứng của a (b).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi nồng độ hạt lai tăng từ 1,0 ÷ 3,0 mg/mL thì
nhiệt độ đốt bão hòa của mẫu tăng 46,7 ÷ 68,5 oC và giá trị SLP tương ứng tăng
391,37 ÷ 1082,75 W/g. Như vậy, hiệu suất chuyển đổi năng lượng quang/từ thành
năng lượng nhiệt tăng khi nồng độ hạt lai trong mẫu tăng. Trong luận án của TS.
Phạm Hồng Nam cho thấy hiệu ứng từ - nhiệt với các mẫu ferit từ có giá trị SLP
giảm khi nồng độ hạt tăng 1 ÷ 10 mg/mL [142]. Điều này có thể được giải thích
như sau: khi nồng độ hạt từ tăng làm tăng khả năng kết đám của các hạt trong môi
trường chất lỏng, do đó tương tác lưỡng cực tăng lên đáng kể và quá trình sinh nhiệt
ra môi trường giảm. Với vật liệu lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO chúng tôi chế tạo được
trong luận án này có giá trị SLP tăng khi nồng độ hạt lai tăng có thể do vật liệu chúng
tôi chế tạo được là đơn phân tán, mặt khác sự hình thành lớp vỏ Au phi từ bên ngoài
hạt Fe3O4 làm giảm tương tác lưỡng cực giữa chúng do đó giá trị SLP tăng.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy để đạt được nhiệt độ sử dụng trong nhiệt trị
tế bào ung thư theo phương thức kép (MHT + PTT) thì nồng độ hạt lai tối thiểu cần
dùng là 1,0 mg/mL. Nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu
tác dụng phụ của thuốc đối với cơ thể. Việc áp dụng kỹ thuật (MHT + PTT) trong
nhiệt trị tế bào ung thư hứa hẹn nhiều tiềm năng cho các thử nghiệm lâm sàng.
113
3.4.3. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của vật liệu
Hình ảnh MRI trọng T1 và T2 của vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO
với nồng độ Fe khác nhau lần lượt là 0,03 mM, 0,09 mM, 0,18 mM, 0,3 mM và
0,45 mM được trình bày trên hình 3.46 và 3.47.
Hình 3.46. Hình ảnh MRI trọng T2 (a) và đường tuyến tính 1/T2 (b) của vật liệu
Fe3O4/Au rỗng@PMAO với nồng độ [Fe] khác nhau.
Hình 3.47. Hình ảnh MRI trọng T1 (a) và đường tuyến tính 1/T1 (b) của vật liệu
Fe3O4/Au rỗng@PMAO với nồng độ [Fe] khác nhau; Hình ảnh MRI trọng T1 (c) và
cường độ của H2O, Dotarem và Fe3O4/Au rỗng@PMAO ở các giá trị TR khác nhau (d).
Kết quả hình 3.46a và 3.47a cho thấy ảnh MRI chụp theo chế độ trọng T1 và
T2 của vật liệu lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO có sự tương phản ảnh thay đổi rõ ràng
khi thay đổi một giá trị nhỏ nồng độ của vật liệu. Để xác định độ hồi phục r1, r2
chúng tôi tiến hành chụp ở các xung TE và TR khác nhau theo cả hai chế độ chụp
trọng T1 và T2. Kết quả được trình bày trên hình 3.48.
114
Hình 3.48. Hình ảnh MRI trọng T1 tại giá trị TR khác nhau (a) và trọng T2
tại giá trị TE khác nhau của vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO.
Từ hình 3.48 ta thấy, mẫu nước cất có ảnh màu đen khi chụp theo cơ chế
trọng T1 và màu trắng khi chụp theo cơ chế trọng T2. Năm ảnh theo thứ tự từ đen tới
trắng (ảnh trọng T1) và từ trắng đến đen (ảnh trọng T2) theo thứ tự từ trái sang
phải là của các mẫu lai có [Fe] tương ứng: 0,03 mM, 0,09 mM, 0,18 mM, 0,3 mM
và 0,45 mM. Sự tương phản ảnh thay đổi rõ ràng khi thay đổi một lượng nhỏ nồng
độ của vật liệu lai. Ngoài ra, cường độ tín hiệu ảnh MRI cũng thay đổi khi các giá trị
TE và TR thay đổi.
Việc làm khớp hàm phụ thuộc của R1 và R2 vào nồng độ vật liệu trên hình
3.46b và 3.47b cho thấy sự phụ thuộc này là tuyến tính. Các giá trị độ hồi phục dọc r1
và độ hồi phục ngang r2 được tính theo công thức 2.10 thu được tương ứng là 8,47 và
74,45 mM-1
s-1
. Hình 3.47c và d cho thấy vật liệu lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO có
cường độ tín hiệu tương phản dương cao hơn các sản phẩm thương mại Dotarem
(chất tương phản dựa trên Gd) với các giá trị TR khác nhau.
Để đánh giá vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO là tác nhân tương
phản kép (T1 và T2), chúng tôi đã so sánh các giá trị r1 và r2 của vật liệu chế tạo
được với các tác nhân tương phản MRI được công bố trong các tài liệu như thể
hiện trong bảng 3.16.
115
Bảng 3.16. Độ hồi phục r1, r2 của một số chất tương phản MRI.
