Upload
vuminh
View
221
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ THỊ THU
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÝ THỊ THU
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH : LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ : 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÀ
2. PGS.TS NGUYỄN DANH TIÊN
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lý Thị Thu
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 7 1.2. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết và những nội
dung luận án cần tập trung nghiên cứu 24 CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000 26
2.1. Những yếu tố tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang 26
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số 50
2.3. Quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2000 62
CHƯƠNG 3: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 70
3.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới 71
3.2. Chủ trương đổi mới của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 76
3.3. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 80
CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 109 4.1. Nhận xét 109 4.2. Một số kinh nghiệm 131 KẾT LUẬN 147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATK : An toàn khu
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương
BTV : Ban Thường vụ
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBKT : Ủy ban kiểm tra
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số là một nội dung trọng yếu trong
chính sách dân tộc của Đảng, không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền
tham chính của đồng bào các dân tộc, mà còn tạo ra yếu tố nội lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc phát triển. Nếu như cán bộ “là gốc của
mọi công việc”, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì cũng có thể hiểu
rằng, cán bộ người dân tộc thiểu số và công tác cán bộ người dân tộc thiểu số
có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm thực hiện thành công đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số. Nhờ vậy, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
đã có đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực, không chỉ tại địa bàn miền núi
mà cả ở các địa phương đồng bằng và cả cấp Trung ương. Đây là một minh
chứng sự đúng đắn, khoa học trong đường lối lãnh đạo của Đảng; minh chứng
cho tinh thần “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ", như lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Báo
cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa 1 nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 18/12/1959).
Hiện nay, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong quá trình tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số vẫn còn những hạn chế, bất cập: Số lượng cán bộ
người dân tộc còn ít so với tỷ lệ dân số. Trình độ của đội ngũ cán bộ người
dân tộc còn thấp so với mặt bằng chung, nhất là so với mặt bằng trình độ của
2
đội ngũ cán bộ người Kinh. Năng lực, trình độ còn hạn chế so với yêu cầu,
nhiệm vụ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cân đối cả về
cơ cấu giới tính, cơ cấu giữa các dân tộc và cơ cấu theo lĩnh vực công tác. Có
nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ công
tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Đảng ở tầm
vĩ mô và ở việc tổ chức thực hiện của các địa phương.
Nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của một Đảng bộ địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sẽ góp phần làm sáng tỏ về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số của Đảng, sự thể hiện sinh động và cụ thể chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ trong điều kiện thực tế của địa phương. Qua đó nhận diện những sáng tạo và những khó khăn, hạn chế của Đảng bộ địa
phương trong thực hiện công tác quan trọng này. Tỉnh Tuyên Quang nằm trong chiến khu Việt Bắc, là cái nôi của cách
mạng cả nước từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang sớm hình thành, được tôi luyện qua nhiều thử thách, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc cũng như ở địa phương. Tỉnh Tuyên Quang là nơi hội tụ của 22 dân tộc anh
em sinh sống đan xen, cùng tồn tại và phát triển. Trong những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Nhờ vậy,
kinh tế - xã hội của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Tuyên Quang còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư và so với yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và năng lực. Việc sử dụng cán bộ cho từng vùng, từng lĩnh vực và theo từng dân tộc
còn chưa hợp lý.
3
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung,
xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng, Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang đã có những chủ trương và thực hiện nhiều giải pháp để tăng
cường xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
như: tăng cường công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử dụng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số; chú trọng tuyển chọn, sử dụng đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền
của tỉnh, huyện, xã; tăng cường đầu tư kinh phí đào tạo - bồi dưỡng cán bộ;
luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; thực hiện chính sách cử tuyển
cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số vào Đại học, Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp và thu hút, “giữ chân” đội ngũ cán bộ tại địa phương …
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế cả về số lượng và
chất lượng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vẫn
đang tồn tại không ít mâu thuẫn, đó là: mâu thuẫn giữa tăng cường số
lượng và đảm bảo chất lượng, giữa nhu cầu đòi hỏi cao và khả năng đầu tư
có giới hạn, giữa sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ và thu hút cán bộ từ nơi
khác đến, giữa đào tạo và sử dụng, giữa yêu cầu và khả năng luân chuyển
đội ngũ cán bộ tại địa phương…
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010" có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm
2010. Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số những năm (1991 - 2010).
4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991
đến năm 2010.
Làm rõ những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong 20 năm, từ
năm 1991 đến năm 2010.
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế, những kết quả đạt được; Đúc kết
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang trong xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1991, là năm tỉnh Tuyên Quang được tái
lập, đến năm 2010, là năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ Tỉnh,
Đảng bộ bắt đầu tổ chức thực hiện đường lối Đại hội XI của Đảng.
Về không gian: Nghiên cứu công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh, bao gồm 1 thị xã và 6 huyện.
Luận án nghiên cứu toàn bộ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ
thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cơ sở, trong đó chú trọng nghiên
cứu đội ngũ lãnh đạo quản lý các cấp là người dân tộc thiểu số.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều nội dung. Bám sát các
khâu công việc của công tác cán bộ nói chung, luận án tập trung nghiên cứu
công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng, chế độ,
chính sách cán bộ.
5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
4.2. Cơ sở thực tiễn Luận án được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói riêng, được phản ánh trong các văn kiện của Đảng bộ tỉnh, các báo cáo, số liệu thống kê của cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng có liên quan; kết quả điều tra, khảo sát thực tế trên địa bàn tỉnh.
4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgic. Bên cạnh đó, là các phương pháp: + Phương pháp tổng hợp và phân tích, được sử dụng để thu thập và
đánh giá các nguồn tài liệu liên quan, bao gồm các văn kiện của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương; các công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
+ Phương pháp so sánh: So sánh một số kết quả đạt được trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang với các tỉnh miền núi phía Bắc.
+ Phương pháp thống kê, được dùng trong xử lý các kết quả điều tra, khảo sát.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Cung cấp thêm nguồn tư liệu, nhất là tư liệu của địa phương về công
tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên Quang, về thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang;
6
- Góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ
trương của Đảng về công tác dân tộc nói chung, công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng;
- Góp phần tổng kết, đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên Quang, cung cấp thêm cơ sở thực
tiễn giúp Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang hoàn thiện hơn nữa công tác lãnh đạo
của mình trong công tác quan trọng này;
- Những kết quả nghiên cứu của luận án, nhất là những kinh nghiệm từ
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Tuyên Quang,
có thể tham khảo vận dụng ở các địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số khác, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các
cấp ủy Đảng các cấp ở tỉnh Tuyên Quang nghiên cứu, tiếp tục xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên
cứu, học tập của bộ môn Lịch sử Đảng ở trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang,
Trường Đại học Tân Trào Tuyên Quang cũng như các cơ sở đào tạo khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học liên
quan đến đề tài của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nghiên cứu về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nói chung, công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên
cứu được công bố dưới góc độ của khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, xây dựng
Đảng, chính trị học, dân tộc học, xã hội học... Liên quan trực tiếp đến đề tài
có thể khái quát thành những nhóm cơ bản sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Nghiên cứu về chính sách dân tộc và công tác dân tộc trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước
Cuốn sách, Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi [48]. Tác giả đã đánh giá về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách
dân tộc ở nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội và những
vấn đề cấp bách ở vùng dân tộc và miền núi, tác giả đã đưa ra những nhận
thức và quan điểm cơ bản về chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Cuốn sách, Quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở các tỉnh Tây Bắc
[105] đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình thực hiện chính
sách dân tộc ở Tây Bắc những năm đầu đổi mới.
Cuốn sách: Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà
nước ta [54] đã đề cập đến những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc. Các tác giả đã nêu những đặc điểm nổi bật của dân tộc
Việt Nam và nội dung công tác dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
Cuốn sách, Nghiên cứu vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính
sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [135] đã nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng và những định
8
hướng cơ bản trong quy hoạch dân cư, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế
hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm sớm ổn
định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.
Bài viết, "Công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006" [97],
trong cuốn sách 60 năm cơ quan công tác dân tộc, đã đánh giá về đội ngũ cán
bộ dân tộc trong những năm qua. Bài viết khẳng định: Đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trong hệ thống chính trị luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ về lý luận chính trị, chuyên môn, học vấn, quản lý nhà nước
ngày càng được chuẩn hóa, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ dân tộc ở
tất cả các cấp được nâng lên. Tác giả chỉ rõ "tỉ lệ đại biểu quốc hội là người
dân tộc thiểu số qua các khóa ngày một tăng từ 10,2% khóa I lên 17,2% khóa
XI. Ủy viên Trung ương Đảng là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ gần 9%
khóa X và hàng vạn cán bộ người dân tộc thiểu số được tham gia trong các cơ
quan Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp" [97, tr.24]. Bên cạnh những kết
quả đạt được, bài viết còn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác dân tộc là
"Hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ dân tộc ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số
còn hạn chế về tri thức và trình độ kỹ năng làm việc ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn rất nhiều đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương [97, tr.28]. Từ phân tích trên, tác giả chỉ
ra một số bài học lớn về công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006).
Trong đó, bài học đáng chú ý là "Kiện toàn và phát huy vai trò của hệ thống
chính trị chăm lo công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số trong các vùng dân tộc thiểu số" [97, tr.30].
Cuốn sách, Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX
[12], là tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học đã tham gia
9
thảo luận, trao đổi, làm rõ kết quả, hạn chế yếu kém, đề xuất các giải pháp
góp phần đổi mới thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX về công tác dân tộc của Đảng.
Cuốn sách, Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện
nay [104] đã nêu rõ những nội dung cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; phân tích những vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện chính sách dân tộc và đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện chính sách dân tộc hiện nay.
Cuốn sách, Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc
thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay: Thực trạng và giải pháp [112] đã nghiên cứu, khảo sát nhằm mang
lại những thông tin khách quan, trung thực về tình trạng này. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số
đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay,
công trình nghiên cứu đã đề xuất những kiến nghị, giải pháp cơ bản nhằm góp
phần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo thực hiện có
hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò to lớn
của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nghiên cứu cho thấy, sự đồng tình của người dân với chính
sách được triển khai ở địa phương về "ưu tiên đào tạo cán bộ địa phương là
người dân tộc" là 72,2%, "ưu tiên đào tạo thầy giáo, cô giáo, cán bộ y tế là
người dân tộc" là 70,2%" [112 tr.102].
Cuốn sách: Dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh [69], đã đề cập đến vấn đề: Trong nghiên cứu lý luận cách mạng, vấn đề
dân tộc còn rất phong phú, còn phải bàn thêm. Nói riêng từng nước thì vấn đề
dân tộc nổi lên là vấn đề số phận của từng tộc người trong cộng đồng dân tộc,
của mỗi quốc gia. Tác giả khẳng định: Hồ Chí Minh thấy được phẩm chất,
trình độ của các tộc người của đất nước ta, bởi Người thực sự gắn bó với bà
10
con người dân tộc thiểu số. Vì vậy, với Hồ Chí Minh, các dân tộc thiểu số
được bình đẳng cùng nhau, tất cả đều như anh chị em một nhà, không có sự
phân biệt nòi giống, tiếng nói.
Công trình: Báo cáo tổng hợp về nghiên cứu chính sách phát triển vùng
miền núi và dân tộc thiểu số [60] và Đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống
chính trị ở các tỉnh miền núi phía Bắc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
[25] đã đánh giá nguồn nhân lực không nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt
trong mối quan hệ tương hỗ với sự phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Đặc biệt là những nghiên cứu về giáo dục y tế, xóa đói giảm nghèo,
lao động việc làm thường được đặt trong các mối liên hệ trực tiếp với phát
triển thể lực, trí lực của nguồn nhân lực dân tộc thiểu số.
Bài viết: "Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25 năm đổi mới"
[52], đã khái quát toàn bộ chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc đã và đang
được thực hiện trong 25 năm đổi mới được thể hiện trong những chuyển biến
tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết
những vấn đề xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bài viết tiếp
tục khẳng định: Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết
dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Sự quan tâm về vấn đề dân tộc, về chính sách dân tộc không chỉ ở phần
nhận thức, phần lý luận, mà nó phải được thể hiện bằng đường lối, bằng tổ
chức. Đúng như tinh thần Sắc lệnh số 58 ngày 3/5/1946 của Người" chịu trách
nhiệm xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu
số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất nước
Việt Nam".
Bài viết: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số Việt
Nam" [53] theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào các dân tộc thiểu số là một
bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đoàn
kết dân tộc đặng "đi từ thái bình để cùng hưởng chung". Hồ Chí Minh cũng
11
cho rằng, đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ không phải là một thủ đoạn
chính trị, mị dân, do đó, phải thực lòng thực hành đoàn kết để đi từ mục tiêu
chung là "hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh". Người coi
đồng bào các dân tộc thiểu số là một lực lượng quan trọng của cách mạng
Việt Nam. Với những nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
tác giả bài viết khẳng định: Trong tiến trình cách mạng nước ta, cần giải quyết
đúng đắn và sáng tạo vấn đề dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
là: Phải luôn coi đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách
rời của dân tộc Việt Nam, khai thông sức sáng tạo và tiềm năng của đồng bào
các dân tộc. Bằng các chủ trương chính sách phù hợp, đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của cả nước.
Luận án tiến sĩ: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006 [63] đã trình
bày một cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc những năm đầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 - 2006), từ đó thấy được
sự phát triển trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng; quá trình Đảng lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc; làm rõ thành tựu và
hạn chế trong nhận thức cũng như trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc, từ đó đúc rút ra một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc 1996 - 2006 ở Tây Bắc khi nghiên cứu về quan
điểm và nội dung chính sách dân tộc của Đảng. Tác giả khẳng định:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương gắn đoàn kết dân tộc với việc
hoạch định chính sách dân tộc, đảm bảo miền núi tiến kịp miền
xuôi, làm cho đồng bào dân tộc ít người được hưởng ngày càng đầy
đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa. Người chỉ ra
rằng, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch dài hạn, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ở miền núi, đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ
12
đồng bào miền ngược. Đồng bào các dân tộc ít người cũng phải
không ngừng vươn lên để xây dựng tổ chức chung, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc hạnh phúc, ấm no. Những
quan điểm trên đây của Người có giá trị và ý nghĩa như một tuyên
ngôn chỉ đạo công tác dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc
ở Việt Nam hiện nay [63, tr.29].
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số nói chung
Cuốn sách: Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam
(từ thế kỷ XI - XIX) [130] cho thấy, từ xa xưa, nhà nước phong kiến Việt Nam
đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp tích cực đối với miền núi, với các dân
tộc thiểu số. Từ thời Lý (thế kỷ XI), chính sách "Nhu viễn" (mềm dẻo với
phương xa) đã được thực hiện, sau này vẫn là quốc sách hàng đầu, phổ biến
và lâu dài của các triều đại phong kiến tiếp theo. "Nhu viễn" xây dựng mối
quan hệ đặc biệt giữa nhà nước Trung ương (phong kiến tập quyền) với cộng
đồng các tù trưởng (người có uy tín, thế lực, đang điều hành, quản lý các tộc
người bằng tự trị theo luật tục" thông qua việc ban phẩm tước cho tù trưởng;
phân phong một số Hoàng Thân, quan lại lên tuần giữ vùng biên, đặc biệt là
câu thức, lôi kéo quan hệ thân tộc (qua hôn nhân) giữa các tù trưởng với công
chúa, cung phi của triều đình. Song song với chính sách "Nhu viễn", các triều
đại phong kiến còn kiên quyết dùng chính sách "cường bạo lực" lúc cần thiết
để trừng trị những kẻ gây mất đoàn kết các dân tộc, chống lại triều đình và cắt
đất cho ngoại bang. Chính sách "Nhu" "Cương" hợp lý có ý nghĩa tích cực
trong củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ, xâm lấn và giữ
gìn an ninh biên giới. Đó là kinh nghiệm lịch sử để trong quá trình xây dựng
hệ thống chính trị vùng biên, miền núi, dân tộc thiểu số chúng ta phải chú ý
đến vai trò của công tác cán bộ đối với người dân tộc thiểu số. Việc xây dựng
13
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải trên tinh thần (không kỳ thị dân tộc), phải
tăng cường sức mạnh cho đội ngũ này bằng việc điều động, luân chuyển cán
bộ nơi khác về cơ sở; đồng thời cũng phải cương quyết sàng lọc nguồn trong
quá trình xây dựng đội ngũ trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, công chức do pháp
luật quy định.
Cuốn sách: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp [111]
là tập hợp kết quả nghiên cứu của 34 nhà khoa học, tập trung vào những vấn
đề: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
chính sách của Đảng và nhà nước ta, cùng một số các yếu tố tác động về tâm
lý, văn hóa tộc người liên quan đến vấn đề dân tộc, cán bộ dân tộc thiểu số,
công tác cán bộ thiểu số; thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số nói chung trên một số lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nhiều giải
pháp đổi mới, công tác cán bộ dân tộc thiểu số được đề xuất có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn quan trọng.
Cuốn sách: Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số Việt
Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
[108] đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn cho nhận thức đầy đủ và toàn
diện vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số không chỉ cần
nhiều nguồn lực đầu tư, mà phải tiến hành theo một quy trình, phương pháp,
cách thức khoa học. Cuốn sách còn đề xuất hệ quan điểm, giải pháp toàn diện
cho hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số. Tác giả
khẳng định: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu
phát triển bền vững liên, xuyên thế hệ thành công hay không không thể thiếu
sự đóng góp to lớn của nguồn nhân lực thiểu số, vì phát triển nguồn nhân lực
dân tộc thiểu số cũng chính là phát triển nguồn nhân lực quốc gia - là lực
lượng tiên phong và cũng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển đất
nước một cách toàn diện và bền vững.
14
Cuốn sách: Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay [117], đã chỉ ra rằng, nếu không xây dựng
được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh, có đủ phẩm chất và
năng lực đảm đương nhiệm vụ cách mạng thì mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta không thể đi vào cuộc sống, không thể phát huy
được nội lực của đồng bào các dân tộc, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có được một đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số vững mạnh, trước tiên "phải giải quyết tốt vấn đề phát triển
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, vì đây là khâu quan trọng nhất, đồng thời
cũng là vấn đề khó khăn và yếu kém nhất trong công tác cán bộ dân tộc
thiểu số hiện nay" [117, tr.9]. Chỉ trên cơ sở phát triển mạnh nguồn cán bộ
dân tộc thiểu số, chúng ta mới có được thế hệ cán bộ dự bị, kế cận đông
đảo, đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, để bổ sung vào các chức danh
lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp và bổ sung cho đội ngũ cán
bộ công chức là người dân tộc thiểu số ở các địa phương. Trên cơ sở đó,
từng bước xây dựng và hoàn thiện quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số các
cấp, các ngành; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng liên tục thường xuyên, chủ
động, có kế hoạch; kết hợp với cơ chế, chính sách sử dụng, quản lý đội ngũ
cán bộ dân tộc mang tính đồng bộ, hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Tác
giả khẳng định: "Có như vậy, chúng ta mới giải quyết được căn bản các
vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ mạnh, ngang tầm với
nhiệm vụ cách mạng đặt ra và phát triển vững chắc trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [117, tr.10].
Cuốn sách: Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay [98] đã phân tích
các đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc,
về thực trạng công tác, quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy
quản lý đặc biệt là nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn,
15
nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Tác giả còn
đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc đến
năm 2020:
Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm,
phương châm, nguyên tắc của Đảng trong công tác quy hoạch cán
bộ, tập trung, lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể trong tỉnh, xác định rõ phương hướng, mục tiêu
của công tác quy hoạch cán bộ và tổ chức thực hiện đồng bộ các
nhóm giải pháp... Xác định rõ nguồn, tạo nguồn cán bộ dồi dào,
nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ đưa vào quy
hoạch [98, tr.227].
Cuốn sách: Phát huy vai trò của đội ngũ tri thức các dân tộc thiểu số
nước ta trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay [20] và Nguồn nhân lực trẻ
các dân tộc thiểu số - Những phân tích xã hội học [66] đã cho thấy vai trò của
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thực trạng công tác cán bộ vùng dân tộc thiểu số
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bài viết: "Phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố chính quyền và đào
tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng mới" [131]
trong cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX khẳng định: Sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số ở nước ta, tác giả khẳng định rằng "Từ khi có
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở nước
ta đã trưởng thành và không ngừng phát triển, đội ngũ cán bộ lãnh đạo là
người dân tộc thiểu số đã có bước trưởng thành, khá rõ nét" [131, tr.115].
Tuy nhiên, tác giả cũng đưa ra một số những hạn chế bất cập của đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Đó là trình độ chuyên môn của người dân tộc thiểu
16
số còn thấp. Tác giả nhấn mạnh "Tình trạng cán bộ là người dân tộc thiểu
số hiện nay vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực, đặc biệt là trình độ
năng lực học vấn" [131, tr.118]. Trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế
của việc đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng
mới, tác giả đã đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
là người dân tộc thiểu số trong thời gian tới": "Có quy hoạch, kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc từ cơ sở cho đến trung ương, theo
nhu cầu của từng loại cán bộ trong từng thời kỳ, bảo đảm mục tiêu chiến
lược chung của cả nước" [131, tr.120]. Bởi vì xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số không chỉ vì lợi ích của các dân tộc
thiểu số mà còn nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng chung của cả nước vì
chiến lược con người.
Bài viết: "Sự phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số" [51]
trong cuốn sách Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, đã khẳng định: Công
tác đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Mười năm về trước, nhiều cán bộ thôn xã còn ở tình trạng mù chữ.
Cho đến nay, cán bộ thôn xã thấp nhất cũng có trình độ tiểu học và có người có
trình độ trung học.
Nhiều cán bộ, người dân tộc thiểu số đã có học vị cao. Tác giả chỉ rõ
"ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần đáng kể trong việc bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số ở các trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, các trường
bổ túc văn hóa tập trung ở các địa phương và Trung ương [51, tr.250]. Vì vậy:
"Thành tựu nổi bật của giáo dục ở vùng dân tộc là xác lập được quy trình xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số" [51, tr.249]. Bài viết còn đưa ra một số
giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc trong thời gian tới, đáng chú ý là
chế độ ưu tiên cộng điểm tuyển sinh và mở các lớp đào tạo riêng dành cho học
sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số nhất là ở vùng cao, tại các trường đại
học, cao đẳng trong cả nước.
17
Bài viết: Một cách mới trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở Hà
Giang [34]. Trên cơ sở phân tích kết quả đạt được trong công tác đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh, tác giả đã đưa ra một số kinh nghiệm
"Phải xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ đảm bảo chất lượng, trên cơ sở đó,
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng sau đào tạo... Coi
đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
địa phương" [34, tr.46].
Bài viết: Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số Khmer [119]. Trên cơ sở đánh giá về công tác quy hoạch, đào tạo, sử
dụng cán bộ, người dân tộc thiểu số ở tỉnh; phân tích vai trò của đội ngũ cán
bộ người dân tộc Khmer trong việc triển khai, thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, tác giả đề xuất một số
giải pháp quan trọng "Quan tâm đến chính sách cử tuyển và quản lý chặt chẽ,
bố trí, sử dụng đúng địa chỉ được xét tuyển đối với học sinh, sinh viên tốt
nghiệp ra trường, có chính sách chọn cán bộ dự nguồn là người dân tộc
Khmer để đào tạo, bồi dưỡng" [119, tr.24].
Luận án Tiến sĩ: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006 [118] đã làm
sáng tỏ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
phải dựa trên nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đồng
thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính
trị. Phải xuất phát từ đường lối chính trị - quân sự của Đảng, bảo đảm
nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ
giữa các dân tộc và phải đảm bảo sự thống nhất giữa cơ cấu và tiêu chuẩn
cán bộ; phải có những ưu điểm trong đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng
cán bộ, thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Tác giả còn
18
khẳng định, để xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội biên
phòng cần phải "bám sát yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới,
xây dựng Bộ đội biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại" [118, tr.91] và "xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong
Đảng bộ Bộ đội biên phòng phải đặt trong tổng thể chiến lược cán bộ của
Đảng, nhà nước, quân đội, Bộ đội biên phòng, tạo được mỗi liên thông với
việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, hòa nhập với xu
thế phát triển của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" [118, tr.91].
Luận án Tiến sĩ: Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay [138] tiếp tục hoàn thiện
khung lý luận về tạo nguồn cán bộ; khái quát những đặc điểm tình hình cán
bộ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; đề xuất phương hướng và những giải
pháp có tính đặc thù, khả thi để thúc đẩy công tác tạo nguồn cán bộ xã
người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay.
Luận án Tiến sĩ: Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ
công chức từ năm 2001 đến năm 2010 [65] đã nghiên cứu về quan điểm,
chủ trương của Đảng về đào tạo đội ngũ cán bộ công chức "Xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhà nước phải thông qua hiệu quả
công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân để lựa chọn, đánh giá, đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ" [65, tr.83]. Khi nghiên cứu về chủ
trương xây dựng đội ngũ công chức Việt Nam từ 1986 đến nay, tác giả đã
đưa ra một loạt các văn bản pháp lý hiện hành nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức và qua quá trình hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ công
chức trước năm 2001, tác giả đã đưa ra những nội dung nhằm nâng cao
trình độ đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây
19
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. "Những đổi mới đó đã làm
sáng rõ hơn mô hình hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ quá độ, khẳng
định rõ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nền kinh tế
thị trường - định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và
hội nhập kinh tế quốc tế" [65, tr.71].
Đề tài khoa học cấp bộ: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc [122] đã phân
tích, làm rõ vai trò của cán bộ nói chung và cán bộ cấp huyện là người dân tộc
thiểu số nói riêng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc; đánh giá thực
trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp huyện là người dân tộc thiểu
số ở nước ta hiện nay. Tác giả đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện là người dân tộc thiểu số trong thời
kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng núi, vùng dân
tộc thiểu số.
Đề tài khoa học cấp bộ: Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay [71]
đã trình bày hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc
có liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước
ta. Nghiên cứu góp phần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số và việc thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số ở vùng miền núi
hiện nay. Nghiên cứu đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp có tính khả
thi về chính sách cán bộ dân tộc, góp phần xây dựng Luật Dân tộc.
Đề tài khoa học cấp bộ: Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở
các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay [58] đã đưa ra các khái niệm và cách tiếp
cận vấn đề tạo nguồn chủ chốt, phân tích đánh giá thực trạng công tác tạo
nguồn của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc
20
nước ta những năm đổi mới. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong
việc tạo nguồn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây
Bắc qua việc nghiên cứu hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu
vực, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác, tạo nguồn cán bộ hệ thống
chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có các công trình, Về công tác phát triển đảng viên tạo
nguồn cán bộ ở vùng dân tộc miền núi [72] và Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa [120].
Các công trình trên đây đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn
cho tác giả nhận thức đầy đủ và toàn diện về vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số. Các công trình trên đã đưa ra các giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung, đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở các địa phương nói riêng. Một trong những tiêu chí để xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được các tác giả đồng quan điểm
trong các công trình, bài viết là cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số vững mạnh, có đủ năng lực phẩm chất đảm đương nhiệm vụ cách
mạng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới đi vào
cuộc sống; mới phát huy được nội lực của các dân tộc, đáp ứng được yêu
cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Các công trình
nghiên cứu còn đưa ra những nội dung quan trọng. Đó là, muốn xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đạt chất lượng, cần phải
chú ý đến các khâu trong công tác này như công tác tạo nguồn, phát triển
nguồn, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Các công trình cũng đưa ra những
khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng và những phương hướng, giải
pháp nhằm thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
21
Đây là những nội dung quý để tác giả tham khảo, tiếp thu và bổ sung kiến
thức trong quá trình viết luận án.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số và công tác cán bộ ở Tuyên Quang
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (giai đoạn 1976 - 2005)
[9]. Với chặng đường 30 năm (1976 - 2005), Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang đã trải qua thời kỳ tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang hợp
nhất thành tỉnh và Hà Tuyên (1976 - 1991) và thời kỳ từ sau tỉnh Tuyên
Quang được tái lập (tháng 10/1991) đến năm 2005. Mỗi thời kỳ đều có những
thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thử thách riêng. Phát huy truyền thống đoàn
kết, thống nhất, truyền thống cách mạng của quê hương Thủ đô khu giải
phóng, Thủ đô kháng chiến, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn
tuyệt đối tin tưởng, trung thành với Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trong các thời kỳ cách mạng, Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã chung sức, chung lòng tận dụng thời cơ, vượt
qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ
và an ninh quốc gia, xây dựng quê hương và tiếp tục giành được nhiều thành
tựu quan trọng. Thực tiễn 30 năm 1976 - 2005 cũng để lại những bài học kinh
nghiệm để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Một trong những bài
học đó là "không ngừng đổi mới tư duy, xây dựng phong cách lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở
về phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị" [9, tr.402]
và kinh nghiệm rút ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh chặng đường
đã qua là "Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đặc biệt quan tâm xây
22
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ tại
chỗ, cán bộ dân tộc thiểu số có đủ phẩm chất và năng lực" [9, tr.424].
"Đảng bộ ngày càng nhận thức sâu sắc, giữ vững và thực hiện quan
điểm thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò
của tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức; bước
đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến đối với cán bộ, nhất là ở cơ sở.
Việc triển khai ngày càng đồng bộ các khâu công tác của cán bộ từ đánh
giá đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực
hiện chính sách cán bộ đã giúp Đảng bộ có một đội ngũ cán bộ ngày càng
có chất lượng hơn. Trong quá trình đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ
sở nhất là cán bộ dân tộc thiểu số luôn được đặc biệt quan tâm thực hiện
sáng tạo, hiệu quả, được trung ương đánh giá cao, góp thêm kinh nghiệm
cho các địa phương khác" [9, tr.425].
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ thị xã Tuyên Quang (1940 - 2008) [3]
đã tái hiện lại quá trình ra đời, lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương
của Đảng bộ thị xã Tuyên Quang, phản ánh những sự kiện lịch sử, thành
tích tiêu biểu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị xã trong các thời kỳ
cách mạng (1940 - 2009). Kinh nghiệm về công tác lãnh đạo của Đảng bộ
thị xã Tuyên Quang là "Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ người địa phương; tạo mọi điều kiện để nhân dân các dân tộc
phát huy quyền làm chủ, cống hiến tài năng, trí tuệ cho cách mạng. Đồng
thời phải kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng cá nhân, cục bộ địa
phương, biểu hiện mất đoàn kết; phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng
dân cư trên địa bàn" [3, tr.406].
Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hóa (1940 - 2005) [2] ghi
lại quá trình ra đời, trưởng thành của Đảng bộ huyện và quá trình lãnh đạo
23
nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện các nhiệm vụ cách mạng tại địa
phương. Đồng thời, trình bày những thành tựu bài học, kinh nghiệm quý báu
của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa trong hơn 60 năm
qua. Chiêm Hóa là một huyện của tỉnh Tuyên Quang có nhiều dân tộc cùng
sinh sống. "Đến năm 2005, dân số huyện Chiêm Hóa có 138.657 người gồm
22 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Dao, H'Mông, Nùng" [2, tr.14]. Để đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển xã hội, "Đảng bộ huyện đã quan tâm và đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số.
Một trong những bài học trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân trong
huyện thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện là "Thực hiện tốt
chính sách dân tộc, công tác vận động quần chúng của Đảng, thường xuyên
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, huy động được sức mạnh đoàn kết yêu
nước của đồng bào các dân tộc vào sự nghiệp cách mạng" [2, tr.327].
Cuốn sách: Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 50 năm xây dựng và
phát triển [115] đã trình bày quá trình xây dựng và phát triển từ Trường
Đảng tỉnh Tuyên Quang đến Trường Chính trị tỉnh hiện nay; làm rõ nhiệm
vụ chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy của trường qua các thời kỳ lịch sử.
Ngoài ra, còn một số tác phẩm như: Văn hóa truyền thống các dân tộc
Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang [49], đã đề cập đến phong tục, tập quán tín
ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
1.1.2. Nghiên cứu của người nước ngoài
Nghiên cứu của người nước ngoài về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,
đặc biệt ở miền núi phía Bắc có công trình Những xu hướng phát triển ở vùng
núi phía Bắc Việt Nam [31] và Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt
Nam [87]... Các công trình này chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ nhân học, rồi
từ đó đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với việc
phát triển con người ở vùng dân tộc thiểu số.
24
Gần đây, các tổ chức phi Chính phủ hợp tác với phía Việt Nam thực
hiện các dự án về đói nghèo, môi trường - sinh thái, quan hệ tộc người,... ở
miền núi và đã có những nghiên cứu đáng quan tâm như công trình:
Rethinking Approaches to Ethenic Minority Development, the Case of
Vietnam ("Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình phát triển dân tộc thiểu số,
trường hợp Việt Nam") [139], và Chính sách dân tộc bản địa của Ngân
hàng Phát triển châu Á [88], Chính sách dân tộc bản địa của Ngân hàng
Thế giới... [89]. Những nghiên cứu này khuyến nghị Chính phủ Việt Nam
cần lưu tâm đến việc chăm lo những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong
quá trình chuyển đổi cơ chế, mà ở đó đồng bào dân tộc thiểu số cần có sự
quan tâm đặc biệt. Các nghiên cứu này đã chỉ ra các nhóm dân tộc thiểu số
trình độ học vấn thấp, ít được hưởng lợi từ các chính sách ưu tiên của Nhà
nước, cũng như ưu tiên dân tộc thường là sự áp đặt ý chí của Nhà nước đối
với người dân, ít chú ý đến yêu cầu phát huy năng lực nội sinh của bản thân
người dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo những ưu tiên đầu tư đó có hiệu quả
lâu dài và bền vững. 1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC GIẢI
QUYẾT VÀ NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.2.1. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết
Những công trình nêu trên đã cung cấp những tài liệu quan trọng và cách
tiếp cận đối tượng nghiên cứu của luận án. Tuy vậy, do mục đích và phạm vi
nghiên cứu đặt ra, 3 nhóm công trình đó đã nghiên cứu những nội dung sau:
Nghiên cứu hệ thống quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về vấn
đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa
phương trên phạm vi cả nước.
