Upload
dieu-anh
View
216
Download
3
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Â
Citation preview
I. BÁO CÁO VỀ CHỦ ĐỀ
Xóa đói giảm nghèo trong dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam còn gặp
nhiều bất lợi – Phân tích yếu tố định kiến tộc người.
1. Chủ đề, lĩnh vực, trường hợp
- Tiêu đề: Bất lợi trong xóa đói giảm nghèo trong DTTS ở Việt Nam.
- Phụ đề: Định kiến tộc người.
- Trường hợp nghiên cứu:
Không gian: Việt Nam
Thời gian: 1998-2010
- Chủ đề: Nghèo đói trong DTTS.
- Định hướng: Sự khác biệt tộc người.
- Mục tiêu: Đưa ra nguyên nhân gây bất lợi trong xóa đói giảm nghèo của
người DTTS ở Việt Nam từ phía người dân tộc đa số.
- Lĩnh vực: Kinh tế phát triển, xã hội học.
2. Lý giải chủ đề
- Sự quan tâm đối với vấn đề: Tôi quan tâm đến vấn đề nghèo đói và DTTS
thông qua tài liệu Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam của Ngân hàng Thế
giới (2012) và Định kiến tộc người: Vài nét khái quát và một số đề xuất
cho các bước nghiên cứu tiếp theo của tác giả Nguyễn Công Thảo (2010).
- Nguồn có sẵn: Các tài liệu liên quan đến chủ đề xóa đói giảm nghèo,
DTTS, định kiến tộc người trên mạng internet.
- Sự cần thiết của chủ đề: Xóa đói giảm nghèo là một trong mười mục tiêu
thiên niên kỷ của Việt Nam. Thêm vào đó, mặc dù Việt Nam được đánh
giá là đạt nhiều thành tựu trong xóa đói giảm nghèo một trong số những
thách thức còn tồn tại đó là đồng bào dân tộc thiểu số vẫn nghèo dai dẳng
và khoảng cách về nghèo đói ở đồng bào DTTS và người dân tộc Kinh
ngày càng tăng. Vì vậy, việc tìm hiểu về chủ đề này sẽ làm sâu sắc thêm
kiến thức về kinh tế phát triển nói chung và xóa đói giảm nghèo trong
DTTS ở Việt Nam nói riêng.
3. Bối cảnh, nền tảng của chủ đề
Việt Nam đã đạt được thành tích lớn về tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo trong hai thập kỷ qua. Nếu sử dụng chuẩn nghèo “dựa theo
nhu cầu cơ bản” như thống nhất từ đầu vào đầu thập kỷ 1990, tỉ lệ nghèo
tính theo đầu người giảm từ 58% vào đầu thập kỷ 1990 xuống 14,5% năm
2008, và theo chuẩn này tỉ lệ nghèo ước giảm xuống dưới 10% vào năm
2010. Tuy nhiên, nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo chưa phải kết thúc ở đây.
Đặc biệt phải kể tới nghèo đói trong các nhóm DTTS, mặc dù các nhóm
này chỉ chiếm dưới 15% dân số Việt Nam nhưng họ chiếm tới 47% số
người nghèo, và chiếm tới 68% số người nghèo cùng cực vào năm 2010
(Ngân hàng Thế giới, 2012).
Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách xóa đói giảm
nghèo như Chương trình 135, Chương trình 30a, Nghị quyết 80, hướng
tới đồng bào các DTTS và tập trung vào những xã, huyện nghèo nhất.
Tuy nhiên, căn cứ theo chuẩn nghèo cập nhật của Tổng cục thống kê-
Ngân hàng thế giới, năm 2010 có 66,3% DTTS thuộc diện nghèo, trong
khi đó tỷ lệ này ở người Kinh chỉ có 12,9%.
Theo Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia: Dân tộc và Phát triển của
Ngân hàng Thế giới (2009) cho thấy người DTTS vẫn nghèo đói dai dẳng
bởi họ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do sự chênh lệch về điều
kiện sống giữa người DTTS và người Kinh mà một trong những nguyên
nhân đó là quan niệm dập khuôn/định kiến về dân tộc và một số rào cản
văn hóa. Từ đây ta có thể thấy một trong những khó khăn trong xóa đói
giảm nghèo ở DTTS ở nước ta đến từ phía dân tộc Kinh.
II. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Nguyên nhân gây nên tình trạng bất lợi cho xóa đói giảm nghèo trong
DTTS từ phía người dân tộc đa số - dân tộc Kinh.
1. Sự rõ ràng
Câu hỏi đặt ra đã ngắn gọn và rõ ràng. Thuật ngữ chính (bất lợi,
xóa đói giảm nghèo, DTTS, dân tộc đa số, định kiến tộc người) không
phải là mơ hồ.
2. Tính khả thi
Việc trả lời câu hỏi là khả thi bởi các nguồn tài liệu liên quan đến
chủ đề xóa đói giảm nghèo trong DTTS, sự khác biệt về tộc người.
3. Mức độ phù hợp
Đây là một câu hỏi mở xem xét vấn đề xóa đói giảm nghèo trong
DTTS theo góc độ ảnh hưởng của định kiến tộc người.
III. VẤN ĐỀ
1. Vấn đề nghiên cứu:
Theo Ngân hàng Thế giới (2012) đánh giá dù Việt Nam đạt được
những thành tựu đáng kể trong giảm nghèo nhưng nhiệm vụ này vẫn chưa
hoàn tất. Trong đó nghèo đói trong nhóm các DTTS đã trở thành một
thách thức phức tạp và dài hạn. Ngân hàng thế giới (2009) đã đưa ra sáu
“Trụ cột bất lợi” tác động qua lại lẫn nhau khiến cho tình trạng đói nghèo
ở DTTS trở thành một “cái vòng luẩn quẩn”, đó là ít được tiếp cận với
giáo dục hơn, ít di chuyển hơn, ít được tiếp cận với các dịch vụ tài chính
hơn, năng suất đất đai thấp hơn và chất lượng đất kém hơn, mức độ tiếp
cận thị trường hạn chế, và quan niệm dập khuôn/định kiến dân tộc và một
số rào cản văn hóa khác.
Trong những yếu tố nêu trên, yếu tố cuối cùng là yếu tố vô hình,
không phải do chủ ý, không thể định lượng và ít được đề cập tới. Quan
niệm dập khuôn/định kiến dân tộc và rào cản văn hóa không chỉ ảnh
hưởng đến riêng sinh kế của người DTTS mà còn ảnh hưởng tới các hoạt
động sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc.
Bởi vì người ta thường hay nói rằng người DTTS là kém năng lực,
khả năng về trí tuệ kém hơn so với người Kinh nên khả năng của người
dân tộc không được tin tưởng. Phần lớn cán bộ, giáo viên, và nhân viên y
tế ở các khu vực đông người DTTS là người dân tộc Kinh. Ở tỉnh Hà
Giang, người dân tộc Kinh chỉ chiếm 12% dân số nhưng lại chiếm 54%
tổng số cán bộ của tỉnh này. Trong 46% cán bộ còn lại thì 76% số nay là
người Tây. Điều này có nghĩa là nhiều dân tộc khác ở Hà Giang (Hà
Giang có 20 dân tộc) có rất ít hoặc không có đại diện nào trong khối cán
bộ địa phương, nghĩa là việc nói lên những nguyện vọng nhu cầu cụ thể
của người dân tộc rất khó khăn.
Ngoài ra, sự nghi ngờ về khả năng nhận thức của người dân tộc
khiến cho tiếng nói của họ bị giảm xuống so với người Kinh. Người dân
tộc Ê đê ở Dak Lak, họ không được nhận các khoản vay lớn kể cả khi họ
yêu cầu tại ngân hàng chính sách xã hội bởi ngân hàng không tin người
DTTS có thể xử lý các khoản vay lớn như vậy trong khi người Kinh lại có
thể. Hạn chế trong tiếp cận tín dụng khiến cho người dân tộc khó mở rộng
quy mô làm ăn, khiến kinh doanh, đầu tư manh mún.