Tên gọi
Lớp vỏ
bọc/thành
phần
Kích
thƣớc
lõi
(nm)
Kích
thƣớc
thủy
động
(nm)
r1
(mM-1
s-1)
r2
(mM-1
s-1)
r1/r2 Công ty
Fe3O4/Au
rỗng@PMAO
PMAO
(Fe3O4/Au) 17,0 28,84 8,47 74,45 0,113
Kết quả
nghiên cứu
của luận án
Dotarem®
Gadoterat
meglumin
(Gd-DOTA)
- -
3,6
(3,4-
3,8)
4,3
(3,4-
5,2)
0,837 Guerbet
[143]
Magnevist®
Gadopentetat
dimeglumin
(Gd-DTPA)
- -
4,1
(3,9–
4,3)
4,6
(3,8–
5,4)
0,956 Bayer
[143]
MultiHance®
Gadobenat
dimeglumin
(Gd-
BOPTA)
- -
6,3
(6,0–
6,6)
8,7
(7,8–
9,6)
0,724 Bracco
[143]
Omniscan®
Gadodiamit
(Gd-DTPA-
BMA)
- -
4,3
(4,0–
4,6)
5,2
(4,2–
6,2)
0,827
GE
Healthcare
[143]
ProHance®
Gadoteridol
(Gd-HP-
DO3A)
- -
4,1
(3,9–
4,3)
5,0
(4,2–
5,8)
0,88 Bracco
[143]
Gadovist® Gadobutrol
(Gd-DO3A) - - 5,2 6,1 0,852
Bayer
[143]
VSOP-C184 Citrat
(Fe3O4) 8,6 19 8,0 34 0,235 [144]
Ferumoxtran
(Sinerem)
Dextran,
citrat (Fe3O4) 4,5 34 5,0 66,0 0,075 [145]
Ferumoxytol®
Dextran
(C7228)
(Fe3O4)
6,7 35 7,5 92 0,081
AMAG
Pharmaceu
ticals [146]
Resovist® Dextran
(Fe3O4) 60 7,4 151 0,05
Schering
[143]
116
Feridex®
(AMI-25)
Dextran
(Fe3O4)
4,5 160 10,1 120 0,084 Berlex/Gue
rbet [147]
ESION
PEG-
photphin oxit
(γ-Fe2O3)
2.2 15 4,8 29,2 0,164 [148]
USPIO
PEG-
photphin oxit
(Fe3O4)
12 - 2,37 58,8 0,040 [148]
GdIO
Dopamin
sunfonat
(Fe3O4 ,
Gd2O3)
4,8
6,50
7,85 41,14 0,191 [149]
F-
AuNC@Fe3O4
Axit folic
Au@Fe3O4
2,2 110 6,26 28,11 0,222 [82]
Từ kết quả bảng 3.16 ta thấy, độ hồi phục r1 của vật liệu chế tạo được
(8,47 mM−1
s−1
) lớn hơn so với các chất tương phản dựa trên nền Gd, điều đó cho
thấy chúng có tiềm năng là tác nhân tương phản dương hiệu quả. So sánh giá trị r2
với các chất tương phản âm (như Ferumoxtran, Ferumoxytol®
) cho thấy giá trị r2
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng đủ lớn để cho tín hiệu tương phản âm tốt. Hơn
nữa, tỷ lệ r1/r2 cũng là một tham số quan trọng để đánh giá hiệu quả các chất tương
phản T1 và T2. Tỷ lệ r1/r2 của mẫu lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO là 0,11, cao hơn 1,4 và
2,26 lần so với r1/r2 của Ferumoxytol® và Resovist
® tương ứng (được sử dụng chủ yếu
làm tác nhân tương phản T2). Tỷ lệ r1/r2 của vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO
thấp hơn so với VSOP (là chất tương phản T1 dựa trên các hạt nano oxit sắt rất nhỏ
với lớp bề mặt được biến tính bằng citrat) [144]. Như vậy, cấu trúc lai chế tạo được
có thể sử dụng như chất tương phản MRI theo cả hai chế độ chụp trọng T1 và trọng
T2 (phương thức kép).
Kết quả nghiên cứu trong luận án của TS. Lê Thế Tâm [150] cho thấy các hạt
nano trên nền Fe3O4 siêu thuận từ là tác nhân tương phản âm T2 có thể sử dụng
thay thế cho tác nhân tương phản dương T1 (trên nền Gd). Tuy nhiên, giá trị độ hồi
phục ngang r2 quá cao (r2 = 150 mM−1
s−1
) (gây ra do hiện tượng từ hóa mạnh của
các hạt nano oxit sắt) làm cho chúng không được sử dụng như các chất tương phản
dương T1. Một số chất tương phản như Resovist®
, Feridex® có giá trị r1 lần lượt là
117
7,4 và 10,1 mM−1
s−1
, nhưng trong thực tế nó thường được sử dụng làm tác nhân
tương phản T2 vì giá trị r2 cao (lần lượt là 151 và 120 mM−1
s−1
) [143, 147]. Tuy
nhiên, tỷ lệ r1/r2 có thể được kiểm soát bằng cách điều chỉnh kích thước, trạng thái
bề mặt và thành phần của các hạt nano [69]. Trong nghiên cứu này, hiệu ứng
tương phản T1 có thể được tăng cường nhờ thành phần kim loại quý tích hợp trên các
hạt nano oxit sắt (trong hệ lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO). Sử dụng các tác nhân tương
phản kép (trọng T1 và T2) không chỉ tích hợp ưu điểm của cả hai phương thức mà
còn có thể xác minh những gì chúng ta thấy trong cả hai đầu dò với nhau.
Tóm tắt kết quả phần 3.4:
1. Hoạt tính kháng khuẩn của hệ nano lai Fe3O4/Ag@PMAO được tăng
cường so với vật liệu nano Ag@PMAO đơn lẻ có cùng kích thước. Vật liệu lai thể
hiện hoạt tính kháng khuẩn mạnh với các chủng E. coli, L. plantarum, B. subtilis và
ở mức trung bình với các chủng S. lutea, S. marcescens.
2. Ap dụng kỹ thuật kết hợp (MHT + PTT) đã làm tăng đáng kể hiệu suất gia
nhiệt của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO. Nhiệt độ cao nhất có thể đạt được là
68,5 oC với giá trị SLP là 1082,75 W/g tại nồng độ mẫu 3 mg/mL sau 1200 s xử lý.
Để đạt được nhiệt độ trị liệu (42 ÷ 46 oC) bằng phương thức kết hợp có thể giảm
nồng độ hạt nano lai hoặc giảm cường độ từ trường và mật độ công suất laze so với
phương pháp sử dụng các kỹ thuật riêng rẽ.
3. Hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO cho tín hiệu tương phản ảnh tốt và tăng
dần theo nồng độ với cả hai chế độ chụp trọng T1 và T2 với r1 = 8,47 mM-1
s-1
và r2 =
74,45 mM-1
s-1
.
118
KẾT LUẬN
1. Chế tạo thành công hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn), hệ nano lai
Fe3O4/Ag và Fe3O4/Au rỗng, kích thước trung bình dưới 20 nm có khả năng
hấp thụ các bức xạ trong vùng hồng ngoại gần.
2. Các hạt nano lai Fe3O4-(Ag, Au) sau khi bọc PMAO cho dung dịch có độ bền
và ổn định cao. Hệ vật liệu Fe3O4@Ag@PMAO thể hiện độc tính với dòng tế
bào AGS và MKN45 phụ thuộc vào nồng độ vật liệu, giá trị IC50 xác định
được cho dòng tế bào AGS và MKN45 tương ứng là 42 µg/mL và 58 µg/mL.
Hệ vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO không thể hiện độc tính trên tế bào AGS
và MKN45 trong phạm vi nồng độ 10 ÷ 100 g/mL.
3. Hệ vật liệu Fe3O4/Ag@PMAO thể hiện hoạt tính kháng khuẩn cao hơn so với
vật liệu nano Ag@PMAO riêng rẽ có cùng kích thước với cả vi khuẩn Gram
dương và Gram âm.
4. Hiệu suất gia nhiệt của hệ nano lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO được tăng cường khi
kết hợp đồng thời cả từ trường và laze (MHT + PTT). Trong phạm vi khảo sát, hệ
lai Fe3O4/Au rỗng@PMAO đạt giá trị SLP lớn nhất là 1082,75 W/g.
5. Hệ vật liệu Fe3O4/Au rỗng@PMAO làm tăng khả năng tương phản ảnh cộng
hưởng từ hạt nhân với cả hai chế độ chụp trọng T1 và T2 với r1 = 8,47 mM-1
s-1
và r2 = 74,45 mM-1
s-1
.
6. Hệ vật liệu lai chế tạo được thể hiện tính chất đa chức năng: tính chất từ, quang
và kháng khuẩn. Nghiên cứu này cho thấy tiềm năng ứng dụng cao của cấu trúc
nano lai Fe3O4-(Ag, Au) trong chẩn đoán và điều trị ung thư.
119
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Tổng hợp thành công hạt nano ferit từ MFe2O4 (M: Fe, Co, Mn) với kích
thước đồng đều, đơn phân tán bằng phương pháp phân hủy nhiệt trong dung
môi 1-octadecen. Vật liệu được chế tạo ở nồng độ cao tiền chất nhằm tiết kiệm
chi phí.
