Upload
nguyen-chau
View
1.570
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
A. LỜI MỞ ĐẦU:
Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, từ nǎm 1990, công cuộc Đổi
Mới ở Việt Nam được đẩy mạnh hơn với chủ trương là phát triển một nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước;
công cuộc đổi mới cũng được tiến hành đồng thời với việc phát triển kinh tế đối ngoại,
mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
ngày càng mạnh mẽ.
Là một phần của thị trường tiền tệ, với vai trò như là chiếc cầu nối giữa nền
kinh tế nội địa và nền kinh tế thế giới bên ngoài, trong những năm qua, thị trường
ngoại hối Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ đối với sự ổn định và phát triển
của thị trường tiền tệ nói riêng cũng như đối với sự tăng tưởng của nền kinh tế nói
chung.
Tuy nhiên, gần đây, bên cạnh những những chuyển biến tích cực như luân
chuyển ngoại tệ của nền kinh tế được cải thiện, số lượng kiều hối tăng ấn tượng trong
những tháng cuối năm, thị trường ngoại hối Việt Nam cũng đã xảy ra nhiều biến động
đáng kể như tình trạng đô la hóa, sự hoạt động tràn lan của thị trường chợ đen đã gây
ảnh hưởng không nhỏ lên nhiều khía cạnh của nền kinh tế. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên
cứu về thực trạng của thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay đã và đang là vấn đề cấp
thiết không chỉ đối với các nhà kinh tế, các nhà đầu tư ngoại hối mà còn đối với cả
Chính phủ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế một cách tốt hơn.
Bài tiểu luận với đề tài “ Thị trường ngoại hối Việt Nam _ Thực trạng và
giải pháp” sẽ nêu ra một số thông tin về thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối
Việt Nam hiện nay cũng như đề xuất một số giải pháp để giải quyết những khó khăn
còn tồn tại.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 1 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
B. NỘI DUNG CHÍNH:
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỀ TÀI:
1. Khái niệm thị trường ngoại hối:
Thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái ngoại tệ là thị trường tiền tệ quốc
tế diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị
như ngoại tệ.
Thị trường ngoại hối có tên tiếng Anh là The Foreign Exchange Market, và
được viết tắt là FOREX hay FX.
Trong thực tế, do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng
(chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch), chính vì vậy theo nghĩa hẹp thì thị
trường ngoại hối còn là nơi mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng hay còn gọi là
Interbank.
2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối:
- Thị trường ngoại hối không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình
nhất định mà là bất cứ nơi đâu diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau. Do
đó nó còn được gọi là thị trường không gian.
- Là thị trường toàn cầu, hoạt động 24/24h. Do có sự chênh lệch múi giờ giữa
các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm, còn được gọi là thị
trường không ngủ.
- Trung tâm là thị trường liên ngân hàng - Interbank với các thành viên chủ yếu
là các ngân hàng thương mại, các nhà môi giới ngoại hối và các ngân hàng trung ương.
Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm tới 85% tổng doanh số giao dịch toàn cầu.
- Giao dịch thông qua các phương tiện hiện đại như điện thoại, mạng vi tính,
telex, fax….
- Chi phí giao dịch thấp, hoạt động rất hiệu quả. Do thị trường có tính toàn cầu,
thông tin cân xứng, khối lượng giao dịch cực lớn, công nghệ hoàn hảo, hàng hóa đồng
chất….dẫn đến chi phí thấp và hoạt động của thị trường trở nên hiệu quả.
- Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất là đồng USD, chiếm tới 41,5% trong tổng
số đồng tiền tham gia, kế đến là EURO và Yên Nhật đứng vị trí thứ 3.
- Nhạy cảm đối với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội…nhất là chính sách
tiền tệ của các nước đang phát triển.
3. Chức năng của thị trường ngoại hối:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 2 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
- Đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho quá trình chu
chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại.
- Công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm
điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ.
- Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng.
- Cung cấp các công cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro
hối đoái trong trao đổi ngoại tệ. Đồng thời giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu thu được
lợi nhuận nếu họ dự đoán được tỷ giá hối đoái.
4. Những thuận lợi và giá trị khi giao dịch trong thị trường ngoại hối:
* Không phí dịch vụ : Không phí trao đổi, không phí thanh toán, không phí chính
phủ, không phí môi giới. Người môi giới sẽ được trích từ phí giao dịch thông qua điểm
“bid-ask” (trung bình 3-5 pips)
* Không qua trung gian đặt lệnh: Giao dịch tiền tệ không cần trung gian và cho
phép khách hàng giao dịch trực tiếp với thị trường và được cập nhật thông tin trực tiếp
về giá và tỉ giá các cặp tiền tệ.
* Không giới hạn giao dịch: trong các thị trường khác hợp đồng giao dịch được giới
hạn bởi tỉ lệ nhất định (ví dụ hợp đồng quyền chọn tương lai đối với vàng là 5000
ounces). Trong Forex, có thể giao dịch với chỉ một tài khoản nhỏ 300$.
* Phí giao dịch thấp: Phí giao dịch cho các tài khoản nhỏ ( bid/ask spread) chỉ khoảng
0.1% với những điều kiện thường. Tài khoản càng lớn phí giao dịch càng thấp.
* Thị trường giao dịch 24h: Không phải chờ đợi giờ thị trường mở cửa và đóng cửa.
Giao dịch từ tối CN đến trưa thứ 6 giờ EST, có thể nói thị trường FOREX không bao
giờ ngủ. Đây là thuận lợi lớn đối với những người muốn giao dịch trong thời gian rảnh
hoặc thời gian thích hợp nhất trong ngày, bởi vì bạn có thể chọn giao dịch bất kì lúc
nào (sáng, trưa, tối hoặc đêm).
* Không ai có khả năng định hướng thị trường: Thị trường Forex quá lớn và quá
nhiều người tham gia nên không ai , cho dù cả 1 ngân hàng , có thể kiểm soát giá trị
trường trong dài hạn. Sự can thiệp của ngân hàng trung ương chỉ có tác dụng trong
ngắn hạn và không hiệu quả. Ngân hàng trung ương ngày càng có ít tác động hay can
thiệp vào thị trường toàn cầu.
* Access (Truy cập): Forex được mở 24h/ngày từ khoảng 6g chiều Chủ Nhật tới
khoảng 3g chiều Thứ Sáu. Những người giao dịch riêng lẻ có thể đối phó với tin tức
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 3 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
khi nó được tung ra còn hơn là đợi tiếng chuông mở cửa của những thị trường khác lúc
mọi người đều có những tin tức giống nhau. Điều này cho phép những người giao dịch
tham gia trước khi tin tức chi tiết được phân tích trên tỷ lệ giao dịch. Liquidity cao và
giao dịch 24 giờ cho phép những người tham gia thị trường vào và thoát ra bất cứ lúc
nào. Có nhiều nhà Môi giới phân phối Forex ở từng vùng, từng trung tâm thị trường
chính (Tokyo, Hong Kong, Sydney, Paris, London, Mỹ, v.v…) sẵn sàng tiếp tục đưa ra
giá mua và bán.
