Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TH.S ĐINH VĂN BÂN - NGUYỄN THANH PHÚ
ĐỀ CƢƠNG BÀI GIẢNG
CÔNG NGHỆ HÀN ĐẮP VÀ PHUN PHỦ
(HỆ ĐẠI HỌC 2 TÍN CHỈ)
HƢNG YÊN 2012
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Chương 1
CÁC KHÁI NIỆM CỦNG CỔ VỀ BỀ MẶT
1.1 Các khái niệm chung về bề mặt .................................................................... 6
1.1.1 Định nghĩa và phân loại bề mặt .............................................................. 6
1.1.2. Vai trò của bề mặt .................................................................................. 8
1.1.3. Đặc tính của bề mặt ............................................................................... 8
1.1.4. Sự hấp phụ ........................................................................................... 8
1.1.5. Cấu trúc điện tử của bề mặt ................................................................... 9
1.1.6. Cấu trúc và sự hình thành cấu trúc lớp bề mặt .................................... 11
1.2. Thực chất, đặc điểm và phân loại các dạng hỏng chi tiết .......................... 13
1.2.1. Các dạng hư hỏng thường gặp ............................................................. 13
1.2.2 Khái niệm về mài mòn và ăn mòn ........................................................ 13
1.3. Phân loại các phương pháp công nghệ phục hồi và xử lý bề mặt chi ...... 22
Chương 2
CÔNG NGHỆ HÀN ĐẮP KIM LOẠI
2.1. Các tính chất chung trong kỹ thuật hàn đắp ............................................... 23
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và ứng dụng ........................................................ 23
2.1.2 Tính chất của kim loại lớp đắp ............................................................. 24
2.2. Phân loại các phương pháp hàn đắp ........................................................... 29
2.2.1. Hàn đắp hồ quang tay bằng que hàn .................................................... 29
2.2.1.1 Chọn que hàn đắp ........................................................................... 30
2.2.1.2 Kỹ thuật hàn đắp bằng que hàn thép .............................................. 31
2.2.1.3 Hàn đắp thép các bon trung bình và thép hợp kim trung bình .... 32
2.2.2. Hàn đắp tự động dưới lớp thuốc .......................................................... 34
2.2.3. Hàn đắp tự động bằng dây hàn lõi bột ................................................. 42
2.2.4. Hàn đắp tự động trong môi trường khí bảo vệ .................................... 44
2.2.5 Hàn đắp tự động hồ quang rung .......................................................... 48
2.2.6 Hàn đắp điện xỉ ..................................................................................... 53
2.2.7. Hàn đắp bằng hồ hồ quang plasma ..................................................... 56
2.3. Vật liệu trong công nghệ hàn đắp............................................................... 62
2.3.1 Vật liệu hàn ........................................................................................... 62
2.3.2 Que hàn đắp .......................................................................................... 63
2.3.3 Thuốc hàn nóng chảy ............................................................................ 64
2.3.4 Công nghệ phục hồi chi tiết hàn đắp .................................................... 65
2.4 Công nghệ xử lý nhiệt trước, trong và sau khi hàn ..................................... 74
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
2.4.1 Nhiệt độ nung nóng .............................................................................. 74
2.4.2 Xử lý nhiệt sau khi hàn ......................................................................... 81
2.5 Tính chất của kim loại đắp ..................................................................... 84
2.5.1 Không đồng nhất về cấu trúc ............................................................... 84
2.5.2. Không đồng nhất về thành phần hoá học ............................................ 84
2.5.3. Độ cứng và khả năng chịu mài mòn .................................................... 85
2.5.4. Độ bền mỏi .......................................................................................... 85
2.6 Một số biện pháp nâng cao chất lượng phục hồi bằng hàn ......................... 85
2.6.1. Gia công nhiệt ...................................................................................... 85
2.6.2. Biến cứng nguội ................................................................................... 86
2.6.3. Gia công cơ điện .................................................................................. 87
Chƣơng 3. CÔNG NGHỆ PHUN PHỦ
3.1 Khái niệm và đặc điểm ................................................................................ 93
3.1.1 Thực chất .............................................................................................. 93
3.1.2 Đặc điểm ............................................................................................... 93
3.1.3 Công dụng ............................................................................................. 94
3.2 Công nghệ phun phủ ................................................................................... 95
3.2.1 Khái quát về phân loại phun phủ ......................................................... 95
3.2.2 Phun khí cháy ...................................................................................... 95
3.2.3 Phun hồ quang điện .............................................................................. 98
3.2.4. Phun nổ .............................................................................................. 101
3.2.5. Phun Plasma ...................................................................................... 103
3.3. Sự hình thành và cấu trúc của lớp phủ kim loại ....................................... 105
3.3.1. Những quan điểm lý thuyết về sự hình thành lớp phun phủ ............. 105
3.3.2 Cơ cấu hình thành lớp phủ ................................................................. 107
3.3.3 Cấu trúc của lớp phủ kim loại............................................................. 109
3.4 Độ bám dính và tính chất của lớp phủ kim loại .................................... 110
3.4.1 Các lực liên kết giữa lớp phủ và nền .................................................. 110
3.4.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến độ bám dính của lớp phủ .................... 114
3.4.3. Tính chất của lớp phủ ........................................................................ 120
3.5 Quy trình công nghệ phun phủ .................................................................. 124
3.5.1. Kiểm tra kết cấu, vật liệu ................................................................... 124
3.5.2. Vật liệu phun ..................................................................................... 124
3.5.3. Công nghệ chuẩn bị bề mặt trước khi phun ....................................... 127
3.5.4. Xác định chế độ công nghệ phun phủ .............................................. 132
3.5.5. Gia công cơ khí sau khi phun, xử lý nhiệt lớp phủ ............................ 137
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.6. Kiểm tra lớp phủ ................................................................................ 137
3.5.7. Các yêu cầu về an toàn lao động ....................................................... 143
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Chƣơng 1
CÁC KHÁI NIỆM CỦNG CỔ VỀ BỀ MẶT
1.1 Các khái niệm chung về bề mặt
Hiện nay công nghệ xử lý bề mặt ngày càng được quan tâm do nó có ý nghĩa quan
trọng và quyết định nhiều đến tính chất của vật liệu. Có thể nói, một chi tiết máy móc
thiết bị khi làm việc ở bất kỳ môi trường nào thì “mọi dạng phá huỷ về mỏi, mài mòn,
ăn mòn, đều được quyết định chủ yếu bởi cấu trúc của lớp bề mặt”.
Xuất phát từ nhu cầu đó đã có nhiều nghiên cứu, giải pháp nhằm khai thác các
tính chất của bề mặt và nâng cao hệ số sử dụng vật liệu.
Một trong những giải pháp đó là tạo ra một lớp bề mặt có khả năng đáp ứng các
điều kiện làm việc như: chịu mài mòn, chống ăn mòn, chịu nhiệt...
Đến nay, có thể kể đến các phương pháp xử lý bề mặt như:
- Hoá nhiệt luyện.
- Nhiệt luyện.
- Tạo các lớp phủ lên bề mặt: mạ, nhúng, xử lý bề mặt bằng laser, phun phủ…
1.1.1 Định nghĩa và phân loại bề mặt
Định nghĩa:
Bề mặt là biên giới của 2 pha khác nhau, ở đây phải chú ý đến phần ranh
giới của vật thể với môi trường xung quanh, có nghĩa là đối với môi trường đó vật thể
có mối quan hệ trực tiếp hay không.
Trong chế tạo máy đưa ra 2 khái niệm về bề mặt:
Bề mặt hình học : là bề mặt được biểu thị bằng bản vẽ chi tiết. Đây là bề mặt danh
nghĩa mang nhiều tính chất lý tưởng.
Bề mặt thực tế hay còn gọi là bề mặt kỹ thuật: Là bề mặt không chỉ hàm ý về độ
sạch đặc trưng hình học mà còn liên quan đến tính chất của lớp kim loại dưới bề mặt.
Chất lượng bề mặt được đặc trưng bởi 3 yếu tố :
Dạng hình học (bao gồm dạng hình học vĩ mô và vi mô);
Chất lượng của bề mặt biên giới (bao gồm các tính chất lý hoá);
Chất lượng của lớp dưới bề mặt (ứng suất dư, độ cứng nguội,...).
Lựa chọn chất lượng bề mặt chi tiết còn phụ thuộc vào loại tải trọng mà bề mặt chi
tiết phải làm việc. Do vậy có thể phân loại bề mặt kỹ thuật theo loại tải trọng.
Tính chất vật lý của lớp dưới bề mặt khác với tính chất của vật liệu bản thân, tức
là nó khác tính chất của các lớp phía trong của vật liệu vì chúng có sự khác nhau về
cấu trúc. Nguyên nhân của sự khác nhau đó là do sự tác động của quá trình sản xuất
với các phương pháp công nghệ gia công, ví dụ: gia công áp lực, gia công cắt gọt, ...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Nói chung các chi tiết máy biểu thị bằng hai loại: bề mặt làm việc và bề mặt không
làm việc. Bởi vậy trên mỗi loại bề mặt không chỉ có yêu cầu khác nhau về tính chất
cũng như phương pháp gia công, mà ngay cả phương pháp sửa chữa chúng cũng khác
nhau.
Sơ đồ (H1.1) biểu diễn quy tắc chung của bề mặt kỹ thuật, có thể là bề mặt chịu tải
hoặc không chịu tải. Tải trọng có thể là tải trọng cơ học hoặc các đặc trưng khác, như
tác dụng hoá học, nhiệt, ...
Phân loại bề mặt kỹ thuật:
H1.1. Sơ đồ phân loại các bề mặt kỹ thuật
Bề mặt chịu tải trọng động:
Là các bề mặt chịu tải trọng chu kỳ hoặc tải trọng cắt, thường gặp là các bề mặt
chịu tải trọng động chu kỳ(đó là các bề mặt trượt). Ví dụ như bề mặt trượt của ổ bi,
mặt bên của răng các bánh răng, pittông, ... ở các bề mặt này thường xảy ra ma sát
trượt và đó là nguyên nhân gây ra mòn cơ học bề mặt làm việc.
Bề mặt chịu tải trọng tĩnh:
Là các bề mặt lắp ghép, các bề mặt đỡ, các bề mặt lót. Yêu cầu các bề mặt này là
chúng phải tiếp xúc với nhau tốt nhất để bảo đảm sự phân bố áp lực đồng đều trên
suốt bề mặt và bảo đảm đạt độ lắp ghép tốt nhất.
Ngoài tải trọng cơ học còn có các bề mặt chịu tải trọng do tác dụng lý học, chúng
thường phải xử lý thích hợp để bề mặt có khả năng chịu tác dụng gỉ, nhiệt,...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
1.1.2. Vai trò của bề mặt
* Bề mặt có ý nghĩa quyết định: Mọi dạng phá huỷ vì mỏi, vì ăn mòn...
Cấu trúc và tính chất của bề mặt phân chia giữa các cấu tử thụ động và hoạt động
quyết định nhiều tính chất trong các vi điện tử.
Sự lựa chọn vật liệu sử dụng trong môi trường ăn mòn và mài mòn có ý nghĩa lớn
về kinh tế, kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
Tính chất xúc tác của bề mặt trong các quá trình hoá học, sinh học đã tạo ra các vật
liệu mới bằng cách biến đổi cấu trúc và tính chất của lớp bề mặt: cấy ion, vật liệu vô
định hình,...
* Các giải pháp kỹ thuật để khai thác các tính chất của bề mặt:
Luyện kim: quá trình đông đặc, phát triển tinh thể, thiêu kết, kết tinh lại, chuyển
biến pha, sự sát nhập hạt...
Cơ khí: quá trình hình thành và phát triển vết nứt với sự phá huỷ mỏi, vùng dão,
phối hợp tính chất của nền và cốt trong composit, ma sát, mài mòn, bôi trơn, dính
bám,...
Hoá học: ăn mòn và bảo vệ vật liệu, xúc tác, liên kết ceramic kim loại, mạ,...
Khái niệm bề mặt mở rộng sang cả các mặt phân cách, mặt phân chia pha, nơi
chuyển tiếp trong một pha đa tinh thể (VD: biên giới hạt trong tổ chức ferit), biên giới
hạt trong vùng đa pha đa tinh thể, biên giới vùng bề mặt vô định hình với vật liệu phía
bên trong sau khi sử lý bằng laser.
Các nhóm vấn đề cần phải giải quyết sau đây:
Nghiên cứu nhiệt động học, tập hợp toàn bộ mối quan hệ giữa cấu trúc bề mặt
vào một đại lượng là sức căng bề mặt.
Nghiên cứu về hình học bề mặt cho phép thiết lập các mô hình cấu trúc nguyên tử
Cấu trúc điện tử vùng sát lớp bề mặt(hoạt tính của bề mặt, sự hình thành lớp phủ).
Trên bề mặt luôn có sự không liên tục do các đường phân chia pha, các vùng pha
khác nhau, các khuyết tật v.v, chúng là các nhân tố có ảnh hưởng lớn tới các tính chất
của bề mặt và do đó ảnh hưởng tới mọi quá trình dị thể có liên quan.
1.1.3. Đặc tính của bề mặt
Về mặt hình học: Hình dạng chung, độ nhấp nhô
Về mặt cơ học: Độ cứng, độ mài mòn, hệ số ma sát.
Về mặt cấu trúc: Sự sắp xếp các nguyên tử bề mặt.
Về mặt hoá lý: Thành phần hoá học, sự hấp phụ bề mặt.
1.1.4. Sự hấp phụ
Bề mặt vật liệu luôn luôn có tác động qua lại với môi trường, luôn luôn có mặt các
nguyên tử lạ định cư gọi là các nguyên tử hấp phụ. Quá trình hấp phụ là quá trình hình
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
thành và phát triển một lớp nguyên tử định cư trên bề mặt vật liệu. Các nguyên tử này
có thể đến từ môi trường (pha khí) hoặc từ tâm vật liệu do quá trình vận chuyển sàng
lọc lên bề mặt.
Quá trình hấp phụ có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và kỹ thuật: quá trình oxy hoá,
ăn mòn kim loại, tạo lớp bề mặt, trong xúc tác hoạt tính, quá trình phân tích,...
Nghiên cứu sự phát triển lớp hấp phụ phải đề cập đến:
Sự tạo mầm và phát triển mầm pha mới
Bản chất độ lớn của lực tương tác giữa cấu tử hấp phụ và vật liệu
Từ bản chất và độư;lớn của lực tương tác người ta chia ra:
Hấp phụ vật lý: không có sự trao đổi, vận chuyển, góp chung electron, liên
kết ở đây chỉ đơn thuần là lực Vander Waals
Hấp phụ hoá học: khác với hấp phụ vật lý, hấp phụ hoá học là giai đoạn đầu
tạo nên các hợp chất hoá học nhờ việc góp chung hoặc trao nhận các electron.
1.1.5. Cấu trúc điện tử của bề mặt
Sự tạo nên một bề mặt mới do hấp phụ một số nguyên tử lạ có thể làm mất đi tính
chất điện tử ban đầu của bề mặt vật liệu. Nếu có các cấu tử hấp phụ thì sẽ tạo một lớp
điện tích kép trên bề mặt: khi hấp phụ thì các nguyên tử hấp phụ ở lớp trên còn
nguyên tử kim loại ở lớp dưới. Do hiệu ứng điện từ, các cation kim loại phía dưới thu
hút các electron tạo nên sự quá tập trung ở lớp dưới, đồng thời có sự thiếu hụt điện tử
ở lớp trên của tầng hấp phụ. Do đó lớp hấp phụ tạo nên một điện trường đều.
Tất cả mọi biến đổi về cấu trúc hoặc thành phần bề mặt đều làm mất trạng thái
điện tử ban đầu của bề mặt.
Lớp hấp phụ trên bề mặt kim loại gây nên các hậu quả: Tăng mật độ electron trên
bề mặt, là màn chắn hữu hiệu các trường bên ngoài.
Các đặc tính của bề mặt phụ thuộc vào hai yếu tố chính là cấu trúc tinh thể và hoạt
tính của bề mặt: Hoạt tính của bề mặt thể hiện đầu tiên khi tiếp xúc với môi trường là
sự hấp phụ. Ngược lại, sự hấp phụ, tuỳ theo bản chất của nguyên tố hấp phụ và nền,
lại tác động trở lại làm biến đổi hoạt tính của bề mặt mà ta sẽ đề cập sau đây:
Người ta phân quá trình hấp phụ ra nhiều giai đoạn khác nhau: thiết lập lại cấu trúc
bề mặt, tạo ra các hợp chất hai chiều ổn định, thoát khỏi sự đối xứng của nền.
Hấp phụ gây nhiều tác động khác nhau lên bề mặt kim loại: thay đổi công thoát
electron (toả nhiệt ion), phát quang (photo electrique). Công này giảm khi hấp phụ
các cation (VD Cs+ lên W) và tăng khi hấp phụ các anion (O, S và các loại
halogen)
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hấp phụ làm biến đổi cấu trúc bề mặt, tạo nên các mặt nhỏ, các đường rạch do
hình thành một số pha không ổn định và có thể làm đảo lộn cân bằng trên bề mặt,
ví dụ đôi khi hấp phụ oxy lên Ag ở 9000 C.
Các nguyên tử hấp phụ trên bề mặt có thể làm thay đổi khả năng bám dính, hệ số
ma sát (hệ số ma sát của W giảm đi hai lần nhờ hấp phụ một bán lớp oxy) của bề mặt.
Một ứng dụng thực tiễn quan trọng là tạo khả năng tự bôi trơn của bề mặt và chống
dính, chống bò khi làm việc nhờ tập trung các tạp chất S, P trên bề mặt.
Hấp phụ làm thay đổi hoạt tính bề mặt, hấp phụ một số nguyên tố có thể làm ức
chế bề mặt thép trong môi trường nitơ
Quan điểm về cấu trúc của vật liệu ở vùng lân cận bề mặt không hoàn toàn thống
nhất nhau (H1.2):
(H1.2.a): Từ ngoài vào bề mặt gồm các lớp: hấp phụ vật lý, màng hữu cơ, hấp
phụ hoá học, vùng mất tác động hoá học, vùng mất tác động vật lý và kim loại nền.
Sự hình thành các lớp trong cấu trúc tự nhiên của bề mặt: Các phần tử ở lớp hấp
phụ vật lý nằm ở ngoài cùng phải khuếch tán qua một màng mỏng hữu cơ trên bề mặt
để tiếp cận bề mặt vật rắn. Khi đã đi qua màng hữu cơ, các nguyên tử hấp phụ và các
nguyên tử nền sẽ tương tác với nhau tạo thành một lớp hấp phụ hoá học. Lớp này là
một màn chắn hữu hiệu làm giảm tác động hoá học và vật lý của môi trường lên vật
rắn.
H1.2 . Cấu trúc của vật liệu ở vùng lân cận bề mặt
- (H1.2.b): Cấu trúc của bề mặt được xét tỉ mỉ hơn. Các phần tử hấp phụ vật lý
nằm phía ngoài cùng, trước khi đi qua màng hữu cơ, chúng tập trung lại, biến đổi cho
hoạt tính lớn hơn để có đủ điều kiện xuyên qua màng hữu cơ, ta nói chúng chuyển
sang dạng hấp phụ hoá học. Trong môi trường khí quyển, nguyên tố hấp phụ có mặt
đầu tiên và có hoạt tính lớn nhất thường là oxy, cho nên bề mặt vật rắn luôn có một
lớp oxyt tự nhiên. Phía trong lớp oxyt tự nhiên là lớp kim loại bị biến cứng bề mặt do
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
các dạng gia công cơ khí để lại và trong cùng là lớp tinh thể hình trụ và vùng tinh thể
thô to ở tâm thỏi đúc ban đầu.
1.1.6. Cấu trúc và sự hình thành cấu trúc lớp bề mặt
1 Sự hình thành cấu trúc lớp phủ
Lớp phủ bề mặt hình thành do quá trình khuếch tán, nên cấu trúc của lớp phủ do
đặc điểm của quá trình khuếch tán quyết định. Trong xử lý tạo lớp phủ, hai dạng
khuếch tán thường gặp: khuếch tán bề mặt và khuếch tán thể tích.
- Khuếch tán bề mặt tạo nên lớp phủ có cấu trúc tinh thể phát triển theo phương
cung cấp nguyên tử chất phủ, thường là pháp tuyến với bề mặt chi tiết, do đó ta có cấu
trúc tinh thể hình trụ.
- Khuếch tán thể tích tạo cho tinh thể lớp phủ phát triển theo mọi phương do đó có
cấu trúc tinh thể đồng trục.
H1.3. Sự hình thành cấu trúc của lớp phủ phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất
Sự hình thành lớp phủ là do khuếch tán mà khuếch tán trong lớp phủ lại liên quan
mật thiết đến nhiệt độ chảy của lớp phủ Tf. Do đó, ta phải xét ảnh hưởng của nhiệt độ
thông qua tỷ số T/Tf. Trên H1.3 ta thấy cấu trúc của lớp phủ gồm ba vùng:
- Vùng1, với T/Tf < 0,3 (đối với vật liệu ceramic T/Tf < 0,26), ở nhiệt độ thấp,
khuếch tán bề mặt xảy ra rất chậm còn khuếch tán thể tích thì hầu như không xảy ra.
Kết quả là lớp phủ có cấu trúc tinh thể dạng sợi rất nhỏ, có đặc điểm textua. Trong lớp
phủ có rất nhiều lỗ xốp và khuyết tật mạng tinh thể. Cơ tính của lớp phủ rất thấp.
Trong vùng 1 ta nhận thấy hai vùng nhỏ: vùng nhiệt độ thấp T/Tf < 0,1 rất nhiều
xốp và tính chất rất xấu, vùng T có 0,1 = T/Tf < 0,3, có độ xốp nhỏ hơn, cơ tính cao
hơn, thích hợp cho bề mặt làm việc có sử dụng kỹ thuật tự bôi trơn.
- Vùng 2, với 0,3 = T/Tf 0,45, trong khoảng nhiệt độ này, khuếch tán bề mặt
xảy ra khá mạnh, khuếch tán thể tích vẫn hầu như không xảy ra. Cấu trúc của lớp phủ
do đó là các tinh thể hình trụ nhỏ xít chặt, có đặc điểm textua, có cơ tính cao.
- Vùng 3, có T/Tf > 0,45, trong vùng này cả khuếch tán bề mặt và khuếch tán thể
tích đều xảy ra mạnh. Lớp phủ có cấu trúc tinh thể hạt đồng trục, kích thước lớn, ít
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
khuyết tật mạng. Do phát triển ưu tiên theo phương cung cấp nguyên tử chất phủ nên
cấu trúc của lớp phủ luôn có dạng textua.., cơ tính của lớp phủ không cao như vùng 2.
Cấu trúc của lớp phủ còn chịu ảnh hưởng của cấu trúc vật liệu nền và phương cấp
nguyên tử chất phủ (H1.4). Cấu trúc của lớp phủ trên mặt phân cách tiếp xúc với vật
liệu nền thì giống với vật liệu nền, do đó, nếu nền có cấu trúc hạt đồng trục thì lớp phủ
dễ kết tinh hạt đồng trục. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện cung cấp nguyên tử chất phủ,
sự phát triển của tinh thể lớp phủ sẽ thay đổi.
- Nếu dòng nguyên tử pháp tuyến với bề mặt chi tiết thì tinh thể lớp phủ sẽ tiếp tục
phát triển theo phương pháp tuyến và ta có cấu trúc textua hoàn chỉnh.
- Nếu dòng nguyên tử chất phủ tới bề mặt theo phương xiên (góc tới a với bề mặt)
thì tinh thể lớp phủ sẽ nghiêng theo phương dòng nguyên tử tới (H1.4a), song vì còn
chịu ảnh hưởng của nền cho nên góc nghiêng nhỏ hơn.
- Trường hợp dòng nguyên tử chuyển đến bề mặt theo dòng xoáy hoặc chi tiết
quay trong quá trình phủ thì tinh thể lớp phủ sẽ phát triển theo đường xoáy, xoắn lại
với nhau (H1.4b.) do đó chất lượng lớp phủ sẽ tốt hơn.
Hướng cấp vật liệu phủ Dòng chất phủ
a) b)
H1.4. Sự hình thành cấu trúc của lớp phủ phụ thuộc vào phương thức cung cấp chất phủ
a- dòng vật liệu phủ hợp góc a với bề mặt, b- dòng xoáy hoặc chi tiết quay khi phủ
2 Sự hình thành tổ chức của lớp thấm (TH-TNC)
Để tạo lớp thấm, người ta đặt chi tiết vào môi trường đặc biệt (có thể ở trạng thái
khí, lỏng hoặc hỗn hợp bột rắn) có khả năng phân hoá ra nguyên tử hoạt của nguyên
tố cần thấm vào ở nhiệt độ thích hợp. Sự hình thành các pha mới và tổ chức tế vi của
lớp thấm phụ thuộc vào giản đồ pha, khả năng khuếch tán của các nguyên tố thấm,
tương tác giữa chúng với nhau và với vật liệu nền. Sự phân bố nồng độ của nguyên tố
thấm A lên B phụ thuộc vào giản đồ pha trình bầy trên H1.5. Ngoài ra khi thấm một
nguyên tố lên bề mặt một hợp kim (ví dụ hợp kim hai nguyên Fe - C) do tương tác lẫn
nhau giữa khuếch tán của cacbon có sẵn trong thép và nguyên tố thấm nên có sự phân
bố lại nồng độ cacbon trong mẫu. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tương tác, nồng độ cacbon
có thể tăng lên hoặc giảm đi ở lớp bề mặt do đó hình thành vùng cực đại hoặc cực tiểu
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
ở phía bên trong.
H1.5. Sự phân bố nguyên tố thấm A theo chiều sâu lớp thấm X
1.2. Thực chất, đặc điểm và phân loại các dạng hỏng chi tiết
1.2.1. Các dạng hư hỏng thường gặp
Hư hỏng do vận hành là nguyên nhân chủ yếu gây nên các hư hỏng máy. Hư hỏng do
vận hμnh được chia ra làm 3 nhóm chính :
• Hư hỏng do mòn ( mòn đều, mòn không đều sinh ra ô van và độ côn, các vết xước
nhỏ và các vết xây xát. Dạng hư hỏng này có liên quan với ma sát.)
• Hư hỏng cơ học ( nứt, thủng, xước thμnh rảnh, tróc, gẫy, biến dạng do tác dụng cơ
học gây nên cong, vênh, xoắn, ...
• Hư hỏng hoá nhiệt : ăn mòn, bị rổ, bị biến dạng do nhiệt độ,...
Nguyên nhân hư hỏng được phân ra:
Hư hỏng do chế tạo, hư hỏng do vận hành và hư hỏng do chất lượng vật liệu, ...
Hư hỏng do vận hành là nguyên nhân chủ yếu gây nên các hư hỏng máy. Hư hỏng
do vận hμnh được chia ra lμm 3 nhóm chính :
• Hư hỏng do mòn ( mòn đều, mòn không đều sinh ra ô van và độ côn, các vết
xước nhỏ và các vết xây xát. Dạng hư hỏng này có liên quan với ma sát.)
• Hư hỏng cơ học ( nứt, thủng, xước thμnh rảnh, tróc, gẫy, biến dạng do tác dụng
cơ học gây nên cong, vênh, xoắn, ...
• Hư hỏng hoá nhiệt : ăn mòn, bị rổ, bị biến dạng do nhiệt độ,...
1.2.2 Khái niệm về mài mòn và ăn mòn
Các giai đoạn làm việc của máy
Giai đoạn chạy thử không tải (chạy rà hay chạy rodda): cho máy chạy ở trạng thái
chưa mang tải.
Giai đoạn chạy thử có tải theo các mức độ khác nhau: chạy thử non tải, chạy thử
đầy tải, chạy thử quá tải an toàn,
Giai đoạn công tác với tuổi thọ bình thường ứng với quá trình máy làm việc với tải
trọng đã định.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Giai đoạn hư hỏng cần sửa chữa và phục hồi các chi tiết máy để phục hồi khả năng
làm việc và kéo dài tuổi thọ của máy.
Sự hư hỏng của các chi tiết máy khi chế tạo, lắp ráp, vận hành sửa chữa, có thể
xảy ra các hư hỏng từng phần hay toàn bộ chi tiết. Thông thường hư hỏng xảy ra trên
các bề mặt làm việc, bề mặt tiếp xúc.
Sự mài mòn bề mặt
a/ Khái niệm sự mài mòn bề mặt
Khi chế tạo các bề mặt kỹ thuật (bề mặt chi tiết máy) phải tôn trọng các vấn đề
sau:
Những yêu cầu về chất lượng trên quan điểm hình học được trình bày trên bản vẽ
kết cấu (kích thước, độ nhấp nhô, độ bóng...).
Những yêu cầu về chất lượng trên quan điểm về khả nămg làm việc của lớp bề mặt
chi tiết đối với tải trọng khi chi tiết làm việc trong điều kiện của nó.
Trong kỹ thuật mỗi tải trọng đều dẫn đến tác hại làm hư hỏng bề mặt chi tiết (sự
mài mòn của chi tiết).
Vậy: sự mài mòn của bề mặt chi tiết là sự thay đổi không mong muốn của lớp bề
mặt các vật thể rắn của các chi tiết máy.
Các chi tiết máy có thể mòn do tác dụng chia cắt bằng lực cơ học của các phần tử
rắn từ bề mặt chi tiết (các hạt mài) hoặc cũng có thể do các khuết tật về lý hoá của lớp
bề mặt. Trường hợp đặc biệt là sự kết hợp của cả hai hiện tượng trên.
Đặc trưng cho quá trình phá hỏng cơ học được gọi là sự mài mòn.
Đặc trưng cho sự tác dụng hoá lý, gọi là sự ăn mòn - sự gỉ (trình bày ở phần sau)
Sự mài mòn của bề mặt chi tiết có liên quan đến tác dụng cơ học. Đây là dạng hư
hỏng do ma sát sinh ra gây nên sự hao mòn vật liệu trên bề mặt các chi tiết máy. Các
giai đoạn mài mòn được biểu thị như (H1.6).
Dưới tác dụng cơ học, các nhấp nhô tế vi của bề mặt trượt sẽ dần dần bị giảm.
Dạng mài mòn (mòn cơ học) thường xuất hiện trên các bề mặt khô tiếp xúc có
chuyển động tương đối với nhau, đặc biệt các bề mặt lắp ghép quá chặt, ma sát lớn, ...
Sự mài mòn cơ học không những xuất hiện khi có chuyển động của kim loại trên
kim loại mà còn do các chất phi kim loại chuyển động trên nó.
H1.6. Sơ đồ các giai đoạn mài mòn cơ học
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
I - Giai đoạn bắt đầu mài mòn (khi máy bắt đầu làm việc)
II - Giai đoạn mài mòn đã bão hoà (xảy ra mài mòn khi máy làm việc bình
thường).
III - Giai đoạn mài mòn phát triển nhanh (mài mòn do sự cố, mài mòn đã phát
triển đến mức phải loại bỏ chi tiết.
b, Các dạng hư hỏng về mài mòn
Trong thực tế có nhiều dạng hư hỏng về mài mòn, có những đặc điểm khác nhau.
Theo B.I. Kotexki có thể chia mòn thành các loại sau:
1/- Mòn do ôxy hoá
Là do hậu quả của sự khuếch tán ôxy do lớp bề mặt kim loại bị biến dạng.
Sự khuếch tán đó đã tạo nên trong lớp bề mặt của kim loại dung dịch đặc của
các ôxyt sắt nằm trong sắt như FeO, Fe3O4, Fe2O3
Trong quá trình mòn, đồng thời có hai quá trình diễn biến sau:
Một quá trình đặc trưng cho tác dụng cơ học, biểu thị như sự mòn của
lớp bề mặt;
Một quá trình đặc trưng cho quá trình hoá lý, đó là sự khuếch tán ôxy
vào các phần tử kim loại.
Sự mòn này thường thấy ở các ổ trượt, các trục khuỷu, bánh răng, …
2/- Sự mài mòn do nhiệt
Khi hai chi tiết chuyển động tương đối với nhau sẽ dẫn đến có ma sát ở bề mặt tiếp
xúc. Khi tốc độ chuyển động lớn, áp lực riêng lớn, ma sát đó sẽ làm xuất hiện nhiệt ở
các phần tử bề mặt. Do vậy lớp bề mặt sẽ mềm ra, dẫn đến xé rách chúng do có sự
dính nhau. Trong những trường hợp đặc biệt dẫn đến sự chảy lỏng kim loại của các bề
mặt (khi cháy). Sự mòn này thường thấy ở các bộ truyền răng chịu tải, các trục cơ, đặc
biệt ở dụng cụ cắt gọt, ...
3/- Sự mòn do sự mài
Sự mòn này sinh ra do tác dụng của các phần tử mài (hạt mài). Các hạt mài này
nằm ở giữa các bề mặt tiếp xúc. Chúng có thể từ môi trường ngoài xâm nhập vào, có
thể là những phần tử kim loại tự do của bề mặt những hạt cứng khác, ... Hạt mài cứng
này dính vào kim loại và gây nên hiện tượng cắt các lớp bề mặt.
Độ lớn của sự mòn này phụ thuộc vào loại, kích thước các hạt mài, tốc độ, áp
lực riêng và tính chất cơ lý của vật liệu chi tiết.
Sự mòn này thường thấy ở các máy móc, thiết bị làm việc ở môi trường bụi
bẩn, các thiết bị nghiền, ...
4/- Sự mòn rỗ (pitting)
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Sự mòn này xảy ra khi có ma sát lăn. Khi các chi tiết trượt, chịu tải thì chúng
làm các bề mặt cơ sở bị biến dạng tế vi do tác dụng của áp lực riêng lớn, đồng thời
kèm theo hiện tượng hoá bền kim loại, do vậy xuất hiện nội ứng suất. Các ứng suất
này được trải ra trong chi tiết hoặc trên toàn bộ bề mặt lăn của chi tiết, chúng được lặp
đi lặp lại theo chu kỳ của tải trọng sẽ gây ra sự mỏi, làm phá hỏng lớp bề mặt.
Mòn do mỏi biểu hiện như các khe nứt tế vi, các khe nứt này thường nghiêng
một góc rất nhỏ với bề mặt ma sát và sẽ phát triển thành các hố sâu (hố rỗ), thường
gặp ở những bề mặt độ bóng thấp hoặc không đồng đều. Dạng mòn này thường xảy ra
khi có ma sát lăn, trên bề mặt của ổ lăn và ổ trượt, trên bề mặt của bánh răng,...
Đặc trưng cho mòn rỗ là trong quá trình mòn xảy ra có kèm theo sự mòn do
ôxy hoá, sự mòn này phát triển trong các lớp bề mặt.
Cả hai hiện tượng mòn này đồng thời xảy ra, ở những vị trí nhất định của bề
mặt.
Quá trình fretting được đặc trưng
• Bởi sự có mặt của các chuyển vị nhỏ (bắt đầu có trị số lớn hơn khoảng cách giữa các
nguyên tử;
• Bởi sự đặc tính động của tải trọng;
• Bởi sự ô xy hoá trong không khí làm tạo ra các sản phẩm bị ăn mòn;
• Một số nhà khoa học còn cho rằng quá trình fretting còn do tróc gây nên thể hiện rõ
nhất ở những chỗ tiếp xúc.
• Là hiện tượng phá huỷ bề mặt do tróc, gỉ do sự ôxy hoá động, xảy ra do tổng hợp
của nhiều yếu tố: ma sát, áp lực, độ dịch chuyển bề mặt tiếp xúc nhỏ, nhất lμ ở điều
kiện vận tốc (v) lớn, áp lực cao (p), nhiệt độ (t0) cao. Muốn giảm hiện t−ợng nμy ta
cần giảm vận tốc (v), áp lực (p), nhiệt độ (To).
5/- Sự mòn do xói mòn kim loại (do tác dụng của môi trường các dòng chảy).
Là sự phá huỷ các bề mặt do lực tác dụng va đập và lặp lại nhiều lần hoặc thời
gian kéo dài, áp lực lớn của dòng chất lỏng, dòng khí, dòng chuyển động của bột mài,
sự phóng điện hoặc chùm tia năng lượng... chúng làm quá trình mòn do ma sát phức
tạp.
+ Sự phá huỷ bề mặt do ăn mòn kim loại:
Ăn mòn là sự phá huỷ kim loại do tương tác hoá học, điện hoá hoặc sinh hoá của kim
loại với môi trường. Quá trình ăn mòn kèm theo sự ô xy hoá bề mặt kim loại để tạo
thμnh hợp chất hoá học của kim loại (oxit, hydroxit, cacbonat,...).
+ Sự phá huỷ bề mặt do ăn mòn điện : Sự phá hỏng bề mặt do tác dụng phóng điện
khi có dòng điện đi qua : cổ góp, chổi than, các cơ cấu đóng và ngắt điện,...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Nguyên nhân của mài mòn
a/ Nguyên nhân do vận hành :
- Thiếu sự tuân thủ các yêu cầu và điều kiện về kỹ thuật khi vận hành
- Bôi trơn không đảm bảo, điều kiện bôi trơn không tốt, quá hạn thay dầu mở,
- Do các chất bẩn tích tụ, hay do sản phẩm mài mòn lẫn trong dầu mỡ gây nên.
- Lắp ghép không chuẩn nên mối ghép không đều gây mất cân bằng,...
- Do vận hành trong khi máy đã quá tải;
- Không thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng máy, không phát hiện các sự cố
hỏng hóc máy, không sửa chữa kịp thời.
- Do các hỏng hóc khi vận hành như: bị va chạm, ... trong quá trình làm việc.
- Quá giới hạn thời gian vận hành cho phép mà vẫn tiếp tục sử dụng.
b/ Nguyên nhân do ma sát :
- Độ nhám của bề mặt tiếp xúc khi làm việc;
- Bụi của môi trường dính bám vào bề mặt chi tiết nơi luôn tiếp xúc nhau;
- Hạt mài, các phần tử kim loại bị mài mòn rơi rớt lại.
c/ Nguyên nhân do chế độ tải trọng thay đổi
- Do tải trọng khi làm việc thay đổi tĩnh.
- Do tải trọng khi làm việc thay đổi động.
d/ Nguyên nhân khác :
- Nhiệt độ của môi trường bên ngoài và nhiệt độ làm việc.
- Do nhiệt độ tự sinh ra, làm biến đổi cơ, lý, hoá tính của chi tiết;
- Mức độ cơ khí hoá, tự động kiểm tra và hiệu chỉnh các chế độ làm việc cũng
có ảnh hưởng nhất định đến hư hỏng,...
Dấu hiệu mài mòn
Do những âm thanh phát ra khi gõ vào chi tiết, (VD khi kiểm tra bánh xe và
các chi tiết khác của xe lửa,... )
Âm thanh phát ra khi máy chạy(máy chạy êm thì tốt, máy chạy có phát ra âm
thanh khác thường thì cần xem xét).
Độ rung động, dao động của máy, độ rơ của các bộ phận máy;
Khe hở tăng, xuất hiện các sản phẩm bị mài mòn.
Các biểu hiện ra ngoài : nứt, công vênh, ...
Hình dạng chi tiết bị biến dạng
Nhiệt độ tăng không bình thường,
Tốc độ dịch chuyển của cơ cấu không đều,
Rò dầu, rò khí, ...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
1.2.3 Ăn mòn kim loại
a/ Khái niệm về ăn mòn kim loại
Ăn mòn kim loại (gỉ) là hiện tượng tự ăn mòn và phá huỷ bề mặt dần dần của các
vật liệu kim loại do tác dụng hoá học, điện hoá, môi trường xung quanh. Sự ăn mòn
đầu tiên xuất hiện từ bề mật bên ngoài rồi đi vào phía trong của vật.
VD: đối với kim loại chứa sắt thì sự ăn mòn (gỉ) thể hiện rõ nhất.
Sự phá huỷ bề mặt do ăn mòn kim loại (gỉ) gây ra một lượng hao phí kim loại
đáng kể, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế quốc dân. Sự hao phí này được xác định bằng
lượng kim loại mất ở dưới dạng các hợp chất không cần thiết, làm giảm sức bền của
các chi tiết, kết cấu, dẫn đến giảm tính chất công việc tiếp tục. Ngoài ra nó còn làm
cho hình thức bên ngoài xấu đi.
Công tác chống ăn mòn là một vấn đề rất quan trọng, nếu kết quả bảo vệ ăn mòn
tốt bao nhiêu thì càng kéo dài tuổi thọ của sản phẩm, thiết bị bấy nhiêu.
b/ Phân loại ăn mòn
Một số kim loại như vàng, platin, bạc ở trong thiên nhiên không bị tác dụng của môi
trường, chúng có khả năng chống ăn mòn tốt. Những kim loại chế tạo ra từ quặng bằng
quá trình luyện kim (như sắt) dễ dàng tác dụng với môi trường ngoài để tạo ra hợp chất
hoá học.
Như vậy ăn mòn kim loại là một quá trình xảy ra tự phát mà trong đó kim loại bị
biến đổi thành dạng hợp chất hoá học (gọi là sản phẩm gỉ).
Khả nămg chống ăn mòn của kim loại không chỉ phụ thuộc vào loại kim loại mà
yếu tố quan trọng hơn là môi trường ăn mòn.
Sự ăn mòn kim loại có nhiều dạng khác nhau, vì vậy có nhiều cách phân loại:
Theo cơ cấu bên trong của ăn mòn: ăn mòn hoá học; ăn mòn điện hoá.
Theo dạng bên ngoài: ăn mòn hoàn toàn bề mặt, bộ phận hay từng chỗ
Theo các nhân tố gây ra ăn mòn: do tải trọng cơ học, do dòng đện lạ
Theo môi trường: Tuỳ theo môi trường người ta chia ra :
- Ăn mòn trong khí : ôxy, khí sunfuarơ, khí H2S,...
- Ăn mòn trong không khí : Ăn mòn trong không khí ướt, ăn mòn trong không khí
ẩm, ăn mòn trong không khí khô.
- Ăn mòn trong đất.
- Ăn mòn trong chất lỏng (kiềm, axit, muối,...)
Phân loại độ chịu ăn mòn của vật liệu theo xếp theo bảng sau
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Bảng 1 - 1
Nhóm chịu ăn
mòn
Chỉ số ăn mòn sâumm/năm Thang
Cực kỳ bền < 0,001 1
Rất bền 0,001 - 0,005
0,005 - 0,010
2
3
Bền 0,01 - 0,05
0,05 - 0,10
4
5
Khá bền 0,1 - 0,5
0,5 - 1,0
6
7
Kém bền 1,0 - 5,0
5 - 10
8
9
Không bền Lớn hơn 10 10
Đa số kim loại đều bị ăn mòn (bị gỉ) khi tiếp xúc với môi trường, một số rất ít bị gỉ
hạn chế hoặc lớp gỉ có khả năng tự bảo vệ lấy nó. Khả năng phát sinh ăn mòn phụ
thuộc nhiều yếu tố: loại kim loại, tính chất môi trường, nhiệt độ, thời gian, áp lực.
VD:
Mg: bị gỉ nhanh trong không khí, nhưng không gỉ trong môi trường nước biển
Al: có khả năng chống gỉ ở môi trường không khí, nhưng dễ bị phá huỷ ở môi
trường kiềm.
Cr: chống gỉ đối với axít vô cơ nhưng dễ gỉ trong axit hữu cơ ( axit axetíc, H2S...)
Thép Cr - Ni: Có khả năng chịu được môi trường axit chua…
Zn ( kẽm): Chống gỉ tốt môi trường nước lạnh, nhưng ở nhiệt độ lớn hơn 60 độ
(T060
0) thì dễ bị gỉ.
Cấu trúc của gỉ cũng khác nhau: gỉ vùng, gỉ bề mặt, gỉ ngầm, gỉ tự bong, gỉ vững
bền...
Hình 1.7. Các dạng ăn mòn bề mặt
a/ ăn mòn đều, b/ ăn mòn không đều,
c/ ăn mòn lựa chọn, d/ ăn mòn giữa các tinh thể.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Với ăn mòn hoá học
Do môi trường mà kim loại tiếp xúc, có nhiều yếu tố (nước ẩm, 02, N2, sunfít...)
gây ra các phản ứng hoá học hay liên kết hoá học.
ăn mòn hoá học là sự ăn mòn kim loại do tác dụng đơn thuần của phản ứng hoá
học giữa vật liệu kim loại với môi trường xung quanh có chứa chất xâm thực (O2, S2,
Cl2,...) Hay nói cách khác là quá trình ăn mòn hoá học xảy ra trong môi trường khí và
trong các môi trường các chất không điện ly dạng lỏng (chủ yếu là ăn mòn các thiết
bị, ống dẫn các nhiên liệu lỏng lẫn các hợp chất sunfua,... Các chất không điện ly:
Brôm lỏng, lưu huỳnh nóng chảy, dung môi hữu cơ như benzen, nhiên liệu lỏng : dầu
hoả, xăng, dầu khoáng...