2. Tổng hợp thành công vật liệu nano lai Fe3O4/Ag với khả năng điều khiển cấu
trúc (lõi - vỏ hoặc dumbbell), kích thước, thành phần và độ đồng đều thông
qua việc thay đổi điều kiện thực nghiệm (nồng độ tiền chất Ag sử dụng).
3. Tổng hợp thành công vật liệu nano lai Fe3O4/Au rỗng, kích thước nhỏ (dưới
20 nm) với vị trí cộng hưởng plasmon bề mặt được điều khiển đến vùng hồng
ngoại gần (trên 700 nm). Hệ lai Fe3O4/Au rỗng bọc PMAO có thể chuyển đổi
năng lượng điện từ và năng lượng ánh sáng thành nhiệt với hiệu suất cao
(SLP = 1082,75 W/g) khi kết hợp đồng thời cả từ trường và laze. Bên cạnh đó
chúng còn thể hiện khả năng tăng tính tương phản đồng thời với cả T1 và T2,
và có thể sử dụng làm chất tương phản kép cho kỹ thuật chụp ảnh cộng hưởng
từ hạt nhân.
120
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
+ Tiếp tục nghiên cứu tổng hợp hệ nano lai ferit từ - kim loại (Ag, Au) với các
ferit từ khác nhau (CoFe2O4, MnFe2O4) ở quy mô lớn.
+ Tiếp tục nghiên cứu hiệu suất chuyển đổi quang/từ - nhiệt với các hệ nano
lai khác nhau.
+ Nghiên cứu đánh giá khả năng tăng độ tương phản của các hệ nano lai khác
nhau trong chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) và chụp cắt lớp vi tính (CT).
+ Nghiên cứu thử nghiệm (in vivo) trên động vật (chuột, thỏ).
121
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
1. Thi Ngoc Linh Nguyen, Truc Vy Do, Thien Vuong Nguyen, Phi Hung Dao,
Van Thanh Trinh, Van Phuc Mac, Anh Hiep Nguyen, Duc Anh Dinh, Tuan Anh
Nguyen, Thi Kieu Anh Vo, Dai Lam Tran, Trong Lu Le, “Antimicrobial activity
of acrylic polyurethane/Fe3O4-Ag nanocomposite coating”, Progress in Organic
Coatings, 132,15-20, 2019, (SCI, Q1, IF2020 3.73).
2. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Lê Thị Thanh Tâm, Lê Thế Tâm, Ngô Thanh Dung,
Phạm Hồng Nam, Nguyễn Văn Đàm Thiên, Nguyễn Hoa Du, Phan Ngọc Hồng,
Trần Đại Lâm, Lê Trọng Lư, “Nghiên cứu chế tạo và khảo sát độ bền của chất
lỏng từ mangan ferit trong nước”, Tạp chí hóa học, 56(6e2), 214-219, 2018
3. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Ngô Thanh Dung, Lê Thế Tâm, Lê Thị Thanh Tâm,
Đào Thị Thu Hà, Trần Đại Lâm, Lê Trọng Lư, “Nghiên cứu chế tạo hạt nano Ag
đơn phân tán trong dung môi hữu cơ”, Tạp chí hóa học, 57(2E1,2), 11-15, 2019.
4. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Lê Thế Tâm, Lê Thị Thanh Tâm, Ngô Thanh Dung,
Phạm Hồng Nam, Đoàn Thanh Tùng, Nguyễn Văn Đàm Thiên, Phan Ngọc
Hồng, Trần Đại Lâm, Lê Trọng Lư, “Ảnh hưởng của tiền chất vô cơ đến kích
thước, độ đồng đều và tính chất của hạt nano Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp
phân hủy nhiệt”, Tạp chí hóa học, 57(2E1,2), 22-26, 2019.
5. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Trịnh Đình Khá, Lê Thị Thanh Tâm, Lê Trọng Lư, Lê
Thế Tâm, Ngô Thanh Dung, Võ Kiều Anh, “Hoạt tính kháng khuẩn của dung
dịch nano Ag được tổng hợp trong dung môi hữu cơ ở nhiệt độ thấp”, Tạp chí
Phân tích Hóa, Lý và Sinh học, 24(4A), 106-111, 2019.
6. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Trịnh Đình Khá, Lê Thị Thanh Tâm, Lê Thế Tâm,
Hoàng Yến Nhi, Ngô Thanh Dung, Võ Kiều Anh, Lê Trọng Lư, “Nghiên cứu
chế tạo và hoạt tính kháng khuẩn của hệ nano lai Fe3O4@Ag”, Tạp chí Phân
tích Hóa, Lý và Sinh học, 24(4A), 112-116, 2019.
7. Nguyen T. N. Linh, Ngo T. Dung, Le T. T. Tam, Tran D. Lam, Nguyen
X.Phuc, Nguyen T. K. Thanh and Le T. Lu, “New insight into the synthesis and
property of hollow Fe3O4-(Ag, Au) hybrid nanostructures for T1-T2 dual mode
MRI imaging and dual magnetic/photo heating”, Proceedings of Nanomaterials
for Healthcare conference, Da Nang, 2019.
122
8. Lê Trọng Lư, Nguyễn Thị Ngọc Linh, Ngô Thanh Dung, Lê Thị Thanh Tâm, Lê
Thế Tâm, Đinh Lan Chi, Hoàng Đức Minh, Trần Trung Kiên, Hoàng Thu Hà,
Phạm Hồng Nam, Nguyễn Văn Đăng, Trần Đại Lâm, Nguyễn Xuân Phúc, “Quy
trình chế tạo hệ vật liệu lai từ-quang có cấu trúc rỗng cho ứng dụng tăng cường
hiệu ứng đốt nóng từ/quang và ảnh cộng hưởng từ T1-T2”, Sở hữu trí tuệ, số đơn
SC 1-2020-00238 (Đã chấp nhận đơn hợp lệ và công bố trên công báo sở hữu
công nghiệp số 384/T3, tập A: 69199 A, 2020).
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Y. Zhang, S. H. Kim, C. K. Jeong, et al., Progresses in lead-free piezoelectric
nanofiller materials and related composite nanogenerator devices, Nanoscale
Adv., 2020, 2 (45), 1-20.
2. S. Najafishirtari, P. Guardia a, M. Colombo, et al., The effect of Au domain
size on the CO oxidation catalytic activity of colloidal Au-FeOx dumbbell-like
heterodimers, J. Catal., 2016, 338, 115–123.
3. S. A. S. Tali and W. Zhou, Multiresonant plasmonics with spatial mode
overlap: Overview and outlook, Nanophotonics, 2019, 7, 1199–1225.
4. S. Shams, M. R. Ghazanfari, and C. S. Antoniak, Magnetic-plasmonic
heterodimer nanoparticles: designing contemporarily features for emerging
biomedical diagnosis and treatments, Nanomaterials, 2019, 9 (1), 97 - 47.
5. R. D. Corato, C. Menager, C. Wilhelm, et al., Combining magnetic
hyperthermia and photodynamic therapy for tumor ablation with
photoresponsive magnetic liposomes, ACS Nano, 2015, 9 (3), 2904–2916.