Nghiên cứu quan điểm của Đảng về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
25
Một số công trình đã nghiên cứu về một số khâu trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như: tạo nguồn, phát triển nguồn cán bộ
dân tộc thiểu số.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang; tình hình
kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị ở Tuyên Quang.
Chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này là cần thiết xét trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
- Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ người dân tộc thiểu số;
- Phân tích các yếu tố tự nhiên, xã hội và bối cảnh lịch sử tác động đến
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của tỉnh Tuyên
Quang từ khi tái lập tỉnh từ năm 1991 đến năm 2010.
- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số (qua hai giai đoạn: 1991 - 2000 và 2001 - 2010).
- Đánh giá những kết quả đã đạt được, những khó khăn, tồn tại; bước
đầu đúc kết một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh qua thực tiễn lãnh đạo công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
26
CHƯƠNG 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TUYÊN QUANG
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc tế
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, nằm giữa khu Việt Bắc. Phía Bắc
giáp tỉnh Hà Giang, có ranh giới dài 151km; Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và
Vĩnh Phúc, có ranh giới dài 80km; Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn
và Thái Nguyên, có ranh giới dài 171km; Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, có ranh
giới dài 80km.
Tuyên Quang có nhiều rừng núi, chiếm khoảng 4/5 diện tích toàn tỉnh.
Càng về phía Bắc càng có nhiều ngọn núi cao trên 1.000m. Phía Đông, nối
với dãy Tam Đảo là núi Thanh Sơn, núi Lịch, núi Hồng. Phía Nam là những
dãy đồi xen kẽ núi đá có thành vách đứng bao quanh, tạo thành những thung
lũng hiểm trở, nhiều hang động lớn.
Rừng núi Tuyên Quang có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong
phú. Trong lòng đất Tuyên Quang có nhiều khoáng sản quý hiếm như:
than, kẽm, thiếc, diêm tiêu… phục vụ cho ngành kinh tế công, nông nghiệp
và quốc phòng.
Tuyên Quang có mạng lưới giao thông thủy bộ tương đối thuận tiện.
Sông Lô bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Hà Giang về Tuyên Quang rồi
hợp với sông Hồng chảy ra biển Đông. Sông Gâm chảy qua Cao Bằng về
huyện Na Hang, Chiêm Hóa, nối với sông Lô ở ngã ba Hòn Lau (Yên Sơn).
Đây là hai con sông rộng và sâu, tàu, xuồng loại nhỏ có thể đi lại dễ dàng,
27
thuận lợi cho việc cơ động lực lượng và vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra,
Tuyên Quang còn có sông Chảy ở Yên Sơn, sông Năng ở Na Hang, sông Phó
Đáy ở Sơn Dương và hàng trăm con ngòi, suối, vừa là nguồn nước dồi dào
phục vụ cho sản xuất vừa là nguồn thủy năng tiềm tàng. Về giao thông đường
bộ có quốc lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Vĩnh Phúc, Phú thọ đến Tuyên Quang
và lên tỉnh Hà Giang, dài hơn 300km. Đường số 13A xuất phát từ Bờ Đậu
(Bắc Thái) qua Đèo Khế sang Sơn Dương đến thị xã Tuyên Quang, sang tỉnh
Yên Bái. Đường số 12 từ Sơn Dương đi Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Đường số 11
từ Đoan Hùng qua huyện Yên Bình lên huyện Lục Yên (Yên Bái). Ngoài ra,
Tuyên Quang có nhiều trục đường liên huyện chạy dọc theo các thung lũng,
triền núi, nối liền các tỉnh bạn.
Địa hình Tuyên Quang đa dạng và phức tạp. Núi cao, vực sâu, rừng
rậm nối tiếp nhau tạo thành những hành lang bao bọc lấy nội địa, tạo cho
Tuyên Quang có địa thế hiểm yếu, một địa bàn quan trọng của đất nước.
Do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu và thời tiết ở Tuyên Quang khá
phức tạp. Nhiệt độ trung bình 160C. Mùa đông, có nơi nhiệt độ xuống đến 1
hoặc 20C. Lượng mưa phân bổ không đều. Lũ lụt đi liền với gió bão, mưa đá,
gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.
Tuyên Quang với điều kiện tự nhiên thiên nhiên ưu đãi, nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, trước hết và quan
trọng là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số bản địa có trách nhiệm khai thác, phát
huy. Tuyên Quang giáp với các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ và Bắc Cạn
cũng đều có nhiều dân tộc sinh sống. Vì vậy, Đảng bộ Tuyên Quang có nhiều
thuận lợi trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, có thể học hỏi
kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các tỉnh bạn. Tuy
nhiên, với địa hình đa dạng và phức tạp, lũ lụt thường xuyên cùng với giao
thông đi lại khó khăn, là một trở ngại trong quá trình phát triển kinh tế - xã
28
hội, củng cố hệ thống chính trị nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số của tỉnh nói riêng.
Địa bàn chia cắt, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng cao với đặc
điểm của các dân tộc ít người, có môi trường sống quá gần gũi với thiên
nhiên, định cư bên các triền đồi, núi, cách xa trung tâm kinh tế, văn hóa,
chính trị các vùng trong địa bàn tỉnh cũng là một thách thức trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở Tuyên Quang.
2.1.1.2. Yếu tố về kinh tế
Bên cạnh những thuận lợi và thế mạnh cơ bản, đến nay Tuyên Quang
vẫn là một tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn: Kinh tế phát triển chậm, trình độ
sản xuất còn thấp kém, một số vùng vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp. Thế
mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi chưa được khai thác tốt, đất trống, đồi
trọc còn nhiều. Công nghiệp chưa phát triển, chỉ chiếm 14% giá trị tổng sản
phẩm xã hội. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với mức bình quân
cả nước, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều bộ phận dân cư
còn sống ở mức nghèo khổ, điển hình là các tộc người thiểu số sinh sống tại
các địa bàn xa xôi, hẻo lánh. Bản thân cuộc sống của dân tộc còn khó khăn và
thiếu thốn sẽ hạn chế đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ngay chính trong tộc người đó.
Tuyên Quang đã có những thành tựu nhất định trong xoá đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao so với mặt
bằng chung của tỉnh. Bên cạnh đó, do những thành tựu xoá đói, giảm nghèo
đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Trong khi
hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số đều làm nghề nông. Khi nói tới dân tộc
thiểu số, chúng ta thường nghĩ ngay tới rừng núi, chăn nuôi, tới công việc đi
rừng làm rẫy. Điều đó đã in sâu vào trong suy nghĩ và tiềm thức của mỗi
người, về công việc của đồng bào dân tộc thiểu số.
29
Giúp bà con dân tộc thiểu số thoát nghèo, phát triển kinh tế là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế đất
nước. Nhưng nếu chỉ có chính sách hỗ trợ mà không có sự cố gắng của
chính đối tượng được trợ giúp thì chính sách đó cũng không thể đạt được
hiệu quả như mong muốn. Nhiều năm qua, Đảng bộ các cấp của tỉnh Tuyên
Quang cũng đã có những định hướng nghề, mở các lớp dạy nghề cho đồng
bào dân tộc thiểu số. Nhưng một điều hết sức lưu ý là có rất nhiều hộ gia
đình đồng bào dân tộc thiểu số mong muốn cho con cái được làm cán bộ.
Điều này bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ theo lối mòn của bà con dân tộc, cứ
làm việc trong Nhà nước hay các tổ chức đều gọi là cán bộ mà không có sự
phân biệt về ngành nghề hay công việc. Mong muốn cuối cùng là "thoát
nghèo", "thoát nông". Đồng bào dân tộc thiểu số rất hạn chế trong hiểu biết
về các công việc và ngành nghề. Bên cạnh đó, đại đa số đồng bào dân tộc
thiểu số không có kiến thức phổ thông, thậm chí nhiều người còn chưa biết
chữ; các trường nghề đa phần nằm xa làng bản, đi lại khó khăn cũng là
những trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề ở vùng dân tộc thiểu
số... dẫn đến người lao động muốn có công việc, để ổn định cuộc sống,
trong khi tay nghề không có, là rất khó khăn.
Tỉnh Tuyên Quang cũng đã có một số dự án các khu công nghiệp được
mở ra, khuyến khích sử dụng lao động tại chỗ, đặc biệt là ưu tiên con em
đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng bản thân họ không đáp ứng được những
yêu cầu của công việc. Nhiều công việc tuy đòi hỏi chuyên môn không cao,
nhưng lại có những quy định và kỷ luật lao động công nghiệp, khiến lao động
là người dân tộc thiểu số không đáp ứng được.
Việc di cư cũng là điều rất hạn chế với người dân tộc thiểu số. Suy nghĩ
bám đất bám quê ăn sâu vào tiềm thức của họ. Nên dù có nghèo khổ họ cũng
không muốn bỏ quê để tìm tới một cơ hội mới; việc kinh doanh buôn bán tại
30
chỗ vô cùng nhỏ lẻ và kém phát triển. Điều đó là nguyên nhân của những dự
án di dân tái định cư ở tỉnh Tuyên Quang không đạt được hiệu quả.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến sự
phát triển kinh tế cho các dân tộc thiểu số. Sự phát triển này được dựa trên
kinh tế của từng vùng miền khác nhau. Các chương trình 135, 134 áp dụng
cho các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn trên địa bàn cả nước cũng
đã đạt được một số thành tựu đáng kể về kinh tế cũng như xã hội. Chương
trình 135 cũng đã tạo ra bước chuyển quan trọng trong sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp của người dân tộc thiểu số. Đã có những kiến thức khoa học kỹ
thuật được áp dụng trong các công đoạn sản xuất, đưa máy móc vào trong
nông nghiệp, đưa các giống mới vào sản xuất... Chính những công việc này
đã tác động mạnh mẽ đến xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ người dân
tộc thiểu số phát triển để có thể thoát nghèo trên chính những tư liệu sẵn có
của mình. Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đã dẫn tới
những thay đổi về cơ cấu xã hội, phong cách, lối sống, phong tục tập quán
cũng như dẫn tới sự "đô thị hoá", tạo ra các trung tâm dịch vụ cấp vùng,
cấp địa phương, nhất là các dịch vụ xã hội liên quan trực tiếp đến sự phát
triển nguồn cán bộ dân tộc như giáo dục - đào tạo, y tế - chăm sóc sức
khoẻ, truyền thông, truyền hình... tác động rất lớn đến việc hình thành một
đội ngũ tri thức chuyên nghiệp sinh sống và hoạt động ở đô thị, vừa tạo nhu
cầu cho các dân tộc thiểu số phấn đấu, tham gia vào hệ thống chính trị ở
địa phương. Xây dựng nông thôn mới thiếu quy hoạch cũng dễ tạo tình
trạng phát triển bất cân xứng giữa các vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,
vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.
Đặc điểm này gây những khó khăn, trở ngại trong xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói riêng; đồng
thời, đòi hỏi Đảng bộ phải luôn chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý
31
của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế là
người dân tộc thiểu số của tỉnh.
2.1.1.3. Yếu tố về văn hóa
Bản sắc văn hóa là một vốn quý giá nhưng trước làn sóng đô thị hoá,
trong điều kiện mở cửa và giao thương phát triển mạnh, một số bà con dân
tộc thiểu số lại sinh sống gần các khu vực biên giới nên bản sắc văn hóa
các dân tộc có nguy cơ bị mai một nhanh chóng. Trong điều kiện hội nhập
phát triển mạnh như hiện nay, một vấn đề đặt ra là phải bảo tồn di sản văn
hóa nói chung và bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng.
Nhưng muốn bảo tồn được các di sản văn hóa đòi hỏi phải thay đổi về mặt
nhận thức, có sự quan điểm chỉ đạo mang tính khoa học, đồng bộ của các
cấp uỷ đảng và chính quyền. Trong quá trình giao lưu, hội nhập với quốc
tế, chúng ta đứng trước những thách thức đặt ra và điều cần thiết là cần
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa người dân tộc thiểu số trong giao lưu
và hội nhập. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, có nhiều thay đổi như về
tiếng nói, cách ăn mặc, lối sống, và văn hóa tộc người... Riêng về tiếng
nói và chữ viết, hiện đang phổ cập tiếng Việt cho hầu hết các dân tộc,
đồng thời duy trì ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Người dân
sẽ học chữ quốc ngữ song song cùng với chữ viết của dân tộc mình. Đây
cũng là một biện pháp thiết thực nhằm bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của
dân tộc trước sự hội nhập quốc tế không ngừng gia tăng. Không chỉ duy
trì những nét văn hóa trong cộng đồng người dân mà ngay cả các cán bộ
quản lý trong khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống bất kể là người
dân tộc nào cũng sẽ phải học và làm quen với tiếng nói và chữ viết của
dân tộc đó. Đây là một điều rất cần thiết và thiết thực với công tác quản lý
bởi có hiểu được người dân thì mới có thể đề ra các biện pháp và cách
thức quản lý đúng đắn và phù hợp.
32
Vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số rất quan trọng trong
việc bảo tồn và phát triển cũng như phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong
tập tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.
2.1.1.4. Yếu tố về xã hội và dân cư
Tuyên Quang là địa bàn quần cư của nhiều dân tộc anh em sinh sống từ
bao đời nay: Kinh, Tày, Nùng, H'Mông, Cao Lan, Sán Dìu, Cờ Lao, Pà Thẻn,
La Chí, Pu Péo, Lô Lô, Bố Y, Dao, Hoa, Giấy, Mường… Những dân tộc có
dân số đông là Kinh, Tày sống tập trung ở thành phố Tuyên Quang và thị xã
và huyện Yên Sơn, Hàm Yên. Các dân tộc thiểu số khác sống tập trung ở các
huyện khác còn lại của tỉnh như Na Hang, Chiêm Hóa, Sơn Dương. Các dân
tộc sống xen kẽ với nhau rất đoàn kết và hòa thuận.
Theo điều tra dân số năm 1991, Tuyên Quang có 596.679 người, mật
độ trung bình khoảng 100 người trên 1km2. Đến năm 2007, là 732.256 người.
Phần đông đồng bào sống tập trung ở vùng thấp, ven sông và các thị trấn, thị
xã. Ở vùng cao, dân cư thưa thớt hơn.
Với đặc điểm sống cách xa nhau về mặt địa lý, là những bất lợi cho
việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Để tuyên truyền, nâng cao
nhận thức cho dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị của tỉnh là
một điều hết sức khó khăn. Hơn nữa, do nền kinh tế chuyển đổi và quá
trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế
tương đối cao, có tính chất liên tục trong thời gian dài dẫn tới việc phân
tầng xã hội ngày càng gia tăng. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến
quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đa số người dân tộc
thiểu số là những người nghèo thuộc giai cấp nông dân. Cơ hội để phát
triển của họ là không nhiều. Những điều kiện này đặt ra yêu cầu đối với các
địa phương vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số là phải đào tạo nghề cho
người lao động thiểu số thông qua các chương trình, dự án. Chính vì thế,
33
các tộc người thiểu số thường dễ bị tổn thương và hay phải đứng trước
những rủi ro khi có những biến động về kinh tế, chính trị và xã hội, cơ hội
di động xã hội của họ không cao, do đó, nguy cơ tụt hậu hơn nữa là điều rất
có thể xảy ra.
Các tộc người thiểu số thường sống quây quần thành các làng bản. Tính
cộng đồng trong dòng họ, thôn bản của đồng bào dân tộc thiểu số rất cao. Họ
nhất nhất nghe theo người đứng đầu dòng họ hay trưởng bản. Điều này có lợi
nhưng cũng là một điểm yếu để những "thế lực thù địch" lợi dụng chống lại
đường lối của Đảng và Nhà nước. Trưởng bản, trưởng tộc là những người có
uy tín được đồng bào cử ra điều khiển việc chung của một cộng đồng dân cư
vùng dân tộc thiểu số. Đây không chỉ là một yêu cầu của cuộc sống mà còn là
phong tục tốt đẹp, là nét văn hóa riêng của các dân tộc thiểu số đã hình thành
và tồn tại từ rất lâu đời trong lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, họ đang thực
sự là nòng cốt, là cầu nối giữa dân với Đảng, với chính quyền, Mặt trận tổ
quốc; họ có những đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền, vận động con
cháu trong dòng tộc và các thành viên trong cộng đồng dân cư thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ yên gia đình,
làng, bản của mình.
Trong những năm gần đây, nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu
số về giáo dục và đào tạo cũng đã có những tiến bộ đáng kể. Thể hiện ở việc
dự định của họ cho con em đi học ở các cấp học khác nhau. Đây là nguồn
vô cùng quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Chính
sách cử tuyển của Đảng và Nhà nước áp dụng cho vùng dân tộc thiểu số đã
mở ra hướng mới, nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn cán bộ dân
tộc thiểu số, để bổ sung vào đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số kế cận sau này.
Tuy nhiên, điều này cũng vấp phải một rào cản lớn, đó là sự ỷ lại của đồng
bào dân tộc thiểu số. Họ sống phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên với tâm lý
34
dễ thì làm, khó thì bỏ và tâm lý này duy trì cả trong việc học tập. Họ luôn
bằng lòng với những gì sẵn có, thiếu ý thức phấn đấu cầu thị, chưa có ý
thức học tập để tạo ra nền xã hội cho lập nghiệp, lập thân và rộng hơn là
tìm cơ hội phát triển.
Năng lực tham gia của các dân tộc thiểu số vào quá trình phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội và thể chế chính trị cũng góp phần vào sự phát triển của
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ cách mạng.
Các dân tộc thiểu số sống đan xen. Vì thế đoàn kết dân tộc sẽ thúc đẩy
sự giao lưu học hỏi lẫn nhau, làm cho tri thức chung ngày càng mở rộng, và
như thế quá trình xây dựng cán bộ dân tộc thiểu số sẽ có những bước chuyển
biến mới và có khả năng nâng cao tri thức một cách rõ ràng.
2.1.1.5. Yếu tố quốc tế
Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ với khoảng 650 tổ chức phi chính
phủ nước ngoài, trong đó có trên 500 tổ chức hoạt động thường xuyên và cam
kết dài hạn. Nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ chủ yếu tập trung
vào các ngành y tế, giáo dục; giải quyết các vấn đề xã hội cũng như phát triển
kinh tế (nhất là du lịch). Đặc biệt các nguồn vốn này sẽ được ưu tiên nhiều
hơn tới các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, môi trường xã hội còn nhiều hạn chế.
Những chương trình, dự án của các tổ chức quốc tế đem tới Việt Nam đã góp
phần tích cực vào việc xoá đói, giảm nghèo cũng như nâng cao đời sống và
năng lực của người dân tại các vùng dự án.
Khả năng giao lưu quốc tế được mở rộng cho phép các dân tộc có
nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau. Các phần tử xấu cũng lợi dụng chính sách
mở cửa của Việt Nam để thâm nhập, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, thực hiện chủ nghĩa ly khai. Tại một số nơi trong tỉnh, những phần
35
tử này đã dựa vào miền núi, vùng sâu vùng xa, lợi dụng lòng tin, nhận thức
còn bị hạn chế, đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các
dân tộc thiểu số để tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Như sự kiện "Tổ chức tín ngưỡng Dương Văn Minh"
những năm cuối thế kỷ XX ở Tuyên Quang đã lợi dụng nhận thức còn hạn
chế của đồng dân tộc thiểu số, đặc biệt là người H'Mông. Chúng đã kích
động, lôi kéo họ tham gia theo "Tín ngưỡng Dương Văn Minh" mà thực
chất đó là một tà đạo. Kích động đồng bào H'Mông khiếu kiện với chính
quyền đòi công nhận sự tồn tại của "Tín ngưỡng Dương Văn Minh", nhưng
thực chất của mục đích là chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sau khi
Dương Văn Minh bị bắt, chính quyền địa phương đã giác ngộ, phân tích
cho đồng bào H'Mông trong tỉnh nhận thức được bản chất của tín ngưỡng
này, giúp họ trở lại với cuộc sống hàng ngày, và tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, xét về yếu tố môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc thiểu
số ở Tuyên Quang sống rải rác, xen kẽ nhau. Về kinh tế - văn hóa, xã hội, văn
hóa các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đều nhau. Tuy cùng chia
sẻ một số giá trị văn hóa chung, nhưng mỗi dân tộc lại có những giá trị và sắc
thái riêng. Tất cả những yếu tố trên đã có những tác động và là một thách thức
không nhỏ đối với Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong công tác lãnh đạo, xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.
2.1.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
ở Tuyên Quang trước năm 1991
Người Việt Nam luôn tự hào về nền văn hóa truyền thống của mình,
bởi đó là một nền văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Sự
phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc đó là do sự đóng góp của 54
dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi dân tộc tự xây
36
dựng nên một nền văn hóa truyền thống của riêng mình. Nền văn hóa ấy có
xu hướng hòa nhập với nền văn hóa chung của dân tộc trong quá trình giao
lưu, tiếp bước, vừa mang nét độc đáo riêng của mỗi dân tộc. Đây chính là cơ
sở để hình thành một nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Văn
hào R.Tago đã nói "Mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải biết thể
hiện mình trước thế giới". Theo Vũ Ngọc Khánh trong Truyền thống văn hóa
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập 1 có viết "Từ khi buổi bình minh của lịch sử,
tổ tiên của các dân tộc thiểu số hiện nay đã là chủ nhân của những nền văn
hóa xưa nhất của nhân loại" [68, tr.17].
Người dân tộc thiểu số là cư dân sống lâu đời ở mảnh đất Tuyên Quang
được gọi là "Trấn biên" che chở cho "Kinh chấn". Không kể người Kinh, có
khoảng 22 dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó chiếm số lượng nhiều
hơn cả là người Tày, người Dao, người Cao Lan và người Nùng.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang vốn có truyền thống yêu nước, cần cù, khéo tay, sáng tạo trong
lao động, thông minh, hiếu học, giàu lòng nhân ái, kiên cường, bất khuất
trong chiến đấu, đã tạo nên một Tuyên Quang giàu bản sắc và truyền thống
văn hóa, một Tuyên Quang - quê hương cách mạng.
Thời phong kiến, dưới các triều đại Lý, Trần, Lê thời Tây Sơn, nhân
dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp với triều đình đứng lên đánh
đuổi kẻ thù xâm lược bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ.
Những năm đầu thế kỷ 20, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã
tham gia vào cuộc đấu tranh chống thực hiện dân Pháp xâm lược, hưởng ứng
phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đồng bào các dân tộc ở Tuyên Quang đã một lòng theo
Đảng, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước.
37
Trong thời kỳ cách mạng mới, các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang
là lực lượng xã hội quan trọng góp phần vào sự thành công của công cuộc
xây dựng CNXH. Trong sản xuất, họ là lực lượng lao động đông đảo,
đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế ở Tuyên Quang. Với 22 dân
tộc khác nhau, người dân tộc thiểu số đã thực sự mang đến cho Tuyên
Quang nhiều sắc thái giá trị đó là truyền thống cần cù lao động, chịu
thương chịu khó, lối sống tiết kiệm, chắt chiu thành quả, là nghị lực phấn
đấu, vượt qua hoàn cảnh để sinh tồn, tạo dựng một chỗ đứng của bản thân
trong cộng đồng các dân tộc anh em, với trình độ học vấn ngày càng được
nâng lên, đã đóng góp vào thành tựu phát triển chung của tỉnh, đồng thời
là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Trong hệ thống chính trị cơ sở của tỉnh, tỉ lệ cán bộ, công chức chuyên
trách và không chuyên trách là người dân tộc thiểu số có số lượng đáng kể.
Hơn ai hết, họ gần gũi với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, hiểu tiếng nói,
phong tục tập quán tâm lý, lề lối, thói quen... của đồng bào nên đã phát huy
tốt vai trò tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước.
Phát huy được vai trò của cộng đồng, người dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh
- xã hội, là nhân tố mang lại sự ổn định, phát triển bền vững của vùng đất
"Trấn biên" của Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số không chỉ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt mà còn là vấn đề
có tính chiến lược lâu dài cho vùng đất đa dân tộc này.
Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trước
năm 1991 chưa thực sự được quan tâm. Cán bộ là người dân tộc thiểu số tham
gia vào hệ thống chính trị một cách ngẫu nhiên do nhu cầu công việc nên tỉ lệ
quá thấp so với tổng số cán bộ trong tỉnh.
38
Cán bộ dân tộc thiểu số là sợi dây liên hệ giữa Đảng và quần chúng các
dân tộc. Giữa họ và dân tộc có mối quan hệ ruột thịt với nhau, do đó, họ có
điều kiện thuận lợi đoàn kết và động viên nhân dân các dân tộc phát triển sự
nghiệp cách mạng và xây dựng quê hương theo con đường của Đảng. Giai
đoạn này, Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên còn thiếu kế hoạch chủ động và biện pháp
tích cực lâu dài, nhằm củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Hơn nữa, trong suốt một thời gian dài, chúng ta còn có thái độ đối với những
cán bộ vốn là người thuộc tầng lớp trên của dân tộc ít người, quy chụp và hiểu
một cách lệch lạc phương hướng giai cấp trong công tác cán bộ, đã gạt bỏ
những người thuộc thành phần lớp trên hoặc khá giả, còn có ảnh hưởng quan
trọng trong dân tộc thiểu số, đã tham gia công tác nhiều năm, dẫn tới sự bất
mãn của đội ngũ cán bộ này gây ảnh hưởng tới công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
Bên cạnh việc sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số không hiệu quả, công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh cũng chưa
phù hợp với chuyên môn và đặc điểm từng địa phương, nhất là đào tạo cán
bộ kỹ thuật, quản lý kinh tế và chuyên môn nghiệp vụ là người dân tộc
thiểu số.
Để sử dụng tốt cán bộ dân tộc, về mặt tư tưởng, phải chống khuynh
hướng hẹp hòi, xây dựng quan điểm đúng đắn với việc nhìn nhận và đánh giá
cán bộ dân tộc, mạnh dạn sử dụng và tích cực bồi dưỡng cán bộ dân tộc.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đặc biệt là cán bộ lãnh đạo
và chỉ đạo ở cấp tỉnh còn rất ít, nhất là những cán bộ chủ chốt. Phần lớn các
chức vụ phụ trách các ngành ở tỉnh và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của
Đảng ở cấp tỉnh, huyện vẫn do cán bộ miền xuôi hoặc ở nơi khác đến đảm
nhiệm. Trong đội ngũ chuyên môn, khoa học, kỹ thuật từ các ngành y tế, giáo
dục tương đối nhiều cán bộ dân tộc hơn, còn lại các ngành khác, cán bộ dân
39
tộc thiểu số tham gia vẫn ít. Trong cán bộ dân tộc, số cán bộ thuộc các dân tộc
ít người như Dao, Nùng, Cao Lan, Sán Dìu... chiếm số quá ít, chưa tương
xứng với số dân của họ. Phần lớn cán bộ dân tộc thiểu số chủ yếu là người
dân tộc Tày.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cũng như những hạn chế trong công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn này, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đề ra những chủ trương đúng đắn để xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, và sử dụng có hiệu quả hơn trong hệ thống chính trị của tỉnh.
2.1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
2.1.3.1. Khái niệm "cán bộ", "dân tộc thiểu số" và "cán bộ dân tộc thiểu số"
* Khái niệm "cán bộ": Là một từ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Ban
đầu, từ "cán bộ" được dùng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và người chỉ huy (từ cấp tiểu đội trở lên). Về sau, từ "cán bộ" được dùng để chỉ tất cả
những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân dân. Trong một thời gian dài, ở Việt Nam từ "cán bộ" được dùng phổ biến, thay thế cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, cán bộ được coi là
tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi là những người có mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những nhân viên có
mức lương dưới cán sự. Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "cán bộ" có hai nghĩa cơ bản: - "Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan
nhà nước.
- Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người không có chức vụ" [136, tr.109].
40
Trong Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/2/1947, khi
giải đáp về người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là
cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động
cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính
sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì
chính sách hay cũng không thể thực hiện được" [86, tr.54].
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một
lần nữa khẳng định:
Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng.
Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng [86, tr.269].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ hoàn toàn phù hợp với quan điểm
của V.I.Lênin. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, đứng
trước những nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp của chính quyền Xôviết
non trẻ, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, V.I.Lênin
đã viết: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó
là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là
mớ giấy lộn" [76, tr. 449].
Cán bộ là những cá nhân có trách nhiệm, tư cách cụ thể, rõ ràng, gắn
với một tổ chức nhất định. Khi tách rời tổ chức đó, người cán bộ sẽ mất tư
cách của mình. Chính vì vậy, để trở thành cán bộ, mỗi cá nhân phải rèn luyện
và học tập và để giữ vững tư cách cán bộ, mỗi cá nhân phải tự tu dưỡng và
trau dồi đạo đức cách mạng.
Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân; phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng
41
cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ
được giao.
Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ, đi đôi với phát huy
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, cán bộ được hiểu là: Những người công tác trong một
tổ chức xác định của hệ thống chính trị; có những trách nhiệm và quyền hạn nhất
định được tổ chức và nhân dân giao phó; có năng lực và trình độ công tác đáp
ứng các yêu cầu của nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức cách mạng; tuyệt
đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, hết lòng tận tụy phục vụ nhân
dân; sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì lợi ích tối cao của Đảng, của dân tộc.
Tất cả cán bộ công tác trong hệ thống các cơ quan nhà nước và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước đều thuộc phạm vi điều chỉnh của
Pháp lệnh cán bộ, công chức. Trong trường hợp này, tất cả các công chức,
viên chức nhà nước; các công chức, viên chức công tác trong các tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội; sĩ quan, sĩ quan chuyên nghiệp,
công nhân viên quốc phòng công tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp công tác trong lực lượng Công an nhân dân
đều được coi là cán bộ.
* Khái niệm dân tộc thiểu số
Khái niệm "dân tộc thiểu số" được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong các văn bản của các định chế tài chính
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), hoặc các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc như
(UNDP, UNICEF...), người ta thường sử dụng khái niệm "người bản địa", hay
các "dân tộc bản địa" thay cho khái niệm "dân tộc thiểu số" như cách gọi của
chúng ta.
42
Đối với thực tiễn tộc người Việt Nam, khái niệm "người bản địa"
(hay còn gọi là "người bản xứ") chỉ xuất hiện vào thời Pháp thuộc, khi
phân biệt người dân Việt Nam với người Pháp. Có 54 tộc người sinh sống
lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam nhưng không có tộc người nào là bản địa
hay tộc người nào phi bản địa - dù có tộc người sinh sống lâu đời có tộc
người nhập cư muộn hơn - mà chỉ có tộc người đa số và tộc người thiểu
số. Do đó, khái niệm "tộc người thiểu số" (hay "dân tộc thiểu số") được sử
dụng là phù hợp thực tiễn tộc người ở nước ta. Gọi tộc người thiểu số là
để phân biệt với tộc người đa số mà tiêu chí phổ dụng là xem xét tỷ lệ dân
số tộc người trong tổng dân số quốc gia. "Theo tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009, cả nước có 85.846.997 người, trong đó người Kinh là
73.574.427 người (chiếm 85,73%), nên được xem là tộc người đa số, 53
tộc người còn lại (và 2.134 người ngoại quốc) là 12.252.570 người (chiếm
14,27%), nên được xem là các tộc người thiểu số" [108, tr.19-20]. Một tộc
người chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số tộc người đó với tổng dân
số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay địa phương. Bởi vì,
một tộc người thiểu số nào đó (của cả nước) nhưng đặt trong phạm vi một
địa phương nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường hợp người
Mường ở Hòa Bình, người Thái ở Sơn La hay người Nùng ở Lạng Sơn.
Thuật ngữ "thiểu số" hay "ít người" cũng đều hàm nghĩa giống nhau, một
bên nghĩa Hán - Việt, còn bên kia là thuần Việt. Tuy nhiên, khi nói "ít
người" dễ hiểu lầm với các tộc người thiểu số có dân số ít (thường dưới
10.000 người), nên thuật ngữ "ít người" ít được sử dụng. Còn nếu gọi
"dân tộc thiểu số" ở nước ta thì được hiểu là "tộc người thiểu số", tức 53
tộc người còn lại ngoài người Kinh. Các tài liệu phổ biến ở nước ta
thường phân biệt tộc người này với tộc người khác ở các dấu hiệu về ngôn
ngữ, đặc trưng sinh hoạt văn hóa, ý thức tự giác tộc người (thường thể
hiện ở tên tự gọi).
43
* Khái niệm "cán bộ dân tộc thiểu số"
Về thực chất, đây là một khái niệm kép - một tập hợp của hai khái niệm
"cán bộ" và "dân tộc thiểu số". Khái niệm này dùng để chỉ những người đang
công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị có thành phần dân
tộc xuất thân là các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiêu chí
để phân biệt "cán bộ dân tộc thiểu số" trong "đội ngũ cán bộ" nói chung là có
thành phần dân tộc xuất thân từ các "dân tộc thiểu số".
Từ sự phân tích trên có thể đi tới một quan niệm chung, thống nhất về
"cán bộ dân tộc thiểu số": Cán bộ dân tộc thiểu số là những người công tác trong
một tổ chức xác định của hệ thống chính trị, có thành phần xuất thân từ các dân
tộc thiểu số; có những trách nhiệm và quyền hạn nhất định được tổ chức giao
phó; có năng lực và trình độ công tác đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ tuyệt
đối trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, hết lòng tận tụy phục vụ
nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích tối cao của Đảng, của Tổ quốc
và nhân dân.
Trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, cụm từ "cán bộ dân tộc
thiểu số" được thay thế bằng cụm từ "cán bộ là người dân tộc thiểu số". Xét về
ngữ nghĩa, đây là hai cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm khái niệm thì đây là hai
khái niệm có cùng một nội hàm, có thể thay thế cho nhau.
2.1.3.2. Một số quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Chính sách dân tộc đối với cán bộ dân tộc thiểu số dựa trên một hệ
thống các quan điểm rất cơ bản và nhất quán, cô đọng ở các nội dung sau:
Một là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết, sự thống nhất đại gia
đình các dân tộc Việt Nam:
Đảng và Nhà nước ta trước sau như một tôn trọng quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, phấn đấu cho sự bình đẳng được thực hiện sinh động trên
44
thực tế, không ngừng củng cố đại đoàn kết các dân tộc trong mọi thời kỳ của
cách mạng. Đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn
mạnh việc tạo ra sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc, gắn quá trình này với
việc củng cố, phát triển cả cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Tính cộng
đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc
đáo trong bản sắc mỗi dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng
phải là một xã hội trong đó tất cả các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ lẫn nhau, đều không ngừng phát triển và phát huy bản sắc độc đáo của
mình hoà vào sự phát triển chung của cả nước. Trong quá trình đó, phải kiên
quyết chống mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, mọi
hành động kỳ thị chia rẽ dân tộc.
Chính bởi vậy, nguyên tắc xuyên suốt chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước là:
- Đoàn kết các dân tộc
- Thực hiện bình đẳng dân tộc
- Các dân tộc tương trợ, giúp đỡ nhau như anh em một nhà.
Các nguyên tắc đó được quán triệt trong tất cả các nội dung công tác
liên quan đến vấn đề dân tộc; được quán triệt đến các cấp, các ngành trong hệ
thống chính trị.
Hai là, phát huy mọi tiềm năng, nhân tài, vật lực của tất cả các dân
tộc, các vùng đất nước vì sự nghiệp chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội,
nước ta phải khai thác, phát huy mọi tiềm năng, nhân tài, vật lực của tất cả
các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các thành phần kinh tế, các tổ chức chính
trị - xã hội, các dân tộc, các vùng của đất nước. Đây không phải là "giải
pháp tình thế" cốt để khai thác miền núi; trái lại, sự thể hiện tư tưởng chiến
lược cách mạng là sự nghiệp của quảng đại quần chúng nhân dân, tất cả
45
mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước, làm chủ
mọi cuộc sống của mình.
Việc khai thác tiềm năng và xây dựng miền núi về mọi mặt là lợi ích
trực tiếp của nhân dân miền núi, đồng thời là vì lợi ích chung cả nước. Đầu
tư cho phát triển miền núi là đầu tư để khai thác các tiềm năng, các nguồn
lực của đất nước cho sự phát triển miền núi, và của cả nước. Cần tránh
quan niệm coi miền núi là gánh nặng, đầu tư kiểu "ban phát" và khuynh
hướng chỉ chủ tâm khai thác tài nguyên và lao động rẻ của miền núi và
không quan tâm bảo vệ, bồi đắp, tái tạo tài nguyên, bồi dưỡng nguồn nhân
lực cho đồng bào vùng cao. Về phần mình, các địa phương miền núi cần
khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư, chỉ đạo của Trung ương,
phát huy tinh thần phấn đấu vươn lên khai thác các tiềm năng và thế mạnh
của mình, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa miền núi.
Ba là, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là những chiến sĩ xung kích của
Đảng và Nhà nước ở vùng đông đồng bào dân tộc, là biểu tượng sinh động
của khối đoàn kết dân tộc
Cùng với các kế hoạch, chính sách và pháp luật, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ - bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ đoàn thể - người dân tộc thiếu số là
nhân tố, có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong các chủ trương, biện pháp đối với
miền núi đều đề cập đến việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ
công tác ở miền núi, đặc biệt là các cán bộ dân tộc thiểu số. Trong công tác
cán bộ dân tộc, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến các khâu quy hoạch, lựa
chọn, bố trí sử dụng, dân tộc và bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra và giải quyết
các chế độ chính sách. Việc Đảng và Nhà nước coi trọng vai trò của đội ngũ
cán bộ dân tộc là xuất phát từ những quan điểm đúng đắn:
46
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp phát triển miền
núi, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi và phải phát huy cao độ trí tuệ, sức lực
của đồng bào và cán bộ dân tộc.
- Muốn thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc phải có cán bộ của người
dân tộc đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng đồng thời coi trọng đội ngũ
cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi và vùng dân tộc như một yêu cầu
khách quan.
- So với cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, cán bộ người dân
tộc công tác ở vùng dân tộc có nhiều lợi thế hơn về am hiểu tình hình miền
núi, phong tục tập quán, tâm lý và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc, gắn bó với
gia đình, họ hàng, bà con thân thích và quê hương bản quán của mình, đứng
chân lâu dài ở vùng biên giới, vùng xa, vùng sâu, hẻo lánh.
- Bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc, tuy còn có những hạn chế
nhất định, nhưng nhìn chung nếu được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đúng sẽ
có đủ sức gánh vác các nhiệm vụ chủ yếu lãnh đạo, quản lý ở các địa phương
miền núi.
- Sự tham gia của các cán bộ dân tộc thiểu số vào đội ngũ cán bộ nói
chung là biểu hiện rõ rệt nhất, sinh động nhất của khối đại đoàn kết các dân
tộc và của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cho đồng
bào các dân tộc vào chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước, là bằng
chứng hùng hồn chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động.
Bốn là, đối với đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, cần có sự quan tâm
đặc biệt và có chính sách có tính chất ưu đãi phù hợp với tính đặc thù của
đội ngũ này
Do sự chi phối của hoàn cảnh khách quan, cán bộ là người dân tộc
thiểu số chịu nhiều thiệt thòi, phải vượt qua nhiều khó khăn hơn so với cán bộ
người Việt (Kinh) và cán bộ ở thành phố, đồng bằng. Đội ngũ này có một số
47
hạn chế về kiến thức, năng lực. Vì vậy, trong chính sách không thể cào bằng
giữa cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ dân tộc đa số.
Tư tưởng về sự ưu đãi đặc biệt đối với cán bộ dân tộc thiểu số được thể
hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Tựu trung lại, quan điểm về
sự ưu đãi đối với cán bộ người dân tộc được cụ thể hoá trong các biện pháp
phát triển giáo dục và đào tạo phổ thông ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số;
ưu tiên đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và người dân tộc; nâng mức phụ cấp
cho cán bộ lãnh đạo; trợ cấp cho cán bộ dân tộc để mua sắm một số vật dụng
cần thiết; cải tiến các chính sách phụ cấp thâm niên, phụ cấp lưu trú, công tác
phí, chế độ hưu...
Nhìn chung lại, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
miền núi và cán bộ dân tộc thiểu số là rõ ràng, toàn diện, nhất quán và ngày
càng cụ thể, tạo điều kiện cho các tổ chức, các ngành, các cấp cụ thể hóa và
thực hiện tốt chính sách này. Thông qua đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đưa
chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc, thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.3.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong việc thực
hiện chính sách của Đảng, Nhà nước
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính chất tổng hợp, đề
cập toàn diện tất cả các nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số. Việc tiếp thu đúng và đầy đủ các chính
sách đã là vấn đề khó, nhưng để vận dụng chính sách vào thực tiễn địa
phương, mang lại hiệu quả cao, phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định còn khó hơn nhiều.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi có Nghị
quyết số 22-NQ/TW, ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; đặc biệt là từ sau khi có
48
Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa IX) về công tác dân tộc, tình hình vùng miền núi, dân tộc đã có những
chuyển biến rất quan trọng. Mặt bằng dân trí được nâng lên; mục tiêu phổ cập
giáo dục tiểu học được thực hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú
được hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, cụm, xã. Chính sách cử
tuyển con em các dân tộc thiểu số vào các trường đại học và cao đẳng được
duy trì thực hiện từ năm 1990 đã góp phần tạo nguồn cán bộ người dân tộc
thiểu số. Đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao; văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, giữ gìn và phát huy,
nhiều thôn bản đã hình thành các đội văn hóa, văn nghệ mạnh, nhiều hình
thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển.
Các loại bệnh dịch đã được ngăn chặn và đẩy lùi, việc khám chữa bệnh cho
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa được quan tâm. Hệ
thống chính trị ở vùng dân tộc, miền núi bước đầu được tăng cường và củng
cố. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, an ninh, quốc
phòng được giữ vững.
Những thành tựu trên đã chứng minh vai trò quan trọng của đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số, từ việc tiếp thu, vận dụng chính sách của Đảng, Nhà nước
vào thực tiễn công tác ở các địa phương. Điều đó cũng khẳng định kiến thức,
năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã được nâng cao một
bước; bản lĩnh của cán bộ có sự trưởng thành, tạo tiền đề cho những bước
phát triển tiếp theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Lực lượng của dân rất to, việc dân
vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc
gì cũng thành công. Theo tư tưởng đó của Người, công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số luôn gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ tổ
chức, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây cũng được coi là giải pháp
49
cơ bản để mỗi người cán bộ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Tuy
vậy, công tác vận động quần chúng ở vùng dân tộc thiểu số có những đặc thù
riêng, đòi hỏi mỗi cán bộ phải học tập, nghiên cứu, nắm vững những đặc thù
đó để vận dụng đối với từng vùng dân tộc.
Đặc điểm tâm lý chung của đồng bào các dân tộc thiểu số là rất dễ
tin và cũng rất dễ mất lòng tin. Khi người cán bộ đã tạo được niềm tin đối
với đồng bào thì sẽ được đồng bào tin, nghe theo và thực hiện nghiêm các
nội dung công tác được cán bộ triển khai. Ngược lại, có thể chỉ vì một vài
hành vi nhỏ vi phạm bản sắc văn hóa dân tộc, hoặc chỉ vì không hiểu
phong tục, tập quán của đồng bào thì sẽ làm cho đồng bào mất niềm tin,
từ chỗ là lực lượng ủng hộ nhiệt tình, có thể trở thành lực lượng đối lập
với người cán bộ đó.
Cán bộ là người đem chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần
chúng. Vì vậy, khi người cán bộ làm tốt công tác tổ chức vận động quần
chúng thì đồng bào các dân tộc thiểu số tin tưởng vào chính sách, tin tưởng
vào cán bộ, tự nguyện đem tất cả tinh thần, lực lượng và của cải cống hiến
cho sự nghiệp cách mạng. Nếu người cán bộ để mất niềm tin của đồng bào
cũng có nghĩa là đồng bào mất niềm tin vào chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, rất dễ bị các thế lực xấu lợi dụng, lôi kéo vào các
hoạt động chống đối cách mạng.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải đánh giá đúng tiềm năng, thế
mạnh của từng dân tộc, từng địa phương, tìm hiểu, nắm vững phong tục, tập
quán và truyền thống cách mạng của từng vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ sở
đó, xác định được phương hướng, nhiệm vụ công tác vận động quần chúng sát
với từng dân tộc thiểu số cụ thể. Thực tế trong những năm qua, chúng ta chưa
quan tâm thích đáng tới vấn đề này, nên hiệu quả vận động quần chúng các
dân tộc thiểu số ở nhiều nơi đạt thấp so với yêu cầu.
50
Nói chung, cán bộ dân tộc có nhiều ưu điểm trong việc vận động
quần chúng các dân tộc, trong việc phát triển mọi mặt công tác ở vùng
dân tộc thiểu số vì họ sinh ra và lớn lên ở miền núi, thích nghi và am hiểu
tình hình địa phương, am hiểu dân tộc mình hơn ai hết, dễ dàng liên hệ
với quần chúng các dân tộc và có sự hiểu biết nhất định về lịch sử, xã hội,
tự nhiên, kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu ở miền núi, ở vùng dân tộc
họ sinh sống.
Cán bộ dân tộc thiểu số có vai trò rất quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ở vùng dân tộc, miền núi nói riêng.
Vì vậy, cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ này,
làm cho công tác tổ chức và vận động quần chúng thực hiện chính sách
của Đảng và Nhà nước ở các tỉnh miền núi nước ta ngày càng thu được
kết quả tốt hơn, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG VỀ XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số
Thực hiện đường lối đổi mới, một trong những vấn đề đặt ra là đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc. Trong đó, yêu cầu cấp
bách nhất cần giải quyết là nhanh chóng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc
thiểu số đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng khẳng
định lại chủ trương: "Tích cực đào tạo cán bộ dân tộc ở địa phương, đồng thời
điều thêm cán bộ nơi khác tăng cường cho các vùng dân tộc. Tiếp tục lựa chọn,
giáo dục và sử dụng hợp lý những công chức và trí thức dân tộc ít người do chế
đội cũ để lại" [56, tr.172].
Thực hiện đổi mới tư duy về vấn đề dân tộc trong tình hình mới, ngày
27/11/1989, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22-NQ/TW. Sau khi phân tích
51
đánh giá toàn diện tình hình kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, nêu bật những
thành tựu và chỉ rõ những thiếu sót trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số, Nghị quyết chủ trương khôi phục lại hệ thống các trường phổ thông
dân tộc nội trú, phát triển dự bị đại học và mở hệ cử tuyển con em các dân tộc
thiểu số vào một số trường đại học và cao đẳng để tạo nguồn cán bộ.
Tiếp đó, Chính phủ ra Quyết định số 72-QĐ/TTg, cụ thể hóa các chủ
trương, chính sách của Đảng và triển khai thực hiện các chính sách đó từ Trung
ương đến cơ sở.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp từ ngày 24 đến
ngày 27/6/1991 tại Hà Nội. Với chủ đề Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân
chủ - kỷ cương - đoàn kết, Đại hội đánh giá 5 năm thực hiện đường lối đổi
mới của Đại hội VI, đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 - 1995) là “vượt
qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường
ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [29, tr.60]. Đại hội thảo luận, nhất
trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2000. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng
hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng
nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố
quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn
vào đầu thế kỷ XXI.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991, Đảng xác
định: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn
bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam... Các
52
chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc,
nhất là các dân tộc thiểu số.
Đề cập đến vấn đề đổi mới chính sách cán bộ, Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, khoa VII nhấn mạnh: Có chính sách khuyến khích
cán bộ dân tộc thiểu số vùng cao, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII (1996) xác định:
Có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc, nâng
cao năng lực cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo ở các cấp chính quyền,
cán bộ quản lý kinh tế. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Ban hành các
chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, các
cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi. Tổ chức các đội trí thức
mới ra trường tình nguyện xuống các bản, làng giúp đỡ đồng bào dân
tộc [56, tr.216-217].
2.2.2. Chủ trưởng của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số
Căn cứ tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới, ngày 12/8/1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 quyết
nghị chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Hà Giang và tỉnh
Tuyên Quang.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII, công tác chia tỉnh
được tiến hành khẩn trương với nguyên tắc: dân chủ - đoàn kết và kỷ
cương vì lợi ích chung. Từ ngày 15 đến ngày 18/8/1991, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên đã họp, bàn biện pháp tổ chức lãnh đạo thực hiện
và đã ra Nghị quyết về nguyên tắc khi chia tỉnh; Ủy ban nhân dân tỉnh thể
chế hóa bằng Kế hoạch số 320 ngày 22/8/1991. Thường trực Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức hội nghị quán triệt Nghị quyết
53
của Quốc hội và Nghị quyết của Tỉnh ủy, bàn biện pháp triển khai đồng
bộ. Trong một thời gian ngắn, các ngành, các đơn vị trong tỉnh đã tổ chức
thực hiện xong việc chia tách, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, dân chủ
bàn bạc trong việc điều động, phân công cán bộ công nhân viên chức về
công tác ở hai tỉnh mới; cán bộ công nhân viên chức sẵn sàng tuân thủ sự
phân công của tổ chức, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất, không có biểu
hiện cục bộ, địa phương trong khi chia tỉnh.
Cùng với việc xác định tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn, đã
phân công điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nhân viên nghiệp vụ
cho các cơ quan; có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ công nhân viên được
điều động từ thị xã Tuyên Quang lên thị xã Hà Giang sớm ổn định cuộc sống.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức kiểm tra, rà soát, nắm lại cơ sở vật chất tại
thị xã Hà Giang, có kế hoạch tu sửa, làm mới, sắp xếp nơi làm việc của từng
cơ quan; ưu tiên về phương tiện và điều kiện làm việc cho các cơ quan của
tỉnh Hà Giang sau khi tách tỉnh. Hoạt động của các ngành vẫn được quan tâm
chỉ đạo, đảm bảo kế hoạch.
Cuối tháng 9/1991, việc chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh đã cơ bản
hoàn thành. Từ ngày 1/10/1991, hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang chính
thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới.
Sau khi được tái lập, tỉnh Tuyên Quang có diện tích tự nhiên 5.800,9
ha; dân số 598.050 người, gồm 22 dân tộc, 90% dân số sống ở nông thôn.
Tỉnh có 6 đơn vị hành chính, gồm thị xã Tuyên Quang (là tỉnh lỵ) và các
huyện Na Hang, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương. Đơn vị
hành chính cấp cơ sở có 3 phường, 7 thị trấn, 135 xã (trong đó có 36 xã là
vùng cao). Ngay sau khi tỉnh được tái lập, nhiều cán bộ dân tộc thiểu số
được Trung ương chỉ định giữ các vị trí chủ chốt trong hệ thống chính trị
của tỉnh. Tiêu biểu như đồng chí Hà Thị Khiết dân tộc Tày giữ chức Bí thư
54
Tỉnh ủy; Đồng chí Quan Thị Việt dân tộc Tày giữ chức Chủ nhiệm UBKT
Tỉnh ủy; Đồng chí Hoàng Thế Viện dân tộc Tày giữ chức Trưởng ban tổ
chức Tỉnh ủy.
Với chủ đề "Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (20/01/1992 - 22/01/1992) đã thảo luận thông
qua Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời về đánh giá
kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội
IV của Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
chủ yếu đến năm 1995 và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI, nhiệm
kỳ 1992 - 1996. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (1992) đã chỉ ra những
hạn chế:
Trong những năm qua, Tỉnh ủy đã quan tâm công tác chính trị, tư
tưởng, Trường Đảng đã có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Nhưng công tác chính trị, tư tưởng chưa trở
thành công tác thường xuyên của mọi cán bộ, đảng viên; công tác
đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng lý luận chính trị chậm đổi mới về
nội dung, thật gắn với thực tế của địa phương. Trình độ kiến thức
và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa chuyển kịp với
yêu cầu của cơ chế quản lý mới [4, tr.79].
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI chủ trương tiếp tục đổi mới công tác
cán bộ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, từng bước thực hiện phân cấp
quản lý cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, tập trung
trước hết vào đội ngũ cán bộ thiểu số ở cơ sở.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI gồm 41 đồng chí Hội
nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu 11 đồng chí vào Ban
Thường vụ tỉnh ủy, trong đó có 4 đồng chí là dân tộc thiểu số. Đồng chí Hà
Thị Khiết, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm Bí thư
55
Tỉnh ủy, đồng chí Vũ Tiệp là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, đồng chí
Trần Trung Nhật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là Phó Bí thư Tỉnh ủy;
đồng chí Quan Thị Việt dân tộc Tày là trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy. Trong
nhiệm kỳ khóa XI (1992 - 1996) Hội nghị giữa nhiệm kỳ bầu bổ sung 4
đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, trong đó có 3 đồng chí là dân
tộc thiểu số, gồm: đồng chí Bàn Xuân Triều dân tộc Tày, Phó Chủ nhiệm
Thường trực Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy, Trưởng ban Thư ký Hội đồng nhân
dân tỉnh; đồng chí Hà Thị Huyên dân tộc Tày, Bí thư Ban cán sự Đảng, Ủy
viên Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc sở Lao động - Thương binh và xã
hội; đồng chí Riêu Ngọc Chính dân tộc Tày, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân huyện Sơn Dương.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XI thành công, mở
ra thời kỳ mới: Thời kỳ Đảng bộ Tuyên Quang lãnh đạo nhân dân các dân tộc
trong tỉnh đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng.
Từ ngày 11 đến ngày 13/5/1992, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh khóa XI họp bàn về các biện pháp triển khai thực hiện Công
Văn số 100-CV/TW ngày 28/4/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
việc tổ chức quán triệt bài nói "Giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật
Nhà nước, kiên quyết ngăn chặn tệ vô tổ chức, vô kỷ luật" của Tổng Bí thư
Đỗ Mười tại Hội nghị cán bộ toàn quốc. Hội nghị thống nhất kế hoạch chỉ
đạo các cấp, các ngành, đơn vị và toàn Đảng bộ dựa vào bài nói của Tổng
Bí thư để phê và tự phê bình việc chấp hành kỷ luật. Tiếp đó, Hội nghị tiến
hành sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 8b của Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VI) về công tác vận động quần chúng và sơ kết việc thực hiện Nghị
quyết số 50 của Tỉnh ủy Hà Tuyên về công tác tổ chức cán bộ. Theo kế
hoạch số 75 và Thông báo số 46 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "sắp
xếp lại tổ chức bộ máy".
56
Bên cạnh những bất cập về tổ chức bộ máy chính trị các cấp, đội ngũ
cán bộ sau khi tái lập tỉnh cũng còn nhiều hạn chế, có nhiều xáo trộn, thiếu
hụt về số lượng. Hơn nữa, đặt trong bối cảnh khi công cuộc đổi mới đang
được đẩy mạnh, đội ngũ cán bộ hụt hẫng nhiều mặt, nhất là về năng lực tổ
chức thực tiễn các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương, trình độ nhận
thức, trình độ học vấn còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chủ
yếu công tác ở cơ sở, địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ người
dân tộc cơ cấu không đều trên các lĩnh vực (chủ yếu trong công tác Đảng,
đoàn thể), chiếm tỷ lệ thấp trong bộ máy chính quyền, trong các ngành
chuyên môn, kỹ thuật.
Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra phương
hướng, mục tiêu nhằm củng cố lại tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán
bộ, trong đó, quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số
nhằm từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc
thiểu số nói riêng đủ về số lượng đảm bảo về chất lượng.
Nhằm tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh vào một
đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Tỉnh ủy
Tuyên Quang ra Quyết định số 28-QĐ/TU ngày 28/4/1992 thành lập Trường
đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh trên cơ sở hợp nhất 4 trường: Trường Đảng
tỉnh, Trường Chính sách tỉnh, Trường phổ thông lao động tỉnh, Trường Dân
vận Tỉnh và quyết định đặt cơ sở Trường tại địa điểm Trường Đảng tỉnh
(xóm 36, xã Ỷ La, thị xã Tuyên Quang). Khi hợp nhất các trường, Trường
Hành chính, Trường phổ thông lao động tỉnh và Trường Dân vận tỉnh thành
khoa Nhà nước - Pháp luật, khoa văn hóa, khoa dân vận cùng với các khoa
của Trường Đảng tỉnh thành Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh.
Trường có nhiệm vụ:
Đào tạo bồi dưỡng những kiến thức cơ bản (Trung cấp) về lý luận
chính trị xã hội cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn;
57
cán bộ lãnh đạo quản lý các ban ngành, đoàn thể, nông lâm
trường, trường học thuộc huyện, thị và cán bộ đảng viên thuộc
huyện, thị và cán bộ đảng viên các ban ngành đoàn thể, nông lâm
trường, xí nghiệp thuộc tỉnh (ngoài đối tượng đi học Trường
Nguyễn Ái Quốc I và Học viện Nguyễn Ái Quốc) [115, tr.7].
Sang năm 1995, Đảng bộ tỉnh tiếp tục chỉ đạo cấp ủy các cấp và các ban
ngành xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đổi mới và phù hợp với nhiệm vụ chính trị của địa phương đúng như
đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 50
năm Cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2/9 (1945 - 1995) ngày 16/8/1995:
Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của Tỉnh ủy,
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII cũng chỉ rõ:
Trong những năm qua, Trường Chính trị tỉnh đã làm tốt công tác
đào tạo bồi dưỡng lý luận, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Đảng,
chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, góp phần nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Song để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải đẩy mạnh công tác đào
tạo bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện các mặt văn hóa, chuyên
môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, khoa học kỹ thuật, phẩm chất
năng lực [11, tr.82-83].
Đại hội cũng nhấn mạnh:
Chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện cả về phẩm
chất và năng lực, quan tâm hơn nữa đến đào tạo cán bộ chủ chốt của
Đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó chú ý đến
cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người.
Tuyên Quang vẫn là một trong những tỉnh nghèo. Chúng ta còn
58
phải phấn đấu rất nhiều để cho tương lai ngày càng tốt đẹp hơn.
Đảng bộ phải lãnh đạo, chính quyền phải chỉ đạo đồng bào các dân
tộc trong tỉnh thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, ra sức phát triển kinh tế, chăm lo xóa đói giảm
nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe của đồng bào, nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; làm tốt việc đền ơn đáp
nghĩa; tuyên truyền, giáo dục mọi người chống các hủ tục và tệ nạn
xã hội như nghiện hút, mê tín dị đoan. Chăm lo củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Phải đặc biệt
quan tâm đến các vùng cao, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Quan tâm thích đáng đến việc bảo
vệ và cải thiện môi trường, gìn giữ, tôn tạo các di tích lịch sử và cách
mạng đã làm nên truyền thống quang vinh của cả nước và địa phương
để con cháu đời sau chiêm ngưỡng, noi gương, tiếp tục sự nghiệp cách
mạng mà cha ông truyền lại [9, tr.209-210].
Đến năm 1996, sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống của nhân dân; giữ vững ổn định chính
trị; quốc phòng an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế
đất nước được nâng lên trên trường quốc tế. Thành tựu của 10 năm thực hiện
đường lối đổi mới đã tạo nên thế và lực mới để đất nước bước vào một thời
kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
nhiên, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức như, nguy cơ
tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế; âm mưu và hoạt động "Diễn biến hòa bình" của
các thế lực thù địch; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội
chủ nghĩa; tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu
hóa kinh tế; diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và sự mất ổn định về
chính trị của một số nước trong khu vực.
59
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
họp từ ngày 28/6 đến ngày 01/7/1996 đã khẳng định: Cần tiếp tục nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực hiện Chỉ thị số 51 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII)
về Đại hội Đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần
thứ XII được tổ chức từ ngày 02 đến ngày 4/5/1996 tại thị xã Tuyên Quang.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII gồm 45 ủy viên. Trong
đó, tái cử chiếm 73,3%, mới tham gia 26,7%, tỉ lệ nữ là 22,2%; ủy viên là
người dân tộc thiểu số chiếm 51%; tuổi đời bình quân là 48,9 tuổi, 82% có
trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên, 89% có trình độ lý luận
chính trị cao cấp. Tại kỳ họp thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu ra Ban
Thường vụ gồm 13 đồng chí, trong đó có 4 đồng chí dân tộc thiểu số. Đồng
chí Hà Thị Khiết dân tộc Tày, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy; bầu đồng chí Ngụy Văn Thân làm Phó Bí thư
thường trực Tỉnh ủy; bầu đồng chí Trần Trung Nhật Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh là Phó Bí thư. Tháng 01/1998, đồng chí Hà Thị Khiết được Trung
ương điều động về làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; tháng 2,
đồng chí Trần Trung Nhật, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Tỉnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Tháng 5 /1998, đồng chí Hà Phúc Mịch dân tộc Tày, Tỉnh ủy viên, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và đồng chí Đỗ Văn Chiến dân tộc Sán Dìu, Tỉnh
ủy viên, Bí thư Huyện ủy Yên Sơn được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ
Tỉnh ủy.
Về công tác cán bộ, ngay sau khi Đại hội Đảng bộ tỉnh, các cấp bộ
Đảng đã sớm ổn định tổ chức và đi vào hoạt động. Ban Chấp hành Đảng bộ
60
tỉnh đã hoàn thành việc xây dựng Quy chế hoạt động và Chương trình công
tác cả nhiệm kỳ.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, họp
từ ngày 9 đến ngày 18/6/1997, đã ra hai Nghị quyết quan trọng, đó là: Nghị
quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh và Nghị quyết về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tháng 11/1997, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp Hội nghị lần thứ bảy (mở
rộng) quán triệt và xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện các Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số
12-NQ/TU của Tỉnh ủy về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã đánh giá thực trạng
công tác xây dựng Nhà nước và công tác cán bộ của tỉnh từ năm 1991 đến
năm 1997, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng, nhiệm vụ và các giải
pháp chủ yếu về xây dựng củng cố bộ máy Nhà nước và công tác cán bộ trên
địa bàn tỉnh. Về chiến lược cán bộ, Nghị quyết đã nêu rõ các quan điểm chỉ
đạo và xác định rõ mục tiêu, tiêu chuẩn cán bộ; nhiệm vụ, giải pháp về xây
dựng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ; về tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện các quy chế về công tác cán bộ; về nhiệm vụ công tác cán bộ đến năm
2000 và 2005.
Tháng 11/1999, bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV có 54 đại biểu
trong đó đại biểu là người dân tộc thiểu số có 26 người, chiếm 48,15%. Với
chức năng và nhiệm vụ của mình, Hội đồng nhân dân tỉnh đã giám sát, kiểm
tra và tham gia vào quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh
hiệu quả hơn.
Để tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh chủ trương giao cho các cấp ủy
Đảng có trách nhiệm thường xuyên quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây
61
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của địa phương, lĩnh vực, cơ quan, đơn
vị mình.
Sở Nội vụ tỉnh có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh
ủy, Sở giáo dục và đào tạo, Ban dân tộc tỉnh, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở tài
chính, các sở, ban, ngành, huyện, thành phố triển khai thực hiện các nội dung
của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; thường xuyên hướng
dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chất lượng, tiến độ thực hiện kế hoạch và
định kỳ hàng năm báo cáo kết quả cho Đảng bộ tỉnh; phối hợp với các cơ
quan, ban, ngành chức năng tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh điều chỉnh,
bổ sung và xây dựng các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử
dụng sau đào tạo.
Ban tổ chức tỉnh ủy xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức viên chức dân tộc thiểu số trong hệ thống các cơ quan, ban Đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể của tỉnh; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý là người dân tộc thiểu số.
Ban Tuyên giáo tỉnh ủy: rà soát, đánh giá chất lượng, năng lượng đội ngũ
giảng viên Trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,
Thành phố chỉ đạo, định hướng cho trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện, thành phố về nội dung đào tạo, bồi dưỡng về lý luận
chính trị cho cán bộ dân tộc thiểu số các cấp.
Sở Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng kế
hoạch đào tạo lại học sinh dân tộc thiểu số hệ cử tuyển tại các trường đại học,
cao đẳng ở Trung ương theo chỉ tiêu được giao thực hiện hàng năm; xây dựng
kế hoạch đào tạo giáo viên người dân tộc thiểu số tại trường cao đẳng của tỉnh;
bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, học sinh, sinh viên đi đào tạo.
Ban dân tộc tỉnh rà soát đội ngũ cán bộ đương chức người dân tộc thiểu
số tỉnh; phối hợp với Sở Nội vụ, Ban Tổ chức tỉnh ủy và Sở Giáo dục - Đào tạo
62
xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng đội ngũ
cán bộ công chức, học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số.
Sở Kế hoạch - Đầu tư và Sở Tài chính bố trí và cân đối nguồn ngân sách,
bảo đảm đáp ứng nhu cầu thủ tục đã duyệt, thường xuyên kiểm tra, theo dõi
việc triển khai các hạng mục đầu tư là sử dụng kinh phí của các cơ quan, đơn vị
triển khai các nội dung của công tác xây dựng, đảm bảo đúng mục đích, tiết
kiệm, hiệu quả.
2.3. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000 Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở quan tâm lãnh đạo
công tác cán bộ, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, đề bạt cán bộ.
Tỉnh ủy cũng ban hành và chỉ đạo thực hiện các quy định về đánh giá,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ từ tỉnh về cơ sở; về phân
công, phân cấp quản lý cán bộ; về chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng
bộ tỉnh Tuyên Quang.
Thực hiện các nghị quyết, quy định của Tỉnh ủy về công tác cán bộ, các
cấp ủy, ban, ngành, đoàn thể đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp
nhằm làm rõ những nguyên nhân yếu kém trong hệ thống chính trị các cấp;
đồng thời, củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
là cán bộ dân tộc thiểu số.
Thực hiện các quy định về đánh giá, tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở, về phân công, phân cấp quản lý cán bộ:
Tỉnh ủy chỉ đạo rà soát, đánh giá, sắp xếp, quy hoạch đội ngũ cán
bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tạo điều kiện và môi
trường để rèn luyện cán bộ trẻ có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt
gắn với việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp, thực hiện
nghiêm túc việc đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,
63
miễn nhiệm, điều động luân chuyển cán bộ, tập trung làm tốt việc
kiện toàn cán bộ chủ chốt các cấp [9, tr.317].
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết số
28/NQ/TU ngày 15/11/1999 của Tỉnh ủy, tất cả các huyện, thị ủy, đảng ủy
trực thuộc, các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, các ban Đảng tỉnh ủy đã rà
soát xây dựng và thực hiện đề án chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp lại bộ
máy, cán bộ.
