183
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH -----**------ ĐỖ ANH VINH GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC HÀ NỘI - 2018

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ … AN DO... · các đoàn thể trong đơn vị tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

-----**------

ĐỖ ANH VINH

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

-----**------

ĐỖ ANH VINH

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 62 31 02 03

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS PHAN HỮU TÍCH

2. PGS. TS LÊ VĂN CƯỜNG

HÀ NỘI – 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong

Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy đinh.

Tác giả

Đỗ Anh Vinh

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BQP: Bộ Quốc phòng

CBHC: Cán bộ hậu cần

CTĐ, CTCT: Công tác đảng, công tác chính trị

ĐĐCM: Đạo đức cách mạng

HVHC: Học viện Hậu cần

Nxb: Nhà xuất bản

QĐNDVN: Quân đội nhân dân Việt Nam

QUTW: Quân ủy Trung ương

TCCT: Tổng cục Chính trị

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1:

Tổng quan các công trình khoa học có liên quan

đến giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của

đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội

6

1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài 6

1.2. Các công trình khoa học ở Việt Nam 12

1.3.

Đánh giá khái quát kết quả của các công trình khoa

học có liên quan đến luận án và những vấn đề luận

án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết

27

Chương 2:

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục, rèn

luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần

Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay

29

2.1. Ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam và đội

ngũ cán bộ hậu cần quân đội

29

2.2. Đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức

cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội

40

Chương 3:

Đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo

đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần Quân

đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay - thực

trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm

67

3.1. Thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ

hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

67

3.2.

Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ

cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam - thực

trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm

75

Chương 4:

Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh giáo

dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán

bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm

2030

108

4.1.

Dự báo thuận lợi, khó khăn, và phương hướng đẩy

mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của

đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội

108

4.2.

Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần

Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030

115

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC

GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC 165

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đạo đức của người cán bộ nói chung và của người cán bộ quân đội nói

riêng là phẩm chất quan trọng trong nhân cách người cán bộ. Nhưng, đạo đức

cách mạng (ĐĐCM) của người cán bộ không phải tự nhiên mà có, phải trải qua

quá trình tự rèn luyện bền bỉ, thường xuyên, lâu dài, gian khổ và sự quan tâm

giáo dục của cấp ủy, tổ chức đảng mới tạo nên. Cán bộ quân đội hoạt động trong

môi trường đặc biệt, là lực lượng được trang bị vũ khí, khí tài, cơ sở vật chất,

phương tiện phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công

tác với nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ

Tổ quốc. Để cán bộ quân đội thực sự yên tâm công tác, tuyệt đối trung thành với

sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ

quan chức năng các cấp trong quân đội cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính

trị cho cán bộ quân đội. Trong đó, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của người cán bộ

quân đội trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp

ủy đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên và của bản thân từng cán bộ Hậu cần Quân

đội nhằm tiếp tục bồi dưỡng, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong

tình hình mới. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ trực tiếp góp phần xây dựng Quân

đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) vững mạnh về chính trị, hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ được giao.

“Công tác hậu cần quân đội là một mặt công tác quân sự, gồm tổng

thể những hoạt động để bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải

cho quân đội nhằm duy trì khả năng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm

vụ và sẵn sàng chi viện về hậu cần cho các lực lượng vũ trang và

nhân dân địa phương trong các tình huống…; là công tác chuyên

môn của cán bộ, chiến sĩ, nhân viên hậu cần; đồng thời là công tác

chung, mọi cán bộ, chiến sỹ và công nhân viên quốc phòng trong

toàn quân có trách nhiệm tham gia thực hiện” [22, tr.3].

Đội ngũ cán bộ Hậu cần (CBHC) Quân đội là lực lượng có vai trò quan

trọng quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác hậu cần của quân đội, là

đội ngũ trực tiếp quản lý cơ sở vật chất, tài chính hậu cần; tổ chức tạo nguồn,

bảo đảm lực lượng, vật chất, phương tiện hậu cần cho các nhiệm vụ huấn

luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác của các đơn vị trong toàn quân;

2

tổ chức quản lý, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ,

nhân viên hậu cần các cấp; nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe bộ đội; nghiên

cứu, phát triển khoa học hậu cần quân sự; tham mưu cho các cấp ủy đảng lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác hậu cần nhân dân bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới.

Trong điều kiện hiện nay, hoạt động bảo đảm hậu cần của đội ngũ

CBHC Quân đội dễ nảy sinh tham nhũng, “lợi ích nhóm” và sự suy thoái về

đạo đức, lối sống. Để hạn chế và loại trừ tình trạng này, các cấp ủy, tổ chức

đảng, người chỉ huy các cấp trong quân đội phải thực hiện đồng bộ nhiều giải

pháp lớn. Trong đó, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu.

Trong những năm qua, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò rất quan trọng

của ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng, người

chỉ huy trong quân đội đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt nhiều kết quả quan trọng. Nội dung

giáo dục, rèn luyện đã cụ thể, thiết thực hơn, gắn liền và sát với nhiệm vụ bảo

đảm hậu cần, với chức trách, nhiệm vụ của CBHC ở từng cấp, từng quân,

binh chủng và từng đơn vị. Hình thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đã được đổi

mới theo hướng đa dạng, phát huy được vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng,

các đoàn thể trong đơn vị tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội.

Đa số CBHC Quân đội luôn chủ động tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM và

có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, cần kiệm, liêm

chính, ý thức kỷ luật nghiêm, chấp hành tốt mệnh lệnh cấp trên, chế độ quy

định của ngành, điều lệnh, điều lệ quân đội. Nhờ đó, chất lượng công tác hậu

cần từng bước được nâng lên; đã tích cực thực hành tiết kiệm…khai thác hiệu

quả vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất, quân lương, quân trang, bảo đảm

kịp thời cho nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu. Nhiều

CBHC luôn gương mẫu về đạo đức, lối sống, tận tâm, tận lực trong công việc,

sâu sát với bộ đội, thích ứng với phương thức bảo đảm hậu cần trong điều

kiện hiện nay.

Tuy nhiên, công tác tổ chức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ

CBHC Quân đội của các cấp ủy đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng…

vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém như: nội dung giáo dục của nhiều cấp ủy, tổ

3

chức đảng, chỉ huy đơn vị chưa được đổi mới, còn chung chung, có nội dung

chưa gắn với thực tiễn nhiệm vụ bảo đảm hậu cần và chức trách, nhiệm vụ

của CBHC; còn biểu hiện hình thức trong công tác giáo dục, rèn luyện. Việc

theo dõi, kiểm tra, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ CBHC tự rèn luyện

ĐĐCM của nhiều cấp ủy chưa thường xuyên và chặt chẽ. Vai trò của nhiều tổ

chức đoàn thể chưa được phát huy mạnh mẽ trong tham gia giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC.

Bên cạnh đó, hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội vẫn là khâu yếu, còn những hạn chế nhất định, chưa đáp

ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới. Một số

CBHC thiếu tích cực trong học tập nghiên cứu lý luận chính trị, hoặc có học

nhưng còn chàng màng, dẫn đến tình trạng hẫng hụt về trình độ lý luận, nắm

những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

và đường lối chủ trương của Đảng chưa sâu”. ĐĐCM của một bộ phận

CBHC có biểu hiện suy giảm: trong công việc họ chú ý nhiều đến ý nghĩa

vật chất hơn là ý nghĩa chính trị, đạo đức. Vẫn còn một số cán bộ lợi dụng

kẽ hở của cơ chế để buôn bán trái phép, bớt xén tiêu chuẩn bộ đội, sử dụng

phương tiện của đơn vị, công sức của bộ đội vào mục đích làm giàu cho cá

nhân; một số CBHC có biểu hiện giảm sút lòng tin vào thắng lợi của sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vi phạm các quy định

về công tác bảo đảm hậu cần, cửa quyền, sách nhiễu cấp dưới, sa vào tham

nhũng, lãng phí. Đồng thời, những tác động mặt trái của nền kinh tế thị

trường đã làm một bộ phận CBHC suy thoái về đạo đức, lối sống với những

biểu hiện mới, tinh vi, làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín, danh dự người

CBHC và chất lượng bảo đảm hậu cần quân đội.

Vì vậy, việc lựa chọn và thực hiện đề tài luận án:“Giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt

Nam giai đoạn hiện nay”, thực sự là vấn đề cấp thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện

nay, luận án đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đến năm 2030.

4

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài nước liên quan

đến đề tài luận án, chỉ rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, những nội dung

luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.

- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay

- Khảo sát, đánh giá thực trạng ĐĐCM và thực trạng giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018;

chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm

- Đề xuất phướng hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Luận án nghiên cứu về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

- Về nội dung: Luận án nghiên cứu hoạt động giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội (cán bộ tham mưu hậu cần; cán bộ quân

nhu; cán bộ vận tải; cán bộ xăng dầu; cán bộ doanh trại).

- Địa bàn khảo sát, nghiên cứu: Các cơ quan, đơn vị thuộc các quân

khu, quân chủng, quân đoàn trên địa bàn phía bắc

- Thời gian nghiên cứu, khảo sát: từ năm 2005 đến năm 2018; phương

hướng và giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2030.

4. Cở sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán

bộ, và ĐĐCM của cán bộ, đảng viên.

4.2. Cơ sở thực tiễn

Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ

Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam và thực trạng giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC QĐNDVN từ năm 2005 đến năm 2018; các báo

5

cáo, tổng kết công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT); báo cáo, sơ,

tổng kết về hoạt động giáo dục ĐĐCM; sơ kết, tổng kết thực hiện cuộc vận

động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; số

liệu điều tra, khảo sát ở các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các

phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong

đó, đặc biệt chú trọng phương pháp: phân tích kết hợp với tổng hợp; lôgíc kết

hợp với lịch sử, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Trình bày có hệ thống những vấn đề chung về ngành Hậu cần quân

đội; cán bộ Hậu cần, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

- Tổng kết một số kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018.

- Xác định chuẩn mực ĐĐCM của từng loại CBHC Quân đội; đổi mới nội dung,

phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đến năm 2030.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong giai đoạn hiện nay.

Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ khoa học cho cấp ủy,

tổ chức đảng, cơ quan chính trị, người chỉ huy, đội ngũ cán bộ chính trị các

cấp trong quân đội nghiên cứu, tham khảo xác định chủ trương, giải pháp

trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của CBHC ở đơn vị.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham

khảo trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập về ĐĐCM nói chung

và ĐĐCM của người CBHC Quân đội nói riêng tại Học viện Hậu cần

(HVHC) và các cơ sở bồi dưỡng CBHC Quân đội.

7. Kết cấu của luận án

Luận án kết cấu gồm: mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục

các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài

liệu tham khảo và phụ lục.

6

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO DỤC, RÈN LUYÊN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở NƯỚC NGOÀI

1.1. 1. Công trình của các nhà khoa học Nga

- “Thế nào là quân nhân có đạo đức” của Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp [80]. Tác

giả đã khái quát những khái niệm cơ bản của đạo đức học Mác - Lênin, chỉ rõ

nội dung và một số biểu hiện của đạo đức quân nhân, phân tích những vấn đề

cơ bản thuộc về phẩm chất đạo đức cần thiết của người chiến sĩ Xô Viết. Đồng

thời, chỉ ra những cách thức, biện pháp tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức

của người quân nhân cách mạng.

- “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa và nghĩa vụ của quân nhân” của A.X.

Milôvidốp [2]. Khi trình bày về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, tác giả chỉ ra đây

là cơ sở, nền tảng để người cộng sản nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của

mình đối với sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, tác giả đã nêu lên mục tiêu giáo

dục đạo đức là “nhằm xây dựng một quan điểm sống tích cực, xây dựng một thái

độ tự giác đối với nghĩa vụ xã hội, khi thống nhất giữa lời nói và việc làm trở

thành tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng ngày” [2, tr.3].

Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đạo đức cộng sản, tác giả xác định một

số phương pháp giáo dục đạo đức như: giáo dục thuyết phục, phương pháp

cưỡng bách, giáo dục sự thật, “đấu tranh thẳng thắn, chân thành, cởi mở, lập

trường nguyên tắc và lập trường của Đảng là cần thiết trong tập thể bộ đội Xô

viết”. Bên cạnh đó, tác giả nhấn mạnh việc giáo dục bằng gương sáng cá nhân:

“người chỉ huy cần phải là tấm gương cho cấp dưới trong việc chấp hành nghiêm

chỉnh các tiêu chuẩn đạo đức và thẩm mỹ của hành vi, hoàn thành tốt nhất các

yêu cầu của pháp luật xô viết, của lời thề quân nhân, điều lệnh quân đội và nghĩa

vụ phục vụ của mình” [2, tr.36]. Đồng thời, phải giáo dục bằng dư luận xã hội:

“dư luận có uy tín đạo đức to lớn, con người được trải qua trường học thật sự về

giáo dục nghĩa vụ đối với xã hội. Dư luận xã hội làm nảy sinh tinh thần trách

nhiệm trước tập thể ấy và trước toàn thể xã hội” [2, tr.36].

“Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng vũ trang xô-viết”, của P.I.

Các-pen-cô [131]. Trong sách, các tác giả đã trình bày về công tác đảng - chính

trị ở đơn vị cơ sở. Trong đó, công tác đảng - công tác chính trị ở đơn vị cơ sở

7

phải có tính lý luận chặt chẽ và có tính thực tiễn cụ thể, phong phú; lý luận phải

gắn liền với hoạt động thực tiễn sinh động, không tách rời nhiệm vụ chính trị

của đơn vị. Về giáo dục đạo đức, các tác giả đã chỉ ra: “Việc giáo dục đạo đức

cho mọi người phải thống nhất, chặt chẽ với giáo dục tư tưởng - chính trị và

giáo dục quân nhân. Nếu đạt được trình độ tinh thần - đạo đức nhất định thì

chúng ta có thể đi xa hơn nữa trên con đường củng cố nhận thức về các quy tắc

và tiêu chuẩn của hành vi cộng sản chủ nghĩa…” [131, tr.68]. Theo tác giả,

việc giáo dục đạo đức thông qua đó hình thành lập trường sống của mỗi quân

nhân, để họ tự giác nhận và thực hiện nhiệm vụ, có thái độ rõ ràng, đấu tranh

chống các hiện tượng tiêu cực trong đơn vị.

1.1.2. Công trình của các nhà khoa học Trung Quốc

- “Giáo trình Công tác Chính trị” của Chương Tử Nghị [119]. Trong

sách, tác giả trình bày, luận giải về vấn đề đức và tài của người cán bộ trong

quá trình hiện đại hóa. Đức, tài là một thể thống nhất, không thể tách rời

nhau, hay coi trọng hoặc hạ thấp yếu tố nào. Theo tác giả: không có đức thì

không thể kiên trì định hướng XHCN, không thể toàn tâm, toàn ý phục vụ

nhân dân; trọng dụng người có tài mà không có đức sẽ có nguy hiểm rất lớn.

Không thể nghĩ rằng, một người thiếu niềm tin, kiên định ở chủ nghĩa cộng

sản; không hiểu gì về chính sách, phương châm, đường lối của Trung ương

Đảng, không có trách nhiệm với công việc, tính đảng yếu, tinh thần không

phấn chấn, đời sống hủ bại, hưởng lạc, ỷ quyền để mưu lợi cá nhân, thậm chí

vô kỷ luật, phạm pháp lại có thể gánh vác được trọng trách của những người

lãnh đạo. Bên cạnh đó, tác giả nhấn mạnh yếu tố đức và tài của người cán bộ

trong quân đội là rất quan trọng, cần phải xây dựng, giáo dục, vì đây là lực

lượng sẵn sàng hy sinh thân mình vì Tổ quốc.

- “Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay” của Nhiệm Khắc

Lễ [97]. Trong sách, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về công tác xây

dựng Đảng hiện nay của Trung Quốc. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ việc

xây dưng đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài trong quá trình xây dựng Đảng, xây

dựng nhà nước chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Theo đó, tác giả chỉ ra

nội hàm của đạo đức là: Kiên trì chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông,

kiên trì lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, trung

thành vô hạn với xây dựng Đảng, sự nghiệp của Đảng; kiên trì tôn chỉ, một

lòng một dạ phục vụ nhân dân, gắn bó với nhân dân, tự giác tiếp thu sự phê

bình, giám sát của Đảng và quần chúng, chống chủ nghĩa quan liêu và chủ

nghĩa hình thức; cần phải kiên trì đường lối tư tưởng thực sự cầu thị, có tác

phong công tác điều tra nghiên cứu, có tấm lòng nồng cháy đối với sự nghiệp

8

cách mạng và tinh thần trách nhiệm chính trị, có khả năng dùng phương pháp

tư tưởng Mácxít vũ trang cho mình; gương mẫu giữ gìn kỷ luật và pháp luật,

có phẩm chất đạo đức và tác phong tư tưởng cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp. Bên

cạnh đó, tác giả nêu rõ, cần xây dựng đạo đức trong mối quan hệ giữa đức và

tài, đó là yếu tố cần và đủ trong phẩm chất của người cán bộ.

- “Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng”, của La Quốc Kiệt [93]. Đây là cuốn

sách được dịch từ bộ giáo trình cùng tên, dùng làm giáo trình thông dụng của

môn học đạo đức tư tưởng cho mọi đối tượng sinh viên trong các trường đại

học của Trung Quốc. Trong sách, tác giả đã tập trung giải quyết mười hai vấn

đề cơ bản được đưa ra, trong đó, nhấn mạnh việc: bồi dưỡng phẩm chất đạo

đức tốt (chương X); kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp (chương

XI); kiên trì và tu dưỡng, bồi dưỡng nhân cách cao thượng (chương XII). “Tu

dưỡng đạo đức tư tưởng” quán triệt tinh thần: “Xây dựng đạo đức xã hội chủ

nghĩa cần lấy phục vụ nhân dân làm trung tâm”, mà Nghị quyết Hội nghị Trung

ương 6, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc (khóa XIV) đã xác định.

Khi bàn về sự hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức, tác giả nêu rõ:

“Sự hình thành phẩm chất đạo đức là quá trình tác động lẫn nhau giữa ý thức đạo

đức và thực tiễn đạo đức của con người, đồng thời cũng là kết quả của nguyên

tắc, quy phạm đạo đức chiếm địa vị chủ đạo của xã hội biến thành hành động đã

được cụ thể hóa và cá tính hóa” [93, tr. 514-515]. Từ đó, tác giả trình bày những

yêu cầu, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, xác định một số biện pháp tu dưỡng,

rèn luyện đạo đức, tư tưởng của sinh viên trong thời đại mới, đáp ứng yêu cầu

phát triển của xã hội.

- “Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh

nghiệm của Trung Quốc” của Hội đồng lý luận Trung ương [87]. Cốn sách

tập hợp các bài viết và bài phát hiểu của các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu của

Việt Nam và Trung Quốc xoay quanh những vấn đề cơ bản: xây dựng đảng

cầm quyền; tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất; xây dựng tổ

chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên; đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của

Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật, liêm chính của Đảng; tăng

cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Một số bài viết tập

trung làm rõ những vấn đề cấp thiết trong xây dựng đảng cầm quyền, trong đó

nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là cần bồi dưỡng những giá trị cốt lõi về cần,

kiệm, liêm, chính, tận trung với nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, phải biết

hy sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

9

- “Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới - kinh nghiệm

Trung quốc, kinh nghiệm Việt Nam” của Hội đồng lý luận Trung ương [89].

Cuốn sách tập hợp một số bài viết trong Hội thảo lý luận làn thứ bảy giữa

Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc về “Làm tốt công

tác quần chúng trong tình hình mới - Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm

Việt Nam”, được tổ chức tại Giang Tô - Trung Quốc năm 2011. Các bài viết

trong sách đã khẳng định quần chúng nhân dân là người nắm giữ, sáng tạo

nên lịch sử. Trong điều kiện lịch sử của mỗi nước, Đảng Cộng sản Việt Nam

và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành

các cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó

khăn, thử thách và giành những thắng lợi vĩ đại. Những thắng lợi bắt nguồn từ

đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, được nhân dân đồng tình ủng hộ; đội

ngũ cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy sức mạnh của quần

chúng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời, các bài viết cũng nêu

lên một số kinh nghiệm trong công tác quần chúng, và chỉ ra trong giai đoạn

hiện nay, công tác quần chúng cần tiếp tục được đổi mới; tăng cường công tác

tuyên truyền, giáo dục đối với quần chúng nhân dân, và đối với đội ngũ cán

bộ, đảng viên của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần

chúng, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng.

- “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới - kinh

nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam” của Hội đồng lý luận Trung

ương [88]. Cuốn sách tập hợp hai mươi sáu bài phát biểu, bài viết của các nhà

lãnh đạo, các nhà nghiên cứu của Trung Quốc và Việt Nam trong Hội thảo lý

luận lần thứ chín giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung

Quốc. Các bài viết tại Hội thảo xoay quanh các chuyên đề như: xây dựng tác

phong Đảng liêm chính; xây dựng chế độ; giám sát ràng buộc quyền lực; môi

trường xã hội; phòng, chống tham nhũng; trình bày các quan điểm, chủ

trương, chính sách, những cách làm tốt, những bài học kinh nghiệm của mỗi

bên. Đặc biệt trong bài “Những cách làm và kinh nghiệm chủ yếu về xây

dưng tác phong Đảng liêm chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của Lưu

Kỳ Bảo đã nêu lên sáu kinh nghiệm, nhấn mạnh kinh nghiệm phải: “kiên trì

nắm chắc công tác giáo dục liêm chính, xây dựng phòng tuyến đạo đức tư

tưởng vững chắc cho việc đấu tranh chống tham nhũng biến chất” [88, tr.28];

10

trong bài “Một vài góc độ lý giải tầm quan trọng của xây dựng tác phong

Đảng liêm chính” của Lý Thư Lỗi nêu lên 5 quan điểm, trong đó nhấn mạnh:

“bất kỳ một đảng cầm quyền nào, một chính quyền nào muốn đứng vững đều

cần xây dựng hình tượng đạo đức của mình, thể hiện trên mình giá trị đạo đức

tích cực và lấy đó để dẫn dắt trào lưu xã hội, chỉ có như vậy mới có thể được

nhân dân thừa nhận” [88, tr.73-74].

- “Công tac xây dưng Đang cua Đảng Công sản Trung Quốc trong giai

đoan hiên nay” của Trường Lưu [99]. Bài viết đã làm rõ những kết quả nổi

bât trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Công san Trung Quốc, nhất là

những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ

chức thời gian qua. Đặc biệt nhấn mạnh chiến dịch chông tham nhung với

phương châm “kêt hơp phong va chống”, khâu hiêu: “đa hô, diệt ruôi, săn

cao” do Tổng Bí thư Đảng Công san Trung Quốc - Tập Cận Bình phát động.

Từ năm 2013 đến nay, các cơ quan đảng và nha nước Trung Quốc đa phat

hiện và xử lý nghiêm khắc hơn 180 can bộ cao câp vi tôi tham nhung va vi

phạm nghiêm trọng ky luât đang va hang van can bô tư câp huyên trơ xuông.

Đồng thời, tác giả làm rõ một số vân đê rut ra tư công tac xây dưng Đang của

Đang Cộng san Trung Quốc: môt la, sự cần thiêt va tinh câp bách của viêc đổi

mơi va tăng cương công tac xây dưng Đảng trong tinh hinh hiên nay; hai la,

đôi mới công tac xây dưng Đang; ba la, tập trung nô lưc của công tac xây

dưng Đang hiên nay vao đấu tranh chông tham nhũng; bôn la, công tac xây

dựng Đảng hiên nay cân găn liền vơi cải cách hê thống chinh tri, xây dưng

nha nước phap quyên xã hội chủ nghia.

1.1.3. Các công trình của các nhà khoa học Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

- “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh

nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào” của Bunma KếtKêson [26]. Trong luận

án của mình, tác giả chỉ ra quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về

ĐĐCM, đó là đạo đức mới, đạo đức của những người cách mạng chân chính,

tiêu biểu, cao đẹp nhất cho những phẩm chất tiêu biểu của giai cấp công nhân

và nhân dân các bộ tộc Lào. Nó được kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống

của dân tộc với sự tiếp thu các giá trị đạo đức tiên tiến của thời đại trong mọi

giai đoạn phát triển của cách mạng. Trong đó, Đảng Nhân dân cách mạng Lào

luôn khẳng định: Đạo đức cách mạng là cái gốc, là nền tảng của người cán bộ

lãnh đạo, đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng rèn luyện phấn đấu.

11

Đồng thời, tác giả chỉ ra đặc trưng ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo chủ

chốt cấp tỉnh ở Lào là: Trung thành và quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng

lợi mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân các bộ

tộc Lào; sự thống nhất động cơ với hành động và yêu cầu hiệu quả; yêu

thương quý trọng con người là phẩm chất cơ bản về đạo đức của người cán

bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở Lào (được biểu hiện: qúy trọng phẩm giá

con người và tận tụy phục vụ lợi ích con người; căm ghét, đấu tranh xóa bỏ

mọi quan hệ thù địch đối với con người; biết thu phục, cảm hóa, thức tỉnh

kẻ thù và những người lầm đường lạc lối, chống lại con người); cần, kiệm,

liêm, chính, chí công vô tư; tình thần quốc tế trong sáng. Tác giả khẳng

định, trong điều kiện mới, việc nâng cao ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo chủ

chốt cấp tỉnh ở Lào là đòi hỏi tất yếu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc,

dân chủ, thịnh vượng.

- “Rèn luyện đạo đức cán bộ lãnh đạo ở Lào trong điều kiện kinh tế thị

trường”, của Khămphăn Vông-pha-chăn [92]. Trong bài viết của mình, tác giả

chỉ ra, ĐĐCM là một tiêu chuẩn của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh

đạo nói riêng. Đối với Đảng Nhân dân cách mạng Lào chỉ làm tròn nhiệm vụ

và xứng đáng với vai trò đội tiên phong khi Đảng xây dựng được đội ngũ cán

bộ, đảng viên có nhận thức và năng lực, có ĐĐCM. Đó là những cán bộ có

phương pháp lãnh đạo, trách nhiệm cao với nhiệm vụ, không tham lam, không

lợi dụng chức vụ, quyền hạn, kiên định, thuỷ chung, trong sáng với lý tưởng

của Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; cần cù, tiết kiệm, khiêm tốn, có chí tiến

thủ, chịu khó nghiên cứu, học tập để nâng cao nhận thức, không ngừng vươn

lên, dám nghĩ, dám làm, tự chịu trách nhiệm trong công việc; không tham

nhũng, cục bộ, không coi lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích tập thể và Tổ quốc.

Tác giả chỉ ra, trong giai đoạn mới, tổ chức đảng các cấp cần thực

hiện một số giải pháp như: quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hệ

thống, là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp uỷ; phải xây dựng kế hoạch

cụ thể để thực hiện; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ; mở rộng

dân chủ trong trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, cùng nhau tiến

bộ, sửa chữa khuyết điểm của mỗi đảng viên. Là cán bộ lãnh đạo, người có

trọng trách cao trong cấp ủy, chính quyền, trước hết phải gương mẫu để

quần chúng noi theo.

12

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở VIỆT NAM

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện

đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta

Khi nghiên cứu về hoạt động giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM đối

với đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,

có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu, tiếp cận luận giải ở những góc độ

khác nhau, tiêu biểu có những công trình đáng chú ý như: “Quan điểm tư tưởng

Hồ Chí Minh về đức - tài trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội” của tiến sĩ

Nguyễn Quang Phát (chủ biên) [125]; “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương [13];

“Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh [118];

“Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội

ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội” của Đặng Sỹ Lộc [98]; “Văn hóa đạo đức

Hồ Chí Minh” của Hoàng Chí Bảo [15]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn

Thị Hoài Phương [130]; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục

đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006” của

Đỗ Xuân Tuất [150]. “Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính,

chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư

trong sáng, cuộc sống riêng giản dị” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10];

“Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường Đại học, cao đẳng

trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Vân Anh [1]; “Công an

nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người công an cách mệnh của Hồ Chí

Minh” của Giáo sư, Tiến sĩ Tô Lâm [94]; “Xây dựng phong cách, tác phong

công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương

[11]; “Hồ Chí Minh - Giá trị về tư tưởng và đạo đức” của Trần Quang Nhiếp,

Nguyễn Văn Sáu [122]; “Văn hóa đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi

Đình Phong [126]; “Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời” của Trần

Viết Hoàn [84]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận và

thực tiễn” (xuất bản lần thứ 2) của GS, TS Tô Lâm [95].

13

Các công trình của các nhà nghiên cứu nêu trên đã tập trung phân tích,

chỉ rõ nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đó

là sự kết tinh từ truyền thống của dân tộc Việt Nam, được phát huy, phát triển

trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát

triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin; tiếp thu

có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa đạo đức của nhân loại. Một

số công trình đã chỉ rõ ĐĐCM là “cái gốc”, là nền tảng để hình thành và phát

triển hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên, giúp họ hoàn thành tốt

nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời, chỉ ra quan hệ đức - tài của người cách

mạng, đây là hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức

là yếu tố quan trọng, quyết định việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm

chất nhân cách của người cách mạng.

Một số công trình đã luận giải làm rõ những yêu cầu về phẩm chất,

nguyên tắc xây dựng, rèn luyện ĐĐCM của người cán bộ, đảng viên theo tư

tưởng Hồ Chí Minh. Về ĐĐCM, tuy có nhiều cách luận giải cụ thể khác nhau

gắn với từng đối tượng, thời điểm, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, nhưng về cơ

bản, các công trình đều chỉ ra biểu hiện trung nhất đạo đức của người cách

mạng là: trung với Đảng, Tổ quốc, hiếu với dân; yêu thương con người; sống

có nhân, nghĩa, có trí, dũng, uy tín của người cách mạng và luôn nêu cao tinh

thần: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Đồng

thời, các tác giả chỉ ra một số nguyên tắc rèn luyện ĐĐCM theo tư tưởng Hồ

Chí Minh, gồm: nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức cách mạng; xây

đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời; tôn trọng, gắn bó với quần

chúng, nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng, nhân dân trong sự nghiệp

cách mạng và rèn luyện cán bộ cách mạng về đạo đức, lối sống.

Một số công trình tiêu biểu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài

luận án được khai thác:

- “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức cách

mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006”, của giả Đỗ Xuân

Tuất [150] đã khái quát sự lãnh đạo của Đảng ta trong giáo dục ĐĐCM cho cán

bộ, đảng viên từ 1994 đến 2006, và chỉ ra phẩm chất chung về đạo đức của

người cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đã xác định trong Nghị quyết Đại hội VIII,

IX… trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: tuyệt

đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc…; luôn nêu

cao tinh thần “mình vì mọi người”, gắn bó với nhân dân, chống chủ nghĩa cá

14

nhân, quan liêu, chống đặc quyền, đặc lợi…; khiêm tốn, cầu thị, tích cực học

tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt…; tự giác chấp hành kỷ luật,

nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình… Đồng thời chỉ ra những phẩm chất

đạo đức cách mạng riêng đã được cụ thể hóa trong điều kiện của mỗi tổ chức,

các ngành, các đơn vị.

- “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” của Giáo sư Hoàng Chí Bảo [15].

Cuốn sách tập trung giới thiệu 5 chuyên đề: Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh -

Một kiểu mẫu văn hóa đạo đức; Ba vấn đề lớn cần quan tâm trong cuộc vận

động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Sửa đổi lối làm

việc” - Tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền;

Về hoàn cảnh ra đời, giá trị và ý nghĩa của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách

mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Minh triết Hồ

Chí Minh về đạo đức. Cuốn sách chỉ ra trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới

gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức, từ bài giảng đầu tiên trong tác

phẩm “Đường cách mệnh” đến bản “Di chúc” cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức

là “cái gốc” của người cách mạng.

- “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình

chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Lý [100].

Cuốn sách gồm 2 chương, phân tích làm rõ một số nội dung cơ bản về: đạo

đức và những giá trị đạo đức truyền thống; cơ sở hình thành các giá trị đạo

đức truyền thống ở Việt Nam; tính tất yếu, yêu cầu của việc kế thừa và phát

huy các giá trị đạo đức truyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, tác giả

phân tích những điều kiện của kinh tế thị trường tác động tới giá trị đạo

đức truyền thống. Trên cơ sở làm rõ thực trạng, tác giả chỉ ra năm nhóm

giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong điều

kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

- “Đạo đức nghề báo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Hoàng

Đình Cúc [34]. Trong sách của mình, tác giả quan niệm: Đạo đức là một hệ

thống nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực và những khái niệm có tính chất đánh

giá và tính chất mệnh lệnh điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ

với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hay

toàn xã hội); là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản

15

ánh hiện thực đời sống xã hội, chế độ kinh tế - xã hội; là một phương thức

điều chỉnh hành vi của con người. Đồng thời luận giải, nghề làm báo là

một nghề do xã hội phân công. Đạo đức nghề báo là một loại đạo đức

nghề nghiệp, là một bộ phận, một yếu tố cấu thành của đạo đức xã hội.

Theo đó: Đạo đức nghề báo là hệ thống quy tắc, chuẩn mực đạo đức của

người làm báo trong quan hệ với xã hội, với nghề nghiệp, với đồng nghiệp

và với bản thân. Trên cơ sở phân tích đạo đức nghề báo với tư cách là một

lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp, các chuẩn mực và thực trạng của đạo đức

nghề báo ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo

đức nghề báo ở nước ta.

- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và sự vận dụng của

Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hoài Phương [130]. Nội

dung cuốn sách gồm 2 chương: Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về ĐĐCM; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong xây dựng Đảng.

Trong đó, tác giả phân tích làm rõ ĐĐCM là một nội dung quan trọng, cơ bản

của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng của đạo đức mới ở Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, và tổ chức thực hiện

tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với

các tổ chức, và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Để thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ xây dựng Đảng trong điều kiện mới, tác giả nhấn mạnh cần tiếp tục

quán triệt, vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách cụ thể và

sâu sắc trong hoạt động xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên

thường xuyên, hàng ngày, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn

ĐĐCM: cần, kiệm, liêm, chính.

- “Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng,

cuộc sống riêng giản dị” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10]. Sách trình bày

những nội dung tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: tu dưỡng đạo

đức suốt đời; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; làm người công bộc tận

tụy, trung thành của nhân dân. Đây là tài liệu dùng cho cấp ủy, tổ chức đảng

các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình giáo dục, rèn luyện, tự

giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng, nhằm đẩy mạnh thực hiện nhiệm

vụ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên thực tiễn.

16

- “Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường Đại học, cao

đẳng trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Vân Anh [1].

Cuốn sách luận giải làm rõ một số vấn đề cơ bản trong công tác giáo dục đạo

đức; một số nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên qua môn học tư tưởng Hồ

Chí Minh. Thông qua đó, xây dựng cho sinh viên có nhận thức, suy nghĩ và

hành động phù hợp chuẩn mực đạo đức, góp phần thực hiện lẽ sống của Bác

Hồ. Bên cạnh đó, cuốn sách chỉ ra phương pháp giáo dục đạo đức thông qua

môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là ngoài việc lồng ghép vào nội dung bài

giảng, giảng viên cần đưa ra các chủ đề về đạo đức vào các giờ Xêmina và

hướng dẫn, gợi ý, dẫn dắt sinh viên thể hiện các quan điểm, nhận thức và thái

độ về đạo đức, lẽ sống của mình; giảng viên cần xây dựng những bài kiểm tra,

bài thi mở, tạo điều kiện cho sinh viên trình bày những suy nghĩ, ý kiến cá nhân

của mình, liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.

- “Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người công an cách

mệnh của Hồ Chí Minh” của GS Tô Lâm [94]. Nội dung cuốn sách đi sâu phân

tích hoàn cảnh ra đời, chủ đề tư tưởng và kết cấu của tác phẩm Tư cách người

công an cách mệnh; phân tích nội dung cơ bản của tác phẩm. Từ đó, tác giả

khẳng định những giá trị và sức sống bền vững của tác phẩm tư cách người

công an cách mệnh đối với quá trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng

Công an nhân dân. Điểm mới nổi bật thể hiện trong cuốn sách chính là việc tác

giả đã tiếp cận Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân không chỉ là 6 luận

điểm, 6 mệnh đề khoa học mà còn coi đó như một tác phẩm trọn vẹn, ngắn

gọn, dễ hiểu, dễ nhớ như 6 câu thơ của Bác. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến

tư cách gắn liền với đạo đức của người công an cách mệnh, với những chuẩn

mực tiêu biểu về lòng tận trung với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân. Cuốn sách

cũng làm rõ những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân

vận, từ đó luận giải về văn hóa ứng xử của cán bộ, chiến sĩ công an khi làm

việc, tiếp xúc với nhân dân.

- “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của

cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương [11]. Nội dung cuốn sách

gồm 3 phần, trong đó tập trung làm rõ: khái niệm phong cách; phong cách Hồ

Chí Minh mang đậm tính chất dân tộc và hiện đại, khoa học và cách mạng…

của một nhân cách lớn, một trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn của

17

nhà văn hóa lớn trên thế giới Hồ Chí Minh. Phong cách Hồ Chí Minh được

thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành chỉnh thể

nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi

người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo. Những nội dung cơ

bản của phong cách Hồ Chí Minh: Phong cách tư duy, phong cách làm việc,

phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử, phong cách

sống. Để xây dựng phong cách công tác của người cán bộ, đảng viên theo tư

tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách chỉ ra cần xây dựng cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên có phong cách làm việc dân chủ, phong cách làm việc quần chúng,

phong cách làm việc khoa học, phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm.

- “Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời” của Trần Viết Hoàn

[84]. Cuốn sách gồm 33 bài viết ngắn gọn, mộc mạc, chân thực nhưng hết sức

sinh động về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

như những sinh hoạt đời thường của Người. Tác giả đã khai thác rất nhiều khía

cạnh về đạo đức của Bác Hồ từ việc ăn, mặc, ở, đến những quan niệm về đạo

đức mà Bác dạy cho cán bộ, chiến sĩ công an; đồng thời, tập trung phân tích

sâu sắc phong cách sống đời thường, giản dị, khiêm tốn, kính trọng dân, làm

gương trước quần chúng… của Bác. Từ đó, tác giả chỉ ra việc “tự phê bình và

phê bình” theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) như một phương thuốc

chữa bệnh cho cán bộ, đảng viên trong thời đại mới.

- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận và thực

tiễn” của GS Tô Lâm [95]. Sách gồm hai phần, nêu bật sự cần thiết phải nghiên

cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân; phân tích, làm sáng

tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với Công

an nhân dân; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công an nhân dân; sự cần thiết

phải giữ vững bản chất giai cấp, quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong Công an

nhân dân; về tăng cường sự đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Công

an nhân dân với Quân đội nhân dân, các cấp, các ngành và dựa vào nhân dân

trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức;

đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của

một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay

* Các công trình nghiên cứu vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay

Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan

tâm, được Đảng ta tiếp tục xác định tại Đại hội lần thứ XII với nội dung yêu

18

cầu trong thời kỳ mới đã giành được sự quan tâm nghiên cứu đặc biệt của

nhiều nhà khoa học, với nhiều công trình khác nhau đề cập đến vấn đề này.

Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như: “Xây dựng Đảng về đạo đức

cần gắn chặt với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức” của PGS, TS

Nguyễn Minh Tuấn [149]; “Xây dưng Đang vê đao đưc theo đinh hương Văn

kiên Đai hôi XII cua Đang” của Phùng Hữu Phú [127]; “Vân dung tư tương

Hô Chi Minh vê cân, kiêm, liêm, chinh vao xây dưng Đang vê đao đưc trong

giai đoan hiên nay” của Trần Thị Minh Tuyết [151]; “Xây dựng Đảng ta ngày

càng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh” của GS Nguyễn

Phú Trọng [148]; “Mấy vấn đề cơ bản và tiên quyết xây dựng Đảng về đạo

đức, bảo đảm nâng cao sức mạnh, uy tín và trách nhiệm cầm quyền của Đảng

hiện nay” của Nhị Lê [96]; “Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên, chống

chủ nghĩa cá nhân, bè phái, “lợi ích nhóm” của PGS, TS Dương Trung Ý

[164]; “Xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan hiện nay” của GS Lê Hữu

Nghĩa [120]; “Xây dựng Đảng về đạo đức trọng tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây

dựng tổ chức, xây dựng con người của Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật” của

Nguyễn Hữu Chính [32]; “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên” của GS,

TS Vũ Văn Hiền [83]; “Một số giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong

Đảng bộ Quân đội” của PGS, TS Đặng Nam Điền, ThS Nguyễn Văn Giới

[78]; “Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay” của GS, TS Tạ Ngọc

Tấn [139]; “Xây dựng Đảng về đạo đức” của GS Hoàng Chí Bảo [16]; “Giáo

dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách mạng cho đảng viên - một nội dung

quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức” của Đoàn Minh Huấn [90]; “Nâng

cao chất lượng xây dựng Đảng bộ Quân đội về đạo đức trong tình hình mới”

của Nguyễn Trọng Nghĩa [121]; “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về

đạo đức” của PGS, TS. Nguyễn Văn Giang [81].

Các công trình nêu trên đã tập trung luận giải, làm rõ những vấn đề cơ

bản về khái niệm, nội dung, phương thức xây dựng Đảng về đạo đức; nhấn

mạnh việc xây dựng chuẩn mực ĐĐCM của mỗi cán bộ, đảng viên là “gốc”

để xây dựng chuẩn mực đạo đức chung trong Đảng và hệ thống chính trị.

Trong điều kiện mỗi ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị khác nhau có yêu

cầu, nhiệm vụ khác nhau nên quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về

đạo đức cũng phải được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm

nhiệm vụ được giao; chú trọng xây dựng chuẩn mực ĐĐCM cho từng đối

tượng cán bộ, đảng viên, sát với yêu cầu nhiệm vụ.

19

Một số công trình tiêu biểu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài

luận án được khai thác:

- “Xây dựng Đảng về đạo đức cần gắn chặt với xây dựng Đảng về

chính trị, tư tưởng, tổ chức” của PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn [149]. Tác giả

quan niệm: xây dựng Đảng về đạo đức, là xây dựng và thực hiện nhưng chuân

mực giá trị đao đức cach mang của đội ngũ đảng viên, lam cho Đang trong

sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo va sưc chiên đâu của Đang, xây

dưng thành công chu nghia xa hôi và bao vệ vững chắc Tô quôc Việt Nam xa

hôi chu nghia. Đồng thời tác giả phân tích, làm rõ mối quan hệ giữa xây dựng

Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong

đó, xây dựng Đảng về chính trị có tính chất bao trùm, chi phối xây dựng Đảng

về tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo

đức đều xuất phát từ xây dựng Đảng về chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính

trị, làm căn cứ lý luận và thực tiễn cho xây dựng Đảng về chính trị. Xây dựng

Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức gắn bó chặt chẽ, tác động qua

lại, là cơ sở, tiền đề và là hệ quả của nhau, thúc đẩy nhau, bảo đảm cho Đảng

Cộng sản Việt Nam thực sự là đội tiên phong lãnh đạo toàn xã hội.

- “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên” của GS, TS Vũ Văn Hiền

[83]. Tác giả cho rằng, chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên có thể quan

niệm là những điều quy định làm căn cứ để đánh giá đảng viên khác với

người ngoài Đảng, người đó có xứng đáng là thành viên trong đội ngũ tiên

phong của dân tộc - Đảng Cộng sản Việt Nam - hay không. Từ đó, tác giả đề

ra chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên cần được nhìn nhận rõ nét trên

những vấn đề như: Về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị; về nhận thức,

kiến thức, năng lực toàn diện; về lối sống, phong cách; về quan hệ với quần

chúng nhân dân. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh về lập trường giai cấp,

bản lĩnh chính trị. Đạo đức cách mạng đòi hỏi đảng viên phải có thái độ đúng

đắn, tích cực, đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ do công cuộc đổi mới đặt

ra; đảng viên cần ủng hộ nhân tố mới, tích cực tham gia chống tiêu cực và tệ

nạn xã hội, phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoan, tư tưởng sai lệch.

- “Một số giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong Đảng bộ Quân đội”

của PGS, TS Đặng Nam Điền, ThS Nguyễn Văn Giới [79]. Các tác giả nhấn

mạnh, để góp phần xây dựng Đảng về đạo đức trong Đảng bộ quân đội hiện

nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội phải hướng tới thực

hiện tốt mục tiêu: Kiên định xây dựng nền tảng chính trị vững chắc, kỷ cương,

kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất, trung thành tuyệt đối với Đảng, giữ vững lòng

20

tin yêu của nhân dân, sẵn sàng hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Đồng thời, tác giả nhấn mạnh, để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo

đức trong Đảng bộ quân đội hiện nay, cần thực hiện đồng bộ, nhiều giải pháp,

nhưng trước hết cần kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng

viên trong cơ quan, đơn vị; và từng bước cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức của

người cán bộ, đảng viên trong Quân đội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII

của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), làm cơ sở để đội ngũ cán

bộ, sĩ quan học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong quá trình hoạt động.

- “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về đạo đức” của PGS, TS

Nguyễn Văn Giang [81]. Tác giả chỉ ra nội dung xây dựng Đảng về đạo đức

trong điều kiện hiện nay cần bao hàm các yêu cầu chủ yếu như: đối với Đảng

cần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, vì dân, vì nước và tổ

chức thực hiện đến nơi, đến chốn; xây dựng bộ máy của Đảng khoa học, gọn

nhẹ, tiết kiệm, hiệu quả; có phương thức lãnh đạo khoa học; quyền lực được

kiểm soát, trách nhiệm rõ ràng. Đối với cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên

phong, gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; nói đi đôi với làm; có lập

trường chính trị trung thành với Đảng, với nước, với dân; có ý thức trách nhiệm

cao với công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; quan tâm, gần gũi

quần chúng. Không tham nhũng, lãng phí; dũng cảm bảo vệ cái đúng, đấu tranh

với cái sai. Đồng thời, tác giả nêu ra phương thức xây dựng Đảng về đạo đức

như: bằng tuyên truyền, giáo dục về ĐĐCM cho mỗi cán bộ, đảng viên; bằng

sự tu dưỡng, rèn luyện, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên; thông qua xây

dựng Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,

hiệu lực, hiệu quả; và bằng kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.

