183
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÝ THỊ THU ĐẢNG BTNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DNG ĐỘI NGŨ CÁN BDÂN TC THIU STNĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2016

ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

  • Upload
    vuminh

  • View
    221

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÝ THỊ THU

ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ

TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2016

Page 2: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÝ THỊ THU

ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ

TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH : LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MÃ SỐ : 62 22 03 15

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS NGUYỄN NGỌC HÀ

2. PGS.TS NGUYỄN DANH TIÊN

HÀ NỘI - 2016

Page 3: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.

Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lý Thị Thu

Page 4: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 7 1.2. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết và những nội

dung luận án cần tập trung nghiên cứu 24 CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH

TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000 26

2.1. Những yếu tố tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang 26

2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số 50

2.3. Quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2000 62

CHƯƠNG 3: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 70

3.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới 71

3.2. Chủ trương đổi mới của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 76

3.3. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 80

CHƯƠNG 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 109 4.1. Nhận xét 109 4.2. Một số kinh nghiệm 131 KẾT LUẬN 147 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164

Page 5: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATK : An toàn khu

BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương

BTV : Ban Thường vụ

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HĐND : Hội đồng nhân dân

UBKT : Ủy ban kiểm tra

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 6: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số là một nội dung trọng yếu trong

chính sách dân tộc của Đảng, không chỉ có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền

tham chính của đồng bào các dân tộc, mà còn tạo ra yếu tố nội lực thúc đẩy

kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc phát triển. Nếu như cán bộ “là gốc của

mọi công việc”, theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì cũng có thể hiểu

rằng, cán bộ người dân tộc thiểu số và công tác cán bộ người dân tộc thiểu số

có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm thực hiện thành công đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn miền núi, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số.

Ngay từ khi ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng

Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số. Nhờ vậy, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

đã có đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực, không chỉ tại địa bàn miền núi

mà cả ở các địa phương đồng bằng và cả cấp Trung ương. Đây là một minh

chứng sự đúng đắn, khoa học trong đường lối lãnh đạo của Đảng; minh chứng

cho tinh thần “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về

quyền lợi và nghĩa vụ", như lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Báo

cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa 1 nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 18/12/1959).

Hiện nay, trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong quá trình tiến hành sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số vẫn còn những hạn chế, bất cập: Số lượng cán bộ

người dân tộc còn ít so với tỷ lệ dân số. Trình độ của đội ngũ cán bộ người

dân tộc còn thấp so với mặt bằng chung, nhất là so với mặt bằng trình độ của

Page 7: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

2

đội ngũ cán bộ người Kinh. Năng lực, trình độ còn hạn chế so với yêu cầu,

nhiệm vụ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số chưa cân đối cả về

cơ cấu giới tính, cơ cấu giữa các dân tộc và cơ cấu theo lĩnh vực công tác. Có

nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân từ công

tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Đảng ở tầm

vĩ mô và ở việc tổ chức thực hiện của các địa phương.

Nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của một Đảng bộ địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sẽ góp phần làm sáng tỏ về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số của Đảng, sự thể hiện sinh động và cụ thể chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ trong điều kiện thực tế của địa phương. Qua đó nhận diện những sáng tạo và những khó khăn, hạn chế của Đảng bộ địa

phương trong thực hiện công tác quan trọng này. Tỉnh Tuyên Quang nằm trong chiến khu Việt Bắc, là cái nôi của cách

mạng cả nước từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang sớm hình thành, được tôi luyện qua nhiều thử thách, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc cũng như ở địa phương. Tỉnh Tuyên Quang là nơi hội tụ của 22 dân tộc anh

em sinh sống đan xen, cùng tồn tại và phát triển. Trong những năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Nhờ vậy,

kinh tế - xã hội của tỉnh có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Tuyên Quang còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư và so với yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Những hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là đội ngũ cán bộ còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và năng lực. Việc sử dụng cán bộ cho từng vùng, từng lĩnh vực và theo từng dân tộc

còn chưa hợp lý.

Page 8: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

3

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác cán bộ nói chung,

xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số nói riêng, Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang đã có những chủ trương và thực hiện nhiều giải pháp để tăng

cường xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

như: tăng cường công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử dụng đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số; chú trọng tuyển chọn, sử dụng đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền

của tỉnh, huyện, xã; tăng cường đầu tư kinh phí đào tạo - bồi dưỡng cán bộ;

luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị; thực hiện chính sách cử tuyển

cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số vào Đại học, Cao đẳng, Trung

học chuyên nghiệp và thu hút, “giữ chân” đội ngũ cán bộ tại địa phương …

Tuy vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế cả về số lượng và

chất lượng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vẫn

đang tồn tại không ít mâu thuẫn, đó là: mâu thuẫn giữa tăng cường số

lượng và đảm bảo chất lượng, giữa nhu cầu đòi hỏi cao và khả năng đầu tư

có giới hạn, giữa sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ và thu hút cán bộ từ nơi

khác đến, giữa đào tạo và sử dụng, giữa yêu cầu và khả năng luân chuyển

đội ngũ cán bộ tại địa phương…

Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010" có ý

nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.

2. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang

lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm

2010. Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số những năm (1991 - 2010).

Page 9: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991

đến năm 2010.

Làm rõ những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang

lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong 20 năm, từ

năm 1991 đến năm 2010.

Đánh giá những ưu điểm, hạn chế, những kết quả đạt được; Đúc kết

một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây

dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang trong xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1991, là năm tỉnh Tuyên Quang được tái

lập, đến năm 2010, là năm kết thúc nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ Tỉnh,

Đảng bộ bắt đầu tổ chức thực hiện đường lối Đại hội XI của Đảng.

Về không gian: Nghiên cứu công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người

dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh, bao gồm 1 thị xã và 6 huyện.

Luận án nghiên cứu toàn bộ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ

thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cơ sở, trong đó chú trọng nghiên

cứu đội ngũ lãnh đạo quản lý các cấp là người dân tộc thiểu số.

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều nội dung. Bám sát các

khâu công việc của công tác cán bộ nói chung, luận án tập trung nghiên cứu

công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng, chế độ,

chính sách cán bộ.

Page 10: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

5

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.

4.2. Cơ sở thực tiễn Luận án được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ

nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói riêng, được phản ánh trong các văn kiện của Đảng bộ tỉnh, các báo cáo, số liệu thống kê của cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan chức năng có liên quan; kết quả điều tra, khảo sát thực tế trên địa bàn tỉnh.

4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp

lôgic. Bên cạnh đó, là các phương pháp: + Phương pháp tổng hợp và phân tích, được sử dụng để thu thập và

đánh giá các nguồn tài liệu liên quan, bao gồm các văn kiện của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương; các công trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.

+ Phương pháp so sánh: So sánh một số kết quả đạt được trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang với các tỉnh miền núi phía Bắc.

+ Phương pháp thống kê, được dùng trong xử lý các kết quả điều tra, khảo sát.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Cung cấp thêm nguồn tư liệu, nhất là tư liệu của địa phương về công

tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên Quang, về thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang;

Page 11: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

6

- Góp phần làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ

trương của Đảng về công tác dân tộc nói chung, công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng;

- Góp phần tổng kết, đánh giá về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số của Đảng bộ Tuyên Quang, cung cấp thêm cơ sở thực

tiễn giúp Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang hoàn thiện hơn nữa công tác lãnh đạo

của mình trong công tác quan trọng này;

- Những kết quả nghiên cứu của luận án, nhất là những kinh nghiệm từ

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của Tuyên Quang,

có thể tham khảo vận dụng ở các địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc

thiểu số khác, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án dùng làm tài liệu tham khảo, giúp các

cấp ủy Đảng các cấp ở tỉnh Tuyên Quang nghiên cứu, tiếp tục xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.

- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ hoạt động nghiên

cứu, học tập của bộ môn Lịch sử Đảng ở trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang,

Trường Đại học Tân Trào Tuyên Quang cũng như các cơ sở đào tạo khác.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học liên

quan đến đề tài của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

chính của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

Page 12: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

7

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Nghiên cứu về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nói chung, công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên

cứu được công bố dưới góc độ của khoa học lịch sử, lịch sử Đảng, xây dựng

Đảng, chính trị học, dân tộc học, xã hội học... Liên quan trực tiếp đến đề tài

có thể khái quát thành những nhóm cơ bản sau:

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước

1.1.1.1. Nghiên cứu về chính sách dân tộc và công tác dân tộc trong

tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước

Cuốn sách, Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở

miền núi [48]. Tác giả đã đánh giá về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách

dân tộc ở nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội và những

vấn đề cấp bách ở vùng dân tộc và miền núi, tác giả đã đưa ra những nhận

thức và quan điểm cơ bản về chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới.

Cuốn sách, Quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở các tỉnh Tây Bắc

[105] đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình thực hiện chính

sách dân tộc ở Tây Bắc những năm đầu đổi mới.

Cuốn sách: Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và nhà

nước ta [54] đã đề cập đến những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về vấn đề dân tộc và thực hiện

chính sách dân tộc. Các tác giả đã nêu những đặc điểm nổi bật của dân tộc

Việt Nam và nội dung công tác dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.

Cuốn sách, Nghiên cứu vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính

sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [135] đã nghiên cứu

cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng và những định

Page 13: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

8

hướng cơ bản trong quy hoạch dân cư, đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh tế

hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông thôn và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm sớm ổn

định và cải thiện đời sống đồng bào dân tộc.

Bài viết, "Công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006" [97],

trong cuốn sách 60 năm cơ quan công tác dân tộc, đã đánh giá về đội ngũ cán

bộ dân tộc trong những năm qua. Bài viết khẳng định: Đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số trong hệ thống chính trị luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm

đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng. Nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ về lý luận chính trị, chuyên môn, học vấn, quản lý nhà nước

ngày càng được chuẩn hóa, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ dân tộc ở

tất cả các cấp được nâng lên. Tác giả chỉ rõ "tỉ lệ đại biểu quốc hội là người

dân tộc thiểu số qua các khóa ngày một tăng từ 10,2% khóa I lên 17,2% khóa

XI. Ủy viên Trung ương Đảng là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ gần 9%

khóa X và hàng vạn cán bộ người dân tộc thiểu số được tham gia trong các cơ

quan Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp" [97, tr.24]. Bên cạnh những kết

quả đạt được, bài viết còn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của công tác dân tộc là

"Hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ dân tộc ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số

còn hạn chế về tri thức và trình độ kỹ năng làm việc ở vùng sâu, vùng xa,

vùng đặc biệt khó khăn rất nhiều đồng chí chưa đáp ứng được yêu cầu thực

hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương [97, tr.28]. Từ phân tích trên, tác giả chỉ

ra một số bài học lớn về công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006).

Trong đó, bài học đáng chú ý là "Kiện toàn và phát huy vai trò của hệ thống

chính trị chăm lo công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ người dân tộc

thiểu số trong các vùng dân tộc thiểu số" [97, tr.30].

Cuốn sách, Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX

[12], là tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu khoa học đã tham gia

Page 14: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

9

thảo luận, trao đổi, làm rõ kết quả, hạn chế yếu kém, đề xuất các giải pháp

góp phần đổi mới thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX về công tác dân tộc của Đảng.

Cuốn sách, Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện

nay [104] đã nêu rõ những nội dung cơ bản về dân tộc và chính sách dân tộc

của Đảng qua các thời kỳ cách mạng; phân tích những vấn đề đặt ra trong

việc thực hiện chính sách dân tộc và đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm thực

hiện chính sách dân tộc hiện nay.

Cuốn sách, Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc

thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn

hiện nay: Thực trạng và giải pháp [112] đã nghiên cứu, khảo sát nhằm mang

lại những thông tin khách quan, trung thực về tình trạng này. Trên cơ sở đánh

giá thực trạng nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số

đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay,

công trình nghiên cứu đã đề xuất những kiến nghị, giải pháp cơ bản nhằm góp

phần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo thực hiện có

hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò to lớn

của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Nghiên cứu cho thấy, sự đồng tình của người dân với chính

sách được triển khai ở địa phương về "ưu tiên đào tạo cán bộ địa phương là

người dân tộc" là 72,2%, "ưu tiên đào tạo thầy giáo, cô giáo, cán bộ y tế là

người dân tộc" là 70,2%" [112 tr.102].

Cuốn sách: Dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí

Minh [69], đã đề cập đến vấn đề: Trong nghiên cứu lý luận cách mạng, vấn đề

dân tộc còn rất phong phú, còn phải bàn thêm. Nói riêng từng nước thì vấn đề

dân tộc nổi lên là vấn đề số phận của từng tộc người trong cộng đồng dân tộc,

của mỗi quốc gia. Tác giả khẳng định: Hồ Chí Minh thấy được phẩm chất,

trình độ của các tộc người của đất nước ta, bởi Người thực sự gắn bó với bà

Page 15: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

10

con người dân tộc thiểu số. Vì vậy, với Hồ Chí Minh, các dân tộc thiểu số

được bình đẳng cùng nhau, tất cả đều như anh chị em một nhà, không có sự

phân biệt nòi giống, tiếng nói.

Công trình: Báo cáo tổng hợp về nghiên cứu chính sách phát triển vùng

miền núi và dân tộc thiểu số [60] và Đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống

chính trị ở các tỉnh miền núi phía Bắc - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

[25] đã đánh giá nguồn nhân lực không nghiên cứu riêng biệt, mà được đặt

trong mối quan hệ tương hỗ với sự phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc

thiểu số. Đặc biệt là những nghiên cứu về giáo dục y tế, xóa đói giảm nghèo,

lao động việc làm thường được đặt trong các mối liên hệ trực tiếp với phát

triển thể lực, trí lực của nguồn nhân lực dân tộc thiểu số.

Bài viết: "Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25 năm đổi mới"

[52], đã khái quát toàn bộ chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc đã và đang

được thực hiện trong 25 năm đổi mới được thể hiện trong những chuyển biến

tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết

những vấn đề xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bài viết tiếp

tục khẳng định: Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết

dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.

Sự quan tâm về vấn đề dân tộc, về chính sách dân tộc không chỉ ở phần

nhận thức, phần lý luận, mà nó phải được thể hiện bằng đường lối, bằng tổ

chức. Đúng như tinh thần Sắc lệnh số 58 ngày 3/5/1946 của Người" chịu trách

nhiệm xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu

số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất nước

Việt Nam".

Bài viết: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số Việt

Nam" [53] theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào các dân tộc thiểu số là một

bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đoàn

kết dân tộc đặng "đi từ thái bình để cùng hưởng chung". Hồ Chí Minh cũng

Page 16: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

11

cho rằng, đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ không phải là một thủ đoạn

chính trị, mị dân, do đó, phải thực lòng thực hành đoàn kết để đi từ mục tiêu

chung là "hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh". Người coi

đồng bào các dân tộc thiểu số là một lực lượng quan trọng của cách mạng

Việt Nam. Với những nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,

tác giả bài viết khẳng định: Trong tiến trình cách mạng nước ta, cần giải quyết

đúng đắn và sáng tạo vấn đề dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó

là: Phải luôn coi đồng bào các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách

rời của dân tộc Việt Nam, khai thông sức sáng tạo và tiềm năng của đồng bào

các dân tộc. Bằng các chủ trương chính sách phù hợp, đẩy nhanh tốc độ phát

triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của cả nước.

Luận án tiến sĩ: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính

sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm 2006 [63] đã trình

bày một cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng

sản Việt Nam về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc những năm đầu đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 - 2006), từ đó thấy được

sự phát triển trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng; quá trình Đảng lãnh

đạo thực hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc; làm rõ thành tựu và

hạn chế trong nhận thức cũng như trong quá trình thực hiện chính sách dân

tộc, từ đó đúc rút ra một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo

thực hiện chính sách dân tộc 1996 - 2006 ở Tây Bắc khi nghiên cứu về quan

điểm và nội dung chính sách dân tộc của Đảng. Tác giả khẳng định:

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương gắn đoàn kết dân tộc với việc

hoạch định chính sách dân tộc, đảm bảo miền núi tiến kịp miền

xuôi, làm cho đồng bào dân tộc ít người được hưởng ngày càng đầy

đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa. Người chỉ ra

rằng, Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch dài hạn, phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội ở miền núi, đồng bào miền xuôi phải giúp đỡ

Page 17: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

12

đồng bào miền ngược. Đồng bào các dân tộc ít người cũng phải

không ngừng vươn lên để xây dựng tổ chức chung, xây dựng chủ

nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc hạnh phúc, ấm no. Những

quan điểm trên đây của Người có giá trị và ý nghĩa như một tuyên

ngôn chỉ đạo công tác dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc

ở Việt Nam hiện nay [63, tr.29].

1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số nói chung

Cuốn sách: Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam

(từ thế kỷ XI - XIX) [130] cho thấy, từ xa xưa, nhà nước phong kiến Việt Nam

đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp tích cực đối với miền núi, với các dân

tộc thiểu số. Từ thời Lý (thế kỷ XI), chính sách "Nhu viễn" (mềm dẻo với

phương xa) đã được thực hiện, sau này vẫn là quốc sách hàng đầu, phổ biến

và lâu dài của các triều đại phong kiến tiếp theo. "Nhu viễn" xây dựng mối

quan hệ đặc biệt giữa nhà nước Trung ương (phong kiến tập quyền) với cộng

đồng các tù trưởng (người có uy tín, thế lực, đang điều hành, quản lý các tộc

người bằng tự trị theo luật tục" thông qua việc ban phẩm tước cho tù trưởng;

phân phong một số Hoàng Thân, quan lại lên tuần giữ vùng biên, đặc biệt là

câu thức, lôi kéo quan hệ thân tộc (qua hôn nhân) giữa các tù trưởng với công

chúa, cung phi của triều đình. Song song với chính sách "Nhu viễn", các triều

đại phong kiến còn kiên quyết dùng chính sách "cường bạo lực" lúc cần thiết

để trừng trị những kẻ gây mất đoàn kết các dân tộc, chống lại triều đình và cắt

đất cho ngoại bang. Chính sách "Nhu" "Cương" hợp lý có ý nghĩa tích cực

trong củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ, xâm lấn và giữ

gìn an ninh biên giới. Đó là kinh nghiệm lịch sử để trong quá trình xây dựng

hệ thống chính trị vùng biên, miền núi, dân tộc thiểu số chúng ta phải chú ý

đến vai trò của công tác cán bộ đối với người dân tộc thiểu số. Việc xây dựng

Page 18: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

13

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải trên tinh thần (không kỳ thị dân tộc), phải

tăng cường sức mạnh cho đội ngũ này bằng việc điều động, luân chuyển cán

bộ nơi khác về cơ sở; đồng thời cũng phải cương quyết sàng lọc nguồn trong

quá trình xây dựng đội ngũ trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, công chức do pháp

luật quy định.

Cuốn sách: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải pháp [111]

là tập hợp kết quả nghiên cứu của 34 nhà khoa học, tập trung vào những vấn

đề: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,

chính sách của Đảng và nhà nước ta, cùng một số các yếu tố tác động về tâm

lý, văn hóa tộc người liên quan đến vấn đề dân tộc, cán bộ dân tộc thiểu số,

công tác cán bộ thiểu số; thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số nói chung trên một số lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Nhiều giải

pháp đổi mới, công tác cán bộ dân tộc thiểu số được đề xuất có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn quan trọng.

Cuốn sách: Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số Việt

Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

[108] đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn cho nhận thức đầy đủ và toàn

diện vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số không chỉ cần

nhiều nguồn lực đầu tư, mà phải tiến hành theo một quy trình, phương pháp,

cách thức khoa học. Cuốn sách còn đề xuất hệ quan điểm, giải pháp toàn diện

cho hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số. Tác giả

khẳng định: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu

phát triển bền vững liên, xuyên thế hệ thành công hay không không thể thiếu

sự đóng góp to lớn của nguồn nhân lực thiểu số, vì phát triển nguồn nhân lực

dân tộc thiểu số cũng chính là phát triển nguồn nhân lực quốc gia - là lực

lượng tiên phong và cũng là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sự phát triển đất

nước một cách toàn diện và bền vững.

Page 19: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

14

Cuốn sách: Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền

núi phía Bắc nước ta hiện nay [117], đã chỉ ra rằng, nếu không xây dựng

được một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh, có đủ phẩm chất và

năng lực đảm đương nhiệm vụ cách mạng thì mọi chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước ta không thể đi vào cuộc sống, không thể phát huy

được nội lực của đồng bào các dân tộc, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có được một đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số vững mạnh, trước tiên "phải giải quyết tốt vấn đề phát triển

nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, vì đây là khâu quan trọng nhất, đồng thời

cũng là vấn đề khó khăn và yếu kém nhất trong công tác cán bộ dân tộc

thiểu số hiện nay" [117, tr.9]. Chỉ trên cơ sở phát triển mạnh nguồn cán bộ

dân tộc thiểu số, chúng ta mới có được thế hệ cán bộ dự bị, kế cận đông

đảo, đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực, để bổ sung vào các chức danh

lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị các cấp và bổ sung cho đội ngũ cán

bộ công chức là người dân tộc thiểu số ở các địa phương. Trên cơ sở đó,

từng bước xây dựng và hoàn thiện quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số các

cấp, các ngành; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng liên tục thường xuyên, chủ

động, có kế hoạch; kết hợp với cơ chế, chính sách sử dụng, quản lý đội ngũ

cán bộ dân tộc mang tính đồng bộ, hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Tác

giả khẳng định: "Có như vậy, chúng ta mới giải quyết được căn bản các

vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ mạnh, ngang tầm với

nhiệm vụ cách mạng đặt ra và phát triển vững chắc trong thời kỳ quá độ đi

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [117, tr.10].

Cuốn sách: Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh

ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay [98] đã phân tích

các đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc,

về thực trạng công tác, quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy

quản lý đặc biệt là nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn,

Page 20: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

15

nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Tác giả còn

đưa ra phương hướng, giải pháp thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc đến

năm 2020:

Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quan điểm,

phương châm, nguyên tắc của Đảng trong công tác quy hoạch cán

bộ, tập trung, lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng, chính

quyền, đoàn thể trong tỉnh, xác định rõ phương hướng, mục tiêu

của công tác quy hoạch cán bộ và tổ chức thực hiện đồng bộ các

nhóm giải pháp... Xác định rõ nguồn, tạo nguồn cán bộ dồi dào,

nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ đưa vào quy

hoạch [98, tr.227].

Cuốn sách: Phát huy vai trò của đội ngũ tri thức các dân tộc thiểu số

nước ta trong sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay [20] và Nguồn nhân lực trẻ

các dân tộc thiểu số - Những phân tích xã hội học [66] đã cho thấy vai trò của

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thực trạng công tác cán bộ vùng dân tộc thiểu số

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Bài viết: "Phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố chính quyền và đào

tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng mới" [131]

trong cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX khẳng định: Sự quan

tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội

ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số ở nước ta, tác giả khẳng định rằng "Từ khi có

Đảng Cộng sản Việt Nam, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở nước

ta đã trưởng thành và không ngừng phát triển, đội ngũ cán bộ lãnh đạo là

người dân tộc thiểu số đã có bước trưởng thành, khá rõ nét" [131, tr.115].

Tuy nhiên, tác giả cũng đưa ra một số những hạn chế bất cập của đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số. Đó là trình độ chuyên môn của người dân tộc thiểu

Page 21: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

16

số còn thấp. Tác giả nhấn mạnh "Tình trạng cán bộ là người dân tộc thiểu

số hiện nay vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực, đặc biệt là trình độ

năng lực học vấn" [131, tr.118]. Trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế

của việc đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng

mới, tác giả đã đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ

là người dân tộc thiểu số trong thời gian tới": "Có quy hoạch, kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc từ cơ sở cho đến trung ương, theo

nhu cầu của từng loại cán bộ trong từng thời kỳ, bảo đảm mục tiêu chiến

lược chung của cả nước" [131, tr.120]. Bởi vì xây dựng và phát triển đội

ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số không chỉ vì lợi ích của các dân tộc

thiểu số mà còn nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng chung của cả nước vì

chiến lược con người.

Bài viết: "Sự phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số" [51]

trong cuốn sách Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, đã khẳng định: Công

tác đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc đạt được nhiều thành

tựu đáng kể. Mười năm về trước, nhiều cán bộ thôn xã còn ở tình trạng mù chữ.

Cho đến nay, cán bộ thôn xã thấp nhất cũng có trình độ tiểu học và có người có

trình độ trung học.

Nhiều cán bộ, người dân tộc thiểu số đã có học vị cao. Tác giả chỉ rõ

"ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần đáng kể trong việc bồi dưỡng cán bộ

dân tộc thiểu số ở các trung tâm bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, các trường

bổ túc văn hóa tập trung ở các địa phương và Trung ương [51, tr.250]. Vì vậy:

"Thành tựu nổi bật của giáo dục ở vùng dân tộc là xác lập được quy trình xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số" [51, tr.249]. Bài viết còn đưa ra một số

giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc trong thời gian tới, đáng chú ý là

chế độ ưu tiên cộng điểm tuyển sinh và mở các lớp đào tạo riêng dành cho học

sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số nhất là ở vùng cao, tại các trường đại

học, cao đẳng trong cả nước.

Page 22: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

17

Bài viết: Một cách mới trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở ở Hà

Giang [34]. Trên cơ sở phân tích kết quả đạt được trong công tác đào tạo bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh, tác giả đã đưa ra một số kinh nghiệm

"Phải xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ đảm bảo chất lượng, trên cơ sở đó,

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với bố trí, sử dụng sau đào tạo... Coi

đây là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển

địa phương" [34, tr.46].

Bài viết: Sóc Trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người dân tộc

thiểu số Khmer [119]. Trên cơ sở đánh giá về công tác quy hoạch, đào tạo, sử

dụng cán bộ, người dân tộc thiểu số ở tỉnh; phân tích vai trò của đội ngũ cán

bộ người dân tộc Khmer trong việc triển khai, thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, tác giả đề xuất một số

giải pháp quan trọng "Quan tâm đến chính sách cử tuyển và quản lý chặt chẽ,

bố trí, sử dụng đúng địa chỉ được xét tuyển đối với học sinh, sinh viên tốt

nghiệp ra trường, có chính sách chọn cán bộ dự nguồn là người dân tộc

Khmer để đào tạo, bồi dưỡng" [119, tr.24].

Luận án Tiến sĩ: Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006 [118] đã làm

sáng tỏ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Đảng về xây dựng

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

phải dựa trên nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đồng

thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính

trị. Phải xuất phát từ đường lối chính trị - quân sự của Đảng, bảo đảm

nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ

giữa các dân tộc và phải đảm bảo sự thống nhất giữa cơ cấu và tiêu chuẩn

cán bộ; phải có những ưu điểm trong đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng

cán bộ, thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Tác giả còn

Page 23: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

18

khẳng định, để xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Bộ đội biên

phòng cần phải "bám sát yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam XHCN, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới,

xây dựng Bộ đội biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước

hiện đại" [118, tr.91] và "xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong

Đảng bộ Bộ đội biên phòng phải đặt trong tổng thể chiến lược cán bộ của

Đảng, nhà nước, quân đội, Bộ đội biên phòng, tạo được mỗi liên thông với

việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị, hòa nhập với xu

thế phát triển của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước" [118, tr.91].

Luận án Tiến sĩ: Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc

thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay [138] tiếp tục hoàn thiện

khung lý luận về tạo nguồn cán bộ; khái quát những đặc điểm tình hình cán

bộ dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; đề xuất phương hướng và những giải

pháp có tính đặc thù, khả thi để thúc đẩy công tác tạo nguồn cán bộ xã

người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn hiện nay.

Luận án Tiến sĩ: Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ

công chức từ năm 2001 đến năm 2010 [65] đã nghiên cứu về quan điểm,

chủ trương của Đảng về đào tạo đội ngũ cán bộ công chức "Xây dựng và

nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nhà nước phải thông qua hiệu quả

công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân để lựa chọn, đánh giá, đào

tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ" [65, tr.83]. Khi nghiên cứu về chủ

trương xây dựng đội ngũ công chức Việt Nam từ 1986 đến nay, tác giả đã

đưa ra một loạt các văn bản pháp lý hiện hành nhằm xây dựng đội ngũ cán

bộ công chức và qua quá trình hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ công

chức trước năm 2001, tác giả đã đưa ra những nội dung nhằm nâng cao

trình độ đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây

Page 24: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

19

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. "Những đổi mới đó đã làm

sáng rõ hơn mô hình hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ quá độ, khẳng

định rõ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nền kinh tế

thị trường - định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và

hội nhập kinh tế quốc tế" [65, tr.71].

Đề tài khoa học cấp bộ: Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc [122] đã phân

tích, làm rõ vai trò của cán bộ nói chung và cán bộ cấp huyện là người dân tộc

thiểu số nói riêng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc; đánh giá thực

trạng chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp huyện là người dân tộc thiểu

số ở nước ta hiện nay. Tác giả đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ

yếu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện là người dân tộc thiểu số trong thời

kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng núi, vùng dân

tộc thiểu số.

Đề tài khoa học cấp bộ: Việc thực hiện chính sách dân tộc trên lĩnh vực

đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay [71]

đã trình bày hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc

có liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số ở nước

ta. Nghiên cứu góp phần đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số và việc thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số ở vùng miền núi

hiện nay. Nghiên cứu đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp có tính khả

thi về chính sách cán bộ dân tộc, góp phần xây dựng Luật Dân tộc.

Đề tài khoa học cấp bộ: Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở

các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay [58] đã đưa ra các khái niệm và cách tiếp

cận vấn đề tạo nguồn chủ chốt, phân tích đánh giá thực trạng công tác tạo

nguồn của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc

Page 25: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

20

nước ta những năm đổi mới. Đề tài cũng tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn trong

việc tạo nguồn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây

Bắc qua việc nghiên cứu hoạt động này ở một số trường chính trị trong khu

vực, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh công tác, tạo nguồn cán bộ hệ thống

chính trị cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới.

Ngoài ra, còn có các công trình, Về công tác phát triển đảng viên tạo

nguồn cán bộ ở vùng dân tộc miền núi [72] và Luận cứ khoa học cho việc

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa [120].

Các công trình trên đây đã cung cấp luận cứ lý thuyết và thực tiễn

cho tác giả nhận thức đầy đủ và toàn diện về vấn đề xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số. Các công trình trên đã đưa ra các giải pháp nhằm xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói chung, đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số ở các địa phương nói riêng. Một trong những tiêu chí để xây dựng

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được các tác giả đồng quan điểm

trong các công trình, bài viết là cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số vững mạnh, có đủ năng lực phẩm chất đảm đương nhiệm vụ cách

mạng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới đi vào

cuộc sống; mới phát huy được nội lực của các dân tộc, đáp ứng được yêu

cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Các công trình

nghiên cứu còn đưa ra những nội dung quan trọng. Đó là, muốn xây dựng

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đạt chất lượng, cần phải

chú ý đến các khâu trong công tác này như công tác tạo nguồn, phát triển

nguồn, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Các công trình cũng đưa ra những

khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng và những phương hướng, giải

pháp nhằm thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Page 26: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

21

Đây là những nội dung quý để tác giả tham khảo, tiếp thu và bổ sung kiến

thức trong quá trình viết luận án.

1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số và công tác cán bộ ở Tuyên Quang

Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (giai đoạn 1976 - 2005)

[9]. Với chặng đường 30 năm (1976 - 2005), Đảng bộ và nhân dân các dân tộc

tỉnh Tuyên Quang đã trải qua thời kỳ tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang hợp

nhất thành tỉnh và Hà Tuyên (1976 - 1991) và thời kỳ từ sau tỉnh Tuyên

Quang được tái lập (tháng 10/1991) đến năm 2005. Mỗi thời kỳ đều có những

thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thử thách riêng. Phát huy truyền thống đoàn

kết, thống nhất, truyền thống cách mạng của quê hương Thủ đô khu giải

phóng, Thủ đô kháng chiến, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang luôn

tuyệt đối tin tưởng, trung thành với Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, trong các thời kỳ cách mạng, Đảng bộ và nhân dân các

dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã chung sức, chung lòng tận dụng thời cơ, vượt

qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, tăng

cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ

và an ninh quốc gia, xây dựng quê hương và tiếp tục giành được nhiều thành

tựu quan trọng. Thực tiễn 30 năm 1976 - 2005 cũng để lại những bài học kinh

nghiệm để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang

tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Một trong những bài

học đó là "không ngừng đổi mới tư duy, xây dựng phong cách lãnh đạo của

cấp ủy Đảng, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở

về phẩm chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị" [9, tr.402]

và kinh nghiệm rút ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh chặng đường

đã qua là "Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đặc biệt quan tâm xây

Page 27: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

22

dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ tại

chỗ, cán bộ dân tộc thiểu số có đủ phẩm chất và năng lực" [9, tr.424].

"Đảng bộ ngày càng nhận thức sâu sắc, giữ vững và thực hiện quan

điểm thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, thực

hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò

của tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các tổ chức; bước

đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến đối với cán bộ, nhất là ở cơ sở.

Việc triển khai ngày càng đồng bộ các khâu công tác của cán bộ từ đánh

giá đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực

hiện chính sách cán bộ đã giúp Đảng bộ có một đội ngũ cán bộ ngày càng

có chất lượng hơn. Trong quá trình đó, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ

sở nhất là cán bộ dân tộc thiểu số luôn được đặc biệt quan tâm thực hiện

sáng tạo, hiệu quả, được trung ương đánh giá cao, góp thêm kinh nghiệm

cho các địa phương khác" [9, tr.425].

Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ thị xã Tuyên Quang (1940 - 2008) [3]

đã tái hiện lại quá trình ra đời, lãnh đạo phong trào cách mạng địa phương

của Đảng bộ thị xã Tuyên Quang, phản ánh những sự kiện lịch sử, thành

tích tiêu biểu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị xã trong các thời kỳ

cách mạng (1940 - 2009). Kinh nghiệm về công tác lãnh đạo của Đảng bộ

thị xã Tuyên Quang là "Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội

ngũ cán bộ người địa phương; tạo mọi điều kiện để nhân dân các dân tộc

phát huy quyền làm chủ, cống hiến tài năng, trí tuệ cho cách mạng. Đồng

thời phải kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng cá nhân, cục bộ địa

phương, biểu hiện mất đoàn kết; phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng

dân cư trên địa bàn" [3, tr.406].

Cuốn sách: Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hóa (1940 - 2005) [2] ghi

lại quá trình ra đời, trưởng thành của Đảng bộ huyện và quá trình lãnh đạo

Page 28: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

23

nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện các nhiệm vụ cách mạng tại địa

phương. Đồng thời, trình bày những thành tựu bài học, kinh nghiệm quý báu

của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Chiêm Hóa trong hơn 60 năm

qua. Chiêm Hóa là một huyện của tỉnh Tuyên Quang có nhiều dân tộc cùng

sinh sống. "Đến năm 2005, dân số huyện Chiêm Hóa có 138.657 người gồm

22 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Dao, H'Mông, Nùng" [2, tr.14]. Để đáp ứng

được yêu cầu của sự phát triển xã hội, "Đảng bộ huyện đã quan tâm và đẩy

mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số.

Một trong những bài học trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân trong

huyện thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ huyện là "Thực hiện tốt

chính sách dân tộc, công tác vận động quần chúng của Đảng, thường xuyên

củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, huy động được sức mạnh đoàn kết yêu

nước của đồng bào các dân tộc vào sự nghiệp cách mạng" [2, tr.327].

Cuốn sách: Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 50 năm xây dựng và

phát triển [115] đã trình bày quá trình xây dựng và phát triển từ Trường

Đảng tỉnh Tuyên Quang đến Trường Chính trị tỉnh hiện nay; làm rõ nhiệm

vụ chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy của trường qua các thời kỳ lịch sử.

Ngoài ra, còn một số tác phẩm như: Văn hóa truyền thống các dân tộc

Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang [49], đã đề cập đến phong tục, tập quán tín

ngưỡng của các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.

1.1.2. Nghiên cứu của người nước ngoài

Nghiên cứu của người nước ngoài về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,

đặc biệt ở miền núi phía Bắc có công trình Những xu hướng phát triển ở vùng

núi phía Bắc Việt Nam [31] và Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt

Nam [87]... Các công trình này chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ nhân học, rồi

từ đó đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với việc

phát triển con người ở vùng dân tộc thiểu số.