VD1 :
- Lưu huỳnh nóng chảy: phá huỷ mạnh với Cu, Sn, Pb ; thép các bon và Ti phá
huỷ chậm.
- Ăn mòn do không khí chủ yếu là do quá trình ôxy hoá kim loại ở nhiệt độ cao,
VD2:
→ Hiện tượng ôxy hoá của thép và gang
O2 + Fe FeO + O2 Fe3O4 + O2 Fe2O3
→ Hiện tượng mất các bon của thép và gang :
Fe3C + 1/2 O2 = 3Fe + CO
Fe3C + CO2 = 3 Fe + 2 CO
Fe3C + H2O = 3 Fe + CO + H2
Mất các bon sẽ làm giảm độ cứng, độ chịu mài mòn và giảm giới hạn đàn hồi.
Nhôm (Al) là nguyên tố hợp kim tốt nhất dùng để tăng độ bền của gang và thép
nhằm chống lại sự mất các bon. Sau đó là Cr, W, Mn có khả năng yếu hơn.
Al và Cr có lớp ôxyt chặt, có khả năng ngăn cản quá trình xâm nhập của môi
trường khí, còn các nguyên tố W, Mn chỉ có tác dụng ngăn cản quá trình khuyếch tán
của các bon ra ngoài bề mặt.
Hiện tượng mất các bon do hydro gọi là hiện tượng dòn hydro :
Fe3C + 2 H2 = 3Fe + CH4
Phản ứng này làm giảm lượng các bon, tạo ra khí CH4 làm phá huỷ mối liên kết
trong kim loại.
Fe + H2 = Fe + H2O
Hơi nước trong phản ứng này thoát ra cũng làm phá huỷ liên kết trong kim loại.
Sự ăn mòn của khí hydro đối với đồng thường xảy ra ở nhiệt độ > 400 oC :
Cu + O2 => Cu2O
Trong môi trường hydro thì đồng ôxyt bị khử :
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Cu2O + H2 = 2 Cu + H2O
Hơi nước thoát ra qua đường biên giới hạt làm phá huỷ mối liên kết trong kim loại,
làm giảm độ bền và gây nên những vết nứt nhỏ.
Sự ăn mòn của khí sunfuarơ (SO2) đối với đồng :
6Cu + SO2 = 2 Cu2O + Cu2S
ở nhiệt độ cao : 3 Ni + SO2 = NiS + 2 NiO
NiS tạo thành hợp chất Ni - Ni2S2 có nhiệt độ nóng chảy thấp (khoảng 625 oC) các
hợp chất này nằm ở vùng tinh giới hạt làm phá vở mối liên kết và làm giảm độ bền
nhiệt.
Các nhóm kim loại khác nhau thì khả năng bị ăn mòn hoá học cũng khác nhau.
Khả năng bị ăn mòn hoá học của một số chất
Đường (1): Tốc độ ăn mòn hoá học không
đổi; chiều dày lớp gỉ tăng tuyến tính theo
thời gian.
Đường (2): Quá trình ăn mòn xảy ra chậm
hơn.
Đường (3), (4): Quá trình ôxy hoá xảy ra rất
nhanh nhưng tạo nên lớp ôxyt rất bền vững;
tốc độ ôxy hoá hầu như không tăng theo thời
gian
Hình 1.8 Đồ thị biểu diễn tốc độ ăn
mòn của một số loại vật liệu
Với ăn mòn điện hoá
Là quá trình xảy ra khi kim loại tiếp xúc với môi trường điện phân tức là môi
trường dẫn điện (chú ý: dung dịch chất điện ly còn gọi là chất điện giải).
Ăn mòn điện hoá là sự ăn mòn do phản ứng điện hoá xảy ra ở 2 vùng khác nhau
trên bề mặt kim loại. Quá trình ăn mòn điện hoá có phát sinh dòng điện tử chuyển
động trong kim loại và dòng các ion chuyển động trong dung dịch điện ly theo một
hướng nhất định từ vùng điện cực này đến vùng điện cực khác của kim loại.
Như vậy bản chất gây ăn mòn điện hoá là do các vipin xuất hiện trên bề mặt tiếp
xúc, cường độ và tốc độ ăn mòn điện hoá xảy ra mãnh liệt hơn nhiều so với ăn mòn
hoá học. Để hiểu rõ bản chất của ăn mòn điện hoá ta cần tìm hiểu hiện tượng
hiđrathoá.
- Chất điện ly mạnh: HCl, HNO3, H2SO4 loãng, các bazơ: NaOH,... (trừ NH4OH),
các muối NaCl,
- Chất điện ly yếu: H2SO4 đặc, axit hữu cơ, các muôi bazơ, nước nguyên chất H2O.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Quá trình ăn mòn điện hoá là do khả năng của ion kim loại tách khỏi bề mặt
của nó và chuyển vào dung dịch. Sự di chuyển đó đòi hỏi phải có một năng lượng để
kéo ion kim loại ra khỏi mạng lưới của nó ở bề mặt tiết xúc và chuyển vào dung dịch
điện ly. Đối với các kim loại khác nhau thì khả năng này cũng khác nhau.
Ăn mòn điện hoá bao gồm 3 quá trình cơ bản : Quá trình anốt, quá trình catốt
và quá trình dẫn điện.
1. Quá trình anôt (xảy ra trên dương cực) là quá trình oxy hoá. Ion kim loại chuyển
vào dung dịch và giải phóng điện tử.
2. Quá trình catốt (quá trình xảy ra trên cực âm) là quá trình khử điện hoá. Các chất
ôxy hoá nhận điện tử do kim loại bị ăn mòn.
3. Quá trình dẫn điện: các điện tử kim loại bị ăn mòn giải phóng sẽ di chuyển từ anốt
tới catốt, còn các ion dịch chuyển trong dung dịch.
Như vậy trong quá trình ăn mòn điện hoá, kim loại hoạt động như 1 pin ta gọi là
pin ăn mòn cục bộ (hay vi pin).
1.3. Phân loại các phương pháp công nghệ phục hồi và xử lý bề mặt chi tiết
-Phương pháp phục hồi bằng công nghệ hàn đắp:
+ Hàn đắp bằng phương pháp hàn hồ quang tay
+ Hàn đắp bằng phương pháp hàn tự động dưới lớp thuốc
+ Hàn đắp bằng phương pháp hàn trong môi trường khí bảo vệ
+ Hàn đắp hồ quang rung
+ Hàn đắp Plasma
- - Phương pháp phun phủ phục hồi bề mặt
o + Phương pháp phun khí cháy
o + Phương pháp phun hồ quang điện
o + Phương pháp phun hồ quang Plasma
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Chƣơng 2
CÔNG NGHỆ HÀN ĐẮP KIM LOẠI
2.1. Các tính chất chung trong kỹ thuật hàn đắp
2.1.1 Khái niệm, đặc điểm và ứng dụng
a) Khái niệm
Hàn đắp là một quá trình đem phủ lên bề mặt chi tiết một lớp kim loại nhằm thay
đổi kích thước, hình dáng và tính chất của bề mặt bằng các phương pháp hàn khác
nhau.
Hàn đắp có thể dùng để phục hồi các chi tiết bị mài mòn, hoặc bị hư hỏng như gãy,
vỡ, nứt, v.v... do đã qua thời gian làm việc như cổ trục khuỷu, bánh xe lửa, khuôn
dập, dao cắt nóng. Sử dụng hàn đắp để phục hồi các chi tiết máy là một phương pháp
rẻ tiền mà khả năng làm việc của chi tiết không thua kém chi tiết mới bao nhiêu.
Ngoài ra phục hồi bằng hàn đắp còn có thể cải thiện được tính chất cơ lý của chi tiết
làm tăng tuổi thọ của nó.
Hàn đắp cũng có thể sử dụng để chế tạo chi tiết mới. Dùng hàn đắp để tạo nên một
lớp bimetal với các tính chất đặc biệt hoặc tạo ra một lớp kim loại có những khả năng
về chịu mài mòn, tăng ma sát...
Vật liệu hàn đắp có thể là thép các bon, thép chịu mài mòn, thép có tính chất đặc
biệt như chịu nhiệt, độ cứng cao, bền nhiệt, chịu axít ...
b) Đặc điểm chung của phương pháp hàn phục hồi
Thông thường hay dùng phương pháp hàn hồ quang điện (xoay chiều,
1 chiều, chỉnh lưu ) hàn khí, hàn trong các môi
trường bảo vệ ( dưới lớp thuốc hay CO2, Ar, He
..).
Ưu điểm:
Công nghệ đơn giản, năng suất cao và
chất lượng đảm bảo;
Tiết kiệm kim loại, nó phục hồi được các
chi tiết hỏng bề mặt;
Có tính cơ động cao;
Dễ tự động hoá,
Nhược điểm:
Dễ gây biến dạng, nứt (thô đại và tế vi ), ứng suất nhiệt và một số khuyết tật
khác ...
Cấu trúc và tổ chức mối hàn không đồng nhất, dể gây ra các khuyết tật vùng
gần mối hàn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
1 Đối với chi tiết bằng thép: Với hàm lượng các bon thấp thì kim loại có tính hàn
tốt, ngược lại, thép có hàm lượng các bon và nguyên tố hợp kim càng cao thì càng khó
hàn.
2 Kỹ thuật và công nghệ hàn: Phải chọn và tính toán đúng chế độ hàn ( I, chọn que
hàn, kim loại và hợp kim bổ sung, dây hàn, thuốc hàn, chuẩn bị mép hàn, kỹ thuật
hàn, kiểm tra chất lượng)...
3 Đối với chi tiết bằng gang: Dùng que hàn gang hay que hàn. Đối với vật liệu gang
có chiều dày 3mm thường dùng hàn khí O2- C2H2 ngọn lửa có dư C2H2 (có tác
dụng khử oxy và bổ sung các bon cho gang do bị cháy), dùng cả thuốc hàn gang. Tuy
vậy hàn gang bằng điện cũng hay dùng và yêu cầu khắt khe hơn hàn thép. Thông
thường hàn gang đều phải nung sơ bộ từ 250 - 5000C hoặc 500-700
0C. Có trường hợp
dùng thuốc hàn gang đặc biệt thì không cần nung nóng. Trong trường hợp khó hàn
phải dùng thuốc hàn gang, que hàn đồng thau hoặc que hàn hợp kim mônen, có thể vát
mép mối hàn và tạo vít cấy bằng chốt thép . Khi hàn có thể nung hoặc hàn nguội tuỳ
theo phương pháp chọn và công nghệ hàn và loại vật liệu hàn. Vật hàn phải làm nguội
từ từ (cùng với lò, vùi trong cát khô... ). Hiện nay có que hàn gang để hàn phục hồi mà
không cần phải nung nóng khi hàn.
4 Để năng suất và chất lượng cao dùng hàn tự động hoặc bán tự động dưới lớp thuốc
hay trong môi trường khí bảo vệ ( CO2, argông Ar...) Hàn trong môi trường thuốc bảo
vệ cho phép dùng dây hàn trần, tổn thất nhiệt và tổn thất vật liệu hàn ít, chất lượng
mối hàn tốt ...
5 Có thể sử dụng nhiều phương pháp hàn khác để hàn phục hồi
2.1.2 Tính chất của kim loại lớp đắp
Các phương pháp HK hóa
1 Hợp kim hoá mối hàn đắp thông qua dây hàn, dải kim loại đắp hoặc lớp thuốc hàn
thường.
2 Dùng dây hàn bột, dải kim loại với thuốc hàn thường
3 Dùng dây hàn thường với thuốc hàn hợp kim
4 Dùng dây hàn và thuốc hàn thường nhưng cho thêm vật liệu hợp kim trong quá
trình hàn.
Chọn vật liệu hàn đắp:
Phân loại nhóm kim loại đắp theo trường ĐH quốc tế hàn như sau :
Thành phần kim loại lớp đắp phụ thuộc thành phần kim loại đắp
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Bảng 2-1
Dạng thép Ký hiệu
C Mn Cr Ni W V Mo Co HB
HK thấp A 0,4 0,5-
0,3
0-3 0-3 - - 0-1 - 40
HK thấp B 0,4 0,5-
0,3
0-5 0-3 - - 0-1 - 60
Austenit Mn
cao
C 0,5-
1,2
11-
16
0-1 0-3 - - 0-1 - 50
Austenit Cr-Ni D 0,3 1-8 13-
30
5-25 - - - - 40
Thép Cr E 0,2-2 0,3-
1,5
5-30 0-5 0-0,5 0-0,5 0-1 - 45
Thép gió F 0,6-
1,5
0,5 4-6 - 1,5-
18
0-3 0-
10
0-15 62
Gang Cr cao G 1,5-5 0-6 25-
35
0-4 0-5 0-1 0-3 0-5 60
Thép chịu nhiệt
Cr-W
H 0,2-
0,5
1,0 1-5 0-5 1-10 0,15-
1,5
0-4 - 45
Hợp kim Mo
+Cr+W
N 0,7-3 0,4 25-
33
0-3 3-25 - 0-3 30-
70
40
HK Ni với
Cr+B
Q
a
1,0 - 8-18 65-
85
- - - 1-
1,5
55
HK Ni với Mo Q
b
0,12
- 0-18 60-
80
0-20 0,2-
0,6
8-
35
0-
2,5
200
HK các bit P 3 2,0 - - 45 - - -
67
Có các nhóm chính sau :
A. Thép các bon hay thép hợp kim thấp có thành phần các bon < 0,4 %
C < 0,25 % thép cacbon thấp
C = 0,25- 0,60 % thép các bon trung bình
C > 0,60 % thép cacbon cao
B. Thép hợp kim thấp có thành phần các bon > 0,4 % ;
C . Thép hợp kim nhóm mangan ;
D. Nhóm crôm niken Cr-Ni
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
E . Cr - Ni
F. Thép gió
G . Nhóm gang crôm cao
H. Nhóm thép Cr - W chịu nhiệt
N . Nhóm Coban + Cr + W
Qa . Nhóm hợp kim ni ken (Ni) với Cr và Mo )
Qb . Nhóm Ni với Mo
P . Nhóm hợp kim cacbít
Tuỳ theo loại vật liệu mà ta chọn các nhóm vật liệu và công nghệ hàn cho thích
hợp.
Một số đặc tính của các loại nhóm thép theo bảng 5-1
Độ chịu mài mòn tương đối là tỷ số khối lượng mẫu chuẩn bị mất mát trên
khối lượng kim loại bị mài mòn của mẫu thử từ kim loại đắp.
Sơ đồ biểu diễn độ mài mòn tương đối của các nhóm vật liệu hàn đắp
A B C, D E F G H N Qa P
Dạng kim loại đắp phân loại theo trường ĐH Quốc tế Hàn
Ví dụ :
- Để hàn đắp các bề mặt bị mòn (do ma sát) của chi tiết người ta sử dụng que
hàn Liên xô dạng có thuốc bọc với thành phần hợp kim.
- Đắp các chi tiết không yêu cầu độ cứng cao (HB300-400): dùng que hàn O3H-
300, O3H-350, O3H 400, Y340 ...
- Các chi tiết yêu cầu độ cứng cao : EHX-25, O3H-250 có lõi là CB-08 và
CB-15 với đường kính que hàn D như sau:
D = 3mm, chiều dày thuốc bọc : 0,80 - 1,00 mm
D = 4mm, chiều dày thuốc bọc: 1,25 - 1,35 mm
D = 5mm; chiều dày thuốc bọc: 1,45 - 1,55 mm
4
3
2
1
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hàn đắp một số chi tiết điển hình.
1 Hàn trục thép rèn và trục đúc từ thép C45, C50, C55 và một số thép hợp kim như
50Cr2, 60CrMn, 50CrNi ... Thường hàn đắp nhiều lần sau thời hạn đã sử dụng.
2 Hàn trục cán rỗng : Thường sử dụng dây hàn bột, chiều sâu của mối hàn khoảng 5
mm.
3 Hàn đắp trục cán thép định hình với 2 mục đích phục hồi kích thước, tăng thời
gian làm việc và khả năng chịu mài mòn. Nếu chỉ phục hồi kích thước thì dùng vật
liệu hàn thường, cùng loại vật liệu với trục; khi cần tăng độ chịu mài mòn hoặc thời
gian làm việc thì cần dùng dây hàn đắp hợp kim dạng Hn-30XCA Chế độ hàn có thể
chọn như sau : nung nóng 25-150 oC để tránh trục bị nứt có loại vật liệu cần nung
nóng đến 350-400 oC. Sau khi hàn xong thường phải tiến hành ram ở nhiệt độ 520-
540 oC và làm nguội cùng lò để khử ứng suất.
4 Hàn đắp cánh tuốc bin : Do vật liệu cánh tuốc bin được chế tạo từ thép hợp kim
thấp nên có thể sử dụng dây hàn hay dải vật liệu 1X18H9T (1Cr18Ni9Ti) hàn dưới
lớp thuốc dạng AH-26 ; để tránh bị nứt trong thuốc hàn cho thêm 80-85 % Al + 15-
20% Fe. (chiều rộng dải kim loại đắp B=70 mm, S= 0,6-0,8 mm, I=700-750A, U=30-
34 V, Vh = 9,6 m/h)
5 Hàn đắp trục tàu có đường kính khoảng 200 mm thì cần nung ở nhiệt độ 200-300 oC.
Tính hàn của kim loại và hợp kim.
Tính hàn của kim loại là khả năng cho phép nối liền các chi tiết thoả mãn độ
bền và các yêu cầu khác (chống rỉ, ăn mòn ...) bằng phương pháp hàn gọi là tính hàn
của kim loại hay hợp kim. Các bon và thành phần hoá học của các nguyên tố hợp kim
có ảnh hưởng lớn đến tính hàn cuả hợp kim .
Để đánh giá tính hàn của thép người ta đưa ra khái niệm lượng cac bon tương
đương C tđ .
C tđ = % C + % Mn /6 + %Cr /5 +%V/ 5+%Mo/4+ %Ni /15 + %Cu/13 +
%P/2
Trong đó, 2 thành phần Cu và P chỉ có tính toán khi Cu > 0,5%; P >
0,05%
nếu Ctđ < 0, 45% gọi là thép có tính hàn tốt, Ctđ > 0,45 % thì có thể có các
loại sau đây :
- Thép có tính hàn thoả mãn , tức là khi hàn có thể đạt được chất lượng mối hàn
cao nhưng phải tuân theo một số quy trình công nghệ phụ ( ví dụ nung nóng sơ
bộ, nhiệt luyện ...) .
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Thép có tính hàn hạn chế , cần có thêm các quá trình công nghệ phụ như nung
nóng sơ bộ , sử dụng thuốc hàn đặc biệt, nhiệt luyện sau khi hàn. Chất lượng
mối hàn bình thường .
- Thép có tính hàn kém, chất lượng mối hàn không thể đạt chất lượng cao mặc
dù phải sử dụng các quá trình công nghệ phụ. Ngày nay do nền khoa học và kỹ
thuật hàn đã phát triển mạnh nên tất cả các kim loại thép có thể hàn được đảm
bảo chất lượng nhiệt độ nung nóng sơ bộ có thể tính theo công thức của
Sefariana ( CEAPốAHA)
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
2.2. Phân loại các phƣơng pháp hàn đắp
Thông thường hay dùng phương pháp hàn hồ quang tay, hàn khí, hàn trong các
môi trường bảo vệ, hàn dưới lớp thuốc ngoài ra còn sử dụng các phương pháp hàn đặc
biệt khác.
2.2.1. Hàn đắp hồ quang tay bằng que hàn
Nguyên lý đặc điểm chung hàn hồ quang tay
Hàn hồ quang tay là phương pháp hàn nóng chẩy, các thao tác trong quá trình
hàn như (châm và duy chùy hồ quang cháy ổ định, đảm bảo chiều rộng mối hàn cũng
như dịch chuyển hồ quang để hàn hết chiều dài đường hàn) đều thực hiện bằng tay
người thợ hàn
H.2.1 Nguyên lý hàn hồ quang tay
Đặc điểm:
Có thể hàn được ở mọi vị trí trong không gian;
Hàn được các chi tiết to, nhỏ hoạc đơn giản, phức tạp khác nhau;
Có thể thực hiện trong các môi trường khác nhau(dưới nước, trong chân không…);
Thiết bị hàn và trang bị gá lắp hàn đơn giản, dễ thao tác;
Năng suất thấp do cường dộ dòng hàn bị hạn chế;
Hình dạng kích thước mối hàn không đều do Vh thay đổi, phụ thuộc vào tay nghề
công nhân;
Thành phần hóa học mối hàn không đều do thành phần kim loại cơ bản tham gia
vào mối hàn thay đổi;
Chiều rộng vùng ảnh hưởng nhiệt liên kết hàn tương đối lớn do nguồn nhiệt có
nhiệt độ cao và tóc độ hàn nhỏ;
Điều kiện làm việc của thự hàn không được tốt vì ảnh hưởng của cường độ sáng và
nhiệt của hồ quang;
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng những chi tiết có chiều dầy nhỏ và trung bình
cho đến nay, trong công nghệ phục hồi chi tiết, phương pháp hàn đắp bằng hàn hồ
quang tay vẫn là phương pháp thích hợp nhất.
2.2.1.1 Chọn que hàn đắp
Que hàn đắp phải đảm bảo nhận được lớp kim loại đắp chịu mài mòn cao, dễ
gia công cơ khí, có tính chất công nghệ tốt và rẻ.
Việc chọn kiểu, loại que hàn phụ thuộc vào thành phần hoá học của kim loại
cơ bản, điều kiện gia công nhiệt và chế độ làm việc của chi tiết phục hồi, lượng mòn,
phương pháp gia công cơ khí và hàng loạt các yếu tố khác.
Tính chất kim loại đắp chủ yếu được xác định bằng thành phần hoá học của nó và
việc gia công nhiệt. Thành phần hóa học có thể điều chỉnh nhờ các nguyên tố hợp kim
chứa trong thuốc bọc và lõi que hàn. Những nguyên tố hợp kim rẻ tiền nhất và thường
gặp nhất là C, Mn, Cr, Si, Ti, Bo và các nguyên tố khác. Chúng làm tăng độ cứng, tính
chịu mòn của kim loại khi làm việc trong điều kiện ma sát.
• Ảnh hưởng của Mn và Cr đối với độ cứng của thép (biểu đồ H2.1):
- Thép với hàm lượng 8 – 27% Mn sẽ đạt độ cứng cao khoảng 50HRC, tăng độ
chịu mòn lên 4-5 lần. Thép C thấp với lượng Mn như vậy sẽ tăng độ chịu mài mòn lên
tới 4-5 lần. Tính chống mài mòn của các chi tiết máy bằng thép Mn cao sẽ tăng rõ rệt
khi chúng bị lèn, ép, đặc biệt là va đập mạnh như hàm nhai đá, răng gàu ngoạm, …
- Thép chứa 6-8% Cr độ cứng cao hơn 50HRC và độ dai va đập khoảng 0,5
kGm/cm2, điều đó cho thấy không sử dụng que hàn Cr cao vào việc hàn đắp các chi
tiết làm việc trong điều kiện va đập.
H2.2. ảnh hưởng của Mn (a) và Cr (b) đối với độ cứng của thép
Các nguyên tố hợp kim như W, Mo, V, Co, Ni, … nên sử dụng hạn chế trong việc
hàn đắp các chi tiết làm việc trong điều kiện đặc biệt.
• Khi xác định lượng các nguyên tố hợp kim cần thiết cho kim loại lớp đắp cần
chú rằng một phần các nguyên tố đó sẽ bị bay hơi trong quá trình hồ quang cháy.
Nhiệt độ bay hơi của các nguyên tố hợp kim thường thấp hơn nhiệt độ bay hơi của Fe.
Ví dụ nhiệt độ bay hơi của Mn là 19000C, của Cr là 2200
0C, trong khi đó của Fe là
30000C. Đồng thời các nguyên tố hợp kim bay hơi dễ và nhanh hơn Fe, chúng bị oxy
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
hoá dễ hơn. Bởi vậy kim loại lỏng của vũng hàn và hồ quang cần được bảo vệ tốt khỏi
tác dụng của ôxy không khí.
• Điều kiện đặt ra cho vật liệu hàn đắp là nhiệt độ nóng chảy của chúng không
được quá cao. Khi nhiệt độ nóng chảy của vật liệu hàn đắp thấp thì lượng nhiệt toả ra
được giảm đi đáng kể, kim loại cơ bản tham gia vào mối hàn ít hơn, ứng suất trong và
biến dạng giảm.
• Việc hàn đắp các chi tiết bằng thép C hay thép hợp kim thấp mà không cần
gia công nhiệt sau khi hàn có thể thực hiện bằng bất cứ loại que hàn nào đảm bảo độ
cứng và độ chịu mòn cần thiết của lớp hàn đắp. Nếu chi tiết phục hồi sau khi hàn đắp
phải gia công nhiệt thì việc hàn đắp phải tiến hành bằng que hàn sao cho kim loại đắp
có thể gia công nhiệt được mà vẫn đảm bảo độ cứng và các tính chất cơ học khác.
• Công nghệ hàn đắp phải thực hiện bằng que hàn chứa ít O2, H2 và khí ẩm. Vì
một trong những nguyên nhân chính của sự tạo thành rỗ trong kim loại hàn đắp là sự
có mặt của O2, H2 ở vũng hàn. Que hàn thuốc bọc nhóm bazơ và ít H2 làm giảm nguy
cơ xuất hiện các vết nứt lạnh và nóng. ẩm cũng là nguyên nhân gây ra rỗ khí, nên
trước khi hàn phải sấy que hàn cẩn thận. Đối với que hàn thuốc vỏ bọc nhóm bazơ
phải nung hoặc sấy ở nhiệt độ 300 – 3500C trong 30 – 60 phút; que hàn vỏ bọc
inmenit hoặc ruti ở 70 –1000C, thời gian như trên.
2.2.1.2 Kỹ thuật hàn đắp bằng que hàn thép
a. Hàn đắp thép c thấp và thép hợp kim thấp
Thép các bon thấp và thép hợp kim thấp thuộc nhóm thép dễ hàn, do đó việc
hàn đắp được thực hiện bằng phương pháp thông thường và trong điều kiện bình
thường.
• Que hàn để nghiêng với mặt phẳng đứng một góc 15 – 200. Nếu giữ que hàn ở vị
trí thẳng đứng thì kim loại lỏng và xỉ sẽ chảy ra phía vật liệu cơ bản chưa nóng chảy
làm giảm độ ngấu của mối hàn.
• Có thể hàn theo hướng thẳng (H.a) hoặc theo hình chữ chi (H.b).
Khi hàn theo hướng thẳng, chiều rộng mối hàn bằng 1,5d. Còn hàn theo chữ chi
phụ thuộc biên độ dao động ngang của que hàn.
- Phương pháp hàn theo hướng thẳng ít sử dụng, vì: vũng hàn bé, đông đặc nhanh,
các khí khó thoát khỏi kim loại mối hàn nên mối hàn thường bị rỗ.
- Thường sử dụng phương pháp hàn theo chữ chi, tại các điểm 1,2,3,4… tốc độ
dịch chuyển que hàn giảm, tạo điều kiện cho mối hàn ngấu tốt, các chất khí kịp thoát
khỏi mối hàn.
Chất lượng hàn đắp nhận được tốt nhất khi chiều rộng mối hàn bằng 2,5d. Để đạt
điều đó biên độ dao động ngang của que hàn bằng 1,5 – 2d.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H2.3. Phương pháp dịch chuyển que hàn
a. Dịch chuyển thẳng; b. Dịch chuyển theo hình chữ chi
• Hàn đắp thực hiện với chiều dài hồ quang ngắn, các đường hàn phải xếp lần lượt
sao cho đường sau ôm lấy1/3 – 1/4 chiều rộng đường trước, chiều cao lớp đắp phải
cộng thêm lượng dư gia công cơ khí từ 2 – 3 mm, để có thể lấy hết các rãnh ngăn cách
giữa các đường hàn.
• Quan hệ giữa chiều dày lớp kim loại hàn đắp, đường kính que hàn (d) và cường
độ dòng điện hàn như sau:
Bảng 2-2
Chiều dày lớp đắp Tới 1,5 1,5 – 5 >5
Đường kính que hàn 3 4 – 5 5 – 6
Số lớp đắp, lớp 1-2 2-4 ≥2
Cường độ dòng điện 80 – 100 130 – 180 180 – 240
• Trong hàn đắp chỗ hàn không ngấu và đặc biệt miệng hàn rất có hại. Tại đó
thường phát sinh ra các vết nứt và phát triển rộng vào kim loại cơ bản. Bởi vậy ở
miệng hàn và chỗ không ngấu tuỳ điều kiện, phải dùng các vật phụ để loại trừ (dùng
bản, vòng, ống lót …). Miệng hàn nhất thiết không để trên bề mặt của kim loại cơ
bản.
• Sau mỗi đường hàn phải đánh sạch xỉ và kim loại bắn tung téo ra rồi mới tiếp tục
hàn đường tiếp theo.
• Sự chuyển tiếp giữa lớp hàn đắp và kim loại cơ bản phải đều và thoải để tránh
hiện tượng tập trung ứng suất.
2.2.1.3 Hàn đắp thép các bon trung bình và thép hợp kim trung bình
Sự có mặt của Cr, Ni, W, Mo, Mn, Si và các nguyên tố khác trong thép, cũng như
lượng C tăng lên đều làm giảm tính hàn của thép.
• Hiện tượng nguy hiểm nhất và rất dễ xảy ra là sự tạo thành các vết nứt nóng và
lạnh tại vùng ảnh hưởng nhiệt. Để ngăn ngừa nguy cơ tạo vết nứt phải xác định chế độ
hàn và làm nguội thích hợp ở vùng lân cận mối hàn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
• Trong hàn đắp để xảy ra hiện tượng tôi là rất nguy hiểm. Bởi vậy nên hàn bằng
dòng điện lớn, tốc độ hàn bé, đồng thời điện áp hồ quang hàn có thể tăng lên một ít để
có được hình dáng mối hàn (là tỷ số giữa chiều rộng và chiều sâu mối hàn) và một chế
độ nhiệt ít biến đổi.
• Cùng với việc điều chỉnh các thông số hàn ta có thể tác động vào tốc độ làm
nguội vùng chuyển tiếp bằng nung nóng trước và sau khi hàn. Việc nung nóng làm
giảm tốc độ nguội của kim loại vùng lân cận mối hàn ở nhiệt độ kém ổn định nhất của
austenit, kéo dài thời gian tồn tại của austenit trên điểm AC3, giảm tốc độ nguội ở
nhiệt độ dưới 3000C và tạo điều kiện cho H2 thoát khỏi kim loại đắp làm giảm điều
kiện phát sinh vết nứt ở mối hàn.
- Việc nung nóng phụ thuộc vào hàm lượng các bon đương lượng của thép. Theo J.
Pilatrich hàm lượng các bon đương lượng tính theo công thức sau:
Co = C + 213154556
PCuNiMoVCrMn
Đồng và phôtpho chỉ tính khi Cu > 0,5%, P > 0,05%. Hàm lượng các bon đương
lượng dùng để tính độ cứng Vicke theo công thức:
HV = 1200 Co – 260 (độ cứng nhỏ nhất)
HV = 1200 Co – 200 (độ cứng lớn nhất)
Bằng phương pháp thực nghiệm người ta xác định được rằng nếu độ cứng vùng
chuyển tiếp không vượt quá 350 HV thì không sợ nứt do đó không cần nung nóng.
- Nhiệt độ nung nóng phụ thuộc vào nhiệt độ chuyển biến của mactenxit. Thường
nhiệt độ nung nóng phải bằng hoặc lớn hơn nhiệt độ chuyển biến ban đầu của
mactenxit Ms.
Đối với mỗi loại thép, Ms có thể đọc trên giản đồ trạng thái, hoặc có thể sử dụng
công thức sau để xác định nhiệt độ chuyển biến:
Ms = 500 – 320C - 33Mn - 28Cr – 17Ni – 10 (Si + Mo + W) với hàm lượng
các nguyên tố tính bằng %.
Công thức trên được xây dựng trong điều kiện các nguyên tố hợp kim khi nung
tới nhiệt độ tương ứng đều nằm trong dung dịch austenit rắn. Thực tế do quá trình hàn
xảy ra rất nhanh nên một phần các nguyên tố không kịp chuyển vào dung dịch rắn, do
đó lượng các nguyên tố đó ở trong austenit sẽ nhỏ hơn. Bởi vậy nhiệt độ thực tế
chuyến biến ban đầu của mactenxit cao hơn nhiệt độ tính toán Ms bao nhiêu thì
austenit nhận được tại vùng chuyển tiếp càng kém đồng nhất bấy nhiêu.
• Khi hàn thép hợp kim không được sử dụng que hàn thuốc bọc nhóm axit có
chứa các oxyt Fe, Mn, Ti kim loại hàn đắp bằng que hàn loại này chứa nhiều rỗ khí
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
làm giảm độ bền và khả năng chống mòn. Trường hợp không có que hàn đắp đặc biệt
dùng vào việc hàn đắp thép hợp kim có thể dùng que hàn thuốc bọc nhóm bazơ Nga.
Ảnh hưởng của một số nguyên tố đến tính hàn.
- Mangan (Mn): khi hàm lượng < 1% không ảnh hưởng nhiều đến tính nhàn của thép
nhưng khi hàm lượng Mn > 1% tính hàn kém đi vì dễ bị nứt (tăng tính thấm tôi).
- Silic (Si): khi hàm lượng < 0,3% không ảnh hưởng nhiều đến tính hàn của thép nhưng
khi hàm lượng Si > 0,3% sẽ gây khó khăn cho quá trinh hàn vì tạo nên các loại ôxit
khó chảy và tăng tính chảy loãng.
- Crôm (Cr): ảnh hưởng xấu đến tính hàn của thép vì nó làm tăng sự ôxy hóa kim loại và
kết hợp với cacbon tạo thành cacbit (hợp chất hóa học), nâng cao độ cứngkim loại ở
vùng chuyển tiếp từ mối hàn đến kim loại cơ bản. Tuy nhiên nếu chọn được chế độ
hàn, vật liệu hàn và quy trinh công nghệ hàn hợp lý thì có thể hạn chế ảnh hưởng xấu
của nó đến tính hàn.
- Niken (Ni): có tác dụng làm nhỏ hạt kim loại và nâng cao tính dẻo của thép – ít ảnh
hưởng đến tính hàn của thép.
- Molipden (Mo): gây nhiều khó khăn cho quá trinh hàn như làm tăng khả năng nứt ngầm
trong mối hàn, vùng ảnh hưởng nhiệt lớn, dễ bị ôxy hóa và cháy mnạh trong quá trinh
hàn.
- Vonfram (W): làm tăng độ cứng và khả năng chịu nhiệt nhưng W làm cho tính hàn kém
đi vì nó thường bị ôxy hóa mạnh nên cần bảo vệ thật tốt trong quá trinh hàn.
- Vanadi (V) có ảnh hượng tương tự như Vonfram.
- Titan (Ti) và Niobi (Nb): chỉ tồn tại trong thép một lượng rất nhỏ ( < 1%) nên không
ảnh hưởng nhiều đến tính hàn của thép.
- Đồng (Cu): với hàm lượng nhỏ (0,3 – 0,8%) có tác dụng làm tăng độ bền, độ dẻo, độ
dai va đập và tính chống ăn mòn của thép nhưng ít ảnh hưởng đến tính hàn của thép.
- Lƣu huỳnh (S): thường gây hiện tượng bở nóng, nứt nóng còn Phôtpho (P) thường gây
hiện tượng giòn nguội, nứt nguội. Đó là những tạp chất có hại. Khi hàm lượng vượt
quá giới hạn cho phép, chúng có ảnh hưởng xấu đến tính hàn.
- Oxy (O2) trong thép thường ở dạng oxit làm giảm cơ tính và làm xấu tính hàn của thép.
- Nitơ (N2) trong thép tạo hợp chất hóa học (nitrit sắt) rất cứng, dòn, làm giảm tính dẻo
và gây khó khăn cho quá trinh hàn.
- Hydro (H2) là tạp chất có hại, sinh khí trong vũng hàn, gây nứt tế vi trong mối hàn và
gây khó khăn cho quá trình hàn.
2.2.2. Hàn đắp tự động dƣới lớp thuốc
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H.2.4 Sơ đồ hàn tự động dưới lớp thuốc
1 - vật hàn
2 - Ray dẫn động xe hàn
3 - Xe hàn
4 - Cuộn dây hàn
5, 8 - Con lăn cấp dây hàn
6 - Phểu thuốc hàn
7 - Van điều chỉnh
9 - Máy hàn
10 - Dây điện
11 - Mối hàn
12-Tiếp điểm với dây hàn
2.2.2.1 Nguyên lý và phạm vi ứng dụng
Hàn tự động: là một quá trình hàn mà việc cấp dây hàn và di chuyển mỏ hàn theo
mối hàn được thực hiện hoàn toàn bằng máy.
Hàn tự động có thể được hàn trong các môi trường bảo vệ như hàn dưới lớp thuốc
hoặc hàn trong các môi trường khí bảo vệ.
1
2
3
4 5 6
7
8
9
10
11
12
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Nguyên lý: Trong hàn đắp tự động dưới lớp thuốc hồ quang cháy giữa điện cực
kim loại (dây hàn) và kim loại cơ bản (chi tiết hàn đắp). Sự khác nhau cơ bản giữa hàn
đắp hồ quang tay và hàn đắp tự động là sự cơ khí hoá, tự động hoá quá trình hàn.
Quá trình hàn bắt đầu khi phát hồ quang. Vũng hàn được tạo thành sau khi hồ
quang phát sinh. Tại đây dây hàn, thuốc hàn và kim loại cơ bản nóng chảy. Đồng thời
dưới áp suất khí giữa kim loại và thuốc hàn tạo thành một màng kín bao bọc lấy hồ
quang và vũng hàn. Thành của màng này được tạo bởi thuốc hàn nóng chảy. Bởi vậy
quá trình nóng chảy xảy ra trong màng kín tách rời với không khí, ngoài ra nó còn
được phủ bẳng lớp thuốc nên bằng mắt thường không thể nhìn rõ lớp trong vũng hàn.
Trong quá trình hàn thuốc hàn được cung cấp liên tục và đều đặn xuống vũng hàn.
Thuốc nóng chảy tạo thành xỉ hàn. Phần thuốc không nóng chảy được thu lại và sử
H2.5. Sơ đồ nguyên lý (a) và các bộ phận chính (b) của máy hàn tự động
Phạm vi ứng dụng:
Phần lớn hàn đắp tự động dưới lớp thuốc dùng để phục hồi những chi tiết là các bề
mặt phẳng, mặt trụ các chi tiết lớn, như rãnh lăn của cầu xích, gờ bánh tỳ và bánh dẫn,
cổ trục khuỷu…
2.2.2.2 Kỹ thuật hàn
Hàn đắp mặt phẳng.
Thông thường chi tiết hàn đứng yên, còn đầu hàn đắp chuyển động thẳng trên chi
tiết. Sau mỗi đường hàn đầu hàn được đưa về vị trí ban đầu. Để hàn tiếp đường thứ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
hai phải dịch đầu hàn theo phương chuyển động ngang một khoảng cách nhất định,
gọi là bước tiến của đường hàn. (H. a)
H2.6. Nguyên lý hàn đắp tự động mặt phẳng (a) và mặt tròn (b)
Hàn đắp tự động trên chi tiết hình trụ tròn.
Quá trình hàn đắp là phủ kín bề mặt của chi tiết bằng một đường hàn hình xoắn
xếp cạnh nhau. Đường xoắn nói trên được tạo thành từ hai chuyển động (H. b) kết
hợp: chuyển động quay tròn của bề mặt chi tiết quanh trục của nó và chuyển động tịnh
tiến của đầu hàn dọc theo vật hàn. Những chuyển động trên là chuyển động đều và
liên tục. Đương nhiên để quá trình hàn tiến hành được một cách tự động thì dây hàn
phải chuyển động liên tục và đều đặn để bảo vệ hồ quang.
• ưu điểm (so với hàn hồ quang tay):
- Có thể hợp kim hoá kim loại hàn đắp tới 30%, do đó cơ tính của lớp đắp được cải
thiện và tăng tính chống mòn của chi tiết sau khi khôi phục, việc hợp kim hoá mối hàn
thì rẻ hơn
- Năng suất hàn đắp tự động tăng lên rõ rệt
- Điều kiện lao động và chất lượng hàn đắp được cải thiện
- Điện năng và kim loại đắp giảm.
2.2.2.3 Hợp kim hoá mối hàn
Có thể thực hiện bằng 3 phương pháp: bằng dây hợp kim, bằng dây lõi thuốc và
bằng thuốc hàn gốm.
Hợp kim hoá mối hàn đắp bằng dây hợp kim là tốt nhất. Song không phải lúc nào
cũng thực hiện được, nhất là trong điều kiện công nghiệp luyện kim chưa phát triển,
chủng loại dây hợp kim hạn chế, trong khi chủng loại thép của các chi tiết hàn đắp lại
rất phức tạp. Trong điều kiện đó hợp kim hoá lớp đắp bằng thuốc hàn gốm dễ thực
hiện hơn cả.
Khi hợp kim hoá lớp đắp bằng dây hàn, cường độ dòng điện có ảnh hưởng rõ rệt
đến thành phần hoá học mối hàn.
`
b)
a)
s
chiè
u tin
h tié
n cu
a dà
u hà
n
s
chiè
u hà
n
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Bảng 2-3. Ảnh hưởng của cường độ dòng điện đối với thành phần hóa học của kim
loại mối hàn đắp
Cường độ dòng điện
hàn (A)
Thành phần hóa học của kim loại lớp đắp %
C W Cr V
1000
900
800
0,43
0,47
0,50
9,8
11,3
12,4
1,50
1,88
2,4
0,71
0,83
0,98
Hợp kim hoá mối hàn bằng thuốc hàn
Thành phần hoá học mối hàn chịu ảnh hưởng của điện áp hồ quang mạnh hơn
cường độ dòng điện. Điện áp càng cao thì thuốc hàn càng chảy nhiều và quá trình hợp
kim hoá càng mạnh. (bảng 2- 3).
Bảng 2-4. Ảnh hưởng của cường độ và điện áp đến thành phần hoá học
lớp đắp (thành phần thuốc hàn: 65%AH- 348A + 25% FeCr)
Đường kính
dây hàn
Cườngđộ
dòng điện (A)
Điện áp hồ
quang(V)
Thành phần hóa học lớp đắp, %
Cr Si Mn
2
300
22
30
40
5,22
8,01
12,48
1,28
1,78
2,08
1,21
1,43
1,82
5
625
30
40
50
4,45
9,12
16,20
0,78
1,35
3,02
0,50
0,95
2,30
Việc trộn các nguyên tố hợp kim với thuốc hàn tới một giới hạn nhất định không
làm giảm tính chất công nghệ của thuốc. Chất liên kết thường dùng là thuỷ tinh lỏng,
chiếm 10-15% trọng lượng thuốc. Sau khi trộn cần sấy và nung ở nhiệt độ 400 -
4500C trong 2 - 3h. Bằng thuốc hàn nói trên người ta đã phục hồi nhiều chi tiết máy có
độ cứng và thành phần hoá học khác nhau.
Để đảm bảo sự đồng nhất thành phần hoá học của kim loại lớp đắp thuốc hàn phải
được trộn thật đều, điều đó không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được. Bởi vậy
tốt hơn hết nên dùng thuốc hàn gốm để điều chỉnh thành phần hợp kim của lớp hàn.
Hợp kim hoá của lớp đắp bằng thuốc hàn gốm có nhiều ưu điểm so với hợp kim
hoá bằng dây: dùng các nguyên tố hợp kim sẵn hơn, công nghệ sản xuất thuốc lại đơn
giản, dễ thực hiện; khi hàn đắp không cần dùng dây hợp kim đắt tiền mà chỉ dùng các
dây cacbon sẵn có và rẻ tiền.
• Ưu nhược điểm của hàn đắp tự động dưới lớp thuốc
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
ưu điểm:
- ít hao tốn kim loại, hệ số hàn đắp cao, tiết kiệm được kim loại que hàn.
- Hệ số mất mát nhiệt thấp do thuốc hàn không dẫn nhiệt và dẫn điện,
- Cho phép hàn với dòng điện cao nên tốc độ hàn lớn, năng suất hàn cao.