Những quan niệm sai lầm về cách người DTTS sinh sống cộng với
thiếu dữ liệu thực tế khiến đã ảnh hưởng tiêu cực tới chính sách phát triển
cho người DTTS. Có thể nói tới việc nhận định lối canh tác của người
dân tộc là lạc hậu và phá hoại môi trường khiến cho các chương trình
định canh định cư không có tác động rõ rệt với nghèo đói hay nạn phá
rừng bởi chỉ có một số nhỏ DTTS sống du canh du cư phụ thuộc vào canh
tác nương rẫy trong khi số còn lại có phương thức canh tác rất tốt, thích
nghi với các điều kiện khó khăn về môi trường của vùng núi. Chính sách
sai lầm sẽ đi cùng với việc tốn kém về thời gian và kinh phí từ đó khiến
cho việc xóa đói giảm nghèo trong đồng bào DTTS gặp phải bất lợi
(Ngân hàng thế giới, 2009).
Nghiên cứu nguyên nhân gây bất lợi cho người DTTS trong xóa
đói giảm nghèo đến từ phía người dân tộc Kinh không chỉ liên quan tới
xóa đói giảm nghèo mà còn đề cập tới vấn đề bất bình đẳng.
2. Xem xét các tài liệu:
2.1. Thông tin chung về DTTS ở Việt Nam
Việt Nam có 54 dân tộc, tính đến 2010, tỷ lệ người DTTS chiếm
chưa tới 15% trong tổng số 86,93 triệu người Việt Nam1. Các dân tộc
cùng chung sống trên đất nước Việt Nam có diện tích 331.000km2 với
hơn 3.000km bờ biển. Ba phần tư đất đai của Việt Nam là đồi núi và đất
trồng trọt chỉ chiếm khoảng 28% diện tích đất2.
2.2. Nguyên nhân gây ra nghèo đói của DTTS
Có nhiều nghiên cứu về tình trạng đói nghèo ở đồng bào DTTS.
Bài báo “Tổng quan các nghiên cứu về nguyên nhân của tình trạng nghèo
đói ở đồng bào dân tộc thiểu số” của tác giả Đỗ Minh Hải đã tổng hợp các
nghiên cứu của các tác giả về nguyên nhân nghèo đói ở đồng bào dân tộc
thiểu số. Ta có thể phân thành hai nhóm, nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, nguồn lực sản xuất hạn chế. Người nghèo DTTS chưa
được tiếp cận và hưởng lợi ích từ rừng, nơi nào càng gần hay có nhiều
rừng, tỷ lệ nghèo đói càng cao. Mặc dù người DTTS sở hữu nhiều đất hơn
người dân tộc đa số (bình quân gấp ba lần về đất lâm nghiệp) nhưng đất
của họ kém hơn, không có điều kiện tưới tiêu. Ngoài ra, người DTTS
cũng ít được tiếp cận điện lưới quốc gia hơn người Kinh, ở các xã thuộc
Chương trình 135-II năm 2008, chỉ có 65% người DTTS có điện trong
khi con số này là 91% ở người Kinh.
Thứ hai, định kiến tiêu cực của người Kinh cho rằng DTTS là kém
phát triển. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng người Kinh cho rằng người
DTTS kém văn minh, lạc hậu, cần phải xóa bỏ những tín ngưỡng tôn
giáo, mê tín dị đoan, những cấm kỵ, nghi lễ của đồng bào DTTS. Điều
này đã hạn chế cơ hội tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, chính quyền
1 http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=108352 http://www.unicef.org/vietnam/vi/overview.html#_ftn1
địa phương, hoạch định chính sách, cung cấp các dịch vụ đồng thời khiến
cho người DTTS mặc cảm, ngại giao tiếp xã hội và không muốn tham gia
vào các chương trình giành cho họ.
Thứ ba, điều kiện đi lại khó khăn. Theo ước tính, có tới gần 80%
người DTTS đang sinh sống tại ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc
trung bộ và Duyên hải miền trung, và Tây Nguyên. Đât đều là những khu
vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt với núi non hiểm trở, hẻo lánh,
hoặc chịu nhiều thiên tai. Điều này khiến cho việc tiếp cận với dịch vụ y
tế và trường học của đồng bào gặp nhiều khó khăn.