Page 29: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

24

Gần đây, các tổ chức phi Chính phủ hợp tác với phía Việt Nam thực

hiện các dự án về đói nghèo, môi trường - sinh thái, quan hệ tộc người,... ở

miền núi và đã có những nghiên cứu đáng quan tâm như công trình:

Rethinking Approaches to Ethenic Minority Development, the Case of

Vietnam ("Nghĩ lại cách tiếp cận chương trình phát triển dân tộc thiểu số,

trường hợp Việt Nam") [139], và Chính sách dân tộc bản địa của Ngân

hàng Phát triển châu Á [88], Chính sách dân tộc bản địa của Ngân hàng

Thế giới... [89]. Những nghiên cứu này khuyến nghị Chính phủ Việt Nam

cần lưu tâm đến việc chăm lo những đối tượng chịu nhiều thiệt thòi trong

quá trình chuyển đổi cơ chế, mà ở đó đồng bào dân tộc thiểu số cần có sự

quan tâm đặc biệt. Các nghiên cứu này đã chỉ ra các nhóm dân tộc thiểu số

trình độ học vấn thấp, ít được hưởng lợi từ các chính sách ưu tiên của Nhà

nước, cũng như ưu tiên dân tộc thường là sự áp đặt ý chí của Nhà nước đối

với người dân, ít chú ý đến yêu cầu phát huy năng lực nội sinh của bản thân

người dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo những ưu tiên đầu tư đó có hiệu quả

lâu dài và bền vững. 1.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC GIẢI

QUYẾT VÀ NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU

1.2.1. Kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án đã được giải quyết

Những công trình nêu trên đã cung cấp những tài liệu quan trọng và cách

tiếp cận đối tượng nghiên cứu của luận án. Tuy vậy, do mục đích và phạm vi

nghiên cứu đặt ra, 3 nhóm công trình đó đã nghiên cứu những nội dung sau:

Nghiên cứu hệ thống quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về vấn

đề dân tộc và chính sách dân tộc.

Nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa

phương trên phạm vi cả nước.

Nghiên cứu quan điểm của Đảng về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Page 30: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

25

Một số công trình đã nghiên cứu về một số khâu trong công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như: tạo nguồn, phát triển nguồn cán bộ

dân tộc thiểu số.

Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang; tình hình

kinh tế, văn hóa xã hội, chính trị ở Tuyên Quang.

Chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.

Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này là cần thiết xét trên cả phương

diện lý luận và thực tiễn.

1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

- Khái quát đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán

bộ người dân tộc thiểu số;

- Phân tích các yếu tố tự nhiên, xã hội và bối cảnh lịch sử tác động đến

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số của tỉnh Tuyên

Quang từ khi tái lập tỉnh từ năm 1991 đến năm 2010.

- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ

cán bộ người dân tộc thiểu số (qua hai giai đoạn: 1991 - 2000 và 2001 - 2010).

- Đánh giá những kết quả đã đạt được, những khó khăn, tồn tại; bước

đầu đúc kết một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh qua thực tiễn lãnh đạo công

tác xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.

Page 31: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

26

CHƯƠNG 2

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA

ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000

2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TUYÊN QUANG

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc tế

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, nằm giữa khu Việt Bắc. Phía Bắc

giáp tỉnh Hà Giang, có ranh giới dài 151km; Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và

Vĩnh Phúc, có ranh giới dài 80km; Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn

và Thái Nguyên, có ranh giới dài 171km; Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, có ranh

giới dài 80km.

Tuyên Quang có nhiều rừng núi, chiếm khoảng 4/5 diện tích toàn tỉnh.

Càng về phía Bắc càng có nhiều ngọn núi cao trên 1.000m. Phía Đông, nối

với dãy Tam Đảo là núi Thanh Sơn, núi Lịch, núi Hồng. Phía Nam là những

dãy đồi xen kẽ núi đá có thành vách đứng bao quanh, tạo thành những thung

lũng hiểm trở, nhiều hang động lớn.

Rừng núi Tuyên Quang có tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong

phú. Trong lòng đất Tuyên Quang có nhiều khoáng sản quý hiếm như:

than, kẽm, thiếc, diêm tiêu… phục vụ cho ngành kinh tế công, nông nghiệp

và quốc phòng.

Tuyên Quang có mạng lưới giao thông thủy bộ tương đối thuận tiện.

Sông Lô bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Hà Giang về Tuyên Quang rồi

hợp với sông Hồng chảy ra biển Đông. Sông Gâm chảy qua Cao Bằng về

huyện Na Hang, Chiêm Hóa, nối với sông Lô ở ngã ba Hòn Lau (Yên Sơn).

Đây là hai con sông rộng và sâu, tàu, xuồng loại nhỏ có thể đi lại dễ dàng,

Page 32: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

27

thuận lợi cho việc cơ động lực lượng và vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra,

Tuyên Quang còn có sông Chảy ở Yên Sơn, sông Năng ở Na Hang, sông Phó

Đáy ở Sơn Dương và hàng trăm con ngòi, suối, vừa là nguồn nước dồi dào

phục vụ cho sản xuất vừa là nguồn thủy năng tiềm tàng. Về giao thông đường

bộ có quốc lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Vĩnh Phúc, Phú thọ đến Tuyên Quang

và lên tỉnh Hà Giang, dài hơn 300km. Đường số 13A xuất phát từ Bờ Đậu

(Bắc Thái) qua Đèo Khế sang Sơn Dương đến thị xã Tuyên Quang, sang tỉnh

Yên Bái. Đường số 12 từ Sơn Dương đi Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Đường số 11

từ Đoan Hùng qua huyện Yên Bình lên huyện Lục Yên (Yên Bái). Ngoài ra,

Tuyên Quang có nhiều trục đường liên huyện chạy dọc theo các thung lũng,

triền núi, nối liền các tỉnh bạn.

Địa hình Tuyên Quang đa dạng và phức tạp. Núi cao, vực sâu, rừng

rậm nối tiếp nhau tạo thành những hành lang bao bọc lấy nội địa, tạo cho

Tuyên Quang có địa thế hiểm yếu, một địa bàn quan trọng của đất nước.

Do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu và thời tiết ở Tuyên Quang khá

phức tạp. Nhiệt độ trung bình 160C. Mùa đông, có nơi nhiệt độ xuống đến 1

hoặc 20C. Lượng mưa phân bổ không đều. Lũ lụt đi liền với gió bão, mưa đá,

gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.

Tuyên Quang với điều kiện tự nhiên thiên nhiên ưu đãi, nhiều tiềm

năng phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, trước hết và quan

trọng là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số bản địa có trách nhiệm khai thác, phát

huy. Tuyên Quang giáp với các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ và Bắc Cạn

cũng đều có nhiều dân tộc sinh sống. Vì vậy, Đảng bộ Tuyên Quang có nhiều

thuận lợi trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, có thể học hỏi

kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các tỉnh bạn. Tuy

nhiên, với địa hình đa dạng và phức tạp, lũ lụt thường xuyên cùng với giao

thông đi lại khó khăn, là một trở ngại trong quá trình phát triển kinh tế - xã

Page 33: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

28

hội, củng cố hệ thống chính trị nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số của tỉnh nói riêng.

Địa bàn chia cắt, đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng cao với đặc

điểm của các dân tộc ít người, có môi trường sống quá gần gũi với thiên

nhiên, định cư bên các triền đồi, núi, cách xa trung tâm kinh tế, văn hóa,

chính trị các vùng trong địa bàn tỉnh cũng là một thách thức trong công tác

xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở Tuyên Quang.

2.1.1.2. Yếu tố về kinh tế

Bên cạnh những thuận lợi và thế mạnh cơ bản, đến nay Tuyên Quang

vẫn là một tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn: Kinh tế phát triển chậm, trình độ

sản xuất còn thấp kém, một số vùng vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp. Thế

mạnh về cây công nghiệp, chăn nuôi chưa được khai thác tốt, đất trống, đồi

trọc còn nhiều. Công nghiệp chưa phát triển, chỉ chiếm 14% giá trị tổng sản

phẩm xã hội. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với mức bình quân

cả nước, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều bộ phận dân cư

còn sống ở mức nghèo khổ, điển hình là các tộc người thiểu số sinh sống tại

các địa bàn xa xôi, hẻo lánh. Bản thân cuộc sống của dân tộc còn khó khăn và

thiếu thốn sẽ hạn chế đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

ngay chính trong tộc người đó.

Tuyên Quang đã có những thành tựu nhất định trong xoá đói giảm

nghèo. Tuy nhiên, tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa vẫn cao so với mặt

bằng chung của tỉnh. Bên cạnh đó, do những thành tựu xoá đói, giảm nghèo

đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Trong khi

hầu hết đồng bào dân tộc thiểu số đều làm nghề nông. Khi nói tới dân tộc

thiểu số, chúng ta thường nghĩ ngay tới rừng núi, chăn nuôi, tới công việc đi

rừng làm rẫy. Điều đó đã in sâu vào trong suy nghĩ và tiềm thức của mỗi

người, về công việc của đồng bào dân tộc thiểu số.

Page 34: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

29

Giúp bà con dân tộc thiểu số thoát nghèo, phát triển kinh tế là một

trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế đất

nước. Nhưng nếu chỉ có chính sách hỗ trợ mà không có sự cố gắng của

chính đối tượng được trợ giúp thì chính sách đó cũng không thể đạt được

hiệu quả như mong muốn. Nhiều năm qua, Đảng bộ các cấp của tỉnh Tuyên

Quang cũng đã có những định hướng nghề, mở các lớp dạy nghề cho đồng

bào dân tộc thiểu số. Nhưng một điều hết sức lưu ý là có rất nhiều hộ gia

đình đồng bào dân tộc thiểu số mong muốn cho con cái được làm cán bộ.

Điều này bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ theo lối mòn của bà con dân tộc, cứ

làm việc trong Nhà nước hay các tổ chức đều gọi là cán bộ mà không có sự

phân biệt về ngành nghề hay công việc. Mong muốn cuối cùng là "thoát

nghèo", "thoát nông". Đồng bào dân tộc thiểu số rất hạn chế trong hiểu biết

về các công việc và ngành nghề. Bên cạnh đó, đại đa số đồng bào dân tộc

thiểu số không có kiến thức phổ thông, thậm chí nhiều người còn chưa biết

chữ; các trường nghề đa phần nằm xa làng bản, đi lại khó khăn cũng là

những trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề ở vùng dân tộc thiểu

số... dẫn đến người lao động muốn có công việc, để ổn định cuộc sống,

trong khi tay nghề không có, là rất khó khăn.

Tỉnh Tuyên Quang cũng đã có một số dự án các khu công nghiệp được

mở ra, khuyến khích sử dụng lao động tại chỗ, đặc biệt là ưu tiên con em

đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng bản thân họ không đáp ứng được những

yêu cầu của công việc. Nhiều công việc tuy đòi hỏi chuyên môn không cao,

nhưng lại có những quy định và kỷ luật lao động công nghiệp, khiến lao động

là người dân tộc thiểu số không đáp ứng được.

Việc di cư cũng là điều rất hạn chế với người dân tộc thiểu số. Suy nghĩ

bám đất bám quê ăn sâu vào tiềm thức của họ. Nên dù có nghèo khổ họ cũng

không muốn bỏ quê để tìm tới một cơ hội mới; việc kinh doanh buôn bán tại

Page 35: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

30

chỗ vô cùng nhỏ lẻ và kém phát triển. Điều đó là nguyên nhân của những dự

án di dân tái định cư ở tỉnh Tuyên Quang không đạt được hiệu quả.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến sự

phát triển kinh tế cho các dân tộc thiểu số. Sự phát triển này được dựa trên

kinh tế của từng vùng miền khác nhau. Các chương trình 135, 134 áp dụng

cho các xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn trên địa bàn cả nước cũng

đã đạt được một số thành tựu đáng kể về kinh tế cũng như xã hội. Chương

trình 135 cũng đã tạo ra bước chuyển quan trọng trong sản xuất nông, lâm,

ngư nghiệp của người dân tộc thiểu số. Đã có những kiến thức khoa học kỹ

thuật được áp dụng trong các công đoạn sản xuất, đưa máy móc vào trong

nông nghiệp, đưa các giống mới vào sản xuất... Chính những công việc này

đã tác động mạnh mẽ đến xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ người dân

tộc thiểu số phát triển để có thể thoát nghèo trên chính những tư liệu sẵn có

của mình. Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đã dẫn tới

những thay đổi về cơ cấu xã hội, phong cách, lối sống, phong tục tập quán

cũng như dẫn tới sự "đô thị hoá", tạo ra các trung tâm dịch vụ cấp vùng,

cấp địa phương, nhất là các dịch vụ xã hội liên quan trực tiếp đến sự phát

triển nguồn cán bộ dân tộc như giáo dục - đào tạo, y tế - chăm sóc sức

khoẻ, truyền thông, truyền hình... tác động rất lớn đến việc hình thành một

đội ngũ tri thức chuyên nghiệp sinh sống và hoạt động ở đô thị, vừa tạo nhu

cầu cho các dân tộc thiểu số phấn đấu, tham gia vào hệ thống chính trị ở

địa phương. Xây dựng nông thôn mới thiếu quy hoạch cũng dễ tạo tình

trạng phát triển bất cân xứng giữa các vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa,

vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số.

Đặc điểm này gây những khó khăn, trở ngại trong xây dựng đội ngũ

cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói riêng; đồng

thời, đòi hỏi Đảng bộ phải luôn chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý

Page 36: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

31

của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế là

người dân tộc thiểu số của tỉnh.

2.1.1.3. Yếu tố về văn hóa

Bản sắc văn hóa là một vốn quý giá nhưng trước làn sóng đô thị hoá,

trong điều kiện mở cửa và giao thương phát triển mạnh, một số bà con dân

tộc thiểu số lại sinh sống gần các khu vực biên giới nên bản sắc văn hóa

các dân tộc có nguy cơ bị mai một nhanh chóng. Trong điều kiện hội nhập

phát triển mạnh như hiện nay, một vấn đề đặt ra là phải bảo tồn di sản văn

hóa nói chung và bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng.

Nhưng muốn bảo tồn được các di sản văn hóa đòi hỏi phải thay đổi về mặt

nhận thức, có sự quan điểm chỉ đạo mang tính khoa học, đồng bộ của các

cấp uỷ đảng và chính quyền. Trong quá trình giao lưu, hội nhập với quốc

tế, chúng ta đứng trước những thách thức đặt ra và điều cần thiết là cần

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa người dân tộc thiểu số trong giao lưu

và hội nhập. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, có nhiều thay đổi như về

tiếng nói, cách ăn mặc, lối sống, và văn hóa tộc người... Riêng về tiếng

nói và chữ viết, hiện đang phổ cập tiếng Việt cho hầu hết các dân tộc,

đồng thời duy trì ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Người dân

sẽ học chữ quốc ngữ song song cùng với chữ viết của dân tộc mình. Đây

cũng là một biện pháp thiết thực nhằm bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của

dân tộc trước sự hội nhập quốc tế không ngừng gia tăng. Không chỉ duy

trì những nét văn hóa trong cộng đồng người dân mà ngay cả các cán bộ

quản lý trong khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống bất kể là người

dân tộc nào cũng sẽ phải học và làm quen với tiếng nói và chữ viết của

dân tộc đó. Đây là một điều rất cần thiết và thiết thực với công tác quản lý

bởi có hiểu được người dân thì mới có thể đề ra các biện pháp và cách

thức quản lý đúng đắn và phù hợp.

Page 37: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

32

Vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số rất quan trọng trong

việc bảo tồn và phát triển cũng như phòng chống các biểu hiện tiêu cực trong

tập tục của đồng bào các dân tộc thiểu số.

2.1.1.4. Yếu tố về xã hội và dân cư

Tuyên Quang là địa bàn quần cư của nhiều dân tộc anh em sinh sống từ

bao đời nay: Kinh, Tày, Nùng, H'Mông, Cao Lan, Sán Dìu, Cờ Lao, Pà Thẻn,

La Chí, Pu Péo, Lô Lô, Bố Y, Dao, Hoa, Giấy, Mường… Những dân tộc có

dân số đông là Kinh, Tày sống tập trung ở thành phố Tuyên Quang và thị xã

và huyện Yên Sơn, Hàm Yên. Các dân tộc thiểu số khác sống tập trung ở các

huyện khác còn lại của tỉnh như Na Hang, Chiêm Hóa, Sơn Dương. Các dân

tộc sống xen kẽ với nhau rất đoàn kết và hòa thuận.

Theo điều tra dân số năm 1991, Tuyên Quang có 596.679 người, mật

độ trung bình khoảng 100 người trên 1km2. Đến năm 2007, là 732.256 người.

Phần đông đồng bào sống tập trung ở vùng thấp, ven sông và các thị trấn, thị

xã. Ở vùng cao, dân cư thưa thớt hơn.

Với đặc điểm sống cách xa nhau về mặt địa lý, là những bất lợi cho

việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Để tuyên truyền, nâng cao

nhận thức cho dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị của tỉnh là

một điều hết sức khó khăn. Hơn nữa, do nền kinh tế chuyển đổi và quá

trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế

tương đối cao, có tính chất liên tục trong thời gian dài dẫn tới việc phân

tầng xã hội ngày càng gia tăng. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến

quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đa số người dân tộc

thiểu số là những người nghèo thuộc giai cấp nông dân. Cơ hội để phát

triển của họ là không nhiều. Những điều kiện này đặt ra yêu cầu đối với các

địa phương vùng nhiều đồng bào dân tộc thiểu số là phải đào tạo nghề cho

người lao động thiểu số thông qua các chương trình, dự án. Chính vì thế,

Page 38: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

33

các tộc người thiểu số thường dễ bị tổn thương và hay phải đứng trước

những rủi ro khi có những biến động về kinh tế, chính trị và xã hội, cơ hội

di động xã hội của họ không cao, do đó, nguy cơ tụt hậu hơn nữa là điều rất

có thể xảy ra.

Các tộc người thiểu số thường sống quây quần thành các làng bản. Tính

cộng đồng trong dòng họ, thôn bản của đồng bào dân tộc thiểu số rất cao. Họ

nhất nhất nghe theo người đứng đầu dòng họ hay trưởng bản. Điều này có lợi

nhưng cũng là một điểm yếu để những "thế lực thù địch" lợi dụng chống lại

đường lối của Đảng và Nhà nước. Trưởng bản, trưởng tộc là những người có

uy tín được đồng bào cử ra điều khiển việc chung của một cộng đồng dân cư

vùng dân tộc thiểu số. Đây không chỉ là một yêu cầu của cuộc sống mà còn là

phong tục tốt đẹp, là nét văn hóa riêng của các dân tộc thiểu số đã hình thành

và tồn tại từ rất lâu đời trong lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, họ đang thực

sự là nòng cốt, là cầu nối giữa dân với Đảng, với chính quyền, Mặt trận tổ

quốc; họ có những đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền, vận động con

cháu trong dòng tộc và các thành viên trong cộng đồng dân cư thực hiện

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giữ yên gia đình,

làng, bản của mình.

Trong những năm gần đây, nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu

số về giáo dục và đào tạo cũng đã có những tiến bộ đáng kể. Thể hiện ở việc

dự định của họ cho con em đi học ở các cấp học khác nhau. Đây là nguồn

vô cùng quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Chính

sách cử tuyển của Đảng và Nhà nước áp dụng cho vùng dân tộc thiểu số đã

mở ra hướng mới, nhằm mục đích nâng cao chất lượng nguồn cán bộ dân

tộc thiểu số, để bổ sung vào đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số kế cận sau này.

Tuy nhiên, điều này cũng vấp phải một rào cản lớn, đó là sự ỷ lại của đồng

bào dân tộc thiểu số. Họ sống phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên với tâm lý

Page 39: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

34

dễ thì làm, khó thì bỏ và tâm lý này duy trì cả trong việc học tập. Họ luôn

bằng lòng với những gì sẵn có, thiếu ý thức phấn đấu cầu thị, chưa có ý

thức học tập để tạo ra nền xã hội cho lập nghiệp, lập thân và rộng hơn là

tìm cơ hội phát triển.

Năng lực tham gia của các dân tộc thiểu số vào quá trình phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội và thể chế chính trị cũng góp phần vào sự phát triển của

nguồn cán bộ dân tộc thiểu số tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ cách mạng.

Các dân tộc thiểu số sống đan xen. Vì thế đoàn kết dân tộc sẽ thúc đẩy

sự giao lưu học hỏi lẫn nhau, làm cho tri thức chung ngày càng mở rộng, và

như thế quá trình xây dựng cán bộ dân tộc thiểu số sẽ có những bước chuyển

biến mới và có khả năng nâng cao tri thức một cách rõ ràng.

2.1.1.5. Yếu tố quốc tế

Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ với khoảng 650 tổ chức phi chính

phủ nước ngoài, trong đó có trên 500 tổ chức hoạt động thường xuyên và cam

kết dài hạn. Nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ chủ yếu tập trung

vào các ngành y tế, giáo dục; giải quyết các vấn đề xã hội cũng như phát triển

kinh tế (nhất là du lịch). Đặc biệt các nguồn vốn này sẽ được ưu tiên nhiều

hơn tới các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc

thiểu số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, môi trường xã hội còn nhiều hạn chế.

Những chương trình, dự án của các tổ chức quốc tế đem tới Việt Nam đã góp

phần tích cực vào việc xoá đói, giảm nghèo cũng như nâng cao đời sống và

năng lực của người dân tại các vùng dự án.

Khả năng giao lưu quốc tế được mở rộng cho phép các dân tộc có

nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau. Các phần tử xấu cũng lợi dụng chính sách

mở cửa của Việt Nam để thâm nhập, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết

dân tộc, thực hiện chủ nghĩa ly khai. Tại một số nơi trong tỉnh, những phần

Page 40: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

35

tử này đã dựa vào miền núi, vùng sâu vùng xa, lợi dụng lòng tin, nhận thức

còn bị hạn chế, đời sống vật chất khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các

dân tộc thiểu số để tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà

nước Việt Nam. Như sự kiện "Tổ chức tín ngưỡng Dương Văn Minh"

những năm cuối thế kỷ XX ở Tuyên Quang đã lợi dụng nhận thức còn hạn

chế của đồng dân tộc thiểu số, đặc biệt là người H'Mông. Chúng đã kích

động, lôi kéo họ tham gia theo "Tín ngưỡng Dương Văn Minh" mà thực

chất đó là một tà đạo. Kích động đồng bào H'Mông khiếu kiện với chính

quyền đòi công nhận sự tồn tại của "Tín ngưỡng Dương Văn Minh", nhưng

thực chất của mục đích là chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sau khi

Dương Văn Minh bị bắt, chính quyền địa phương đã giác ngộ, phân tích

cho đồng bào H'Mông trong tỉnh nhận thức được bản chất của tín ngưỡng

này, giúp họ trở lại với cuộc sống hàng ngày, và tin tưởng vào sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước.

Như vậy, xét về yếu tố môi trường tự nhiên, đồng bào các dân tộc thiểu

số ở Tuyên Quang sống rải rác, xen kẽ nhau. Về kinh tế - văn hóa, xã hội, văn

hóa các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đều nhau. Tuy cùng chia

sẻ một số giá trị văn hóa chung, nhưng mỗi dân tộc lại có những giá trị và sắc

thái riêng. Tất cả những yếu tố trên đã có những tác động và là một thách thức

không nhỏ đối với Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang trong công tác lãnh đạo, xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở địa phương.

2.1.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

ở Tuyên Quang trước năm 1991

Người Việt Nam luôn tự hào về nền văn hóa truyền thống của mình,

bởi đó là một nền văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Sự

phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc đó là do sự đóng góp của 54

dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Mỗi dân tộc tự xây

Page 41: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

36

dựng nên một nền văn hóa truyền thống của riêng mình. Nền văn hóa ấy có

xu hướng hòa nhập với nền văn hóa chung của dân tộc trong quá trình giao

lưu, tiếp bước, vừa mang nét độc đáo riêng của mỗi dân tộc. Đây chính là cơ

sở để hình thành một nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Văn

hào R.Tago đã nói "Mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải biết thể

hiện mình trước thế giới". Theo Vũ Ngọc Khánh trong Truyền thống văn hóa

các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tập 1 có viết "Từ khi buổi bình minh của lịch sử,

tổ tiên của các dân tộc thiểu số hiện nay đã là chủ nhân của những nền văn

hóa xưa nhất của nhân loại" [68, tr.17].

Người dân tộc thiểu số là cư dân sống lâu đời ở mảnh đất Tuyên Quang

được gọi là "Trấn biên" che chở cho "Kinh chấn". Không kể người Kinh, có

khoảng 22 dân tộc khác nhau cùng sinh sống, trong đó chiếm số lượng nhiều

hơn cả là người Tày, người Dao, người Cao Lan và người Nùng.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đồng bào các dân tộc thiểu số ở

Tuyên Quang vốn có truyền thống yêu nước, cần cù, khéo tay, sáng tạo trong

lao động, thông minh, hiếu học, giàu lòng nhân ái, kiên cường, bất khuất

trong chiến đấu, đã tạo nên một Tuyên Quang giàu bản sắc và truyền thống

văn hóa, một Tuyên Quang - quê hương cách mạng.

Thời phong kiến, dưới các triều đại Lý, Trần, Lê thời Tây Sơn, nhân

dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp với triều đình đứng lên đánh

đuổi kẻ thù xâm lược bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ.

Những năm đầu thế kỷ 20, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã

tham gia vào cuộc đấu tranh chống thực hiện dân Pháp xâm lược, hưởng ứng

phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc.

Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 và lãnh đạo

cách mạng Việt Nam, đồng bào các dân tộc ở Tuyên Quang đã một lòng theo

Đảng, tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; kháng chiến chống

Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước.

Page 42: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

37

Trong thời kỳ cách mạng mới, các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang

là lực lượng xã hội quan trọng góp phần vào sự thành công của công cuộc

xây dựng CNXH. Trong sản xuất, họ là lực lượng lao động đông đảo,

đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế ở Tuyên Quang. Với 22 dân

tộc khác nhau, người dân tộc thiểu số đã thực sự mang đến cho Tuyên

Quang nhiều sắc thái giá trị đó là truyền thống cần cù lao động, chịu

thương chịu khó, lối sống tiết kiệm, chắt chiu thành quả, là nghị lực phấn

đấu, vượt qua hoàn cảnh để sinh tồn, tạo dựng một chỗ đứng của bản thân

trong cộng đồng các dân tộc anh em, với trình độ học vấn ngày càng được

nâng lên, đã đóng góp vào thành tựu phát triển chung của tỉnh, đồng thời

là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số.

Trong hệ thống chính trị cơ sở của tỉnh, tỉ lệ cán bộ, công chức chuyên

trách và không chuyên trách là người dân tộc thiểu số có số lượng đáng kể.

Hơn ai hết, họ gần gũi với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, hiểu tiếng nói,

phong tục tập quán tâm lý, lề lối, thói quen... của đồng bào nên đã phát huy

tốt vai trò tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước.

Phát huy được vai trò của cộng đồng, người dân tộc thiểu số ở Tuyên

Quang trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh

- xã hội, là nhân tố mang lại sự ổn định, phát triển bền vững của vùng đất

"Trấn biên" của Tổ quốc. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc

thiểu số không chỉ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt mà còn là vấn đề

có tính chiến lược lâu dài cho vùng đất đa dân tộc này.

Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trước

năm 1991 chưa thực sự được quan tâm. Cán bộ là người dân tộc thiểu số tham

gia vào hệ thống chính trị một cách ngẫu nhiên do nhu cầu công việc nên tỉ lệ

quá thấp so với tổng số cán bộ trong tỉnh.

Page 43: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

38

Cán bộ dân tộc thiểu số là sợi dây liên hệ giữa Đảng và quần chúng các

dân tộc. Giữa họ và dân tộc có mối quan hệ ruột thịt với nhau, do đó, họ có

điều kiện thuận lợi đoàn kết và động viên nhân dân các dân tộc phát triển sự

nghiệp cách mạng và xây dựng quê hương theo con đường của Đảng. Giai

đoạn này, Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên còn thiếu kế hoạch chủ động và biện pháp

tích cực lâu dài, nhằm củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Hơn nữa, trong suốt một thời gian dài, chúng ta còn có thái độ đối với những

cán bộ vốn là người thuộc tầng lớp trên của dân tộc ít người, quy chụp và hiểu

một cách lệch lạc phương hướng giai cấp trong công tác cán bộ, đã gạt bỏ

những người thuộc thành phần lớp trên hoặc khá giả, còn có ảnh hưởng quan

trọng trong dân tộc thiểu số, đã tham gia công tác nhiều năm, dẫn tới sự bất

mãn của đội ngũ cán bộ này gây ảnh hưởng tới công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.

Bên cạnh việc sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số không hiệu quả, công

tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh cũng chưa

phù hợp với chuyên môn và đặc điểm từng địa phương, nhất là đào tạo cán

bộ kỹ thuật, quản lý kinh tế và chuyên môn nghiệp vụ là người dân tộc

thiểu số.

Để sử dụng tốt cán bộ dân tộc, về mặt tư tưởng, phải chống khuynh

hướng hẹp hòi, xây dựng quan điểm đúng đắn với việc nhìn nhận và đánh giá

cán bộ dân tộc, mạnh dạn sử dụng và tích cực bồi dưỡng cán bộ dân tộc.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đặc biệt là cán bộ lãnh đạo

và chỉ đạo ở cấp tỉnh còn rất ít, nhất là những cán bộ chủ chốt. Phần lớn các

chức vụ phụ trách các ngành ở tỉnh và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của

Đảng ở cấp tỉnh, huyện vẫn do cán bộ miền xuôi hoặc ở nơi khác đến đảm

nhiệm. Trong đội ngũ chuyên môn, khoa học, kỹ thuật từ các ngành y tế, giáo

dục tương đối nhiều cán bộ dân tộc hơn, còn lại các ngành khác, cán bộ dân

Page 44: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

39

tộc thiểu số tham gia vẫn ít. Trong cán bộ dân tộc, số cán bộ thuộc các dân tộc

ít người như Dao, Nùng, Cao Lan, Sán Dìu... chiếm số quá ít, chưa tương

xứng với số dân của họ. Phần lớn cán bộ dân tộc thiểu số chủ yếu là người

dân tộc Tày.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cũng như những hạn chế trong công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn này, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đề ra những chủ trương đúng đắn để xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, và sử dụng có hiệu quả hơn trong hệ thống chính trị của tỉnh.

2.1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

2.1.3.1. Khái niệm "cán bộ", "dân tộc thiểu số" và "cán bộ dân tộc thiểu số"

* Khái niệm "cán bộ": Là một từ được du nhập vào Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XX. Ban

đầu, từ "cán bộ" được dùng trong quân đội để phân biệt giữa chiến sĩ và người chỉ huy (từ cấp tiểu đội trở lên). Về sau, từ "cán bộ" được dùng để chỉ tất cả

những người thoát ly gia đình đi hoạt động kháng chiến để phân biệt với nhân dân. Trong một thời gian dài, ở Việt Nam từ "cán bộ" được dùng phổ biến, thay thế cho từ công chức. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, cán bộ được coi là

tất cả những người làm việc trong bộ máy của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi là những người có mức lương từ bậc cán sự trở lên, để phân biệt với những nhân viên có

mức lương dưới cán sự. Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "cán bộ" có hai nghĩa cơ bản: - "Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan

nhà nước.

- Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ

chức, phân biệt với người không có chức vụ" [136, tr.109].

Page 45: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

40

Trong Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/2/1947, khi

giải đáp về người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là

cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động

cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính

sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì

chính sách hay cũng không thể thực hiện được" [86, tr.54].

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một

lần nữa khẳng định:

Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ

giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình

hình dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt

chính sách cho đúng.

Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc.

Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng [86, tr.269].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ hoàn toàn phù hợp với quan điểm

của V.I.Lênin. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, đứng

trước những nhiệm vụ cực kỳ to lớn và phức tạp của chính quyền Xôviết

non trẻ, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực, V.I.Lênin

đã viết: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó

là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là

mớ giấy lộn" [76, tr. 449].

Cán bộ là những cá nhân có trách nhiệm, tư cách cụ thể, rõ ràng, gắn

với một tổ chức nhất định. Khi tách rời tổ chức đó, người cán bộ sẽ mất tư

cách của mình. Chính vì vậy, để trở thành cán bộ, mỗi cá nhân phải rèn luyện

và học tập và để giữ vững tư cách cán bộ, mỗi cá nhân phải tự tu dưỡng và

trau dồi đạo đức cách mạng.

Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của

nhân dân; phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng

Page 46: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

41

cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ

được giao.

Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng

Cộng sản Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ, đi đôi với phát huy

trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam, cán bộ được hiểu là: Những người công tác trong một

tổ chức xác định của hệ thống chính trị; có những trách nhiệm và quyền hạn nhất

định được tổ chức và nhân dân giao phó; có năng lực và trình độ công tác đáp

ứng các yêu cầu của nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức cách mạng; tuyệt

đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, hết lòng tận tụy phục vụ nhân

dân; sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì lợi ích tối cao của Đảng, của dân tộc.

Tất cả cán bộ công tác trong hệ thống các cơ quan nhà nước và

hưởng lương từ ngân sách nhà nước đều thuộc phạm vi điều chỉnh của

Pháp lệnh cán bộ, công chức. Trong trường hợp này, tất cả các công chức,

viên chức nhà nước; các công chức, viên chức công tác trong các tổ chức

chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội; sĩ quan, sĩ quan chuyên nghiệp,

công nhân viên quốc phòng công tác trong Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ

quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp công tác trong lực lượng Công an nhân dân

đều được coi là cán bộ.

* Khái niệm dân tộc thiểu số

Khái niệm "dân tộc thiểu số" được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia,

trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong các văn bản của các định chế tài chính

quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), hoặc các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc như

(UNDP, UNICEF...), người ta thường sử dụng khái niệm "người bản địa", hay

các "dân tộc bản địa" thay cho khái niệm "dân tộc thiểu số" như cách gọi của

chúng ta.

Page 47: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

42

Đối với thực tiễn tộc người Việt Nam, khái niệm "người bản địa"

(hay còn gọi là "người bản xứ") chỉ xuất hiện vào thời Pháp thuộc, khi

phân biệt người dân Việt Nam với người Pháp. Có 54 tộc người sinh sống

lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam nhưng không có tộc người nào là bản địa

hay tộc người nào phi bản địa - dù có tộc người sinh sống lâu đời có tộc

người nhập cư muộn hơn - mà chỉ có tộc người đa số và tộc người thiểu

số. Do đó, khái niệm "tộc người thiểu số" (hay "dân tộc thiểu số") được sử

dụng là phù hợp thực tiễn tộc người ở nước ta. Gọi tộc người thiểu số là

để phân biệt với tộc người đa số mà tiêu chí phổ dụng là xem xét tỷ lệ dân

số tộc người trong tổng dân số quốc gia. "Theo tổng điều tra dân số và

nhà ở năm 2009, cả nước có 85.846.997 người, trong đó người Kinh là

73.574.427 người (chiếm 85,73%), nên được xem là tộc người đa số, 53

tộc người còn lại (và 2.134 người ngoại quốc) là 12.252.570 người (chiếm

14,27%), nên được xem là các tộc người thiểu số" [108, tr.19-20]. Một tộc

người chỉ được xem là thiểu số khi đặt dân số tộc người đó với tổng dân

số cả nước mà không xem xét ở phạm vi vùng hay địa phương. Bởi vì,

một tộc người thiểu số nào đó (của cả nước) nhưng đặt trong phạm vi một

địa phương nhất định có khi lại chiếm đa số, như trường hợp người

Mường ở Hòa Bình, người Thái ở Sơn La hay người Nùng ở Lạng Sơn.

Thuật ngữ "thiểu số" hay "ít người" cũng đều hàm nghĩa giống nhau, một

bên nghĩa Hán - Việt, còn bên kia là thuần Việt. Tuy nhiên, khi nói "ít

người" dễ hiểu lầm với các tộc người thiểu số có dân số ít (thường dưới

10.000 người), nên thuật ngữ "ít người" ít được sử dụng. Còn nếu gọi

"dân tộc thiểu số" ở nước ta thì được hiểu là "tộc người thiểu số", tức 53

tộc người còn lại ngoài người Kinh. Các tài liệu phổ biến ở nước ta

thường phân biệt tộc người này với tộc người khác ở các dấu hiệu về ngôn

ngữ, đặc trưng sinh hoạt văn hóa, ý thức tự giác tộc người (thường thể

hiện ở tên tự gọi).

Page 48: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

43

* Khái niệm "cán bộ dân tộc thiểu số"

Về thực chất, đây là một khái niệm kép - một tập hợp của hai khái niệm

"cán bộ" và "dân tộc thiểu số". Khái niệm này dùng để chỉ những người đang

công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị có thành phần dân

tộc xuất thân là các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiêu chí

để phân biệt "cán bộ dân tộc thiểu số" trong "đội ngũ cán bộ" nói chung là có

thành phần dân tộc xuất thân từ các "dân tộc thiểu số".