- “Giáo dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách mạng cho đảng viên - một

nội dung quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức” của Đoàn Minh Huấn

[90]. Tác giả nêu ra những chuẩn mực về nghĩa vụ đạo đức của đảng viên là:

Gương mẫu thực hiện đầy đu nghia vu công dân; tính tiên phong, ưu tu trong

xã hôi; trung thanh (vơi Đang, vơi Tô quôc va nhân dân); dám hy sinh (cho lơi

ich chung); trung thực với Đảng; tuyệt đôi phuc tung ky luât tô chưc, cương

lĩnh, điều lệ, nghị quyêt, nguyên tăc cua Đảng; giư gin đoan kêt, thống nhât

trong Đang; tham gia xây dưng Đang; găn bo mât thiêt vơi nhân dân, tôn trọng

nhân dân, chăm lo và bao vệ nhân dân; có lao động; co đao đưc cach mạng va

lối sống lành mạnh; thương xuyên hoc tâp nâng cao trình đô moi măt va ren

luyên, tu dương đao đưc, lôi sống; hoan thanh nhiêm vu đươc giao; tư phê bình

va phê binh; đâu tranh chông chủ nghia ca nhân, cơ hôi, cuc bộ, tham nhung.

21

* Các công trình nghiên cứu vấn đề đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư

tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ

phận cán bộ, đảng viên hiện nay

Khi nghiên cứu vấn đề đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng,

chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận

cán bộ, đảng viên hiện nay. Các tác giả tập trung làm rõ thực trạng, nguyên

nhân, hậu quả của sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, các tác

giả xác định nội dung, giải pháp nhằm đấu tranh đẩy lùi thực trạng đó. Có

nhiều công trình của các nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề nêu trên, nhưng tiêu

biểu có một số công trình sau:

- “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của Vũ Văn Phúc và

Ngô Văn Thạo [128]. Trong sách, trên cơ sở làm rõ thực trạng suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở Việt Nam và chỉ ra một số kinh nghiệm,

những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô từ góc nhìn suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên cộng sản; kinh nghiệm của

Đảng Cộng sản Trung Quốc trong phòng, chống tham nhũng, suy thoái về đạo

đức, lối sống, xây dựng xã hội hài hòa trong cải cách, mở cửa; kinh nghiệm

trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Hàn Quốc, Xingapo; phòng, chống

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở Cuba...Tác giả xác định

mục tiêu, quan điểm, làm rõ bốn giải pháp cơ bản và các điều kiện đảm bảo

nhằm phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán

bộ, đảng viên có hiệu quả.

- “Phóng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán

bộ, đảng viên hiện nay” của Nguyễn Bá Dương [37]. Cuốn sách là tập hợp

những bài viết của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhà giáo, nhà khoa học của Viện

Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự và Học viện Chính trị. Trong đó, cuốn sách

tập trung làm rõ sự cần thiết, tầm quan trọng của việc ngăn chặn, đẩy lùi suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng

viên hiện nay; bản chất, căn nguyên của sự suy thoái, cách nhận diện sự suy

thoái; những thuận lợi, khó khăn trong đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái...

Đồng thời cuốn sách cũng nêu ra cần phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh,

là cơ sở quan trọng để chủ động đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống một cách hiệu quả.

22

- “Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị” của Nguyễn

Viết Thông [140]. Trong bài, tác giả đã chỉ ra những điểm mới của Nghị

quyết TW4 (khóa XII) với chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và

mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị với suy thoái về đạo đức,

lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hậu quả của nó. Từ đó tác giả

khẳng định, mỗi cán bộ, đảng viên cần xây dựng cho mình có nhận thức sâu

sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và thực hiện tốt các giải

pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư

tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra. Trong đó,

tác giả nhấn mạnh: phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng

sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến

lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Các cấp ủy, tổ chức

cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy

lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả nhất.

- “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của

cán bộ, đảng viên là một yêu cầu bức thiết hiện nay” của Vu Văn Phuc [129].

Trong bài viết, tác giả đã trình bày, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là

nền tảng và động lực tinh thần để phát triển xã hội. Vì vậy, Đảng luôn quan

tâm đến công tác giáo dục, xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng,

lối sống nhân văn cho cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Trên có sở chỉ rõ bẩy

biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện

nay; chỉ ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của sự suy thoái đó. Từ đó, tác

giả làm rõ hệ thống các nhóm giải pháp nhằm phòng, chống suy thoái về tư

tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.

- “Một số giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay” của Vũ Đình Đắc,

Nguyễn Văn Phương [77]. Trong bài viết của mình, trên cơ sở luận giải

một số vấn đề về thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng

viên và nguy cơ của nó, tác giả nhận định để ngăn chặn, đẩy lùi thực trạng

trên cần kiên quyết, kiên trì thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: Nâng

cao nhận thức, trách nhiệm và tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng các

cấp; xác định rõ vai trò, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,

đơn vị; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng,

các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; tăng cường giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM cho mỗi cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05

23

của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của Quân ủy Trung ương, sẽ trực tiếp góp

phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống

của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng bộ Quân đội trong

sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

- “Ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

trong tổ chức và của cán bộ, đảng viên” của Cao Văn Thống, Trần Duy Hưng

[141]. Trong bài viết, các tác giả khẳng định, đấu tranh, ngăn chặn sự suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay

là cuộc đấu tranh trong nội bộ, trước hết phải bắt đầu từ trong Đảng, dựa trên

sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Trong đó, tác giả nhấn mạnh:

cần đổi mới và tăng cường việc nâng cao nhận thức tư tưởng cho các cấp uỷ,

tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức và nhân

dân; đồng thời, hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về công tác tổ

chức cán bộ; thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả chế độ tự phê bình

và phê bình; coi trọng và thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, kiểm

soát cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công

chức trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống và xử lý kiên quyết, kịp

thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm.

1.2.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục, phát triển và nâng cao

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân đội và cán bộ Hậu cần Quân đội

Khi nghiên cứu về ĐĐCM của đội ngũ cán bộ quân đội và CBHC Quân

đội, có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu luận giải ở những góc độ khác

nhau tùy theo mục đích, nhiệm vụ của các công trình. Cụ thể, có một số công

trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án như sau:

* Khi bàn về ĐĐCM, và ĐĐCM của cán bộ quân đội

- “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội

nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới” của Đặng Nam Điền [78]. Tác giả

nêu lên: chuẩn mực ĐĐCM của người cán bộ chính trị trước hết là ĐĐCM

của người cán bộ quân đội, với những chuẩn mực cơ bản như Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã khái quát. Mặt khác, với chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ

chính trị, chuẩn mực đạo đức cũng bao gồm những nội dung đặc thù phù

hợp với hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, đòi hỏi người cán bộ chính

24

trị phải có phẩm chất “dũng cảm chiến đấu” trong mọi nhiệm vụ và mọi

hoàn cảnh; lòng nhân ái, yêu thương con người, yêu thương đồng đội;

thường xuyên trau dồi đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; mẫu

mực về tinh thần quốc tế trong sáng, là tấm gương cho cán bộ, chiến sĩ học

tập noi theo; nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

- “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ

sở binh chủng hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Phạm

Văn Vinh [155]. Tác giả quan niệm: ĐĐCM của cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở

binh chủng hợp thành là hệ thống những phẩm chất đạo đức phản ánh đời

sống, hoạt động, mối quan hệ, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chủ trì ở đơn

vị cơ sở, được thể hiện ở ý thức, tình cảm và hành vi đạo đức của họ, là nền

tảng tạo nên giá trị nhân cách, là cơ sở bảo đảm cho đội ngũ cán bộ chủ trì

thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra chuẩn mực

ĐĐCM của cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở binh chủng hợp thành hiện nay là:

yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp

cách mạng của Đảng; có đạo đức, lối sống “cần, kiệm, liêm, chính, chí công,

vô tư”; lòng dũng cảm, tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có

tình thương yêu đồng chí, đồng đội, yêu quí, kính trọng nhân dân và lòng căm

thù giặc sâu sắc; có ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, thống nhất

giữa nói và làm; ham học hỏi, cầu tiến bộ, tích cực phấn đấu hoàn thành

nhiệm vụ theo chức trách được giao.

- “Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin” của Nguyễn Bá Dương và

Nguyễn Hùng Oanh (chủ biên) [36]. Khi nghiên cứu về đạo đức quân nhân,

cuốn sách đã trình bày những nội dung cơ bản về sự hình thành, phát triển tư

tưởng đạo đức và đạo đức học Mác - Lênin; đồng thời nêu ra quan niệm chung:

“Đạo đức quân nhân quân đội ta là toàn bộ đời sống tinh thần đạo đức của người

quân nhân cách mạng, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, tư

tưởng, tình cảm, giá trị, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức... dùng để điều

chỉnh, đánh giá thái độ, hành vi, quan hệ ứng xử của quân nhân với người khác,

với công việc, với tự mình, được thực hiện dưới sức mạnh dư luận xã hội, truyền

thống và lương tâm của mỗi quân nhân, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách

mạng, mang lại lợi ích cho Tổ quốc, nhân dân” [36, tr.133-134].

25

* Bàn về quan niệm CBHC Quân đội

- “Phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội

nhân dân Việt Nam: lịch sử và lôgíc” của Trần Như Chủ [33]. Tác giả quan

niệm: CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận cán bộ của Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quân

đội nhân dân Việt Nam được lựa chọn giao nhiệm vụ hoạt động trong hệ thống

tổ chức hậu cần; đội ngũ CBHC ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ lực là CBHC

Quân đội, đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy hậu cần ở các cơ quan và phân đội,

trợ lý hậu cần chuyên ngành ở cơ quan hậu cần, được bố trí là sĩ quan hậu cần,

quân nhân chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với các

chuyên ngành hậu cần theo chức danh, trực tiếp làm công tác bảo đảm hậu cần

cho đơn vị thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ.

- “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ

Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Ngọc Ba [3].

Tác giả quan niệm: CBHC là một bộ phận cơ bản của đội ngũ cán bộ

QĐNDVN được giao trách nhiệm trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo và đảm nhiệm

chuyên môn kỹ thuật chủ yếu, làm nòng cốt trong thực hiện chức năng, nhiệm

vụ bảo đảm hậu cần cho quân đội trong mọi tình huống.

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở các sư đoàn bộ binh đủ quân

trong Quân đội nhân dân Việt Nam” của Nguyễn Đức Tưởng [152]. Tác giả

quan niệm: CBHC là một bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội

được lựa chọn, giao nhiệm vụ hoạt động trong hệ thống tổ chức hậu cần quân

đội. Đây là những cán bộ được lựa chọn, đào tạo và giao nhiệm vụ lãnh đạo,

chỉ huy, quản lý các mặt hoạt động khác nhau của công tác hậu cần, là lực

lượng nòng cốt tổ chức và thực hiện công tác hậu cần ở các cơ quan đơn vị

trong toàn quân. Đồng thời, tác giả chỉ ra: đội ngũ CBHC ở các sư đoàn bộ

binh đủ quân là những sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, được đào tạo, bồi

dưỡng có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ hậu cần được bổ nhiệm

giữ các chức danh của cán bộ Hậu cần các cấp ở sư đoàn. Đây lực lượng trực

tiếp nghiên cứu quán triệt, tham mưu, đề xuất, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực

hiện và kiểm tra, quản lý về công tác hậu cần theo phạm vi chức trách, nhiệm vụ

được giao, và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, người chỉ huy và cơ quan hậu cần

về kết quả thực hiện công tác hậu cần của cơ quan, đơn vị.

26

* Về ĐĐCM, lối sống của người CBHC Quân đội

- “Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân

dân Việt Nam” của Hà Nguyên Cát [30]. Tác giả quan niệm: ĐĐCM là đạo

đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt

Nam, giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời,

tác giả nhận định: ĐĐCM của người CBHC là một loại đặc thù của đạo đức

cách mạng; trong đó có sự thống nhất hữu cơ giữa những phẩm chất chung của

đạo đức người cán bộ cách mạng, đạo đức người cán bộ quân đội với những

phẩm chất riêng của đạo đức nghề nghiệp người CBHC tạo nên nền tảng nhân

cách của người cán bộ Hậu cần, là cơ sở đảm bảo cho cán bộ Hậu cần hoàn

thành tốt chức năng, nhiệm vụ cách mạng mà họ được giao phó.

- “Người cán bộ Hậu cần trong giai đoạn cách mạng mới” của Nguyễn

Vĩnh Thắng [142]. Tác giả chỉ ra, trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đội ngũ

CBHC phải thực sự tận trung với Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân;

yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đặc biệt

phải phát huy đức “liêm” và đức “kiệm”, đây là chuẩn mực tiêu biểu của người

cán bộ Hậu cần Quân đội trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, tác giả nhấn

mạnh, để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, CBHC phải có quan điểm phục vụ

đúng đắn và có tinh thần trách nhiệm cao, yên tâm phấn khởi trong công tác,

gắn bó với ngành hậu cần phải lấy phục vụ đại đa số bộ đội là nhiệm vụ chính

của mình như Bác Hồ dạy: nhiệm vụ chính của người cán bộ cung cấp là phụng

sự đại đa số của bộ đội, tức là người binh nhì; phải thương yêu săn sóc người

binh nhì, cán bộ cung cấp như người mẹ, người chị của người binh nhì.

- “Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu

cần ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố giai đoạn hiện nay” của Bùi Nam

Hưng [91]. Tác giả quan niệm: bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC ở bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trong giai đoạn hiện nay là tổng

thể những chủ trương, nội dung, biện pháp của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán

bộ chủ trì và các lực lượng ở BCHQS tỉnh, thành phố tác động vào ý thức,

tình cảm, hành vi đạo đức của đội ngũ CBHC. Đồng thời, tác giả nhấn

mạnh, để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, rèn luyện phải kết hợp chặt chẽ

quá trình tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ hàng ngày của từng

CBHC với nhưng biện pháp của tổ chức, chỉ huy, nhằm nâng cao ĐĐCM

của đội ngũ CBHC đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao.

27

1.3. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA

HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN

TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT

1.3.1. Đánh giá khái quát kết quả của các công trình khoa học có liên

quan đến luận án

* Về đạo đức cách mạng

Một số công trình đã đưa ra được quan niệm về ĐĐCM ở nhiều khía cạnh,

góc độ khác nhau; chỉ ra được những nội dung về ĐĐCM của cán bộ, đảng viên

theo các góc độ đó phục vụ cho mục đích của từng công trình khoa học. Một số

công trình đã đưa ra quan niệm về đạo đức của người cán bộ, cán bộ chính trị, cán

bộ chủ trì đơn vị cơ sở trong quân đôi. Cụ thể:

Các công trình của các tác giả nước ngoài đã làm rõ một số vấn đề về đạo

đức cộng sản; đạo đức, nghĩa vụ của người quân nhân, nhưng chưa có công trình

nào bàn về đạo đức của đội ngũ CBHC trong quân đội. Mặc dù vậy, các công

trình này đã phân tích khá rõ nét về vị trí, vai trò của đạo đức cộng sản và con

đường, biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng đạo đức người cán bộ cộng sản. Đây là

cơ sở lý luận, cung cấp một số luận điểm để nghiên cứu sinh nghiên cứu tham

khảo, vận dụng trong quá trình xây dựng khung lý luận của luận án.

Các công trình của các nhà khoa học trong nước đã khẳng định rõ:

ĐĐCM là “gốc” của cán bộ, đảng viên, của người cán bộ trong quân đội nói

chung và của đội ngũ CBHC Quân đội nói riêng. ĐĐCM thực sự là giá trị cốt

lõi trong bản lĩnh chính trị của người quân nhân, giúp người quân nhân sẵn

sàng hy sinh thân mình vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng, trong mọi điều kiện,

hoàn cảnh luôn nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

* Về giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ĐĐCM

Các công trình khoa học đã nêu lên sự cần thiết phải giáo dục, bồi

dưỡng, rèn luyện để nâng cao ĐĐCM của đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung,

cán bộ quân đội và CBHC Quân đội nói riêng nhằm đáp ứng được yêu cầu xây

dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại hiện nay.

Đồng thời, các công trình đều xác định được chuẩn mực đạo đức của người cán

bộ; đề xuất phương hướng, giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức

của người cán bộ theo mục đích của công trình. Một số công trình đưa ra

những giải pháp về giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ĐĐCM của cán bộ quân đội

trong điều kiện hiện nay.

28

* Về đội ngũ cán bộ Hậu cần

Đa số các tác giả đều thống nhất quan điểm và khẳng định: CBHC

Quân đội là một bộ phận cán bộ của Đảng Cộng sản trong quân đội, được

giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác

hậu cần trong quân đội. Họ là lực lượng trực tiếp chăm lo đồi sống vật chất:

ăn, mặc, ở, đi lại, sức khỏe của bộ đội, góp phần xây dựng ngành Hậu cần

quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo nên sức

mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐNDVN trong điều kiện mới.

- Về ĐĐCM và phát triển ĐĐCM của CBHC Quân đội

Một số công trình của các nhà khoa học đã nghiên cứu về ĐĐCM và

phát triển ĐĐCM của người CBHC Quân đội. Trong đó, các tác giả đã khái quát

được những yêu cầu phẩm chất chính trị, đạo đức; chỉ ra quan niệm ĐĐCM của

người CBHC Quân đội, chỉ rõ vai trò, đặc trưng, đặc điểm quá trình hình thành,

phát triển ĐĐCM và đề xuất những giải pháp cụ thể để xây dựng và nâng cao

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Nhưng các công trình này chủ yếu được

luận giải, nghiên cứu dưới góc độ khoa học triết học; một số công ít trình được

luận giải, nghiên cứu bằng khoa học xây dựng Đảng, nhưng chưa có công trình

nào đề cập, nghiên cứu về vấn đề giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiên nay.

1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu, giải quyết

Một là, xây dựng khái niệm, xác định nội dung ĐĐCM của CBHC

Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Xây dựng khái niệm, xác định nội

dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

nhân dân Việt Nam.

Hai là, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng ĐĐCM, giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018; chỉ rõ

ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm trong giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Ba là, dự báo thuận lợi, khó khăn tác động đến quá trình đẩy mạnh giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong những năm tiếp theo.

Bốn là, xác đinh phương hướng chung, và phương hướng cụ thể nhằm

đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Năm là, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030.

29

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC,

RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI

2.1.1. Khái quát về ngành Hậu cần quân đội

* Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của ngành Hậu cần quân đội

Trước yêu cầu bảo đảm ngày càng lớn cho cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp, ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 121/SL quy

định tổ chức của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, gồm ba cơ quan, trong đó

có Tổng cục Cung cấp (gồm: Cục Quân lương; Cục Quân trang; Cục Quân y,

Cục Quân giới, Cục Vận tải, Cục Quân vụ và Phòng Quân khí). Tổng cục có

nhiệm vụ quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng. Sau

khi thành lập, ngành Hậu cần Quân đội đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các

ngành trong và ngoài quân đội, làm tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã cùng quân với dân cả nước làm nên

chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu.

Ngày 13-1-1955, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 221/QĐ về việc đổi tên

Tổng cục Cung cấp thành Tổng cục Hậu cần.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng, Nhà nước, và quân đội tiếp tục

từng bước xây dựng ngành Hậu cần ngày càng hoàn chỉnh ở hậu phương

Miền Bắc làm chỗ dựa cho quân, dân Miền Nam chiến đấu. Chiến dịch Hồ

Chí Minh lịch sử (1975) thắng lợi, đã khẳng định sự lớn mạnh của ngành Hậu

cần quân đội cả về tổ chức lực lượng, khả năng, phương thức bảo đảm. Sau

năm 1975, ngành Hậu cần quân đội tập trung chấn chỉnh tổ chức và đã đáp

ứng tốt yêu cầu bảo đảm hậu cần cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên

giới Tây Nam và phía Bắc; bảo đảm tốt hậu cần cho lực lượng Hải quân trụ

vững ở Trường Sa, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc.

30

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới, ngành Hậu cần quân đội hiện nay tập trung kiện toàn tổ

chức hậu cần các cấp trong toàn quân theo hướng tinh gọn, hợp lý, đáp ứng yêu

cầu xây dựng quân đội có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh

thắng kẻ thù trong chiến tranh hiện đại; giữ tốt, quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết

kiệm, có hiệu quả cao các nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, vũ khí, trang thiết bị

mà Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ trong mọi tình huống.

* Vị trí, vai trò của ngành Hậu cần và công tác Hậu cần quân đội

Ngành Hậu cần quân đội là một trong bốn ngành quan trọng của quân

đội (quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật). Có vị trí, vai trò là ngành bảo đảm

vật chất hậu cần cho quân đội - một mặt công tác quân sự, gồm tổng thể

những hoạt động bảo đảm vật chất hậu cần, sinh hoạt, quân y, vận tải cho

quân đội. Hậu cần quân đội là bộ phận nòng cốt của hậu cần quốc phòng toàn

dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; là yếu tố tạo nên sức mạnh tổng

hợp của quân đội; một mặt quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý

bộ đội; là công tác chuyên môn của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần; đồng

thời là nhiệm vụ chung mà toàn thể cán bộ, chiến sĩ và công nhân viên quốc

phòng phải tham gia. Ngành hậu cần quân đội đảm nhiệm công tác hậu cần,

đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự chỉ huy, quản lý của người chỉ huy

các cấp. Do đó, xây dựng ngành hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện là

một trong những yếu tố, nội dung của mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

* Nhiệm vụ của ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

Điều lệ công tác hậu cần quân đội xác đinh, hậu cần quân đội có nhiêm vụ:

“Tổ chức bảo đảm hậu cần cho quân đội thực hiện thắng lợi các nhiệm

vụ trong mọi tình huống; đồng thời chi viện bảo đảm một số mặt về hậu

cần cho lực lượng dân quân, tự vệ, lực lượng công an nhân dân và nhân

dân địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ được giao;

Tổ chức sản xuất, tạo nguồn bảo đảm hậu cần cho quân đội; đồng thời

góp phần tích cực vào xây dựng, phát triển kinh tế đất nước;

31

Tổ chức quản lý công tác hậu cần theo đúng pháp luật của Nhà nước, các

quy định của Bộ Quốc phòng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả

công tác hậu cần;

Tổ chức xây dựng ngành Hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện theo

hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng

cốt cho hậu cần quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong xây

dựng thế trận hậu cần và bảo đảm hậu cần; đồng thời tham gia xây dựng,

bảo vệ hậu phương;

Tổ chức chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong hoạt

động hậu cần; làm nhiệm vụ quốc tế và thực hiện các nhiệm vụ khác do

Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao” [22, tr.1-2].

Nội dung bảo đảm hậu cần gồm: bảo đảm vật chất; bảo đảm sinh hoạt;

bảo đảm quân y và thú y; công tác vận tải và một số nội dung bảo đảm hậu

cần cho an toàn bay của không quân (xăng dầu, điện, khí, vệ sinh đường băng

và canh gác sân bay); bảo đảm hậu cần cho tàu chiến đấu và đặc công nước

của hậu cần Hải quân. Những nhiệm vụ và nội dung bảo đảm của ngành Hậu

cần được tiến hành ở các cấp khác nhau trong toàn quân. Theo đó, công tác

bảo đảm hậu cần được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ từ cấp chiến lược

đến cấp chiến thuật.

* Tổ chức biên chế của ngành Hậu cần quân đội

Tổ chức, biên chế ngành Hậu cần quân đội nằm trong hệ thống tổ chức

biên chế của QĐNDVN. Theo “Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân

Việt Nam” (ban hành kèm theo Thông tư số 118/2009/TT-BQP ngày 31-12-

2009 của BQP), quy định:

“Ngành Hậu cần quân đội được tổ chức theo từng cấp, từ Bộ Quốc

phòng đến đơn vị cơ sở, gồm: Tổng cục Hậu cần trực thuộc Bộ Quốc

phòng; cục hậu cần trực thuộc các quân khu, quân đoàn, quân chủng,

binh chủng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và đơn vị tương đương;

phòng hậu cần trực thuộc các sư đoàn, lữ đoàn, vùng cảnh sát biển, bộ

chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị tương đương; ban hậu cần

trực thuộc các trung đoàn và tương đương; cán bộ Hậu cần thuộc các tiểu

đoàn và đơn vị tương đương” [22, tr. 12].

32

Tổ chức, biên chế cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp do Tổng Tham mưu

trưởng quy định, trong đó bao gồm các chuyên ngành: tham mưu hậu cần;

quân nhu; doanh trại; xăng dầu; vận tải. Bên cạnh đó, ngành Hậu cần còn có

một số các đơn vị chuyên môn hậu cần các cấp gồm: hệ thống các kho dự trữ,

cấp phát phương tiện, vật chất hậu cần (gọi tắt là kho hậu cần); xưởng, trại

sản xuất, trạm chế biến, trạm sửa chữa phương tiện, vật chất hậu cần; viện

nghiên cứu, trung tâm kiểm nghiệm khoa học - công nghệ, trường huấn luyện

về hậu cần và các chuyên ngành; đơn vị vận tải, xăng dầu, doanh trại; các

tổng công ty, công ty, xí nghiệp sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ về hậu

cần. Cơ quan hậu cần các cấp chịu sự quản lý, chỉ huy của đơn vị cùng cấp và

sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan hậu cần cấp trên.

2.1.2. Đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam - quan

niệm, chức trách, nhiệm vụ, vai trò và đặc điểm

2.1.2.1. Quan niệm và phân loại cán bộ Hậu cần Quân đội

* Quan niệm về đội ngũ CBHC Quân đội Nhân dân Việt Nam

- Quan niệm về cán bộ quân đội: cán bộ quân đội là một bộ phận trong

đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc

phòng; được bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hoặc làm công

tác chuyên môn, có yêu cầu trình độ học vấn tương ứng với các chức vụ sĩ

quan, quân nhân chuyên nghiệp hoặc công chức.

Cán bộ quân đội có nhiều nhóm ngành khác nhau: cán bộ quân sự, cán

bộ chính trị, CBHC, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, cán bộ công tác ở các đơn vị

bộ đội chủ lực, cán bộ công tác ở cơ quan quân sự địa phương, cán bộ công tác

ở nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu.

- Quan niệm về CBHC Quân đội: Cán bộ Hậu cần Quân đội là một

bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội, được lựa chọn, đào tạo,

bồi dưỡng, rèn luyện, giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các mặt

hoạt động khác nhau của công tác hậu cần; là lực lượng nòng cốt tổ chức

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu quân đội trong mọi tình huống,

góp phần xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ, từng bước hiện đại.

33

* Phân loại cán bộ Hậu cần

- Phân loại theo chức vụ công tác được đảm nhiệm có:

Cán bộ chỉ huy, quản lý hậu cần: gồm Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng

cục Hậu cần và tương đương; cục trưởng, phó cục trưởng cục hậu cần các quân

khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng và tương đương; chủ nhiệm, phó chủ

nhiệm phòng hậu cần sư đoàn, ban hậu cần trung đoàn, lữ đoàn và tương đương.

Cán bộ trợ lý làm tham mưu, giúp người chỉ huy trong công tác hậu cần: trợ

lý các ban, ngành của cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp (trợ lý tham mưu hậu cần; trợ

lý quân nhu; trợ lý vận tải; trợ lý xăng dầu; trợ lý doanh trại).

- Phân loại cán bộ Hậu cần theo chuyên ngành có:

Cán bộ tham mưu hậu cần; cán bộ quân nhu; cán bộ doanh trại; cán bộ

xăng dầu; cán bộ vận tải. Đây là sự phân loại theo chuyên ngành mà CBHC

đã được đào tạo cơ bản tại các học viện, nhà trường và tiếp tục được bồi

dưỡng, rèn luyện, củng cố, phát triển trên thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ trong quá trình công tác. Việc phân loại CBHC theo chuyên ngành đào tạo

và công tác mang tính ổn định cao, gắn bó hợp lý với việc xác định chuẩn

mực đạo đức đối với mỗi loại CBHC Quân đội.

2.1.2.2. Chức trách, nhiệm vụ của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam

Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (ban hành kèm

theo Thông tư số 118/2009/TT-BQP ngày 31-12-2009 của BQP) quy định rõ

chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm hậu cần, phó chủ nhiệm hậu cần các cấp

và các cơ quan chuyên ngành hậu cần. Cụ thể:

- Chức trách, nhiệm vụ của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần: là người chỉ

huy Tổng cục Hậu cần, chịu trách nhiệm trước Quân ủy Trung ương (QUTW)

và BQP về toàn bộ lĩnh vực công tác hậu cần trong phạm vi chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn được giao. Giải quyết công việc theo sự phân cấp quản lý của

QUTW và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm hậu cần các cấp: chịu trách nhiệm

trước người chỉ huy về công tác hậu cần; trực tiếp chỉ huy, quản lý, điều hành

cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc quyền và chỉ đạo hậu cần cấp dưới thực hiện

công tác hậu cần trong đơn vị. Ra chỉ lệnh hậu cần cho đơn vị thuộc trách

nhiệm bảo đảm (trong tác chiến). Chỉ thị công tác cho cơ quan, đơn vị hậu cần

34

thuộc quyền để thực hiện quyết định, quyết tâm và mệnh lệnh của người chỉ

huy, duy trì hoạt động của cơ quan và đơn vị hậu cần thuộc quyền luôn luôn

sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng động viên theo trạng thái quy định… báo cáo

và chịu trách nhiệm trước người chỉ huy cùng cấp về kết quả công tác.

- Chức trách, nhiệm vụ của phó chủ nhiệm hậu cần: phó chủ nhiệm hậu

cần ở từng cấp có trách nhiệm giúp chủ nhiệm hậu cần và chịu trách nhiệm

trước chủ nhiệm hậu cần về từng mặt công tác được phân công

- Đội ngũ trợ lý hậu cần: có trách nhiệm thường xuyên nắm vững chế độ,

tiêu chuẩn, quy định, nhiệm vụ, ý định của chủ nhiệm hậu cần, thu thập, nghiên

cứu tổng hợp toàn diện tình hình hậu cần của cơ quan, đơn vị và các yếu tố có

liên quan, kịp thời đề xuất chủ trương, kế hoạch và phương án xử trí các tình

huống hậu cần; tổ chức truyền đạt quyết tâm, mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch hậu

cần và tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ hậu cần trong toàn cơ quan,

đơn vị; tổ chức bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị có liên

quan và hậu cần khu vực phòng thủ để thực hiện nhiệm vụ hậu cần; nắm chắc

nguồn hậu cần tại chỗ, đề xuất kế hoạch khai thác, tạo nguồn bảo đảm. Tham

mưu cho cấp ủy, chính quyền và các sở, ban ngành địa phương về công tác hậu

cần khu vực phòng thủ theo Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 30-7-1987 về giao

cho các tỉnh, thành ủy xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành

khu vực phòng thủ vững chắc; Nghị định 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007

của Chính phủ và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị

về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực

phòng thủ vững chắc trong tình hình mới.

2.1.2.3. Vai trò đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

Một là, đội ngũ CBHC là lực lượng chủ yếu tham mưu với cấp ủy, người

chỉ huy cùng cấp những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm

hậu cần ở cơ quan, đơn vị và xây dựng ngành hậu cần quân đội

Nhiệm vụ bảo đảm hậu cần ở các đơn vị trong toàn quân có sự khác

nhau giữa các đơn vị quân chủng, binh chủng, bộ binh, đồng thời chịu sự tác

động rất lớn của điều kiện thời tiết, khí hậu; nhiệm vụ thường xuyên hay đột

xuất... nhưng đều phải bảo đảm tốt việc ăn, mặc, ở, đi lại, sức khỏe... của bộ

đội, công tác hậu cần phải đi trước, lo trước, phải có kế hoạch cụ thể, tỷ mỉ

giúp người chỉ huy thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần. Đội ngũ CBHC các cấp sẽ

35

là lực lượng chủ yếu tham mưu với cấp ủy, người chỉ huy đơn vị cùng cấp về

công tác bảo đảm hậu cần trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu;

tham mưu, chuẩn bị các phương án, kế hoạch bảo đảm: lực lượng, vật chất,

phương tiện hậu cần, kế hoạch phối hợp, hiệp đồng về hậu cần giữa các cơ

quan, đơn vị với nhau, giữ đơn vị quân đội và các tổ chức, lực lượng trên địa

bàn đóng quân..., để người chỉ huy xây dựng quyết tâm, tổ chức thực hiện tốt

nhiệm vụ hậu cần trong mọi tình huống.

Hai là, đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt tổ chức thực hiện nhiệm

vụ hậu cần; bồi dưỡng, động viên cán bộ, nhân viên cấp dưới thực hiện tốt

công tác hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ

Công tác bảo đảm hậu cần trong quân đội, nhất là cấp chiến thuật

luôn hướng tới thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm cho các nhiệm vụ: huấn

luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; xây dựng củng cố đơn vị; lao động,

tăng gia sản xuất; phòng chống bạo loạn, khắc phục hậu quả của thiên tai,

hỏa hoạn; bảo đảm hậu cần khu vực phòng thủ. Những nhiệm vụ đó đặt ra

yêu cầu cấp thiết với đội ngũ CBHC phải phát huy vai trò, trách nhiệm của

mình chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức phối hợp, hiệp đồng giữa các

đơn vị chặt chẽ, nhằm tạo nên thế trận hậu cần liên hoàn, vững chắc trong

thời bình, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến tranh; tích cực bồi dưỡng, nâng

cao phẩm chất, năng lực chuyên môn, phương pháp tác phong công tác, đạo đức

nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần cấp dưới, để họ tự

giác nhận và thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao; giúp đỡ nhân dân phát

triển kinh tế, ổn định đời sống, góp phần giữ vững quốc phòng - an ninh

khu vực phòng thủ, nhất là trên những địa bàn trọng yếu.

Quá trình bảo đảm và phục vụ bộ đội, hoạt động bảo đảm hậu cần

có sự tham gia thực hiện của tất cả các tổ chức, các lực lượng, trong đó,

đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm

vụ. Chất lượng, hiệu quả bảo đảm hậu cần ở các cơ quan, đơn vị trong

quân đội chủ yếu phụ thuộc và được quyết định bởi đội ngũ CBCH các

cấp. Đây thực sự là lực lượng nòng cốt để tổ chức thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ.

36

Ba là, đội ngũ CBHC có vai trò quan trọng quyết định chất lượng xây

dựng tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh, góp

phần xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.

Đội ngũ CBHC ở các cơ quan, đơn vị trong quân đội, đồng thời cũng là

cán bộ, đảng viên của Đảng, được đảm nhiệm những cương vị khác nhau trong

lĩnh vực hậu cần quân sự, trực tiếp chỉ huy, quản lý, tổ chức thực hiện nhiêm vụ

bảo đảm hậu cần. Là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, CBHC Quân đội

phải thực hiện đúng Điều lệ, nguyên tắc, chỉ thị, nghị quyết, chế độ sinh hoạt

đảng. CBHC rất cần gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn phẩm

chất đạo đức, lối sống, nhất là sự cần, kiệm, liêm, chính. Trên cương vị chức

trách, nhiệm vụ được giao, CBHC là lực lượng trực tiếp quán triệt, tổ chức thực

hiện đường lối của Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần; chăm lo giáo dục, rèn luyện

đảng viên, phát triển đảng viên mới; tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng,

góp phần xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần và các tổ chức đảng

các cấp trong quân đội trong sạch, vững mạnh.

Trong xây dựng lực lượng hậu cần theo hướng tinh, gọn, đội ngũ

CBHC có vai trò tham mưu và đề xuất với người chỉ huy cơ quan, đơn vị

những chủ trương, biện pháp bảo đảm số lượng CBHC đủ theo cơ cấu, cao về

chất lượng; trực tiếp giáo dục, bồi dưỡng, hướng dẫn đội ngũ CBHC cấp dưới

cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn; duy

trì thực hiện nghiêm các chế độ quy định, cải tiến lề lối làm việc, tác phong

phục vụ bộ đội... Những hoạt động này của đội ngũ CBHC sẽ trực tiếp góp

phần thực hiện mục tiêu, yêu cầu xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng

quân đội trong tình hình mới mà Đảng ta đã xác định.

2.1.2.4. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

Một là, đội ngũ CBHC Quân đội phần lớn được đào tạo cơ bản, và

được điều động, bổ nhiệm từ nhiều nguồn khác nhau

Hiện nay, đội ngũ CBHC các cấp trong quân đội phần lớn được đào tạo cơ

bản tại Học viện Hậu cần (HVHC) và ở các học viện, nhà trường khác trong

quân đội. Trong đó, đa số CBHC được đào tạo dài hạn, cơ bản tại HVHC: chỉ

huy tham mưu hậu cần (78,2%); quân nhu (88,76%); vận tải (79%); xăng dầu

(89,5%); doanh trại (93,5%) [Phụ lục 3.2]. Đây là đặc điểm quan trọng, tạo điều

kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội ngày càng vững mạnh.

37

Đồng thời, đội ngũ CBHC Quân đội được điều động, bổ nhiệm từ nhiều

nguồn khác nhau: học viên đào tạo sĩ quan hậu cần cấp phân đội tốt nghiệp

hằng năm tại HVHC (số lượng tốt nghiệp mỗi năm hàng trăm đồng chí, bổ

nhiệm trợ lý hậu cần các cơ quan, đơn vị cấp cơ sở trong toàn quân); cán bộ

Hậu cần trưởng thành trong thực tiễn, qua quá trình công tác tiếp tục được

đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về phẩm chất và năng lực tại HVHC và các học

viện, nhà trường trong, ngoài quân đội; một số ít cán bộ được tuyển từ dân sự

vào quân đội, được bồi dưỡng về chuyên môn hậu cần, bổ nhiệm, giao một số

nhiệm vụ phù hợp; một số được lựa chọn từ cán bộ quân sự, cán bộ kỹ thuật,

được bồi dưỡng về công tác hậu cần và giao nhiệm vụ chỉ huy, quan lý về

hoạt động hậu cần ở một số cơ quan, đơn vị.

So với nhu cầu biên chế, đội ngũ CBHC trong toàn quân hiện nay có:

cán bộ chỉ huy tham mưu hậu cần (96%), quân nhu (98,05%), vận tải

(85,79%), xăng dầu (94,85%), doanh trại (106%) [Phụ lục 2], mỗi một chuyên

ngành đòi hỏi công tác nghiệp vụ khác nhau, ít có thể thay thế được cho nhau

ở một vài chuyên ngành. Sự đa dạng của nguồn CBHC và đa dạng về chuyên

môn, nghiệp vụ nên chất lượng đội ngũ CBHC ở các cấp không đồng đều,

nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (CBHC có trình độ cao đẳng

(15,37%), đại học (76,69%), sau đại học (2,29%) [Phụ lục 3.3]; năng lực tổ

chức thực tiễn hoạt động công tác hậu cần cũng không đồng đều. Để thực

hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, trong công tác cán bộ cần nắm chắc, bố

trí sử dụng hợp lý để phát huy tốt các nguồn đó.

Hai là, đội ngũ CBHC vừa là lực lượng trực tiếp chỉ huy, quản lý, điều

hành cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc quyền, vừa là những cán bộ trực tiếp thực

hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ

Đội ngũ CBHC là những người chịu trách nhiệm trước cấp ủy cùng cấp,

trước người chỉ huy và cơ quan hậu cần cấp trên về công tác hậu cần của đơn

vị; họ vừa là người chỉ huy, quản lý, điều hành cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc

quyền và chỉ đạo hậu cần đơn vị cấp dưới thực hiện công tác hậu cần trong đơn

vị. Đồng thời, họ vừa là lực lượng trực tiếp phải tổ chức thực hiện nhiệm vụ

bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng; bảo đảm ăn, ở, vận tải,

sinh hoạt; chăm sóc sức khỏe cho bộ đội. Trong đó, cán bộ cấp tướng chiếm

0,08%; cấp đại tá: 3,94%; thượng tá: 6,81%; trung tá: 19,49%; thiếu tá:

10,83%; cấp úy: 51,72%; quân nhân chuyên nghiệp: 8,89%; công chức quốc

38

phòng: 0,12%; cán bộ cấp tá trở lên chiếm khoảng 40% [Phụ lục 3.1]. Đặc

điểm này đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ CBHC các cấp, nhất là từ phó chủ

nhiệm, chủ nhiệm ban hậu cần trở lên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về

phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tự giác học tập nâng cao trình độ chuyên

môn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; là tấm gương sáng để cán bộ, nhân viên,

chiến sĩ cấp dưới noi theo. Đồng thời, đặt ra yêu cầu đối với công tác đào tạo,

bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC và việc công tác cán bộ của các cơ quan,

đơn vị trong toàn quân phải chú trọng xây dựng phẩm chất, năng lực toàn diện

cho đội ngũ CBHC, để họ luôn nhận và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ

được đảm nhiệm.

Ba là, đội ngũ CBHC đa dạng về tuổi đời, tuổi quân, số cán bộ trẻ năng

động, sáng tạo nhưng vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn còn ít, bản lĩnh chưa

thật vững vàng dễ bị hoàn cảnh tác động

Đội ngũ CBHC công tác ở các cấp khác nhau trong quân đội và nguồn

cán bộ rất đa dạng, nên dẫn đến sự đa dạng về tuổi đời, tuổi quân, bậc quân

hàm, địa bàn cư trú; cán bộ người dân tộc thiểu số chiếm 0,55%; cán bộ nữ

chiếm 0,28% [Phụ lục 3.4]. Về tuổi đời, tuổi quân, một số cán bộ mới tốt

nghiệp tại HVHC được điều động về các đơn vị công tác tuổi đời còn trẻ, tuổi

quân còn ít, kinh nghiệm công tác chưa nhiều. Số CBHC được xây dựng, bồi

dưỡng trưởng thành tại chỗ thường có tuổi đời, tuổi quân cao hơn so với trần

quân hàm và chức danh đảm nhiệm. Đặc điểm này tác động khó khăn đến

công tác quy hoạch, sử dụng đội ngũ CBHC và ảnh hưởng đến chất lượng

thực hiện nhiệm vụ hậu cần quân đội.

Đội ngũ CBHC Quân đội, nhất là số cán bộ trẻ (cấp thiếu úy đến

thượng úy), được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ; có nhận thức

nhanh, năng động, sáng tạo, có nhiều hoài bão, sống có lý tưởng, sức khỏe

tốt... Đội ngũ này là những lớp thanh niên được lớn lên, trưởng thành trong

thời kỳ đất nước đã đổi mới; được kế thừa truyền thống kiên cường, bất

khuất trong lao động sản xuất, chiến đấu và thành quả xây dựng đất nước

của các thế hệ cha anh. Tuy nhiên, thời gian rèn luyện, thử thách trong thực

tiễn xây dựng, chiến đấu của quân đội; thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo

đảm hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ không nhiều nên vốn

sống, kinh nghiệm công tác còn hạn chế, bản lĩnh chính trị chưa thật vững

vàng, dễ dao động trước khó khăn. Số CBHC trải qua chiến đấu, phục vụ

chiến đấu tỷ lệ thấp (1,46%) [Phụ lục 3.4], và có xu hướng ngày càng giảm.

39

Bốn là, đội ngũ CBHC làm việc trong môi trường thường xuyên tiếp

xúc với vật chất, tài chính, kinh tế, nên phải coi trọng thực hiện chuẩn mực

đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”

Hoạt động bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC các cấp thường xuyên,

trực tiếp thực hiện công tác quản lý, bảo quản, sử dụng tài chính, cơ sở vật

chất, trang bị của cơ quan, đơn vị và của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong

quân đội. Hoạt động đó luôn đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý

của người chỉ huy, nhưng mọi hoạt động mua sắm trang bị, lương thực, thực

phẩm, bảo đảm tài chính hậu cần... phải vận hành theo cơ chế, quy luật của thị

trường, chịu sự chi phối, tác động của quy luật cung - cầu, giá cả, tiền tệ...

Trong điều kiện chịu sự tác động của nền kinh tế và cơ chế thị trường như

hiện nay, dễ làm nảy sinh mầm mống của chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, tệ

tham nhũng, lãng phí. Đặc điểm này đòi hỏi, trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC các cấp phải tăng cường xây dựng cho CBHC có bản lĩnh

chính trị vững vàng, trung thành, tận tụy; thấm nhuần và gương mẫu thực hiện

chuẩn mực đạo đức: “cần, kiệm, liêm chính”, chí công vô tư, tự lực, tự cường

trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Năm là, đội ngũ CBHC Quân đội thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn rộng,

phải giải quyết nhiều mối quan hệ mới có thể hoàn thành nhiệm vụ

Ngoài nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho cán bộ, chiến sỹ trong cơ quan

quân sự, cho các đơn vị trực thuộc và cấp dưới, CBHC còn phải tổ chức bảo

đảm hậu cần cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương và trực

tiếp tổ chức xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ - được tổ chức gắn liền với

đơn vị hành chính (cấp tỉnh, huyện), hoặc địa bàn trọng điểm. Địa bàn hoạt

động rộng; công tác bảo đảm đa dạng, phức tạp về chủng loại vật chất,

phương tiện bảo đảm cho đơn vị (các loại lương thực, thực phẩm, quân trang,

quân dụng, vật chất, phương tiện bảo đảm chiến đấu…), và các loại vật chất,

phương tiện bảo đảm khác do các ngành kinh tế - xã hội địa phương bảo đảm

theo chỉ tiêu, ngân sách của quân đội giao cho các địa phương.