* Độ thanh khoản cao: Bởi vì thị trường Forex quá lớn, nó cũng rất dễ thanh khoản.
Điều này giúp bạn nhanh chóng thực hiện giao dịch chỉ với 1 cú nhấp chuột trong điều
kiện bình thường. Bạn có thể mua bán ngay lập tức tùy ý. Bạn không bao giờ bị “kẹt”
trong thị trường. Bạn cũng có thể thiết lập chế độ tự động cho sàn giao dịch kết thúc
lệnh giao dịch khi bạn đã đạt được lợi nhuận mong muốn ( định mức lãi) hoặc đóng
khi thị trường dịch chuyển ngược chiều mong muốn ( chống lỗ)
* Thị trường 2 mặt: tiền được giao dịch theo cặp, ví dụ: đô/yên, hoặc đô/đồng Thụy
Sỹ. Mỗi vị trí liên quan đến việc bán đồng tiền này và mua đồng tiền kia. Nếu người
giao dịch tin rằng đồng Thụy Sỹ sẽ cao giá hơn đô, họ có thể bán đô và mua đồng
Thụy Sỹ (bán sớm). Nếu người khác tin ngược lại thì họ sẽ mua đô và bán đồng Thụy
Sỹ (mua và trữ). Khả năng lợi nhuận tồn tại vì tỷ giá trao đổi (giá cả) luôn luôn dao
động. .Giao dịch Forex cho phép thu lời từ 2 phía cả tăng và giảm giá trị tiền tệ liên
quan tới đô. Trong mỗi giao dịch tiền tệ, mỗi bên đều có được và mất.
* Excution Quality: Bởi vì Forex rất hay thay đổi, hầu hết những giao dịch có thể
được thực hiện với giá của thị trường hiện tại. Trong tất cả những thị trường di chuyển
nhanh, không thể tránh được rủi ro trong tất cả các giao dịch (chứng khoán, bất động
sản, v.v…) nhưng có thể được tránh bằng 1 vài chương trình phần mềm của nhà môi
giới tiền tệ, các chương trình này sẽ thông báo cho bạn biết giá nhập vào chính xác
trước khi thực hiện lệnh. Bạn được phép chọn tránh hoặc chấp nhận rủi ro. Khả năng
thanh khoản của thị trường Forex rộng lớn đề ra những khả năng khớp lệnh có chất
lượng cao.
* Tính tập trung (Focus): Thay vì cố gắng chọn 1 chứng khoán, 1 khế ước, quỹ hỗ
tương hoặc bất động sản từ hàng chục ngàn thứ có sẵn trên thị trường, những người
giao dịch Forex chỉ tập trung vào 1 tới 4 đồng tiền. Những đồng dễ thay đổi và thông
dụng là: Yên Nhật, bảng Anh, đồng Thụy Sỹ và Euro. Những người giao dịch thành
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 4 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
công cao là những người tập trung vào số lượng đầu tư có giới hạn. Những người mới
bắt đầu Forex thường tập trung vào 1 đồng tiền và sau đó kết hợp từ 1 đến 3 đồng
trong hoạt động giao dịch.
* Tính xu hướng (Trendiness): Trong 1 khoảng thời gian lịch sử, tiền tệ đã khẳng
định xu hướng là quan trọng. Mỗi đồng tiền có “tính cách” riêng của nó và đưa ra chỉ 1
xu hướng, bất kể những cơ hội giao dịch đa dạng trong thị trường đặc điểm Forex.
Tất cả các lệnh phải được đặt thông qua sàn giao dịch. Để giao dịch tiền tệ bạn phải
cần 1 sàn giao dịch tiền tệ Forex. Hầu hết những công ty giao dịch có những yêu cầu
về tài khoản ký quỹ khác nhau. Bạn cần phải hỏi họ những yêu cầu về tài khoản ký
quỹ nếu muốn tham gia giao dịch tiền tệ thông qua sàn giao dịch của họ.
5. Phân loại thị trường ngoại hối:
5.1. Theo nghiệp vụ kinh doanh:
- Thị trường giao ngay
- Thị trường kì hạn
- Thị trường hoán đổi
- Thị trường tương lai
- Thị trường quyền chọn
5.2. Theo tính chất giao dịch:
- Thị trường giao ngay
- Thị trường tiền gửi
5.3. Theo tính chất pháp lý:
- Thị trường chính thức
- Thị trường phi chính thức
5.4. Theo phạm vi thị trường:
- Thị trường ngoại hối quốc tế
- Thị trường ngoại hối nội địa
5.5. Theo phương thức giao dịch:
- Thị trường giao dịch trực tiếp
- Thị trường giao dịch qua môi giới
6. Thành phần tham gia thị trường ngoại hối:
- Các ngân hàng
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 5 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
- Các ngân hàng trung ương: hầu hết ở các nước ngân hàng trung ương đóng vai
trò tổ chức, kiểm soát, điều hành và ổn định thị trường ngoại hối.
- Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia với mục đích
kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho khác hàng như một nhà môi giới.
- Các nhà môi giới: là chủ thể trung gian trong các giao dịch trên thị trường.
- Các doanh nghiệp: các doanh nghiệp tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu. Họ vừa là chủ thể cầu ngoại tệ,vừa là chủ thể cung ngoại tệ.
- Các cá nhân, các nhà kinh doanh: bao gồm các công dân trong và ngoài nước
có nhu cầu mua và bán ngoại tệ.
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
- Các công ty đa quốc gia
7. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu trên thị trường ngoại hối:
- Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay: Là nghiệp vụ mua hay bán ngoại
tệ mà việc chuyển giao được thực hiện ngay lập tức hay là chậm nhất là sau 2 ngày kể
từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán.
- Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá: Là nghiệp vụ dựa vào mức chênh
lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thông qua hoạt động mua
bán.
- Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn: Là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà
việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa thuận lúc
ký kết hợp đồng.
- Nghiệp vụ hoán đổi: Là nghiệp vụ ngoại hối phối hợp giữa hai nghiệp vụ
giao dịch ngoại hối giao ngay và giao dịch ngoại hối có kỳ hạn để kiếm lợi nhuận.
- Nghiệp vụ ngoại hối giao sau: Là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua
bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu
lực,việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai.
- Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối chọn quyền: Là nghiệp vụ thực hiện trên cơ
sở hợp đồng quyền chọn mua hay quyền chọn bán.