Từ sự phân tích trên có thể đi tới một quan niệm chung, thống nhất về

"cán bộ dân tộc thiểu số": Cán bộ dân tộc thiểu số là những người công tác trong

một tổ chức xác định của hệ thống chính trị, có thành phần xuất thân từ các dân

tộc thiểu số; có những trách nhiệm và quyền hạn nhất định được tổ chức giao

phó; có năng lực và trình độ công tác đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ tuyệt

đối trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, hết lòng tận tụy phục vụ

nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lợi ích tối cao của Đảng, của Tổ quốc

và nhân dân.

Trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, cụm từ "cán bộ dân tộc

thiểu số" được thay thế bằng cụm từ "cán bộ là người dân tộc thiểu số". Xét về

ngữ nghĩa, đây là hai cụm từ đồng nghĩa. Xét về nội hàm khái niệm thì đây là hai

khái niệm có cùng một nội hàm, có thể thay thế cho nhau.

2.1.3.2. Một số quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Chính sách dân tộc đối với cán bộ dân tộc thiểu số dựa trên một hệ

thống các quan điểm rất cơ bản và nhất quán, cô đọng ở các nội dung sau:

Một là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết, sự thống nhất đại gia

đình các dân tộc Việt Nam:

Đảng và Nhà nước ta trước sau như một tôn trọng quyền bình đẳng

giữa các dân tộc, phấn đấu cho sự bình đẳng được thực hiện sinh động trên

Page 49: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

44

thực tế, không ngừng củng cố đại đoàn kết các dân tộc trong mọi thời kỳ của

cách mạng. Đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn

mạnh việc tạo ra sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc, gắn quá trình này với

việc củng cố, phát triển cả cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Tính cộng

đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc

đáo trong bản sắc mỗi dân tộc. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng

phải là một xã hội trong đó tất cả các dân tộc đều bình đẳng, đoàn kết, tương

trợ lẫn nhau, đều không ngừng phát triển và phát huy bản sắc độc đáo của

mình hoà vào sự phát triển chung của cả nước. Trong quá trình đó, phải kiên

quyết chống mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, mọi

hành động kỳ thị chia rẽ dân tộc.

Chính bởi vậy, nguyên tắc xuyên suốt chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước là:

- Đoàn kết các dân tộc

- Thực hiện bình đẳng dân tộc

- Các dân tộc tương trợ, giúp đỡ nhau như anh em một nhà.

Các nguyên tắc đó được quán triệt trong tất cả các nội dung công tác

liên quan đến vấn đề dân tộc; được quán triệt đến các cấp, các ngành trong hệ

thống chính trị.

Hai là, phát huy mọi tiềm năng, nhân tài, vật lực của tất cả các dân

tộc, các vùng đất nước vì sự nghiệp chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội,

nước ta phải khai thác, phát huy mọi tiềm năng, nhân tài, vật lực của tất cả

các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các thành phần kinh tế, các tổ chức chính

trị - xã hội, các dân tộc, các vùng của đất nước. Đây không phải là "giải

pháp tình thế" cốt để khai thác miền núi; trái lại, sự thể hiện tư tưởng chiến

lược cách mạng là sự nghiệp của quảng đại quần chúng nhân dân, tất cả

Page 50: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

45

mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước, làm chủ

mọi cuộc sống của mình.

Việc khai thác tiềm năng và xây dựng miền núi về mọi mặt là lợi ích

trực tiếp của nhân dân miền núi, đồng thời là vì lợi ích chung cả nước. Đầu

tư cho phát triển miền núi là đầu tư để khai thác các tiềm năng, các nguồn

lực của đất nước cho sự phát triển miền núi, và của cả nước. Cần tránh

quan niệm coi miền núi là gánh nặng, đầu tư kiểu "ban phát" và khuynh

hướng chỉ chủ tâm khai thác tài nguyên và lao động rẻ của miền núi và

không quan tâm bảo vệ, bồi đắp, tái tạo tài nguyên, bồi dưỡng nguồn nhân

lực cho đồng bào vùng cao. Về phần mình, các địa phương miền núi cần

khắc phục tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư, chỉ đạo của Trung ương,

phát huy tinh thần phấn đấu vươn lên khai thác các tiềm năng và thế mạnh

của mình, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa miền núi.

Ba là, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là những chiến sĩ xung kích của

Đảng và Nhà nước ở vùng đông đồng bào dân tộc, là biểu tượng sinh động

của khối đoàn kết dân tộc

Cùng với các kế hoạch, chính sách và pháp luật, Đảng và Nhà nước ta

luôn coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ - bao gồm cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ

quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ đoàn thể - người dân tộc thiếu số là

nhân tố, có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong các chủ trương, biện pháp đối với

miền núi đều đề cập đến việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ

công tác ở miền núi, đặc biệt là các cán bộ dân tộc thiểu số. Trong công tác

cán bộ dân tộc, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến các khâu quy hoạch, lựa

chọn, bố trí sử dụng, dân tộc và bồi dưỡng, đánh giá, kiểm tra và giải quyết

các chế độ chính sách. Việc Đảng và Nhà nước coi trọng vai trò của đội ngũ

cán bộ dân tộc là xuất phát từ những quan điểm đúng đắn:

Page 51: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

46

- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp phát triển miền

núi, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi và phải phát huy cao độ trí tuệ, sức lực

của đồng bào và cán bộ dân tộc.

- Muốn thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc phải có cán bộ của người

dân tộc đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng đồng thời coi trọng đội ngũ

cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi và vùng dân tộc như một yêu cầu

khách quan.

- So với cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi, cán bộ người dân

tộc công tác ở vùng dân tộc có nhiều lợi thế hơn về am hiểu tình hình miền

núi, phong tục tập quán, tâm lý và ngôn ngữ của đồng bào dân tộc, gắn bó với

gia đình, họ hàng, bà con thân thích và quê hương bản quán của mình, đứng

chân lâu dài ở vùng biên giới, vùng xa, vùng sâu, hẻo lánh.

- Bản thân đội ngũ cán bộ người dân tộc, tuy còn có những hạn chế

nhất định, nhưng nhìn chung nếu được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đúng sẽ

có đủ sức gánh vác các nhiệm vụ chủ yếu lãnh đạo, quản lý ở các địa phương

miền núi.

- Sự tham gia của các cán bộ dân tộc thiểu số vào đội ngũ cán bộ nói

chung là biểu hiện rõ rệt nhất, sinh động nhất của khối đại đoàn kết các dân

tộc và của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cho đồng

bào các dân tộc vào chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước, là bằng

chứng hùng hồn chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động.

Bốn là, đối với đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, cần có sự quan tâm

đặc biệt và có chính sách có tính chất ưu đãi phù hợp với tính đặc thù của

đội ngũ này

Do sự chi phối của hoàn cảnh khách quan, cán bộ là người dân tộc

thiểu số chịu nhiều thiệt thòi, phải vượt qua nhiều khó khăn hơn so với cán bộ

người Việt (Kinh) và cán bộ ở thành phố, đồng bằng. Đội ngũ này có một số

Page 52: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

47

hạn chế về kiến thức, năng lực. Vì vậy, trong chính sách không thể cào bằng

giữa cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ dân tộc đa số.

Tư tưởng về sự ưu đãi đặc biệt đối với cán bộ dân tộc thiểu số được thể

hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước. Tựu trung lại, quan điểm về

sự ưu đãi đối với cán bộ người dân tộc được cụ thể hoá trong các biện pháp

phát triển giáo dục và đào tạo phổ thông ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số;

ưu tiên đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và người dân tộc; nâng mức phụ cấp

cho cán bộ lãnh đạo; trợ cấp cho cán bộ dân tộc để mua sắm một số vật dụng

cần thiết; cải tiến các chính sách phụ cấp thâm niên, phụ cấp lưu trú, công tác

phí, chế độ hưu...

Nhìn chung lại, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với

miền núi và cán bộ dân tộc thiểu số là rõ ràng, toàn diện, nhất quán và ngày

càng cụ thể, tạo điều kiện cho các tổ chức, các ngành, các cấp cụ thể hóa và

thực hiện tốt chính sách này. Thông qua đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đưa

chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc, thúc đẩy sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.1.3.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong việc thực

hiện chính sách của Đảng, Nhà nước

Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính chất tổng hợp, đề

cập toàn diện tất cả các nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,

quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số. Việc tiếp thu đúng và đầy đủ các chính

sách đã là vấn đề khó, nhưng để vận dụng chính sách vào thực tiễn địa

phương, mang lại hiệu quả cao, phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định

hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định còn khó hơn nhiều.

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau khi có Nghị

quyết số 22-NQ/TW, ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,

chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; đặc biệt là từ sau khi có

Page 53: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

48

Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương

(khóa IX) về công tác dân tộc, tình hình vùng miền núi, dân tộc đã có những

chuyển biến rất quan trọng. Mặt bằng dân trí được nâng lên; mục tiêu phổ cập

giáo dục tiểu học được thực hiện; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú

được hình thành từ Trung ương đến tỉnh, huyện, cụm, xã. Chính sách cử

tuyển con em các dân tộc thiểu số vào các trường đại học và cao đẳng được

duy trì thực hiện từ năm 1990 đã góp phần tạo nguồn cán bộ người dân tộc

thiểu số. Đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao; văn

hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, giữ gìn và phát huy,

nhiều thôn bản đã hình thành các đội văn hóa, văn nghệ mạnh, nhiều hình

thức sinh hoạt văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển.

Các loại bệnh dịch đã được ngăn chặn và đẩy lùi, việc khám chữa bệnh cho

người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa được quan tâm. Hệ

thống chính trị ở vùng dân tộc, miền núi bước đầu được tăng cường và củng

cố. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định, an ninh, quốc

phòng được giữ vững.

Những thành tựu trên đã chứng minh vai trò quan trọng của đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số, từ việc tiếp thu, vận dụng chính sách của Đảng, Nhà nước

vào thực tiễn công tác ở các địa phương. Điều đó cũng khẳng định kiến thức,

năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã được nâng cao một

bước; bản lĩnh của cán bộ có sự trưởng thành, tạo tiền đề cho những bước

phát triển tiếp theo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Lực lượng của dân rất to, việc dân

vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc

gì cũng thành công. Theo tư tưởng đó của Người, công tác xây dựng và phát

triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số luôn gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ tổ

chức, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây cũng được coi là giải pháp

Page 54: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

49

cơ bản để mỗi người cán bộ có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Tuy

vậy, công tác vận động quần chúng ở vùng dân tộc thiểu số có những đặc thù

riêng, đòi hỏi mỗi cán bộ phải học tập, nghiên cứu, nắm vững những đặc thù

đó để vận dụng đối với từng vùng dân tộc.

Đặc điểm tâm lý chung của đồng bào các dân tộc thiểu số là rất dễ

tin và cũng rất dễ mất lòng tin. Khi người cán bộ đã tạo được niềm tin đối

với đồng bào thì sẽ được đồng bào tin, nghe theo và thực hiện nghiêm các

nội dung công tác được cán bộ triển khai. Ngược lại, có thể chỉ vì một vài

hành vi nhỏ vi phạm bản sắc văn hóa dân tộc, hoặc chỉ vì không hiểu

phong tục, tập quán của đồng bào thì sẽ làm cho đồng bào mất niềm tin,

từ chỗ là lực lượng ủng hộ nhiệt tình, có thể trở thành lực lượng đối lập

với người cán bộ đó.

Cán bộ là người đem chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần

chúng. Vì vậy, khi người cán bộ làm tốt công tác tổ chức vận động quần

chúng thì đồng bào các dân tộc thiểu số tin tưởng vào chính sách, tin tưởng

vào cán bộ, tự nguyện đem tất cả tinh thần, lực lượng và của cải cống hiến

cho sự nghiệp cách mạng. Nếu người cán bộ để mất niềm tin của đồng bào

cũng có nghĩa là đồng bào mất niềm tin vào chủ trương, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, rất dễ bị các thế lực xấu lợi dụng, lôi kéo vào các

hoạt động chống đối cách mạng.

Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải đánh giá đúng tiềm năng, thế

mạnh của từng dân tộc, từng địa phương, tìm hiểu, nắm vững phong tục, tập

quán và truyền thống cách mạng của từng vùng dân tộc thiểu số. Trên cơ sở

đó, xác định được phương hướng, nhiệm vụ công tác vận động quần chúng sát

với từng dân tộc thiểu số cụ thể. Thực tế trong những năm qua, chúng ta chưa

quan tâm thích đáng tới vấn đề này, nên hiệu quả vận động quần chúng các

dân tộc thiểu số ở nhiều nơi đạt thấp so với yêu cầu.

Page 55: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

50

Nói chung, cán bộ dân tộc có nhiều ưu điểm trong việc vận động

quần chúng các dân tộc, trong việc phát triển mọi mặt công tác ở vùng

dân tộc thiểu số vì họ sinh ra và lớn lên ở miền núi, thích nghi và am hiểu

tình hình địa phương, am hiểu dân tộc mình hơn ai hết, dễ dàng liên hệ

với quần chúng các dân tộc và có sự hiểu biết nhất định về lịch sử, xã hội,

tự nhiên, kinh nghiệm sản xuất và chiến đấu ở miền núi, ở vùng dân tộc

họ sinh sống.

Cán bộ dân tộc thiểu số có vai trò rất quan trọng trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ở vùng dân tộc, miền núi nói riêng.

Vì vậy, cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ này,

làm cho công tác tổ chức và vận động quần chúng thực hiện chính sách

của Đảng và Nhà nước ở các tỉnh miền núi nước ta ngày càng thu được

kết quả tốt hơn, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG VỀ XÂY

DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ

2.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số

Thực hiện đường lối đổi mới, một trong những vấn đề đặt ra là đẩy nhanh

tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc. Trong đó, yêu cầu cấp

bách nhất cần giải quyết là nhanh chóng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc

thiểu số đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng khẳng

định lại chủ trương: "Tích cực đào tạo cán bộ dân tộc ở địa phương, đồng thời

điều thêm cán bộ nơi khác tăng cường cho các vùng dân tộc. Tiếp tục lựa chọn,

giáo dục và sử dụng hợp lý những công chức và trí thức dân tộc ít người do chế

đội cũ để lại" [56, tr.172].

Thực hiện đổi mới tư duy về vấn đề dân tộc trong tình hình mới, ngày

27/11/1989, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 22-NQ/TW. Sau khi phân tích

Page 56: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

51

đánh giá toàn diện tình hình kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, nêu bật những

thành tựu và chỉ rõ những thiếu sót trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số, Nghị quyết chủ trương khôi phục lại hệ thống các trường phổ thông

dân tộc nội trú, phát triển dự bị đại học và mở hệ cử tuyển con em các dân tộc

thiểu số vào một số trường đại học và cao đẳng để tạo nguồn cán bộ.

Tiếp đó, Chính phủ ra Quyết định số 72-QĐ/TTg, cụ thể hóa các chủ

trương, chính sách của Đảng và triển khai thực hiện các chính sách đó từ Trung

ương đến cơ sở.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp từ ngày 24 đến

ngày 27/6/1991 tại Hà Nội. Với chủ đề Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân

chủ - kỷ cương - đoàn kết, Đại hội đánh giá 5 năm thực hiện đường lối đổi

mới của Đại hội VI, đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 - 1995) là “vượt

qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường

ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra

khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [29, tr.60]. Đại hội thảo luận, nhất

trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm

2000. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng

hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng

nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố

quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn

vào đầu thế kỷ XXI.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991, Đảng xác

định: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo

mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn

bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam... Các

Page 57: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

52

chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc,

nhất là các dân tộc thiểu số.

Đề cập đến vấn đề đổi mới chính sách cán bộ, Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương Đảng, khoa VII nhấn mạnh: Có chính sách khuyến khích

cán bộ dân tộc thiểu số vùng cao, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VIII (1996) xác định:

Có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc, nâng

cao năng lực cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo ở các cấp chính quyền,

cán bộ quản lý kinh tế. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Ban hành các

chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, các

cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi. Tổ chức các đội trí thức

mới ra trường tình nguyện xuống các bản, làng giúp đỡ đồng bào dân

tộc [56, tr.216-217].

2.2.2. Chủ trưởng của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số

Căn cứ tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong

giai đoạn mới, ngày 12/8/1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 quyết

nghị chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh, lấy tên là tỉnh Hà Giang và tỉnh

Tuyên Quang.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII, công tác chia tỉnh

được tiến hành khẩn trương với nguyên tắc: dân chủ - đoàn kết và kỷ

cương vì lợi ích chung. Từ ngày 15 đến ngày 18/8/1991, Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên đã họp, bàn biện pháp tổ chức lãnh đạo thực hiện

và đã ra Nghị quyết về nguyên tắc khi chia tỉnh; Ủy ban nhân dân tỉnh thể

chế hóa bằng Kế hoạch số 320 ngày 22/8/1991. Thường trực Hội đồng

nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức hội nghị quán triệt Nghị quyết

Page 58: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

53

của Quốc hội và Nghị quyết của Tỉnh ủy, bàn biện pháp triển khai đồng

bộ. Trong một thời gian ngắn, các ngành, các đơn vị trong tỉnh đã tổ chức

thực hiện xong việc chia tách, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, dân chủ

bàn bạc trong việc điều động, phân công cán bộ công nhân viên chức về

công tác ở hai tỉnh mới; cán bộ công nhân viên chức sẵn sàng tuân thủ sự

phân công của tổ chức, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất, không có biểu

hiện cục bộ, địa phương trong khi chia tỉnh.

Cùng với việc xác định tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn, đã

phân công điều động cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ nhân viên nghiệp vụ

cho các cơ quan; có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ công nhân viên được

điều động từ thị xã Tuyên Quang lên thị xã Hà Giang sớm ổn định cuộc sống.

Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức kiểm tra, rà soát, nắm lại cơ sở vật chất tại

thị xã Hà Giang, có kế hoạch tu sửa, làm mới, sắp xếp nơi làm việc của từng

cơ quan; ưu tiên về phương tiện và điều kiện làm việc cho các cơ quan của

tỉnh Hà Giang sau khi tách tỉnh. Hoạt động của các ngành vẫn được quan tâm

chỉ đạo, đảm bảo kế hoạch.

Cuối tháng 9/1991, việc chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh đã cơ bản

hoàn thành. Từ ngày 1/10/1991, hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang chính

thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới.

Sau khi được tái lập, tỉnh Tuyên Quang có diện tích tự nhiên 5.800,9

ha; dân số 598.050 người, gồm 22 dân tộc, 90% dân số sống ở nông thôn.

Tỉnh có 6 đơn vị hành chính, gồm thị xã Tuyên Quang (là tỉnh lỵ) và các

huyện Na Hang, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương. Đơn vị

hành chính cấp cơ sở có 3 phường, 7 thị trấn, 135 xã (trong đó có 36 xã là

vùng cao). Ngay sau khi tỉnh được tái lập, nhiều cán bộ dân tộc thiểu số

được Trung ương chỉ định giữ các vị trí chủ chốt trong hệ thống chính trị

của tỉnh. Tiêu biểu như đồng chí Hà Thị Khiết dân tộc Tày giữ chức Bí thư

Page 59: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

54

Tỉnh ủy; Đồng chí Quan Thị Việt dân tộc Tày giữ chức Chủ nhiệm UBKT

Tỉnh ủy; Đồng chí Hoàng Thế Viện dân tộc Tày giữ chức Trưởng ban tổ

chức Tỉnh ủy.

Với chủ đề "Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", Đại

hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (20/01/1992 - 22/01/1992) đã thảo luận thông

qua Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời về đánh giá

kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội

IV của Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên, đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ

chủ yếu đến năm 1995 và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI, nhiệm

kỳ 1992 - 1996. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (1992) đã chỉ ra những

hạn chế:

Trong những năm qua, Tỉnh ủy đã quan tâm công tác chính trị, tư

tưởng, Trường Đảng đã có nhiều cố gắng trong công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ. Nhưng công tác chính trị, tư tưởng chưa trở

thành công tác thường xuyên của mọi cán bộ, đảng viên; công tác

đào tạo, giáo dục và bồi dưỡng lý luận chính trị chậm đổi mới về

nội dung, thật gắn với thực tế của địa phương. Trình độ kiến thức

và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa chuyển kịp với

yêu cầu của cơ chế quản lý mới [4, tr.79].

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI chủ trương tiếp tục đổi mới công tác

cán bộ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, từng bước thực hiện phân cấp

quản lý cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, tập trung

trước hết vào đội ngũ cán bộ thiểu số ở cơ sở.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI gồm 41 đồng chí Hội

nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu 11 đồng chí vào Ban

Thường vụ tỉnh ủy, trong đó có 4 đồng chí là dân tộc thiểu số. Đồng chí Hà

Thị Khiết, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm Bí thư

Page 60: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

55

Tỉnh ủy, đồng chí Vũ Tiệp là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, đồng chí

Trần Trung Nhật, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là Phó Bí thư Tỉnh ủy;

đồng chí Quan Thị Việt dân tộc Tày là trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy. Trong

nhiệm kỳ khóa XI (1992 - 1996) Hội nghị giữa nhiệm kỳ bầu bổ sung 4

đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, trong đó có 3 đồng chí là dân

tộc thiểu số, gồm: đồng chí Bàn Xuân Triều dân tộc Tày, Phó Chủ nhiệm

Thường trực Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy, Trưởng ban Thư ký Hội đồng nhân

dân tỉnh; đồng chí Hà Thị Huyên dân tộc Tày, Bí thư Ban cán sự Đảng, Ủy

viên Ủy ban nhân dân tỉnh, Giám đốc sở Lao động - Thương binh và xã

hội; đồng chí Riêu Ngọc Chính dân tộc Tày, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội

đồng nhân dân huyện Sơn Dương.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XI thành công, mở

ra thời kỳ mới: Thời kỳ Đảng bộ Tuyên Quang lãnh đạo nhân dân các dân tộc

trong tỉnh đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng.

Từ ngày 11 đến ngày 13/5/1992, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh khóa XI họp bàn về các biện pháp triển khai thực hiện Công

Văn số 100-CV/TW ngày 28/4/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về

việc tổ chức quán triệt bài nói "Giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật

Nhà nước, kiên quyết ngăn chặn tệ vô tổ chức, vô kỷ luật" của Tổng Bí thư

Đỗ Mười tại Hội nghị cán bộ toàn quốc. Hội nghị thống nhất kế hoạch chỉ

đạo các cấp, các ngành, đơn vị và toàn Đảng bộ dựa vào bài nói của Tổng

Bí thư để phê và tự phê bình việc chấp hành kỷ luật. Tiếp đó, Hội nghị tiến

hành sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 8b của Ban Chấp hành Trung ương

(khóa VI) về công tác vận động quần chúng và sơ kết việc thực hiện Nghị

quyết số 50 của Tỉnh ủy Hà Tuyên về công tác tổ chức cán bộ. Theo kế

hoạch số 75 và Thông báo số 46 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "sắp

xếp lại tổ chức bộ máy".

Page 61: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

56

Bên cạnh những bất cập về tổ chức bộ máy chính trị các cấp, đội ngũ

cán bộ sau khi tái lập tỉnh cũng còn nhiều hạn chế, có nhiều xáo trộn, thiếu

hụt về số lượng. Hơn nữa, đặt trong bối cảnh khi công cuộc đổi mới đang

được đẩy mạnh, đội ngũ cán bộ hụt hẫng nhiều mặt, nhất là về năng lực tổ

chức thực tiễn các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương, trình độ nhận

thức, trình độ học vấn còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chủ

yếu công tác ở cơ sở, địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ người

dân tộc cơ cấu không đều trên các lĩnh vực (chủ yếu trong công tác Đảng,

đoàn thể), chiếm tỷ lệ thấp trong bộ máy chính quyền, trong các ngành

chuyên môn, kỹ thuật.

Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra phương

hướng, mục tiêu nhằm củng cố lại tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán

bộ, trong đó, quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số

nhằm từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ người dân tộc

thiểu số nói riêng đủ về số lượng đảm bảo về chất lượng.

Nhằm tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh vào một

đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, Tỉnh ủy

Tuyên Quang ra Quyết định số 28-QĐ/TU ngày 28/4/1992 thành lập Trường

đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh trên cơ sở hợp nhất 4 trường: Trường Đảng

tỉnh, Trường Chính sách tỉnh, Trường phổ thông lao động tỉnh, Trường Dân

vận Tỉnh và quyết định đặt cơ sở Trường tại địa điểm Trường Đảng tỉnh

(xóm 36, xã Ỷ La, thị xã Tuyên Quang). Khi hợp nhất các trường, Trường

Hành chính, Trường phổ thông lao động tỉnh và Trường Dân vận tỉnh thành

khoa Nhà nước - Pháp luật, khoa văn hóa, khoa dân vận cùng với các khoa

của Trường Đảng tỉnh thành Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh.

Trường có nhiệm vụ:

Đào tạo bồi dưỡng những kiến thức cơ bản (Trung cấp) về lý luận

chính trị xã hội cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn;

Page 62: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

57

cán bộ lãnh đạo quản lý các ban ngành, đoàn thể, nông lâm

trường, trường học thuộc huyện, thị và cán bộ đảng viên thuộc

huyện, thị và cán bộ đảng viên các ban ngành đoàn thể, nông lâm

trường, xí nghiệp thuộc tỉnh (ngoài đối tượng đi học Trường

Nguyễn Ái Quốc I và Học viện Nguyễn Ái Quốc) [115, tr.7].

Sang năm 1995, Đảng bộ tỉnh tiếp tục chỉ đạo cấp ủy các cấp và các ban

ngành xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu của

thời kỳ đổi mới và phù hợp với nhiệm vụ chính trị của địa phương đúng như

đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 50

năm Cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2/9 (1945 - 1995) ngày 16/8/1995:

Đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của Tỉnh ủy,

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII cũng chỉ rõ:

Trong những năm qua, Trường Chính trị tỉnh đã làm tốt công tác

đào tạo bồi dưỡng lý luận, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Đảng,

chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở, góp phần nâng cao trình độ

cho đội ngũ cán bộ đảng viên, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chính trị

của địa phương. Song để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải đẩy mạnh công tác đào

tạo bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện các mặt văn hóa, chuyên

môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, khoa học kỹ thuật, phẩm chất

năng lực [11, tr.82-83].

Đại hội cũng nhấn mạnh:

Chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện cả về phẩm

chất và năng lực, quan tâm hơn nữa đến đào tạo cán bộ chủ chốt của

Đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó chú ý đến

cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người.

Tuyên Quang vẫn là một trong những tỉnh nghèo. Chúng ta còn

Page 63: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

58

phải phấn đấu rất nhiều để cho tương lai ngày càng tốt đẹp hơn.

Đảng bộ phải lãnh đạo, chính quyền phải chỉ đạo đồng bào các dân

tộc trong tỉnh thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, ra sức phát triển kinh tế, chăm lo xóa đói giảm

nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe của đồng bào, nâng cao

đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; làm tốt việc đền ơn đáp

nghĩa; tuyên truyền, giáo dục mọi người chống các hủ tục và tệ nạn

xã hội như nghiện hút, mê tín dị đoan. Chăm lo củng cố quốc

phòng, giữ vững an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Phải đặc biệt

quan tâm đến các vùng cao, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc

thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Quan tâm thích đáng đến việc bảo

vệ và cải thiện môi trường, gìn giữ, tôn tạo các di tích lịch sử và cách

mạng đã làm nên truyền thống quang vinh của cả nước và địa phương

để con cháu đời sau chiêm ngưỡng, noi gương, tiếp tục sự nghiệp cách

mạng mà cha ông truyền lại [9, tr.209-210].

Đến năm 1996, sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng

sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh

tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống của nhân dân; giữ vững ổn định chính

trị; quốc phòng an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế

đất nước được nâng lên trên trường quốc tế. Thành tựu của 10 năm thực hiện

đường lối đổi mới đã tạo nên thế và lực mới để đất nước bước vào một thời

kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy

nhiên, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức như, nguy cơ

tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế; âm mưu và hoạt động "Diễn biến hòa bình" của

các thế lực thù địch; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng xã hội

chủ nghĩa; tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu

hóa kinh tế; diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và sự mất ổn định về

chính trị của một số nước trong khu vực.

Page 64: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

59

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng

họp từ ngày 28/6 đến ngày 01/7/1996 đã khẳng định: Cần tiếp tục nắm vững

hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực hiện Chỉ thị số 51 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII)

về Đại hội Đảng bộ các cấp, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần

thứ XII được tổ chức từ ngày 02 đến ngày 4/5/1996 tại thị xã Tuyên Quang.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII gồm 45 ủy viên. Trong

đó, tái cử chiếm 73,3%, mới tham gia 26,7%, tỉ lệ nữ là 22,2%; ủy viên là

người dân tộc thiểu số chiếm 51%; tuổi đời bình quân là 48,9 tuổi, 82% có

trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học trở lên, 89% có trình độ lý luận

chính trị cao cấp. Tại kỳ họp thứ nhất, Ban Chấp hành đã bầu ra Ban

Thường vụ gồm 13 đồng chí, trong đó có 4 đồng chí dân tộc thiểu số. Đồng

chí Hà Thị Khiết dân tộc Tày, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng

tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy; bầu đồng chí Ngụy Văn Thân làm Phó Bí thư

thường trực Tỉnh ủy; bầu đồng chí Trần Trung Nhật Chủ tịch Ủy ban nhân

dân tỉnh là Phó Bí thư. Tháng 01/1998, đồng chí Hà Thị Khiết được Trung

ương điều động về làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; tháng 2,

đồng chí Trần Trung Nhật, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân

Tỉnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

Tháng 5 /1998, đồng chí Hà Phúc Mịch dân tộc Tày, Tỉnh ủy viên, Chủ

tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và đồng chí Đỗ Văn Chiến dân tộc Sán Dìu, Tỉnh

ủy viên, Bí thư Huyện ủy Yên Sơn được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ

Tỉnh ủy.

Về công tác cán bộ, ngay sau khi Đại hội Đảng bộ tỉnh, các cấp bộ

Đảng đã sớm ổn định tổ chức và đi vào hoạt động. Ban Chấp hành Đảng bộ

Page 65: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

60

tỉnh đã hoàn thành việc xây dựng Quy chế hoạt động và Chương trình công

tác cả nhiệm kỳ.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, họp

từ ngày 9 đến ngày 18/6/1997, đã ra hai Nghị quyết quan trọng, đó là: Nghị

quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh và Nghị quyết về

chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tháng 11/1997, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp Hội nghị lần thứ bảy (mở

rộng) quán triệt và xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện các Nghị

quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số

12-NQ/TU của Tỉnh ủy về kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ

ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã đánh giá thực trạng

công tác xây dựng Nhà nước và công tác cán bộ của tỉnh từ năm 1991 đến

năm 1997, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng, nhiệm vụ và các giải

pháp chủ yếu về xây dựng củng cố bộ máy Nhà nước và công tác cán bộ trên

địa bàn tỉnh. Về chiến lược cán bộ, Nghị quyết đã nêu rõ các quan điểm chỉ

đạo và xác định rõ mục tiêu, tiêu chuẩn cán bộ; nhiệm vụ, giải pháp về xây

dựng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ; về tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện các quy chế về công tác cán bộ; về nhiệm vụ công tác cán bộ đến năm

2000 và 2005.

Tháng 11/1999, bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV có 54 đại biểu

trong đó đại biểu là người dân tộc thiểu số có 26 người, chiếm 48,15%. Với

chức năng và nhiệm vụ của mình, Hội đồng nhân dân tỉnh đã giám sát, kiểm

tra và tham gia vào quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh

hiệu quả hơn.

Để tổ chức thực hiện, Đảng bộ tỉnh chủ trương giao cho các cấp ủy

Đảng có trách nhiệm thường xuyên quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây

Page 66: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

61

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của địa phương, lĩnh vực, cơ quan, đơn

vị mình.

Sở Nội vụ tỉnh có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh

ủy, Sở giáo dục và đào tạo, Ban dân tộc tỉnh, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở tài

chính, các sở, ban, ngành, huyện, thành phố triển khai thực hiện các nội dung

của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; thường xuyên hướng

dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chất lượng, tiến độ thực hiện kế hoạch và

định kỳ hàng năm báo cáo kết quả cho Đảng bộ tỉnh; phối hợp với các cơ

quan, ban, ngành chức năng tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh điều chỉnh,

bổ sung và xây dựng các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử

dụng sau đào tạo.

Ban tổ chức tỉnh ủy xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức viên chức dân tộc thiểu số trong hệ thống các cơ quan, ban Đảng, Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể của tỉnh; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về lý

luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý là người dân tộc thiểu số.

Ban Tuyên giáo tỉnh ủy: rà soát, đánh giá chất lượng, năng lượng đội ngũ

giảng viên Trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,

Thành phố chỉ đạo, định hướng cho trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi

dưỡng chính trị huyện, thành phố về nội dung đào tạo, bồi dưỡng về lý luận

chính trị cho cán bộ dân tộc thiểu số các cấp.

Sở Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng kế

hoạch đào tạo lại học sinh dân tộc thiểu số hệ cử tuyển tại các trường đại học,

cao đẳng ở Trung ương theo chỉ tiêu được giao thực hiện hàng năm; xây dựng

kế hoạch đào tạo giáo viên người dân tộc thiểu số tại trường cao đẳng của tỉnh;

bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, học sinh, sinh viên đi đào tạo.

Ban dân tộc tỉnh rà soát đội ngũ cán bộ đương chức người dân tộc thiểu

số tỉnh; phối hợp với Sở Nội vụ, Ban Tổ chức tỉnh ủy và Sở Giáo dục - Đào tạo

Page 67: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

62

xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng đội ngũ

cán bộ công chức, học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số.

Sở Kế hoạch - Đầu tư và Sở Tài chính bố trí và cân đối nguồn ngân sách,

bảo đảm đáp ứng nhu cầu thủ tục đã duyệt, thường xuyên kiểm tra, theo dõi

việc triển khai các hạng mục đầu tư là sử dụng kinh phí của các cơ quan, đơn vị

triển khai các nội dung của công tác xây dựng, đảm bảo đúng mục đích, tiết

kiệm, hiệu quả.

2.3. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000 Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở quan tâm lãnh đạo

công tác cán bộ, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,

công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, đề bạt cán bộ.

Tỉnh ủy cũng ban hành và chỉ đạo thực hiện các quy định về đánh giá,

tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ từ tỉnh về cơ sở; về phân

công, phân cấp quản lý cán bộ; về chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng

bộ tỉnh Tuyên Quang.

Thực hiện các nghị quyết, quy định của Tỉnh ủy về công tác cán bộ, các

cấp ủy, ban, ngành, đoàn thể đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp

nhằm làm rõ những nguyên nhân yếu kém trong hệ thống chính trị các cấp;

đồng thời, củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt

là cán bộ dân tộc thiểu số.

Thực hiện các quy định về đánh giá, tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử

dụng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở, về phân công, phân cấp quản lý cán bộ:

Tỉnh ủy chỉ đạo rà soát, đánh giá, sắp xếp, quy hoạch đội ngũ cán

bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tạo điều kiện và môi

trường để rèn luyện cán bộ trẻ có trình độ, có phẩm chất đạo đức tốt

gắn với việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp, thực hiện

nghiêm túc việc đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,

Page 68: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

63

miễn nhiệm, điều động luân chuyển cán bộ, tập trung làm tốt việc

kiện toàn cán bộ chủ chốt các cấp [9, tr.317].

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết số

28/NQ/TU ngày 15/11/1999 của Tỉnh ủy, tất cả các huyện, thị ủy, đảng ủy

trực thuộc, các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, các ban Đảng tỉnh ủy đã rà

soát xây dựng và thực hiện đề án chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp lại bộ

máy, cán bộ.