- Vùng ảnh hưởng nhiệt nhỏ do thể tích nóng chảy(Vh) nhỏ.
- Chất lượng mối hàn cao; cơ tính tốt.
- Điều kiện lao động tốt do hồ quang kín.
- Cho phép cơ khí hoá và tự động hoá quá trình hàn.
Nhược điểm:
- Khó nhận được lớp đắp có độ chịu mòn cao do chiều sâu ngấu lớn và việc trộn
lẫn kim loại cơ bản và vật liệu bổ sung.
- Khó điều chỉnh hồ quang hàn trong quá trình hàn vì hồ quang hàn bị che kín bởi
lớp thuốc nên khi hàn những chi tiết phức tạp đòi hỏi thợ hàn phải có tay nghề cao.
- Hầu như lúc nào cũng phải gõ xỉ, việc này tương đối khó khăn khi hàn đắp
những chi tiết nhỏ; khi đó việc giữ được lớp thuốc có chiều dày cần thiết trên chi tiết
hàn đắp cũng rất khó. Nhược điểm này hạn chế khả năng phục hồi những chi tiết có
đường kính nhỏ hơn 50 mm.
- Do giá thành thuốc hàn cao, tiêu thụ lớn (thường bằng 1,3 - 1,4 lần trọng lượng
kim loại lớp hàn), do đó làm tăng giá thành sản phẩm phục hồi.
- Khó thực hiện các mối hàn có hình dạng và quỹ đạo hàn phức tạp.
- Giá thành thiết bị đắt.
- Yêu cầu khi gá lắp và chuẩn bị hàn khá công phu.
2.2.2.4 Vật liệu hàn
Vật liệu hàn đắp tự động dưới lớp thuốc bao gồm thuốc hàn và dây hàn.
Thuốc hàn nóng chảy
• Vai trò chủ yếu của thuốc hàn: là làm lớp màng cách lý học của vũng hàn khỏi
tác dụng của không khí, ổn định hồ quang, điều chỉnh thành phần hoá học của lớp hàn
đắp và tạo dáng mối hàn.
• Yêu cầu đối với thuốc hàn:
- Nhiệt độ nóng chảy của thuốc hàn nhỏ hơn nhiệt độ nóng chảy của kim loại cơ
bản khoảng 200 - 300 oC.
- Thuốc hàn phải có độ ẩm thấp và độ bền cơ học nhất định.
- Thuốc hàn phải tạo điều kiện cho hồ quang dễ cháy và cháy ổn định.
- Thuốc hàn phải tạo điều kiện cho quá trình hình thành mối hàn tốt, đặc chắc,
không có rỗ khí, ngậm xỉ...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Đảm bảo khử các tạp chất và thoát khí tốt; loại trừ các khuyết tật như rỗ khí,
ngậm xỉ, nứt vùng mối hàn.
- Hợp kim hoá mối hàn, đảm bảo cơ tính tốt
- Tạo màng mỏng bảo vệ và dễ dàng tách khỏi bề mặt mối hàn.
- Không sinh bụi và khí độc hại
- Giá thành hạ
• Phân loại thuốc hàn:
Thuốc hàn có dạng hạt hay bột. Thuốc hàn điện được phân ra :
Thuốc hàn nóng chảy; thuốc hàn bột (không nóng chảy: gốm ceramic, bột thiêu
kết ... bao gồm các chất khoáng thiên nhiên với fero hợp kim và thuỷ tinh nước).
+ Theo chức năng sử dụng:
- Thuốc cho hàn thép các bon và hợp kim thấp.
- Thuốc hàn thép hợp kim.
- Thuốc hàn hợp kim màu.
+ Theo thành phần các chất:
- Loại có SiO2 cao ( 40 - 50 % SiO2 )
- Loại SiO2 thấp ( < 35 % SiO2 )
- Loại không có SiO2.
- Loại không chứa oxy
- Xỷ có tính bazơ : CaO, MgO, FeO ...
- Xỷ có tính axit TiO2, SiO2...
- Xỷ trung tính chứa Cl2 , F2.
Tác dụng làm màng cách của thuốc phụ thuộc vào kích thước hạt và cấu trúc vật lý
của chúng. Cấu trúc hạt càng mịn và kích thước hạt càng nhỏ thì khả năng bảo vệ của
màng cách càng tăng. Chiều dày của lớp thuốc phủ trên mặt kim loại cũng ảnh hưởng
đến khả năng làm màng cách của nó. Chiều dày cần thiết của thuốc hàn ứng với
cường độ dòng điện hàn khác nhau (bảng2-4).
Bảng 2-5. Chiều dày thuốc trên mặt vật hàn
Cường độ dòng điện hàn(A) 130 - 200 200 - 400 400 - 800 800 - 1200
Chiều dày thuốc (mm) 20 - 25 25 - 35 35 - 45 45 - 60
VD: Thuốc TA.St.1 dùng để hàn đắp thép cacbon và thép hợp kim thấp. Thuốc
TA.St.3 dùng để hàn đắp các chi tiết thép cacbon thấp. Thuốc TA.St.9 hàn đắp với
kiểu 35 CrMnSiA phục hồi trục cán, bánh cần cẩu, bánh tàu hoả…Thuốc
TA.St.11CrNi dùng để hàn đắp các chi tiết thép cacbon và thép hợp kim của máy điện
và hoá học.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Ở Việt Nam thuốc hàn nóng chảy loại AH-348A của Liên Xô đó được Viện thiết
kế máy công nghiệp (Bộ Cơ khí và luyện kim) nghiên cứu và được Nhà máy và cơ
quan nghiên cứu công nghệ hàn đó dùng thuốc này để hàn và hàn đắp tự động. Thuốc
có tính công nghệ cơ bản giống thuốc AH-348A và mang nhón hiệu TH-36-42.
Thuốc hàn gốm
• Thuốc hàn gốm là hỗn hợp cơ học của các thành phần hợp kim hoá, oxy hoá,
biến tính và tạo xỉ, được tán nhỏ và liên kết với nhau bằng dung dịch nước thuỷ tinh.
Chất liên kết thường dùng nhất là silicat natri lỏng, tỷ trọng 1,3; chiếm 17 - 18% trọng
lượng phối liệu khô. Thành phần thuốc có thể là cacbonat, fero hợp kim, kim loại
tinh… với khối lượng cần thiết, không phụ thuộc vào độ hoà tan lẫn nhau của chúng.
Sử dụng thuốc gốm mở rộng được khả năng hợp kim hoá, oxy hoá và biến tính hoá
kim loại hàn đắp.
• Trong số nguyên tố hợp kim của thuốc người ta dùng ferocrôm, feromangan,
ferosilic, ferotitan, niken…Khi cần người ta còn cho thêm cacbon dưới dạng bột hoặc
than gỗ.
• Trong thành phần thuốc hàn có tới 50% các nguyên tố không bị oxy hoá, điều đó
có ảnh hưởng rất mạnh tới quá trình luyện kim của vũng hàn và cho phép điều chỉnh
thành phần hoá học của lớp hàn đắp trong phạm vi rộng. Điều này không thể thực
hiện được khi hàn đắp bằng thuốc nóng chảy, vì thuốc hàn nóng chảy chủ yếu bao
gồm các oxyt như: SiO2, CaO, MnO, Al2O3 .. .
• Để tạo xỉ tốt người ta cho vào thuốc hàn gốm các thành phần như đá vôi, fenspat,
florit, bioxyt titan, thạch anh. Xỉ hệ đá vôi cao hầu như không oxy hoá các nguyên tố
HợP KIM và tạo điều kiện khử lưu huỳnh khỏi kim loại nóng chảy của vũng hàn.
• Tuỳ theo mức độ hợp kim hoá lớp đắp thuốc hàn gốm được chia thành hai loại:
hợp kim hoá yếu và hợp kim hoá mạnh. Loại sau cho phép nhận kim loại lớp hàn đắp
hợp kim hoá cao khi dùng dây hàn thép cacbon bình thường.
• Nhiều chi tiết máy đưa vào phục hồi được chế tạo bằng thép hợp kim, chẳng hạn
dao cắt kim loại nóng, đầu máy búa rèn dập và nhiều chi tiết khác. Chúng đều làm
việc trong điều kiện giống nhau: chịu nén ép mạnh và thay đổi theo chu kỳ; nóng lạnh
theo chu kỳ; bề mặt làm việc bị mòn do gỉ…
Với các điều kiện làm việc khắt khe trên, lớp kim loại hàn đắp khi phục hồi các
chi tiết này cần đạt các yêu cầu quan trọng sau :
- Mối hàn có độ bền cao: có khả năng chống hiện tượng nứt nóng, hạn
chế tình trạng nứt khi hàn.
- Có độ dẻo cao ở nhiệt độ làm việc của chi tiết để có khả năng chống
hiện tượng nứt nóng, hạn chế tình trạng nứt khi hàn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Có khả năng ít biến đổi cấu trúc khi bị ram nhiều lần, giữ được tính chất
ban đầu trong quá trình làm việc.
- Có độ bám cao vào lớp kim loại cơ bản, tránh được bong, tróc khi làm
việc,…
Rõ ràng khó có thể tìm thấy trong thực tế một loại dây hàn hợp kim đảm bảo cho
lớp kim loại đắp có được đồng thời những yêu cầu kỹ thuật trên. Bởi vậy việc hợp
kim hoá lớp đắp bằng thuốc hàn gốc là phương pháp dễ thực hiện và rẻ tiền hơn cả.
Ngày nay người ta đã nghiên cứu được nhiều loại thuốc hàn gốm chuyên dùng cho
việc hàn đắp phục hồi từng chi tiết hoặc từng nhóm chi tiết có cùng điều kiện công
tác.
Dây hàn
Bề mặt mài mòn của các chi tiết máy người ta hàn đắp bằng dây thép cacbon, dây
thép hợp kim hoặc dây hàn đắp chuyên dùng. Lớp đắp hàn bằng dây cacbon không có
được độ chịu mòn cao. Để tăng độ chịu mòn phải hợp kim hoá lớp hàn đắp bằng dây
hợp kim, dây bột hoặc thuốc gốm. Khi chọn dây hàn cần chú ý đến thành phần hoá
học của kim loại cơ bản, đặc tính và dạng tải trọng của nó, nguyên nhân và lượng mài
mòn, môi trường làm việc và các yêu cầu đặt ra đối với chi tiết phục hồi. Lớp đắp
được hợp kim hoá bằng dây hợp kim có thành phần hoá học chính xác hơn. Vì thế hợp
kim hoá bằng cách này tuy đắt song vẫn được dùng phổ biến.
2.2.3. Hàn đắp tự động bằng dây hàn lõi bột
2.2.3.1 Bản chất và phạm vi ứng dụng
Là phương pháp hàn hồ quang điện trong đó thuốc hàn nằm trong các lõi kim loại,
khi hồ quang hình thành thuốc hàn nóng chảy hợp kim hoá mối hàn sau đó nổi lên tạo
thành xỉ.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Kim loại lớp đắp được hợp kim hoá bằng các nguyên tố chứa trong lõi dây hàn ở
dạng hỗn hợp cơ học. Thường thành phần hỗn hợp đó gồm những chất rẻ tiền và dễ
tìm.
Quá trình hàn đắp các chi tiết bằng dây bột có thể coi như quá trình hàn đắp bằng
dây thép cacbon và thép hợp kim dưới thuốc nóng chảy. Nó được dùng trong việc
phục hồi các chi tiết máy xây dựng và khai thác, như lưỡi gạt máy ủi, hàm nhai máy
nghiền đá, gờ trục cán, guồng xoắn máy xúc …
Ưu điểm chủ yếu: có phạm vi khá rộng, tiết kiệm được các nguyên tố hợp kim
đồng thời kim loại lớp hàn đắp có thể được hợp kim hoá tới 40%.
2.2.3.2 Vật liệu hàn đắp
Bao gồm: dây hàn và thuốc hàn
Dây hàn:
Dây bột được tạo bởi vỏ kim loại chứa đầy các nguyên tố hợp kim dưới dạng bột. Vỏ
kim loại làm từ thép, ở dạng băng cán nguội với chiều dày 0,5; 0,6; 0,65; 0,8; 1,0mm
và chiều rộng 14 hoặc 18mm. Băng không được lõm, cong xước, bề mặt không có gỉ,
dầu, mỡ. Mỗi cuộn băng có trọng lượng từ 50 đến 100kg.
Thuốc hàn:
Bột đơn giản nhất là phoi gang kim loại đắp bằng dây hàn loại này là thép chứa
1,3-1,7% C. Để tăng độ dai của kim loại hàn đắp cho thêm vào bột gang khoảng 20%
bột ferô Mn.
Để hợp kim hoá kim loại hàn đắp cho vào bột các chất như: ferô Mn cao chứa
70-80%Mn và 1,0-7,0%C, ferô Cr-C cao chứa khoảng 6,6-8,0%C và 65%Cr, ferô Ti-i
chứa 18%Ti, ferô bo chứa 5,5% bo, ferô V chứa 35%V và 0,75%C, ferô W chứa
70%W, bột sắt chứa 98%Fe.
Để tăng lượng C trong kim loại hàn đắp trộn bột graphit, silicflorua trong bột
tạo điều kiện giảm rỗ khí trong kim loại mối hàn khi hàn dưới thuốc thấp. Các thành
phần của bột phải tán nhỏ.
Thuốc hàn để hàn đắp bằng dây bột phải chứa ít xỉ và O2 . Liên xô dùng thuốc
AH-348A, AH-15M, AH-20, AH-26, AH- 60. Nếu dùng thuốc không thích hợp thì xỉ
khó bong, tạo hình mối hàn xấu và lớp đắpchứa nhiều xỉ.
c. Chế độ hàn đắp
Khi hàn đắp phần dẫn điện của dây bột là vỏ kim loại của nó và hồ quang cháy
giữa đầu mút vỏ kim loại và chi tiết hàn đắp. Lõi dây hàn cháy nhanh hơn vỏ, kết quả
đầu mút dây tạo thành một hình chóp từ vỏ. Hồ quang cũng có thể được tạo thành
giữa những giọt kim loại ở đầu mút dây hàn và vật hàn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hồ quang cháy ổn định khi mật độ dòng điện từ 75 – 100A/mm2 và tốc độ đẩy
dây hàn không đổi.
Chế độ hàn đắp tự động bằng dây bột phục hồi các chi tiết hình trụ bằng thép
các bon và thép hợp kim (bảng dưới)
Bảng 2-6. Chế độ hàn đắp bằng dây bột
Đường kính
chit iết(mm)
Đường kính
dây hàn(mm)
Dòng điện
hàn(A)
Điện áp hồ
quang(V)
Tốc độ
hàn (m/h)
Bước tiến
(mm/v)
55
100
3,0
3,0
180 – 220
240 – 300
25 – 26
26 – 27
14
28
4
4
Chế độ và công hàn đắp bằng dây bột cần được xác định cho từng chi tiết cụ thể,
thành phần hoá học của kim loại lớp đắp không chỉ chịu ảnh hưởng của dây hàn mà
còn của thuốc hàn và chế độ hàn đắp. Cùng một loại dây nhưng chế độ hàn sẽ thay đổi
khi ta hàn với những loại thuốc khác nhau, đồng thời thành phần hoá học của kim loại
lớp hàn đắp cũng khác nhau.
2.2.4. Hàn đắp tự động trong môi trƣờng khí bảo vệ
2.2.4.1 hàn MAG
a) Nguyên lý và đặc điểm
H2.7. Sơ đồ nguyên lý hàn đắp tự động trong khí bảo vệ
- Hồ quang cháy trong luồng khí bảo vệ. Khí bảo vệ đẩy không khí khỏi vùng hồ
quang cháy đồng thời bảo vệ kim loại loại lỏng khỏi oxy và nitơ của không khí. Trong
số các chất khí bảo vệ thường dùng khí trơ, khí hoạt tính hoặc hỗn hợp của chúng.
- Ngày nay sử dụng nhiều phương pháp hàn và hàn đắp trong khí bảo vệ, như:
hàn tay, hàn tự động và bán tự động bằng dây nóng chảy và không nóng chảy, hàn
một hồ quang hoặc nhiều hồ quang.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hàn đắp tự động trong khí bảo vệ được sử dụng rộng rãi nhất. Nó thực hiện
được nhờ nhờ việc cung cấp dây hàn liên tục xuống vũng hàn; khí bảo vệ từ bình
chứa, truyền qua bầu dẫn khí bao bọc lấy tẩu hàn và xuống vùng hàn tạo thành một
hình chóp khí bao bọc lấy hồ quang.
- Để bảo vệ tốt, vòi phun khí cần có cấu tạo và hình dạng thích hợp. Cấu tạo
vòi phun phụ thuộc loại khí, bề mặt vật hàn và cấu tạo đầu hàn đắp. Ngoài ra nó còn
phụ thuộc vào khoảng cách giữa miệng vòi phun và bề mặt chi tiết, tốc độ hàn đắp và
tốc độ chuyển động của không khí tại vị trí hàn đắp, áp suất của khí bảo vệ. Tốc độ
hàn đắp càng lớn và không khí chuyển động càng mạnh thì luồng khí bảo vệ sẽ bị
lệch, do đó hiệu quả bảo vệ thấp.
- Hàn đắp trong khí bảo vệ cho phép cơ khí hoá và tự động hoá quá trình hàn
trong bất kỳ vị trí không gian nào thích hợp với bề mặt chi tiết hàn đắp, kể cả hàn trần.
Việc quan sát dễ dàng hồ quang và sự hình thành mối hàn cho phép sử dụng phương
pháp hàn đắp này để phục hồi những chi tiết phức tạp như khuôn dập. Thao tác hàn lại
đơn giản, không cần thiết các cơ cấu giữ thuốc và xỉ nóng chảy, chất lượng lớp kim
loại hàn đắp cao.
b) Khí bảo vệ và dây hàn
Khí bảo vệ
Thường dùng các loại khí: agôn, cacbonic, heli, nitơ và một số chất khí khác. Song
thường dùng nhiều nhất là agôn, cacbonic.
Agôn là khí trơ một nguyên tử, agôn tinh khiết không liên kết hoá học với kim
loại, không phụ thuộc vào nhiệt độ nung nóng.
Agôn dùng để hàn và hàn đắp các chi tiết thép không gỉ, chịu nhiệt và kim loại
loại màu. Khí nitơ và hyđrô xâm nhập vào vũng hàn thì kim loại hàn đắp sẽ bị rỗ. Bởi
vậy thường trộn vào agôn một lượng 5-10% hoặc 10-20% CO2. Trong hàn đắp bằng
điện cực nóng chảy thường dùng hỗn hợp agôn và cacbonic, lượng tiêu thụ khí agôn
sẽ giảm 5-6 lần.
Cacbonic là khí hoạt tính, dùng để hàn đắp các chi tiết máy bằng thép cacbon,
thép HợP KIM thấp và một số loại thép hợp kim trung bình. Cacbonic là khí rẻ, rẻ hơn
agôn 12 – 14 lần, sẵn và có hiệu quả khi hàn đắp.
Dây hàn
Để hàn đắp trong khí cacbonic thường dùng dây thép C và thép hợp kim đường
kính từ 0,5-2,5mm và dây bột đường kính 2,5-3mm. Dây hàn phải sạch, không bị gỉ.
Thành phần hoá học của dây hàn phải đảm bảo khả năng khử oxy của vũng
hàn, hợp kim hoá nó và nhận lớp kim loại hàn đắp bền chắc. Khi khí cacbonic quá ẩm
và chứa nhiều nitơ, và khí bảo vệ vùng hàn không tốt, chất khử oxy không đủ thì trong
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
bể hàn sẽ hình thành nhiều khí, cháy không kịp thoát khỏi vũng hàn và tạo rỗ khí
trong lớp hàn đắp. Người ta dùng Si, Mn làm các chất khử oxy khi hàn đắp các chi tiết
bằng thép C và thép hợp kim thấp.
Để hàn đắp trong môi trường khí trơ người ta dùng điện cực không nóng chảy
bằng W nguyên chất và thori – vonfram hoặc titan – vonfram. Hai loại đầu để hàn đắp
bằng nguồn xoay chiều; loại thứ ba để hàn đắp bằng nguồn điện một chiều cực thuận.
b) Chế độ và kỹ thuật hàn
Các yếu tố quan trọng của kỹ thuật hàn đắp trong khí bảo vệ CO2 là: loại dòng
điện và cực tính, mật độ dòng điện, điện áp hồ quang, đường kính dây hàn và tầm với
của nó, tốc độ hàn đắp, tốc độ đẩy dây hàn.
- Trong hàn đắp không thể nhận được chiều sâu ngấu lớn. Bởi vậy yếu tố cơ
bản là tính ổn định của hồ quang, năng suất hàn đắp và chất lượng công tác hàn đắp.
Để đảm bảo hồ quang ổn định nên chọn cường độ hàn theo các số liệu sau:
Đường kính dây
hàn(mm) 0,8 1,0 1,2 1,6 2,0 2,4
Cường độ dòng
hàn đắp(A) 60–150 80–180 90–270 120–350 200–500 250–600
- Trường hợp không muốn chiều sâu ngấu lớn nên sử dụng cường độ hàn nhỏ
với tốc độ đẩy dây nhỏ. Thay đổi cường độ hàn và tốc độ đẩy dây ảnh hưởng tới điện
áp hàn hồ quang. Điện áp hồ quang là yếu tố quang trọng của chế độ độ hàn đắp. Tăng
điện áp hàn hồ quang làm tăng chiều rộng mạch hàn đắp, tăng lượng kim loại mất mát
do bắn tung téo, bay hơi và oxy hoá; làm giảm chất lượng hàn đắp, mối hàn chứa rỗ
khí.
- Hàn đắp trong khi CO2 có nhiều ưu điểm, đặc biệt so với hàn đắp dưới lớp
thuốc khi phục hồi những chi tiết nhỏ. Nó cho phép hàn đắp những chi tiết có đường
kính tới 10 – 20 mm, trong khi hàn dưới lớp thuốc chỉ phục hồi những chi tiết đường
kính tới 45 – 50mm.
- Khi cần tăng độ cứng và độ chịu mòn của lớp đắp thường dùng dây hàn bột.
- Tầm với của điện cực ảnh hưởng đến tính ổn định của quá trình hàn đắp. Tầm
với điện cực lớn làm đầu dây hàn quá nóng và cháy mạnh. Tầm với điện cực nhỏ, quá
trình hàn khó thực hiện. Có thể chọn tầm với của điện cực theo các số liệu sau:
Đường kính dây
hàn(mm) 0,8 1,0 1,2 1,6 2,0 2,5
Tầm với điện
cực(mm) 6 - 12 7 - 13 8 - 15 13 - 20 15 - 25 15 - 30
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Khoảng cách từ miệng phun khí tới bề mặt chi tiết ảnh hưởng tới khả năng
bảo vệ kim loại lỏng khỏi tác dụng của không khí. Miệng phun khí quá gần thì dễ bị
cháy và bị vụn kim loại lấp kín lỗ phun; để quá xa thì quá trình bảo vệ sẽ bị phá hoại.
Thực nghiệm cho thấy: với đường kính dây 1,6 – 2,5mm cần giữ trong khoảng 15 –
20mm; lượng khí tiêu hao là 0,75 – 1,5m3/h và khi hàn đắp với dây 0,5 – 1,2mm csac
giá trị tương ứng là 7 – 12mm và 0,4 – 0,6m3/h.
- Để cải thiện khả năng bảo vệ của khí khi hàn đắp những chi tiết tròn, bề mặt
miệng phun khí cần có hình dạng thích hợp với mặt vật đắp.
- Khi hàn đắp chọn bước hàn sao cho đường hàn sau ôm lấy đường trước 1/3
chiều rộng mối hàn. Các chi tiết từ thép các bon cao và thép hợp kim cần nung nóng
trước khi hàn, đồng thời khí bảo vệ cũng được nung nóng tới nhiệt độ cao hơn. Khi
hàn đắp nhiêu lớp, đặc biệt các chi tiết nhỏ, chi tiết hàn có thể quá nóng (trên 500 –
6000) hồ quang mất ổn định và kim loại bắn tung téo. Trong trường hợp này cần giảm
đường kính dây hàn và cường độ hàn, đồng thời tăng lượng khí bảo vệ.
2.2.4.2 Hàn đắp hồ quang tay bằng điện cực không nóng chảy trong môi trƣờng
khí bảo bệ (TIG)
a) Nguyên lý và đặc điểm
Hàn TIG (Tungsten Inert Gas) là quá trình hàn bằng điện cực không
nóng chảy Vonfram trong môi trường khí trơ bảo vệ (khí trơ Ar, He hoặc Ar +
He) có tác dụng ngăn cản những tác động có hại của ôxy và nitơ trong không
khí và ổn định hồ quang.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Vùng hồ quang có nhiệt độ rất cao, có thể đạt tới 61000C. Kim loại
mối hàn có thể chỉ do kim loại vật hàn tạo nên (khi hàn liên kết gấp mép) hoặc
được bổ sung từ kim loại phụ. Toàn bộ vũng hàn được bao bọc bởi khí trơ thổi
ra từ chụp khí.
- Đặc điểm :
Phương pháp hàn TIG có một số đặc điểm sau :
+ Tạo ra mối hàn có chất lượng cao đối với hầu hết kim loại và hợp kim.
+ Không có hiện tượng bắn tóe kim loại khi hàn.
+ Có thể hàn ở mọi vị trí trong không gian.
+ Nhiệt tập trung cao cho phép tăng tốc độ hàn, giảm biến dạng.
+ Khó bảo vệ vũng hàn trong môi trường có gió.
+ Có thể tự động hóa khi hàn.
+ Thường hàn vật có chiều dầy s 5mm
- Phạm vi sử dụng :
Hàn TIG được áp dụng trong nhiều lĩnh vực sản xuất, đặc biệt rất thích hợp
trong hàn thép hợp kim cao, kim loại màu và hợp kim của chúng.
b) Các thông số cơ bản của chế độ hàn TIG
- Cường độ dòng điện hàn : chọn theo bảng
- Thời gian tăng cường độ dòng hàn lên trị số đã chọn : tùy thuộc vào vị
trí hàn, tính chất vật liệu,… để chọn cho thích hợp.
- Thời gian giảm cường độ dòng hàn đến khi tắt hồ quang với mục đích
tránh lõm cuối đường hàn.
- Tốc độ hàn : ảnh hưởng nhiều đến độ ngấu mối hàn.
- Đường kính điện cực W, que hàn phụ : tùy theo chiều dầy vật liệu, loại
dòng điện hàn để chọn đường kính điện cực và que hàn phụ (chọn theo bảng).
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Lưu lượng khí bảo vệ và kích cỡ chụp khí : chọn theo chiều dầy vật
liệu, tính chất vật liệu và loại khí bảo vệ.
2.2.5 Hàn đắp tự động hồ quang rung
2.2.5.1 Nguyên lý và đặc điểm
Hàn đắp tự động hồ quang rung là quá trình hành trong đó hồ quang hàn xuất
hiện giữa đầu dây hàn và kim loại cơ bản luôn gián đoạn do sự rung động của tẩu hàn.
Mối hàn được tạo thành từ kim loại dây hàn và một phần kim loại nóng chảy dưới tác
dụng của nhiệt hồ quang. Như vậy quá trình hàn bao gồm những chu kỳ ngắn lặp đi
lặp lại liên tục. Mỗi chu kỳ có thể chia làm 3 giai đoạn: ngắn mạch, phát sinh hồ
quang (hay làm việc) và chạy không.
- Khi ngắn mạch điện áp trong mạch hàn giảm tới không, cường độ dòng điện
hàn tăng lên nhanh chóng.
- Tiếp theo là giai đoạn làm việc, khi đó hồ quang xuất hiện trong một thời gian
rất ngắn. Nếu tốc độ dao động của tẩu hàn là 50Hz thì mỗi chu kỳ chỉ diễn ra trong
0,01s.
- Thời gian chạy không chiếm tới 65 – 70% thời gian của mỗi chu kỳ. Do vậy
hiệu suất nhiệt rất thấp.
Để tăng hiệu suất nhiệt và chất lượng lớp kim loại đắp cần hạn chế tới mức nhỏ
nhất thời gian chạy không và thay đổi trị số xung của dòng điện. Có thể thực hiện
bằng cách mắc nối tiếp vào mạch hàn một trở kháng cảm ứng dạng cuộn cản của máy
biến thế hoặc một điện dung. Khi đó trị số xung của dòng điện tại điểm tiếp xúc giảm,
tốc độ thay đổi của dòng điện ở dây giảm, giai đoạn chạy không hầu như được loại
trừ, tính ổn định của hồ quang tăng lên và thời gian dây cháy của nó cũng tăng. Sự
phóng điện khi hàn đắp mang đặc tính của quá trình hàn hồ quang tiếp xúc.
Để hiểu rõ bản chất của quá trình hàn rung, ta nghiên cứu sơ đồ hoạt động của
thiết bị hàn (H2-7).
Trong khi hàn đắp dây hàn 4 được cung cấp liên
tục từ cuộn dây 5 nhờ cơ các con lăn 3 qua vòi
rung 9. Vòi rung làm rung động đầu mút dây hàn
10 với biên độ từ 1,5-2,5mm, tuỳ theo đường
kính dây hàn. Sự rung động đó làm ngắt mạch
hàn tại điểm tiếp xúc của đầu dây hàn với chi tiết
hàn đắp 11. Cơ cấu rung có thể là điện từ hoặc cơ
học. Trên hình vẽ sự rung thực hiện
H2-8. Sơ đồ thiết bị hàn đắp điện rung.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
bằng cuộn điện từ 6 và điều chỉnh bằng lò xo 7 hoặc bằng cách thay đổi điện thế trong
cuộn dây của cuộn điện từ trong khoảng 20-36V. Mạch hàn được cung cấp dòng điện
một chiều từ nguồn điện hàn 1 qua biến trở 12. Dung dịch làm mát được máy bơm 8
bơm qua ống dẫn nước 2 xuống vòi hàn 9.
Trong thời gian ngắn mạch, dòng điện chạy qua điểm tiếp xúc có mật độ tới
400A/mm2. Kết quả, kim loại tại điểm tiếp xúc bị nung nóng tới nhiệt độ khá cao. Sau
đó đầu dây hàn tách khỏi chi tiết hàn đắp và để lại trên bề mặt của nó một phần kim
loại của dây hàn. Tiếp theo hồ quang xuất hiện làm nóng chảy phần kim loại này và
một phần kim loại cơ bản. Đầu dây hàn xa dần, chiều dài hồ quang tăng lên và tới một
lúc nào đó sẽ bị tắt. Tiếp theo là thời gian chạy không. Các quá trình đó được lặp đi
lặp lại trong suốt thời gian hàn đắp, tạo lên trên bề mặt chi tiết một lớp kim loại hàn
đắp.
Sự đốt nóng và làm chảy kim loại trong quá trình là nhờ nhiệt lượng toả ra do
hiện tượng tiếp xúc và do hồ quang. Theo tính toán khoảng 10% nhiệt toả ra là do tiếp
xúc còn lại là do hồ quang. Bởi vậy, thực tế sự ngắn mạch không có tác dụng làm
nóng chảy kim loại, trái lại, hồ quang gây ảnh hưởng chủ yếu tới quá trình và chất
lượng hàn đắp. Điều này liên quan đến nguồn điện hàn. Do đặc điểm của quá trình
công nghệ hàn rung, nguồn điện hàn phải có đặc tính ngoài cứng, đảm bảo cung cấp
dòng điện hàn với điện áp hồ quang từ 15 – 25V. Có như vậy mới đảm bảo hồ quang
ổn định, kim loại lỏng ít bắn tung tóe.
Điện áp hồ quang càng cao thì các giọt kim loại chuyển từ đầu mút dây hàn tới
vũng hàn càng mạnh, chiều dày lớp hàn đắp do đó tăng lên. Đồng thời hồ quang kém
ổn định, kim loại lỏng bắn nhiều. Sự mất mát kim loại dây hàn do bắn tung toé có thể
đạt tới 60% khi ta hàn với điện áp hồ quang 28V.
Sự dao động của điện cực tạo điều kiện cho kim loại nóng chảy của dây hàn
chuyển qua chi tiết hàn đắp dưới dạng những hạt nhỏ, vũng hàn được tạo thành rất bé
song đủ làm nóng chảy kim loại cơ bản và vật liệu hàn, chi tiết hàn ít nóng và chiều
sâu vùng ảnh hưởng nhiệt bé. Ngoài ra khi hàn đắp điện rung giảm được sự bay hơi
của các nguyên tố hợp kim của dây hàn. Chiều dày lớp hàn đắp có thể thay đổi từ 0,8-
3,5 mm tuỳ theo đường kính dây hàn và chế độ hàn đắp. Chi tiết ít bị nung nóng do đó
biến dạng nhiệt không đáng kể.
Nhược điểm: Do vũng hàn bé không đảm bảo sự trộn lẫn tốt giữa kim loại cơ
bản và kim loại đắp, mối hàn thường chứa nhiều rỗ khí và vết nứt tế vi.
ứng dụng: phục hồi các chi tiết hình trụ có đường kính 15-80mm độ mòn
không quá 2mm về một phía. Các chi tiết làm việc trong điều kiện tải trọng va đập lớn
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
và đổi chiều, như ngõng trục của ôtô, trục khuỷu … không nên phục hồi bằng phương
pháp này.
2.2.5.2 Dây hàn và dung dịch làm mát
Thường sử dụng dây thép các bon hoặc thép hợp kim với các loại đường kính
từ 1-3mm. Loại dây chọn theo yêu cầu về độ cứng của lớp hàn đắp và phương pháp
gia công nhiệt sau khi hàn. Cần lưu ý rằng các nguyên tố C, Mn, Cr, Mo, … càng
nhiều thì độ cứng kim loại lớp đắp càng cao, đồng thời khuynh hướng tạo vết nứt càng
tăng. Trong phương pháp này mối hàn được làm mát ngay sau khi tạo thành, chi tiết
hàn lại luôn nguội, do đó kim loại cơ bản tham gia vào mối hàn ít, kết quả tính chất
mối hàn chủ yếu được xác định bằng dây hàn. Thực nghiệm cho thấy muốn đạt độ
cứng lớp đắp 40-45HRC mối hàn không có vết nứt, cần dùng dây hàn không vượt quá
0,4% C. Khi lượng C tới 0,6% độ cứng đạt tới 55HRC nhưng trong lớp đắp có nhiều
vết nứt.
Đường kính dây hàn chọn tuỳ theo chiều dày lớp hàn đắp, cường độ dòng điện
và cấu tạo của đầu hàn đắp. Với chiều dày yêu lớp đắp tới 1mm sử dụng đường kính
dây hàn tới 1,6mm; khi chiều dầy tới 2mmđường kính dây tới 2,5mm và chiều dày lớn
hơn 2mm thì dùng dây đường kính 2-3mm. Tuy nhiên không nên hàn với dây đường
kính quá 2,5mm vì chế độ hàn sẽ không ổn định và chất lượng lớp hàn đắp không đảm
bảo, trước hết là mối hàn hình thành không tốt.
Dung dịch làm mát thường dùng là những dung dịch ion hoá vùng hàn tốt,
chẳng hạn dung dịch nước chứa tới 5% canxi cacbonat, 1% xà phòng và 0,5%
glixêrin; dung dịch nước chứa tới 6% canxicacbonat, dung dịch nước chứa tới 3 - 4%
canxicacbonat và 4-5% glixêrin hoặc dung dịch nước 20-30% glixêrin. Dung dịch
cuối cho kết quả tốt nhất.
Dung dịch làm mát đóng vai trò làm mát chi tiết và tẩu hàn trong quá trình hàn
đắp, đồng thời nó còn có tác dụng bảo vệ kim loại lỏng khỏi không khí và làm cho
quá trình hàn đắp tiến hành thuận lợi hơn.
2.2.5.3 Chế độ và kỹ thuật hàn đắp
Chất lượng lớp hàn trong hàn đắp điện rung chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
công nghệ. Ngoài 3 thông số chính: cường độ, điện áp và tốc độ hàn như hàn tự động,
hàn điện rung còn chịu ảnh hưởng của biên độ tần số dao động của điện cực, góc
nghiêng của điện cực, số vòng cảm ứng của cuộn cảm, hướng và vị trí dung dịch làm
mát, … Những yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau và xác định chất lượng lớp đắp.
- Cường độ dòng điện ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất hàn, đến kích thước cơ
bản của mối hàn. Cường độ hàn được xác định bằng đường kính và tốc độ chuyển
động của dây hàn. Nó còn phụ thuộc vào tần số dao động của điện cực, trị số cản
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
trong mạch hàn, đặc biệt trị số cản giữa điện cực và chi tiết hàn đắp. Cường độ hàn có
thể xác định bằng trị số mật độ của nó. Mật độ dòng điện trong hàn đắp điện rung
bằng 60-70 A/mm2 đối với dây đường kính tới 2mm và 50-70A/mm
2 đối với dây
đường kính lớn hơn 2mm. Khi tăng tốc độ dây hàn cần tăng mật độ dòng điện.
- Điện áp hồ quang có thể điều chỉnh trong phạm vi từ 15-30V. Giảm điện áp hồ
quang thường làm giảm tính ổn định của hồ quang và độ sâu nóng chảy trên kim loại
cơ bản. Bằng thực nghiệm ta xác định được trị số điện áp theo đường kính dây hàn.
Đường kính 1,5mm điện áp hồ quang phảI là 15-22V. Thông thường có thể tăng điện
áp hồ quang lên một ít để tăng tính ổn định của quá trình hàn đắp.
Tốc độ hàn xác định tuỳ thuộc vào bề dày lớp hàn đắp. Có thể theo công thức sau:
Vh = 2
1.
2
..
...785,0
Ks
KVd e
Trong đó: Vh – tốc độ hàn đắp, mm/s
d - đường kính dây hàn, mm
Vc – tốc độ đưa dây hàn, mm/s
k1 – hệ số chuyển kim loại dây hàn tới mối hàn, k1 = 0,8 - 0,9
δ – chiều dày lớp hàn đắp, mm
s – bước tiến điện cực, mm/vg
k2 – hệ số chênh lệch giữa tiết diện thực tế và tính toán của lớp hàn đắp, k2=
0,9-1,0
Nếu nhân k1 = 0,85 và k+2+ = 0,95 thì tốc độ hàn đắp sẽ là:
Vh =s
Vd e
.
.7,0 .2
Thực tế các chi tiết hàn đấp có đường kính thay đổi và tốc độ quay của chi
tiết hàn đắp cũng thay đổi theo cấp, vì vậy chọn Vh theo công thức trên là khó chính
xác. Bởi vậy thường chọn theo thực nghiệm, kết quả cho thấy Vh = 14 – 34m/h với
dây hàn đường kính 1,5mm và Vh = 23 – 48m/h đối với dây đường kính 2mm.
- Biên độ dao động của điện cực phụ thuộc đường kính dây hàn và điện áp hồ
quang. Đường kính dây hàn càng lớn và điện áp hồ quang càng cao thì biên độ dao
động của điện cực càng lớn. Thường biên độ dao động của điện cực nằm trong khoảng
từ 0,75 – 1 đường kính dây hàn.Tăng biên độ dao động sẽ giảm thời gian phóng điện,
điện cực có điều kiện làm mát tốt hơn, sẽ giảm chiều dày lớp kim loại hàn đắp. Giảm
biên độ dao động của điện cực sẽ làm tăng thời gian ngắn mạch, quá trình hàn mất ổn
định.
- Góc nghiêng điện cực có ảnh hưởng đến hình dấng mối hàn. Góc nghiêng
càng tăng thì chiều rộng mối hàn càng tăng thì chiều rộng mối hàn càng tăng, song tới
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
một trị số nào đó, chiều rộng mối hàn bắt đầu giảm. Ngược lại chiều cao mối hàn hầu
như luôn giảm, theo chiều tăng của góc nghiêng điện cực (H2-8). Hình dáng mối hàn
tốt nhất khi hàn với góc nghiêng điện cực từ 20 – 600.
- Lượng dung dịch có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ nguội của chi tiết hàn và
khác nhau đối với những chi tiết có đường kính khác nhau. Đường kính chi tiết hàn
càng bé thì lượng dung dịch làm mát phảí càng lớn, nói chung lượng dung dịch làm
mát không quá 3l/ph.
- Bước hàn đắp (bước tiến của điện cực) liên quan đến chiều rộng mối hàn và
phụ thuộc vào điện áp hồ quang, cường độ dòng điện và tốc độ làm nguội kim loại
mối hàn. Bằng thực nghiệm cho thấy:với điện áp hồ quang từ 12 – 15V thì bước hàn
đắp bằng 1,2 – 1,5 đường kính dây hàn, với điện áp hồ quang từ 15 – 20V thì bước
hàn đắp bằng 1,5 – 2,0 đường kính dây hàn. Tăng bước hàn làm cho kim loại cơ bản
nóng chảy tốt hơn, song các đường hàn có thể không xếp đều đặn và độ tinh khiết của
kim loại lớp đắp không đảm bảo.
Chiều dày lớp hàn đắp xác định bằng lượng mài mòn của chi tiết máy và khả
năng của phương pháp hàn đắp. Phương pháp này cho phép nhận được lớp đắp chiều
dày bằng mấy phần mười mm 3 hoặc 3,5mm. Lượng dư gia công cơ khí bằng 0,8 –
1,2mm về một phía.
Chọn chế độ hàn đắp thường xuất phát từ bề dày lớp đắp. Sau đó chọn loại dây
hàn và đường kính của nó. Loại dây hàn chọn tuỳ thuộc vào độ cứng cần thiết của lớp
hàn đắp., còn đường kính phụ thuộc bề dày của lớp đắp. Tiếp theo xác định tốc độ đẩy
dây (hay cường độ dòng điện), điện áp hồ quang, bước hàn, tốc độ hàn và lượng dung
dịch làm mát.
2.2.6 Hàn đắp điện xỉ
Hàn đắp điện xỉ là phương pháp hàn mới, hiện đại, do Viện Hàn Patôn (Liên Xô)
phát minh. Nó cho phép hàn kim loại có chiều dày không hạn chế với năng suất rất
cao và chất lượng mối hàn tốt. Được sử dụng để phục hồi hàn đắp mặt phẳng, trụ và
côn với chiều dày yêu cầu của lớp đắp không nhỏ hơn 10mm. Nguyên tắc hàn từ dưới
lên theo phương thẳng đứng hoặc nghiêng một góc không lớn hơn 300.
2.2.6.1 Nguyên lý
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H.2.9 Sơ đồ nguyên lý hàn điện xỉ
Hàn điện xỉ: Nhiệt phát ra do dòng điện đi qua lớp xỉ và kim loại lỏng có điện trở
lớn, nhiệt lượng sinh ra đủ để nung chẩy thuốc hàn, điện cực và một phần kim loại cơ
bản để tạo nên vũng hàn.
Điện cực nhúng sâu vào vũng xỉ một đoạn ( l ), bề mặt điện cực cách bề mặt vũng
kim loại lỏng một đoạn (a ). Nhiệt lượng sinh ra trong vũng hàn
Q = 0,24.I2.R.t = 0,24 U.I.t
Hàn điện xỉ có thể dùng điện cực dây hoặc tấm, hoặc kết hợp tấm và dây. Dòng
điện đi qua lớp xỉ lỏng và đi qua vũng kim loại lỏng ở giữa tạo ra nhiệt độ cao. Làm
thuốc hàn, điện cực và mép chi tiết hàn chảy ra;
Quá trình hàn điện cực đi xuống với vận tốc không đổi và nhúng sâu vào xỉ lỏng
một đoạn ( l ) trong suốt quá trình hàn. Nếu Vdc = const = tốc độ nóng chảy thì khoảng
cách giữa bề mặt điện cực và vũng kim loại lỏng không đổi và lượng kim loại nóng
chảy ra của điện cực và mép hàn không đổi;
Dòng điện chạy qua xỉ lỏng sẽ phát nhiệt (tính theo công thức trên) Vdc đi xuống
bằng Vnc của dây. Khoảng cách giữa bề mặt điện cực và kim loại lỏng không đổi, độ
ngập sâu của điện cực không đổi. Trong quá trình hàn mối hàn nằm dưới kim loại
lỏng và kết tinh, nhiệt dự trữ của vũng xỉ sẽ cung cấp cho việc nung nóng và nóng
chẩy kim loại hàn để tạo vũng xỉ và kim loại lỏng;
Sơ đồ công nghệ (H2- 8). Hàn điện xỉ nói chung giống hàn dưới lớp thuốc. Sự
khác nhau cơ bản là hồ quang không có khi chế độ hàn ổn định. Các chi tiết hàn 1 gá
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
đứng với khe hở nhất định. Dọc theo khe hở có đồ gá làm nguội 7 áp sát mặt chi tiết
hàn. Đồ gá làm nguội còn đóng vai trò tạo hình dáng mối hàn.