+ Quyền chọn mua : cho phép người mua có quyền nhưng không bắt buộc mua
một số lượng ngoại tệ nhất định.
+ Quyền chọn bán : cho phép người bán có quyền nhưng không bắt buộc bán
một số lượng ngoại tệ nhất định.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 6 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Người mua quyền chọn có thể bán hoặc hủy hợp đồng nếu thấy không có lợi.
Nhưng người bán quyền chọn phải thực hiện hợp đồng nếu như người mua yêu cầu.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Diễn biến của thị trường ngoại hối Việt Nam trong những năm gần đây:
Năm 2009, tỉ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt
sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5% khiến cho tỉ giá ngoại tệ liên
NH đã có đợt tăng đột biến.
Năm 2010, giá USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng 1/2010
lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng
2/2010. Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn vốn đầu tư trực
tiếp; từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức; từ vốn đầu tư gián tiếp; từ nguồn kiều hối từ
Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách quốc tế
đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm (-) sang
tăng trưởng dương (+)… Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước
bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỉ giá giảm,
chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã
giảm đáng kể.
Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối VN rơi vào tình trạng căng thẳng khi
cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều này khiến cho giá
USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô.
Đầu tháng 11/2010, giá trị đồng USD đang giảm trên toàn thế giới nhưng ở Việt
Nam nó lại tăng mạnh. Đây là một nghịch lý và đã gây ra những tác hại lớn cho nền
kinh tế. Giá USD trên thị trường tự do liên tục bứt phá lên mức cao, bỏ xa tỷ giá chính
thức. Ngày 3/11, giá USD tự do đã lên tới 21.000 đồng/USD. Dù có giảm xuống chút
ít vào cuối giờ chiều, 20.800 đồng ở TP.HCM và 20.850 đồng ở Hà Nội, nhưng đã
vượt xa trần 19.500 đồng/USD mà NHNN công bố.
Đà tăng giá USD đã diễn ra liên tục trong suốt nửa tháng và ngày nào cũng
tăng. Thực tế này khiến người dân đổ xô đi mua ngoại tệ. Trong khi đó, DN lại "bó
tay" bởi không mua được để đáp ứng nhu cầu của mình hoặc mua không đủ. Tình hình
diễn ra tương tự ngay trên thị trường chính thức, khi tỷ giá liên ngân hàng có lúc lên
tới 19.880 đồng, chứ không phải 19.500 như trần. Các ngân hàng đều niêm yết giá
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 7 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
đúng quy định, song thực tế, ngoài giá mua vào bán ra cộng thêm các chi phí khác đã
cao hơn giá niêm yết. Hiện tượng này dường như lặp lại tình hình của một số thời kỳ
trước. Đáng chú ý, trong hệ thống ngân hàng, quy mô giao dịch, trạng thái ngoại hối
cũng giảm. Nếu trước đây (hồi tháng 8) điều chỉnh là dương 3%, gần đây, đã giảm
xuống dương 1% và đến giai đoạn những ngày gần đây xuống xấp xỉ 0%. Điều này
cho thấy, các ngân hàng cũng không dư thừa ngoại tệ, chứ đừng nói là còn găm giữ mà
không bán.
Đây thực sự là một ngịch lý khi trên thế giới USD mất giá, vàng tăng giá, còn ở
Việt Nam USD tăng giá, vàng lên giá và tiền Việt lại mất giá.
6 tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, điểm nổi bật
nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỉ giá giao dịch dần hạ xuống.
Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỉ giá trên thị trường tự do, chênh lệch tỉ giá giữa thị
trường này so với thị trường chính thức giảm dần xuống, thậm chí có thời điểm còn
thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện tượng hiếm thấy trong nhiều năm qua.
Trên thị trường chính thức, tỉ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức thấp
hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỉ giá bình quân trên thị trường liên ngân
hàng do NHNN công bố); xen kẽ những ngày tăng, tỉ giá đã có nhiều ngày đứng và
nhiều ngày giảm, đây là điều hiếm thấy trước đây.
Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỉ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức giảm thiểu, tỉ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo thời
cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7, NHNN
đã mua được 5 tỉ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước
tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã bắt đầu bán
ngoại tệ cho ngân hàng; bước đầu chuyển dần quan hệ huy động và cho vay bằng
ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng; việc niêm
yết giá thanh toán, mua – bán trực tiếp bằng ngoại tệ đã được thu hẹp.
Tính đến ngày 29/9/2011, huy động vốn ngoại tệ của hệ thống các tổ chức tín
dụng từ nền kinh tế tăng 0,07% (tương đương 17 triệu USD) so với cuối tháng 8/2011.
Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ (thu nợ ngoại tệ) giảm 792 triệu USD, tương đương
2,71% so với cuối tháng 8/2011. Như vậy, trong tháng 9/2011, phần thu ngoại tệ (809
triệu USD) vẫn lớn hơn phần chi ngoại tệ trả nợ (745 triệu USD) của hệ thống ngân
hàng là 64 triệu USD.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 8 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Mặt khác, tiền gửi ngoại tệ của TCTD tại NHNN tăng cao trong tháng 9/2011
cho thấy thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng tiếp tục được đảm bảo. Tính
đến ngày 29/9/2011, tiền gửi ngoại tệ của TCTD tại NHNN tăng 45,1% so với cuối
tháng 8/2011, tương đương với mức tăng thêm 586 triệu USD.
Xem xét biểu đồ tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND trong năm
nay, ta thấy, sau loạt tăng 14 lần liên tiếp, đến đầu tháng 10, tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa USD với VND đã nối dài 5 tuần cố định. Và sau khi bán ra khoảng 1,5 - 1,8
tỷ USD hỗ trợ thị trường từ giữa tháng 8, chủ yếu cho nhập khẩu vàng, từ tháng 10 trở
lại đây NHNN không còn phải dùng giải pháp này. Ngày 7/12, trong ngân hàng, giá
USD bán ra thực tế đã quay về mốc 21.100 đồng, chỉ chênh khoảng 90 đồng so với
niêm yết. Trên thị trường tự do, những ngày này, giá mua bán USD đã hạ nhiệt, ổn
định ở khoảng 21.050 - 21.100 đồng/USD.
Mặc dù nhiều ngân hàng đều niêm yết giá mua và bán ở mức kịch trần, nhưng
biểu hiện cho thấy sự ổn định tương đối cũng đang dần trở lại. Điều này được ghi nhận
từ diễn biến tỷ giá trên cả thị trường chính thức và tự do. Cùng với xu hướng biến
động trên thị trường tự do, tỷ giá VND/USD trên hợp đồng kỳ hạn (NDF) cũng ghi
nhận sự ổn định ở hầu hết các kỳ hạn.