Cuối cùng là các chương trình chính sách chưa thực sự hiệu quả.
Các chính sách hỗ trợ DTTS được phân loại theo: vị trí địa lý, nhóm dân
tộc và tình trạng kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên nhiều chương trình có nội
dung chồng chéo. Thêm vào đó, các chính sách có xu hướng coi DTTS
như một nhóm đồng nhất, chưa tính đến sự khác biệt về văn hóa, vùng
miền giữa các dân tộc.
Bảng: Các tiếp cận theo lĩnh vực của một số chương trình giảm nghèo ở
Việt Nam3
Tên chương
trình
Đường
nông
thôn
Sản xuất Nhà
ở
Cấp
nước
Giáo
dục
Dạy
nghề
Hỗ
trợ
pháp
lý
Y tế
135-II X XX X XX X X X
Mục tiêu
quốc gia
giảm nghèo
X XXXX X XX X X XX
NQ 30a X XXXXX X X XX XX X X3 UNDP. (2009). Rà soát tổng quan các chương trình giảm nghèo ở Việt Nam.
Nước sạch
vệ sinh môi
trường
X X
134 X X X
Tây
Nguyên
X XX
ĐB Sông
Cửu Long
X X
Chú thích: Mỗi dấu X biểu thị một hợp phần trong lĩnh vực, trên hai dấu
X trong một ô có nghĩa là dự án có nhiều hợp phần hoặc tiểu hợp phần.
Ví dụ, Nghị quyết 30a hỗ trợ 5 hợp phần trong lĩnh vực sản xuất: i) Sản
xuất nông nghiệp, ii) Cho vay sản xuất, iii) Xây dựng hệ thống thủy lợi,
iv) Hỗ trợ phát triển và quản lý rừng và v) Đào tạo về khuyến nông.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Tình
trạng kinh tế khó khăn, xa trường, rào cản ngôn ngữ, sự tự ti, công việc
nhà, tảo hôn, cơ sở vật chất trường học thiếu thốn, thiếu phù hợp trong
chương trình học, khác biệt văn hóa với giáo viên người Kinh, số lượng
và chất lượng giáo viên người DTTS còn thấp dẫn đến việc càng lên các
cấp học trên số lượng học sinh là người DTTS càng giảm xuống. Việc
thiếu đào tạo về tay nghề hay đào tạo yếu về chuyên môn, bất hợp lý về
cơ cấu ngành nghề cộng với việc không thành thạo tiếng Việt làm cho
đồng bào DTTS có ít cơ hội hơn trong hoạt động sản xuất, giáo dục, đào
tạo, tín dụng, tìm kiếm việc làm (đồng bào không thông thạo tiếng Việt sẽ
lâm vào cảnh nghèo đói gấp 1.9 lần so với đồng bào dân tôc thiểu số khác
và gấp 7-8 lần so với người Kinh, Hoa).
Thứ hai, không đa dạng sinh kế, ít tiếp cận thị trường. Các DTTS
vẫn tập trung vào hoạt động nông nghiệp (DTTS chiếm 86,2% những
người làm nông nghiệp, 9,9% những người làm phi nông nghiệp và
25.6% những người làm ông ăn lương ở các xã thộc Chương trình 135),
kể cả tham gia vào các hoạt động thương mại, dịch vụ, chăn nuôi, phi
nông nghiệp và đạt kết quả khá tốt, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với
người Kinh cùng địa bàn, thì họ vẫn chưa thực sự tham gia vào thị
trường thương mại thực sự bởi thiếu sự năng động và chưa quen với cơ
chế thị trường. Do đó, đồng bào DTTS không tránh khỏi việc rơi vào thị
trường lao động bậc thấp, khu vực phi kết cấu với tình trạng việc làm
không ổn định, thu nhập thấp và có nhiều rủi ro.
