24
Bài viết: Hoàng Tích Chu: “Một dịp cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu” Lại Nguyên Ân (sưu tầm, hiệu đính, giới thiệu) Nguồn: Báo Đông Tây, Hà Nội, số 84 (27 Juin 1931); số 86 (4 Juillet 1931); số 87 (8 Juillet 1931); số 89 (18 Juillet 1931); số 90 (22 Juillet 1931) Một tư liệu về văn phong báo chí - Vài lời của người sưu tầm Bài viết tôi giới thiệu lại dưới đây thuộc về ngòi bút một nhà báo từng góp công sức đáng kể vào bước trưởng thành của báo chí văn chương tiếng Việt, nhất là báo chí văn chương ở miền Bắc Việt Nam những năm 1920-1930: Hoàng Tích Chu. Đây là bài viết mà tác giả buộc phải nói về mình, đáp lại một cuộc tranh luận. Tuy vậy, điều có ích hơn đối với đám hậu sinh chúng ta lại là những quan sát của một người trong cuộc về sự tiến triển của văn chương báo chí tiếng Việt ở những bước đầu tiên. Chắc hẳn từ rất xa xưa người Việt đã nói tiếng Việt! Song, viết tiếng Việt thì xa xưa chỉ có thể viết bằng chữ Nôm. Ngay ở thời đại văn chương Hán- Nôm của Việt Nam, thơ Nôm (văn vần) đã đạt đến trình độ bậc thầy, trong khi văn (xuôi) Nôm thì quá ít phát triển và chỉ đạt mức các bài tập. Cho nên, từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và từ đầu thế kỷ XX ở Bắc Kỳ, tức là mới chỉ cách nay trên một trăm năm, với công cụ mới là chữ Quốc ngữ (viết bằng các mẫu tự Latin abc…), và với phương tiện truyền thông mới là báo chí, người Việt mới thực sự bắt tay vào việc tạo ra các khuôn mẫu viết văn xuôi bằng thứ tiếng đã nói hàng ngàn năm của dân mình. Nói không quá, con-người-nói- tiếng-Việt, chỉ từ đây mới bắt đầu tập nói năng trên giấy, tập suy nghĩ trên giấy! Có hiểu tình thế nêu trên mới hình dung được tầm mức khó khăn của công việc mà các bậc tiên khu của chúng ta đã làm; hiểu tình thế nêu trên còn giúp chúng ta không thấy lạ về sự đồng hành của văn chương và báo chí tiếng Việt suốt những thời gian dài, nhất là từ giữa thế kỷ XX trở về

Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Bài viết:

Hoàng Tích Chu: “Một dịp cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích Chu”

Lại Nguyên Ân (sưu tầm, hiệu đính, giới thiệu)Nguồn: Báo Đông Tây, Hà Nội, số 84 (27 Juin 1931); số 86 (4 Juillet 1931); số 87 (8 Juillet 1931); số 89 (18 Juillet 1931); số 90 (22 Juillet 1931)

 

Một tư liệu về văn phong báo chí - Vài lời của người sưu tầm Bài viết tôi giới thiệu lại dưới đây thuộc về ngòi bút một nhà báo từng góp công sức đáng kể vào bước trưởng thành của báo chí văn chương tiếng Việt, nhất là báo chí văn chương ở miền Bắc Việt Nam những năm 1920-1930: Hoàng Tích Chu. Đây là bài viết mà tác giả buộc phải nói về mình, đáp lại một cuộc tranh luận. Tuy vậy, điều có ích hơn đối với đám hậu sinh chúng ta lại là những quan sát của một người trong cuộc về sự tiến triển của văn chương báo chí tiếng Việt ở những bước đầu tiên. 

Chắc hẳn từ rất xa xưa người Việt đã nói tiếng Việt! Song, viết tiếng Việt thì xa xưa chỉ có thể viết bằng chữ Nôm. Ngay ở thời đại văn chương Hán-Nôm của Việt Nam, thơ Nôm (văn vần) đã đạt đến trình độ bậc thầy, trong khi văn (xuôi) Nôm thì quá ít phát triển và chỉ đạt mức các bài tập. Cho nên, từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và từ đầu thế kỷ XX ở Bắc Kỳ, tức là mới chỉ cách nay trên một trăm năm, với công cụ mới là chữ Quốc ngữ (viết bằng các mẫu tự Latin abc…), và với phương tiện truyền thông mới là báo chí, người Việt mới thực sự bắt tay vào việc tạo ra các khuôn mẫu viết văn xuôi bằng thứ tiếng đã nói hàng ngàn năm của dân mình. Nói không quá, con-người-nói-tiếng-Việt, chỉ từ đây mới bắt đầu tập nói năng trên giấy, tập suy nghĩ trên giấy! Có hiểu tình thế nêu trên mới hình dung được tầm mức khó khăn của công việc mà các bậc tiên khu của chúng ta đã làm; hiểu tình thế nêu trên còn giúp chúng ta không thấy lạ về sự đồng hành của văn chương và báo chí tiếng Việt suốt những thời gian dài, nhất là từ giữa thế kỷ XX trở về trước. 