Việc giới thiệu bầu các chức vụ trong các cơ quan dân cử, các chức vụ

chủ chốt cấp ủy, chính quyền, đoàn thể được chỉ đạo chặt chẽ, đảm bảo bầu

đúng những đồng chí có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực điều hành và tổ

chức thực hiện nhiệm vụ, tiếp nhận, phân công công tác đối với sinh viên tốt

nghiệp cao đẳng, đại học hệ chính quy để tạo nguồn bổ sung cán bộ. Ưu tiên

tạo nguồn cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và nguồn là người

dân tộc thiểu số.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của

Đảng: "Dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ

cơ sở, chú ý kiện toàn và tăng cường đội ngũ cán bộ cốt cán" [39, tr.148] và

để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,

Tỉnh ủy chủ trương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã, phường

thị trấn (cán bộ đương chức và cán bộ kế cận) một cách toàn diện cả về

chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống... Tại kỳ họp thứ

51 (khóa XII) tháng 3/1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã nhất trí mở lớp Đại

học nông lâm tại chức để đào tạo cán bộ xã. Kỳ họp 54, khóa XII tháng

6/1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giao việc quản lý, tổ chức lớp học cho

Trường Chính trị tỉnh. Ngày 5/10/1999, lớp Đại học Nông nghiệp tại chức khóa I

(1999 - 2003) được khai giảng với 251 học viên trúng tuyển Đại học hệ tại chức

năm 1999 theo Quyết định số 579/QĐ-ĐHI ngày 2/10/1999 của Hiệu trưởng

trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.

Page 69: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

64

Nội dung đào tạo bao gồm:

Đào tạo chuyên môn Đại học Nông nghiệp do Trường Đại học Nông

nghiệp I - Hà Nội đảm nhiệm.

Đào tạo trung cấp lý luận chính trị do Trường Chính trị tỉnh đảm nhiệm.

Bồi dưỡng kiến thức ngân sách xã, xây dựng kết cấu hạ tầng... do các

cơ sở chuyên môn đảm nhiệm.

Rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống... phấn đấu trở thành đảng viên

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đối với học viên ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, con em thương binh,

liệt sĩ mất sức lao động từ 61% trở lên, học viên là dân tộc thiểu số được

hưởng phụ cấp 80.000đ/tháng/người.

Đây là mô hình đào tạo đúng đắn, sáng tạo của Tỉnh Tuyên Quang

nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi cho quá

trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có hệ thống từ tỉnh đến cơ sở.

Một số kết quả

Từ năm 1991 đến năm 1995, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo các

cấp ủy, các sở, ban, ngành hoàn thành một số nhiệm vụ trọng tâm về công

tác tổ chức cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba (khóa VII):

Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền từ tỉnh

đến cơ sở, củng cố tổ chức thôn bản, tổ dân phố, hợp tác xã nông - lâm

nghiệp gắn với củng cố chi bộ đảng và các tổ chức đoàn thể nhân dân theo

địa bàn dân cư. Thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng ở các cơ quan cấp

tỉnh; thành lập Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn ở các cơ quan nhà nước và

đoàn thể nhân dân... chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng và thực hiện quy chế

làm việc và quy định trách nhiệm cụ thể của các cấp ủy, ủy viên cấp ủy.

Làm tốt công tác bồi dưỡng cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể

từ tỉnh đến cơ sở. Riêng năm 1995, đã có 4.507 đồng chí được

Page 70: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

65

cử đi học bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ quản lý và công

tác chuyên môn. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và hiệu quả hoạt

động của hệ thống chính trị được nâng lên [9, tr.211].

Công tác tổ chức và công tác cán bộ tiếp tục đổi mới, luôn đảm bảo

nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản

lý và đồng thời phát huy được vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành. Đã

bỏ mô hình chi bộ hợp tác xã, thành lập chi bộ thôn bản. "Thực hiện phân cấp

quản lý cán bộ, chỉ đạo quy hoạch cán bộ đến năm 2000; gắn quy hoạch với

đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ; quan tâm đến cán bộ nữ, cán bộ

trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số. Bước đầu tạo ra những chuyển biến quan trọng về

công tác cán bộ của tỉnh" [9, tr.212].

Từ năm 1991 đến năm 1975, mặc dù đã có chủ trương bố trí, sử dụng

cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị của tỉnh, quan tâm đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Nhưng công tác này chưa thực sự

hiệu quả, chưa có hệ thống, chiến lược quan tâm một cách đúng mức.

Trong những năm (1996 - 2000), công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số được Đảng bộ tỉnh quan tâm chỉ đạo xây dựng một cách có

hệ thống hơn trên tất cả các khâu của công tác cán bộ và bước đầu đạt được

một số kết quả.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, công

tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn và lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên

đặc biệt là đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được quan tâm. Trong 5 năm 1992

- 1996, tại trường Chính trị tỉnh, đã đào tạo, bồi dưỡng 2.243 học viên, trong

đó đào tạo trung cấp lý luận chính trị cho 1.069 học viên, bồi dưỡng cán bộ

đoàn thể 714 học viên, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở 460 học viên,

trong đó, cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 37,5%. Ngoài ra, trường còn phối hợp

với các ngành, huyện, thị bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân 2 cấp cho

Page 71: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

66

3450 học viên đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 43,2%. Bồi dưỡng

Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng, Nghị quyết số 09 của Bộ

Chính trị cho cán bộ đảng viên.

Từ năm 1996, thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh về công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ một cách

toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, quan tâm hơn nữa đến đào tạo cán bộ

chủ chốt của Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh từ cơ sở, trong đó, chú ý đến

cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người, trường Chính trị tỉnh đã mở các

lớp Trung cấp lý luận chính trị, khóa 4 (học ngoài giờ hành chính) với 123

học viên, trong đó cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 44%; lớp bồi dưỡng chương

trình trung cấp lý luận chính trị tại chức cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị

trấn với số lượng 132 học viên; đào tạo trung cấp lý luận chính trị hệ tập trung

khóa 14 với 77 học viên, trong đó dân tộc thiểu số là 32 học viên. Khóa học

vừa học Trung cấp lý luận chính trị, vừa đào tạo văn hóa cấp III cho học viên.

Với việc đa dạng hóa các hình thức đào tạo, nhà trường đã tạo điều kiện cho

cán bộ, đảng viên đang công tác vừa học, vừa làm.

Năm 1998, Trường tiếp tục mở 1 lớp khóa 5 đào tạo hình thức ngoài giờ với

120 học viên; 1 lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt xã, phường, thị

trấn khóa 9 với 130 học viên, trong đó cán bộ dân tộc thiểu số chiếm 48%.

Sang năm 1999, Tỉnh ủy chủ trương tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ cơ sở xã, phường, thị trấn (cán bộ đương chức và cán bộ kế cận) một cách

toàn diện cả về chuyên môn, lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống...

Đồng thời, đã chỉ đạo cho Trường Chính trị tỉnh kết hợp với Trường Đại học

Nông nghiệp I - Hà Nội mở các lớp đại học tại chức với 215 học viên, trong

đó dân tộc thiểu số chiếm 51,2% được chia thành 3 lớp: trồng trọt 1: 87 học

viên; trồng trọt 2: 77 học viên; trồng trọt 3: 87 học viên.

Cũng trong năm 1999, Trường Chính trị tỉnh đã mở được 6 lớp trung

cấp lý luận chính trị với 583 học viên, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 53%; 2

Page 72: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

67

lớp bồi dưỡng chuyên viên với 187 học viên, trong đó dân tộc thiểu số chiếm

32%; phối hợp với các huyện thị, Ban Tổ chức chính quyền mở 4 lớp bồi

dưỡng cán bộ thôn bản 300 học viên trong đó dân tộc thiểu số chiếm 67%.

Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói

chung của Tỉnh ủy Tuyên Quang đã góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo được toàn diện hơn.

Công tác luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí và sử dụng cán bộ dân

tộc thiểu số

Năm 1996, tỉnh tiến hành luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, điều động 39

cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý, trong đó có dân tộc thiểu

số là 21 đồng chí. Năm 1998, đã bầu bổ sung 2 ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy,

chỉ định bổ sung 2 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; 16 ủy viên Ban

Chấp hành Đảng bộ huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc, trong đó dân tộc thiểu số

có 9 đồng chí. Bầu bổ sung 11 ủy viên Ban Thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư huyện,

thị ủy, đảng ủy trực thuộc, trong đó dân tộc thiểu số 5 đồng chí; rà soát sắp xếp lại

cán bộ ở 11 cơ quan; chỉ định 23 ủy viên đảng đoàn, ban cán bộ Đảng.

Năm 1999, Tỉnh ủy ra quyết định thành lập và kiện toàn Ban cán sự

Đảng ở 7 cơ quan cấp tỉnh; chỉ định bổ sung 13 ủy viên ban cán sự Đảng, bầu

bổ sung 2 Bí thư huyện, thị ủy; 2 Phó bí thư huyện ủy; quyết định bổ nhiệm,

luân chuyển 12 cán bộ cấp cơ sở, trong đó dân tộc thiểu số 8 đồng chí đạt

66,6%; rà soát và bổ nhiệm lại 23 giám đốc các sở, ban, ngành trực thuộc Ủy

ban nhân dân tỉnh, trong đó dân tộc thiểu số 9 đồng chí chiếm 39%.

Năm 2000, Tỉnh ủy kiểm tra đánh giá thực trạng tình hình của 57 tổ

chức cơ sở đảng ở các loại hình, bổ nhiệm lại và bổ nhiệm mới 72 Bí thư

và Ủy viên Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, trong đó có 29 đồng chí là dân

tộc thiểu số, đạt 40,27%; bố trí sắp xếp lại 42 cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn

vị tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh, trong

đó có 12 đồng chí là dân tộc thiểu số, đạt 28,57%; chỉ định bổ sung 2 ủy

Page 73: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

68

viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, 3 ủy viên Ban Thường vụ, 2 Phó Bí

thư huyện ủy, 1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã, 2 Phó bí thư tỉnh

đoàn, trong đó có 5 đồng chí là cán bộ dân tộc thiểu số đạt 50%.

Với nhiều cố gắng, nhìn chung, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở

Tuyên Quang đã được tăng cường một bước cả về số lượng và không

ngừng nâng cao chất lượng. Ở tất cả các cấp, cán bộ dân tộc thiểu số đã đạt

trên dưới 50% tổng số cán bộ trong hệ thống chính trị của Tỉnh. Hầu hết

các chức danh chủ chốt đều có cán bộ người dân tộc thiểu số.

Về chế độ chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số

Đối với các lớp đào tạo chuyên môn kết hợp đào tạo lý luận chính trị tại

tỉnh, Tỉnh ủy chủ trương: Ưu tiên cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Chế độ của học viên theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch

chủ trương của tỉnh được thực hiện theo Thông báo số 90-TB/TU của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy ngày 11/12/1999 cụ thể:

- Đối với cán bộ đương chức hưởng nguyên lương.

- Đối với cán bộ xã, thị trấn hưởng sinh hoạt phí nằm trong 19 định suất

giữ nguyên mức lương trợ cấp định mức ở xã... Nếu trường hợp định suất ở

xã thấp hơn 150.000đ/tháng thì được hưởng trợ cấp 150.000đ/tháng/người.

- Đối với cán bộ đương chức ở cơ sở không nằm trong 19 định suất

được hưởng trợ cấp 150.000đ/người/tháng.

Kinh phí đào tạo, điện, nước, công tác phục vụ được ngân sách tỉnh cấp

cho Trường chính trị để thực hiện.

Đây là một mô hình đào tạo với chế độ chính sách đúng đắn, sáng tạo

của Tỉnh, nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số xã, phường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đối với các cấp đào tạo hệ tập trung tại Trung ương và các trường đại

học ngoài tỉnh: Học viên được hỗ trợ các chi phí tàu xe, mua tài liệu, tiền đi

thực tế và được hưởng lương theo quy định hiện hành.

Page 74: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

69

Tiểu kết chương 2

Tuyên Quang, một tỉnh miền núi phía Bắc, là nơi quần tụ của nhiều dân

tộc cùng sinh sống, đã tạo nên một vùng với đa sắc thái văn hóa và tập tục.

Bên cạnh đó, Tuyên Quang vẫn là một tỉnh nghèo, còn nhiều khó khăn, kinh tế

chậm phát triển. Đặc điểm này đã gây khó khăn, trở ngại trong xây dựng đội ngũ

cán bộ nói chung, trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.

Tuy nhiên, Tuyên Quang cũng có những thuận lợi là nơi giàu truyền thống

yêu nước, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái giữa các dân tộc. Mỗi dân tộc nơi

đây cũng đang từng ngày nỗ lực phấn đấu khẳng định mình. Phát huy được vai trò

của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, trên tất cả mọi lĩnh vực chính trị,

kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng là nhân tố mang lại sự ổn định, phát triển bền

vững của vùng đất "trấn biên" của Tổ quốc.

Chịu ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và

tình hình quốc tế, cũng như thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số trước năm 1991 còn yếu kém, nhưng Đảng bộ Tuyên Quang từ khi

tách tỉnh (1991) đã nhận thấy vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong

thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Đảng bộ đã chủ trương

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng tình hình mới ở địa phương.

Căn cứ vào các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn

đề dân tộc và cán bộ dân tộc; căn cứ vào tình hình thực tiễn cũng như yêu cầu

nhiệm vụ cách mạng mới của tỉnh, Đảng bộ Tuyên Quang đã lãnh đạo xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị của tỉnh.

Công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ

tỉnh Tuyên Quang cũng có nhiều thuận lợi là sự nhất trí cao của các cấp uỷ

đảng, ban ngành, các tổ chức đoàn thể, đồng bào dân tộc trong tỉnh cũng như

bản thân các cán bộ dân tộc thiểu số nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn về

kinh tế, xã hội. Kinh nghiệm lãnh đạo trong xây dựng đội ngũ cán bộ trong xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số còn lúng túng, việc học hỏi kinh nghiệm

Page 75: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

70

thực tế các tỉnh lân cận chưa có nên giai đoạn 1991 đến năm 2000, Đảng bộ

tỉnh chủ yếu củng cố đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; bố trí sử dụng cán bộ dân

tộc thiểu số hiện có; tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số thông qua chế độ cử

tuyển; thu hút những quần chúng ưu tú là người dân tộc thiểu số vào làm việc

trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Sau đó, cử đi học bồi dưỡng, đào tạo chuyên

môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Về cơ bản, đến năm 2000, trong hệ thống

chính trị các cấp ở Tuyên Quang đã có đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được bố

trí, sử dụng trong công tác chuyên môn và công tác lãnh đạo quản lý, bước đầu

đáp ứng được yêu cầu tình hình nhiệm vụ cách mạng mới của địa phương.

Tuy vậy, so với yêu cầu nhiệm vụ và so với cán bộ người Kinh thì đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế về trình độ văn hóa và trình độ

chuyên môn; về cơ cấu theo công việc vẫn chủ yếu công tác đảng, đoàn thể cán

bộ người dân tộc thiểu số làm công tác quản lý nhà nước và cán bộ chuyên môn

còn ít; trong nội bộ cơ cấu theo dân tộc vẫn mất cân đối. Một số dân tộc như

H'Mông, La Chí, Pu Péo v.v... có rất ít cán bộ.

Mặc dù vậy, kết quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang những năm 1991 - 2000 đã tạo tiền đề để Đảng bộ

tỉnh chỉ đạo thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số trong giai đoạn tiếp theo.

Page 76: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

71

CHƯƠNG 3

ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN

TỘC THIỂU SỐ TRONG THỜI KỲ MỚI

Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam XHCN trong xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, đặt ra

cho Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng được đội ngũ cán bộ nói chung,

cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo

đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực

tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Với

quan điểm xuyên suốt, nhất quán vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn

đề chiến lược cơ bản lâu dài; đồng thời, cũng là vấn đề cấp bách của cách

mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và

tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Trong thực hiện chính sách dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt

quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và cho rằng, chính đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, là lực lượng nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo đưa đường

lối đổi mới, của Đảng đi vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc; đồng thời, là

lực lượng trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và cùng đồng bào các dân tộc thiểu số xây

dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, góp phần tích cực vào thực hiện

thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số trong thời kỳ này được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại

Page 77: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

72

biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, (2003) với những nội dung cụ thể sau:

Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là trách nhiệm của

Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội

Với quan điểm xuyên suốt, nhất quán luôn xác định vấn đề dân tộc,

công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề có vị trí chiến lược quan

trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước, nhất là công tác đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Trong Văn kiện Hội nghị lần

thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng khẳng định: Nâng cao

nhận thức trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp các ngành, và toàn thể

xã hội về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới. Xem việc

quán triệt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là nhiệm vụ thường

xuyên và quan trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận,

đoàn thể từ Trung ương đến địa phương.

Để thực hiện tốt chính sách dân tộc, đòi hỏi Đảng phải xây dựng

được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số về số lượng và chất lượng đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng mới. Chính vì vậy, Đảng đã

yêu cầu các cấp, các ngành và toàn thể xã hội phải nâng cao nhận thức về

vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số, trên cơ sở đó đề cao trách nhiệm, tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của cấp mình, ngành

mình và trong toàn Đảng.

Hai là, thực hiện tốt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác

cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời, xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ giai đoạn cách mạng mới

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Cán bộ là những người

đem chính sách của Đảng, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,

Page 78: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

73

cho chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như vậy, những người

được coi là cán bộ của Đảng và Nhà nước là những đại biểu tiên tiến nhất

trong phong trào cách mạng của quần chúng. Họ tiên tiến về lập trường

chính trị tư tưởng, hiểu biết về các nhiệm vụ xã hội một cách khoa học, có

ý thức làm chủ xã hội, làm chủ công việc và có phẩm chất cách mạng trong

sáng, đạo đức chí công vô tư, có lối sống trong sạch và lành mạnh,... mỗi

cán bộ trước hết là những cán bộ lãnh đạo và quản lý, phải là một tấm

gương cho quần chúng noi theo về lòng trung thành với chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lý tưởng XHCN về tính tổ chức và tính

kỷ luật nghiêm ngặt nhất, về lòng nhiệt tình cách mạng, sôi nổi, say sưa

trong lao động, học tập, công tác và chiến đấu, về sự sáng suốt và ý chí

kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh phấn đấu cho thắng lợi của sự nghiệp

đổi mới. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định:

Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ lãnh đạo và quản lý ở các

cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống,

có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.

Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;

trọng dụng những người có đức, có tài. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc

Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi

với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức

trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và

tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ, và cán bộ dân tộc thiểu số, chuyên gia

trên các lĩnh vực.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương IX của

Đảng tiếp tục khẳng định: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có

phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương; củng cố hệ thống cơ sở

chính trị trong sạch vững mạnh; nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện chính sách dân tộc.

Page 79: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

74

Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng

cán bộ là người dân tộc thiểu số

Trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, vấn đề quy hoạch đào

tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan

tâm. Đồng thời, đây cũng là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng

Cộng sản Việt Nam trong thực hiện chính sách dân tộc nói chung và công

tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

nói riêng. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của quá trình thực hiện chính sách dân tộc, trong sự

nghiệp cách mạng của Đảng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Làm

tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán bộ các

dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực. Nghị quyết còn nhấn mạnh:

Phát triển nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc.

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số, tiếp tục được Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy,

BCHTW Đảng, Khóa IX của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện tốt công tác quy

hoạch đào tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho

từng vùng từng dân tộc. Trong những năm trước mắt cần tăng cường lực

lượng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt đến công tác ở vùng dân tộc nhất

là ở các địa bàn xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng; coi trọng việc

bồi dưỡng đào tạo để bổ sung cán bộ cơ sở từ các đối tượng là thanh niên

sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển

dụng bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở các

vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm, ở vùng

núi, vùng cao.

Page 80: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

75

Bốn là, luân chuyển và thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, hậu

phương gia đình cán bộ dân tộc thiểu số

Luân chuyển cán bộ, là một chủ trương rất quan trọng của Đảng, bảo

đảm cho đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị và trong các lực

lượng vũ trang được đào tạo cơ bản, toàn diện và bố trí sử dụng đúng sở

trường; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch,

được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước, tăng

cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng trong

công tác cán bộ, khép kín trong từng ngành, từng địa phương và từng đơn vị.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng khẳng định: Thực hiện

tốt chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các

ngành và địa phương; cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên giữ một chức vụ

lãnh đạo từ một đơn vị không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp; khắc phục tư tưởng

cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương, ngày 25/11/2002 Bộ

Chính trị Trung ương Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 11/NQ-TW về luân

chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý.

Đối với việc luân chuyển cán bộ dân tộc và thực hiện chính sách đối

với cán bộ dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung

ương khóa IX của Đảng chỉ rõ: Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa,

xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn dân tộc miền núi; gắn tăng trưởng

kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc,

quan tâm phát triển bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số. Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh: Thực hiện tốt chính sách

ưu tiên cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học

và cao đẳng, mở thêm trường dự bị đại học dân tộc ở miền Trung, Tây

Nguyên. Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí

thức là người dân tộc thiểu số.

Page 81: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

76

Những quan điểm cơ bản trên của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới, đã khắc phục được những bất cập, hạn chế

trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những năm

1996 - 2000, là những định hướng quan trọng để Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang

vận dụng đề ra những chủ trương, biện pháp lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong

thời kỳ mới.

3.2. CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG

TRONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ

NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số; kế thừa những kết quả về xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc từ năm 1996 đến năm 2000, bước sang thế kỷ XXI, Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang đã chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đẩy mạnh

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được thể

hiện trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ

XIII, nhiệm kỳ 2001 - 2005 từ ngày 14-17/12/2001): "Đổi mới đồng bộ các

khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố

trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Thực hiện kế hoạch, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ, đảm bảo hợp lý về cơ cấu, quan tâm đào tạo và sử

dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ khoa học -

công nghệ, cán bộ ở cơ sở". Cơ cấu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII

với tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số là 44,4%; 5/11 đồng chí trong Ban

Thường vụ Tỉnh ủy là dân tộc thiểu số.

Chủ trương đổi mới toàn diện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số của tỉnh Tuyên Quang cũng được thể hiện trong Nghị quyết Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010. Xuất phát từ

Page 82: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

77

kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2001 - 2005 là

"không ngừng đổi mới tư duy, xây dựng phong cách lãnh đạo của các cấp ủy

đảng, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ tỉnh đến cơ sở về phẩm

chất chính trị, chuyên môn nghiệp vụ lý luận chính trị" [7, tr.75], Đại hội đã đề

ra nhiệm vụ cho công tác cán bộ nhiệm kỳ tới là "Thực hiện đúng chế độ chính

sách đối với cán bộ; khuyến khích, thu hút nhân tài, cán bộ giỏi về công tác tại

địa phương, quan tâm đến công tác cán bộ người dân tộc thiểu số". Đại hội

Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV có 250 đại biểu, "trong đó đại biểu là người dân tộc

thiểu số chiếm 41,2% [9, tr.399]. Đại hội bầu 47 đồng chí vào Ban Chấp hành

Đảng bộ Tỉnh, trong đó có 16 đồng chí là người dân tộc thiểu số; 6/13 đồng chí

trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy là người dân tộc thiểu số.

Về quan điểm chỉ đạo:

Một là: Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng số

cán bộ hiện có với thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp để đào tạo, bồi

dưỡng, xây dựng mới đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số về số lượng và nâng cao

chất lượng, cơ cấu thành phần của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Hai là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm

bảo về chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác ở địa phương trong

tình hình mới.

Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có cơ cấu hợp lý, tăng

tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều

dân tộc cùng sinh sống nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối về cơ cấu

trong đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trên được thể hiện xuyên suốt trong quá

trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang. Trong đó, quan điểm mới là: Tập trung đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ kết hợp bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số hợp lý,

không chỉ chú trọng đến việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ,

Page 83: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

78

dân tộc thiểu số mà còn tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số cả về chất lượng và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác của địa

phương trong tình hình mới.

Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức trong xây

dựng cán bộ dân tộc thiểu số, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có

cơ cấu cân đối, hợp lý giữa thành phần dân tộc, xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số đáp ứng các vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc sinh

sống đan xen.

Về mục tiêu:

Đảng bộ tỉnh xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có

số lượng phù hợp và chất lượng cao, cân đối, hợp lý về thành phần, cơ cấu

dân tộc trong đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tập trung xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số cho vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều dân tộc sống

đan xen.

Ngoài việc nâng tăng tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số, chú trọng

đến nâng cao trình độ chuyên môn và lý luận chính trị. Phấn đấu cán bộ dân

tộc thiểu số phải tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên và được đào tạo cơ

bản và chuyên môn và lý luận chính trị 100%.

Về giải pháp:

Một là: Thực hiện tốt công tác quản lý, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số

Đây là khâu then chốt nhằm đảm bảo cho đội ngũ cán bộ phát huy tốt

khả năng và sở trường của họ vào thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động

đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước.

Hai là: Coi trọng công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo cán bộ

Đây là khâu quan trọng, quyết định đến việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng nói

chung, của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Làm tốt công tác này sẽ

Page 84: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

79

đảm bảo cho Đảng bộ xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về

số lượng, đảm bảo về chất lượng, cân đối, hợp lý về cơ cấu thành phần dân

tộc. Đồng thời, thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn bổ sung số lượng cho

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và phục vụ cho công tác đào tạo cán bộ dân

tộc thiểu số.

Ba là: Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, dân tộc thiểu số trong các

cơ sở liên kết với các trường cao đẳng, đại học mở tại tỉnh

Chất lượng đào tạo quyết định chất lượng, hiệu quả công tác và mức độ

hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số

của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc

đổi mới toàn diện và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Để xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong tình hình mới, Đảng bộ tỉnh giao cho Trường chính trị tỉnh Tuyên

Quang phối hợp với các trường cao đẳng, đại học liên kết đào tạo, nhằm nâng

cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số đi học và bộ phận tạo nguồn cho đội ngũ này.

Bốn là: Tạo điều kiện và thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán

bộ dân tộc thiểu số

Đảng bộ tỉnh đã quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan

điểm của Đảng vào thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số

như ưu tiên cán bộ dân tộc thiểu số trong bồi dưỡng và đào tạo các lớp vừa học

vừa làm ở tỉnh.

So với giai đoạn 1991 - 2000, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã nhận thức

sâu sắc hơn về vai trò của công tác cán bộ dân tộc thiểu số; quan tâm đầy đủ

các khâu trong quy trình công tác cán bộ, từ xác định tiêu chuẩn tạo nguồn

đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng và cả chế độ chính sách.

Trong đó, tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ ở các chuyên

Page 85: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

80

ngành đào tạo liên kết với các trường cao đẳng, đại học, đào tạo có hệ thống

từ cấp tỉnh đến cấp xã nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cân

đối trong địa phương; chú trọng tạo nguồn và tuyển dụng cán bộ thuộc các

dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

3.3. ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI CÔNG TÁC XÂY

DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

3.3.1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ về công tác cán bộ

Các cấp ủy, tổ chức đảng đã quán triệt sâu sắc nguyên tắc tập trung

dân chủ nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất cao trong thực hiện

các khâu của công tác cán bộ. Đi đôi với thực hiện nguyên tắc tập trung

dân chủ Đảng bộ tỉnh đã phát huy được vai trò đứng đầu các tổ chức trong

hệ thống chính trị trong việc tiến cử cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm

quyền của cấp ủy quyết định.

Căn cứ vào quy chế, quy định của Trung ương, Tỉnh ủy, Ban Thường

vụ Tỉnh ủy đã chủ động rà soát, bổ sung, hoàn thiện Quy chế hoạt động của

Ban Thường vụ Tỉnh ủy qua các nhiệm kỳ; Quy định về phân cấp quản lý

cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định về phân

công Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách huyện ủy, Thành ủy, Đảng

ủy trực thuộc Tỉnh ủy và Tỉnh ủy viên theo dõi xã, phường, thị trấn; Quy

định về lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy với Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể; Quy định về lề lối làm việc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

đối với chính quyền, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án... Các quy chế, quy

định trước khi ban hành được gửi xin ý kiến các cấp ủy đảng, Đảng đoàn,

Ban cán sự đảng và các cơ quan có liên quan để phát huy dân chủ, tập

trung trí tuệ cao, tạo sự đồng thuận và đảm bảo tính khả thi, hiệu lực, hiệu

quả văn bản. Các quy chế, quy định, quy trình đã góp phần quan trọng đưa

công tác cán bộ của Đảng bộ vào nề nếp, đúng nguyên tắc. Quan trọng hơn,

Page 86: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

81

đã khẳng định rõ hơn vai trò, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, công tác cán bộ;

giúp cho công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số nói riêng của Đảng bộ Tuyên Quang có bước chuyển biến mới,

mạnh mẽ và toàn diện.

Mở rộng dân chủ, tôn trọng ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng

Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội trong công tác cán bộ, đặc biệt là trong công tác nhân sự Đại

hội đảng bộ các cấp và hiệp thương giới thiệu nhân sự bầu cử đại biểu quốc

hội cho các nhiệm kỳ.

3.3.2. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang chỉ đạo đổi mới trong từng khâu

của quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

* Về đánh giá cán bộ

Xác định rõ tầm quan trọng của công tác đánh giá cán bộ, sau khi có

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII),

tháng 6/1997 Quy định số 50-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh

ủy đã có Quyết định số 1654-QĐ/TƯ ngày 14/12/2003 ban hành Quy chế về

nội dung kiểm điểm, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, cấp huyện;

quy định cụ thể phương pháp, quy trình thực hiện, thẩm quyền trách nhiệm

của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban cán sự đảng, đảng đoàn, thủ trưởng các

cơ quan ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đối với công tác đánh giá cán

bộ. Trong quá trình thực hiện Ban Thường vụ Tỉnh ủy kịp thời có các văn bản

chỉ đạo, Ban Tổ chức Tỉnh ủy có các hướng dẫn cụ thể. Với cán bộ dân tộc

thiểu số, trong đánh giá cán bộ đặc biệt coi trọng hiệu quả công tác, sự gắn bó

mật thiết với đồng bào, với địa bàn.

Nhiệm kỳ 2001 - 2005, số cán bộ, công chức, viên chức được kiểm

điểm, nhận xét, đánh giá hằng năm trong các cơ quan đảng, đoàn thể, chính

quyền từ tỉnh đến cơ sở đạt 90%; số cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

Page 87: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

82

chiếm 56,1%, cán bộ hoàn thành nhiệm vụ chiếm 42,3%, cán bộ chưa hoàn

thành nhiệm vụ chiếm 1,6%. Cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý

được đánh giá hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ 74,4%; hoàn thành

chức trách nhiệm vụ 25,3%; không hoàn thành nhiệm vụ 0,3%.

Nhiệm kỳ 2005 - 2010, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức được kiểm

điểm, nhận xét, đánh giá hàng năm trong các cơ quan đảng, chính quyền,

đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đạt trên 99%; trong đó số cán bộ hoàn thành xuất

sắc nhiệm vụ chiếm từ 46% đến 53%, cán bộ hoàn thành nhiệm vụ chiếm

45% đến 53%, cán bộ chưa hoàn thành nhiệm vụ chiếm từ 1,3% đến 1,6%.

Trong đó, cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý được đánh giá hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ, chiếm 85,4%; hoàn thành nhiệm vụ chiếm 14,6%;

Công tác đánh giá cán bộ đã từng bước được hoàn thiện về quy trình,

nội dung, phương pháp đánh giá để chỉ đạo thực hiện thống nhất trên phạm

vi toàn tỉnh. Việc đánh giá cán bộ đã được các cấp ủy đảng, lãnh đạo các

cơ quan, đơn vị duy trì có nền nếp hằng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ

bầu cử, trước khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử; góp phần quan

trọng vào công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng các cấp và phân công,

bố trí cán bộ; đặc biệt là nửa đầu nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác đánh giá

cán bộ đã được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình và bài bản hơn, bảo đảm

dân chủ, khách quan; cơ bản lấy hiệu quả công tác làm thước đo phẩm chất

và năng lực của cán bộ, phát huy được tinh thần tự phê bình và phê bình

của từng cá nhân và tập thể.

* Về công tác quy hoạch cán bộ

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác

cán bộ. Để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, phải thực hiện đồng bộ

các khâu trong công tác cán bộ như: xây dựng tiêu chuẩn, đánh giá, quy

hoạch, luân chuyển, đào tạo bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng và chính sách

Page 88: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

83

cán bộ. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về

chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

đã chỉ rõ: Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ,

bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp

ứng của nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Mục đích của quy hoạch cán bộ là tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược

trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh

đạo, quản lý, đảm bảo tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững

vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị.

Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào, làm căn cứ để đào tạo, bồi

dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý

trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành

thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực

chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và

thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Trong quy hoạch cán bộ, phải giữ vững nguyên tắc công tác cán bộ của

Đảng đó là:

Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý phải đặt dưới sự lãnh

đạo tập trung, thống nhất của các cấp ủy Đảng. Đồng thời, có sự phân cấp

hợp lý về thẩm quyền quy hoạch cán bộ, phù hợp với phân cấp quản lý, sử

dụng cán bộ.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác quy hoạch cán

bộ; Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, bảo đảm vai trò lãnh

đạo tập trung của cấp ủy đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của các tổ chức

trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu; đồng thời, mở rộng dân chủ

trong việc phát hiện nguồn, phát hiện tài năng.

Page 89: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

84

Quy hoạch cán bộ phải thực sự gắn kết với khâu khác như nhận xét,

đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển sắp xếp, bố trí,

sử dụng cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề

cho việc bố trí cán bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán

bộ là cơ sở để thực hiện luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước

mắt và lâu dài.

Thực hiện quy hoạch "động" và "mở": một chức danh có thể quy hoạch

nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải

luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng năm, đưa ra khỏi

quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào quy

hoạch những nhân tố mới triển vọng.

Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới, cấp trên chỉ

đạo, hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp

dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm

cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy

hoạch cấp dưới.

Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn

cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy,

phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu, vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn

kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tránh tư tưởng cơ

hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực

hiện quy hoạch.

Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ, cơ quan có thẩm

quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng thời điểm, mức

độ và cách thức công khai quy hoạch.

Căn cứ để đưa cán bộ vào quy hoạch là tiêu chuẩn chung và các tiêu

chuẩn của từng loại cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban

Page 90: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

85

Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

về cán bộ phải "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư".

Quy trình xây dựng quy hoạch phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp lý: Bố

trí kết hợp giữa 3 độ tuổi, thực hiện trẻ hóa, độ tuổi trung bình khóa sau thấp

hơn khóa trước; tỉ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công nông thích

đáng, ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ hợp lý cán

bộ dân tộc thiểu số;

Căn cứ vào nội dung, mục đích và nguyên tắc quy hoạch cán bộ của

Đảng, Đảng bộ đặc biệt coi trọng công tác cán bộ dân tộc thiểu số ngay từ

khâu quy hoạch, tạo nguồn cán bộ. Đảng bộ Tuyên Quang đã xây dựng

chương trình quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số, đặc

biệt là quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số trong thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương

(khóa VIII), Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Quyết định số 1655-QĐ/TƯ ngày

14/12/2003 về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh; thực hiện Nghị

quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 47-

HD/BTCTW ngày 24/5/2005 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về công tác

quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có Kế hoạch

số 29-KH/TU ngày 07/9/2005 về thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW và

Hướng dẫn số 47-HD/BTCTW; đồng thời, chỉ đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy ban

hành Hướng dẫn số 24-HD/TC ngày 07/9/2005 về công tác quy hoạch cán bộ

lãnh đạo, quản lý.

Công tác quy hoạch cán bộ trong tỉnh 10 năm, nhất là từ khi có Nghị

quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị đã có nhiều đổi mới. Cùng với đánh giá

cán bộ, quy hoạch cán bộ là khâu đột phá góp phần quan trọng đưa công tác

cán bộ đi vào nền nếp và chặt chẽ về quy trình. Thực hiện công tác quy hoạch

Page 91: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

86

cán bộ các cấp, các ngành đã tiến hành khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ, lựa

chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn, đảm bảo về số lượng, nâng cao về chất lượng để

đưa vào quy hoạch; chú trọng quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ

người dân tộc thiểu số.

Hàng năm, thực hiện việc rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ;

xem xét đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, giới thiệu

bổ sung những cán bộ có trình độ, năng lực và triển vọng phát triển.

Thực hiện Hướng dẫn số 22-HD/BTCTW ngày 21/10/2008 của Ban

Tổ chức Trung ương về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời

kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Hướng dẫn số 33-

HD/BTCTW ngày 25/9/2009 của Ban Tổ chức Trung ương về công tác

nhân sự cấp ủy tại đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã bám sát tiêu chuẩn

cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương

(khóa VIII) Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, để tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng quy hoạch

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh gắn với chuẩn bị nhân sự Đại hội

Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; đồng thời, chỉ đạo các Huyện ủy, Thành

ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, các Đảng đoàn, Ban cán sự đảng, các cơ

quan, đơn vị cấp tỉnh căn cứ các tiêu chuẩn chung, chức năng, nhiệm vụ

của cơ quan, đơn vị, nhiệm vụ chính trị của từng địa phương để xây dựng

tiêu chuẩn cụ thể cho các chức danh cán bộ cấp mình quản lý, sử dụng.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy rà soát, đánh giá chung đội ngũ cán bộ về

phẩm chất, năng lực, trình độ, tín nhiệm, sức khỏe và hiệu quả công việc, số

lượng, cơ cấu, nhất là cơ cấu về trình độ, ngành nghề, độ tuổi; cụ thể hóa tiêu

chuẩn cán bộ; xác định phương hướng, số lượng, cơ cấu cấp ủy khóa mới, các

chức danh chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền để đưa vào quy hoạch.