Thứ ba là rào cản văn hóa. Đồng bào DTTS không quen với các
giao dịch kinh tế như người Kinh ví dụ như cho vay tính lãi, bán đồ cho
hàng xóm, họ hàng bởi đồng bào cho rằng điều này trái với những chuẩn
mực xã hội của cộng đồng họ (Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Ngân
hàng Thế giới (2012)). Tương tự, rào cản về ngôn ngữ, văn hóa ảnh
hưởng đến việc cải thiện sinh kế của đồng bào DTTS nên không phải cứ
nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội sẽ tăng đời sống của
người DTTS.
2.3. Tiếp cận sâu hơn về nguyên nhân định kiến tiêu cực của
người Kinh với người DTTS
Các nghiên cứu đều đề cập tới vấn đề đó là từ định kiến tiêu cực về
DTTS dẫn tới sự rập khuôn trong suy nghĩ về những đặc điểm của người
DTTS.
Theo The Underlying Causes of Ethnic Minority Poverty in
Northern Mountainous Vietnam của Rowena Humphreys and Vu Thi
Hien (2008), DTTS được coi là lạc hậu, kém, lười biếng và mê tín, và
người ta cho rằng người DTTS cần phải trở nên giống người Kinh hơn để
thành công, thoát nghèo và đạt được những lợi ích tương tự như người
dân tộc Kinh. Để trở nên giống người Kinh hơn đã có sự “sẵn sàng chấp
nhận sự khác biệt, và đồng hóa văn hóa, Việt Nam hóa” ghi nhận bởi
Baulch và các cộng sự (2002). Và thực tế là những nhóm dân tộc thiểu số
có mức độ đồng hóa cao hơn với dân tộc đa số (như người Tày và
Mường) có khả năng xóa đói giảm nghèo và phát triển tốt hơn. Tuy nhiên
vẫn có sự tồn tại của một “hậu quả không lường trước được về rào cản
ngôn ngữ và địa lý” bởi việc tiến hành canh tác nông nghiệp giống người
Kinh ví dụ như trồng lúa nước chỉ phù hợp với vùng đất thấp đã bỏ qua
điều kiện tự nhiên của địa phương, sự phù hợp của việc sở hữu đất đai và
sinh kế của người DTTS đã phát triển theo thời gian và phần lớn đã hài
hòa với môi trường tự nhiên. Ngoài ra chính phủ Việt Nam mặc dù đã sử
dụng một loạt các biện pháp can thiệp để giúp đỡ đồng bào DTTS từ
1993 nhưng chương trình giáo dục đều là tiếng Việt và có điện lưới quốc
gia đến vùng sâu vùng xa thì các hộ gia đình người DTTS không có khả
năng chi trả.
Các nghiên cứu Nghèo của Dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện
trạng và Thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 Giai đoạn II, 2006-
2007 của Nguyễn Việt Cường (2011) và Ethnic minority poverty in
Vietnam của Bob Baulch (2010) đều kế thừa lại nghiên cứu trong Country
Social Analysis: Ethnicity and Development in Vietnam của Ngân hàng
Thế giới (2009) và chịu ảnh hưởng của Civilizing the Margins: Southeast
Asian Government Policies for the Development of Minorities của
Duncan và các cộng sự (2004). Họ cho rằng “vì nhiều lý do, đồng bào
dân tộc thiểu số trong thời gian dài bị coi như kém phát triển so với nhóm
đa số và mối quan tâm của Chính phủ và các nhà tài trợ quốc tế đối với
công cuộc giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số thể hiện nhận thức
tồn tại lâu nay rằng đồng bào dân tộc thiểu số bị tụt hậu về mặt kinh tế và
cần được hỗ trợ để ‘theo kịp’ người Kinh (Ngân hàng Thế giới, 2009). Sự
rập khuôn tiêu cực này đã dẫn đến xuất hiện xu hướng cho rằng sự phát
triển của đồng bào dân tộc thiểu số cần có những can thiệp để xóa bỏ ‘sự
tụt hậu’ và/hoặc thúc đẩy sự ‘bắt kịp’ với nhóm đa số. Một số chương
trình và chính sách phát triển đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam bao
gồm các chiến dịch nhằm nỗ lực thay đổi ‘văn hóa’ của vùng dân tộc
thiểu số, như xóa bỏ dị giáo, mê tín dị đoan, những cấm kỵ mê tín và các
nghi lễ xã hội tốn kém và được coi là hủ tục. Những can thiệp như vậy có
mục tiêu nhằm thúc đẩy đồng bào dân tộc thiểu số trở nên lên ‘văn minh
hơn theo kiểu của nhóm đa số’ và tạo thuận lợi cho họ ‘bắt kịp’ nhóm đa
số. Điều này phản ánh quan điểm phổ biến của nhiều nước Đông Nam Á
rằng dân số thuộc nhóm đa số thường được xem như ưu việt so với các
dân tộc thiểu số (Duncan, 2004).