Có được kết quả này, một phần đến từ biện pháp mạnh tay của NHNN khi tăng
cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ ở một số tổ chức tín dụng đồng thời xử lý
mạnh tay đối với các trường hợp vi phạm đã có tác động tích cực đến tỷ giá trong thời
gian gần đây.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 9 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Song hậu thuẫn lớn nhất đang thể hiện là những chuyển biến tích cực của kinh
tế vĩ mô. Trong báo cáo tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam
(CG) năm 2011, diễn ra ngày 6/12, ông Cao Viết Sinh, Thứ trưởng thường trực Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, cho biết năm 2011 hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt kết
quả khả quan, thực hiện tốt hơn các chỉ tiêu đề ra và tạo sự hỗ trợ lớn cho yêu cầu ổn
định tỷ giá. Cụ thể là ở kết quả kiềm chế nhập siêu và trạng thái thặng dư của cán cân
tổng thể.
Theo báo cáo trên, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2011 dự
tính sẽ đạt con số kỷ lục là 202 tỷ USD, bằng 170% GDP. Trong đó, tổng kim ngạch
xuất khẩu đạt 96 tỷ USD, tăng 33% so với năm 2010; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt
106 tỷ USD, tăng 25%. Theo đó, nhập siêu giảm mạnh, cả năm dự kiến khoảng 10 tỷ
USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra
(không quá 18%). Cũng trong báo cáo trên, dự tính cán cân tổng thể năm 2011 sẽ
thặng dư tới 3,1 tỷ USD. Đây là sự cải thiện rất lớn khi năm 2009 cán cân tổng thể
thâm hụt tới 8,8 tỷ USD và năm 2010 thâm hụt 3,07 tỷ USD.
Trong những chuyển biến tích cực này, một dòng chảy ngoại tệ từ kiều hối cũng
đang góp phần đáng kể. Ước tính vừa công bố của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy,
trong năm 2011, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam đạt gần 9 tỷ USD. Với con số
này, Việt Nam thuộc top 10 các nước nhận được nhiều kiều hối nhất theo con đường
chính thức (gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Mexico, Philippines, Pakistan, Bangladesh,
Nigeria, Ai Cập và Liban).
Trong những năm gần đây, lượng kiều hối về Việt Nam luôn ở mức cao, vượt 5
tỷ USD kể từ năm 2007. Thế nhưng số ngoại tệ từ kiều hối bán cho hệ thống ngân
hàng chỉ được 10%. Với những quy định quản lý thị trường ngoại tệ vừa được triển
khai (phạt tiền từ 300 - 500 triệu đồng đối với trường hợp mua bán ngoại tệ trái phép;
tịch thu tang vật ngoại tệ, tiền đồng...), ngành ngân hàng kỳ vọng sẽ mua được nhiều
ngoại tệ hơn từ nguồn kiều hối.
Với những hậu thuẫn đó, tỷ giá USD/VND đang có những điều kiện về vĩ mô
để ổn định. NHNN đang nắm khả năng giữ được cam kết điều chỉnh không quá 1%, dù
sau loạt điều chỉnh từ đầu tháng 10 vừa qua đã dùng tới 0,85% "quỹ cam kết" này. Tuy
nhiên, nhiều tổ chức thời gian qua cùng dự báo rằng, cầu ngoại tệ thời gian còn lại của
năm 2011 và đầu năm 2012 sẽ ở mức cao.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 10 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Cụ thể là sau hơn 1 tháng giữ nguyên ở mốc 20.803 đồng, ngày 14/12, tỷ giá
liên ngân hàng bất ngờ điều chỉnh tăng thêm 10 đồng, lên 20.813 đồng. Từ động thái
này, đôla trong các ngân hàng thương mại cũng nhích thêm 8 - 10 đồng so với trước,
mua vào phổ biến ở 21.015 đồng, bán ra 21.019 đồng.
Như vậy, kể từ cam kết không tăng tỷ giá quá 1% của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Nguyễn Văn Bình trong cuộc họp với các ngân hàng thương mại hôm 7/9,
đến hôm nay, tỷ giá đã tăng tương đương 0,9%. Mức tăng này tương ứng với 185
đồng, kể từ mốc 20.628 đồng từ hồi đầu tháng 9.
Từ nhiều ngày nay, giá USD chính thức trong ngân hàng đã quay về đầu 21.000
đồng, bán ra phổ biến 21.100- 21.150 đồng, tương đương với thị trường tự do. Nhưng
thực tế, giá đôla trong ngân hàng sáng nay đã chênh thêm 100 đồng so với những hôm
trước. Tại Hà Nội, chủ một doanh nghiệp kinh doanh trang sức cho biết, đơn vị ông
được một số ngân hàng thương mại chào bán USD với giá 21.270 đồng, tăng ít nhất
120 đồng so với cách đây vài ngày.
Còn trên thị trường tự do, sau nhiều ngày mua bán phổ biến ở 21.100- 21.140
đồng, sáng nay, giá đang nhích nhẹ khoảng 30 đồng, giao dịch phổ biến 21.130-
21.180 đồng (mua vào- bán ra). Theo giải thích của các điểm thu đổi ngoại tệ, giá
nhích lên là do nhu cầu của thị trường bắt đầu "ấm" trở lại.
Ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Ngân hàng Bưu điện Liên Việt đánh
giá, việc đẩy tỷ giá lên 10 đồng sau cả tháng cố định vẫn nằm trong tỷ lệ cam kết của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nên không đáng ngại. Về nguyên nhân, theo ông, có
thể là do cầu USD đang mạnh về cuối năm, hơn nữa, đẩy tỷ giá lên song lại kiềm chế
được thị trường chợ đen, là một nhân tố để tăng giá USD, kích thích xuất khẩu.
Một số chuyên gia đánh giá, việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước lần
này có thể không gây tác động lớn tới thị trường. Nguyên nhân là, Nghị định 95 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm ngoại tệ, vàng... đã khiến thị trường tự do "chùn" hơn
trước. Hiện nay, về cơ bản, Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ giá, nhưng đã kiểm soát được
thị trường chợ đen, nên nếu vẫn nằm trong vùng 1% như cam kết của người đứng đầu
Ngân hàng Trung ương, thì không đáng ngại, một chuyên gia nhận định.