Page 92: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

87

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành tiến hành khảo

sát, đánh giá đội ngũ cán bộ, lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn đưa vào quy

hoạch của từng cấp, từng ngành, đảm bảo chặt chẽ, đúng quy trình. Thực hiện

đồng bộ quy hoạch cán bộ ở cả 3 cấp, đảm bảo yêu cầu về số lượng, nâng cao

về chất lượng với phương châm "động" và "mở"', chú trọng quy hoạch đội

ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số làm nguồn bổ sung

quy hoạch cấp ủy tỉnh.

Xác nhận quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý của

các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy; các ban đảng và Văn phòng

Tỉnh ủy; các sở, ban, ngành và các cơ quan cấp tỉnh; các doanh nghiệp nhà

nước của Trung ương và doanh nghiệp địa phương trên địa bàn.

Xây dựng phương án quy hoạch BCH Đảng bộ tỉnh và các chức danh

chủ chốt, gắn với công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, cấp huyện và

cấp xã đảm bảo tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu (cán bộ người dân tộc thiểu số)

theo Chỉ thị 37-CT/TW ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị và hướng dẫn của

Ban tổ chức Trung ương.

Kết quả quy hoạch (tính đến thời điểm 31/12/2010) như sau:

Quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và

các chức danh chủ chốt của tỉnh (Phụ lục 1, 2, 3).

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có 116 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 21

đồng chí, chiếm 18,1%; cán bộ nữ 25 đồng chí, chiếm 21,55%; cán bộ dân tộc

thiểu số 34 đồng chí, chiếm 29,31%; trình độ chuyên môn trên đại học chiếm

12,93%, đại học chiếm 87,06%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân

chiếm 97,41%, trung cấp chiếm 2,59%.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy 23 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 01 đồng chí,

chiếm 4,34%; cán bộ nữ 04 đồng chí, chiếm 19,04%; cán bộ dân tộc thiểu số

10 đồng chí, chiếm 47,62%.

Page 93: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

88

Các chức danh chủ chốt Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh:

Bí thư Tỉnh ủy 02 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 02 đồng

chí, chiếm 100%.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 01

đồng chí, chiếm 14,29%; cán bộ dân tộc thiểu số 03 đồng chí, chiếm 42,86%.

Chủ tịch HĐND tỉnh 04 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 03

đồng chí, chiếm 75%.

Phó Chủ tịch HĐND tỉnh 03 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu

số 01 đồng chí, chiếm 33,33%.

Chủ tịch UBND tỉnh 05 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu số 03

đồng chí, chiếm 66,67%.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ dân tộc thiểu

số 02 đồng chí, chiếm 28,57%.

Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các sở, ban ngành, Mặt trận Tổ

quốc và đoàn thể tỉnh (Phụ lục 1).

Cấp trưởng 161 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 25 đồng chí, chiếm

15,53%; cán bộ dân tộc thiểu số 41 đồng chí, chiếm 25,46%.

Cấp phó 325 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 66 đồng chí, chiếm

20,31%; cán bộ dân tộc thiểu số 61 đồng chí, chiếm 19,07%.

Trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 11,73%, đại học chiếm

88,27%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân chiếm 80,25%, trung cấp

chiếm 18,11%.

Quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh chủ chốt

các huyện, thành phố và đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy (Phụ lục 4, 5, 6).

Ban chấp hành 509 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 196 đồng chí, chiếm

38,5%; cán bộ nữ 98 đồng chí, chiếm 11,39%; cán bộ dân tộc thiểu số 162

đồng chí, chiếm 31,82%.

Page 94: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

89

Trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 3,93%, đại học chiếm

89,59%, trung cấp chiếm 6,48%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân

chiếm 47,74%, trung cấp chiếm 50,49%.

Ban Thường vụ 221 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 36 đồng chí, chiếm

16,28%; cán bộ nữ 32 đồng chí, chiếm 14,5%; cán bộ dân tộc thiểu số 61

đồng chí, chiếm 27,6%.

Các chức danh chủ chốt :

Bí thư 38 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 02 đồng chí, chiếm 5,26%; cán bộ

nữ 02 đồng chí, chiếm 5,26%; cán bộ dân tộc thiểu số 11 đồng chí, chiếm 28,95%.

Phó Bí thư 69 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 07 đồng chí, chiếm

10,14%; cán bộ nữ 12 đồng chí, chiếm 17,4%; cán bộ dân tộc thiểu số 18

đồng chí, chiếm 26,09%.

Chủ tịch UBND 32 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 02 đồng chí, chiếm

6,25%; cán bộ dân tộc thiểu số 07 đồng chí, chiếm 21,88%.

Chủ tịch HĐND 27 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 03 đồng chí, chiếm

11,11%; cán bộ nữ 05 đồng chí, chiếm 18,52%; cán bộ dân tộc thiểu số 09

đồng chí, chiếm 33,33%.

Phó Chủ tịch HĐND 21 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 06 đồng chí,

chiếm 28,57%; cán bộ nữ 07 đồng chí, chiếm 33,33%; cán bộ dân tộc thiểu số

10 đồng chí, chiếm 47,62%.

Phó Chủ tịch UBND 66 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 12 đồng chí,

chiếm 18,18%; nữ 15 đồng chí, chiếm 27,72%; cán bộ dân tộc thiểu số 23

đồng chí, chiếm 34,85%.

Ban Chấp hành các chi, đảng bộ cơ sở quy hoạch 4.312 đồng chí; trong

đó: Cán bộ trẻ chiếm 24,47%; nữ chiếm 23,42%; dân tộc thiểu số chiếm

42,11%; trình độ chuyên môn trên đại học chiếm 2,85%, đại học, cao đẳng

chiếm 73,34%, trung cấp chiếm 23,81%; trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử

nhân chiếm 16,04%, trung cấp chiếm 56,98%.

Page 95: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

90

Quy hoạch A1 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2010 - 2015 với

104 cán bộ. Trong đó, cán bộ đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch 35,6%,

cán bộ mới đưa vào quy hoạch 64,5%; cán bộ nữ 17,31%, cán bộ dân tộc ít

người chiếm 32,69%, cán bộ trẻ chiếm 12,5%; 100% cán bộ có trình độ

chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên, trong đó trên đại học chiếm 10,58%

(tăng 7,58% so với nhiệm kỳ trước); trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao

cấp 94,23% (tăng 21,6% so với nhiệm kỳ trước).

Các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tỉnh, các huyện, thị ủy, đảng ủy trực

thuộc, các cấp ủy cơ sở đã xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ lãnh đạo,

quản lý Al, rà soát, bổ sung quy hoạch A2 (nhiệm kỳ 2010 - 2015). Số cán bộ

đưa vào quy hoạch trưởng, phó các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh là 524

lượt người, trong đó đương chức 156 người (29,78%); mới đưa vào quy hoạch

368 người (70,22%); cán bộ có trình độ chuyên môn trên đại học 56 người

(10,69%), trình độ cao đẳng, đại học 467 người (89,12%), trình độ lý luận

chính trị cử nhân, cao cấp 356 người (67,93%). Số cán bộ trẻ đưa vào quy

hoạch 87 người (16,6%); cán bộ nữ 112 người (21,37%), cán bộ dân tộc ít

người 107 người (21,37%).

Số cán bộ đưa vào quy hoạch Ban Chấp hành Đàng bộ các huyện, thị,

Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2010 - 2015 với 455 cán bộ, trong đó

cán bộ đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch là 221 người (48,58%), cán bộ

mới đưa vào quy hoạch là 234 người (51,42%); cán bộ có trình độ chuyên

môn trên đại học 14 người (3,07%), trình độ cao đẳng, đại học 404 người

(88,79%), trình độ lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 217 người (47,69%). Số

cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch 65 người (14,28%); nữ 89 người (19,56%), dân

tộc ít người 152 người (33,4%).

Ban Thường vụ các huyện, thị, đảng ủy trực thuộc đã xác nhận quy

hoạch cấp ủy cơ sở nhiệm kỳ 2010 - 2015 với 4300 cán bộ: Trong đó cán bộ

đương chức tiếp tục đưa vào quy hoạch là 2.395 người (55,7%), cán bộ mới

Page 96: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

91

đưa vào quy hoạch 1.905 người (44,3%); cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học

trở lên 2.035 người (47,32%), lý luận chính trị cử nhân, cao cấp 332 người

(7,72%). Số cán bộ trẻ đưa vào quy hoạch 1.148 người (26,7%); nữ 988 người

(22,98%), dân tộc ít người 1.766 người (41,07%).

* Về công tác luân chuyển cán bộ

Nghị quyết số 11/NQ/TW ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ

luân chuyển cán bộ là: Tạo nên một trong những bước đột phá góp phần đổi

mới sâu sắc công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý; Tạo điều kiện

để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp

cán bộ trưởng thành nhanh hơn và toàn diện, vững vàng hơn.

Luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống tổ chức của hệ

thống chính trị nhằm:

Bảo đảm cơ cấu ngày càng phù hợp giữa cán bộ người Kinh và cán bộ

người dân tộc, giữa các dân tộc. Bên cạnh đó, tiếp tục chú ý cơ cấu theo giới,

lứa tuổi, nhất là theo lĩnh vực công tác.

Tăng cường thực hiện luân chuyển cán bộ: luân chuyển ngang, luân

chuyển dọc; luân chuyển cả cán bộ người Kinh và cán bộ người dân tộc, luân

chuyển cán bộ giữa các dân tộc, luân chuyển giữa các vùng, tạo điều kiện cho

cán bộ dân tộc rèn luyện thực tiễn và tham gia vào nhiều vị trí công tác.

Thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 25/01/2002 của Bộ Chính trị,

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 06-KH/TU ngày 07/4/2002

và Kế hoạch số 51-KH/TU ngày 21/3/2008 về việc luân chuyển cán bộ lãnh

đạo, quản lý.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện luân chuyển cán bộ diện cấp ủy

tỉnh quản lý và chỉ đạo các cấp, các ngành luân chuyển cán bộ thuộc thẩm

quyền quản lý. Thực hiện luân chuyển cán bộ giữa ngành và cấp, giữa tỉnh,

huyện và cơ sở, giữa các lĩnh vực công tác nhằm phát huy năng lực, sở

trường của cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn. Ban

Page 97: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

92

Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIV đã xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ

đến năm 2010; thực hiện luân chuyển cán bộ đảm bảo công bằng, công

tâm, công khai, có lý, có tình; được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng

tình ủng hộ, góp phần tích cực cho chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng bộ lần

thứ XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015).

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 51-KH/TU ngày

21/3/2008 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh

ủy quản lý; kết quả đến tháng 12/2010 như sau:

Luân chuyển cán bộ trẻ, cán bộ nữ dân tộc thiểu số 99/183 lượt cán bộ;

trong đó: Cán bộ trẻ 24 lượt, chiếm 13,11%; cán bộ nữ 33 lượt, chiếm

14,75%; cán bộ dân tộc thiểu số 42 lượt, chiếm 25,68%. Cụ thể:

Từ cấp tỉnh về cấp huyện và tương đương 16/21 lượt cán bộ (cán bộ trẻ

04 lượt, cán bộ nữ 02 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 10 lượt).

Từ cấp huyện và tương đương lên cấp tỉnh 16/35 lượt, (cán bộ trẻ 02

lượt, cán bộ nữ 07 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 07 lượt).

Giữa các sở, ban, ngành cấp tỉnh 36/63 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 07 lượt,

cán bộ nữ 16 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 13 lượt).

Trong nội bộ sở, ban, ngành cấp tỉnh 20/35 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 08

lượt, cán bộ nữ 06 lượt, cán bộ dân tộc thiểu số 06 lượt).

Trong nội bộ huyện, thành phố, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy 11/24 lượt cán

bộ (cán bộ trẻ 03 lượt cán bộ nữ 02 lượt, cán bộ người dân tộc thiểu số 06 lượt).

Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 68/157 lượt cán bộ (cán bộ trẻ 19 lượt, cán bộ

nữ 22 lượt, cán bộ dân tộc thiểu số 27 lượt).

Chỉ định bổ sung vào đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Cấp ủy, Bí thư,

phó Bí thư, Ban Thường vụ các Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh

ủy 80 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 11 đồng chí, chiếm 13,75%; cán bộ nữ

19 đồng chí, chiếm 23,75%; cán bộ người dân tộc thiểu số 26 đồng chí,

chiếm 32,5%.

Page 98: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

93

Giới thiệu bầu cử vào chức danh Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ban

Thường vụ, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, HĐND, UBND và các đoàn

thể cấp tỉnh, cấp huyện tổng số 447 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 26 đồng

chí, chiếm 5,81%; cán bộ nữ 40 đồng chí, chiếm 8,95%; cán bộ dân tộc thiểu

số 74 đồng chí, chiếm 16,55%.

Từ năm 2002 đến năm 2010, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã luân chuyển,

điều động 153 lượt cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý (có 25 lượt

cản bộ nữ, chiếm 16,34%; 46 lượt cán bộ là người dân tộc ít người chiếm

30,07%; 15 lượt cán bộ trẻ chiếm 9,8%); trong đó: Luân chuyển, điều động

từ tỉnh về huyện, thị 32 lượt cán bộ; từ huyện, thị về tỉnh 44 lượt cán bộ;

giữa các sở, ban, ngành 40 lượt cán bộ; giữa các huyện, thị 37 lượt cán bộ;

từ khối đảng, đoàn thể sang khối nhà nước 35 lượt cán bộ, khối nhà nước

sang khối đảng, đoàn thể 35 lượt cán bộ.

Ban Thường vụ các huyện, thị ủy, đảng ủy trực thuộc, đảng đoàn, ban

cán sự đảng, các sở, ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh đã thực hiện luân chuyển,

điều động 547 lượt cán bộ thuộc diện quản lý; trong đó: Luân chuyển, điều

động từ tỉnh về huyện, thị 138 lượt cán bộ; từ huyện, thị về tỉnh 174 lượt cán

bộ; từ huyện, thị về xã, phường, thị trấn 68 lượt cán bộ; từ xã, phường, thị

trấn về huyện, thị 65 lượt cán bộ; giữa các sở, ban, ngành 14 lượt cán bộ; giữa

các huyện, thị 71 lượt cán bộ; luân chuyển giữa các xã, phường, thị trấn 18

lượt cán bộ; từ khối đảng, đoàn thể sang khối nhà nước 47 lượt cán bộ, khối

nhà nước sang khối đảng, đoàn thể 62 lượt cán bộ.

Công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ bản đã đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, tạo điều kiện rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ,

nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng, giúp cán bộ trưởng thành nhanh hơn và toàn diện hơn. Qua luân chuyển, đã từng bước điều chỉnh hợp lý đội ngũ cán bộ, tăng cường được cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp bách, nhất là cho đơn vị có nhiều khó khăn, khắc phục khuynh hướng cục bộ, khép kín cán bộ trong

Page 99: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

94

từng địa phương, đơn vị. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý sau khi luân

chuyển đã tiếp cận nhanh với điều kiện, môi trường công tác mới, có quan điểm, phương pháp chỉ đạo toàn diện, sâu sắc hơn, được cấp ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Do chủ động, tích cực luân chuyển đội ngũ cán

bộ, lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn, đảm bảo về số lượng, nâng cao về chất lượng để đưa vào quy hoạch; chú trọng quy hoạch đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số.

* Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng, tạo nên đội ngũ cán bộ đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, đảm bảo cho nhiệm vụ

cách mạng được thực hiện. V.I.Lênin đã khẳng định: Trong lịch sử, chưa hề

có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được

trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong

có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.

Khi trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và

bảo vệ Tổ quốc, theo Lênin, phải rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

để có được những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo

đức, năng lực công tác tốt để giao trọng trách. Đây là khâu then chốt để nghị

quyết, chỉ thị của Đảng được thực hiện đạt kết quả tốt.

Quán triệt quan điểm của Lênin, Đảng chỉ rõ: Nâng cao chất lượng

công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu

chuẩn chức danh cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực

hiện chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới.

Trong công tác đào tạo, công tác đào tạo nguồn cũng chiếm một vị

trí quan trọng. Thực tế, đội ngũ cán bộ chủ chốt và công chức cấp xã ở

Tuyên Quang chủ yếu là người dân tộc thiểu số, nhất là: Tày, Cao Lan,

Dao, Nùng... Từ thực tế lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội ở địa phương, cho thấy năng lực công tác của một bộ phận khá lớn

Page 100: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

95

cán bộ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế; trình độ chuyên môn chưa

đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Hạn chế lớn nhất là năng lực điều hành,

tổ chức và quản lý khá đông cán bộ là người dân tộc thiểu số còn yếu: khả

năng vận dụng lý luận vào thực tiễn còn thấp, cho nên gặp khó khăn, lúng

túng trong công tác chỉ đạo, xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội tại địa phương. Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong cơ cấu

cán bộ, công chức chung của địa phương tăng đáng kể nhưng cơ cấu giữa

các thành phần dân tộc chưa hợp lý, tỷ lệ cán bộ của một số dân tộc thiểu

số chưa cân đối với tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số.

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về công tác cán bộ, Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 28/02/2006 về

đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn là người

dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã

chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Sở Nội vụ tổ

chức Hội nghị báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg

ngày 8/2/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số giai

đoạn 2006 - 2010 vào ngày 5/12/2007.

Tổng số cán bộ, công chức cấp xã đến năm 2006 là người dân tộc thiểu

số là 1.427 người, có trình độ như sau:

Trình độ văn hóa: Tiểu học 13 người; Trung học cơ sở 203 người;

Trung học phổ thông 1.211 người.

Trình độ chuyên môn: Đại học, Cao đẳng 229 người; Trung cấp 908

người; Sơ cấp 38 người; Bồi dưỡng 38 người.

Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 1.000 người; Sơ cấp 26 người;

Bồi dưỡng 65 người.

Đã bồi dưỡng về quản lý nhà nước: 123 người.

Đã bồi dưỡng về tin học: 253 người.

Page 101: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

96

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số năm 2007 [Phụ lục 13].

* Kết quả đào tạo.

Đã tốt nghiệp năm 2007:

Trung học phổ thông: 23 người.

Về chuyên môn: 39 người, trong đó: Đại học, cao đẳng 01 người;

Trung cấp 38 người. Trung cấp lý luận chính trị: 22 người.

Cử đi đào tạo về chuyên môn năm 2007: 110 người, trong đó: Đại học

46 người; Trung cấp 64 người.

Kết quả bồi dưỡng:

Quản lý nhà nước 360 người, trong đó: Chuyên viên 96 người; Bồi

dưỡng 164 người.

Tin học: 53 người. Kỹ năng nghiệp vụ: 214 người. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 08/02/2006

của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010;

Đảng bộ Tỉnh Tuyên Quang đã chỉ đạo các cấp tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, cán bộ công chức cấp xã trong giai đoạn tiếp theo.

Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số năm 2008 [Phụ lục 14].

Về đào tạo: Văn hóa: Trung học phổ thông 29 người.

Về chuyên môn: 98 người, trong đó: Đại học 52 người; Trung cấp 46 người.

Về trung cấp lý luận chính trị: 138 người.

Về bồi dưỡng:

Về quản lý nhà nước: 127 người, trong đó: Chuyên viên 41 người; Cán

bộ 73 người; Bồi dưỡng 13 người.

Page 102: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

97

Về tin học: 229 người.

Về kỹ năng nghiệp vụ: 60 người.

Thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức giai đoạn 2006 - 2010, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Tuyên Quang đã chỉ

đạo các cấp, các ngành thực hiện rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức từ tỉnh đến cơ sở. Qua kết quả rà soát đội ngũ cán bộ, công chức

toàn tỉnh và thực hiện chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

giai đoạn 2006 - 2010 của Nhà nước, ngày 04/6/2006, Ban Thường vụ Tỉnh

ủy đã ban hành Kế hoạch số 09-KH/TU về "Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ

XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010". Ngày 07/9/2006, Ban Tổ chức Tỉnh ủy có Thông

báo số 09-TB/TC về kết luận Hội nghị triển khai Kế hoạch số 09-KH/TU về

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giai đoạn 2006 - 2010.

Thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh giai

đoạn từ 2006 - 2010, hàng năm, UBND tỉnh đã cụ thể hóa thành kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh và chỉ đạo các cấp, các ngành tổ

chức thực hiện. Đồng thời, tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho các điểm tổ

chức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng; đối tượng được cử đi đào tạo được

hưởng 100% lương và được tỉnh hỗ trợ 50% mức học phí nộp về cơ sở đào tạo.

Năm 2007, UBND tỉnh đã có Văn bản số 2944/UBND-VX ngày 01/11/2006 về

phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2007 và chỉ đạo

các cấp, các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện, kết quả như sau:

Đã tổ chức các lớp đào tạo về chuyên môn trình độ đại học, cao đẳng,

trung cấp và đào tạo về lý luận chính trị hệ tại chức tại tỉnh, gồm: Đại học

Công nghiệp, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Thương mại, Cao đẳng Giao

thông, Trung cấp Địa chính, Trung cấp Luật, Trung cấp lý luận chính trị cho

đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ, công chức cấp xã.

Page 103: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

98

Tổng số cán bộ, công chức cấp xã và công chức dự nguồn là người dân tộc

thiểu số được cử đi đào tạo 132 người.

Tổ chức các lớp bồi dưỡng: Bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước

cho các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND; bồi dưỡng

kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên cho công chức cấp xã

có trình độ đại học; bồi dưỡng về tin học văn phòng cho cán bộ, công chức

cấp xã có trình độ đại học; bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ và quản lý nhà

nước cho các chức danh Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,

Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân. Tổng số cán bộ, công chức

cấp xã và công chức dự nguồn là người dân tộc thiểu số tham gia các lớp

bồi dưỡng 527 người.

Chuẩn bị cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh năm

2008, ngày 27/11/2007, UBND Tỉnh đã ban hành Văn bản số 2935/UBND-VX

về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức năm 2008 của tỉnh.

Để nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Ban Thường vụ

Tỉnh ủy Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ giai đoạn 2011 - 2015. Trên cơ sở đó, các cấp ủy trực thuộc lập

kế hoạch cụ thể và cử cán bộ đi đào tạo theo nhu cầu sử dụng. Tỉnh ủy xác

định việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một khâu đột phá, cho nên

công tác đào tạo được quan tâm hơn. Từ đó, đã huy động mọi nguồn lực,

tranh thủ các dự án đào tạo bồi dưỡng cán bộ tiếp tục liên kết với các trường

đại học, cao đẳng mở các lớp tại chức. Những cán bộ đi học, ngoài việc thực

hiện chế độ chung, tùy từng chương trình học cụ thể, tỉnh hỗ trợ tiền ăn, nghỉ,

đi lại mua tài liệu và được thanh toán công tác phí như đi công tác.

Tiếp đó, trên cơ sở rà soát, đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ các

cấp, các ngành đã chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để thực hiện

tiêu chuẩn hóa cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Ban Thường

vụ Tỉnh ủy đã xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn tỉnh giai

Page 104: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

99

đoạn 1996 - 2000, giai đoạn 2001 - 2005; đặc biệt nhiệm kỳ 2005 - 2010, Ban

Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 09-KH/TƯ ngày 04/6/2006

về đào tạo chuyên môn, lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà

nước, quản lý kinh tế, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ công tác. Củng cố,

kiện toàn Trường Chính trị tỉnh, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện,

thị xã; củng cố, nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm giáo dục

thường xuyên và các Trường chuyên nghiệp để đảm nhiệm có hiệu quả việc

đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ.

Công tác đào tạo bồi dưỡng đã được các cấp, các ngành chủ động

thực hiện, khắc phục dần tình trạng mất cân đối về cơ cấu đào tạo trong

thời gian trước; đào tạo cán bộ đa ngành, đa lĩnh vực, gắn đào tạo chuyên

môn với đào tạo về lý luận chính trị và rèn luyện kiến thức thực tiễn cho

cán bộ. Cùng với đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho cấp tỉnh và huyện,

đã chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ xã, quan tâm đến

việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo nguồn cán bộ là con em các dân

tộc ít người tại cơ sở.

Ngày 18/7/2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức sơ kết thực hiện kế hoạch

số 7/09-KH/TU ngày 4/6/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.

Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức dân tộc

thiểu số cấp tỉnh, huyện, thị xã đến năm 2010

Thực hiện Kế hoạch số 09-KH/TU ngày 04/6/2006 về đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ

XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010; Tỉnh ủy Tuyên Quang đã chỉ đạo các huyện,

thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, các cơ quan, ban, ngành, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể hàng năm rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ để xây dựng

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị;

cử cán bộ thuộc diện quy hoạch đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, lý

Page 105: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

100

luận chính trị - hành chính. Kết quả, đến tháng 12/2010 công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang như sau:

Đào tạo về chuyên môn:

Trên đại học 315 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 265 người,

chiếm 84,12%; cán bộ nữ 33 người, chiếm 10,47%; cán bộ dân tộc thiểu số 74

đồng chí, chiếm 23,49%.

Đại học, cao đẳng 673 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 186

người, chiếm 27,63%; cán bộ nữ 207 người, chiếm 30,75%; cán bộ dân tộc

thiểu số 389 đồng chí, chiếm 57,08%.

Trung cấp 338 cán bộ, công chức, trong đó: Cán bộ trẻ 55 người, chiếm

16,27%; cán bộ nữ 46 người, chiếm 13,6%; cán bộ dân tộc thiểu số 218 đồng

chí, chiếm 64,49%.

Đào tạo về lý luận chính trị - hành chính:

Cao cấp lý luận chính trị - hành chính 458 đồng chí, trong đó: Cán bộ

trẻ 186 đồng chí, chiếm 40,61%; cán bộ nữ 127 đồng chí, chiếm 27,72%; cán

bộ dân tộc thiểu số 112 đồng chí, chiếm 24,45%.

Trung cấp lý luận chính trị 2.372 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 1.642

đồng chí, chiếm 69,22%; cán bộ nữ 1.198 đồng chí, chiếm 50,51%; cán bộ

dân tộc thiểu số 852 đồng chí, chiếm 35,91%.

Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên

chính, chuyên viên, ngạch cán sự, tiền công vụ … cho 4.078 lượt cán bộ,

trong đó: Cán bộ trẻ 1.854 lượt, chiếm 46,15%; cán bộ nữ 1.539 lượt, chiếm

37,73; cán bộ dân tộc thiểu số 1.798 lượt, chiếm 44,09%.

* Về công tác quản lý và bố trí, sử dụng, cán bộ

Trong tất cả các khâu của công tác cán bộ, việc bố trí, sử dụng cán

bộ là khâu có ý nghĩa quyết định, vì sử dụng cán bộ đúng sẽ phát huy được

tài năng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Với lực lượng cán bộ

hiện có, phải khéo sắp xếp, sử dụng để phát huy tốt hơn nữa mọi khả năng

Page 106: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

101

của đội ngũ cán bộ. Sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách thiết thực và có hiệu

quả. Một số giải pháp để nâng cao chất lượng công tác bố trí, sử dụng cán

bộ, đó là:

Vì việc mà tìm người chứ không vì người mà đặt việc. Phải căn cứ vào

nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ, không vì cán

bộ mà lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.

Đổi mới tuyển chọn cán bộ, thí điểm thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh

đạo cấp vụ, cấp phòng. Thí điểm thực hiện chế độ thực tập, tập sự lãnh đạo,

quản lý và thí điểm nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo của Đảng, chính

quyền ở cấp xã, huyện, tỉnh. Yêu cầu người được bổ nhiệm trình bày phương

án, đây là cách làm tiến bộ và đang được nhiều nước áp dụng, vì điều này

giúp cho cán bộ bộc lộ khả năng, trình độ, sự nhiệt tình, thái độ trách nhiệm

với công việc sắp được giao. Như vậy, đây cũng là một kênh thông tin quan

trọng để đánh giá thực chất năng lực của cán bộ. Tuy nhiên, tùy từng lĩnh vực,

chức danh cán bộ mà áp dụng cho phù hợp.

Cải tiến quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm, bầu cử để chọn

đúng người, bố trí đúng việc. Mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu

người phương án nhân sự để lựa chọn theo Quy chế bầu cử trong Đảng

(được ban hành theo Quyết định số 220-QĐ/TW ngày 17/4/2009). Nghiên

cứu, đổi mới quy trình, nội dung lấy phiếu giới thiệu và phiếu tín nhiệm

trong công tác cán bộ.

Kịp thời cho thôi việc, thay thế cán bộ kém phẩm chất và năng lực,

không hoàn thành nhiệm vụ được giao theo phương châm "có lên, có xuống,

có vào, có ra", coi đây là việc bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ. Cụ

thể hóa, triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 206-QĐ/TW của Bộ

Chính trị ngày 02/10/2009 về việc thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, từ chức cán

Page 107: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

102

bộ và Nghị định số 132/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8/8/2007 về chính

sách tinh giản biên chế.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), các Quyết định của

Bộ Chính trị; Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy định số 03-QĐ/TU

ngày 28/11/1997, trong nhiệm kỳ 2005 - 2010, Tỉnh ủy Tuyên Quang đã ban

hành Quy định số 02-QĐ/TU ngày 27/7/2006 và Quy định số 07-QĐ/TƯ

ngày 12/02/2008 về phân cấp quản lý cán bộ, nhằm phân cấp mạnh, phân

quyền, phân định rõ trách nhiệm, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán,

thiếu thống nhất, không nắm chắc cán bộ, tăng cường trách nhiệm quản lý

cán bộ của chi bộ, tổ chức cơ sở đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nơi

sinh hoạt và nơi cư trú; thực hiện quản lý cán bộ chặt chẽ, chống quan liêu

và các biểu hiện tiêu cực khác trong công tác cán bộ.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế số 03-QC/TU ngày

02/8/2006 về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm, điều động, luân

chuyển cán bộ; Quy chế số 04-QC/TƯ ngày 12/02/2008 về bổ nhiệm cán bộ,

giới thiệu cán bộ ứng cử.

Cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc ít người trong cơ cấu cán bộ cấp

ủy, Hội đồng nhân dân các cấp nhiều năm liên tục đạt và vượt định hướng của

Trung ương: cán bộ cấp ủy tỉnh trẻ 4,26%, nữ 29,8%, dân tộc ít người 40,4%.

Cán bộ cấp ủy huyện, thị, đảng ủy trực thuộc trẻ 9,5%, nữ 17,4%, dân tộc ít

người 33,7%; cán bộ cấp ủy cơ sở trẻ 16,2%, nữ 19,7%, dân tộc ít người 32,1%.

Đại biểu HĐND tỉnh trẻ 31,57%, nữ 38,59%, dân tộc ít người 56,14%.

Đại biểu HĐND huyện, thị xã trẻ 26,7%, nữ 34,62%; dân tộc ít

người 55,56%.

Đại biểu HĐND xã, phường, thị trấn trẻ 31,23%, nữ 26,82%, dân tộc ít

người 57,66 %.

Cấp ủy tỉnh: 100% có trình độ chuyên môn đại học trở lên, 97,87% cao

cấp, cử nhân lý luận chính trị.

Page 108: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

103

Cấp ủy huyện, thị, đảng ủy trực thuộc 89% có trình độ chuyên môn đại

học, cao đẳng trở lên, 51,52% cao cấp, cử nhân lý luận chính trị.

Cấp ủy cơ sở 49,93% có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên,

7,65% trung cấp; 11,09% cao cấp, cử nhân lý luận chính trị.

Đại biểu HĐND cấp tỉnh có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở

lên 84,21%, lý luận chính trị cao cấp, cử nhân 42,1%; ở huyện, thị xã có trình

độ chuyên môn đại học, cao đẳng trở lên 61,1%, lý luận chính trị cao cấp, cử

nhân 23,5%; ở xã, phường, thị trấn có trình độ chuyên môn trung cấp 24,03%,

đại học, cao đẳng trở lên 6,83%; trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên

21,99%; cao cấp, cử nhân 0,4%.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy phân công trách nhiệm cho các ban ngành,

đặc biệt là Ban Dân tộc và Sở Nội vụ cùng Ủy ban nhân dân các cấp tham

mưu đề xuất và tổ chức thực hiện những nội dung công việc cụ thể để thực

hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên địa bàn

tỉnh. Sở Nội vụ phối hợp với Ban Dân tộc và các ngành chức năng xây

dựng giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số; chỉ đạo

thực hiện tốt các chính sách hiện hành về tuyển dụng, sử dụng cán bộ là

người dân tộc thiểu số ở các ngành, các địa phương và cán bộ đến công tác

ở vùng đặc biệt khó khăn. Ban dân tộc phối hợp với Sở Nội vụ tham mưu,

bố trí công chức là người dân tộc thiểu số của tỉnh làm việc tại các cơ quan

chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp để từng bước củng cố, xây

dựng và kiện toàn hệ thống đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ tỉnh đến cơ

sở; trường chính trị tỉnh thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng lý luận chính trị,

phối hợp với các trường đại học, cao đẳng liên kết mở các lớp tại chức đào

tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số riêng và đội ngũ cán

bộ nói chung.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy đảng coi trọng.

Thực hiện Chỉ thị 39-CT/TW ngày 14/8/1998 của Bộ Chính trị, Quy định

Page 109: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

104

số 75-QĐ/TƯ ngày 25/4/2000 và Quy định số 57-QD/TW ngày 03/5/2007

của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 02-HD/BTCTW ngày 08/3/2002 và Hướng

dẫn số 11-HD/BTCTW ngày 24/10/2007 của Ban Tổ chức Trung ương về

một số vấn đề bảo vệ nội bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng quy định

cụ thể về công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng bộ; Quy chế về phối

hợp thực hiện nhiệm vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ của một số cơ quan,

đơn vị cấp tỉnh, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong công tác bảo

vệ chính trị nội bộ, đảm bảo nội bộ trong sạch, đoàn kết. Thực hiện việc thẩm

định tiêu chuẩn chính trị cán bộ trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tuyển

dụng, tiếp nhận vào các cơ quan trọng yếu, cơ mật.

Thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra của Bộ Chính trị về công tác

cán bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 12-KH/TƯ ngày

30/5/2003 thành lập Đoàn kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ tại các tổ chức

đảng trực thuộc. Các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các ngành, đoàn

thể đã thực hiện chế độ tự kiểm tra và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kiểm

tra của cấp trên về công tác cán bộ. Những vấn đề có liên quan đến cán bộ và

công tác cán bộ đều được cấp ủy các cấp xem xét, giải quyết kịp thời.

* Về thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số

Tiếp tục thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo bồi dưỡng, phát triển

nguồn cán bộ dân tộc thiểu số. Đây là một trong những nội dung quan trọng

của Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện. Những thành tựu cơ bản của công

tác phát triển nguồn cán bộ và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số trong những

năm qua luôn gắn liền với chính sách phát triển nguồn và ưu tiên đào tạo bồi

dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.

Trong những năm tiếp theo, chính sách ưu tiên trên sẽ còn phát huy tác

dụng to lớn trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững mạnh

cả về số lượng và chất lượng.

Page 110: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

105

Hiện nay, chính sách ưu tiên được Đảng và Nhà nước vận dụng trên ba

phương diện:

Thứ nhất: thực hiện chính sách ưu tiên cộng điểm cho thí sinh dự thi

trong các kỳ thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp. Chính điều đó đã tạo

ra cơ hội lớn để tuyển sinh được hàng nghìn con em các dân tộc thiểu số ở

miền núi phía Bắc nói riêng vào các trường chuyên nghiệp để đào tạo họ trở

thành cán bộ trên nhiều lĩnh vực.

Thứ hai: thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư, đào tạo, con em các dân

tộc thiểu số qua hệ thống trường Phổ thông dân tộc nội trú, hệ dự bị đại học

và hệ cử tuyển trung cấp, cao đẳng, đại học.

Thứ ba: Thực hiện đào tạo bồi dưỡng thường xuyên đối với đội ngũ cán

bộ quy hoạch nguồn lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực chuyên môn. Nhìn

chung trong những năm qua, các địa phương miền núi phía Bắc đã thực hiện

khá tốt vấn đề này. Nhiều địa phương đã có quy hoạch ổn định và thực hiện

kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hệ thống, thường xuyên, liên tục

không ngừng trẻ hóa cán bộ, nâng cao năng lực cán bộ theo tiêu chuẩn quy

định. Chiến lược cán bộ của Đảng đã vạch ra những định hướng cơ bản, tạo

điều kiện để các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ nguồn.

Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên

Quang đã quan tâm chỉ đạo thực hiện chính sách trên đối với cán bộ dân tộc

thiểu số trong tỉnh. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các quy

định hỗ trợ đối với cán bộ thiểu số đi đào tạo nâng cao trình độ, hỗ trợ cán bộ

xã, cán bộ dự nguồn, con em là người dân tộc thiểu số đi học các lớp tại chức

chuyên môn tại tỉnh. Nhiều cơ quan, đơn vị đã sử dụng tiết kiệm chi thường

xuyên để hỗ trợ cho cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số đi học và đi

nghiên cứu thực tế.

Tỉnh Tuyên Quang cũng đã quan tâm tới việc mở hệ thống các trường

Phổ thông dân tộc nội trú tại các huyện và tại Trung tâm tỉnh, đảm bảo chính

Page 111: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

106

sách ưu tiên tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ngay từ nhà trường; quan tâm

tới chỉ tiêu cử tuyển vào các trường chuyên nghiệp cho học sinh đã tốt nghiệp

phổ thông.

Về chế độ, chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số đi đào tạo, bồi

dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị ở Trung ương và tại tỉnh:

Đối với các lớp đào tạo hệ tập trung tại Trung ương: cán bộ được

hưởng trợ cấp theo hướng dẫn số 38HD/BTCTW ngày 30/3/2005 của Ban Tổ

chức Trung ương, ngoài ra các học viên còn được hỗ trợ các chi phí tiền tàu

xe đi lại, tiền mua tài liệu, tiền đi thực tế theo mức quy định chi tiêu nội bộ

của mỗi cơ quan, đơn vị.

Đối với các lớp hệ đào tạo tại chức tại tỉnh: Cán bộ được hỗ trợ các chi

phí tàu xe đi lại (đối với học viên ở xa), tiền mua tài liệu bao cấp chỗ ở, tiền

đi thực tế theo mức quy định chi tiêu nội bộ, mỗi cơ quan, đơn vị.

Có chính sách thu hút cán bộ có trình độ học vấn, cán bộ người địa

phương, cán bộ người dân tộc thiểu số về địa phương công tác.

Có chính sách hỗ trợ cán bộ, nhất là cán bộ dân tộc trong đào tạo, bồi dưỡng.

Thực hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ công tác ở vùng đồng bào

dân tộc.

Tiểu kết chương 3

Trong những năm (2001 - 2010), sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã có sự đổi mới toàn

diện, mạnh mẽ hơn so với những năm 1991 đến năm 2000. Sự đổi mới đó

được thể hiện ở một số nội dung sau:

Thứ nhất: Quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang

về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 2001 đến năm 2010 đã

bám sát quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc và nhiệm vụ chính trị

của Đảng bộ trong tình hình mới. Có sự đổi mới đồng bộ, chặt chẽ giữa các

khâu, các bước trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng tốt số cán

Page 112: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

107

bộ dân tộc thiểu số hiện có với thực hiện đồng bộ các giải pháp để đào tạo,

bồi dưỡng xây dựng bổ sung số cán bộ dân tộc mới. Chú trọng tập trung xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu

thành phần dân tộc trong đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú ý đến các địa bàn

trọng điểm, vùng sâu, vùng xa có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống.

Xây dựng quy hoạch, đào tạo và bố trí sử dụng đồng bộ cán bộ dân tộc thiểu

số từ cấp tỉnh đến cơ sở.

Thứ hai: Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được xác

định rõ ràng, các chỉ tiêu đặt ra toàn diện, yêu cầu cao hơn so với giai đoạn

trước. Thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo mới và tiếp tục đào tạo, đào

tạo lại. Bồi dưỡng, bố trí sử dụng tốt số cán bộ dân tộc hiện còn đang công tác

tại các cơ quan, không chỉ tập trung vào đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ

cán bộ thiểu số trong các ban ngành Sở, cấp tỉnh mà còn chú trọng đến đội

ngũ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số.

Thứ ba: Quá trình thực hiện công tác đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số được thực hiện phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, ngành, các

ủy ban các cấp, giữa chỉ đạo và thực hiện vì vậy là thực hiện tốt các chương

trình kế hoạch đề ra, chỉ tiêu đưa ra về cơ bản hoàn thành, đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ.

Công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số được Đảng bộ tỉnh lãnh đạo

xây dựng kế hoạch cụ thể, chuẩn bị từ xa và tạo nguồn dồi dào cho đào tạo và

bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã quy hoạch đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số lãnh đạo quản lý đáp ứng nhân sự cho Đảng bộ nhiệm

kỳ 2010 - 2015.

Tại Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán

bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy từ cơ sở đến tỉnh hầu hết đều

vượt quy định Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 4/8/2009 của Bộ Chính trị và cao

hơn nhiệm kỳ trước.

Page 113: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

108

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được nâng cao về chất lượng cả về

đào tạo chuyên môn, lý luận chính trị và đào tạo chức danh quản lý. Gắn kết

với các khâu của công tác cán bộ đảm bảo yêu cầu trong công tác đào tạo bồi

dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.

Thực tiễn cho thấy, dù có thể không thiếu nguồn, song tình trạng "đốt

đuốc đi tìm" cán bộ dân tộc thiểu số vẫn xảy ra ở một số địa phương ở các

tỉnh miền núi phía Bắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, do cách làm

còn thiếu căn cơ, bị động. Trong bối cảnh đó, với cách làm chủ động, đổi mới,

có những yếu tố mang tính đột phá và cả một quá trình phấn đấu đồng bộ, có

sự kế thừa và phát triển của các nhiệm kỳ trước, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang

đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng tăng và đứng

hàng đầu trong cả nước qua nhiều nhiệm kỳ.

Mặc dù còn nhiều thiếu sót trong quá trình thực hiện, nhưng về cơ bản,

quá trình đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2001 -

2010 của tỉnh Tuyên Quang đạt được kết quả tốt đẹp. Đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số ngày càng phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Hiệu quả

công việc được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu nguồn lực trong công

cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là ở miền núi, vùng có nhiều đồng bào dân

tộc sinh sống.

Page 114: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

109

CHƯƠNG 4

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. NHẬN XÉT

4.1.1. Một số ưu điểm

Các cấp ủy Đảng từ tỉnh đến cơ sở đã nhận thức sâu sắc về vị trí và tầm

quan trọng của công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.

Vì thế, đã nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII); kịp thời ban hành

các quy định, quy chế cụ thể hoặc các nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán

bộ, đặc biệt là nhiệm kỳ 2005 - 2010 nên công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,

đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng đổi mới hơn, đảm bảo

khách quan, dân chủ, chặt chẽ và đúng quy trình.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, Đảng bộ tỉnh đã từng bước tiêu

chuẩn hóa cán bộ và việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng luân

chuyển, quản lý bố trí, sử dụng cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số thực

sự dân chủ, nền nếp hơn, đã đào tạo và bồi dưỡng hàng vạn lượt cán bộ, nâng

cao trình độ cán bộ cả về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý hành chính,

quản lý kinh tế - xã hội; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số.

Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang đã có một số ưu điểm sau:

4.1.1.1. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã xác định rõ trách nhiệm của

các cấp ủy Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Một là, đã xây dựng được quy chế của cấp ủy, trong đó xác định mối

quan hệ trong cấp ủy về công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng. Quy chế của các cấp ủy đã cụ thể hóa

các nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ sát với địa phương, đơn vị

của mình.

Page 115: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

110

Hai là, trên cơ sở cơ cấu cán bộ dân tộc thiểu số hiện có và nhu cầu bố

trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý là

người dân tộc thiểu số, các cấp ủy Đảng đã lập kế hoạch công tác cán bộ cụ

thể về số lượng, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số, tạo

điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện.

Ba là, các cấp ủy Đảng đã đưa ra các quy trình cụ thể của từng khâu trong

công tác cán bộ dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng cán bộ khi được bổ nhiệm,

từng bước tiến hành bổ nhiệm các cán bộ lãnh , quản lý là người dân tộc thiểu số ở

các phòng, ban, các sở, ngành chuyên môn bằng cơ chế cạnh tranh.

Bốn là, các cấp ủy Đảng đã xây dựng được kế hoạch kiểm tra, giám sát

cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng; kịp thời khắc phục những

sai lầm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của các đơn

vị, địa phương.

4.1.1.2. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo thực hiện tốt đồng

bộ các khâu của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân

tộc thiểu số nói riêng

Về đánh giá cán bộ:

Thứ nhất: Trong công tác đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số, về cơ bản

đảm bảo khách quan, trung thực và nắm vững quan điểm của Đảng về đánh

giá cán bộ. Đó là, các cấp ủy Đảng trên cơ sở tổng hợp nhiều thông tin để

phân tích, chọn lọc đánh giá của cán bộ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở,

tổ chức cho nhân dân kiểm tra, giám sát các hoạt động cán bộ, từ đó, theo

định kỳ 6 tháng hoặc hàng năm, Đảng bộ lấy ý kiến nơi cư trú đối với bản

thân và gia đình cán bộ. Kết luận về đánh giá cán bộ là do tập thể cấp ủy cơ

sở và kết luận theo đa số.

Thứ hai, kết quả đánh giá, nhận xét cán bộ của Đảng bộ tỉnh được tổng

hợp từ nhiều nguồn, nhiều tổ chức và cá nhân (người có trách nhiệm) tham

gia nhận xét đánh giá, cán bộ dân tộc thiểu số. Việc đánh gí cán bộ theo 3

Page 116: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

111

mức: Hoàn thành xuất sắc chức trách, nhiệm vụ; hoàn thành chức trách,

nhiệm vụ và chưa hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Các mức trên đều được tổ

chức bằng hình thức bỏ phiếu kín.

Thứ ba, Đảng bộ tỉnh khi đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số đã đặt họ

trong môi trường, điều kiện cụ thể; trong mối quan hệ của đường lối,

chính sách của Đảng và cơ chế quản lý để xem xét quá trình phát triển

toàn diện của cán bộ.

Về công tác quy hoạch

Đảng bộ tỉnh đã quy hoạch, tạo nguồn dồi dào để xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là

người dân tộc thiểu số một cách lâu dài và có tính định hướng đặc biệt là

đối với cán bộ dân tộc thiểu số trẻ, có triển vọng xuất hiện trong hoạt động

thực tiễn. Tạo môi trường bình đẳng về điều kiện và cơ hội để đông đảo

cán bộ dân tộc thiểu số rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành là phương

châm chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh. Từ đó, làm căn cứ để đẩy mạnh đào tạo,

đào tạo lại, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ

thống chính trị của tỉnh.

Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu

số, về cơ bản, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt sâu sắc những quan điểm sau:

Thứ nhất: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên

trong hệ thống chính trị của tỉnh.

Thứ hai: Đảng lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tôn

trọng pháp luật Nhà nước và điều lệ của các tổ chức quần chúng.

Thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số xuất phát từ yêu cầu,

nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh trong từng giai đoạn.

Page 117: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

112

Thứ tư: Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số với xây dựng tổ

chức và đổi mới chính sách.

Thứ năm: Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của

quần chúng, các phong trào kinh tế - xã hội của từng vùng để tuyển chọn, đào

tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.

Cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch, đào tạo cơ bản, đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh; chú trọng đưa vào quy hoạch cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán

bộ trẻ và có trình độ; đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số

có trọng tâm, trọng điểm cho các lĩnh vực công tác.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Đảng bộ Tuyên Quang xác định đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với việc

sử dụng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Chú ý đào tạo, bồi dưỡng toàn

diện cả về chuyên môn và trình độ lý luận chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã. Bên cạnh đó, công tác đào tạo

cán bộ lãnh đạo, quản lý dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị

địa phương cũng được Đảng bộ tỉnh quan tâm.

Kết hợp đào tạo với thực tập tại các cơ quan, đơn vị; đào tạo theo từng

giai đoạn, từng đối tượng như: tạo nguồn cán bộ, cán bộ dân tộc thiểu số cấp

cơ sở; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện, thị xã và đào tạo

cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh. Tuỳ từng đối tượng, Đảng bộ tỉnh đã lập quy

trình đào tạo, bồi dưỡng phát triển phù hợp.

Vì vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số khi được đào tạo đã có nhận

thức và tiếp cận tốt, chủ động với công việc được giao, có khả năng hoàn

thành công việc được đảm nhiệm; có tư tưởng và lập trường vững vàng, có

nhận thức đúng đắn về các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của

Nhà nước; có tinh thần cởi mở, năng động sáng tạo, biết vận dụng những kiến

thức được học vào thực tiễn công tác, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình

Page 118: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

113

hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay. Phần lớn đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số sau khi được đào tạo đã phát huy được tác dụng trong công tác.

Về công tác bố trí và sử dụng cán bộ

Đảng bộ tỉnh xác định, phát hiện, thu hút và sử dụng cán bộ lãnh đạo,

quản lý là người dân tộc thiểu số phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp. Ngoài ra, Đảng bộ

tỉnh Tuyên Quang còn tạo cơ chế động viên sự tham gia của các tổ chức chính

trị, xã hội, các cơ sở đào tạo, của các cấp, các ngành sử dụng cán bộ người

dân tộc thiểu số.

Xác định đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là những cán bộ có tính đặc

thù riêng cho từng chuyên môn, từng dân tộc nên Đảng bộ tỉnh đã có những

cơ chế, chính sách và phương thức đào tạo, sử dụng đặc thù, áp dụng riêng

cho bộ phận nhân lực này. Vì vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số của tỉnh đã đạt hiệu quả thiết thực.

Đảng bộ tỉnh kết hợp các phương pháp truyền thống và đã được kiểm

nghiệm trong thực tiễn, lấy thực tiễn làm môi trường cọ xát, thử thách đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người

dân tộc thiểu số. Đồng thời, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số có đủ phẩm chất, năng lực công tác, bản lĩnh chính trị, am hiểu phong tục

tập quán địa phương, số lượng và cơ cấu hợp lý, đảm bảo cho sự chuyển tiếp,

vững vàng, liên tục giữa các thế hệ cán bộ dân tộc thiểu số nhằm thực hiện

thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đảm bảo nguồn cán bộ cho

mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng.

Về đổi mới hệ thống chính sách

Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ

tỉnh đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi

dưỡng những cán bộ dân tộc thiểu số tốt nghiệp Đại học chính quy, những cán

bộ có đủ năng lực, phẩm chất để trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý

Page 119: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

114

trong hệ thống chính trị của tỉnh. Lập kế hoạch kinh phí để cử những cán bộ

này đi đào tạo để tạo nguồn cán bộ cho các cơ quan, tổ chức.

Đảng bộ tỉnh đã xây dựng cơ chế thu hút sử dụng nhân lực trình độ cao

các cấp ủy đảng, lãnh đạo các cơ quan đơn vị xác định, bổ sung nhiệm vụ cho

bộ phận tổ chức hành chính việc tham mưu, thực hiện xây dựng kế hoạch thu

hút và sử dụng nhân lực có trình độ cao, đặc biệt là đối với nhân lực là cán bộ

dân tộc thiểu số.

Xác định rõ vị trí cần tuyển cán bộ có trình độ cao trong từng cơ

quan đơn vị; đối tượng có trình độ từ thạc sĩ đến tiến sĩ, sử dụng vào những

vị trí hợp lý. Đảng bộ tỉnh đã tập trung thu hút cán bộ có trình độ tiến sĩ

vào các trường chuyên nghiệp của tỉnh để tạo ra được một đội ngũ cán bộ

trí thức là người dân tộc thiểu số phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng,

xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng của

tỉnh mang tính lâu dài. Các cơ quan tham mưu về tổ chức, tài chính phối

hợp xây dựng chính sách đãi ngộ, hỗ trợ nguồn nhân lực cao theo từng giai

đoạn cụ thể.

Trong 20 năm (1991 - 2010), Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện tốt

chính sách sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, đảm bảo lợi ích vật chất, để động

viên tinh thần đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Việc bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc

thiểu số, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp

với sở trường. Có chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi cán bộ, trọng dụng người

có đức, có tài, tránh tư tưởng kỳ thị, hẹp hòi, bè phái. Phát hiện, lựa chọn những

người có đủ tiêu chuẩn trong các tầng lớp nhân dân, trong từng dân tộc, các

thành phần kinh tế tham gia các tổ chức chính trị, xã hội; tạo điều kiện để họ

tham gia vào các cương vị cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh có chế độ quản lý

chặt chẽ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tỉnh ủy, cấp ủy Đảng các cấp, thủ

trưởng các cơ quan cơ bản nắm chắc từng cán bộ về đức, tài, tình trạng sức khỏe,

trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sử dụng, đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng những

Page 120: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

115

cán bộ có thành tích, đồng thời, xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán

bộ vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật nhà nước.

Hàng năm, các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã thường xuyên đổi

mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ dân tộc thiểu số ở tất cả các

khâu: lựa chọn, quản lý, sử dụng và đãi ngộ, vừa động viên thúc đẩy kích

thích, vừa có yếu tố kỹ thuật nghiêm minh răn đe, ngăn chặn, vừa gắn quyền

lợi trách nhiệm của cán bộ với công việc, vừa thể hiện mục đích chính trị và ý

nghĩa nhân đạo cao cả của xã hội. Như vậy, chính sách cán bộ vừa là công cụ

điều tiết mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng cán bộ nói chung, cán bộ dân

tộc thiểu số nói riêng.

Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã tạo điều

kiện về cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh tổ chức mở lớp

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức theo kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh

phê duyệt. Các cơ sở đào tạo của tỉnh đã chủ động liên kết với các học viên,

các trường đại học để mở các lớp đào tạo; chủ động cơ sở vật chất, xây dựng

kế hoạch và cử cán bộ tham gia chương trình giảng dạy theo từng chuyên đề

được giao; quản lý tốt học viên theo quy định.

Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tăng dần cả về số lượng và

từng bước nâng cao về chất lượng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị vững

vàng, giữ vững phẩm chất cách mạng, luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới

của Đảng; là tác nhân quan trọng góp phần lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực

hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng

Đảng và hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh.

Đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã.

Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, sự thống nhất dân chủ của

Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng ủy xã và sự tạo điều kiện của cấp ủy

Page 121: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

116

cấp trên, sự phối hợp chặt chẽ của thường trực Đảng ủy với các phòng, ban,

ngành của huyện đã tạo điều kiện cho cán bộ dân tộc thiểu số quy hoạch

của xã theo học các lớp chuyên môn đại học, lý luận chính trị trung cấp tại

Trường chính trị của tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị của huyện. Kết

quả thực hiện chủ trương bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc

thiểu số được quy hoạch đi học về được cấp ủy giới thiệu bầu bổ sung giữ

các chức vụ chủ chốt tại địa phương luôn tổ chức, lãnh đạo tốt nhiệm vụ

được giao.

Tỉnh đã hỗ trợ cho cán bộ, công chức cấp xã được cử đi đào tạo, bồi

dưỡng 50% mức học phí nộp về cơ sở đào tạo, đồng thời tạo điều kiện về nơi

ăn, ở đối với học viên ở xa.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, sau 20 năm xây dựng, đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang đã có sự thay đổi rõ nét cả về số lượng và

chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn. Cơ cấu đồng đều

hơn về độ tuổi, giới tính, về vùng miền và nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ

nữ là người dân tộc thiểu số được qui hoạch, đào tạo và sử dụng có tính hợp lý.

Các loại hình đào tạo phù hợp, trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước và

chuyên môn của đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên.

4.1.1.3. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã lãnh đạo xây dựng được

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đông đảo, cơ cấu ngày càng hợp lý, chất

lượng được nâng lên một bước đáng kể, cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ chính trị của tỉnh

Đến năm 2010, toàn tỉnh có 07 huyện, thành phố với 141 xã, phường,

thị trấn. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang có 11 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, 486 tổ

chức cơ sở Đảng (243 Đảng bộ, 243 chi bộ), 41.486 Đảng viên.

Toàn tỉnh có 19.594 cán bộ công chức, viên chức, trong đó: Cán bộ,

công chức khối Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện

Page 122: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

117

2.504 người, chiếm 12,78%; cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự

nghiệp 14.493 người, chiếm 73,97%; cán bộ, công chức cấp xã 2.59

người, chiếm 13,25%.

Về trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 05 người, chiếm 0,03%; Thạc sỹ

328 người, chiếm 1,67%; đại học, cao đẳng 10.70 người, chiếm

54,97%; trung cấp 7.569 người, chiếm 38,62%; còn lại có trình độ

khác 922 người, chiếm 4,71%.

Về trình độ lý luận chính trị: Tổng số cán bộ đảng viên 10.185

đồng chí; có trình độ cao cấp, cử nhân 718 đồng chí,chiếm

7,04%; trung cấp 4.393 đồng chí, chiếm 43,13%; sơ cấp và chưa

qua đào tạo 5.074 đồng chí, chiếm 4,71%.

Về cơ cấu cán bộ: Cán bộ trẻ (từ 40 tuổi trở xuống) 9.571 người,

chiếm 48,84%; cán bộ là nữ 11.519 người, chiếm 58,78%; cán bộ

dân tộc thiểu số 6.027 người, chiếm 30,76% [10, tr.1-2].

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang

Do thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán

bộ người dân tộc thiểu số nên bước đầu đã chuẩn bị được đội ngũ kế cận, bảo

đảm tính kế thừa, phát triển, khắc phục được tình trạng bị động, hẫng hụt trong

công tác cán bộ; phục vụ kịp thời cho công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các

cấp (nhiệm kỳ 2010 - 2015) và nhân sự đại biểu HĐND các cấp (nhiệm kỳ

2011 - 2016); tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số tham gia các cấp ủy nhiệm kỳ 2010

- 2015 và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 đạt và vượt yêu cầu

của Trung ương.

Về cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV (nhiệm kỳ 2010 - 2015) có 55

đồng chí; trong đó: Cán bộ trẻ 10 đồng chí, chiếm 18,18%; cán bộ nữ 16 đồng

chí, chiếm 29,09%; cán bộ dân tộc thiểu số 22 đồng chí, chiếm 40%.

Page 123: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

118

Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 15 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 01 đồng

chí, chiếm 6,67%; cán bộ nữ 02 đồng chí, chiếm 13,33%; cán bộ dân tộc thiểu

số 08 đồng chí, chiếm 46,6%.

Cán bộ chủ chốt (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,

UBND tỉnh) có 07 đồng chí, trong đó: Cán bộ nữ 01 đồng chí, chiếm 14,29%;

cán bộ dân tộc thiểu số 03 đồng chí, chiếm 42,85%.

Trưởng, phó sở, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tỉnh có 155

đồng chí ,trong đó: Cán bộ trẻ có 17 đồng chí, chiếm 10,96%; cán bộ nữ 30

đồng chí, chiếm 19,35%; cán bộ dân tộc thiểu số 32 đồng chí, chiếm 20,64%.

Ban Thường vụ Huyện ủy, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy có

69 đồng chí, trong đó: Cán bộ trẻ 8 đồng chí, chiếm 11,59%; cán bộ nữ 13

đồng chí, chiếm 18,84%; cán bộ dân tộc thiểu số 19 đồng chí, chiếm 27,53%.

Cán bộ chủ chốt (Bí thư, Phó Bí thư, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND,

UBND cấp huyện) có 64 đồng chí; trong đó: Cán bộ trẻ 6 đồng chí, chiếm

9,38%; cán bộ nữ 05 đồng chí, chiếm 7,81%; cán bộ dân tộc thiểu số 31 đồng

chí, chiếm 48,43%.

Trình độ đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Trình độ đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy,

ban thường vụ cấp ủy, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện; trưởng, phó sở, ban,

ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tỉnh như sau:

Cán bộ trẻ 42/366 đồng chí; trong đó: Trình độ chuyên môn trên đại

học 09 đồng chí, chiếm 21,42%; đại học 33 đồng chí, chiếm

80,58%; trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 34 đồng chí,

chiếm 80,95%, trung cấp 08 đồng chí, chiếm 19,05%.

Cán bộ nữ 67/366 đồng chí; trong đó: Trình độ chuyên môn trên đại

học 11 đồng chí, chiếm 16,41%; đại học 56 đồng chí, chiếm

83,59%; trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 65 đồng chí,

chiếm 97,01%, trung cấp 02 đồng chí, chiếm 2,91%.

Page 124: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

119

Cán bộ người dân tộc thiểu số 117/366 đồng chí. Trong đó, trình độ

chuyên môn trên đại học 14 đồng chí, chiếm 11,96%; đại học 102

đồng chí, chiếm 87,1%; trung cấp 01 đồng chí, chiếm 0,85%; trình

độ lý luận chính trị cao cấp trở lên 114 đồng chí, chiếm 97,43%,

trung cấp lý luận chính trị 03 đồng chí, chiếm 2,57% [10, tr.2].

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh

Mặc dù tỉ lệ chênh lệch giữa cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh với tỷ lệ

người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn còn, nhưng về cơ bản, Đảng bộ

tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp

tỉnh đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tỷ lệ cán bộ dân

tộc thiểu số cấp tỉnh chiếm 25% trong khi tỷ lệ dân tộc thiểu số toàn tỉnh là

51,8% chênh lệch - 26,8%.

Về trình độ lý luận chính trị, 100% số thành viên ủy ban nhân dân cấp

tỉnh đã có trình độ cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị. Tuyên

Quang cũng là tỉnh đạt tỷ lệ cán bộ có trình độ sau Đại học gần tương đương

với mức trung bình của cả nước 12,5%/14,4%.

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường vụ

Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền Đoàn thể tỉnh, (tính đến

thời điểm 31/12/2010) [Phụ lục 7].

Tổng số: 233 đồng chí, trong đó dân tộc thiểu số 67 đồng chí cụ thể:

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy 8 đồng chí, đạt 44,66%; Ủy viên Ban

Chấp hành Tỉnh ủy 22 đồng chí đạt 40%; Bí thư tỉnh ủy 1 đồng chí; Phó Bí

thư 1 đồng chí.

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy 6 đồng chí đạt 31,57%: cấp

trưởng 4 đồng chí, cấp phó 2 đồng chí.

Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh 6 đồng chí, chiếm

31,57% trong đó: Cấp trưởng 3 đồng chí, cấp Phó 3 đồng chí.

Page 125: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

120

Chủ tịch HĐND tỉnh 1 đồng chí chiếm 100%; Chủ tịch, Phó Chủ tịch

UBND tỉnh 01 đồng chí chiếm 50%.

Lãnh đạo Sở, ban ngành, tỉnh và tương đương 20 đồng chí chiếm

17,09%: Cấp trưởng 9 đồng chí; cấp phó 11 đồng chí.

Về lý luận chính trị gồm có:

Cao cấp : 64 đồng chí

Trung cấp : 6 đồng chí

Đã học quản lý Nhà nước gồm có: 42 đồng chí

Trình độ chuyên môn gồm có:

Thạc sĩ : 12 đồng chí

Đại học, cao đẳng : 54 đồng chí

Trung cấp : 2 đồng chí

Trình độ ngoại ngữ:

Bằng C trở lên : 12 đồng chí

Bằng A, B : 34 đồng chí.

Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường

vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh [Phụ lục 8].

Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh: 04 đồng chí đạt 40%.

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy: 01 đồng chí đạt 25%.

Lãnh đạo Sở, ban, ngành Tỉnh và tương đương: 01 đồng chí đạt 10%.

Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường

vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh [Phụ lục 9].

Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh: 06 đồng chí đạt 37,5%.

Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy: 01 đồng chí đạt 50%.

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy: 02 đồng chí đạt 28,57%.

Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh: 03 đồng chí đạt 60%.

Lãnh đạo Sở, ban, ngành Tỉnh và tương đương: 02 đồng chí đạt 15,38%.

Page 126: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

121

Điều này chứng tỏ, Đảng bộ Tuyên Quang rất quan tâm việc đào tạo, sử

dụng cán bộ dân tộc thiểu số có trình độ cao để đảm đương nhiệm vụ, ở các vị

trí chủ chốt trong hệ thống chính trị của tỉnh. Phần lớn các đồng chí cán bộ

dân tộc thiểu số có trình độ từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ đều được bố trí vào các

cương vị xứng đáng trong hệ thống chính trị. Nguyên tắc bình đẳng dân tộc đã

được vận dụng vào công tác cán bộ một cách nhuần nhuyễn, biện chứng,

khẳng định sự quan tâm của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số hiện nay. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh phát triển

đồng đều về chất lượng, có số lượng khá đông đảo, đã thực sự đảm đương tốt

các trọng trách trên cương vị công tác của mình.

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện

Cơ cấu dân tộc trong đội ngũ cán bộ cấp huyện ở miền núi phía Bắc

gồm 2 bộ phận cấu thành: bộ phận cán bộ dân tộc thiểu số và bộ phận cán

bộ người Kinh. Sự hình thành 2 bộ phận cán bộ này ở miền núi phía Bắc

"một mặt phản ánh thực trạng đội ngũ cán bộ ở các địa phương; mặt khác

cũng thể hiện rõ chính sách dân tộc và chính sách cán bộ của Đảng và Nhà

nước ta" [117, tr.94]. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và tương trợ trong

chính sách dân tộc được phản ánh rõ nét qua cơ cấu của đội ngũ cán bộ.

Trong những năm qua, hệ thống chính trị cấp huyện của các tỉnh miền núi

phía Bắc hoạt động khá đều, góp phần thực hiện có hiệu quả các Nghị

quyết của Đảng, các chương trình mục tiêu quốc gia, mang lại cuộc sống

mới cho đồng bào các dân tộc thiểu số, song đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số ở cấp huyện vẫn còn thiếu hụt khá trầm trọng ở hầu hết các tỉnh miền

núi phía Bắc. "Trong 15 tỉnh, chỉ duy nhất có tỉnh Tuyên Quang đã xây

dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện đạt tỉ lệ +8,2% so với

tỷ lệ dân tộc trong cơ cấu dân cư của tỉnh" [117, tr.94].

Về cơ cấu độ tuổi: Độ tuổi của đội ngũ cán bộ trong ủy ban nhân dân

cấp huyện đại bộ phận các thành viên đang ở độ tuổi 35 - 50.

Page 127: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

122

Về trình độ học vấn: Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân cấp huyện có

trình độ học vấn phổ thông trung học đạt 100%.

Về chất lượng chuyên môn: Nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số trong hệ thống chính trị cấp huyện cũng được nâng lên rõ nét,

100% các huyện có thành viên ủy ban có trình độ chuyên môn từ trung

cấp trở lên.

Thành tựu về nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp huyện là kết quả tất yếu của chính sách cử

tuyển cao đẳng, đại học từ 1990 đến nay. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác

nhau về chất lượng đào tạo của hệ cử tuyển đại học và cao đẳng, song

chính sự khôi phục và phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, kết

hợp với thực hiện chế độ cử tuyển con em các dân tộc thiểu số vào các

trường cao đẳng, đại học đã cải thiện nhanh chóng tình trạng thiếu hụt cán

bộ dân tộc thiểu số.

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường vụ

tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện [Phụ lục 10].

Tổng số 133 đồng chí, trong đó dân tộc thiểu số 50 đồng chí

Cụ thể:

Ủy viên Ban Thường vụ huyện, Thị ủy, Đảng ủy trực thuộc 19 đồng chí

đạt 27,53%.

Bí thư, Phó Bí thư huyện, Thị ủy, Đảng ủy trực thuộc 13 đồng chí

đạt 41,93%.

Chủ tịch HĐND huyện, Thị xã 5 đồng chí đạt 50%.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, Thị xã 13 đồng chí đạt 56,52%

Về lý luận chính trị:

Cao cấp: 50 đồng chí

Đã học quản lý Nhà nước: 32 đồng chí.

Page 128: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

123

Về trình độ chuyên môn:

Thạc sĩ: 02 đồng chí

Đại học, cao đẳng: 48 đồng chí

Về trình độ Ngoại ngữ:

Bằng C trở lên: 3 đồng chí

Bằng A, B: 23 đồng chí.

Đội ngũ cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi) dân tộc thiểu số đương chức thuộc

diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp

huyện [Phụ lục 11].

Ủy viên BTV Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 01 đồng chí đạt 12,5%

Bí thư huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 01 đồng chí đạt 50%.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 33,23%.

Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số đương chức thuộc diện Ban Thường

vụ tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền cấp huyện [Phụ lục 12].

Ủy viên BTV Huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 04 đồng chí đạt 30,76%.

Bí thư, Phó Bí thư huyện, Thành ủy, Đảng ủy trực thuộc 02 đồng chí

đạt 100%.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 100%.

Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND huyện, thành phố 01 đồng chí đạt 50%.

Về đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã:

Sau 20 năm củng cố và xây dựng, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong

hệ thống chính trị cấp xã đã phát triển khá về số lượng và cơ cấu thành phần

dân tộc. Hầu hết các dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại các vùng của

tỉnh đều có đại biểu của mình tham gia vào hệ thống chính trị cấp xã của tỉnh.

Đội ngũ cán bộ cấp xã, phường có từ 15 đến 23 người tùy theo điều kiện của

từng địa phương. Nhiều nơi chỉ có từ 12 đến 15 người. Tỷ lệ cán bộ dân tộc

thiểu số tính đến năm 2010 chiếm 51%. Điều này chứng tỏ, nhờ sự nỗ lực của

Page 129: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

124

nhân dân các dân tộc, sự quan tâm đầu tư của Đảng bộ, của Ủy ban nhân dân

các cấp, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã ở Tuyên Quang thực sự có

bước phát triển nhanh chóng, đảm nhiệm hầu hết các chức danh trong hệ

thống chính trị cấp xã. Nếu so sánh thì tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ

thống chính trị cấp xã tương đương với tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong

dân cư. Trong khi đó, tỉnh Hà Giang tỷ lệ chênh lệch giữa cán bộ dân tộc

thiểu số trong hệ thống chính trị cấp xã với tỷ lệ dân tộc thiểu số trong dân

cư vẫn cao "Hà Giang tỉ lệ cán bộ cấp xã là người dân tộc thiểu số chiếm

80,7%" [117, tr.86] nhưng "chênh lệch là -7,2%" [117, tr.86].

Về cơ cấu độ tuổi:

Thực hiện chủ trương trẻ hóa từng bước đội ngũ cán bộ, các huyện thị,

trong tỉnh đã tiến hành tích cực và chắc chắn, cố gắng đảm bảo tiêu chuẩn,

quy định, đồng thời kết hợp tốt cơ cấu có tính kế thừa và phát triển. Tuyên

Quang là một tỉnh thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã

tương đối mạnh mẽ, khoảng 29,6%. Tỷ lệ này "phản ánh đúng thực trạng

chung về cơ cấu tuổi đời của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở miền núi phía

Bắc. Điều đó thể hiện rõ quá trình đổi mới từng bước vững chắc, có kế thừa

và phát triển của đội ngũ cán bộ tương xứng với nhiệm vụ cách mạng trong

tình hình mới" [117, tr.91].

Về trình độ học vấn:

Đội ngũ cán bộ cấp xã có trình đội học vấn phổ thông trung học đạt

81,8%. Tỉ lệ này khá cao so với nhiều tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang,

Lai Châu, Sơn La.

Do thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và

luân chuyển cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số nên tỉnh

Tuyên Quang bước đầu đã chuẩn bị được đội ngũ kế cận, đảm bảo tính kế

thừa, phát triển khắc phục tình trạng bị động, hẫng hụt trong công tác cán bộ;

Page 130: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

125

phục vụ kịp thời cho công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp (nhiệm kỳ

2010 - 2015) và nhân sự đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2011

- 2016); tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy

nhiệm kỳ 2010 - 2015 và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011

- 2016 đạt và vượt yêu cầu của Trung ương.

* Nguyên nhân ưu điểm

Đảng bộ tỉnh đã thấm nhuần quan điểm cán bộ là gốc, mọi việc thành

công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, nên đã thường xuyên quan tâm,

chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu, nguyên tắc của Đảng về

công tác cán bộ nói chung, cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng.

Các cấp ủy, chính quyền các cấp đã kịp thời ban hành và cụ thể hóa các

quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số. Trong quá trình thực

hiện, Đảng bộ tỉnh đã chủ động nghiên cứu, phát hiện và kịp thời sửa đổi, bổ

sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số cho phù hợp

với điều kiện cụ thể của từng vùng của địa phương.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số đã được Đảng bộ

thường xuyên chỉ đạo thực hiện. Nhờ vậy, trình độ cán bộ dân tộc thiểu số của

tỉnh được nâng lên cả về chuyên môn, lý luận chính trị và kinh nghiệm thực tiễn.