Những nhận xét của nhà báo Hoàng Tích Chu về các lối văn thành hình trong thực tế báo chí ở Bắc Kỳ đầu thế kỷ XX, xem ra, lại chính là những điều mà các giới nghiên cứu sử học, văn học, ngữ học trong nước lâu nay rất ít đề cập. Vậy mà những nhận xét này lại chạm đến được những dữ kiện có thật của lịch sử báo chí tiếng Việt. Tôi chú ý giới thiệu lại bài báo này là vì thế.

Sau cùng xin nói vắn tắt về khung cảnh xuất hiện bài báo này. 

Những năm 1930-1931, báo Đông phương dấy lên luồng dư luận công kích lối văn báo chí của

Page 2: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Hoàng Tích Chu; người đeo đuổi việc công kích ấy là Thục Điểu (Ngô Tất Tố) [xem loạt bài này trong sách: Ngô Tất Tố, Tiểu phẩm báo chí, (Cao Đắc Điểm sưu tầm biên soạn) Hà Nội: Nxb Hội Nhà văn, 2005, tr. 133-178]. Một điểm cũng nên lưu ý là trong khi Ngô Tất Tố chê văn Hoàng Tích Chu thì trên báo Trung lập ở Sài Gòn, Phan Khôi lại khẳng định: “Trong văn Quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là ‘lối văn Hoàng Tích Chu’, sự ấy trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi”, đồng thời cho rằng “Lối văn Hoàng Tích Chu ấy mà muốn vĩnh viễn thành lập trên văn đàn, bề nào cũng phải cải lương […] không cốt ở sửa đổi đẽo gọt bề ngoài, phải nhờ ở công học vấn bên trong mới được” (“Văn nghị luận phải viết thế nào”, Trung lập, Sài Gòn, 18/7/1931). 

Hoàng Tích Chu không trả lời những bắt bẻ câu chữ của Thục Điểu, nhưng lại phác hoạ các lối văn viết báo đã hình thành ở làng báo xứ Bắc và kể lại con đường của mình, sự lựa chọn văn phong của mình. 

Đối với hậu thế chúng ta, chính sự phác họa ấy lại là đáng nghe để biết hơn cả. 

Ghi chú thêm về tiểu sử nhà báo Hoàng Tích Chu 

Theo tác giả Chương Đài ("Hoàng Tích Chu, ông tổ văn mới”, Tràng An, Huế, 30/10/1936) thì từ 1921 Hoàng Tích Chu đã làm trong toà soạn Nam phong; năm sau làm cho tờ Khai hoá của Bạch Thái Bưởi, viết bài ký bút hiệu Kế Thương. 1923 vào Nam Kỳ, xuống tàu làm phụ bếp qua Hồng Kông, Thượng Hải, sang Pháp. 1926 cùng Đỗ Văn về nước. 1927 lại đáp tàu thuỷ sang Pháp, chú ý đi dự nghe các buổi diễn thuyết của báo giới và các buổi giảng khoáng đại của một vài đại học. 1929 về nước, giúp việc biên tập Hà thành ngọ báo của Bùi Xuân Học, thời gian này mục “Câu chuyện hàng ngày” của Hoàng Tích Chu được dư luận chú ý. Cuối năm 1929, bộ ba Hoàng Tích Chu, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bính bỏ Ngọ báo, sáng lập Đông tây tuần báo. Tờ này do Hoàng Tích Chu chủ trì, có lúc được coi như là “tờ báo của thanh niên Hà Thành”; đến giữa 1932, khi Đông tây đổi thành báo hằng ngày được gần 2 tháng thì bị rút giấy phép. Hoàng Tích Chu sang làm tờ Thời báo (của Phùng Văn Long) làm sống lại tinh thần của tờ Đông tây, được gần hai chục số thì Thời báo lại bị cấm. Hoàng Tích Chu lâm bệnh và mất vào 30 Tết Quý Dậu 1933. Cuốn hồi ký Mấy chàng trai… thế hệ của Dương Thiệu Thanh (xuất bản 1969 ở Sài Gòn) cũng có một số tài liệu về Hoàng Tích Chu và về điều mà tác giả này gọi là “tập đoàn Hoàng Tích Chu” trong hoạt động báo chí ở Bắc Kỳ những năm 1920-40.

  Lại Nguyên Ân 

Một dịp cho tôi nói về lối văn Hoàng Tích ChuI. Vào đề [1] 

Gần đây, một bạn đồng nghiệp xướng lên cuộc “tẩy chay” về văn chương. Trên báo ấy, trong khuôn nho nhỏ để mấy dòng chữ đen, đại khái: Những bài của độc giả gửi đến, nếu viết theo lối văn ông Hoàng Tích Chu (cho phép tôi xoá chữ “ông”) thì bị bỏ vào sọt giấy. 