2. Những thách thức đối với thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay:
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, thị trường ngoại hối Việt Nam cũng đang
đứng trước nhiều khó khăn cần phải giải quyết kịp thời:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 11 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
- Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, tốc độ tăng tín dụng ngoại tệ lớn hơn gần
gấp 2 lần tốc độ tăng tín dụng nội tệ, tốc độ tăng tín dụng vàng cũng rất cao (gần gấp 3
lần tốc độ tăng tín dụng nội tệ) là những nghịch lý không giống nước nào trong khu
vực và trên thế giới. Hậu quả là đã làm tăng tình trạng đô la hóa (thậm chí vàng hóa)
vốn đã rất nặng nề, nay lại càng phức tạp thêm. Thêm vào đó, chênh lệch quá lớn giữa
lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ khiến các doanh nghiệp đổ xô đi vay USD, sau đó bán
ra lấy VND để phục vụ sản xuất kinh doanh, làm cho nguồn cung ảo USD trên thị
trường gia tăng. Các chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, cung ảo này sẽ biến thành cầu
thực khi các khoản vay đến kỳ đáo hạn và sẽ tạo áp lực lên tỉ giá những tháng cuối
năm.
- Nhập siêu liên tục tăng lên trong các tháng đầu năm làm cho cán cân thương
mại, cán cân thanh toán bị mất cân đối, tạo sức ép lên tỉ giá. Đó cũng là biểu hiện của
nợ thương mại nước ngoài không trong danh mục nợ tín dụng của Nhà nước và doanh
nghiệp với nước ngoài. Mặt khác, theo thống kê từ đầu năm đến nay, nguồn ngoại tệ
từ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, nguồn kiều hối sẽ khó tăng cao so với năm
trước. Nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp, hỗ trợ phát triển chính thức và khách quốc tế
đến Việt Nam có thể tăng, nhưng không có ý nghĩa quyết định.
- Luật pháp về kinh tế thị trường còn rất yếu và thiếu, làm cho Nhà nước bị bất
lực trước vô số hiện tượng kinh tế ngầm nằm ngoài vòng kiểm soát hoặc không thể
kiểm soát được, gây thất thu thuế và ô nhiễm môi trường ở mọi loại doanh nghiệp,
thuộc mọi thành phần kinh tế. Điển hình về việc thiếu và yếu của luật pháp trên thị
trường tài chính thể hiện trong các lĩnh vực kiểm soát tình trạng đô la hóa, pha loãng
cổ phiếu, làm giá chứng khoán, kiểm soát giao dịch bất động sản, chi tiêu ngân sách
nhà nước (nhất là tiêu), lập “sân sau” để đầu tư chéo và thanh toán biên mậu chủ yếu
bằng tiền mặt nhằm trốn thuế và gian lận giá cả … đã làm cho thị trường tài chính Việt
Nam năm qua có khá nhiều hiện tượng “loạn”: loạn giá vàng, bất động sản, tỷ giá, lãi
suất và tín dụng ngoại tệ, vì vậy vô hình trung cùng các mất cân đối khác, thị trường
tài chính đã góp phần tạo thành tổng lực đẩy chỉ số giá tiêu dùng lên tới 2 con số:
11,75% so với tháng 12/2009.
- Tốc độ tăng CPI tuy đã chậm lại, nhưng vẫn còn cao, nên yếu tố lạm phát vẫn
hiện hữu. Người có vốn có thể vẫn chưa hết kỳ vọng vào các nơi “trú ẩn” an toàn,
trong đó có ngoại tệ.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 12 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
- Mặc dù niềm tin vào đồng Việt Nam được củng cố nhưng tình trạng đô-la hóa
vẫn chưa được giải quyết triệt để; tín dụng ngoại tệ tăng cao, một số TCTD có hệ số sử
dụng vốn vượt 100%, một số TCTD huy động vốn nước ngoài để tăng trưởng tín dụng
cao, tiềm ẩn rủi ro khi các nguồn vốn nước ngoài bị rút đột ngột. Trên thị trường vẫn
còn tình trạng các TCTD lách các quy định về tỷ giá làm tăng bất ổn trên thị trường
ngoại hối…
- Các chính sách như thắt chặt tiền tệ, dẹp bỏ thị trường chợ đen, giảm mức trần
lãi suất huy động USD… chỉ tác động ngắn hạn đến tỉ giá. Sự biến động tỉ giá trong
dài hạn tùy thuộc vào mức độ nhập siêu và chỉ số lạm phát của Việt Nam trong tương
lai. Và về lâu dài, để giải quyết tốt bài toán tỉ giá ở Việt Nam, cần phải giải quyết một
cách căn bản bài toán nhập siêu và lạm phát nhằm tạo dựng lòng tin vững chắc vào
tiền đồng.
- Hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu có nguyên liệu là hàng nhập khẩu mà tỷ giá
liên tục tăng đã đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát, cộng hưởng với lạm phát trong
nước cùng đẩy giá hàng nhập khẩu cho tiêu dùng và nhập khẩu cho sản xuất lên cao.
Việc hầu như không có ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ làm cho giá trị gia tăng
thấp, mà còn làm cho nền kinh tế bị chia cắt cục bộ thành nhiều “tiểu nền kinh tế” có
những cơ chế khác nhau cả về sản xuất, tiêu thụ lẫn phương tiện thanh toán ngay trong
cùng một thị trường của quốc gia thống nhất.
- Đồng tiền Việt Nam dường như ngày càng quá nhỏ bé về sức mua nếu nhìn
xuyên về lịch sử 25 năm qua (từ ngày đổi tiền gần nhất là ngày 14-9-1985), còn nếu
nhìn vào nền kinh tế nói chung thì nước ta vẫn luôn là nền kinh tế bị nhập siêu (trừ
năm 1992). Nghĩa là, đồng nội tệ đã liên tục yếu đi so với sức mua bên ngoài mà vẫn
không cải thiện được tình trạng nhập siêu. Theo thời báo kinh tế Việt Nam, số 308
ngày 25-12-2010, nếu tính lũy kế chỉ 7 năm từ tháng 12/2003 đến tháng 12/2010, CPI
của Việt Nam đã tăng 200% (2 lần); Cũng theo nguồn trên, giá vàng tháng 12/2010 đã
cao hơn giá vàng tháng 12/2000 tới 7,3 lần, tức là sức mua của VND sau 10 năm nếu
so với vàng chỉ còn 13,7%. Trong khi đó, cuộc chiến tiền tệ giữa các cường quốc, cũng
như cuộc chiến nợ công giữa các quốc gia châu Âu cũng đang gây sức ép giảm sức
mua của nhiều đồng tiền, làm cho thị thường ngoại hối có nhiều thay đổi to lớn.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 13 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
III. GIẢI PHÁP:
1. Cải cách thị trường ngoại hối chính thức để xoá bo chợ đen:
Việt Nam đang tồn tại hai loại tỷ giá: tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng và tỷ
giá trên thị trường tự do (hay “chợ đen”). Các cơ quan chức năng đang dùng các biện
pháp hành chính để dẹp bỏ thị trường chợ đen. Tuy nhiên, đây không phải là một cách
tiếp cận căn cơ. Cách tốt nhất là chính thức hoá phần lớn nhu cầu ngoại tệ của người
dân vốn chỉ có thể được đáp ứng trên thị trường chợ đen.