Tập thể cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị luôn giữ

vững nguyên tắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác xây dựng

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, Đảng

ủy xã có truyền thống đoàn kết, thống nhất tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ

trách, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo điều hành.

Có sự quan tâm của các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Chấp

hành Huyện ủy các cơ quan, ban, ngành phụ trách xã thường xuyên xuống hỗ

Page 131: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

126

trợ, giúp đỡ địa phương trong công tác quy hoạch và sử dụng cán bộ dân tộc

thiểu số tại địa phương.

4.1.2. Một số hạn chế

Một là: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị

chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác quy hoạch,

đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số; ở một số nơi chưa gắn

kết công tác quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển, điều động, bố

trí cán bộ

Hai là: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số còn nhiều

bất cập, cả ở tầm vĩ mô của Trung ương và cả trong việc thực hiện của tỉnh.

Một số lớp đào tạo chuyên môn không mở được tại tỉnh như dự kiến vì không

đủ số lượng học viên theo yêu cầu. Cán bộ công chức cấp tỉnh, cấp huyện, cấp

xã đi học các lớp đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp do tỉnh tổ chức

chiếm tỷ lệ còn thấp.

Mặc dù đi đào tạo theo các lớp học tại chức (hệ vừa học vừa làm)

nhưng trong thời gian theo học vẫn đi làm, ảnh hưởng nhất định đến lĩnh vực

công tác. Do vậy, khi được phân công công tác việc nắm bắt và giải quyết

công việc không kịp thời, cá biệt, có một số đồng chí sau khi được đào tạo

không phát huy được năng lực, không biết vận dụng những kiến thức được

học vào thực tiễn công tác.

Trên 90% các đồng chí cán bộ lãnh đạo quản lý đương chức đi đào tạo

về chuyên môn đều học hệ tại chức và 70% đào tạo lý luận chính trị học hệ tại

chức. Do vậy, có sự chi phối giữa công việc đang làm việc, việc học tập của

cán bộ nên đã ảnh hưởng tới chất lượng học tập của cán bộ.

Ba là: Việc thu hút, sử dụng cán bộ có trình độ, cán bộ dân tộc thiểu số

được đào tạo tại các cơ sở của Trung ương về địa phương công tác tiến hành

chưa hiệu quả. Mặt khác, trên địa bàn tỉnh, lại có hiện tượng chảy máu chất

Page 132: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

127

xám. Nhiều cán bộ được tỉnh cử đi đào tạo, khi tốt nghiệp không muốn về địa

phương công tác. Hơn nữa, một số chính sách sử dụng và chính sách thu hút

cán bộ của tỉnh đưa ra nhưng chưa thực hiện được, nên nhiều cán bộ khi được

đào tạo trở về không được bố trí, sắp xếp phù hợp với chuyên môn đào tạo,

không được quan tâm đúng mức, nên hiệu quả sử dụng không cao, không đáp

ứng dược yêu cầu của tình hình thực tiễn.

Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý cho cán bộ dân tộc thiểu số

cấp Sở, cấp huyện, các kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ hành chính và bồi

dưỡng theo các chức danh cấp xã còn hạn chế.

Việc đầu tư cơ sở vật chất thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và

học tập ở các cơ sở đào tạo trong tỉnh còn bất cập.

Chưa xây dựng được cơ chế thu hút cán bộ khoa học - công nghệ về

tỉnh công tác, số lượng cán bộ thu hút về tỉnh không nhiều. Nhiều ngành nghề

chưa thu hút được cán bộ có học hàm, học vị cao về tỉnh công tác, đặc biệt là

đối với những ứng viên là người dân tộc thiểu số. Việc hỗ trợ đi đào tạo trình

độ sau đại học chỉ thực hiện sau khi thi tốt nghiệp. Vì vậy, chưa động viên,

khuyến khích cán bộ công chức, viên chức, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số

đi học để nâng cao trình độ chuyên môn.

Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ tri thức của tỉnh phục vụ cho công tác đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số còn hạn chế về số lượng và chất lượng,

chưa đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị được giao.

Bốn là: Công tác luân chuyển cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc

thiểu số còn chậm. Việc đánh giá, nhận xét cán bộ người dân tộc thiểu số

trước và sau luân chuyển còn hạn chế. Một số cán bộ được luân chuyển giữ

chức vụ mới thời gian còn ngắn và chưa hợp lý, phần nào ảnh hưởng tới thực

hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị và tâm lý của cán bộ, đảng viên. Chưa

Page 133: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

128

xây dựng được chính sách cụ thể về luân chuyển để động viên, khuyến khích

đối với cán bộ người dân tộc thiểu số.

Năm là: Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số chưa đều giữa các dân tộc, chủ

yếu nằm trong 3 dân tộc trên tổng số 22 dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh

như Tày, Sán Dìu, Dao.

Mặc dù công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ,

cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số đến năm 2010 đạt được một số kết quả

đáng kể, nhưng trong quá trình thực hiện còn chậm, khép kín trong địa

phương. Có huyện chưa nhận thức được đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan

trọng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Chất lượng cơ cấu đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số có nơi, có mặt

chưa đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài, chưa ngang tầm với nhiệm

vụ trong tình hình hiện nay. Một số cán bộ thiếu chủ động, sáng tạo trong

lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ trí thức là người

dân tộc thiểu số còn mỏng, chưa có nhiều cán bộ giỏi, chất lượng, năng lực

thực hành còn hạn chế. Còn có cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức và lối sống, cá nhân chủ nghĩa, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt

Đảng, pháp luật của Nhà nước.

* Nguyên nhân của hạn chế:

Nhận thức của một số cấp ủy đảng, cán bộ về công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số chưa đầy đủ; năng lực cán bộ hạn chế, chưa

dự báo được tình hình và yêu cầu trong giai đoạn mới, còn nhiều lúng

túng, thiếu tính chủ động trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số.

Một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm

đúng mức đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, chưa có

biện pháp tích cực trong quản lý, kiểm tra, giám sát công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Page 134: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

129

Một số chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số chậm được hoàn

thiện, chưa theo kịp sự vận động của tình hình thực tiễn.

Tính dân chủ trong công tác cán bộ chưa thực sự được phát huy, một số

quy định, quy chế về công tác cán bộ dân tộc thiểu số có điểm chưa phù hợp

nhưng chưa được bổ sung, điều chỉnh kịp thời.

Nguyên nhân của những hạn chế đó là do: Đảng bộ các cấp chưa thực

sự chú trọng việc phát hiện, lựa chọn cán bộ dân tộc thiểu số có năng lực,

triển vọng phát triển và đưa vào quy hoạch hoặc cử đi đào tạo, bồi dưỡng

nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; chưa thực sự quan tâm trong

quá trình giao nhiệm vụ, rèn luyện thử thách qua thực tiễn, tích lũy kiến thức

và kinh nghiệm của cán bộ dân tộc thiểu số để cán bộ trưởng thành, tạo nguồn

cán bộ lâu dài.

Đảng bộ tỉnh chưa có chính sách cụ thể đối với công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ công chức ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào

dân tộc thiểu số và chính sách đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc

thiểu số được luân chuyển.

Việc xây dựng kế hoạch mở các lớp đào tạo ngoài việc căn cứ vào nhu

cầu do cơ quan, đơn vị đăng ký với tỉnh, còn lại phải căn cứ vào yêu cầu dịch

chuyển cơ cấu theo ngành nghề, theo cơ cấu kinh tế của tỉnh, do đó, chỉ tiêu

đào tạo, bồi dưỡng một số chuyên ngành chưa phù hợp với thực tế, bồi dưỡng

kiến thức quản lý nhà nước quá cao trong khi việc đào tạo chuyên môn đối

với công chức cấp xã nói riêng và cán bộ, công chức nói chung phải theo quy

định chung của Nhà nước. Do vậy, mà số lượng học viên không đạt để có thể

mở lớp đào tạo theo kế hoạch.

Một số Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện còn thiếu kiên quyết

trong chỉ đạo, thực hiện các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Một số xã, phường,

thị trấn chưa kiên quyết cử cán bộ, công chức thiếu trình độ so với chức

Page 135: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

130

danh đang đảm nhiệm đi học hoặc người được cử đi học; cán bộ không

muốn đi vì sợ đi học mất vị trí công tác, mất công việc đảm nhiệm sau khi

học xong.

Mặc dù tỉnh đã có chế độ thu hút, đào tạo, sử dụng nhân tài, đặc biệt là

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là người địa phương về tỉnh công tác, song số lượng người về không cao. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn hạn chế; môi trường làm việc thiếu hấp dẫn.

Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số chưa được phát triển đều trên tỉ lệ các dân

tộc thiểu số. Nguyên nhân là do tính cục bộ của dân tộc thiểu số, của những cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc thiểu số khi quy hoạch, sử dụng cán bộ luôn có tính ưu tiên cho cộng đồng dân tộc của mình.

Do tính đặc thù của các huyện trong tỉnh, có huyện có nhiều dân tộc thiểu số như Na Hang, Chiêm Hóa, trình độ dân trí từ phổ thông hạn chế nên thiếu nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đủ tiêu chuẩn để bổ nhiệm chức danh lãnh

đạo, quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, thị trấn. Chính vì vậy, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã, thị trấn, khi bố trí vào chức danh lãnh đạo còn nợ một số bằng cấp, dẫn đến việc đào tạo chủ yếu là

để trả nợ bằng cấp, hình thức đào tạo chủ yếu là học tại chức (vừa học, vừa làm) về chuyên môn, chính trị.

Nội dung đào tạo theo hình thức, nợ gì, đào tạo đó, nợ chuyên môn, đào tạo chuyên môn, nợ lý luận chính trị đi đào tạo về lý luận chính trị hoặc quản

lý nhà nước... Công tác quản lý chất lượng đào tạo của các trường cho hệ vừa học vừa làm còn lỏng lẻo, chất lượng đào tạo kém.

Chưa có trường đại học tại tỉnh và công tác cử cán bộ, dân tộc thiểu số

đi đào tạo tại các trường hàng năm của các huyện còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong huyện.

Những ưu điểm cũng như những hạn chế trên đây đã được Tỉnh ủy

Tuyên Quang tiếp thu, vận dụng cũng như rút kinh nghiệm trong quá trình

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong những giai đoạn tiếp theo.

Page 136: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

131

4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM

Trên cơ sở kết quả lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số; đồng thời, từ nguyên nhân dẫn dến những kết quả và hạn chế

trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang,

có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

4.2.1. Phải nắm vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác

cán bộ, quản lý cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức

trong hệ thống chính trị

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn

đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ,

mở rộng và phát huy dân chủ, công khai công bằng, có tình, có lý trong thực

hiện công tác cán bộ dân tộc thiểu số.

Đảng bộ tỉnh đã phát huy dân chủ trong tất cả các khâu của công tác

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Luôn lắng nghe, trao đổi, thảo

luận công khai giữa tập thể và cá nhân trong cấp ủy, ban, ngành và các tổ

chức chính trị. Những ý kiến khác nhau trong quyết định về các khâu trong

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số sẽ được bàn bạc, thống nhất và

thảo luận lại.

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã phát huy được tính chủ động, sáng

tạo, tinh thần trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể nhân dân và người đứng đầu. Hiệu quả của việc đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng bộ trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số chính là đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị trên tất cả các khâu của công tác cán bộ nhằm xây dựng

được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong toàn hệ thống, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ, tạo sự đồng thuận của đồng bào các dân tộc trong tỉnh.

Page 137: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

132

Đảng bộ tỉnh cũng không ngừng cải tiến các quy trình trong công

tác nhân sự của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội trong tỉnh. Trong thực tế, các cấp ủy Đảng đã thường

xuyên quan tâm, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và chuẩn bị tốt

vấn đề nhân sự khi giới thiệu những cán bộ dân tộc thiểu số để bầu vào

các cơ quan dân cử. Hầu hết những cán bộ dân tộc thiểu số được giới

thiệu và đề cử đều được dân tin và bầu chọn. Điều đó đã chứng minh sự

đúng đắn, khách quan và khẳng định vai trò quyết định của Đảng bộ trong

công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị cũng như sự sáng tạo của Đảng

bộ trong phương thức lãnh đạo xây dựng và quản lý, sử dụng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số.

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,

Đảng bộ luôn chủ động, tích cực và có quyết tâm cao. Vừa làm, vừa rút kinh

nghiệm, vừa sáng tạo để phù hợp với điều kiện, đặc điểm của tình hình kinh

tế, chính trị - xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, Đảng bộ cũng không ngừng

kiện toàn các cơ quan tham mưu cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Dân tộc miền núi...

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng

bộ tỉnh Tuyên Quang đã mạnh dạn đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, thể hiện sự quyết tâm

chính trị cao của toàn Đảng bộ. Đảng bộ tỉnh phải trực tiếp thực hiện vai trò

lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đồng thời, không ngừng

nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc về đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ trong công tác này, tạo sự đồng thuận

của các cấp, các ngành trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang được thể hiện

trong việc Đảng bộ đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách cán bộ

Page 138: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

133

dân tộc thiểu số; thông qua các cấp, ngành, đoàn thể thực hiện đúng quy trình,

thủ tục, pháp luật của Nhà nước, điều lệ của các đoàn thể và các tổ chức xã

hội. Phân công, phân cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số;

thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các khâu trong xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số của các ngành, các cấp.

Với tinh thần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong

lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và những kinh nghiệm tích

lũy được, chắc chắn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở

Tuyên Quang sẽ tiếp tục có những bước chuyển biến mới, góp phần xây dựng

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4.2.2. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể,

các cơ quan đơn vị nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của công

tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Trong toàn bộ quy trình của công tác cán bộ, từ công tác đánh giá,

quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ đến công tác luân

chuyển và thực hiện chính sách cán bộ dân tộc thiểu số, nếu có nhận thức

đúng thì sẽ có cơ sở tổ chức thực hiện đúng, sát hợp với tình hình thực tế,

phát huy được vai trò của các đơn vị, tổ chức, lực lượng trong quá trình

thực hiện. Nhờ có nhận thức đầy đủ về việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số và vai trò của đội ngũ này, nên sau khi tách tỉnh (năm 1991),

Đảng bộ, chính quyền tỉnh Tuyên Quang một mặt hỗ trợ khó khăn cho đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số luân chuyển từ nơi khác đến, mặt khác, tập

trung nghiên cứu, xây dựng đề án, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số. Nhờ vậy, tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng được một đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số tương đối ổn định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính

trị của tỉnh nói riêng và nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.

Page 139: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

134

Thành tựu của gần 20 năm (1991 - 2010), xây dựng đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số là kết quả trực tiếp của quá trình không ngừng đổi mới

tư duy trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Tuy nhiên,

vẫn còn tình trạng thiếu hụt cán bộ dân tộc thiểu số trong cơ cấu thành viên

Ủy ban nhân dân các cấp. Thực chất đây là biểu hiện về nhận thức chưa đầy

đủ của cán bộ lãnh đạo cấp ủy và chính quyền địa phương đối với công tác

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Thực tế đó đang đặt ra vấn đề phải

tiếp tục đổi mới nhận thức đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số. Để thực hiện hiệu quả công tác này, cần quán triệt sâu sắc các quan

điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số trong toàn bộ hệ thống chính trị của tỉnh. Từ đó, làm chuyển biến

nhận thức của đội ngũ cán bộ từ cấp tỉnh đến cơ sở, trước hết là những cán

bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt của từng cấp, từng ngành nhằm tạo ra sự đồng

thuận xã hội, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số; từng bước nâng cao vai trò phối hợp giữa các cơ quan trong hệ

thống chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể cùng cấp

trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đặc biệt, trong quá

trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải có mối liên hệ và sự

thống nhất giữa các cơ quan ban ngành như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội

vụ, Ban Dân tộc, Ban Tôn giáo và các cơ quan, ban ngành, Trường Chính trị

tỉnh, Trường trung học phổ thông dân tộc nội trú.

4.2.3. Hệ thống chính trị trong toàn tỉnh phải có sự quyết tâm cao

trong việc xây dựng chủ trương, định hướng chỉ đạo, điều hành, quản lý,

phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng các lực lượng tiến hành công tác xây dựng

đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số

Tỉnh Tuyên Quang ngay sau khi tách tỉnh đã chủ trương: Thành lập

Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tỉnh ngày 28/4/1992, giao nhiệm vụ cho

trường đào tạo bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về lý luận chính trị, xã hội

Page 140: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

135

cho đội ngũ cán bộ chủ chốt xã phường thị trấn. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các

ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở. Trong đó, chú ý đến cán bộ trẻ, cán bộ

nữ, cán bộ dân tộc ít người. Từ khi được giao nhiệm vụ, trường Chính trị tỉnh

Tuyên Quang dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, đã liên kết với nhiều trường đại học trong nước và các ban,

ngành, đoàn thể trong tỉnh luôn hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho

cán bộ nói chung và cán bộ dân tộc thiểu số nói riêng đạt chuẩn trong hệ

thống chính trị của tỉnh.

Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần điều chỉnh, sửa đổi một số vấn đề

bất cập trong cơ chế, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Đó là: Sự mất cân đối giữa số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số trong quá trình xây dựng; sự bất cập trong quy hoạch tạo

nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở hệ thống chính trị cấp huyện, xã

với các ban ngành sở trong hệ thống chính trị cấp tỉnh; sự bất cập giữa quy

hoạch cán bộ với quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính

trị của tỉnh; sự bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ưu tiên, cử

tuyển, ưu tiên tuyển sinh ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh

Tuyên Quang nói riêng.

Những bất cập trên đây đã gây nên những trở ngại trong công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, đặt ra yêu cầu

khách quan là phải thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực

tiễn, kịp thời phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời điều chỉnh chính

sách nhằm khắc phục những bất cập đó.

4.2.4. Phải thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các khâu công tác cán

bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Chất lượng của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số không chỉ phụ thuộc

vào một khâu của công tác cán bộ mà chịu ảnh hưởng bởi tất cả các khâu, từ

đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán

Page 141: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

136

bộ. Nếu công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số thực sự có hiệu quả,

hiệu lực thì việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ theo quy hoạch sẽ

tạo điều kiện cho cán bộ dân tộc thiểu số có cơ hội phấn đấu vươn lên.

Trong đánh giá cán bộ, Đảng bộ tỉnh đã nâng cao ý thức và kiến thức đối với những người tham gia đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số. Người có thẩm quyền đánh giá phải có hiểu biết khá sâu sắc công việc, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của người mà mình được đánh giá và những thông tin đầy đủ, chân thực về bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình cán

bộ dân tộc thiểu số đó. Mặc dù có những chính sách ưu tiên đối với đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số nhưng khi đánh giá cán bộ cũng không nằm ngoài các tiêu chí đánh

giá của công tác cán bộ nói chung. Phẩm chất và năng lực của người cán bộ dân tộc thiểu số phải được khẳng định trong suốt quá trình công tác, trong mối quan hệ với môi trường, hoàn cảnh, điều kiện khách quan, chủ quan

từng thời kỳ và các chức vụ đã đảm nhiệm của người cán bộ đó. Đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số cũng theo đúng nội dung: Công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm. Đánh giá cán bộ dân tộc thiểu số cũng

theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm pháp lý của cấp có thẩm quyền về đánh giá cán bộ.

Trong quy hoạch cán bộ, Đảng bộ tỉnh đã quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể và đồng bào các dân tộc thiểu số về vai trò của công tác quy hoạch cán bộ. Nhận thức đúng vai trò của công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số để thực hiện

nghiêm túc, đúng đắn các quy định của cấp trên về công tác quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số. Khi tạo được nhận thức đúng đắn, sự đồng thuận trong mỗi cấp ủy, ban, ngành, các đoàn thể thì công tác quy hoạch mới thực sự

được chú trọng với quyết tâm cao và những giải pháp mạnh, có tính đột phá để khắc phục yếu kém.

Page 142: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

137

Phải đảm bảo tính khoa học, khả thi trong công tác quy hoạch cán bộ

dân tộc thiểu số. Để bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm

vụ trước mắt và lâu dài, mỗi chức danh cán bộ được quy hoạch phải đáp ứng

những điều kiện và tiêu chí nhất định mà ngay lúc tham dự quy hoạch họ

chưa có được. Quy hoạch đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các cấp bao gồm

cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn. Đặc biệt, vấn đề đào tạo,

bồi dưỡng, rèn luyện và sự quan tâm xem xét để đề bạt cán bộ sau quy hoạch

là những nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả

của công tác quy hoạch.

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sát đúng với tình

hình thực tế từ số lượng, cơ cấu, độ tuổi, giới tính và thâm niên công tác phù

hợp với thực trạng, năng lực, cơ sở đào tạo.

Đảm bảo tính khoa học trong quy hoạch công tác cán bộ dân tộc thiểu

số sẽ thực sự tạo nguồn cho mỗi chức danh, thúc đẩy sự vươn lên của mỗi

cán bộ dân tộc thiểu số cho dù được hay chưa được quy hoạch, đảm bảo sự

đoàn kết, công bằng. Đồng thời, chống tư tưởng cơ hội chạy theo quy hoạch

hoặc cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.

Quy hoạch được thực hiện đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ.

Đảng bộ tỉnh thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các cấp ủy, ban, ngành, đoàn

thể nhằm thực hiện tốt quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu số, đưa công tác này

đi vào nền nếp.

Trong lãnh đạo công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu

số, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang xác định nâng cao chất lượng đào tạo và

bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch là giải pháp quan trọng trong thực hiện

chiến lược cán bộ nói chung. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số cần tuân thủ đúng các bước trong quá trình

thực hiện. Trong tổ chức thực hiện, cần tăng cường kiểm tra, đánh giá, rút

kinh nghiệm về kế hoạch và quy trình mở các lớp, đặc biệt là quản lý lớp

Page 143: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

138

học, tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả, theo dõi sau khóa học. Đồng thời,

phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận quản lý đào tạo, bồi dưỡng của Ban Tổ

chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ với Trường Chính trị, đơn vị tổ chức bồi dưỡng

cán bộ.

Quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đề cao tính chủ động,

tích cực, tự bồi dưỡng, rèn luyện của cán bộ. Thực hiện thường xuyên,

nghiêm túc việc đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc đánh

giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cần thực hiện nghiêm túc, học viên được đóng

góp ý kiến về tổ chức lớp học, nội dung chương trình, về chất lượng giảng

dạy, về cơ sở vật chất và phục vụ.

Tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, cử cán bộ đi học và cơ sở đào

tạo, với Ban Tổ chức các cấp; theo dõi chất lượng sau khóa học để khắc phục

kịp thời những hạn chế, kiên quyết không bố trí, đề bạt cán bộ không hoàn

thành nhiệm vụ học tập. Phát huy tính chủ động, tích cực, tự bồi dưỡng, rèn

luyện của cán bộ.

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng

bộ tỉnh chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên của các

trường đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị đóng trên địa bàn của

tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:

Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho

đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung

phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng

cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình. Thực hiện quan điểm đó,

để nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận liên hệ với thực tiễn, Tỉnh ủy

Tuyên Quang đã phân công các đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy

khóa XIV tham gia giảng dạy tại một số chuyên đề cho các lớp chuyên

cấp lý luận chính trị tại trường chính trị tỉnh theo Thông báo số 115-

Page 144: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

139

TB/TG, ngày 30/03/2006 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Giám hiệu

nhà trường chỉ đạo các khoa chuyên môn mời các đồng chí lãnh đạo Sở,

ban, ngành trực tiếp tham gia giảng dạy đối với các lớp Trung cấp lý luận

chính trị, bồi dưỡng chuyên viên" [115, tr.112-113].

Tỉnh Tuyên Quang cũng đã duy trì hệ thống các trường THPT dân tộc

nội trú của tỉnh để tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số lâu dài cho địa phương.

Coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngay từ trong trường phổ

thông. Có chính sách quản lý, hỗ trợ, giúp đỡ tạo điều kiện cho con em các

dân tộc thiểu số học tập tại các trường cao đẳng, đại học. Đổi mới, nâng cao

chất lượng công tác quản lý, nuôi dạy đối với các trường phổ thông dân tộc

nội trú. Không ngừng chăm lo, xây dựng đào tạo đội ngũ trí thức trẻ người

dân tộc thiểu số.

Trong công tác luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang luôn quan tâm đến công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận

thức tư tưởng đối với công tác luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số của các

cấp ủy đảng, nhất là các cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ sở nơi đi, nơi

đến và cán bộ dân tộc thiểu số diện luân chuyển về chủ trương luân chuyển

cán bộ của Đảng.

Đảng bộ giao cho các cấp ủy đảng, ban, ngành, đoàn thể xây dựng kế

hoạch cụ thể luân chuyển theo đúng quy định và hướng dẫn của Trung ương.

Bên cạnh đó, có những chính sách phù hợp với hoàn cảnh của địa phương, đối

tượng cán bộ luân chuyển để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác luân chuyển

cán bộ dân tộc thiểu số đạt hiệu quả. Đảng bộ tỉnh cũng thường xuyên tăng

cường kiểm tra, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, cơ quan, địa phương

thực hiện tốt hoặc không thực hiện nghiêm quyết định của cấp ủy, làm ảnh

hưởng tới quy trình luân chuyển cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính

trị của tỉnh.

Page 145: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

140

Trong công tác bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số, Đảng bộ tỉnh

đã mạnh dạn giao nhiệm vụ cho cán bộ người dân tộc thiểu số; thường xuyên

giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và nhận xét, đánh giá đúng để đội ngũ cán bộ

người dân tộc thiểu số trưởng thành về mọi mặt.

Trong công tác nhân sự, phải giữ vững nguyên tắc, nhất quán về

quan điểm giữa công tác quy hoạch cán bộ với việc bố trí, sử dụng cán bộ

người dân tộc thiểu số; trong qui hoạch và thực hiện qui hoạch; trong đào

tạo và sử dụng cán bộ.

Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, sử dụng hiệu quả cho

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Hàng năm, cần dành

một khoản ngân sách nhất định của tổng chi cho công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số, xây dựng cơ chế phân bố nguồn kinh phí hợp lý,

đáp ứng nhu cầu của công việc. Có chính sách, chế độ thỏa đáng cho đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đây là một trong những động lực, kích thích

vật chất và tinh thần đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Nhận thức được vấn

đề, tỉnh Tuyên Quang đã có những chính sách đãi ngộ kịp thời, động viên

tinh thần đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, góp phần tác động không nhỏ đến

quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Với chính sách này,

Tuyên Quang đã thu hút được nhân tài từ các nơi khác về tỉnh công tác.

Đặc biệt, là những cán bộ là người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang đang

sống và làm việc ở nơi khác trở về tỉnh công tác đã được tỉnh mạnh dạn bổ

nhiệm vào những chức danh lãnh đạo, quản lý thích hợp.

4.2.5. Mạnh dạn bố trí cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số một

cách hợp lý, bổ sung tạo nguồn trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Bố trí cán bộ vào làm những công việc thích hợp, cần tin ở các cán bộ

trẻ. Tuổi trẻ tuy có những nhược điểm nhất định, như có trình độ văn hóa,

khoa học kỹ thuật, được đào tạo cơ bản, có sức bật, nhạy bén, xông xáo, mạnh

Page 146: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

141

dạn tiếp thu cái mới, nên được bồi dưỡng, kèm cặp tốt, chắc chắn họ sẽ hoàn

thành tốt công việc được giao.

Cử nhiều cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số tham gia các lớp cao cấp lý

luận chính trị đào tạo sau đại học để nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn,

nghiệp vụ. Thực hiện việc đưa cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số lên giữ các

chức vụ chủ chốt cấp xã như chức vụ Phó Bí thư, Phó Chủ tịch xã ... tạo điều

kiện cho các cán bộ trẻ người dân tộc thiểu số tiếp cận cơ sở, gần dân, sát dân,

bổ sung kinh nghiệm, kỹ năng làm việc, đặc biệt là có kiến thức trải nghiệm

thực tế để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý là người dân tộc thiểu số ở cấp

cao hơn trong hệ thống chính trị của tỉnh.

Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số có đủ

tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển lâu dài để bố trí vào những cương vị

chủ chốt, coi trọng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số có đức, có tài, có năng

lực thực tiễn, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh

Tuyên Quang.

Điểm sáng tạo của Tuyên Quang trong trẻ hóa đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số, quy hoạch đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trẻ trong cán bộ

trẻ. Việc thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nhiều nơi như

Yên Bái, Hà Giang được quan tâm ở hai góc độ là tuổi tác và tư duy. Còn ở

Tuyên Quang, trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được lựa chọn chính

trong đội ngũ cán bộ trẻ về tuổi tác của tỉnh. Phát hiện trong đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số trẻ những cán bộ có năng lực, phẩm chất chính trị nổi bật,

tâm huyết và trách nhiệm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ để quy hoạch, đào tạo,

bồi dưỡng, bổ sung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp. Công tác

trẻ hoá đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được triển khai và thực hiện một

cách đồng bộ và được xác định là một trong những nhiệm vụ hàng đầu

trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của tỉnh. Đặc biệt là từ sau

Page 147: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

142

Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005 - 2010, công tác trẻ hoá

cán bộ dân tộc thiểu số được chú trọng đến chất lượng cán bộ, bởi cán bộ

chính là gốc của mọi công việc, cán bộ có mạnh thì mọi việc mới thực hiện

tốt và có hiệu quả.

Quan điểm lựa chọn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán

bộ dân tộc thiểu số, đặc biệt là cán bộ dân tộc thiểu số trẻ không phải chỉ

để đủ về cơ cấu mang tính hình thức, mà là cách làm thực chất, là quá

trình đi tìm, phát hiện người tài, xứng đáng để khơi dậy và đánh thức

những tiềm năng cán bộ dân tộc thiểu số ở các cấp, phục vụ cho sự phát

triển của địa phương. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó nên Đảng bộ Tỉnh

Tuyên Quang đã rất kỹ lưỡng thực hiện trên tất cả các khâu của công tác

cán bộ và có tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch trẻ hóa đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số.

Cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số hiện nay về cơ bản đều được đào

tạo có bài bản, có trình độ chuyên môn. Bên cạnh tạo môi trường làm việc

thuận lợi để cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số phát huy thế mạnh của mình,

Đảng bộ cũng triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm xây dựng và hoàn

thiện đội ngũ cán bộ trẻ là người dân tộc thiểu số.

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang luôn phát huy vai trò của tổ chức Đoàn

Thanh niên việc phát hiện và lựa chọn đoàn viên, hội viên tiêu biểu là người

dân tộc thiểu số, giới thiệu cho Đảng để quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bổ

sung vào đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Nắm rõ vị trí, vai trò của tổ chức

Đoàn Thanh niên trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,

Đảng bộ tỉnh đã quan tâm củng cố tổ chức Đoàn, hội. Giao nhiệm vụ cho

Đoàn, hội phải thường xuyên củng cố tổ chức vững mạnh, tích cực đổi mới

nội dung, phương thức hoạt động để tập hợp đoàn viên, hội viên tham gia các

phong trào. Quan tâm đến các tổ chức Đoàn, hội ở vùng sâu vùng xa, vùng

Page 148: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

143

đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích con em dân tộc thiểu số tham gia

hoạt động và mạnh dạn nhận nhiệm vụ trong tổ chức Đoàn Thanh niên. Từ đó

phát hiện những nhân tố tiêu biểu bổ sung nguồn và quy hoạch cho đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số.

Để tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tiếp theo, tỉnh Tuyên Quang

cần phải giải quyết tốt những vấn đề đặt ra sau đây:

Thứ nhất: Tiếp tục đổi mới nhận thức về công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số. Để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách

mạng mới.

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang cần vận dụng đúng đắn, sáng tạo chính sách

của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong

từng cấp, từng ngành, trong từng lĩnh vực, phù hợp với đặc điểm của từng dân

tộc tại địa phương.

Thứ hai: Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là cán bộ

người dân tộc thiểu số thật sự tiêu biểu, nêu gương bằng hành động thực tế,

vững vàng trong công tác, là nòng cốt để vận động, lãnh đạo đồng bào phát

triển kinh tế - xã hội.

Làm tốt hơn nữa công tác phát hiện những cán bộ trẻ là người dân tộc

thiểu số có đủ tiêu chuẩn, triển vọng phát triển lâu dài để bố trí vào những

cương vị chủ chốt, coi trọng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số có đức, có tài, có

năng lực thực tiễn, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng và phát triển

tỉnh Tuyên Quang.

Việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phải đi đôi với sử

dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Coi trọng phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao ngay từ trong trường phổ thông. Có chính sách quản lý, hỗ

trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện cho con em các dân tộc thiêu số học tập tại các

trường cao đẳng, đại học. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý,

Page 149: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

144

nuôi dạy và học hỏi đối với các trường, lớp phổ thông dân tộc nội trú.

Không ngừng chăm lo, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ là người dân

tộc thiểu số.

Thứ ba: Điều chỉnh, sửa đổi một số vấn đề bất cập trong cơ chế, chính

sách xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số như:

Sự mất cân đối giữa số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số.

Sự bất cập trong quy hoạch tạo nguồn đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở

hệ thống chính trị cấp huyện, xã với các ban ngành sở trong hệ thống chính trị

cấp tỉnh.

Sự bất cập giữa quy hoạch cán bộ với quy hoạch cán bộ dân tộc thiểu

số trong hệ thống chính trị của tỉnh.

Sự bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển, ưu

tiên tuyển sinh ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở tỉnh Tuyên Quang

nói riêng.

Những bất cập trên đây đã gây nên những trở ngại trong công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Tuyên Quang; đặt ra yêu cầu khách quan là phải

thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, kịp thời phát hiện

những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời điều chỉnh chính sách nhằm khắc phục

những bất cập đó.

Tiểu kết chương 4

Sau 20 năm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

(1991 - 2010), Đảng bộ Tuyên Quang đã đạt được một số thành tựu đáng

kể. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng đông đảo, cơ cấu ngày

càng hợp lý và từng bước được trẻ hóa. Trình độ chuyên môn, lý luận

chính trị được nâng lên, cán bộ dân tộc thiểu số ngày càng trưởng thành

Page 150: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

145

và phát huy khá tốt năng lực chuyên môn cũng như năng lực lãnh đạo,

quản lý. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 1991 - 2000 chưa được

quy hoạch đào tạo một cách có hệ thống, đến năm 2001 trở đi Đảng bộ

tỉnh Tuyên Quang quyết tâm đổi mới lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số trong toàn hệ thống chính trị của tỉnh thì chất lượng, hiệu

quả được thể hiện rõ nét.

Việc đổi mới phương thức lãnh đạo trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số của Đảng bộ Tỉnh đã nhận được sự đồng thuận và ý thức trách

nhiệm của các cấp ủy đảng, ban, ngành, các tổ chức đoàn thể, đồng bào dân

tộc trong tỉnh, cùng với việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các khâu của công

tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số nên đến năm 2010, Tuyên

Quang cơ bản đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang cũng còn bộc

lộ một số hạn chế, như: Một số nơi trong tỉnh chưa gắn kết công tác quy

hoạch với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; chưa có chính

sách rõ ràng trong việc thu hút cán bộ dân tộc thiểu số, có trình độ về địa

phương công tác. Vì vậy, nhiều cán bộ dân tộc thiểu số khi về địa phương

công tác không phát huy được năng lực, sẵn sàng rời bỏ quê hương và địa

phương để đến nơi khác làm việc thích hợp hơn. Bên cạnh đó tỷ lệ cán bộ dân

tộc thiểu số chưa cân xứng với tỷ lệ dân tộc.

Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng với những thành tựu đạt được

trong quá trình Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số từ năm 1991 đến năm 2010 đã để lại một số kinh nghiệm quý

như: Thực hiện tốt phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ

cán bộ dân tộc thiểu số; Lãnh đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các khâu

Page 151: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

146

của công tác cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; mạnh

dạn bố trí cán bộ dân tộc thiểu số một cách hợp lý; bổ sung, tạo nguồn trẻ hóa

đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.

Những thành tựu và kinh nghiệm giữa thực tiễn hai mươi năm xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số là hành trang để Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác này trong giai đoạn cách mạng

tiếp theo.

Page 152: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

147

KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân

tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách

của cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,

đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển.