Dây 2 và thuốc hàn 3 được cung cấp tự động xuống khoảng không gian tạo bởi
mép vật hàn và đồ gá làm nguội. Hồ quang 5 chỉ xuất hiện lúc đầu của quá trình, khi
lượng xỉ lỏng 4 đã đủ lớn, dây hàn nóng chảy trong lớp xỉ và hồ quang mất. Dòng
điện chạy qua thuốc nóng chảy, nung nóng thuốc và giữ nó ở nhiệt độ cao với tính dẫn
điện tốt.
Nhiệt độ thuốc lỏng cao hơn nhiệt độ nóng chảy của kim loại, kết quả kim loại
cơ bản và kim loại bổ sung nóng chảy tạo thành vũng kim loại lỏng 6. Cùng với sự
nóng chảy của dây hàn, đồ gá làm nguội 7 dịch chuyển từ dưới lên và tạo thành mối
hàn 8 liên kết các mép vật hàn.
Mức tiêu thụ thuốc hàn do bay hơi và tạo lớp xỉ lỏng chiếm không quá 5% khối
lượng kl đắp, so với hàn dưới lớp thuốc mức tiêu hao đó giảm15 – 30 lần. Tiêu thụ
điện năng cũng giảm nhờ giảm được năng lượng làm nóng chảy thuốc.
Bể hàn với chiều sâu lớn và tồn tại lâu tạo điều kiện cho khí và tạp chất phi kl
thoát dễ dàng hạn chế việc hình thành rỗ khí và các vết nứt. Việc nung nóng và làm
nguội chậm vùng ảnh hưởng nhiệt loại trừ được hiện tượng tôi nhưng hạt phát triển và
chiều rộng vùng ảnh hưởng nhiệt lớn hơn nhiều lần so với hàn dưới lớp thuốc.
Kim loại hàn đắp bằng điện xỉ chiếm 80 – 90% kim loại dây hàn nóng chảy. Vì
vậy chỉ có thể hợp kim hoá kim loại đắp thông qua dây hàn.
(bỏ sung hình nguyên lý)
2.2.6.2 Công nghệ hàn đắp điện xỉ
Trước khi hàn, mép vật hàn cắt dưới góc vuông bằng ngọn lửa oxy hoặc bằng
cơ khí. Mép vật hàncho phéplồi, lõm tới 3mm.
Khi gá vật hàn cần chú ý khe hở giữa các mép. Thường chiều rộng khe hở chọn
từ 20 – 35mm. Khe hở gây khoa khăn cho việc đưa tẩu hàn vào vị trí hàn và làm giảm
độ ăn sâu của mối hàn, kết quả có thể giảm độ bền của mối hàn. Khe hở lớn làm giảm
năng suất hàn và tốn nhiều vật liệu hàn.
Chế độ hàn điện xỉ được xác định bằng các điều kiện đặc trưng cho tính ổn
định của quá trình, kích thước, hình dáng và chất lượng kim loại hàn đắp.
Đường kính và số lượng dây hàn chọn tuỳ thuộc vào chiều dày vật hàn hoặc chiều
dày mối hàn, Thường dùng dây đường kính 3mm, hoặc có thể tới 5- 6mm. Bằng một
dây đường kính 3mm, khi hàn không dao động ngang có thể hình thành mối hàn ổn
định đối với các chi tiết dày tới 60mm; bằng hai dây tới 60-130mm và ba dây tới 110-
200mm. Cũng những dây đó, song hnà có dao động ngang, bề dày vật hàn tương ứng
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
là 150, 350 và 600mm. Tốc độ dao động của điện cực (đầu dây hàn) thường chọn
trong phạm vi 30-40m/ph.
Cường độ hàn và điện áp hồ quang phụ thuộc vào bề dày vật hàn. Cườngđộ hàn
có thể xác định theo công thức king nghiệm sau:
Ih = M + Nδ
Trong đó Ih – cường độ hàn, A
M, N – hệ số kinh nghiệm (M = 220 – 280; N = 3,2 – 4)
δ – chiềudày vật hàn, mm
Hoặc cường độ hàn cũng có thể xác định bằng công thức kinh nghiệm khác,
theo nmột hệ số tỷ lệ với tốc độ đẩy dây:
Ih = VeC
Với Ve – tốc độ đẩy dây, m/h
C – hệ số kinh nghiệm, bằng 1,6 – 2,2.
Điện áp hồ quang quy định trong phạm vi 35 – 50V. Chiều dày vật hàn càng
lớn điện áp hồ quang chọn càng cao.
Chiều sâu bể xỉ ảnh hưởng tới quá trình và chất lượng hàn. Chiều sâu tối ưu
của bể xỉ nằm trong khoảng 40- 60mm. Chiều sâu bể xỉ quá bé làm quá trình hàn mất
ổn định, xỉ sôi mạnh và bắn nhiều. Trường hợp ngược lại, chiều sâu ngấu giảm. Vì
vậy khi hàn và hàn đắp điện xỉ việc điều chỉnh chiều sâu bể xỉ được thực hiện bằng
phương pháp tự động.
2.2.7. Hàn đắp bằng hồ hồ quang plasma
2.2.7.1 Hồ quang plasma và ứng dụng của nó
- Plasma là chất được nung nóng tới mức hơi của nó ở trạng thái ion hóa mạnh.
Chất đó bao gồm các phân tử, nguyên tử, ion, điện tử và fôton phát sáng. Mỗi cm3
plasma chứa 109-10
10 phần tử mang điện. Nói cách khác plasma là một chất khí ion
hóa mạnh ở nhiệt độ cao. Trạng thái vật chất ở dạng plasma thường gọi là trạng thái
“thứ tư”.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Sự ion hóa gây ra bởi tác dụng của nhiệt độ cao hoặc điện trường tần số cao. Tùy
thuộc vào hình thức kích thước mà phân biệt plasma hồ quang hoặc plasma tần số cao.
Ta chỉ khảo sát plasma hồ quang dùng vào việc phục hồi chi tiết máy.
- Khí tạo plasma đi qua một khe hẹp chứa hai điện cực tạo hồ quang. Khí ép hồ
quang làm cho nhiệt độ của nó tới 16000o và cao hơn. Việc tạo ra một nhiệt lượng lớn
trong khoảng không gian nhỏ gây nên sự ion hóa chất khí, tức là làm xuất hiện trong
không gian điện cực những phân tử mang điện trái dấu, những ion và điện tử, cũng
như hơi vật liệu làm điện cực; dưới tác dụng của điện trường và khí nén chúng tạo nên
tia plasma có hướng, thường gọi là hồ quang nén. Plasma có tính dẫn điện cao do đó
dễ khống chế nó bằng điện trường và từ trường. Tốc độ chuyển động của các phần tử
trong tia plasma rất lớn và có thể xác định theo công thức:
trong đó: V- tốc độ chuyển động của các phần tử trong tia plasma, m/s.
I - cường độ dòng điện, A.
P - lượng nguyên tử khí trong 1 cm3.
r - bán kính điểm trên điện cực, cm .
Với áp suất khí 2- 3 at và cường độ dòng điện 400- 500 A, tốc độ chuyển động của
các phần tửu trong tia plasma có thể vượt 15000 m/s.
Cơ cấu tạo tia plasma gọi là mỏ đốt hoặc plasmatron. Sơ đồ nguyên lý mỏ đốt
plasma (H2- 9), có ba sơ đồ tạo plasma: hồ quang thẳng, hồ quang xiên và hồ quang
hỗn hợp.
Trong mỏ đốt tác dụng thẳng (H.a) hồ quang cháy giữa các điện cực không nóng
chảy vonfram 6 và vật hàn 1, bị ép bởi khe hẹp của miệng 2 và khí tạo plasma qua
khoảng không gian 5. Phần khí đi qua cột hồ quang nén bị ion hóa và thoát khỏi
miệng mỏ đốt tạo thành tia plasma. Lớp ngoài tương đối nguội của chất khí tạo nên
lớp cách điện và nhiệt giữa hồ quang và miệng mỏ đốt, bảo vệ nó khỏi bị phá hủy.
Nhiệt độ trong hồ quang nén tác dụng thẳng có thể đạt tới hơn 30000o. Mỏ đốt theo sơ
đồ này dùng để cắt kim loại và những công việc khác đòi hỏi nhiệt độ nung nóng cao.
0,8I PV
r
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H2-10. Sơ đồ đầu hăn plasma
a) tác dụng thẳng. b) tác dụng xiên. c) micro plasma.
1.vật hàn; 2. miệng làm nguội; 3. miệng bảo vệ khí; 4. nguồn điện;
5. buồng tạo khí plasma; 6. điện cực; 7. miệng điều tiêu.
Trong đầu hàn tác dụng xiên (Hb) hồ quang cháy giữa điện cực không nóng chảy
6 và miệng làm mát 2. Luồng khí ion hóa được nung nóng đáng kể thoát khỏi miệng
mỏ đốt ở dạng ngọn lửa sáng với nhiệt độ tới 16000o. Tại đây một phần lớn năng
lượng chi phí vào việc nung nóng luồng khí nhưng tốc độ tác dụng nhiệt của nó thấp
hơn vì bề mặt cột hồ quang tự do và sự truyền nhiệt vào môi trường bao bọc tăng theo
chiều tăng của dòng điện. Mỏ đốt theo sơ đồ tác dụng xiên dùng để tôi bề mặt và phun
kim loại.
Trong đầu hàn tác dụng hỗn hợp có hai hồ quang cháy: một ở giữa điện cực
vônfram không nóng chảy và khe làm nguội và một giữa điện cực vônfram nóng chảy
và vật hàn. Mỏ đốt theo sơ đồ này dùng vào việc hàn đắp bằng bột kim loại.
- Khi tia plasma chuyển động với tốc độ cao qua miệng mỏ đốt sẽ kéo theo không
khí của môi trường xung quanh vào vùng hàn. Bởi vậy để bảo vệ vùng hàn của mỏ đốt
người ta gá thêm miệng bảo vệ khí 3. ngoài việc bảo vệ nó còn có tác dụng ép tia
plasma và điều tiêu nó (Hc). Những mỏ đốt loại này gọi là microplasma vì chúng cho
phép nhận hồ quang nhọn trong phạm vi dòng điện bé (0,5- 30 A).
Nhiệt độ tia plasma phụ thuộc nhiều vào cường độ và lượng tiêu thụ khí tạo
plasma. Nhiệt độ cao nhất là ở vùng gần cột plasma, càng xa nhiệt độ càng giảm.
Nhiệt độ và độ dẫn điện của tia plasma tăng theo chiều tăng của dòng điện.
Đặc tính của tia plasma: nhiệt độ cao; tập trung công suất nhiệt trên một khối
lượng nhỏ vật liệu (vùng quá nhiệt chỉ khoảng 0,5- 1,0 mm, trong khi đó vùng quá
nhiệt của hàn hồ quang điện là 1,5- 3,0mm, và hàn hơi là 10- 20mm); có khả năng làm
nóng chảy và thậm chí bay hơi bất kì kim loại nào trong thiên nhiên. Vùng ảnh hưởng
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
nhiệt khi hàn đắp plasma rất nhỏ, chỉ 3- 6mm (khi hàn đắp hồ quang là 5- 15mm, và
khi hàn đắp khí là 15 - 30mm và cao hơn); lớp hàn đắp có chiều dày từ 0,1 tới vài
milimet. Ngoài ra plasma còn có ưu điểm các chất khí tạo plasma không bắt lửa và có
thể sử dụng không khí làm khí tạo plasma có thể tạo tia plasma có dạng gần giống với
tiết diện lỗ thoát của mỏ đốt và điều chỉnh dạng và hướng tia plasma bằng từ trường
ngoài; khi chuyển động với tốc độ cao trong tia plasma cho phép thổi kim loại nóng
chảy khi cắt, cắt tốc độ nhanh và cắt dưới nước.
Các dạng tia plasma khác nhau nhận được qua những sơ đồ điện khác nhau cho
phép sử dụng nhiều loại vật liệu phụ (dây, thỏi, bột ...), điều chỉnh riêng biệt trong
phạm vi rộng sự nóng chảy kim loại phụ và kim loại cơ bản, có thể nhận được lớp đắp
với chiều sâu ngấu nhỏ nhất. Bằng hàn đắp plasma có thể thực hiện tốt việc đắp các
lớp đồng chì, đồng đỏ, đồng thau trên thép với lượng sắt trong lớp đắp không vượt
quá 0,5%. Người ta cũng đã thành công trong việc đắp các chi tiết thép cacbon thấp và
thép hợp kim thấp bằng vật liệu chịu mòn mà lượng kim loại cơ bản tham gia vào lớp
đắp là nhỏ nhất. Trong lĩmh vực phục hồi chi tiết máy hàn đắp plasma là một trong
những phương pháp công nghệ tiến bộ và có triển vọng nhất.
2.2.7.2 Thiết bị và vật liệu hàn đắp plasma
Thiết bị hàn đắp plasma bao gồm nguồn điện hàn, biến trở đệm, cuộn cảm, dao
động từ, đầu hàn plasma, tủ điều khiển, hệ thống nước lưu thông, đồ gá cung cấp dây
hoặc đầu hàn plasma.
Nguồn điện hàn, sự khác nhau cơ bản giữa hồ quang điện và hồ quang nén (tia
plasma) là ở sự sử dụng khác nhau năng lượng hồ quang. Trong hồ quang thường
năng lượng được sử dụng từ các quá trình ở lân cận điện cực; ở trên mặt điện cực và ở
trong các lớp mỏng của bề mặt điện cực. Trong hồ quang plasma năng lượng được sử
dụng là của một cột riêng, vùng đốt nóng chiếm một khối lượng đáng kể.
Để tăng cường độ đốt nóng người ta tăng chiều dài hồ quang và thể tích cột. Công
suất đốt nóng được biểu thị bằng hai thừa số tương đương cùng bậc IU, trong đó U là
điện áp sụt trong cột. Thêm vào đó có thể nhận dòng plasma công suất hàng trăm và
thậm chí hàng ngàn kW.
Khi hàn đắp bằng điện cực nóng chảy trong hồ quang thường nếu tăng điện áp hồ
quang thì dòng điện giảm và khi hàn đắp tự động quan hệ đó đảm bảo cho chiều dài
hồ quang tự điều chỉnh. Ngược lại trong hàn đắp plasma sự thay đổi cường độ khi
thay đổi điện áp hồ quang làm cho chiều sâu ngấm không đồng đều và phá hoại sự ổn
định của quá trình. Những đặc điểm đó của hồ quang plasma đòi hỏi nguồn điện hàn
phải đảm bảo những yêu cầu thích hợp. Nếu như khi hàn hoặc hàn đắp hồ quang
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
thường yêu cầu quan trọng nhất là dòng điện không đổi thì trong hàn plasma cần có
công suất cung cấp UI không đổi.
Đặc tính nguồn điện cần có dạng hypecpon (H2.10) hoặc dạng đường thẳng gần
giống với nó (đường gạch) nhận được từ nguồn điện một chiều qua biến trở đệm, hoặc
dốc đứng, thậm chí đứng, cho phép thay đổi điện áp đáng kể khi dòng điện không đổi.
Cấu tạo của mỏ hàn plasma
H2-11. Mỏ hàn plasma và sơ đồ hàn
dây bằng thanh hợp kim cứng:
1. thanh hợp kim, 2.miệng khí bảo vệ,
3. miệng khí công tác, 4. điện cực
vônfram, 5. rãnh cấp nước và điện, 6.
khe cấp khí bảo vệ.
Cấu tạo của các mỏ plasma phụ thuộc chủ yếu vào công dụng và cách tạo plasma.
H2-11. đầu hàn plasma và sơ đồ hàn đắp bằng thanh hợp kim cứng. Khi hàn đắp mỏ
hàn chuyển động nhanh trước thanh hợp kim. Vũng hàn được bảo vệ bằng agôn cung
cấp qua khe 6. Có thể thay thanh hợp kim bằng các dây hàn khác nhau tùy theo yêu
cầu của lớp đắp. Chế độ hàn đắp chọn bằng phương pháp thực nghiệm. Chẳng hạn khi
hàn đắp hợp kim stelit (35- 50Co, 20-35Cr, 9- 15W, 1- 2C, còn lại Fe) chế độ hàn như
sau: cường độ 120- 130A, điện áp hồ quang 40- 50V, lượng agôn tạo plasma và bảo
vệ 8- 10dm3/ph, đường kính điện cực vônfram 3mm, đường kính miệng mỏ plasma
8mm.
2.2.7.3 Công nghệ hàn đắp plasma
a. Chọn chế độ hàn đắp:
Chất lượng lớp hàn đắp plasma phụ thuộc rất nhiều thông số, song tới nay người ta
vẫn chưa nghiên cứu đầy đủ ảnh hưởng của chúng.
Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng hàn đắp plasma là: chất lượng
chuẩn bị bề mặt hàn đắp, cường độ dòng điện, điện áp không tải và điện áp làm việc,
tốc độ hàn, khoảng cách từ mỏ hàn tới bề mặt hàn đắp, lượng tiêu thụ và chất lựơng
khí tạo plasma và khí bảo vệ, biên độ và tần số dao động ngang của mỏ hàn (khi hàn
rung), cũng như lượng nước làm nguội tiêu thụ.
- Chuẩn bị bề mặt hàn đắp bao gồm việc đánh sạch rỉ, dầu, mỡ và các chất bẩn
khác. Công việc này phải tiến hành kĩ hơn so với khi hàn đắp tự động thông thường.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi hàn đắp hồ quang điện thường sự liên kết giữa kim loại hàn đắp và kim loại cơ
bản thực hiện được nhờ các quá trình luyện kim và hóa học tại vũng hàn.
Khi hàn đắp plasma kim loại cơ bản không bị nóng chảy; độ bám của lớp đắp có
được là nhờ các quá trình rất phức tạp xảy ra khi liên kết kim loại ở pha lỏng và pha
rắn. Vì vậy mọi chất bẩn có thể có đều ảnh hưởng tới độ bám của lớp đắp. Ngườì ta
làm sạch bề mặt hàn bằng phương pháp tiện, mài hoặc phun.
- Cường độ dòng điện là thông số cơ bản của chế độ hàn đắp plasma. Khi tăng
cường độ hệ số đắp tăng, đồng thời kim loại bổ sung và kim loại cơ bản bị nung nóng
nhiều hơn. Việc tăng quá mức cường độ dòng điện có thể làm cho kim loại cơ bản
nóng chảy, trộn lẫn với kim loại hàn đắp và giảm chất lượng lớp đắp. Cường độ hàn
chọn bằng phương pháp thực nghiệm để đảm bảo nung nóng kim loại cơ bản tới giói
hạn nóng chảy của nó.
- Điện áp không tải của nguồn điện hàn ảnh hưởng tới sự ổn định của quá trình
hàn đắp. Quá trình hàn đắp dùng bột ổn định khi điện áp không tải không thấp hơn
100V và dùng dây- không thấp hơn 70V.
- Tốc độ hàn đắp ảnh hưởng tới hình dáng mối hàn, chất lượng và độ bám lớp
đắp. Tốc độ hàn đắp giảm chiều dày lớp đắp tăng. Hàn đắp với tốc độ quá nhỏ có thể
gây quá nhiệt và làm nóng chảy kim loại vật hàn.
Ngược lại, việc tăng quá lớn tốc độ hàn đắp sẽ làm giảm chiều rộng và chiều cao
của lớp hàn đắp; bề mặt vật hàn có thể không được nung nóng thích đáng, kết quả làm
giảm độ bám của lớp hàn đắp. Vì vật tốc độ hàn đắp phải chọn theo điều kiện về độ
bám và các kích thước cơ bản của lớp đắp.
- Khoảng cách từ mỏ hăn tới vật khi hàn bột giữ vai trò quan trọng. Tăng khoảng
cách đó làm giảm công suất nhiệt của quá trình; kim loại và vật hàn không đủ nung
nóng, độ bám và khả năng bảo vệ của khí giảm. Khi giảm khoảng cách đó công suất
nhiệt tăng, làm cho kim loại vật hàn quá nhiệt, xuất hiện tượng chảy rối của dòng khí
làm giảm khả năng bảo vệ. Khoảng cách thích hợp nhất nằm trong khoảng 12- 20
mm.
Khi hàn đắp bằng dây dẫn điện, khoảng cách thích hợp là 8- 16 mm, còn khoảng
cách từ miệng mỏ đốt tới dây dẫn điện là 5- 8 mm.
Ở Liên Xô đã ứng dụng phương pháp hàn đắp plasma bằng vật liệu bột (H2-13)
để phục hồi nhiều chi tiết máy kéo. Bằng phương pháp này có thể hàn đắp một lần
một lớp kim loại đắp dày 0,3- 3,5 mm và rộng tới 50mm. Nhờ chiều sâu ngấu nhỏ,
thậm chí không có nên có thể phục hồi được những chi tiết dạng ống thành mỏng. Chế
độ hàn đắp quy định như sau:
Máy dùng agôn Máy dùng nitơ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Cường độ, A 150- 200 120- 160
Điện áp không tải, V 120-160 50- 60
Lượng tiêu thụ khí tạo plasma, l/ph 1,5- 2,5 1,5- 2,5
Lượng tiêu thụ khí bảo vệ, l/ph 16- 20 20- 25
Lượng tiêu thụ khí tải, l/ph 5- 7 6- 9
Lượng tiêu thụ khí làm nguội, l/ph 5 5
Khoảng cách từ mỏ hàn tới chi tiết, mm 10- 18 10- 18
Số lần dao động của mỏ hàn trong 1 phút 40- 100 40- 100
Tốc độ hàn đắp, m/ph 0,15- 0,18 0,15- 0,18
c. Hàn đắp plasma với dây kim loại
Phương pháp này cũng thực hiện trên máy đã mô tả. Cấp dây hàn vào tia plasma
tại vị trí cách miệng ngoài của mỏ đốt khoảng 3-9 mm. Việc hàn đắp tiến hành như
trường hợp hàn bột, nghĩa là theo đường xoắn ốc hoặc mỏ hàn dao động ngang. Khi
hàn đắp với dây hàn ta không đấu cực dương với vật mà với dây; dây hàn dẫn điện
còn chi tiết là trung tính. Trong trường hợp này ta sử dụng thiết bị hàn tự động. Nó
làm nhiệm vụ cấp dây tự động vào bể hàn, các chức năng khác do mỏ đốt plasma thực
hiện. Theo cách đó, bề mặt chi tiết được nung nóng bằng plasma đồng thời tiếp nhận
kim loại bổ sung nóng chảy tạo thành lớp hàn đắp.
2.3. Vật liệu trong công nghệ hàn đắp
2.3.1 Vật liệu hàn
Những loại kim loại cơ bản được hàn đắp: có rất nhiều loại bao gồm thép cácbon,
thép hợp kim thấp, thép đúc, thép Mn cao, thép chống ăn mòn…
Thép cácbon và thép hợp kim thấp có đầy đủ tính dẻo dai đáp ứng yêu cầu của
công nghệ hàn đắp tuy nhiên nếu thành phần cácbon tương đương mà cao thì khi hàn
đắp cần phải tiến hành gia nhiệt, đấy là biện pháp hạn chế việc nứt khi hàn.
Tính hàn đối với các kim loại cơ bản: Khi hàn đắp thép cácbon và thép hợp kim
thấp, trị số cácbon tương đương được xem như một chỉ tiêu thể hiện đặc tính hàn của
thép. Trị số cácbon tương đương được tính theo biểu thức:
1 1 1 1 1 1
6 24 40 5 4 14C C Mn Si Ni Cr Mo V
(5.1)
Giữa giá trị cácbon tương đương và độ cứng tôi được ở vùng ảnh hưởng nhiệt tồn
tại sự phụ thuộc bậc nhất, được thể hiện bởi phương trình cho trường hợp hàn đắp
thép tấm dầy 20mm bằng que hàn có đường kính
d = 4 mm (I = 170A, vh = 15cm/phút) [1]
ax (600 40) 40mH C
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Trong đó: Hmax là độ cứng cực đại ở vùng ảnh hưởng nhiệt theo Vicker (tải
trọng 100N).
CЭ là trị số cácbon tương đương
Джеқсон đã đề nghị chế độ gia nhiệt đối với các chi tiết bằng thép cho các độ
cứng cực đại tại vùng ảnh hưởng nhiệt
Độ cứng cực đại HV dưới 200 - không cần nung trước
HV từ 200 – 250 - Có thể nung dưới 1000C
HV từ 250 – 325 - Cao hơn 1500C
HV lớn hơn 325 - Cao hơn 2500C
Đề nghị trên liên quan đến việc hạn chế việc xuất hiện vết nứt khi hàn đắp
Khi hàn đắp trong phần lớn các trường hợp nảy sinh các vấn đề tạo nên hiện
tượng nứt nóng. Có thể các việc tạo ra hiện tượng nứt nóng như sau:
Thời gian kết tinh của kim loại hàn tại giới hạn kết tinh của hạt tạo nên hợp
kim dễ nóng chảy (ép te tích). Sự có mặt của hợp kim ép te tích tại giới hạn các hạt
là nguyên nhân của sự phá huỷ khi co ngót khi nguội. Để đánh giá độ nhạy của
hiện tượng nứt nóng ……. đề nghị chỉ tiêu H.C.S được tính toán theo phương
trình:
3
( )25 100. . .10
3
Si NiC S P
H C SMn Cr Mn V
- Thành phần và độ cøng của kim loại hàn
- Giản đồ cấu trúc шеффлер
2.3.2 Que hàn đắp
- Vật liệu hàn đắp được chọn tuỳ theo thành phần hoá học của kim loại cơ bản và
yêu cầu kỹ thuật của chi tiết hàn đắp.
- Vật liệu hàn phải bổ sung cho lớp đắp các nguyên tố hợp kim làm tăng độ cứng
và độ chịu mòn khi làm việc trong điều kiện chịu ma sát. Các nguyên tố hợp kim
thường gặp là: C, Mn, Cr, Si, Ti, Ni, …
Mn: hàm lượng từ 8 – 27% sẽ làm tăng độ cứng, tăng chịu mòn lên 4-5 lần, có
khả năng chịu tải trọng động.
Cr: Hàm lượng 6 -8% có độ cứng cao, chịu mài mòn tốt (không chịu được tải
trọng động).
Ngoài ra W, Mo, Co, V, Ni dùng trong các hợp kim đặc biệt.
- Các nguyên tố hợp kim dễ bị bay hơi, dễ bị ôxi hoá, nên sử dụng vật liệu phụ và
bảo vệ khỏi ôxy.
- Nhiệt độ nóng chảy của vật liệu không được quá cao.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Que hàn đắp: Được phân loại theo thành phần hoá học, tính chất lớp hàn đắp, theo
điều kiện cụ thể.
Thuốc hàn: Phân loại phụ thuộc vào hàm lượng Mn, theo công dụng, tính chất.
Dây hàn: Thường dùng dây hợp kim
Khí: Ar + (5 – 10)% hay (10 - 20)% CO2; CO2
2.3.3 Thuốc hàn nóng chảy
Tương tự như thuốc bọc que hàn. Thuốc hàn là một hợp chất gồm các chất tạo
khí, tạo xỉ, ổn định hồ quang, khử ô xy, hợp kim hoá v.v được bọc lên lõi que hàn.
Hợp chất này làm cải thiện khả năng tạo mối hàn có chất lượng tốt.
*Vai trò của thuốc hàn trong hàn dưới lớp thuốc.
Đảm bảo hồ quang hàn cháy ổn định.
Bảo vệ hồ quang hàn và vũng hàn khỏi sự tác động của môi trường xung quanh.
Tạo dáng mối hàn và hính thành mối hàn tốt .
Đảm bảo tinh luyện kim loại mối hàn và khử tạp chất triệt để hơn, do thể tích vũng
hàn và lượng thuốc hàn nóng chảy lớn hơn, các phản ứng có điều kiện xảy ra triệt để
hơn .
Có khả năng hợp kim hóa kim loại mối hàn cao hơn, đặc biệt là thuốc hàn gốm.
Đảm bảo ít khuyết tật: rổ khí, ngậm xỉ, không có khe hở hàn…
Bảo vệ thợ hàn khỏi tác dụng bức xạ của hồ quang.
*Phân loại :
Theo phương pháp chế tạo có hai loại chính:thuốc hàn nung chảy; thuốc hàn gốm,
thuốc hàn thiêu kết.
Thuốc hàn Nung chảy là thuốc hàn dùng cho hàn hồ quang dưới lớp thuốc,
được chế tạo bằng phương pháp nấu chảy các thành phần của mẻ liệu và được tạo hạt.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Đặc điểm của thuốc hàn nung chảy :
Thường là hệ silicat có tỉ lệ oxit silic cao ,do đó có đặc tính axit .
Nhiệt độ nóng chảy khoảng 1300oC.
Độ nhớt đủ cao ở nhiệt độ cao để ngăn tác động của oxi và N từ không khí khi hàn và
ngăn xỉ chảy loang ra khỏi mối hàn.
Đồng nhất về mặt hóa học, không hút ẩm.
Không chứa được các nguyên tố hợp kim
Khi hàn ,xỉ hàn chứa nhiều Oxi tự do .
2.3.4 Công nghệ phục hồi chi tiết hàn đắp
Phân tích kết cấu và điều kiện làm việc
- Kết cấu:
+ Hình dáng, kích thước
+ Độ phức tạp của kết cấu
+ Lượng bị mòn
+ Vật liệu chi tiết
- Điều kiện làm việc: dựa vào điều kiện làm việc chọn vật liệu hàn cho phù hợp
sự chống ăn mòn, mài mòn.
Làm sạch và chuẩn bị bề mặt
Bề mặt chi tiết hàn cần phải làm sạch: Hầu hết chi tiết máy đưa phục hồi đều rất
bẩn; bề mặt bị bám dầu mỡ, han gỉ. Nếu hàn đắp lên thì mối hàn sẽ không ngấu, rỗ khí
và có những tạp chất phi kim loại khác.
- Phương pháp tẩy sạch chi tiết bằng tia lửa nhiệt hay trong lò nung có hiệu quả và
tiện lợi nhất. Chất bẩn không những bị đốt cháy khỏi bề mặt mà còn khỏi cả những
chỗ hóc hiểm và nứt rạn của chi tiết. Tiếp đó muội than và oxyt kim loại được đánh
sạch bằng chổi thép.
- Tuy nhiên không phải chi tiết nào cũng có thể tẩy sạch bằng phương pháp trên.
Những chi tiết làm bằng thép Mn cao phải rửa trong dung dịch nước xút 5% rồi rửa
bằng nước nóng. Những chi tiết làm bằng thép C hay thép hợp kim mà công nghệ hàn
đắp phải ứng dụng gia nhiệt trước thì việc tẩy sạch dầu mỡ và chất bẩn được thực hiện
ngay trong quá trình gia nhiệt đó.
Sau khi làm sạch bề mặt phải xác định đặc trưng và đại lượng mòn, đồng thời xác
định loại vật liệu của chúng:
- Đại lượng mòn xác định bằng dưỡng hoặc dụng cụ đo. Dựa vào kích thước bình
thường của chi tiết để tính lượng mòn trên chi tiết phục hồi.
- Độ mòn lệch tâm và biến dạng của chi tiết được xác định trên máy tiện và trên
các khối chữ V và các đồ gá khác.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
c
h
b
- Các vết nứt trên bề mặt chi tiết cần được hàn vá trước khi hàn đắp. Những vết
nứt nhỏ có thể loại trừ bằng máy mài tay, hoặc đục, dũa cục bộ. Nếu hàn đắp lên
những chi tiết mà không loại trừ vết nứt triệt để thì trong quá trình sử dụng vết nứt đó
sẽ phát triển vào kim loại cơ bảnvà kim loại đắp.
Để thực hiện tốt công việc chuẩn bị cho hàn đắp và quá trình hàn đắp, sau
khi khảo sát và đo lượng mòn của chi tiết cần xây dựng quy trình công nghệ phục
hồi, nội dung gồm:
Nguyên nhân và đặc điểm mài mòn; điều kiện làm việc của chi tiết; khối
lượng, dạng và phương pháp hàn đắp; loại và đường kính que hàn; chế độ và
công nghệ hàn đắp; thời gian hoàn thành; lượng dư gia công cơ khí; gia công
nhiệt trước và sau khi hàn.
Xét các yếu tố ảnh hƣởng
- Ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ hàn đối với hình dáng mối hàn
Hình dáng mối hàn được đặc trưng bởi những kích thước sau (h.5-15):
Hình 2-11. Các kích thước đặc trưng của mối hàn.
b- chiều rộng mối hàn, h- chiều sâu mối hàn, c- chiều cao mối hàn
Những yếu tố công nghệ có ảnh hưởng lớn nhất đến hình dáng mối hàn là
cường độ dòng điện (lh), điện áp hồ quang (Uh) và tốc độ hàn (Vh). Tiếp đến là :
đường kính điện cực, góc nghiêng điện cực đối với bề mặt chi tiết hàn và góc nghiêng
của chi tiết hàn đối với mặt phẳng ngang.
- Ảnh hưởng của cường độ dòng điện và đường kính điện cực.
Với đường kính điện cực (dây hàn) không đổi, việc tăng cường độ dòng điện
làm tăng lượng nhiệt toả ra ở hồ quang. Do đó làm nóng chảy kim loại cơ bản nhiều
hơn. Năng lượng hồ quang lớn thổi kim loại lỏng về phía ngược lại với chiều hàn, kết
quả hồ quang ăn sâu hơn vào kim loại cơ bản, đồng thời thuốc hàn chảy ít hơn. Mối
hàn nguội nhanh, không phát triển rộng được và tạo bề mặt cao (hình 2-12).
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hình2-12 Ảnh huởng của chế độ hàn đến kích thước và hình dạng mối hàn
Để nhận được mối hàn có hình dáng thích hợp cần tăng điện áp hồ
quang tỷ lệ với mật độ dòng điện.
Khi cường độ dòng điện không đổi, việc thay đổi đường kính điện cực-
tức thay đổi mật độ dòng điện sẽ ảnh hưởng đến hình dáng mối hàn. Giảm đường kính
điện cực làm tăng mật độ dòng điện; mối hàn ăn sâu và hẹp.
- Ảnh hưởng của điện áp hồ quang.
Thay đổi điện áp hồ quang trước hết làm thay đổi chiều rộng và chiều cao mối
hàn (h.18). Khi điện áp hồ quang lớn, hồ quang hầu như cháy trong thuốc hàn và ít ăn
vào kim loại cơ bản. Trong điều kiện như vậy thuốc hàn cháy nhiều mối hàn nguội
chậm. Kết quả mối hàn rộng và nóng.
- Ảnh hƣởng của tốc độ hàn.
Thay đổi tốc độ hàn làm thay đổi tiết diện mối hàn (h.19). Giảm tốc độ hàn ảnh
hưởng giống như tăng điện áp hồ quang. Với tốc độ hàn quá nhỏ (khoảng 10m/h) mối
hàn rất rộng và ăn sâu tương đối ít; càng tăng tốc độ mối hàn càng có hình dáng ôvan
chiều rộng và chiều sâu thay đổi. Để giảm bớt chiều cao mối hàn khi hàn với tốc độ
lớn cần tăng điện áp hồ quang.
- Ảnh hưởng của góc nghiêng điện cực và vật hàn.
Có thể hàn với điện cực đặt vuông góc hoặc nghiêng một góc so với bề mặt
chi tiết. Đặt vuông góc khi hàn với tốc độ hàn nhỏ và trung bình. Khi tốc độ lớn (tới
80m/h) điện cực đặt nghiêng về chiều ngược với chiều hàn (h.5-17a). Điện cực đặt
nghiêng theo chiều hàn nói chung không làm thay đổi hình dáng mối hàn, song hàn
với điện cực đặt nghiêng về phía ngược với chiều hàn thì mối hàn sẽ rộng và sâu hơn
(h.5-17b), hồ quang ít thổi kim loại lỏng phía dưới nó. Nghiêng điện cực về phía
ngược lại với chiều hàn khoảng 40-500 sẽ làm giảm chiều sâu mối hàn tới 50% và mối
20 40 60 Vh, m/h100
Uh, V504030
Ih, A300 400 500 600 700
Vh,m/h
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
900 0
700
650
40 350
Chiều hàn
hàn sẽ rộng ra khoảng 50%; chiều cao mối hàn cũng giảm đáng kể. Vì thế khi hàn với
tốc độ lớn, để giảm chiều cao mối hàn cần nghiêng điện cực về phía ngược với chiều
hàn.
Ảnh hưởng của góc nghiêng vật hàn cũng giống góc nghiêng điện cực: khi hàn
lên (h.22a), ngoài lực điện động của hồ quang còn có trọng lực tác dụng lên vũng hàn,
kim loại lỏng bị chảy và kết quả chiều sâu và chiều cao mối hàn tăng. Khi hàn xuống
(h.5-17) kim loại lỏng vượt trước hồ quang làm giảm độ sâu của mối hàn.
Hình 2-13. Điện cực đặt nghiêng:
a/ về phía ngược chiều hàn. b/về phía chiều hàn.
Trong hàn đắp tự động các chi tiết phẳng không nên để vật nghiêng so
với mặt phẳng ngang. Góc nghiêng cho phép là 80.
Hình 2-14 Hình dáng mối hàn khi hàn với điện cực đăt nghiêng ngược
chiều với chiều hµn.
Kỹ thuật hàn đắp
- .Kỹ thuật hàn đắp tự động mặt phẳng dưới lớp thuốc nóng chảy
Người ta hàn đắp các chi tiết phẳng bằng các máy hàn tự động thông thường có
lắp thêm các cơ cấu phụ. Cơ cấu phụ làm nhiệm vụ di động đầu hàn theo hướng
ngang. Chi tiết hàn đắp được gá trên bàn hoặc trong bộ gá riêng.
Chiều hàn
a
/
Chi?u hàn
b
/
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
c)
b)
a) I II III IV
1 5 9 2 6 3 7 4 8
654938271
Hình 2-15 a/ Hàn lên b/ Hàn xuống
Việc hàn đắp được thực hiện theo từng đường dọc hoặc ngang bề mặt chi tiết.
Để giảm thời gian chờ đợi gõ xỉ cần hàn được chỉ bằng các con số. Xỉ hàn của đường
1 và 2 gõ trong khi hàn đường 4; của đường 3 gõ khi hàn đường 5…Khi chiều rộng
mặt hàn đắp không rộng lắm thì các đường 1, 2, 3, 4,…(h.23b) được thực hiện theo
khoảng cách bằng hai lần bước tiến của mối hàn. Sau khi hàn xong lượt thứ nhất, gõ
xỉ rồi hàn tiếp lượt thứ hai theo các đường 8, 9…
Nếu đầu hàn được trang bị thêm cơ cấu di chuyển ngang thì có thể hàn đắp với
mối hàn rộng. Chiều rộng của nó phụ thuộc vào chế độ hàn đắp và độ nhớt của thuốc
hàn.
Hình 2-16 Thứ tự hàn đắp mặt phẳng:
a) hàn đắp theo từng phần; b) hàn đắp cách đường
Chiều sâu ngấu của mối hàn điều chỉnh bằng chế độ hàn đắp. Chế độ hàn đắp phải
chọn sao để đảm bảo cho lớp đắp không có vết nứt, rỗ khi hoặc các khuyết tật khác
vật hàn ít bị biến dạng, vùng ảnh hưởng nhiệt bé. Để đạt mục đích đó cần dùng dây
hàn đường kính nhỏ, mật độ dòng điện nhỏ. Khi độ mòn của chi tiết tới 2-3mm thì hàn
đắp bằng dây đường kính 2mm, nguồn điện một chiều, với dòng điện hàn 200A, tốc
độ hàn 20-25m/h, điện áp hồ quang 30-32V. Trường hợp độ mòn tới 3-4 mm vẫn
dùng dây 2mm nhưng chế độ hàn khác : dòng điện hàn 340-350A, tốc độ hàn 25 m/h,
điện áp hồ quang 32-34V. Có thể dùng nguồn điện một chiều hoặc xoay chiều. Với độ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
mòn lớn hơn 5mm người ta hàn đắp bằng dây đường kính 5mm; dòng điện hàn 650-
700A, tốc độ hàn 24-30 m/h, điện áp hồ quang 34-36V. Chiều dài của dây hàn so với
tẩu hàn thông thường là 20-30mm đối với dây hàn đường kính 2-3 mm và 40-50 mm
đối với dây hàn đường kính 4-5 mm.
Muốn nhận lớp đắp rộng và thấp cần đặt nghiêng điện cực so với mặt phẳng
ngang một góc 400-50
0. Trong trường hợp này chiều sâu mối hàn giảm khoảng 2 lần
và chiều rộng của nó lớn gấp đôi so với hàn bằng điện cực đặt vuông góc.
Để đắp các mép của vật hàn được phẳng và đầy đặn cần chắn trước bằng những
tấm đồng hoặc thuốc hàn hạt mịn trộn lẫn với thuỷ tinh nước và hàn với mật độ thấp
và điện áp thấp so với bình thường.
- Kỹ thuật hàn đắp tự động mặt tròn dưới lớp thuốc nóng chảy
Hình 2-17 Sơ đồ hàn đắp trục hình trụ
Trong hàn đắp tự động các chi tiết hình trụ điều khó khăn nhất là giữ thuốc hàn
ở vùng hồ quang và thuốc lỏng, đặc biệt là đối với những chi tiết đường kính nhỏ hơn
60 mm và việc gõ xỉ khỏi đường hàn
Việc giữ thuốc hàn trên mặt chi tiết có ý nghĩa hết sức quan trọng khi muốn
nhận lớp hàn đắp với chất lượng cao. Nếu cung cấp thuốc hàn quá nhiều và nhanh sẽ
làm tắt hồ quang và quá trình hàn đắp sẽ bị gián đoạn. Bởi vậy sử dụng tốt các cơ
cấu giữ thuốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hàn đắp thực hiện dễ dàng.
Trên hình 2-18 và 2-19 giới thiệu hai loại cơ cấu giữ thuốc trong quá trình
hàn đắp những chi tiết hình trụ. Khi hàn đắp những chi tiết dài và không có gờ phức
tạp người ta dùng loại thứ nhất (Hình.24). Đối với những chi tiết phức tạp như trục
khuỷu dùng cơ cấu giữ thuốc(Hình 2-18) tiện lợi hơn nhiều. Ống dẫn thuốc 7 thông
thường làm bằng đồng và có kích thước (Hình 2-19)
Để giữ thuốc và xỉ lỏng tốt thông thường đầu tẩu hàn được đặt lệch tâm so với
tâm trục chi tiết hàn đắp một khoảng cách e (h.5-23). Khoảng cách e phụ thuộc vào
đường kính chi tiết hàn và thường bằng 8-14mm. Nói chung khoảng cách e được xác
định bằng phương pháp thực nghiệm khi hàn đắp các chi tiết máy. Khi thuốc hàn được
giữ tốt và khoảng cách e xác định sẽ giữ được xỉ lỏng ở vũng hàn
1
2
3 4
2
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
7
6
5
4
3
2
1
e
1
2
5
3
4
6
7
10
9
8
Hình 2-18 Cơ cấu giữ thuốc hàn dùng cho việc hàn đắp hình trụ dài:
1. phễu; 2. tẩu hàn; 3. dây hàn; 4. ống dẫn thuốc
5. lớp thuốc hàn; 6. xỉ; 7. mối hàn đắp.
.
Hình 2-19. Cơ cấu giữ thuốc hàn dùng cho việc hàn đắp trục khuỷu:
1. dây hàn; 2.tẩu hàn; 3. thùng chứa thuốc; 4. ống mềm
5. thanh gá; 6.thanh chống; 7. ống dẫn thuốc (đồng)
8. thuốc hàn; 9. xỉ; 10. cổ trục khuỷu.
Cường độ dòng điện hàn và đường kính dây hàn được chọn tuỳ theo
đường kính khi chi tiết hàn đắp và chiều dày chi tiết tại vị trí hàn. Đối với những chi
tiết hình trụ có thể xác định gần đúng cường độ dòng điện theo đồ thị (h 5-25). Phần
gạch chéo là giới hạn của cường độ dòng điện hàn đắp cho các chi tiết có đường kính
khác nhau trong đó mối hàn được hình thành tốt nhất.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
30
110°
15
7520
25Ø
28
170
30
32
15
30
20°
135
35
1
Hình 2-20 . Ống dẫn thuốc hàn trục khuỷu:
1- thanh chống bằng gỗ phíp; 2. ống dẫn thuốc bằng đồng; 3. miếng gá.