Việt Nam có luật chống phân biệt đối xử, trong khi Điều 5 trong
Hiến pháp qui định rằng tất cả công dân không phân biệt dân tộc đều
được bình đẳng dưới pháp luật. Ngoài ra, không có tập quán hay ước lệ
văn hóa nào qui định sâu về “địa vị” và “cấp bậc” như trường hợp của
một số đất nước khác (như là ở Ấn Độ). Đây là những căn cứ quan trọng
để khẳng định không có sự phân biệt đối xử giữa các dân tộc ở Việt Nam.
Mặc dù vậy, sự tồn tại của những định kiến như trên thể hiện một phần
nào đó sự phân biệt đối xử trong nhận thức (chứ không phải là về chính
sách hay chủ trương) theo hướng bất lợi cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Sự tồn tại của lối suy nghĩ rập khuôn và các định kiến có tác động tiêu
cực đến khả năng tận dụng cơ hội tăng trưởng, giảm nghèo, và hòa nhập
xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo báo cáo Ngân hàng thế giới (2009), nếu ‘sự tụt hậu’ của đồng
bào dân tộc thiểu số được thừa nhận rộng rãi, thì sự tham gia của tham gia
của đồng bào dân tôc thiểu số vào một số vấn đề kinh tế, xã hội có thể
không được coi trọng như sự tham gia của nhóm đa số. Trong một số
trường hợp nhất định, những định kiến này có thể gây ra xu hướng của
các cấp có thẩm quyền là không muốn lắng nghe và trả lời đồng bào dân
tộc thiểu vì họ bị coi là có trình độ/nhận thức kém.” 4
Ngoài ra Báo cáo của Ngân hàng thế giới (2009) còn đề cập tới một
nguyên nhân khác của sự rập khuôn trong suy nghĩ của người Kinh với
người DTTS đó là sự phân loại 54 dân tộc theo các tập quán kinh tế, văn
hóa, xã hội, đồng thời nêu ra một số hệ quả khác như sự ảnh hưởng đến
sự tự tin và và lòng tự trọng của người DTTS; việc nêu lên ý kiến của
mình; và sự thiếu sót của các yếu tố văn hóa trong một chính sách xóa đói
giảm nghèo của Nhà nước đối với đồng bào DTTS.
Tuy nhiên các nghiên cứu này đa phần được thực hiện bởi các tổ
chức quốc tế và khái quát vấn đề từ thực tiễn. Do đó cần có cái nhìn chủ
quan từ phía Việt Nam và xác nhận lại thực tiễn bằng lý thuyết.
IV. KHUNG LÝ THUYẾT
1. Lý thuyết tiếp cận
Lý thuyết về “Định kiến tộc người” của Nguyễn Công Thảo về
những đánh giá và phản ứng sai lệch về một tộc người hay một nhóm tộc
người.
1.1. Tiền đề của lý thuyết bao gồm:
- Sự cách biệt về địa lí và khác biệt về điều kiện tự nhiên: Điều này cản trở
sự giao lưu để có hiểu biết đầy đủ về nhau giữa các tộc người từ đó đưa
tới những định kiến về nhau.
4 Nghèo của Dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện trạng và Thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 Giai đoạn II, 2006-2007 của Nguyễn Việt Cường (2011). Nghiên cứu Ethnic minority poverty in Vietnam của Bob Baulch (2010) cũng có những nội dung tương tự.