Thị trường ngoại hối của một quốc gia thực chất là thị trường liên ngân hàng.
Khác với thị trường chứng khoán, mã giao dịch của thị trường ngoại hối là các cặp tỷ
giá so với đồng bản tệ, chẳng hạn USDVND, EURVND, GRBVND v.v. Cũng khác
với thị trường chứng khoán, nơi giá của các cổ phiếu niêm yết được xác định thông
qua giao dịch cận biên trên một sàn thị trường tập trung, ở đây, giao dịch được thực
hiện một cách phi tập trung. Các nhà đầu tư sẽ giao dịch với các ngân hàng thông qua
các nhà môi giới. Đến lượt, các ngân hàng sẽ mua bán ngoại tệ với nhau thông qua các
sàn EBS hoặc Reuters để duy trì trạng thái ngoại hối của mình.
Tất cả các giao dịch giữa các bên, dù giữa nhà đầu tư với các ngân hàng hay
giữa các ngân hàng với nhau, đều được thực hiện độc lập với các mức tỷ giá riêng rẽ.
Tuy nhiên, do sự cạnh tranh giữa môi giới và ngân hàng, các mức tỷ giá này có xu
hướng ngang bằng nhau. Cũng vì sự cạnh tranh, mức chênh lệch giữa tỷ giá mua và
bán (bid-ask spread) mà các ngân hàng áp dụng thường cũng thấp. Mức tỷ giá liên
ngân hàng mà chúng ta biết thường có tính ước lệ do các ngân hàng niêm yết hoặc các
hãng thông tấn thu thập trên thị trường liên ngân hàng.
Trên thị trường liên ngân hàng, ngân hàng trung ương hay ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đóng vai trò như là một nhà tạo lập thị trường. Thông qua các hoạt động mua
và bán ngoại tệ với các ngân hàng thương mại (NHTM), NHNN có thể điều tiết tỷ giá
trên thị trường xung quanh mức mục tiêu mà mình mong muốn.
Thị trường “chợ đen” của Việt Nam phát triển vì nhu cầu đầu tư và sử dụng
ngoại tệ của các cá nhân không được thị trường liên ngân hàng và hệ thống NHTM
đáp ứng.
Người dân nhìn thấy các cơ hội gia tăng tài sản của mình khi nắm giữ ngoại tệ
nhưng không thể tham gia vào thị trường liên ngân hàng. Điều này ắt dẫn đến nhu cầu
mua và nắm giữ ngoại tệ trên thị trường chợ đen.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 14 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Tương tự, người dân luôn có nhu cầu sử dụng ngoại tệ, chẳng hạn cho mục đích
du lịch nước ngoài hoặc khám chữa bệnh. NHTM không thể đáp ứng hết được các nhu
cầu này. Kết quả là họ tìm đến chợ đen.
Với nguồn cung hàng tỉ USD mỗi năm từ kiều hối, thị trường chợ đen ngày
càng lớn mạnh. Do tỷ giá liên ngân hàng không đến được với dân chúng nên tỷ giá tự
do trở thành tín hiệu chính để hầu hết các thành phần kinh tế tham chiếu cho các tính
toán kinh tế của mình.
Cách tốt nhất để hạn chế sự phát triển của thị trường chợ đen là hợp thức hoá
phần lớn các nhu cầu về ngoại tệ mà người dân chỉ có thể được đáp ứng thông qua chợ
đen.
2. Mơ rộng đối tượng tham gia đầu tư và môi giới:
Hiện nay, trên thị trường liên ngân hàng của Việt Nam, chỉ có các doanh nghiệp
xuất – nhập khẩu được tham gia mua bán trên thị trường liên ngân hàng thông qua các
chi nhánh của các NHTM trong vai trò môi giới.
Nên mở rộng đối tượng môi giới ra các tổ chức được NHNN (hoặc một uỷ ban
quản lý thị trường ngoại hối) cấp giấy phép, ví dụ như các công ty chứng khoán, các
“nhà cái” ngoại tệ trên thị trường chợ đen. Khi đó, các chi nhánh của NHTM sẽ phải
cạnh tranh với các nhà môi giới mới này trong việc mua bán ngoại tệ.
Các quỹ đầu tư và các cá nhân nên được phép tham gia đầu tư trên thị trường
liên ngân hàng thông qua các nhà môi giới. Việc đầu tư vào ngoại tệ cũng tương tự
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 15 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
như việc đầu tư vào các loại tài sản khác. Nhà đầu tư có thể mở tài khoản giao dịch
ngoại tệ tại các công ty môi giới tương tự như tài khoản chứng khoán rồi nạp VND
hoặc USD vào tài khoản và giao dịch mua bán ngoại tệ. Khi muốn rút tiền, họ sẽ phải
bán ngoại tệ ra thị trường để lấy VND. Bằng cách này, tuy họ có tài khoản đầu tư bằng
ngoại tệ nhưng trên thực tế ngoại tệ không chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng.
3. Tách hoạt động sư dụng ngoại tệ khoi đầu tư:
Hiện tại hoạt động sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất – nhập khẩu
cũng như của cá nhân không được tách bạch khỏi hoạt động đầu tư.
Nên cho các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như người dân được mua ngoại tệ
để nhập khẩu hàng hoá hoặc đi du lịch/công tác nước ngoài từ các NHTM. Việc này sẽ
tương tự như người dân ra nước ngoài sử dụng thẻ Visa. Họ được mua với tỷ giá thống
nhất cộng với một tỷ lệ phí nhất định do rút ngoại tệ ra khỏi hệ thống liên ngân hàng.
NHTM sẽ áp dụng các mức phí khác nhau cho các đối tượng là doanh nghiệp hoặc
khách hàng cá nhân. Nhà nước có thể quy định các tỷ lệ tối thiểu cho các đối tượng
này.
Hiện nay, ở châu Âu, bên cạnh mức phí tối thiểu, người dân muốn sở hữu ngoại
tệ sẽ phải trả thêm từ 1 – 2% cho các khoản mua ngoại tệ cho các mục đích cá nhân.
Thủ tục mua ngoại tệ nên đơn giản. Với lượng mua thấp, chẳng hạn dưới 1.000 USD,
người dân chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân. Với lượng mua lớn hơn, họ phải
khai mục đích sử dụng.
Bởi tỷ giá mua ngoại tệ tiền mặt thường cao hơn tương đối so với tỷ giá liên
ngân hàng nên việc đầu tư bằng cách mua ngoại tệ gửi tiết kiệm thường không phải là
lựa chọn của nhà đầu tư.