Việc giới thiệu bầu các chức vụ trong các cơ quan dân cử, các chức vụ
chủ chốt cấp ủy, chính quyền, đoàn thể được chỉ đạo chặt chẽ, đảm bảo bầu
đúng những đồng chí có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực điều hành và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, tiếp nhận, phân công công tác đối với sinh viên tốt
nghiệp cao đẳng, đại học hệ chính quy để tạo nguồn bổ sung cán bộ. Ưu tiên
tạo nguồn cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và nguồn là người
dân tộc thiểu số.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng: "Dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ
cơ sở, chú ý kiện toàn và tăng cường đội ngũ cán bộ cốt cán" [39, tr.148] và
để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,
Tỉnh ủy chủ trương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã, phường
thị trấn (cán bộ đương chức và cán bộ kế cận) một cách toàn diện cả về
chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống... Tại kỳ họp thứ
51 (khóa XII) tháng 3/1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nhất trí mở lớp Đại
học nông lâm tại chức để đào tạo cán bộ xã. Kỳ họp 54, khóa XII tháng
6/1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giao việc quản lý, tổ chức lớp học cho
Trường Chính trị tỉnh. Ngày 5/10/1999, lớp Đại học Nông nghiệp tại chức khóa I
(1999 - 2003) được khai giảng với 251 học viên trúng tuyển Đại học hệ tại chức
năm 1999 theo Quyết định số 579/QĐ-ĐHI ngày 2/10/1999 của Hiệu trưởng
trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.
64
Nội dung đào tạo bao gồm:
Đào tạo chuyên môn Đại học Nông nghiệp do Trường Đại học Nông
nghiệp I - Hà Nội đảm nhiệm.
Đào tạo trung cấp lý luận chính trị do Trường Chính trị tỉnh đảm nhiệm.
Bồi dưỡng kiến thức ngân sách xã, xây dựng kết cấu hạ tầng... do các
cơ sở chuyên môn đảm nhiệm.
Rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống... phấn đấu trở thành đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đối với học viên ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, con em thương binh,
liệt sĩ mất sức lao động từ 61% trở lên, học viên là dân tộc thiểu số được
hưởng phụ cấp 80.000đ/tháng/người.
Đây là mô hình đào tạo đúng đắn, sáng tạo của Tỉnh Tuyên Quang
nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có hệ thống từ tỉnh đến cơ sở.
Một số kết quả
Từ năm 1991 đến năm 1995, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo các
cấp ủy, các sở, ban, ngành hoàn thành một số nhiệm vụ trọng tâm về công
tác tổ chức cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba (khóa VII):
Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền từ tỉnh
đến cơ sở, củng cố tổ chức thôn bản, tổ dân phố, hợp tác xã nông - lâm
nghiệp gắn với củng cố chi bộ đảng và các tổ chức đoàn thể nhân dân theo
địa bàn dân cư. Thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng ở các cơ quan cấp
tỉnh; thành lập Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các cơ quan nhà nước và
đoàn thể nhân dân... chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng và thực hiện quy chế
làm việc và quy định trách nhiệm cụ thể của các cấp ủy, ủy viên cấp ủy.
Làm tốt công tác bồi dưỡng cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể
từ tỉnh đến cơ sở. Riêng năm 1995, đã có 4.507 đồng chí được
65
cử đi học bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ quản lý và công
tác chuyên môn. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị được nâng lên [9, tr.211].
Công tác tổ chức và công tác cán bộ tiếp tục đổi mới, luôn đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản
lý và đồng thời phát huy được vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành. Đã
bỏ mô hình chi bộ hợp tác xã, thành lập chi bộ thôn bản. "Thực hiện phân cấp
quản lý cán bộ, chỉ đạo quy hoạch cán bộ đến năm 2000; gắn quy hoạch với
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ; quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ
trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số. Bước đầu tạo ra những chuyển biến quan trọng về
công tác cán bộ của tỉnh" [9, tr.212].
Từ năm 1991 đến năm 1975, mặc dù đã có chủ trương bố trí, sử dụng
cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị của tỉnh, quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Nhưng công tác này chưa thực sự
hiệu quả, chưa có hệ thống, chiến lược quan tâm một cách đúng mức.
Trong những năm (1996 - 2000), công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số được Đảng bộ tỉnh quan tâm chỉ đạo xây dựng một cách có
hệ thống hơn trên tất cả các khâu của công tác cán bộ và bước đầu đạt được
một số kết quả.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, công
tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn và lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên
đặc biệt là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được quan tâm. Trong 5 năm 1992
- 1996, tại trường Chính trị tỉnh, đã đào tạo, bồi dưỡng 2.243 học viên, trong
đó đào tạo trung cấp lý luận chính trị cho 1.069 học viên, bồi dưỡng cán bộ
đoàn thể 714 học viên, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở 460 học viên,
trong đó, cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 37,5%. Ngoài ra, trường còn phối hợp
với các ngành, huyện, thị bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân 2 cấp cho
66
3450 học viên đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 43,2%. Bồi dưỡng
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng, Nghị quyết số 09 của Bộ
Chính trị cho cán bộ đảng viên.
Từ năm 1996, thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ một cách
toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, quan tâm hơn nữa đến đào tạo cán bộ
chủ chốt của Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh từ cơ sở, trong đó, chú ý đến
cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, trường Chính trị tỉnh đã mở các
lớp Trung cấp lý luận chính trị, khóa 4 (học ngoài giờ hành chính) với 123
học viên, trong đó cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 44%; lớp bồi dưỡng chương
trình trung cấp lý luận chính trị tại chức cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn với số lượng 132 học viên; đào tạo trung cấp lý luận chính trị hệ tập trung
khóa 14 với 77 học viên, trong đó dân tộc thiểu số là 32 học viên. Khóa học
vừa học Trung cấp lý luận chính trị, vừa đào tạo văn hóa cấp III cho học viên.
Với việc đa dạng hóa các hình thức đào tạo, nhà trường đã tạo điều kiện cho
cán bộ, đảng viên đang công tác vừa học, vừa làm.
Năm 1998, Trường tiếp tục mở 1 lớp khóa 5 đào tạo hình thức ngoài giờ với
120 học viên; 1 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn khóa 9 với 130 học viên, trong đó cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 48%.
Sang năm 1999, Tỉnh ủy chủ trương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cơ sở xã, phường, thị trấn (cán bộ đương chức và cán bộ kế cận) một cách
toàn diện cả về chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống...
Đồng thời, đã chỉ đạo cho Trường Chính trị tỉnh kết hợp với Trường Đại học
Nông nghiệp I - Hà Nội mở các lớp đại học tại chức với 215 học viên, trong
đó dân tộc thiểu số chiếm 51,2% được chia thành 3 lớp: trồng trọt 1: 87 học
viên; trồng trọt 2: 77 học viên; trồng trọt 3: 87 học viên.
Cũng trong năm 1999, Trường Chính trị tỉnh đã mở được 6 lớp trung
cấp lý luận chính trị với 583 học viên, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 53%; 2
67
lớp bồi dưỡng chuyên viên với 187 học viên, trong đó dân tộc thiểu số chiếm
32%; phối hợp với các huyện thị, Ban Tổ chức chính quyền mở 4 lớp bồi
dưỡng cán bộ thôn bản 300 học viên trong đó dân tộc thiểu số chiếm 67%.
Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói
chung của Tỉnh ủy Tuyên Quang đã góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo được toàn diện hơn.
Công tác luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí và sử dụng cán bộ dân
tộc thiểu số
Năm 1996, tỉnh tiến hành luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, điều động 39
cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, trong đó có dân tộc thiểu
số là 21 đồng chí. Năm 1998, đã bầu bổ sung 2 ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy,
chỉ định bổ sung 2 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; 16 ủy viên Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc, trong đó dân tộc thiểu số
có 9 đồng chí. Bầu bổ sung 11 ủy viên Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư huyện,
thị ủy, đảng ủy trực thuộc, trong đó dân tộc thiểu số 5 đồng chí; rà soát sắp xếp lại
cán bộ ở 11 cơ quan; chỉ định 23 ủy viên đảng đoàn, ban cán bộ Đảng.
Năm 1999, Tỉnh ủy ra quyết định thành lập và kiện toàn Ban cán sự
Đảng ở 7 cơ quan cấp tỉnh; chỉ định bổ sung 13 ủy viên ban cán sự Đảng, bầu
bổ sung 2 Bí thư huyện, thị ủy; 2 Phó bí thư huyện ủy; quyết định bổ nhiệm,
luân chuyển 12 cán bộ cấp cơ sở, trong đó dân tộc thiểu số 8 đồng chí đạt
66,6%; rà soát và bổ nhiệm lại 23 giám đốc các sở, ban, ngành trực thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, trong đó dân tộc thiểu số 9 đồng chí chiếm 39%.
Năm 2000, Tỉnh ủy kiểm tra đánh giá thực trạng tình hình của 57 tổ
chức cơ sở đảng ở các loại hình, bổ nhiệm lại và bổ nhiệm mới 72 Bí thư
và Ủy viên Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, trong đó có 29 đồng chí là dân
tộc thiểu số, đạt 40,27%; bố trí sắp xếp lại 42 cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn
vị tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh, trong
đó có 12 đồng chí là dân tộc thiểu số, đạt 28,57%; chỉ định bổ sung 2 ủy
68
viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, 3 ủy viên Ban Thường vụ, 2 Phó Bí
thư huyện ủy, 1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, 2 Phó bí thư tỉnh
đoàn, trong đó có 5 đồng chí là cán bộ dân tộc thiểu số đạt 50%.
Với nhiều cố gắng, nhìn chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang đã được tăng cường một bước cả về số lượng và không
ngừng nâng cao chất lượng. Ở tất cả các cấp, cán bộ dân tộc thiểu số đã đạt
trên dưới 50% tổng số cán bộ trong hệ thống chính trị của Tỉnh. Hầu hết
các chức danh chủ chốt đều có cán bộ người dân tộc thiểu số.
Về chế độ chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số
Đối với các lớp đào tạo chuyên môn kết hợp đào tạo lý luận chính trị tại
tỉnh, Tỉnh ủy chủ trương: Ưu tiên cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Chế độ của học viên theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch
chủ trương của tỉnh được thực hiện theo Thông báo số 90-TB/TU của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy ngày 11/12/1999 cụ thể:
- Đối với cán bộ đương chức hưởng nguyên lương.
- Đối với cán bộ xã, thị trấn hưởng sinh hoạt phí nằm trong 19 định suất
giữ nguyên mức lương trợ cấp định mức ở xã... Nếu trường hợp định suất ở
xã thấp hơn 150.000đ/tháng thì được hưởng trợ cấp 150.000đ/tháng/người.
- Đối với cán bộ đương chức ở cơ sở không nằm trong 19 định suất
được hưởng trợ cấp 150.000đ/người/tháng.
Kinh phí đào tạo, điện, nước, công tác phục vụ được ngân sách tỉnh cấp
cho Trường chính trị để thực hiện.
Đây là một mô hình đào tạo với chế độ chính sách đúng đắn, sáng tạo
của Tỉnh, nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số xã, phường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Đối với các cấp đào tạo hệ tập trung tại Trung ương và các trường đại
học ngoài tỉnh: Học viên được hỗ trợ các chi phí tàu xe, mua tài liệu, tiền đi
thực tế và được hưởng lương theo quy định hiện hành.
69
Tiểu kết chương 2
Tuyên Quang, một tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi quần tụ của nhiều dân
tộc cùng sinh sống, đã tạo nên một vùng với đa sắc thái văn hóa và tập tục.
Bên cạnh đó, Tuyên Quang vẫn là một tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn, kinh tế
chậm phát triển. Đặc điểm này đã gây khó khăn, trở ngại trong xây dựng đội ngũ
cán bộ nói chung, trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
Tuy nhiên, Tuyên Quang cũng có những thuận lợi là nơi giàu truyền thống
yêu nước, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái giữa các dân tộc. Mỗi dân tộc nơi
đây cũng đang từng ngày nỗ lực phấn đấu khẳng định mình. Phát huy được vai trò
của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, trên tất cả mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng là nhân tố mang lại sự ổn định, phát triển bền
vững của vùng đất "trấn biên" của Tổ quốc.
Chịu ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và
tình hình quốc tế, cũng như thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số trước năm 1991 còn yếu kém, nhưng Đảng bộ Tuyên Quang từ khi
tách tỉnh (1991) đã nhận thấy vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong
thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Đảng bộ đã chủ trương
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng tình hình mới ở địa phương.
Căn cứ vào các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn
đề dân tộc và cán bộ dân tộc; căn cứ vào tình hình thực tiễn cũng như yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng mới của tỉnh, Đảng bộ Tuyên Quang đã lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị của tỉnh.
Công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang cũng có nhiều thuận lợi là sự nhất trí cao của các cấp uỷ
đảng, ban ngành, các tổ chức đoàn thể, đồng bào dân tộc trong tỉnh cũng như
bản thân các cán bộ dân tộc thiểu số nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn về
kinh tế, xã hội. Kinh nghiệm lãnh đạo trong xây dựng đội ngũ cán bộ trong xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số còn lúng túng, việc học hỏi kinh nghiệm
70
thực tế các tỉnh lân cận chưa có nên giai đoạn 1991 đến năm 2000, Đảng bộ
tỉnh chủ yếu củng cố đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; bố trí sử dụng cán bộ dân
tộc thiểu số hiện có; tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số thông qua chế độ cử
tuyển; thu hút những quần chúng ưu tú là người dân tộc thiểu số vào làm việc
trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Sau đó, cử đi học bồi dưỡng, đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Về cơ bản, đến năm 2000, trong hệ thống
chính trị các cấp ở Tuyên Quang đã có đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được bố
trí, sử dụng trong công tác chuyên môn và công tác lãnh đạo quản lý, bước đầu
đáp ứng được yêu cầu tình hình nhiệm vụ cách mạng mới của địa phương.
Tuy vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ và so với cán bộ người Kinh thì đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế về trình độ văn hóa và trình độ
chuyên môn; về cơ cấu theo công việc vẫn chủ yếu công tác đảng, đoàn thể cán
bộ người dân tộc thiểu số làm công tác quản lý nhà nước và cán bộ chuyên môn
còn ít; trong nội bộ cơ cấu theo dân tộc vẫn mất cân đối. Một số dân tộc như
H'Mông, La Chí, Pu Péo v.v... có rất ít cán bộ.
Mặc dù vậy, kết quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang những năm 1991 - 2000 đã tạo tiền đề để Đảng bộ
tỉnh chỉ đạo thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số trong giai đoạn tiếp theo.
71
CHƯƠNG 3
ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN
TỘC THIỂU SỐ TRONG THỜI KỲ MỚI
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN trong xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, đặt ra
cho Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng được đội ngũ cán bộ nói chung,
cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo
đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực
tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Với
quan điểm xuyên suốt, nhất quán vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn
đề chiến lược cơ bản lâu dài; đồng thời, cũng là vấn đề cấp bách của cách
mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Trong thực hiện chính sách dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và cho rằng, chính đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, là lực lượng nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo đưa đường
lối đổi mới, của Đảng đi vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc; đồng thời, là
lực lượng trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và cùng đồng bào các dân tộc thiểu số xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, góp phần tích cực vào thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trong thời kỳ này được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại
72
biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, (2003) với những nội dung cụ thể sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội
Với quan điểm xuyên suốt, nhất quán luôn xác định vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề có vị trí chiến lược quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước, nhất là công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Trong Văn kiện Hội nghị lần
thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng khẳng định: Nâng cao
nhận thức trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp các ngành, và toàn thể
xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới. Xem việc
quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường
xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận,
đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.
Để thực hiện tốt chính sách dân tộc, đòi hỏi Đảng phải xây dựng
được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số về số lượng và chất lượng đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới. Chính vì vậy, Đảng đã
yêu cầu các cấp, các ngành và toàn thể xã hội phải nâng cao nhận thức về
vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số, trên cơ sở đó đề cao trách nhiệm, tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của cấp mình, ngành
mình và trong toàn Đảng.
Hai là, thực hiện tốt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời, xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ giai đoạn cách mạng mới
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
73
cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như vậy, những người
được coi là cán bộ của Đảng và Nhà nước là những đại biểu tiên tiến nhất
trong phong trào cách mạng của quần chúng. Họ tiên tiến về lập trường
chính trị tư tưởng, hiểu biết về các nhiệm vụ xã hội một cách khoa học, có
ý thức làm chủ xã hội, làm chủ công việc và có phẩm chất cách mạng trong
sáng, đạo đức chí công vô tư, có lối sống trong sạch và lành mạnh,... mỗi
cán bộ trước hết là những cán bộ lãnh đạo và quản lý, phải là một tấm
gương cho quần chúng noi theo về lòng trung thành với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lý tưởng XHCN về tính tổ chức và tính
kỷ luật nghiêm ngặt nhất, về lòng nhiệt tình cách mạng, sôi nổi, say sưa
trong lao động, học tập, công tác và chiến đấu, về sự sáng suốt và ý chí
kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh phấn đấu cho thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ lãnh đạo và quản lý ở các
cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống,
có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
trọng dụng những người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi
với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và
tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ, và cán bộ dân tộc thiểu số, chuyên gia
trên các lĩnh vực.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương IX của
Đảng tiếp tục khẳng định: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống cơ sở
chính trị trong sạch vững mạnh; nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện chính sách dân tộc.
74
Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
cán bộ là người dân tộc thiểu số
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, vấn đề quy hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan
tâm. Đồng thời, đây cũng là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong thực hiện chính sách dân tộc nói chung và công
tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
nói riêng. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của quá trình thực hiện chính sách dân tộc, trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Làm
tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các
dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực. Nghị quyết còn nhấn mạnh:
Phát triển nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, tiếp tục được Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy,
BCHTW Đảng, Khóa IX của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện tốt công tác quy
hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho
từng vùng từng dân tộc. Trong những năm trước mắt cần tăng cường lực
lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc nhất
là ở các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng; coi trọng việc
bồi dưỡng đào tạo để bổ sung cán bộ cơ sở từ các đối tượng là thanh niên
sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển
dụng bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở các
vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm, ở vùng
núi, vùng cao.
75
Bốn là, luân chuyển và thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, hậu
phương gia đình cán bộ dân tộc thiểu số
Luân chuyển cán bộ, là một chủ trương rất quan trọng của Đảng, bảo
đảm cho đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị và trong các lực
lượng vũ trang được đào tạo cơ bản, toàn diện và bố trí sử dụng đúng sở
trường; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch,
được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước, tăng
cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng trong
công tác cán bộ, khép kín trong từng ngành, từng địa phương và từng đơn vị.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng khẳng định: Thực hiện
tốt chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các
ngành và địa phương; cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên giữ một chức vụ
lãnh đạo từ một đơn vị không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp; khắc phục tư tưởng
cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương, ngày 25/11/2002 Bộ
Chính trị Trung ương Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 11/NQ-TW về luân
chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý.
Đối với việc luân chuyển cán bộ dân tộc và thực hiện chính sách đối
với cán bộ dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX của Đảng chỉ rõ: Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn dân tộc miền núi; gắn tăng trưởng
kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc,
quan tâm phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số. Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh: Thực hiện tốt chính sách
ưu tiên cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học
và cao đẳng, mở thêm trường dự bị đại học dân tộc ở miền Trung, Tây
Nguyên. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí
thức là người dân tộc thiểu số.
76
Những quan điểm cơ bản trên của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới, đã khắc phục được những bất cập, hạn chế
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những năm
1996 - 2000, là những định hướng quan trọng để Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
vận dụng đề ra những chủ trương, biện pháp lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
thời kỳ mới.
3.2. CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG
TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ
NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số; kế thừa những kết quả về xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc từ năm 1996 đến năm 2000, bước sang thế kỷ XXI, Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang đã chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đẩy mạnh
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được thể
hiện trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ
XIII, nhiệm kỳ 2001 - 2005 từ ngày 14-17/12/2001): "Đổi mới đồng bộ các
khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Thực hiện kế hoạch, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, đảm bảo hợp lý về cơ cấu, quan tâm đào tạo và sử
dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ khoa học -
công nghệ, cán bộ ở cơ sở". Cơ cấu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII
với tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số là 44,4%; 5/11 đồng chí trong Ban
Thường vụ Tỉnh ủy là dân tộc thiểu số.
Chủ trương đổi mới toàn diện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số của tỉnh Tuyên Quang cũng được thể hiện trong Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Xuất phát từ
77
kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2001 - 2005 là
"không ngừng đổi mới tư duy, xây dựng phong cách lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở về phẩm
chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ lý luận chính trị" [7, tr.75], Đại hội đã đề
ra nhiệm vụ cho công tác cán bộ nhiệm kỳ tới là "Thực hiện đúng chế độ chính
sách đối với cán bộ; khuyến khích, thu hút nhân tài, cán bộ giỏi về công tác tại
địa phương, quan tâm đến công tác cán bộ người dân tộc thiểu số". Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV có 250 đại biểu, "trong đó đại biểu là người dân tộc
thiểu số chiếm 41,2% [9, tr.399]. Đại hội bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành
Đảng bộ Tỉnh, trong đó có 16 đồng chí là người dân tộc thiểu số; 6/13 đồng chí
trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy là người dân tộc thiểu số.
Về quan điểm chỉ đạo:
Một là: Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng số
cán bộ hiện có với thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng mới đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số về số lượng và nâng cao
chất lượng, cơ cấu thành phần của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Hai là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác ở địa phương trong
tình hình mới.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có cơ cấu hợp lý, tăng
tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều
dân tộc cùng sinh sống nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu
trong đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trên được thể hiện xuyên suốt trong quá
trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang. Trong đó, quan điểm mới là: Tập trung đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ kết hợp bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hợp lý,
không chỉ chú trọng đến việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ,
78
dân tộc thiểu số mà còn tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số cả về chất lượng và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác của địa
phương trong tình hình mới.
Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức trong xây
dựng cán bộ dân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có
cơ cấu cân đối, hợp lý giữa thành phần dân tộc, xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số đáp ứng các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc sinh
sống đan xen.
Về mục tiêu:
Đảng bộ tỉnh xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có
số lượng phù hợp và chất lượng cao, cân đối, hợp lý về thành phần, cơ cấu
dân tộc trong đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số cho vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc sống
đan xen.
Ngoài việc nâng tăng tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số, chú trọng
đến nâng cao trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Phấn đấu cán bộ dân
tộc thiểu số phải tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên và được đào tạo cơ
bản và chuyên môn và lý luận chính trị 100%.
Về giải pháp:
Một là: Thực hiện tốt công tác quản lý, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số
Đây là khâu then chốt nhằm đảm bảo cho đội ngũ cán bộ phát huy tốt
khả năng và sở trường của họ vào thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động
đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
Hai là: Coi trọng công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo cán bộ
Đây là khâu quan trọng, quyết định đến việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng nói
chung, của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Làm tốt công tác này sẽ
79
đảm bảo cho Đảng bộ xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về
số lượng, đảm bảo về chất lượng, cân đối, hợp lý về cơ cấu thành phần dân
tộc. Đồng thời, thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn bổ sung số lượng cho
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và phục vụ cho công tác đào tạo cán bộ dân
tộc thiểu số.
Ba là: Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, dân tộc thiểu số trong các
cơ sở liên kết với các trường cao đẳng, đại học mở tại tỉnh
Chất lượng đào tạo quyết định chất lượng, hiệu quả công tác và mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số
của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Để xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới, Đảng bộ tỉnh giao cho Trường chính trị tỉnh Tuyên
Quang phối hợp với các trường cao đẳng, đại học liên kết đào tạo, nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số đi học và bộ phận tạo nguồn cho đội ngũ này.
Bốn là: Tạo điều kiện và thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán
bộ dân tộc thiểu số
Đảng bộ tỉnh đã quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan
điểm của Đảng vào thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số
như ưu tiên cán bộ dân tộc thiểu số trong bồi dưỡng và đào tạo các lớp vừa học
vừa làm ở tỉnh.
So với giai đoạn 1991 - 2000, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã nhận thức
sâu sắc hơn về vai trò của công tác cán bộ dân tộc thiểu số; quan tâm đầy đủ
các khâu trong quy trình công tác cán bộ, từ xác định tiêu chuẩn tạo nguồn
đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và cả chế độ chính sách.
Trong đó, tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ ở các chuyên
80
ngành đào tạo liên kết với các trường cao đẳng, đại học, đào tạo có hệ thống
từ cấp tỉnh đến cấp xã nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cân
đối trong địa phương; chú trọng tạo nguồn và tuyển dụng cán bộ thuộc các
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
3.3. ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
3.3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ về công tác cán bộ
Các cấp ủy, tổ chức đảng đã quán triệt sâu sắc nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất cao trong thực hiện
các khâu của công tác cán bộ. Đi đôi với thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ Đảng bộ tỉnh đã phát huy được vai trò đứng đầu các tổ chức trong
hệ thống chính trị trong việc tiến cử cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm
quyền của cấp ủy quyết định.
Căn cứ vào quy chế, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy, Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã chủ động rà soát, bổ sung, hoàn thiện Quy chế hoạt động của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy qua các nhiệm kỳ; Quy định về phân cấp quản lý
cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định về phân
công Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách huyện ủy, Thành ủy, Đảng
ủy trực thuộc Tỉnh ủy và Tỉnh ủy viên theo dõi xã, phường, thị trấn; Quy
định về lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể; Quy định về lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
đối với chính quyền, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án... Các quy chế, quy
định trước khi ban hành được gửi xin ý kiến các cấp ủy đảng, Đảng đoàn,
Ban cán sự đảng và các cơ quan có liên quan để phát huy dân chủ, tập
trung trí tuệ cao, tạo sự đồng thuận và đảm bảo tính khả thi, hiệu lực, hiệu
quả văn bản. Các quy chế, quy định, quy trình đã góp phần quan trọng đưa
công tác cán bộ của Đảng bộ vào nề nếp, đúng nguyên tắc. Quan trọng hơn,
81
đã khẳng định rõ hơn vai trò, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, công tác cán bộ;
giúp cho công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số nói riêng của Đảng bộ Tuyên Quang có bước chuyển biến mới,
mạnh mẽ và toàn diện.
Mở rộng dân chủ, tôn trọng ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong công tác cán bộ, đặc biệt là trong công tác nhân sự Đại
hội đảng bộ các cấp và hiệp thương giới thiệu nhân sự bầu cử đại biểu quốc
hội cho các nhiệm kỳ.
3.3.2. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo đổi mới trong từng khâu
của quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
* Về đánh giá cán bộ
Xác định rõ tầm quan trọng của công tác đánh giá cán bộ, sau khi có
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII),
tháng 6/1997 Quy định số 50-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã có Quyết định số 1654-QĐ/TƯ ngày 14/12/2003 ban hành Quy chế về
nội dung kiểm điểm, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện;
quy định cụ thể phương pháp, quy trình thực hiện, thẩm quyền trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các
cơ quan ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đối với công tác đánh giá cán
bộ. Trong quá trình thực hiện Ban Thường vụ Tỉnh ủy kịp thời có các văn bản
chỉ đạo, Ban Tổ chức Tỉnh ủy có các hướng dẫn cụ thể. Với cán bộ dân tộc
thiểu số, trong đánh giá cán bộ đặc biệt coi trọng hiệu quả công tác, sự gắn bó
mật thiết với đồng bào, với địa bàn.
Nhiệm kỳ 2001 - 2005, số cán bộ, công chức, viên chức được kiểm
điểm, nhận xét, đánh giá hằng năm trong các cơ quan đảng, đoàn thể, chính
quyền từ tỉnh đến cơ sở đạt 90%; số cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
82
chiếm 56,1%, cán bộ hoàn thành nhiệm vụ chiếm 42,3%, cán bộ chưa hoàn
thành nhiệm vụ chiếm 1,6%. Cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý
được đánh giá hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ 74,4%; hoàn thành
chức trách nhiệm vụ 25,3%; không hoàn thành nhiệm vụ 0,3%.
Nhiệm kỳ 2005 - 2010, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức được kiểm
điểm, nhận xét, đánh giá hàng năm trong các cơ quan đảng, chính quyền,
đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đạt trên 99%; trong đó số cán bộ hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ chiếm từ 46% đến 53%, cán bộ hoàn thành nhiệm vụ chiếm
45% đến 53%, cán bộ chưa hoàn thành nhiệm vụ chiếm từ 1,3% đến 1,6%.
Trong đó, cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý được đánh giá hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, chiếm 85,4%; hoàn thành nhiệm vụ chiếm 14,6%;
Công tác đánh giá cán bộ đã từng bước được hoàn thiện về quy trình,
nội dung, phương pháp đánh giá để chỉ đạo thực hiện thống nhất trên phạm
vi toàn tỉnh. Việc đánh giá cán bộ đã được các cấp ủy đảng, lãnh đạo các
cơ quan, đơn vị duy trì có nền nếp hằng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ
bầu cử, trước khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử; góp phần quan
trọng vào công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng các cấp và phân công,
bố trí cán bộ; đặc biệt là nửa đầu nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác đánh giá
cán bộ đã được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình và bài bản hơn, bảo đảm
dân chủ, khách quan; cơ bản lấy hiệu quả công tác làm thước đo phẩm chất
và năng lực của cán bộ, phát huy được tinh thần tự phê bình và phê bình
của từng cá nhân và tập thể.
* Về công tác quy hoạch cán bộ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác
cán bộ. Để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, phải thực hiện đồng bộ
các khâu trong công tác cán bộ như: xây dựng tiêu chuẩn, đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển, đào tạo bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng và chính sách
83
cán bộ. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đã chỉ rõ: Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ,
bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp
ứng của nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Mục đích của quy hoạch cán bộ là tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược
trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, đảm bảo tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững
vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị.
Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào, làm căn cứ để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành
thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và
thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Trong quy hoạch cán bộ, phải giữ vững nguyên tắc công tác cán bộ của
Đảng đó là:
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý phải đặt dưới sự lãnh
đạo tập trung, thống nhất của các cấp ủy Đảng. Đồng thời, có sự phân cấp
hợp lý về thẩm quyền quy hoạch cán bộ, phù hợp với phân cấp quản lý, sử
dụng cán bộ.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác quy hoạch cán
bộ; Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, bảo đảm vai trò lãnh
đạo tập trung của cấp ủy đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu; đồng thời, mở rộng dân chủ
trong việc phát hiện nguồn, phát hiện tài năng.
84
Quy hoạch cán bộ phải thực sự gắn kết với khâu khác như nhận xét,
đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển sắp xếp, bố trí,
sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề
cho việc bố trí cán bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán
bộ là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước
mắt và lâu dài.
Thực hiện quy hoạch "động" và "mở": một chức danh có thể quy hoạch
nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải
luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi
quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy
hoạch những nhân tố mới triển vọng.
Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới, cấp trên chỉ
đạo, hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp
dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm
cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy
hoạch cấp dưới.
Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn
cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy,
phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu, vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn
kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tránh tư tưởng cơ
hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực
hiện quy hoạch.
Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ, cơ quan có thẩm
quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng thời điểm, mức
độ và cách thức công khai quy hoạch.
Căn cứ để đưa cán bộ vào quy hoạch là tiêu chuẩn chung và các tiêu
chuẩn của từng loại cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban
85
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về cán bộ phải "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư".
Quy trình xây dựng quy hoạch phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý: Bố
trí kết hợp giữa 3 độ tuổi, thực hiện trẻ hóa, độ tuổi trung bình khóa sau thấp
hơn khóa trước; tỉ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công nông thích
đáng, ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ hợp lý cán
bộ dân tộc thiểu số;
Căn cứ vào nội dung, mục đích và nguyên tắc quy hoạch cán bộ của
Đảng, Đảng bộ đặc biệt coi trọng công tác cán bộ dân tộc thiểu số ngay từ
khâu quy hoạch, tạo nguồn cán bộ. Đảng bộ Tuyên Quang đã xây dựng
chương trình quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số, đặc
biệt là quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VIII), Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Quyết định số 1655-QĐ/TƯ ngày
14/12/2003 về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh; thực hiện Nghị
quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 47-
HD/BTCTW ngày 24/5/2005 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Kế hoạch
số 29-KH/TU ngày 07/9/2005 về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW và
Hướng dẫn số 47-HD/BTCTW; đồng thời, chỉ đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy ban
hành Hướng dẫn số 24-HD/TC ngày 07/9/2005 về công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Công tác quy hoạch cán bộ trong tỉnh 10 năm, nhất là từ khi có Nghị
quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị đã có nhiều đổi mới. Cùng với đánh giá
cán bộ, quy hoạch cán bộ là khâu đột phá góp phần quan trọng đưa công tác
cán bộ đi vào nền nếp và chặt chẽ về quy trình. Thực hiện công tác quy hoạch
86
cán bộ các cấp, các ngành đã tiến hành khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ, lựa
chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn, đảm bảo về số lượng, nâng cao về chất lượng để
đưa vào quy hoạch; chú trọng quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
người dân tộc thiểu số.
Hàng năm, thực hiện việc rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ;
xem xét đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, giới thiệu
bổ sung những cán bộ có trình độ, năng lực và triển vọng phát triển.
Thực hiện Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 21/10/2008 của Ban
Tổ chức Trung ương về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Hướng dẫn số 33-
HD/BTCTW ngày 25/9/2009 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác
nhân sự cấp ủy tại đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã bám sát tiêu chuẩn
cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VIII) Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, để tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng quy hoạch
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh gắn với chuẩn bị nhân sự Đại hội
Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; đồng thời, chỉ đạo các Huyện ủy, Thành
ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, các Đảng đoàn, Ban cán sự đảng, các cơ
quan, đơn vị cấp tỉnh căn cứ các tiêu chuẩn chung, chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan, đơn vị, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương để xây dựng
tiêu chuẩn cụ thể cho các chức danh cán bộ cấp mình quản lý, sử dụng.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy rà soát, đánh giá chung đội ngũ cán bộ về
phẩm chất, năng lực, trình độ, tín nhiệm, sức khỏe và hiệu quả công việc, số
lượng, cơ cấu, nhất là cơ cấu về trình độ, ngành nghề, độ tuổi; cụ thể hóa tiêu
chuẩn cán bộ; xác định phương hướng, số lượng, cơ cấu cấp ủy khóa mới, các
chức danh chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền để đưa vào quy hoạch.