6. H. Wang, J. Shen, S. Zhou, et al., Multifunctional PEG encapsulated
Fe3O4@silver hybrid nanoparticles: antibacterial activity, cell imaging and
combined photothermo/chemo- therapy, J. Mater. Chem. B, 2013, 1 (45),
6225–6234.
7. Y. Han, S. L. Lei, X. Zhou, et al., Potential use of SERS-assisted theranostic
strategy based on Fe3O4/Au cluster/shell nanocomposites for bio-detection,
MRI, and magnetic hyperthermia, Mater. Sci. Eng. C, 2016, 64, 199–207.
8. Q. Ding, D. Liu, D. Guo, et al., Shape-controlled fabrication of magnetite
silver hybrid nanoparticles with high performance magnetic hyperthermia,
Biomaterials, 2017, 124, 35–46.
9. C. Multari, M. Miola, F. Laviano, et al., Magneto-plasmonic nanoparticles for
photothermal therapy, Nanotechnology, 2019, 30 (25), 255705 - 255727.
10. Q. Lu, X. Dai, Y. Li, et al., Fe3O4@Au composite magnetic nanoparticles
modified with cetuximab for targeted magneto-photothermal therapy of
glioma cells, Int. J. Nanomedicine, 2018, 13, 2491–2505.
11. A. Espinosa, C. Wilhelm, A. A.Hassan, et al., Can magneto-plasmonic
124
nanohybrids efficiently combine photothermia with magnetic hyperthermia?,
Nanoscale, 2015, 7 (45), pp. 18872–18877.
12. S. Chandra, N. A. F. Huls, M. H. Phan, et al., Exchange bias effect in Au-
Fe3O4 nanocomposites, Nanotechnology, 2014, 25 (5), 055702 - 055711.
13. S. Liu, S. Sun, X. Z. You, et al., Dumbbell-like Au-Fe3O4 nanoparticles: A
new nanostructure for supercapacitors, Nanoscale, 2015, 7 (11) 4890–4893.
14. E. Fantechi, A. G. Roca, B. Sepulveda, et al., Seeded growth synthesis of Au-
Fe3O4 heterostructured nanocrystals: Rational design and mechanistic
insights, Chem. Mater., 2017, 29 (9), 4022–4035.
15. N. T. Thuy, F. Mammeri, and S. Ammar, Iron oxide and gold based magneto-
plasmonic nanostructures for medical applications: A review, Nanomaterials,
2018, 8 (3), 149–177.
16. Z. Xu, Y. Hou, and S. Sun, Magnetic core/shell Fe3O4/Au and Fe3O4/Ag/Au
nanoparticles with tunable plasmonic properties, J. Am. Chem. Soc., 2007,
129 (28), 8698–8699.
17. J. Zeng, M. Gong, Yadong Yin, et al., Direct synthesis of water-dispersible
magnetic/plasmonic hetero-nanostructures for multimodality biomedical
imaging, Nano Lett., 2019, 19 (5), 3011–3018.
18. L.S. Lin, X. Yang, X. Chen, et al., Yolk–shell nanostructure: An ideal
architecture to achieve harmonious integration of magnetic–plasmonic hybrid
theranostic platform, Adv. Mater., 2017, 29 (21), 1606681 - 1606689.
19. K. H. J. Buschow and F. R. de Boer, Physics of magnetism and magnetic
materials, Springer, 2003, Amsterdam-Netherlands.
20. Le Trong Lu, Water-dispersible magnetic nanoparticles for biomedical
applications : Synthesis and characterisation, Doctor thesis, 2011, University
of Liverpool.
21. B. K. Sodipo and A. A. Aziz, Recent advances in synthesis and surface
modification of superparamagnetic iron oxide nanoparticles with silica, J.
Magn. Magn. Mater., 2016, 416, 275–291.
22. J. O. Banska, M. Waszkielewicz, M. Samoc, et al., Two-photon absorption
and photoluminescence of colloidal gold nanoparticles and nanoclusters,
Chem. Soc. Rev., 2019, 48 (15), 4087–4117.
125
23. V. Amendola, R. Pilot, M. Frasconi, et al., Surface plasmon resonance in gold
nanoparticles: A review, J. Phys. Condens. Matter, 2017, 29 (20), 203002 -
203049.
24. Y. Tang, Yu, S. Zhang, et al., Noble Metal-Metal Oxide Hybrid Nanoparticles,
Chapter 20 - Applications of hybrid nanoparticles in biosensors: Simulation
studies, Micro and nano technologies, 2019, 431–455, Elsevier.
25. D. Jaque, L. M. Maestro, B. Rosal, et al., Nanoparticles for photothermal
therapies, Nanoscale, 2014, 6 (16), 9494–9530.
26. A. Amarjargal, L. D. Tijing, C. S. Kim, et al., Simultaneous preparation of
Ag/Fe3O4 core-shell nanocomposites with enhanced magnetic moment and
strong antibacterial and catalytic properties, Chem. Eng. J., 2013, 226, 243–
254.
27. Yazdani, M. Ghazanfari, and F. Johar, Light trapping effect in plasmonic
blockade at the interface of Fe3O4@Ag core/shell, RSC Adv., 2015, 5 (51),
40989–40996.
28. H. Yu, M. Chen, S. Sun, et al., Dumbbell-like bifunctional Au−Fe3O4
nanoparticles, Nano Lett., 2005, 5 (2) 379–382.
29. J. Reguera, D. J. Aberasturi, N. Winckelmans, et al., Synthesis of janus
plasmonic-magnetic, star-sphere nanoparticles, and their application in SERS
detection, Faraday Discuss., 2016, 191, 47–59.
30. D. Yang, X. Pang, Z. Lin, et al., Precisely size-tunable magnetic/plasmonic
core/shell nanoparticles with controlled optical properties, Angew. Chemie -
Int. Ed., 2015, 127 (41), 12259–12264.
31. M. J. Bradley, A. J. Biacchi, and R. E. Schaak, Chemical transformation of
Pt−Fe3O4 colloidal hybrid nanoparticles into PtPb−Fe3O4 and Pt3Sn−Fe3O4
heterodimers and (PtPb−Fe3O4)n nanoflowers, Chem. Mater., 2013, 25 (9),
1886–1892.
32. Y. Jang, B. M. Kim, T. Hyeon, et al., Simple synthesis of Pd-Fe3O4
heterodimer nanocrystals and their application as a magnetically recyclable
catalyst for suzuki cross-coupling reactions, Phys. Chem. Chem. Phys., 2011,
13 (7), 2512–2516.
33. Z. Yang, X. Lu and C. Wanga, et al., Palladium nanoparticles modified
126
electrospun CoFe2O4 nanotubes with enhanced peroxidase-like activity for
colorimetric detection of hydrogen peroxide, RSC Adv., 2016, 6 (40), 33636–
33642.
34. M. Kooti, S. Saiahi, and H. Motamedi, Fabrication of silver-coated cobalt
ferrite nanocomposite and the study of its antibacterial activity, J. Magn.
Magn. Mater., 2013, 333, 138–143.