Cách vận động ấy, tôi cho là không nhã trong tình văn cũng như nhiều điều vu cáo sỗ sàng của lắm kẻ nói mò, đều không thể bắt tôi phải trả lời. 

Nhưng không phải là hạng làm cao, giả cái bộ con người không tẹp nhẹp, tôi vốn mong được dịp phô bày ý kiến với các bạn đồng nghiệp chất vấn nhau một cách chánh đáng. Vì tôi nghĩ: nghề làm báo An Nam đã chẳng được nói nhiều, thì tội gì phí giấy mà vẽ voi, rỗi mồm mà gây chuyện bẩn. Như mới rồi một tờ báo Tây bản xứ cũng phạm cái lỗi nói mò, tôi vừa bắt đầu lên tiếng thì một bạn đồng nghiệp lại hiểu lầm cho tôi đổi thay thái độ. Khá tiếc! Lại vì tôi nghĩ: trong làng báo ta quanh

Page 3: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

quẩn được mấy lăm người, tình đồng nghiệp đã không gắn bó để kiến trọng với người, lại cứ đăm đăm rình nhau miếng một. 

Còn nữa, vì tôi nghĩ: tờ báo ở xứ ta có thể sớm còn chiều mất. Nó đã không thuộc quyền ta tự chủ thì anh em ơi! với mọi điều gì có ích cho quốc dân, chúng ta nên có kẻ tung người hứng, mở đường sáng tỏ cho dư luận. Cớ sao lại vào hùa với tiếng thị phi vô căn cứ mà tìm cách gièm nhau, để đến nỗi trái cái lẽ tự nhiên: báo quán dẫn đường cho dư luận, Đông tây, ngoài mấy phen to tiếng, bởi vậy vẫn giữ lại cái thái độ hòa bình. Hòa bình không phải là nhút nhát.

Việc đối phó với báo Bạn dân, tôi chưa kịp hết lời, ông chủ báo ấy đã đánh dây nói tỏ ý hiểu nhau, thì đến nay, đọc hai bài ông Thục Điểu phê bình lối văn của tôi. Giọng nói tuy vẫn có tính chất pha trò, […] viết văn khôi hài phải [… ư] ra, ngọn bút […] [2] nghiêm nghị. Đó, cái dịp cho tôi được cùng một bạn đồng nghiệp bàn đến lối viết văn Quốc ngữ ngày nay. Việc trả lời nhà phê bình sẽ nói rõ ở đoạn sau. 

Lối văn Hoàng Tích Chu! Độc giả với các nhà văn tự cho phép tôi cùng ông bạn đồng nghiệp gọi vậy. Mà làm sao được! “Văn Hoàng Tích Chu” đã may thành ra một danh từ, lắm người quen gọi rồi. Ngày nay tôi không thể không nhận có nó, nhưng tôi chẳng khi nào dám nhân tiện khoe môi vì nó. 

Vì sao? Vì thực ra, nó chẳng phải để trong trí sáng kiến của tôi. Vì phiền lắm, nó đã gây nên nhiều cái dở cho nền văn Quốc ngữ. 

Thế thì nó nguyên là của những ai? Thế thì nó sinh ra những chứng dở gì? Tôi sẽ xin lần lượt nói tới ở vài bài sau. 

Ông Thục Điểu cũng hẳn bằng lòng cho tôi nhân câu chuyện “Nói chơi” mà có lẽ viết ra được những bài có ích. Ông hẳn cũng thư cho tôi ít bữa, vì một nách đôi ba con mọn, nhiều việc khác trong Đông tây, tôi chẳng thể để nhờ ai. 

II. Lúc mới xây nền quốc văn 

Lúc chữ Quốc ngữ dùng viết văn xuôi tức là lúc chữ Quốc ngữ đã thịnh hành. Mà chữ Quốc ngữ bắt đầu được thông dụng thật là nhờ từ hồi trong nước có báo chí. 

Nói đến đây, ta không thể không nhớ công những bậc tiền bối. Dù là người có Tây học hay là người có Hán học, bọn lính tiên phong ấy một sớm cầm bút sắt nhảy vào trường văn tự mới, hẳn rằng gặp lắm nỗi khó khăn. 

Trong thành Hà Nội năm 1905 tung ra hai tờ báo. Của dẫu lạ tai mắt người ta, nhưng là thứ thông dụng hơn những quí vật năm xưa của chúa tàu Tây khi đậu cửa Đà Nẵng đem cống hiến nhà vua. Tờ Đại Việt tân báo, phần chữ Hán có cụ Đào Nguyên Phổ, mà cụ Hàn Thái Dương thì coi phần quốc văn. Còn tờ Đại Nam đồng văn có cụ bảng Đa Ngưu coi phần chữ Hán, mà phần Quốc ngữ thì do ông Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương. 