- Khác biệt về đặc điểm sinh học: Sự khác biệt về chủng tộc, điều kiện cư
trú tự nhiên dẫn tới sự khác biệt về hình thể.
- Khác biệt về văn hóa-ngôn ngữ: Mỗi tộc người có ngôn ngữ và văn hóa
khác nhau, đây chính là điểm hạn chế sự tiếp xúc giữa người Kinh và
người DTTS.
- Khác biệt về tôn giáo: Điều này dẫn tới những mâu thuẫn trong xác định
các giá trị, dẫn tới phủ nhận lẫn nhau.
- Khác biệt về phương thức mưu sinh: Các tộc người cư trú ở khu vực khác
nhau có hình thức canh tác khác nhau từ đó đưa tới những ý kiến về
những phương thức canh tác này.
- Khác biệt về trình độ học vấn: Có sự khác biệt về trình độ học vấn giữa
người DTTS và người Kinh, đặc biệt là ở trình độ cao. Sự khác biệt này
là nhân tố chủ yếu tạo ra và tăng thêm những định kiến ở người Kinh.
- Hệ thống chính trị, tổ chức xã hội: Ở nhiều quốc gia mặc dù các chính
sách không đồng tình với định kiến tộc người dưới bất cứ hình thức nào
nhưng vấn đề này vẫn tồn tại trong các chính sách đối với các tộc người
khác nhau.
- Ảnh hưởng của các học thuyết chính trị/ khoa học: Tiêu biểu là thuyết
tiến hóa (trên phạm vi toàn cầu), hay đạo Khổng (một số nước ở châu Á).
- Cơ chế tin đồn: là phương tiện truyền bá, lan tỏa những nhận thức đã
được “dán nhãn” về một tộc người.
- Truyền thông: đây cũng là tiền đề quan trọng dẫn đến sự hình thành định
kiến.
1.2. Những định kiến này được thể hiện một cách trực tiếp
hay gián tiếp qua:
- Nhận thức: Dạng thức này là kết quả của quá trình có ý thức hoặc vô thức
của một cá nhân tồn tại trong một cộng đồng. Cá nhân chịu ảnh hưởng
của thế giới quan của chính cộng đồng mình từ đó hình thành cách ứng
xử, đánh giá giá trị với cộng đồng xung quanh.
- Động cơ: Do tính chất vì lợi ích của chủ thể mang định kiến, có thể tác
động tới cộng đồng bị định kiến.
- Hành vi: Trong giao tiếp ở nhiều cấp độ, hình thức, các hành vi tác động
tới người chịu định kiến.
1.3. Hệ quả của định kiến tộc người:
- Hiểu sai về nhau: Nhiều người Kinh cho rằng người dân tộc còn lạc hậu,
nhiều tệ nạn,… Trong khi người Kinh bị coi là không trung thực, không
tình cảm theo cách nhìn nhận của một số tộc người thiểu số. Điều này tạo
nên rào cản giữa các dân tộc gây khó khăn cho việc hội nhập, hợp tác
cùng phát triển.
- Khoảng cách giữa các tộc người: Mặc dù đã có một số thay đổi, nhưng
vẫn tồn tại một “khoảng cách” giữa người Kinh và các tộc người thiểu số
và giữa những người DTTS với nhau trên mọi mặt: thu nhập, mức sống,
giáo dục,… Điều này vừ kìm hãm vừa phát triển những bất ổn xã hội,
xung đột tộc người.
- Hạn chế khả năng hợp tác: Biểu hiện qua tuyển chọn lao động, hôn nhân,
hợp tác kinh doanh, chia sẻ kinh nghiệm, quyền lợi, trách nhiệm. Từ đây
tạo nên những khó khăn trong phát triển sự liên kết bền vững.
- Suy giảm sức mạnh cộng đồng: Những định kiến vô hình chung chia rẽ
các tộc người thành cộng đồng nhỏ, làm giảm khả năng hội nhập phát
triển cho chính những cộng đồng đó.
- Xung đột sắc tộc, tôn giáo: Khi ở cấp độ cực đoan, định kiến tộc người có
thể dẫn tợi sự tranh chấp, xung đột tộc người, tôn giáo.