Hình 2-21Đồ thị xác định cường độ dòng điện hàn theo đường kính chi tiết hàn đắp.
Sau khi xác định trị số dòng điện hàn có thể chọn đường kính dây hàn, dựa theo số
liệu sau:
Dòng điện
hàn,A
90-
200
120
- 300
16
0- 400
22
0- 500
32
0- 750
Đường kính
dây hàn, mm
1,2 1,6 2,
6
3,
0
4,
0
Bước tiến hàn đắp phụ thuộc vào đường kính dây hàn và cường độ dòng điện
hàn, thường từ 3,5 đến 9 mm/vg. Số lớp đắp phụ thuộc vào độ mòn của chi tiết và
lượng
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
6
312
54
17
16
157
89101112
13
14
Hình 2-22. Thứ tự thực hiện các đường hàn khi hàn đắp hình côn hoặc lòng máng.
Sau khi xác định trị số dòng điện hàn có thể chọn đường kính dây hàn, dựa
theo số liệu sau
Bước tiến hàn đắp phụ thuộc vào đường kính dây hàn và cường độ dòng điện
hàn, thường từ 3,5 đến 9 mm/vg. Số lớp đắp phụ thuộc vào độ mòn của chi tiết và
lượng dư gia công cơ khí. Lượng dư gia công cơ khí phụ thuộc chất lượng lớp hàn
đắp, thường bằng 1,5-2 mm về một phía.
Việc hàn đắp những chi tiết mòn theo dạng hình côn hoặc lòng máng
nói cung không khó khăn lắm nếu góc côn tạo với trục của chi tiết không quá 200. Các
đường hàn thực hiện từ dưới lên (h. 5-26 ) : đầu hàn được nâng dần theo từng chu kỳ
sau 1-2 lớp.
Hàn đắp những gờ đứng hoặc máng đứng phức tạp hơn. Tới nay người ta ứng
dụng hai phương pháp. Phương pháp thứ nhất là hàn ở vị trí nằm ngang đối với trục
quay. Để thực hiện điều đó người ta gá vật trên máy tiện hoặc máy quay thích hợp.
Việc giữ thuốc hàn, kim loại lỏng và xỉ lỏng thực hiện bằng cơ cấu giữ thuốc. Thông
thường người ta quấn chặn bằng amiang. (h.29). Hàn đắp bằng dòng điện nhỏ, điện áp
thấp và tốc độ cao để tạo đường hàn thấp.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
6
5
4
32
18
7
Hình. 2-23 Hàn đắp thành đứng ở vị trí ngang đối với trục quay:
1. cơ cấu giữ thuốc; 2. dây hàn; 3. thuốc hàn
4. thanh đứng; 5. bể hàn; 6. kim loại lớp đắp
7. dây amiăng; 8. tẩu hàn
Phương pháp này tương đối đơn giản, chỉ dùng hàn đắp những chi tiết có gờ thấp với
chiều dày lớp đắp bé, như bánh tỳ xe xích và những chi tiết tương tự.
Với những chi tiết có thành đứng cao người ta dùng phương pháp thứ hai. Trong
trường hợp này trục chi tiết nằm ở vị trí đứng hoặc gần đứng, còn mặt hàn đắp nằm ở
vị trí nằm hoặc nghiêng một góc nhỏ so với mặt phẳng ngang. Chi tiết hàn đắp gá trên
máy hàn đắp đặc biệt (h.14) hoặc trên bộ gá quay đứng. Việc hàn đắp thực hiện theo
đường xoắn, hướng từ ngoài mép vào trong gờ. Bước hàn đắp phụ thuộc chiều dày lớp
đắp và đường kính dây hàn, nằm trong khoảng 4-8 mm.
Hàn đắp thành đứng bằng phương pháp trên đảm bảo chất lượng tốt, lượng dư gia
công ít và năng suất cao.
2.4 Công nghệ xử lý nhiệt trƣớc, trong và sau khi hàn
2.4.1 Nhiệt độ nung nóng
a) Nhiệt độ nung nóng trước khi hàn
Mục đích của nguyên công nung nóng trước.
Nung nóng trước thường được áp dụng khi hàn các loại thép hợp kim , đặc biệt
là trong công việc hàn phục hồi, nhằm các mục đích chính như sau:
Giảm và khống chế được tốc độ nguội
Giảm sự biến cứng của kim loại mối hàn cũng như vùng ảnh hưởng nhiệt
Loại trừ hiện tượng nứt do khí hydro xâm nhập
Duy trì nhiệt độ hàn yêu cầu cho các loại vật liệu có độ dẫn nhiệt cao
Nung nóng trước cho các chi tiết dạng trục
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi hàn các chi tiết bằng thép hợp kim dạng trục thì vấn đề rất được quan tâm
và đóng một vai trò quan trọng quyết dịnh chất lượng của mối hàn đó là tốc độ nguội.
Ta có phương trình tính toán tốc độ nguội như sau:
n
Cn
Q
TTkV
2
0 )(2
Trong đó :
Vn : tốc độ nguội tại đường tâm của mối hàn 0C/s
K: Độ dẫn nhiệt của kim loại, J/mm.s.0C
To: nhiệt độ ban đầu của vật hàn,0C
TC: Nhiệt độ tại đó tiến hành tính toán tốc độ nguội, 0C
Qn : Công xuất nguồn nhiệt
Xuất phát từ công thức tính tốc độ nguội ta nhận thấy rằng, nếu tăng nhiệt độ
ban đầu T0 của vật hàn thì sẽ giảm được tốc độ nguội. Đối với mỗi loại thép hợp kim,
với mỗi thành phần hoá học khác nhau, sẽ có tốc độ nguội khác nhau, sẽ có một tốc độ
nguội tới hạn. Nếu tốc độ nguội thực tế vượt quá tốc độ tới hạn thì cấu trúc mactenxit
biến cứng có thể xuất hiện và phát triển tại vùng ảnh hưởng nhiệt, đồng thời sẽ tăng
khả năng xuất hiện vết nứt dưới tác động của ứng suất dư và sự xâm nhập của khí
hydro. Vậy vấn đề đặt ra làm sao khống chế được tốc độ nguội ở mức an toàn cho mối
hàn. Biện pháp hiệu quả nhất đạt đựợc mục đích này là tăng nhiệt độ ban đầu T0 của
mối hàn tới một giá trị nào đó mà với nhiệt độ ấy tốc độ nguội thấp hơn tốc dộ nguội
tới hạn. Thường thường sau tính toán, nhiệt độ To có giá trị lớn hơn nhiệt độ môi
truờng, do vậy cần phải nung nóng chi tiết hàn trước khi thực hiện công việc về hàn.
Nguyên công gia nhiệt trước thường được áp dụng cho các loại thép hợp kim, nhằm
làm giảm tốc độ nguội., ngăn chặn sự xuất hiện của tổ chức mactenxit và sự biến cứng
của mối hàn và vùng ảnh hưởng nhiệt.
Việc làm giảm tốc độ nguội còn có một tác dụng khác , khi tốc độ nguội giảm
chậm ở dải nhiệt độ dưới 2000C sẽ có nhiều thời gian hơn để lượng khí hyđro thâm
nhập mối hàn có điều kiên thoát ra ngoài, vì vậy sẽ ngăn chặn được hiện tượng nứt
nguội.
Quá trình nung nóng trước đó sẽ góp phần làm sạch bề mặt chi tiết khỏi bị ẩm ,
hơi ẩm ướt, hơi nước. Tuy vậy đây không phải mục tiêu chính của nguyên công gia
nhiệt trước.
Đối với các chi tiết dạng trục đường kính lớn, vì khả năng hấp thụ nhiệt luợng
của chúng rất lớn, do vậy cấu trúc vùng ảnh hưởng nhiệt và kim loại hàn sau khi
nguội có thể là cấu trúc mactenxit nếu không được nung nóng trước ở nhiệt độ cần
thiết. Vậy vấn đề cần đặt ra là căn cứ vào khả năng truyền nhiệt của vật liệu cũng như
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
hình dạng của chi tiết, phải xác định đựơc tổng nhiệt lượng phải cung cấp cho vật
hàn để khống chế được tốc độ nguội theo yêu cầu, tổng nhiệt lượng yêu cầu cung cấp
cho kết cấu hàn thường phụ thuộc vào các yếu tố như kích thước và hình dạng hình
học của kết cấu hàn, thành phần hóa học của chúng, nhiệt lượng cung cấp của nguồn
hàn và nguồn gia nhiệt trước. Tuy vậy không có một phưong pháp nào dùng để đo
trực tiếp tổng nhiệt lượng cung cấp do nung nóng trước. Thường thường nhiệt độ
nung nóng trước được tính toán thông qua các phưong pháp sau: Sử dụng phương
trình tốc độ nguội và tính toán dựa vào thành phần hóa học của các loại vật liệu.
Tính toán nhiệt độ nung nóng trước cho trục piston MH45
Sử dụng phưong trình tốc độ nguội và tốc độ nguội tới hạn, phương trình tốcđộ
nguội thường được dùng để xác định tốc độ nguội tới hạn và dùng để tính toán nhiệt
độ nung nóng sơ bộ. Khi tiến hành các công việc hàn thép hợp kim có lượng cácbon
tương đương Ctđ cao thì vấn đề đầu tiên là phải xác định đựợc tốc độ nguôi tới hạn.
Cách đơn giản nhất là tính toán cho các đường hàn thí nghiệm có tốc độ hàn hàn khác
nhau trong khi các thông số khác đựơc giữ không thay đổi. Sau khi tính toán được tốc
độ nguôi tới hạn, căn cứ vào phương trình tốc độ nguội sẽ tiến tới tính toán được nhiệt
độ nung nóng sơ bộ.
Trong trường hợp hàn phục hồi trục piston búa máy MH45, vật liệu cơ bản của
thân búa là thép SMn433(JIS G4106-79). Muốn xác định được nhiệt độ nung nóng
ban đầu, công việc đầu tiên là phải tiến hành đo là xác định tốc độ nguôi tới hạn của
loại thép này. xác định tốc độ nguôi tới hạn cho loại thép SMn433 bằng thực nghiệm.
Như đó trình bầy ở phần trên, ta tiến hành hàn các đường hàn độc lập một tấm
mẫu phẳng bằng thép SMn433 với các chế độ tiêu chuẩn như sau:
U=32V ; I =250A ; t = 5mm ; f1 = 0,9
T0 =280C ; TC =550
0C
Tốc độ hàn v( tốc độ chuyển động của hồ quang) đuợc thay đổi ở các giá trị
như sau: v=5,6,7,8,9,10mm/s.
Tiến hành hàn và kiểm tra độ cứng tại mặt cắt ngang của mối hàn và vùng
ảnh hưởng nhiệt, ta nhận thấy rằng cấu trúc mối hàn có độc ứng cao nhất tại vùng ảnh
hưởng nhiệt là khi hàn với tốc độ hàn 9 và 10mm/s còn các tốc độ nguôi bảo đảm
được độ an toàn cho liên kết hàn.
Như ở phần trước đó nêu, giá trị năng lượng cung cấp sẽ là.
mmJv
IUfQn /900
8
250.32.9,0
.1
Như vậy tốc độ nguội sẽ được tính toán như sau:
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Vì tấm mẫu của ta là tấm mẫu mỏng có hệ số liên quan đến chiều dầy của vật
liệu (tp) : 6,031,0)( 0
n
Cp
Q
TTctt
do vậy phải áp dụng công thức tính toán tốc độ
nguôi cho tấm mỏng,
2
3
02 ( )n C
n
tV k c T T
Q
Trong đó:
k: độ dẫn nhiệt của thép, k = 0,028 J/mm.s0C
C=0,0044 J/mm3.0C
t: Chiều dầy tấm(mm)
Thay số vào ta có: 2
352.3,14.0,028.0,0044 (550 28)
900nV
= 3,390/s
Trong trường hợp này, ta tính toán nhiệt lượng cung cấp hồ quang theo công
thức sau :
Q = Qh. 1f = 0,24.k. 1f .I.U,
Qh : Công suất nhiệt của hồ quang
I : Cường độ dòng điện hàn (A)
U : Điện áp hàn (V)
0,24: hệ số biến đổi năng lượng từ dạng điện năng sang nhiệt năng (cal/w/s)
k : Hệ số tính đên ảnh hưởng của điện áp và cường độ dòng điện lên công suất
nhiệt của hồ quang
Đối vớí dòng một chiều k = 1
Đối với dòng xoay chiều k = 0,7 – 0,97
1f Hiệu suất truyền nhiệt
1f được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp hàn và được chọn căn cứ vào
bảng 3.1
Bảng 3.1
Phương
pháp
hàn
Hàn điện cực không
nóng chảy trong môi
trường khí bảo vệ
Hàn điện cực
nóng chảy với
lớp thuốc bọc ổn
định
Hàn điện cực
nóng chảy trong
môi trường khí
bảo vệ
Hàn tự động
dưới lớp thuốc
1f 0,45 -0,6 0,65 -0,75 0,75 -0,85 0,8- 0,9
)(T : Độ dẫn nhiệt của kim loại, J/mm.s. 0 C
: Tỉ trọng của kim loại, g/mm 3
C : Nhiệt lượng riêng của kim loại, J/g. 0 C
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Với giá trị trên của tốc độ nguội tới hạn, ta nhận thấy rằng đó chính là giá trị
giới hạn tốc độ nguội cao nhất mà vẫn đảm bảo toàn khi hàn cho loại thép này. Do
vậy nhiệt độ nung nóng sơ bộ trong thực tế phải đảm bảo sao cho giảm tốc nguôi tới
hạn Vn =3,390/s hoặc thấp hơn.
Tính toán nhiệt độ nung nóng sơ bộ khi hàn phục hồi thân búa MH45
Khi tiến hành các công việc hàn phục hồi trục piston máy búa MH45, các
thông số của chế độ hàn thực tế có giá trị như sau:
U=32V; I =500A; Vh=5mm/s
h=r=268mm; f1 =0,9 ; Vn= 3,390C/s
mmJv
IUfQn /2880
5
500.32.9,0
.1
Vì đây là chi tiết dạng trục kich thướcc lớn( đường kính D=,,,mm) có hệ số
liên quan chiều dầy tp>0.6 do vậy ta phải áp dụng công thức tính toán cho các chi tiết
dầy(5.1) ta có:
Ck
QVTT nn
C
0
0 31514,3.028,0.2
2880.39,3550
2
Như vậy để không chế tốc độ nguội khi hàn thấp hơn tốc độ nguội tới hạn
R=3,390C/s , nhằm ngăn chặn việc hình thành sự biến cứng tại vùng ảnh hưởng nhiệt,
thì nhiệt độ nung nóng truớc phải đạt tối thiểu là T0=3150C
b. Tính toán căn cứ vào thành phần hoá học của vật liệu
Thường thì hàm lượng cacbon càng cao thì tốc độ nguôi tới hạn càng thấp,
càng cần thiết phải nung nóng truớc và dùng các phuơng pháp hàn và vật liệu hàn có
lượng khí hydro thấp.
Tuy vậy, không chỉ có nguyên tố cacbon là nguyên tố duy nhất ảnh hưởng tới
tốc độ nguội tới hạn. Những nguyên tố khác còng có khả năng gây biến cứng và làm
giảm độ dẻo của thép khi mối hàn được là nguôi với tốc độ nhanh. Do vậy khả năng
tạo biến cứng sẽ là một yếu tố quan trọng để xác định bởi một thông số đó là “cacbon
tuơng đuơng ”, toàn bộ ảnh hưởng của cacbon và các nguyên tố hợp kim tới khả năng
biến cứng của kim loại sẽ là cơ sở để xác định nhiệt độ nung nóng truớc và nhiệt độ
giữa các lớp hàn.
Các bon tương đương (Ctđ) là một số giá trị quy đổi kinh nghiệm, được xác
định bởi các công thức quy đổi tương đương, nó thể hiện toàn bộ ảnh hưởng của các
nguyên tố kim loại cơ bản tới khả năng biến cứng của nó. Theo công thức của viện
hàn quốc tế(IIW) thì Ct được tính như sau:
15
%
5
%%%
6
%%%
CuNiVMoCrSiMnCCt
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
để tính đến ảnh hưởng cảu chiều dầy vật hàn, khi tính toán ta dùng giá trị
cácbon tổng hợp như sau:
tCtC ).005,01(
Công thức trên chỉ đúng khi thành phần các nguyên tố hợp kim nhỏ hơn các giá
trị sau: 0,5%C 3,5%Ni 1,00%Cr 1,6%Mn 0,6%Mo 1,00%Cu
Theo seferian thì nhiệt độ nung nóng truớc thép cácbon và thép hợp kim
được tính như sau:
)(25,03500 CCT o
Giá trị nhiệt độ trên chỉ là giá trị xấp xỉ gần đúng và được thể hiện ở dải rộng.
Nó đặc biệt hữu ích đối với các loại vật liệu hàn không thông dụng nhưng có thành
phần các nguyên tố nằm trong dải khống chế của công thức tính toán.
Dù sao khi dùng công thức trên để xác định nhiệt độ nung nóng truớc thì giá trị
nhiệt độ đạt được phải được xác nhận bởi các biện pháp hàn kiểm tra bằng mô pháng
hoặc tại các kết cấu thực tế truớc khi đưa vào sử dụng.
Theo lý thuyết thì ta hoàn toàn có thể giảm nhiệt độ nung nóng trước dưới giá
trị tính toán bằng cách sử dụng các phương pháp hàn bán tự động và tự động với
cường độ dũng điện hàn ở dải cao hơn so với tính toán trước.
Tính toán nhiệt độ nung nóng truớc cho piston MH45 sử dụng Ctđ vật liệu chế
tạo piston MH45 là thép SMn443 có thành phần như sau:
0,32%C 0,3%Si 1,32%Mn 0,2%S
0,02%P 0,25%Ni 0,3%Cu
Ta nhận thấy thành phần các nguyên tố của vật liệu thép SMn433 đều nằm
trong giới hạn để có thể áp dụng được công thức 5.3 và 5.4. Do vậy sau khi thay số
vào ta có:
2/02,015/55,06/62,132,0 tdC
%636,0tdC
tđCSC ).005,01(
636,0).268.005,01(
%488,1
C
Nhiệt độ nung nóng sơ bộ, 25,0488,1.3500 T
CT 0
0 389
Ta nhận thấy, rằng, khi so sánh hai giá trị nhiệt độ nung nóng trước của hai
phương pháp tính toán thì khụng có sự chờnh lệch lớn. Nhiệt độ độ tính toán bằng
phương trình tốc độ nghiên cứu nhiều hơn. Trong khi đó, tính toán dựa vào giá trị Ctđ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
sẽ nhanh và đơn giản hơn, rất hữu ích cho việc tính toán phục vụ các côg việc thực tế.
Tuy nhiên để đảm bảo độ an toàn cao cho liên kết hàn, ta chọn nhiệt độ nung nóng
truớc là nhiệt độ có giá trị cao hơn như sau. CT 0
0 366
Những điều cần chú ý đối với nguyên công nung trước
Nguyên tắc cơ bản nhất khi hàn các loại vật liệu bằng thép hợp kim là phải yêu
cầu nung nóng trước, có nghĩa là “giữ cho nóng”, tưc là phải duy trì vùng kim loại hàn
và vùng ảnh hưởng nhiệt ở một dải nhiệt độ và tốc độ nguội nhất định. Sẽ rất khó
khăn và phưc tạp khi thực hiện việc nung nóng lại nhằm giữ nhiệt độ yêu cầu cho
các kết cấu có kích thước và trọng lượng lớn.
Có thể giảm nhiệt độ nung nóng truớc khi áp dụng phuơng pháp hàn tự động 2
và 3 hồ quang với khoảng cách giữa hồ quang từ 10-15mm. Nhiệt lượng cung cấp lúc
đó sẽ tăng gấp 2 hoặc 3 lần so với dùng 1 hồ quang. Phương pháp này rất hiệu dụng
và đặc biệt hiệu quả khi sử dụng phương pháp hàn tự động dưói lớp thuốc hàn bảo vệ.
Nung nóng trước cs ảnh hưởng rất lớn đối với việc ngăn chặn sự xuất hiện vết
nứt của liên kết hàn có ứng suất dư lớn. Trong quá trình hàn, việc áp dụng quá trình
nung nóng truớc sẽ giữ nhiệt độ vật hàn ở nhiệt độ cao hơn, điều đó đồng nghĩa với
việc tăng khả năng biến dạng dẻo, giảm ứng suất dư.
Tốc độ truyền nhiệt khi hàn đắp lớn hơn nhiều so với khi hàn nối. Khi hàn đắp
dũng nhiệt được truyền đi theo 3 chiều , do vậy yêu cầu nhiệt lượng cung cấp còng
như nhiệt độ nung nóng truớc lớn hơn.
Đối với các chi tiết dầy hoặc có kich thướcc lớn, việc nung nóng truớc đạt
được nhiệt độ yêu cầu là rất tốn kém, do vậy nên chọn phuơng pháp gia nhiệt phù hợp
hoặc tính toán cho việc nung nóng cục bộ.
Nghiên cứu để sử dụng loại vật liệu có thành phần hợp kim thấp để có thể giảm
được nhiệt độ nung nóng trước
Khi hàn các loại thép đó qua nhiệt luyện , cần chỳ ý sao cho nhiẹt độ nung
nóng phải thấp hơn nhiệt độ ram của vật liệu đó, nếu không nó sẽ phá huỷ các đặc tính
có được sau nhiệt luyện của kim loại cơ bản.
b) Nhiệt độ giữa các đƣờng hàn
Thông thường, khi hàn một loại thép có yêu cầu một giá trị nhiệt độ nung nóng
nào đó thì còng phải giữ nhiệt độ đó giữa các lớp hàn. Với nhiều vật hàn, năng lượng
nhiệt cung cấp trong quá trình hàn đủ để duy trì nhiệt độ yêu cầu giữa các đường hàn.
Việc tăng cường các mỏ đốt bổ xung còng được áp dụng trong truờng hợp hàn các
chi tiết bằng thép có thành phần hợp kim cao, tính hàn xấu nên yêu cầu một tốc độ
nguội rất chậm và một chế độ nhiệt rất khắt khe
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi hàn các loại thép hợp kim, sau khi nung nóng truớc thì quá trình hàn bắt
đầu. Việc bố trí quy trình hàn hợp lý là vấn đề phải quan tâm để giảm tối thiểu thời
gian hàn, kết thúc quá trình hàn càng sớm càng tốt nhằm trỏnh phải thực hiện việc gia
nhiệt bổ xung giữa các lớp hàn.
Từ mục đích chính của việc nung nóng truớc là giảm tốc độ nguội, giảm khả
năng biến cứng của mối hàn và vùng ảnh hưởng nhiệt. Còng vì mục đích đó nên các
đường hàn còng phải có tốc độ nguội tương tự nhau và thấp hơn tốc độ nguội tới hạn.
Để đạt được điều kiện này thì phải duy trì nhiệt độ giữa các đường hàn sao cho có giá
trị ít nhất phải bằng nhiệt độ nung nóng trước. Nếu điều kiện này không được thoả
món thì sẽ xảy ra hiện tượng biến cứng ở mỗi mối hàn riêng rẽ tại nơi không thoả
món thì sẽ xảy ra hiện tượng biến cứng ở mỗi mối hàn riêng rẽ tại nơi không thoả
món nhiệt độ yêu cầu. Với những phân tích như đó nêu ở phần trên, thông thường
người ta quy định nhiệt độ giữa các đường hàn ngang bằng với nhiệt độ nung nóng
trước.
Nhiệt độ giữa các đuờng hàn khi hàn piston MH45
Khi tiến hành hàn nối và hàn đắp phục hồi pistonMH45, ta đó tính toán được
nhiệt độ nung nóng truớc cho chi tiết là T0=3660C
, nhằm thoả mãn các mục đích và
yêu cầu của việc khống chế nhiệt độ cho kết cấu hàn , ta chọn nhiệt độ giữa các
đường hàn bằng nhiệt độ nung nóng trước .
Tđ =T0 =3660C (3.6)
Tuy vậy để duy trì nhiệt độ này khi hàn là một vấn đề cần tính toán và quan tâm.
Tuy rằng ta đó áp dụng phương pháp hàn tự động dưới lớp thuốc trợ dung, đó chính
là phương pháp có hiệu suất cung cấp nhiệt tốt nhất đồng thời cường độ dũng điện hàn
còng rất cao, điều đó có nghĩa là nhiệt lượng cung cấp cho vật hàn còng rất cao.
Đường kính piston lớn 540 do vậy khi hàn đắp theo đường xoắn thì thời gian giữa
hai đường hàn mất một khoảng thời gian là 5,6 phút cho một vũng. Trong khi đó, theo
tính toán trường nhiệt khi hàn piston MH45 thì sau 1 vũng nhiệt độ của mối hàn sẽ là:
TC =398,50C. Như vậy , với chế độ hàn như đó chọn, hoàn toàn có thể duy trì được
nhiệt độ giữa các lớp hàn đắp Tđ =3660C khi hàn đắp theo đường xoắn ốc phục hồi
Piston MH45.
2.4.2 Xử lý nhiệt sau khi hàn
Trong kết cấu hàn, sau khi hoàn tất quả trình hàn sẽ tồn tại nội ứng suất, được gọi
là ứng suất dư. Trong một vài trường hợp, giá trị của ứng suất dư có thể lớn xấp xỉ giá
trị giới hạn chảy của vật liệu. Khi kết cấu hàn chịu ngoại lực thì nội ứng suất sẽ tăng
thêm từ phía ứng suất dư cùng dấu và còng có thể vượt quá giá trị ứng suất thiết kế
dẫn đến phá huỷ kết cấu hàn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khử ứng suất dư của kết cấu hàn là việc làm cần thiết nhằm tăng tuổi thọ và độ tin
cậy của kết cấu hàn.
Khử ứng suất dư bằng xử lý nhiệt là phương pháp mà trong đó kết cấu hàn được
nung lên tới một nhiệt độ đủ lớn và được duy trì trong một thời gián vừa đủ cho đến
khi ứng suất dư hầu như được khử hoàn toàn
Quá trình khử ứng suất dư và nguyên công ủ hoặc thường hoá là hoàn toà khác
nhau. Nhiệt độ ủ và thường hoá cao hơn dải nhiệt độ tới hạn , vào khoảng 750-9000C ,
trong khi đó nhiệt độ khử ứng suất dư thấp hơn dải nhiệt độ tới hạn. Khi ủ và thường
hoá còng khử ứng suất dư, song với nhiệt độ đũi hỏi rất cao của quá trình nầy sẽ dẫn
đến sự chuyển biến pha của cấu trúc hạt tinh thể, dẫn đến sự thay đổi về cơ tính đồng
thời kích thước hình học của kết cấu còng có thể bị thay đổi.
* Xử lý nhiệt sau khi hàn vật liệu chống mài mòn:
Xử lý nhiệt sau khi hàn vật liệu chống mài mòn được thực hiện với mục
đích ngăn chặn hiện tượng nứt sau hàn, loại bỏ ứng suất dư, đảm bảo độ cøng tối
ưu và nâng cao khả năng gia công cơ bằng cắt gọt. Trong thực tiễn người ta
thường sử dụng các phương pháp xử lý nhiệt sau đây: ủ, ram, tôi và ram sau tôi.
* Xử lý nhiệt sau khi hàn bằng vật liệu chống ăn mòn.
Vật liệu chống ăn mòn thường được sử dụng là thép cácbon thấp và thép
hợp kim thấp. Dưới đây xem xét hai trường hợp xử lý nhiệt thép chống ăn mòn
dạng pherit và thép chống ăn mòn dang Ostennit.
1.Thép chống ăn mòn dạng pherit.
Nung và giữ nhiệt từ 7000C – 900
0C đảm bảo nâng cao tính dẻo dai của
thép sau hàn. Sau đó làm nguội đến 6000C và sau đó đưa chi tiết ra ngoài không
khí. Sau khi ủ cần tiến hành khử ứng suất dư theo chế độ đối với thép hợp kim
thấp. Vật được hàn đắp sẽ có tính dẻo cao và độ bền va đập tốt. Tuy nhiên nÕu khi
ủ đưa nhiệt độ lên qua 9000C sẽ dẫn tới sự làm giảm độ bền va đập.
2.Thép chống ăn mòn dạng Ostennit.
Sau khi hàn đắp đối với thép chống ăn mòn dạng Ostennit có thể xử lý nhiệt
theo các công nghệ sau đây: Nung chi tiết đến nhiệt độ từ 10400C – 1120
0C tuỳ
thuộc vào thành phần cácbon chứa trong thép. Tốc độ làm nguội cần thiết phải cao
để hạn chế việc tạo thành cacbít tại giới hạn các hạt. Ram ổn định với mục tiêu tạo
cacbít ổn định (niobia, tantan titan) trong khoảng 2 – 4 giờ giữ nhiệt độ 8500C –
9000C; Ram để khử ứng suất dư ở nhiệt độ thấp hơn 900
0C.
Việc áp dụng biện pháp xử lý nhiệt sau khi hàn (PWHT) sẽ tạo ra các ảnh hưởng
tích cực sau:
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- gúp phần làm giảm và khử ứng suất dư. Khi đạt được nhiệt độ nung và thời
gian giữ nhiệt phù hợp thì ứng suất dư hầu như bị khử hoàn toàn.
- Làm nhỏ mịn hạt kim loại ở vùng ảnh hưởng nhiệt
- giải phóng khí hydro xâm nhập vào mối hàn và vùng ảnh hưởng nhiệt, góp
phần ngăn chặn hiện tượng nứt nguội.
- tăng đáng kể độ dai va đập. Đối với các kết cấu hàn có độ dai va đập tại mối
hàn thấp và đặc biệt là có độ dầy lớn hơn 38mm thì việc áp dụng các biện pháp
xử lý nhiệt PWHT là hoàn toàn cần thiết
- làm giảm giới hạn bền và giới hạn chảy của vật liệu khoảng 10% song lại làm
tăng tính dẻo của vật liệu, ngăn chặn hiện tượng phá huỷ dũn của kết cấu trong
quá trình làm việc.
- khử biến dạng, lấy lại độ chính xác cho kết cấu hàn.
Quá trình xử lý nhiệt sau khi hàn.
Khi ta nung nóng kim loại lên nhiệt độ càng cao thì giới hạn chảy của chúng
giảm mạnh, đồng nghĩa với việc biến dạng dẻo rất dễ xảy ra. Do vậy khi một chi
tiết có tồn tại ứng suất mà giá trị của nó thấp hơn giới hạn chảy thì để khử ứng suất
đó ta tiến hành nung nóng chi tiêt đó lên, tới một giới hạn nhiệt độ nào đó, giá trị
ứng suất dư sẽ vượt qua giới hạn chảy của vật liệu, lúc này biến dạng dẻo sẽ xảy
ra và sẽ làm giảm cường độ của ứng suất dư.
Trong vật hàn sau khi hàn cùng tồn tại ứng suất dư kéo và ứng suất nén, tuy
nhiên cả hai loại ứng suất này sẽ tự triệt tiêu nhau hoặc được phân bố đều lại
trong chi tiết khi ta duy trì liên kết hàn ở nhiệt độ cao(thấp hơn nhiệt độ biến đổi
pha) trong một khoảng thời gian phù hợp.
Đối với các chi tiết làm bằng thép thường có kích thước phự hợp thì có thể
đưa vào các lũ nung ở nhiệt độ 5400C tùy thuộc vào mỗi loại thép , với thời gian
giữ nhiệt trong một giờ cho 25mm chiều dày chi tiết, và sau đó làm nguội dần dần
với tốc độ nguội chấm nhằm khống chế nhiệ độ trên toàn bộ chi tiết một cách đồng
đều để ngăn chăn chặn việc xuất hiện những ứng suất dư mới đồng thời tránh hiện
tượng biến cứng mối hàn và vùng ảnh hưởng nhiệt. Đối với các loại thép hợp
kim, nhiệt độ nung được tính toán phụ thuộc vào thành phần hóa học vâ nhiệt độ
biến đổi pha của chúng thường là lớn hơn 6000C .
Đối với các chi tiết có tiết diện mặt cắt thay đổi nhiều thì việc tăng nhiệt độ
và làm nguội càng cần phải khống chế chặt chẽ và ở một tốc độ thấp hơn . Nếu tỉ
số giữa tiết diện lớn nhất và thấp nhất của chi tiết nhỏ hơn 4:1 thì tốc độ nung
nóng và tốc độ nguội không được vượt quá 2000C/h cho 2,5mm chiều dày của mặt
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
cắt lớn nhất. Nếu tỉ só trên càng tăng thì tốc độ nung nóng và tốc độ nguội càng
cần phải giảm.
Nếu vì một lý do nào đó mà nhiệt độ nung nóng không thể nâng lên bằng
nhiệt độ tính toán thì lúc đó thời gian giữ nhiệt phải tăng lên đáng kể.
Thời gian giữ nhiệt tối thiểu được tính toán như sau
Các nguyên công sau khi hàn
Xử lý cơ khí: Tiện, phay, bào, …
Xử lý cơ tính: Tôi, ủ, ram, hoá nhiệt luyện, …
Kiểm tra: các khuyết tật, kích thước, hình dáng, cơ tính, thành phần hoá học.
2.5 Tính chất của kim loại đắp
Tính chất của kim loại sau hàn đắp có thể:
- Độ cứng có thể cao hơn hoặc không cứng bằng
VD: hàn que hàn bằng thép mềm hơn kim loại cơ bản
- Thành phần hoá học, tổ chức không đồng đều
- Độ bền mỏi giảm.
Một só các tính chất ảnh hưởng đến độ bền và tuổi thọ của chi tiết phục hồi
bằng phương pháp hàn như sau.
2.5.1 Không đồng nhất về cấu trúc
Trong quá trình hàn đắp kim loại vũng hàn ở trạng thái lỏng, còn phần kim loại cơ
bản tiếp giáp với nó được nung nóng tới nhiệt độ vượt qua điểm tới hạn. Nhiều trường
hợp vũng hàn được bao quanh bởi khối lượng lớn kim loại nguội. Điều đó làm tăng
tốc độ nguội của kim loại nung nóng (lượng nhiệt đi vào kim loại cơ bản lớn) và xuất
hiện cấu trúc khác nhau. Như vậy tại vị trí hàn đắp không những xảy ra quá trình kết
tinh của kim loại hàn đáp mà còn xảy ra quá trình kết tinh lại kim loại cơ bản tạo
thành vùng ảnh hưởng nhiệt.
Tính chất cơ học của kim loại vùng ảnh hưởng nhiệt, do kết tinh lại, có thể thay
đổi trong một phạm vi rộng: giới hạn bền, giới hạn chảy, độ dãn dài tương đối có thể
giảm tới 50% so với kim loại cơ bản. Độ cứng vùng ảnh hưởng nhiệt cũng thay đổi
đáng kể.
Đặc biệt thép hợp kim (Cr, Mn, Si, Ni, Ti, V, ...) làm tăng tính tôi của thép,
bằng khả năng tăng tính ổn định của austenit, chậm quá trình phân huỷ khi làm nguội
(có khả năng tạo thành mactenxit). Như vậy cấu trúc chuyển tiếp không ổn định.
2.5.2. Không đồng nhất về thành phần hoá học
Không đồng nhất về thành phần hoá học xảy ra khi các kim loại khác nhau
nóng chảy và đặc biệt khi những kim loại đó có thành phần khác nhau nhiều. Khi kết
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
tinh thành phần hoá học chưa đạt đến trạng thái đồng đều, đặc biệt là phần giới hạn
của kim loại cơ bản với kim loại đắp.
Khi thành phần hoá học không đồng nhất sẽ không đồng nhất về cấu trúc, nảy
sinh các vùng kim loại giòn có cấu trúc mactenxit, nứt tế vi, ...
Tại vùng chuyển tiếp (giữa kim loại cơ bản và mối hàn) tính không đồng nhất
thể hiện rõ rệt nhất. Nguyên nhân là khi hàn đắp chiều sâu bé, kim loại cơ bản tham
gia vào mối hàn ít nên tốc độ nguội nhanh làm các nguyên tố hợp kim chưa kịp
khuyếch tán đều trên tiết diện. Điều đó gây khó khăn cho việc phân bố đều thành phần
hoá học của kim loại vùng chuyển tiếp.
Khắc phục:
- Giảm tốc độ nguội bằng ủ hoặc nung nóng trước khi hàn
- Chọn vật liệu, chế độ và công nghệ hàn thích hợp
- Gia công nhiệt trước khi hàn, ủ sau khi hàn
- Bảo vệ vũng hàn khỏi O2, N.
2.5.3. Độ cứng và khả năng chịu mài mòn
- Để đạt độ cứng, cần:
+ Chọn vật liệu, chế độ hàn thích hợp
+ Tôi, hoá nhiệt luyện sau khi hàn
+ Hợp kim hoá mối hàn
- Khả năng chịu mài mòn: Tỷ lệ thuận với độ cứng
- Hàn đắp dưới lớp thuốc: Cho phép điều chỉnh thành phần kim loại đắp trong
phạm vi rộng, sẽ đạt cấu trúc và độ cứng thích hợp mà không cần gia công nhiệt sau
khi hàn.
- Hàn đắp trong môi trường khí bảo vệ: Độ cứng và độ mài mòn kém hơn các hợp
kim khác vì hợp kim hoá diễn ra khó khăn hơn.
2.5.4. Độ bền mỏi
- Là lực tải trọng động lớn nhất chịu được
- Độ bền mỏi kém hơn kim loại cơ bản vì cấu trúc và thành phần hoá học không
đồng nhất. Để tăng độ bền mỏi: giảm tốc độ nguội, gia lực trong quá trình hàn để khử
ứng suất dư.
2.6 Một số biện pháp nâng cao chất lƣợng phục hồi bằng hàn
2.6.1. Gia công nhiệt
Phương pháp ủ
Nhiều chi tiết do yêu cầu về độ cứng và độ chịu màu mòn phải hàn đắp bằng hợp
kim, nên sau khi hàn hoặc hàn đắp luôn tồn tại một vùng chuyển tiếp không đồng nhất
về cấu trúc và thành phần hoá học của kim loại.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Gia công nhiệt có thể san bằng đáng kể sự không đồng nhất về cấu trúc và hoá
học. Đó là phương pháp tốt nhất thay đổi cấu trúc và tính chất của kim loại hàn đắp
và kim loại cơ bản. Nó còn có tác dụng làm giảm nội ứng suất dư hàn.
Trong sửa chữa thường thay thế việc gia công nhiệt bằng các đường hàn ủ hoặc
nung nóng vật bằng ngọn lửa oxy – axeetylen. Phương pháp đó không thích hợp vì nó
không đảm bảo nung nóng đồng đều toàn bộ chi tiết. Nhiệt độ nung nóng và chiều sâu
vùng ảnh hưởng nhiệt phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Vì vậy phương pháp này chỉ nên
dùng trong trường hợp không thể tiến hành gia công nhiệt bình thường trong lò với
việc nung nóng toàn bộ chi tiết tới nhiệt độ cần thiết.
Để loại trừ hoặc giảm đáng kể nội ứng suất chỉ cần ủ nhẹ và sau đó làmnguội
chậm. Thường nung chi tiết lên 500 – 6000C. Khi tăng hoặc giảm nhiệt độ nung ngoài
phạm vi nhiệt độ này cần thay đổi thời gian duy trì vật theo trọng lượng và cấu tạo của
vật nung.
Ngoài khử bỏ ứng suất, gia công nhiệt còn nhằm các mục đích sau:
- Nhận cấu trúc mịn nhờ kết tinh lại
- San bằng cấu trúc theo tiết diện của chi tiết nhờ nung nóng toàn bộ tới nhiệt
độ xác định.
- San bằng thành phần hoá học của kim loại nhờ khuếch tán
- Tạo cấu trúc và tính chất cơ học cần thiết cho kim loại hàn đắp và kim loại cơ
bản.
Tôi bề mặt
Sử dụng khi phục hồi chi tiết máy bằng hàn đắp đảm bảo cấu trúc, độ cứng, độ
chịu mài mòn cần thiết của kim loại hàn đắp và tăng tuổi thọ của nó.
Nhữngchi tiết máy trước đây đã tôi sau khi phục hồi cũng cần tôi lại, được giải
thích: trong khi hàn đắp, dưới tác dụng của nhiệt hồ quang cấu trúc kim loại thay đổi,
ngoài ra kim loại chi tiết tôi chứa nhiều cacbon, vì vậy việc hàn đắp phải ứng dụng
nung nóng trước. Trước khi hàn đắp phải ủ để khử tôi, khử ứng suất tôi và khả năng
tạo các vết nứt.
2.6.2. Biến cứng nguội
Phương pháp biến cứng nguội bề mặt sử dụng để nâng cao đáng kể độ bền mỏi
và tuổi thọ của chi tiết, ngoài ra còn tăng cường độ chịu mòn của nó.
Biến cừng làm tăng độ cứng và những tính chất đặc trưng khác về độ bền của
kim loại của lớp bề mặt, đồng thời tạo bề mặt chi tiết ứng suất nén dư có lợi.
Hiện nay trong công nghiệp thường hay sử dụng nhiều phương pháp tăng
cường chi tiết bằng biến dạng dẻo bề mặt: phun bi, lăn ép, biến cứng bằng cơ cấu
quay, rung, nổ, ...
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
2.6.3. Gia công cơ điện
Phương pháp này có thể:
- Tăng độ bền mỏi của các chi tiết lên 26 – 78%,
- Tăng độ chị mòn của chi tiết hàn đắp
Câu hỏi:
Trình bày quá trình hợp kim hóa kim loại đắp trong các phương pháp hàn
đắp(hàn dưới lớp thuốc và hàn dây hàn bột)
Trình bày công nghệ hàn đắp hồ quang tay, bằng que hàn thép các bon, thép hợp
kim trung bình, cao
Trình bày công nghệ hàn đắp hồ quang rung
Trình bày sự ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ, chế độ hàn và kỹ thuật hàn đến
chất lượng lớp kim loại đắp.
Trình bày các biện pháp sử lý nhiệt trong quá trình phục hồi chi bằng công nghệ
hàn đắp kim loại.
Phân tích các tính chất của kim loại sau hàn đắp, các biện pháp nâng cao chất
lượng lớp kim loại đắp.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Chƣơng 3 - CÔNG NGHỆ PHUN PHỦ
Lịch sử phát triển của công nghệ phun phủ
Công nghệ phun phủ đầu tiên là công nghệ phun kim loại sử dụng khí cháy do một
kỹ sư người Thụy Sỹ tên là Max Ulrich Schoop phát minh từ những năm đầu của thế
kỷ 20. Phương pháp công nghệ này tạo ra một lớp kim loại phủ có độ dày theo yêu
cầu trên bề mặt chi tiết, trong đó các hạt kim loại đè lên nhau từng lớp. Mãi đến năm
1923 công nghệ này mới bắt đầu đưa vào ứng dụng trong sản xuất.
Lúc đầu phun phủ kim loại chỉ dùng cho mục đích trang trí, đến chiến tranh thế
giới thứ hai, công nghệ này bắt đầu được sử dụng với qui mô rộng. Công nghệ
phương pháp kim loại được sử dụng ở hầu hết các nước châu Âu và càng ngày càng tỏ
ra có nhiều tính ưu việt trong các lĩnh vực: phục hồi các chi tiết bị mài mòn, bảo vệ
chống ăn mòn, trang trí ... Lịch sử phát triển của công nghệ phương pháp được trình
bày theo sơ đồ sau.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Trong các phương pháp công nghệ xử lý bề mặt thì phương pháp này càng
được phát triển và mở rộng về qui mô, cải thiện về chất lượng, thể hiện tính ưu việt
so với các phương pháp tạo lớp phủ khác. Nó đã trở thành một lĩnh vực chuyên môn
riêng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Một mặt phương pháp này biểu
hiện một biện pháp xử lý bề mặt, mặt khác chính bản thân nó lại có vai trò là một
công nghệ sản xuất. Để đánh giá sự phát triển của phương pháp phun phủ và có cái
nhìn so sánh với các phương pháp tạo lớp phủ khác, ta cần phải dựa trên cơ sở sự phát
triển về trang thiết bị, các quy trình công nghệ và đặc biệt là phạm vi ứng dụng.
Ngày nay người ta đã nghiên cứu chế tạo và đưa vào ứng dụng nhiều loại đầu
phun khác nhau phục vụ cho các phương pháp phun phủ:
Đầu phun nhiên liệu khí cháy (dây, bột)
Đầu phun hồ quang điện (loại 2 dây, 3 dây)
Đầu phun Plasma (dây, bột)
Đầu phun bằng dòng cao tần
Đầu phun bằng kích nổ
Đặc biệt đã có những cải tiến để tăng năng suất phun như phát triển các thiết bị và
dây truyền phun tự động với độ ổn định và chất lượng ngày càng cao.