Cái buổi sơ khai, phần Quốc ngữ trong hai tờ báo ấy phần nhiều là bài dịch các công văn. Dịch công văn tuy không phải là việc khó như ngày nay ta so với việc dịch một bản diễn văn, nhưng hồi bấy giờ ai nào đã quen, cách dùng chữ lối đặt câu thật chưa thuận tiện trên cán bút thì nhà phiên dịch không phải chẳng dụng công. Muôn việc khó ở lúc bắt đầu. Cái chỗ dụng công của người trước há chẳng là cái chỗ chúng ta được hưởng ở ngày nay sao? 

Đến lúc Đăng cổ tùng báo ra đời. Một kỷ nguyên mới trong làng báo. Trên trận bút đã thấy lối văn công kích, trong trường văn mới nẩy ra khách tài hoa. Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính với Phạm

Page 4: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Duy Tốn, ba tay róng trống, một tiếng hò nhau. Đối với nền quốc văn, quốc dân như đã có cảm tình từ đấy. Nhưng người viết được hay người ưa viết nó vẫn thấy được về số ít. Mãi đến hồi  Đông Dương tạp chí xuất bản (1913) […] thịnh của quốc văn […] đội quân kia dắt […] [3] làm việc, mà người phụ họa, lúc này sao đông thế! Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố, Phạm Quỳnh, nhà quan, nhà giáo với bọn sinh viên trường Sĩ hoạn cùng xô ra góp sức xây nền. Cái nền ấy, như muốn được tốt đẹp vững bền, tất phải cần có nhiều tài liệu. 

Thì tài liệu lấy ở đâu ra? Ở văn Tàu với ở văn Pháp. Trong tập Đông Dương giấy nát chỉ long bởi vậy phần nhiều bài thuộc về phiên dịch. Dịch các thứ tiểu thuyết đoản thiên trường thiên, dịch những đoạn thi văn tuyệt tác. Không kể dịch văn Tàu, Phan Kế Bính là một nhà dịch rất lọn nghĩa mà không hủ. Nói đến việc dịch văn Tây, ai nhận kỹ hẳn cũng thấy từ xưa có hai lối khác nhau, lối Nguyễn Văn Vĩnh với lối Phạm Quỳnh. Trong hai lối ấy, lối văn Hoàng Tích Chu chịu một phần ảnh hưởng như thế nào, sau tôi sẽ nói. 

Ngoài văn dịch, trong tạp chí Đông Dương không phải là không có các văn bài khác. Gõ đầu trẻ, lời đàn bà, luận về luân lý, về lý tài, về thời cục, có mục để mua vui giải trí, có mục để bàn bạc sâu xa. Làng báo hồi bấy giờ thật đã biết khéo xoay đủ ngón. “Báo để dạy dân. Nhưng dạy khó thì ít người hiểu, mà dạy sơ thì ai chịu xem. Chúng tôi muốn sự học ấy thành ra một sự chơi không khó nhọc”  - Lời tuyên bố đại khái của Đông Dương tạp chí, kể đã là mới lắm rồi vậy.

Nhưng lối văn Quốc ngữ hồi ấy thế nào? 

Tôi nghiệm ra rằng các nhà viết văn bấy giờ thật dụng công hơn sau này nhiều, chịu gọt rũa, chịu suy xét, không có cái thứ văn vu vơ, non nớt. Có lẽ bởi cái quan niệm: Người nào viết báo phải là người có học, thì những nhà mà tôi vừa kể trên kia quả chẳng phải bọn học dốt chỉ nói càn, óc ngu hay cãi bướng. Cái quan niệm ấy, than ôi, không còn giữ đến ngày nay, mà cái giá trị làng báo cũng vì vậy kém sút đi chăng? 

Có điều này ta nên chú ý là: trong buổi mới, mấy nhà viết văn như đã có khuynh hướng muốn thoát ly hẳn chữ Tàu. Xem ngay cái tên đặt cho vài mục trong báo, như: Gõ đầu trẻ, Lời đàn bà, người đặt ra thật bạo đưa cán bút, không sợ nó là “nôm” như sau này có lắm người phải khuân hàng đống chữ Tàu thay vào mới cho là có bề trịnh trọng. 

Công của ai nên trả cho người ấy. Dùng được tiếng nôm khéo, ta nên biết công ấy cho ông Nguyễn Văn Vĩnh. Đọc những bài thơ ngụ ngôn và mấy bộ tiểu thuyết ông dịch ở chữ Tây, ta thấy rằng lối văn Nguyễn Văn Vĩnh đã nhân văn Pháp mà tìm được ra những tiếng mới.