- Chủ nghĩa li khai: Với quốc gia đa dạng về dân tộc, sự tồn tại của định
kiến tộc người có thể gây ra ác cuộc xung đột, và khi không được giải
quyết nó có thể dẫn tới việc một tộc người muốn tách ra khỏi quốc gia đó.
2. Định nghĩa khái niệm
Định kiến tộc người: Định kiến tộc người là những nhận thức, hành
vi, thế ứng xử sai lệch đối với các đặc điểm văn hóa, nhân trắc của một
tộc người cụ thế đối với một hay một nhóm tộc người khác. Quá trình này
được hình thành dựa trên cảm nhận chủ quan, hay khái quát hóa giản đơn
từ một vài biểu hiện mang tính cá nhân cho cả một cộng đồng tộc người.
Những nhận thức, hành vi này có thể mang tính vô thức hoặc có ý thức,
mang tính khách quan, hoặc chủ quan, mang tính phóng đại, hoặc mang
tính miệt thị, mang tính trực tiếp hoặc gián tiếp.
V. GIẢ THUYẾT
Một trong những nguyên nhân khiến cho xóa đói giảm nghèo ở
đồng bào DTTS gặp bất lợi đó chính là những định kiến của người dân
tộc Kinh với người DTTS
1. Sự thích đáng
Giả thuyết đã trả lời cho câu hỏi nghiên cứu. Những định kiến của
người Kinh khiến cho người DTTS trở nên tự ti, không được tin tưởng về
khả năng, bị phân biệt.
2. Sự phù hợp
Giả thuyết phù hợp với những tiền đề, hình thức và hệ quả trong lý
thuyết về “định kiến tộc người” của Nguyễn Đình Thảo.
3. Tính lịch sử
Định kiến tộc người vốn đã tồn tại từ lâu trong nhận thức của người
dân, khi nhắc đến “người dân tộc” nó bao hàm ý “không phải là người
Kinh”, là người ở miền núi, vùng cao, với các “thuộc tính”: lạc hâu,
không biết làm ăn, hoang phí, lường biếng, dốt nát.
4. Tính tổng quát
Giả thuyết này chỉ áp dụng với trường hợp người dân tộc thiểu số ở
các khu vực tại Việt Nam.
5. Tính thực nghiệm
Có mối liên hệ với đồng bào DTTS ở Việt Nam.
6. Tính chính xác
Giả thuyết đã trả lời câu hỏi bằng cách giải thích nguyên nhân của
những bất lợi mà người dân tộc đa số - người Kinh tạo ra đối với người
DTTS khiến cho khả năng thoát nghèo của đồng bào DTTS giảm xuống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chronic Poverty Research Center. (2010). Ethnic minority poverty in
Vietnam. Hanoi: Bob Baulch, Hoa Thi Minh, Nguyen Phuong Thu, Thi
Phuong, Hung Thai Pham.
Đỗ Minh Hải. (2014). Tổng quan các nghiên cứu về nguyên nhân của tình
trạng nghèo đói ở đồng bào dân tộc thiểu số. Báo Khoa học Lao động và Xã
hội –Số 38/Quý I-2014: An sinh xã hội, 50. Trích từ:
http://www.ilssa.org.vn/Portals/0/Magazines/ban-tin-khoa-hoc-so-38-2014-
1507201492052CH.pdf
Ngân hàng Thế giới. (2012). Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012.
The IDL group. (2008). The Underlying Causes of Ethnic Minority Poverty
in Northern Mountainous Vietnam. Hanoi: Rowena Humphreys and Vu Thi
Hien.
The IRC. (2011). Nghèo của Dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện trạng và
thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 Giai đoạn II, 2006-2007. Hà
Nội: Phạm Thái Hưng, Lê Đặng Trung và Nguyễn Việt Cường.
The World Bank. (2009). Country Social Analysis: Ethnicity and
Development in Vietnam.
Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường. (2010). Định kiến tộc
người: Vài nét khái quát và một số đề xuất cho các bước nghiên cứu tiếp
theo. Hà Nội: Nguyễn Công Thảo.