35. A. Mikalauskaite, R. Kondrotas, A. Jagminas, et al., Gold-coated cobalt ferrite
nanoparticles via methionine-induced reduction, J. Phys. Chem. C, 2015, 119
(30), 17398–17407.
36. M. R. Ghazanfari, M. Kashefi, M. R. Jaafari, et al., Perspective of Fe3O4
nanoparticles role in biomedical applications, Biochem. Res. Int., 2016, 2016,
7840161 - 7840193.
37. P. Miao, Y. Tang, and L. Wang, DNA modified Fe3O4@Au magnetic
nanoparticles as selective probes for simultaneous detection of heavy metal
ions, ACS Appl. Mater. Interfaces, 2017, 9 (4), 3940–3947.
38. H. Y. Zhao, Y. Ding, Y. Hu, et al., Synthesis and application of strawberry-
like Fe3O4-Au nanoparticles as CT-MR dual-modality contrast agents in
accurate detection of the progressive liver disease, Biomaterials, 2015, 51,
194–207.
39. Y. Jin, C. Jia, S. W. Huang, et al., Multifunctional nanoparticles as coupled
contrast agents, Nat. Commun., 2010, 1 (4), 1–8.
40. M. T. T. Trang, H. P. Thu, N. X. Phuc, et al., Chitosan and O-carboxymethyl
chitosan modified Fe3O4 for hyperthermic treatment, Adv. Nat. Sci. Nanosci.
Nanotechnol., 2012, 3 (1), 015006 - 015010.
41. V. T. K. Oanh, T. D. Lam, N. X. Phuc, et al., Synthesis of high-magnetization
and monodisperse Fe3O4 nanoparticles via thermal decomposition, Mater.
Chem. Phys., 2015, 163, 537–544.
42. L. T. T. Huong, N. H. Nam, N. X. Phuc, et al., Folate attached, curcumin
loaded Fe3O4 nanoparticles: A novel multifunctional drug delivery system for
cancer treatment, Mater. Chem. Phys., 2016, 172, 98–104.
43. L. T. H. Nghiem, L.T. Ngan, T. H. Nhung, et al., Preparation and
characterization of silica-gold core-shell nanoparticles, J. Nanoparticle Res.,
127
2013, 15 (11), 2091 - 2099.
44. V. X. Hoa, M. Levy, T. H. Nhung, et al., Gold nanocrescents for remotely
measuring and controlling local temperature, Nanotechnology, 2013, 24 (32),
325501 - 325506.
45. N. T. Dung, L. T. M. Hanh, L. T. Lu, et al., Antibacterial nanocomposites based
on Fe3O4-Ag hybrid nanoparticles and natural rubber-polyethylene blends, Int.
J. Polym. Sci., 2016, 2016, 7478161 - 7478169.
46. N. T. Dung, L. T. Lu, N. T. K. Thanh, et al., High magnetisation, monodisperse
and water-dispersible CoFe@Pt core/shell nanoparticles, Nanoscale, 2017, 9
(26), 8952–8961.
47. L. T. Huy, L. T. Tam, L. A. Tuan, et al., Effect of synthesis parameters on the
structure and magnetic properties of magnetic manganese ferrite/silver
composite nanoparticles synthesized by wet chemistry method, J. Nanosci.
Nanotechnol., 2016, 16 (8), 7919–7928.
48. A. A. Pascuala, S. Velumanid, R. Esparza, et al., Structure, magnetic and
cytotoxic behaviour of solvothermally grown Fe3O4@Au core-shell
nanoparticles, Mater. Charact., 2018, 142, 237–244.
49. C. Antoniak, M. E. Grune, M. Spasova, et al., A guideline for atomistic design
and understanding of ultrahard nanomagnets, Nat. Commun., 2011, 2 (1), 528 -
534.
50. M. Takahashi, R. Kitaura, S. Maenosono, et al., Nanomaterials for magnetic
and optical hyperthermia applications, Chapter 3 - Synthesis and
characterization of magnetic–plasmonic hybrid nanoparticles, Micro and
Nano Technologies, 2019, 61–82, Elsevier.
51. C. W. Chen, M. Y. Liao, P. S. Lai, et al., Encapsulation of Au/Fe3O4
nanoparticles into a polymer nanoarchitecture with combined near infrared-
triggered chemo-photothermal therapy based on intracellular secondary
protein understanding, J. Mater. Chem. B, 2017, 5 (29), 5774–5782.
52. J. Wu, Y. Hou, and S. Gao, Controlled synthesis and multifunctional
properties of FePt-Au heterostructures, Nano Res., 2011, 4 (9), 836–848.
53. S. Kalele, S. W. Gosavi, S. K. Kulkarni, et al., Nanoshell particles: synthesis,
properties and applications. Current science, 2006, 91 (8), 1038-1052.
128
54. X. Xue, V. Sukhotskiy, and E. P. Furlani, Optimization of optical absorption
of colloids of SiO2@Au and Fe3O4@Au nanoparticles with constraints, Sci.
Rep., 2016, 6, 35911.
55. S. Laurent, S. Dutz, M. Mahmoudi, et al., Magnetic fluid hyperthermia: Focus
on superparamagnetic iron oxide nanoparticles, Adv. Colloid Interface Sci.,
2011, 166 (1–2), 8–23.
56. Z. Li , P. W. Yi , Q. Sun, et al., Ultrasmall water-soluble and biocompatible
magnetic iron oxide nanoparticles as positive and negative dual contrast
agents, Adv. Funct. Mater., 2012, 22 (11), 2387–2393.
57. Y. Hernández and B. C. Galarreta, Nanomaterials for magnetic and optical
hyperthermia applications, Chapter 4 - Noble metal-based plasmonic
nanoparticles for SERS imaging and photothermal therapy, Micro and Nano
Technologies, 2019, 83-109, Elsevier.
58. C. Hoskins, Y. Min, L. Wang , et al., Hybrid gold-iron oxide nanoparticles as
a multifunctional platform for biomedical application, J. Nanobiotechnology,
2012, 10 (1), 1-12.
59. J. Lee, J. Yang, H. Ko, et al., Multifunctional magnetic gold nanocomposites:
Human epithelial cancer detection via magnetic resonance imaging and
localized synchronous therapy, Adv. Funct. Mater., 2008, 18 (2), 258–264.
60. J. R. Lepock, K. H. Cheng, J. Kruuv, et al., Hyperthermia-induced inhibition
of respiration and mitochondrial protein denaturation in CHL cells, Int. J.
Hyperth., 1987, 3 (2), 123–132.
61. J. R. Lepock, H. E. Frey, J. Kruuv, et al., Thermal analysis of CHL V79 cells
using differential scanning calorimetry: Implications for hyperthermic cell
killing and the heat shock response, J. Cell. Physiol., 1988, 137 (1), 14–24.
62. A. E. Caccamo, S. Desenzani, A. F. Borghetti, et al., Nuclear clusterin
accumulation during heat shock response: implications for cell survival and
thermo-tolerance induction in immortalized and prostate cancer cells, J. Cell.
Physiol., 2006, 207 (1), 208–219.
63. S. A. Sapareto and W. C. Dewey, Thermal dose determination in cancer
therapy, Int. J. Radiat. Oncol. Biol. Phys., 1984, 10 (6), 787–800.