Nhưng sao hồi đó, người ta không kêu văn Nguyễn Văn Vĩnh là mới? Có lẽ vì người ta cho ông chỉ là một nhà Tây học, tuy lời văn trôi chảy, độc giả đã hoan nghênh lắm, mà như có ý coi nó “nôm” quá, hay “chướng” quá. 

Người ta đọc lối văn này như ông Phạm Quang Sán đã viết, cho là thuận tai hơn: 

“Trong một hội phải có điều lệ thì mới thành ra tư cách một hội, trong một làng phải có khoán ước thì mới thành ra tư cách một làng, huống chi nước là một đoàn thể rất nhớn của loài người mà lại không có luật lệ ư?” 

Đó thật là lối viết theo thể luận của văn Hán. Nhưng trái lại, lối viết theo văn Pháp, có phần sốc nổi, cứng cáp, nhiều ý mà không rườm lời, như: 

“Làm người phải sống, sống để mà sống, sống để mà đem cái viên gạch phần mình vào cái nền công quả xa xôi, huyền diệu. Mà ở thế gian này, có yên vui được trong lòng, họa chăng chỉ ở việc

Page 5: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

gắng sức mà sống ấy thôi.” 

Lối văn Nguyễn Văn Vĩnh kể ra thật mới, đem so với lối văn trên, cái chỗ khác nhau là ở cách dùng chữ, cách đặt câu và nhất là cách lập luận. 

Kể một thí dụ này, ta thấy rằng hồi bấy giờ, văn Quốc ngữ viết ra đã chia ra ba lối: lối viết theo văn Pháp, lối viết theo văn Tàu, và lối “tham bán” là lối viết theo cả hai thể văn Trung-Pháp, tức là lối viết của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc vậy. 

Trong ba lối, lối tham bán và lối viết theo văn Tàu được nhiều người dùng hơn. Còn lối Nguyễn Văn Vĩnh, không thấy mấy người theo, mà nó đến nỗi không ai biết đến, nhất là từ hồi có báo Nam phong ra đời, ông Phạm Quỳnh tải vào lòng văn lắm chữ Tàu quá ư kỳ quặc.

III. Trong hai lối văn Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh 

Đông Dương tạp chí rồi trút lốt sang Trung Bắc tân văn. Hồi ấy khoa cử dẫu đã gần tàn mà thế lực chữ Tàu còn mạnh lắm. Nhà nho ta ít người đọc viết được chữ Quốc ngữ. Cái lối văn Nguyễn Văn Vĩnh bởi vậy dù đã có nhiều vẻ mới, nhưng thực chẳng mấy người theo. Người ta cho nó là nôm! Cái “nôm” ấy, tôi tưởng là chỗ khó bắt chước cho những khối óc còn chứa đầy khuôn sáo cũ. 

“Phi Hán tự bất thành văn”, cái quan niệm đó, từ mấy ông nhà nho xướng lên rồi thành ra như một điều luật đối với mấy nhà tân học khi sắp cầm bút viết văn mẹ đẻ. Đến sau này mà đến cả ngày nay nữa, người ta còn tưởng lầm thế. Văn Nguyễn Văn Vĩnh nôm na quá, vì văn Nguyễn Văn Vĩnh ít mượn đến chữ Tàu. 

Ra đời gặp lúc chữ Tàu đã nhường ngôi cho chữ Tây, tạp chí Nam phong buổi mới, được độc giả hoanh nghênh lắm, cũng như đối với Đông Dương tạp chí hồi xưa. Mà hoan nghênh vì cớ gì? Một cớ lớn vì ông Phạm Quỳnh đã khéo theo thời thượng dùng thật lắm danh từ mới của chữ Tàu, cũng như hồi đó, bọn nhà nho ta làm luận, làm văn sách (kim văn) ưa dùng nhiều chữ mới như phong trào, chủ nghĩa, phương châm, mục đích, vũ đài, v.v… Trong khi nhà nho đang sính chữ mới, lại được nghe thứ văn Quốc ngữ có lắm chữ mới hơn, Nam phong tự nhiên thu được cái giá trị độc nhất trong làng văn tự bấy giờ. 

Đánh trúng chỗ yếu của người đọc, ông Quỳnh khuân ngay chữ Tàu mới vào quốc văn mỗi ngày một nhiều, đến nỗi ăn phải bả có thiếu chi người, người viết văn cũng mỗi ngày đua nhau viết lối Nam phong. Văn Nam phong, người ta hiểu ngầm là lối văn Quốc ngữ có dùng nhiều chữ Hán. Đã có người trong Nam Kỳ phản đối lối văn khó hiểu ấy, nhưng cũng không lại được với món quà đang thích dụng ở Bắc Kỳ. Lại gặp lúc khoa cử tàn rồi, hạng nhà nho - trừ mấy ông vốn có duyên nợ với quốc văn như Dương Bá Trạc, Phan Khôi, Nguyễn Bá Học – còn hoặc không nhanh chân chạy vào trường sĩ hoạn, hay hết cái nghề đặt trường dạy trò, mà xoay ra cái đời viết báo dịch sách thì mấy ông ấy càng thịnh dùng chữ Tàu lắm. Thường trong một câu, chữ Tàu chiếm đến 7/10, có thế, văn chương mới trịnh trọng! Lối viết văn theo Tàu bởi vậy đắc dụng hơn hết, mà lối văn Tản Đà cũng bởi vậy đã lên tiếng khua đời một dạo. 