Vì vậy, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, đòi hỏi đội

ngũ CBHC Quân đội phải trực tiếp giải quyết nhiều mối quan hệ với cấp ủy,

chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn công tác;

40

chủ động phối kết hợp công tác với hậu cần của Công an, Bộ đội Biên phòng,

để khai thác tiềm lực, khả năng của nhân dân, của các ngành kinh tế - xã hội

của địa phương trong xây dựng, tạo nguồn, tổ chức tốt công tác bảo đảm hậu

cần trong mọi tình huống. Đồng thời phải chủ động tham mưu cho cấp ủy,

chính quyền địa phương tổ chức, điều hành, thực hiện thắng lợi công tác hậu

cần khu vực phòng thủ.

2.2. ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC

CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI

2.2.1. Đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội -

khái niệm, nội dung, và vai trò

2.2.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng và đạo đức cách mạng của đội

ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

* Khái niệm và nội dung đạo đức cách mạng

- Khái niệm đạo đức

Đạo đức và những quan niệm về đạo đức đã xuất hiện từ rất sớm cùng với

sự vận động, phát triển của xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, một mặt kế thừa

có chọn lọc những quan điểm đạo đức trước đó, mặt khác dựa trên thế giới

quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã chỉ ra đạo đức là một hình

thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo

đức xã hội. Nói cách khác, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh

hoạt vật chất của xã hội. Theo C. Mác - Ph. Ăngghen: “Xét cho đến cùng,

mọi học thuyết về đạo đức từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình

kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho đến nay, xã hội vận động trong sự

đối lập giai cấp cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp [28,

tr.136-137].Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản

chất xã hội. Bên cạnh đó đạo đức còn mang tính nhân loại, vì ở giai đoạn

nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là những quy định, chuẩn

mực định hướng con người làm cái thiện, chống lại cái ác, hướng về mối

quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, với tự nhiên và xã hội .

41

Khi quan niệm về đạo đức có nhiều quan niệm khác nhau của các nhà

khoa học, tùy vào mục đích, nhiệm vụ của các công trình nghiên cứu để tác giả

đưa ra quan niệm, trong đó tiêu biểu như: đạo đức là “Phép tắc về quan hệ giữa

người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp của con

người: sống có đạo đức” [163, tr.595]; “đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là

tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh

giá cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với nhau và quan hệ với xã

hội, chúng được thực hiện bởi niền tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh

của dư luận xã hội” [85, tr.18].

Như vậy, có thể hiểu: Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực về

cách ứng xử của con người trong các quan hệ giữa người với người, với tổ chức

trong xã hội; là giá trị cốt lõi tạo nên phẩm chất nhân cách của con người.

Trong các mối quan hệ xã hội, đạo đức là giá trị căn bản nhất để định

hướng, điều chỉnh hành vi của mỗi người cho phù hợp với những quy định, quy

ước của xã hội và tập thể đặt ra và được cộng đồng thừa nhận. Đạo đức, với vai

trò là cái gốc của xã hội, của con người, là nền tảng để hình thành và xây dựng

lối sống mới của con người mới trong xã hội mới, để mỗi người ý thức đúng và

luôn chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật.

- Khái niệm đạo đức cách mạng

Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, có chức năng tham gia điều

chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư luận xã hội và trách nhiệm,

nghĩa vụ, lương tâm của mỗi người con người trong xã hội. Kế thừa, phát

triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức cộng sản, V.I. Lênin

khẳng định giá trị, tiêu chuẩn của đạo đức cộng sản là phục vụ cho tiến bộ

xã hội, vì tự do, hạnh phúc của con người và đặc biệt nhấn mạnh tính giai

cấp, tính chiến đấu, vai trò to lớn của đạo đức cộng sản: “Đối với chúng ta,

đạo đức phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản… Đạo

đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội của giai cấp bóc lột và đoàn kết

tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã

hội mới của những người cộng sản” [162, tr.368-369]. Thắng lợi của cuộc

cách mạng vô sản do giai cấp công nhân thực hiện là tất yếu. Do vậy, đạo

đức cộng sản cũng tất yếu sẽ hoàn thiện, phát triển một cách phổ biến trong

đời sống đạo đức của loài người.

42

Đạo đức cách mạng ở nước ta được hình thành, phát triển trong quá

trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt

Nam để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nền đạo đức

do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta lãnh đạo xây dựng,

phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: làm cách mạng là để cải tạo xã

hội cũ thành xã hội mới, đây là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng cũng rất nặng

nề, một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ. Vì vây, rất cần có đội ngũ

cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, lấy ĐĐCM làm nền tảng. “Đạo

đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không

sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai

cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức

cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá

nhân” [115, tr.90]. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức

mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích

chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [107, tr.292].

Thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và

xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng Đảng

vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, Đảng ta

luôn coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM trong toàn Đảng, để

Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh.

Từ những luận giải trên, có thể đưa ra khái niệm: ĐĐCM là hệ thống

những quy tắc, chuẩn mực về cách ứng xử của người cách mạng với tổ chức,

đồng chí và với bản thân trong thực hiện nhiệm vụ và hoạt động xã hội; là nền

tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người cách mạng nhận thức đúng mục

tiêu, lý tưởng, xác định rõ động cơ, trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành tốt mọi

nhiệm vụ được giao.

- Nội dung đạo đức cách mạng

Đạo đức cách mạng được hình thành, phát triển trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo sự phát triển không ngừng của cách

mạng nước ta, ĐĐCM bên cạnh việc vẫn giữ được những giá trị cốt lõi, cũng có

sự phát triển hết sức nhanh chóng. Những giá trị đạo đức cơ bản đã từng bước

chuyển dịch từ kiên cường, bất khuất, anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, lao

động... chuyển sang năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, biết làm

43

giàu cho mình và làm giàu cho xã hội; từ chỗ coi trọng những giá trị tinh thần

sang đề cao những giá trị tinh thần với lợi ích vật chất; kết hợp một cách hài hoà

các giá trị, lợi ích, vừa tôn trọng lợi ích cộng đồng vừa tôn trọng lợi ích cá

nhân... Theo đó, ĐĐCM biểu hiện ở những nội dung chủ yếu như:

Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn

đấu hết sức mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của công cuộc đổi mới vì dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;

Hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân

dân; trung với nước, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và

nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân;

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng, lãng phí, xâm

phạm tài sản của Nhà nước và nhân dân. Chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh

chính trị, đường lối, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;

Ra sức học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực

công tác, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê

bình nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh;

Gương mẫu trong công tác và lối sống, gắn bó mật thiết với quần chúng

nhân dân, đoàn kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu

nhân dân; trung thực, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm;

Kỷ luật nghiêm minh, nêu cao tinh thần đấu tranh phòng, chống tiêu

cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

* Khái niệm, nội dung ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

- Khái niệm ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được biểu hiện ra một

cách cụ thể, rõ ràng qua các hành vi ứng xử, giải quyết các mối quan hệ trong

hoạt động bảo đảm hậu cần cho các cơ quan, đơn vị quân đội và trong thực

hiện nhiệm vụ học tập, công tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao

động sản xuất. Đối với cán bộ Hậu cần Quân đội, ngay trong thư gửi Lớp huấn

luyện cán bộ cung cấp đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần căn dặn:

“Nhiệm vụ chính của cán bộ cung cấp là phụng sự đại đa số của bộ đội, tức là

người binh nhì, phải thương yêu săn sóc người binh nhì. Cán bộ cung cấp như

là người mẹ, người chị của người binh nhì” [109, tr.180]. Người đặc biệt nhấn

mạnh, cán bộ cung cấp “Phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính.” [109, tr.181].

44

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp lớp các thế hệ cán

bộ Hậu cần Quân đội luôn luôn tích cực, chủ động học tập, rèn luyện nâng

cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, nắm vững chuyên môn, nghiệp

vụ... tích cực tăng gia, sản xuất, chăm lo, cải thiện đời sống cho bộ đội, góp

phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ĐĐCM của đội

ngũ CBHC hiện nay là sự kế thừa, phát triển những giá trị ĐĐCM của người

cách mạng nói chung, và được vận dụng, phát huy trong điều kiện thực hiện

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của người CBHC Quân đội.

Từ những luận giải ở trên, có thể đưa ra khái niệm: ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực về cách ứng xử của

người CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và giải quyết các mối quan hệ; là nền

tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người CBHC nhận thức đúng mục tiêu, lý

tưởng cách mạng, xác định rõ động cơ, trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành tốt

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần được giao.

- Nội dung ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đội ngũ CBHC Quân đội, ngoài những chuẩn mực phẩm chất đạo đức

chung của người cán bộ cách mạng, họ có những chuẩn mực đạo đức đặc thù

gắn với chức trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Phẩm chất này thể hiện đức

hy sinh, tinh thần tận tụy hết mình vì công việc, không nề hà khó khăn gian

khổ, coi đó là vinh dự và là hạnh phúc của mình, luôn nêu cao ý thức bảo

đảm đầy đủ chế độ, tiêu chuẩn theo quy định của Đảng, Nhà nước đối với bộ

đội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: yêu xe như con, quý xăng như máu;

lương y như từ mẫu; mỗi cán bộ “…phải săn sóc đời sống vật chất và tinh

thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống thế nào, phải hiểu nguyện vọng

thắc mắc của đội viên” [109, tr.76]. Trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, mặc dù có nhiều tác động, nhưng những

giá trị đạo đức tốt đẹp đó tiếp tục được đội ngũ CBHC Quân đội giữ gìn,

phát triển góp phần hoàn thiện nhân cách, bảo đảm cho người CBHC hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo đó, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội được biểu hiện ở những nội dung như:

45

Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân;

Tiên phong, gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;

sống trong sạch lành mạnh, không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh

chống tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”; tích cực ngăn chặn “tự diễn biến”,

“tự chuyển hóa” trong nội bộ;

Thương yêu đồng chí, tích cực, chủ động khắc phục khó khăn, hết lòng

phục vụ bộ đội. Yêu ngành, yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao, làm việc dân

chủ, sáng tạo, nói đi đối với làm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu

cần khi được giao;

Gắn bó mật thiết với nhân dân, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước,

kỷ luật quân đội và quy chế, quy định trong công tác hậu cần;

Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức, nắm vững chuyên

môn nghiệp vụ, làm chủ khoa học kỹ thuật kỹ thuật hậu cần.

2.2.1.2. Vai trò đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Một là, ĐĐCM là cơ sở, nền tảng tạo thành phẩm chất, nhân cách của

người CBHC Quân đội

Thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho

ngành Hậu cần, người CBHC phải được giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng toàn

diện về phẩm chất, năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra.

Trong đó, ĐĐCM là hạt nhân chính trị trung tâm, là cơ sở, nền tảng tạo

thành phẩm chất, nhân cách của người CBHC Quân đội. ĐĐCM góp phần

định hướng nhận thức, điều chỉnh hành vi của đội ngũ CBHC trong thực

hiện nhiệm vụ và giải quyết các mối quan hệ, nhất là việc chấp hành nghiêm

nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy

định của ngành hậu cần; là cơ sở nhằm xây dựng nhận thức, trách nhiệm,

đạo đức nghề nghiệp, tác phong, lề lối làm việc, lối sống có văn hóa trong

công tác hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Tăng cương xây dựng

ĐĐCM, sẽ góp phần phát triển, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách người

CBHC Quân đội; bảo đảm cho đội ngũ CBHC hoàn thành tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao, tiếp tục củng cố, phát huy mối quan hệ gắn bó mật thiết

quân - dân, tô thắm thêm truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện hiện

mới. Xây dựng cho đội ngũ CBHC có nhận thức chính trị cao, có ĐĐCM và

lối sống trong sạch, lành mạnh là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp

và bản thân mỗi người CBHC Quân đội hiện nay.

46

Hai là, ĐĐCM giúp CBHC luôn kiên định, vững vàng, không lùi bước trước

mọi khó khăn, gian khổ, chủ động hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao

Trong môi trường hoạt động quân sự nói chung và hoạt động bảo đảm

hậu cần nói riêng, đội ngũ CBHC phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ,

giải quyết nhiều mối quan hệ (với tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thể; quan hệ với

đồng đội, quan hệ cấp trên, cấp dưới; quan hệ với nhân dân, chính quyền địa

phương và có khi là quan hệ với nhân dân và chính quyền nước bạn); trong

chiến đấu, đó là những khó khăn của sự mất mát, hy sinh, thái độ đối với tù

binh, hàng binh... Trong những điều kiện đó, ĐĐCM trở thành nhân tố quan

trọng và quyết định nhất tạo nên sự kiên định, vững vàng về lập trường giai

cấp, bản lĩnh chính trị, để họ chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua những

mất mát, hy sinh mà xử lý, giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ đặt ra kịp

thời, hiệu quả, có lý, có tình. Từ đó sẽ lôi cuốn được tổ chức, cá nhân cán

bộ, chiến sĩ trong tập thể do mình phụ trách hăng hái, nỗ lực phấn đấu hoàn

thành nhiệm vụ được giao, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân

trong hoạt động bảo đảm hậu cần.

Ba là, ĐĐCM là nhân tố quan trọng bảo đảm cho đội ngũ CBHC vượt

qua chủ nghĩa cá nhân, những cám dỗ về lợi ích vật chất trong công tác hậu

cần, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ

Con người bao giờ cũng là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, của

môi trường hoạt động và xã hội. Trong đó, yếu tố vật chất luôn chi phối và

quyết định đến ý thức của con người. Đội ngũ CBHC là lực lượng được Nhà

nước, quân đội giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản, cấp phát, sử dụng... tài chính,

vật chất, phương tiện hậu cần ở các cấp; tham gia vào các hoạt động kinh tế

hậu cần ở cơ quan, đơn vị mình. Điều kiện đó dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi

vun vén cá nhân, muốn làm giàu cho bản thân và gia đình, dẫn đến tham

nhũng, lãng phí, và thực tế đã có một số cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để

tư lợi. Đó là con đường đi đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, hoặc thoái hóa, biến chất, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, sức chiến đấu

của quân đội. Trong những điều kiện đó, ĐĐCM là nhân tố quan trọng, là sợi

chỉ đỏ xuyên suốt bảo đảm cho đội ngũ CBHC tự giác đấu tranh, tự điều chỉnh

trong nhận thức, phân biệt rõ đúng, sai, nhận thức rõ chức trách, nhiệm vụ,

vượt qua những cám dỗ về lợi ích vật chất, không sa vào chủ nghĩa cá nhân,

vươn lên nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Những vai trò trên cho thấy, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội là một vấn đề cần được quan tâm thích đáng, có ý nghĩa thực

tiễn quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ, từng bước hiện đại và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.

47

2.2.2. Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu

cần Quân đội - khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò, và yêu cầu

2.2.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, lực lượng tham gia giáo dục,

rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

* Khái niệm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng

- Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng

Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt

và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Có nhiều cách hiểu

khác nhau về khái niệm “giáo dục” như: Giáo dục được hiểu là quá trình hình

thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên

ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia

đình và ngoài xã hội; giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có

mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương

pháp, có hệ thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm

phát triển toàn diện nhân cách…Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành

và phát triển nhân cách người, với các mặt giáo dục như: trí học, đức học, thể

dục, giáo dục lao động.

Tiếp cận giáo dục là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người,

liên quan đến giáo dục đạo đức ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Giáo dục

ĐĐCM là tổng thể các hoạt động có mục đích được tổ chức một cách khoa

học của chủ thể và đối tượng nhằm hình thành, phát triển những quy tắc,

chuẩn mực ĐĐCM; là cơ sở quan trọng tạo nên phẩm chất, nhân cách người

cách mạng, yếu tố cơ bản góp phần thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Thực chất, giáo dục ĐĐCM là hoạt động có mục đích của con người,

trong đó đối tượng giáo dục là trung tâm để tiến hành các hoạt động giáo dục.

Chủ thể giáo dục ĐĐCM, căn cứ vào mục đích, yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm

của đối tượng, chuẩn bị những điều kiện cần thiết tổ chức hoạt động giáo dục

bảo đảm đúng thời gian, kế hoạch, nội dung; kiểm tra, đánh giá chất lượng

giáo dục để kịp thời điều chỉnh nhằm đạt được mục đích đã xác định. Giáo

dục ĐĐCM là một hoạt động đặc thù, được tiến hành trong tổ chức đảng,

chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, và trong quần chúng. Đối

48

tượng được xác định là những cán bộ, đảng viên, quần chúng… luôn tin

tưởng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, muốn phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì

sự nghiệp cách mạng. Việc giáo dục ĐĐCM vừa là mục đích, vừa là yêu cầu

cấp thiết đối với người làm cách mạng, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Khái niệm rèn luyện đạo đức cách mạng

Rèn luyện được hiểu theo nghĩa chung nhất là luyện tập kiên trì để có

được trình độ vững vàng, thông thạo trên một mặt, lĩnh vực hay hoạt động nào

đó (rèn luyện tư duy; rèn luyện thân thể; rèn luyện tính cách; rèn đức, luyện

tài…). Về bản chất, rèn luyện là sự nỗ lực, cố gắng của con người một cách

thường xuyên, liên tục trong thực hiện một hoạt động nào đó, kết quả đạt được

chủ yếu bắt nguồn từ sức mạnh nội thân. Người cách mạng trước hết phải có

ĐĐCM để lúc chiến thắng không tự kiêu, lúc khó khăn, gian khổ… không nản

lòng, lùi bước. Muốn vậy, người cách mạng phải được giáo dục và thường

xuyên rèn luyện về ĐĐCM. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt

quan tâm, và thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện ĐĐCM,

vì “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn

luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài

càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [113, tr.612]; Người nhấn mạnh việc

rèn luyện phải theo những nguyên tắc: nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm

việc tốt; xây đi đôi với chống; tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ suốt đời.

Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm: Rèn luyện ĐĐCM là

hoạt động luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đối tượng, và chủ

thể nhằm tiếp nhận, thấm nhuần những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM; là cơ sở quan

trọng tạo nên phẩm chất, nhân cách người cách mạng, yếu tố cơ bản góp phần

thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Để xây dựng cho mình có ĐĐCM, người cách mạng phải thường

xuyên rèn luyện đạo đức mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn

cảnh, luôn đặt lợi ích của Đảng, dân tộc, nhân dân, tập thể lên trên hết,

trước hết… luôn hoạt động trong khôn khổ Hiến pháp, pháp luật, kỷ

luật; đồng thời được sự định hướng, uốn nắm, góp ý, điều chỉnh của tổ

chức để ngày càng hoàn thiện hơn.

49

- Quan hệ giữa giáo dục và rèn luyện ĐĐCM

Giáo dục và rèn luyện ĐĐCM luôn có quan hệ mật thiết với nhau, quyết

định đến việc hình thành, phát triển hoàn thiện phẩm chất, nhân cách người cách

mạng. Trong đó, giáo dục là hoạt động của chủ thể nhằm truyền thụ các nội dung

chuẩn mực giá trị, các quy tắc, hành vi ứng xử của con người, từng bước hoàn

thiện các quan hệ đạo đức, tạo ra tiền đề, điều kiện khách quan để phát huy vai

trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM. Rèn

luyện chủ yếu là sự tự vận động của đối tượng giáo dục, nhằm tiếp nhận, thấm

nhuần, chuyển hóa những quy tắc, chuẩn mực đạo đức thành hành vi ứng xử có

đạo đức trong các mối quan hệ. Chỉ thông qua hoạt động tự rèn luyện thì hệ

thống giá trị ĐĐCM mới chuyển hoá thành giá trị đạo đức trong mỗi cán bộ, tạo

nên sự tác động cùng chiều đẩy nhanh quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức

cách mạng, hoàn thiện nhân cách người cán bộ. Trong mối quan hệ này, giáo

dục giữ vai trò quan trọng, rèn luyện giữ vai trò quyết định việc hình thành, phát

triển ĐĐCM, nhân cách người cán bộ, hai mặt hoạt động này không thể tách dời

hoặc tuyệt đối hóa hoạt động nào.

* Khái niệm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được hình thành thông

qua quá trình giáo dục, rèn luyện. Trong đó, hoạt động giáo dục là hoạt động

đầu tiên, cơ bản và quan trọng, được tiến hành trong tổ chức, là nhiệm vụ chính

trị của cấp ủy, người chỉ huy các cấp. Giáo dục ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội là tổng thể các hoạt động có mục đích, được tổ chức một cách khoa

học của chủ thể và của đội ngũ CBHC, nhằm hình thành, phát triển những quy

tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và các mối

quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho

đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC không chỉ được hình thành qua

quá trình giáo dục mà còn được củng cố, phát triển thông qua hoạt động rèn

luyện của tổ chức, của người chỉ huy, và đặc biệt là sự tự rèn luyện của bản

thân mỗi CBHC. Rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là hoạt động

luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC, nhằm tiếp

50

nhận, thấm nhuần những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong

thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao

phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành tốt

chức trách, nhiệm vụ được giao.

Quá trình xây dựng phẩm chất nhân cách người CBHC là quá trình

lâu dài, được thực hiện trong suốt quá trình học tập, lao động, thực hiện

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phấn đấu công hiến của người CBHC Quân

đội, trong đó có những tác động khách quan và tác động chủ quan của cả

chủ thể và đối tượng, nhưng đều hướng tới một mục đích nhất định.

Xuất phát từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là tổng thể các hoạt

động có mục đích được tổ chức một cách khoa học của chủ thể và sự luyện

tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC, nhằm hình

thành, phát triển những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong

thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao

phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành

tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

* Chủ thể, đối tượng, lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội

- Chủ thể lãnh đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội là QUTW, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là cấp ủy, tổ chức đảng ở các cơ quan,

đơn vị trong toàn quân. Việc lãnh đạo được thực hiện theo nguyên tắc, Điều lệ

Đảng, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Các cấp ủy đảng trực tiếp

lãng đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi vấn đề về xác đinh chủ trương, nội

dung, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đều do cấp ủy bàn bạc, quyết định

theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ.

- Chủ thể chỉ đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội là Tổng cục Chính trị; Bộ tổng Tham mưu; Tổng cục Hậu cần; cơ quan

chính trị, cơ quan hậu cần các cấp trong toàn quân. Đây vừa là cơ quan tham

mưu cho QUTW, BQP, cấp ủy đảng các cấp, vừa là cơ quan chỉ đạo hoạt

51

động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Trong đó,

TCCT và cơ quan chính trị các cấp căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của

QUTW, cấp ủy cấp trên, tình hình nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, phẩm chất

đạo đức, nhân cách của đội ngũ CBHC để tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy

các cấp xác định kế hoạch, chương trình và chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn triển

khai thực hiện công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC; định

kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả đạt được và chỉ ra kinh nghiệm

để nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội thời gian tới.

- Chủ thể trực tiếp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội là HVHC; chính ủy, chính trị viên, đội ngũ cán bộ chính trị, người

chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp trong toàn quân; và

phải chịu trách nhiệm trước QUTW, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên

cấp trên về toàn bộ kết quả giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở

cơ quan, đơn vị mình.

- Lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội là tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên; công đoàn; hội phụ nữ); đội

ngũ cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; cấp

ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa phương trên địa bàn đóng quân tham

gia tuyền truyền, giúp đỡ, động viên CBHC Quân đội tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM, giữ gìn và phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện mới.

- Đối tượng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là đội ngũ CBHC các cấp trong

QĐNDVN (Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và tương đương;

cục trưởng, phó cục trưởng hậu cần và tương đương; trưởng phòng, phó

trưởng phòng hậu cần; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu cần sư đoàn, trung

đoàn và tương đương; trợ lý hậu cần các ngành ở các cơ quan, đơn vị hậu cần

trong toàn quân). Đối với đội ngũ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản

lý hậu cần, thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với vai trò vừa là

chủ thể (bí thư, phó bí thư cấp ủy, chi bộ của cơ quan, đơn vị hậu cần, được

phân công phụ trách công tác giáo dục tư tưởng, chính trị…), đồng thời vừa là

đối tượng của quá trình giáo dục, rèn luyện.

52

2.2.2.2. Nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đạo đức cách mạng hình thành, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí minh. ĐĐCM có nội dung rất

phong phú, sâu sắc, có những vấn đề quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh

lúc sinh thời thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường

xuyên tự bồi dưỡng, rèn luyện như: đức trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng,

cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… ĐĐCM không phải là những quan

điểm, tiêu chuẩn trừu tượng, mà gắn bó mật thiết với đặc điểm, nhiệm vụ

của từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với từng đối tượng cán bộ, đảng viên.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội cần hướng tới xây dựng lòng trung thành vô

hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì

nhiệm vụ; ý thức tổ chức, kỷ luật cao; giữ gìn đoàn kết, thống nhất theo

Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng; bồi dưỡng mối quan hệ gắn bó máu thịt

giữa quân với dân; đặc biệt giáo dục, rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm,

chính… Theo đó, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội hiện nay, cần tập trung như:

Một là, giáo dục cho đội ngũ CBHC về những quan điểm, nguyên tắc,

quy chế, quy định trong công tác hậu cần quân đội theo chức trách, nhiệm vụ

được đảm nhiệm

Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được hình thành qua

quá trình giáo dục, rèn luyện với những nội dung toàn diện, cụ thể, theo chức

trách, nhiệm vụ được giao. Trong đó, trước hết phải giáo dục cho đội ngũ

CBHC có nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nội dung, phương

thức của công tác hậu cần thường xuyên trong điều kiện kinh tế thị trường,

cũng như bảo đảm hậu cần trong chiến đấu; giáo dục quan điểm, tư tưởng chỉ

đạo của Đảng trong công tác hậu cần quân đội, nhất là quan điểm hậu cần

nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân trong công tác hậu cần; những quy

chế, quy định, nguyên tắc, phương thức bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới,

cho những lực lượng mới tiến thẳng lên hiện đại; giáo dục những tác động

tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và biện pháp phòng, chống, khắc phục

53

của đội ngũ CBHC trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; rèn luyện tác phong

cách công tác, nhất là tác phong, thái độ ứng xử với cán bộ, nhân viên, chiến

sĩ, ý thức, trách nhiệm trong quá trình phục vụ. Đối với mỗi đối tượng CBHC

khác nhau, tùy theo đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, lãnh

đạo, chỉ huy các cấp cần xác định nội dung giáo dục cho phù hợp, tập trung

khắc phục những khâu yếu, mặt yếu trong nhận thức, hành vi đạo đức trong

thực hiện nhiệm vụ được giao. Thông qua đó, mỗi CBHC tự xây dựng cho

mình ý thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được đảm nhiệm, mà không

ngừng cố gắng phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Hai là, giáo dục đạo đức truyền thống vẻ vang của quân đội,

ngành Hậu cần quân đội

Trải qua hơn 73 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh

đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân

dân, QĐNDVN đã không ngừng phát huy bản chất truyền thống vừa xây dựng,

vừa chiến đấu và lao động sản xuất, tạo nên giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp

“Bộ đội Cụ Hồ” tròng lòng nhân dân. Để đội ngũ CBHC Quân đội tiếp tục giữ

vững và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của quân đội và ngành hậu cần,

công tác giáo dục cần tập trung vào nội dung như: Giáo dục lòng trung thành

vô hạn với Tổ quốc Việt Nam XHCN, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tinh

thần quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với nhân

dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về

quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống

nhất ý chí và hành động; kỷ luật nghiêm; đoàn kết quốc tế chí nghĩa chí tình;

ham học tập, cầu tiến bộ; giáo dục tinh thần tích cực rèn luyện, không ngừng

nâng cao bản chất cách mạng và năng lực hành động; tinh thần chịu đựng gian

khổ, khắc phục khó khăn hết lòng phục vụ bộ đội; tinh thần sẵn sàng chiến đấu,

hy sinh làm tròn nhiệm vụ, đánh thắng mọi kẻ thù.

Ba là, giáo dục, rèn luyện những chuẩn mực ĐĐCM cơ bản cho đội ngũ cán

bộ Hậu cần Quân đội, coi trọng giáo dục đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là quá trình trang bị cho đội ngũ

CBHC Quân đội những giá trị chuẩn mực cơ bản của đạo đức cộng sản, xây

dựng lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng đạo đức Hồ

54

Chí Minh; Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà

nước, kỷ luật quân đội; xây dựng ý thức tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo

tự học tập, tự rèn luyện không ngừng để nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực

của đội ngũ CBHC; giáo dục, rèn luyện ý thức, trách nhiệm cao trong thực

hành tự phê bình và phê bình, tinh thần đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham

nhũng, “lợi ích nhóm”. Đặc biệt, cần coi trọng giáo dục, rèn luyện cho CBHC

lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “cán hộ hậu cần như là người mẹ,

người chị của bình nhì”, và ý thức thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính” nghiêm

túc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, vì đây là những phẩm chất đặc trưng,

tiêu biểu cho ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Bốn là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC theo tư tưởng,

tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (theo

chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị) là nhiệm vụ chính trị quan trọng của

toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhằm tạo ra phong trào rèn luyện ĐĐCM

theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Thực hiện

nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp

ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy cần tập trung giáo dục cho đội ngũ CBHC

Quân đội về: Mục đích, ý nghĩa, nội dung, nhiệm vụ học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng

cho họ tinh thần khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt,

rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh

thần chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn

thành nhiệm vụ cho tốt, không kèn cựa địa vị, không quan liêu, kiêu ngạo,

không hủ hóa… theo tư tưởng, phong cách của Người; tăng cường rèn

luyện phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch, đúng giờ, cụ thể, tỉ mỉ,

dân chủ; phong cách đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường

mòn; tinh thần làm việc nghiêm túc, việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu,

thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình; không cố chấp,

bảo thủ, luôn đổi mới, có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm... Đây là

những nội dung quan trọng góp phần tạo nên ĐĐCM, phong cách làm việc

của đội ngũ CBHC Quân đội.

55

Năm là, giáo dục cho đội ngũ CBHC những chỉ thị, quy định mới của

Đảng trong xây dựng chuẩn mực ĐĐCM của cán bộ, đảng viên hiện nay

Công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội, cần thường xuyên cập nhật những thông tin lý luận mới được Đảng

ta quy định, nhất là những tư tưởng, quan điểm, chỉ thị, nghi quyết của Đảng

trong xây dựng đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong đó, tập

trung giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc và thực

hiện nghiêm túc những tiêu chuẩn đạo đức, lối sống mà Đảng ta đã xác định

trong Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, của Ban Chấp hành Trung

ương về “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán

bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Quy định 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban

Bí thư Trung ương Đảng “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,

nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; tăng cường giáo dục, bồi dưỡng cho

đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc đối với những nội dung Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XII) “Vê tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy

lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong đó, cần xây dựng cho đội ngũ

CBHC nhận thức rõ về bản chất, thực trạng, nguyên nhân, hệ quả của những

suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, để

mỗi CBHC tự giác nâng cao nhận thức, tích cực đấu tranh ngăn chặn những

tiêu cực xâm nhập vào cơ quan, đơn vị, góp phần xây dựng đội ngũ CBHC

vững mạnh, có đủ phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đạo đức cách mạng của mỗi CBHC là sự thấm nhuần những giá trị,

chuẩn mực, sự tự giác, tự nguyện phụng sự Tổ quốc, phục vụ bộ đội và

nhân dân, được hình thành, phát triển thông qua quá trình giáo dục, rèn

luyện bền bỉ, thường xuyên, liên tục của mỗi CBHC và của tổ chức. Hoạt

động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội để đạt được

mục đích, yêu cầu đề ra, trước hết cần quán triệt và thực hiện được phương

châm cơ bản là: Coi trọng việc tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM bền bỉ, lâu

dài của đội ngũ CBHC là chính, kết hợp với quá trình giáo dục, giúp đỡ

thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong

quân đội. Đây là yếu tố cơ bản, là cơ sở nhằm xác định nội dung, phương

56

thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có trọng tâm,

trọng điểm, phù hợp với đặc điểm đội ngũ CBHC, nhiệm vụ bảo đảm hậu

cần quân đội. Đồng thời nhấn mạnh vai trò tự giáo dục, bồi dưỡng, rèn

luyện ĐĐCM của mỗi CBHC là yếu tố quyết định nhất.

Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là hệ thống những cách thức,

biện pháp tác động của chủ thể đến đối tượng nhằm hiện thực hoá nội dung

giáo dục, rèn luyện đạo đức đã được xác định. Đây là bước thực hành giáo dục,

rèn luyện để thực hiện sự chuyển hoá nội dung, phương châm giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM thành phẩm chất, nhân cách của người cán bộ Hậu cần. Hoạt

động đó tập trung ở những phương thức cơ bản sau:

Một là, thông qua công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng;

quản lý, duy trì của người chỉ huy, và cơ quan chức năng các cấp để giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Để tiến hành giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, trước hết

cấp ủy, chi bộ các cơ quan, đơn vị phải xác định rõ chủ trương, nội dung, chỉ

tiêu, biện pháp lãnh đạo về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

trong nghị quyết đại hội, nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ thường

xuyên, và đột xuất; đồng thời, tổ chức giáo dục, quán triệt nghị quyết đó tới

toàn thể cán bộ, đảng viên, làm cơ sở thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC.

Người chỉ huy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cơ quan chức năng các

cấp có trách nhiệm xây dựng chương trình, nội dung và tổ chức quản lí, duy trì

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, nhằm cụ thể hóa

nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp ủy, người chỉ huy các cấp trên thực tiễn.

Chương trình, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC phải

được cụ thể hóa trong kế hoạch CTĐ, CTCT của mỗi cơ quan, đơn vị, và phù

hợp với đối tượng, phản ánh được các quan điểm, nguyên tắc trong hoạt động

giáo dục; xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, hình thức, biện pháp, thời

gian, cơ sở vật chất và lực lượng tiến hành. Chủ động phối hợp, hiệp đồng

chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng có liên quan để tổ chức giáo dục, rèn

luyện một cách nghiêm túc. Người chỉ huy, cơ quan chức năng phải thường

xuyên kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị hậu cần, và đội ngũ CBHC thực

hiện có nền nếp, bảo đảm chất lượng hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.

57

Hai là, thông qua hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng của HVHC,

và các học viện, nhà trường, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong toàn quân

Thực hiện giáo dục, rèn luyện ĐĐCM thông qua hoạt động giáo dục, đào

tạo đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân

đội, nhất là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC. Hoạt động

này diễn ra thường xuyên, liên tục, theo kế hoạch giáo dục, đào tạo, và kế

hoạch hoạt động CTĐ, CTCT của các nhà trường. Trong đó, tập trung kết hợp

các hình thức giáo dục, rèn luyện trên lớp (thực hiện các khâu, các bước trong

quá trình giảng dạy của người giáo viên; ghi chép, nắm nội dung bài giảng, kết

hợp học mới với ôn cũ, tham gia xây dựng bài của người học; tổ chức duy trì,

thực hiện các quy chế, quy định trong học tập, thi, kiểm tra, đánh giá kết quả

của cơ quan chức năng; xây dựng môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh…)

với hoạt động giáo dục, rèn luyện tại các đơn vị quản lý học viên (tổ chức quản

lý, duy trì việc thực hiện các chế độ ngày, tuần, ăn, ở, sinh hoạt, tự học, công

tác, tăng gia sản xuất, hoạt động ngoại khóa đối với đội ngũ học viên). Thông

qua các hoạt động hội thi, hội thao, diễn tập, thực tập chức trách, để học viên

vận dụng những kiến thức được trang bị vào tổ chức các hoạt động trên thực

tiễn, nhằm tiếp tục bồi dưỡng lý luận, rèn luyện, củng cố kiến thức, nâng cao

bản lĩnh chính trị, ĐĐCM cho họ. Đây là phương thức quan trọng nhằm giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ học viên đào tạo, bồi dưỡng CBCH các

cấp tại các học viện, nhà trường quân đội.

Ba là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông qua những

hoạt động giáo dục chính trị, thi đua, khen thưởng, nhân điển hình tiên tiến

của các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân

Nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở các cơ

quan, đơn vị hậu cần do cấp ủy, tổ chức đảng, chi bộ, người đứng đầu cơ

quan, đơn vị hậu cần chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện

theo nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, kế hoạch hoạt động CTĐ, CTCT

hằng năm đã xác định. Với những hình thức cơ bản của công tác giáo dục

chính trị như: học tập chính trị, nghiên cứu chuyên đề của sĩ quan tại đơn vị;

thông qua sinh hoạt chính trị, tư tưởng, thông báo chính trị - thời sự, đọc báo,

nghe đài, xem truyền hình; thông qua thực tiễn thực hiện các phong trào hành

động cách mạng; thông qua tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể

thao; thi đua, xung kích của đoàn thanh niên; chương trình hành động, phấn

đấu của tổ chức công đoàn, hội phụ nữ để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội

ngũ CBHC ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội.

58

Trong những phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC tại cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, việc đẩy mạnh công tác thi

đua, khen thưởng, nhân điển hình tiên tiến như: thực hiện phong trào thi

đua Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy; phong trào phát huy

truyền thống, công hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ; nuôi quân giỏi,

quản lý quân nhu tốt; thực hiện tốt cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai

thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và An

toàn giao thông”…; động viên, biểu dương, khen thưởng, nêu gương người

tốt, việc tốt, nhân điển hình tiên tiến trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn,

trong thực hiện các phong trào thi đua… của CBHC; CBHC cấp trên nêu

gương sáng về tinh thần tận tụy phục vụ bộ đội để cán bộ, nhân viên, chiến

sĩ hậu cần cấp học tập và làm theo. Đây là phương thức quan trọng trong

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở các cơ quan, đơn vị hậu

cần trong toàn quân. Vì, theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Từ tiểu đội trưởng

trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh

thần của đội viên” [109, tr.76].

Bốn là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông qua hoạt

động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội

Công tác bảo đảm hậu cần quân đội gồm: “bảo đảm vật chất; bảo đảm

sinh hoạt; bảo đảm quân y và thú y; công tác vận tải; một số nội dung bảo

đảm hậu cần cho an toàn bay của không quân (xăng dầu, điện, khí, vệ sinh

đường băng và canh gác sân bay); bảo đảm hậu cần cho tàu chiến đấu và đặc

công nước của hậu cần Hải quân” [22, tr.2]. Trong chiến đấu là hoạt động

chuẩn bị nguồn, dự trữ, bổ sung các loại vật chất hậu cần; xây dựng thế trân

hậu cần chiến thuật, chiến dịch, chiến lược liên hoàn, vững chắc; tổ chức bảo

đảm vệ sinh, phòng dịch, phòng độc, chăm sóc giữ vững sức khỏe bộ đội để

hoạt động tác chiến liên tục, dài ngày; tổ chức cứu chữa, vận chuyển thương,

bệnh binh; tổ chức vận tải vật chất, cơ động bộ đội bí mật, an toàn, đúng thời

gian, địa điểm quy định.

Thực tiễn công tác, lao động sản xuất, phục vụ bộ đội thời bình cũng như

thời chiến luôn diễn ra một cách sinh động, có khi thuận lợi, có lúc hết sức khó

khăn, phức tạp, gian khổ, ác liệt kéo dài. Đòi hỏi người CBHC phải nhận thức

đúng những quy luật vận động khách quan; những thuận lợi, khó khăn của

nhiệm vụ; những ưu điểm, hạn chế của tổ chức và bản thân mình; bản chất,

âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù... để có biện pháp khắc phục khó khăn hoàn

thành nhiệm vụ. Những hoạt động thực tiễn trong công tác bảo đảm hậu cần,

là phương thức quan trọng để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội phát triển hoàn thiện hơn.

59

Năm là, thông qua hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội

Tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, thực

chất là quá trình hoạt động một cách tự giác, tích cực của mỗi cán bộ thông

qua sự định hướng của chủ thể, để họ tự ghép mình theo những chuẩn mực,

quy định. Đòi hỏi mỗi CBHC phải xây dựng cho mình kế hoạch tự giáo dục,

tự rèn luyện sát với chức trách, nhiệm vụ được giao, đặt ra nội dung, phương

pháp, yêu cầu cụ thể, toàn diện cần đạt được để phấn đấu. Hình thức tự giáo

dục, tự rèn luyện cơ bản như: tự giác nhận thức, tự giác xây dựng kế hoạch; tự

kiểm điểm, điều chỉnh hành vi, thái độ theo chuẩn mực đạo đức, quy định của

chức trách, nhiệm vụ; gương mẫu thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng,

pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy chế, quy định trong công tác hậu

cần; tự giác, tích cực đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” của đội ngũ cán bộ, đảng viên, CBHC ở cơ quan, đơn vị; tự nhận

thức rõ bản chất và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị

hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, các

cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội, trước hết cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ

chức, các lực lượng trong đơn vị quân đội. Đó là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của

cấp ủy, tổ chức đảng, với hoạt động quản lý, duy trì, điều hành của chỉ huy,

và của cơ quan chính trị, cơ quan hậu cần các cấp; phát huy vai trò của các tổ

chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ, hội đồng quân nhân tham gia

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Đồng thời, lãnh

đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp trong quân đội, cần chủ động phối

hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân trên địa bàn đóng

quân và gia đình mỗi CBHC để có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội mọi lúc, mọi nơi, chặt chẽ, nghiêm túc,

đạt chất lượng theo kế hoạch đã xác định.

Bẩy là, thông qua công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng

để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

60

Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, nhất là

của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần, thường tập trung vào những nội

dung cơ bản: chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ

thị của Đảng; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; giữ gìn phẩm chất

chính trị, đạo đức, lối sống; chấp hành pháp luật, kỷ luật; thực hiện nhiệm vụ

chuyên môn; thực hiện học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh của đội ngũ CBHC. Thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát

thường xuyên, chuyên đề, hoặc đột xuất (khi có dấu hiệu vi phạm), nhằm kịp

thời định hướng, điều chỉnh nhận thức, hành vi đạo đức, lối sống, tinh thần,

trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, thực hiện chức

trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu được giao của đội ngũ CBHC. Thông qua đó, sẽ

kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những vi phạm kỷ luật, quy định của CBHC,

góp phần giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, xây dựng

cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh.

Tám là, thông qua sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động CTĐ,

CTCT để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Việc sơ kết, tổng kết hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội thường được cụ thể hóa trong công tác sơ kết, tổng kết, rút

kinh nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT của các cơ quan, đơn vị các cấp, nhất là

của cơ quan đơn vị hậu cần, thực hiện theo kế hoạch 6 tháng và 1 năm, theo

giai đoạn; hoặc sơ, tổng kết theo nhiệm vụ, sau mỗi đợt thực hiện nhiệm vụ

bảo đảm hậu cần cho huấn luyện, chiến đấu. Thông qua đó, lãnh đạo, chỉ huy

cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp sẽ đánh giá rõ những ưu điểm, hạn chế,

khuyết điểm trên các mặt công tác, hoặc trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần;

chỉ ra ưu, khuyết điểm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong

công tác... của đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ; tìm nguyên nhân, rút

ra những bài học kinh nghiệm để khắc phục; xác đinh nhiệm vụ, nội dung,

phương hướng hoạt động CTĐ, CTCT thời gian tới. Sơ kết, tổng kết, rút kinh

nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT là nhiệm vụ chính trị của lãnh đạo, chỉ huy, cơ

quan chức năng các cấp phải thực hiện, đồng thời là phương thức quan trọng

góp phần giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là một thể

thống nhất biện chứng gồm nhiều cách thức, biện pháp khác nhau, chúng luôn

tác động ảnh hưởng đến nhau, góp phần phát triển, hoàn thiện ĐĐCM của mỗi

CBHC. Vì vậy, không nên tuyệt đối hoá phương thức nào, hoặc tách rời quá

trình giáo dục với rèn luyện đạo đức cách mạng sẽ không hiệu quả.

61

2.2.2.3. Vai trò của giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội

ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Một là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là cơ sở hoàn thiện phẩm chất, nhân

cách của đội ngũ CBHC Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần

trong tình hình mới

Phẩm chất và năng lực (đức và tài) là hai bộ phận không thể tách rời

của nhân cách người cách mạng, đồng thời nó là thước đo nhân cách của con

người. Người chiến sĩ cách mạng muốn hoàn thành nhiệm vụ phải có đức và

tài. Trong đó, đạo đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ‘‘Cũng như sông

thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,

không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo

đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [107, tr. 292].

Đối với đội ngũ CBHC Quân đội, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM sẽ góp

phần định hướng lý tưởng, mục tiêu cuộc sống của bản thân CBHC phù hợp

với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng quân đội. Thông

qua giáo dục, rèn luyện, hệ thống các giá trị, chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức,

lối sống với tính cách là phạm trù ý thức của con người, có thể định hướng lý

tưởng sống cao đẹp; bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, ý chí, tinh thần cảnh giác

cách mạng; nâng cao nhận thức về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của

kẻ thù trên mặt trận chính trị, tư tưởng, để mỗi CBHC tích cực, tự giác đấu

tranh làm thất bại âm mưu của chúng. Trong điều kiện cụ thể ở mỗi cơ quan,

đơn vị hậu cần, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là cơ sở quan trọng góp phần

hoàn thiện phẩm chất nhân cách của đội ngũ CBHC Quân đội.

Hai là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là nhiệm vụ chính trị quan trọng, trực

tiếp xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh, góp phần ngăn ngừa sự suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

Xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh là yêu cầu khách quan,

nhiệm vụ chính trị quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ

quan trong quân đội vững mạnh. Thông qua công tác giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM, đội ngũ CBHC Quân đội sẽ được trang bị những kiến thức cơ bản về

lý luận chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng ứng xử theo chuẩn mực, quy định

của Đảng và quân đội. Sự vững vàng về phẩm chất chính trị, ĐĐCM tạo nền

tảng cho người CBHC có đủ điều kiện để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ

được giao. Đây là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng đội ngũ CBHC Quân

đội vững mạnh toàn diện.