Căn cứ theo nguồn nhiệt để làm chảy kim loại có thể phân loại đầu phun theo
sơ đồ khối
Hình 3.1: Lịch sử phát triển của công nghệ phun phủ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Đầu phun đầu tiên dùng khí cháy là của Schoop phát minh. Ông dùng ngọn lửa khí
để đốt chảy dây kim loại, dùng không khí nén để thổi kim loại lỏng và dùng tuabin khí
làm cơ cấu dịch chuyển dây phun.
Các loại đầu phun có rất nhiều loại, nhưng vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu
đòi hỏi cao của kỹ thuật. Phương hướng thiết kế các đầu phun hiện nay theo các điều
kiện sau:
Phải làm việc được với mọi phạm vi thời gian của công việc, tức là có thể tắt hoặc
gây hồ quang thường xuyên mà vẫn đảm bảo an toàn.
Cấu tạo từ những chi tiết chịu mài mòn cao chủ yếu là bộ truyền dẫn, bộ dẫn
hướng
Làm việc ổn định với các thông số phun trong thời gian dài
Có chùm tia phun tập trung
Cho cấu trúc lớp phủ chất lượng tốt nhất
Có thể tự động điều chỉnh dòng điện và áp lực khí nhỏ, các cơ cấu được tự động
hoặc cơ khí hóa. Công nghệ phương pháp đã giải quyết thành công các chế độ công
nghệ:
Phun cho các vật liệu có nhiệt độ nóng chảy cao (vật liệu gốm, cacbit, oxit kim
loại..).
Phủ được kim loại nguyên chất, các hợp kim lên bề mặt kim loại, hợp kim hay bề
mặt vật khác như gỗ, vải, giấy, sứ.
Phủ được polyme ở thể rắn lên bề mặt vật liệu kim loại ...
Đầu phun
Đầu phun bằng
khí cháy
Đầu phun bằng điện Đầu phun bằng điện +
khí (plasma)
Đầu phun
điện trở
Đầu phun
hồ quang
Đầu phun
cao tần
Đầu phun
nổ HVOF
Đầu phun
dây
Đầu phun
bột
Loại 2 dây Loại 3 dây
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Phủ có thể tạo ra lớp chịu nhiệt, lớp dẫn điện trên vật liệu không dẫn điện; tạo ra
lớp chống ăn mòn cho các kết cấu thép (cầu, cảng, ống dẫn, tầu thuyền ...) làm việc
trong môi trường oxi hoá hay ăn mòn điện hoá;
Phủ các lớp kim loại màu (kim loại quý hiếm) lên trên bề mặt của những kim loại
khác nhằm tiết kiệm kim loại quý và tăng giá trị thẩm mỹ trong trang trí.
Phủ lên bề mặt các lớp có khả năng chống mài mòn như thép không gỉ, đồng thau,
nhôm, hợp kim của niken ... với các chiều dày theo yêu cầu cho các chi tiết làm việc
trong môi trường chịu mài mòn.
Phun phủ rất thích hợp và tỏ ra ưu việt trong việc sửa chữa và phục hồi các chi tiết
sửa chữa các khuyết tật của vật đúc, chi tiết bị mòn như trục khuỷu, xylanh, chốt).
H3.2 Lớp phủ Al2O3 và ZrO2 trong tuabin động cơ Rolls - Royce AVON
Sự phát triển của công nghệ phun phủ hiện nay đã được áp dụng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau: cơ khí động học, hạt nhân, cơ khí để tạo lớp phủ chịu mài mòn, chống
ăn mòn, tạo các lớp phủ trong ngành điện, lớp cách nhiệt ... Đặc biệt công nghệ phun
phủ plasma phun được các vật liệu có nhiệt độ nóng chảy cao như W, Mo, Cr ..., áp
dụng phủ các lớp trong ngành kỹ thuật tên lửa, kỹ thuật điện (phủ vật liệu không dẫn
điện) và trong gia công các chi tiết chịu nhiệt độ cao.
H3.3. Lớp phủ Silicon Aluminium trong tuabin máy phát điện
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hiện nay phun phủ đang được phát triển mạnh ở các nước tiên tiến như: Anh,
Pháp, Đức, Mỹ, Nhật, Nga, Thuỵ, Điển ... với dây chuyền công suất rất cao; các viện,
trung tâm hay hiệp hội được thành lập để nghiên cứu và ứng dụng phun phủ. ở nước ta
những năm qua công nghệ phun phủ được ứng dụng và nghiên cứu còn rất hạn chế
mặc dù nhu cầu nâng cao chất lượng và tuổi thọ của kết cấu công trình là rất lớn. Đặc
biệt lại có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hầu như quanh năm ẩm ướt (độ ẩm 80 90%)
làm cho các chi tiết kết cấu rất dễ bị phá huỷ do ăn mòn, việc nâng cao chất lượng bề
mặt kéo dài tuổi thọ của chi tiết kết cấu là một vấn đề cấp thiết. Nhưng do chưa được
đầu tư nghiên cứu và khai thác ứng dụng một cách có hiệu quả và qui mô nên so với
các phương pháp bảo vệ khác như mạ, phun sơn ... thì phun phủ vẫn chưa được sử
dụng rộng rãi. Tuy nhiên trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế,
khoa học công nghệ, các ngành kỹ thuật, công nghiệp thì việc đòi hỏi nâng cao chất
lượng sản phẩm và kéo dài tuổi thọ của kết cấu chi tiết là không thế thiếu, công nghệ
phun phủ bắt đầu được nhiều ngành và các công ty ở Việt nam quan tâm đến.
H3.4. Lớp phủ WC10Co4Cr
H3.5. Phun Zn bảo vệ chân dàn
khoan
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hiên tại công nghệ phun phủ được triển khai tại các trung tâm, viện nghiên cứu
như:
- Viện Kỹ thuật nhiệt đới thuộc viện Khoa học và Công nghệ Việt nam đang triển
khai nghiên cứu về các lớp phủ chống ăn mòn cho các kết cấu biển bằng thiết bị phun
hồ quang điện OSU – hessler 300A (Đức) và đầu phun khí cháy MARK 61 (Anh),
nghiên cứu các lớp phủ trên cơ sở hợp kim Cr - Ni chịu mài mòn, chống ăn mòn và
chịu nhiệt bằng thiết bị phun hồ quang điện OSU – hessler 300 A (Đức).
- Viện nghiên cứu Cơ khí ứng dụng phun phủ trong phục hồi chi tiết máy bằng
thiết bị phun hồ quang M6, M12 (Nga) và tham gia thi công phun phủ bảo vệ bề mặt
cho kết cấu giàn khoan của Vietsopetro.
- Viện công nghệ Bộ quốc phòng, xưởng X50 Hải quân, A42 Không quân,
trường ĐHBK Hà Nội ... cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về công nghệ phun phủ.
Năm 2004 viện Kỹ thuật nhiệt đới đã chuyển giao công nghệ phun kẽm bảo vệ và
phục hồi bình ga bằng thiết bị phun hồ quang điện OSU – hessler 300A (Đức) cho
Công ty dầu khí TP. Hồ Chí Minh SAIGONPETRO và dây chuyền hiện nay đang ổn
định, công suất 450 bình ga mỗi ca làm việc. Trong năm 2005 tại viện nghiên cứu Cơ
khí đã báo cáo một đề tài cấp nhà nước về công nghệ phun phủ phục hồi chi tiết bằng
đầu phun plasma. Với xu thế Việt Nam đang ứng dụng công nghệ phun phủ ngày càng
nhiều khi các hãng kinh doanh thiết bị hàn cũng đang muốn mở rộng kinh doanh các
thiết bị phun phủ (Weldtec ...).
3.1 Khái niệm và đặc điểm
3.1.1 Thực chất
Phun phủ là công nghệ đưa vật liệu rắn (dạng bột, dạng dây, dạng thanh cứng
hoặc mềm) vào dòng vật chất có năng lượng cao (dòng khí cháy hoặc dòng plasma)
nhằm nung nóng một phần hay toàn bộ vật liệu; phân tán vật liệu thành các hạt dưới
dạng sương mù rất nhỏ, tăng tốc độ hạt và đẩy hạt đến bề mặt chi tiết cần phủ đã
được chuẩn bị trước.
Do đặc điểm hình thành, lớp phủ sẽ có cấu trúc dạng lớp, trong đó các phần tử vật
liệu bị biến dạng và xếp chồng lên nhau. Tại bề mặt tiếp xúc giữa các phần tử với chi
tiết và bề mặt tiếp xúc của các phần tử xảy ra các quá trình liên kết bền vững tạo nên
cấu trúc lớp phủ.
3.1.2 Đặc điểm
Nguồn năng lượng cách ly với bề mặt chi tiết, nhiệt độ bề mặt chi tiết khi phủ có
thể giữ ở nhiệt độ 800 100
0C, điều này cho phép phủ các loại vật liệu khác nên bề
mặt các vật liệu dễ cháy (VD: phun phủ lên gỗ, vải, giấy, polyme...) nhờ lựa chọn vật
liệu phủ và công nghệ thích hợp.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Các hạt rắn dưới tác dụng vật lý, hoá học của dòng vật chất có năng lượng cao sẽ
có thành phần và tính chất thay đổi, do đó lớp phủ nhận được không nhất thiết có
thành phần trùng với vật liệu phun ban đầu.
Lớp phủ có cấu trúc dạng lớp do các phần tử của vật liệu dưới dạng hạt nóng chảy
hoặc mềm đập lên bề mặt chi tiết với một động năng cao làm chúng biến dạng rất lớn.
Các phần tử của vật liệu phủ, đang ở nhiệt độ cao, khi tiếp xúc với bề mặt chi tiết
thì được làm nguội rất nhanh (tốc độ nguội khi phun plasma khoảng 105 10
7 0/s). Do
đó đối với kim loại có thể tạo thành các pha giả ổn định, vi tinh thể cỡ hạt 0,25 0,5
m hoặc vô định hình.
Để tạo lớp phủ, tất cả các vật liệu phun phải có nhiệt độ chảy và nhiệt độ phân
huỷ hoặc bay hơi chênh lệch ít nhất 3000C để vật liệu không bị phân huỷ hoặc bay hơi
hết trước khi đến bề mặt chi tiết.
Với khả năng cơ động cao (thiết bị phun dễ dàng di chuyển và có thể xách tay)
công nghệ phun phủ có thể thực hiện đối với nhiều loại chi tiết, có thể xử lý tại chỗ,
cục bộ đối với các kết cấu lớn, có thể tạo được lớp phủ cho các chi tiết phức tạp nhờ
sử dụng các đồ gá điều khiển tự động.
3.1.3 Công dụng
Phun phủ phục hồi, hoặc công nghệ gia công mới
Phun các lớp phủ đặc biệt: chịu mài mòn, chống ăn mòn, chịu nhiệt ...
Phun các lớp phủ (lớp phủ dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, cách điện, cách nhiệt, lớp
phủ từ tính...) lên các chi tiết mà vật liệu cơ bản không có đặc tính này.
Sửa chữa khuyết tật (vật đúc, chi tiết sau gia công cơ)
Tạo lớp trang trí
Trong đó mục đích phun phủ phục hồi các chi tiết máy mòn và bảo vệ chống ăn
mòn các kết cấu thép là được ứng dụng nhiều hơn cả.
Những hạn chế cần khắc phục
Mối liên kết giữa lớp phủ và nền còn thấp
Tổn thất vật liệu phun nhiều
Ảnh hưởng đế sức bền của chi tiết (giảm giới hạn mỏi của chi tiết)
Bề mặt chi tiết trước khi phun luôn yêu cầu phải làm sạch và tạo nhấp nhô
Đòi hỏi trình độ tay nghề công nhân cao, điều kiện làm việc nặng nhọc, độc
hại.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.2 Công nghệ phun phủ
3.2.1 Khái quát về phân loại phun phủ
Nếu dựa theo công nghệ sử dụng thì phun phủ được chia làm 4 công nghệ chính:
+ Phun nổ
+ Phun hồ quang điện
+ Phun khí cháy
+ Phun Plasma
3.2.2 Phun khí cháy
3.2.2.1 Khái niệm
Công nghệ phun khí cháy sử dụng ngọn lửa khí để nung cháy vật liệu phủ. Vật liệu
sau khi nung được dòng khí nén phân tán và đẩy đi với vận tốc cao hướng vào bề mặt
chi tiết, tại bề mặt chi tiết sẽ xảy ra quá trình liên kết tạo nên lớp phủ.
3.2.2.2 Nghuyên lý và thiết bị
1. Phun dây
- Nghuyên lý phun dây
Hình 3.6: Nguyên lý công nghệ phun khí cháy sử dụng vật liệu dây
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hỗn hợp khí (khí cháy và oxi) được đẩy qua miệng phun, tại đầu miệng phun hỗn
hợp khi này được đốt cháy tạo nên ngọn lửa khí có nhiệt năng cao. Dây phun được
dịch chuyển bằng cặp con lăn cấp dây, qua miệng phun đến gặp ngọn lửa khí. Tại đây
ngọn lửa có nhiệt độ cao làm nóng chảy đầu dây vật liệu. Dây vật liệu liên tục được
cấp bởi cặp con lăn quay với tốc độ phù hợp với quá trình phun. Trong khi đó, vật liệu
nóng chảy được dòng khí nén thành dòng phần tử phun. Phần tử phun với vận tốc lớn
được phủ lên bề mặt chi tiết đa được làm sạch và tạo nhám, tạo nên lớp phủ. Tuỳ theo
độ dày lớp phủ mà người ta phun với số lớp thích hơp.
- Thiết bị phun dây
2. Phun bột
- Nguyên lý phun bột
Hình 3.7 Nguyên lý công nghệ phun khí cháy sử dụng vật liệu bột
Nguyên lý của phun bột tương tự như phun dây, điểm khác nhau chỉ là việc cấp
vật liệu phun. Vật liệu phun dưới dạng bột được cấp thông qua hệ thống dẫn đến gặp
ngọn lửa khí. Bột phun có thể được dẫn qua miệng phun hoặc cấp trực tiếp vào ngọn
lửa từ đầu miệng phun. Ngọn lửa có nhiệt độ cao nung nóng vật liệu phun, vật liệu
liên tục được cấp với vận tốc phù hợp với quá trình phun.
- Thiết bị bột
H2.3. Thiết bị phun khí cháy sử dụng vl dây
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hình 3.8 . Thiết bị phun khí cháy sử dụng vật liệu bột
Đầu phun bằng ngọn lửa khí cháy
Các đầu phun kiểu ngọn lửa khí đều sử dụng ngọn lửa hỗn hợp khí từ các khí
cháy khác nhau với ôxy như axêtylen, mêtan, prôtan-butan, khí thiên nhiên, khí dầu
hỏa ... Trong đó phần lớn các đầu phun dùng ngọn lửa axêtylen và ôxy, nó cho nhiệt
độ cao nhất, vì vậy có thể dùng để phun với vật liệu có nhiệt độ chảy cao nhất đến
28000C.
c/ Các thông số ảnh hưởng đến chất lượng của quá trình phun:
Thông số kết cấu: Đường kính lỗ phun khí, đường kính lỗ đầu phun, góc nghiêng
của lỗ phun khí so với tâm đầu phun.
Thông số chế độ phun: Áp suất khí đốt tại đầu vào và mức tiêu thụ áp suất khí vận
chuyển, tỷ lệ khí đốt và oxy trong hỗn hợp.Các thông số này sẽ ảnh hưởng đến vận tốc
tia lửa khí, chiều dài phần nhiệt độ cao của ngọn lửa đối với khí, nhiệt độ của phần tử
phủ đối với vật liệu bột, vận tốc của phần phủ.
Khi tăng mức tiêu thụ khí đốt dẫn đến tăng công suất nhiệt (W) và vận tốc dòng
khí (Vg), tăng chiều dài ngọn lửa có nhiệt độ cao (L), đồng thời với đó là tăng tốc độ
tiêu thụ vật liệu phủ (Vm), khi đó năng suất phủ (G) sẽ tăng.
Thông số vật liệu: Cỡ hạt, đường kính dây, mức tiêu thụ bột, vận tốc cấp vật liệu.
áp suất tải vật liệu, mức tiêu hao khí tải.
Thông số ngoại vi: Khoảng cách phun, góc phun
d/ Ưu nhược điểm của phương pháp:
- Ưu điểm: Giá trang thiết bị thấp, hệ số hiệu dụng vật liệu cao khi dùng vật
liệu dây
- Nhược điểm: Năng suất thấp, đặc biệt khi phun phủ dùng vật liệu có nhiệt độ
nóng chảy cao, chất lượng lớp phủ không cao và hệ số hiệu dụng vật liệu thấp khi
dùng các vật liệu bột.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.2.3 Phun hồ quang điện
3.2.3.1 Khái niệm
Phun phủ kim loại hồ quang điện là công nghệ phun kim loại dùng năng lượng
điện. Ngọn lửa hồ quang điện được dùng để nung nóng chảy vật liệu phủ, sau đó
không khí nén với áp suất lớn và vận tốc cao sẽ phân tán sẽ phân tán kim loại lỏng
thành các lớp sương mù rất nhỏ bắn lên bề mặt chi tiết đã được chuẩn bị sạch. Như
vậy sẽ tạo ra một lớp kim loại phủ dày, trong đó các phần tử kim loại đề lên nhau theo
từng lớp.
3.2.3.2 Nguyên lý và thiết bị
a. Nguyên lý
Hai dây (điện cực) được dịch chuyển bằng cặp con lăn cấp qua ống dẫn dây đến
tiếp xúc nhau. Các dây kim loại được nối với hai điện cực khác nhau bằng ống tiếp
điện, khi tiếp xúc nhau sẽ gây ngọn lửa hồ quang có nhiệt độ cao làm nóng chảy đầu
dây kim loại. Dây kim loại liên tục được cấp bởi cặp con lăn quay với vận tốc phù hợp
với quá trình phun.Trong khi đó kim loại loại nóng chảy được thổi bằng dòng khí nén
được bố trí ở giữa hai điện cực và miệng phun. Phần tử phun với vận tốc lớn được phủ
lên bề mặt chi tiết đã được làm sạch và tạo nhám. Tuỳ theo độ dày lớp phủ mà người
ta phun với số lớp thích hợp.
H2.7. Nguyên lý công nghệ phun hồ quang điện
b. Thiết bị
H 3.9 . Thiết bị phun hồ quang điện
3.2.3.3. Các thông số ảnh hƣởng đến chất lƣợng của quá trình phun
a. Thông số kết cấu
Kích thước và hình dáng đầu phun ảnh hưởng đến chất lượng quá trình phủ. Trong
thực tế chủ yếu dùng đầu phun hình trụ có đường kính d = (3 6)mm.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Góc chéo nhau của hai cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành dòng phân tử
phun. Thực tế thường dùng = 300.
Chiều dài bộ phận dẫn dây IK ảnh hưởng đến chu trình phun, nếu IK tăng thì tổn
thất điện áp tăng. Bộ phận có kết cấu hoàn chỉnh thì tổn thất giảm và hệ số sử dụng
năng lượng có ích đạt (0,8 0,9).
b. Thông số chế độ hoạt động
Các thông số ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất quá trình là công suất dòng hồ quang
và tiêu hao khí.
Quá trình tối ưu khi đạt công suất riêng (Nd) nhỏ nhất. Nếu tăng Nd sẽ dẫn đến thất
thoát nhiều phân tử kim loại do bị quá nhiệt, song chất lượng lớp phủ sẽ tốt hơn.
Áp suất, lượng tiêu thụ khí cũng như các tính chất của khí thổi ảnh hưởng trực tiếp
đến các chi tiết của quá trình. Việc tăng áp suất dẫn đến tăng tốc độ phun, tăng lượng
tiêu hao khí thổi và tăng hiệu quả phủ.
c. Thông số về dây và cấp dây
Đường kính dây thường dao động trong khoảng (1 3,5)mm, tốc độ cấp dây
thường là (0,05 0,35)m/s, tương ứng với năng suất phun (2 120)kg/h.
d. Các thông số diều kiện ngoại vi
- Góc phun được chọn trong khoảng (650 90
0)
- Khoảng cách phun L = (100 300)mm
- Tốc độ di chuyển đầu phun (20 50)m/ph
3.2.3.4. Ƣu nhƣợc điểm của phƣơng pháp
Ưu điểm
- Năng suất cao có thể đạt tới 120 kg/h
- Hệ số hiệu dụng năng lượng và hệ số sử dụng vật liệu phủ cao (0,6 0,85)
- Chất lượng lớp phủ khá tốt, độ bámdính cao.
Nhược điểm
- Chỉ dùng được vật liệu dây kim loại để phun
- Nhạy cảm với các khí hoạt tính
* Một số Thiết bị chuyên dùng để phun kim loại bằng hồ quang điện
1. Máy nén khí
Các loại máy nén khí phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Lưu lượng khí tối thiểu 100 m3/h (tức 1,7 m
3/ph) để bảo đảm không những
dùng cho phun kim loại mà còn dùng để phun cát làm sạch (lưu lượng phun cát từ 0,8
1,2 m3/ph)
Bảo đảm áp suất ổn định liên tục khi làm việc từ 6 8kG/cm2
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Đối với các nhà máy có hệ thống đường ống dẫn khí nén, cũng dùng cho phun
kim loại được, nhưng phải lưu ý đến tổn thất khí nén từ trạm nén khí đến vị trí phun
kim loại.
2. Bình chứa khí
Không khí sau khi được máy nén ép lại có sự dao động rất lớn về áp lực, do đó
nhất thiết phải có bình chứa khí để tạo ra áp lực không đổi trong quá trình phun kim
loại. Thể tích của bình chứa khí tùy theo lưu lượng của máy nén khí để đạt được sự
cân bằng độ thay đổi của áp suất.
Thể tích bình chứa được xác định theo kinh nghiệm sau:
Vt = V3
Với: Vt – thể tích của bình chứa khí (m3)
V – thể tích máy nén khí (m3/ph)
3. Nguồn điện để phun kim loại
Nguồn điện dùng cho quá trình phun có thể là nguồn điện một chiều hoặc xoay
chiều, máy phát điện hàn một chiều, máy hàn chỉnh lưu ...
Nguồn điện có ảnh hưởng quá trình làm việc của đầu phun, đến chất lượng của lớp
phun:
- Với nguồn điện một chiều: nếu sử dụng đầu phun có tốc độ đẩy dây không đổi
thì quá trình làm việc sẽ ổn định hồ quang khi sử dụng nguồn điện có đặc tuyến ngoài
phẳng hoặc thoải (với loại đầu phun này thì điều này cũng đúng cho cả nguồn xoay
chiều). Nếu máy có đặc tuyến dốc, sẽ không bảo đảm được sự gia tăng về cường độ
dòng điện. Vì thế sự phóng tia lửa điện hồ quang khi chập mạch rất khó khăn, có khi
không xảy ra được, dẫn đến quá trình làm của súng phun thường bị gián đoạn
Nguyên nhân: là do tốc độ đẩy dây không đổi, khi chập mạch hai đầu dây phun
tiếp tục chạm vào nhau, tiếp xúc với nhau qua một tiết diện lớn. Vì thế để có thể
phóng được tia lửa điện, cần phải có một sự gia tăng cường độ dòng điện lớn. Với
nguồn điện có đặc tuyến phẳng sẽ khắc phục được vấn đề đó.
Đối với loại súng phun mà tốc độ đẩy dây thay đổi theo điện áp hồ quang, thì
quá trình phun được ổn định và phù hợp với tất cả các loại nuồn điện:
Sự thay đổi độ dài ngọn lửa hồ quang gắn liền với sự thay đổi điện thế của nó.
Khi chiều dài hồ quang ngắn lại, điện thế của nó giảm, tốc độ quay của động cơ đẩy
đây cũng giảm theo và do đó tốc độ đẩy dây cũng giảm xuống. Khi chập mạch, điện
áp hồ quang giảm tới không và do đó tốc độ đẩy dây cũng bằng không, nên sự phóng
tia lửa điện hồ quang được thực hiện dễ dàng. Khi chiều dài hồ quang tăng lên thì điện
áp của nó cũng tăng lên do đó tốc độ đẩy dây cũng tăng lên thích ứng và chiều dài hồ
quang lại giảm xuống theo yêu cầu.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Nhờ việc làm thay đổi tốc độ đẩy dây theo điện áp hồ quang, có thể sử dụng
nguồn điện có đặc tính dốc để phun kim loại.
- Với nguồn điện xoay chiều: dùng cho phun kim loại ít hơn, như phun dây
nhôm hay đồng hoặc hợp kim của nó. Loại nguồn xoay chiều thường là ở máy biến
thế hàn có đặc tính phẳng. Tuy nhiên chất lượng hợp kim phun cũng bị ảnh hưởng
không có lợi.
3.2.4. Phun nổ
3.2.4.1. Khái niệm
Phun nổ là phương pháp kích nổ bằng khí, nguồn nhiệt tạo ra do kích nổ có
công suất nhiệt cao và vận tốc phần tử lớn (800 – 1300 m/s). Công suất nhiệt cao và
áp suất lớn sẽ làm nóng chảy và phân tán vật liệu tạo thành dòng phần tử phun
3.2.4.2.Nguyên lý và thiết bị
a. Nguyên lý
Hình 3.10. Nguyên lý công nghệ phun nổ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Trong buồng cháy một lượng hỗn hợp khí (năng lượng và oxi) sẽ được nạp qua hệ
thống nạp. Nhờ tác động của bộ phận phóng điện (buji), hỗn hợp khí sẽ cháy, kết quả
là xuất hiện sóng nhiệt tạo ra va chạm và sóng nổ, trong kênh sóng nổ lan truyền gây
ra sự cháy của hỗn hợp khí, đồng thời với sự nổ là việc cấp vật liệu phủ (dạng bột)
vào buồng nổ. Việc cung cấp bột có thể theo chiều trục và cũng có thể theo hướng
kính (muốn đạt được chất lượng lớp phủ phải cung cấp bột đều dặn theo mặt cắt). Sau
mỗi chu kỳ nổ, khí nén sẽ được cấp vào buồng phun để thổi làm sạch buồng phun.Tại
miệng của đầu phun, ngọn lửa và dòng phần tử phun được tạo ra. Xung quanh đầu
phun có hệ thống tuần hoàn nước làm mát bảo vệ đầu phun.
Buồng cháy là một hệ hở luôn mở. Các chu kỳ diễn ra liên tiếp nhau trong buồng.
Thời gian của chu kỳ: CK=Na+No+T
Trong đó: Na – Thời gian nạp hỗn hợp khí và bột kim loại
No – Thời gian tạo ra nổ
T - Thời gian thổi buồng đốt
Các chu trình được tạo ra liên tiếp nhau tạo thành chu trình phun.
b. Thiết bị phun nổ
H 3.11. Thiết bị phun nổ
3.2.4.3. Ưu nhược điểm của phương pháp
Ưu điểm
Tạo ra lớp phủ có độ bền cao, có thể phủ cho các chi tiết có Tn ≤ 473 0K, năng suất
tương đối cao, dùng được nhiều loại bột kim loại
Nhược điểm:
Đọng bụi ở phần dưới của đầu phun; tiếng ồn lớn; không phủ được sản phẩm
có độ cứng > 60HRC; khó khăn trong việc dùng bột kim loại có khối lượng riêng nhỏ,
không có khả năng phủ bề mặt lỗ nhỏ; sản phẩm nổ (CO2, CO, H2O, H2, O2, H, O, N
đẽ phản ứng với vật liệu phủ làm xấu tính chất của lớp phủ; dễ gây biến dạng hoặc
phá huỷ chi tiết, nhất là trong trường hợp chi tiết không đủ độ cứng vững (do sóng nổ)
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.2.5. Phun Plasma
3.2.5.1. Khái niệm
Công nghệ phun plasma sử dụng nhiệt của dòng plasma để nung nóng vật liệu.
Plasma là chất khí ở trạng thái các nguyên tử và phân tử bị in on hoá, thực chất là hồ
quang kéo dài. Mặc dù công nghệ này có công suất nhiệt lớn nhưng hệ số hiệu dụng
của phương pháp chỉ đạt 0,5 0,65. Hệ số hiệu suất nung nóng phần tử khí chỉ đạt
0,01 0,1
3.2.5.2. Nguyên lý và thiết bị
a. Nguyên lý
H 3.12 . Nguyên lý công nghệ phun plasma
- Cơ chế hình thành: ban đầu một số electron phát ra từ vùng hẹp nóng chảy
trên miệng ống catod. Các electron vừa hình thành được gia tốc trong điện trường ion
hoá tiếp các phần tử khí tạo thành plasma trải rộng dần trên bề mặt catod.
- Cơ chế phát triển:
+ Khí plasma chuyển động tới vùng anod (đang có hiện tượng phóng điện) sẽ xuất
hiện hồ quang điện, hồ quang này là hồ quang sơ cấp. Dưới tác dụng của hồ quang
điện, một số nguyên tử khí và một số nguyên tử kim loại bị ion hoá tạo thành plasma.
+ Một số điện tử bị giữ lại ở anod và hỗn hợp plasma tiếp tục chuyển động, vì bị
mất một số electron nên plasma trở nên giàu ion dương và do vậy lớp phủ sẽ trở thành
anod thứ cấp. Hồ quang sinh ra giữa catod thứ cấp và anod thứ cấp gọi là hồ quang
thứ cấp. Nhờ có hồ quang thứ cấp mà ngọn lửa plasma kéo dài ra, có tác dụng vừa
nung nóng bột vừa nung nóng chi tiết do đó quá trình xảy ra nhanh, chất lượng lớp
phủ tốt.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
b. Thiết bị
Hệ hở (APS)
H 3.13 . Thiết bị phun plasma hệ hở
Hệ kín (VPSS, LPP S, LVPS)
H 3.14. Thiết bị phun plasma hệ kín
3.2.5.3. Ưu nhược điểm của phương pháp
Ưu điểm:
- Năng suất cao (2 8)kg/h với công suất (20 60)kW và năng suất (50
80)kg/h với công suất (150 200)kW.
- Vật liệu phủ đa dạng và có nhiệt độ nóng chảy khác nhau.
- Tạo ra lớp phủ có chất lượng cao
Nhược điểm:
Hệ số hiệu dụng năng lượng rất thấp, lớp phủ còn tồn tại độ xốp, độ bám
dính chưa cao, tiếng ồn lớn
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.2.5.4 Nhiệt độ và vận tốc phần tử phun
H 3.15. Nhiệt độ và vận tốc phần tử phun của các công nghệ
Nhiệt độ và vận tốc phần tử phun là đặc trưng riêng của từng công nghệ.
Thường thì nhiệt độ và vận tốc phần tử phun càng cao thì chất lượng lớp phủ càng
cao. Tuy nhiên, tuỳ theo vật liệu phun và vật liệu nền mà ta chọn công nghệ phun
thích hợp để đảm bảo chất lượng phủ nhưng vẫn kinh tế.
3.3. Sự hình thành và cấu trúc của lớp phủ kim loại
Như khái niệm nêu ở phần trên: phun kim loại đựoc tiến hành trên các đầu
phun(pistole) dưới tác dụng nung nóng chảy kim loại(dây phun) của hồ quang điện và
ngọn lủa khí cháy, kim loại nlỏng đựoc dòng khí nén thổi làm phân tán kim loại lỏng
thành các lớp sưong mù, kim loại rất nhỏ và đựoc bắn lên bề mặt chi tiết đã đựoc làm
sạch, tạo nên một lớp phủ dày, trong đó các phần tử kim loại đè lên nhau theo theo
từng lớp. Trên cơ sở các hiện tựong lý hóa xảy ra trong quá trình phun kim loại, sự
hình thành lớp phủ rất phức tạpvà vấn đề này có rất nhiều quan điểm. Ở đây chỉ nêu
một số quan điểm chính về sự hình thành lớp phủ bằng phun kim loại.
3.3.1. Những quan điểm lý thuyết về sự hình thành lớp phun phủ
Phun kim loại đựoc biết từ lâu và từ đó đến nay đã xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu khác nhau về việc giải thích sự hình thành và tính chất lớp phủ, có thể chia
ra thành các quan điểm lý thuyết như sau.
- Lý thuyết của Pospisil-Sehyl.
- Lý thuyết của Schoop.
- Lý thuyết của Karg, Katsch và Reininger.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
1/ Lý thuyết của Pospisil - Sehyl
Lý thuyết này đã kết luận: lớp phủ kim loại xuất hiện do các giọt kim loại lỏng
bị phun bằng một dòng khí nén với tốc độ rất cao (khoảng 200m/s). Các giọt này bị
phá vỡ thành rất nhiều hạt nhỏ, dạng của hạt đặc trưng bởi kim loại của nó. Theo bản
chất có thể chia kim loại thành hai nhóm.:
- Các kim loại mà oxit của nó khi phun ở thể lỏng thì luôn tạo thành các hạt có
dạng hình cầu.
- Các kim loại mà oxit của nó khi phun ở thể rắn (nhôm, kẽm) sẽ tạo thành những
hạt có dạng không đồng đều (đa cạnh).
Dạng của các hạt này khi bay hoàn toàn không thay đổi mà chủ yếu chỉ xảy ra sự
oxy hoá. Sự oxi hoá kim loại thực chất bắt đầu xảy ra từ quá trình làm chảy dây phun
và trong thời điểm tạo ra các hạt nhỏ thì một phần lớn các oxit sinh ra trong quá trình
bay của các hạt. Nghĩa là khi các giọt kim loại lỏng bắt đầu tách thành các hạt nhỏ thì
bề mặt của các hạt cũng bắt đầu tăng lớp oxit. Số lượng oxit nhiều hay ít là nhân tố
chính ảnh hưởng đến chất lượng của lớp phủ.
Thực nghiệm rất khó xác định quá trình va đập của các hạt, vì quá trình này xảy ra
trong một thời gian rất ngắn mà trong thời gian đó quá trình này có ảnh hưởng rất
lớn tới tốc độ bám của các phần tử với kim loại nền.
Từ các thực nghiệm tác giả lý thuyết này tính toán và kết luận: các phần tử kim
loại trong thời điểm va đập trên bề mặt phun là ở thể lỏng.
2/ Lý thuyết của Schoop
Tác giả khẳng định rằng năng lượng động năng của các hạt kim loại khi bay
được cung cấp bằng dòng khí nén nên khi va đập lên bề mặt bị phun thực tế có sự thay
đổi nhiệt. Thực nghiệm đã xác định rằng những hạt kim loại khi rời khỏi miệng phun
bắt đầu bị nguội và đông đặc rất nhanh do tác dụng của dòng khí nén. Trong thời điểm
va đập chúng sẽ có sự biến dạng dẻo, do vậy chúng liên kết với nhau thành những lớp
liên kết.
Tác giả đã cố gắng chứng minh rằng các phần tử kim loại lỏng khi phun luôn
luôn nguội dần. Trong một khoảng cách rất ngắn từ đầu vòi phun , sự giữ nhiệt trong
các dòng tia kim loại là tương đối thấp (còn khoảng 50 1000C). Do vậy tác giả đã
kết luận cho lý thuyết của mình có thể phủ được cả những vật liệu dễ cháy mà không
xảy ra sự cháy.
3/ Lý thuyết của Karg
Lý thuyết này cũng cho rằng những hạt kim loại bị nguội và đông đặc là do tác
dụng của nguồn năng lượng động năng của khí nén. Mặt khác, trong quá trình đi từ
vòi phun các hạt đã ở trạng thái nguội như vậy sẽ không xảy ra sự biến dạng dẻo.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
4/ Lý thuyết của Schenk
Tác giả của lý thuyết này đã kế luận: nhiệt độ của các hạt phun phải ở trên
nhiệt độ chảy lỏng để xảy ra sự hàn chặt chúng với nhau, có nghĩa là ở thời điểm va
đập trên bề mặt bị phun, kim loại lớp bề mặt của kim loại nền bị phun sẽ bị đốt nóng
đến nhiệt độ chảy để xảy ra sự hàn gắn giữa các phần tử với kim loại cơ sở, nhưng
thực tế không đúng như vậy
3.3.2 Cơ cấu hình thành lớp phủ
Trên cơ sở phân tích các lý thuyết trên, cơ cấu hình thành lớp phủ có thể mô tả
như sau:
Trong pha đầu của quá trình phun kim loại được đăc trưng bằng sự chảy của
kim loại phun. Trong pha thứ hai là sự tách các giọt kim loại, tiếp đó là quá trình bay
và va đập của các hạt kim loại trên bề mặt đã được chuẩn bị và cuối cùng là sự hình
thành lớp phun kim loại bằng mối liên kết của chúng với bề mặt kim loại nền.
1/ Quá trình chảy và sự phân tán kim loại phun
Khi phun, kim loại bị nung nóng đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ chảy của chúng
tạo thành giọt kim loại lỏng. Giữa kim loại lỏng và môi trường khí xảy ra quá trình
khuyếch tán và sự tác dụng hoá lý với nhau như ứng suất bề mặt, nội năng, nhiệt độ
và hệ số dẫn nhiệt, khả năng co rút gây ảnh hưởng đến cấu trúc bên trong và các tính
chất khác của giọt kim loại lỏng. Trong quá trình chảy cũng xảy ra sự đốt cháy một số
thành phần hóa học trong kim loại lỏng.
Sự lớn lên của một số lượng kim loại lỏng chảy tồn tại cho đến khi lực động
học của dòng không khí nén lớn hơn ứng suất bề mặt kim loại lỏng sẽ làm tách các
giọt kim loại. Giọt kim loại dưới áp lực của dòng khí nén sẽ bị phân tán thành rất
nhiều hạt nhỏ, những hạt này sẽ tạo nên những tia phun kim loại.
Toàn bộ quá trình chảy và phân tán các hạt xảy ra rất nhanh. Sự phân tán chỉ
kéo dài khoảng 1/10.000 1/100.000s và sau mỗi giây tạo ra khoảng 7000 hạt kim
loại. Dạng của các hạt xuất hiện từ sự phân tách giọt kim loại phụ thuộc vào loại kim
loại. Điều này có thể giải thích là do trong hạt, ngoài kim loại còn có phần trăm tỷ lệ
nhất định các oxit, các oxit này có thể chia làm hai loại:
- Loại lỏng bao xung quanh hạt và hạt có dạng hình cầu.
- Loại đặc bị đông đặc rất nhanh và làm tạo nên hạt có dạng đa cạnh.
2/ Quá trình bay của các hạt
Toàn bộ quá trình bay của các hạt, từ lúc bị phân tách từ giọt kim loại đến khi
va đập trên bề mặt phun kim loại xảy ra rất ngắn, khoảng 0,002 0,008s. Trong quá
trình bay của hạt chủ yếu chỉ xảy ra sự oxy hoá, do vậy các phần tử phun kim loại bị
bao bởi bằng một lớp oxit, lớp này sẽ lớn lên theo khoảng cách bay.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Các hạt kim loại chảy lỏng di động trong dòng không khí nén có tốc độ rất lớn.
Ngoài ra các phần tử còn bị ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, biểu thị ở những phản
ứng không đồng nhất. Khi phun kim loại chúng ta phải tính toán đến các vấn đề:
- Các hạt kim loại tách ra ở trạng thái lỏng hay trạng thái đã đặc sệt
- Các phần tử phun luôn bị thay đổi tốc độ bay trong trường gia tốc
- Các hạt luôn phản ứng với môi trường xung quanh chứa oxy, nitơ, hơi nước và
các thành phần hoá học khác
- Khả năng hoà tan của khí phụ thuộc vào nhiệt độ cũng như áp lực riêng của
khí.
3/ Sự hình thành lớp phủ bằng kim loại
Quá trình tạo thành lớp phủ kim loại tương đối phức tạp. Trên cơ sở kết quả
của những thí nghiệm và tính toán, người ta đã xác định rằng: các phần tử kim loại
trong thời điểm va đập lên bề mặt phun ở trạng thái lỏngvà bị biến dạng rất lớn.
Để hiểu sự hình thành lớp phủ cần phải chú ý các hiện tượng xảy ra khi va đập
của các phần tử lên bề mặt (vật liệu nền) kim loại cần được phun phủ.
Vấn đề thứ nhất: là năng lượng đông năng của các phần tử va đập lên bề mặt
phun gây ra lực tác động và biến dạng rất nhanh, mạnh. Năng lượng động năng này
được xã định bằng tốc độ của các phần tử và khối lượng của chúng.
2.
2
1vmEK (3.1)
Bởi vậy, các phần tử có tốc độ khác nhau sẽ có năng lượng động năng khác
nhau (khi chúng có cùng một tốc độ). Tốc độ bay của các phần tử là một nhân tố cho
việc xác định sự biến dạng của các phần tử. Amold tính toán tốc độ cần thiết cho một
vài kim loại khi va đập lên bề mặt chi tiết phun:
SttCvm
12
2
427.2
. (3.2)
Trong đó: m – khối lượng của phần tử phun (g), g
Gm . Khi G = 1 thì tốc độ
cần thiết cho việc tan vỡ khi va đập:
SttCv 1291 .
v – tốc độ của các phần tử khi va đập (m/s)
C – tỷ nhiệt (cal.g-1
.0C
-1)
t1 – nhiệt độ của phần tử kim loại trong thời điểm va đập trên bề mặt chi
tiết (0C)
t2 – nhiệt độ chảy của các phần tử kim loại (0C)
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
S – ẩn nhiệt (cal)
Vấn đề thứ hai: là cần quan tâm để xác định sự biến dạng của các phần tử, đó là
khả năng biến dạng của các phần tử. Lớp vỏ oxit trên các phần tử có ảnh hưởng rất
lớn đến tính chất này. Điều cần khẳng định rằng: trong thời điểm va đập lớp oxit là
lỏng thì trong trường hợp này không thể giữ được sự biến dạng của các phần tử và
ngược lại ở các phần tử có lớp oxit vỏ cứng thì khả năng biến dạng của nó chủ yếu
xác định bằng lớp vỏ bọc này.
Khả năng biến dạng của các phần tử thép với lớp màng bọc oxit ở trạng thái
lỏng phụ thuộc vào sự biến dạng của các phần tử trước, đồng thời nó không kết thúc
ngay mà còn xảy ra sự biến dạng tiếp theo do sự tác dụng của các phần tử sau. Sự biến
dạng của các phần tử xảy ra rất nhanh. Bởi vậy, khi các phần tử sau va đập lên các
phần trước khi các phần tử này vẫn đang còn ở trạng thái lỏng hoặc sệt, giữa chúng dễ
dàng xảy ra sự liên kết kim loại với nhau.
3.3.3 Cấu trúc của lớp phủ kim loại
Lớp phủ bằng kim loại có tính chất và thành phần khác hẳn với vật liệu ban đầu.
- Đặc trưng cơ sở của cấu trúc là những tấm kim loại với kích thước từ 0,1 0,2
mm và chiều dày là 0,005 0,01 mm. Các phần tử này có độ biến dạng khác nhau và
phân cách nhau bằng một lớp ôxyt mỏng với chiều dày 0,001 mm.
- Cấu trúc của lớp kim loại phủ có đặc trưng của cấu trúc bị nguội lạnh đột ngột.
Với lớp thép C (% C cao) thường có cấu trúc mactenxit cho đến bainit. Ngoài ra lớp
phủ còn chứa những phần tử nhỏ không biến dạng, những phần tử này khi va đập đến
bề mặt nền đã ở trạng thái rắn.
- Sự nguội lạnh của các phần tử xảy ra rất nhanh và bị tác dụng bởi tốc độ nguội
lạnh rất lớn, nên trong cấu trúc, ngoài dung dịch đặc Fe – C còn có dung dịch đặc Fe –
ôxyt, do vậy khi đông đặc xuất hiện trong mạng những trung tâm lệch mạng, ảnh
hưởng đến độ bám lớp phủ.
- Trong lớp phủ có hai loại ôxyt: Loại ôxyt được hình thành riêng biệt thường coi
là bất lợi, làm xấu tính chất cơ học của lớp phủ. Loại khác bao bọc xung quanh các
phần tử kim loại biến dạng làm nhiệm vụ liên kết các phần tử kim loại riêng biệt.
- Thành phần hóa học của lớp phủ kim loại cũng khác với thành phần của vật liệu
phủ ban đầu, thường thành phần hóa học ở lớp phủ giảm đi, đặc biệt là các nguyên tố
hợp kim.