Cái địa vị viết báo, ai chịu để riêng cho mấy ông nhà nho có học. Bọn thanh niên hồi ấy cũng dần dần đua nhau ra múa bút. Này Dương Phượng Dực, này Nguyễn Mạnh Bổng với tôi đây chính là người trong bọn đó. Một điều đáng mừng nhưng cũng là điều đáng lo cho quốc văn. Đến nỗi trong tòa soạn Nam phong khi còn lẩn lút trên căn gác nhỏ phố Hàng Bông, ông chủ nhiệm đã lên tiếng phàn nàn với tôi: trong bọn thanh niên nhảy vào trường viết văn, trừ kẻ vô học, chỉ quanh quẩn mấy câu sáo vặt, còn một số người có Tây học đang mắc cái tật dùng lầm chữ Hán. Đã không có Hán học lại muốn viết theo lối văn Tàu, văn mấy ông thanh niên ấy không thành ra một lối nào. Nhưng cũng nên tìm cho một tên, thì gọi nó là lối “ba lăng nhăng”. Ấy cũng là cái quả báo trong văn giới đang lúc giao thời. 

Page 6: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Các ngài độc giả đừng thấy tôi nói từ nãy đến giờ mà vội tưởng lối văn Phạm Quỳnh là dở. Chỉ là cái hay của người, ta không biết đó thôi. 

Muốn biết lối văn Phạm Quỳnh, ta phải so sánh với lối văn Nguyễn Văn Vĩnh, mà muốn biết được cả hai lối văn ấy, ta cần phải xem qua cái lối phiên dịch của hai người ấy trước. Hai nhà Tây học này bắt đầu viết văn từ dịch văn. 

Ông Nguyễn Văn Vĩnh dịch văn Tây chỉ cốt tóm hết ý từng đoạn, rồi xoay xỏa viết ra tiếng ta cho thông để dễ hiểu. Nhưng chớ tưởng thế là dễ. Đã tóm hết ý của nguyên văn, lại giữ làm sao cho không mất mầu mẽ và tinh thần của câu văn. Đọc những bài thơ dịch ở Ngụ ngôn Lã Phụng Tiên [4], ta không thể không nhận là hay được. 

Cái lối văn dịch này bởi có cái hay là cho người dễ hiểu, cho nên có thể gọi là lối văn thông dụng. Nhưng nó có cái dở, dở ở chỗ ông Vĩnh hoặc vì lười hay vì quá chiều độc giả, chỉ lấy nghĩa văn Tây rồi viết theo “óc người mình”. Đã đành ông có đặt ra nhiều tiếng nôm mới, mà thực quả ông không đem vào nền quốc văn được nhiều điệu mới của văn Tây. 

Chính đó là chỗ kém lối văn Phạm Quỳnh vậy. 

Muốn viết quốc văn cho khá, tôi thiết tưởng chúng ta phải chịu tập dịch trước, – lời ông Quỳnh trước đây thường nói với tôi khi bàn đến cách viết văn Quốc ngữ. 

Thực vậy, ông Quỳnh tập dịch đã lâu, ông có thể vừa trông nguyên văn, vừa cầm bút dịch ngay. Nhưng nên biết cái lối dịch của ông có chỗ này khác ông Vĩnh là chỗ ông ít khi chịu làm tội nguyên văn bằng cách xoay lên lộn xuống để câu văn dịch viết ra hợp với óc người mình. Nghĩa là ông rất chịu khó theo đúng điệu văn Pháp mà viết ra quốc văn. Có lẽ ông nghĩ rằng cú pháp của mình ít quá, cho nên khi viết một bài đại luận, ta thường chỉ dùng có một lối thôi. Văn không sinh sắc là bởi người viết văn không biết cái cơ biến hóa. Nếu ta có thể khiến chữ như khiến ngựa, thì ta cũng có thể khiến văn như khiến chiếc thuyền theo lái, – cái lái tức là ý nghĩ của mình muốn đạt ra lời vậy. 

Còn nhớ một hôm, đưa cho tôi xem một câu ông viết, viết dài tới mười lăm dòng, ông có nói:

"Đó, văn Quốc ngữ viết theo cú pháp văn Tây, dùng nhiều điệu khác nhau mà không lạc ý. Sao ta chẳng chịu tập lấy để mở rộng nền quốc văn!" 