Quan điểm chiến lược đó của Đảng muốn đi vào cuộc sống thì phải

thông qua hoạt động của đội ngũ cán bộ. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số vững mạnh là điều kiện quyết định đối với việc thực hiện

đường lối chính sách dân tộc của Đảng. Bài học thực tiễn trong quá trình cách

mạng Việt Nam là: Muốn xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vững

mạnh, đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng thì phải làm tốt các khâu của

công tác cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, điều động đến đào tạo,

bồi dưỡng, quản lý và bố trí, sử dụng cán bộ cũng như thực hiện tốt chính

sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số luôn là một yêu cầu khách quan vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa

mang tính cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tổng kết lý luận với thực tiễn 30 năm đổi mới cho thấy, một trong những

nguyên nhân yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc là do đội ngũ

cán bộ vừa thiếu, lại vừa yếu về năng lực quản lý, lãnh đạo. Nguyên nhân của

tình trạng đó là do chưa chú ý đúng mức đến xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số.

Miền núi phía Bắc nước ta là một vùng lãnh thổ rộng lớn, gồm 15 tỉnh,

có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, là vùng đa sắc thái văn hóa tộc người

vào loại bậc nhất của nước ta; đồng thời, cũng là một vùng mà kinh tế - xã hội

còn gặp những khó khăn so với cả nước. Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở

đây phát triển không đều, nhiều địa phương thiếu cán bộ đến mức trầm trọng.

Nghiên cứu về quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phù hợp

Page 153: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

148

với điều kiện khu vực, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là vấn đề cấp bách hiện

nay. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Đảng và Nhà nước đã có

nhiều chủ trương chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số và xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Những quan điểm đó "thể hiện sự vận dụng sáng

tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng

Việt Nam; qua đó khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số trong quá trình phát triển cách mạng [120, tr.230].

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc có đông đồng bào dân tộc

thiểu số sinh sống, trình độ dân trí chưa cao, nhiều tập tục lạc hậu chưa được

xóa bỏ triệt để đã gây khó khăn trong công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

và bố trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số. Từ thực tế lãnh đạo thực hiện các

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cho thấy, năng lực công tác

của một bộ phận khá lớn cán bộ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế; trình

độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Nhận thức được vấn đề đó, ngay từ khi tái lập tỉnh tháng 10/1991,

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch cụ thể về công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số cho từng giai đoạn cụ thể.

Giai đoạn 1991 đến năm 2000, là giai đoạn củng cố đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số; chủ động xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số,

bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số hiện có; tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu

số thông qua chế độ cử tuyển; thu hút những quần chúng ưu tú là người dân

tộc thiểu số vào làm việc trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Sau đó, cử đi học

bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị. Về cơ bản, đến

năm 2000, trong hệ thống chính trị các cấp ở Tuyên Quang, đội ngũ cán bộ

dân tộc thiểu số được bố trí sử dụng trong công tác chuyên môn và công tác

Page 154: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

149

lãnh đạo, quản lý, đáp ứng được yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ cách mạng

mới của địa phương.

Giai đoạn 2001 - 2010, trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm chiến

lược cán bộ của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ cũng như đặc điểm, tình hình của

địa phương, Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang đã đổi mới toàn diện, mạnh mẽ hơn

công tác lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Đổi

mới đồng bộ giữa các khâu, các bước trong quy trình đào tạo, bồi dưỡng, bố

trí, sử dụng tốt số cán bộ dân tộc thiểu số hiện có với thực hiện đồng bộ các

giải pháp để đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung số cán bộ dân tộc mới. Chú trọng

xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số lượng, từng bước nâng cao

chất lượng, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đồng đều ở cả 3 cấp

trong hệ thống chính trị của tỉnh. Đồng thời, quan tâm đến quy hoạch đội ngũ

cán bộ quản lý người dân tộc thiểu số. Đến năm 2010, về cơ bản, Đảng bộ

tỉnh đã thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch đề ra, đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ chính trị của tỉnh.

Quá trình 20 năm (1991 - 2010), Đảng bộ Tuyên Quang lãnh đạo xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đã đạt được những kết quả tích cực.

Kết quả nổi bật là đã xây dựng được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về

số lượng và từng bước nâng cao về chất lượng, góp phần cùng nhân dân

trong tỉnh đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây

dựng Tuyên Quang ngày càng giàu mạnh. Thực tiễn lãnh đạo xây dựng đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã để lại những kinh nghiệm quý báu.

Đó là: Nhận thức đúng vị trí, tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số; huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, đa

dạng hóa nguồn cán bộ dân tộc thiểu số; xây dựng và thực hiện tốt công tác

quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ; mạnh dạn sử dụng cán bộ

người dân tộc thiểu số...

Page 155: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

150

Kết quả và kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số ở Tuyên Quang từ năm 1991 đến năm 2010 đã tạo nền tảng vững

chắc để Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác

xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ người dân tộc thiểu số nói

riêng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng mới, góp phần cùng cả nước thực

hiện thành công mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Page 156: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

151

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Lý Thị Thu (2012), "Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)", Tạp

chí Giáo dục lý luận, (6), tr. 58-60.

2. Lý Thị Thu (2012), "Chính sách cán bộ dân tộc thiểu số của Đảng trong

thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985)", Tạp chí

Lịch sử Đảng, (7), tr. 53-56;60.

3. Lý Thị Thu (2015), "Vai trò của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong thực

hiện chính sách của Đảng, Nhà nước", Tạp chí Dân tộc, (177), tr. 22-23.

4. Lý Thị Thu (2015), "Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán

bộ dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang", Tạp chí Dân tộc, (178), tr. 26 - 27.

5. Lý Thị Thu (2015), "Quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ dân

tộc thiểu số trong thời kỳ mới", Tạp chí Dân tộc học, (180), tr. 20-22.

6. Lý Thị Thu (2015), "Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo đổi mới xây

dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay", Tạp

chí Cộng sản, (108), tr.55-58.

Page 157: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu nghiên cứu trong nước

1. Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc và miền núi (2008), Báo cáo tổng kết 5

năm thực hiện nghị quyết 24- NQ/TW “Về công tác dân tộc”.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chiêm Hóa (2008), Lịch sử Đảng bộ

huyện Chiêm Hóa (1940 - 2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Tuyên Quang (2009), Lịch sử Đảng bộ

thị xã Tuyên Quang (1940 - 2008), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1992), Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XI năm 1992. Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1996), Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XII.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2000), Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2005), Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang, NXB Chính trị quốc gia.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Tuyên Quang (giai đoạn 1976 - 2005), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2010), Báo cáo về công tác

quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số giai

đoạn 2005 - 2010.

11. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (2010), Văn kiện Đại hội

Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV.

Page 158: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

153

12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2009), Vấn đề dân tộc và công tác dân

tộc sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương Đảng Khóa IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

13. Ban Chỉ đạo Chương trình 135 TW (2006), Báo cáo kết quả thực hiện

Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005 và triển khai thực hiện

Chương trình 135 giai đoạn 2006-2010.

14. Ban Chỉ đạo điều tra đói nghèo (2003), Báo cáo sơ kết kết quả điều tra

hộ nghèo năm 2002, Hà Nội.

15. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (1957), Nghị quyết số 84-NQ/TU

ngày 6/6/1957 về thành lập cơ quan trường Đảng tỉnh Tuyên Quang.

16. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang (2004), Báo cáo về công tác cán

bộ người dân tộc thiểu số.

17. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề dân tộc và chính sách

dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội

18. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), (2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường

hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế- xã hội nước ta hiện

nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chiến lược phát triển giáo dục trong

thế kỷ XXI - Kinh nghiệm của các quốc gia (sách tham khảo), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các dân tộc

thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

21. Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Lò Giàng Páo (1996), Văn hóa và sự

phát triển các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Chính sách dân tộc và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc (2000),

NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

23. Cộng hòa XHCN Việt Nam (1996), Chính sách và chế độ pháp lý đối với

đồng bào dân tộc và miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 159: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

154

24. Chương trình Nghiên cứu Khoa học cấp Nhà nước KX-04-05 năm 1995

- 2000 (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan

đến dân tộc, sắc tộc ở nước ta và trên thế giới - Chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước ta, Hà Nội.

25. Nguyễn Cúc, Ngô Ngọc Thắng và Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên)

(2005), Đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị ở các tỉnh miền

núi phía Bắc nước ta - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

26. Lê Trọng Cúc (1999), Những khó khăn trong công cuộc phát triển miền

núi Việt Nam, Hà Nội.

27. Phan Hữu Dật (chủ biên) (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp

bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

28. Khổng Diễn (1996), “Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền

núi phía Bắc”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam - Thực tiễn và triển

vọng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí

thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

31. Donovan D., và các cộng sự (1997), Những xu hướng phát triển ở vùng

núi phía Bắc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Phạm Văn Dũng (2004), Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc

trong giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, Luận

văn thạc sĩ triết học, Hà Nội.

33. Nguyễn Bá Dương (chủ biên) (1999), Tâm lý học quản lý dành cho

người lãnh đạo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Vàng Xín Dư (2009), "Một cách mới trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ

sở ở Hà Giang", Tạp chí Xây dựng Đảng, (4), tr. 30.

Page 160: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

155

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm

kỳ khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 13, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Bế Viết Đẳng (chủ biên) (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển

kinh tế - xã hội ở miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 161: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

156

49. Nịnh Văn Độ (chủ biên) (1996), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày,

Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, NXB Văn hóa dân tộc.

50. Nguyễn Ngọc Hà (2007), Biến đổi văn hóa tộc người ở miền núi phía

Bắc nước ta, Đề tài khảo sát thực tiễn.

51. Nguyễn Minh Hiển, (2001), Sự phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng dân

tộc thiểu số" trong cuốn sách "Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ

XX", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Võ Văn Hinh (2011), Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng sau 25

năm đổi mới, trên cổng thông tin.

53. Nguyễn Đức Hòa (2011), Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân

tộc thiểu số Việt Nam.

54. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội (1995),

Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Vũ Đình Hòe, Đoàn Minh Huấn (2008), Nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây

Nguyên hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

56. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2000), “Chính sách và pháp luật

của Đảng, Nhà nước về dân tộc”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

57. Bùi Kim Hồng (2009), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tổ chức, cán

bộ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Đoàn Minh Huấn (2005), Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở ở

các tỉnh Tây Bắc nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ.

59. Bùi Văn Huệ (2000), Giáo trình Tâm lý học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

60. Nguyễn Văn Huy, Lê Duy Đại (1996), Báo cáo tổng hợp về nghiên cứu chính

sách phát triển vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Dự án VIE/96/010, Hà

Nội: UNDP.

Page 162: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

157

61. Doãn Hùng (2006), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học - công nghệ ở

các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa (qua điều tra, khảo sát thực trạng ở một số tỉnh), Đề tài

cấp bộ.

62. Đỗ Quang Hưng (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc,

tôn giáo và đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, NXB Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

63. Trần Thị Mỹ Hường (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực

hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Tây Bắc từ năm 1996 đến năm

2006, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Trần Thị Thu Hương (chủ biên) (2005), Đảng Cộng sản Việt Nam -

Chặng đường qua hai thế kỷ, Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Lê Đình Huy (2012), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ

công chức từ năm 2001 đến năm 2010, Luận án Tiến sĩ xây dựng

Đảng, Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Đặng Cảnh Khanh (2006), Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số -

Những phân tích xã hội học, NXB Thanh niên, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một số vấn đề về Trí

thức Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.

68. Vũ Ngọc Khánh (2006), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam,

tập 1, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

69. Vũ Ngọc Khánh (2011), Dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc trong tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

70. Nguyễn Hải Khoát (1996), Những khía cạnh tâm lý của công tác cán bộ,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Nguyễn Khôi và các cộng sự (2000), Việc thực hiện chính sách dân tộc

trên lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ dân tộc

thiểu số ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ.

Page 163: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

158

72. Hà Quế Lâm (2000), Về công tác phát triển đảng viên tạo nguồn cán bộ

ở vùng dân tộc miền núi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. V.I. Lênin (1963), Toàn tập, tập 7, NXB Sự thật, Hà Nội.

74. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

75. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, (bản tiếng Việt).

76. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 44, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

77. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

78. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.

79. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

80. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 16, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Moto F (1989), "Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam"

(Luận án Tiến sĩ).

88. Ngân hàng Phát triển châu Á - Văn phòng Hà Nội - Việt Nam (2000),

Chính sách dân tộc bản địa của Ngân hàng Phát triển châu Á, Hà Nội.

89. Ngân hàng Thế giới - Văn phòng Hà Nội - Việt Nam (2000), Chính sách

dân tộc bản địa của Ngân hàng Thế giới, Hà Nội.

90. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc ở Tây Nguyên,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 164: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

159

91. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân

chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các

tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2006), Công bằng và bình đẳng xã hội

trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa tộc người, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

93. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ nhiệm đề tài) (2005), Phát huy nội lực từng

vùng và các dân tộc nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp nông thôn, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.

94. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên) (2000), Một số kinh nghiệm của Đảng

Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Trọng Phúc (2009), Đổi mới ở Việt Nam - từ nhận thức đến thực

tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. KSor Phước (2006), "Công tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới 1986 -

2006", trong cuốn sách 60 năm cơ quan công tác dân tộc, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Thân Minh Quế (2012), Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban

Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn

hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Kỷ yếu về

hoạt động của Hội đồng dân tộc Quốc hội khóa X (1997 - 2002),

NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

100. Quy định mới về chính sách hỗ trợ đối với đồng bào dân tộc thiểu số

(2006), Các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong các

năm (2005 - 2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 165: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

160

101. Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg, ngày 08/02/2006 của Thủ tướng Chính

phủ về đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị

trấn là người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010.

102. Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ

lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

103. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (1999), Về những yêu cầu của đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay,

Hà Nội.

104. Phan Xuân Sơn, Lưu Huy Quảng (chủ biên) (2010), Những vấn đề cơ

bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận chính

trị, Hà Nội.

105. Lưu Văn Sùng (1998), Quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở các tỉnh

Tây Bắc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Lê Ngọc Thắng (2005), Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta,

Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.

107. Ngô Ngọc Thắng (Chủ nhiệm), (1997), Văn hóa bản làng của các dân

tộc Thái, H’Mông ở một số tỉnh miền núi Tây Bắc và việc phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện hiện nay, Đề tài khoa học

cấp bộ, Hà Nội.

108. Nguyễn Đăng Thành (2012), Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc

thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Lê Ngọc Thắng (chủ biên), Lâm Bá Nam (1999), Thiết chế xã hội cổ

truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

110. Lê Phương Thảo (2001), Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn

của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc trong tình

hình hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ.

Page 166: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

161

111. Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Cúc và Doãn Hùng (đồng chủ biên)

(2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận cứ và giải

pháp, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

112. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành

vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của

Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và giải

pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Tỉnh ủy Đắc Lắc - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1994), Cơ

cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã và huyện ở tỉnh Đắc

Lắc - Thực trạng và giải pháp.

114. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2006), Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thực

hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ

XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010.

115. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2007), Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang 50

năm xây dựng và phát triển, Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang.

116. Tỉnh ủy Tuyên Quang (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị

định số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

117. Lô Quốc Toản (2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh

miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Đặng Văn Trọng (2012), Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu

số của Đảng bộ Bộ đội biên phòng từ năm 1996 đến năm 2006, Luận

án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Vĩnh Trọng (2009), "Sóc trăng quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ người

dân tộc thiểu số Khmer", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9), tr. 24.

Page 167: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

162

120. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

121. Bùi Xuân Trường (chủ nhiệm), (1997), Tác động của luật tục đối với

việc quản lý xã hội ở các dân tộc Thái, H’Mông thuộc Tây Bắc Việt

Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.

122. Nguyễn Thị Tư (2010), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng

đội ngũ cán bộ cấp huyện người dân tộc thiểu số trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số tỉnh miền núi phía

Bắc, Đề tài khoa học cấp bộ.

123. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

124. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam,

NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

125. Ủy ban Dân tộc và miền núi - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(1996), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở

Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2004), Báo cáo sơ kết thực hiện Quyết

định số 74/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Tuyên Quang.

127. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2010), Báo cáo Thực hiện Kế hoạch

số 09-KH/TU ngày 04/6/2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ tỉnh lần thứ XIV.

128. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã

hội các tỉnh miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

129. Ủy ban Nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2011), Địa chí Tuyên Quang.

Page 168: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

163

130. Đàm Thị Uyên (1998), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến

Việt Nam (từ thế kỷ XI - XIX), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

131. Cư Hòa Vần (2001), "Phát huy dân chủ, xây dựng, củng cố chính quyền

và đào tạo cán bộ vùng dân tộc thiểu số trong giai đoạn cách mạng

mới", trong cuốn Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132. Đặng Nghiêm Vạn (1982), Đặc điểm kinh tế xã hội truyền thống các dân

tộc ít người ở miền núi Việt Nam, NXB Văn hóa Dân tộc.

133. Đặng Nghiêm Vạn (1993), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc

gia dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

134. Nguyễn Hoài Văn, Đặng Duy Thìn (đồng chủ biên) (2012), Chính sách

đào tạo, sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông và công tác cán bộ

hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

135. Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Nghiên cứu vấn

đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

137. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào

tạo nhân tài, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Trương Thị Bạch Yến (2013), Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc

thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xây

dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

B. Tài liệu nghiên cứu của nước ngoài

139. Jamieson N (2000), b. Rethinking Approaches to Ethenic Minority

Development, The Case of Vietnam (Nghĩ lại cách tiếp cận chương

trình phát triển dân tộc thiểu số, Trường hợp Việt Nam). Concept

Paper perpared for the World Bank, Unpublíhed.

Page 169: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

164

PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1

Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý

ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Tính đến tháng 12/2010)

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng

Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương

đương Các chỉ tiêu Ủy viên

BCH đảng bộ tỉnh

Ủy viên BTV Tỉnh

ủy

Bí thư Tỉnh ủy

Phó Bí thư Tỉnh

ủy Cấp trưởng

Cấp phó

Cấp trưởng

Cấp phó

Chủ tịch HĐND tỉnh

Phó Chủ tịch UBND

tỉnh

Chủ tịch UBND tỉnh

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp

trưởng Cấp phó

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) (15) Số lượng 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 Dân tộc ít người 37 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 18 36 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,9 49,9 50,5 47 47,1 45,8 46,71 46 50,33 50 46,5 46,6 49,33 45,1

- Từ 40 trở xuống 4 2 3 2 2 1 9 - Từ 41 - 45 3 1 1 2 2 2 3 1 1 9 - Từ 46 - 50 17 5 1 2 4 8 6 5 2 1 1 1 9 10 - Từ 51 - 55 12 4 1 3 2 2 1 8 6 - Từ 56 - 60 1 2 1 2 - Trên 60 1 1

2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 36 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 17 31 - Trung cấp 1 1 5

3. Đã học quản lý Nhà nước 29 7 1 3 9 15 12 10 2 2 2 17 4. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 4 2 1 2 3 2 2 3 1 2 2 1 3 - Đại học, cao đẳng 33 8 1 1 7 14 12 13 1 17 32 - Trung cấp 1

5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 4 1 1 3 5 3 2 1 6 9 - Bằng A, B 21 5 1 3 5 9 9 6 2 1 2 2 10 17

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 170: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

165

PHỤ LỤC 2

Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý

ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Tính đến tháng 12/2010)

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu

Ủy viên BCH đảng

bộ tỉnh

Ủy viên BTV

Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp trưởng Cấp phó

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) Số lượng 116 23 30 75 27 40 7 104 210 Nữ 25 4 7 21 8 13 1 12 36 Trong đó 1. Dân tộc ít người 6 1 2 6 5 3 7 2. Tuổi đời bình quân 42,75 48,78 46,5 46,5 44 50 44,08 42,47 - Từ 40 trở xuống 10 1 1 4 3 15 - Từ 41 - 45 2 1 3 8 - Từ 46 - 50 12 4 5 5 3 1 9 11 - Từ 51 - 55 1 1 2 3 2 - Từ 56 - 60 - Trên 60 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 24 4 8 8 12 1 8 19 - Trung cấp 1 1 1 16 4. Đã học quản lý Nhà nước 25 4 7 8 10 1 10 5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ - Thạc sỹ 6 2 5 2 1 3 6 - Đại học, cao đẳng 19 2 3 6 13 9 30 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 8 2 3 3 2 4 7 - Bằng A, B 15 1 3 5 8 1 5 21

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 171: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

166

PHỤ LỤC 3 Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số

Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh

(Tính đến tháng 12/2010)

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu

Ủy viên BCH

đảng bộ tỉnh

Ủy viên BTV

Tỉnh ủy

Bí thư Tỉnh

ủy

Phó Bí thư

Tỉnh ủy Cấp trưởng

Cấp phó

Cấp trưởng

Cấp phó

Chủ tịch HĐND

tỉnh

Phó Chủ tịch UBND

tỉnh

Chủ tịch UBND

tỉnh

Phó Chủ tịch UBND

tỉnh Cấp trưởng Cấp phó

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) (15) Số lượng 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 21 1 4 17 7 9 10 57 Trong đó: 1. Nữ 10 1 8 1 4 3 15 2. Dân tộc ít người 4 2 3 2 2 1 9 3. Lý luận chính trị

- Cao cấp trở lên 18 1 4 9 6 8 2 17 - Trung cấp 3 8 1 1 4 28

4. Đã học quản lý Nhà nước 21 1 3 14 7 9 8 5. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 5 1 1 5 2 2 4 7 - Đại học, cao đẳng 16 3 12 5 7 6 50 - Trung cấp

6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 6 1 1 7 3 3 4 15 - Bằng A, B 15 3 9 4 6 6 38

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 172: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

167

PHỤ LỤC 4 Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện

(Tính đến tháng 12/2010)

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Phó Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Chủ tịch UBND huyện, thành

phố

Phó Chủ tịch UBND huyện

thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Số lượng 221 38 69 27 32 66 Dân tộc ít người 61 11 18 9 7 24 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,59 47,64 47,5 49,33 48,7 47,71 46,54

- Từ 40 trở xuống 6 1 1 4 - Từ 41 - 45 10 2 4 1 2 4 - Từ 46 - 50 27 5 10 6 4 3 7 - Từ 51 - 55 17 3 4 2 4 2 9 - Từ 56 - 60 1 1 - Trên 60

2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 59 11 18 9 9 7 24 - Trung cấp 2 1

3. Đã học quản lý Nhà nước 51 10 15 6 9 5 21 4. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 61 11 18 9 10 7 23 - Trung cấp

5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 8 2 2 1 2 4 - Bằng A, B 43 6 11 5 4 4 15

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 173: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

168

PHỤ LỤC 5 Đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số

Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện

(Tính đến tháng 12/2010)

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Phó Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Chủ tịch UBND huyện, thành

phố

Phó Chủ tịch UBND huyện

thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Số lượng 221 38 69 27 21 32 66 Nữ 30 2 12 5 7 2 15 Trong đó 1. Dân tộc ít người 10 1 4 2 3 1 4

2. Tuổi đời bình quân 45,7 44,5 45,58 44,2 46 46,5 45,07 - Từ 40 trở xuống 6 2 1 1 3 - Từ 41 - 45 4 2 3 2 1 3 - Từ 46 - 50 17 6 2 5 2 8 - Từ 51 - 55 3 1 1 - Từ 56 - 60

- Trên 60 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 29 2 12 5 6 2 15

- Trung cấp 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 24 1 11 4 6 12

5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ 1 - Thạc sỹ 1 1 - Đại học, cao đẳng 29 2 12 5 7 1 14

- Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 5 3 1 1 5 - Bằng A, B 19 1 7 3 5 7

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 174: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

169

PHỤ LỤC 6 Đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số

Trong quy hoạch các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện

(Tính đến tháng 12/2010)

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Phó Chủ tịch HĐND huyện,

thành phố

Chủ tịch UBND huyện, thành

phố

Phó Chủ tịch UBND huyện

thành phố (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

Số lượng 221 38 69 27 21 32 66 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 36 2 7 3 6 12 Trong đó: 1. Nữ 6 2 1 1 3

2. Dân tộc ít người 6 1 4 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 34 2 7 2 5 11 - Trung cấp 2 1 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 30 2 7 3 6 12 5. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 5 1 2 1 - Đại học, cao đẳng 31 1 5 3 6 11

- Trung cấp 6. Ngoại ngữ

- Bằng C trở lên 5 1 3 1 3 - Bằng A, B 22 1 3 3 5 9

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 175: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

170

PHỤ LỤC 7 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức) Thời điểm 31/12/2010

Lãnh đạo các cơ quan, ban

Đảng Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu

Ủy viên BCH đảng

bộ tỉnh

Ủy viên BTV Tỉnh

ủy

Bí thư Tỉnh ủy

Phó Bí thư Tỉnh

ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp

trưởng Cấp phó

Chủ tịch HĐND

tỉnh

Chủ tịch UBND

tỉnh

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cấp

trưởng Cấp phó

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) (13) (14) Số lượng 55 15 1 2 5 14 6 13 1 1 3 45 72 Dân tộc ít người 22 8 1 1 4 2 3 3 1 1 1 9 11 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 47,18 50,3 53 48 46,2 44 52 53 53 48 43 53,89 59,18

- Từ 40 trở xuống 4 1 1 1 - Từ 41 - 45 2 1 1 1 1 - Từ 46 - 50 8 3 1 2 1 1 1 2 3 - Từ 51 - 55 7 4 1 1 1 1 1 1 4 2 - Từ 56 - 60 1 1 - Trên 60 1

2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 21 8 1 1 4 2 3 3 1 1 1 8 10 - Trung cấp 1 1 1

3. Đã học quản lý Nhà nước 20 5 3 1 1 5 7 4. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 4 2 1 2 1 1 1 - Đại học, cao đẳng 18 6 1 2 2 3 3 1 8 10 - Trung cấp 1

5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 5 1 1 2 1 1 1 - Bằng A, B 13 4 1 2 2 1 1 1 4 5

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 176: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

171

PHỤ LỤC 8 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu Ủy viên BCH

đảng bộ tỉnh Ủy viên BTV

Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) Số lượng 55 15 5 14 6 13 45 72 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 10 1 1 3 1 2 2 8 Trong đó: 1. Nữ 6 2 1 2 3 2. Dân tộc ít người 4 1 1 3. Lý luận chính trị

- Cao cấp trở lên 9 1 1 3 1 2 2 4 - Trung cấp 1 4

4. Đã học quản lý Nhà nước 9 1 1 3 1 2 2 8 5. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 2 1 1 1 4 - Đại học, cao đẳng 8 3 1 1 2 4 - Trung cấp

6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 3 1 1 1 1 1 2 3 - Bằng A, B 7 2 1 2 4

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 177: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

172

PHỤ LỤC 9 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu

Ủy viên BCH đảng

bộ tỉnh

Ủy viên BTV

Tỉnh ủy Cấp trưởng Cấp phó Cấp trưởng Cấp phó Phó Chủ tịch UBND tỉnh

Cấp trưởng Cấp phó (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)

Số lượng 55 15 5 14 6 13 3 45 72 Nữ 16 2 1 6 1 4 1 6 12 Trong đó 1. Dân tộc ít người 6 1 1 1 1 2 2 2. Tuổi đời bình quân 40,19 48 46 44,33 51 45,25 50 45,66 44,5 - Từ 40 trở xuống 6 2 1 2 3 - Từ 41 - 45 2 - Từ 46 - 50 9 2 1 2 2 1 3 5 - Từ 51 - 55 1 2 1 1 1 2 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 15 2 1 6 1 4 1 6 11 - Trung cấp 1 1 4. Đã học quản lý Nhà nước 16 2 1 4 3 1 5 8 5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ - Thạc sỹ 3 1 1 1 4 - Đại học, cao đẳng 13 1 1 5 1 4 6 8 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 4 1 1 1 2 3 - Bằng A, B 10 1 1 3 1 3 5

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 178: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

173

PHỤ LỤC 10 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể huyện (Cán bộ đương chức) Thời điểm 31/12/2010

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy,

đảng ủy trực thuộc

Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Chủ tịch UBND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch UBND

huyện thành phố

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Dân tộc ít người 19 5 8 5 3 10 Trong đó: 1. Tuổi đời bình quân 48 49,4 47,75 48,8 46,66 47,6

- Từ 40 trở xuống 1 1 - Từ 41 - 45 3 2 1 1 3 - Từ 46 - 50 9 1 5 3 2 3 - Từ 51 - 55 5 3 1 4 - Từ 56 - 60 - Trên 60

2. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 19 5 8 5 3 10 - Trung cấp

3. Đã học quản lý Nhà nước 12 3 5 4 2 6 4. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 19 4 8 5 3 9 - Trung cấp

5. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 3 - Bằng A, B 10 2 4 3 2 2

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 179: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

174

PHỤ LỤC 11 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ trẻ dân tộc thiểu số

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy,

đảng ủy trực thuộc

Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Chủ tịch UBND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch UBND

huyện thành phố

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Cán bộ trẻ (40 tuổi trở xuống) 8 2 1 3 Trong đó: 1. Nữ 4 1 1

2. Dân tộc ít người 1 1 1 3. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 7 2 1 1 - Trung cấp 1 2 4. Đã học quản lý Nhà nước 8 2 1 3 5. Trình độ chuyên môn

- Tiến sỹ - Thạc sỹ - Đại học, cao đẳng 8 2 1 3

- Trung cấp 6. Ngoại ngữ

- Bằng C trở lên 2 - Bằng A, B 8 1 1 1

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 180: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

175

PHỤ LỤC 12 Biểu tổng hợp khảo sát đội ngũ cán bộ nữ dân tộc thiểu số

thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý ở các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh (Cán bộ đương chức tính đến tháng 12/2010)

Các chỉ tiêu Ủy viên BTV huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Bí thư huyện, thành ủy, đảng ủy

trực thuộc

Phó Bí thư huyện, thành ủy,

đảng ủy trực thuộc

Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch HĐND

huyện, thành phố

Chủ tịch UBND

huyện, thành phố

Phó Chủ tịch UBND

huyện thành phố

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) Số lượng 69 11 20 6 4 7 16 Nữ 13 1 1 1 1 1 Trong đó 1. Dân tộc ít người 4 1 1 1 1

2. Tuổi đời bình quân 44,69 47 45 45 38 35 - Từ 40 trở xuống 4 1 1 - Từ 41 - 45 2 1 1 - Từ 46 - 50 6 1 - Từ 51 - 55 1 3. Lý luận chính trị

- Cao cấp trở lên 13 1 1 1 1 1 - Trung cấp 4. Đã học quản lý Nhà nước 9 1 1 1

5. Trình độ chuyên môn - Tiến sỹ

- Thạc sỹ 1 - Đại học, cao đẳng 13 1 1 1 1 - Trung cấp 6. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 1 - Bằng A, B 9 1 1

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang, năm 2011 "Báo cáo số 24-BC/TU - Tình hình công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2005 - 2010

Page 181: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

176

PHỤ LỤC 13 Kết quả đào tạo cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số năm 2007

Kết quả đào tạo năm 2007 Đã tốt nghiệp năm 2007 Cử đi đào tạo năm 2007 Kết quả bồi dưỡng năm 207

Văn hóa Chuyên môn Văn hóa Chuyên môn Quản lý nhà nước STT Đối tượng

Trung học cơ

sở

Trung học phổ

thông

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

Trung cấp lý luận

chính trị

Trung học cơ

sở

Trung học phổ

thông

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

Chuyên viên

Cán sự

Bồi dưỡng

Tin học

Kỹ năng

nghiệp vụ

Bí thư Đảng ủy 1 3 1 Pho Bí thứ Đảng ủy 1 Thường trực Đảng ủy 1 3 2 1 2 6 Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 2 1 14 6 4 11 Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 2 1 4 2 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân 2 1 6 13 6 5 2 Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 2 1 1 2 5 Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 2 2 2 38 1 43 Chủ tịch Hội Nông dân 1 1 44 3 66 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 2 1

1 Cán bộ chuyên trách

Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 2 1 7 5 42 2 53 Trưởng Công an 1 2 2 40 7 2 1 9 Chỉ huy Trưởng quân sự 5 11 2 2 1 5 Văn phòng - Thống kê 7 5 8 23 4 6 Địa chính - Xây dựng 6 4 4 2 3 17 5 5 Tài chính - Kế toán 1 5 3 1 Tư pháp - Hộ tịch 2 1 3 1 3 7 8 4 24

2 Công chức

cấp xã

Văn hóa - xã hội 2 2 3 9 1 5 3 Cán bộ, công chức nguồn 1 6 6 Cộng: 0 23 1 0 38 22 0 0 46 0 64 96 0 164 53 241

Nguồn: Sở Nội vụ Tuyên Quang năm 2010

Page 182: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

177

PHỤ LỤC 14 Kết quả đào tạo cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn là người dân tộc thiểu số năm 2008

Đào tạo về trình độ Bồi dưỡng Văn hóa Chuyên môn LL chính trị Quản lý nhà nước

STT Đối tượng Trung học cơ

sở

Trung học phổ thông

Đại học Cao đẳng

Trung cấp Cao cấp Trung

cấp Chuyên

viên Cán sự Bồi dưỡng

Tin học Kỹ năng nghiệp vụ

Bí thư Đảng ủy 3 4 2 Pho Bí thứ Đảng ủy Thường trực Đảng ủy 2 1 Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 5 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân 1 1 1 2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân 1 8 12 Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc 5 1 6 1 Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 2 6 3 Chủ tịch Hội Nông dân 2 3 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 4 5 8 60

1 Cán bộ chuyên trách

Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 7 9 2 Trưởng Công an 13 5 7 37 Chỉ huy Trưởng quân sự 1 4 10 21 Văn phòng - Thống kê 5 20 18 1 8 5 44 Địa chính - Xây dựng 3 22 8 24 4 8 44 Tài chính - Kế toán 12 2 6 15 Tư pháp - Hộ tịch 3 3 17 16 5 10 39

2 Công chức

cấp xã

Văn hóa - xã hội 1 14 13 2 12 29 3 Cán bộ, công chức nguồn Cộng: 0 29 52 0 46 0 138 41 73 13 229 60

Nguồn: Sở Nội vụ Tuyên Quang năm 2010

Page 183: ĐẢNG BỘ TỈNH TUYÊN QUANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ

178

PHỤ LỤC 15 Biểu tổng hợp quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện chương trình 21-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy

Lãnh đạo các cơ quan, ban Đảng

Tỉnh ủy

Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể tỉnh

Lãnh đạo Sở, ban ngành tỉnh và tương đương Các chỉ tiêu Tổng

số

Ủy viên BCH đảng

bộ tỉnh

Ủy viên BTV Tỉnh

ủy

Bí thư

Tỉnh ủy

Phó Bí

thư Tỉnh ủy

Cấp trường

Cấp phó

Cấp trường

Cấp phó

Chủ tịch

HĐND tỉnh

Phó Chủ tịch

HĐND tỉnh

Chủ tịch

UBND tỉnh

Phó Chủ tịch

UBND tỉnh

Cấp trường

Cấp phó

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 1. Số lượng 651 116 23 2 7 30 75 27 40 4 3 3 7 104 210 2. Ngoài đảng 0 3. Nữ 122 25 4 1 7 21 8 13 1 10 32 4. Dân tộc ít người 160 34 10 2 3 10 16 14 13 3 1 2 2 17 33 5. Thành phần bản thân là công nhân 6. Tuổi đời binh quân 46,67 50,39 50,5 49,57 48,37 45,57 46,33 46,12 51,25 51,25 47 49,71 48,62 45,38 - Từ 40 trở xuống 123 21 1 4 17 7 9 7 57 - Từ 41-45 92 18 1 1 4 13 2 6 1 1 9 36 - Từ 46 - 50 243 44 12 1 5 12 26 10 13 2 2 2 5 43 66 - Từ 51 - 55 159 31 8 1 1 8 19 3 6 2 1 1 35 43 - Từ 56 - 60 28 2 1 2 3 5 7 8 - Trên 60 3 2 1 7. Lý luận chính trị - Cao cấp trở lên 552 113 23 2 7 30 70 26 37 4 3 3 7 91 136 - Trung cấp 91 3 4 1 3 13 67 8. Quản lý Nhà nước 579 107 21 2 7 30 68 25 37 4 3 3 7 82 183 9. Trình độ chuyên môn 0 - Tiến sỹ, phó tiến sỹ 5 2 1 2 - Thạc sỹ 86 13 6 1 3 10 10 2 1 2 2 1 4 14 17 - Đại học, cao đẳng 559 101 17 1 4 20 65 25 39 2 1 2 3 89 190 - Trung cấp 1 1 10. Ngoại ngữ - Bằng C trở lên 163 19 4 1 2 9 15 6 18 1 1 1 34 52 - Bằng A, B 386 82 14 1 5 20 54 21 20 3 3 2 6 58 97

Nguồn: Tỉnh ủy Tuyên Quang