64. M. Ahmed and S. N. Goldberg, Combination radiofrequency thermal ablation
129
and adjuvant IV liposomal doxorubicin increases tissue coagulation and
intratumoural drug accumulation, Int. J. Hyperth., 2004, 20 (7), 781–802.
65. V. K. Pustovalov, L. G. Astafyeva, and W. Fritzsche, Selection of thermo-
optical parameter of nanoparticles for achievement of their maximal thermal
energy under optical irradiation, Nano Energy, 2013, 2 (6), 1137–1141.
66. B. Thiesen and A. Jordan, Clinical applications of magnetic nanoparticles for
hyperthermia, Int. J. Hyperth., 2008, 24 (6), 467–474.
67. E. C. Abenojar, S. Wickramasinghe, A. C. S. Samia, et al., Structural effects
on the magnetic hyperthermia properties of iron oxide nanoparticles, Prog.
Nat. Sci. Mater. Int., 2016, 26 (5), 440–448.
68. R. Hergt, S. Dutz, M. Zeisberger, et al., Magnetic particle hyperthermia:
nanoparticle magnetism and materials development for cancer therapy, J.
Phys., 2006, 18, S2919–S2934.
69. N. Lee, D. Yoo, J. Cheon, et al., Iron oxide based nanoparticles for
multimodal imaging and magnetoresponsive therapy, Chem. Rev., 2015, 115
(19), 10637–10689.
70. F. Yang, F. Vetrone, D. Ma, et al., Multifunctional self-assembled
supernanoparticles for deep-tissue bimodal imaging and amplified dual-mode
heating treatment, ACS Nano, 2019, 13 (1), 408–420.
71. A.K Bhunia and S. Saha, Biomedical response and different applications of
magnetic nanomaterials, Curr. Trends Biomed. Eng. Biosci., 2018, 16 (2),
555934 –555938.
72. S. Y. Srinivasan, K. M. Paknikar, V. Gajbhiye, et al., Applications of cobalt
ferrite nanoparticles in biomedical nanotechnology, Nanomedicine, 2018, 13
(10), 1221–1238.
73. M. F. Tsai, S. H. G. Chang, C. S. Yeh, et al., Au nanorod design as light-
absorber in the first and second biological near-infrared windows for in vivo
photothermal therapy, ACS Nano, 2013, 7 (6), 5330–5342.
74. R. Das, N. R. Montes, H. Srikanth, et al., Boosted hyperthermia therapy by
combined AC magnetic and photothermal exposures in Ag/Fe3O4 nanoflowers,
ACS Appl. Mater. Interfaces, 2016, 8 (38), 25162–25169.
75. R. D. Corato, C. Menager, C. Wilhelm, et al., Combining magnetic
130
hyperthermia and photodynamic therapy for tumor ablation with
photoresponsive magnetic liposomes, ACS Nano, 2015, 9 (3), 2904–2916.
76. J. G. Ovejero, I. Morales, P. Herrastie, et al., Hybrid nanoparticles for
magnetic and plasmonic hyperthermia, Phys. Chem. Chem. Phys., 2018, 20
(37), 24065–24073.
77. M. G. Weimuller, M. Zeisberger, and K. M. Krishnan, Size-dependant heating
rates of iron oxide nanoparticles for magnetic fluid hyperthermia, J. Magn.
Magn. Mater., 2009, 321 (13), 1947–1950.
78. J. Cai, Y. Q. Miao, H. M. Fan, et al., Facile preparation of gold-decorated
Fe3O4 nanoparticles for CT and MR dual-modal imaging, Int. J. Mol. Sci.,
2018, 19, 4049 – 4058.
79. J. G. Penfield and R. F. Reilly, What nephrologists need to know about
gadolinium, Nature Clinical Practice Nephrology, 2007, 3 (12), 654–668.
80. E. Peng, F. Wang and J. M. Xue, Nanostructured magnetic nanocomposites as
MRI contrast agents, J. Mater. Chem. B, 2015, 3, 2241–2276.
81. G. Wang, X. Zhang, K. Uvdal, et al., One-step synthesis of water-dispersible
ultra-small Fe3O4 nanoparticles as contrast agents for T1 and T2 magnetic
resonance imaging, Nanoscale, 2014, 6, 2953–2963.
82. G. Wang, W. Gao, X. Zhang, et al., Au nanocage functionalized with ultra-
small Fe3O4 nanoparticles for targeting T1-T2 dual MRI and CT imaging of
tumor, Sci. Rep., 2016, 6, 28258 (1–10).
83. J. Zhu, Y. Lu, H. Gu, et al., Synthesis of Au-Fe3O4 heterostructured
nanoparticles for in vivo computed tomography and magnetic resonance dual
model imaging, Nanoscale, 2014, 6 (1), 199–202.
84. J. Li, G. Zhang, X. Shi, et al., Hyaluronic acid-modified Fe3O4@Au core/shell
nanostars for multimodal imaging and photothermal therapy of tumors,
Biomaterials, 2015, 38, 10–21.
85. Y. Feng, Y. Zong, Z. R. Lu, et al., Pharmacokinetics, biodistribution and
contrast enhanced MR blood pool imaging of Gd-DTPA cystine copolymers
and Gd-DTPA cystine diethyl ester copolymers in a rat model, Pharm. Res.,
2006, 23 (8), 1736–1742.
86. S. Liao, Y. Zhang, L. Chen, et al., Antibacterial activity and mechanism of
131
silver nanoparticles against multidrug-resistant pseudomonas aeruginosa, Int.
J. Nanomedicine, 2019, 14, 1469–1487.
87. B. Chudasama, A. K. Vala, N. Andhariya, et al., Enhanced antibacterial
activity of bifunctional Fe3O4-Ag core-shell nanostructures, Nano Res., 2009,
2 (12), 955–965.
88. J. T. Seil and T. J. Webster, Antimicrobial applications of nanotechnology:
methods and literature, Int. J. Nanomedicine, 2012, 7, 2767–2781.
89. K. S. Siddiqi, A. ur Rahman, A. Husen, et al., Properties of zinc oxide
nanoparticles and their activity against microbes, Nanoscale Res. Lett., 2018,
13 (1), 141-153.
90. H. N. Pantaroto, A. P. R. Filho, C. Sukotjoe, et al., Antibacterial
photocatalytic activity of different crystalline TiO2 phases in oral multispecies
biofilm, Dent. Mater., 2018, 34 (7), e182–e195.
91. J. Kusnetsov, E. Iivanainen, P. J. Martikainen, et al., Copper and silver ions
more effective against legionellae than against mycobacteria in a hospital
warm water system, Water Res., 2001, 35 (17), 4217–4225.
92. Y. Qing, L. Cheng, R. Li, et al., Potential antibacterial mechanism of silver
nanoparticles and the optimization of orthopedic implants by advanced
modification technologies, Int. J. Nanomedicine, 2018, 13, 3311–3327.
93. M. Seong and D. G. Lee, Silver nanoparticles against salmonella enterica
serotype typhimurium: Role of inner membrane dysfunction, Curr. Microbiol.,
2017, 74 (6), 661–670.
94. R. Zhao, H.Song, R. Hao, et al., Stable nanocomposite based on PEGylated
and silver nanoparticles loaded graphene oxide for long-term antibacterial
activity, ACS Appl. Mater. Interfaces, 2017, 9 (18), 15328–15341.