87
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành tiến hành khảo
sát, đánh giá đội ngũ cán bộ, lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn đưa vào quy
hoạch của từng cấp, từng ngành, đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình. Thực hiện
đồng bộ quy hoạch cán bộ ở cả 3 cấp, đảm bảo yêu cầu về số lượng, nâng cao
về chất lượng với phương châm "động" và "mở"', chú trọng quy hoạch đội
ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số làm nguồn bổ sung
quy hoạch cấp ủy tỉnh.
Xác nhận quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý của
các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; các ban đảng và Văn phòng
Tỉnh ủy; các sở, ban, ngành và các cơ quan cấp tỉnh; các doanh nghiệp nhà
nước của Trung ương và doanh nghiệp địa phương trên địa bàn.
Xây dựng phương án quy hoạch BCH Đảng bộ tỉnh và các chức danh
chủ chốt, gắn với công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã đảm bảo tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu (cán bộ người dân tộc thiểu số)
theo Chỉ thị 37-CT/TW ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị và hướng dẫn của
Ban tổ chức Trung ương.
Kết quả quy hoạch (tính đến thời điểm 31/12/2010) như sau:
Quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
các chức danh chủ chốt của tỉnh (Phụ lục 1, 2, 3).
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có 116 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 21
đồng chí, chiếm 18,1%; cán bộ nữ 25 đồng chí, chiếm 21,55%; cán bộ dân tộc
thiểu số 34 đồng chí, chiếm 29,31%; trình độ chuyên môn trên đại học chiếm
12,93%, đại học chiếm 87,06%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân
chiếm 97,41%, trung cấp chiếm 2,59%.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy 23 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 01 đồng chí,
chiếm 4,34%; cán bộ nữ 04 đồng chí, chiếm 19,04%; cán bộ dân tộc thiểu số
10 đồng chí, chiếm 47,62%.
88
Các chức danh chủ chốt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh:
Bí thư Tỉnh ủy 02 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 02 đồng
chí, chiếm 100%.
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 01
đồng chí, chiếm 14,29%; cán bộ dân tộc thiểu số 03 đồng chí, chiếm 42,86%.
Chủ tịch HĐND tỉnh 04 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 03
đồng chí, chiếm 75%.
Phó Chủ tịch HĐND tỉnh 03 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu
số 01 đồng chí, chiếm 33,33%.
Chủ tịch UBND tỉnh 05 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 03
đồng chí, chiếm 66,67%.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu
số 02 đồng chí, chiếm 28,57%.
Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các sở, ban ngành, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể tỉnh (Phụ lục 1).
Cấp trưởng 161 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 25 đồng chí, chiếm
15,53%; cán bộ dân tộc thiểu số 41 đồng chí, chiếm 25,46%.
Cấp phó 325 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 66 đồng chí, chiếm
20,31%; cán bộ dân tộc thiểu số 61 đồng chí, chiếm 19,07%.
Trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 11,73%, đại học chiếm
88,27%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 80,25%, trung cấp
chiếm 18,11%.
Quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh chủ chốt
các huyện, thành phố và đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy (Phụ lục 4, 5, 6).
Ban chấp hành 509 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 196 đồng chí, chiếm
38,5%; cán bộ nữ 98 đồng chí, chiếm 11,39%; cán bộ dân tộc thiểu số 162
đồng chí, chiếm 31,82%.
89
Trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 3,93%, đại học chiếm
89,59%, trung cấp chiếm 6,48%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân
chiếm 47,74%, trung cấp chiếm 50,49%.
Ban Thường vụ 221 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 36 đồng chí, chiếm
16,28%; cán bộ nữ 32 đồng chí, chiếm 14,5%; cán bộ dân tộc thiểu số 61
đồng chí, chiếm 27,6%.
Các chức danh chủ chốt :
Bí thư 38 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 02 đồng chí, chiếm 5,26%; cán bộ
nữ 02 đồng chí, chiếm 5,26%; cán bộ dân tộc thiểu số 11 đồng chí, chiếm 28,95%.
Phó Bí thư 69 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 07 đồng chí, chiếm
10,14%; cán bộ nữ 12 đồng chí, chiếm 17,4%; cán bộ dân tộc thiểu số 18
đồng chí, chiếm 26,09%.
Chủ tịch UBND 32 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 02 đồng chí, chiếm
6,25%; cán bộ dân tộc thiểu số 07 đồng chí, chiếm 21,88%.
Chủ tịch HĐND 27 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 03 đồng chí, chiếm
11,11%; cán bộ nữ 05 đồng chí, chiếm 18,52%; cán bộ dân tộc thiểu số 09
đồng chí, chiếm 33,33%.
Phó Chủ tịch HĐND 21 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 06 đồng chí,
chiếm 28,57%; cán bộ nữ 07 đồng chí, chiếm 33,33%; cán bộ dân tộc thiểu số
10 đồng chí, chiếm 47,62%.
Phó Chủ tịch UBND 66 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 12 đồng chí,
chiếm 18,18%; nữ 15 đồng chí, chiếm 27,72%; cán bộ dân tộc thiểu số 23
đồng chí, chiếm 34,85%.
Ban Chấp hành các chi, đảng bộ cơ sở quy hoạch 4.312 đồng chí; trong
đó: Cán bộ trẻ chiếm 24,47%; nữ chiếm 23,42%; dân tộc thiểu số chiếm
42,11%; trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 2,85%, đại học, cao đẳng
chiếm 73,34%, trung cấp chiếm 23,81%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử
nhân chiếm 16,04%, trung cấp chiếm 56,98%.
90
Quy hoạch A1 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010 - 2015 với
104 cán bộ. Trong đó, cán bộ đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch 35,6%,
cán bộ mới đưa vào quy hoạch 64,5%; cán bộ nữ 17,31%, cán bộ dân tộc ít
người chiếm 32,69%, cán bộ trẻ chiếm 12,5%; 100% cán bộ có trình độ
chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên, trong đó trên đại học chiếm 10,58%
(tăng 7,58% so với nhiệm kỳ trước); trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao
cấp 94,23% (tăng 21,6% so với nhiệm kỳ trước).
Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tỉnh, các huyện, thị ủy, đảng ủy trực
thuộc, các cấp ủy cơ sở đã xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý Al, rà soát, bổ sung quy hoạch A2 (nhiệm kỳ 2010 - 2015). Số cán bộ
đưa vào quy hoạch trưởng, phó các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh là 524
lượt người, trong đó đương chức 156 người (29,78%); mới đưa vào quy hoạch
368 người (70,22%); cán bộ có trình độ chuyên môn trên đại học 56 người
(10,69%), trình độ cao đẳng, đại học 467 người (89,12%), trình độ lý luận
chính trị cử nhân, cao cấp 356 người (67,93%). Số cán bộ trẻ đưa vào quy
hoạch 87 người (16,6%); cán bộ nữ 112 người (21,37%), cán bộ dân tộc ít
người 107 người (21,37%).
Số cán bộ đưa vào quy hoạch Ban Chấp hành Đàng bộ các huyện, thị,
Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2010 - 2015 với 455 cán bộ, trong đó
cán bộ đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch là 221 người (48,58%), cán bộ
mới đưa vào quy hoạch là 234 người (51,42%); cán bộ có trình độ chuyên
môn trên đại học 14 người (3,07%), trình độ cao đẳng, đại học 404 người
(88,79%), trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 217 người (47,69%). Số
cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch 65 người (14,28%); nữ 89 người (19,56%), dân
tộc ít người 152 người (33,4%).
Ban Thường vụ các huyện, thị, đảng ủy trực thuộc đã xác nhận quy
hoạch cấp ủy cơ sở nhiệm kỳ 2010 - 2015 với 4300 cán bộ: Trong đó cán bộ
đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch là 2.395 người (55,7%), cán bộ mới
91
đưa vào quy hoạch 1.905 người (44,3%); cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên 2.035 người (47,32%), lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 332 người
(7,72%). Số cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch 1.148 người (26,7%); nữ 988 người
(22,98%), dân tộc ít người 1.766 người (41,07%).
* Về công tác luân chuyển cán bộ
Nghị quyết số 11/NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ
luân chuyển cán bộ là: Tạo nên một trong những bước đột phá góp phần đổi
mới sâu sắc công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý; Tạo điều kiện
để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp
cán bộ trưởng thành nhanh hơn và toàn diện, vững vàng hơn.
Luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống tổ chức của hệ
thống chính trị nhằm:
Bảo đảm cơ cấu ngày càng phù hợp giữa cán bộ người Kinh và cán bộ
người dân tộc, giữa các dân tộc. Bên cạnh đó, tiếp tục chú ý cơ cấu theo giới,
lứa tuổi, nhất là theo lĩnh vực công tác.
Tăng cường thực hiện luân chuyển cán bộ: luân chuyển ngang, luân
chuyển dọc; luân chuyển cả cán bộ người Kinh và cán bộ người dân tộc, luân
chuyển cán bộ giữa các dân tộc, luân chuyển giữa các vùng, tạo điều kiện cho
cán bộ dân tộc rèn luyện thực tiễn và tham gia vào nhiều vị trí công tác.
Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 06-KH/TU ngày 07/4/2002
và Kế hoạch số 51-KH/TU ngày 21/3/2008 về việc luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện luân chuyển cán bộ diện cấp ủy
tỉnh quản lý và chỉ đạo các cấp, các ngành luân chuyển cán bộ thuộc thẩm
quyền quản lý. Thực hiện luân chuyển cán bộ giữa ngành và cấp, giữa tỉnh,
huyện và cơ sở, giữa các lĩnh vực công tác nhằm phát huy năng lực, sở
trường của cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Ban
92
Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIV đã xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ
đến năm 2010; thực hiện luân chuyển cán bộ đảm bảo công bằng, công
tâm, công khai, có lý, có tình; được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng
tình ủng hộ, góp phần tích cực cho chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng bộ lần
thứ XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015).
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 51-KH/TU ngày
21/3/2008 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy quản lý; kết quả đến tháng 12/2010 như sau:
Luân chuyển cán bộ trẻ, cán bộ nữ dân tộc thiểu số 99/183 lượt cán bộ;
trong đó: Cán bộ trẻ 24 lượt, chiếm 13,11%; cán bộ nữ 33 lượt, chiếm
14,75%; cán bộ dân tộc thiểu số 42 lượt, chiếm 25,68%. Cụ thể:
Từ cấp tỉnh về cấp huyện và tương đương 16/21 lượt cán bộ (cán bộ trẻ
04 lượt, cán bộ nữ 02 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 10 lượt).
Từ cấp huyện và tương đương lên cấp tỉnh 16/35 lượt, (cán bộ trẻ 02
lượt, cán bộ nữ 07 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 07 lượt).
Giữa các sở, ban, ngành cấp tỉnh 36/63 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 07 lượt,
cán bộ nữ 16 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 13 lượt).
Trong nội bộ sở, ban, ngành cấp tỉnh 20/35 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 08
lượt, cán bộ nữ 06 lượt, cán bộ dân tộc thiểu số 06 lượt).
Trong nội bộ huyện, thành phố, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy 11/24 lượt cán
bộ (cán bộ trẻ 03 lượt cán bộ nữ 02 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 06 lượt).
Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 68/157 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 19 lượt, cán bộ
nữ 22 lượt, cán bộ dân tộc thiểu số 27 lượt).
Chỉ định bổ sung vào đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Cấp ủy, Bí thư,
phó Bí thư, Ban Thường vụ các Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh
ủy 80 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 11 đồng chí, chiếm 13,75%; cán bộ nữ
19 đồng chí, chiếm 23,75%; cán bộ người dân tộc thiểu số 26 đồng chí,
chiếm 32,5%.
93
Giới thiệu bầu cử vào chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban
Thường vụ, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, HĐND, UBND và các đoàn
thể cấp tỉnh, cấp huyện tổng số 447 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 26 đồng
chí, chiếm 5,81%; cán bộ nữ 40 đồng chí, chiếm 8,95%; cán bộ dân tộc thiểu
số 74 đồng chí, chiếm 16,55%.
Từ năm 2002 đến năm 2010, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã luân chuyển,
điều động 153 lượt cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý (có 25 lượt
cản bộ nữ, chiếm 16,34%; 46 lượt cán bộ là người dân tộc ít người chiếm
30,07%; 15 lượt cán bộ trẻ chiếm 9,8%); trong đó: Luân chuyển, điều động
từ tỉnh về huyện, thị 32 lượt cán bộ; từ huyện, thị về tỉnh 44 lượt cán bộ;
giữa các sở, ban, ngành 40 lượt cán bộ; giữa các huyện, thị 37 lượt cán bộ;
từ khối đảng, đoàn thể sang khối nhà nước 35 lượt cán bộ, khối nhà nước
sang khối đảng, đoàn thể 35 lượt cán bộ.
Ban Thường vụ các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc, đảng đoàn, ban
cán sự đảng, các sở, ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh đã thực hiện luân chuyển,
điều động 547 lượt cán bộ thuộc diện quản lý; trong đó: Luân chuyển, điều
động từ tỉnh về huyện, thị 138 lượt cán bộ; từ huyện, thị về tỉnh 174 lượt cán
bộ; từ huyện, thị về xã, phường, thị trấn 68 lượt cán bộ; từ xã, phường, thị
trấn về huyện, thị 65 lượt cán bộ; giữa các sở, ban, ngành 14 lượt cán bộ; giữa
các huyện, thị 71 lượt cán bộ; luân chuyển giữa các xã, phường, thị trấn 18
lượt cán bộ; từ khối đảng, đoàn thể sang khối nhà nước 47 lượt cán bộ, khối
nhà nước sang khối đảng, đoàn thể 62 lượt cán bộ.
Công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ bản đã đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, tạo điều kiện rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ,
nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp cán bộ trưởng thành nhanh hơn và toàn diện hơn. Qua luân chuyển, đã từng bước điều chỉnh hợp lý đội ngũ cán bộ, tăng cường được cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp bách, nhất là cho đơn vị có nhiều khó khăn, khắc phục khuynh hướng cục bộ, khép kín cán bộ trong
94
từng địa phương, đơn vị. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý sau khi luân
chuyển đã tiếp cận nhanh với điều kiện, môi trường công tác mới, có quan điểm, phương pháp chỉ đạo toàn diện, sâu sắc hơn, được cấp ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Do chủ động, tích cực luân chuyển đội ngũ cán
bộ, lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn, đảm bảo về số lượng, nâng cao về chất lượng để đưa vào quy hoạch; chú trọng quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số.
* Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng, tạo nên đội ngũ cán bộ đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, đảm bảo cho nhiệm vụ
cách mạng được thực hiện. V.I.Lênin đã khẳng định: Trong lịch sử, chưa hề
có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Khi trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, theo Lênin, phải rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
để có được những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo
đức, năng lực công tác tốt để giao trọng trách. Đây là khâu then chốt để nghị
quyết, chỉ thị của Đảng được thực hiện đạt kết quả tốt.
Quán triệt quan điểm của Lênin, Đảng chỉ rõ: Nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu
chuẩn chức danh cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực
hiện chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới.
Trong công tác đào tạo, công tác đào tạo nguồn cũng chiếm một vị
trí quan trọng. Thực tế, đội ngũ cán bộ chủ chốt và công chức cấp xã ở
Tuyên Quang chủ yếu là người dân tộc thiểu số, nhất là: Tày, Cao Lan,
Dao, Nùng... Từ thực tế lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương, cho thấy năng lực công tác của một bộ phận khá lớn
95
cán bộ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế; trình độ chuyên môn chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Hạn chế lớn nhất là năng lực điều hành,
tổ chức và quản lý khá đông cán bộ là người dân tộc thiểu số còn yếu: khả
năng vận dụng lý luận vào thực tiễn còn thấp, cho nên gặp khó khăn, lúng
túng trong công tác chỉ đạo, xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội tại địa phương. Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong cơ cấu
cán bộ, công chức chung của địa phương tăng đáng kể nhưng cơ cấu giữa
các thành phần dân tộc chưa hợp lý, tỷ lệ cán bộ của một số dân tộc thiểu
số chưa cân đối với tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về công tác cán bộ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 28/02/2006 về
đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn là người
dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã
chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Sở Nội vụ tổ
chức Hội nghị báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg
ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số giai
đoạn 2006 - 2010 vào ngày 5/12/2007.
Tổng số cán bộ, công chức cấp xã đến năm 2006 là người dân tộc thiểu
số là 1.427 người, có trình độ như sau:
Trình độ văn hóa: Tiểu học 13 người; Trung học cơ sở 203 người;
Trung học phổ thông 1.211 người.
Trình độ chuyên môn: Đại học, Cao đẳng 229 người; Trung cấp 908
người; Sơ cấp 38 người; Bồi dưỡng 38 người.
Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 1.000 người; Sơ cấp 26 người;
Bồi dưỡng 65 người.
Đã bồi dưỡng về quản lý nhà nước: 123 người.
Đã bồi dưỡng về tin học: 253 người.
96
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số năm 2007 [Phụ lục 13].
* Kết quả đào tạo.
Đã tốt nghiệp năm 2007:
Trung học phổ thông: 23 người.
Về chuyên môn: 39 người, trong đó: Đại học, cao đẳng 01 người;
Trung cấp 38 người. Trung cấp lý luận chính trị: 22 người.
Cử đi đào tạo về chuyên môn năm 2007: 110 người, trong đó: Đại học
46 người; Trung cấp 64 người.
Kết quả bồi dưỡng:
Quản lý nhà nước 360 người, trong đó: Chuyên viên 96 người; Bồi
dưỡng 164 người.
Tin học: 53 người. Kỹ năng nghiệp vụ: 214 người. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 08/02/2006
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010;
Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang đã chỉ đạo các cấp tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cán bộ công chức cấp xã trong giai đoạn tiếp theo.
Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số năm 2008 [Phụ lục 14].
Về đào tạo: Văn hóa: Trung học phổ thông 29 người.
Về chuyên môn: 98 người, trong đó: Đại học 52 người; Trung cấp 46 người.
Về trung cấp lý luận chính trị: 138 người.
Về bồi dưỡng:
Về quản lý nhà nước: 127 người, trong đó: Chuyên viên 41 người; Cán
bộ 73 người; Bồi dưỡng 13 người.
97
Về tin học: 229 người.
Về kỹ năng nghiệp vụ: 60 người.
Thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức giai đoạn 2006 - 2010, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Tuyên Quang đã chỉ
đạo các cấp, các ngành thực hiện rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức từ tỉnh đến cơ sở. Qua kết quả rà soát đội ngũ cán bộ, công chức
toàn tỉnh và thực hiện chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
giai đoạn 2006 - 2010 của Nhà nước, ngày 04/6/2006, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã ban hành Kế hoạch số 09-KH/TU về "Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ
XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010". Ngày 07/9/2006, Ban Tổ chức Tỉnh ủy có Thông
báo số 09-TB/TC về kết luận Hội nghị triển khai Kế hoạch số 09-KH/TU về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn 2006 - 2010.
Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh giai
đoạn từ 2006 - 2010, hàng năm, UBND tỉnh đã cụ thể hóa thành kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh và chỉ đạo các cấp, các ngành tổ
chức thực hiện. Đồng thời, tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho các điểm tổ
chức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng; đối tượng được cử đi đào tạo được
hưởng 100% lương và được tỉnh hỗ trợ 50% mức học phí nộp về cơ sở đào tạo.
Năm 2007, UBND tỉnh đã có Văn bản số 2944/UBND-VX ngày 01/11/2006 về
phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2007 và chỉ đạo
các cấp, các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện, kết quả như sau:
Đã tổ chức các lớp đào tạo về chuyên môn trình độ đại học, cao đẳng,
trung cấp và đào tạo về lý luận chính trị hệ tại chức tại tỉnh, gồm: Đại học
Công nghiệp, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Thương mại, Cao đẳng Giao
thông, Trung cấp Địa chính, Trung cấp Luật, Trung cấp lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ, công chức cấp xã.
98
Tổng số cán bộ, công chức cấp xã và công chức dự nguồn là người dân tộc
thiểu số được cử đi đào tạo 132 người.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng: Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước
cho các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND; bồi dưỡng
kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên cho công chức cấp xã
có trình độ đại học; bồi dưỡng về tin học văn phòng cho cán bộ, công chức
cấp xã có trình độ đại học; bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ và quản lý nhà
nước cho các chức danh Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân. Tổng số cán bộ, công chức
cấp xã và công chức dự nguồn là người dân tộc thiểu số tham gia các lớp
bồi dưỡng 527 người.
Chuẩn bị cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh năm
2008, ngày 27/11/2007, UBND Tỉnh đã ban hành Văn bản số 2935/UBND-VX
về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2008 của tỉnh.
Để nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ giai đoạn 2011 - 2015. Trên cơ sở đó, các cấp ủy trực thuộc lập
kế hoạch cụ thể và cử cán bộ đi đào tạo theo nhu cầu sử dụng. Tỉnh ủy xác
định việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một khâu đột phá, cho nên
công tác đào tạo được quan tâm hơn. Từ đó, đã huy động mọi nguồn lực,
tranh thủ các dự án đào tạo bồi dưỡng cán bộ tiếp tục liên kết với các trường
đại học, cao đẳng mở các lớp tại chức. Những cán bộ đi học, ngoài việc thực
hiện chế độ chung, tùy từng chương trình học cụ thể, tỉnh hỗ trợ tiền ăn, nghỉ,
đi lại mua tài liệu và được thanh toán công tác phí như đi công tác.
Tiếp đó, trên cơ sở rà soát, đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ các
cấp, các ngành đã chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để thực hiện
tiêu chuẩn hóa cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn tỉnh giai
99
đoạn 1996 - 2000, giai đoạn 2001 - 2005; đặc biệt nhiệm kỳ 2005 - 2010, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 09-KH/TƯ ngày 04/6/2006
về đào tạo chuyên môn, lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ công tác. Củng cố,
kiện toàn Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,
thị xã; củng cố, nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm giáo dục
thường xuyên và các Trường chuyên nghiệp để đảm nhiệm có hiệu quả việc
đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ.
Công tác đào tạo bồi dưỡng đã được các cấp, các ngành chủ động
thực hiện, khắc phục dần tình trạng mất cân đối về cơ cấu đào tạo trong
thời gian trước; đào tạo cán bộ đa ngành, đa lĩnh vực, gắn đào tạo chuyên
môn với đào tạo về lý luận chính trị và rèn luyện kiến thức thực tiễn cho
cán bộ. Cùng với đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho cấp tỉnh và huyện,
đã chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ xã, quan tâm đến
việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo nguồn cán bộ là con em các dân
tộc ít người tại cơ sở.
Ngày 18/7/2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức sơ kết thực hiện kế hoạch
số 7/09-KH/TU ngày 4/6/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức dân tộc
thiểu số cấp tỉnh, huyện, thị xã đến năm 2010
Thực hiện Kế hoạch số 09-KH/TU ngày 04/6/2006 về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010; Tỉnh ủy Tuyên Quang đã chỉ đạo các huyện,
thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể hàng năm rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ để xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị;
cử cán bộ thuộc diện quy hoạch đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, lý
100
luận chính trị - hành chính. Kết quả, đến tháng 12/2010 công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang như sau:
Đào tạo về chuyên môn:
Trên đại học 315 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 265 người,
chiếm 84,12%; cán bộ nữ 33 người, chiếm 10,47%; cán bộ dân tộc thiểu số 74
đồng chí, chiếm 23,49%.
Đại học, cao đẳng 673 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 186
người, chiếm 27,63%; cán bộ nữ 207 người, chiếm 30,75%; cán bộ dân tộc
thiểu số 389 đồng chí, chiếm 57,08%.
Trung cấp 338 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 55 người, chiếm
16,27%; cán bộ nữ 46 người, chiếm 13,6%; cán bộ dân tộc thiểu số 218 đồng
chí, chiếm 64,49%.
Đào tạo về lý luận chính trị - hành chính:
Cao cấp lý luận chính trị - hành chính 458 đồng chí, trong đó: Cán bộ
trẻ 186 đồng chí, chiếm 40,61%; cán bộ nữ 127 đồng chí, chiếm 27,72%; cán
bộ dân tộc thiểu số 112 đồng chí, chiếm 24,45%.
Trung cấp lý luận chính trị 2.372 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 1.642
đồng chí, chiếm 69,22%; cán bộ nữ 1.198 đồng chí, chiếm 50,51%; cán bộ
dân tộc thiểu số 852 đồng chí, chiếm 35,91%.
Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên
chính, chuyên viên, ngạch cán sự, tiền công vụ … cho 4.078 lượt cán bộ,
trong đó: Cán bộ trẻ 1.854 lượt, chiếm 46,15%; cán bộ nữ 1.539 lượt, chiếm
37,73; cán bộ dân tộc thiểu số 1.798 lượt, chiếm 44,09%.
* Về công tác quản lý và bố trí, sử dụng, cán bộ
Trong tất cả các khâu của công tác cán bộ, việc bố trí, sử dụng cán
bộ là khâu có ý nghĩa quyết định, vì sử dụng cán bộ đúng sẽ phát huy được
tài năng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Với lực lượng cán bộ
hiện có, phải khéo sắp xếp, sử dụng để phát huy tốt hơn nữa mọi khả năng
101
của đội ngũ cán bộ. Sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách thiết thực và có hiệu
quả. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng công tác bố trí, sử dụng cán
bộ, đó là:
Vì việc mà tìm người chứ không vì người mà đặt việc. Phải căn cứ vào
nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ, không vì cán
bộ mà lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.
Đổi mới tuyển chọn cán bộ, thí điểm thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh
đạo cấp vụ, cấp phòng. Thí điểm thực hiện chế độ thực tập, tập sự lãnh đạo,
quản lý và thí điểm nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo của Đảng, chính
quyền ở cấp xã, huyện, tỉnh. Yêu cầu người được bổ nhiệm trình bày phương
án, đây là cách làm tiến bộ và đang được nhiều nước áp dụng, vì điều này
giúp cho cán bộ bộc lộ khả năng, trình độ, sự nhiệt tình, thái độ trách nhiệm
với công việc sắp được giao. Như vậy, đây cũng là một kênh thông tin quan
trọng để đánh giá thực chất năng lực của cán bộ. Tuy nhiên, tùy từng lĩnh vực,
chức danh cán bộ mà áp dụng cho phù hợp.
Cải tiến quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm, bầu cử để chọn
đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu
người phương án nhân sự để lựa chọn theo Quy chế bầu cử trong Đảng
(được ban hành theo Quyết định số 220-QĐ/TW ngày 17/4/2009). Nghiên
cứu, đổi mới quy trình, nội dung lấy phiếu giới thiệu và phiếu tín nhiệm
trong công tác cán bộ.
Kịp thời cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực,
không hoàn thành nhiệm vụ được giao theo phương châm "có lên, có xuống,
có vào, có ra", coi đây là việc bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ
thể hóa, triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 206-QĐ/TW của Bộ
Chính trị ngày 02/10/2009 về việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức cán
102
bộ và Nghị định số 132/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8/8/2007 về chính
sách tinh giản biên chế.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), các Quyết định của
Bộ Chính trị; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy định số 03-QĐ/TU
ngày 28/11/1997, trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã ban
hành Quy định số 02-QĐ/TU ngày 27/7/2006 và Quy định số 07-QĐ/TƯ
ngày 12/02/2008 về phân cấp quản lý cán bộ, nhằm phân cấp mạnh, phân
quyền, phân định rõ trách nhiệm, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán,
thiếu thống nhất, không nắm chắc cán bộ, tăng cường trách nhiệm quản lý
cán bộ của chi bộ, tổ chức cơ sở đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nơi
sinh hoạt và nơi cư trú; thực hiện quản lý cán bộ chặt chẽ, chống quan liêu
và các biểu hiện tiêu cực khác trong công tác cán bộ.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế số 03-QC/TU ngày
02/8/2006 về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm, điều động, luân
chuyển cán bộ; Quy chế số 04-QC/TƯ ngày 12/02/2008 về bổ nhiệm cán bộ,
giới thiệu cán bộ ứng cử.
Cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người trong cơ cấu cán bộ cấp
ủy, Hội đồng nhân dân các cấp nhiều năm liên tục đạt và vượt định hướng của
Trung ương: cán bộ cấp ủy tỉnh trẻ 4,26%, nữ 29,8%, dân tộc ít người 40,4%.
Cán bộ cấp ủy huyện, thị, đảng ủy trực thuộc trẻ 9,5%, nữ 17,4%, dân tộc ít
người 33,7%; cán bộ cấp ủy cơ sở trẻ 16,2%, nữ 19,7%, dân tộc ít người 32,1%.
Đại biểu HĐND tỉnh trẻ 31,57%, nữ 38,59%, dân tộc ít người 56,14%.
Đại biểu HĐND huyện, thị xã trẻ 26,7%, nữ 34,62%; dân tộc ít
người 55,56%.
Đại biểu HĐND xã, phường, thị trấn trẻ 31,23%, nữ 26,82%, dân tộc ít
người 57,66 %.
Cấp ủy tỉnh: 100% có trình độ chuyên môn đại học trở lên, 97,87% cao
cấp, cử nhân lý luận chính trị.
103
Cấp ủy huyện, thị, đảng ủy trực thuộc 89% có trình độ chuyên môn đại
học, cao đẳng trở lên, 51,52% cao cấp, cử nhân lý luận chính trị.
Cấp ủy cơ sở 49,93% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên,
7,65% trung cấp; 11,09% cao cấp, cử nhân lý luận chính trị.
Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở
lên 84,21%, lý luận chính trị cao cấp, cử nhân 42,1%; ở huyện, thị xã có trình
độ chuyên môn đại học, cao đẳng trở lên 61,1%, lý luận chính trị cao cấp, cử
nhân 23,5%; ở xã, phường, thị trấn có trình độ chuyên môn trung cấp 24,03%,
đại học, cao đẳng trở lên 6,83%; trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên
21,99%; cao cấp, cử nhân 0,4%.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công trách nhiệm cho các ban ngành,
đặc biệt là Ban Dân tộc và Sở Nội vụ cùng Ủy ban nhân dân các cấp tham
mưu đề xuất và tổ chức thực hiện những nội dung công việc cụ thể để thực
hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh. Sở Nội vụ phối hợp với Ban Dân tộc và các ngành chức năng xây
dựng giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số; chỉ đạo
thực hiện tốt các chính sách hiện hành về tuyển dụng, sử dụng cán bộ là
người dân tộc thiểu số ở các ngành, các địa phương và cán bộ đến công tác
ở vùng đặc biệt khó khăn. Ban dân tộc phối hợp với Sở Nội vụ tham mưu,
bố trí công chức là người dân tộc thiểu số của tỉnh làm việc tại các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp để từng bước củng cố, xây
dựng và kiện toàn hệ thống đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ tỉnh đến cơ
sở; trường chính trị tỉnh thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng lý luận chính trị,
phối hợp với các trường đại học, cao đẳng liên kết mở các lớp tại chức đào
tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số riêng và đội ngũ cán
bộ nói chung.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy đảng coi trọng.
Thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW ngày 14/8/1998 của Bộ Chính trị, Quy định
104
số 75-QĐ/TƯ ngày 25/4/2000 và Quy định số 57-QD/TW ngày 03/5/2007
của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 02-HD/BTCTW ngày 08/3/2002 và Hướng
dẫn số 11-HD/BTCTW ngày 24/10/2007 của Ban Tổ chức Trung ương về
một số vấn đề bảo vệ nội bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng quy định
cụ thể về công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng bộ; Quy chế về phối
hợp thực hiện nhiệm vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ của một số cơ quan,
đơn vị cấp tỉnh, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong công tác bảo
vệ chính trị nội bộ, đảm bảo nội bộ trong sạch, đoàn kết. Thực hiện việc thẩm
định tiêu chuẩn chính trị cán bộ trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tuyển
dụng, tiếp nhận vào các cơ quan trọng yếu, cơ mật.
Thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra của Bộ Chính trị về công tác
cán bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 12-KH/TƯ ngày
30/5/2003 thành lập Đoàn kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ tại các tổ chức
đảng trực thuộc. Các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các ngành, đoàn
thể đã thực hiện chế độ tự kiểm tra và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kiểm
tra của cấp trên về công tác cán bộ. Những vấn đề có liên quan đến cán bộ và
công tác cán bộ đều được cấp ủy các cấp xem xét, giải quyết kịp thời.
* Về thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số
Tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi dưỡng, phát triển
nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Đây là một trong những nội dung quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện. Những thành tựu cơ bản của công
tác phát triển nguồn cán bộ và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số trong những
năm qua luôn gắn liền với chính sách phát triển nguồn và ưu tiên đào tạo bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Trong những năm tiếp theo, chính sách ưu tiên trên sẽ còn phát huy tác
dụng to lớn trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh
cả về số lượng và chất lượng.
105
Hiện nay, chính sách ưu tiên được Đảng và Nhà nước vận dụng trên ba
phương diện:
Thứ nhất: thực hiện chính sách ưu tiên cộng điểm cho thí sinh dự thi
trong các kỳ thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp. Chính điều đó đã tạo
ra cơ hội lớn để tuyển sinh được hàng nghìn con em các dân tộc thiểu số ở
miền núi phía Bắc nói riêng vào các trường chuyên nghiệp để đào tạo họ trở
thành cán bộ trên nhiều lĩnh vực.