62

Trên thực tế, tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt,

có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” [67, tr.185]. Sự suy thoái đó được

Đảng ta xác định là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn có thể dẫn tới sự “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi hỏi các cấp ủy, chi bộ trong quân đội phải

tăng cường hơn nữa hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC. Đây vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa là yêu cầu cấp bách trong công tác

giáo dục chính trị ở cơ sở. Thông qua đó, nhằm nâng cao nhận thức của đội

ngũ CBHC về thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi

CBHC có cách thức nhận diện, đấu tranh, ngăn ngừa một cách hiệu quả nhất

những thực trạng đó, góp phần xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn

vị hậu cần trong sạch vững mạnh.

Ba là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội góp

phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư

tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội

Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay đặt ra yêu cầu rất

cao phải tiếp tục thực hiện phương hướng xây dựng QĐNDVN cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ

quốc. Trong đó, phải lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ

chức và đạo đức làm cơ sở để xây dựng các mặt khác và nâng cao chất lượng

tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Phương hướng xây dựng quân đội

hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm

nhiệm vụ, trong đó có đội ngũ CBHC. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC, làm cho họ thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ĐĐCM, đáp ứng

được yêu cầu xây dựng quân đội, có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất

lượng chính trị, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Đồng thời, trong giai đoạn hiện nay cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư

tưởng, lý luận, văn hóa luôn diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp; nhất là cuộc

đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”

quân đội của các thế lực thù địch. Đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt trong

tổ chức lực lượng, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ cấp dưới ở cơ quan, phân đội

hậu cần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận ấy. Giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM để CBHC có tri thức, kỹ năng, bản lĩnh toàn diện, làm cơ sở nhằm

nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế

lực thù địch. Thông qua đó góp phần nâng cao chất lượng chính trị, sức chiến

đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao của quân đội.

63

2.2.2.4. Yêu cầu giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ

cán bộ Hậu cần Quân đội

Một là, giáo dục, rèn luyện toàn diện đối với đội ngũ CBHC Quân đội

Trong mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau cần có một đội ngũ cán bộ có

phẩm chất, năng lực toàn diện đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ cách

mạng. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ

mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã có nhiều quyết sách

về công tác cán bộ. Đảng ta luôn khẳng định giáo dục phải đi trước, là nền

tảng, động lực để xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, công tác giáo dục

nói chung, nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC

Quân đội nói riêng phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khách

quan; giáo dục, rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất và năng lực chuyên

môn, nghiệp vụ hậu cần, nhưng cần chú trọng xây dựng, bồi dưỡng phẩm

chất đạo đức, nhân cách người cán bộ.

Theo đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội phải căn cứ vào các

nghị quyết, chỉ thị của Đảng về chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ

mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết 769-

NQ/QUTW, ngày 21-12-2012 của Quân ủy Trung ương “Về xây dựng đội ngũ

cán bộ quân đội giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”… để xác định

phương hướng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trong đó, đặc biệt chú trọng trang bị cho đội ngũ

CBHC có: “bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng,… ý thức tổ chức kỷ luật

nghiêm, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; trung thực, thẳng thắn, không

cục bộ, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có phong cách làm việc khoa

học, chính quy, dân chủ, kỷ luật, tôn trọng tập thể, đoàn kết thống nhất, gắn bó

với quần chúng” [136, tr.6]. Thông qua thực tiễn hoạt động giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM, thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác bảo đảm hậu cần của đội ngũ

CBHC Quân đội để tuyển chọn, đánh giá, sàng lọc, và tiếp tục có kế sách bồi

dường, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC các cấp.

64

Hai là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội phải

xuất phát và bám sát thực tiễn nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội

Công tác hậu cần quân đội ở mỗi giai đoạn khác nhau có yêu cầu nhiệm

vụ riêng, phụ thuộc vào nhiệm vụ của cách mạng, quân đội và đơn vị. Để xây

dựng được đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp, căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị,

mệnh lệnh của cấp trên; chức năng, nhiệm vụ; đặc điểm, yêu cầu của công tác

hậu cần; đặc điểm đội ngũ CBHC để xác định chủ trương, biện pháp giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất

lượng. Đối với từng CBHC, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao, tình

hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của bản thân và tập thể, từ đó xác

định động cơ, trách nhiệm, ý chí, quyết tâm và xây dựng, thực hiện kế hoạch

tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của mình. Bất luận trong điều kiện, hoàn

cảnh, hoặc nhiệm vụ khó khăn thế nào đội ngũ CBHC cũng không được lùi

bước, phải dám vượt lên chính mình, quyết tâm khắc phục khó khăn, tự lựa

chọn nội dung, hình thức, phương pháp, và thực hiện tự giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM nghiêm túc, hiệu quả nhất.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với bồi dưỡng

phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực chuyên môn, với đấu tranh ngăn ngừa

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, của đội ngũ CBHC Quân đội

Hoạt động bảo đảm hậu cần hiện nay đòi hỏi đội ngũ CBHC phải

thường xuyên được giáo dục, bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất toàn

diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động này càng đạt chất lượng, hiệu

quả khi tiến hành đồng thời, kết hợp nhiều nội dung, hình thức, biện pháp, và

phát huy sức mạnh của tập thể cán bộ, đảng viên.

Theo đó, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC cũng phải

được tiến hành thực hiện trong hoạt động giáo dục chính trị tổng thể của cơ

quan, đơn vị hậu cần. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cần gắn với thực hiện học

tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện

cuộc vận động phát huy truyền thống, công hiến tài năng xứng danh “Bộ đội

Cụ Hồ”; phong trào ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy; phong

trào nôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt… với thực hiện có hiệu quả Nghị

65

quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng. Đồng

thời với quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là quá trình

thực hiện nhiệm vụ đấu tranh ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống của cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mỗi cơ quan, đơn vị.

Thông qua hoạt động đấu tranh chung của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tạo

nên phong trào hành động cách mạng mạnh mẽ ở cơ quan, đơn vị hậu cần,

hình thành sức mạnh tổng hợp để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC một cách hiệu quả nhất.

Bốn là, chú trọng việc nêu gương rèn luyện ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo,

chỉ huy và xử lý nghiêm minh, kịp thời CBHC vi phạm đạo đức, lối sống

Để đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI)

“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay” và Chỉ thị số 03-

CT/TW, ngày 14-5-2011, Ban Bí Trung ương đã ban hành Quy định số 101-

QĐ/TW ngày 07-6-2012 “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,

nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Quán triệt sâu sắc quy định của

Trung ương trong hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC,

đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải

luôn gương mẫu, đi đầu trong tự giáo dục, tự rèn luyện về ĐĐCM; luôn kiên

định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của

Ðảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đi đầu trong đấu tranh

với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tích

cực phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; luôn nêu gương về đức

khiêm tốn, giản dị; tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư,

nguyện vọng chính đáng của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới; làm việc

với thái độ khách quan, công tâm, dân chủ, sáng tạo; gương mẫu thực hiện

nghĩa vụ công dân nơi cư trú.

Người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần, bên cạnh việc nêu gương

phải có biện pháp nắm chắc số, chất lượng đội ngũ CBHC các cấp thuộc

phạm vi lãnh đạo, quản lý; phát hiện những khâu yếu, mặt yếu về phẩm

chất đạo đức, năng lực chuyên môn của đội ngũ CBHC, để có hình thức,

biện pháp bồi dưỡng, rèn luyện hợp lý. Xử lý nghiêm minh, chặt chẽ, thấu

tình đạt lý những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống, kỷ luật quân đội của

đội ngũ CBHC, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

66

Tiểu kết chương 2

Đội ngũ CBHC Quân đội là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán

bộ của Đảng công tác trong quân đội, có vai trò rất quan trọng trong tham

mưu đề xuất, chuẩn bị cho người chỉ huy hạ quyết tâm, đề ra chủ trương

chính xác các hoạt động hậu cần; tham mưu với chính quyền địa phương,

những chủ trương, biện pháp xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ, xây dựng

hậu cần nhân dân; Đồng thời là lực lượng trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm

vụ hậu cần, tham gia xây dựng tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị hậu cần trong

sạch vững mạnh, ngành hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện.

Xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội, trước hết cần xây dựng yếu tố cốt lõi,

đó là ĐĐCM, đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, là nền tảng để hoàn thiện

nhân cách, giúp người CBHC nhận thức đúng mục tiêu, lý tưởng cách mạng,

góp phần hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội được biểu hiện rất rõ nét thông qua nhận thức, cũng như trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ hàng ngày, với những chuẩn mực đạo đức cơ bản

về sự: “cần, kiệm, liêm, chính”; tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội. Trong

điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác bảo đảm hậu

cần chịu tác động thường xuyên của nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực, để hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, làm cơ sở nâng cao chất

lượng chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới.

Để tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội đạt chất lượng, hiệu quả cao, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ

quan, đơn vị hậu cần các cấp phải căn cứ vào đặc điểm, tình hình nhiệm vụ

cách mạng, quân đội, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đơn vị, để xác định rõ

mục đích, yêu cầu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương thức giáo dục,

rèn luyện. Qúa trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, phải đặt dưới sự lãnh đạo,

chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; sự quản lý, duy trì của người chỉ huy,

chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị và cần phát huy vai trò của các tổ

chức, các lực lượng, kết hợp với quá trình tự học tập, tự tu dưỡng bền bỉ hàng

ngày của từng CBHC nhằm trau dồi, rèn luyện ĐĐCM đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới. Đây là cơ sở lý luận và thực

tiễn quan trọng để đánh giá kết quả giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội đạt chất lượng đến đâu, từ đó xác định nguyên nhân, rút ra

bài học kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục khuyết điểm để công tác giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng, hiệu quả

cao hơn trên thực tiễn.

67

Chương 3

ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH

MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

3.1.1. Những ưu điểm

Những năm qua, nhận thức được vai trò quan trọng của ĐĐCM là phẩm chất

cốt lõi tạo nên nhân cách người CBHC, là nhân tố then chốt quyết định chất lượng,

hiệu quả công tác hậu cần quân đội. Do đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội

đã có nhiều chủ trương, biện pháp thường xuyên giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho

họ. Vì vậy, đạo đức của đội ngũ CBHC từng bước được hoàn thiện, với nhiều ưu

điểm, trực tiếp góp phần tạo nên chất lượng chính trị, sức mạnh chiến đấu của quân

đội, những ưu điểm đó được biểu hiện cụ thể trên những nội dung cơ bản sau:

Một là, đội ngũ CBHC Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng,

với Tổ quốc, với nhân dân

Đội ngũ CBHC Quân đội đồng thời cũng là những đảng viên của Đảng,

lực lượng giữ vai trò quan trọng, quyết định chất lượng công tác hậu cần quân

đội, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước

hiện đại. Những năm qua, mặc dù thường xuyên chịu sự tác động nhiều mặt

của điều kiện kinh tế thị trường, nhất là những tác động tiêu cực, nhưng đội

ngũ CBHC luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng; trong mọi điều kiện, hoàn

cảnh, hầu hết CBHC đều kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung thành

với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý

tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giá trị đạo đức

căn bản nhất của người cách mạng, đã được đội ngũ CBHC Quân đội nhận

thức rõ, luôn giữ vững và phát huy trong quá trình công tác.

Qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, 100% ý kiến

của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và

nhân dân là phẩm chất quan trọng của đội ngũ CBHC [Phụ lục 1]; 99,65% ý

68

kiến đánh giá đội ngũ CBHC Quân đội luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới

dưới sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,

sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối

đổi mới của Đảng [Phụ lục 1]. Phần lớn CBHC có nhận thức đúng đắn về trách

nhiệm chính trị trước Đảng, trước Tổ quốc và nhân dân, ít có trường hợp biểu

hiện dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng; không có CBHC phản bội

lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong công tác và sinh hoạt thường ngày, mặc dù đội

ngũ CBHC Quân đội còn gặp không ít khó khăn, nhưng họ luôn tôn trọng lắng

nghe ý kiến, gắn bó mật thiết, và giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói

giảm nghèo, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo trong xây

dựng thế trận hậu cần nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đa số CBHC Quân đội đã nêu cao tinh thần, trách nhiệm, gương

mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sống trong sạch lành

mạnh; tích cực ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

Những năm qua ngành Hậu cần đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC, vì vậy nhận thức, hành vi

đạo đức của đội ngũ CBHC Quân đội không ngừng được nâng lên. Đa số

CBHC thực sự là tấm gương mẫu mực về thực hiện lối sống cần, kiệm, liêm,

chính, chí công vô tư; ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần đã thực hành tiết kiệm

10 - 15% ngân sách để mua sắm thêm trang bị phục vụ công tác và nâng cao

đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Trong công tác bảo đảm hậu cần, đa

số CBHC luôn thể hiện được đức tính siêng năng, tận tụy, thực hành tiết

kiệm; sống thật thà, ngay thẳng, năng động, sáng tạo, toàn tâm, toàn ý phục

vụ bộ đội.

Trong lối sống, đa số CBHC luôn gần gũi, gắn bó với bộ đội và nhân

dân, có lối sống giản dị, trong sạch, không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết

đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cũng như các biểu hiện suy thoái về đạo

đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… đã góp phần tô thắm phẩm

chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện mới. Qua khảo sát ở một số cơ

quan, đơn vị hậu cần, có 100% ý kiến được hỏi đều khẳng định: cần, kiệm,

liêm, chính là phẩm chất quan trọng của đội ngũ CBHC Quân đội [Phụ lục 1],

những giá trị chuẩn mực đạo đức đó cần tiếp tục được phát huy, phát triển

trong hoạt động hậu cần quân đội thời gian tới.

69

Ba là, nhiều CBHC luôn nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, tận tâm,

tận lực hết lòng phục vụ bộ đội; yêu ngành, yêu nghề, có ý thức trách nhiệm

cao, làm việc dân chủ, sáng tạo, nói đi đối với làm, sẵn sàng nhận và hoàn thành

tốt nhiệm vụ hậu cần khi được giao

Thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong nhiều điều kiện khác nhau,

tính chất công việc thường xuyên thay đổi, đối tượng, chủng loại vật chất bảo

đảm đa dạng, khối lượng lớn, khó khăn, phức tạp… Nhưng, “Đội ngũ cán bộ,

nhân viên hậu cần có phẩm chất đạo đức, chính trị tốt, nhiệt tình trách nhiệm

với công việc, có quan điểm phục vụ đúng đắn, luôn sẵn sàng nhận và phấn đấu

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” [24, tr.2]. Đối với đồng chí, đội ngũ

CBHC luôn đoàn kết, gắn bó, thương yêu, quý trọng, đùm bọc lẫn nhau bằng

tình cảm người đồng chí thân thiết; đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt qua

khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Ở nhiều cơ quan, đơn vị,

đội ngũ CBHC cấp trên luôn nhiệt tình, tích cực, thường xuyên bồi dưỡng,

giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ nhân viên thuộc quyền về tư tưởng chính

trị, đạo đức và năng lực cũng như phương pháp tác phong công tác trong thực

hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, quan tâm, giúp đỡ những đồng chí có

khó khăn về điều kiện gia đình vươn lên trong cuộc sống.

Bên cạnh đó, trong quá trình công tác, đội ngũ CBHC luôn tích cực, chủ

động nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, đặc điểm đối tượng, nhiệm vụ được

giao, sâu sát bộ đội, có thái độ, trách nhiệm trong công việc, yêu ngành, nghề,

gắn bó với nhiệm vụ; ở nhiều đơn vị, đội ngũ CBHC luôn gương mẫu, tận tâm,

tận lực phục vụ bộ đội; thực sự là lực lượng nòng cốt làm tham mưu cho lãnh

đạo, chỉ huy các cấp về công tác hậu cần; có thái độ đấu tranh kiên quyết, ngăn

chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa” trong đơn vị, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,

xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần. Nhiều

đồng chí đã vượt qua được những cám dỗ “vật chất tầm thường”, giữ được lối

sống trong sạch, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, tích cực, chủ động trong

công việc; sâu sát, phục vụ bộ đội hết mình, trọng mọi điều kiện hoàn cảnh luôn

thực hiện bảo đảm đầy đủ theo chế độ, tiêu chuẩn cho bộ đội.

70

Bốn là, đội ngũ CBHC Quân đội luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chấp

hành nghiêm kỷ luật quân đội, giữ vững nguyên tắc trong công tác hậu cần

Phát huy “truyền thống quân dân như cá với nước” của quân đội ta, đa

số CBHC luôn có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân

đội, quy định của các cơ quan, đơn vị. Thường xuyên tăng cường mối quan hệ

gắn bó mật thiết với cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân địa phương nơi

đóng quân, nhất là nhân dân ở những vùng khó khăn, phức tạp; tích cực giúp

đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, khắc

phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Đồng thời, tích cực tuyên truyền giáo dục

nhân dân hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giác ngộ đồng

bào dân tộc thiểu số nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, bộ mặt thật của bọn phản

động trong và ngoài nước. Các cơ quan, đơn vị hậu cần và đội ngũ CBHC đã

phối hợp với các đơn vị trong và ngoài quân đội phát động các phong trào

quyên góp: ủng hộ đồng bào nơi bị bão, lũ; xây dựng mái ấm tình thương; xây

nhà tình nghĩa, nhà đồng đội; vì Trường Sa thân yêu; chương trình biển đảo

quê hương... Những hoạt động đó đã góp phần tô thắm thêm truyền thống

đoàn kết quân dân, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đa số CBHC luôn

chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, nguyên tắc bảo đảm hậu cần; luôn chủ

động xây dựng kế hoạch làm việc cụ thể, tỉ mỉ, sát với yêu cầu nhiệm vụ quân

sự của đơn vị đặt ra; đội ngũ CBHC, nhất là đội ngũ chủ nhiệm, phó chủ

nhiệm hậu cần các cấp luôn là lực lượng gương mẫu, đi đầu trong chấp hành

pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của cơ quan, đơn vị mình;

thực hiện tốt quy tắc “đúng, đủ, chính xác, kịp thời” trong hoạt động hậu cần;

rất ít trường hợp để sảy ra sai sót, không đúng đối tượng, chủng loại, số

lượng, kỹ thuật… Khi đánh giá về việc chấp hành kỷ luật của đội ngũ CBHC

Quân đội hiện nay, có 84,55% đánh giá tốt; 10,65% ý kiến đánh giá họ chấp

hành khá [Phụ lục 1]. Vì vậy, kỷ luật quân đội luôn được duy trì nghiêm ở cơ

quan, đơn vị hậu cần, nhờ đó chất lượng công tác bảo đảm hậu cần luôn được

giữ vững, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện.

Năm là, đội ngũ CBHC đã tích cực học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất

chính trị, năng lực, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, làm chủ khoa học kỹ thuật

hậu cần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới

71

Đội ngũ CBHC phần lớn được đào tạo dài hạn tại HVHC chiếm 85,79%

[Phụ lục 3.2], trình độ học vấn khá cao, trong đó có: 15,37% trình độ cao

đẳng; 76,69% trình độ đại học; 2,29% trình độ sau đại học [Phụ lục 3.3]. Tuy

nhiên, kiến thức được trang bị cho đội ngũ CBHC trong quá trình học tập tại

trường chưa đủ để CBHC hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Để

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội trong điều kiện kinh tế

thị trường định hướng XHCN hiện nay, trong thời gian qua, một bộ phận

CBHC được gửi đi đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật ở các trường uy tín ngoài

quân đội, còn lại đa số họ phải tự học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm

chất, năng lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo đảm hậu cần tại đơn vị. Hiện

nay, qua khảo sát thực tế tại đơn vị, khi đánh giá về năng lực công tác của đội

ngũ CBHC, có 77,6% ý kiến đánh giá họ hoàn thành khá và tốt nhiệm vụ

được giao [Phụ lục 1].

Những ưu điểm về ĐĐCM trên đây của đội ngũ CBHC Quân đội là sự kế

thừa, phát triển những giá trị ĐĐCM của người cách mạng nói chung, và được

vận dụng, phát huy trong điều kiện thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân

đội hiện nay. Để phát huy được những ưu điểm đó trong hoạt động hậu cần, đòi

hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp có biện pháp tăng cường giáo dục, bồi dưỡng

ĐĐCM hơn nữa trên thực tiễn, để đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất đạo đức,

năng lực hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong thời kỳ mới.

3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm

Một là, niềm tin, bản lĩnh chính trị của một số CBHC đối với Đảng và chế

độ có lúc chưa thực sự kiên định, vững vàng, còn biểu hiện dao động

Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu

hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng

viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ

tư (khóa XI) và Đại hội XII của Đảng ta chỉ ra, một số CBHC Quân đội đã có

biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, băn khoăn, lo lắng về tương lai của đất

nước; ít tin tưởng vào hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

lãng phí mà Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành (15,8% ý kiến của cán bộ,

đảng viên được hỏi thể hiện sự tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách

mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng còn rất nhiều băn khoăn; 10,75% ý

kiến cho rằng cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta

hiện nay khó thực hiện, 1% cho rằng không thực hiện được) [Phụ lục 1].

72

Trên thực tế, một số cán bộ ở mức độ khác nhau, còn lúng túng trước

những vấn đề thực tiễn chính trị... những diễn biến mau lẹ, phức tạp của tình

hình thế giới và trong nước, chưa đạt đến sự tinh nhuệ về chính trị. Đặc biệt,

một số CBHC trẻ, tuổi nghề dưới 10 năm, chưa được rèn luyện, thử thách

nhiều trong thực tiễn công tác, khi trực tiếp bảo đảm hậu cần cho bộ đội nơi

khó khăn, lao động sản xuất, giúp đỡ nhân dân nơi biên giới, hải đảo; hoặc

trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, cũng như sự

cám dỗ của lợi ích vật chất, dễ bị kẻ xấu dụ dỗ, mua chuộc, bản lĩnh chính trị

có lúc thiếu kiên định, vững vàng, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống.

Hai là, một số CBHC thiếu ý thức cần, kiệm, liêm, chính, có biểu hiện

tham nhũng, lãng phí, suy thoái về đạo đức, lối sống

Trong những năm qua bên cạnh đại bộ phận CBHC có đạo đức tốt,

vẫn tồn tại một số CBHC có biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống,

vẫn còn một số cán bộ lợi dụng kẽ hở của cơ chế để buôn bán trái phép,

bớt xén tiêu chuẩn bộ đội, sử dụng phương tiện của đơn vị, công sức của

bộ đội vào mục đích làm giàu cho cá nhân . Một bộ phận CBHC chưa thực

hiện cần, kiệm, liêm, chính, thiếu ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM; đã có những nhận thức và hành vi xa rời các chuẩn mực ĐĐCM,

đạo đức người CBHC Quân đội; thiếu tinh thần trách nhiệm, làm việc cầm

chừng, trung bình chủ nghĩa, thiếu sự cố gắng phấn đấu vươn lên; nhận

thức, thực hiện làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh còn

nhiều hạn chế.

Qua khảo sát thực tế ở các cơ quan, đơn vị hậu cần, có 8,35% ý kiến

được hỏi cho rằng CBHC có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; 12,15% ý kiến

nhận định CBHC còn vun vén cá nhân, cơ hội thực dụng; 18,7% cho rằng họ

hay rượu chè, cờ bạc… [Phụ lục 1]. Đây là thứ “bệnh” thực dụng, cá nhân chủ

nghĩa, xem nhẹ lợi ích của tập thể, quân đội, nhân dân. Qua phân tích tình hình

vi phạm kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội từ 2005-2017, cho thấy

những vụ việc vi phạm của CBHC như: vay nợ quá khả năng chi trả chiếm

0,88%; tham ô, trộm cắp tài sản là 0,43%; lừa đảo, chiếm đoạt tài sản 0,1%;

đánh bạc 0,12%; quan hệ bất chính 0,12%... Thực trạng sự suy thoái về đạo

đức, lối sống của một số CBHC là thách thức không nhỏ, làm cản trở đến việc

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC hiện nay.

73

Ba là, một bộ phận CBHC chưa thực sự thương yêu đồng chí, chưa chủ

động khắc phục khó khăn để phục vụ bộ đội

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phục vụ bộ đội, ý

thức phục vụ của một bộ phận CBHC còn hạn chế. Một bộ phận CBHC chưa

biểu thị sự tận tâm, tận lực - “như người mẹ, người chị” của bộ đội để phục

vụ; qua khảo sát ở nhiều đơn vị, còn nhiều ý kiến của cán bộ, chiến sĩ phản

ánh chất lượng bữa ăn, lương thực, thực phẩm; thái độ, phong cách phục vụ;

bảo đảm chế độ, tiêu chuẩn quân trang, quân dụng… của đội ngũ CBHC có

nhiều thời điểm chưa kịp thời, chất lượng bảo đảm chưa đồng đều, còn hạn

chế; 6,2% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng CBHC thiếu ý thức

tổ chức kỷ luật; 3,35% ý kiến đánh giá CBHC thờ ơ, thiếu trách nhiệm; 7,6%

cho rằng CBHC có biểu hiện quan liêu, quân phiệt với cấp dưới; 3,65% ý kiến

đánh giá CBHC cục bộ, mất đoàn kết và 25,85% ý kiến phản ánh quan hệ

giữa cán bộ Hậu cần với hạ sĩ quan, chiến sĩ là không tốt [Phụ lục 1]. Thực

trạng này phản ánh hạn chế, khuyết điểm về ý thức, trách nhiệm trong công

tác phục vụ bộ đội của đội ngũ CBHC, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn

vị hậu cần có biện pháp khắc phục thời gian tới.

Bốn là, việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đôi, quy chế,

quy định trong công tác hậu cần của một số CBHC còn hạn chế

Một số CBHC chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện, chấp hành pháp

luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và các quy định của cơ quan, đơn vị nơi cán bộ

học tập, công tác, nên các vụ việc vi phạm kỷ luật quân đội, quy chế, quy định

trong công tác bảo đảm hậu cần vẫn xảy ra ở các mức độ khác nhau làm ảnh

hưởng tới chất lượng công tác hậu cần quân đội. Qua thống kê cho thấy, từ

2005-2017 tình trạng tham ô, trộm cắp tài sản chiếm 10,76%; vay nợ quá khả

năng chi trả chiếm 22,05%; lộ lọt tài liệu mật trên mạng internet chiếm 2,56%;

đào bỏ ngũ chiến 9,74%... trong tổng số vụ việc vi phạm kỷ luật của đội ngũ

CBHC Quân đội. Những biểu hiện vi phạm này, có vụ việc mang tính chất

nghiêm trọng, có những vi phạm diễn ra phổ biến ở những thời điểm nhất định

(vay nợ quá khả năng chi trả…) không những ảnh tới chất lượng công tác thực

hiện nhiệm vụ nói chung mà còn làm phai nhạt bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ

Hồ”, là trở lực lớn đối với công tác xây dựng Ngành Hậu cần quân đội cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

74

Năm là, một bộ phận không nhỏ CBHC có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại,

ngại học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

Trước sự tác động mạnh mẽ của kinh tế tri thức trong điều kiện thị

trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, yêu cầu nhiệm vụ

bảo đảm hậu cần quân đội ngày càng nặng nề, nhất là bảo đảm cho những lực

lượng tiến thẳng lên hiện đại (hải quân, phòng không - không quân, thông tin

liên lạc…). Trong điều kiện mới, đặt ra yêu cầu rất cao về phẩm chất đạo đức,

trình độ năng lực của đội ngũ CBHC. Song, có một bộ phận không nhỏ

CBHC lại tự bằng lòng với những kiến thức, kinh nghiệm đã có, bảo thủ,

thiếu tích cực, tự giác trong học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ; nhất là

việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để khai thác, quản lý,

bảo quản, sử dụng trang bị hậu cần, quân lương, quân trang, dược phẩm…

trong xây dựng thế trận hậu cần sẵn sàng chiến đấu, thế trận hậu cần khu vực

phòng thủ; bố trí, sử dụng lực lượng hậu cần thời bình cũng như khi có tình

huống… còn nhiều hạn chế.

Đặc biệt vẫn còn một bộ phận CBHC chưa gương mẫu về đạo đức, lối

sống, có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại, ngại học tập phấn đấu vươn lên. Nhất là

một bộ phận cán bộ vận tải, chỉ có 21% ở trình độ trung học phổ thông, 20,93%

có trình độ cao đẳng [Phụ lục 3.3]. Trong khi đó, cán bộ doanh trại chỉ có 0,5% ở

trình độ trung cấp; 8,1% trình độ cao đẳng [Phụ lục 3.3]. So sánh tỷ lệ trình độ

học vấn giữ hai loại cán bộ này cho thấy sự chênh lệch tương đối lớn về trình độ.

Thực tế, nhiều cán bộ vận tải ở các cơ quan, đơn vị hậu cần phấn đấu cầm

chừng, sức ỳ rất cao, tạo nên khoảng trống về trình độ học vấn giữa cán bộ vận

tải với các loại cán bộ khác là rất lớn. Qua khảo sát, có 17,7% ý kiến cho rằng

CBHC thường bảo thủ, trì trệ, lười học tập và rèn luyện; 1,8% cho rằng năng lực

công tác hạn chế, chưa đáp ứng nhiệm vụ [Phụ lục 1]. Đây là thực trạng đáng

báo động về tinh thần, trách nhiệm trong học tập nâng cao phẩm chất, năng lực

nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một bộ phận CBHC hiện nay.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là biểu hiện thực trạng xuống cấp,

đáng báo động về đạo đức, lối sống của một bộ phận CBHC Quân đội hiện

nay, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xây dựng Ngành Hậu cần quân

đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để đẩy lùi

tình trạng này trong đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng phải

thực hiện nhiều giải pháp cấp bách, đồng bộ, trước hết cần phải tăng cường

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm sẵn

sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao của đội ngũ CBHC.

75

3.2. GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - THỰC TRẠNG,

NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.2.1. Thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội

ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam

3.2.1.1. Những ưu điểm

* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đã cơ bản,

toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, có sự đổi mới

Một là, thường xuyên giáo dục, quán triệt những quan điểm, nguyên tắc,

quy chế, quy định trong công tác hậu cần đối với đội ngũ CBHC Quân đội

Trong những năm qua, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò rất quan trọng

của ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ

huy trong quân đội đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, và đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Nội

dung giáo dục, rèn luyện đã cụ thể, thiết thực hơn, gắn liền và sát với nhiệm

vụ bảo đảm hậu cần, với chức trách, nhiệm vụ của CBHC ở từng cấp, từng

quân, binh chủng và từng đơn vị. Đã tập trung quán triệt, giáo dục và vận

dụng tổ chức thực hiện đúng các quan điểm của Đảng về: hậu cần nhân dân;

phục vụ bộ đội; thực tiễn và phát triển; quan điểm cần, kiệm, liêm, chính, tự

lực, tự cường, trong công tác hậu cần. Ở một số cơ quan, đơn vị: “trong thực

hiện chức trách, đội ngũ CBHC đã thể hiện năng lực vận dụng các quan điểm,

đường lối nghệ thuật quân sự của Đảng về công tác hậu cần vào thực tiễn”

[88, tr.20]. Vì vậy, chất lượng công tác hậu cần luôn được giữ vững.

Lãnh đạo, chỉ huy một số đơn vị đã kịp thời bổ sung, thống nhất về hệ

thổng sổ sách, bảng biểu, văn kiện hậu cần, văn kiện huấn luyện hậu cần; nhất

là hệ thống văn kiện hậu cần chiến đấu; đồng thời, thường xuyên giáo dục,

quán triệt cho đội ngũ CBHC có nhận thức toàn diện, sâu sắc về các nguyên

tắc: chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bảo đảm kịp thời, đầy đủ cho từng đối tượng

theo chế độ, tiêu chuẩn; bảo đảm đi đôi với quản lý, nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả công tác hậu cần; lấy bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ

quân sự làm mục tiêu cao nhất... Vì vậy, việc nhận thức và chấp hành các quy

chế, quy định trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC

76

Quân đội đã được nâng lên, chất lượng thực hiện nhiệm vụ luôn được giữ

vững. Khi đánh giá về nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC,

có 81% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng nội dung giáo dục là toàn

diện, thiết thực, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ [Phụ lục 1].

Hai là, đã tăng cường hoạt động giáo dục đạo đức truyền thống

của quân đội, ngành Hậu cần quân đội

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức truyền

thống của quân đội, ngành Hậu cần quân đội. Những năm qua, QUTW

nói chung, các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp

trong quân đội, và ngành Hậu cần quân đội nói riêng đã có nhiều chủ trương,

giải pháp đẩy mạnh giáo dục truyền thống tốt đẹp của Đảng, của dân tộc, của

quân đội, Ngành Hậu cần quân đội; tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước,

lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, và nhân dân; tinh thần đoàn kết gắn bó

mật thiết của người đồng chí; tăng cường mối quan hệ gắn bó “máu thịt” giữa

quân với dân; xây dựng ý thức thực hiện nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật

quân đội, quy định, truyền thống của cơ quan, đơn vị đối với đội ngũ CBHC.

Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần: các cấp đã chú trọng xây dựng, giáo

dục truyền thống của đơn vị; truyền thống ngành hậu cần anh hùng; công tác

giáo dục truyền thống đã khơi dậy được ý thức dân tộc, lòng yêu nước, yêu

ngành nghề; đã tạo nên những phong trào “phát huy truyền thống” sôi nổi của

đội ngũ CBHC, thiết thực nâng cao ĐĐCM, chất lượng công tác bảo đảm hậu

cần quân đội. Qua đó đã góp phần xây dựng quân đội, ngành Hậu cần quân đội

vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo cơ sở thực hiện thắng

lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Ba là, đã tập trung giáo dục, rèn luyện những chuẩn mực ĐĐCM cơ

bản cho đội ngũ CBHC Quân đội, trọng tâm là giáo dục, bồi dưỡng đức cần,

kiệm, liêm, chính

Trong thời gian qua, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC được lãnh đạo, chỉ huy các cấp tổ chức tiến hành toàn diện, có chiều sâu;

đã tập trung giáo dục những chuẩn mực đạo đức cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giáo dục nhiệm vụ xây dựng

Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức. Ở một số cơ quan,

77

đơn vị hậu cần: các cấp ủy đảng đã không ngừng chăm lo, xây dựng bản lĩnh

chính trị, lập trường giai cấp, làm cho đội ngũ CBHC thường xuyên nắm chắc

tình hình nhiệm vụ của Quân đội, và nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị. Thông

qua đó đã trực tiếp trang bị cho đội ngũ CBHC có nhận thức cơ bản về đạo đức

cộng sản, ĐĐCM của đội ngũ cán bộ nói chung và CBHC Quân đội nói riêng; chỉ

rõ thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên,

và nguyên nhân, hậu quả của nó.

Đặc biệt, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã chú trọng xây dựng cho đội ngũ

CBHC có nhận thức sâu sắc và duy trì nghiêm túc việc thực hiện chuẩn mực cần,

kiệm, liêm, chính, thương yêu đồng chí trong quá trình phục vụ; “công tác quản

lý, sử dụng cơ sở vật chất hậu cần, tài chính được chú trọng triển khai thực hiện

cùng với việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí,… làm cho ý

thức tiết kiệm được nâng lên, dần trở thành tự giác trong nhận thức và hành

động của mọi cán bộ, chiến sĩ” [23, tr.3]. Thông qua đó, đã kịp thời bồi dưỡng

tinh thần, ý chí cách mạng, phẩm chất ĐĐCM, lối sống trong sạch, lành mạnh,

thái độ tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội, tạo chuyển biến tích cực cả về nhận

thức và hành động của đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Hậu cần quân

đội trong thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, đảm bảo cho đội

ngũ CBHC luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Đây là cơ sở quan trọng, trực tiếp nâng cao chất lượng đội ngũ CBHC

và kết quả công tác hậu cần quân đội thời gian qua. Chất lượng đó được biểu

hiện cụ thể như: kết quả phân tích chất lượng đảng viên là CBHC các cấp từ

2011 đến 2017 cho thấy, có từ 98,4% đến 99,67% đảng viên hoàn thành

nhiệm vụ trở lên (trong đó, đảng viên hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ

luôn đạt trên 85%) [Phụ lục 4]; kết quả kiểm tra chính trị tại chức luôn đạt

chất lượng cao: 99,57% đạt yêu cầu trở lên (trong đó tỷ lệ khá, giỏi trên 85%)

[Phụ lục 5]; đội ngũ CBHC hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên và được các cấp

khen thưởng từ năm 2005 đến 2017 có tỷ lệ cao và được giữ vững qua các

năm, cụ thể: Chiến sĩ thi đua chiếm 16,66%; Bằng khen là 8,01%; Giấy khen

là 14,55%; Chiến sĩ tiên tiến là 51,59% [Phụ lục 6].

78

Bốn là, đã tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng, những năm qua

QUTW, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quân đội và ngành Hậu cần, đã tập

trung đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện cho đội ngũ CBHC có lối sống trong sạch

lành mạnh; thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; phong cách làm

việc khoa học, có kế hoạch, đúng giờ, cụ thể, tỉ mỉ, không cố chấp, bảo thủ,

luôn đổi mới, sáng tạo; có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm… theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần đã:

thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 cùa Bộ Chính trị,

Chi thị số 317-CT/QUTW, ngày 05-8-2011 cùa Thường vụ Quân ủy Trung

ương về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh”, kết hợp với thực hiện phong trào thi đua quyết thắng, phong trào

thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”... đã đi vào chiều

sâu, đạt hiệu quà thiết thực. Thông qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức,

củng cố niềm tin, thúc đẩy quá trình phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng cao hơn.

Khi đánh giá về tầm quan trọng của việc thực hiện nhiệm vụ “Đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trên

90% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng đây là nội dung quan

trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng đội ngũ

cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có đủ năng lực, phẩm chất,

ngang tầm nhiệm vụ; đồng thời trực tiếp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong

nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí

của một số CBHC Quân đội hiện nay; 52,95% ý kiến cho rằng cần phải xem

đây là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ

chức đảng hằng năm ở cơ quan, đơn vị hậu cần [Phụ lục 1].

Năm là, đã quan tâm giáo dục những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng

về xây dựng đạo đức, lối sống trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức gắn với xây dựng

Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là việc cụ thể hóa Nghị quyết

Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII của Đảng, có những yêu cầu mới,

79

nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội

và ngành Hậu cần đã tập trung giáo dục, quán triệt xây dựng cho đội ngũ

CBHC có nhận thức cơ bản về những vấn đề cấp bách trong công tác xây

dựng Đảng; thực trạng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; đã thực hiện tốt

việc giáo dục cho đội ngũ CBHC 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Từ đó làm rõ tính

cấp bách, và trách nhiệm của mỗi người phải kiên quyết đấu tranh ngăn

chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến

đấu của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần.

Nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần đã thực hiện tốt việc giáo dục, quán triệt:

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X; Nghị quyết Trung ương 3

(khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề

cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; đẩy mạnh giáo dục Luật Phòng, chống

tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thường xuyên quán

triệt sâu sắc Nghị quyết số 623-NQ/QƯTW ngày 29-10- 2012 cùa Quân ủy

Trung ương về công tác Hậu cân Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp

theo; tăng cường giáo dục, và cụ thể hóa tiêu chí, chuẩn mực đạo đức, lối

sống theo Quy định 89 của Bộ chính trị đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên

trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Thông qua đó, đã từng bước

xây dựng nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ CBHC trong thực hiện những

nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng trong xây dựng quân đội, ngành hậu cần,

và xây dựng đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC Quân đội.

Khi đánh giá về việc thực hiện Nghi quyêt Trung ương 4 (khoa XI, XII)

của Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần, có 94,85% ý kiến của cán bộ, đảng viên

được hỏi khẳng định Nghị quyết đã được cụ thể hóa vào chương trình, kế

hoạch hành động của cấp uỷ và người chỉ huy; 55,85% cấp uỷ, tổ chức đảng

và 61,7% người đứng đầu, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị hậu

cần thường xuyên, tự giác thực hiện; 58,65% người đứng đầu, cán bộ, đảng

viên luôn đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác tự phê bình và phê bình đấu

tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở cơ

quan, đơn vị hậu cần; 99,8% ý kiến đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI, XII) đã góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo

đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay [Phụ lục 1].

80

* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của ngũ CBHC đã cụ thể,

chặt chẽ, phong phú, đa dạng, hiệu quả

Một là, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, và cơ quan chức năng các

cấp đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, xác định chủ trương, biện pháp

lãnh đạo, tổ chức quản lý, duy trì hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC cụ thể, tỉ mỉ, sát đúng

Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị hậu cần đã phát huy vai trò,

trách nhiệm, “xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi bưỡng cán bộ bảo đảm tiêu

chuẩn theo quy định” [45, tr.2]; đã xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh đạo

công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trong nghị quyết đại

hội nhiệm kỳ, và thường xuyên cũng như trong một số nhiệm vụ chính trị trọng

tâm; tổ chức giáo dục, quán triệt nghị quyết, chỉ thị nghiêm túc, chặt chẽ; định

kỳ đánh giá ưu, khuyết điểm, rút ra kinh nghiệm để nâng cao năng lực lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chi bộ trong những nhiệm vụ tiếp theo.

Khi đánh giá về vai trò của đội ngũ cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu

cần các cấp, Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ chỉ

huy... nắm vững những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ quân đội, chỉ thị, ngị quyết cấp trên...; nắm

vững các chế độ, nguyên tắc công tác hậu cần; nội dung, nguyên tắc, phương

pháp tiến hành CTĐ, CTCT, tổ chức thực hiện đạt kết quả cao” [45, tr.3]. Đội

ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp đã chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức

phối hợp, phân công lực lượng giáo dục, rèn luyện cụ thể, tỉ mỉ; bố trí sắp xếp

lớp học, tổ học tập phù hợp đặc điểm đối tượng, nhiệm vụ theo từng giai đoạn,

thời điểm. Ở một số đơn vị: người chỉ huy các cấp đã chủ động đề xuất, bổ

sung một số chính sách ưu tiên về thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất, chính sách

ổn định hậu phương, gia đình... đã động viên đội ngũ CBHC yên tâm gắn bó

với đơn vị, tích cực, chủ động khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm

vụ được giao. Qua khảo sát ở một số đơn vị, có 91,5% ý kiến nhận định đội

ngũ cán bộ chỉ huy các cấp thực hiện tốt việc quản lý, duy trì, kiểm tra, giám

sát hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC [Phụ lục 1]. Do

đó, chất lượng chính trị của đội ngũ CBHC luôn được giữ vững, bản lĩnh chính

trị, đạo đức, lối sống được nâng lên.

81

Các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan chính trị, và cơ quan hậu cần ở

một số đơn vị đã tích cực, chủ động bám sát cơ sở, nắm vững đặc điểm, tình

hình cụ thể xây dựng kế hoạch công tác cán bộ, nâng cao năng lực nghiệp vụ,

tham mưu có hiệu quả cho đảng uỷ về xây dựng đội ngũ CBHC; đã chủ động

tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, hình

thức, biện pháp, thời gian, cơ sở vật chất và lực lượng tiến hành công tác giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC; tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với các

lực lượng có liên quan để phổ biến, quán triệt, phân công, giao nhiệm vụ cụ

thể, rõ ràng. Qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, khi được hỏi về

việc xác định kế hoạch giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC, có

94% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi xác định việc xây dựng kế hoạch

của cơ quan chức năng là cụ thể, tỉ mỉ; 89,5% đánh giá là thực hiện đúng kế

hoạch [Phụ lục 1]. Do đó, công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC các cấp đã thu được những kết quả tích cực, tạo cơ sở nâng cao chất

lượng công tác bảo đảm hậu cần quân đội.

Hai là, các học viện, nhà trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng

CBHC trong toàn quân đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC Quân đội

Các học viện, nhà trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng CBHC

trong toàn quân thường xuyên nắm chắc nhiệm vụ của QUTW, Bộ Quốc

phòng giao cho; đã tích cực chủ động thực hiện chương trình, kế hoạch

giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBHC các cấp về chính trị, tư tưởng,

đạo đức, lối sống và chuyên môn, nghiệp vụ, đạt chất lượng, hiệu quả cao.

Trong công tác giáo dục, đào tạo đặc biệt nổi lên vai trò của HVHC, là

trung tâm đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp cho quân đội. HVHC đã có nhiều

chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho.

Trong đó, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ học viên đào tạo,

bồi dưỡng CBHC các cấp được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, toàn diện, và

hiệu quả; đã quán triệt và thực hiện tốt phương châm “gắn nhà trường với đơn

vị”, “hướng về đơn vị”, chú trọng học đi đối với hành; kết hợp chặt chẽ việc

học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn với quá trình giáo dục, bồi

dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, nhân cách cho đội

ngũ CBHC ngay tại trường. Vì vậy, “học viên quân sự tốt nghiệp có 100%

82

nhận nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng

lực chuyên môn cơ bản đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo” [72, tr.2-3]. Qua

khảo sát của HVHC ở các đơn vị hậu cần trong toàn quân cho thấy có:

“95,7% học viên đào tạo cấp trung, sư đoàn; 94,8% học viên đào tạo CBHC

cấp phân đội ra trường hoàn thành khá, tốt chức trách, nhiệm vụ” [72, tr.3].

Ba là, đã tăng cường giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

thông qua hoạt động giáo dục chính trị, thi đua, khen thưởng, nhân điển hình

tiên tiến tại các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân

Thông qua các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác, huấn

luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, các cơ quan, đơn vị hậu cần đã kết

hợp chặt chẽ việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC “với xây

dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, thực hiện tốt các phong trào thi

đua, gắn với thực hiện tốt cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai thác, sử dụng

vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và An toàn giao thông”, đã

tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên với quản lý, giáo

dục, rèn luyện người CBHC cả về phẩm chất và năng lực; tập trung xây dựng

lòng tin, ý chí quyết tâm tổ chức bảo đảm hậu cần trong điều kiện khó khăn

về phương tiện, trang bị kỹ thuật hậu cần; nhất là bảo đảm hậu cần cho các

đơn vị mới thành lập, các đơn vị tiếp nhận, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đối

với các loại trang bị khí tài mới, hiện đại; đổi mới việc nhận xét, đánh giá,

phân loại đảng viên, CBHC theo hướng chặt chẽ, nghiêm túc, có chất lượng;

đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng viên là CBHC, hướng vào

việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính; đã

phát huy tốt vai trò của các tổ chức, các lực lượng tham gia giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội.