95. S. S. R. Chandrasekaran, S. Gnanasekar, W. Arockiaswamy, et al., Formulation
of carica papaya latex-functionalized silver nanoparticles for its improved
antibacterial and anticancer applications, J. Mol. Liq., 2016, 219, 231–238.
96. Y. N. Slavin, J. Asnis, H. Bach, et al., Metal nanoparticles: Understanding the
mechanisms behind antibacterial activity, J. Nanobiotechnology, 2017, 15 (1),
65-84.
97. P. Siritongsuk, N. Hongsing, R. Patramanon, et al., Two-phase bactericidal
132
mechanism of silver nanoparticles against burkholderia pseudomallei, PLoS
One, 2016, 11 (12), 0168098-0168119.
98. L. M. Tung, N. X. Cong, L. T. Huy, et al., Synthesis, characterizations of
superparamagnetic Fe3O4-Ag hybrid nanoparticles and their application for
highly effective bacteria inactivation, J. Nanosci. Nanotechnol., 2016, 16 (6),
5902–5912.
99. P. Gong, H. Li, X. He, et al,. Preparation and antibacterial activity of
Fe3O4@Ag nanoparticles, Nanotechnology, 2007, 18 (28), 285604 (1–7).
100. S. Venkateswarlu, B. N. Kumar, B. Prathima, et al., A novel green synthesis of
Fe3O4-Ag core shell recyclable nanoparticles using vitis vinifera stem extract
and its enhanced antibacterial performance, Phys. B Condens. Matter, 2015,
457, 30–35.
101. O. Ivashchenko, E. Coy, B. Peplinska, et al., Influence of silver content on
rifampicin adsorptivity for magnetite/Ag/rifampicin nanoparticles,
Nanotechnology, 2017, 28 (5), 055603 (1–11).
102. A. Albini, G. Pennesi, F. Donatelli, et al., Cardiotoxicity of anticancer drugs:
The need for cardio-oncology and cardio-oncological prevention, J. Natl.
Cancer Inst., 2010, 102 (1), 14–25.
103. V. Pavet, M. M. Portal, J. C. Moulin, et al., Towards novel paradigms for
cancer therapy, Oncogene, 2011, 30 (1),1–20.
104. V. V. Mody, A. Cox, H. Parihar, et al., Magnetic nanoparticle drug delivery
systems for targeting tumor, Appl. Nanosci., 2014, 4 (4), 385–392.
105. W. P. Li, P. Liao, C. S. Yeh, et al., Formation of oligonucleotides-gated silica
shell-coated Fe3O4-Au core-shell nanotrisoctahedra for magnetically targeted
and near-infrared light responsive theranostic platform, J. Am. Chem. Soc.,
2014, 136 (28), 10062–10075.
106. C. Xu, B. Wang, and S. Sun, Dumbbell-like Au-Fe3O4 nanoparticles for
target-specific platin delivery, J. Am. Chem. Soc., 2009, 131 (12), 4216–4217.
107. C. Sun, J. S. H. Lee, and M. Zhang, Magnetic nanoparticles in MR imaging
and drug delivery, Adv. Drug Deliv. Rev., 2008, 60 (11), 1252–1265.
108. L. T. Lu , N. T. Dung, N. T. K. Thanh, et al., Synthesis of magnetic cobalt
ferrite nanoparticles with controlled morphology, monodispersity and
133
composition: The influence of solvent, surfactant, reductant and synthetic
conditions, Nanoscale, 2015, 7 (46), 19596–19610.
109. J. Park, J. Joo, T. Hyeon, et al., Synthesis of monodisperse spherical
nanocrystals, Angew. Chemie Int. Ed., 2007, 46 (25), 4630–4660.
110. C. Y. Han and H. Yang, Development of colloidal quantum dots for
electrically driven light-emitting devices, J. Korean Ceram. Soc., 2017, 54 (6),
449–469.
111. S. Sun and H. Zeng, Size-controlled synthesis of magnetite nanoparticles, J.
Am. Chem. Soc., 2002, 124 (28), 8204–8205.
112. K. C. F. Leung, S. Xuan, X. Zhu, et al., Gold and iron oxide hybrid
nanocomposite materials, Chem. Soc. Rev., 2012, 41 (5), 1911–1928.
113. Z. Peng and H. Yang, Designer platinum nanoparticles: Control of shape,
composition in alloy, nanostructure and electrocatalytic property, Nano
Today, 2009, 4 (2), 143–164.
114. J. Zeng, X. Wang and J. G. Hou, Nanocrystal, Part 1 - Synthesis and design of
Nanocrystal, Chapter 3 - Colloidal hybrid nanocrystals: synthesis, properties,
and perspectives, InTech 2011, 85-110, China.
115. L. Wang, J. Luo, C. J. Zhong, et al., Monodispersed core-shell Fe3O4@Au
nanoparticles, J. Phys. Chem. B., 2005, 109, 21593–21601.
116. K. Kamei, Y. Mukai, S. Nakagawa, et al., Direct cell entry of gold/iron-oxide
magnetic nanoparticles in adenovirus mediated gene delivery, Biomaterials,
2009, 30 (9), 1809–1814.
117. L. Baoliang , Y. Xu, H. Tian, et al., Synthesis of Fe3O4/SiO2/Ag nanoparticles
and its application in surface-enhanced Raman scattering, J. Solid State
Chem., 2010, 183 (12), 2968–2973.
118. F. Li, Z. Yu, T. Xue, et al., Synthesis and application of homogeneous Fe3O4
core/Au shell nanoparticles with strong SERS effect, RSC Adv., 2016, 6 (13)
10352–10357.
119. C. Li , C. Z. Huang, W. Tan, et al., Gold-Coated Fe3O4 nanoroses with five
unique functions for cancer cell targeting, imaging, and therapy, Adv. Funct.
Mater., 2014, 24 (12), 1772–1780.
120. P. Quaresma, I. P. Santos, E. Pereira, et al., Star-shaped magnetite@gold
134
nanoparticles for protein magnetic separation and SERS detection, RSC Adv.,
2014, 4 (8), 3659–3667.
121. S. Fleutot, G. L. Nealon, S. B. Colin, et al., Spacing-dependent dipolar
interactions in dendronized magnetic iron oxide nanoparticle 2D arrays and
powders, Nanoscale, 2013, 5 (4), 1507–1516.
122. K. Davis, B. Qi, O. T. Mefford, et al., Quantitative measurement of ligand
exchange on iron oxides via radiolabeled oleic acid, Langmuir, 2014, 30 (36),
10918–10925.
123. D. Jishkariani, Y. Wu, C. B. Murray, et al., Preparation and self-assembly of
dendronized Janus Fe3O4-Pt and Fe3O4-Au heterodimers, ACS Nano, 2017,
11 (8), 7958–7966.
124. P. Biehl, S. Dutz, F. H. Schacher, et al., Synthesis, characterization, and
applications of magnetic nanoparticles featuring polyzwitterionic coatings,
Polymers, 2018, 10 (1), 91 - 118.
125. L. Chen, J. Xie, Y. Zhang, et al., Improving sensitivity of magnetic resonance
imaging by using a dual-targeted magnetic iron oxide nanoprobe, Colloids
Surfaces B Biointerfaces, 2018, 161, 339–346.