Sao ta không tập? Là bởi nhà văn ta thường có chứng lười, lại thêm cái chứng khinh thường văn Quốc ngữ, cho nên đặt bút xuống là ngoay ngoáy viết. Mà muốn tập cú pháp Tây, hẳn phải là người có xem hiểu văn Tây. Hiểu văn Tây chẳng thiếu chi người, sao đến khi viết văn ta, lại chẳng thấy chút gì là Tây cả? Là bởi cái quan niệm như tôi đã nói trên: “phi Hán tự bất thành văn”, các ông không bạo viết, vì sợ văn viết lối Tây có người chê là ngây ngô, ngộ nghĩnh. Nào biết đâu nhà văn tự cũng như nhà chánh trị, có người theo đời để được đời ưa, mà cũng có người đi trước đời cho nên đời ghét. Đi trước đời, xưa nay bao khách đã mang lấy cái vạ vào mình! 

Tóm lại, văn Nguyễn Văn Vĩnh được ở cái chỗ dùng nhiều tiếng nôm mới, viết ra lối văn thông dụng; mà văn Phạm Quỳnh hơn ở cái chỗ dùng nhiều điệu văn Pháp, nhưng tiếc nó quá nệ, nên có vẻ nặng nề, ít người hiểu được. 

Hai người đều có công với nền văn Quốc ngữ. Nhưng ai biết công cho? 

Người ta không biết công cho hai ông, có lẽ vì người ta không trông thấy cái chỗ khổ tâm của hai ông trước khi cầm bút đặt trên mảnh giấy. 

Nhưng người ta không biết mình, mình không nên giận. Văn như còn tiến, hai ông chỉ nên phàn

Page 7: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

nàn: chửa làm điều gì hơn nữa cho nền quốc văn. 

IV. Văn Hoàng Tích Chu có từ hai quyển sách viết được tại Pháp 

Nghe tôi nói đến hai lối văn Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, những cái óc hẹp vội cho tôi vì ưa hai người mà tâng bốc hai người. Khốn lắm! Ưa người ta với chẳng ưa người ta, cái đó không can thiệp gì đến việc tôi bình phẩm văn người ta. 

Tôi chưa dám chắc đã hay bằng ai, nhưng tôi có thể chắc được nói to: tôi không có thói ấy, – cái thói yêu nên tốt ghét nên xấu, cái thói đê hèn chằng câu chuyện nọ vào câu chuyện kia, cái thói túng lý nói càn, dùng những lời vu cáo nhỏ nhen như để bịt miệng người muốn phân phải trái.

Tôi không có thói ấy… 

Theo ý tôi, văn Nguyễn Văn Vĩnh hay ở chỗ dùng nhiều tiếng nôm, nhưng không có nhiều điệu thì lời văn bê tha và không chững chạc. Đến văn Phạm Quỳnh, tuy điệu văn có biến hóa, mà khổ về nỗi chứa nhiều chữ Hán, nó bệ vệ quá hóa ra nặng nề. 

Hai thứ văn ấy, ta đều chẳng nên dùng để viết báo. Lối làm báo mỗi ngày phải đổi mới, văn viết báo cũng không thể cứ giữ mãi lối xưa. Hai việc đó, tôi đã nghiệm thấy khi còn ở Pháp.

Đến đây, tôi có cần phải nói rằng tôi cũng không có cả cái thói đi xa về tha hồ nói khoác không? Hạng nói khoác là hạng không có đức tự tín, phải già mồm lấn liếp, nỏ miệng khoe khoang, cố dìm cái hay của người, để tỏ mình có giá trị. 

Tôi sang Pháp, học nghề kế toán để đi làm kiếm bánh. Đó, cái đoạn lịch sử ấy của tôi, nó thật chẳng được xán lạn như của mấy ông có tiền sang học mong đậu Cử nhân, Tiến sĩ. 

Trong khi kiếm được thừa miếng bánh, tôi vẫn không quên là tôi phải tập học lấy nghề nhà. Cái nghề làm báo. Nghề làm báo của tôi không học ở trường dạy làm báo mà học được ngay ở các tờ báo tôi đọc hàng ngày. 

Mười tháng sau khi tôi tới Paris, có tờ báo mới ra đời. Một Hội Liên hiệp Báo giới xướng lên cuộc tẩy chay, tẩy chay cái chánh kiến của tờ báo mới bằng những bài công kích trên các báo, với bằng lối cấm các cửa hàng bán thứ báo mới kia. Nhưng có một điều mà tôi để ý nhất, là: trong cuộc xung đột này, tờ báo mới có thứ văn riêng, thứ văn của ông chủ bút chỉ để viết vào mục “Chánh kiến của chúng tôi” (Notre politique). Ông Pierre Bertrand, ngày nay đã là người thiên cổ, có một lối viết câu rất ngắn. Nó hùng hồn làm sao! Nó gọn ghẽ làm sao! Ta đọc xem, có thể tưởng tượng như búa rìu của nhà văn vậy. 