Bảng so sánh thành phần hóa học của lớp phủ thép với dây phun
Vật liệu %C %Mn %Si %S
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Dây phun 0,47 0,65 0,33 0,033
Lớp phủ 0,31 0,25 0,15 0,24
3.4 Độ bám dính và tính chất của lớp phủ kim loại
3.4.1 Các lực liên kết giữa lớp phủ và nền
Vấn đề độ bám lớp phủ bằng phun kim loại với vật liệu nền đến nay nhiều nhà
khoa học còn phải chú ý một cách đáng kể. Những nhận thức lý thuyết về độ bám lớp
phủ có thể tóm tắt gồm các vấn đề sau:
1/ Lực dính bám của hạt kim loại lỏng lên bề mặt các chất rắn
12 – Lực căng giữa giọt lỏng và chất rắn
23 – Lực căng giữa giọt lỏng và không khí
13 – Lực căng giữa chất rắn và không khí
- Góc căng giữa giọt lỏng và chất rắn
H 3.16. Sự dính bám của giọt lỏng trên vật rắn
1- Chất rắn; 2- Chất lỏng; 3- Không khí
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Giả thiết hạt phun khi va đập vào bề mặt chi tiết có lớp vỏ ôxit đang ở trạng thái
lỏng, lúc đó sẽ có hiện tượng dính bám của một giọt lỏng lên bề mặt của chất rắn dựa
vào lực căng bề mặt của giọt lỏng đó và môi trường xung quanh nó.
Nếu gọi:
Để cho giọt lỏng giữ lại ở trạng thái cân bằng thì:
23
1213
231213
cos
cos.
(4.1)
Góc phụ thuộc vào bản chất của ba thể, nó thay đổi theo trạng thái và độ sạch
của bề mặt. Nếu góc căng của thể rắn và thể khí lớn hơn so với thể lỏng thì góc 0 <
< 900
- Khi cos > 0 giọt lỏng có dạng cụp vào (H1), khi đó giọt lỏng dính ướt bề mặt
chất rắn.
- Khi cos > 900
tức là 13 > 12 (tức góc là tù), giọt lỏng có dạng cong ra (H2).
Trường hợp này giọt lỏng không dính ướt bề mặt chất rắn. Vì cos không lớn, ta có:
231213 (4.2)
Đây là điều kiện dính ướt đối với bề mặt nhẵn.
Với bề mặt đã được làm nhám thì phương trình (4-1) có tính đến hệ số K. Hệ số
này là tỷ lệ giữa diện tích mặt nhám và diện tích bề mặt nhẵn.
p
n
S
SK (4.3)
Trong đó: Sn – diện tích mặt nhám
Sp – diện tích mặt nhẵn
Từ công thức (4-1) ta có:
cos... 231213 KK (4.4)
Khi đó có giá trị là 1.
1231213
1231213
cos..
cos...
K
KK (4.5)
H4.2. Hình dáng giọt lỏng
1- Dạng cụp vào; 2- Dạng cong
ra
Tạo rãnh theo đường trònn và đánh
nhám ở đỉnh
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Và từ (4-1) ta có:
K
123
23
231213
cos.cos.
cos.
(4.6)
Hoặc: K.coscos 1
Khi K < 1 thì 1 > dính ướt kém hơn
Khi K > 1 thì 1 < dính ướt tốt hơn
Do làm nhám nên diện tích dính ướt tăng lên K lần, do đó K luôn luôn lớn hơn 1
và góc nhỏ hơn nên tạo điều kiện dính bám tốt hơn.
2/ Lực VanderWalls
Khi một phân tử hay một nguyên tử va vào bề mặt kim loại, giữa chúng có lực
liên kết phân tử VanderWalls. Lực này do tác dụng tương hỗ giữa hai mô men lưỡng
cực của hai nguyên tử hay phân tử. Khi trọng tâm điện tích của điện tử không trùng
với tâm điện tích của hạt nhân nguyên tử thì lúc đó nguyên tử thành một mô men
lưỡng cực. Giá trị và hướng của mô men thay đổi theo thời gian và giá trị trung bình
theo thời gian bằng không.
Nếu một phân tử hay nguyên tử có mô men lưỡng cực rơi vào trường của nguyên
tử khác cũng có mô men lưỡng cực thì giữa chúng có lực tác dụng. Theo Đebai thì
năng lượng trao đổi giữa chúng là :
TKrEw
.
1.
..
3
26
2212 (4.7)
Trong đó: 12, 22 – mô men lưỡng cực
r – khoảng cách giữa hai nguyên tử
T – nhiệt độ
Nhưng khi nguyên tử hay phân tử tác dụng với bề mặt kim loại thì năng lượng trao
đổi rất khó xác định bởi các nguyên tử kim loại nằm trong mạng liên kết với các
nguyên tử khác.
Dzon coi kim loại như một vật phân cực hoàn toàn, đã tính năng lượng trao đổi
theo phương pháp cổ điển của các lực tĩnh điện là;
31..2
..
rN
XCmE
a
e (4.8)
Trong đó: me – khối lượng điện tử
C – tốc độ ánh sáng
X – hệ số hấp thụ khí
Na – số Avogađro
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Công thức tính năng lượng trao đổi trên ứng với bề mặt kim loại đồng nhất. Nhưng
thực tế cho thấy lực liên kết của những nguyên tử nằm ở chỗ lõm cao hơn so với các
nguyên tử nằm trên bề mặt, những nguyên tử nằm ở những hố sâu lực liên kết còn cao
hơn so với các nguyên tử nằm ở chỗ lõm, đặc biệt lực liên kết ở các đỉnh nhấp nhô là
thấp nhất. Điều này có thể giải thích là các nguyên tử nằm ở chỗ lõm liên kết với
nhiều nguyên tử nằm trong mạng tinh thể hơn, nên liên kết lớn hơn.
3/ Lực liên kết do ảnh hưởng của lớp điện tích kép
Trong quá trình chuyển động nhiệt các điện tử dẫn điện có thể chuyển động
vượt ra khỏi ranh giới của bề mặt và tạo thành một lớp mây điện tử ở bề mặt kim loại.
Giữa lớp mây điện tử và các nguyên tử tạo thành một lớp điện tích kép, một cực là
mây điện tử, cực kia là các nguyên tử ở bề mặt. Khi có hai kim loại tiếp xúc với nhau
thì do sự chênh lệch điện thế ở hai bề mặt, giữa chúng có lực điện tác dụng, lực đó
được tính theo công thức:
F = 2..2.S (4.9)
Trong đó: - diện tích riêng trên một diện tích của một lớp mây điện tử
S – diện tích tiếp xúc, diện tích này phụ thuộc vào lực làm cho hạt kim loại
bẹt lại ở vùng tiếp xúc.
Lực này phụ thuộc nhiều vào bản chất của kim loại, các yếu tố của bề mặt kim loại
tiếp xúc.
4.Liên kết kim loại
Khi hai kim loại tiếp xúc với nhau thì nguyên tử của kim loại này dưới ảnh
hưởng của các yếu tố nhiệt động khuyếch tán vào mạng của kim loại kia tạo thành
những vùng chuyển tiếp - đó là dung dịch rắn của cả hai kim loại. Khi đó ta nói giữa
chúng có mối liên kết kim loại. Mối liên kết này phụ thuộc vào nhiệt độ tiếp xúc và
trạng thái bề mặt của kim loại.
Bằng các công trình thực nghiệm các nhà nghiên cứu đã bổ sung những nhận
thức về độ dính bám của lớp phun phủ với kim loại nền bằng các hình thức sau:
H 3.17 . Quan hệ giữa độ
bám và độ nhấp nhô bề mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
Đồng thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
500
0 4 8 12 16 20
24 ( m
)
H4.7. Năng lượng điện trên bề
mặt
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Bằng sự khuyếch tán của hai kim loại với nhau (kể cả khuyếch tán tế vi)
- Bằng sự hàn hoặc hàn tế vi với nhau
- Bằng sự liên kết của các phản ứng hóa học
- Bằng lực của sự co rút kim loại khi kết tinh
- Bằng độ bám cơ học
Độ bám cơ học được biểu thị như một sự giữ chặt các phần tử phun đập vào
những vị trí nhấp nhô của mặt kim loại nền. Độ bám này là một nhân tố quan trọng
đối với toàn bộ độ bám của lớp phủ.
Trong trường hợp nếu xét đến khuynh hướng sạch hoàn toàn của lớp bề mặt
trước khi phun phủ ta thấy rằng: bề mặt không làm sạch các bụi kim loại, các oxit, các
bụi bẩn khác hoặc độ nhấp nhô khác nhau ... có thể dẫn đến sự liên kết cũng khác
nhau bằng lực liên kết hoá học hoặc cơ học.
Trong những điều kiện phun thích hợp và hình thái không gian thích hợp, ở một
vài kim loại có thể đạt tới sự hàn ở từng điểm giữa kim loại nền và các phần tử phụ.
Khi nghiên cứu độ bám của lớp phủ kim loại và kim loại nền bằng cách phun
N.N.Rykalin đã chứng minh rằng ở từng vùng của bề mặt có thể chia làm ba giai đoạn
sau:
Tạo nên một mặt tiếp xúc, nghĩa là tạo nên sự dịch gần nhau của các nguyên tử
kim loại đến một khoảng cách đủ để có sự tác dụng hoá học.
Hoạt tính và sự tác dụng hoá học của các nguyên tử kim loại gần nhau sẽ đưa
đến hình thành mối liên kết hoá học bền vững.
Các quá trình phục hồi (kết tinh lại, khuyếch tán tạo pha mới ...) xảy ra tiếp
theo có thể nâng cao hoặc làm giảm sức bền của mối liên kết.
Trong hai giai đoạn đầu biểu hiện sự biến đổi bề mặt, giai đoạn ba biểu thị sự thay
đổi tính chất bên trong. Để tạo được liên kết bền vững giữa lớp phủ và vật liệu được
phủ cần thiết phải thực hiện tốt hai giai đoạn đầu còn sự khuyếch tán không nhất thiết
phải thực hiện ở giai đoạn ba. Giai đoạn này thường cho kết quả khi gia công nung
nóng ở nhiệt độ cao (hoặc ủ sau khi phun).
3.4.2 Những yếu tố ảnh hƣởng đến độ bám dính của lớp phủ
1/ Ảnh hưởng của lực co rút
Lực từ sự co rút của kim loại có ảnh hưởng đáng kể đến độ bám dính của lớp
phủ. Những phần tử kim loại sau khi va đập lên bề mặt cơ sở sẽ nguội dần theo thời
gian và trong lớp phủ xuất hiện ứng suất do sự co rút của kim loại phủ. ứng suất này
có thể làm tăng độ dính bám của lớp phủ, ngược lại cũng có thể làm giảm sự liên kết
của lớp phủ với kim loại nền.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Khi phun những bề mặt hình trụ ngoài (VD các trục) lực sinh ra do sự co rút của
lớp phủ là các nội lực nên rất yếu, do vậy, ảnh hưởng của chúng không đáng kể. Tuy
nhiên, khi phun với lớp dày và kim loại có độ co rút lớn (VD thép 0,1%C) thì ảnh
hưởng của nội lực có thể dẫn đến sự nứt dọc trên lớp phủ.
- Khi phun lên các bề mặt trụ trong nội lực sinh ra do sự co rút có ảnh hưởng xấu
đến độ bám lớp phủ. Trường hợp này sự co rút tác dụng theo hướng tâm, gây nên sự
tách rời lớp phủ với lớp bề mặt cơ sở.
Để khắc phục những điểm trên, có nhiều biện pháp: chi tiết phải được nung nóng
sơ bộ, làm nguội lớp phủ từ từ hoặc phun với các lớp phủ mỏng 0,05 0,1mm và
ứng với mỗi lớp phải được làm nguội chậm.
- Khi phun lên các bề mặt phẳng, ứng suất sinh ra do sự co rút kim loại lớp phủ có
thể dẫn đến sự biến dạng lớp phủ, kim loại nền (tấm mỏng thường bị cong vênh), làm
bong, tróc lớp phủ.
Ta xét một phần tử nhỏ lớp phủ AB có chiều dài l, chiều cao h với diện tích tiết
diện △S. Có thể coi đó là một thanh được gắn trên đường thẳng AB.
Giả thiết nhiệt độ của phần tử trong thì gian va đập là t2, nhiệt độ của môi
trường xung quanh là t3, ứng suất sinh ra trong lớp phủ:
)/(. 2
32 mNEttt (4.10)
l
h
H 3.18. Quan hệ giữa độ bám và độ nhấp nhô bề mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
Đồng thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
500
0 4 8 12 16 20 24 ( m
)
H4.7. Năng lượng điện trên bề mặt
H 3.19 . Quan hệ giữa độ bám và độ nhấp nhô bề mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Trong đó: t – hệ số giãn nở nhiệt của kim loại 1/grad)
E – mô đun đàn hồi của kim loại phủ (N/m2)
Vì lớp phủ có chiều dày nhỏ hơn nhiều so với mặt đáy cho nên ta có thể bỏ qua
sự biến dạng tiếp theo khác. Do vậy, sẽ co ngắn lớp phủ khi làm nguội:
32.. ttll t (4.11)
Do có sự co ngắn l cho nên trong lớp phủ sẽ sinh ra ứng suất kéo:
)/(. 2mNl
lE (4.12)
Lực tách lớp phủ (theo các mép) khỏi bề mặt chi tiết:
)(. NSP (4.13)
Từ đó ta có:
)(..32 NSEttP t (4.14)
Từ phương trình này ta thấy sự tăng nhiệt độ của các phần tử trước lúc va chạm thì
ứng lực có khuynh hướng làm tách lớp phủ ra khỏi nền cơ sở sẽ tăng lên.
2/ Ảnh hưởng của trạng thái bề mặt cơ sở (nền)
Khi nghiên cứu độ bám dính của lớp phủ kim loại với vật liệu nên cần thiết phải
nói đến hoạt tính của bề mặt nền, hoạt tính này có ảnh hưởng lớn đến độ bám lớp phủ.
Hoạt tính của bề mặt được đánh giá bằng trạng thái vật lý và năng lượng. Nguyên
tử trong kim loại ở trường hợp lý tưởng bố trí ở trong các mạng và dao động xung
quanh vị trí của nó.
Nhưng nếu xét về vị trí của nó, các nguyên tử trên bề mặt khác với các nguyên tử
bố trí ở phía trong. Hình dưới biểu thị sự bố trí nguyên tử trên bề mặt chúng có mức
năng lượng khác nhau.
Nguyên tử 4 ở mặt cấu trúc không bị phá
vỡ có mức năng lượng thoát lớn nhất.
Ngược lại, những nguyên tử ở trong
những lớp không liên tục (nguyên tử 1)
có giá trị năng lượng nhỏ nhất.
H 3.20. Sự bố trí nguyên tử trong mạng
Nguyên tử trên bề mặt liên kết với nhau có năng lượng thoát khỏi tăng khi tổng số
các nguyên tử xung quanh giảm. Do sự không đồng đều về năng lượng làm xuất hiện
ứng suất bề mặt, ứng suất này sinh ra có liên quan đến sự phát sinh, tồn tại ưng suất
của các lớp xung quanh của mạng. Ngoài ra ta biét các nguyên tử bề mặt có những
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
đặc điểm khác với các nguyên tử bên trong, vì nó có mối tiếp xúc với các nguyên tử
ngoại lai kể cả trong trường hợp là phân tử.
Do những đặc điểm của lớp bề mặt mà thấy rằng: năng lượng toàn bộ của tất cả
các phần tử bề mặt sẽ tham gia vào trong các phản ứng với các nguyên tử ở trong các
môi trường gần với bề mặt (như lớp phủ). Nguyên nhân là trên bề mặt kim loại cũng
không đồng đều về năng lượng, những khu vực có năng lượng thấp và năng lượng cao
sẽ sinh ra hiện tượng chênh lệch về năng lượng. Vùng năng lượng cao có hoạt tính cao
hơn và tự phản ứng với môi trường. Sau đó, theo loại môi trường và tính chất lý hoá
của vật liệu nền có thể sinh ra sự hấp thụ, sự dính và các phản ứng hoá học khác
Những vùng khác nhau về năng lượng không chỉ tạo ở trong cấu trúc vĩ mô mà
còn ngay ở trong phạm vi nguyên tử. Năng lượng của một số nguyên tử trên tụ tập
trên bề mặt có thể là cao và như vậy trong điều kiện nhất định sẽ rời khỏi bề mặt.
Năng lượng cần thiết để tách một nguyên tử từ mạng của chúng được gọi là năng
lượng thoát hay năng lượng hoạt tính tách rời của nguyên tử.
Sự biến động (biến dạng dẻo) của mạng có ảnh hưởng đến sự tăng hoạt tính bởi vì
trong phạm vi mở rộng sự biến dạng dẻo sẽ tích luỹ năng lượng điện năng. Những
vùng giàu năng lượng điện năng thường ở trong những vùng trực tiếp của những vị trí
khuyết của mạng tinh thể.
Các khuyết tật trong mạng có thể bao gồm:
- Khuyết tật điểm: Các vị trí rỗng trong mạng, các nguyên tử thay thế
- Khuyết tật đường (lệch mạng): Lệch mạng đường, lệch mạng xoắn
- Vị trí khuyết tật dạng mặt (theo 2 chiều): Bề mặt biên giới, biên giới hạt,
biên giới của song tinh
- Vị trí khuyết tật theo kích thước ba chiều
+ Các lỗ xuất hiện do bên ngoài tác dụng ở gần bề mặt hoặc ở phía trong
+ Các khe hở tế vi, các lỗ xốp tế vi.
3/ Ảnh hưởng của chuẩn bị bề mặt
Từ những khái niệm về độ bám của lớp phủ kim loại hoặc phi kim loại đối với vật
liệu nền thấy rằng: độ bám phụ thuộc vào hình dạng tế vi lớp bề mặt. Độ nhấp nhô
này sẽ giữ chặt các phần tử kim loại, mặt khác độ bám phụ thuộc vào hình dạng hình
học của bề mặt
Vậy chuẩn bị bề mặt là một nhân tố quyết định ảnh hưởng đến chất lượng của lớp
phủ kim loại. Chuẩn bị bề mặt trước khi phủ chủ yếu là làm sạch và tạo nhấp nhô bề
mặt. Có rất nhiều phương pháp chuẩn bị bề mặt:
- Chuẩn bị bằng phương pháp ngâm: trên cơ sở cơ cấu tác dụng hoá học của ngâm
sẽ dẫn đến nâng cao hoạt tính bề mặt, trong đó sự thay đổi hình dáng hình học chỉ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
đóng vai trò thứ yếu. Trên bề mặt sẽ hình thành một lớp màng mỏng, lớp này có thể
giữ được hoạt tính cao của bề mặt trong thời gian dài, hoạt tính này biểu hiện trong
việc giảm công thoát ra khỏi bề mặt của các điện tử, tức là làm cho các điện tử dễ
thoát ra ngoài hơn.
Hoạt tính là bản chất lý hoá cho nên trong một số trường hợp có ảnh hưởng đến độ
bám của lớp phủ. Độ bám ở đây được tạo nên do tác dụng tương hỗ giữa các phần tử
bằng lực liên kết VanderWalls.
- Chuẩn bị bề mặt bằng phương pháp cơ học như phun cát, phun bi: sẽ nâng cao
được năng lượng điện trên bề mặt và cả lớp dưới bề mặt. Hoạt tính bề mặt sau khi
chuẩn bị sẽ giảm dần theo thời gian vì do phản ứng của môi trường xung quanh hoặc
do sự hấp thụ của môi trường làm giảm năng lượng tự do của bề mặt.
Đứng về quan điểm độ nhấp nhô tế vi của bề mặt thực tế cũng như lý thuyết đã
chứng minh rằng: độ nhấp nhô rất nhỏ được tạo nên bằng cách ngâm vào hoá chất chỉ
có thể dùng cho quá trình hoá lý nhất định nào đó (VD như dán kim loại …), còn các
hình thức như phun phủ kim loại phải tạo nên độ nhấp nhô bề mặt bằng phương pháp
cơ học như gia công cơ học cắt gọt, phun cát, phun bi…
Từ những khái niệm trên, ta thấy rằng sự
phụ thuộc nhất định giữa trạng thái bề mặt và
hoạt tính bề mặt có ảnh hưởng đến độ bám
của lớp phủ.
Xét về ảnh hưởng hình dạng tế vi bề mặt
thấy rằng: Độ bám của lớp phủ kim loại phụ
thuộc vào độ nhấp nhô của vật liệu nền,
đặc trưng bằng hình dạng hình học và độ
lớn của bề mặt thực tế. Những kết quả thí nghiệm đã cho thấy độ bám của lớp phủ
tăng cùng với sự tăng của độ nhấp nhô bề mặt, nhưng sự tăng đó chỉ đến một phạm vi
giới hạn nhất định, giới hạn này tuỳ thuộc vào vật liệu phun và vật liệu nền.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Hiệu quả sau khi chuẩn bị bề mặt bằng các phương pháp cơ học dẫn đến các kết
quả:
- Tạo nên bề mặt có hoạt tính cao.
- Tạo nên độ nhấp nhô tế vi (Rz).
- Tạo nên biến dạng dẻo () và độ biến cứng (H/H).
- Tạo mật độ lệch mạng ( - 0).
4/ Ảnh hưởng của cấu trúc hình thành lớp phủ
Các phần tử kim loại trong chùm tia phun va đập trên bề mặt cơ sở dưới những
góc độ khác nhau. Sự va đập thẳng góc được coi là lý tưởng chỉ xảy ra ở trung tâm
của chùm tia. Còn các phần tử khác bên ngoài va đập lên bề mặt dưới một góc nhỏ
hơn 900. Điều đó cho thấy: trong tất cả các vị trí của chùm tia phun sẽ không đồng
đều, nên cấu trúc của mỗi lớp xuất hiện trong tất cả các tiết diện cũng khác nhau.
Bổ sung thêm hình :
H 3.21. Sự hình thành cấu trúc lớp phủ
.
Quan hệ
giữa độ bám
và độ nhấp
nhô bề mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
Đồng
thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
500
0 4 8
12 16
Hìn
h 4.8.
Quan hệ
giữa độ
bám và độ
nhấp nhô
bề mặt
Thé
p
Nhô
m
Kẽ
m
Đồn
g thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
. Quan hệ giữa độ bám và độ nhấp nhô bề
mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
Đồng thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
500
0 4 8 12 16 20 24 ( m
)
. Quan hệ giữa độ bám và độ nhấp nhô
bề mặt
Thép
Nhôm
Kẽm
Đồng thau
Sức bền
(N/cm2)
4500
3500
2500
1500
500
0 4 8 12 16 20 24 ( m
)
H4.7. Năng lượng điện trên bề mặt
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi dịch chuyển đầu phun từ trái sang phải trên bề mặt của chi tiết bắt đầu phủ
bằng lớp của các phần tử biên (2), các phần tử này tạo ra lớp mỏng (3) (gọi là lớp
trung gian). Đầu phun tiếp tục dịch chuyển vào chi tiết, các phần tử trung tâm (1)
(vuông góc với đầu phun) sẽ phủ lên lớp trung gian (3) tạo ra lớp cơ sở (4) và đồng
thời các phần tử biên ngoài (2) lại tạo ra lớp trung gian mới (5) giống như lớp trung
gian trên bề mặt chi tiết (3). Chính các lớp trung gian làm giảm chất lượng của lớp
phủ. Đối với các lớp phủ quan trọng, để tránh điều này ta có thể dùng các đồ gá tách
các phần tử biên ra khỏi chùm tia phun.
Độ bám của lớp phủ xác định bằng mối liên kết tác dụng hoá học qua lại của các
phần tử và bằng sự nâng cao khả năng biến dạng của chúng trong thời điểm va đập và
bằng sự giảm số lượng oxit trên bề mặt các phần tử. Bởi vậy, độ bám của lớp trung
gian là nhỏ nhất so với độ bám của lớp cơ sở với vật liệu nền.
Từ đó thấy sự khác nhau về cấu trúc lớp và sự phân bố thể tích kim loại trong
chùm tia phun không đồng đều có ảnh hưởng đến độ bám không đồng đều của lớp
phủ kim loại:
- Phía giữa chùm tia phun có sự tập trung nồng độ lớn nhất và ở vùng này biểu thị
các thông số có lợi nhất của các phần tử.
- Khu vực biên được tạo thành những phần tử với năng lượng động năng nhỏ nên
không có sự biến dạng, có nhiều lớp oxit và tạo nên nhiều lỗ xốp.
Theo Pasin lớp phun kim loại được tạo từ những phần tử trung tâm có độ bám cao
gấp 6 lần so với độ bám của các phần tử ở biên.
3.4.3. Tính chất của lớp phủ
1/ Tính chất cơ học của lớp phủ
Tính chất cơ học được đặc trưng bằng độ bền kéo (k), độ bền nén (n), độ bền
uốn (u) và mô đun đàn hồi (E).
- Độ bền kéo của lớp phủ phụ thuộc vào sự liên kết giữa các phần tử của lớp phủ
và sự liên kết giữa các phần tử phun và lớp vật liệu nền. Nói chung độ bền kéo của lớp
phủ nhỏ hơn nhiều so với độ bền kéo của vật liệu ban đầu.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Bảng : Giá trị độ bền kéo của các loại vật liệu lớp phủ
Vật liệu Giới hạn bền kộo
Vật liệu ban đầu Lớp phủ
Thép ít các bon 5,1.108 1,27.10
8ữ1,96.10
8
Đồng M1 1,78.108 0,57.10
8ữ1,08.10
8
Nhôm A2 1,11.108 0,29.10
8ữ0,49.10
8
Kẽm 1,01.108 0,34.10
8
Đồng 3,10.108 0,25.10
8
- Độ bền nén của lớp phủ lớn hơn độ bền kéo của lớp phủ khoảng 40 70%. Tuy
nhiên độ bền nén này vẫn kém hơn độ bền nén của vật liệu ban đầu do trong lớp phủ
còn rất nhiều lỗ xốp. Độ bền nén cũng phụ thuộc vào chế độ phun: lớp phủ là thép thì
n = 800 1200N/mm2, là nhôm thì n = 200N/mm
2, là kẽm thì n = 130N/mm
2.
- Độ cứng của lớp phủ khác với độ cứng của vật liệu ban đầu rất nhiều, thường thì
độ cứng của lớp phủ cao hơn. Sự tăng độ cứng là do tác dụng của dòng khí nén lạnh
và bề mặt nền nguội lạnh làm cho các phần tử phun bị tác dụng như nhiệt luyện. Mặt
khác, sự va đập gây ra sự biến dạng, sẽ làm biến cứng của các phần tử và của lớp
phủ. Tuy nhiên, nguyên nhân chính tăng độ cứng là do sự oxy hóa vật liệu phun, chất
lượng của vật liệu nền.
Thép 20 40 10
Độ cứng HB 187 229 286
Do độ cứng của lớp phủ lớn nên không sử dụng lớp phủ trong điều kiện tải trọng
động, nếu không lớp phủ sẽ bị tróc.
2/ Tính chất chống mài mòn của lớp phủ
Khả năng chống mài mòn của lớp phủ phụ thuộc vào trạng thái ma sát:
- Trong điều kiện ma sát khô, lớp phủ bằng phun kim loại có độ mài mòn cao hơn
rất nhiều so với vật liệu cơ bản do các phần tử phun có độ bám liên kết với nhau
tương đối thấp cho nên chúng dễ bị tróc ra. Vì vậy, không sử dụng lớp phủ trong
trường hợp chịu ma sát khô.
- Trong điều kiện ma sát ướt thì lớp phủ chịu mài mòn tốt hơn vật liệu cơ bản.
Nguyên nhân là do trong lớp phủ có rất nhiều lỗ xốp, các lỗ xốp này chính là các túi
ngậm dầu (có thể ngậm dầu đến 15%) và tạo ra những túi đựng dầu nhỏ dự trữ. Trong
trường hợp màng dầu bị phá hủy, dầu từ các lỗ xốp sẽ được khuyếch tán và tạo ra cac
màng dầu thay thế.
Cần chú ý là nếu lớp phủ được gia công tiếp bằng phương pháp mài thì khả năng
hấp thụ dầu sẽ giảm đi do các lỗ xốp bị đóng kín hoặc các bụi chiếm chỗ.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
VD: khi phun lớp phủ bằng thép cacbon, đem ngâm vào dầu sau 100 giờ sẽ hấp
thụ 11,1% dầu, nhưng nếu đem gia công bằng phương pháp mài thì còn 5,4%.
Thông thường trước khi lớp phủ được gia công cơ, đem ngâm vào bể dầu được sấy
nóng 80 1000C sau thời gian từ 0,5 10 giờ để các lỗ xốp hấp thụ dầu.
Khi các ổ trượt được phủ lớp KIM LOạI làm việc trong điều kiện ma sát ướt, tải
trọng làm việc có thể tăng lên từ 3 4 lần (17,7 19,2 N/mm2thay cho 4,5 5,2
N/mm2).
3/ Khả năng chống oxy hoá của lớp phủ
Lớp phủ được sử dụng rộng rãi để chống oxy hóa (oxy hóa trong môi trường
điện phân và oxy hóa nhiệt). Nó có rất nhiều ưu điểm so với các phương pháp khác,
nhưng phải sử dụng chính xác bề mặt phun kim loại trong các điều kiện cụ thể. Bởi vì
lớp phủ kim loại có đặc tính xốp nên chiều dày lớp phủ được định bởi phương pháp sử
dụng. Nếu chiều dày lớp phủ mỏng thì ở áp suất khí quyển cũng dễ dàng cho chất khí
hoặc chất lỏng thấm thấu qua, nhưng nếu chiều dày lớn hơn thì khả năng đó không
thực hiện được.
Do kim loại cơ sở, kim loại lớp phủ là khác nhau và tác động của môi trường nên
ảnh hưởng của tính chất điện hóa là rất lớn: Trong lớp phủ tạo bằng phun kim loại, do
có các lỗ xốp nên khi tiếp xúc với các môi trường không khí ẩm, các dung dịch… dễ
dàng tạo ra môi trường điện phân. Trong môi trường điện phân, sự nối mạch 2 kim
loại dẫn điện khác nhau sẽ tạo nên các cặp vi pin và sẽ xảy ra quá trình oxy hóa. Khả
năng bị oxy hóa phụ thuộc vào thế điện hóa của các kim loại hay ion. Lớp phủ có thể
đóng vai trò anod hy sinh để bảo vệ lớp vật liệu nền. Tuổi thọ của chúng phụ thuộc
vào chiều dày lớp phủ, độ xốp và độ nhấp nhô của chúng.
Thường trong lĩnh vực chống ăn mòn điện hoá (chống gỉ) cho các kết cấu, chi tiết
bằng thép nên dùng lớp phủ là nhôm hoặc kẽm. Chúng sẽ đóng vai trò như những lớp
bảo vệ anôt và ảnh hưởng của các lỗ xốp là không đáng kể nên khả năng chống ăn
mòn điện hoá là rất tốt.
4/ Tính chịu nhiệt của lớp phun kim loại
Để bảo vệ chống nhiệt cho các chi tiết bằng thép cacbon thấp, thường sử dụng
lớp phủ bằng nhôm, nó có khả năng chịu đến 950oC và thời gian chịu nhiệt cũng dài
hơn. Nguyên nhân là do các phần tử nhôm khuếch tán vào thép, mặt khác các phần tử
nhôm trên bề mặt bị ôxy hoá. Do vậy trên bề mặt thép có lớp nhôm bảo vệ gồm nhiều
lớp:
- Lớp ngoài là lớp ôxyt nhôm có khả năng chịu nhiệt cao – nhiệt độ chảy là
21000C. Tuy nhiên lớp này liên kết rất yếu với bề mặt nên khoảng 800
0C thì chúng dễ
dàng bong ra khi có sự biến dạng kim loại
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Tiếp theo là lớp của hợp kim sắt và nhôm.
Để nâng cao tuổi thọ của lớp phủ chịu nhiệt, thường phải tiến hành ủ để cho có
sự liên kết khuếch tán giữa các lớp phủ với nhau và giữa lớp phủ với kim loại cơ bản,
và mặt khác có thể tiến hành sơn lớp phủ.
Khả năng chịu nhiệt của lớp phủ phụ thuộc vào nhiệt độ làm việc của chi tiết
phủ và thời gian làm việc. Trong điều kiện nhiệt độ cao, tuổi thọ của chi tiết thép có
lớp phủ cao hơn khoảng 5 20 lần so với chi tiết không có lớp phủ.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5 Quy trình công nghệ phun phủ
H5. 1.
Quy trình công nghệ phun phủ
Các bước thực hiện trong quy trình công nghệ phun phủ bao gồm:
- Phân tích kết cấu, vật liệu, điều kiện làm việc cảa bề mặt phun.
- Xác định vật liệu phun.
- Chuẩn bị bề mặt trước khi phun phủ.
- Công nghệ phun phủ.
- Gia công cơ khí sau khi phun, xử lý nhiệt lớp phủ (nếu cần).
- Kiểm tra chất lượng lớp phủ về độ cứng, kích thước, độ bám dính, các yếu tố
khác.
Trong từng trường hợp cụ thể thì một số công đoạn có thể bỏ qua hoặc một số
bước có thể ghép lại đồng thời.
3.5.1. Kiểm tra kết cấu, vật liệu
Đối với từng chi tiết cụ thể cần kiểm tra mác nền, độ cứng, kích thước… để chọn
vật liệu phun và công nghệ thích hợp.
Tùy theo kết cấu của chi tiết mà ta xác định cách gá kẹp và kỹ thuật phun.
3.5.2. Vật liệu phun
Vật liệu phun có thể là dạng dây hoặc dạng bột. Dạng dây dùng trong phun khí
cháy, hồ quang điện; dạng bột dùng trong phun khí cháy, phun nổ, phun plasma.
Kiểm tra thông số VL nền
Công nghệ
chuẩn bị bề mặt
Chuẩn bị
VL phun
Phun phủ
Gia công nhiệt
hoặc nhiệt hoá lớp phủ
Gia công cơ khí
Kiểm tra chất lượng
Lớp phủ và sản phẩm
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Vật liệu dạng dây khó hợp kim hoá lớp bề mặt phun bởi lẽ không thể thêm các
thành phần nguyên tố hợp kim vào dây phun mà chỉ có thể chọn một loại dây phun
xác định. Vật liệu dạng bột được trộn từ các thành phần nguyên tố khác nhau đem
nghiền nhỏ vì vậy ta có thể trộn thêm các thành phần nguyên tố hợp kim khác tuỳ theo
yêu cầu cơ học lớp bề mặt. Tuy nhiên vật liệu dạng bột không dùng được cho phương
pháp phun phủ hồ quang điện.
Vật liệu dạng dây sẽ khó khăn hơn trong việc nung chảy và thổi vào lớp bề mặt so
với vật liệu dạng bột, nó yêu cầu công suất nung chảy lớn hơn và áp suất khí thổi cao
hơn.
Tính chất vật liệu phun tuỳ thuộc vào tính chất của lớp bề mặt yêu cầu. Với bề mặt
chống mài mòn cần vật liệu có độ cứng cao. Hàm lượng cacbon càng cao thì độ cứng
lớp bề mặt càng tăng do sự hình thành tổ chức mactenxit triệt để. Với bề mặt chống ăn
mòn cần vật liệu có khả năng tạo nên lớp bề mặt bền hoá học với môi trường ăn mòn.
3.5.2.1. Vật liệu phủ dạng dây
Kim loại dùng làm vật liệu phun thường ở dạng dây hoặc bột được sản xuất từ các
nhà máy luyện kim theo đơn đặt hàng.
Bảmg 5.1. Vật liệu dạng dây thường được dùng trong phun phủ
Vật liệu Thành phần Đường kính dây
(mm)
Chì– Pb Loại cứng 2,5
Kẽm –Zn Zn 99,65% 2,5
Nhôm – Al Al 99,65% 2,5
Hợp kim nhôm
Al-Mg(6-8% Mg)
Al-Mn(1,5%Mn)
2,5
2,5
Đồng – Cu; Đồng thau Cu 99,65% 2,5
2,5
Thép
0,1%C
0,25%C
0,8%C
2,5
2,5
2,5
Niken – Ni – 2,0
Thiếc – Sn Loại cứng 2,5
Thép không gỉ – 2,5
- Thép: ngoài các loại trên, trong thực tế còn dùng nhiều loại khác để đạt được các
mục đích yêu cầu. Thông thường dùng các loại dây thép có thành phần cacbon từ 0,1
0,8%C với thành phần hoá học theo bảng sau.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Bảng 5.2. Thành phần hoá học của các loại dây thép
Vật liệu S(%) P(%) Si(%) Mn(%) Cr(%)
Thép 0,1%C 0,01 0,02 0,03 0,3 0,03
Thép 0,25-0,28%C 0,01-0,02 0,03 0,03 0,3 0,03
Thép 0,65-0,8%C 0,02 0,01 0,26 0,35 0,03
- Thép với 0,1%C có ưu điểm là phun dễ và sau khi phun xong gia công cắt
gọt dễ, nhược điểm là độ co lớn, dễ sinh nứt lớp phun khi chiều dày lớp phun
lớn hơn 2 mm.
- Thép với 0,25%C dùng cho các lớp yêu cầu cần đạt độ cứng cao hơn, khả
năng sinh nứt lớp phủ ít hơn, sức bền chịu kéo của lớp phủ đạt khoảng 240
N/mm2.
- Thép với 0,8%C dùng để phun các lớp phủ dày vì nó có ưu điểm là độ co nhỏ,
nhược điểm là độ cứng cao nên chỉ có thể gia công bằng phương pháp mài
hoặc dùng các loại dao hợp kim như TK.
Với thành phần cacbon khác nhau sẽ cho dạng tia phun cũng khác nhau.
- Thép cacbon và hợp kim thấp của thép cacbon: dùng để tăng cứng bề mặt và
tăng khả năng chịu mài mòn cho các chi tiết máy.
- Thép chịu ăn mòn gồm: thép mactenxit và austenit.
+ Thép mactenxit: lớp phủ có khả năng chống ăn mòn và chịu mài mòn.
+ Thép austenit: lớp phủ có khả năng chống ăn mòn cao.
Nhiệt độ chảy của kim loại dây phun có ảnh hưởng đến việc chọn tốc độ dịch
chuyển dây, chọn lưu lượng khí cháy và kỹ thuật phun.
- Nhôm (Al): lớp phủ nhôm dùng để bảo vệ kim loại đen không bị oxi hóa. Dây
được phủ bằng nhôm có thể dùng làm dây dẫn điện. Ngoài ra, lớp phủ nhôm có thể
dùng để chống cháy và dùng cho những mối tiếp xúc trong các thiết bị điện tử.
- Kẽm (Zn): được dùng để chống ăn mòn cho kim loại đen.
- Đồng (Cu) và hợp kim đồng: lớp phủ có chất lượng rất tốt, thường dùng trong kỹ
thuật điện để mạ dây điện, chống oxi hóa, chịu mài mòn…, nhưng công nghệ phun
đồng nguyên chất là rất khó, nên thường dùng hợp kim đồng nhôm.
- Thiếc (Sn) và hợp kim thiếc: lớp phủ có khả năng chịu axit, chống oxi
hóa…
- Molipđen (Mo): lớp phu có khả năng bám dính tốt với bề mặt thép, do vậy
thuờng được làm lớp phủ lót. Ngoài ra, lớp phủ này còn có khả năng chịu được môi
trường muối, axit nóng…
- Bạc (Ag): lớp phủ thường dùng để phủ các tiếp điểm điện…
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.2.2. Vật liệu phủ dạng bột
Đối với bột phun cần kiểm tra các thông số chính như cấp hạt, hình dáng, độ chảy.
Cấp hạt thường được đánh giá bằng cách dây qua sàng, hình dáng hạt được kiểm tra
trên kính hiển vi, còn độ chảy của một số bột có thể xác định theo tiêu chuẩn. Trong
một số trường hợp còn kiểm tra các tính chất khác như thành phần hoá học, thành
phần pha, tỷ trọng...
Vật liệu dạng bột thường được dùng trong phun phủ:
- Nhôm, kẽm, đồng, crôm, niken… và các hợp kim của chúng (Co - Cr, Ni -
Cr…).
- Ceramic: gồm các oxit kim loại (Al2O3, ZrO2, CaO, MgO, TiO2…), oxit bán
kim loại (SiO2), các cacbit (WC, TiC, TaC…) tạo nên lớp phủ có khả năng chịu mài
mòn cao, chịu nhiệt.
- Compozit, thường được trộn với kim loại, hợp kim… để phát huy các ưu
điểm của chúng hoặc có thể dùng để tạo lớp phủ cách điện.
Bột dùng để phun phải được chuẩn bị trước, gồm các công đoạn sấy bột và
phân cấp hạt. Thường bột kim loại được sấy ở nhiệt độ 120 1500C trong thời gian từ
1 3 giờ, với bột gốm nhiệt độ sấy cao hơn khoảng 700 8000C và thời gian từ 4 – 5
giờ.
3.5.3. Công nghệ chuẩn bị bề mặt trƣớc khi phun
Điều kiện đầu tiên để đạt được một lớp phủ bề mặt có chất lượng tốt bằng phun
phủ là sự chuẩn bị bề mặt nền. Bề mặt nền phải được chuẩn bị bằng một phương pháp
và quy trình thích hợp để đảm bảo đạt đượcc độ bám dính yêu cầu của lớp phủ.
Độ bám của lớp phủ lên bề mặt nền phụ thuộc rất lớn tới độ nhám và hoạt tính
bề mặt, đặc trưng của độ nhám và hoạt tính bề mặt sẽ khác nhau ở mỗi trường hợp
chuẩn bị. Do vậy, việc chuẩn bị ban đầu bề mặt trước khi phun có một ý nghĩa rất
quan trọng.
Chuẩn bị bề mặt có nhiều phương pháp và được chia làm hai công đoạn chính:
- Làm sạch bề mặt.
- Tạo nhám bề mặt.
Cùng một mục đích làm sạch bề mặt, hay tạo nhám bề mặt nhưng lại có nhiều
phương pháp để thực hiện. Tuỳ thuộc vào vật liệu nền và yêu cầu về độ nhám, ta cần
lựa chọn phương pháp làm sạch và phương pháp tạo nhám cho thích hợp; nếu cần
thiết, có thể phối hợp nhiều phương pháp làm sạch và tạo nhám trên cùng một bề mặt.
Quy trình chuẩn bị bề mặt theo sơ đồ sau:
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H 3.22. Quy trình công nghệ chuẩn bị bề mặt
3.5.3.1. Làm sạch bề mặt
Là một khâu không thể thiếu trong quá trình chuẩn bị bề mặt bởi lẽ bề mặt vật
luôn dính dầu, mỡ, bụi bẩn… các chất này sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng bề mặt
phun do vậy cần được tiến hành trước khi phun phủ.
Thường làm sạch bề mặt vật bằng các phương pháp sau:
- Dùng các chất hoà tan hữu cơ và dung dịch kiềm: Sau khi làm sạch bằng
dung dịch hoà tan hữu cơ, thường trên bề mặt của vật có một lớp dầu rất mỏng, lớp
dầu này không còn tác dụng gây hại cho lớp phủ bảo vệ. Các dung dịch kiềm nước có
chứa khoảng 2 – 10% chất kiềm (hydroxyt kiềm, nitratfòat, nước thuỷ tinh ...) với tỷ
lệ khác nhau và có cho thêm vào một lượng rất nhỏ (vài phần nghìn) chất làm ướt với
mục đích để giảm ứng suất bề mặt giữa dung dịch nước và dầu. Dùng các dung dịch
này, dầu khoáng vật sẽ hoà tan thành các giọt nhỏ trong dung dịch nước và các lớp mỡ
sẽ bị phá vỡ và khử sạch.
Phương pháp này thường tiến hành ở nhiệt độ 70 1000C và dùng cho phần
lớn các kim loại. Sau khi làm sạch trong dung dịch hoà tan phải làm sạch tiếp theo
bằng cách nhúng vào nước sạch để bề mặt được khử nốt những chất bẩn còn lại.
Gia
công hồ
quang (gại
điện)
Tạo
ren
đứt
đoạn
Gia công cơ khí sơ bộ
Tạo ren
Nhá
m
H4.2. Hình
dáng giọt lỏng
1- Dạng cụp
vào; 2- Dạng
cong ra
Tạo rãnh theo
đường trònn và đánh
nhám ở đỉnh
Tẩy dầu mỡ
Tẩy, rửa chi tiết,
Kiểm tra khuyết
tật
Phun hạt bằng khí áp
lực
Chống dính bề mặt
Không cần phun
Phun phủ
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Làm sạch bằng cách điện phân trong dung dịch kiềm (sử dụng cho bề mặt nền
kim loại); Với mục đích sử dụng tác dụng phân ly để làm sạch. Vật được nối với cực
âm, dưới tác dụng của dòng điện, trên bề mặt của kim loại sẽ có các hyđrôxyt thoát ra.