126. J. Jiang, H. Gu, J. Y. Ying, et al., Bifunctional Fe3O4-Ag heterodimer
nanoparticles for two-photon fluorescence imaging and magnetic
manipulation, Adv. Mater., 2008, 20 (23), 4403–4407.
127. Trần Đại Lâm, Nguyễn Tuấn Dung, Nguyễn Lê Huy, Lê Viết Hải, Các
phương pháp phân tích hoá lý vật liệu. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, 2017, Hà Nội, Việt Nam.
128. A. Bahuguna, I. Khan, V. K. Bajpai, et al., MTT assay to evaluate the
cytotoxic potential of a drug, Bangladesh J. Pharmacol., 2017, 12 (2), 115–
118.
129. H. S. Lotter, S. Leuko, S. Fendrihan, et al., The assessment of the viability of
halophilic microorganisms in natural communities, Methods Microbiol., 2006,
35 (05), 569–584.
130. Mai Thị Hằng, Đinh Thị Kim Nhung, Vương Trọng Hào, Thực hành vi sinh
vật học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2011, Hà Nội, Việt Nam.
131. Vương Thị Kim Oanh, Nghiên cứu chế tạo chất lỏng từ trên nền hạt nano
135
Fe3O4 chất lượng cao định hướng cho một số ứng dụng y sinh, Luận án Tiến sĩ
Khoa học vật liệu, 2016, Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm
KHCNVN.
132. Y. Yamashita, R. Miyahara, and K. Sakamoto, Emulsion and emulsification
technology, Cosmetic science and technology: theoretical principles and
applications, 2017, Elsevier.
133. Lê Thị Thanh Tâm, Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng của hệ vật liệu lai nano
trên cơ sở mangan ferit MnFe2O4, Luận văn thạc sĩ hóa học, 2019, Học viện
Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm KHCNVN.
134. R. G. Charles and M. A. Pawlikowski, Comparative heat stabilities of some
metal acetylacetonate chelates, J. Phys. Chem., 1958, 62 (4), 440–444.
135. N. Bao, L. Shen, A. Gupta, et al., A facile thermolysis route to monodisperse
ferrite nanocrystals, J. Am. Chem. Soc., 2007, 129 (41), 12374–12375.
136. S. Y. Vilar, M. S. Andújar, S. C. García, et al., A simple solvothermal
synthesis of MFe2O4 (M = Mn, Co and Ni) nanoparticles, J. Solid State
Chem., 2009, 182 (10), 2685–2690.
137. D. Maity, S. G. Choo, J. M. Xue, et al., Synthesis of magnetite nanoparticles
via a solvent-free thermal decomposition route, J. Magn. Magn. Mater., 2009,
321 (9), 1256–1259.
138. V. K. LaMer and R. H. Dinegar, Theory, production and mechanism of
formation of monodispersed hydrosols, J Am Chem Soc, 1950, 72 (11), 4847–
4854.
139. N. T. T. Trang, T. T. Thuy, S. Maenosono, et al., Magnetic–plasmonic
FePt@Ag core–shell nanoparticles and their magnetic and SERS properties,
Plasmonics, 2013, 8 (2), 1177–1184.
140. P. Singh and C. Upadhyay, Size selectivity of magnetite core- (Ag/Au) shell
nanoparticles for multimodal imaging applications, Mater. Res. Express,
2017, 4 (10), 105401 - 105410.
141. P. T. Phong, P. H. Nam, N. X. Phuc, et al., Studies of the magnetic properties
and specific absorption of Mn0.3Zn0.7Fe2O4 nanoparticles, J. Electron. Mater.,
2015, 44 (1), 287–294.
142. Phạm Hồng Nam, Nghiên cứu các cơ chế đốt nóng từ trong hệ hạt nano ferit
136
spinel M1-xZnxFe2O4 (M = Mn, Co), Luận án tiến sĩ Khoa học vật liệu, 2018,
Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm KHCNVN.
143. M. Rohrer, H. Bauer, J. Mintorovitch, et al., Comparison of magnetic
properties of MRI contrast media solutions at different magnetic field
strengths, Invest. Radiol., 2005, 40 (11), 715–724.
144. L. Sandiford, A. Phinikaridou, A. Protti, et al., Bisphosphonate-anchored
pegylation and radiolabeling of superparamagnetic iron oxide: Long-
circulating nanoparticles for in vivo multimodal (T1 MRI-SPECT) imaging,
ACS Nano, 2013, 7 (1), 500–512.
145. M. F. Casula, P. Floris, C. Innocenti, et al., Magnetic resonance imaging
contrast agents based on iron oxide superparamagnetic ferrofluids, Chem.
Mater., 2010, 22 (5), 1739–1748.
146. W. Li, S. Tutton, A. T. Vu, et al., First-pass contrast-enhanced magnetic
resonance angiography in humans using ferumoxytol, a novel ultrasmall
superparamagnetic iron oxide (USPIO)-based blood pool agent, J. Magn.
Reson. Imaging, 2005, 21 (1), 46–52.
147. D. L. J. Thorek, A. K. Chen, A. Tsourkas, et al., Superparamagnetic iron
oxide nanoparticle probes for molecular imaging, Ann. Biomed. Eng., 2006,
34 (1), 23–38.
148. B. H. Kim, N. Lee, T. Hyeon, et al., Large-scale synthesis of uniform and
extremely small-sized iron oxide nanoparticles for high-resolution T1
magnetic resonance imaging contrast agents, J. Am. Chem. Soc., 2011, 133
(32), 12624–12631.
149. Z. Zhou, L. Wang, J. Gao, et al., Engineered iron-oxide-based nanoparticles as
enhanced T1 contrast agents for efficient tumor imaging, ACS Nano, 2013, 7
(4), 3287–3296.
150. Lê Thế Tâm, Nghiên cứu chế tạo chất lỏng từ trên nền oxit sắt siêu thuận từ
định hướng ứng dụng chụp ảnh cộng hưởng từ MRI, Luận án tiến sĩ hóa học,
2019, Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm KHCNVN.
137
PHỤ LỤC
Danh mục các bài báo đang phản biện
1. Ngo T. Dung, Nguyen T. N. Linh and Le T. Lu, Optical properties and sta
bilities of small hollow gold nanoparticles, Royal society of chemistry, 2020.
2. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Ngô Đại Quang, Lê Thế Tâm, Ngô Thanh Dung,
Lê Thị Thanh Tâm, Phạm Hồng Nam, Nguyễn Hữu Quân, Lê Trọng Lư, Hoạt tính
kháng khuẩn của vật liệu nano lai Fe3O4@Ag được chế tạo bằng phương pháp nuôi
mầm, Tạp chí hóa học, 2020.
3. Nguyen Thi Ngoc Linh, Le The Tam, Ha Minh Nguyet, Ngo Thanh Dung,
Le Thi Thanh Tam, Pham Hong Nam, Nguyen Dinh Vinh, Nguyen Thien Vuong,
Ngo Dai Quang, Le Trong Lu, Fabrication of Fe3O4@Ag hybrid nanoparticles for
the combination of photothermia and magnetic hyperthermia, Vietnam Journal of
Chemistry, 2020.