4. NHNN: bo tư duy phân phối:
Trong một nền kinh tế thị trường, giá cả cần phải bình đẳng cho mọi đối tượng
và mục đích sử dụng. Nếu Nhà nước muốn hỗ trợ đối tượng nào hãy sử dụng chính
sách tài khoá.
Trong thị trường ngoại hối, mọi mục đích sử dụng ngoại tệ như xăng dầu hay
mỹ phẩm cần được đối xử bình đẳng. Các đối tượng này sẽ đều phải mua ngoại tệ với
tỷ giá như nhau, phản ánh cung – cầu ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế. Nếu Nhà nước
muốn trợ giá cho xăng dầu hay hạn chế việc mua mỹ phẩm, hãy áp dụng các biện pháp
thuế quan.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 16 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Chỉ với tư duy này NHNN mới thực sự đóng vai trò là người tạo lập và điều tiết
thị trường ngoại hối. Là một tay chơi nắm thông tin ro ràng nhất và có vốn lớn nhất,
NHNN chắc chắn sẽ nhanh chóng làm giàu được quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia tương
tự như các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan
thực hiện sau năm 1997.
5. Bảo vệ giá trị sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền Việt Nam:
Trước hết, cần nhận diện và vận dụng các qui luật của tiền tệ: Lượng tiền nội tệ
cung ứng vào lưu thông càng lớn (bất luận từ kênh nào) so với mức đã bão hòa trước
đó thì tỷ giá càng tăng (đo bằng số đồng nội tệ/một đồng ngoại tệ), cũng đồng nghĩa
với lạm phát càng cao. Và ngược lại, bất kể lúc nào có lạm phát là có hiện tượng cung
tiền các kỳ trước đó quá cao so với nhu cầu thực của nền kinh tế. Cầu về ngoại tệ càng
lớn thì tỷ giá cũng càng tăng (nhưng chỉ trong ngắn hạn, nếu nền kinh tế không bị đô
la hóa) và ngược lại, tức là khi lãi suất huy động ngoại tệ phải càng tụt thì tỷ giá mới
sẽ phải tụt theo. Lãi suất nội tệ càng tăng thì ngược lại, không những tỷ giá sẽ càng tụt
mà chỉ số lạm phát cũng sẽ càng giảm… Suy cho cùng, sức mua đối nội và đối ngoại
của đồng nội tệ phải tăng tiến tới ổn định thì mới chống được lạm phát và giảm phát –
Đó là nguyên lý lý thuyết bất di bất dịch.
Thứ hai: Từ những nguyên lý mang tính qui luật nói trên, để chống gia tăng tỷ
giá lúc này cần phải có các giải pháp tương ứng để làm “xì hơi” từ từ các áp lực đang
làm cho tỷ giá và lạm phát tăng. Trong đó giải pháp mạnh để làm “xì hơi” có hiệu ứng
ro nhất chính là dùng ngoại tệ dự trữ (ngay cả rất hiếm cũng phải cân nhắc, sử dụng)
để mua tiền đồng vào, bán ngoại tệ ra theo các địa chỉ được xem là đang có áp lực lớn
nhất và thiết thực nhất.
Đồng thời với việc này là hàng loạt các giải pháp khác mang tính ngắn hạn như
phải có tín hiệu siết chặt hơn nữa chính sách tiền tệ và giảm ro rệt sự chi tiêu của
Chính phủ; Tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu trên thị trường tiền tệ sơ cấp; Nếu
cần, cũng phải tăng cả dự trữ bắt buộc tiền gửi; Sử dụng nhiều hơn các công cụ của
chính sách tiền tệ để tạo sóng lan tỏa tới thị trường tín dụng, lấy “đà” để tự thị trường
có điều kiện giảm dần lãi suất nội tệ theo qui luật; Về hành chính, phải công bố giảm
mạnh lãi suất huy động ngoại tệ, tăng mạnh lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và tiến tới
giảm dần, từng bước có lộ trình chấm dứt tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng; Buộc các
tổ chức tín dụng phải chuyển khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp từ nguồn huy động
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 17 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
sang dư nợ tín dụng thay vì hạch toán vào mục “đầu tư”; Cân đối lại chi và tiêu ngân
sách nhà nước; Tạm dừng nhập khẩu những đơn hàng không thiết yếu; Đa dạng hóa cơ
cấu danh mục tiền dự trữ cũng như phương tiện thanh toán quốc tế…
Những giải pháp mang tính trung và dài hạn: Tăng cường các biện pháp mạnh
về quản lý nhà nước để chống đô la hóa bằng luật và hệ thống hành chính một cách
cương quyết sao cho trên đất Việt Nam nhất thiết chỉ tiêu tiền Việt Nam đối với mọi
thành phần, mọi khu vực kinh tế; Xác định lộ trình để không còn tín dụng ngoại tệ và
tín dụng vàng trong thị trường vốn; Quản lý chặt việc cung ứng tín dụng và sử dụng
phương tiện thanh toán của tất cả các nhóm ngân hàng, kể cả các ngân hàng có nhân tố
nước ngoài; Tiến tới khuyến khích các dòng ngoại tệ chảy vào Việt Nam chỉ được đi
qua thị trường ngoại hối và thị trường trái phiếu chính phủ,g cường mở chi nhánh
và/hoặc mở ngân hàng 100% vốn Việt Nam tại nước ngoài để vừa phát triển thị trường
dịch vụ ngân hàng ra nước ngoài, vừa đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu tiền đồng ngay
từ ngoài biên giới lãnh thổ cho khách vào đầu tư hay du lịch tại Việt Nam; Phát triển
mạnh hệ thống các doanh nghiệp phụ trợ để cải thiện ro rệt cơ cấu chi phí trong giá
thành sản phẩm hàng hóa xuất khẩu theo hướng chi phí mua nguyên, nhiên liệu, sức
lao động cũng như thiết bị máy móc do Việt Nam sản xuất sẽ chiếm tỷ trọng lớn, tăng
mạnh hàm lượng nội địa hóa giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam; Có lộ trình chuyển
dứt khoát mô hình Ngân hàng Nhà nước hiện nay sang mô hình Ngân hàng Trung
ương độc lập với Chính phủ; Hình ảnh đồng tiền Việt Nam phải ngày càng được cải
thiện không chỉ về niềm tin vào sức mua ổn định, mà tiến tới cả về mệnh giá và tính
độc lập được bảo vệ, được tin tưởng trong mọi tầng lớp công chúng.
Thứ ba: Trên thị trường bất động sản, chỉ nên đáp ứng tín dụng trung và dài hạn
cơ bản bằng nguồn vốn có độ dài tương ứng qua thị trường chứng khoán/hoặc qua các
cơ chế chuyên nghiệp như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, Công ty tài chính,
Quỹ đầu tư… độc lập hoặc hạch toán độc lập trong ngân hàng thương mại. Để thực
hiện được điều đó cần phải có cơ chế minh bạch cho phòng ngừa, kiểm soát rủi ro.