VD: Na và lập tức chúng phản ứng với nước tạo ra Na(OH)2 đậm đặc và hyđrô, các
hyđrôxyt này làm sạch dầu mỡ bằng các tác dụng hoá học của mình. Phương pháp
làm sạch bằng điện phân là phương pháp duy nhất cho bề mặt sạch hoàn toàn nhưng
nhược điểm của nó là thiết bị phức tạp.
- Ngâm kim loại: Là phương pháp làm sạch bằng hoá chất, các bề mặt kim loại
sẽ được khử các chất bẩn vô cơ như các ôxyt, các vẩy, gỉ, nhưng trước khi ngâm vật
phải được làm sạch dầu mỡ.
Ngâm làm sạch thép thường dùng 10 20% dung dịch nước axit lưuhuỳnh và
nung nóng đến 40 700C hoặc dùng dung dịch axyt có muối với nồng độ như trên và
ở nhiệt độ bình thường.
Các ôxyt bị khử sẽ hoà tan trực tiếp vào dung dịch axyt ở những nơi có rỗ khí,
khe nứt. Dung dịch sẽ thấm vào đấy cho đến lớp kim loại và hoà tan cả kim loại.
3.5.3.2. Tạo nhám bề mặt trƣớc khi phun phủ
Nguyên công này đảm bảo độ bền và độ dính kết của lớp phủ với bề mặt của chi
tiết được phủ. Một số phương pháp tạo nhám bề mặt: phun bi, phun cát, phun các loại
hạt mài, cắt ren, gia công tia lẳ điện (gại điện)…
Khi lựa chọn một phương pháp chuẩn bị bề mặt cần quan tâm đến độ bền dính
kết của lớp phủ, tới dạng bề mặt chi tiết, điều kiện làm việc của bề mặt… VD: lựa
chọn phương pháp cắt ren tròn, cắt ren bằng cùng với việc sửa lại đỉnh ren để tạo
nhám bề mặt khi yêu cầu lớp phủ dày.
Thực nghiệm cho biết: kết quả phun tốt nhất nhận được khi nào kích thước của
các phần tử kim loại được phủ nhỏ hơn phần rỗng của các rãnh nhấp nhô trên bề mặt
do nguyên công chuẩn bị tạo ra. Nhưng nếu độ nhám lớn quá sẽ không đạt được bề
mặt phủ tốt, vì vậy chỉ cần đạt đến độ nhám nhất định. Mức độ nhám tốt nhất là mức
độ tạo ra sự liên kết cơ học của các phần tử kim loại và nền cơ bản là cao nhất.
Trong các phương pháp chuẩn bị bề mặt, chuẩn bị bề mặt bằng phương pháp cơ
học (phun cát, phun bi) nâng cao được năng lượng điện trên bề mặt và cả lớp dưới bề
mặt. Hoạt tính bề mặt sau khi chuẩn bị sẽ giảm dần theo thời gian do phản ứng của
môi trường xung quanh hoặc do sự hấp thụ của môi trường làm giảm năng lượng tự
do của bề mặt. Vì vậy, cần tiến hành phun phủ ngay sau khi chuẩn bị bề mặt, khoảng
thời gian giữa hai nguyên công này không được vượt quá 8 tiếng.
- Tạo nhám bằng phương pháp gia công phun cát.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H5. 3. Tạo nhám bề mặt bằng phun cát
Được áp dụng đối với các chi tiết có đường kính hoặc chiều dày đến 15 mm,
các chi tiết có độ bền cơ học thấp hay giới hạn mỏi thấp. Phương pháp này dùng cả
khi làm sạch các chi tiết có hình dáng phức tạp, sửa chữa các vết nứt trên chi tiết đúc
bằng gang, chuẩn bị bề mặt chi tiết để bổ sung thêm lớp phủ chịu ăn mòn và dùng cho
trang trí.
Phương pháp này được thực hiện trong tủ phun cát hoặc trong phòng phun cát
bằng các thiết bị phun cát. Chất lượng bề mặt được xác định bằng độ nhám bề mặt, nó
phụ thuộc vào: độ cứng của bề mặt, chất lượng vật liệu phun, áp lực dòng khí nén,
khoảng cách vòi phun của thiết bị đến bề mặt được làm sạch, đường kính vòi phun,
góc nghiêng của dòng cát đến bề mặt phun.
- Tạo nhám bằng phương pháp gia công phun bi (phun hạt kim loại).
Sẽ làm thay đổi tính chất vật lý của lớp bề mặt, tạo ra lớp biến dạng và lớp hoá
bền sâu khoảng 0,2 0,4 mm do sự va đập rất mạnh của các hạt kim loại tác dụng như
những đầu búa nhỏ. Do có sự biến dạng nên làm tăng độ cứng, độ bền của lớp bề mặt,
tạo ra sự phân bố ứng suất rất tốt theo tiết diện của chi tiết và làm tăng đáng kể sức
bền mỏi của nó.
Phương pháp này được áp dụng cho các bề mặt chi tiết có hình dạng phức tạp,
bề mặt có độ cứng cao. Hạt kim loại thường bằng gang trắng và thép có đường kính
0,4 2 mm. Độ cứng của hạt bằng thép được duy trì với thành phần 0,7%C làm việc
sau 40 giờ độ cứng tăng tăng từ 30 37 HRC đến 42 44 HRC, sau 300 giờ có thể
đạt tới 48 50 HRC.
Bổ sung thêm phần phun bi
(hình biểu diễn,
- Tạo nhám bằng phương pháp cắt ren phẳng.
Là phương pháp phổ biến nhất để tạo ra độ nhám trên bề mặt trên bề mặt chi tiết
có hình dáng vật thể tròn xoay, phương pháp này cho độ bám giữa lớp phủ với bề mặt
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
chi tiết là cao nhất. Đầu tiên tiến hành tiện để khử độ ôvan, elip; rồi dùng dao tiện ren
để tạo ra bề mặt nhám.
Phương cắt răng tròn được áp dụng rộng để chuẩn bị bề mặt hình trụ, các trục
khuỷu bị mòn. Sử dụng dao tiện ren tròn chuyên dùng có bán kính đỉnh là 0.5 mm và
chiều rộng là 1,1 1,3 mm, cắt thành nhiều rãnh tròn song song nhau.
Ngoài các phương pháp tạo nhám bằng cắt ren thông thường, thực tế còn dùng tiện
ren sần sùi và phun cát. Phương pháp này được ứng dụng cho các chi tiết có hình dạng
tròn ngoài hoặc tròn trong khi có độ cứng thấp hoặc trung bình.
Bổ sung thêm phần tạo ren
- Tạo nhám bằng phương pháp tiện rãnh song song và lăn ép đỉnh.
Khi tiện ren để phun phủ kim loại sẽ làm cho sức bền mỏi của chi tiết bị giảm.
Nhưng nếu trên bề mặt có nhiều rãnh song song với nhau và có cùng một chiều sâu thì
sẽ hạn chế bớt được ứng suất tập trung trong quá trình làm việc của chi tiết.
Việc tiện các rãnh tròn tương tự như tiện các rãnh song song với cùng một loại dao
và cùng một kích thước ren, chỉ khác là tiện thành các rãnh song song với nhau
Bổ sung thêm phần lăn răng đỉnh
- Tạo nhám bằng phương pháp lăn khía và cuốn dây
Phương pháp lăn khía thực hiện bằng các dụng cụ chuyên dùng gồm một hoặc
nhiều dao phay nhỏ có răng thẳng hoặc nghiêng được đặt trên ụ dao của máy tiện.
Phương pháp cuốn dây dùng để chuẩn bị các bề mặt trục có độ cứng cao. Trước
tiên phải đem mài chi tiết để giảm bớt độ elip và độ côn, sau đó đặt lên máy tiện được
cuốn dây nhờ phanh ép bằng gỗ đặt trên ụ bàn dao. Có thể chọn dây bất kỳ, nhưng tốt
nhất là dây không gỉ có đường kính nhỏ hơn 2 lần so với chiều dày lớp phủ, bước
cuốn dây chọn từ 2 5 lần đường kính của dây. Sau khi cuốn dây chi tiết phải được
làm sạch bằng phun cát hoặc phun bi. Phương pháp này không làm yếu chi tiết, mà
làm tăng độ dính kết của lớp phủ, độ cứng và thời gian chuẩn bị giảm 3 3,5 lần so
với cắt ren.
- Tạo nhám bằng phương pháp gại điện
Để tạo sần sùi bề mặt với các chi tiết cứng bằng thép và gang (thường có độ cứng
50 HRC) mà các phương pháp cơ khí trên không thực hiện được thì phải sử dụng
phương pháp gại điện. Phương pháp này có thể sử dụng cho các chi tiết có độ cứng
cao và hình dạng bất kỳ như tròn, phẳng, ôvan ... Các phương pháp gại điện bao gồm:
- Làm nhấp nhô bằng hồ quang rung
- Làm sần sùi bằng tia lửa điện
- Làm sần sùi bằng phương pháp cơ dương cực
- Bổ sung thêm phần gặt điện
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.4. Xác định chế độ công nghệ phun phủ
Một số vấn đề cần chú ý:
- Chi tiết sau khi đã làm sần sùi và rửa sạch cần tiến hành phun ngay, càng sớm
càng tốt, không để vượt quá 1 2 giờ.
- Đối với chi tiết dạng tròn xoay, chúng được cặp trên máy tiện, còn đầu phun
được gắn trên bàn xe dao. Lúc đó chi tiết quay tròn và súng phun di động dọc theo
trục chi tiết tạo ra một lớp phun tròn đều.
- Đối với những chi tiết không có dạng tròn xoay thì súng phun cầm tay và lúc đó
súng phun sẽ được công nhân điều khiển để phun vào toàn bộ bề mặt chi tiết.
- Độ bám giữa lớp phun và chi tiết tốt nhất nếu chỉ phun một lần đã đạt được chiều
dày yêu cầu. Nhưng nhiều trường hợp phải tiến hành phun nhiều lượt. Lúc đó giữa các
lớp phun sẽ bị ngăn cách bởi một lớp bụi các hạt kim loại, làm giảm thấp độ dính bám
giữa lớp này với lớp kia.
- Trong quá trình phun cần giữ nhiệt độ của chi tiết không vượt quá 70 800C.
Nhiệt độ quá cao sẽ gây sự biến dạng, biến đổi tổ chức của chi tiết và giảm độ cứng
của lớp phun. Vì vậy quá trình phun có thể phun từng phần của chi tiết hoặc phun gián
đoạn.
- Khi phun những chi tiết có những chỗ chuyển tiếp đột ngột (như vai trục, gờ ...)
cần tiến hành phun tại đó tại đó trước đến chiều dày khoảng 1/3 1/2 chiều dày lớp
phun, mới bắt đầu phun các phần khác.
3.5.4.1. Tính toán chiều dày lớp phun
Kích thước của lớp phủ được xác định bởi diện tích bề mặt lớp phủ và chiều dày
lớp phủ. Trong đó, diện tích bề mặt lớp phủ phụ thuộc vào việc phủ toàn diện tích bề
mặt chi tiết hay phủ một phần làm việc.
Chiều dày lớp phủ là tổng của các thành phần sau:
- Chiều dày lớp phủ để gia công cơ khí h1
- Chiều dày lớp phủ để điền đầy các chỗ sần sùi h2
- Chiều dày lớp phủ để sửa chữa nhiều lần h3
- Chiều dày tối thiểu để đảm bảo sức bám dính h4
h = h1 + h2 + h3 + h4 (5.1)
Trong đó, h là chiều dày tổng cộng của lớp phủ và cũng chính là chiều dày cần
phun, h4 là chiều dày làm việc của lớp phủ.
Việc tính toán chiều dày lớp phun phủ sẽ cho ta biết lượng kim loại cần thiết.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.4.2. Vật liệu dây phun
Công nghệ phun phủ thường dùng vật liệu ở dạng dây hoặc bột. Khi dùng dây để
tăng khả năng chịu mài mòn của chi tiết thì lớp phun phủ có độ cứng cao, với hàm
lượng cacbon của dây phun càng cao thì độ cứng của lớp phun càng cao.
Cần chú ý là độ cứng của lớp phun bao giờ cũng cao hơn nhiều so với độ cứng của
bản thân dây phun, nguyên nhân là do xuất hiện tổ chức mactenxit trong lớp phun.
Việc xuất hiện tổ chức mactenxit là do tốc độ nguội của các hạt phun rất nhanh
(bằng con đường phóng xạ và đối lưu không theo con đường truyền nhiệt). Tốc độ
nguội lạnh khi va đập vào bề mặt đạt 63000 320000C/s, lớn hơn rất nhiều so với tốc
độ làm nguội khi nhiệt luyện.
Ngoài ra độ cứng cao của các lớp phun là do hiện tượng biến cứng xuất hiện khi
các hạt phun bị va đập mạnh trên bề mặt chi tiết.
Khi sử dụng dây phun có hàm lượng cacbon cao còn làm giảm bớt việc thoát
cacbon trong quá trình phun, giảm bớt lượng ôxyt trong lớp phun nên làm tăng cơ tính
của lớp phun, giảm sự bong tróc các hạt phun, tăng cường độ chịu mòn của lớp phun.
Để đạt độ cứng và độ chịu mài mòn tốt, ngoài việc chọn dây phun có cacbon cao,
còn phải chọn chế độ phun hợp lý.
3.5.4.3. Chế độ phun kim loại
Chất lượng lớp phủ phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp chuẩn bị bề mặt, vật liệu
phun và chế độ phun. Trong đó, các yếu tố liên quan tới chế độ phun tuỳ thuộc từng
phương pháp phun.
a. Khoảng cách phun
Khoảng cách từ súng phun tới bề mặt chi tiết có ảnh hưởng rất lớn tới việc truyền
năng lượng cho các hạt phun trong quá trình bay tới bề mặt chi tiết. Do đó nó ảnh
hưởng đến chất lượng lớp phủ như độ cứng, độ bám dính, độ chịu mài mòn.
Nếu khoảng cách phun quá gần, độ cứng thấp vì lúc này lớp phủ bị quá nóng. Khi
khoảng cách quá xa, các hạt phun không điền đầy khít với nhau, độ xốp tăng nên độ
cứng sẽ giảm.
Ngoài ra khoảng cách phun cũng ảnh hưởng tới sự chịu mòn của lớp phủ.
b. Áp lực không khí nén
Áp lực không khí nén cần đủ để thổi các giọt kim loại lỏng thành chùm hạt nhỏ và
tạo biến dạng mạnh của các hạt khi va đập. Áp lực không khí nén ảnh hưởng tới độ
chịu mài mòn của lớp phủ và nó liên quan tới hệ số mất mát kim loại phủ.
Việc lựa chọn áp lực khí nén còn phụ thuộc vào loại đầu phun. Khi phun bằng đầu
phun hồ quang điện, áp suất tốt nhất của không khí nén để phun là 6 atm. Nếu quá lớn
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
sẽ ảnh hưởng đến quá trình phun, độ bám; khi giảm dưới 4,5 atm thì làm gián đoạn
công việc phun, lớp phủ khó đạt độ hạt nhỏ mịn.
c. Điện áp hồ quang
Điện áp hồ quang cần thiết để tạo ra sự ổn định hồ quang, tạo điều kiện cho dây
phun chảy đều và liên tục.
Nếu điện áp hồ quang thấp thì hồ quang không ổn định và bị ngắt quãng, nếu điện
áp hồ quang quá cao, mức độ oxy hoá các hạt sẽ tăng, do đó sẽ làm giảm chất lượng
lớp phủ và tăng lượng kim loại bị mất mát. Khi điện áp dưới 15v chỉ thấy xuất hiện
tiếng nổ, từ 15 25v hồ quang không ổn định và bị ngắt quãng.
d. Cường độ dòng điện
Chọn cường độ dòng điện phun phải đảm bảo sao ch o hiệu điện thế của nguồn
khi đầu phun vận hành là thấp nhất (30 40V). Cường độ dòng điện phun chọn trong
một phạm vi rộng hơn, giá trị của nó phụ thuộc vào công suất đầu phun (tốc độ cấp
dây), loại vật liệu và đường kính dây phun.
Bảng 5.3. Cường độ dòng điện phun
Dây phun có đường
kính 2,5mm
Công suất đầu phun
kg/h
Cường độ dòng điện
(A)
Thép 6,0 – 7,0 140
Nhôm 2,5 – 4,5 110
Đồng 11 120
Đồng thau 11 115
Đồng thanh 11 125
e. Ngọn lửa khí cháy
Với đầu phun bằng khí cháy axêtylen và ôxy thì cần phải chọn loại ngọn lửa cháy
thích hợp vì nó ảnh hưởng đến chất lượng của lớp phủ.
- Ngọn lửa trung hoà (O2/C2H2 = 1,1 1,2) được dùng nhiều cho phun kim loại
- Ngọn lửa các bon hoá (thừa C2H2) sẽ làm giảm công suất phun, tăng thành phần
các bon.
- Ngọn lửa ôxy hoá (thừa O2) sẽ làm tăng thành phần ôxyt trong lớp phủ, và giảm
công suất phun.
f. Tốc độ quay của chi tiết và lượng di chuyển của đầu phun
- Các bề mặt tròn xoay: tốc độ quay của chi tiết và tốc độ di chuyển của đầu phun
(thường lấy từ 1,6 6,4 mm/ph) nhằm tạo ra một lớp phun đều, không gây ra hiện
tượng quá nóng trên bề mặt chi tiết.
- Các bề mặt phẳng: tốc độ di chuyển của đầu phun lấy khoảng 10 26 mm/ph.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Ngoài ra trong quá trình phun còn phải điều chỉnh tốc độ dây phun. Tốc độ này tỷ
lệ với cường độ dòng điện và phải đảm bảo để dây phun được đẩy ra đầu súng đủ để
bù đắp những giọt kim loại bắn đi.
Thực nghiệm cho thấy để đảm bảo cho chi tiết khỏi quá nóng, sử dụng cường độ
dòng điện từ 60 80A, tốc độ đẩy dây phun bằng vật liệu thép các bon có đường kính
1,2 2mm khoảng 1,2 1,6mm/ph.
3.5.4.4. Kỹ thuật phun
Để tiến hành phun phủ kim loại, ta có thể sử dụng thiết bị phun bằng tay hoặc
điều khiển tự động. Khi phun nhất thiết phải quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng của lớp phủ và những yêu cầu đặt ra về kỹ thuật phun đối với người
công nhân để đảm bảo hoàn thành tốt việc phun phủ.
Những kết quả thực tế khi phun phủ kim loại đã cho biết rằng: thiết bị phun có ảnh
hưởng đáng kể đến chất lượng, tiếp đến là kỹ thuật sử dụng đầu phun, kỹ thuật phun
cho những điều kiện phun khác nhau về vật liệu phun, hình dạng và kích thước chi
tiết...
Khi phun phải chú ý đến việc khử độ ẩm và chất bẩn trong không khí nén. Sự có
mặt của dầu, nước và chất bẩn làm ảnh hưởng tới quá trình nóng chảy vật liệu. Đặc
biệt là các chất bẩn sẽ bám vào nền, ảnh hưởng đến độ liên kết giữa nền và lớp phủ
hoặc các liên kết giữa các lớp trong các lớp phủ. Trong thực tế, nếu khí nén bị lẫn dầu
mỡ và chất bẩn (thường quan sát thấy bằng mắt thường) trên lớp phủ, làm tăng thành
phần oxyt trong lớp phủ và làm giảm độ bám của lớp phủ, mặt khác có ảnh hưởng đến
quá trình vận hành khi phun.
a. Kỹ thuật phun cho các mặt phẳng và mặt không phẳng
Phun trên các bề mặt phẳng hoặc không phẳng bao giờ cũng yêu cầu kỹ thuật cao
hơn so với phun các bề mặt hình trụ tròn xoay
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.23. Hướng phun và góc phun mặt phẳng
- Đầu phun luôn để vuông góc với mặt phẳng, phạm vi thay đổi góc cho phép đến
45o so với bề mặt.
- Nếu góc phun nhỏ hơn thì khả năng bám dính kém do lớp phủ có dạng răng cưa.
- Nếu phun theo từng dải thì yêu cầu các dải đố phải trùng lên nhau 1/3 chiều rộng
của dải. Khi phun nhiều lớp thì yêu cầu lớp thứ hai phải thẳng góc với lớp thứ nhất,
nếu phun ba lớp thì lớp thứ ba có hướng của các dải lệch so với hướng của lớp thứ hai
một góc (60 120)o, mục đích để giảm độ xốp.
Với các mặt phẳng có diện tích lớn, cần phải chia mặt phẳng phun thành
các ô với kích thước (500 x 500), rồi tiến hành phun trên từng ô riêng rẽ để dễ theo
dõi. Thường phun từ bên ngoài vào và dần dần đi vào trung tâm.
b. Kỹ thuật phun cho các bề mặt tròn xoay
Với các chi tiết có dạng tròn xoay thì khi phun nên tiến hành phun một lần là
tốt nhất (có thể phun nhiều lần) với góc phun 900 để đảm bảo đồng đều chiều dày và
đạt được chất lượng lớp phủ tốt, nhưng cũng phải quan tâm đến mức độ nung núng
lớp phủ và khả năng làm nguội cần thiết.
H 3.25Hướng phun và góc phun mặt tròn xoay
4
5°
4
5°
90°
9
0°
60°-120°
2/3 1/3
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi phun các mặt trong của hình trụ, phải lưu ý đến hiện tượng co rút của kim loại
phun gây tác dụng ngược lại với độ bám của lớp phủ và việc di chuyển đầu phun là
khó khăn. Thường tiến hành phun một lần và chọn tốc độ vòng quay lớn hơn, khoảng
20 23m/ph và lượng chạy dao cũng lớn hơn khoảng 4 mm/vòng.
c. Sự nung nóng sơ bộ bề mặt chi tiết
Sự nung nóng sơ bộ bề mặt chi tiết trước khi phun nhằm giảm hiện tượng co rút
tương đối giữa kim loại phun và chi tiết. Việc nung nóng được tiến hành trong các lò
nung hoặc dùng ngọn lửa khí cháy để đốt nóng. Nhiệt độ nung nóng sơ bộ khoảng 110
1400C, sau khi nung cần tẩy sạch lớp ôxyt bằng phun bi,
3.5.5. Gia công cơ khí sau khi phun, xử lý nhiệt lớp phủ
3.5.5.1. Gia công cơ khí sau khi phun
Tuỳ thuộc vào vật liệu, tính chất lớp bề mặt và dạng chi tiết mà sẽ có phương pháp
gia công phù hợp(có thể là tiện, phay, khoan, mài…) bề mặt lớp phủ.
Nguyên công này thường chỉ thực hiện khi bề mặt phun là bề mặt lắp giáp, cần
kích thước chính xác và độ nhẵn bóng bề mặt cao.
3.5.5.2. Xử lý nhiệt lớp phun
Nguyên công này chỉ thực hiện khi cần giảm độ xốp của lớp phủ và tăng độ bám
dính của lớp phủ với nền và thông thường là thiêu kết. Phương pháp này chỉ dùng cho
phun vật liệu bột, thường thiêu kết với nhiệt độ lớn hơn hoặc bằng nhiệt độ nóng
chảy của vật liệu bột.
VD: thiêu kết khuếch tán lớp phủ Ni - Cr - Al ở nhiệt độ 1040 11300 với thời
gian 2 4 giờ trong môi trường argon hoặc chân không, có thể thu được lớp khuếch
tán dày 10 15 m .
Bằng công nghệ làm chảy lại lớp phủ (nhiệt độ chảy lại ≥ nhiệt độ nóng chảy),
lớp phủ trên bề mặt chi tiết tạo thành lớp phủ đặc sít và có độ bền dính kết với bề mặt
nền cao (320 480 Mpa). Thường được tiến hành bằng ngọn lửa axêtylen và ôxy,
trong lò có môi trường khống chế, các lò muối, lò bằng dòng cao tần hoặc bằng ngọn
lửa hồ quang plasma.
Gia công nhiệt lớp phủ có thể kết hợp với gia công áp lực nhằm tăng độ lèn
chặt của lớp phủ như ép nóng thuỷ tĩnh, cán lăn, cán nguội sau khi gia công nhiệt.
Chế độ gia công nhiệt gia công nhiệt cần chọn thích hợp với vật liệu nền.
3.5.6. Kiểm tra lớp phủ
Kiểm tra lớp phủ sau khi phun được tiến hành trên chi tiết hoặc trên các mẫu trong
phòng thí nghiệm.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.6.1 Đo chiều dày lớp phủ
Để đo chiều dày lớp phủ có từ tính ta có thể dùng thước cặp hoặc panme, phương
pháp này cho chiều dày lớp phủ tương đối chính xác. Trong trường hợp này, ta cần
phải tiến hành đo chiều dày chi tiết trước khi phun và sau khi phun, lấy hiệu giữa
chúng sẽ được chiều dày lớp phủ.
Đối với các lớp phủ không có từ tính được phủ lên kim loại từ tính thì có thể đo
chiều dày lớp phủ bàng phương pháp từ. Thiết bị này làm việc theo nguyên tắc đo
gián tiếp bằng lực hút của vật mang từ.
3.5.6.2. Kiểm tra độ bám lớp phủ
Độ bám của lớp phủ chủ yếu được kiểm tra trong phòng thí nghiệm và theo các
tiêu chuẩn nhất định (DIN, ASTM…). Tùy theo các tiêu chuẩn khác nhau mà ta có
các phương pháp kiểm tra khác nhau. Tuy nhiên, thường đo ứng suất kéo của lớp phủ.
ứng suất kéo (k) được tính theo công thức:
F
Pk (5.2)
Trong đó: P – lực kéo đứt (kN).
F – diện tích tiết diện lớp phủ chịu kéo (mm2).
Ngoài ra có thể dùng phương pháp gõ bằng búa cho các lớp phủ bằng thép có
chiều dày khoảng 2 mm, độ bám được đánh giá theo âm thanh khi gõ búa lên lớp phủ.
3.5.6.3. Xác định độ xốp của lớp phủ
Độ xốp là một trong những tính năng quan trọng nhất của lớp phủ. Đặc tính cấu
trúc xốp và độ ổn định của nó ảnh hưởng đến những tính chất sử dụng của lớp phủ
như độ dẫn điện, độ dẫn nhiệt, độ thấm khí, điện trở...
Ảnh hưởng của độ xốp tới độ bền kết cấu có hai mặt: Nếu chi tiết làm việc trong
môi trường được bôi trơn đầy đủ, thì cấu trúc xốp cho phép thấm và giữ dầu bôi trơn
và tăng khả năng chống mài mòn của thiết bị. Đối với lớp phủ bảo vệ thì cấu trúc xốp
có ảnh hưởng xấu vì khí và chất lỏng có hại sẽ chui qua các lỗ xốp hở vào kim loại
nền và phá hủy kim loại nền.
Khi nghiên cứu cấu trúc xốp của lớp phủ người ta phân biệt mấy khái niệm sau: độ
xốp tổng (P), độ xốp hở (Ph), độ xốp kín (Pk) và độ xốp tản mát (Pt).
(5.3)
Độ xốp tản mát xuất hiện khi độ hòa tan của khí vào lớp phủ giảm đi khi làm
nguội. Đa số các trường hợp phun phủ, các hạt bột kim loại bị chảy ra, dẫn đến sự hòa
tan mạnh của oxy, nitơ và các khí khác vào kim loại lỏng. Khi lớp phủ nguội và kết
tinh thì khí sẽ thoát ra nhờ cơ chế khuyếch tán. Nếu khí khó thoát hẳn ra ngoài thì sẽ
tkh PPPP
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
động lại trong lớp phủ và tạo thành những lỗ xốp dạng cầu cực nhỏ. Những lỗ xốp này
có thể phân bố theo biên các hạt và có thể nằm cả bên trong từng hạt kim loại.
Phương pháp xác định tỷ khối và độ xốp của lớp phủ:
Để xác định độ xốp (P), người ta thường xác định tỷ khối tổng () của lớp phủ
theo các phương pháp sau đây:
- Cân khối lượng chất lỏng.
- Đo độ xốp thủy ngân.
- Soi kim tương (chính xác nhất cắt lớp phủ ra, soi trên kính hiển vi).
Trong các phương pháp kể trên,phương pháp cân khối lượng chất lỏng là
phương pháp đơn giản và khá chính xác, được dùng rộng rãi cho các loại lớp phủ.
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc lực đẩy Acsimét.
Ta có:
(5.4)
(5.5)
Từ đó ta có:
(5.6)
Tỷ khối của lớp phủ được tính theo công thức:
(5.7)
Trong đó: mp - khối lượng lớp phủ cân khô trong không khí (g).
m’p - khối lượng lớp phủ cân trong nước cất (g).
p - tỷ khối của lớp phủ (g/cm3).
n - tỷ khối của nước cất (pn = 1,0 g/cm3)
Vậy độ xốp tổng của lớp phủ tính theo công thức:
(5.8)
Trong đó: p (%) - độ xốp của lớp phủ (%).
d - tỷ khối đặc lý thuyết của vật liệu phủ (g/cm3).
3.5.6.4. Đo độ cứng của lớp phủ
Độ cứng là khả năng chống lại biến dạng dẻo cục bộ của vật liệu thông qua mũi
đâm. Độ cứng có các đặc điểm:
- Chỉ biểu thị tính chất của bề mặt mà không biểu thị chung cho toàn sản
phẩm.
ppp Vm .
nppp Vmm .'
n
p
pp
p
mm
m
'
'
.
pp
np
pmm
m
100.1%
d
pP
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
- Liên quan tới khả năng chống mài mòn của vật liệu, thông thường độ cứng
càng cao thì tính chống mài mòn càng tốt.
- Có quan hệ với giới hạn bền và khả năng gia công cắt, độ cứng càng cao thì
giới hạn bền càng cao và tính gia công cắt càng kém.
- Đo độ cứng đơn giản.
Có hai loại độ cứng: thô đại và tế vi, độ cứng thường dùng đều là độ cứng thô
đại vì mũi đâm và tải trọng đủ lớn để làm biến dạng nhiều hạt và pha, nên giá trị đo
được phản ánh khả năng chống lại biến dạng dẻo của tập hợp các hạt, pha trong vùng
tiếp xúc với mũi đâm và lân cận. Khi đo độ cứng tế vi người ta phải dùng mũi đâm bé
và đặc biệt là tải trọng nhỏ tác dụng vào từng hạt, thậm chí từng pha riêng rẽ với sự
trợ giúp của kính hiển vi quang học.
Độ cứng được ký hiệu bắt đầu bằng chữ H (hardness) với chữ tiếp theo chỉ loại.
Các phương pháp thường dùng để đo độ cứng: Brinnen (HB), Rôcvel (HRC, HRA,
HRB), Vicke (HV).
3.5.6.5. Đo độ mài mòn của lớp phủ
Mòn là kết quả tác dụng của ứng suất tiếp xúc hoặc áp suất khi các bề mặt tiếp xúc
trượt tương đối với nhau trong điều kiện không có ma sát ướt.
Cường độ mòn phụ thuộc vào nhiều nhân tố, mà chủ yếu là trị số ứng suất tiếp xúc
hoặc áp suất, vận tốc trượt, sự bôi trơn, hệ số ma sát, tính chống mòn của vật liệu
Để nâng cao khả năng chịu mài mòn có nhiều cách: tạo độ nhám bề mặt tối ưu cho
hai bề mặt tiếp xúc nhau theo điều kiện cụ thể, bôi trơn bề mặt tiếp xúc đầy đủ, dùng
vật liệu giảm ma sát, dùng các biện pháp làm tăng độ cứng bề mặt… Tuy nhiên, tùy
theo điều kiện làm việc cụ thể và khả năng mà ta chọn phương pháp nâng cao khả
năng chịu mài mòn thích hợp.
Phương pháp và quy trình đo độ mài mòn của lớp phủ
Có nhiều phương pháp đo độ mài mòn của lớp phủ, với mỗi phương pháp đều phải
sử dụng thiết bị và chuẩn bị mẫu theo một cách riêng phù hợp với phương pháp đó.
Tiêu chuẩn ASTM - G77 đo khả năng chịu mài mòn trượt cảa vật liệu sử dụng
mẫu xoay tròn (Ranking resistance of masterials to sliding wear using block-on-ring
wear test).
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H3.26 Máy đo độ mài mòn TE97(England)
Theo tiêu chuẩn này, độ mài mòn được tính theo quá trình dịch chuyển của đầu
thử lên bề mặt mẫu
Đầu thử là thép được tôi với độ cứng rất cao, một đầu tỳ lên bề mặt mẫu, một đầu
được tác dụng một lực cố định. ở đây đầu thử đứng yên và tỳ lên bề mặt mẫu, cách
tâm mẫu thử một khoảng xác định còn mẫu thử xoay tròn quanh tâm với một tốc độ
xác định (h.5.6). Khi mẫu quay, xuất hiện lực ma sát giữa đầu thử và bề mặt mẫu, dẫn
đến sự mài mòn bề mặt mẫu; khi đó đầu thử sẽ dịch chuyển sâu vào bề mặt mẫu thử.
Độ dịch chuyển này rất nhỏ, không thể quan sát bằng mắt thường; tuy nhiên, trên máy
do có cảm biến để đo sự chuyển dịch này và kết quả đo được sẽ được tự động ghi lêi
bằng phần mềm điều khiển trên máy tính.
3.5.6.6. Đo khả năng chống ăn mòn của lớp phủ
Để đánh giá một cách toàn diện về tuổi thọ của các lớp phủ trong môi trường ăn
mòn người ta có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp cho
những kết quả với độ chính xác tương đối khác nhau, để từ đó có thể nghiên cứu tìm
ra loại lớp phủ có những đặc tính tốt nhất, có khả năng chống chịu cao trong môi
trường ăn mòn.
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
H 3.27 . Sơ đồ nguyên lý đo điện hóa
1- điện cực chuẩn calomen; 2 - lớp thép nền;
3 - điện cực đối (HợP KIM Ti - Pt);
4 - lớp phủ;
5 - máy đo điện hóa AUTOLAB;
6 - máy tính.
Phương pháp đo điện hóa thường sử dụng là do nó có ưu điểm là chính xác, nhanh.
Hai phương pháp điện hóa hiện nay được dùng phổ biến là phương pháp đo tổng trở
và quét đường cong phân cực.
Phương pháp quét đường cong phân cực cho ta kết quả chính xác về dòng điện và
điện thế ăn mòn cũng như điện trở phân cực, từ đó có thể xác định được tốc độ ăn
mòn. Trong mọi trường hợp, điện thế ăn mòn là một điểm trên đường cong phân cực,
khi quét đường cong phân cực ta sẽ tìm được chính xác điểm này. Phép đo thực hiện
với hệ 3 điện cực: điện cực nghiên cứu, điện cực đối là điện cực trơ từ hợp kim titan -
platin, điện cực so sánh là điện cực calomen bão hoà.
Từ các số liệu dòng điện I (hoặc mật độ dòng điện i) tại các điểm trên dải quét của
điện thế điện cực E, ta dựng được đồ thị của đường cong phân cực. Từ các đồ thị đó
có thể xác định được các tính chất bảo vệ của lớp phủ với sự trợ giúp của chương
trình phần mềm máy tính đi kèm theo thiết bị đo điện hóa AUTOLAB. Xác định tốc
độ ăn mòn(mật độ dòng ăn mòn) bằng phương pháp ngoại suy hay phương pháp điện
trở phân cực.
2
1 3
4
5 6
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
3.5.6.7. Đo khả năng chịu nhiệt của lớp phủ
a. Oxy hoá thép
Oxy hóa là một dạng ăn mòn hóa học trong môi trường xâm thực là oxy, đặc biệt
là dưới nhiệt độ cao. Khi nâng cao nhiệt độ, các nguyên tử kim loại trong thép nhanh
chóng tác dụng với oxy tạo thành oxyt. Sự tạo thành lớp vẩy oxyt và sự phát triển
nhanh của nó sẽ nhanh chóng làm giảm tiết diện chịu tải và làm giảm độ bền. Với thép
thường, khi làm việc ở trên 5700C, sự tạo thành lớp vẩy oxyt trở nên nhanh đột ngột
do cấu trúc chủ yếu là FeO xốp, không có tính bảo vệ. Vì vậy, phải hợp kim hoá thép
bằng Cr, Mo, Si để tạo nên các oxyt tương ứng với cấu tạo xít chặt có tính bảo vệ cao;
nhiệt độ làm việc càng cao lượng nguyên tố kể trên, đặc biệt là Cr càng phải cao. Xét
về phương diện này các thép không gỉ không ít thì nhiều đều là thép bền nóng.
b. Phương pháp đo khả năng chịu nhiệt của lớp phủ
Dùng phương pháp cân mẫu sau khi lớp phủ bị oxy hoá do nung nóng để xác định
mức độ tăng trọng lượng tương đối (mg/cm2) của mẫu. Từ đó có thể đánh giá được
mức độ oxy hóa của lớp phủ theo thời gian.
3.5.6.8. Khảo sát các tính chất khác của lớp phủ
Ngoài các tính chất trên, tùy theo trường hợp cụ thể khảo sát các tính chất khác
của lớp phủ: tính dẫn điện, cách điện, dẫn nhiệt, chịu nhiệt…
3.5.7. Các yêu cầu về an toàn lao động
1/- Tiếng ồn
Khi phun phủ kim loại phải sử dụng khí nén, do đó sẽ tạo ra tiếng ồn lớn. Tùy theo
từng kiểu thiết bị phun, vật liệu phun và các thông số hoạt động của máy mà mức
tiếng ồn khác nhau. Mức tiếng ồn đo được cách sau vòi phun một mét đối với phun hồ
quang điện thường là (102 106)dB, quá ngưỡng chịu đựng của tai người. Khi phun
nổ thì mức độ ồn cao nhất do kênh sóng nổ tạo nên. Do vậy, khi phun nhất thiết phải
đeo thiết bị bảo vệ tai.
Áp lực khí nén rất lớn nên không được chĩa thẳng vào người.
2/- ánh sáng
Hồ quang điện hoặc plasma phát ra các tia cực tím rất có hại cho các mô tế bào
của cơ thể nên buồng phun và các tấm chắn cần được lắp kính màu có khả năng hấp
thụ tia cực tím. Nếu không có phòng riêng biệt dành cho phun hồ quang, cần có các
tấm chắn quanh chỗ làm việc khi vận hành máy.
Khi phun, để bảo vệ mắt tất cả mọi người phải đeo kính bảo vệ (loại kính chuẩn
dành cho hàn hồ quang). Ngoài ra, phải mặc quần áo bảo hộ, đeo gang tay…
3/- Khói và bụi
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
Khi vật liệu nóng chảy sẽ sinh ra nhiều bụi và khói. Người vận hành máy phải đội
mũ chụp với kính để chống hồ quang. Hệ thống cấp khí cho người đội sẽ giúp giảm
tối thiểu việc hít phải các hơi vật liệu.
Ngoài ra, trong phân xưởng phun kim loại phải được trang bị các thiết bị hút bụi,
hít khí độc hại và phải thông gió tốt để luôn đem đến không khí sạch cho toàn bộ phân
xưởng
Các mối nguy hiểm:
- Bụi polyme, ceramic tích tụ trong người sẽ gây ung thư.
- Bụi kim loại dễ kết tụ lại nên cần thường xuyên lau chùi máy và nơi làm
việc (đặc biệt đối với nhôm).
- Một số vật liệu như Al, Zn, các kim loại kiềm dễ phản ứng với nước và
giải phóng H2. Đây là phản ứng dễ gây nổ nên phải cẩn thận khi rửa máy bằng nước.
- Hơi Zn, Cu rất có hại khi ngửi và dễ gây dị ứng nên cần có các biện pháp y
tế ngay khi hít phải.
4/- Điện
Thiết bị phun hồ quang điện làm việc ở hiệu điện thế thấp (< 45V- DC) nhưng
cường độ dòng điện làm việc rất lớn. Các khối nguồn được kết nối với nguồn xoay
chiều (380 440)V và an toàn với tay người cầm khi thiết bị làm việc bình thường.
Tuy nhiên cần phải thực hiện đầy đủ các quy định an toàn về điện.
5/- Bình áp lực
Đối với các bình chứa axetylen, bình chứa oxy phải chú ý đến các quy định
an toàn tránh gây nổ.
6/- Các nguyên tắc an toàn khi phun
- Cầm súng phun thật cẩn thận.
- Không chĩa súng vào người khác hay các vật dễ cháy.
3. Phân loại mòn
Đặc trưng cho quá trình hư hỏng cơ học là sự mài mòn. Đặc trưng cho sự tác dụng
hoá lý gọi là ăn mòn (hay sự gỉ). Mòn nói chung được phân loại thành 3 loại :
a- Mòn cơ học (còn có tên gọi mài mòn): là dạng mòn do các tác dụng cơ học. Đây là
dạng hư hỏng do va chạm, mài mòn do tróc dính, do sự phá huỷ
các bề mặt liên quan đến sự hao mòn vật liệu. Các giai đoạn mài mòn được biểu thị
như hình sau đây :
b - Mòn dưới tác dụng của môi trường: Mòn do dòng chất lỏng, dòng khí hoặc hoá
chất. Mòn dạng này có thể do các chất trên hoμ tan khuyếch tán hay thẩm thấu theo
thời gian vμo chi tiết máy; cũng có thể do tác dụng hoá học, do các tác dụng của áp
lực có chu kỳ hoặc không chu kỳ tiếp xúc với chi tiết... Các dạng mòn trên được gọi là
ĐÊ CƯƠNG CN HAN ĐAP VA PHUN PHU
ăn mòn kim loại. Dựa theo môi trường có chất điện ly hay
không mà người ta chia ra : ăn mòn hoá học và ăn mòn điện hoá.
c - Dạng thứ 3 là dạng kết hợp cả cơ học và ăn mòn vật liệu: dưới tác dụng của các
môi trường. Dạng mài mòn (mòn cơ học) thường xuất hiện trên các bề mặt khô tiếp
xúc có chuyển động tương đối với nhau, đặc biệt các bề mặt lắp ghép quá chặt, ma sát
lớn, ... Mòn cơ học xuất hiện khi có chuyển động của kim loại trên kim loại hay có
môi trường các chất phi kim loại chuyển động trên nó. Trong thực tế người ta phân
mòn cơ học ra các loại như sau:
+ Sự phá huỷ bề mặt do tróc dính (tróc loại 1)
Do ma sát hình thμnh các mối liên kết cục bộ, gây biến dạng và phá hỏng mối liên kết
đó (quá tải cục bộ). Xuất hiện chủ yếu ở ma sát trượt, tốc độ dịch chuyển nhỏ, thiếu
bôi trơn làm áp suất cục bộ tăng quá giới hạn chảy.
+ Sự phá huỷ bề mặt do tróc nhiệt (tróc loại 2 hay mài mòn nhiệt)
Do ma sát nhiệt độ tăng đáng kể hình thành các mối liên kết cục bộ, gây biến dạng
dẻo rồi phá hỏng mối liên kết ấy (quả tải nhiệt). Dạng này xuất hiện chủ yếu do
chuyển dịch tương đối lớn và áp lực riêng p tăng, cấu trúc kim loại xảy ra hiện tượng
kết tinh lại, ram, tôi cục bộ. Tróc loại 2 còn tuỳ thuộc vào độ bền, tính dẫn nhiệt, độ
cứng của vật liệu ...
+ Sự phá huỷ do mõi : đây là dạng mài mòn rổ hay pitting.
Do tác động của ứng suất biến đổi chu kỳ, ứng suất tăng lên và lớn hơn giới hạn đàn
hồi. Hiện tượng này xảy ra do mối liên kết ma sát không liên tục, nó xảy ra trong từng
phần của của bề mặt tiếp xúc. Phá huỷ do mõi thường gặp ở những bề mặt có nứt tế
vi, vết lỏm sâu, độ bóng thấp hoặc không đồng đều. Dạng mòn này thường xảy ra khi
có ma sát lăn, trên bề mặt của ổ lăn vμ ổ trượt, trên bề mặt
của bánh răng,...
+ Phá huỷ bề mặt do xói mòn kim loại (Mòn do tác dụng của môi trường các dòng
chảy). Là sự phá huỷ các bề mặt do lực tác dụng va đập và lập lại nhiều lần hoặc thời
gian kéo dài, áp lực lớn của dòng chất lỏng, dòng khí, dòng chuyển động của bột mài,
sự phóng điện hoặc chùm tia năng lượng ... chúng làm cho quá trình mòn do ma sát
phức tạp thêm.