Thứ hai: thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư, đào tạo, con em các dân
tộc thiểu số qua hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú, hệ dự bị đại học
và hệ cử tuyển trung cấp, cao đẳng, đại học.
Thứ ba: Thực hiện đào tạo bồi dưỡng thường xuyên đối với đội ngũ cán
bộ quy hoạch nguồn lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực chuyên môn. Nhìn
chung trong những năm qua, các địa phương miền núi phía Bắc đã thực hiện
khá tốt vấn đề này. Nhiều địa phương đã có quy hoạch ổn định và thực hiện
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hệ thống, thường xuyên, liên tục
không ngừng trẻ hóa cán bộ, nâng cao năng lực cán bộ theo tiêu chuẩn quy
định. Chiến lược cán bộ của Đảng đã vạch ra những định hướng cơ bản, tạo
điều kiện để các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ nguồn.
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên
Quang đã quan tâm chỉ đạo thực hiện chính sách trên đối với cán bộ dân tộc
thiểu số trong tỉnh. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các quy
định hỗ trợ đối với cán bộ thiểu số đi đào tạo nâng cao trình độ, hỗ trợ cán bộ
xã, cán bộ dự nguồn, con em là người dân tộc thiểu số đi học các lớp tại chức
chuyên môn tại tỉnh. Nhiều cơ quan, đơn vị đã sử dụng tiết kiệm chi thường
xuyên để hỗ trợ cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số đi học và đi
nghiên cứu thực tế.
Tỉnh Tuyên Quang cũng đã quan tâm tới việc mở hệ thống các trường
Phổ thông dân tộc nội trú tại các huyện và tại Trung tâm tỉnh, đảm bảo chính
106
sách ưu tiên tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ngay từ nhà trường; quan tâm
tới chỉ tiêu cử tuyển vào các trường chuyên nghiệp cho học sinh đã tốt nghiệp
phổ thông.
Về chế độ, chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số đi đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị ở Trung ương và tại tỉnh:
Đối với các lớp đào tạo hệ tập trung tại Trung ương: cán bộ được
hưởng trợ cấp theo hướng dẫn số 38HD/BTCTW ngày 30/3/2005 của Ban Tổ
chức Trung ương, ngoài ra các học viên còn được hỗ trợ các chi phí tiền tàu
xe đi lại, tiền mua tài liệu, tiền đi thực tế theo mức quy định chi tiêu nội bộ
của mỗi cơ quan, đơn vị.
Đối với các lớp hệ đào tạo tại chức tại tỉnh: Cán bộ được hỗ trợ các chi
phí tàu xe đi lại (đối với học viên ở xa), tiền mua tài liệu bao cấp chỗ ở, tiền
đi thực tế theo mức quy định chi tiêu nội bộ, mỗi cơ quan, đơn vị.
Có chính sách thu hút cán bộ có trình độ học vấn, cán bộ người địa
phương, cán bộ người dân tộc thiểu số về địa phương công tác.
Có chính sách hỗ trợ cán bộ, nhất là cán bộ dân tộc trong đào tạo, bồi dưỡng.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ công tác ở vùng đồng bào
dân tộc.
Tiểu kết chương 3
Trong những năm (2001 - 2010), sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã có sự đổi mới toàn
diện, mạnh mẽ hơn so với những năm 1991 đến năm 2000. Sự đổi mới đó
được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất: Quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 đã
bám sát quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc và nhiệm vụ chính trị
của Đảng bộ trong tình hình mới. Có sự đổi mới đồng bộ, chặt chẽ giữa các
khâu, các bước trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng tốt số cán
107
bộ dân tộc thiểu số hiện có với thực hiện đồng bộ các giải pháp để đào tạo,
bồi dưỡng xây dựng bổ sung số cán bộ dân tộc mới. Chú trọng tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu
thành phần dân tộc trong đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú ý đến các địa bàn
trọng điểm, vùng sâu, vùng xa có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống.
Xây dựng quy hoạch, đào tạo và bố trí sử dụng đồng bộ cán bộ dân tộc thiểu
số từ cấp tỉnh đến cơ sở.
Thứ hai: Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được xác
định rõ ràng, các chỉ tiêu đặt ra toàn diện, yêu cầu cao hơn so với giai đoạn
trước. Thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo mới và tiếp tục đào tạo, đào
tạo lại. Bồi dưỡng, bố trí sử dụng tốt số cán bộ dân tộc hiện còn đang công tác
tại các cơ quan, không chỉ tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ
cán bộ thiểu số trong các ban ngành Sở, cấp tỉnh mà còn chú trọng đến đội
ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số.
Thứ ba: Quá trình thực hiện công tác đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số được thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, ngành, các
ủy ban các cấp, giữa chỉ đạo và thực hiện vì vậy là thực hiện tốt các chương
trình kế hoạch đề ra, chỉ tiêu đưa ra về cơ bản hoàn thành, đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ.
Công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số được Đảng bộ tỉnh lãnh đạo
xây dựng kế hoạch cụ thể, chuẩn bị từ xa và tạo nguồn dồi dào cho đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã quy hoạch đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số lãnh đạo quản lý đáp ứng nhân sự cho Đảng bộ nhiệm
kỳ 2010 - 2015.
Tại Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán
bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy từ cơ sở đến tỉnh hầu hết đều
vượt quy định Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4/8/2009 của Bộ Chính trị và cao
hơn nhiệm kỳ trước.
108
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được nâng cao về chất lượng cả về
đào tạo chuyên môn, lý luận chính trị và đào tạo chức danh quản lý. Gắn kết
với các khâu của công tác cán bộ đảm bảo yêu cầu trong công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Thực tiễn cho thấy, dù có thể không thiếu nguồn, song tình trạng "đốt
đuốc đi tìm" cán bộ dân tộc thiểu số vẫn xảy ra ở một số địa phương ở các
tỉnh miền núi phía Bắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, do cách làm
còn thiếu căn cơ, bị động. Trong bối cảnh đó, với cách làm chủ động, đổi mới,
có những yếu tố mang tính đột phá và cả một quá trình phấn đấu đồng bộ, có
sự kế thừa và phát triển của các nhiệm kỳ trước, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng tăng và đứng
hàng đầu trong cả nước qua nhiều nhiệm kỳ.
Mặc dù còn nhiều thiếu sót trong quá trình thực hiện, nhưng về cơ bản,
quá trình đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2001 -
2010 của tỉnh Tuyên Quang đạt được kết quả tốt đẹp. Đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ngày càng phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Hiệu quả
công việc được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu nguồn lực trong công
cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là ở miền núi, vùng có nhiều đồng bào dân
tộc sinh sống.
109
CHƯƠNG 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT
4.1.1. Một số ưu điểm
Các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở đã nhận thức sâu sắc về vị trí và tầm
quan trọng của công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
Vì thế, đã nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII); kịp thời ban hành
các quy định, quy chế cụ thể hoặc các nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán
bộ, đặc biệt là nhiệm kỳ 2005 - 2010 nên công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng đổi mới hơn, đảm bảo
khách quan, dân chủ, chặt chẽ và đúng quy trình.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Đảng bộ tỉnh đã từng bước tiêu
chuẩn hóa cán bộ và việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng luân
chuyển, quản lý bố trí, sử dụng cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số thực
sự dân chủ, nền nếp hơn, đã đào tạo và bồi dưỡng hàng vạn lượt cán bộ, nâng
cao trình độ cán bộ cả về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý hành chính,
quản lý kinh tế - xã hội; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số.
Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang đã có một số ưu điểm sau:
4.1.1.1. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã xác định rõ trách nhiệm của
các cấp ủy Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Một là, đã xây dựng được quy chế của cấp ủy, trong đó xác định mối
quan hệ trong cấp ủy về công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng. Quy chế của các cấp ủy đã cụ thể hóa
các nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ sát với địa phương, đơn vị
của mình.
110
Hai là, trên cơ sở cơ cấu cán bộ dân tộc thiểu số hiện có và nhu cầu bố
trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người dân tộc thiểu số, các cấp ủy Đảng đã lập kế hoạch công tác cán bộ cụ
thể về số lượng, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số, tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện.
Ba là, các cấp ủy Đảng đã đưa ra các quy trình cụ thể của từng khâu trong
công tác cán bộ dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng cán bộ khi được bổ nhiệm,
từng bước tiến hành bổ nhiệm các cán bộ lãnh , quản lý là người dân tộc thiểu số ở
các phòng, ban, các sở, ngành chuyên môn bằng cơ chế cạnh tranh.
Bốn là, các cấp ủy Đảng đã xây dựng được kế hoạch kiểm tra, giám sát
cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng; kịp thời khắc phục những
sai lầm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của các đơn
vị, địa phương.
4.1.1.2. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo thực hiện tốt đồng
bộ các khâu của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân
tộc thiểu số nói riêng
Về đánh giá cán bộ:
Thứ nhất: Trong công tác đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số, về cơ bản
đảm bảo khách quan, trung thực và nắm vững quan điểm của Đảng về đánh
giá cán bộ. Đó là, các cấp ủy Đảng trên cơ sở tổng hợp nhiều thông tin để
phân tích, chọn lọc đánh giá của cán bộ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở,
tổ chức cho nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt động cán bộ, từ đó, theo
định kỳ 6 tháng hoặc hàng năm, Đảng bộ lấy ý kiến nơi cư trú đối với bản
thân và gia đình cán bộ. Kết luận về đánh giá cán bộ là do tập thể cấp ủy cơ
sở và kết luận theo đa số.
Thứ hai, kết quả đánh giá, nhận xét cán bộ của Đảng bộ tỉnh được tổng
hợp từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức và cá nhân (người có trách nhiệm) tham
gia nhận xét đánh giá, cán bộ dân tộc thiểu số. Việc đánh gí cán bộ theo 3
111
mức: Hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ; hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ và chưa hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Các mức trên đều được tổ
chức bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Thứ ba, Đảng bộ tỉnh khi đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số đã đặt họ
trong môi trường, điều kiện cụ thể; trong mối quan hệ của đường lối,
chính sách của Đảng và cơ chế quản lý để xem xét quá trình phát triển
toàn diện của cán bộ.
Về công tác quy hoạch
Đảng bộ tỉnh đã quy hoạch, tạo nguồn dồi dào để xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là
người dân tộc thiểu số một cách lâu dài và có tính định hướng đặc biệt là
đối với cán bộ dân tộc thiểu số trẻ, có triển vọng xuất hiện trong hoạt động
thực tiễn. Tạo môi trường bình đẳng về điều kiện và cơ hội để đông đảo
cán bộ dân tộc thiểu số rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành là phương
châm chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh. Từ đó, làm căn cứ để đẩy mạnh đào tạo,
đào tạo lại, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ
thống chính trị của tỉnh.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu
số, về cơ bản, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt sâu sắc những quan điểm sau:
Thứ nhất: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên
trong hệ thống chính trị của tỉnh.
Thứ hai: Đảng lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tôn
trọng pháp luật Nhà nước và điều lệ của các tổ chức quần chúng.
Thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh trong từng giai đoạn.
112
Thứ tư: Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số với xây dựng tổ
chức và đổi mới chính sách.
Thứ năm: Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
quần chúng, các phong trào kinh tế - xã hội của từng vùng để tuyển chọn, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch, đào tạo cơ bản, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh; chú trọng đưa vào quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán
bộ trẻ và có trình độ; đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số
có trọng tâm, trọng điểm cho các lĩnh vực công tác.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đảng bộ Tuyên Quang xác định đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với việc
sử dụng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Chú ý đào tạo, bồi dưỡng toàn
diện cả về chuyên môn và trình độ lý luận chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã. Bên cạnh đó, công tác đào tạo
cán bộ lãnh đạo, quản lý dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị
địa phương cũng được Đảng bộ tỉnh quan tâm.
Kết hợp đào tạo với thực tập tại các cơ quan, đơn vị; đào tạo theo từng
giai đoạn, từng đối tượng như: tạo nguồn cán bộ, cán bộ dân tộc thiểu số cấp
cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện, thị xã và đào tạo
cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh. Tuỳ từng đối tượng, Đảng bộ tỉnh đã lập quy
trình đào tạo, bồi dưỡng phát triển phù hợp.
Vì vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số khi được đào tạo đã có nhận
thức và tiếp cận tốt, chủ động với công việc được giao, có khả năng hoàn
thành công việc được đảm nhiệm; có tư tưởng và lập trường vững vàng, có
nhận thức đúng đắn về các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; có tinh thần cởi mở, năng động sáng tạo, biết vận dụng những kiến
thức được học vào thực tiễn công tác, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
113
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay. Phần lớn đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số sau khi được đào tạo đã phát huy được tác dụng trong công tác.
Về công tác bố trí và sử dụng cán bộ
Đảng bộ tỉnh xác định, phát hiện, thu hút và sử dụng cán bộ lãnh đạo,
quản lý là người dân tộc thiểu số phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp. Ngoài ra, Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang còn tạo cơ chế động viên sự tham gia của các tổ chức chính
trị, xã hội, các cơ sở đào tạo, của các cấp, các ngành sử dụng cán bộ người
dân tộc thiểu số.
Xác định đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là những cán bộ có tính đặc
thù riêng cho từng chuyên môn, từng dân tộc nên Đảng bộ tỉnh đã có những
cơ chế, chính sách và phương thức đào tạo, sử dụng đặc thù, áp dụng riêng
cho bộ phận nhân lực này. Vì vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số của tỉnh đã đạt hiệu quả thiết thực.
Đảng bộ tỉnh kết hợp các phương pháp truyền thống và đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn, lấy thực tiễn làm môi trường cọ xát, thử thách đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
dân tộc thiểu số. Đồng thời, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số có đủ phẩm chất, năng lực công tác, bản lĩnh chính trị, am hiểu phong tục
tập quán địa phương, số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho sự chuyển tiếp,
vững vàng, liên tục giữa các thế hệ cán bộ dân tộc thiểu số nhằm thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đảm bảo nguồn cán bộ cho
mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng.
Về đổi mới hệ thống chính sách
Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ
tỉnh đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi
dưỡng những cán bộ dân tộc thiểu số tốt nghiệp Đại học chính quy, những cán
bộ có đủ năng lực, phẩm chất để trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý
114
trong hệ thống chính trị của tỉnh. Lập kế hoạch kinh phí để cử những cán bộ
này đi đào tạo để tạo nguồn cán bộ cho các cơ quan, tổ chức.
Đảng bộ tỉnh đã xây dựng cơ chế thu hút sử dụng nhân lực trình độ cao
các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan đơn vị xác định, bổ sung nhiệm vụ cho
bộ phận tổ chức hành chính việc tham mưu, thực hiện xây dựng kế hoạch thu
hút và sử dụng nhân lực có trình độ cao, đặc biệt là đối với nhân lực là cán bộ
dân tộc thiểu số.
Xác định rõ vị trí cần tuyển cán bộ có trình độ cao trong từng cơ
quan đơn vị; đối tượng có trình độ từ thạc sĩ đến tiến sĩ, sử dụng vào những
vị trí hợp lý. Đảng bộ tỉnh đã tập trung thu hút cán bộ có trình độ tiến sĩ
vào các trường chuyên nghiệp của tỉnh để tạo ra được một đội ngũ cán bộ
trí thức là người dân tộc thiểu số phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng của
tỉnh mang tính lâu dài. Các cơ quan tham mưu về tổ chức, tài chính phối
hợp xây dựng chính sách đãi ngộ, hỗ trợ nguồn nhân lực cao theo từng giai
đoạn cụ thể.
Trong 20 năm (1991 - 2010), Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện tốt
chính sách sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, đảm bảo lợi ích vật chất, để động
viên tinh thần đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Việc bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc
thiểu số, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp
với sở trường. Có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi cán bộ, trọng dụng người
có đức, có tài, tránh tư tưởng kỳ thị, hẹp hòi, bè phái. Phát hiện, lựa chọn những
người có đủ tiêu chuẩn trong các tầng lớp nhân dân, trong từng dân tộc, các
thành phần kinh tế tham gia các tổ chức chính trị, xã hội; tạo điều kiện để họ
tham gia vào các cương vị cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh có chế độ quản lý
chặt chẽ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tỉnh ủy, cấp ủy Đảng các cấp, thủ
trưởng các cơ quan cơ bản nắm chắc từng cán bộ về đức, tài, tình trạng sức khỏe,
trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sử dụng, đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng những
115
cán bộ có thành tích, đồng thời, xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán
bộ vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật nhà nước.
Hàng năm, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã thường xuyên đổi
mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ dân tộc thiểu số ở tất cả các
khâu: lựa chọn, quản lý, sử dụng và đãi ngộ, vừa động viên thúc đẩy kích
thích, vừa có yếu tố kỹ thuật nghiêm minh răn đe, ngăn chặn, vừa gắn quyền
lợi trách nhiệm của cán bộ với công việc, vừa thể hiện mục đích chính trị và ý
nghĩa nhân đạo cao cả của xã hội. Như vậy, chính sách cán bộ vừa là công cụ
điều tiết mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng cán bộ nói chung, cán bộ dân
tộc thiểu số nói riêng.
Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã tạo điều
kiện về cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh tổ chức mở lớp
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh
phê duyệt. Các cơ sở đào tạo của tỉnh đã chủ động liên kết với các học viên,
các trường đại học để mở các lớp đào tạo; chủ động cơ sở vật chất, xây dựng
kế hoạch và cử cán bộ tham gia chương trình giảng dạy theo từng chuyên đề
được giao; quản lý tốt học viên theo quy định.
Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tăng dần cả về số lượng và
từng bước nâng cao về chất lượng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững
vàng, giữ vững phẩm chất cách mạng, luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới
của Đảng; là tác nhân quan trọng góp phần lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh.
Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã.
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, sự thống nhất dân chủ của
Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng ủy xã và sự tạo điều kiện của cấp ủy
116
cấp trên, sự phối hợp chặt chẽ của thường trực Đảng ủy với các phòng, ban,
ngành của huyện đã tạo điều kiện cho cán bộ dân tộc thiểu số quy hoạch
của xã theo học các lớp chuyên môn đại học, lý luận chính trị trung cấp tại
Trường chính trị của tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị của huyện. Kết
quả thực hiện chủ trương bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc
thiểu số được quy hoạch đi học về được cấp ủy giới thiệu bầu bổ sung giữ
các chức vụ chủ chốt tại địa phương luôn tổ chức, lãnh đạo tốt nhiệm vụ
được giao.
Tỉnh đã hỗ trợ cho cán bộ, công chức cấp xã được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng 50% mức học phí nộp về cơ sở đào tạo, đồng thời tạo điều kiện về nơi
ăn, ở đối với học viên ở xa.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, sau 20 năm xây dựng, đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang đã có sự thay đổi rõ nét cả về số lượng và
chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn. Cơ cấu đồng đều
hơn về độ tuổi, giới tính, về vùng miền và nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ là người dân tộc thiểu số được qui hoạch, đào tạo và sử dụng có tính hợp lý.
Các loại hình đào tạo phù hợp, trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước và
chuyên môn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên.
4.1.1.3. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo xây dựng được
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đông đảo, cơ cấu ngày càng hợp lý, chất
lượng được nâng lên một bước đáng kể, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị của tỉnh
Đến năm 2010, toàn tỉnh có 07 huyện, thành phố với 141 xã, phường,
thị trấn. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang có 11 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, 486 tổ
chức cơ sở Đảng (243 Đảng bộ, 243 chi bộ), 41.486 Đảng viên.
Toàn tỉnh có 19.594 cán bộ công chức, viên chức, trong đó: Cán bộ,
công chức khối Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện
117
2.504 người, chiếm 12,78%; cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp 14.493 người, chiếm 73,97%; cán bộ, công chức cấp xã 2.59
người, chiếm 13,25%.
Về trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 05 người, chiếm 0,03%; Thạc sỹ
328 người, chiếm 1,67%; đại học, cao đẳng 10.70 người, chiếm
54,97%; trung cấp 7.569 người, chiếm 38,62%; còn lại có trình độ
khác 922 người, chiếm 4,71%.
Về trình độ lý luận chính trị: Tổng số cán bộ đảng viên 10.185
đồng chí; có trình độ cao cấp, cử nhân 718 đồng chí,chiếm
7,04%; trung cấp 4.393 đồng chí, chiếm 43,13%; sơ cấp và chưa
qua đào tạo 5.074 đồng chí, chiếm 4,71%.
Về cơ cấu cán bộ: Cán bộ trẻ (từ 40 tuổi trở xuống) 9.571 người,
chiếm 48,84%; cán bộ là nữ 11.519 người, chiếm 58,78%; cán bộ
dân tộc thiểu số 6.027 người, chiếm 30,76% [10, tr.1-2].
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang
Do thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán
bộ người dân tộc thiểu số nên bước đầu đã chuẩn bị được đội ngũ kế cận, bảo
đảm tính kế thừa, phát triển, khắc phục được tình trạng bị động, hẫng hụt trong
công tác cán bộ; phục vụ kịp thời cho công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các
cấp (nhiệm kỳ 2010 - 2015) và nhân sự đại biểu HĐND các cấp (nhiệm kỳ
2011 - 2016); tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số tham gia các cấp ủy nhiệm kỳ 2010
- 2015 và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 đạt và vượt yêu cầu
của Trung ương.
Về cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015) có 55
đồng chí; trong đó: Cán bộ trẻ 10 đồng chí, chiếm 18,18%; cán bộ nữ 16 đồng
chí, chiếm 29,09%; cán bộ dân tộc thiểu số 22 đồng chí, chiếm 40%.
118
Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 15 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 01 đồng
chí, chiếm 6,67%; cán bộ nữ 02 đồng chí, chiếm 13,33%; cán bộ dân tộc thiểu
số 08 đồng chí, chiếm 46,6%.
Cán bộ chủ chốt (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,
UBND tỉnh) có 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 01 đồng chí, chiếm 14,29%;
cán bộ dân tộc thiểu số 03 đồng chí, chiếm 42,85%.
Trưởng, phó sở, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tỉnh có 155
đồng chí ,trong đó: Cán bộ trẻ có 17 đồng chí, chiếm 10,96%; cán bộ nữ 30
đồng chí, chiếm 19,35%; cán bộ dân tộc thiểu số 32 đồng chí, chiếm 20,64%.
Ban Thường vụ Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy có
69 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 8 đồng chí, chiếm 11,59%; cán bộ nữ 13
đồng chí, chiếm 18,84%; cán bộ dân tộc thiểu số 19 đồng chí, chiếm 27,53%.
Cán bộ chủ chốt (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,
UBND cấp huyện) có 64 đồng chí; trong đó: Cán bộ trẻ 6 đồng chí, chiếm
9,38%; cán bộ nữ 05 đồng chí, chiếm 7,81%; cán bộ dân tộc thiểu số 31 đồng
chí, chiếm 48,43%.
Trình độ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Trình độ đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy,
ban thường vụ cấp ủy, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện; trưởng, phó sở, ban,
ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tỉnh như sau:
Cán bộ trẻ 42/366 đồng chí; trong đó: Trình độ chuyên môn trên đại
học 09 đồng chí, chiếm 21,42%; đại học 33 đồng chí, chiếm
80,58%; trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 34 đồng chí,
chiếm 80,95%, trung cấp 08 đồng chí, chiếm 19,05%.
Cán bộ nữ 67/366 đồng chí; trong đó: Trình độ chuyên môn trên đại
học 11 đồng chí, chiếm 16,41%; đại học 56 đồng chí, chiếm
83,59%; trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 65 đồng chí,
chiếm 97,01%, trung cấp 02 đồng chí, chiếm 2,91%.
119
Cán bộ người dân tộc thiểu số 117/366 đồng chí. Trong đó, trình độ
chuyên môn trên đại học 14 đồng chí, chiếm 11,96%; đại học 102
đồng chí, chiếm 87,1%; trung cấp 01 đồng chí, chiếm 0,85%; trình
độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 114 đồng chí, chiếm 97,43%,
trung cấp lý luận chính trị 03 đồng chí, chiếm 2,57% [10, tr.2].
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh
Mặc dù tỉ lệ chênh lệch giữa cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh với tỷ lệ
người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn còn, nhưng về cơ bản, Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp
tỉnh đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tỷ lệ cán bộ dân
tộc thiểu số cấp tỉnh chiếm 25% trong khi tỷ lệ dân tộc thiểu số toàn tỉnh là
51,8% chênh lệch - 26,8%.
Về trình độ lý luận chính trị, 100% số thành viên ủy ban nhân dân cấp
tỉnh đã có trình độ cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị. Tuyên
Quang cũng là tỉnh đạt tỷ lệ cán bộ có trình độ sau Đại học gần tương đương
với mức trung bình của cả nước 12,5%/14,4%.
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền Đoàn thể tỉnh, (tính đến
thời điểm 31/12/2010) [Phụ lục 7].
Tổng số: 233 đồng chí, trong đó dân tộc thiểu số 67 đồng chí cụ thể:
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy 8 đồng chí, đạt 44,66%; Ủy viên Ban
Chấp hành Tỉnh ủy 22 đồng chí đạt 40%; Bí thư tỉnh ủy 1 đồng chí; Phó Bí
thư 1 đồng chí.
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy 6 đồng chí đạt 31,57%: cấp
trưởng 4 đồng chí, cấp phó 2 đồng chí.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh 6 đồng chí, chiếm
31,57% trong đó: Cấp trưởng 3 đồng chí, cấp Phó 3 đồng chí.
120
Chủ tịch HĐND tỉnh 1 đồng chí chiếm 100%; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND tỉnh 01 đồng chí chiếm 50%.
Lãnh đạo Sở, ban ngành, tỉnh và tương đương 20 đồng chí chiếm
17,09%: Cấp trưởng 9 đồng chí; cấp phó 11 đồng chí.
Về lý luận chính trị gồm có:
Cao cấp : 64 đồng chí
Trung cấp : 6 đồng chí
Đã học quản lý Nhà nước gồm có: 42 đồng chí
Trình độ chuyên môn gồm có:
Thạc sĩ : 12 đồng chí
Đại học, cao đẳng : 54 đồng chí
Trung cấp : 2 đồng chí
Trình độ ngoại ngữ:
Bằng C trở lên : 12 đồng chí
Bằng A, B : 34 đồng chí.
Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường
vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh [Phụ lục 8].
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh: 04 đồng chí đạt 40%.
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy: 01 đồng chí đạt 25%.
Lãnh đạo Sở, ban, ngành Tỉnh và tương đương: 01 đồng chí đạt 10%.
Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường
vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh [Phụ lục 9].
Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh: 06 đồng chí đạt 37,5%.
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy: 01 đồng chí đạt 50%.
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy: 02 đồng chí đạt 28,57%.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh: 03 đồng chí đạt 60%.
Lãnh đạo Sở, ban, ngành Tỉnh và tương đương: 02 đồng chí đạt 15,38%.
121
Điều này chứng tỏ, Đảng bộ Tuyên Quang rất quan tâm việc đào tạo, sử
dụng cán bộ dân tộc thiểu số có trình độ cao để đảm đương nhiệm vụ, ở các vị
trí chủ chốt trong hệ thống chính trị của tỉnh. Phần lớn các đồng chí cán bộ
dân tộc thiểu số có trình độ từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ đều được bố trí vào các
cương vị xứng đáng trong hệ thống chính trị. Nguyên tắc bình đẳng dân tộc đã
được vận dụng vào công tác cán bộ một cách nhuần nhuyễn, biện chứng,
khẳng định sự quan tâm của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số hiện nay. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh phát triển
đồng đều về chất lượng, có số lượng khá đông đảo, đã thực sự đảm đương tốt
các trọng trách trên cương vị công tác của mình.
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện
Cơ cấu dân tộc trong đội ngũ cán bộ cấp huyện ở miền núi phía Bắc
gồm 2 bộ phận cấu thành: bộ phận cán bộ dân tộc thiểu số và bộ phận cán
bộ người Kinh. Sự hình thành 2 bộ phận cán bộ này ở miền núi phía Bắc
"một mặt phản ánh thực trạng đội ngũ cán bộ ở các địa phương; mặt khác
cũng thể hiện rõ chính sách dân tộc và chính sách cán bộ của Đảng và Nhà
nước ta" [117, tr.94]. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và tương trợ trong
chính sách dân tộc được phản ánh rõ nét qua cơ cấu của đội ngũ cán bộ.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị cấp huyện của các tỉnh miền núi
phía Bắc hoạt động khá đều, góp phần thực hiện có hiệu quả các Nghị
quyết của Đảng, các chương trình mục tiêu quốc gia, mang lại cuộc sống
mới cho đồng bào các dân tộc thiểu số, song đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số ở cấp huyện vẫn còn thiếu hụt khá trầm trọng ở hầu hết các tỉnh miền
núi phía Bắc. "Trong 15 tỉnh, chỉ duy nhất có tỉnh Tuyên Quang đã xây
dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện đạt tỉ lệ +8,2% so với
tỷ lệ dân tộc trong cơ cấu dân cư của tỉnh" [117, tr.94].
Về cơ cấu độ tuổi: Độ tuổi của đội ngũ cán bộ trong ủy ban nhân dân
cấp huyện đại bộ phận các thành viên đang ở độ tuổi 35 - 50.
122
Về trình độ học vấn: Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân cấp huyện có
trình độ học vấn phổ thông trung học đạt 100%.
Về chất lượng chuyên môn: Nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trong hệ thống chính trị cấp huyện cũng được nâng lên rõ nét,
100% các huyện có thành viên ủy ban có trình độ chuyên môn từ trung
cấp trở lên.
Thành tựu về nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện là kết quả tất yếu của chính sách cử
tuyển cao đẳng, đại học từ 1990 đến nay. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác
nhau về chất lượng đào tạo của hệ cử tuyển đại học và cao đẳng, song
chính sự khôi phục và phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, kết
hợp với thực hiện chế độ cử tuyển con em các dân tộc thiểu số vào các
trường cao đẳng, đại học đã cải thiện nhanh chóng tình trạng thiếu hụt cán
bộ dân tộc thiểu số.
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường vụ
tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện [Phụ lục 10].
Tổng số 133 đồng chí, trong đó dân tộc thiểu số 50 đồng chí
Cụ thể:
Ủy viên Ban Thường vụ huyện, Thị ủy, Đảng ủy trực thuộc 19 đồng chí
đạt 27,53%.
Bí thư, Phó Bí thư huyện, Thị ủy, Đảng ủy trực thuộc 13 đồng chí
đạt 41,93%.
Chủ tịch HĐND huyện, Thị xã 5 đồng chí đạt 50%.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, Thị xã 13 đồng chí đạt 56,52%
Về lý luận chính trị:
Cao cấp: 50 đồng chí
Đã học quản lý Nhà nước: 32 đồng chí.
123
Về trình độ chuyên môn:
Thạc sĩ: 02 đồng chí
Đại học, cao đẳng: 48 đồng chí
Về trình độ Ngoại ngữ:
Bằng C trở lên: 3 đồng chí
Bằng A, B: 23 đồng chí.
Đội ngũ cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi) dân tộc thiểu số đương chức thuộc
diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp
huyện [Phụ lục 11].
Ủy viên BTV Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 01 đồng chí đạt 12,5%
Bí thư huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 01 đồng chí đạt 50%.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 33,23%.
Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường
vụ tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện [Phụ lục 12].
Ủy viên BTV Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 04 đồng chí đạt 30,76%.
Bí thư, Phó Bí thư huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 02 đồng chí
đạt 100%.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 100%.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 50%.
Về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã:
Sau 20 năm củng cố và xây dựng, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong
hệ thống chính trị cấp xã đã phát triển khá về số lượng và cơ cấu thành phần
dân tộc. Hầu hết các dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại các vùng của
tỉnh đều có đại biểu của mình tham gia vào hệ thống chính trị cấp xã của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ cấp xã, phường có từ 15 đến 23 người tùy theo điều kiện của
từng địa phương. Nhiều nơi chỉ có từ 12 đến 15 người. Tỷ lệ cán bộ dân tộc
thiểu số tính đến năm 2010 chiếm 51%. Điều này chứng tỏ, nhờ sự nỗ lực của
124
nhân dân các dân tộc, sự quan tâm đầu tư của Đảng bộ, của Ủy ban nhân dân
các cấp, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã ở Tuyên Quang thực sự có
bước phát triển nhanh chóng, đảm nhiệm hầu hết các chức danh trong hệ
thống chính trị cấp xã. Nếu so sánh thì tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ
thống chính trị cấp xã tương đương với tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong
dân cư. Trong khi đó, tỉnh Hà Giang tỷ lệ chênh lệch giữa cán bộ dân tộc
thiểu số trong hệ thống chính trị cấp xã với tỷ lệ dân tộc thiểu số trong dân
cư vẫn cao "Hà Giang tỉ lệ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số chiếm
80,7%" [117, tr.86] nhưng "chênh lệch là -7,2%" [117, tr.86].
Về cơ cấu độ tuổi:
Thực hiện chủ trương trẻ hóa từng bước đội ngũ cán bộ, các huyện thị,
trong tỉnh đã tiến hành tích cực và chắc chắn, cố gắng đảm bảo tiêu chuẩn,
quy định, đồng thời kết hợp tốt cơ cấu có tính kế thừa và phát triển. Tuyên
Quang là một tỉnh thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã
tương đối mạnh mẽ, khoảng 29,6%. Tỷ lệ này "phản ánh đúng thực trạng
chung về cơ cấu tuổi đời của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi phía
Bắc. Điều đó thể hiện rõ quá trình đổi mới từng bước vững chắc, có kế thừa
và phát triển của đội ngũ cán bộ tương xứng với nhiệm vụ cách mạng trong
tình hình mới" [117, tr.91].