Đặc biệt là giải pháp “chứng khoán hóa” tín dụng bất động sản cần phải thông qua
thông tin về xếp hạng tín dụng, về kết quả kiểm toán độc lập đủ độ tin cậy cao, không
nên áp dụng nguyên lý “nồi lẩu nợ thập cẩm” tín dụng bất động sản như ở Mỹ đã làm
trong những năm 2001 – 2009. Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn
yếu, giải pháp hữu hiệu lúc này cho vấn đề giảm rủi ro tín dụng bất động sản chính là:
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 18 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Ngay trong các ngân hàng thương mại lớn nên thành lập các đơn vị hạch toán độc lập
như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, công ty tài chính… để thực hiện các hoạt
động dịch vụ và tự doanh chuyên nghiệp về lĩnh vực bất động sản, như: thuê mua tài
chính, bảo hiểm khoản vay, bảo lãnh phát hành chứng khoán bất động sản, bảo lãnh
vay vốn, hay lập Quỹ đầu tư tín thác để hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh chuyên
nghiệp, trước khi ngân hàng thương mại có thể trở thành tập đoàn tài chính ở Việt
Nam.
Thứ tư: Trên thị trường chứng khoán, đề nghị Chính phủ có chính sách buộc
mọi doanh nghiệp cổ phần đều phải lên sàn, từng bước dẹp bỏ thị trường IPO không
chính thức hay IPO khép kín nội bộ. Để chống pha loãng cổ phiếu, mọi doanh nghiệp
cổ phần chỉ được phép phát hành bổ sung khi và chỉ khi có phương án tăng qui mô sản
lượng sản xuất kinh doanh một cách minh bạch và tổng số vốn cần huy động bổ sung
buộc phải đồng thời dưới 2 hình thức với tỷ lệ tương đương nhau, gồm: cổ phiếu và tỷ
lệ trái phiếu trung, dài hạn ghi danh cho phép thanh toán trước hạn ghi ro vào trái
phiếu theo qui định bằng pháp luật… Trái phiếu được quyền thanh toán trước hạn loại
này là để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp. Theo đó, pháp luật
cần cho phép nhà đầu tư có thể sử dụng quyền này trong việc gây áp lực thanh khoản
cho doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu này nếu duy trì được đến kỳ đáo hạn, cho
phép nhà đầu tư được quyền hoặc là thanh toán lấy tiền về 100% theo mệnh giá trái
phiếu, hoặc là qui định một tỷ lệ thích hợp được quyền chuyển bổ sung vốn điều lệ
thành cổ phiếu phổ thông theo công thức công khai ghi trong qui chế phát hành cổ
phiếu tăng vốn như sau: số cổ phiếu phổ thông thu được bằng tổng giá trị trái phiếu
được chuyển đổi chia cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp đó đang hình thành tại sàn
chứng khoán vào thời điểm chuyển đổi.
Tóm lại, Chính phủ cần triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp điều hành
kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết 11 của Chính phủ, đặc biệt là các giải pháp về điều hành
chính sách tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và quản lý hoạt động ngân hàng để luồng chu chuyển
ngoại tệ của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực. Cán cân
thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ ngoại hối nhà nước được củng cố và thanh khoản
ngoại tệ của hệ thống ngân hàng được đảm bảo trong những tháng vừa qua là cơ sở
quan trọng để ổn định tỷ giá USD/VND và lãi suất ngoại tệ trên thị trường trong nước
trong năm đến.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 19 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
C. KẾT LUẬN:
Đánh giá thị trường ngoại hối trong thời gian qua, mặc dù niềm tin vào đồng
Việt Nam được củng cố nhưng tình trạng đô-la hóa vẫn chưa được giải quyết triệt để;
tín dụng ngoại tệ tăng cao, một số TCTD có hệ số sử dụng vốn vượt 100%, một số
TCTD huy động vốn nước ngoài để tăng trưởng tín dụng cao, tiềm ẩn rủi ro khi các
nguồn vốn nước ngoài bị rút đột ngột. Trên thị trường vẫn còn tình trạng các TCTD
lách các quy định về tỷ giá làm tăng bất ổn trên thị trường ngoại hối…
Vì vậy, năm 2012, NHNN ta cần có những giải pháp điều hành chính sách tiền
tệ nói chung cũng như thị trường ngoại hối nói riêng. Cụ thể là thực hiện các biện pháp
kiểm soát chặt chẽ cho vay bằng ngoại tệ để đảm bảo tăng trưởng tín dụng bằng ngoại
tệ phù hợp khả năng huy động vốn, chủ trương hạn chế đô la hóa trong nền kinh tế.
Ngoài ra, NHNN cần điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt theo tín hiệu
thị trường, phù hợp với quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, diễn biến cán cân
thanh toán quốc tế và các cân đối vĩ mô; tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về
quản lý ngoại hối, khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, thu hút các nguồn tiền đầu
tư, kiều hối,... từ nước ngoài về nước, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.
Nếu thực hiện được những giải pháp này trong tương lai thị trường ngoại hối
Việt Nam chắc chắn sẽ có những chuyển biến tích cực, góp phần ổn định nền kinh tế
nước nhà.
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 20 -
Thị trường ngoại hối Việt Nam - Thực trạng và giải pháp GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hạnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/tieu-luan-thi-truong-ngoai-hoi-viet-nam-.200311.html
http://www.petrotimes.vn/thuong-truong/dien-dan-kinh-te/2011/09/thi-truong-
ngoai-hoi-viet-nam-dien-bien-va-xu-the
[2]. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2011/01/09/tổng-quan-thị-trường-tài-
chính-việt-nam-năm-2010-và-bài-học-cho-những-năm-tiếp-theo/
[3].http://www.tinkinhte.com/tai-chinh-dau-tu/phan-tich-nhan-dinh/thi-truong-ngoai-
hoi-lam-sao-de-thao-nut-that.nd5-dt.54899.123131.html
[4].http://infotv.vtv.vn/ngan-hang-tai-chinh/tin-tuc/61585-on-dinh-thi-truong-ngoai-
hoi-ty-gia-trong-nhung-thang-cuoi-nam
[5].http://www.viet-trader.com/kien-thuc-co-ban/tim-hieu-ve-thi-truong-ngoai-
hoi.html
[6]. http://www.vnbusiness.vn/thị-trường-ngoại-hối-lặng-sóng
[7]. http://vi.wikipedia.org/thị-trường-ngoại-hối
SVTH: Nguyễn Thị Cẩm Châu_B16QNH - 21 -