Nhiều đơn vị đã thực hiện có nền nếp, hiệu quả công tác thi đua, khen

thưởng, nhân điển hình tiến tiến, tỷ lệ CBHC được khen thưởng hằng năm giữa

vững; CBHC cấp trên, cơ bản luôn gương mẫu trước cán bộ, nhân viên, chiến

sĩ cấp dưới, tận tâm, gắn bó, sâu sát đời sống của bộ đội. Những kết quả nêu

trên đã tích cực góp phần xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần

trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện. Vì vậy,

kết quả phân tích chất lượng đảng viên là CBHC các cấp (2011 - 2017): tỷ lệ

đảng viên là CBHC hoàn thành nhiệm vụ trở lên luôn ở mức cao và được giữ

vững, trong đó, đội ngũ cán bộ là cục trưởng, phó cục trưởng cục hậu cần và

83

tương đương luôn là đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ với tỷ lệ từ 87% trở

lên, cao nhất đạt 100% (năm 2012); 80% đến 90% đảng viên là chủ nhiệm, phó

chủ nhiệm, trưởng ban, phó trưởng ban hậu cần và đội ngũ trợ lý hậu cần các

ngành hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ [Phụ lục 4].

Bốn là, đã tích cực giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông

qua các hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần đã thường

xuyên giáo dục, quán triệt cho đội ngũ CBHC nắm chắc những quan điểm của

Đảng trong công tác hậu cần; nguyên tắc bảo đảm hậu cần; chỉ thị, kế hoạch

công tác hậu cần các cấp; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho đội

ngũ cán bộ, chiến sĩ; tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về chuyên

môn, nghiệp vụ. Nhiều lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần đã nêu cao

trách nhiệm quản lý, giáo dục, nhắc nhở, chấn chỉnh đội ngũ CBHC trong

hoạt động niêm cất, bảo quản, khai thác, cấp phát, sử dụng lương thực, thực

phẩm, vật chất, trang bị hậu cần đúng kế hoạch, đúng đối tượng và nhiệm vụ,

đảm bảo hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí.

Một số cơ quan, đơn vị hậu cần đã tích cực kết hợp chặt chẽ hình thức

đào tạo bồi dưỡng chính quy, cơ bản qua các học viện, nhà trường với đào tạo

bồi dưỡng trong thực tiễn chức trách tại cơ quan, đơn vị…, thông qua các lớp

tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức trong các giai đoạn huấn luyện, các

hoạt động bảo đảm, để bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ

CBHC; đồng thời, tổ chức tốt các phong trào thi đua: “ngành Hậu cần quân

đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; “nôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”; “phát

huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, “xây dựng

doanh trại xanh, sạch, đẹp”. Những hình thức hoạt động nêu trên được cấp ủy,

tổ chức đảng, chỉ huy các cấp tổ chức thực hiện đồng bộ, thường xuyên, liên

tục, chặt chẽ, chu đáo, có chất lượng, đã trực tiếp góp phần giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Năm là, đại đa số CBHC đã tích cực tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM

trong quá trình hoạt động

Thực tiễn những năm qua cho thấy, đã số CBHC, kể cả trong quá trình

học tập, bồi dưỡng tại trường, cũng như khi công tác tại đơn vị đã chủ động,

tực giác xây dựng kế hoạch, xác định nội dung và phương pháp tự giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM cụ thể, tỷ mỉ, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của bản thân và

84

điều kiện thực tế của đơn vị. Tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBCH gắn liền với việc tự giác học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh, với nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn,

nghiệp vụ, và năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức, quản lý hoạt động bảo

đảm hậu cần, ý thức, trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho bộ đội.

Ở nhiều cơ quan, đơn vị, đội ngũ CBHC luôn thể hiện đức tính siêng

năng, cần cù, chịu khó, một số cán bộ Hậu cần giữ vị trí chủ trì đã thực sự trở

thành chỗ dựa tinh thần, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng yếu tố chính

trị tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong cơ quan, phân đội. Số cán

bộ trẻ cũng đã phát huy được truyền thống của lớp trước, tích cực tu dưỡng,

rèn luyện. Trong quá trình công tác, nhiều CBHC đã chủ động thực hiện

đúng chức trách, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, kỷ kuật quân đội, đi đôi

với đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xây dựng mối quan hệ

quân - dân, đồng chí luôn chân thành, gần gũi, thắm thiết; tích cực quán triệt,

thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII về xây dựng,

chỉnh đốn Đảng, kiên quyết đấu tranh, ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;

“không ngừng học tập nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ,

phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh” [45, tr.2-3], luôn đặt

lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, giải quyết hài hòa các mối quan hệ, góp

phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Sáu là, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực

lượng, các cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội tham gia giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có hiệu quả

Khi đánh giá về việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, giáo

dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên các cấp, Đảng ủy Bộ tư lện Quân đoàn 2 chỉ

rõ: đã “kết hợp giữa quản lý cán bộ và quản lý đảng viên, quản lý của tổ chức

với kiểm tra, giám sát của quần chúng và tự quản lý, rèn luyện của từng cán

bộ” [73, tr.4-5]. Trên thực tiễn, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội

ngũ CBHC Quân đội trong những năm qua đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ

đạo chặt chẽ, nghiêm túc, thường xuyên, trực tiếp và hiệu quả của QUTW,

Tổng cục Chính trị, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần

các cấp. Đã cụ thể hóa các phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội

85

ngũ CBHC trong nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, kế hoạch công tác của chỉ

huy, chính ủy, chính trị viên, và trong chương trình hành động của các tổ chức

đoàn, hội, các phong trào thi đua tại cơ quan, đơn vị hậu cần. Đồng thời, đã tập

trung đẩy mạnh thực hiện những phương thức giáo dục, rèn luyện của tổ chức,

kết hợp chặt chẽ với tự giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân, từng bước nâng

cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Các tổ chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ đã chủ động xây

dựng chương trình hành động, vận dụng, kết hợp nhiều hình thức trong giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC; đã đẩy mạnh hoạt động văn hóa,

văn nghệ, thể dục thể thao; thi tuyên truyền viên giỏi kết hợp với kể chuyện

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức tốt các hoạt động giao lưu với các

đơn vị kết nghĩa trên địa bàn; viết tin bài cho các báo, tạp chí, truyền thanh nội

bộ; tổ chức các đợt tọa đàm, trao đổi. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện các phong

trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; thực hiện

cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an

toàn, tiết kiệm và An toàn giao thông”; với “Đẩy mạnh thực hiện học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tăng cường thực hiện

kiểm điểm, phê bình và tự phê bình của CBHC trong cấp ủy, tổ chức đảng theo

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng.

Trong quá trình giáo dục, rèn luyện, nhiều cấp ủy, chỉ huy, chính ủy,

chính trị viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần đã chủ động phối hợp

các cơ quan, ban ngành địa phương xây dựng hệ thống kế hoạch sát với tình

hình thực tế của địa phương, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Đề xuất ý

kiến về giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ chấp hành các quy định, điều lệ công

tác hậu cần, tham gia thực hiện các chính sách có liên quan và thực hiện tốt

công tác bảo đảm hậu cần; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với gia đình quân

nhân để nắm chắc các mối quan hệ, tư tưởng, tình cảm, điểm mạnh, hạn chế,

lối sống của đội ngũ CBHC, kịp thời có biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện,

không để những bất ngờ sảy ra. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo

phối hợp tổ chức nhiều hoạt động giao lưu, kết nghĩa, dân vận, tình nguyện

giúp dân, nhằm tăng cường các hoạt động giáo dục, rèn luyện đội ngũ CBHC

trên thực tiễn. Thông qua đó, góp phần tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”,

tình đoàn kết quân - dân, tăng cường bồi dưỡng ĐĐCM của đội ngũ CBHC

trong quá trình công tác.

86

Bẩy là, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã

được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, tích cực góp phần giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Trong quân đội “công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng

được chỉ đạo chặt chẽ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây

dựng Đảng” [138, tr.13] để thực hiện. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, các cấp ủy,

chi bộ đã chú trọng xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện đúng quy trình,

tuân thủ đúng các khâu, các bước trong công tác kiểm tra, giám sát. Đã tập

trung kiểm tra, giám sát về lập trường, quan điểm chính trị; chấp hành nghị

quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng; chấp hành chính sách, pháp luật

của Nhà nước, kỷ luật Quân đội; chấp hành quy chế làm việc, nguyên tắc tập

trung dân chủ; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; những điều đảng viên

không được làm; đoàn kết nội bộ, quan hệ quân - dân; thực hiện chức trách,

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Đã kết hợp chặt chẽ

hình thức kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên

đề, và kiểm tra đột xuất (khi có dấu hiệu vi phạm).

Kết quả công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của UBKT

các cấp ở đảng bộ các cơ quan, đơn vị hậu cần đối với đảng viên là CBHC (2011-

2017), cho thấy: trong tổng số 0,6% đảng viên (là CBHC) được kiểm tra khi có

dấu hiệu vi phạm, có 0,46% đảng viên có vi phạm, đã thi hành kỷ luật 0,37% đảng

viên [Phụ lục 8]. Thông qua đó đã kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý những vi

phạm quy định của một số CBHC, đồng thời có tác dụng răn đe, ngăn chặn đối

với những biểu hiện manh nha vi phạm kỷ luật khác. Do đó, chất lượng công tác

quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị

hậu cần các cấp đã từng bước được nâng lên, trực tiếp giáo dục, nâng cao nhận

thức, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC Quân đội; góp phần ngăn

chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận CBHC Quân đội.

Tám là, việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT

được tổ chức thực hiện có nền nếp, chất lượng, góp phần giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Việc sơ kết, tổng kết hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội đã được cụ thể hóa trong công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh

nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT của các cơ quan, đơn vị các cấp trong toàn

87

quân. Trong đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tập trung đánh giá toàn diện: việc

lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; công tác tổ chức, quản lý, duy trì, điều hành,

tuyên truyền, giáo dục của chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, và của cơ quan

chức năng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp; ý thức, trách

nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng. Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu

cần, việc sơ kết, tổng kết hoạt động CTĐ, CTCT đã đánh giá rõ những ưu

điểm, hạn chế, khuyết điểm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong

công tác của đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tìm nguyên

nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm; từ đó xác đinh nhiệm vụ, nội dung,

phương hướng hoạt động CTĐ, CTCT, tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội thời gian tới đạt kết quả cao hơn. Thông

qua các đợt sơ kết, tổng kết hoạt động CTĐ, CTCT đã kịp thời tuyên truyền,

phổ biến, nhân rộng những điển hình tiên tiến về người CBHC có đạo đức tốt,

chất lượng công tác bảo đảm hậu cần cao, làm gương cho cán bộ, chiến sĩ trong

các cơ quan, đơn vị quân đội học tập, làm theo.

Nhìn chung, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội trong những năm qua đã kết hợp thực hiện chặt chẽ nhiều nội dung,

phương thức, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực

lượng, của các cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội; đã kịp thời phát

hiện khâu yêu, mặt yếu, những tiêu cực, hạn chế về đạo đức, lối sống của

CBHC để cá nhân tự điều chỉnh, tổ chức giúp đỡ tiến bộ. Trong mọi điều

kiện, hoàn cảnh “đại bộ phận cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối

trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có phẩm chất đạo đức, lối

sống trong sạch; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, tinh thần trách nhiệm cao;

trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tốt hơn” [136, tr.2].

3.2.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm

* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC ở một số cơ

quan, đơn vị có mặt còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình nhiệm vụ

Một là, một số cơ quan, đơn vị hậu cần chưa làm tốt việc giáo dục,

quán triệt những quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định trong công tác

hậu cần đối với đội ngũ CBHC Quân đội

88

Một số đơn vị hậu cần chưa tập trung trang bị cho đội ngũ CBHC những

nhận thức cơ bản về những nguyên tắc, quy chế, quy định, chế độ, tiêu chuẩn

mới trong công tác bảo đảm hậu cần. Đánh giá về hoạt động bồi dưỡng cán bộ

tại đơn vị, Đảng ủy Quân đoàn 1 nhấn mạnh: “Công tác bồi dưỡng cán bộ có

đơn vị chưa được chú trọng...; huấn luyện, rèn luyện bộ đội trong điều kiện khó

khăn, gian khổ, phức tạp vẫn là khâu yếu; một số đơn vị chưa quan tâm nội

dung huấn luyện hậu cần” [74, tr.9]. Thực trạng đó phản ánh nhiều vấn đề bức

xúc mà thực tiễn đang đặt ra đối với công tác hậu cần chưa được lý giải thỏa

đáng, thông tin chưa được cập nhật kịp thời; hoạt động giáo dục thường mang

tính mùa vụ, theo từng đợt thực hiện cuộc vận động, học tập nghị quyết,... mà

không được duy trì thường xuyên, liên tục, dẫn đến tình trạng làm cho xong

việc, đối phó, chất lượng hạn chế; chưa tập trung vào những khâu yếu, mặt yếu

về đạo đức, lối sống của CBHC để giáo dục. Qua kết quả khảo sát ở một số cơ

quan, đơn vị hậu cần cho thấy, 16% ý kiến của cán bộ, đảng viên đánh giá nội

dung còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa sát đối tượng [Phụ lục 1].

Hai là, nội dung giáo dục truyền thống quân đội, ngành Hậu cần quân

đội cho đội ngũ CBHC ở một số đơn vị chưa được quan tâm

Việc cụ thể hóa nội dung giáo dục truyền thống quân đội, ngành Hậu

cần quân đội trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số

đơn vị chưa được quan tâm, thiếu linh hoạt, sáng tạo; chưa gắn với đặc điểm,

truyền thống và tính chất hoạt động hậu cần của từng đơn vị, chủ yếu dựa vào

sự chỉ đạo, triển khai của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị cấp trên; tổ

chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ ở một số cơ quan, đơn vị chưa

có nhiều chương trình hành động bổ ích để cụ thể hóa nghị quyết của cấp ủy,

chỉ đạo của chỉ huy trong đổi mới nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM. Do

vậy, nội dung giáo dục truyền thống ngành Hậu cần quân đội cho CBHC còn

dàn trải, chung chung, hình thức, chưa sát thực tiễn thực hiện chức trách,

nhiệm vụ của đội ngũ CBHC.

Ba là, một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị

hậu cần và một bộ phận CBHC vẫn chưa coi trọng thực hiện nhiệm vụ học

tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

“Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều,

chưa đi vào chiều sâu…; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức” [67,

89

tr.193]. Một số cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần và CBHC nhận thức

chưa sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhiệm vụ học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; việc làm theo đạo đức, phong cách của

Bác chưa thường xuyên, chưa trở thành nhu cầu cấp bách để nâng cao phẩm

chất đạo đức, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của

một bộ phận CBHC; chưa có nhiều hình thức, biện pháp cụ thể hóa nội dung

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trong các

phong trào thi đua, và trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần; vai trò

gương mẫu thực hiện trước, làm theo trước của một số cán bộ đứng đầu cơ

quan, đơn vị hậu cần còn hạn chế.

Qua khảo sát ở cơ quan, đơn vị hậu cần cho thấy, có 16,8% ý kiến của

cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng việc thực hiện nhiệm vụ học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không trở thành công việc tự

giác, thường xuyên của một số cấp uỷ, tổ chức đảng; 11,85% ý kiến đánh giá

người đứng đầu, và một bộ phận cán bộ, đảng viên không đề cao trách nhiệm

nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước; 28,1% ý kiến nhận định cấp ủy,

người chỉ huy không thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [Phụ lục 1].

Bốn là, một số nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng về xây dựng đạo đức, lối

sống đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được quán triệt, thực hiện nghiêm

túc trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần chưa có

nhiều chủ trương, biện pháp tổ chức giáo dục, quán triệt xây dựng nhận thức

cho đội ngũ CBHC về những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng trong xây dựng

đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, việc quán triệt, thực

hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 04 khóa

XI, và XII ở một số đơn vị hậu cần chưa cụ thể, chưa quyết liệt, nên nhận

thức của một số CBHC chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thiếu chiều sâu, chưa có

bước đột phá, sáng tạo. “Năng lực lãnh đạo toàn diện, thực hiện quy chế,

quy định, nền nếp chế độ sinh hoạt và việc khắc phục những khuyết điểm

sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI) ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế” [138, tr.14],

chưa thực sự tạo nên những chuyển biến rõ nét về đạo đức, lối sống của một

bộ phận CBHC ở một số cơ quan, đơn vị.

90

Qua khảo sát thực tế cho thấy, khi đánh giá về việc thực hiện nghi

quyêt Trung ương 4 (khoa XI, XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng

ở cơ quan, đơn vị hậu cần, có 44,15% ý kiến đánh giá cấp uỷ, tổ chức đảng

và 38,3% ý kiến cho rằng người đứng đầu không thường xuyên tự giác thực

hiện; 28,55% chỉ ra cấp ủy, người chỉ huy không thường xuyên kiểm tra,

đôn đốc cán bộ, đảng viên thực hiện nghị quyết [Phụ lục 1]. Vì vậy, kết quả

thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoa XI, XII) của Đảng ở một số cơ

quan, đơn vị hậu cần chưa cao, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số cơ

quan, đơn vị chưa cụ thể, chưa đa dạng, thiếu sự đổi mới, sáng tạo, hiệu quả chưa cao

Một là, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

cho đội ngũ CBHC của một số cấp uỷ đảng, người chỉ huy, và cơ quan chức

năng có thời điểm còn hạn chế

Thực trạng “nhận thức, trách nhiệm, năng lực cụ thể hóa nghị quyết,

chỉ thị, kế hoạch của cấp trên ở một số cấp ủy, cán bộ chủ trì còn hạn chế;

chưa có nhiều biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng

viên” [74, tr.10], nên ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Ở một số cơ quan, đơn vị, “ công tác tham mưu,

đề xuất của cơ quan chức năng các cấp có nội dung chưa sát, hướng dẫn

chưa cụ thể; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc chưa kịp thời” [74, tr.10]; cơ quan

chính trị ở một số đơn vị chưa xác định rõ kế hoạch, chương trình, và chưa

có nhiều hình thức để tổ chức hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM trên

thực tiễn, cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của

đội ngũ CBHC Quân đội. Một bộ phận cán bộ chỉ huy, chính ủy, chính trị

viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần có lúc còn buông lỏng công

tác quản lý, giáo dục đội ngũ cán bộ, nhân viên thuộc quyền..., dẫn đến tình

trạng không ít CBHC vi phạm đạo đức nghề nghiệp như: độc đoán, cửa

quyền, hách dịch, thực dụng, lợi dụng chức quyền, lối sống thiếu trong sạch,

lành mạnh.

Vẫn còn tình trạng có cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần chỉ nặng

về sử dụng cán bộ, chứ chưa quan tâm chăm lo xây dựng, chưa phát huy

hết trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ và tạo

điều kiện cho đội ngũ CBHC phấn đấu vươn lên; chưa có những biện pháp

91

tích cực và chủ động để ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức,

lối sống. Cá biệt, có cơ quan, đơn vị còn nể nang, né tránh trước những sai

phạm của CBHC, không dám xử lý, hoặc làm qua loa, đại khái, vì sợ đơn

vị mất thành tích thi đua, chỉ giải quyết nội bộ, nhắc nhở, phê bình. Thực

trạng đó, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Hai là, một số phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC tại các học viện, nhà trường chưa được đổi mới mạnh mẽ, nên chưa

theo kịp sự phát triển của thực tiễn công tác hậu cần quân đội

Thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng

CBHC các cấp tại các học viện, nhà trường quân đội những năm qua vẫn tồn tại

những bất cập, hạn chế. Khi đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBHC tại

HVHC, Cục Hậu cần Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ rõ: Nội

dung chương trình đào tạo tại HVHC có mặt chưa theo kịp tình hình phát

triển lực lượng và thực tiễn đảm bảo hậu cần tại các đơn vị trong quân chủng.

Trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở một số học

viện, nhà trường vẫn còn tình trạng một số giáo viên, cán bộ quản lý chưa tiền

phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến học viên; cơ quan

chức năng chưa có nhiều chủ trương, giải pháp duy trì, thực hiện chế độ học

tập, thi, kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả của người học; chưa phát huy

được vai trò tự học tập, nghiên cứu, tự bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng

lực của người học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp; chưa có nhiều hình

thức rèn luyện phẩm chất, nhân cách của người học viên thông qua các hoạt

động thực hành, thực tập chức trách trong và ngoài đơn vị.

Ba là, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

thông qua thực hiện nhiệm vụ hậu cần ở một số cơ quan, đơn vị còn đơn giản,

máy móc, có lúc chưa sát điều kiện thực tế

Đánh giá về công tác giáo dục chính trị trong toàn quân, QUTW nhấn

mạnh: “công tác giáo dục chính trị tư tưởng đổi mới chưa mạnh mẽ,... chưa

theo kịp sự phát triển của tình hình; trước những diễn biến phức tạp của mặt

trái cơ chế thị trường, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tác động mạnh vào

quân đội, nhưng biện pháp phòng, chống hiệu quả chưa cao, định hướng tư

tưởng chưa nhạy bén, kịp thời” [138, tr.14]. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, một

số cấp ủy, người đứng đầu có biểu hiện nhận thức đơn giản, việc vận dụng hình

92

thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC chưa thiết

thực, chưa phù hợp với đặc điểm, tính chất nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong

điều kiện mới; có thời điểm chưa mạnh dạn giao nhiệm vụ mới, nhiệm vụ khó

để thử thách, rèn luyện CBHC; chưa tích cực động viên, khuyến khích CBHC

ở những nơi khó khăn (biên giới, biển, đảo) vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Nhiều cơ quan, đơn vị chưa chủ động giáo dục, rèn luyện ý thức, trách

nhiệm thực hiện điều lệ, quy chế, quy định, nguyên tắc công tác bảo đảm hậu

cần cho đội ngũ CBHC; một số đơn vị cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, phân

đội hậu cần... thiếu gương mẫu, còn có biểu hiện quan liêu và thiếu công tác

kiểm tra”; việc phân công, giao nhiệm vụ còn qua loa, đại khái, không chặt

chẽ. Kết quả khảo sát ở một số đơn vị cho thấy, có 16,15% ý kiến của cán bộ,

đảng viên được hỏi cho rằng hình thức giáo dục, rèn luyện còn nghèo nàn, sơ

cứng; 0,5% ý kiến đánh giá hình thức giáo dục có lúc không phù hợp [Phụ lục

1]. Vì vậy, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số

cơ quan, đơn vị có lúc chưa theo kịp sự phát triển của nhiệm vụ bảo đảm hậu

cần trong điều kiện mới.

Bốn là, một bộ phận CBHC chưa tích cực, tự giác trong giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM, còn biểu hiện vi phạm kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị

Thực tế cho thấy, một bộ phận CBHC chưa tích cực, chịu khó, chưa xác

định đúng động cơ, ý thức, trách nhiệm trong tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.

Với những biểu hiện như: một số cán bộ thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống,

nói không đi đôi với làm, kém ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm nguyên tắc làm

ảnh hưởng xấu đến xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ

thuộc quyền. Một số năng lực tổ chức hoạt động công tác đảng, công tác chính

trị còn yếu. Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường và âm

mưu dụ dỗ, mua chuộc của kẻ thù, một số CBHC tỏ ra thiếu bản lĩnh, lại không

được định hướng kịp thời, hoặc không có biện pháp tự điều chỉnh, tự kiềm chế,

dẫn đến sa ngã, suy thoái về đạo đức, lối sống.

Một số CBHC chưa tích cực đổi mới tư duy, còn bị ảnh hưởng nhiều bởi

tác phong làm việc theo kiểu quan liêu, mệnh lệnh, chưa coi trọng phương

pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, chưa thật sự phát huy và mở rộng dân

chủ, thiếu đi sâu, đi sát cơ sở; chưa thật sự gần gũi, quan tâm, giúp đỡ cán bộ,

chiến sĩ, nhân viên dưới quyền, chưa tích cực chăm lo đến đời sống vật chất và

tinh thần cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong cơ quan, phân đội. Số ít

93

cán bộ thiếu dũng khí đấu tranh với những sai lầm của bản thân, thậm chí hèn

nhát, khuất phục trước những cám dỗ của cuộc sống, có tư tưởng “xả hơi”,

hưởng lạc. Trong công tác và sinh hoạt thiếu tôn trọng ý kiến đóng góp của cán

bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới, ít lắng nghe dư luận, không biết điều chỉnh

thái độ, hành vi của mình cho phù hợp với nguyện vọng của tập thể, của cấp

dưới. Vì vậy, kết quả tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của một bộ phận CBHC

Quân đội còn hạn chế.

Năm là, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, chi bộ ở

một số cơ quan, đơn vị hậu cần còn hạn chế, chưa tích cực góp phần giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Đánh giá về chất lượng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ

Quân đội thời gian qua, QUTW chỉ ra công tác kiểm tra, giám sát có nơi

hiệu quả còn thấp. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, công tác kiểm tra, giám sát và

thi hành kỷ luật Đảng của một số cấp ủy, chi bộ có thời điểm chất lượng,

hiệu quả chưa cao, còn biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích; việc phát

hiện và kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm còn hạn

chế, thiếu chủ động, hiệu quả xử lý chưa cao. Nghị quyết Đại hội đại biểu

Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 2, lần thứ X (nhiệm kỳ 2015-2020) nêu rõ:

“công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của lãnh đạo, chỉ huy ở một số cơ quan,

đơn vị có lúc chưa thường xuyên, chưa kiên quyết…, chưa phát huy tốt đấu

tranh tự phê bình và phê bình” [44, tr.3]. Có những tổ chức đảng chưa có

biện pháp đấu tranh trước những biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, còn

né tránh, hoặc bỏ mặc sai phạm của đảng viên là CBHC. Cá biệt, có vụ việc

không dám xử lý vì sợ đơn vị mất thành tích thi đua, chỉ giải quyết nội bộ,

nhắc nhở qua loa. Việc xử lý kỷ luật không nghiêm minh, thiếu kịp thời đã

tạo ra thái độ coi thường kỷ luật của một số cán bộ, làm giảm tính nghiêm

minh của kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội.

Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội là thực trạng cấp bách cần được cấp ủy, tổ chức

đảng các cấp trong quân đội nói chung và các học viện, nhà trường, cơ sở

tham gia bồi dưỡng CBHC, cơ quan, đơn vị hậu cần nói riêng nhận thức đúng

đắn và có giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao ĐĐCM, xây dựng đội ngũ

CBHC Quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,

nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội trong thời kỳ mới.

94

3.2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm

3.2.2.1. Nguyên nhân

* Nguyên nhân của ưu điểm

Một là, Đảng ta thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung,

và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, CBHC Quân đội nói riêng về ĐĐCM

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như thực hiện đường lối

đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta đã nhận thức

sâu sắc về vai trò của cán bộ, khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự

thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.

Theo đó, Đảng ta đã hoạch định những vấn đề về quan điểm, mục tiêu xây

dựng đội ngũ cán bộ; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng về

công tác cán bộ; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục có kết quả những yếu

kém trong từng khâu của công tác cán bộ; tăng cường công tác giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm cơ sở, nền tảng hình thành,

phát triểm phẩm chất, nhân cách toàn diện của người cán bộ cách mạng. Sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm

chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ là điều kiện thuận lợi nhất, tạo thành động

lực thúc đẩy công tác xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội nói chung, hoạt

động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của họ đạt được kết quả tích cực.

Đặc biệt: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi

mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt

Nam và xu thế phát triển của lịch sử” [67, tr.16]. Dưới sự lãnh đạo của

Đảng, kinh tế xã hội tiếp tục có những bước phát triển ổn định, vững chắc,

đời sống của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội được nâng lên.

Đây là cơ sở vững chắc để xây dựng nền tảng đạo đức, tinh thần của xã hội;

đồng thời, có tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, củng cố niềm tin của

đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nói chung, của đội ngũ CBHC nói

riêng vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Qua đó, từng bước hình thành tình cảm,

95

động cơ và hành vi đạo đức tốt đẹp, thúc đẩy mỗi CBHC tích cực, tự giác tu

dưỡng, rèn luyện ĐĐCM, vươn lên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được

giao. Đây là nguyên nhân hàng đầu tạo nên kết quả quan trọng trong công tác

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thời gian qua.

Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên, liên tục của QUTW,

BQP, thủ trưởng TCCT, của lãnh đạo, chỉ huy các học viện, nhà trường, cơ quan,

đơn vị đối với công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Trước yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. QUTW,

BQP đã thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng,

chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đẩy mạnh xây dựng quân đội vững mạnh về

chính trị, tư tưởng, tổ chức và tăng cường giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ.

Các Nghị quyết 93 (6-1994), 94 (4-1998), Nghị quyết 513 (2006), Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X và Nghị quyết 86 (2007) là những cơ

sở vững chắc để QUTW đề ra những chỉ thị, hướng dẫn về công tác xây dựng

Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội. Đồng thời là căn cứ để cấp ủy,

tổ chức đảng, chỉ huy và đội ngũ CBHC các cấp trong quân đội tổ chức hoạt

động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, từng bước nâng cao phẩm chất chính trị,

năng lực của mỗi người đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được đảm nhiệm và

hướng tới sự phát triển cao hơn.

Trên thực tế, ở nhiều cơ quan, đơn vị, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới,

hải đảo, mặc dù đời sống của cán bộ, chiến sĩ, còn gặp nhiều khó khăn, ảnh

hưởng đến chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ; công tác giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội vì thế cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng,

“QUTW và cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều chủ trương,

giải pháp đồng bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đạt được nhiều kết quả,

góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng bộ và nâng cao chất lượng

tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội” [136, tr.1]. Các học viện, nhà

trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng CBHC, nhất là HVHC đã chủ động

phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm

96

vụ giáo dục, đào tạo CBHC các cấp tại Học viện. Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu

cần, sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của các cấp uỷ đảng, chính ủy, chính

trị viên, bí thư, người chỉ huy đối với công tác xây dựng đội ngũ CBHC... là

nguyên nhân cơ bản có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

Hậu cần Quân đội Như vậy, việc tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ

quân đội nói chung, xây dựng đội ngũ CBHC nói riêng về phẩm chất và năng

lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là nguyên nhân quan trọng, trực tiếp góp phần

thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để công tác công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC đạt chất lượng cao.

Ba là, phần lớn CBHC có quyết tâm, với ý thức chính trị cao trong tự

giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,

thực tiễn xây dựng quân đội hiện nay

Đây là nguyên nhân trực tiếp quyết định nhất việc hình thành, phát

triển ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Những năm qua, được sự lãnh

đạo, chỉ đạo, giáo dục, rèn luyện thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ

huy các cấp, đại đa số CBHC đã tự giác đề cao vai trò, trách nhiệm, tự giáo

dục, tự rèn luyện ĐĐCM trong mọi lúc, mọi nơi, trong các nhiệm vụ, điều

kiện hoàn cảnh khác nhau. Qúa trình đó đa số CBHC đã có ý chí, nghị lực và

quyết tâm cao, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngừng phấn đấu vươn

lên; xây dựng động cơ giáo dục, rèn luyện đúng đắn, có thái độ cầu thị, tích

cực say mê tự tu dưỡng, rèn luyện, điều chỉnh bản thân, chủ động vượt qua

được những khó khăn của gia đình, bản thân, nhất là những cám dỗ của lợi

ích vật chất trong hoạt động hậu cần; tự học, tự rèn, tự nhận thức, tự điều

chỉnh, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực, hoàn thành tốt chức trách,

nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ Hậu cần đã thường xuyên rèn luyện, có

lối sống trong sạch, lành mạnh, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tư, trung thực, hết lòng vì bộ đội, vì cơ quan, đơn vị, được cán bộ, chiến sĩ,

nhân viên trong cơ quan, đơn vị tin cậy và đồng nghiệp tin yêu. Đây là

nguyên nhân cơ bản, trực tiếp quyết định đến kết quả quá trình hình thành,

phát triển hoàn thiện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.

97

* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm

Một là, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; âm

mưu chống phá của các thế lực thù địch thường xuyên tác động đến quá trình

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Hiện nay tình hình thế giới, khu vực có những diễn biết hết sức phức

tạp và luôn tiềm ẩn những nguy cơ rất khó lường, nhất là vấn đề xung đột

vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố,

tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo,… diễn ra hết sức quyết liệt. Chủ nghĩa đế

quốc và các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa

bình” với các âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc để chống phá

cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa,

đạo đức, lối sống: chúng ra sức truyền bá, cổ suý cho lối sống cá nhân,

thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất, danh vọng, hưởng lạc, tăng cường các

chiêu bài, biện pháp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… làm phai

nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, làm suy thoái về đạo đức, lối sống, của

đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tế, qua khảo sát ở cơ quan, đơn vị hậu cần,

có 18,95% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng nguyên nhân

của những hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội là do âm mưu chống phá quyết liệt, thâm độc của các thế lực thù

địch [Phụ lục 1]. Trước những diễn biến phức tạp đó, một số cán bộ, đảng

viên, trong đó có CBHC đã dao động về tư tưởng, thiếu kiên định, và bị sa

ngã, suy thoái, biến chất về đạo đức, lối sống.

Hai là, những tác động mặt trái nền kinh tế thị trường đến hoạt động

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã lường trước được những khó

khăn, thách thức, và nhiều chủ trương, quyết sách nhằm ngăn chặn, đẩy lùi

những tác động tiêu cực của nó, nhưng trên thực tế: “Một bộ phận không nhỏ

cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo quản lý, kể

cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

98

với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá

nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,

cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [66, tr.22]. Trung

ương nhận định: “Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan là do việc

thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết

được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế” [66,

tr.23]. Cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức,

tinh thần của xã hội, lối sống của cán bộ, đảng viên. Theo đó, tệ nạn xã hội

phát triển, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng trong một bộ phận không

nhỏ cán bộ, đảng viên cũng đã nảy sinh, làm xói mòn các giá trị đạo đức,

truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Thực tế, qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, khi được hỏi

về nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC, có 88,2 % ý kiến của cán bộ, đảng viên cho rằng là do tác

động từ mặt trái của kinh tế thị trường; 19,1% ý kiến đánh giá do sự tác động

của những tệ nạn ngoài xã hội xâm nhập vào đơn vị. [Phụ lục 1]. Thực trạng trên

đã hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống của đội ngũ

CBHC Quân đội, tác động xấu đến quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, phát

triển phẩm chất, nhân cách của đội ngũ CBHC Quân đội.

Ba là, một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người chỉ huy, cán bộ đứng đầu cơ

quan, đơn vị hậu cần chưa tích cực, chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC

Xuất phát từ nhận thức đơn giản về công tác giáo dục nói chung, việc

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC nói riêng, nên một số ít cấp uỷ

đảng và người chỉ huy các cơ quan, phân đội hậu cần, các lực lượng có liên

quan nhận thức chưa đầy đủ về công tác xây dựng đội ngũ CBHC dẫn đến

thiếu sự quan tâm chăm lo xây dựng, giáo dục. Do đó, hoạt động giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC còn chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả

chưa cao, còn để những hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ

luật quân đội có điều kiện nảy sinh, phát triển.

Bên cạnh đó, việc kiểm tra, quản lý về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối

sống, các mối quan hệ xã hội... của CBHC trong quá trình thực hiện nhiệm

99

vụ, chức trách còn bị buông lỏng hoặc khoán trắng cho cơ quan hậu cần, do

đó, khi một số CBHC có những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp, chế

độ quy định trong điều lệ công tác hậu cần, nghiêm trọng hơn là có những

hành vi vi phạm pháp luật thường không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời

và xử lý nghiêm minh, còn “nhẹ trên nặng dưới”, hoặc bao che khuyết điểm,

xử lý nội bộ là chủ yếu. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho căn bệnh cá

nhân chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ nảy sinh và phát triển, tác

động xấu đến chất lượng đội ngũ CBHC Quân đội.

Qua khảo sát thực tế ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, có 29, 05% ý

kiến đánh giá những hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC là do công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức đảng, tổ

chức chỉ huy đối với cán bộ Hậu cần chưa tốt; 12,85% ý kiến cho rằng là

do chính sách đối với cán bộ có nội dung chưa hợp lý [Phụ lục 1]. Vì vậy,

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC còn hạn chế,

thường lệ thuộc vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên và hoạt động

kiểm tra của ủy ban kiểm tra đảng ủy các cấp, nên chưa kịp thời phát hiện,

ngăn chặn được những biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức, lối sống xảy

ra trong một bộ phận CBHC.

Bốn là, một số CBHC thiếu chí tiến thủ, trung bình chủ nghĩa, chưa tự giác

tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM

Đạo đức, lối sống có quan hệ mật thiết với ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện

của mỗi con người. Nếu mỗi người có ý thức tự giác rèn luyện phấn đấu tốt, nhất

định sẽ nâng cao được ĐĐCM; ngược lại, nếu cá nhân thiếu ý chí tiến thủ, thoả

mãn dừng lại, chạy theo lợi ích vật chất, không thường xuyên tu dưỡng, rèn

luyện bản thân thì sớm muộn cũng sẽ dẫn tới sự suy thoái đạo đức, lối sống.

Trong những năm qua, thực trạng một bộ phận CBHC chỉ chú ý học tập nâng

cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chưa quan tâm tới việc tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM; thường có biểu hiện chạy theo lợi ích vật chất thuần thúy, chỉ quan tâm

tới lợi ích bản thân, sống thực dụng; một số cán bộ Hậu cần năng lực, chuyên

môn, nghiệp vụ yếu, chưa đề cao ý thức trách nhiệm, thiếu cố gắng trong

việc tự học tập, tự bồi dưỡng, rèn luyện bản thân, là nguyên nhân trực tiếp

dẫn đến hạn chế, khuyết điểm trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội

ngũ CBHC Quân đội.

100

Qua khảo sát thực tế ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, có

64,25% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng những hạn chế trong

trong tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là do bản thân một

số CBHC thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức; 58,35% ý kiến đánh giá một số

CBHC sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất [Phụ lục

1]. Thực trạng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thoái

về đạo đức, lối sống của một số CBHC Quân đội hiện nay, cần được cấp ủy, chỉ

huy các cấp nhân thức sâu sắc, và có biện pháp khắc phục trong thời gian tới.

Năm là, nhiệm vụ đấu tranh, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán

bộ, đảng viên chưa thu được kết quả như mong muốn

Sau sáu năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và gần hai

năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hàng nghìn

cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị với

các hình thức kỷ luật của Đảng, và xử lý pháp luật đã góp phần cảnh tỉnh, răn

đe trước những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đồng thời, đã củng cố niềm tin của cán

bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng trên thực tế:

“tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận

không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn

biến phức tạp hơn” [67, tr.185].

Trong quân đội nói chung, ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội nói

riêng, công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng

viên đã được cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp đẩy mạnh thực hiện. Tuy

nhiên, ở một số cơ quan, đơn vị chất lượng tự phê bình và phê bình chưa cao,

chưa kiên quyết sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm; thực trạng vi phạm kỷ

luật quân đội, chế độ quy định của đơn vị, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến

tinh vi, phức tạp, không được phát hiện, xử lý kịp thời. Nhiệm vụ đấu tranh,

ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,

“tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thu được kết quả

như mong muốn đã tác động tiêu cực, cản trở việc nâng cao chất lượng giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

101

3.2.2.2. Những kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng

của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội giai đoạn hiện nay

Một là, thường xuyên coi trọng nâng cao nhận thức, phát huy vai trò,

trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội

Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trách nhiệm trước hết

thuộc về cấp uỷ, tổ chức đảng, đồng thời còn là trách nhiệm của các tổ

chức, các lực lượng có liên quan. Thực tiễn những năm qua cho thấy, để

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có chất

lượng, hiệu quả, trước hết cấp uỷ, cán bộ chủ trì và cơ quan chính trị của

HVHC, các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng CBHC, và cơ quan, đơn

vị hậu cần trong toàn quân phải luôn có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai

trò và sự cần thiết phải giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

Quân đội, xác định đó là trách nhiệm, một nội dung lãnh đạo, chỉ đạo

thường xuyên của cấp ủy, người chỉ huy các cấp. Trên cơ sở nhận thức

đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ, thực trạng đạo đức của đội ngũ CBHC,

cấp ủy, chỉ huy mới xác định chính xác những chủ trương, biện pháp lãnh

đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả.

Kinh nghiệm chỉ rõ, các cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, nhất là chi

uỷ, chi bộ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần mỗi cấp phải thường xuyên

quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Đảng về xây

dựng đội ngũ cán bộ nói chung, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội

ngũ CBHC Quân đội nói riêng. Trong đó, cần nắm chắc Nghị quyết Số 769-

NQ/ QUTW, ngày 21 tháng 12 năm 2012, “Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân

đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết số 623 - NQ/

QUTW, ngày 29 tháng 10 năm 2012 của Quân uỷ Trung ương “Về công tác

hậu cần quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI, XII); Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; nghị quyết, chỉ thị của

cấp ủy cấp trên và cấp mình... Đây là những căn cứ quan trọng để cấp ủy, tổ

chức đảng, người chỉ huy xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Trên cơ sở

102

những nhận thức sâu sắc, cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị

hậu cần phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo các tổ

chức, lực lượng liên quan xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung, biện

pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC cụ thể, tỉ mỉ, sát thực tiễn

chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm đơn vị; chủ động đấu tranh khắc phục những

nhận thức, tư tưởng lệch lạc về vị trí, vai trò của ĐĐCM của đội ngũ CBHC,

đấu tranh trước những biểu hiện chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm

trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ công tác hậu cần quân đội hiện nay.

Hai là, thực hiện đồng bộ các nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Kinh nghiệm trong hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cho thấy: Công tác

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là một quá trình tổ

chức các hoạt động phải chặt chẽ, công phu, tỉ mỉ, cần kết hợp chặt chẽ,

nhuần nhuyễn nhiều nội dung, nhiều phương thức giáo dục, rèn luyện cụ thể;

phối kết hợp chặt chẽ hoạt động giáo dục, rèn luyện của các học viện, nhà

trường với của đơn vị, địa phương và gia đình, xã hội. Trong đó, nội dung và

phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC có mối quan hệ

biện chứng, tác động lẫn nhau tạo nên chất lượng chính trị tổng hợp của đội

ngũ CBHC. Thực tiễn cho thấy, nếu nội dung giáo dục, rèn luyện được xác

định cụ thể, đầy đủ, nhưng không có phương thức giáo dục, rèn luyện hay,

hợp lý, đúng thời gian, đối tượng... hiệu quả sẽ thấp.

Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp

(trong cả các học viện, nhà trường và đơn vị), người đứng đầu cơ quan, đơn vị

hậu cần phải trên cơ sở kế hoạch chung, căn cứ vào thực trạng ưu, khuyết

điểm về đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC mà xác định nội dung, phương

thức giáo dục, rèn luyện cho phù hợp, tránh dập khuôn, giáo điều, máy móc.

Coi trọng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội một cách

toàn diện, phù hợp với từng người đáp ứng nhu cầu phát triển liên tục của họ;

tổ chức giáo dục, rèn luyện cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, đi vào khắc

phục những khâu yếu, mặt yếu về đạo đức, lối sống của CBHC. Đặc biệt chú

trọng kết hợp chặt chẽ nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của

103

tổ chức với tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của từng cá nhân CBHC. Khi

đánh giá, xem xét đội ngũ CBHC phải được tiến hành cụ thể, đánh giá phải

toàn diện cả về phẩm chất, năng lực và kết quả hoàn thành nhiệm vụ... Thông

qua đó nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội trong mọi điều kiện, nhiệm vụ; xây dựng được đội ngũ

CBHC có phẩn chất ĐĐCM đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Ba là, kết hợp chặt chẽ việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội với giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ đảng viên

với xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh

Đội ngũ CBHC là một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng, chất

lượng của đội ngũ CBHC, nhất là ĐĐCM của họ luôn có sự gắn bó hữu cơ

với chất lượng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, việc giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC phải được kết hợp chặt chẽ với

công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho đội ngũ đảng viên, góp

phần tạo ra lực lượng cán bộ nòng cốt trong xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ

quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh. Mặt khác, cơ quan, đơn vị và

cấp uỷ, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh là cơ

sở quan trọng để giáo dục, rèn luyện nên đội ngũ CBHC vững mạnh, nhất là

vững mạnh về đạo đức, lối sống. Nếu chỉ chú ý vào việc nâng cao chất

lượng công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC mà không

chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống; không chú

ý xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng và xây dựng cơ quan, đơn vị; hoặc chỉ chú

trọng xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng và xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần

mà không quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ,

đảng viên trong từng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh thì ở đó quá trình

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC không đạt kết quả tốt.

Thực tiễn kinh nghiệm nhiều năm qua cho thấy, đơn vị nào kết hợp chặt

chẽ việc rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, với giáo dục, rèn luyện đạo đức,

lối sống của đội ngũ đảng viên, với xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị

hậu cần trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện,

thì ở đó chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn vững mạnh, hoàn thành

tốt nhiệm vụ được giao. Do đó, để hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng cao, đòi hỏi cấp uỷ, tổ chức đảng ở cơ

quan, đơn vị hậu cần các cấp phải nắm chắc thực trạng ĐĐCM của đội ngũ

104

CBHC, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đơn vị; tiêu

chuẩn đảng viên, yêu cầu về phẩm chất đạo đức, nội dung, nhiệm vụ trong xây

dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay để lựa chọn

những nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

một cách phù hợp nhất. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với

nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, chỉ huy, chỉ đạo, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ

CBHC. Cụ thể hóa, và kết hợp chặt chẽ những chủ trương, biện pháp giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC của cấp ủy, chi bộ trong công tác giáo

dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên, hướng đến xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng trong sạch vững manh, cơ

quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo

đảm hậu cần quân đội trong điều kiện mới.

Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt hoạt động giáo dục, rèn luyện của tổ

chức, đồng thời phát huy vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội

Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là trách

nhiệm của tất cả các tổ chức và của cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân

đội, trước hết cần phát huy tốt vai trò của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng

các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc quá

trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, để biến quá trình giáo

dục, rèn luyện của tổ chức thành tự giáo dục, tự rèn luyện của bản thân mỗi

CBHC. Thực tiễn cho thấy, dù tổ chức có quan tâm giáo dục, rèn luyện đến

mấy, nhưng mỗi CBHC thiếu tự giác trong giáo dục, rèn luyện, thiếu ý chí,

quyết tâm phấn đấu vươn lên, thì cũng không thể trưởng thành và tiến bộ

được. Vì vậy, mỗi cán bộ Hậu cần phải đặt vấn đề tự giáo dục, tự rèn luyện

của bản thân thành một nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị của mình đối với

Đảng, với cơ quan, đơn vị. Mỗi CBHC tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM trong

thực tiễn thực chất là tự tu dưỡng, tự điều chỉnh bản thân trước sự cám dỗ của

những lợi ích vật chất, tài sản của Nhà nước, quân đội giao cho mỗi cán bộ

quản lý, phân phối... không sa vào tham nhũng, lãng phí. Nếu không thường

xuyên tăng cường giáo dục, rèn luyện của tổ chức và tự giáo dục, tự rèn luyện

ĐĐCM của mỗi CBHC thì họ khó có thể có đủ điều kiện phẩm chất đạo đức

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

105

Thực tiễn hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội, đòi hỏi mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng,

người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải nắm vững phẩm chất đạo đức,

năng lực chuyên môn, các mối quan hệ, ưu, khuyết điểm... của mỗi CBHC, để

có kế hoạch giáo dục, rèn luyện phù hợp. Trong quá trình tổ chức hoạt động

giáo dục, rèn luyện, cấp ủy, chỉ huy cần vận dụng linh hoạt các hình thức,

biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện gắn với thực hiện các phong trào thi

đua của cơ quan, đơn vị, đi đôi với quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để mỗi

CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện theo các yêu cầu tiêu chuẩn chức danh; tạo điều

kiện về vật chất, phương tiện, động viên tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ,

đặt ra yêu cầu cao trong rèn luyện ĐĐCM để mỗi CBHC phấn đấu, không

ngừng hoàn thiện bản thân trong quá trình công tác. Từng CBHC phải thấy

rõ việc tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM là một quá trình thường xuyên, lâu

dài và gian khổ đòi hỏi phải rất kiên nhẫn và có quyết tâm cao; phải rèn

luyện liên tục ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh luôn luôn

gương mẫu về đạo đức, lối sống, tích cực, chủ động vươn lên hoàn thành

tốt nhiệm vụ được giao.

Năm là, kết hợp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với đẩy mạnh cuộc đấu

tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn

ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay

“Xây” đi đôi với “chống” là nguyên tắc trong xây dựng phẩm chất đạo

đức, nhân cách của người cán bộ nói chung, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội nói riêng, nhằm đạt được kết quả cao nhất trong giáo dục. Đội ngũ CBHC

Quân đội được Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho quản lý, cấp phát, tổ chức

các hoạt động bảo đảm hậu cần với khối lượng vật chất to lớn, giá trị kinh tế

cao, dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, một số

cán bộ Hậu cần… có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa thật sự

nêu cao đức tính cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, còn làm ngơ hoặc

thiếu mạnh dạn đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong

đơn vị và trong xã hội. Thực trạng này đòi hỏi công tác giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC trên thực tiễn cần phải kết hợp chặt chẽ với đẩy

mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống, tham nhũng, lãng phí, và ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

của cán bộ, đảng viên nói chung, và của đội ngũ CBHC nói riêng.

106

Vận dụng kinh nghiệm này trong xây dưng đạo đức cho đội ngũ CBHC,

đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần

các cấp phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, xác định rõ chủ

trương, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC; kết hợp

với giáo dục, rèn luyện đạo đức với xây dựng tinh thần, thái độ đấu tranh tự

phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, vì sự tiến bộ của cán bộ và tổ

chức. Thông qua tự phê bình và phê bình; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát

của cấp ủy, và ủy ban kiểm tra các cấp nhằm kịp thời phát hiện những biểu

hiện lệch lạc, hành vi vi phạm đạo đức, lối sống, biểu hiện tham nhũng, lãng

phí của một số CBHC, có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để, nghiêm minh,

không để vi phạm nhỏ thành vi phạm lớn. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận CBHC là

biện pháp hữu hiệu, kinh nghiệm quý báu cần được vận dụng thực hiện nghiêm

túc, có hiệu quả trên thực tiễn xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.

107

Tiểu kết chương 3

Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội trong những năm gần đây

đã được nâng cao, phát triển khá bền vững, là cơ sở, nền tảng để CBHC nâng cao

bản lĩnh chính trị, hoàn thiện nhân cách người CBHC, góp phần hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao. Để đạt được kết quả đó, hoạt động giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã được đa số cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy

các cấp trong quân đội quan tâm tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, trở thành

nền nếp, với chất lượng, hiệu quả khá cao. Qúa trình tổ chức thực hiện giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã phát huy được vai trò, trách

nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần

và tổ chức quần chúng, nhân dân trên địa bàn đóng quân tham gia thực hiện nhiệm

vụ; đã tổ chức giáo dục, rèn luyện với những nội dung, phương thức tương đối

phong phú, đa dạng, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, đối

tượng CBHC; chủ động phát huy vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ

CBHC làm yếu tố căn bản nhất quyết định chất lượng của quá trình giáo dục, rèn

luyện. Thông qua đó, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã đi vào vững chắc

hơn, có tác động rất quan trọng đến mức độ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Tuy

nhiên, quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội vẫn còn

những hạn chế, khuyết điểm nhất định, như nhận thức về nhiệm vụ giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC của một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan,

đơn vị hậu cần còn hạn chế; nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện có thời

điểm chưa sát với đối tượng và nhiệm vụ; một số CBHC chưa thực sự tự giác

trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, vẫn còn những biểu hiện vi phạm

Pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị.

Thực trạng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là

kết quả của các nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan, và chủ quan. Vì vậy,

để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có hiệu quả đòi hỏi

các cấp ủy, chính ủy, người chỉ huy, cơ quan chức năng, người đứng đầu cơ

quan, đơn vị hậu cần và các lực lượng tham giá giáo dục cần nhận thức đúng,

đánh giá trung thực những ưu điểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân và

rút ra những kinh nghiệm để xác định những giải pháp đồng bộ, khả thi trong

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội giai đoạn hiện nay.

108

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH GIÁO DỤC,

RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

4.1. DỰ BÁO THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH

GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU

CẦN QUÂN ĐỘI

4.1.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn

4.1.1.1. Thuận lợi

Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã thu được

những thành tựu to lớn, kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh

được tăng cường, thế và lực của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được

nâng lên. Thành tựu đó đã tạo ra những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển cao hơn, tạo thêm thế và lực

để củng cố và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thực hiện xây dựng và

bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những đột phá mới, nhất là

thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về

xây dựng Đảng hiện nay”, đã thu được những kết tốt, tác động và tạo nên

những chuyển biến rõ nét trong tư tưởng, nhận thức, góp phần ngăn chặn và

đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong

đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các tổ chức đảng. Đây là điều kiện quan trọng

tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là

thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII mà Đảng đã xác

định trong thời gian tới.

Những thành quả trong hoạt động tư tưởng, lý luận của các cấp ủy, tổ

chức đảng trong và ngoài quân đội như: Triển khai, thực hiện đồng bộ, sâu

rộng, đạt chất lượng cao trong thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về

“Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh” và chỉ thị 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo

109

đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý

luận, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”

quân đội của các thế lực thù địch… đã tạo nên những chuyển biến tích cực

trong nhận thức tư tưởng, lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói

chung và của cán bộ, đảng viên, đôi ngũ CBHC Quân đội nói riêng. Đối với

mỗi CBHC, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh, suốt đời phấn đấu thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm

người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống

riêng giản dị… đã trở thành nền nếp, phong trào rèn luyện, thực hành ĐĐCM

sâu, rộng để mỗi CBHC tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn trong thời gian tới.

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về

chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội đại biểu

Đảng bộ Quân đội lần thứ X; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII

của Đảng, QĐNDVN và Ngành Hậu cần quân đội tiếp tục được xây dựng theo

hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây

dựng chính trị làm cơ sở. Quân đội được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin

tưởng giao trọng trách làm lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc trong tình hình

mới. Ngành Hậu cần quân đội vì thế luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của

Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân, là điều kiện thuận lợi để xây dựng,

củng cố, phát triển lực lượng hậu cần, nhất là đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất

chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được Đảng ta xác định, từng bước

triển khai, tổ chức thực hiện trên thực tiễn, vơi những quy chế, quy định cụ thể

của Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương như: Quy định số 101-QĐ/TW

ngày 7-6-2012 “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán

bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định số 102-QĐ/TW về “xử lý kỷ luật

đảng viên vi phạm”; Quy định số 115-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “về chức

năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở đơn vị quản lý cơ sở vật chất, kỹ

thuật, tài chính trong QĐNDVN”; Quy định số 116-QĐ/TW ngày 25-1-2018

“về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở học viện, nhà trường

trong QĐNDVN”; Quy định số 01-QĐ/TW ngày 10-5-2018, “Quy định trách

nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham

110

nhũng”. Đặc biệt là Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về “khung tiêu

chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý

các cấp”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa

XII. Đây là căn cứ quan trọng để các cấp ủy đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp

trong quân đội và ngành hậu cần quân đội tiến hành xác định tiêu chí, chuẩn

mực cụ thể; là cơ sở để đánh giá, bình xét, phân loại về đạo đức, lối sống đối

với từng chức danh cán bộ, và đối với đội ngũ CBHC Quân đội; là điều kiện

thuận lợi để tổ chức các hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội đạt chất lương, hiệu quả cao.

Những vấn đề nêu trên là những điều kiện thuận lợi căn bản nhất để các

cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội trong những năm tới đạt chất lượng, hiệu quả cao.

4.1.1.2. Khó khăn

Tình hình thế giới và khu vực những năm gần đây, luôn diễn biến phức

tạp, những xung đột, tranh chấp vùng biển, biên giới, vùng trời là vấn đề nóng

của không chỉ Việt Nam mà của nhiều nước trên thế giới. Các nước lớn, đứng

đầu là Mỹ mở rộng quan hệ, thực hiện những bước đi chiến lược mới ở khu

vực Châu Á Thái Bình Dương; sự bành trướng trên Biển Đông của Trung

Quốc; tình hình căng thẳng hạt nhân trên bán đảo Triều tiên... làm tình hình

thế giới, khu vực đứng trước những nguy cơ khó lường. Chiến tranh công

nghệ cao nếu sảy ra, sẽ tác động mạnh mẽ lên tâm lý, tư tưởng của cán bộ,

chiến sĩ trực tiếp cầm súng trên chiến trường, làm thay đổi phương thức tác

chiến, phương thức bảo đảm hậu cần chiến đấu. Vấn đề đó đòi hỏi mỗi cán bộ,

chiến sĩ không những phải có sức khỏe tốt, mưu trí, dũng cảm, nắm chắc được

kỹ chiến thuật chiến đấu, sử dụng và làm chủ những công nghệ bảo đảm hậu

cần hiện đại, mà còn phải có bản lĩnh chính trị để chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.

Trong nước, bên cạnh những thời cơ để phát triển, cách mạng nước ta

cũng phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức cơ bản mà Đảng ta đã xác

định (nguy cơ: chệch hướng XHCN; tụt hậu xa hơn về kinh tế; “diễn biến hòa

bình”; tham nhũng, lãng phí), tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định kinh tế,

chính trị - xã hội. Nhất là, hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều

111

âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hóa”

quân đội của các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối

với Nhà nước, hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với quân đội và công an. Đồng

thời, tệ quan liêu, tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, “biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức

tạp trong Đảng; “không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất

phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng

và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [67, tr.195]. Đây thực sự là

thứ “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hiểm, thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng, sự

tồn vong của chế độ.

Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,

quân đội là một trong những lực lượng nòng cốt, đang trong quá trình xây

dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Biên

chế, tổ chức của quân đội vì thế có sự thay đổi theo hướng tinh, gọn, hiệu quả,

lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. Theo đó, ngành Hậu cần quân đội cũng từng

bước phải có sự điều chỉnh về biên chế tổ chức, hướng tới bảo đảm đủ số

lượng, với cơ cấu, chất lượng đội ngũ CBHC đòi hỏi ngày càng cao cả về

trình độ và phẩm chất chính trị, ĐĐCM. Trên thực tế, đa số CBHC có đủ

phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhưng điều kiện

tiếp tục được bồi dưỡng, đào tạo để phát triển lên cương vị cao hơn là rất khó

khăn, tạo nên những gánh nặng trong công tác cán bộ, những tiêu cực (chạy đi

học, chạy chức vụ, chạy quân hàm, chạy tội...) theo đó cũng dễ nảy sinh.

Thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tư diễn biến”,

“tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi tiếp

tục tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, sĩ quan,

chiến sĩ trong quân đội nói chung và đội ngũ CBHC nói riêng.

Vấn đề xã hội hóa công tác phục vụ trong quân đội (của ngành hậu cần)

đang trong quá trình kiểm nghiệm (thực hiện thuận lợi ở những loại hình

doanh nghiệp, ở các học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu..., nhưng

chưa thực sự hợp lý khi áp dụng tại đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng

chiến đấu, chiến đấu). Đồng thời, phương thức bảo đảm hậu cần cho các lực

lượng trong tình hình mới đã có sự thay đổi, phát triển, vận hành theo cơ chế

112

thị trường. Hoạt động bảo đảm nguồn, mua xắm vật chất, trang thiết bị, lương

thực, thực phẩm hậu cần vì thế thường xuyên chịu sự tác động nhiều mặt của

điều kiện kinh tế thị trường, với giá cả bấp bênh, nguồn cung không ổn định,

chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó

lường. Những vấn đề nêu trên, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ CBHC có

năng lực và phẩm chất ĐĐCM cao, mới có thể đảm đương trọng trách, hoàn

thành nhiệm vụ. Nhưng trên thức tế, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được

giao, đội ngũ CBHC thường xuyên tiếp xúc với vật chất, tài chính, nếu không

có cơ chế quản lý chặt chẽ, hoặc bản lĩnh chính trị không vững vàng, CBHC

dễ sa vào tham nhũng, lãng phí, đề cao lợi ích vật chất, sống thực dụng, vi

phạm nguyên tắc công tác hậu cần, phẩm chất chính trị và ĐĐCM. Đây là

thách thức không nhỏ trong công tác hậu cần hiện nay.

Những khó khăn nêu trên sẽ tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc; đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ

quân đội nói chung và đội ngũ CBHC nói riêng. Đây sẽ là những trở lực lớn

đối với công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

trong những năm tiếp theo.

4.1.2. Phương hướng đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

4.1.2.1. Phương hướng chung

Quán triệt, thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về xây dựng

ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII của Đảng. Trong quân đội tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện cuộc

vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ

Hồ” và thực hiện phong trào “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ

dạy”. Mỗi CBHC tích cực, tự giác tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng,

tăng cường đấu tranh, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích

nhóm”. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần QĐNDVN có đủ đức, đủ tài, đáp

ứng yêu cầu cách mạng, nhiệm vụ xây dựng quân đội, sẵn sằng nhận và hoàn

thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới.

113

4.1.2.2. Phương hướng cụ thể

Một là, quán triệt, thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về xây

dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giáo dục, rèn luyện đạo đức

cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là quan điểm

quan trọng, xuyên suốt trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, đã được chủ tịch

Hồ Chí Minh xác lập, giáo dục, rèn luyện cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã nêu vấn đề: “Nâng cao đạo đức cách mạng,

chống chủ nghĩa cá nhân”; Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hành động vì lợi

ích cách mạng, chứ không vì địa vị, tư lợi; phải là người trung thực, không giả

dối, nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, nhìn thẳng vào sự thật, không

giấu giếm khuyết điểm và phẩm chất ấy phải được thường xuyên bồi dưỡng, rèn

luyện để không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị, ĐĐCM, lối sống

cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trước yêu cầu mới của cách mạng, tại Đại hội XII Đảng ta đã bổ sung

và khẳng định quan điểm: “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính

trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Đây là căn cứ, cơ sở quan trọng để các cơ

quan, đơn vị trong quân đội thực hiện xây dựng tổ chức đảng ở cơ quan, đơn

vị mình trong sạch vững mạnh về đạo đức. Quán triệt, thực hiện quan điểm

của Đảng về xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức

Đảng trong quân đội phải kiên trì bồi dưỡng, rèn luyện cho họ lý tưởng vì độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, và những chuẩn mực ĐĐCM cơ

bản, tiêu biểu của người CBHC Quân đội; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa”, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, đơn vị.

Hai là, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Ngành Hậu cần quân đội làm

theo lời Bác Hồ dạy” góp phần tằng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Ngành Hậu cần quân đội khi mới thành lập còn nhiều khó khăn vất vả,

thiếu thốn; một số cán bộ, chiến sĩ chưa hiểu hết vai trò, vị trí của công tác

hậu cần, coi công tác hậu cần là việc “bếp núc”, chỉ khao khát được chiến đấu

ngoài mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư thăm hỏi, động viên cán bộ,

114

chiến sĩ ngành hậu cần và nhấn mạnh: “Công việc cung cấp cũng quan trọng

như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận. Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo

cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận” [109, tr.179]. Để xứng đáng với

tình cảm lớn lao của Bác Hồ kính yêu, cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân

đội đã quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người, vượt qua mọi khó khăn, gian

khổ, hy sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 14-3-1995 Bộ trưởng Bộ Quốc

phòng đã ra chỉ thị phát động phong trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội

làm theo lời Bác Hồ dạy”. Từ đó đến nay, phong trào thi đua vẫn luôn luôn

được giữ vững, phát triển tốt và đạt hiệu quả cao.

Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là nhiệm vụ

chính trị quan trọng, để đạt hiệu quả cao, cần phải kết hợp chặt chẽ với thực

hiện cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ

đội Cụ Hồ”, và thực hiện các phong trào hành động cách mạng, nhất là phòng

trào “Ngành hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, nhằm tạo nên sức

mạnh tổng hợp của tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ trong

ngành Hậu cần cùng chung tay, góp sức thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, làm

chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm trong tổ chức thực hiện phong

trào. Đồng thời, tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức,

lối sống, tinh thần, thái độ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân

viên, chiến sĩ hậu cần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần có đủ đức và tài, đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới, góp phần xây dựng Quân

đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại

Trong phẩm chất nhân cách của người CBHC, đức và tài là hai nhân tố

quan trọng nhất. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cần phải được kết hợp chặt chẽ

với đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của CBHC.

Trong đó, ĐĐCM là cái “gốc” để cho tài năng được phát huy, phát triển. Theo

Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ phải có đủ đức, đủ tài mới hoàn thành

được trọng trách mà Đảng và nhân dân giao cho. Có đức, không có tài làm

việc gì cũng khó; có tài, không có đức là người vô dụng, thậm chí có hại cho

sự nghiệp cách mạng. Đạo đức bao giờ cũng là cơ sở, nền tảng, và giữ vai trò

định hướng, là động lực thúc đẩy quá trình nâng cao trình độ mọi mặt của

người cán bộ. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và ngành Hậu cần quân

115

đội của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi người cán bộ quân đội nói chung,

đội ngũ CBHC nói riêng phải thực sự tài năng, có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy sắc

sảo, năng lực nhận thức nhanh, trình độ tổ chức thực tiễn bảo đảm hậu cần

giỏi. Nhưng tài năng đó, chỉ có thể hình thành và phát triển trên nền tảng

vững chắc là ĐĐCM, và chỉ khi nào giữ vững ĐĐCM thì tài năng đó mới

được trọng dụng, thực sự có ý nghĩa, có giá trị đối với sự nghiệp xây dựng

quân đội và ngành Hậu cần.

Vì vậy, trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy

các cấp và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị hậu cần phải thường xuyên chăm lo

bồi dưỡng, nâng cao đạo đức, lối sống cách mạng; rèn luyện, phát triển phẩm

chất trí tuệ, bản lĩnh chính trị, niềm tin, sự vững vàng trong mọi tình huống.

Công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn của đội ngũ CBHC phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với

những giải pháp đồng bộ, thiết thực, kịp thời; kết hợp chặt chẽ giữa công tác

tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách; giữa giáo dục, rèn luyện

với tự giáo dục, rèn luyện, nêu gương sáng về ĐĐCM. Đồng thời, lãnh đạo,

chỉ huy các cấp trong quân đội phải có chính sách cán bộ đúng đắn, kịp thời

và hiệu quả nhằm thu hút nhân tài, khuyến khích được nhiều CBHC có thực

đức, thực tài tham gia xây dựng quân đội, và ngành Hậu cần ngày một lớn

mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC

CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI ĐẾN NĂM 2030

4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể và các lực

lượng tham gia giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán

bộ Hậu cần Quân đội

Đây là giải pháp đầu tiên, cơ bản, quan trọng, nhằm tạo nên sự thống

nhất về mặt nhận thức, làm cở sở để tổ chức tiến hành hoạt động giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trên thực tiễn theo đúng kế

hoạch, chương trình, đạt được mục đích, với chất lượng, hiệu quả cao .

Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ

chức đảng trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

116

Cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp có vai trò quan trọng hàng đầu trong lãnh

đạo toàn diện, chỉ đạo cơ quan, đơn vị thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị. Nhận

thức đúng đắn của cấp ủy, tổ chức Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất

lượng, hiệu quả. Vì vậy, để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ

chức Đảng các cấp về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, đòi hỏi

mỗi cấp ủy viên, đảng viên trong tổ chức đảng các cấp, trước hết là bí thư, phó

bí thư cấp ủy của cơ quan, đơn vị hậu cần phải tự xây dựng cho mình có nhận

thức chính trị đúng đắn về vai trò của ĐĐCM, mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo

đức và năng lực (đức và tài); vai trò ĐĐCM của người CBHC trong thực hiện

nhiệm vụ và tính cấp thiết phải giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC

hiện nay. Đồng thời phải thường xuyên nghiên cứu nắm chắc về nghị quyết, chỉ

thị, kế hoạch, chương trình, nội dung, biện pháp công tác giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM; thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống;

gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính trong công tác, sinh hoạt, hoạt

động bảo đảm hậu cần; tự giác học tập nắm chắc lý luận, quan điểm, đường lối,

chủ trương, phương hướng, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới.

Bên cạnh đó, các cấp ủy, tổ chức Đảng phải nắm chắc chất lượng từng

đảng viên là CBHC, nhất là những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm của họ; nắm

chắc nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, để đề ra chủ trương, biện pháp

lãnh đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC sát đúng. Không ngừng

chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ

chức đảng; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra cấp dưới

trong xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, và công tác giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC.

Hai là, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp nêu cao nhận thức,

phát huy trách nhiệm xây dựng kế hoạch sát đúng và tổ chức thực hiện tốt việc

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan chính trị và đội ngũ cán

bộ chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức thực hiện sự lãnh đạo

của Đảng đối với quân đội. Đây là lực lượng quan trọng, trực tiếp góp phần

xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, quyết định đến chất lượng, hiệu

117

quả quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Vì

vậy, phải quan tâm nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm của cơ quan

chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị trong tổ chức thực hiện tốt nhiêm vụ giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trước hết, cần xây dựng cho lực

lượng này có nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Làm cơ sở phát huy trách nhiệm

của họ trong xây dựng kế hoạch, xác định chủ trương biện pháp giúp cấp ủy,

tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.

Trong đó, cần tập trung vào một số nội dung, biện pháp như:

Kiện toàn biên chế tổ chức của cơ quan chính trị các cấp, phát huy vai

trò, nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy hoạch

định kế hoạch, chương trình giáo dục chính trị hằng năm đúng, trúng, sát thực

tiễn nhiệm vụ đơn vị. Cơ quan chính trị thường xuyên đôn đốc các cơ quan,

đơn vị hậu cần, CBHC bám sát chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch

của người chỉ huy tổ chức triển khai, hướng dẫn và giúp đỡ các đơn vị hậu cần

tiến hành có hiệu quả các hoạt động CTĐ, CTCT trong giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc và tổ chức

tốt các đợt sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC chặt chẽ, nghiêm túc. Thông qua đó, nâng cao trách

nhiệm của cơ quan chính trị nhằm duy trì hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

cho đội ngũ CBHC trở thành nền nếp và có chất lượng, hiệu quả cao.

Thường xuyên kiện toàn cơ quan chính trị, biên chế đội ngũ cán bộ

chính trị có đủ số lượng, chất lượng ngày càng cao và cơ cấu hợp lý. Trước

hết, cần coi trọng việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị

có lập trường, quan điểm chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, với Tổ

quốc và nhân dân, có phẩm chất và năng lực toàn diện. Đồng thời, tích cực

đổi mới phong cách làm việc, thực hiện tốt các chế độ công tác của cơ quan

chính trị và cán bộ chính trị. Trong đó, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho

đội ngũ CBHC của người cán bộ chính trị phải có kế hoạch cụ thể, tỷ mỉ, phù

hợp đặc điểm nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị hậu cần; đề cao tính giáo dục

thuyết phục, nêu gương, kết hợp thực hiện dân chủ với đề cao kỷ luật, nêu cao

tinh thần tự phê bình, phê bình, luôn đi sâu, đi sát thực tế, làm việc có kiểm

tra, nghiên cứu cụ thể, thiết thực.

118

Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị về đức, tài, trang bị kỹ

năng, kinh nghiệm quản lý giáo dục, xây dựng đức khiêm tốn, tác phong sâu

sát, dân chủ; đặc biệt cần bồi dưỡng cho họ nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm xây

dựng đạo đức của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội;

bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức cách mạng, ý chí chiến đấu kiên cường, ý thức

tổ chức kỷ luật cao, tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo trong tổ chức các hoạt

động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, để họ thực sự là nhân cách mẫu mực về giác

ngộ chính trị, làm tấm gương có sức thuyết phục cao trong giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM cho đội ngũ CBHC.

Ba là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của HVHC, và các học viện, nhà

trường tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ, từng bước hiện đại”, đặc biệt nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong

công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ sĩ quan trong quân đội nói chung và

công tác đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC và ở các học viện, nhà

trường, cơ sở tham gia bồi dưỡng cán bộ trong quân đội nói riêng. Để đẩy mạnh

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, trước hết cần nâng cao

nhận thức, phát huy vai trò trách nhiệm của Học viện Hậu cần, và các học viện,

nhà trường, cơ sở tham gia bồi dưỡng cán bộ, tập trung quán triệt, thực hiện có

hiệu quả Nghị quyết 86-NQ/ĐUQSTƯ về “Công tác giáo dục, đào tạo trong tình

hình mới”; Nghị quyết 29-NQ/TƯ, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về “Đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế”; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ X, và nhiệm vụ của

Nhà nước, quân đội giao cho.

Phát huy tốt vai trò của các học viện, nhà trường, trước hết là trách nhiệm

của HVHC trong đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp. Trong đó, cần tập trung

quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của QUTƯ, Bộ Quốc phòng giao, tiếp tục hoàn thiện

mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho

các đối tượng, tăng cường giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, học

119

viên cả trên lớp cũng như trong thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị; đổi mới, hoàn

thiện các phương thức giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC theo hướng khắc

phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học

trong quá trình giáo dục; xây dựng đội ngũ nhà giáo, nhất là giảng viên khoa học

xã hội nhân văn theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý - “người thầy thứ

hai” trực tiếp giáo dục, rèn luyện toàn diện đối với học viên đào tạo CBHC; chú

trọng giáo dục cho học viên nắm chắc phương châm “học đi đôi với hành”, “lý

luận gắn với thực tiễn”, “nhà trường gắn với đơn vị”, giúp người học tích cực,

say mê học tập, nghiên cứu để nắm vững tri thức, từng bước phát triển hoàn

thiện ĐĐCM, nhân cách người CBHC Quân đội.

Trong quá trình giáo dục, đào tạo, HVHC, và các học viện, nhà trường, cơ

sở tham gia bồi dưỡng CBHC phải cần phát huy vai trò, trách nhiệm chủ động

phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với đơn vị, địa phương và gia đình quản

lý, rèn luyện mọi mặt đối với đội ngũ CBHC; nắm chắc diễn biến tư tưởng, hoàn

cảnh gia đình, đi sâu quản lý chặt chẽ các khâu, các bước trong quá trình học tập,

rèn luyện ĐĐCM, tác phong công tác, lối sống, kịp thời động viên đội ngũ

CBHC phấn đấu học tập tốt, rèn luyện nghiêm, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi

nhiệm vụ. Thường xuyên làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học

kinh nghiệm trong công tác giáo dục, đào tạo nói chung, giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng CBHC các cấp trong thời gian tới.

Bốn là, phát huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh và Hội đồng quân nhân tham gia đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM

của đội ngũ CBHC Quân đội

Chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức quần chúng

được thành lập ở các cơ quan, đơn vị trong quân đội, là nơi trực tiếp giáo dục

và rèn luyện cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong tuổi đoàn; tham gia xây dựng

đội ngũ cán bộ. Do vậy, chi đoàn có vai trò rất quan trọng trong tham gia giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Để phát huy vai trò của mình trong

giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, tổ chức đoàn ở cơ quan, đơn vị hậu cần phải làm

tốt một số nội dung sau:

120

Thường xuyên giáo dục cho đội ngũ CBHC đang tham gia sinh hoạt

đoàn nắm chắc chủ trương đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật Nhà

nước, Điều lệnh, điều lệ của quân đội. Không ngừng nâng cao nhận thức trách

nhiệm, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tổ

chức nghiêm túc và chặt chẽ các hoạt động đoàn và phong trào thanh niên,

hướng mọi hoạt động thi đua, xung kích của đoàn vào thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành pháp

luật, kỷ luật, tu dưỡng ĐĐCM, phẩm chất chính trị, lối sống.

Những tổ chức đoàn thanh niên được thành lập ở cơ quan, đơn vị hậu cần

phải có chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng công tác đoàn và phong trào

thanh niên. Trong đó, cần chú ý duy trì sinh hoạt đúng chế độ, nền nếp và có

chất lượng; trong mọi điều kiện hoàn cảnh: huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,

chiến đấu, lao động sản xuất... phải luôn đề cao tinh thần tự phê bình và phê

bình của mọi đoàn viên, nhằm kịp thời động viên họ đóng góp ý kiến đánh giá

chất lượng thực hiện công tác chuyên môn và việc học tập, rèn luyện, giữ gìn

phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC. Thông qua hoạt động thi đua,

xung kích thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đoàn để xây dựng cho đội

ngũ CBHC động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, thấy rõ vinh dự trách nhiệm

của một cán bộ - đoàn viên thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Từ đó, tạo nên tinh thần tự nguyện, tự giác học tập, rèn luyện ĐĐCM,

nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Hội đồng quân nhân là tổ chức bảo đảm quyền dân chủ cho mọi quân

nhân trong các cơ quan, đơn vị của quân đội. Để phát huy vai trò trong giáo

dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, chủ tịch và các uỷ viên Hội đồng

quân nhân cần nắm chắc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức hoạt

động, chế độ sinh hoạt và các mối quan hệ của Hội đồng quân nhân. Định kỳ

và theo yêu cầu của cấp uỷ, người chỉ huy xác định kế hoạch để Hội đồng

quân nhân tổ chức các buổi sinh hoạt dân chủ (dân chủ kinh tế; chính trị;

quân sự; bảo đảm đời sống hậu cần, kỹ thuật, văn hóa tinh thần...) trong đơn

vị, nhất là dân chủ về kinh tế, bảo đảm hậu cần - nhiệm vụ thường xuyên của

đội ngũ CBHC tổ chức thực hiện. Thông qua đó, để mọi quân nhân thảo

121

luận, bàn bạc, bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về số lượng, chất

lượng bảo đảm bữa ăn; bảo đảm tiêu chuẩn tài chính, quân trang, quân dụng,

lương thực, thực phẩm, thuốc men, chăm sóc sức khỏe, xăng xe cho thực

hiện nhiệm vụ; góp ý, phê bình về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,

năng lực chuyên môn của đội ngũ CBHC. Từ đó, kịp thời phát hiện những

biểu hiện, hành vi vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí, bớt xén tiêu

chuẩn bộ bội, vi phạm pháp luật, kỷ luật của CBHC để cấp ủy, chỉ huy có

biện pháp quản lý, xử lý đúng quy định, không để thất thoát, lãng phí. Đây là

hoạt động dân chủ của tập thể quân nhân, thực hiện tốt hoạt động này sẽ trực

tiếp góp phần đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC để

đội ngũ CBHC không sa vào chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn giữ mình trong

sạch, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

4.2.2. Xác định chuẩn mực đạo đức cách mạng của từng loại cán bộ

Hậu cần Quân đội hiện nay

Chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung,

và hình mẫu về đạo đức của người cán bộ, sĩ quan trong quân đội nói riêng đã

được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định rất rõ, và tổ chức giáo dục, rèn

luyện thường xuyên trên thực tiễn. Trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, những giá trị, chuẩn mực về đạo đức xã hội

đã có những biến đổi nhất định phù hợp với điều kiện mới. Để đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ: “Xây dựng ngành Hậu cần Quân đội vững mạnh toàn diện theo

hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho

hậu cần quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong xây dựng thế trận

hậu cần và bảo đảm hậu cần” [22, tr.2], đội ngũ CBHC phải được xây dựng

toàn diện về phẩm chất và năng lực. Trong đó, cần xác định rõ ràng hơn, cụ

thể hơn những nội dung, yêu cầu thuộc về chuẩn mực ĐĐCM đối với từng

loại CBHC, làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các học viện, nhà trường,

các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân tổ chức các hoạt động giáo dục,

rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt chất lượng, hiệu quả cao, xây dựng

đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu cần

quân đội thời kỳ mới.

122

4.2.2.1. Những chuẩn mực chung, tiêu biểu về đạo đức cách mạng

của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay

Nghiên cứu khách quan, toàn diện về quá trình hình thành, tồn tại,

phát triển ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội; căn cứ vào những tiêu

chuẩn, chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cách

mạng, cán bộ trong lực lượng vũ trang mà Đảng ta đã quy định. Nhất là

hình mẫu, tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cách

mạng thời kỳ mới đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996)

của Đảng xác định; Quy định 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012, “Về trách

nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt

các cấp”, và chuẩn mực ĐĐCM được Ban Chấp hành Trung ương (khóa

XII) chỉ ra trong Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về “Khung

tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp”... Theo đó, có thể chỉ ra những chuẩn mực chung nhất về

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay như sau:

Một là, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng chiến

đấu hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân;

Hai là, gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, kỷ luật Đảng, các

quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; chấp hành nghiêm pháp luật

Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của cơ quan, đơn vị;

Ba là, tích cực, tự giác thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; sống khiêm

tốn, giản dị, trong sạch, lành mạnh; tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi

những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa”, tư tưởng bè phái, cục bộ, cơ hội, thực dụng, “lợi ích

nhóm” ở cơ quan, đơn vị hậu cần;

Bốn là, gần gũi, thương yêu, quan chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,

tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám

chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm; thực hiện đúng nguyên tắc, chế độ quy

định, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi tình huống;

Năm là, tăng cường đoàn kết nội bộ; tự phê bình và phê bình thường

xuyên, tự giác, trung thực, chân thành, công tâm; khi có khuyết điểm phải

nhận khuyết điểm và phải có kế hoạch sửa chữa;

123

Sáu là, chân thành giúp đỡ, bảo vệ uy tín, danh dự chính đáng của đồng

chí, đồng đội trong công tác hậu cần và trong cuộc sống; không tranh công,

đổ lỗi, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khuyết điểm cho người khác;

Bẩy là, chủ động học tập, nghiên cứu, làm chủ khoa học kỹ thuật hậu cần;

tích cực tăng gia, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng;

Tám là, tích cực tham gia xây dựng tổ chức đảng, chính quyền và các tổ

chức chính trị - xã hội nơi công tác và nơi cư trú; kiên quyết đấu tranh chống các

biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ và trong nhân dân.

4.2.2.2. Chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể của từng loại cán bộ

Hậu cần Quân đội hiện nay

Những chuẩn mực đạo đức nêu trên là giá trị căn bản nhất trong chuẩn

mực ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, đòi hỏi mỗi CBHC phải thường

xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, phát huy trong quá trình công tác. Đồng thời,

do tính chất hoạt động hậu cần quân sự, mỗi loại CBHC Quân đội có những

phẩm chất đặc trưng, tiêu biểu, nổi bật trong ĐĐCM của mình, là cơ sở tạo

điều kiện thuận lợi giúp họ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, ngoài

những giá trị chuẩn mực ĐĐCM chung đó, có thể chỉ ra chuẩn mực đạo đức

cách mạng cụ thể của từng loại cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay như sau:

Một là, đối với đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần

Đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần là đội ngũ chủ nhiệm,

phó chủ nhiệm hậu cần các cấp trong toàn quân (chủ nhiệm, phó chủ nhiệm

hậu cần cấp trung, sư đoàn và tương đương; cấp quân đoàn, quân khu và tương

đương). Chất lượng xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây

dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm

vụ được giao phụ thuộc và được quyết định bởi sự trong sạch, vững mạnh của

đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần, trước hết là vững mạnh về đạo

đức. Căn cứ vào chuẩn mực ĐĐCM chung của đội ngũ CBHC Quân đội, và

chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu cần các cấp, có thể chỉ

ra một số yêu cầu thuộc về chuẩn mực ĐĐCM cơ bản của đội ngũ cán bộ chủ

trì cơ quan, đơn vị hậu cần là:

124

- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; tuyên truyền, vận động, giúp

đỡ, gắn bó mật thiết và phát huy vai trò của nhân dân trong công tác hậu cần;

- Thực sự tiêu biểu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lối

sống trong sạch, lành mạnh, không tham nhũng, lãng phí, và kiên quyết đấu

tranh chống tham nhũng, lãng phí;

- Khiêm tốn, trung thực, giản dị; gần gũi, tôn trọng, thường yêu, đùm bọc

cấp dưới, gắn bó với cơ quan, đơn vị;

- Nêu gương sáng về tinh thần đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, chỉ

huy và trong đơn vị; phát huy dân chủ, tự phê bình và phê bình trung thực,

thẳng thắn, nghiêm túc, hiệu quả;

- Tích cực đi đầu trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

trong nội bộ; sẵn sàng nhận và chịu trách nhiệm trước cấp trên khi tổ chức, cơ

quan, đơn vị hậu cần do mình phụ trách xảy ra tiêu cực và quyết tâm sửa

chữa, khắc phục;

- Chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, quy định của Đảng,

pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, các quy chế, quy định trong công tác hậu

cần; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo

đảm hậu cần trong mọi tình huống.

Đối với CBHC Quân đội, trong thư gửi Lớp Cán bộ cung cấp đầu tiên

của Đảng (6-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Cán bộ cung cấp càng

phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính” [123, tr.180], để cải chính dư luận,

bảo rằng cán bộ cung cấp thường hủ hoá. Vì vậy, trong điều hiện nay, đòi hỏi

đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần phải thực hiện tốt những chuẩn

mực ĐĐCM nêu trên, sẽ tạo nên uy tín, vị thế của người cán bộ chỉ huy, người

đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần; giúp họ luôn kiên định, vững vàng trước

mọi khó khăn, thử thách, quyết đoán, sáng tạo tổ chức chỉ huy đơn vị thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi tình huống.

Hai là, đối với cán bộ Tham mưu hậu cần

Cán bộ Tham mưu hậu cần, do tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của người

cán bộ làm công tác tham mưu, ngoài những chuẩn mực ĐĐCM chung như

đã làm rõ ở trên, đòi hỏi cán bộ tham mưu hậu cần phải: “Nắm vững

125

nguyên tắc, quy chế, quy định, ý định của chỉ huy, nhiệm vụ được giao;

phát huy trí tuệ, tham mưu trúng, đúng; gương mẫu, tận tụy, kiên quyết,

mưu trí, dũng cảm nhận và thực hiện tốt nhiệm vu bảo đảm hậu cần trong

mọi tình huống”. Đây vừa là yêu cầu, vừa là phẩm chất đạo đức quan trọng,

tiêu biểu trong chuẩn mực ĐĐCM của cán bộ tham mưu hậu cần quân đội.

Đòi hỏi đội ngũ cán bộ tham mưu hậu cần phải thường xuyên tu dưỡng, rèn

luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện, để thường xuyên nắm vững

các chế độ, tiêu chuẩn, quy định, nhiệm vụ, ý định của chủ nhiệm hậu cần;

nghiên cứu tổng hợp toàn diện tình hình hậu cần đơn vị và các yếu tố có

liên quan, kịp thời tham mưu, đề xuất chủ trương, kế hoạch và phương án

xử trí các tình huống hậu cần với chủ nhiệm hậu cần, bảo đảm hoàn thành

tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Trong chiến đấu, cán bộ Tham mưu hậu cần là người sẵn sàng thay thế

người chỉ huy hậu cần khi cần thiết, nên phải luôn luôn gương mẫu, nêu cao

tinh thần kiên quyết, mưu trí, dũng cảm, không nản trí, lùi bước trước mọi khó

khăn, thử thách; sáng suốt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng

chiến đấu, hy sinh vì nhiệm vụ. Trong chiến đấu, người cán bộ Tham mưu hậu

cần nếu không kiên quyết, mưu trí, dũng cảm thì không thể tham mưu trúng,

đúng kế hoạch bảo đảm hậu cần chiến đấu với chỉ huy đơn vị, và không thể

giúp chỉ huy triển khai, tổ chức phục vụ chiến đấu và chiến thắng được.

Ba là, đối với cán bộ Quân nhu

Hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ Quân nhu luôn gắn liền

với công tác bảo đảm đời sống vật chất thiết yếu nhất, hàng ngày của bộ đội.

Nhiệm vụ đó đặt ra yêu cầu cao về ý thức, trách nhiệm, thái độ của người làm

công tác phục vụ. Do đó, bên cạnh những chuẩn mực ĐĐCM chung, có thể chỉ

ra một số yêu cầu cụ thể thuộc về chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ quân

nhu là: “Tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, sống liêm khiết, tiết kiệm, thương

yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội”.

Hoạt động bảo đảm Quân nhu, với những đặc điểm phải thức khuya,

dậy sớm, đi trước, lo trước nhằm bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho bộ đội, không

kể điều kiện thời tiết khó khăn, khắc nghiệt, sự ác liệt trong chiến đấu. Trong

mọi điều kiện, hoàn cảnh, đặc biệt ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải

đảo, đội ngũ cán bộ quân nhu phải chủ động khắc phục khó khăn, thiếu thốn,

126

phát huy bản lĩnh tự lực, tự cường, trí sáng tạo, tham mưu với cấp ủy, chỉ huy

đơn vị xây dựng kế hoạch chuẩn bị nguồn lương thực, thực phẩm; tận dụng

điều kiện phương tiện, vật chất, nguồn lực sẵn có của đơn vị tổ chức tăng gia,

lao động sản xuất để bảo đảm đời sống cho bộ đội.

Đồng thời, trong công tác phục vụ, đội ngũ cán bộ Quân nhu phải thực

sự “thương yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội”. Đây là

biểu hiện đức “tâm” cao quý của người cán bộ làm công tác phục vụ, luôn

hướng tới đối tượng được phục vụ (bộ đội) để tổ chức phục vụ kịp thời nhất,

chu đáo, đầy đủ nhất; phải xuất phát từ tình cảm trong sáng và cao quý nhất, đó

là tình cảm đồng chí, đồng đội - “bình nhì phải thương yêu bình nhì”, “cán bộ

cung cấp như người mẹ, người chị của binh nhì” để phục vụ. Vì vậy, đòi hỏi

mỗi cán bộ quân nhu phải nêu cao trách nhiệm, thường xuyên đùm bọc, thương

yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội.

Bốn là, đối với cán bộ Vận tải

Đối với cán bộ Vận tải, nhân ngày ngành hậu cần quân đội tổ chức

hội nghị lái xe giỏi và thợ sửa chữa xe giỏi toàn quân (5-8-1968). Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã căn dặn ngành xe quân sự: “Lời tặng ngành xe quân sự:

Yêu xe như con. Quý xăng như máu. Vượt mọi khó khăn. Hoàn thành

nhiệm vụ” [117 tr.485]. Lời căn dặn của Chỉ tich Hồ Chí Minh đã trở thành

giá trị, chuẩn mực đạo đức quan trọng hàng đầu để mỗi cán bộ vận tải học

tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Trong điều kiện hiện nay, ngoài những

giá trị chuẩn mực ĐĐCM chung như đã nêu ở trên, để hoàn thành tốt

nhiệm vụ của mình, yêu cầu đội ngũ cán bộ vận tải phải thực sự “Yêu xe

như con, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, quyết

tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Đây là những chuẩn mực ĐĐCM tiêu biểu,

nổi bật của cán bộ vận tải, giữ vai trò nền tảng tạo nên phẩm chất nhân

cách, quyết định chất lượng, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của họ.

Những chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ Vận tải biểu hiện thái độ

tận tâm với công việc và phương tiện được giao cho mình quản lý để phục vụ

bộ đội. Đó là, phải chăm sóc, bảo quản xe như chính con cái của mình, phải

coi đó là tài sản quý giá nhất của bản thân, của tổ chức để hết lòng, hết sức

yêu quý, giữ gìn, không để hỏng hóc phương tiện, mất mát vật chất, trang bị.

Đồng thời, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ xe cộ, phương tiện vận tải;

đi đúng, đến đủ, đảm bảo an toàn tuyệt đối về người và phương tiện, hàng

hóa, vật chất khi thực hiện nhiệm vụ.

127

Trong hoạt động vận tải quân sự, đội ngũ cán bộ Vận tải là lực lượng

trực tiếp xây dựng, bảo vệ các tuyến đường vận tải; chuẩn bị và thực hiện kế

hoạch vận chuyển con người, hàng hóa, lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang

bị… Họ thực hiện nhiệm vụ đó trong điều kiện lực lượng phân tán, địa hình

phức tạp, xa chỉ huy, nhiệm vụ liên tục được bổ sung, đòi hỏi tình thần độc

lập, sáng tạo rất cao. Trong chiến đấu, lực lượng vận tải là mục tiêu đánh

phá trọng điểm của địch, mục tiêu thường lộ diện, ít có điều kiện bảo đảm bí

mật…vv, đòi hỏi đội ngũ cán bộ Vận tải phải có bản lĩnh vững vàng, gan dạ,

không sợ hy sinh, và phải nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn

nhau, mưu trí, dũng cảm, quyết tâm khắc phục khó khăn, thách thức vươn

lên hoàn thành nhiệm vụ.

Năm là, đối với cán bộ Xăng dầu

Đối với cán bộ Xăng dầu quân đội, vì tính chất vô cùng quan trọng của

xăng dầu đối với hoạt động quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ

ngành Xăng dầu quân đội phải luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong thực

hiện nhiệm vụ, Bác căn dặn: “…Xăng là mồ hôi, nước mắt, xương máu của

nhân dân. Các chú phải … quý xăng như máu” [109, tr.58], và phải “tiết kiệm

xăng để phục vụ bộ đội” [109, tr.58]. Xem xét khách quan, toàn diện quá trình

hình thành, phát triển ĐĐCM của đội ngũ cán bộ xăng dầu, có thể chỉ ra, ngoài

những chuẩn mực ĐĐCM chung như đã làm rõ ở trên, trong điều kiện hiện

nay, yêu cầu đội ngũ cán bộ Xăng dầu phải: “Thực hành lối sống trong sạch,

lành mạnh, bí mật, tiết kiệm, quý xăng như máu; chống thất thoát, lãng phí,

nâng cao hiệu quả sử dụng xăng dầu”.

Những chuẩn mực ĐĐCM tiêu biểu của đội ngũ cán bộ Xăng dầu được

quy định bởi tính chất nhiệm vụ của người cán bộ xăng dầu - lực lượng trực

tiếp quản lý, bảo quản, phân phối, bảo đảm xăng dầu (loại nguyên, nhiên liệu

đặc biệt, được ví như “vàng đen” của mỗi quốc gia) cho các đơn vị trong toàn

quân. Trong khi đó việc khai thác, chế xuất, nhập khẩu xăng dầu để phục vụ

phát triển kinh tế, quốc phòng… còn rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ Xăng dầu phải tự giác thực

hiện nghiêm các nguyên tắc, chế độ công tác, nhất là việc phân cấp bảo đảm

với phân cấp quản lý; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh thực

hiện tiết kiệm, “chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng xăng

dầu” ở tất cả các khâu trong quy trình bảo đảm nhiên liệu; tích cực, chủ động

128

xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh, không có tư tưởng hoặc hành vi lợi

dụng chức vụ, quyền hạn để thu vén lợi ích cá nhân, hay tham nhũng, lãng phí

tài sản xăng dầu của Nhà nước, của quân đội, nhân dân. Đẩy mạnh phong trào

thi đua “Quản lý, sử dụng xăng dầu an toàn, tiết kiệm, hiệu quả”. Đồng thời,

phải tuyệt đối giữ gìn “bí mật”, nhất là bí mật về kho, trạm xăng dầu, hệ thống

đường ống, trữ lượng, chất lượng xăng dầu trong cả thời bình và thời chiến,

không để kẻ địch lợi dụng phá hoại, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm

nhiên liệu cho các đơn vị bộ đội thực hiện nhiệm vụ.

Sáu là, đối với cán bộ Doanh trại

Đối với cán bộ Doanh trại, ngoài những chuẩn mực ĐĐCM chung như

đã nêu ở trên, có thể chỉ ra một số yêu cầu đặc trưng, nổi bật thuộc về chuẩn

mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ Doanh trại là: “Làm việc độc lập, tự giác, chủ

động, sáng tạo; bảo đảm đầy đủ, công bằng, thiết thực, hiệu quả; làm chủ

khoa học kỹ thuật”.

Đội ngũ cán bộ Doanh trại là lực lượng trực tiếp xây dựng kế hoạch, tổ

chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình, quản lý nhà đất, bảo đảm doanh

trại, doanh cụ, dụng cụ sinh hoạt, các phương tiện thắp sáng, điện, nước sinh

hoạt, phòng chống cháy nổ, bão lụt… những hoạt động đó là nhiệm vụ thường

xuyên, liên quan trực tiếp đến bảo đảm nơi ăn, nghỉ, sinh hoạt, học tập, lao

động, công tác, là nhu cầu thiết yếu hằng ngày của bộ đội; nếu chất lượng bảo

đảm thấp, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của bộ đội, khả năng sẵn sàng chiến đấu

và chiến đấu của quân đội.

Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi đòi hỏi đội ngũ

cán bộ Doanh trại phải chủ động, tự giác nhận và thực hiện nhiệm vụ, nhất là

trong thiết kế, thi công các công trình quân sự, yêu cầu phải làm việc độc lập,

sáng tạo, nghiêm túc, bí mật để tạo ra những sản phẩm xây dựng phục vụ tốt

nhất cho huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phù hợp với đặc điểm

thời tiết, khí hậu, và nhiệm vụ của mỗi đơn vị. Trong quá trình thực hiện nhiệm

vụ bảo đảm, không được phân biệt giữa cán bộ với chiến sĩ, cán bộ cấp trên với

cán bộ cấp dưới… luôn bảo đảm đúng, đủ, công bằng theo tiêu chuẩn, chế độ

của từng đối tượng. Đồng thời, mỗi cán bộ phải tự giác tự học tập, nghiên cứu

nâng cao trình độ, nắm bắt khoa học kỹ thuật xây dựng hiện đại phục vụ trực tiếp

129

vào công tác bảo đảm doanh trại, đời sống vật chất, sinh hoạt của bộ đội; tích

cực tham gia nghiên cứu, làm chủ và phát triển khoa học - công nghệ xây

dựng, quản lý nhà, đất, điện, nước theo hướng bền vững, thiết thực, hiệu quả;

xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp, góp phần ổn định

và nâng cao đời sống của bộ đội theo đúng mục tiêu xây dựng quân đội cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

4.2.3. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo

đức cách mạng, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Đây là giải pháp cơ bản, then chốt quyết định chất lượng hoạt động

giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội thời

gian tới. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện tốt một số

nội dung, hình thức, biện pháp cụ thể sau:

4.2.3.1. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dường, rèn

luyện đạo đức cách mạng đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hậu

cần ở các học viện, nhà trường quân đội

Một là, đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho

học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội

Đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên

đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội nhằm từng

bước cụ thể hóa chiến lược: “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có số lượng và

cơ cấu hợp lý, chất lượng chính trị cao, kiến thức, năng lực toàn diện” [133,

tr.50]. Theo đó, nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên

đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, nhất là của

HVHC, trước hết phải tập trung giáo dục và duy trì cho học viên thực hiện

những nội dung về đạo đức học đường: giáo dục, rèn luyện về mục tiêu, yêu

cầu đào tạo; kế hoạch, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo; các quy định

về học tập, rèn luyện trên lợp, tự học, tự rèn tại các hệ, tiểu đoàn, đại đội, lớp

quản học viên; quy chế thi, kiểm tra, đánh giá, phân loại kết quả học tập, rèn

luyện. Giáo dục, bồi dưỡng cho học viên ý thức, thái độ “tôn sư, trọng đạo”,

luôn kính trọng, giữa mối quan hệ tốt đẹp với thầy, cô giáo; đoàn kết, thương

yêu, gắn bó với đồng chí, đồng đội. Trong đó, người giáo dục (đội ngũ giảng

viên, cán bộ quản lý các cấp) phải làm kiểu mẫu về đạo đức, lối sống để học

130

viên noi theo. Từ đó, xây dựng ý thức, thái độ học tập cần cù, chăm chỉ, thường

xuyên, liên tục; nhận thức đúng và chấp hành nghiêm quy chế, quy định về

giáo dục, đào tạo; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật của quân đội,

quy định của học viện, nhà trường. Thời gian học tập, nghiên cứu tại trường là

khoảng thời gian ngắn, nhưng rất quý báu để mỗi học viên đào tạo, bồi dưỡng

CBHC tích lũy tri thức, thấm nhuần ĐĐCM và tiếp tục được bồi dưỡng, hoàn

thiện trong quá trình công tác, học tập tại đơn vị sau này.

Hai là, đổi mới phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM

cho học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội

Đổi mới phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học

viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, trước hết

cần tập trung thực hiện tốt phương thức giáo dục, bồi dưỡng ĐĐCM theo lớp,

hoặc thông qua sinh hoạt lãnh đạo; sinh hoạt chính trị; sinh hoạt học tập; sinh

hoạt tự phê bình và phê bình; sinh hoạt chuyên môn; hội nghị sơ, tổng kết về

CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các cuộc vận động trong công

tác giáo dục về: “dân chủ - kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”; thực hiện

“mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” để học

viên noi theo; thực hiện tốt phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, xây dựng

môi trường văn hóa lành mạnh trong các học viện, nhà trường quân đội, tạo

điều kiện thuận lợi để học viên học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Đồng thời, cần tích cực đổi mới phương pháp dạy, học và thi, kiểm tra,

đặc biệt là đối với các môn đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

theo hướng đề “mở”, gắn với thực tế những tấm gương sáng về đạo đức nhằm

hình thành, phát triển nhân cách, nhận thức cho học viên. Trong đổi mới

phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên đào tạo, bồi

dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, cần tạo điều kiện cho

người học phát huy tư duy sáng tạo, tự học tập, tự nghiên cứu, thông qua sự

định hướng của người dạy. Trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng phải kiên trì

nguyên tắc lấy người học làm trung tâm; tăng cường hơn nữa các hoạt động

ngoại khóa, văn hóa, thể thao, kết nghĩa, hội thi, hội thao, thực hành, thực

tập… để học viên có nhiều điều kiện vận dụng kiến thức được trang bị vào

thực tiễn giải quyết các mối quan hệ, nhằm thường xuyên bồi dưỡng, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ học viên đào tạo CBHC trên thực tiễn.

131

Ba là, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ

cán bộ, giảng viên ở các học viện, nhà trường quân đội trong giáo dục, bồi

dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hậu cần

Đội ngũ nhà giáo thực hiện nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển ĐĐCM của

học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội. Vì

vậy, cần xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu

và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn phù

hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục ĐĐCM. Trong đó cần chú trọng lựa chọn

đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực giảng dạy, có năng khiếu sư phạm và

có uy tín cao trong số giảng viên để tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao trình độ cho họ. Cơ quan đào tạo phải quan tâm bảo đảm nguồn giáo

trình, tài liệu mới nhất, phong phú, đa dạng phục vụ cho hoạt động giáo dục;

lồng ghép chương trình giáo dục lý luận chính trị với giáo dục kiến thức

chuyên môn, nghiệp vụ. Trong quá trình giảng dạy, đội ngũ giáo viên chú ý

kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với định

hướng tư tưởng, bồi dưỡng ĐĐCM, lối sống trong sạch cho học viên đào tạo,

bồi dưỡng CBHC. Lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng cần kịp thời chấn

chỉnh những biểu hiện thiếu trách nhiệm, không tích cực chuẩn bị bài giảng,

và xử lý nghiêm giảng viên vi phạm kỷ luật giáo dục, đào tạo. Mặt khác, phải

có chế độ chính sách phù hợp, nhất là chính sách về lương, thưởng, phát triển

chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc

của đội ngũ giáo viên.

4.2.3.2. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức

cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị

Đây là giải pháp then chốt nhất nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ giáo dục

ĐĐCM của đội ngũ CBHC tại đơn vị, bảo đảm hoạt động giáo dục, bồi

dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC luôn có định hướng, xuất phát từ

thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần để giáo dục, bồi dưỡng, rèn

luyện. Theo đó, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, phương thức sau:

Một là, đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị

132

Nội dung giáo dục cần tập trung: tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, rèn

luyện về những quy tắc, quy định, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho đội

ngũ CBHC. Nhất là, những chỉ thị, quy chế, quy định theo chức trách, nhiệm

vụ của từng chức danh cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho

huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao động, sản xuất, tham gia

phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Tổ chức tốt nhất, hiệu quả nhất việc học

tập, tự học tập những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng về việc xây dựng, bồi

dưỡng đạo đức, lối sống trong điều kiên mới như: Quyết định 101 của Trung

ương về việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng; Quyết định số 89 về “Khung tiêu

chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản

lý các cấp”; Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) “về tập trung xây dựng đội

ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,

ngang tầm nhiệm vụ”; đặc biệt, phải giáo dục cho đội ngũ CBHC nắm chắc

27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Trung ương 4 (khóa XII) Đảng

ta xác định, làm cơ sở để đội ngũ CBHC đấu tranh ngăn ngừa có hiệu quả

trước những biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Đồng thời, động viên đội ngũ

CBHC tự bồi dưỡng, tự rèn luyện tinh thần độc lập, sáng tạo, tự chủ, tự chịu

trách nhiệm, nâng cao phẩm chất chính trị, ĐĐCM, năng lực chuyên môn, đủ

sức hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Hai là, đổi mới, hoàn thiện phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị

Phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị, cần được đổi mới theo

hướng chú trọng phương pháp tổ chức tốt các hoạt động: nghiên cứu, nói

chuyện chuyên đề cho sĩ quan; thông tin tư tưởng chính trị, kết hợp phương

pháp thuyết phục, nêu gương, tự phê bình và phê bình. Đồng thời phát huy

vai trò, trách nhiệm tham gia giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của tất các các

tổ chức, các lực lượng, đầu tiên là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của

cấp ủy; hoạt động duy trì, quản lý của người chỉ huy; thi đua, nhân điển hình

tiên tiến của các tổ chức, đoàn thể. Kết hợp đẩy mạnh các phong trào thi

đua: “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xưng danh Bộ đội Cụ Hồ”,

“Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Nôi quân giỏi, quản lý

quân nhu tốt”, “Xây dựng doanh trại xanh, sạch, đẹp”.

133

Trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ CBHC cấp trên phải nêu

gương sáng về đạo đức, lối sống để cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới làm

theo. Vì, “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn

tuyên truyền” [103, tr. 284]. Thông qua đó, “Lấy gương người tốt, việc tốt

để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây

dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc

sống mới” [117, tr. 672]. Kết hợp thực hiện nghiêm những điều đảng viên

không được làm; tăng cường việc nêu gương thực hiện trước, làm trước, tự

phê bình và phê bình nghiêm túc của đội ngũ CBHC trong thực hiện nghị

quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Nghị quyết trung ương 7 (khóa XII) “về

tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm

chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, để cán bộ, chiến sĩ cấp dưới

noi theo. Thông qua đó, trực tiếp góp phần giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM cho đội ngũ CBHC trong suốt quá trình công tác.

4.2.3.3. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện về tư tưởng

giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tư tưởng về độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội… Trong đó có tư tưởng về chăm lo

giáo dục, bồi dưỡng ĐĐCM cho đời sau. Tư tưởng đó đã được nhiều thế hệ

người Việt Nam đón nhận, và trở thành nền tảng của phẩm chất, nhân cách

người cách mạng. Đối với đội ngũ CBHC Quân đội, học tập và làm theo tấm

gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò định hướng, điều chỉnh

hành vi, phát triển nhân cách của người CBHC Quân đội. Để đẩy mạnh học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đối với đội ngũ

CBHC Quân đội, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về tấm gương đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh tại nhà trường và trong các cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội

Đây là giải pháp quan trọng nhằm định hướng tư tưởng, xây dựng tinh

thần đoàn kết, lòng quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày khi còn học tập tại

trường và ở cơ quan, đơn vị hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Để thực

134

hiện tốt nội dung này, cấp ủy, chỉ huy HVHC, và các học viện, nhà trường,

cơ sở tham gia bồi dưỡng CBHC các cấp; lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị

hậu cần tập trung xác định rõ nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền

giáo dục; tổ chức tuyên truyền, giáo dục chặt chẽ, nghiêm túc, có kiểm tra,

đánh giá kết quả. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục cần làm rõ ý nghĩa, tầm

quan trọng, những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng tinh thần tự giác, quyết tâm

học tập, rèn luyện ĐĐCM. Qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận

thức của từng CBHC về yêu cầu, nhiệm vụ học tập và làm theo tấm gương

đạo đức, phong cách của Bác, trên cơ sở đó hình thành phong trào tu dưỡng,

rèn luyện, phấn đấu theo tấm gương đạo đức của Người ơ cơ quan, đơn vị

hậu cần và của đội ngũ CBHC Quân đội.

Trong tuyên truyền, giáo dục tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh phải vận dụng sáng tạo những hình thức tuyên truyền, giáo dục như: tổ

chức các lớp học tập, có đánh giá kết quả; tuyên truyền miệng (nói chuyên,

kể chuyện về Bác…); tuyên truyền qua phương tiện thông tin nội bộ: sách,

báo, đài, băng rôn, khẩu hiệu; tổ chức các hội thi tìm hiểu; xem truyền hình,

phim tư liệu về Bác Hồ; tuyên dương về tấm gương điển hình tiên tiến của

cán bộ, đảng viên, CBHC trong học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương

pháp như: đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục ở cơ quan, đơn vị hậu

cần với tăng cường phương pháp nêu gương của đội ngũ cán bộ là chủ

nhiệm, phó chủ nhiệm, trưởng, phó trưởng ban, trợ lý hậu cần các ngành,

các cấp; lồng ghép có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh với các phong trào thi đua “nuôi quan giỏi, quản lý

quân nhu tốt”, “xây dựng doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”, “quản lý,

sử dụng xăng dầu tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí”…; tổ chức

tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng kịp thời.

Thông qua đó, biến quá trình tuyên truyền, giáo dục ở cơ quan, đơn vị thành

phong trào tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trong chấp hành

các chế độ nền nếp, kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà nước, khi thực hiện

nhiệm được giao.

135

Hai là, đẩy mạnh hoạt động tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện theo

tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC Quân đội

Đây là giải pháp giữ vai trò trụ cột, nhằm biến hoạt động học tập và

làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của Bác thành hành động tự giác

của mỗi CBHC. Vì, nếu cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần có tăng

cường lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể, cẩn thận, tỉ

mỉ nhưng bản thân mỗi CBHC không nêu cao tinh thần tự giác, chủ động

quán triệt, tự học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

trong từng công việc cụ thể hằng ngày tại cơ quan, đơn vị, cũng như sinh hoạt

tại địa phương thì kết quả đạt được sẽ không cao.

Để phát huy tính tự giác, tích cực của CBHC trong học tập và làm theo

tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trước hết công tác tuyên tryền,

giáo dục cần có sự đổi mới cả về hình thức và cách tiếp cận, phải đi vào thực

chất, khắc phục bệnh hình thức, chung chung. Đội ngũ CBCH phải nắm chắc

chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên; căn cứ vào nội dung tư tưởng và tấm gương

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ của mình

để xây dựng kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu, tiêu chí cụ thể để

phấn đấu, rèn luyện và làm theo. Cấp ủy, người chỉ huy phải thường xuyên

kiểm tra, đôn đốc đội ngũ CBHC từng bước thực hiện tốt kế hoạch của họ, cụ

thể hóa bằng kết quả, chất lượng ở từng công việc, ở việc chấp hành các chế

độ, nền nếp chính quy... Tránh tình trạng chỉ hô hào khẩu hiệu, lúc phát động

thì mạnh mẽ hăng hái nhưng quá trình thực hiện lại giản đơn, đại khái.

Kết hợp chặt chẽ tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh của CBHC với sự tăng cường công tác quản lý, giáo

dục việc rèn luyện đạo đức, tác phong của các cấp lãnh đạo, tổ chức, lực

lương ở đơn vị. Vì vậy, đẩy mạnh giáo dục đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

đối với đội ngũ CBHC Quân đội cần phải có sự nỗ lực cố gắng của cả hai

phía: cá nhân CBHC, quần chúng và sự quản lý, giáo dục của các cấp lãnh

đạo, của tổ chức, sự tham gia của chính quyền, đoàn thể và nhân dân.

Ba là, tổ chức tốt việc kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm đối với việc

học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC Quân đội.

Kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện học tập và

làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC

Quân đội, được tổ chức theo từng cấp, đến toàn quân và gắn liền với hoạt

136

động đánh giá, nhận xét CBHC, đánh giá, phân loại đảng viên, tổ chức đảng

hàng năm, đồng thời được xem xét trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ

bảo đảm hậu cần. Yêu cầu, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm phải bảo đảm

khách quan, trung thực những điểm mạnh, điểm yếu về đạo đức, lối sống

của CBHC; đánh giá đúng kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC đạt được đến đâu; tìm rõ

nguyên nhân của thực trạng và rút ra bài học kinh nghiệm; tránh việc đánh

giá sai sự thật, tô hồng thành tích, che giấu khuyết điểm. Thông qua đó,

nhằm kịp thời định hướng phong trào, phê bình, chấn chỉnh, uốn nắm những

nhận thức, hoạt động lệch lạc, hạn chế, khuyết điểm; rút ra những kết luận

để hình thành những kiến thức mới, kinh nghiệm mới chỉ đạo hoạt động thực

tiễn, đánh giá chính xác những tập thể, cá nhân có thành tích trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ hậu cần để biểu dương, khen thưởng kịp thời. Đồng thời

chỉ rõ những yếu kém cần khắc phục, để mỗi tập thể và cá nhân CBHC cố

gắng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Kết quả của sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm phải được quán triệt, vận dụng sáng tạo vào quá trình tổ chức thực

hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong

thời gian tiếp theo.

4.2.4. Phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ

cán bộ Hậu cần Quân đội trong tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng

cao đạo đức cách mạng

Đây là giải pháp giữ vị trí hết sức quan trọng trong giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Bởi lẽ, ĐĐCM của đội ngũ CBHC,

không chỉ được hình thành và phát triển bằng con đường giáo dục, rèn luyện

theo kế hoạch của tổ chức, mà còn được hình thành, củng cố và phát triển

hoàn thiện thông qua quá trình tích cực, chủ động rèn luyện của chính bản

thân mỗi CBHC, nếu không phát huy được vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện

của đội ngũ CBHC sẽ không đem lại hiệu quả cao. Để tăng cường rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt được kết quả cao, cần phải thực hiện đồng bộ

các nội dung, biện pháp chính sau:

Một là, xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn trong tự học tập,

bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Mục đích, động cơ rèn luyện ĐĐCM đúng đắn có ý nghĩa quyết

định cả quá trình rèn luyện của đội ngũ CBHC, tạo ra động lực thúc đẩy

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của họ đạt kết quả cao. Việc xây

137

dựng động cơ, thái độ trong tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, ngay trong quá trình đào tạo, bồi

dưỡng CBHC của HVHC, các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng trong toàn

quân, và tiếp tục được rèn luyện trong quá trình công tác tại đơn vị cơ sở.

Để xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn trong tự rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chính

trị các cấp (của HVHC, các học viện, nhà trường và của cơ quan, đơn vị hậu

cần) tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng ý chí

sống có hoài bão, lý tưởng và khát vọng đúng đắn; khơi dậy ý thức tự giác, làm

cho họ luôn có nhận thức đúng đắn về vai trò của tự giáo dục, tự rèn luyện

ĐĐCM đối với sự phát triển của chính họ, hình thành trong họ nhu cầu về nâng

cao tri thức, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Đồng thời bằng công tác tư

tưởng, tổ chức và chính sách làm cho họ gắn bó với quân đội, đơn vị, thấy rõ

vinh dự và trách nhiệm của người cán bộ Hậu cần.

Đi đôi với giáo dục xây dựng động cơ, mục đích đúng, cần khắc phục

biểu hiện cơ hội, trung bình chủ nghĩa trong tự rèn luyện ở mỗi CBHC. Để

khắc phục được điều đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức, các lực

lượng cả trong và ngoài quân đội, giữa nhà trường - đơn vị - địa phương - gia

đình; đặc biệt cần phát huy vai trò của cấp ủy, người chỉ huy các cơ quan, đơn

vị hậu cần xác định các biện pháp rèn luyện thích hợp để tạo ra không khí thi

đua lành mạnh trong đơn vị; có cơ chế kiểm tra, đánh giá chặt chẽ, công bằng

kết quả tự rèn luyện của mỗi người, nhất là kết quả học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh; cụ thể hóa đức: cần, kiệm, liêm, chính… trong

thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mỗi CBHC. Khi mục đích, động cơ đúng

thì tư tưởng cơ hội, trung bình chủ nghĩa sẽ được khắc phục, hiệu quả tự rèn

luyện được nâng lên, góp phần nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.

Hai là, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tăng cường giúp đỡ đội ngũ

CBHC tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM

Quá trình rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là một quá trình phấn đấu

lâu dài, khó khăn, gian khổ rất dễ dẫn đến tình trạng mệt mỏi, có thể xuất hiện ở

một bộ phận CBHC tư tưởng ngại phấn đấu, rèn luyện. Do đó, các chủ thể giáo dục,

rèn luyện cần có các biện pháp tích cực cả về chính trị, tư tưởng, cả về hành chính

quân sự để giúp đỡ đội ngũ CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.

138

Trước hết, cần tăng cường giúp đỡ đội ngũ CBHC tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng tại các học viện, nhà trường, trong đó,

cần phát huy tốt vai trò trung tâm giáo dục, đào tạo CBHC các cấp của HVHC.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC, lãnh

đạo, chỉ huy các học viện, nhà trường cần có chủ trương, biện pháp giúp đỡ đội

ngũ CBHC tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM; chủ động nắm chắc về tư tưởng, tình

cảm, đạo đức, lối sống, kết quả học tập, rèn luyện để kịp thời nhắc nhở, chấn

chỉnh những biểu hiện lệch lạc; tăng cường rèn luyện người học viên thông qua

các hoạt động hội thi, hội thao về bảo đảm hậu cần, thực hành, thực tập chức

trách, nhiệm vụ; phát huy vai trò của tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân

tham gia giáo dục, động viên, giúp đỡ học viên CBHC tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM thường xuyên, kiên trì, khắc phục khó khăn về điều kiện ăn, ở, học tập

của nhà trường, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.

Đối với các cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, cấp ủy, chi bộ, người chỉ

huy phải quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc, phương hướng, nhiệm vụ

giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng; yêu cầu về chuẩn

mực ĐĐCM, phẩm chất chính trị, lối sống, năng lực của đội ngũ CBHC trong

giai đoạn mới. Trên cơ sở đó để đề ra những chủ trương, biện pháp, xác định

nội dung, hình thức, yêu cầu đạt được trong tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC; phải giúp đỡ đội ngũ CBHC xác định nội dung tự tu dưỡng, rèn

luyện, nội dung đó cần bám sát chức trách của mỗi người; phù hợp với nhiệm

vụ trong từng tuần, tháng, môi trường sống, công tác và đặc điểm tâm sinh lý

của mỗi cán bộ; phải hướng vào củng cố, nâng cao nhận thức chính trị, phẩm

chất cần thiết của người sĩ quan quân đội trong thời kỳ mới, nâng cao phẩm

chất đạo đức, lối sống theo tinh thần xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay…

trong đó đặc biệt chú trọng những nội dung tự nghiên cứu, bồi dưỡng về chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính trị,

quân sự của Đảng, nhiệm vụ, chức năng của quân đội và chức trách nhiệm vụ

của người CBHC. Bên cạnh đó, cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu

cần phải định hướng, xác định được các hình thức, phương pháp tự tu dưỡng,

rèn luyện đa dạng, phong phú và có tính khả thi cao trong kế hoạch học tập,

rèn luyện của mỗi CBHC và phải được cấp uỷ đảng phê duyệt.

139

Đồng thời, phải tăng cường công tác quản lý, duy trì thường xuyên

của chỉ huy, người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị trong thực hiện việc tu

dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Đây là nhân tố quan

trọng, tạo môi trường chính quy, thống nhất, thuận lợi cho việc tự tu dưỡng,

rèn luyện đạo đức của mỗi CBHC, bảo đảm cho hoạt động tự rèn luyện của

họ có phương hướng, nội dung đúng đắn, có kế hoạch cụ thể, có phương

pháp thích hợp và được thực hiện nghiêm túc, có nền nếp. Trong quá trình

đội ngũ CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện, các cấp uỷ đảng, đội ngũ cán bộ chủ

trì, cơ quan chính trị cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở

và quản lý chặt chẽ việc tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trong chỉ

đạo phải quan tâm và sâu sát đến từng người, chỉ ra ưu, khuyết điểm của

từng cán bộ, có kế hoạch và quy định cụ thể mốc thời gian để từng họ sửa

chữa khuyết điểm. Trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt chính quyền, sinh hoạt

tập thể quân nhân, sinh hoạt đoàn; sinh hoạt phê bình, nhận xét, đánh giá về

phẩm chất và năng lực của CBHC, cấp uỷ đảng và người chỉ huy cần phải có

những đánh giá về thái độ, trách nhiệm và kết quả tự tu dưỡng, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Thông qua đó nhằm phân loại, nắm chắc chất

lượng CBHC để định hướng đối với từng người, từng đối tượng có nội dung,

phương thức tự rèn luyện hợp lý.

Cùng với việc tổ chức quản lý, duy trì thường xuyên, có nền nếp quá

trình tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, các cấp uỷ đảng và

người chỉ huy, cơ quan chính trị, tổ chức quần chúng phải tạo điều kiện

thuận lợi nhất cho đội ngũ cán bộ Hậu cần tự tu dưỡng, rèn luyện, quan tâm

bảo đảm các điều kiện về vật chất, tinh thần, mà trước hết phải kịp thời bổ

sung hệ thống giáo trình, tài liệu, sách báo, phương tiện kỹ thuật; phát huy

hiệu quả hoạt động phục vụ của hệ thống thư viện, nhà truyền thống, phòng

Hồ Chí Minh của đơn vị. Thường xuyên tổ chức các hoạt động phong trào

ở cơ quan, đơn vị hậu cần như: hội thi, hội thao, thi tìm hiểu, diễn đàn, mạn

đàm, trao đổi..., nhằm tạo ra dư luận tập thể tích cực, kịp thời cổ vũ, động

viên, khích lệ phong trào tự tu dưỡng, rèn luyện trong toàn đơn vị. Đồng

thời, cơ quan chức năng các cấp cần thống nhất xây dựng quy chế, quy

định, chế độ kiểm tra, đánh giá kết quả tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.

140

Ba là, phát huy vai trò tự giác, chủ động, sáng tạo trong học tập, bồi

dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội

Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, quyết định chất lượng, hiệu quả

hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, biểu hiện

thái độ tự giác biến động cơ rèn luyện đúng đắn thành kết quả hành động trên

thực tiễn. Phát huy được mặt tích cực này có thể biến quá trình giáo dục, rèn

luyện thành quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện. Khi đó hiệu quả giáo dục, rèn

luyện sẽ cao hơn, chắc chắn hơn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề

cao tính tự giác rèn luyện đạo đức của người cán bộ. Phẩm chất đạo đức là giá

trị riêng có của từng người, là kết quả của quá trình phấn đấu rèn luyện lâu

dài, bền bỉ, gian khổ của mỗi cán bộ; là sự thấm nhuần, chuyển biến dần dần

về nhận thức lý tưởng, hành vi ĐĐCM của mỗi cán bộ. Người cán bộ là người

giác ngộ, giáo dục đạo đức mới cho nhân dân, cho nên họ phải là người thực

hành đạo đức mới để làm gương. Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ phải “Tự mình

phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà

muốn người khác chính là vô lý” [108, tr.130]; “Mình trước hết phải siêng

năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được” [110,

tr.98]. Phát huy tính tự giác của người cán bộ không chỉ là phương thức rèn

luyện đạo đức tích cực mà còn là một trong những phương thức tổ chức

phong trào cách mạng.

Phát huy vai trò tự giác, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội thực chất là quá trình hoạt động có mục đích, với ý thức, trách nhiệm cao

của người CBHC hướng vào sự phát triển hoàn thiện phẩm chất đạo đức cá

nhân phù hợp với những chuẩn mực ĐĐCM với thực tiễn xây dựng ngành

hậu cần và quá trình giáo dục đạo đức hiện nay. Bởi vì, xét đến cùng thì bao

giờ việc tu dưỡng đạo đức của người đảng viên cũng là do ý thức chủ động

tự giác của từng người quyết định. Đây là sự thống nhất biện chứng của hai

vấn đề: tích cực rèn luyện để phát triển ĐĐCM, đồng thời với đó là quá trình

tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc để khắc phục mặt yếu kém, phát huy

mặt tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hậu cần ngày càng phát triển

trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò tự giác rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là hình

thức mang tính chủ thể cao là biểu hiện nổi bật của sự tự hoàn thiện phẩm chất,

nhân cách bản thân mình. Để người CBHC tự giác rèn luyện ĐĐCM, đòi hỏi

họ phải là người đã được tổ chức giáo dục, rèn luyện, bảo đảm hoạt động tự rèn

luyện đúng định hướng, có cơ sở khoa học. Trên cơ sở sự định hướng, hướng

141

dẫn của tổ chức, mỗi người CBHC phải tự nhận thức và vận dụng các phương

pháp: tự thuyết phục, tự rèn luyện, tự kiềm chế, tự điều chỉnh, tự phê bình;

đồng thời luôn gương mẫu, nêu cao tinh thần tự tu dưỡng về đạo đức lối sống,

thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chấp hành nghiêm túc Điều lệ

Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy chế, quy định của cơ quan,

đơn vị mình. Hoạt động tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội phải

thực hiện đều đặn, xuyên suốt từ khi là người học viên đạo tạo, bồi dưỡng

CBHC tại HVHC, và ở các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng trong toàn

quân, đến khi ra trường, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc tự rèn

luyện ĐĐCM trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng tại các học viện, nhà trường

của đội ngũ CBHC là bước đầu tiên, quan trọng nhằm hình thành thế giới quan,

phương pháp luận, những nhận thức cơ bản nhất về ĐĐCM, làm cơ sở tiếp tục

bồi dưỡng, phát triển hoàn thiện trong quá trình công tác sau này.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại đơn vị, mỗi CBHC phải

có lòng tin vào khả năng tự học, tự rèn của bản thân, để tự vượt qua mọi sự

cám dỗ, lôi kéo, mua chuộc của các lực lượng từ môi trường bên ngoài và sự

trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân từ bên trong. Biến quá trình giáo dục, rèn

luyện đạo đức thành hoạt động tự giác rèn luyện thường xuyên, liên tục trong

lối sống hàng ngày và trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần; chủ động nêu cao

tinh thần tự phê bình và phê bình trước những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,

lãng phí; tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ

CBHC ở cơ quan, đơn vị.

Đồng thời với quá trình tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy,

người chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp phải chủ động kiểm tra, động viên,

khuyến khích bằng vật chất và tinh thần, tạo động lực thúc đẩy CBHC nâng cao

tinh thần tự giác rèn luyện ĐĐCM, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quá trình

phấn đấu, rèn luyện của bản thân. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần xây dựng môi

trường tập thể quân nhân lành mạnh, các tổ chức vững mạnh tạo điều kiện cho

CBHC yên tâm công tác, tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM. Trong công tác cán bộ

cần điều động, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ đúng năng lực, sở trường; có

sự kế tiếp liên tục của các thế hệ cán bộ, để cán bộ công tác lâu năm, có bản

lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, dày dạn kinh nghiệm vừa làm

gương, vừa kèm cặp, giúp đỡ cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm, nhằm tạo nên

niềm tin, sự phấn khởi, kích thích họ tự giác cố gắng phấn đấu rèn luyện nâng

cao phẩm chất đạo đức, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ.

142

4.2.5. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội

ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay

Đây là giải pháp quan trọng góp phần củng cố, phát triển hoàn thiện

ĐĐCM của người CBHC Quân đội, biểu hiện nguyên tắc “xây” phải đi đôi với

“chống” trong quá trình giáo dục nhận thức đối với cán bộ. Đồng thời, đạo đức

của đội ngũ CBHC Quân đội không chỉ được biểu hiện ở sự tin tưởng vào đường

lối, sự trung thành với sự nghiệp cách mạng… mà còn là sự thấm nhuần tư

tưởng, đường lối, biến nhận thức đó thành hành động cách mạng trên thực tiễn

trong việc đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, thoái hóa, biến

chất. Nhất là trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức đẩy

mạnh thực hiện cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đã được

Trung ương 4 (khoa XI, XII) Đảng ta xác định.

Để góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội

ngũ CBHC Quân đội, thông qua đó trực tiếp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho họ,

cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp

đối với công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan, đơn vị hậu cần hiện nay

Tổ chức Đảng trong quân đội nói chung, cấp ủy, chi bộ ở cơ quan đơn

vị hậu cần quân đội nói riêng giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo cơ quan, đơn vị

hậu cần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ

thuật; chăm lo đời sống vật chất, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, học tập, công

tác cho bộ đội, sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù. Thực trạng trong

công tác bảo đảm hậu cần, vẫn còn một bộ phận cán bộ có biểu hiện suy thoái

về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở những mức độ khác

nhau. Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo

tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII, cấp ủy, tổ chức

đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần phải xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh

đạo thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan,

143

đơn vị mình kịp thời, sát đúng; lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hậu cần tổ

chức sinh hoạt quán triệt, giáo dục, giao nhiệm vụ cụ thể tới từng cán bộ,

đảng viên; chỉ đạo các tổ chức quần chúng tổ chức giao ước thi đua, diễn đàn,

tọa đàm,… nhằm xây dựng nhận thức đúng đắn cho mọi cán bộ, đảng viên,

quần chúng, và đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ chính trị này.

Người đứng đầu cấp ủy, chi bộ (bí thứ, phó bí thư cấp ủy cơ quan, đơn

vị hậu cần) phải tăng cường duy trì thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung

dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám

sát, thi hành kỷ luật Đảng, nhất là kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm,

với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn từ xa, không để vi phạm nhỏ thành vi

phạm lớn. Đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần phải thường xuyên

nêu gương thực hiện trước, làm trước, tự phê bình và phê bình nghiêm túc

trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) để đội ngũ

đảng viên, cán bộ, quần chúng cấp dưới noi theo; phát huy vai trò của đội ngũ

cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị hậu cần, tích cực, kịp thời góp ý, phê

bình những biểu hiện vi phạm chuẩn mực đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng

phí của một số CBHC; xử lý nghiêm minh, chặt chẽ những đảng viên, CBHC

có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí khi thực

hiện nhiệm vụ; duy trì thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp sinh hoạt cấp ủy, chi

bộ, kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội, góp phần phòng, chống suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

của một số CBHC ở các cơ quan, đơn vị hậu cần hiệu quả nhất.

Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng,

nhất là đội ngũ CBHC về vị trí, vai trò, tính cấp bách, sự hệ trọng của nhiệm vụ

phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị hậu cần

Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nhằm xây dựng nhận thức đúng đắn

cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ở cơ quan, đơn vị hậu cần nói chung và

đội ngũ CBHC nói riêng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chính đốn Đảng,

đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu

hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, cần tập trung giáo

dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ việc đấu tranh phòng, chống suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ là yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh

144

đốn Đảng hiện nay; là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp

cách mạng nước ta. Đặc biệt phải giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cho

đội ngũ CBHC về thực trạng và 27 biểu hiện về sự suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên (theo Nghị quyết Trung

ương 4, khóa XII).

Xây dựng cho đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc về sự suy thoái này

“chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới

tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự

nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” [69, tr.16]. Thực trạng này “làm giảm

sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách

thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ” [66, tr. 22].

Do vậy, Đảng ta yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực, kiên quyết đấu

tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này, để củng cố niềm tin của đảng viên và của

nhân dân đối với Đảng. Thông qua đó, góp phần nâng cao nhận thức chính trị,

phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ CBHC trong đấu tranh, ngăn ngừa suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội hiện nay.

Ba là, phát huy vai trò tự giác, tích cực đấu tranh phòng, chống suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ, của đội ngũ CBHC Quân đội

Đội ngũ CBHC giữ vai trò quan trọng, hạt nhân then chốt trong công

tác xây dựng Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, phát huy vai trò tự

giác, tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của đội ngũ

CBHC, là biện pháp quan trọng, trực tiếp góp phần giữ vững và nâng cao

ĐĐCM cho đội ngũ CBHC, xây dựng cấp ủy, chi bộ trong sạch vững mạnh,

lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Theo đó, mỗi CBHC phải tự xây dựng cho mình có nhận thức chính trị

đúng đắn, thực hiện nghiêm chương trình, kế hoạch, nội dung, biện pháp đấu

tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn

ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở cơ quan, đơn vị hậu cần.

Trong quá trình công tác, đội ngũ CBHC phải chú trọng thực hiên đúng quy

chế, quy định về quản lý, bảo quản, sử dụng, cấp phát kinh phí, vật chất,

lương thực, thực phẩm, quân trang, nguyên, nhiên liệu…; không để thất thoát,

145

lãng phí; không lợi dụng chức vụ để lôi kéo, móc nối, làm ăn phi pháp;

thường xuyên quan tâm chăm lo bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho bộ đội. Trong

quá trình sinh hoạt, nhất là sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, phải nêu cao vai trò tiên

phong, gương mẫu, tự giác tự phê bình và đấu tranh, phê bình thẳng thắn với

những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, hiểu hiện vi phạm đạo đức,

lối sống của một số cán bộ, đảng viên.

Đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp, đây là lực

lượng có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ

quan, đơn vị hậu cần, nên có vai trò quan trọng đối với việc phòng, chống,

ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Vì vậy, họ phải có quyết

tâm chính trị cao, xác định đúng vai trò, trách nhiệm, gương mẫu trong việc

chấp hành đường lối, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy định của Đảng và Nhà

nước; thực hiện nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh, nhiệm vụ trong công tác hậu cần;

xây dựng cho mình tác phong làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả, sâu sát;

có thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử, luôn lắng nghe, tiếp thu những ý

kiến xác đáng của cấp dưới và nhân dân để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân.

Người đừng đầu phải thường xuyên gương mẫu, tích cực, tự giác đấu tranh

phòng, chống suy thoái trong suốt quá trình học tập, sinh hoạt, cũng như trong

công tác, cả trong lời nói và hành động, để cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp

dưới noi theo. Có như vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mới đạt được

hiệu quả và có tác dụng động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên, và đội ngũ

CBHC ở cơ quan, đơn vị hậu cần học tập, làm theo.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm

của ủy ban kiểm tra đảng ủy các cấp, kịp thời ngăn chặn suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống của một số CBHC hiện nay

Kiểm tra đảng viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng, là

đòi hỏi tất yếu trong hoạt động lãnh đạo, là một mắt khâu không thể tách rời

trong quy trình lãnh đạo, đồng thời là một mặt công tác rất quan trọng của

Đảng. Đảng ta khẳng định: “Lãnh đạo mà không có kiểm tra thì coi như

không có lãnh đạo” [54, tr.123]. Theo Hồ Chí Minh: “Khi đã có chính sách

đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức

công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì

chính sách đúng mấy cũng vô ích” [107, tr.636].

146

Để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một số CBHC Quân đội hiện

nay, đòi hỏi cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải có biện

pháp phát hiện, ngăn chặn từ xa, kịp thời, hiệu quả. Vì vậy, tăng cường thực

hiện tốt công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, đặc biệt đối với

đảng viên là CBHC của UBKT đảng ủy các cấp là một biện pháp quan trọng,

không những góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng được chấp hành triệt để mà còn là biện pháp kịp thời nhất, hữu hiệu

nhất để phòng ngừa, ngăn chặn từ xa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; khắc phục tệ quan liêu, tham

nhũng, lãng phí ở một bộ phận CBHC, nâng cao năng lưc lanh đao, sưc chiên

đâu của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội.

Thông qua sinh hoạt đảng thường kỳ, kiểm tra thường xuyên và đột

xuất; qua phản ánh, báo cáo của đội ngũ đảng viên, cán bộ, quần chúng. Cấp

ủy, chi bộ, UBKT đảng ủy các cấp phải thường xuyên nắm chắc phẩm chất,

năng lực, các mối quan hệ của đội ngũ CBHC ở đơn vị mình, nhất là những

quan hệ kinh tế trong hoạt động bảo đảm hậu cần, kịp thời phát hiện biểu hiện

vi phạm để chấn chỉnh, nhắc nhở. Đối với những trường hợp phải kiểm tra khi

có dấu hiệu vi phạm, cấp ủy, ủy ban kiểm tra xác định rõ nội dung, chủ thể,

đối tượng, xây dựng kế hoạch, phân công giao nhiệm vụ cụ thể; tổ chức kiểm

tra đối với đảng viên là CBHC khi có dấu hiệu vi phạm chặt chẽ, nghiêm túc,

đúng thủ tục, quy trình, tuân thủ đúng các khâu, các bước của công tác kiểm

tra. Thông qua kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối với những

trường hợp vi phạm của CBHC, nhất là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để

tham nhũng, gây thất thoát tài sản, vật chất của Nhà nước, quân đội.

Kiểm tra đảng viên là CBHC khi có dấu hiệu vi phạm là biện pháp

quan trọng, hựu hiệu có tác dụng lớn, trực tiếp góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở

một số CBHC Quân đội hiện nay, cần được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan

tâm triển khai thực hiện nghiêm túc.

Năm là, đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở cơ

quan, đơn vị hậu cần, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối

sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận CBHC

147

Đánh giá về chất lượng công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí

của Đảng thời gian qua, Đại hội lần thứ XII Đảng ta chỉ rõ: “tham nhũng, lãng

phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp,

xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển

kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối

với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự

tồn vong của chế độ” [67, tr.196]. Trong quân đội, thực trạng “một số cán bộ

thiếu tu dưỡng, rèn luyện, học tập vươn lên, giảm sút ý chí, niềm tin vào sự

lãnh đạo của Đảng, làm việc cầm chừng, cơ hội thực dụng, thoái hóa biến

chất, gia trưởng độc đoán, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

kỷ luật của Quân đội” [136, tr.3] vẫn tồn tại, diễn biến phức tạp. Thực trạng

này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh công tác phòng, chống tham

nhũng, lãng phí ở cơ quan, đơn vị hậu cần, trực tiếp góp phần giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp

phần giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, lãnh

đạo, chỉ huy các cấp cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Trước hết, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần

phải nhận thức rõ đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, xác định quyết

tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đồng thời,

căn cứ và nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, xây dựng nghị quyết

của cấp ủy, kế hoạch, chương trình hành động của chỉ huy; tổ chức triển khai,

thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí nghiêm túc, chặt

chẽ trong cơ quan, đơn vị mình.

Cụ thể hóa Pháp lệnh, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong

sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ, công tác chỉ huy, và trong hoạt động thực hiện

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC; tăng cường tuyên truyền, phổ

biến về những chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí của Đảng và Nhà nước tới

toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng; xây dựng kế hoạch, chương trình, nội

dung, mục tiêu thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí về tài chính, tài sản, thời

gian, sức lao động cụ thể, rõ ràng để mỗi cán bộ, đảng viên, CBHC đăng ký

quyết tâm thực hiện. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp công khai, minh bạch trong

kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả việc thực hiện kế hoạch tiết kiệm, chống

lãng phí của các đối tượng; tổ chức tốt việc sơ, tổng kết, đánh giá, tìm nguyên

nhân, rút kinh nghiệm để khắc phục hạn chế, khuyết điểm.

148

Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chủ động rà soát, bổ sung, hoàn thiện

những quy định, quy chế, cơ chế phòng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm;

khắc phục, sửa đổi những chế tài còn chung chung trong xử lý tránh nhiệm

đối với đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị, đội ngũ CBHC trong việc

quyết định, phê duyệt chi tiêu ngân sách, đầu tư mua xắm vật chất, trang bị,

xây dựng cơ bản sai quy định dẫn đến gây lãng phí thất thoát, lãng phí. Xác

định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể, cá nhân trong quản

lý, sử dụng tài chính, cơ sở vật chất, trang bị hậu cần, quân trang, quân dụng;

trách nhiệm cá nhân người đứng đầu để xảy ra thất thoát, lãng phí tài sản của

Đảng, Nhà nước và quân đội.

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của lãnh đạo, chỉ huy,

cơ quan chức năng các cấp đối với các cá nhân CBHC, đơn vị hậu cần trong

thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; kết hợp việc thanh tra, kiểm tra, giám sát

của cấp ủy, chi huy, cơ quan chức năng, và giám sát của quần chúng, với đẩy

mạnh giáo dục, bồi dưỡng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính của đội ngũ CBHC

Quân đội. Duy trì, thực hiện nghiêm quy chế làm việc, nhất là những quy chế,

quy định trong hoạt động quản lý, sử dụng, bảo quản, cấp phát vật chất, tài

chính, phương tiện hậu cần; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm tính

công khai, minh bạch, tạo môi trường dân chủ, lành mạnh thuận lợi để đội ngũ

CBHC phát huy vai trò tự giác, tích cực, tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội.

Tăng cường hoạt động tự quản lý, tự giáo dục, rèn luyện, phát huy

vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ CBHC, đảng viên trong học tập,

chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,

chống lãng phí trong các cơ quan, đơn vị hậu cần. Kịp thời biểu dương,

khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc phát hiện, đấu

tranh với các hành vi tham nhũng, lãng phí. Chủ động phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan chức năng trong và ngoài quân đội kiên quyết xử lý và

kịp thời thay thế cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và CBHC có hành vi

tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chủ

động xây dựng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế điều kiện,

nguyên nhân dẫn đến hành vi tham nhũng, lãng phí của một số CBHC ở cơ

quan, đơn vị hậu cần quân đội hiện nay.

149

KẾT LUẬN

1. Đội ngũ CBHC là một bộ phận cán bộ quân đội, được giao nhiệm

vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các mặt hoạt động khác nhau của công tác

hậu cần. ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là hệ thống những quy tắc, chuẩn

mực về cách ứng xử của người CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và giải quyết

các mối quan hệ; là nền tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người CBHC nhận

thức đúng và thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần được giao. Giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội trong điều kiện hiện nay là yêu cầu

khách quan, cấp thiết, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, ĐĐCM của đội

ngũ CBHC, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.

2. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là tổng thể

các hoạt động có mục đích được tổ chức một cách khoa học của chủ thể và

sự luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC,

nhằm hình thành, phát triển những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi

CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp

phần nâng cao phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân

đội hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Hoạt động giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội được tiến hành với những nội cụ

thể; phương thức giáo dục, rèn luyện phong phú, đa dạng và sát với thực tiễn

chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm của đội ngũ CBHC. Qúa trình giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC cần quán triệt và thực hiện tốt những yêu

cầu cụ thể để nâng cao kết quả hoạt động.

3. Thực tiễn trong những năm qua QUTW, BQP, lãnh đạo, chỉ huy các

cấp trong quân đội luôn quan tâm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ

CBHC. Vì vậy, đại đa số CBHC luôn vững vàng về phẩm chất chính trị, ĐĐCM,

chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi

tình huống. Tuy nhiên hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC

vẫn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm, do đó vẫn có CBHC vi phạm kỷ luật,

quy định, và có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Thực trạng này xuất

phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó nguyên

nhân chủ quan giữ vai trò quyết định. Từ thực trạng ĐĐCM và giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm cụ thể,

150

thiết thực. Đây là cơ sở quan trọng để dự báo thuận lợi, khó khăn; xác định

phương hướng, và đề xuất giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của

đội ngũ CBHC Quân đội thời gian tới đạt chất lượng, hiệu quả cao.

4. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội thời gian tới, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị

hậu cần, cơ quan chức năng các cấp phải quán triệt tốt phương hướng, và thực

hiện đồng bộ các giải pháp về: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể và

các lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân

đội; xác định chuẩn mực ĐĐCM của từng loại CBHC Quân đội hiện nay; đổi

mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM, đẩy mạnh học

tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC

Quân đội; phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ CBHC

Quân đội trong tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM; và đẩy

mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,

ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ CBHC Quân đội hiện

nay. Những giải pháp trên là một chỉnh thể thống nhất, cần được quán triệt

thực hiện đồng bộ trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ

CBHC Quân đội thời gian tới.

5. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là trách

nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng, của các cấp, các ngành trong và ngoài

quân đội; phải kết hợp thực hiện nhiều nội dung, phương thức. Kết quả

nghiên cứu, đề xuất của luận án mới chỉ là bước đầu, chưa thể nghiên cứu

sâu sắc và giải quyết thấu đáo những vấn đề thực tiễn trong giáo dục, rèn

luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đặt ra. Trong khi đó, công cuộc

đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhiệm vụ xây dựng quân đội

theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặt ra yêu

cầu ngày càng cao về chất lượng công tác hậu cần quân đội, sẽ làm xuất hiện

những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, vấn đề giáo dục, rèn luyện

ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội cần được tiếp tục nghiên cứu, giải

quyết trong giai đoạn cách mạng mới.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đỗ Anh Vinh, (2016) “Đấu tranh phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống ở tổ chức đảng các cấp trong Quân đội hiện nay theo tinh thần Nghị

quyết Đại hội XII của Đảng, Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày 03 tháng 8.

2. Đỗ Anh Vinh (2017), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng chính trị

của học viên đào tạo cán bộ Hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần”, Tạp chí

Nghiên cứu khoa học Hậu cần Quân sự, số 4 (186), tr. 97-100.

3. Đỗ Anh Vinh (2017), “Nâng cao hiệu quả công tác cán bộ tại cơ sở theo

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận Chính

trị, số 9 (34), tr.91-94.

4. Đỗ Anh Vinh (2018), “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ Hậu

cần Quân đội theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Quân

sự, (số 3), tr.12-16.

5. Đỗ Anh Vinh, (2018), “Đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu

khoa học Hậu cần Quân sự, số 2 (190), tr.86-89.

6. Đỗ Anh Vinh (2018), “Một số nội dung xây dựng Đảng về đạo đức

trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, tr.35-37.

7. Đỗ Anh Vinh (2018), “Đạo đức cách mạng của người cán bộ làm

công tác hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Tạp chí Thông tin

khoa học Lý luận Chính trị, số 4 (41), tr.83-87.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Vân Anh (2016), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh

viên các trường đại học, cao đẳng trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. A.X. Milôvidốp (1979), “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa và nghĩa vụ của

quân nhân”, Nxb Quân sự - Bộ Quốc phòng Liên Xô do Thư viện Quân đội

lược dịch, Hà Nội, 1981.

3. Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến

nhân cách người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,

Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2004.

4. Ban Bí thư Trung ương (2003), Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27-3-2003,

“Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh

trong giai đoạn mới”, Hà Nội.

5. Ban Bí thư Trung ương (2012), số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012, “Quy

định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh

đạo chủ chốt các cấp”, Hà Nội.

6. Ban Bí thư Trung ương (2017), số 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017, “Quy

định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”, Hà Nội.

7. Ban Bí thư Trung ương (2018), số 115-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “Quy

định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở đơn vị quản lý cơ sở

vật chất, kỹ thuật, tài chính trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Hà Nội.

8. Ban Bí thư Trung ương (2018), số 116-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “Quy

định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở học viện, nhà

trường trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Hà Nội.

9. Ban Chấp hành Trung ương (2018), số 01-QĐ/TW ngày 10-5-2018,

“Quy định trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác

phòng, chống tham nhũng”, Hà Nội.

10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2015), Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu

cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành

của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, Nxb Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội.

153

11. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), Xây dựng phong cách, tác phong

công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), Giáo dục đào tạo cách mạng

trong thời kỳ mới (chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho cán bộ, đảng

viên và nhân dân), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện

về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Hoàng Chí Bảo (2013), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia Sự thật, Hà Nội.

16. Hoàng Chí Bảo (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức”, Báo Nhân

dân điện tử, ngày 14 tháng 2.

17. Bộ Chính trị (2006), Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07-11-2006, “Về tổ chức

cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

18. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011, “Về tiếp tục

đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

19. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016, “Đẩy mạnh

học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

20. Bộ Chính trị (2017), Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về

“Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ

lãnh đạo, quản lý các cấp”, Hà Nội.

21. Bộ Quốc phòng (2008), Ban chỉ đạo cuộc vận động, “Học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Số 52 - BC/BCĐ, “Báo cáo kết quả 1 năm

thực hiện cuộc vận động”, Hà Nội.

22. Bộ Quốc phòng (2010), Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân

Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

154

23. Bộ Quốc phòng, Ban chỉ đạo phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội

làm theo lời Bác Hồ dạy” (2012), số 448-BC/BCĐ, về “Kết quả phong trào thi đua

Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy 6 tháng đầu năm 2012”, Hà Nội.

24. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần, số 286 (07-4-2014), “Báo cáo tình hình

thực lực đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành Chỉ huy Tham mưu Hậu cần”, Hà Nội.

25. Bộ Quốc phòng, Ban chỉ đạo phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội

làm theo lời Bác Hồ dạy” (2015), Báo cáo sơ kết 5 năm lần thứ tư phong trào thi đua

“Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” giai đoạn 2010-2015, Hà Nội.

26. Bunma KếtKêson (2003), Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ

lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào, Luận án

Tiến sĩ xây dựng Đảng, Hà Nội.

27. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Hà Nguyên Cát (2000), Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán

bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học

viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội.

31. Nguyễn Hồng Châu (2010), Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở cơ

quan quân sự tỉnh (thành phố) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,

đề tài khoa học cấp ngành, Học viện Hậu cần, Hà Nội.

32. Nguyễn Hữu Chính (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức trọng tâm

lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức, xây dựng con người của Đảng bộ Tổng

cục Kỹ thuật”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).

33. Trần Như Chủ (2002), Phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ

Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử và lô gíc, Luận án Tiến sĩ

Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.

34. Hoàng Đình Cúc (2013), Đạo đức nghề báo - Những vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

35. Đinh Phú Cường (2004), Phát triển đạo đức cách mạng của học viên

đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay,

Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.

36. Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Hùng Oanh (2011), Giáo trình đạo đức

học Mác - Lênin (Dùng cho đào tạo cán bộ quân đội, bậc đại học), Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

37. Nguyễn Bá Dương (2016), Phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

38. Đảng bộ Quân khu 3 (2015), số 69-NQ/ĐH, Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ Quân khu lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

39. Đảng bộ Cục Hậu cần Binh chủng Công binh (2015), Nghị quyết Đại

hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

40. Đảng bộ Cục Hậu cần Binh chủng Thông tin liên lạc (2015), Nghị

quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

41. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân chủng Phòng không-Không quân (2015),

Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

42. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân chủng Hải quân (2015), Nghị quyết Đại

hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

43. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu

đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

44. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 2 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu

đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

45. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 (2017), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị

quyết Trung ương 3 Khóa VIII về “chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong Đảng bộ Cục Hậu cần. Lưu hành nội bộ.

46. Đảng bộ Phòng Hậu cần Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1 (2015), Nghị quyết

Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

47. Đảng bộ Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 - Quân khu 1 (2015), Nghị quyết

Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

156

48. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nam Định (2015),

Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

49. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (2015),

Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

50. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự thành phố Bắc Giang (2015),

Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

51. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng (2015),

Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

52. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Vùng 1 Quân chủng Hải quân (2015), Nghị

quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

53. Đảng bộ Tổng cục Hậu cần (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ

Tổng cục Hậu cần lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ V, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

57. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

58. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

59. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

157

62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Văn Phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Tài liệu học tập các văn kiện hội nghị lần thứ

tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

71. Đảng ủy Cục Hậu cần Quân khu 3 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng

bộ Cục Hậu cần lần thứ IX, nhiệm kỳ 2015-2020, số 01-NQ/ĐU, Lưu hành nội bộ.

72. Đảng ủy Học viện Hậu cần (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện

Hậu cần lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.

73. Đảng ủy Quân đoàn 2 (2017), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết

Trung ương 3 Khóa VIII về “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước” trong Đảng bộ Quân đoàn . Lưu hành nội bộ.

74. Đảng uỷ Quân đoàn 1, (2015), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành

Đảng bộ (Khóa VIII) tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn lần thứ IX,

nhiệm kỳ 2015-2020. Lưu hành nội bộ.

75. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2006), Báo cáo chính trị Đảng ủy quân

sự Trung ương tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VIII, Hà Nội.

158

76. Đảng ủy Quân khu 3, (2010), số 10-BC/BCĐ, Báo cáo Tổng kết năm

2010 và 4 năm (2007-2010) cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”, Lưu hành nội bộ.

77. Vũ Đình Đắc, Nguyễn Văn Phương (2017), “Một số giải pháp ngăn chặn,

đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng

viên hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (2).

78. Đặng Nam Điền (2004), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán

bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, Luận án tiến sĩ

xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Đặng Nam Điền, Nguyễn Văn Giới, (2017), “Một số giải pháp xây dựng

Đảng về đạo đức trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12).

80. Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp (1977), Thế nào là quân nhân có đạo đức, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội 1982.

81. Nguyễn Văn Giang (2018), “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về

đạo đức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1).

82. Ngô Lương Hanh (2009), “Một số biện pháp chủ yếu nâng cao đạo đức

cách mạng cho cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu khoa

học hậu cần quân sự, (24).

83. Vũ Văn Hiền (2017), “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên”, Tạp

chí Xây dựng Đảng, (11), tr.25-28.

84. Trần Viết Hoàn (2017), Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình đạo đức

học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam

(2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

87. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm

của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

159

88. Hội đồng lý luận Trung ương (2013), Xây dựng Đảng trong sạch, vững

mạnh trong tình hình mới - kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

89. Hội đồng lý luận Trung ương (2012), Làm tốt công tác quần chúng

trong tình hình mới - kinh nghiệm Trung quốc, kinh nghiệm Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Đoàn Minh Huấn (2018), “Giáo dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách

mạng cho đảng viên - một nội dung quan trọng của xây dựng Đảng về đạo

đức”, Tạp chí Cộng sản, (904).

91. Bùi Nam Hưng (2016), Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của

đội ngũ cán bộ Hậu cần ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố giai đoạn hiện

nay, Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện

Chính trị, Hà Nội.

92. Khămphăn Vông-pha-chăn (31-5-2013) “Rèn luyện đạo đức cán bộ lãnh

đạo ở Lào trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử.

93. La Quốc Kiệt, (2003), Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Tô Lâm (2017), Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người

công an cách mệnh của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

95. Tô Lâm (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận

và thực tiễn (xuất bản lần thứ 2 - 2018), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Nhị Lê (2017) “Mấy vấn đề cơ bản và tiên quyết xây dựng Đảng về đạo

đức, bảo đảm nâng cao sức mạnh, uy tín và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện

nay”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở, (122 + 123).

97. Nhiệm Khắc Lễ (1995), Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Đặng Sỹ Lộc (2011), Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư

tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội , Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

160

99. Trường Lưu (13-12-2017) “Công tac xây dưng Đang cua Đang Công

san Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản Điện tử.

100. Nguyễn Văn Lý (2013), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền

thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội.

101. Mẫn Văn Mai (chủ biên, 2001), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ

cán bộ cấp phân đội quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

102. Vương Mê - Hà Ý (2004), “Chiến lược hậu cần của quân đội Đài loan”

Tạp chí Trung Quốc “Tri thức binh khí”, Thông tin khoa học quân sự, Hậu

cần quân đội nước ngoài, (8), Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

116. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh (2011), Đảng ta là đạo đức, là văn

minh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

119. Chương Tử Nghị (1987), Giáo trình Công tác Chính trị (Dùng trong các

Học viện, Nhà trường trong thời kỳ mới), Nxb Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh.

161

120. Lê Hữu Nghĩa (2017), “Xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan

hiên nay”, Tạp chí Cộng sản, (897).

121. Nguyễn Trọng Nghĩa (2017), “Nâng cao chất lượng xây dựng Đảng bộ Quân

đội về đạo đức trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở (133).

122. Trần Quang Nhiếp, Nguyễn Văn Sáu (2017), Hồ Chí Minh - Giá trị về

tư tưởng và đạo đức, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

123. Phạm Văn Nhuận (chủ biên, 2007), Chuẩn mực đạo đức quân nhân

của quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

124. Nguyễn Hùng Oanh (2002), Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh

niên quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay, Luận án tiến sĩ

Triết học, Học viện Chính trị - quân sự, Hà Nội.

125. Nguyễn Quang Phát (Chủ biên, 2006), Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về

đức - tài trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

126. Bùi Đình Phong (2017), Văn hóa đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

127. Phùng Hữu Phú (2017) “Xây dưng Đang vê đao đưc theo đinh hương

Văn kiên Đại hôi XII cua Đang”, Tạp chí Cộng sản, (898), tr.24-27.

128. Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (2012), Những giải pháp và điều kiện

thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong

cán bộ, đảng viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

129. Vu Văn Phuc (2016) “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị,

đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là một yêu cầu bức thiết hiện nay”,

Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 08 tháng 7.

130. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, Chính trị

quốc gia sự thật, Hà Nội.

131. P.I. Các-pen-cô, (1981), Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng

vũ trang xô-viết, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

162

132. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (2014), Thông báo số

62/TB-CT ngày 9-01-2015 về “Kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh - Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng

danh Bộ đội Cụ Hồ” năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ năm 2015”, Hà Nội.

133. Quân đội nhân dân Việt Nam (2015), Tài liệu nghiên cứu, học tập,

quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, nhiệm

kỳ 2015-2020, Hà nội.

134. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (2016), Quy chế giáo

dục chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân tự vệ Việt Nam,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

135. Quân ủy Trung ương (2012), Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 “về

nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”, Hà Nội.

136. Quân ủy Trung ương (2012), Nghị quyết số 769-NQ/QUTW ngày 21-

12-2012, Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013-2020 và

những năm tiếp theo, Hà Nội.

137. Quân ủy Trung ương (2016), Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 08-7-2016

của Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo

đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

138. Quân ủy Trung ương, (2015), Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương

tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Hà Nội. Lưu hành nội bộ.

139. Tạ Ngọc Tấn (2017) “Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay”,

Tạp chí Cộng sản, số (896), tr.28-32.

140. Nguyễn Viết Thông (2016), “Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng

chính trị” Báo Nhân dân điện tử, ngày 01 tháng 12.

141. Cao Văn Thống, Trần Duy Hưng (2017) “Ngăn chặn, đẩy lùi những

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tổ chức và của cán bộ, đảng

viên”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20 tháng 2.

142. Nguyễn Vĩnh Thắng (2001), Người cán bộ Hậu cần trong giai đoạn

cách mạng mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

163

143. Tổng cục Chính trị, (2005), Tài liệu học tập, quán triệt Nghị quyết

51 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Quân

đội nhân dân, Lưu hành nội bộ.

144. Tổng cục Chính trị (2008), Giáo trình công tác đảng, công tác chính

trị, Tập 2, 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

145. Tổng cục Chính trị (2010), Tài liệu học tập, quán triệt Nghị quyết

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nhiệm kỳ 2015-2020, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

146. Tổng cục Hậu cần (1999), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt

Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

147. Tổng cục Hậu cần (2000), 50 năm Ngành Hậu cần xây dựng và hoạt

động theo tư tưởng Hồ Chí Minh kinh nghiệm và phương hướng phát triển,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

148. Nguyễn Phú Trọng (2017), “Xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch,

vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, Tạp chí Cộng sản (891).

149. Nguyễn Minh Tuấn (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức cần gắn chặt với

xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức”, Tạp chí Cộng sản, (895), tr.27-32.

150. Đỗ Xuân Tuất (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo

dục đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006,

Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

151. Trần Thị Minh Tuyết (2017), “Vân dung tư tương Hô Chi Minh vê

cần, kiệm, liêm, chính vào xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan hiên

nay”, Tạp chí Cộng sản, (898), tr.28-33.

152. Nguyễn Đức Tưởng (2015), Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở các sư

đoàn bộ binh đủ quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án Tiến sĩ xây

dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị, Hà Nội.

153. Vikton Litovkin (2009), “Về cải cách hậu cần quân đội Liên Bang Nga”

Thông tin khoa học quân sự, hậu cần quân đội nước ngoài, (29), Hà Nội.

164

154. Huỳnh Khánh Vinh (chủ biên, 2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo

đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

155. Phạm Văn Vinh (2005), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ

chủ trì ở đơn vị cơ sở binh chủng hợp thành Quan đội nhân dân Việt Nam, Luận

án tiến sỹ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.

156. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

157. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

158. V.I. Lênin (1971), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

159. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

160. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

161. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

162. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

163. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

164. Dương Trung Ý (2017), “Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên, chống chủ

nghĩa cá nhân, bè phái, “lợi ích nhóm”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở, (122).

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BẰNG PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra (chọn mẫu) của 1000 cán bộ Hậu cần

thuộc Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Binh

chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3; và 1000 học viên đào tạo cán bộ Hậu cần

các cấp tại Học viện Hậu cần. Thời gian: Tháng 10 -11 năm 2017)

2. Ý kiến đánh giá về vai trò của giáo dục, rèn

luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu

cần Quân đội

Quan trọng Không quan

trọng

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

- Góp phần giữ vững và tăng cường những giá trị đạo

đức cao quý của dân tộc, Đảng, Bác Hồ trong Quân

đội hiện nay

1833 91,65 167 8,35

- Là cơ sở hoàn thiện đạo đức cách mạng, phẩm chất

nhân cách của đội ngũ cán bộ Hậu cần, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong tình hình mới

1884 94,2 116 5,8

- Là điều kiện quan trọng để chủ động ngăn ngừa sự

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở

một bộ phận cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay

1762 88,1 238 11,9

- Trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng chính trị,

sức mạnh chiến đấu của quân đội 1853 92,65 147 7,35

1. Ý kiến đánh giá về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ Hậu cần

trong quân đội hiện nay

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

- Là nhân tố then chốt trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ hậu cần 1867 93,35

- Là lực lượng nòng cốt trong xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững

mạnh toàn diện 1472 73,6

- Là tấm gương mẫu mực trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng đối với bộ đội ở cơ quan, đơn vị hậu cần 1232 61,6

- Là lực lượng góp phần xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng,

chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại 1256 62,8

3. Ý kiến đánh giá về những phẩm chất quan trọng đối với

người cán bộ Hậu cần

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

- Trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân 2000 100

- Cần, kiệm, liêm chính, tự lực, tự cường 2000 100

- Sống trong sạch lành mạnh 1763 88,15

- Khắc phục khó khăn, hết lòng phục vụ bộ đội 1877 93,85

- Có ý thức tổ chức kỷ luật cao 1850 92,5

- Ham học hỏi, cầu tiến bộ 1436 71,8

- Có tinh thần đoàn kết nội bộ, gắn bó mật thiết với nhân dân 1562 78,1

- Có tác phong làm việc khoa học, chân thành, gần gũi đồng chí, dân chủ 1207 60,35

- Có tinh thần đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, tiêu cực 1348 67,4

166

7. Ý kiến đánh giá về một số biểu hiện trong quá trình công

tác của cán bộ Hậu cần Ý kiến

Tỷ lệ

(%)

- Tham nhũng, lãng phí 167 8,35

- Quan liêu, quân phiệt 152 7,6

- Cục bộ, mất đoàn kết 73 3,65

- Chạy chức, chạy quân hàm 129 6,45

- Vun vén cá nhân, cơ hội thực dụng 243 12,15

- Quan hệ bất chính 17 0,85

- Rượu chè, cờ bạc 374 18,7

- Mê tín dị đoan 15 0,75

- Năng lực công tác hạn chế, chưa đáp ứng nhiệm vụ 36 1,8

- Bảo thủ, lười học tập và rèn luyện 354 17,7

4. Ý kiến đánh giá về chất lượng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay

Nội dung đánh giá

Mức đánh giá

Tốt

(%)

Khá

(%)

TB

(%)

Yếu

(%)

Khó trả lời

(%)

- Bản lĩnh chính trị 80,3 13,4 6,05 0,15 0,1

- Đạo đức, lối sống 23,75 56,75 7,65 6,35 5,5

- Năng lực công tác 9,25 68,35 18,6 1,25 2,55

- Chấp hành kỷ luật 84,55 10,65 3,6 1,2

- Phương pháp tác phong 9,35 71,15 10,75 4,2 4,55

- Mức độ hoàn thành nhiệm vụ 10,6 65,95 15,85 4,15 3,45

5. Ý kiến đánh giá về mức độ tin tưởng của cán bộ Hậu cần vào

sự nghiệp cách mạng của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

- Tin tưởng vào đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng 1993 99,65

- Tin tưởng vào mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH 1981 99,05

- Tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam 1876 93,8

- Tin tưởng nhưng còn nhiều băn khoăn 316 15,8

- Không tin tưởng

- Khó trả lời 23 1,15

6. Ý kiến đánh giá về cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta hiện nay

Số ý

kiến

Tỷ lệ

(%)

- Sẽ thực hiện thành công 312 15,6

- Có, nhưng rất khó khăn 1382 69,1

- Khó thực hiện 215 10,75

- Không thực hiện được 20 1

- Khó trả lời 71 3,55

167

9. Ý kiến về nguyện vọng của cán bộ Hậu cần hiện nay Số ý kiến Tỷ lệ

(%)

- Phục vụ lâu dài trong quân đội 1961 98,05

- Tiếp tục được đi đào tạo, phát triển lên vị trí cao hơn 831 41,55

- Ổn định công tác, không phải học thêm 573 28,65

- Được chuyển ngành công tác 52 2,6

- Được chuyển vùng công tác 293 14,65

- Được phục viên 18 0,9

- Nguyện vọng khác 3 0,15

10. Ý kiến đánh giá về nguyên nhân của những hạn chế

trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ

cán bộ Hậu cần Quân đội

Số ý kiến Tỷ lệ

(%)

- Do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường 1764 88,2

- Do sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch 379 18,95

- Do chính sách đối với cán bộ có nội dung chưa hợp lý 257 12,85

- Do sự tác động của những tệ nạn ngoài xã hội xâm nhập vào đơn vị 382 19,1

- Do công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức đảng, tổ

chức chỉ huy đối với cán bộ Hậu cần chưa tốt 581 29,05

- Do công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của các

cấp chưa được quan tâm 478 23,9

- Do môi trường ở đơn vị cơ sở có nơi chưa lành mạnh 237 11,85

- Do cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa gương mẫu trong việc tự

giáo dục, rèn luyện đạo đức 326 16,3

- Do bản thân một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức 1285 64,25

- Một số cán bộ Hậu cần sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ

bởi các lợi ích vật chất 1167 58,35

8. Ý kiến đánh giá về các mối quan hệ

của cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay

Mức đánh giá

Tốt

(%)

Khá

(%)

Bình

thường

(%)

Khôn

g tốt

(%)

Khó

trả

lời

(%)

- Quan hệ giữa CNHC với phó CNHC 26,55 43,75 25,6 3,7 0,4

- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với cán bộ khác 66,25 28,15 4,7 0,65 0,25

- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với HSQ, chiến

sĩ 17,25 28,2 21,15 25,85 7,55

- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với nhân dân

trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần 29,2 43,6 22,9 3,05 1,25

168

11. Ý kiến đánh giá về tầm quan trọng của việc thực hiện

Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về: “Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

Số ý kiến Tỷ lệ

(%)

- Là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng 1988 99,4

- Góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,

tư tưởng, tổ chức và đạo đức 1992 99,6

- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp

chiến lược có đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ 1831 91,55

- Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh

đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

1859 92,95

12. Ý kiến đánh giá về việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị

về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh” ở cơ quan, đơn vị hậu cần như thế nào

Số ý kiến

(%)

Không

(%)

- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng 83,2 16,8

- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của người đứng

đầu, của cán bộ, đảng viên 28,7 71,3

- Được cụ thể hóa vào chương trình, kế hoạch hành động của

cấp uỷ và người chỉ huy 89,3 10,7

- Gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước,

với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị 89,7 10,3

- Được xem như một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình

xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm 52,95 47,05

- Người đứng đầu, cán bộ, đảng viên có đề cao trách nhiệm

nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước trong học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 88,15 11,85

- Cấp ủy, người chỉ huy thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 71,9 28,1

- Góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham

nhũng, lãng phí ở cơ quan, đơn vị hậu cần 92,9 7,1

- Góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay 88,2 11,8

13. Ý kiến đánh giá về việc thực hiện nghi quyêt Trung ương 4

khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường

xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần

Số ý kiến

(%)

Không

(%)

- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng 55,85 44,15

- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của người đứng

đầu, của cán bộ, đảng viên 61,7 38,3

- Được cụ thể hóa vào chương trình, kế hoạch hành động của

cấp uỷ và người chỉ huy 94,85 5,15

- Gắn việc thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với các cuộc

vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị tại đơn vị

83,45 16,55

169

- Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Trung

ương 4 khóa XII được xem như một trong những tiêu chuẩn

đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm

56,15 43,85

- Người đứng đầu, cán bộ, đảng viên có đề cao trách nhiệm

nêu gương, tự giác tự phê bình và phê bình đấu tranh phòng,

chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

58,65 41,35

- Cấp ủy, người chỉ huy có thường xuyên kiểm tra, đôn đốc

thực hiện cam kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa

XII của mỗi cán bộ, đảng viên ở cơ quan, phân đội hậu cần

71,45 28,55

- Góp phần ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ 94,4 5,6

- Góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

lãng phí, quan liêu ở cơ quan, đơn vị hậu cần 93,9 6,1

- Góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay 99,8 0,2

14. Ý kiến đánh giá về công tác quản lý của người chỉ huy

đơn vị trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của

đội ngũ cán bộ Hậu cần

Số ý kiến

(%)

Không

(%)

- Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ Hậu cần 92,5 7,5

- Quan tâm sâu sát trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng 78,45 21,55

- Định hướng sự phấn đấu cho cán bộ Hậu cần 93 7

- Phó mặc để đội ngũ cán bộ Hậu cần tự giáo dục, rèn luyện 19 81

- Thường xuyên kiểm tra uốn nắn những sai phạm của cán bộ Hậu cần 66 34

- Duy trì nghiêm kỷ luật ở đơn vị 65,5 34,5

- Thiếu kiểm tra đôn đốc 12,8 87,2

15. Ý kiến đánh giá về việc cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức

năng các cấp tổ chức thực hiện công tác giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần hiện nay

Số ý kiến

(%)

Không

(%)

- Xác định rõ mục đích, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 95,5 4,5

- Xây dựng cụ thể chương trình, kế hoạch giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 94 6

- Tổ chức thực hiện đúng kế hoạch giáo dục, rèn luyện đạo đức

cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 89,5 10,5

- Có sự phối hợp giữa các tổ chức, lực lượng trong giáo dục,

rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 78,1 21,9

- Bảo đảm tốt các điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực trong giáo

dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 87,5 12,5

- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động trong giáo

dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 91,5 8,5

- Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác giáo dục, rèn

luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội 67 33

- Khó đánh giá

170

16. Ý kiến đánh giá về nội dung, hình thức giáo dục, rèn luyện đạo

đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay Số ý kiến

Tỷ lệ

(%)

- Nội dung toàn diện, thiết thực, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ 1620 81

- Nội dung còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa sát đối tượng 320 16

- Nội dung nghèo nàn, đơn điệu, lạc hậu 60 3

- Hình thức phong phú, đa dạng, gắn với thực hiện các cuộc

vận động và các phong trào thi đua 1647 82,35

- Hình thức nghèo nàn, xơ cứng 323 16,15

- Hình thức không phù hợp 10 0,5

- Khó đánh giá 20 1

17. Ý kiến đánh giá về môi trường văn hoá đạo đức ở cơ

quan, đơn vị hậu cần hiện nay Số ý kiến

Tỷ lệ

(%)

- Mối quan hệ trong đơn vị lành mạnh 1820 91

- Các tổ chức (đảng, đoàn, hội đồng quân nhân) vững mạnh 1450 72,5

- Kỷ luật quân đội được duy trì nghiêm minh 1480 74

- Dân chủ ở cơ sở được phát huy 1537 76,85

- Dư luận trong tập thể quân nhân tích cực 1404 70,2

- Khó đánh giá 80 4

18. Ý kiến lựa chọn giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

thời gian tới

Số ý kiến Tỷ lệ

(%)

- Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ

chức, các lực lượng trong đơn vị đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện

đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội

1721 86,05

- Xác định chuẩn mực đạo đức cách mạng với từng loại cán bộ

Hậu cần Quân đội hiện nay 1865 93,25

- Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội, coi trọng giáo dục,

rèn luyện đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

1720 86

- Tăng cường tự rèn luyện đạo đức cách mạng, phấn đấu của cán

bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay 1752 87,6

- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

trong đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay

1290 64,5

- Tăng cường giáo dục Pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội;

đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở cơ

quan, đơn vị hậu cần, nhằm giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo

đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay

1486 74,3

- Đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hoá đạo đức tại đơn vị cơ sở 1134 56,7

- Đổi mới chính sách đối với cán bộ Hậu cần 926 46,3

171

Phụ lục 2

SỐ LƯỢNG CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI THEO NGÀNH HIỆN NAY

Ngành

Hiện có

so với nhu cầu

(%)

Thừa theo chức

danh so với nhu cầu

(%)

Thiếu theo chức

danh so với nhu cầu

(%)

Tham mưu hậu cần 96 7 10

Quân nhu 98,05 8,29 10,22

Vận tải 85,79 2,62 16,83

Xăng dầu 94,85 6,5 11,6

Doanh trại 106 14,7 9

Trung bình 91,13 7,8 11,53

(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần -

Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)

172

Phụ lục 3

CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

3.1. Cấp bậc quân hàm

Ngành Cấp tướng

(%)

Đại tá

(%)

Thượng tá

(%)

Trung tá

(%)

Thiếu tá

(%)

Cấp úy

(%)

QNCN

(%)

CCQP

(%)

TM hậu cần 0,14 5,61 11,14 39,73 16,13 33,25 3,97

Quân nhu 0,09 3,96 6,92 18,70 9,62 54,14 6,38 0,18

Vận tải 0,072 1,96 3,41 9,01 7,12 52,76 25,65

Xăng dầu 0,11 4,53 6,96 15,92 8,84 57,52 5,75

Doanh trại 3,65 5,66 14,11 12,45 60,97 2,7 0,43

Trung bình 0,08 3,94 6,81 19,49 10,83 51,72 8,89 0,12

(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)

3.2. Qua trường

(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)

Ngành Đào tạo dài hạn % Đào tạo ngắn hạn % Trường khác % Chưa được đào tạo %

TM hậu cần 78,2 21,79

Quân nhu 88,76 11,24

Vận tải 79 21

Xăng dầu 89,5 9,2 1,3

Doanh trại 93,5 6,9

Trung bình 85,79 14,02 0,26

173

3.3. Trình độ học vấn

Ngành Sau đại học (%) Đại học (%) Cao đẳng (%) Trung cấp (%) Trung học phổ

thông (%)

TM hậu cần 1,08 78,3 19,91 0,69

Quân nhu 1,26 83,63 12,23 2,78

Vận tải 0,22 57,85 20,93 21

Xăng dầu 2,2 78,6 15,7 3,5

Doanh trại 6,7 85,1 8,1 0,5

Trung bình 2,29 76,69 15,37 0,65 5,03

(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)

3.4. Nội dung khác

Ngành Đảng viên (%) Cán bộ nữ (%) Dân tộc ít người (%)

Đã qua chiến đấu và

phục vụ chiến đấu

(%)

TM hậu cần 100 1,08 1,75

Quân nhu 99,82 0,54 0,45 2,61

Vận tải 100 0,43 0,79

Xăng dầu 99,88 0,1 0,3 1,1

Doanh trại 97,56 0,78 0,5 0,87

Trung bình 99,45 0,28 0,55 1,46

(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)

174

Phụ lục 4

KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ HẬU CẦN (2011-2016)

Chức vụ

Năm 2011 (%) Năm 2012 (%) Năm 2013 (%) Năm 2014 (%) Năm 2015 (%) Năm 2016 (%) Đ

ảng v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Đản

g v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Đản

g v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Đản

g v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Đản

g v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Đản

g v

iên H

TX

SN

V

Đản

g v

iên H

TT

NV

Đản

g v

iên H

TN

V

Đản

g v

iên k

hông H

TN

V

Cục trưởng, phó

cục trưởng cục

hậu cần

9,37 87,5 3,12 12,5 87,5 12,5 84,3 3,12 9,37 78,1 6,25 3,12 15,6 78,1 6,25 9,09 84,8 6,06

Chủ nhiệm, phó

chủ nhiệm hậu cần

và tương đương

12,5 69,4 18,1 14,3 66,3 19,4 9,4 75,6 13,8 1,2 14,4 73,8 11,8 13,7 74,3 12 0,6 15 68,2 16,8

Trưởng ban, phó

trưởng ban hậu cần

và tương đương

14,9 68,5 16,3 0,27 14,6 67,2 18,2 14,4 68,3 16,5 0,8 15,2 66,1 18,7 14,9 66,2 18,4 0,5 14,6 65,6 19,5 0,3

Trợ lý hậu cần

các ngành 15 66,4 18,2 0,4 14,6 67,6 17 0,8 14,4 66,8 18,4 0,4 15 73,4 11,4 0,2 14,9 71,7 12,9 0,5 14,6 67,8 16,8 0,8

Trung bình 12,9 72,9 13,9 0,33 14 72,1 18,2 0,8 12,6 73,7 12,9 0,8 13,4 72,8 12 1,6 14,7 72.5 12,3 0,5 13,3 71,6 14,7 0,55

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,

Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)

175

Phụ lục 5

TỔNG HỢP KẾT QUẢ KIỂM TRA CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC

CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN (2005 - 2017)

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,

Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)

Chức vụ

Năm

2005 – 2010 2011 - 2017

Giỏi (%) Khá (%) TB (%) KĐ (%) Giỏi (%) Khá (%) TB (%) KĐ (%)

Cục trưởng, phó cục trưởng

cục hậu cần 56,25 43,75 60,00 40,00

Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm

hậu cần và tương đương 43,75 52,50 0,375 42,50 50,25 7,25

Trưởng ban, phó trưởng ban

hậu cần và tương đương 35,58 62,95 1,47 34,34 60,10 5,54

Trợ lý hậu cần các ngành 31,20 55,87 12,50 0,43 29,49 58,66 11,60 0,32

Trung bình 41,69 53,76 4,78 0,43 41,58 52,25 8,13 0,32

176

Phụ lục 6

TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN (2005 - 2017)

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,

Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)

Chức vụ

Năm 2005 - 2017

Khen thưởng (%) Kỷ luật (%)

Ch

iến

thi

đu

a

Bằn

g k

hen

Giấ

y k

hen

Ch

iến

tiến

tiế

n

+

Khiể

n t

rách

Cản

h c

áo

Giá

ng

ch

ức

Các

h c

hứ

c

Giá

ng

cấp

bậc

quân

hàm

ớc

qu

ân h

àm

sĩ q

uan

tướ

c dan

h h

iệu

quân

nhân

Cục trưởng, phó cục trưởng cục

hậu cần 0,17 0,13 0,07 0,28 0,65

Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu

cần và tương đương 1,53 0,8 0,97 2,62 5,92 0,02

Trưởng ban, phó trưởng ban

hậu cần và tương đương 0,96 0,42 0,89 2,22 4,49 0,02

Trợ lý hậu cần các ngành 14 6,66 12,62 46,47 79,75 0,23 0,1

+ 16,66 8,01 14,55 51,59

177

Phụ lục 7

KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA HỌC VIÊN

ĐÀO TẠO CÁN BỘ HẬU CẦN CÁC CẤP TẠI HỌC VIỆN HẬU CẦN (2005-2017)

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp thống kê kết quả thi kết thúc môn Đạo đức học và tư tưởng Hồ Chí Minh

của các đối tượng tại Học viện Hậu cần, tháng 12 năm 2017)

Môn

Học viên đào tạo CBHC

phân đội

Học viên đào tạo CBHC

cấp trung, sư đoàn

Học viên đào tạo hoàn

thiện CBHC cấp trung,

sư đoàn

Đào tạo hoàn thiện

CBHC cấp phân đội

G

%

K

%

Đ

%

%

G

%

K

%

Đ

%

%

G

%

K

%

Đ

%

%

G

%

K

%

Đ

%

%

Đạo đức học 15,7 67,3 17 0 17,1 71,2 11,7 0 20,3 75,5 4,2 0 11,3 72 16,7 0

TT. HCM 21,1 73,5 5,4 0 18 76,3 5,7 0 17,8 74,6 7,6 0 20,8 71,55 7,65 0

178

Phụ lục 8

KẾT QUẢ KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN (LÀ CÁN BỘ HẬU CẦN) KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM

CỦA ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP THUỘC ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ (2011-2017)

Th

ời

gia

n

Tổng s

ố đ

ảng v

iên

đư

ợc

kiể

m tra

(%

) Cấp kiểm

tra Nội dung kiểm tra Kết luận

Uỷ b

an k

iểm

tra

Đản

g

ủy c

ấp trê

n c

ơ s

ở (

%)

Uỷ

ban

kiể

m t

ra đ

ảng

ủy

sở

(%

)

Ng

uy

ên t

ăc t

ập t

run

g

dân

ch

ủ (

%)

Ch

ấp h

ành

ng

hị

qu

yết

chỉ

thị

của

Đản

g (

%)

Đo

àn k

ết n

ội

bộ

(%

)

Thự

c hiệ

n c

hứ

c tr

ách,

nhiệ

m v

ụ đ

ược

gia

o (

%)

Nh

ữn

g đ

iều

đản

g v

iên

kh

ôn

g đ

ượ

c là

m (

%)

Qu

ân p

hiệ

t (%

)

Th

am n

ng

,

lãng p

(%)

Ch

ấp h

ành

kỷ

lu

ật v

à

ph

áp l

uật

(%

)

Ph

ẩm c

hất

đạo

đứ

c,

lối

sống (

%)

Các

nộ

i d

un

g k

hác

(%

)

Cộng (

%)

Tổ

ng

số

vi

ph

ạm

(%)

Ph

ải t

hi

hàn

h k

ỷ l

uật

(%)

Đã

thi

hàn

h k

ỷ l

uật

(%

)

2011 0,82 0,16 0,66 0,11 0,15 0,23 0,05 0,05 0,11 0,12 0,50 0,45 0,45

2012 0,90 0,18 0,72 0,12 0,15 0,11 0,16 0,11 0,02 0,12 0,11 0,61 0,52 0,52

2013 0,72 0,11 0,61 0,11 0,23 0,11 0,11 0,16 0,59 0,41 0,41

2014 0,58 0,16 0,42 0,05 0,11 0,05 0,16 0,16 0,05 0,5 0,39 0,39

2015 0,73 0,15 0,58 0,05 0,1 0,15 0,1 0,05 0,21 0,05 0,58 0,47 0,47

2016 0,3 0,08 0,21 0,08 0,08 0,08 0,04 0,25 0,21 0,21

2017 0,73 0,15 0,58 0,04 0,15 0,14 0,11 0,06 0,02 0,09 0,12 0,23 0,18 0,18

TB 0,68 0,46 0,37

(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát, thống kê về kết quả công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp

thuộc đảng ủy: Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Binh chủng Tăng Thiết giáp,

Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)