Về trình độ học vấn:
Đội ngũ cán bộ cấp xã có trình đội học vấn phổ thông trung học đạt
81,8%. Tỉ lệ này khá cao so với nhiều tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang,
Lai Châu, Sơn La.
Do thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và
luân chuyển cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số nên tỉnh
Tuyên Quang bước đầu đã chuẩn bị được đội ngũ kế cận, đảm bảo tính kế
thừa, phát triển khắc phục tình trạng bị động, hẫng hụt trong công tác cán bộ;
125
phục vụ kịp thời cho công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp (nhiệm kỳ
2010 - 2015) và nhân sự đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2011
- 2016); tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy
nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011
- 2016 đạt và vượt yêu cầu của Trung ương.
* Nguyên nhân ưu điểm
Đảng bộ tỉnh đã thấm nhuần quan điểm cán bộ là gốc, mọi việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, nên đã thường xuyên quan tâm,
chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu, nguyên tắc của Đảng về
công tác cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.
Các cấp ủy, chính quyền các cấp đã kịp thời ban hành và cụ thể hóa các
quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực
hiện, Đảng bộ tỉnh đã chủ động nghiên cứu, phát hiện và kịp thời sửa đổi, bổ
sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của từng vùng của địa phương.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số đã được Đảng bộ
thường xuyên chỉ đạo thực hiện. Nhờ vậy, trình độ cán bộ dân tộc thiểu số của
tỉnh được nâng lên cả về chuyên môn, lý luận chính trị và kinh nghiệm thực tiễn.
Tập thể cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị luôn giữ
vững nguyên tắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, Đảng
ủy xã có truyền thống đoàn kết, thống nhất tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo điều hành.
Có sự quan tâm của các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Chấp
hành Huyện ủy các cơ quan, ban, ngành phụ trách xã thường xuyên xuống hỗ
126
trợ, giúp đỡ địa phương trong công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ dân tộc
thiểu số tại địa phương.
4.1.2. Một số hạn chế
Một là: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số; ở một số nơi chưa gắn
kết công tác quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển, điều động, bố
trí cán bộ
Hai là: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số còn nhiều
bất cập, cả ở tầm vĩ mô của Trung ương và cả trong việc thực hiện của tỉnh.
Một số lớp đào tạo chuyên môn không mở được tại tỉnh như dự kiến vì không
đủ số lượng học viên theo yêu cầu. Cán bộ công chức cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã đi học các lớp đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp do tỉnh tổ chức
chiếm tỷ lệ còn thấp.
Mặc dù đi đào tạo theo các lớp học tại chức (hệ vừa học vừa làm)
nhưng trong thời gian theo học vẫn đi làm, ảnh hưởng nhất định đến lĩnh vực
công tác. Do vậy, khi được phân công công tác việc nắm bắt và giải quyết
công việc không kịp thời, cá biệt, có một số đồng chí sau khi được đào tạo
không phát huy được năng lực, không biết vận dụng những kiến thức được
học vào thực tiễn công tác.
Trên 90% các đồng chí cán bộ lãnh đạo quản lý đương chức đi đào tạo
về chuyên môn đều học hệ tại chức và 70% đào tạo lý luận chính trị học hệ tại
chức. Do vậy, có sự chi phối giữa công việc đang làm việc, việc học tập của
cán bộ nên đã ảnh hưởng tới chất lượng học tập của cán bộ.
Ba là: Việc thu hút, sử dụng cán bộ có trình độ, cán bộ dân tộc thiểu số
được đào tạo tại các cơ sở của Trung ương về địa phương công tác tiến hành
chưa hiệu quả. Mặt khác, trên địa bàn tỉnh, lại có hiện tượng chảy máu chất
127
xám. Nhiều cán bộ được tỉnh cử đi đào tạo, khi tốt nghiệp không muốn về địa
phương công tác. Hơn nữa, một số chính sách sử dụng và chính sách thu hút
cán bộ của tỉnh đưa ra nhưng chưa thực hiện được, nên nhiều cán bộ khi được
đào tạo trở về không được bố trí, sắp xếp phù hợp với chuyên môn đào tạo,
không được quan tâm đúng mức, nên hiệu quả sử dụng không cao, không đáp
ứng dược yêu cầu của tình hình thực tiễn.
Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho cán bộ dân tộc thiểu số
cấp Sở, cấp huyện, các kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ hành chính và bồi
dưỡng theo các chức danh cấp xã còn hạn chế.
Việc đầu tư cơ sở vật chất thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và
học tập ở các cơ sở đào tạo trong tỉnh còn bất cập.
Chưa xây dựng được cơ chế thu hút cán bộ khoa học - công nghệ về
tỉnh công tác, số lượng cán bộ thu hút về tỉnh không nhiều. Nhiều ngành nghề
chưa thu hút được cán bộ có học hàm, học vị cao về tỉnh công tác, đặc biệt là
đối với những ứng viên là người dân tộc thiểu số. Việc hỗ trợ đi đào tạo trình
độ sau đại học chỉ thực hiện sau khi thi tốt nghiệp. Vì vậy, chưa động viên,
khuyến khích cán bộ công chức, viên chức, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số
đi học để nâng cao trình độ chuyên môn.
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ tri thức của tỉnh phục vụ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số còn hạn chế về số lượng và chất lượng,
chưa đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị được giao.
Bốn là: Công tác luân chuyển cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc
thiểu số còn chậm. Việc đánh giá, nhận xét cán bộ người dân tộc thiểu số
trước và sau luân chuyển còn hạn chế. Một số cán bộ được luân chuyển giữ
chức vụ mới thời gian còn ngắn và chưa hợp lý, phần nào ảnh hưởng tới thực
hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị và tâm lý của cán bộ, đảng viên. Chưa
128
xây dựng được chính sách cụ thể về luân chuyển để động viên, khuyến khích
đối với cán bộ người dân tộc thiểu số.
Năm là: Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số chưa đều giữa các dân tộc, chủ
yếu nằm trong 3 dân tộc trên tổng số 22 dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh
như Tày, Sán Dìu, Dao.
Mặc dù công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ,
cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số đến năm 2010 đạt được một số kết quả
đáng kể, nhưng trong quá trình thực hiện còn chậm, khép kín trong địa
phương. Có huyện chưa nhận thức được đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan
trọng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Chất lượng cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có nơi, có mặt
chưa đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài, chưa ngang tầm với nhiệm
vụ trong tình hình hiện nay. Một số cán bộ thiếu chủ động, sáng tạo trong
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ trí thức là người
dân tộc thiểu số còn mỏng, chưa có nhiều cán bộ giỏi, chất lượng, năng lực
thực hành còn hạn chế. Còn có cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức và lối sống, cá nhân chủ nghĩa, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
* Nguyên nhân của hạn chế:
Nhận thức của một số cấp ủy đảng, cán bộ về công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chưa đầy đủ; năng lực cán bộ hạn chế, chưa
dự báo được tình hình và yêu cầu trong giai đoạn mới, còn nhiều lúng
túng, thiếu tính chủ động trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số.
Một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm
đúng mức đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, chưa có
biện pháp tích cực trong quản lý, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
129
Một số chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số chậm được hoàn
thiện, chưa theo kịp sự vận động của tình hình thực tiễn.
Tính dân chủ trong công tác cán bộ chưa thực sự được phát huy, một số
quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số có điểm chưa phù hợp
nhưng chưa được bổ sung, điều chỉnh kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế đó là do: Đảng bộ các cấp chưa thực
sự chú trọng việc phát hiện, lựa chọn cán bộ dân tộc thiểu số có năng lực,
triển vọng phát triển và đưa vào quy hoạch hoặc cử đi đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; chưa thực sự quan tâm trong
quá trình giao nhiệm vụ, rèn luyện thử thách qua thực tiễn, tích lũy kiến thức
và kinh nghiệm của cán bộ dân tộc thiểu số để cán bộ trưởng thành, tạo nguồn
cán bộ lâu dài.
Đảng bộ tỉnh chưa có chính sách cụ thể đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và chính sách đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc
thiểu số được luân chuyển.
Việc xây dựng kế hoạch mở các lớp đào tạo ngoài việc căn cứ vào nhu
cầu do cơ quan, đơn vị đăng ký với tỉnh, còn lại phải căn cứ vào yêu cầu dịch
chuyển cơ cấu theo ngành nghề, theo cơ cấu kinh tế của tỉnh, do đó, chỉ tiêu
đào tạo, bồi dưỡng một số chuyên ngành chưa phù hợp với thực tế, bồi dưỡng
kiến thức quản lý nhà nước quá cao trong khi việc đào tạo chuyên môn đối
với công chức cấp xã nói riêng và cán bộ, công chức nói chung phải theo quy
định chung của Nhà nước. Do vậy, mà số lượng học viên không đạt để có thể
mở lớp đào tạo theo kế hoạch.
Một số Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện còn thiếu kiên quyết
trong chỉ đạo, thực hiện các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Một số xã, phường,
thị trấn chưa kiên quyết cử cán bộ, công chức thiếu trình độ so với chức
130
danh đang đảm nhiệm đi học hoặc người được cử đi học; cán bộ không
muốn đi vì sợ đi học mất vị trí công tác, mất công việc đảm nhiệm sau khi
học xong.
Mặc dù tỉnh đã có chế độ thu hút, đào tạo, sử dụng nhân tài, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là người địa phương về tỉnh công tác, song số lượng người về không cao. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn hạn chế; môi trường làm việc thiếu hấp dẫn.
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số chưa được phát triển đều trên tỉ lệ các dân
tộc thiểu số. Nguyên nhân là do tính cục bộ của dân tộc thiểu số, của những cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số khi quy hoạch, sử dụng cán bộ luôn có tính ưu tiên cho cộng đồng dân tộc của mình.
Do tính đặc thù của các huyện trong tỉnh, có huyện có nhiều dân tộc thiểu số như Na Hang, Chiêm Hóa, trình độ dân trí từ phổ thông hạn chế nên thiếu nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đủ tiêu chuẩn để bổ nhiệm chức danh lãnh
đạo, quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, thị trấn. Chính vì vậy, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, thị trấn, khi bố trí vào chức danh lãnh đạo còn nợ một số bằng cấp, dẫn đến việc đào tạo chủ yếu là
để trả nợ bằng cấp, hình thức đào tạo chủ yếu là học tại chức (vừa học, vừa làm) về chuyên môn, chính trị.
Nội dung đào tạo theo hình thức, nợ gì, đào tạo đó, nợ chuyên môn, đào tạo chuyên môn, nợ lý luận chính trị đi đào tạo về lý luận chính trị hoặc quản
lý nhà nước... Công tác quản lý chất lượng đào tạo của các trường cho hệ vừa học vừa làm còn lỏng lẻo, chất lượng đào tạo kém.
Chưa có trường đại học tại tỉnh và công tác cử cán bộ, dân tộc thiểu số
đi đào tạo tại các trường hàng năm của các huyện còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong huyện.
Những ưu điểm cũng như những hạn chế trên đây đã được Tỉnh ủy
Tuyên Quang tiếp thu, vận dụng cũng như rút kinh nghiệm trong quá trình
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những giai đoạn tiếp theo.
131
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Trên cơ sở kết quả lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; đồng thời, từ nguyên nhân dẫn dến những kết quả và hạn chế
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang,
có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
4.2.1. Phải nắm vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ, quản lý cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn
đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ,
mở rộng và phát huy dân chủ, công khai công bằng, có tình, có lý trong thực
hiện công tác cán bộ dân tộc thiểu số.
Đảng bộ tỉnh đã phát huy dân chủ trong tất cả các khâu của công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Luôn lắng nghe, trao đổi, thảo
luận công khai giữa tập thể và cá nhân trong cấp ủy, ban, ngành và các tổ
chức chính trị. Những ý kiến khác nhau trong quyết định về các khâu trong
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số sẽ được bàn bạc, thống nhất và
thảo luận lại.
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã phát huy được tính chủ động, sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân và người đứng đầu. Hiệu quả của việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng bộ trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số chính là đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị trên tất cả các khâu của công tác cán bộ nhằm xây dựng
được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong toàn hệ thống, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ, tạo sự đồng thuận của đồng bào các dân tộc trong tỉnh.
132
Đảng bộ tỉnh cũng không ngừng cải tiến các quy trình trong công
tác nhân sự của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội trong tỉnh. Trong thực tế, các cấp ủy Đảng đã thường
xuyên quan tâm, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và chuẩn bị tốt
vấn đề nhân sự khi giới thiệu những cán bộ dân tộc thiểu số để bầu vào
các cơ quan dân cử. Hầu hết những cán bộ dân tộc thiểu số được giới
thiệu và đề cử đều được dân tin và bầu chọn. Điều đó đã chứng minh sự
đúng đắn, khách quan và khẳng định vai trò quyết định của Đảng bộ trong
công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị cũng như sự sáng tạo của Đảng
bộ trong phương thức lãnh đạo xây dựng và quản lý, sử dụng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,
Đảng bộ luôn chủ động, tích cực và có quyết tâm cao. Vừa làm, vừa rút kinh
nghiệm, vừa sáng tạo để phù hợp với điều kiện, đặc điểm của tình hình kinh
tế, chính trị - xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng không ngừng
kiện toàn các cơ quan tham mưu cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Dân tộc miền núi...
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
bộ tỉnh Tuyên Quang đã mạnh dạn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thể hiện sự quyết tâm
chính trị cao của toàn Đảng bộ. Đảng bộ tỉnh phải trực tiếp thực hiện vai trò
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đồng thời, không ngừng
nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc về đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác này, tạo sự đồng thuận
của các cấp, các ngành trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang được thể hiện
trong việc Đảng bộ đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách cán bộ
133
dân tộc thiểu số; thông qua các cấp, ngành, đoàn thể thực hiện đúng quy trình,
thủ tục, pháp luật của Nhà nước, điều lệ của các đoàn thể và các tổ chức xã
hội. Phân công, phân cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các khâu trong xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số của các ngành, các cấp.
Với tinh thần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và những kinh nghiệm tích
lũy được, chắc chắn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang sẽ tiếp tục có những bước chuyển biến mới, góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2.2. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể,
các cơ quan đơn vị nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Trong toàn bộ quy trình của công tác cán bộ, từ công tác đánh giá,
quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ đến công tác luân
chuyển và thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số, nếu có nhận thức
đúng thì sẽ có cơ sở tổ chức thực hiện đúng, sát hợp với tình hình thực tế,
phát huy được vai trò của các đơn vị, tổ chức, lực lượng trong quá trình
thực hiện. Nhờ có nhận thức đầy đủ về việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số và vai trò của đội ngũ này, nên sau khi tách tỉnh (năm 1991),
Đảng bộ, chính quyền tỉnh Tuyên Quang một mặt hỗ trợ khó khăn cho đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số luân chuyển từ nơi khác đến, mặt khác, tập
trung nghiên cứu, xây dựng đề án, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số. Nhờ vậy, tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng được một đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số tương đối ổn định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của tỉnh nói riêng và nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
134
Thành tựu của gần 20 năm (1991 - 2010), xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số là kết quả trực tiếp của quá trình không ngừng đổi mới
tư duy trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tuy nhiên,
vẫn còn tình trạng thiếu hụt cán bộ dân tộc thiểu số trong cơ cấu thành viên
Ủy ban nhân dân các cấp. Thực chất đây là biểu hiện về nhận thức chưa đầy
đủ của cán bộ lãnh đạo cấp ủy và chính quyền địa phương đối với công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Thực tế đó đang đặt ra vấn đề phải
tiếp tục đổi mới nhận thức đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số. Để thực hiện hiệu quả công tác này, cần quán triệt sâu sắc các quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trong toàn bộ hệ thống chính trị của tỉnh. Từ đó, làm chuyển biến
nhận thức của đội ngũ cán bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở, trước hết là những cán
bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt của từng cấp, từng ngành nhằm tạo ra sự đồng
thuận xã hội, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; từng bước nâng cao vai trò phối hợp giữa các cơ quan trong hệ
thống chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể cùng cấp
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đặc biệt, trong quá
trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải có mối liên hệ và sự
thống nhất giữa các cơ quan ban ngành như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội
vụ, Ban Dân tộc, Ban Tôn giáo và các cơ quan, ban ngành, Trường Chính trị
tỉnh, Trường trung học phổ thông dân tộc nội trú.
4.2.3. Hệ thống chính trị trong toàn tỉnh phải có sự quyết tâm cao
trong việc xây dựng chủ trương, định hướng chỉ đạo, điều hành, quản lý,
phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng các lực lượng tiến hành công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
Tỉnh Tuyên Quang ngay sau khi tách tỉnh đã chủ trương: Thành lập
Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh ngày 28/4/1992, giao nhiệm vụ cho
trường đào tạo bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lý luận chính trị, xã hội
135
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã phường thị trấn. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các
ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó, chú ý đến cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ dân tộc ít người. Từ khi được giao nhiệm vụ, trường Chính trị tỉnh
Tuyên Quang dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, đã liên kết với nhiều trường đại học trong nước và các ban,
ngành, đoàn thể trong tỉnh luôn hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ nói chung và cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng đạt chuẩn trong hệ
thống chính trị của tỉnh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần điều chỉnh, sửa đổi một số vấn đề
bất cập trong cơ chế, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Đó là: Sự mất cân đối giữa số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số trong quá trình xây dựng; sự bất cập trong quy hoạch tạo
nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở hệ thống chính trị cấp huyện, xã
với các ban ngành sở trong hệ thống chính trị cấp tỉnh; sự bất cập giữa quy
hoạch cán bộ với quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính
trị của tỉnh; sự bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ưu tiên, cử
tuyển, ưu tiên tuyển sinh ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh
Tuyên Quang nói riêng.
Những bất cập trên đây đã gây nên những trở ngại trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, đặt ra yêu cầu
khách quan là phải thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực
tiễn, kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời điều chỉnh chính
sách nhằm khắc phục những bất cập đó.
4.2.4. Phải thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các khâu công tác cán
bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Chất lượng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số không chỉ phụ thuộc
vào một khâu của công tác cán bộ mà chịu ảnh hưởng bởi tất cả các khâu, từ
đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán
136
bộ. Nếu công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số thực sự có hiệu quả,
hiệu lực thì việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ theo quy hoạch sẽ
tạo điều kiện cho cán bộ dân tộc thiểu số có cơ hội phấn đấu vươn lên.
Trong đánh giá cán bộ, Đảng bộ tỉnh đã nâng cao ý thức và kiến thức đối với những người tham gia đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số. Người có thẩm quyền đánh giá phải có hiểu biết khá sâu sắc công việc, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của người mà mình được đánh giá và những thông tin đầy đủ, chân thực về bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình cán
bộ dân tộc thiểu số đó. Mặc dù có những chính sách ưu tiên đối với đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số nhưng khi đánh giá cán bộ cũng không nằm ngoài các tiêu chí đánh
giá của công tác cán bộ nói chung. Phẩm chất và năng lực của người cán bộ dân tộc thiểu số phải được khẳng định trong suốt quá trình công tác, trong mối quan hệ với môi trường, hoàn cảnh, điều kiện khách quan, chủ quan
từng thời kỳ và các chức vụ đã đảm nhiệm của người cán bộ đó. Đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số cũng theo đúng nội dung: Công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm. Đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số cũng
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm pháp lý của cấp có thẩm quyền về đánh giá cán bộ.
Trong quy hoạch cán bộ, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể và đồng bào các dân tộc thiểu số về vai trò của công tác quy hoạch cán bộ. Nhận thức đúng vai trò của công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số để thực hiện
nghiêm túc, đúng đắn các quy định của cấp trên về công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số. Khi tạo được nhận thức đúng đắn, sự đồng thuận trong mỗi cấp ủy, ban, ngành, các đoàn thể thì công tác quy hoạch mới thực sự
được chú trọng với quyết tâm cao và những giải pháp mạnh, có tính đột phá để khắc phục yếu kém.
137
Phải đảm bảo tính khoa học, khả thi trong công tác quy hoạch cán bộ
dân tộc thiểu số. Để bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm
vụ trước mắt và lâu dài, mỗi chức danh cán bộ được quy hoạch phải đáp ứng
những điều kiện và tiêu chí nhất định mà ngay lúc tham dự quy hoạch họ
chưa có được. Quy hoạch đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các cấp bao gồm
cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn. Đặc biệt, vấn đề đào tạo,
bồi dưỡng, rèn luyện và sự quan tâm xem xét để đề bạt cán bộ sau quy hoạch
là những nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả
của công tác quy hoạch.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sát đúng với tình
hình thực tế từ số lượng, cơ cấu, độ tuổi, giới tính và thâm niên công tác phù
hợp với thực trạng, năng lực, cơ sở đào tạo.
Đảm bảo tính khoa học trong quy hoạch công tác cán bộ dân tộc thiểu
số sẽ thực sự tạo nguồn cho mỗi chức danh, thúc đẩy sự vươn lên của mỗi
cán bộ dân tộc thiểu số cho dù được hay chưa được quy hoạch, đảm bảo sự
đoàn kết, công bằng. Đồng thời, chống tư tưởng cơ hội chạy theo quy hoạch
hoặc cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Quy hoạch được thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ.
Đảng bộ tỉnh thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các cấp ủy, ban, ngành, đoàn
thể nhằm thực hiện tốt quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số, đưa công tác này
đi vào nền nếp.
Trong lãnh đạo công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu
số, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang xác định nâng cao chất lượng đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch là giải pháp quan trọng trong thực hiện
chiến lược cán bộ nói chung. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cần tuân thủ đúng các bước trong quá trình
thực hiện. Trong tổ chức thực hiện, cần tăng cường kiểm tra, đánh giá, rút
kinh nghiệm về kế hoạch và quy trình mở các lớp, đặc biệt là quản lý lớp
138
học, tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả, theo dõi sau khóa học. Đồng thời,
phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận quản lý đào tạo, bồi dưỡng của Ban Tổ
chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ với Trường Chính trị, đơn vị tổ chức bồi dưỡng
cán bộ.
Quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đề cao tính chủ động,
tích cực, tự bồi dưỡng, rèn luyện của cán bộ. Thực hiện thường xuyên,
nghiêm túc việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc đánh
giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cần thực hiện nghiêm túc, học viên được đóng
góp ý kiến về tổ chức lớp học, nội dung chương trình, về chất lượng giảng
dạy, về cơ sở vật chất và phục vụ.
Tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, cử cán bộ đi học và cơ sở đào
tạo, với Ban Tổ chức các cấp; theo dõi chất lượng sau khóa học để khắc phục
kịp thời những hạn chế, kiên quyết không bố trí, đề bạt cán bộ không hoàn
thành nhiệm vụ học tập. Phát huy tính chủ động, tích cực, tự bồi dưỡng, rèn
luyện của cán bộ.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng
bộ tỉnh chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên của các
trường đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị đóng trên địa bàn của
tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:
Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung
phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng
cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình. Thực hiện quan điểm đó,
để nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận liên hệ với thực tiễn, Tỉnh ủy
Tuyên Quang đã phân công các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy
khóa XIV tham gia giảng dạy tại một số chuyên đề cho các lớp chuyên
cấp lý luận chính trị tại trường chính trị tỉnh theo Thông báo số 115-
139
TB/TG, ngày 30/03/2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Giám hiệu
nhà trường chỉ đạo các khoa chuyên môn mời các đồng chí lãnh đạo Sở,
ban, ngành trực tiếp tham gia giảng dạy đối với các lớp Trung cấp lý luận
chính trị, bồi dưỡng chuyên viên" [115, tr.112-113].
Tỉnh Tuyên Quang cũng đã duy trì hệ thống các trường THPT dân tộc
nội trú của tỉnh để tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số lâu dài cho địa phương.
Coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngay từ trong trường phổ
thông. Có chính sách quản lý, hỗ trợ, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em các
dân tộc thiểu số học tập tại các trường cao đẳng, đại học. Đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác quản lý, nuôi dạy đối với các trường phổ thông dân tộc
nội trú. Không ngừng chăm lo, xây dựng đào tạo đội ngũ trí thức trẻ người
dân tộc thiểu số.
Trong công tác luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang luôn quan tâm đến công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận
thức tư tưởng đối với công tác luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số của các
cấp ủy đảng, nhất là các cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ sở nơi đi, nơi
đến và cán bộ dân tộc thiểu số diện luân chuyển về chủ trương luân chuyển
cán bộ của Đảng.
Đảng bộ giao cho các cấp ủy đảng, ban, ngành, đoàn thể xây dựng kế
hoạch cụ thể luân chuyển theo đúng quy định và hướng dẫn của Trung ương.
Bên cạnh đó, có những chính sách phù hợp với hoàn cảnh của địa phương, đối
tượng cán bộ luân chuyển để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác luân chuyển
cán bộ dân tộc thiểu số đạt hiệu quả. Đảng bộ tỉnh cũng thường xuyên tăng
cường kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, cơ quan, địa phương
thực hiện tốt hoặc không thực hiện nghiêm quyết định của cấp ủy, làm ảnh
hưởng tới quy trình luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính
trị của tỉnh.
140
Trong công tác bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh
đã mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ người dân tộc thiểu số; thường xuyên
giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và nhận xét, đánh giá đúng để đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số trưởng thành về mọi mặt.
Trong công tác nhân sự, phải giữ vững nguyên tắc, nhất quán về
quan điểm giữa công tác quy hoạch cán bộ với việc bố trí, sử dụng cán bộ
người dân tộc thiểu số; trong qui hoạch và thực hiện qui hoạch; trong đào
tạo và sử dụng cán bộ.
Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, sử dụng hiệu quả cho
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Hàng năm, cần dành
một khoản ngân sách nhất định của tổng chi cho công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số, xây dựng cơ chế phân bố nguồn kinh phí hợp lý,
đáp ứng nhu cầu của công việc. Có chính sách, chế độ thỏa đáng cho đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đây là một trong những động lực, kích thích
vật chất và tinh thần đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Nhận thức được vấn
đề, tỉnh Tuyên Quang đã có những chính sách đãi ngộ kịp thời, động viên
tinh thần đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, góp phần tác động không nhỏ đến
quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Với chính sách này,
Tuyên Quang đã thu hút được nhân tài từ các nơi khác về tỉnh công tác.
Đặc biệt, là những cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang đang
sống và làm việc ở nơi khác trở về tỉnh công tác đã được tỉnh mạnh dạn bổ
nhiệm vào những chức danh lãnh đạo, quản lý thích hợp.
4.2.5. Mạnh dạn bố trí cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số một
cách hợp lý, bổ sung tạo nguồn trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Bố trí cán bộ vào làm những công việc thích hợp, cần tin ở các cán bộ
trẻ. Tuổi trẻ tuy có những nhược điểm nhất định, như có trình độ văn hóa,
khoa học kỹ thuật, được đào tạo cơ bản, có sức bật, nhạy bén, xông xáo, mạnh
141
dạn tiếp thu cái mới, nên được bồi dưỡng, kèm cặp tốt, chắc chắn họ sẽ hoàn
thành tốt công việc được giao.
Cử nhiều cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số tham gia các lớp cao cấp lý
luận chính trị đào tạo sau đại học để nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ. Thực hiện việc đưa cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số lên giữ các
chức vụ chủ chốt cấp xã như chức vụ Phó Bí thư, Phó Chủ tịch xã ... tạo điều
kiện cho các cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số tiếp cận cơ sở, gần dân, sát dân,
bổ sung kinh nghiệm, kỹ năng làm việc, đặc biệt là có kiến thức trải nghiệm
thực tế để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý là người dân tộc thiểu số ở cấp
cao hơn trong hệ thống chính trị của tỉnh.
Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số có đủ
tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển lâu dài để bố trí vào những cương vị
chủ chốt, coi trọng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số có đức, có tài, có năng
lực thực tiễn, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh
Tuyên Quang.
Điểm sáng tạo của Tuyên Quang trong trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số, quy hoạch đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trẻ trong cán bộ
trẻ. Việc thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nhiều nơi như
Yên Bái, Hà Giang được quan tâm ở hai góc độ là tuổi tác và tư duy. Còn ở
Tuyên Quang, trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được lựa chọn chính
trong đội ngũ cán bộ trẻ về tuổi tác của tỉnh. Phát hiện trong đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trẻ những cán bộ có năng lực, phẩm chất chính trị nổi bật,
tâm huyết và trách nhiệm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ để quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, bổ sung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp. Công tác
trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được triển khai và thực hiện một
cách đồng bộ và được xác định là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh. Đặc biệt là từ sau
142
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác trẻ hoá
cán bộ dân tộc thiểu số được chú trọng đến chất lượng cán bộ, bởi cán bộ
chính là gốc của mọi công việc, cán bộ có mạnh thì mọi việc mới thực hiện
tốt và có hiệu quả.
Quan điểm lựa chọn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán
bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số trẻ không phải chỉ
để đủ về cơ cấu mang tính hình thức, mà là cách làm thực chất, là quá
trình đi tìm, phát hiện người tài, xứng đáng để khơi dậy và đánh thức
những tiềm năng cán bộ dân tộc thiểu số ở các cấp, phục vụ cho sự phát
triển của địa phương. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó nên Đảng bộ Tỉnh
Tuyên Quang đã rất kỹ lưỡng thực hiện trên tất cả các khâu của công tác
cán bộ và có tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch trẻ hóa đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số.
Cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số hiện nay về cơ bản đều được đào
tạo có bài bản, có trình độ chuyên môn. Bên cạnh tạo môi trường làm việc
thuận lợi để cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số phát huy thế mạnh của mình,
Đảng bộ cũng triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện đội ngũ cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số.
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn phát huy vai trò của tổ chức Đoàn
Thanh niên việc phát hiện và lựa chọn đoàn viên, hội viên tiêu biểu là người
dân tộc thiểu số, giới thiệu cho Đảng để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bổ
sung vào đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Nắm rõ vị trí, vai trò của tổ chức
Đoàn Thanh niên trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,
Đảng bộ tỉnh đã quan tâm củng cố tổ chức Đoàn, hội. Giao nhiệm vụ cho
Đoàn, hội phải thường xuyên củng cố tổ chức vững mạnh, tích cực đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động để tập hợp đoàn viên, hội viên tham gia các
phong trào. Quan tâm đến các tổ chức Đoàn, hội ở vùng sâu vùng xa, vùng
143
đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích con em dân tộc thiểu số tham gia
hoạt động và mạnh dạn nhận nhiệm vụ trong tổ chức Đoàn Thanh niên. Từ đó
phát hiện những nhân tố tiêu biểu bổ sung nguồn và quy hoạch cho đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số.
Để tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tiếp theo, tỉnh Tuyên Quang
cần phải giải quyết tốt những vấn đề đặt ra sau đây:
Thứ nhất: Tiếp tục đổi mới nhận thức về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số. Để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách
mạng mới.
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang cần vận dụng đúng đắn, sáng tạo chính sách
của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong
từng cấp, từng ngành, trong từng lĩnh vực, phù hợp với đặc điểm của từng dân
tộc tại địa phương.
Thứ hai: Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là cán bộ
người dân tộc thiểu số thật sự tiêu biểu, nêu gương bằng hành động thực tế,
vững vàng trong công tác, là nòng cốt để vận động, lãnh đạo đồng bào phát
triển kinh tế - xã hội.
Làm tốt hơn nữa công tác phát hiện những cán bộ trẻ là người dân tộc
thiểu số có đủ tiêu chuẩn, triển vọng phát triển lâu dài để bố trí vào những
cương vị chủ chốt, coi trọng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số có đức, có tài, có
năng lực thực tiễn, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
tỉnh Tuyên Quang.
Việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phải đi đôi với sử
dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Coi trọng phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ngay từ trong trường phổ thông. Có chính sách quản lý, hỗ
trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện cho con em các dân tộc thiêu số học tập tại các
trường cao đẳng, đại học. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý,
144
nuôi dạy và học hỏi đối với các trường, lớp phổ thông dân tộc nội trú.
Không ngừng chăm lo, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ là người dân
tộc thiểu số.
Thứ ba: Điều chỉnh, sửa đổi một số vấn đề bất cập trong cơ chế, chính
sách xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như:
Sự mất cân đối giữa số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số.
Sự bất cập trong quy hoạch tạo nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
hệ thống chính trị cấp huyện, xã với các ban ngành sở trong hệ thống chính trị
cấp tỉnh.
Sự bất cập giữa quy hoạch cán bộ với quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu
số trong hệ thống chính trị của tỉnh.
Sự bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển, ưu
tiên tuyển sinh ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh Tuyên Quang
nói riêng.
Những bất cập trên đây đã gây nên những trở ngại trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang; đặt ra yêu cầu khách quan là phải
thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, kịp thời phát hiện
những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời điều chỉnh chính sách nhằm khắc phục
những bất cập đó.
Tiểu kết chương 4
Sau 20 năm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
(1991 - 2010), Đảng bộ Tuyên Quang đã đạt được một số thành tựu đáng
kể. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng đông đảo, cơ cấu ngày
càng hợp lý và từng bước được trẻ hóa. Trình độ chuyên môn, lý luận
chính trị được nâng lên, cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng trưởng thành
145
và phát huy khá tốt năng lực chuyên môn cũng như năng lực lãnh đạo,
quản lý. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 1991 - 2000 chưa được
quy hoạch đào tạo một cách có hệ thống, đến năm 2001 trở đi Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang quyết tâm đổi mới lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trong toàn hệ thống chính trị của tỉnh thì chất lượng, hiệu
quả được thể hiện rõ nét.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số của Đảng bộ Tỉnh đã nhận được sự đồng thuận và ý thức trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, đồng bào dân
tộc trong tỉnh, cùng với việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các khâu của công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nên đến năm 2010, Tuyên
Quang cơ bản đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang cũng còn bộc
lộ một số hạn chế, như: Một số nơi trong tỉnh chưa gắn kết công tác quy
hoạch với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; chưa có chính
sách rõ ràng trong việc thu hút cán bộ dân tộc thiểu số, có trình độ về địa
phương công tác. Vì vậy, nhiều cán bộ dân tộc thiểu số khi về địa phương
công tác không phát huy được năng lực, sẵn sàng rời bỏ quê hương và địa
phương để đến nơi khác làm việc thích hợp hơn. Bên cạnh đó tỷ lệ cán bộ dân
tộc thiểu số chưa cân xứng với tỷ lệ dân tộc.
Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng với những thành tựu đạt được
trong quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010 đã để lại một số kinh nghiệm quý
như: Thực hiện tốt phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số; Lãnh đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các khâu
146
của công tác cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; mạnh
dạn bố trí cán bộ dân tộc thiểu số một cách hợp lý; bổ sung, tạo nguồn trẻ hóa
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Những thành tựu và kinh nghiệm giữa thực tiễn hai mươi năm xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là hành trang để Đảng bộ tỉnh Tuyên
Quang tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác này trong giai đoạn cách mạng
tiếp theo.
147
KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân
tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách
của cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển.
Quan điểm chiến lược đó của Đảng muốn đi vào cuộc sống thì phải
thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số vững mạnh là điều kiện quyết định đối với việc thực hiện
đường lối chính sách dân tộc của Đảng. Bài học thực tiễn trong quá trình cách
mạng Việt Nam là: Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững
mạnh, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng thì phải làm tốt các khâu của
công tác cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, điều động đến đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý và bố trí, sử dụng cán bộ cũng như thực hiện tốt chính
sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số luôn là một yêu cầu khách quan vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa
mang tính cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tổng kết lý luận với thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, một trong những
nguyên nhân yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc là do đội ngũ
cán bộ vừa thiếu, lại vừa yếu về năng lực quản lý, lãnh đạo. Nguyên nhân của
tình trạng đó là do chưa chú ý đúng mức đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số.
Miền núi phía Bắc nước ta là một vùng lãnh thổ rộng lớn, gồm 15 tỉnh,
có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, là vùng đa sắc thái văn hóa tộc người
vào loại bậc nhất của nước ta; đồng thời, cũng là một vùng mà kinh tế - xã hội
còn gặp những khó khăn so với cả nước. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở
đây phát triển không đều, nhiều địa phương thiếu cán bộ đến mức trầm trọng.
Nghiên cứu về quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phù hợp
148
với điều kiện khu vực, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là vấn đề cấp bách hiện
nay. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số và xây dựng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Những quan điểm đó "thể hiện sự vận dụng sáng
tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng
Việt Nam; qua đó khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số trong quá trình phát triển cách mạng [120, tr.230].
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc có đông đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống, trình độ dân trí chưa cao, nhiều tập tục lạc hậu chưa được
xóa bỏ triệt để đã gây khó khăn trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
và bố trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số. Từ thực tế lãnh đạo thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cho thấy, năng lực công tác
của một bộ phận khá lớn cán bộ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế; trình
độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Nhận thức được vấn đề đó, ngay từ khi tái lập tỉnh tháng 10/1991,
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cho từng giai đoạn cụ thể.
Giai đoạn 1991 đến năm 2000, là giai đoạn củng cố đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số; chủ động xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số,
bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số hiện có; tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu
số thông qua chế độ cử tuyển; thu hút những quần chúng ưu tú là người dân
tộc thiểu số vào làm việc trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Sau đó, cử đi học
bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Về cơ bản, đến
năm 2000, trong hệ thống chính trị các cấp ở Tuyên Quang, đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số được bố trí sử dụng trong công tác chuyên môn và công tác
149
lãnh đạo, quản lý, đáp ứng được yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ cách mạng
mới của địa phương.
Giai đoạn 2001 - 2010, trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm chiến
lược cán bộ của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ cũng như đặc điểm, tình hình của
địa phương, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đổi mới toàn diện, mạnh mẽ hơn
công tác lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đổi
mới đồng bộ giữa các khâu, các bước trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng tốt số cán bộ dân tộc thiểu số hiện có với thực hiện đồng bộ các
giải pháp để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung số cán bộ dân tộc mới. Chú trọng
xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, từng bước nâng cao
chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đồng đều ở cả 3 cấp
trong hệ thống chính trị của tỉnh. Đồng thời, quan tâm đến quy hoạch đội ngũ
cán bộ quản lý người dân tộc thiểu số. Đến năm 2010, về cơ bản, Đảng bộ
tỉnh đã thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch đề ra, đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Quá trình 20 năm (1991 - 2010), Đảng bộ Tuyên Quang lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã đạt được những kết quả tích cực.
Kết quả nổi bật là đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về
số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng, góp phần cùng nhân dân
trong tỉnh đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng Tuyên Quang ngày càng giàu mạnh. Thực tiễn lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã để lại những kinh nghiệm quý báu.
Đó là: Nhận thức đúng vị trí, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số; huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, đa
dạng hóa nguồn cán bộ dân tộc thiểu số; xây dựng và thực hiện tốt công tác
quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ; mạnh dạn sử dụng cán bộ
người dân tộc thiểu số...
150
Kết quả và kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số ở Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2010 đã tạo nền tảng vững
chắc để Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ người dân tộc thiểu số nói
riêng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng mới, góp phần cùng cả nước thực
hiện thành công mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
151
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Lý Thị Thu (2012), "Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)", Tạp
chí Giáo dục lý luận, (6), tr. 58-60.
2. Lý Thị Thu (2012), "Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng trong
thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985)", Tạp chí
Lịch sử Đảng, (7), tr. 53-56;60.
3. Lý Thị Thu (2015), "Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thực
hiện chính sách của Đảng, Nhà nước", Tạp chí Dân tộc, (177), tr. 22-23.
4. Lý Thị Thu (2015), "Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang", Tạp chí Dân tộc, (178), tr. 26 - 27.
5. Lý Thị Thu (2015), "Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số trong thời kỳ mới", Tạp chí Dân tộc học, (180), tr. 20-22.
6. Lý Thị Thu (2015), "Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo đổi mới xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay", Tạp
chí Cộng sản, (108), tr.55-58.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu nghiên cứu trong nước
1. Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc và miền núi (2008), Báo cáo tổng kết 5
năm thực hiện nghị quyết 24- NQ/TW “Về công tác dân tộc”.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chiêm Hóa (2008), Lịch sử Đảng bộ
huyện Chiêm Hóa (1940 - 2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Tuyên Quang (2009), Lịch sử Đảng bộ
thị xã Tuyên Quang (1940 - 2008), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1992), Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XI năm 1992. Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1996), Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XII.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2005), Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang, NXB Chính trị quốc gia.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang (giai đoạn 1976 - 2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2010), Báo cáo về công tác
quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số giai
đoạn 2005 - 2010.
11. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2010), Văn kiện Đại hội
Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV.
153
12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2009), Vấn đề dân tộc và công tác dân
tộc sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
13. Ban Chỉ đạo Chương trình 135 TW (2006), Báo cáo kết quả thực hiện
Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005 và triển khai thực hiện
Chương trình 135 giai đoạn 2006-2010.
14. Ban Chỉ đạo điều tra đói nghèo (2003), Báo cáo sơ kết kết quả điều tra
hộ nghèo năm 2002, Hà Nội.
15. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (1957), Nghị quyết số 84-NQ/TU
ngày 6/6/1957 về thành lập cơ quan trường Đảng tỉnh Tuyên Quang.
16. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (2004), Báo cáo về công tác cán
bộ người dân tộc thiểu số.
17. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội
18. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), (2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường
hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế- xã hội nước ta hiện
nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chiến lược phát triển giáo dục trong
thế kỷ XXI - Kinh nghiệm của các quốc gia (sách tham khảo), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc
thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Lò Giàng Páo (1996), Văn hóa và sự
phát triển các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
22. Chính sách dân tộc và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc (2000),
NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
23. Cộng hòa XHCN Việt Nam (1996), Chính sách và chế độ pháp lý đối với
đồng bào dân tộc và miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
24. Chương trình Nghiên cứu Khoa học cấp Nhà nước KX-04-05 năm 1995
- 2000 (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến dân tộc, sắc tộc ở nước ta và trên thế giới - Chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta, Hà Nội.
25. Nguyễn Cúc, Ngô Ngọc Thắng và Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên)
(2005), Đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
26. Lê Trọng Cúc (1999), Những khó khăn trong công cuộc phát triển miền
núi Việt Nam, Hà Nội.
27. Phan Hữu Dật (chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Khổng Diễn (1996), “Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền
núi phía Bắc”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam - Thực tiễn và triển
vọng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Donovan D., và các cộng sự (1997), Những xu hướng phát triển ở vùng
núi phía Bắc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Phạm Văn Dũng (2004), Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc
trong giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, Luận
văn thạc sĩ triết học, Hà Nội.
33. Nguyễn Bá Dương (chủ biên) (1999), Tâm lý học quản lý dành cho
người lãnh đạo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Vàng Xín Dư (2009), "Một cách mới trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ
sở ở Hà Giang", Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr. 30.
155
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm
kỳ khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 13, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
49. Nịnh Văn Độ (chủ biên) (1996), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày,
Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, NXB Văn hóa dân tộc.
50. Nguyễn Ngọc Hà (2007), Biến đổi văn hóa tộc người ở miền núi phía
Bắc nước ta, Đề tài khảo sát thực tiễn.
51. Nguyễn Minh Hiển, (2001), Sự phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng dân
tộc thiểu số" trong cuốn sách "Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ
XX", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Võ Văn Hinh (2011), Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25
năm đổi mới, trên cổng thông tin.
53. Nguyễn Đức Hòa (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân
tộc thiểu số Việt Nam.
54. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội (1995),
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Vũ Đình Hòe, Đoàn Minh Huấn (2008), Nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
56. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2000), “Chính sách và pháp luật
của Đảng, Nhà nước về dân tộc”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
57. Bùi Kim Hồng (2009), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tổ chức, cán
bộ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đoàn Minh Huấn (2005), Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở
các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ.
59. Bùi Văn Huệ (2000), Giáo trình Tâm lý học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
60. Nguyễn Văn Huy, Lê Duy Đại (1996), Báo cáo tổng hợp về nghiên cứu chính
sách phát triển vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Dự án VIE/96/010, Hà
Nội: UNDP.
157
61. Doãn Hùng (2006), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ ở
các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (qua điều tra, khảo sát thực trạng ở một số tỉnh), Đề tài
cấp bộ.
62. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc,
tôn giáo và đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
63. Trần Thị Mỹ Hường (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm
2006, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Trần Thị Thu Hương (chủ biên) (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam -
Chặng đường qua hai thế kỷ, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Lê Đình Huy (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ
công chức từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án Tiến sĩ xây dựng
Đảng, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đặng Cảnh Khanh (2006), Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số -
Những phân tích xã hội học, NXB Thanh niên, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về Trí
thức Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
68. Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam,
tập 1, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
69. Vũ Ngọc Khánh (2011), Dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
70. Nguyễn Hải Khoát (1996), Những khía cạnh tâm lý của công tác cán bộ,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Nguyễn Khôi và các cộng sự (2000), Việc thực hiện chính sách dân tộc
trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc
thiểu số ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ.
158
72. Hà Quế Lâm (2000), Về công tác phát triển đảng viên tạo nguồn cán bộ
ở vùng dân tộc miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. V.I. Lênin (1963), Toàn tập, tập 7, NXB Sự thật, Hà Nội.
74. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
75. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, (bản tiếng Việt).
76. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 44, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
77. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
78. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
79. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
80. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Moto F (1989), "Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam"
(Luận án Tiến sĩ).
88. Ngân hàng Phát triển châu Á - Văn phòng Hà Nội - Việt Nam (2000),
Chính sách dân tộc bản địa của Ngân hàng Phát triển châu Á, Hà Nội.
89. Ngân hàng Thế giới - Văn phòng Hà Nội - Việt Nam (2000), Chính sách
dân tộc bản địa của Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.
90. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
91. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân
chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2006), Công bằng và bình đẳng xã hội
trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa tộc người, NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
93. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ nhiệm đề tài) (2005), Phát huy nội lực từng
vùng và các dân tộc nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
94. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên) (2000), Một số kinh nghiệm của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Trọng Phúc (2009), Đổi mới ở Việt Nam - từ nhận thức đến thực
tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. KSor Phước (2006), "Công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới 1986 -
2006", trong cuốn sách 60 năm cơ quan công tác dân tộc, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Thân Minh Quế (2012), Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Kỷ yếu về
hoạt động của Hội đồng dân tộc Quốc hội khóa X (1997 - 2002),
NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
100. Quy định mới về chính sách hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số
(2006), Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong các
năm (2005 - 2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
101. Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg, ngày 08/02/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị
trấn là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010.
102. Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (1999), Về những yêu cầu của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay,
Hà Nội.
104. Phan Xuân Sơn, Lưu Huy Quảng (chủ biên) (2010), Những vấn đề cơ
bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính
trị, Hà Nội.
105. Lưu Văn Sùng (1998), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở các tỉnh
Tây Bắc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Lê Ngọc Thắng (2005), Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,
Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
107. Ngô Ngọc Thắng (Chủ nhiệm), (1997), Văn hóa bản làng của các dân
tộc Thái, H’Mông ở một số tỉnh miền núi Tây Bắc và việc phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện hiện nay, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội.
108. Nguyễn Đăng Thành (2012), Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc
thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Lê Ngọc Thắng (chủ biên), Lâm Bá Nam (1999), Thiết chế xã hội cổ
truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
110. Lê Phương Thảo (2001), Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc trong tình
hình hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ.
161
111. Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc và Doãn Hùng (đồng chủ biên)
(2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải
pháp, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
112. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành
vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải
pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Tỉnh ủy Đắc Lắc - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1994), Cơ
cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã và huyện ở tỉnh Đắc
Lắc - Thực trạng và giải pháp.
114. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2006), Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thực
hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ
XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010.
115. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2007), Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 50
năm xây dựng và phát triển, Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang.
116. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
định số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
117. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Đặng Văn Trọng (2012), Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006, Luận
án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Vĩnh Trọng (2009), "Sóc trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người
dân tộc thiểu số Khmer", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr. 24.
162
120. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Bùi Xuân Trường (chủ nhiệm), (1997), Tác động của luật tục đối với
việc quản lý xã hội ở các dân tộc Thái, H’Mông thuộc Tây Bắc Việt
Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
122. Nguyễn Thị Tư (2010), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp huyện người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số tỉnh miền núi phía
Bắc, Đề tài khoa học cấp bộ.
123. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
124. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam,
NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
125. Ủy ban Dân tộc và miền núi - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(1996), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2004), Báo cáo sơ kết thực hiện Quyết
định số 74/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Tuyên Quang.
127. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2010), Báo cáo Thực hiện Kế hoạch
số 09-KH/TU ngày 04/6/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XIV.
128. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã
hội các tỉnh miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
129. Ủy ban Nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2011), Địa chí Tuyên Quang.
163
130. Đàm Thị Uyên (1998), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam (từ thế kỷ XI - XIX), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
131. Cư Hòa Vần (2001), "Phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố chính quyền
và đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng
mới", trong cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Đặng Nghiêm Vạn (1982), Đặc điểm kinh tế xã hội truyền thống các dân
tộc ít người ở miền núi Việt Nam, NXB Văn hóa Dân tộc.
133. Đặng Nghiêm Vạn (1993), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc
gia dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
134. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Duy Thìn (đồng chủ biên) (2012), Chính sách
đào tạo, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Nghiên cứu vấn
đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
137. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào
tạo nhân tài, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Trương Thị Bạch Yến (2013), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc
thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
B. Tài liệu nghiên cứu của nước ngoài
139. Jamieson N (2000), b. Rethinking Approaches to Ethenic Minority
Development, The Case of Vietnam (Nghĩ lại cách tiếp cận chương
trình phát triển dân tộc thiểu số, Trường hợp Việt Nam). Concept
Paper perpared for the World Bank, Unpublíhed.
164
PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý
ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Tính đến tháng 12/2010)
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng
Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương
đương Các chỉ tiêu Ủy viên
BCH đảng bộ tỉnh
Ủy viên BTV Tỉnh
ủy
Bí thư Tỉnh ủy
Phó Bí thư Tỉnh
ủy Cấp trưởng
Cấp phó
Cấp trưởng
Cấp phó
Chủ tịch HĐND tỉnh
Phó Chủ tịch UBND
tỉnh
Chủ tịch UBND tỉnh
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp
trưởng Cấp phó
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) (15) Số lượng 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 Dân tộc ít người 37 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 18 36 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,9 49,9 50,5 47 47,1 45,8 46,71 46 50,33 50 46,5 46,6 49,33 45,1
- Từ 40 trở xuống 4 2 3 2 2 1 9 - Từ 41 - 45 3 1 1 2 2 2 3 1 1 9 - Từ 46 - 50 17 5 1 2 4 8 6 5 2 1 1 1 9 10 - Từ 51 - 55 12 4 1 3 2 2 1 8 6 - Từ 56 - 60 1 2 1 2 - Trên 60 1 1
2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 36 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 17 31 - Trung cấp 1 1 5
3. Đã học quản lý Nhà nước 29 7 1 3 9 15 12 10 2 2 2 17 4. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 4 2 1 2 3 2 2 3 1 2 2 1 3 - Đại học, cao đẳng 33 8 1 1 7 14 12 13 1 17 32 - Trung cấp 1
5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 4 1 1 3 5 3 2 1 6 9 - Bằng A, B 21 5 1 3 5 9 9 6 2 1 2 2 10 17
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
165
PHỤ LỤC 2
Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý
ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Tính đến tháng 12/2010)
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu
Ủy viên BCH đảng
bộ tỉnh
Ủy viên BTV
Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp trưởng Cấp phó
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) Số lượng 116 23 30 75 27 40 7 104 210 Nữ 25 4 7 21 8 13 1 12 36 Trong đó 1. Dân tộc ít người 6 1 2 6 5 3 7 2. Tuổi đời bình quân 42,75 48,78 46,5 46,5 44 50 44,08 42,47 - Từ 40 trở xuống 10 1 1 4 3 15 - Từ 41 - 45 2 1 3 8 - Từ 46 - 50 12 4 5 5 3 1 9 11 - Từ 51 - 55 1 1 2 3 2 - Từ 56 - 60 - Trên 60 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 24 4 8 8 12 1 8 19 - Trung cấp 1 1 1 16 4. Đã học quản lý Nhà nước 25 4 7 8 10 1 10 5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ - Thạc sỹ 6 2 5 2 1 3 6 - Đại học, cao đẳng 19 2 3 6 13 9 30 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 8 2 3 3 2 4 7 - Bằng A, B 15 1 3 5 8 1 5 21
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
166
PHỤ LỤC 3 Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số
Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh
(Tính đến tháng 12/2010)
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu
Ủy viên BCH
đảng bộ tỉnh
Ủy viên BTV
Tỉnh ủy
Bí thư Tỉnh
ủy
Phó Bí thư
Tỉnh ủy Cấp trưởng
Cấp phó
Cấp trưởng
Cấp phó
Chủ tịch HĐND
tỉnh
Phó Chủ tịch UBND
tỉnh
Chủ tịch UBND
tỉnh
Phó Chủ tịch UBND
tỉnh Cấp trưởng Cấp phó
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) (15) Số lượng 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 21 1 4 17 7 9 10 57 Trong đó: 1. Nữ 10 1 8 1 4 3 15 2. Dân tộc ít người 4 2 3 2 2 1 9 3. Lý luận chính trị
- Cao cấp trở lên 18 1 4 9 6 8 2 17 - Trung cấp 3 8 1 1 4 28
4. Đã học quản lý Nhà nước 21 1 3 14 7 9 8 5. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 5 1 1 5 2 2 4 7 - Đại học, cao đẳng 16 3 12 5 7 6 50 - Trung cấp
6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 6 1 1 7 3 3 4 15 - Bằng A, B 15 3 9 4 6 6 38
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
167
PHỤ LỤC 4 Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện
(Tính đến tháng 12/2010)
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Phó Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Chủ tịch UBND huyện, thành
phố
Phó Chủ tịch UBND huyện
thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Số lượng 221 38 69 27 32 66 Dân tộc ít người 61 11 18 9 7 24 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,59 47,64 47,5 49,33 48,7 47,71 46,54
- Từ 40 trở xuống 6 1 1 4 - Từ 41 - 45 10 2 4 1 2 4 - Từ 46 - 50 27 5 10 6 4 3 7 - Từ 51 - 55 17 3 4 2 4 2 9 - Từ 56 - 60 1 1 - Trên 60
2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 59 11 18 9 9 7 24 - Trung cấp 2 1
3. Đã học quản lý Nhà nước 51 10 15 6 9 5 21 4. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 61 11 18 9 10 7 23 - Trung cấp
5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 8 2 2 1 2 4 - Bằng A, B 43 6 11 5 4 4 15
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
168
PHỤ LỤC 5 Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số
Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện
(Tính đến tháng 12/2010)
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Phó Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Chủ tịch UBND huyện, thành
phố
Phó Chủ tịch UBND huyện
thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Số lượng 221 38 69 27 21 32 66 Nữ 30 2 12 5 7 2 15 Trong đó 1. Dân tộc ít người 10 1 4 2 3 1 4
2. Tuổi đời bình quân 45,7 44,5 45,58 44,2 46 46,5 45,07 - Từ 40 trở xuống 6 2 1 1 3 - Từ 41 - 45 4 2 3 2 1 3 - Từ 46 - 50 17 6 2 5 2 8 - Từ 51 - 55 3 1 1 - Từ 56 - 60
- Trên 60 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 29 2 12 5 6 2 15
- Trung cấp 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 24 1 11 4 6 12
5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ 1 - Thạc sỹ 1 1 - Đại học, cao đẳng 29 2 12 5 7 1 14
- Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 5 3 1 1 5 - Bằng A, B 19 1 7 3 5 7
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
169
PHỤ LỤC 6 Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số
Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện
(Tính đến tháng 12/2010)
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Phó Chủ tịch HĐND huyện,
thành phố
Chủ tịch UBND huyện, thành
phố
Phó Chủ tịch UBND huyện
thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Số lượng 221 38 69 27 21 32 66 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 36 2 7 3 6 12 Trong đó: 1. Nữ 6 2 1 1 3
2. Dân tộc ít người 6 1 4 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 34 2 7 2 5 11 - Trung cấp 2 1 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 30 2 7 3 6 12 5. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 5 1 2 1 - Đại học, cao đẳng 31 1 5 3 6 11
- Trung cấp 6. Ngoại ngữ
- Bằng C trở lên 5 1 3 1 3 - Bằng A, B 22 1 3 3 5 9
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
170
PHỤ LỤC 7 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
Thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức) Thời điểm 31/12/2010
Lãnh đạo các cơ quan, ban
Đảng Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu
Ủy viên BCH đảng
bộ tỉnh
Ủy viên BTV Tỉnh
ủy
Bí thư Tỉnh ủy
Phó Bí thư Tỉnh
ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp
trưởng Cấp phó
Chủ tịch HĐND
tỉnh
Chủ tịch UBND
tỉnh
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp
trưởng Cấp phó
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) Số lượng 55 15 1 2 5 14 6 13 1 1 3 45 72 Dân tộc ít người 22 8 1 1 4 2 3 3 1 1 1 9 11 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,18 50,3 53 48 46,2 44 52 53 53 48 43 53,89 59,18
- Từ 40 trở xuống 4 1 1 1 - Từ 41 - 45 2 1 1 1 1 - Từ 46 - 50 8 3 1 2 1 1 1 2 3 - Từ 51 - 55 7 4 1 1 1 1 1 1 4 2 - Từ 56 - 60 1 1 - Trên 60 1
2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 21 8 1 1 4 2 3 3 1 1 1 8 10 - Trung cấp 1 1 1
3. Đã học quản lý Nhà nước 20 5 3 1 1 5 7 4. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 4 2 1 2 1 1 1 - Đại học, cao đẳng 18 6 1 2 2 3 3 1 8 10 - Trung cấp 1
5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 5 1 1 2 1 1 1 - Bằng A, B 13 4 1 2 2 1 1 1 4 5
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
171
PHỤ LỤC 8 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu Ủy viên BCH
đảng bộ tỉnh Ủy viên BTV
Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Số lượng 55 15 5 14 6 13 45 72 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 10 1 1 3 1 2 2 8 Trong đó: 1. Nữ 6 2 1 2 3 2. Dân tộc ít người 4 1 1 3. Lý luận chính trị
- Cao cấp trở lên 9 1 1 3 1 2 2 4 - Trung cấp 1 4
4. Đã học quản lý Nhà nước 9 1 1 3 1 2 2 8 5. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 2 1 1 1 4 - Đại học, cao đẳng 8 3 1 1 2 4 - Trung cấp
6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 3 1 1 1 1 1 2 3 - Bằng A, B 7 2 1 2 4
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
172
PHỤ LỤC 9 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu
Ủy viên BCH đảng
bộ tỉnh
Ủy viên BTV
Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Cấp trưởng Cấp phó (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)
Số lượng 55 15 5 14 6 13 3 45 72 Nữ 16 2 1 6 1 4 1 6 12 Trong đó 1. Dân tộc ít người 6 1 1 1 1 2 2 2. Tuổi đời bình quân 40,19 48 46 44,33 51 45,25 50 45,66 44,5 - Từ 40 trở xuống 6 2 1 2 3 - Từ 41 - 45 2 - Từ 46 - 50 9 2 1 2 2 1 3 5 - Từ 51 - 55 1 2 1 1 1 2 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 15 2 1 6 1 4 1 6 11 - Trung cấp 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 16 2 1 4 3 1 5 8 5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ - Thạc sỹ 3 1 1 1 4 - Đại học, cao đẳng 13 1 1 5 1 4 6 8 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 4 1 1 1 2 3 - Bằng A, B 10 1 1 3 1 3 5
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
173
PHỤ LỤC 10 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện (Cán bộ đương chức) Thời điểm 31/12/2010
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc
Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Chủ tịch UBND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch UBND
huyện thành phố
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Dân tộc ít người 19 5 8 5 3 10 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 48 49,4 47,75 48,8 46,66 47,6
- Từ 40 trở xuống 1 1 - Từ 41 - 45 3 2 1 1 3 - Từ 46 - 50 9 1 5 3 2 3 - Từ 51 - 55 5 3 1 4 - Từ 56 - 60 - Trên 60
2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 19 5 8 5 3 10 - Trung cấp
3. Đã học quản lý Nhà nước 12 3 5 4 2 6 4. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 19 4 8 5 3 9 - Trung cấp
5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 3 - Bằng A, B 10 2 4 3 2 2
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
174
PHỤ LỤC 11 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc
Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Chủ tịch UBND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch UBND
huyện thành phố
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 8 2 1 3 Trong đó: 1. Nữ 4 1 1
2. Dân tộc ít người 1 1 1 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 7 2 1 1 - Trung cấp 1 2 4. Đã học quản lý Nhà nước 8 2 1 3 5. Trình độ chuyên môn
- Tiến sỹ - Thạc sỹ - Đại học, cao đẳng 8 2 1 3
- Trung cấp 6. Ngoại ngữ
- Bằng C trở lên 2 - Bằng A, B 8 1 1 1
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
175
PHỤ LỤC 12 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)
Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc
Phó Bí thư huyện, thành ủy,
đảng ủy trực thuộc
Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch HĐND
huyện, thành phố
Chủ tịch UBND
huyện, thành phố
Phó Chủ tịch UBND
huyện thành phố
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Nữ 13 1 1 1 1 1 Trong đó 1. Dân tộc ít người 4 1 1 1 1
2. Tuổi đời bình quân 44,69 47 45 45 38 35 - Từ 40 trở xuống 4 1 1 - Từ 41 - 45 2 1 1 - Từ 46 - 50 6 1 - Từ 51 - 55 1 3. Lý luận chính trị
- Cao cấp trở lên 13 1 1 1 1 1 - Trung cấp 4. Đã học quản lý Nhà nước 9 1 1 1
5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ
- Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 13 1 1 1 1 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 1 - Bằng A, B 9 1 1
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010
176
PHỤ LỤC 13 Kết quả đào tạo cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số năm 2007
Kết quả đào tạo năm 2007 Đã tốt nghiệp năm 2007 Cử đi đào tạo năm 2007 Kết quả bồi dưỡng năm 207
Văn hóa Chuyên môn Văn hóa Chuyên môn Quản lý nhà nước STT Đối tượng
Trung học cơ
sở
Trung học phổ
thông
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Trung cấp lý luận
chính trị
Trung học cơ
sở
Trung học phổ
thông
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Chuyên viên
Cán sự
Bồi dưỡng
Tin học
Kỹ năng
nghiệp vụ
Bí thư Đảng ủy 1 3 1 Pho Bí thứ Đảng ủy 1 Thường trực Đảng ủy 1 3 2 1 2 6 Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 2 1 14 6 4 11 Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 2 1 4 2 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân 2 1 6 13 6 5 2 Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 2 1 1 2 5 Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 2 2 2 38 1 43 Chủ tịch Hội Nông dân 1 1 44 3 66 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 2 1
1 Cán bộ chuyên trách
Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 2 1 7 5 42 2 53 Trưởng Công an 1 2 2 40 7 2 1 9 Chỉ huy Trưởng quân sự 5 11 2 2 1 5 Văn phòng - Thống kê 7 5 8 23 4 6 Địa chính - Xây dựng 6 4 4 2 3 17 5 5 Tài chính - Kế toán 1 5 3 1 Tư pháp - Hộ tịch 2 1 3 1 3 7 8 4 24
2 Công chức
cấp xã
Văn hóa - xã hội 2 2 3 9 1 5 3 Cán bộ, công chức nguồn 1 6 6 Cộng: 0 23 1 0 38 22 0 0 46 0 64 96 0 164 53 241
Nguồn: Sở Nội vụ Tuyên Quang năm 2010
177
PHỤ LỤC 14 Kết quả đào tạo cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số năm 2008
Đào tạo về trình độ Bồi dưỡng Văn hóa Chuyên môn LL chính trị Quản lý nhà nước
STT Đối tượng Trung học cơ
sở
Trung học phổ thông
Đại học Cao đẳng
Trung cấp Cao cấp Trung
cấp Chuyên
viên Cán sự Bồi dưỡng
Tin học Kỹ năng nghiệp vụ
Bí thư Đảng ủy 3 4 2 Pho Bí thứ Đảng ủy Thường trực Đảng ủy 2 1 Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 5 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 1 1 2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 8 12 Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 5 1 6 1 Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 2 6 3 Chủ tịch Hội Nông dân 2 3 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 4 5 8 60
1 Cán bộ chuyên trách
Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 7 9 2 Trưởng Công an 13 5 7 37 Chỉ huy Trưởng quân sự 1 4 10 21 Văn phòng - Thống kê 5 20 18 1 8 5 44 Địa chính - Xây dựng 3 22 8 24 4 8 44 Tài chính - Kế toán 12 2 6 15 Tư pháp - Hộ tịch 3 3 17 16 5 10 39
2 Công chức
cấp xã
Văn hóa - xã hội 1 14 13 2 12 29 3 Cán bộ, công chức nguồn Cộng: 0 29 52 0 46 0 138 41 73 13 229 60
Nguồn: Sở Nội vụ Tuyên Quang năm 2010
178
PHỤ LỤC 15 Biểu tổng hợp quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện chương trình 21-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng
Tỉnh ủy
Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh
Lãnh đạo Sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu Tổng
số
Ủy viên BCH đảng
bộ tỉnh
Ủy viên BTV Tỉnh
ủy
Bí thư
Tỉnh ủy
Phó Bí
thư Tỉnh ủy
Cấp trường
Cấp phó
Cấp trường
Cấp phó
Chủ tịch
HĐND tỉnh
Phó Chủ tịch
HĐND tỉnh
Chủ tịch
UBND tỉnh
Phó Chủ tịch
UBND tỉnh
Cấp trường
Cấp phó
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 1. Số lượng 651 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 2. Ngoài đảng 0 3. Nữ 122 25 4 1 7 21 8 13 1 10 32 4. Dân tộc ít người 160 34 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 17 33 5. Thành phần bản thân là công nhân 6. Tuổi đời binh quân 46,67 50,39 50,5 49,57 48,37 45,57 46,33 46,12 51,25 51,25 47 49,71 48,62 45,38 - Từ 40 trở xuống 123 21 1 4 17 7 9 7 57 - Từ 41-45 92 18 1 1 4 13 2 6 1 1 9 36 - Từ 46 - 50 243 44 12 1 5 12 26 10 13 2 2 2 5 43 66 - Từ 51 - 55 159 31 8 1 1 8 19 3 6 2 1 1 35 43 - Từ 56 - 60 28 2 1 2 3 5 7 8 - Trên 60 3 2 1 7. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 552 113 23 2 7 30 70 26 37 4 3 3 7 91 136 - Trung cấp 91 3 4 1 3 13 67 8. Quản lý Nhà nước 579 107 21 2 7 30 68 25 37 4 3 3 7 82 183 9. Trình độ chuyên môn 0 - Tiến sỹ, phó tiến sỹ 5 2 1 2 - Thạc sỹ 86 13 6 1 3 10 10 2 1 2 2 1 4 14 17 - Đại học, cao đẳng 559 101 17 1 4 20 65 25 39 2 1 2 3 89 190 - Trung cấp 1 1 10. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 163 19 4 1 2 9 15 6 18 1 1 1 34 52 - Bằng A, B 386 82 14 1 5 20 54 21 20 3 3 2 6 58 97
Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang