50
LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu, Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt Nam. Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là "đôla hóa". Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng đô la hoá., cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam là vấn đề cần thiết và cấp bách, nhóm 3 chọn đề tài: "Đô la hóa ở Việt nam: thực trạng và giải 1

Đô la hóa ở Việt nam thực trạng và giải pháp

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá

trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và

xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi

quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu,

Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó.

Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất

nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng

hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó

là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với

hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các

chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc

đối với nền kinh tế Việt Nam.

Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền

tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu

quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại

tệ hóa là "đôla hóa". Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng đô la hoá.,

cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam là vấn đề

cần thiết và cấp bách, nhóm 3 chọn đề tài: "Đô la hóa ở Việt nam: thực trạng và giải

pháp” làm đề tài nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu nền

kinh tế bị đôla hóa bằng đồng USD mà cụ thể là nên kinh tế Việt Nam trong giai đoạn

từ sau cải cách kinh tế đến nay.

Do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu

xót, sai lầm, chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô giáo và các bạn.

Qua đây, nhóm 3 xin cảm ơn PGS – TS. Phạm Thị Thu Thảo đã hướng dẫn chúng tôi

hoàn thành đề tài này.

Kết cấu đề tài gồm 3 phần:

Chương I: Lý luận chung về đô la hóa và tác động của nó đối với nền kinh tế

Chương II: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam

Chương III: Kinh nghiệm và giải pháp khắc phục hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam

1

Page 2: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ

ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ

I. Lý luận chung về đô la hóa

1. Khái niệm đô la hóa

Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại

tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số

chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. Sở dĩ đây là

tên gọi chung của hiện tượng ngoại tế hóa, nhưng do đồng Đô la Mỹ từ trước tới nay

luôn chiếm vị thế quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc tế nên người ta thường gọi

hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".

Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la

hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối

tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền

gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la

hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2

khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.

2. Phân loại đô la hóa

Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial

Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính

thức (official dollarization).

- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi

trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.

Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:

• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.

• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.

- Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai

đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm

chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp

trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một

ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.

- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi đồng

ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không 2

Page 3: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp

trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai

trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ.

Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc

thực thi các chương trình ổn định kinh tế.

Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được

lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một

đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.

Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ

tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus,

Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia,

Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35

nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các

nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary,

Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia,

Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak,

Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.

Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài

nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.

Theo đánh giá của IMF, Việt Nam là nước “đô la hóa không chính thức”.

3. Nguyên nhân của đô la hóa

Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở

các nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát

cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị

khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương

tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng

làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.

Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:

• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.

• Chức năng làm phương tiện cất giữ.

• Chức năng làm phương tiện thanh toán.

Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong

đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao

lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền 3

Page 4: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ

XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.

Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được

quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, France, Thụy Sỹ, Euro của EU...

nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ

là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho

nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".

Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ

chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và

hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước,

nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để

thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành

thói quen thông lệ ở các nước.

Mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền

kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân

hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng

tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ

đô la hoá càng cao.

II. Tác động của hiện tượng đô la hóa

Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.

1. Những tác động tích cực

Thứ nhất, việc sử dụng càng nhiều đồng ngoại tệ mạnh trong nền kinh tế như

đồng đô la Mỹ thay cho đồng nội tệ yếu sẽ làm giảm áp lực đối với nền kinh tế trong

những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn

định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự

bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính

thức.

Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì

được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư

nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân

hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng

thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải

thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương

trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.4

Page 5: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Thứ hai, đô la hóa sẽ tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng

hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các

ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải

vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối

với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động

đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.

Tác động tích cực thứ ba là hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá

chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền

này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng

không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí

kinh doanh.

Thứ tư là thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính

thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến

khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh

lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc

đẩy tăng trưởng và đầu tư.

Cuối cùng là thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí

chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để

chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính

thức (thị trường hợp pháp).

2. Những tác động tiêu cực

Thứ nhất là làm ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.

Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế

vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi

diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.

- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :

• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó

dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông

kém chính xác và kịp thời.

• Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó

những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông

qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.

• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể

thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, 5

Page 6: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng

đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.

Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,

thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực

xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.

• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định.

Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm

cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối

lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài

có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu

cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc

đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống

ngân hàng.

Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho

người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay,

đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng

không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.

Thứ hai là khiến cho chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ.

Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của

đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một

nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt

về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những

chính sách tiền tệ khác nhau.

Thứ ba, Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung

ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển

chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng

vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng.

Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này.

Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối

với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất

ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi

chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.

6

Page 7: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM

Đô la hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở, khá nhỏ

và có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối với quốc gia cung cấp

đồng tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được hưởng lợi từ đô-

la hóa do khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về

thị trường vốn, lao động. Ngoài ra, mặc dù đô-la là đồng tiền quốc tế chủ yếu, được ưu

tiên trong cán cân của Việt Nam, chứ không phải là đồng euro hay yen Nhật, nhưng

Việt Nam lại có quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù

buôn bán với Mỹ đang tăng nhanh song buôn bán với các nước châu Á, đặc biệt là

Nhật Bản và châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.

Bức tranh tổng quát về tình hình đôla hóa ở Việt Nam qua các năm được biểu

hiện cụ thể qua số liệu sau:

Biểu đồ 1. Tỉ lệ đô la hóa ở Việt Nam giai đoạn 1998 - 2005

Tỷ lệ Đô la hóa (FCD/M2)

21.924.6

29.6 3026.1

21.323.2 22.3

0

5

10

15

20

25

30

35

1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

%

Nguồn: VNEconomy

I. Biểu hiện đô la hóa ở Việt Nam

Đô la hóa ở Việt Nam biểu hiện rõ ở hai lĩnh vực hoạt động quan trọng của nền kinh tế

khi Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường: thứ nhất là đô la hóa trong hoạt động

ngân hàng và thứ hai là đô la hóa trong hoạt động thương mại, đầu tư.

7

Page 8: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

1. Đô la hóa trong hoạt động ngân hàng

Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch

buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận

tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn

41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã

khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn

20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến

cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng

đô la hoá.

Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến

31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003

còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Cuối năm 2007, con số này ở mức 20 - 21

%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống

ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả, người dân đã có

niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên, đến đầu năm 2008, khi tình trạng

lạm phát tăng cao, tâm lý lo lắng về sự mất giá của đồng nội tệ tăng lên thì tình trạng

đô la hoá ở nước ta đang có nguy cơ trầm trọng trở lại.

Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ

này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan,

Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm

2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%.

Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không

ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành

phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách

lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài - những nước có lãi suất tiết kiệm

bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực

hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và

cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một

lượng USD tương đối lớn, song hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi

ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng

8

Page 9: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực

hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các

giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy

nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng

USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm

nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá.

Biểu hiện cụ thể của Đô la hóa ở Việt Nam qua các con số như sau :

Bảng 1 : Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán

(FCD/M2) ở Việt Nam

STT Năm Tỷ lệ

1 1989 28.2

2 1990 32.4

3 1991 41.2

4 1992 30.6

5 1993 22.9

6 1994 22.2

7 1995 21

8 1996 20.3

9 1997 23.6

10 1998 24.6

11 1999 26.1

12 2000 26.9

13 2001 31.7

14 2002 28.4

15 2003 23.6

16 2004 24.3

17 2005 23

18 2006 21.6

19 03/2007 19.6

20 06/2007 20.2Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007

9

Page 10: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Biểu đồ: Tỉ lệ đô la hóa giai đọa 1989 – 2007 của Việt Nam

Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng tăng lên, đến tháng

6/2007 đã ở mức 13,992 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn

nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển

kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá.

Bảng 2 : Khối lượng tiền gửi bằng đồng USD (FCD) tại các ngân hàng Việt Nam

STT Thời gian FCD (triệu USD)

1 2003 6,220

2 2004 8,215

3 2005 10,027

4 2006 12,396

5 03/2007 12,560

6 06/2007 13,992

Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007

Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la

Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng

tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho

vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.

10

Page 11: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Bảng 3 : Tỷ lệ dư nợ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư nợ cho vay

STT Thời gian Tỷ lệ (%)

1 2003 22

2 2004 24.9

3 2005 24.3

4 2006 21.1

5 03/2007 22

6 06/2007 22.2

Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007

Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện

nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy

mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy

mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam

là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là

số liệu rất khó xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân

hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi

vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân

hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều

này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong

nước.

Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không

còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con

số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa

tính đến thời điểm cuối năm 2003.

Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt

đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Nếu nhìn về

hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận

tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta

nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm

giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải

11

Page 12: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng

USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Nếu

đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi

đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

2. Đô la hoá trong lĩnh vực thương mại

Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các

sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử, kinh doanh nhà hàng, khách sạn…. Ta có thể

thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VND lẫn USD ở hầu như 100% các trang

web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai

loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng

USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối

đoái giữa VND và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là

những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu

từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh

nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra,

doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện

tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh

doanh chủ yếu trong tương lai.

II. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam.

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan chung của hiện tượng đô la hóa, thì tại

Việt Nam còn có những nguyên nhân chủ quan, đặc thù dẫn tới tình trạng, mức độ đô

la hóa trong nền kinh tế hiện nay.

1. Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn

định trong một thời gian dài và tâm lý lo ngại đồng nội tệ bị mất giá

Nguyên nhân này mang tính lịch sử, do Việt Nam từng trải qua một thời kỳ lạm

phát trầm trọng. Bất cứ một nền kinh tế nào bị đôla hóa đều có căn nguyên từ phát từ

người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong

một thời gian dài và đồng nội tệ bị mất giá, điều này làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro

đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ.

Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ốn định

trong một thời gian dài, tỷ giá hối đoái giảm, làm gia tăng các chi phí bảo hiểm rủi ro

12

Page 13: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ. Do vậy, công chúng chuyển các tài sản

danh nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực. Tại Việt Nam là

vàng và kể từ năm 1990 là đô la Mỹ.

Đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng

tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát

phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng

nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một

khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang

ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ

sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ

và tiện dụng của nó.

Bảng : Chỉ số CPI của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2009

Năm CPI (%)

1998 7.8

1999 4.1

2000 -1.7

2001 0.8

2002 1.5

2003 3

2004 9.5

2005 8.4

2006 7.5

2007 8.3

2008 22.9

2009 6,68

Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam qua các năm

13

Page 14: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Chỉ số giá hàng tiêu dùng ở Việt Nam rất không ổn định. Tỷ lệ lạm phát năm

1998 là 7.8%, giảm dần trong một số năm tiếp theo thậm chí nền kinh tế nằm trong tình

trạng giảm phát trong năm 2000 (tỷ lệ lạm phát -1,7%), tăng đột biến đạt 9.5% năm

2004 và dưới tác động của khhủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2008 CPI đã tăng vọt

lên 22,9%, gây ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiền tệ nói chung. Ở Việt Nam, tuy

lạm phát trong những năm qua đã duy trì ở mức thấp không vượt quan 2 con số, tuy

nhiên trong thời gian qua tình hình thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng khu vực,

giá dầu leo thang, giá vàng nhiều biến động, điều này dẫn đến tâm lý người dân bất an

khi nắm giữ tài sản bằng VND. Năm 2005, 2006 giá vàng và các mặt hàng chủ yếu

như xăng, điện, thép… đều tăng, giá lương thực tiêu dùng trong nước cũng tăng đáng

kể, tin nóng hổi nhất là ngành than cũng đang dự kiến tăng giá kéo theo dự kiến tăng

giá của ngành sản xuất xi măng….

Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam so với các nước trong khu vực giai đoạn 2000

- 2007

14

Page 15: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Những thay đổi về chính sách kinh tế và tiền tệ của chính phủ: Hai lần phá giá

tiền đồng vào các năm 1985 và 1997 – 1998 làm những người cất giữ tiền đồng bị thiệt

hại không nhỏ so với việc cất giữ bằng USD. Do nền kinh tế còn nằm trong tình trạng

nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế nhất là

cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở

miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN

được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng

bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá

giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD.

Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ

tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược

Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát đạt

774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có nhiều mức

khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu (năm 1989 Việt

Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền kinh tế và thay đổi

sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu), tỷ giá VND

so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại trong khuôn khổ các kế hoạch

Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua bảng sau:

Bảng : Biến động tỉ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010

Năm Tỷ giá

15

Page 16: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

9/1988 900

1989 4.000

1992 11.500

1995 10.800

2004 15.770

2005 15.800

2006 16.017

2007 16.110

10/2008 16.610

1/2009 16.930

8/2010 18.932

Biểu đồ: Biến động tỉ giá hối đoái Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010

2. Nền kinh tế Việt Nam khá dễ dàng cho hoạt động sử dụng ngoại tệ công khai

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán

sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ

vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng

ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH).

16

Page 17: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công

khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính

thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ

làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không

được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân

và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một

số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được

vì ba lý do:

Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%,

điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngọai tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân

hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân

có lợi hơn là ra ngân hàng.

Bảng 2.7: Tỷ giá giữa USD và VND năm 2005 (số liệu ngày cuối tháng)

Đvt: Đồng/USD

Thời gianNgân hàng Ngoại thương Thị trường tự do Hà Nội

Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra

Tháng 1 15788 15790 15790 15810

Tháng 2 15802 15804 15800 15820

Tháng 3 15822 15824 15810 15830

Tháng 4 15831 15833 15820 15850

Tháng 5 15850 15852 15840 15860

Tháng 6 15854 15856 15850 15870

Tháng 7 15861 15863 15870 15880

Tháng 8 15877 15879 15880 15890

Tháng 9 15894 15896 15880 15900

Tháng 10 15904 15906 15900 15900

Tháng 11 15909 15911 15940 15960

Tháng 12 15915 15917 15900 15930

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thứ hai là đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và

không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của NHNN,

ở các ngân hàng cá nhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích rõ ràng và có

các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp.17

Page 18: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Thứ ba là Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh ngoại

tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng hàng hóa

hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân.

Bên cạnh đó, ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu

vào tưu tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn

gàng hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu

khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ

100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR chỉ

cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được.

Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội nhất là

khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi nhức nhối

bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla hóa” xã hội.

3. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng nhanh chóng

Nguyên nhân thứ ba đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng

nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ. Nguồn

kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới

năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên :

• Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển

và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa

hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến.

• Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để

dành, lo xa cho cuộc sống. Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến

đổi của tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền

bằng đô la. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao.

Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó

nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi

suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000

lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô

la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi

suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng.

18

Page 19: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

• Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 5% -

6%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp

lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng

lên.

• Bên cạnh đó nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nhất là

trong thời kì lạm phát tăng cao nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng. Thực trạng

đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000

đồng được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với

gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn

như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức

tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ.

• Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và

tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước

ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh

doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người

nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định

cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội

thảo, làm việc ngắn ngày mang về.

• Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng

nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam., năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt

người; năm 1997 là 1,715 triệu ...; năm 2002 là 2,628 triệu;...; năm 2004 đạt hơn 2,9

triệu lượt người. Năm 2008 đạt 4,25 triệu lượt khách, sang năm 2009 giảm còn 3,77

triệu lượt và chỉ trong 8 tháng đầu năm 2010, số lượng khách đã đạt 3,35 triệu lượt

khách. Số lượng khách đó mang theo một số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại

tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân.

• Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ

thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ

của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Một số con số về tình

hình thu hút ODA vào Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009:

Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20/7/2008 đạt 1389 triệu USD, trong đó vốn vay

đạt 1277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn

ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1205 triệu

19

Page 20: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1063 triệu USD, vốn viện trợ

không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ

lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng

vốn giải ngân

Năm 2009: Tổng vốn ODA ký kết đạt ở mức 5.056 triệu USD (vốn vay: 4.822

triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 234 triệu USD), tổng vốn ODA được giải ngân

trong năm 2009 lên đến 3 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay. 

Năm 2010: Hội nghị các nhà tài trợ năm 2009 đã khép lại với cam kết với số tiền

cam kết viện trợ kỷ lục từ trước tới nay: hơn 8 tỷ USD, trong đó hơn 1,4 tỷ USD là

viện trợ không hoàn lại

• Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư

gián tiếp. Lượng vốn đầu tư gián tiếp các năm 2006 đạt 2tỷ USD ; năm 2007 đạt 21tỷ

6,3 tỷ USD ; năm 2008 khoảng 4,6 tỷ. Dưới đây là số liệu về tình hình thu hút và thực

hiện vốn FDI

Giai đoạn Số dự ánFDI Đăng

kíTb vốn/

DAFDI thực

hiện% thực

hiện

1990-2006 8,162

77,380 9.48 37,270 48%

2007 1,544

21,348 13.83 8,030 38%

2008 1,171

64,000 54.65 11,500 18%

2009 839

21,480 25.60 10,000 47%

2007-2009 3,554 106,828 30.06 29,530 28%

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài

Và trong 8 tháng đầu năm 2010, vốn FDI thu hút được đã đạt 11,6 tỷ.

Biểu đồ : Tình hình FDI giai đoạn 1990 - 2009

20

Page 21: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Bảng : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát

triển của nền kinh tế. (đơn vị: tỷ USD)

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Kim ngạch 14 15 16 20 26 32 39 48 62

• Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động

kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.

Bảng 4 : Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây

STT Năm Lượng kiều hối(triệu USD)

1 1991 35

2 1992 1336.6

3 1993 140.98

4 1994 249.47

5 1995 284.96

6 1996 468.99

7 1997 400

21

Page 22: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

8 1998 950

9 1999 1200

10 2000 1757

11 2001 1820

12 2002 2150

13 2003 2580

14 2004 3100

15 2005 4290

16 2006 4700

17 2007 5500Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biểu đồ: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 1991 -2007

Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la

hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.

Từ những nguyên nhân đã phân tích trên cho thấy, tình trạng đô la hóa ở Việt Nam

xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như những

nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những yếu kém của nền kinh tế cũng như trong sự

điều hành chính sách tiền tệ. Hiện tượng đô la hóa đã có tác động không nhỏ đến đời

sống kinh tế xã hội của nước ta.

III. Tác động của hiện tượng Đô la hóa ở Việt Nam.

22

Page 23: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam đã đem đến cho nền kinh tế Việt Nam cả tác

động tích cực và lẫn tiêu cực.

1. Tác động tích cực 

Đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát chấp nhận

được : Đồng USD đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong khối tiền tệ quốc

gia, hơn nữa, đó là một thành phần tích cực. Chính sách tiền tệ thắt chặt của chúng ta

trong thời gian dài nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát vốn luôn là nỗi ám ảnh thường

trực của các nhà lãnh đạo tiền tệ đã không tác động quá tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng

kinh tế chính là nhờ sự hiện diện của đồng đôla. Nhờ nó, các hoạt động kinh tế trong

khu vực tư vẫn tiếp tục tăng trưởng, ngay cả trong những thời kỳ mà khu vực này

không tiếp cận được các khoản tín dụng cần thiết từ hệ thống ngân hàng.

Ổn định tỷ giá VNĐ : Nguồn cung USD đầy đủ trong nền kinh tế cũng đã góp

phần ổn định tỷ giá đồng bạc Việt Nam và trong một số trường hợp nó còn đi quá đà

trong việc nâng cao tỷ giá của đồng bạc, khiến các chuyên gia kinh tế quy cho nó trách

nhiệm làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Những năm 2006, 2007

khi đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài tăng vọt cùng với sự gia tăng mạnh mẽ

của nguồn kiều hối, tỷ giá đồng bạc Việt Nam đã ổn định ở mức cao, dự trữ ngoại tệ

quốc gia tăng nhanh mặc dù nhập siêu lớn chưa từng có. Thậm chí, đã có lúc tiền đồng

khan hiếm nghiêm trọng khiến các ngân hàng thương mại, và cả Ngân hàng Nhà nước,

từ chối mua vào USD của các doanh nghiệp, gây nên tình trạng tắc nghẽn trong việc

triển khai dự án đầu tư nước ngoài.

Thu hút đầu tư nước ngoài, tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp

VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng - “Đô-la hoá”

có thể là yếu tố giúp Việt Nam thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho việc

mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ...

2. Tác động tiêu cực

- Đô la hoá làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị

trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối,

mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ

phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường

23

Page 24: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

- Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn

định ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ

- Tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường

ngoại tệ do đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ

- Việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán

tiền mua hàng hoá do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất

Trong thời gian vừa qua, có thể thấy rõ tác động tiêu cực của tình trạng đô la hóa

nền kinh tế Việt nam. Hiện tượng đô la hóa trên thị trường tài chính đã tạo môi trường

cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi có biến động về ngoại tệ. Điều này đã thể hiện rõ

qua việc trong nửa đầu năm 2008 giá một USD trên thị trường tự do rơi xuống tới

15.400 VNĐ và vài tháng sau đã vọt lên 19.500 VNĐ và tình hình thị trường chỉ chịu

đứng yên khi Ngân hàng Nhà nước tung nhiều tỷ USD dự trữ ngoại hối bình ổn thị

trường. Có thể thấy cung cầu ngoại tệ đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Bên cạnh

đó, hiện tượng đô la hóa đã khiến việc kiểm soát cung tiền của Ngân hàng Nhà nước

trở nên khó khăn, làm giảm hiệu quả của các chính sách kiềm chế lạm phát.

Tỷ giá hối đoái giữa VND với USD đã biến động theo chiều hướng không ổn

định, giá trị VND sụt giảm. Trong khi đồng USD mất giá so với các đồng tiền khác

như đồng euro, yên…, còn VND lại giảm giá so với USD, nên tỷ giá VND với các

ngoại tệ khác càng bất lợi hơn đối với nước ta.

Điều đó có tác động đến thương mại quốc tế trong điều kiện tỷ lệ nhập siêu của

nước ta khá cao, các khoản nợ nước ngoài đến hạn phải trả, bởi vì phải làm ra một

lượng hàng hóa nhiều hơn bằng VND mới có thể trả được 1 đơn vị ngoại tệ; những

doanh nghiệp vay thương mại với lãi suất cao, thời hạn ngắn để đầu tư dài hạn càng

gặp nhiều khó khăn

24

Page 25: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

CHƯƠNG III : KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HIỆN

TƯỢNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM

Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp,

đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt

Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền

mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được.

Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương trong vấn

đề đô la hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải

được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển

của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo

dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế

nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong

các chức năng thuộc tính của tiền tệ.

Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong phần đề cập những chủ

trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định

yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh

toán bằng tiền Việt Nam".

Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định

tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong

dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. thị trường

ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ

quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp

nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là

Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải

có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực

của đô la hoá. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp

dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây

như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận

tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp

được mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng... Những biện pháp hành chính này qua

thực tiến thực hiện đã chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không 25

Page 26: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội

nhập với khu vực và thế giới.

1. Kinh nghiệm hạn chế và khắc phục hiện tượng đô la hóa của Trung Quốc

Trung Quốc- một quốc gia đang phát triển nóng của Châu Á, cũng phải chịu nhiều ảnh

hưởng của quá trình đô la hóa những năm 2003-2005, tuy nhiên họ đã có được những

chính sách và giải pháp hiệu quả để khắc phục hiện tượng trên:

+ Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc khuyến cáo các ngân hàng trực thuộc sử dụng

đồng NDT trong các nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế + Chính phủ Trung

Quốc đã thực thi các “chính sách hoán đổi tiền tệ” có tổng trị giá lên tới 650 tỷ NDT

(95 tỷ đôla) với Argentina, Belarus, Hong Kong, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc

+ Chính phủ Trung Quốc và Brazil đang trong quá trình đàm phán nhằm loại bỏ

đồng đôla trong thuơng mại mậu dịch 2 chiều để thay thế bằng việc sử dụng đồng NDT

và đồng Reals

+ Ngoài ra, người đứng đầu cơ quan tiền tệ của đặc khu kinh tế Hong Kong và

Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đi đến thống nhất hiệp định thượng

mại hai chiều, cho phép sử dụng đồng NDT làm phương tiện thanh toán chính

Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la

hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:

2. Các giải pháp hạn chế và khắc phục hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam

2.1. Nâng cao vị thế của VND:

- Tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam. Tăng cường, nâng cao chất

lượng dịch vụ, các tiện ích ngân hàng, đặc biệt là hệ thống thanh toán không dùng tiền

mặt. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế.

- Tỷ giá ngang giá nên gắn với 1 rổ tiền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh thay vì

chỉ gắn với USD nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào Đô la Mỹ.

- Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để tác động đến điều kiện thị trường

nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ, chính sách lãi suất phải nhằm

mục đích tạo ra và duy trì được một chênh lệch lãi suất dương giữa tiền gửi VND và

USD, qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ.

26

Page 27: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

- Thu hút tiền mặt ngoại tệ trong dân cư, thà chấp nhận đô la hóa tiền gửi và dư

nợ cho vay của hệ thống ngân hàng, Nhà nước còn quản lý chặt chẽ được, còn hơn là

để trôi nổi trong dân:

Phát triển mạnh lưới các mạng lưới các quầy thu đổi ngoại tệ rộng khắp.

Từ năm 2003, chính phủ Việt Nam cũng đã bắt đầu huy động thu hút

nguồn vốn ngoại tệ trong xã hội bằng cách phát hành trái phiếu ngoại tệ (Căn cứ

vào Quyết định số 155 và 156/2003/QÐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về

việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ và đồng VN) để tập trung

phát triển các công trình trọng điểm quốc gia. Đây có thể là một trong những

phương pháp hữu hiệu nhất thu hút lượng ngoại tệ tiền mặt trôi nổi không quản

lý được trong dân cư, ngoài ra biện pháp này còn giúp nhà nước giảm việc đi

vay vốn nước ngoài, chịu rủi ro về tỷ giá, làm gia tăng gánh nặng vay nợ nước

ngoài của Việt Nam.

Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt được xác định trên cơ sở cung cầu

ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nhằm giảm bớt khoảng

cách tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường “chợ đen”.

- Nâng cao tính chuyển đổi của VND và hạn chế đôla hóa là hai công việc có mối

quan hệ hữu cơ, qua lại lẫn nhau. Đôla hóa làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm giảm vị

thế độc tôn của đồng bản tệ, giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền. Ngược lại một

đồng tiền mạnh sẽ giúp đẩy lùi nạn đô la hóa.

Có thể nói nâng cao khả năng chuyển đổi của VND và khắc phục đôla hóa là hai

mặt của quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện hội nhập. Nâng

cao tính chuyển đổi của VND ngay trong chính quốc gia để người dân, doanh nghiệp

có lòng tin vào VND. Đây cũng là quá trình tiến tới mục tiêu chỉ sử dụng VND trên

lãnh thổ Việt Nam, có thể đề xuất các giải pháp sau:

Trước hết và quan trọng nhất, để người dân có niềm tin vào VND ở tầm

vĩ mô cần ổn định và phát triển kinh tế bền vững, tỷ lệ lạm phát thấp.

Thu hẹp đối tượng được phép vay ngoại tệ so với hiện nay, trừ trường

hợp cho vay để nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên liệu, bán thành phẩm...

phục vụ xuất khẩu. Hiện nay, việc cho vay ngoại tệ với những dự án thực chất

27

Page 28: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

chỉ cần VND không chỉ làm tăng mức độ đôla hóa mà còn gây rủi ro cho tổ

chức tín dụng, ngân hàng.

Khuyến khích các cá nhân tại Việt Nam nhận kiều hối bằng VND.

Kiểm soát chặt chẽ việc niêm yết quảng cáo bán hàng bằng ngoại tệ và

dần dần tiến tới cấm việc bán hàng và dịch vụ trong nước niêm yết giá và thu

bằng ngoại tệ đối với tất cả mọi đối tượng trong nền kinh tế. Điều này muốn

thực hiện được đòi hỏi phải có sự phối hợp tất cả các ban ngành từ công an, bộ

văn hóa thông tin đến ngân hàng nhà nước.

Về lâu dài, cần nâng cao tỷ lệ dự trữ đối với tài khoản tiền gửi bằng đô la, cũng

như làm giảm hiện tượng đôla hóa dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng.

Bảng 3.1: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đang áp dụng

Loại TCTD

Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ

Không kỳ

hạn và dưới

12 tháng

Từ 12-24

tháng

Không kỳ

hạn và

dưới 12

tháng

Từ 12-24

tháng

Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

5% 2% 8% 2%

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

4% 2% 8% 2%

NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương

2% 2% 8% 2%

TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu

0% 0% 0% 0%

28

Page 29: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

(Theo 796/QĐ-NHNN ngày 25/6/2004, áp dụng từ 01/07/2004)

Một khi đã thực hiện được nâng cao tính chuyển đổi của VND thì sẽ giảm lượng

ngoại tệ trong xã hội do người dân tin tưởng vào VND hơn. Nhưng để nâng cao tính

chuyển đổi của VND là việc làm không thể thực hiện một sớm một chiều. Và nếu thu

hút vốn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng phát sinh mâu thuẫn đôla hóa nguồn vốn huy

động và đôla hóa nguồn vốn cho vay của ngân hàng, điều này tạo ra rủi ro rất lớn trong

hệ thống tài chính ngân hàng khi có biến động tỷ giá, lãi suất khủng hoảng kinh tế xảy

ra. Do đó ở tầm vĩ mô vấn đề đặt ra là làm sao có thể thu hút tối đa vốn ngoại tệ vào hệ

thống ngân hàng , vừa tận dụng tối đa nguồn ngoại tệ này để phát triển kinh tế.

Ở Việt Nam chưa hoàn toàn tự do hóa tài chính, do đó Việt Nam cần tận dụng

thời gian này để giảm đôla hóa xã hội, phát triển kinh tế và thiết lập dự trữ ngoại hối đủ

mạnh.

Với nguồn vốn ngọai tệ huy động được các tổ chức tài chính ngân hàng tiến

hành cho vay đầu tư có hiệu quả cho các dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia,

cũng như của các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh xuất khẩu hiệu quả, điều này

sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế và tạo số đông việc làm cho người lao

động.

2.2. Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ

hiện có trong dân bằng những biện pháp :

• Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự

giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài

chính, ngân hàng.

• Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến

khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế.

• Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá

các danh mục đầu tư trong nước.

Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc

mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân.

29

Page 30: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

2.3. Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ:

Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng

và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền

về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế.

Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đốitượng có doanh

thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD.

Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ,

tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc bằng đồng ngoại tệ...) để tác động đến điều kiện thị trường

nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển

đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ.

Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không

được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được

Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.

Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương,

thu nhập từ xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm

dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt

Nam.

Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền

mặt ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu.

Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng

buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến

mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị

trường Việt Nam.

Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền để cần

thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của

khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản vốn, việc

đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất khó khăn.

Muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan trọng là những

mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá trên thị trường Việt Nam không

bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng

như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai

30

Page 31: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và

xoá bỏ

31

Page 32: Đô la hóa ở Việt nam  thực trạng và giải pháp

KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã làm rõ thực trạng đôla hóa đang diễn ra,

những tác động tích cực, tiêu cực cũng như những nguyên nhân của hiện tượng đó

trong nền kinh tế Việt Nam. Từ đó nhóm đã phân tích và đề xuất giải pháp nhằm góp

phần giải quyết những mặt hạn chế của hiện tượng đôla hóa ở Việt Nam.

Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới, việc kìm chế và đẩy

lùi tình trạng đô la hóa sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời

gian và quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện

tượng đô la hóa không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và

hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của

đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hóa thì cần phải được

kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ. Và để hạn chế giảm tình trạng đôla hóa không phải có thể

thực hiện trong thời gian ngắn, tuy nhiên trong bối cảnh tự do hóa tài chính và Việt

Nam gia nhập WTO, thời gian này cần được rút ngắn nếu không nền kinh tế không

phải lâm vào tình hình đôla hóa hoàn toàn, không còn khả năng bảo vệ trước những

biến cố kinh tế kinh tế, khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới. Hiện tượng đôla

hóa ở Việt Nam trong những năm qua dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức độ cao so với

các nước trong khu vực. Đôla hóa đã tạo lên những tác động trái chiều đến nền kinh tế

nước ta. Để có thể khắc phục được những hạn chế, phát huy những ưu điểm của hiện

tượng đôla hóa, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách và giải pháp hiệu quả

hơn nữa.

32