Tôi ưa lối văn của ông, vì tôi cho đấy mới là lối để viết nhật trình, đấy mới là ngòi bút vạch cỏ trừ hoang, để chỉ đường cho dư luận. Ngày qua tháng lại, văn ông Bertrand đã thành ra lối thông dụng ở trên một vài tờ báo, mà hiện cũng còn thấy trên tờ báo Le Quotidien, chính là tờ báo mới đó. 

Thế ra văn chương cũng có quyền đổi mới, tôi nghĩ. Phải, lúc đọc được văn Paul Bourget, ta không còn ưa văn bộ tiểu thuyết Télémaque; mà đến lúc ta thích văn của cụ A. France, ta hết muốn lần đến thứ văn dài mà nặng của quyển Le Disciple. Văn chương cũng như chánh trị, như luân lý, cũng như “mốt”, đã đều là của người nghĩ ra, thì đều là thứ ta có thể thay đổi được. Có gì là lạ! 

Văn Pierre Bertrand cùng với văn Clément Vautel, văn De la Fouchardière đều là ba thứ văn mới trong làng báo nước Pháp ngày nay. 

Văn chương nước người đã theo “mốt” mới, văn chương của mình cũng nên đổi mới cho hợp thời.

Page 8: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Trên nền thực hành, tôi bắt đầu bằng viết một cuốn sách Quân chủ với châu Âu sau trận chiến tranh năm 1914. Viết được 350 tờ, tôi đưa cho một người bạn xem. 

"Anh muốn viết theo giọng mới, nhưng còn như thấy vành khuôn cũ vẫn dính chặt trên đầu anh."

Mấy lời bạn phê trên trang sách khiến tôi phải hậm hụi ngồi sửa lại, sửa một lần, viết ra một lần, mà người bạn quá nghiêm vẫn chê rằng rườm: 

"Nghe văn anh vẫn ‘kêu’ lắm!" 

Văn kêu, bạn cho là lối văn cũ rích, ý ít mà lời nhiều, hay lời nhiều mà chưa đạt được gọn ý.

Năm tháng sau, tôi khởi công viết lại. Bạn xem vẫn chưa bằng lòng lắm. Chữa đi sửa lại, tốn giấy mực đã nhiều, tính ra cả thảy sáu lần, quyển sách 350 rút lại chỉ còn trăm rưởi. Tạm cho được, người bạn như muốn cổ lệ tôi về cuốn sách sau. 

Tự do ngôn luận trong hồi cách mệnh nước Pháp là quyển sách tôi cũng viết khi còn làm thân lữ khách bên đất trời Tây. Viết đến quyển này, tôi thấy đã đỡ tốn công, cán bút không đến nỗi thấy nặng nề như trước nữa. 

Tôi nghiệm ra văn Quốc ngữ từ trước viết ra, dùng nhiều lời quá, để che cái chỗ thiếu ý. Chính bởi vậy mà lời văn rườm rà, nó mềm, nó yếu, nó không có “gân” hoạt động. Nghe tiếng đàn bầu, ta chỉ thấy như trong người uể oải, muốn ngồi xuống, muốn nằm ra, rồi thiêm thiếp trong cõi du dương. Cũng vậy, một bài đại luận viết lên trên báo, đọc ra, ta mong được như nghe cành dương rung trước gió. Người đọc văn ưa thế, là bởi người viết văn cũng chỉ ưa thế. Văn chương như vậy, quả là thứ chết đặt trên trang giấy trắng phẳng lì! 

Hai quyển sách của tôi trên kia ấn hành ở Sài Gòn. Ông Diệp Văn Kỳ đã bình phẩm trên tờ Đông Pháp thời báo. Ông Kỳ không ưa nó, vì nó “cộc”, cộc vì có khi một câu chỉ có một, hai, ba chữ. Ông Kỳ cũng lại không ưa nó vì nó “vụn”, vụn vì mỗi câu một ý, đọc ra nó không có thể đưa ông vào giấc ngủ trưa dưới gốc cây me Tàu. 

Ông Kỳ không ưa thứ văn quá gọn, tôi không ưa thứ văn quá dài. Ông Kỳ ưa thứ văn ngâm nga, tôi chỉ ưa thứ văn rắn rỏi. Hai khối óc khác nhau, hai khuynh hướng tự nhiên chẳng giống nhau.

Nhưng tôi tin ở lối viết của tôi. 

V. Văn Hoàng Tích Chu từ hai quyển sách lên trên mặt báo 

Hiện nay, làng văn nước Pháp, từ nhà viết sử đến nhà làm truyện, đều xu hướng về lối ký sự là một lối của nhà làm báo. Bởi vậy ông Gustave Terry, chủ báo L’oeuvre, hồi còn sống, đã xướng lên cuộc đòi mấy chiếc ghế cho báo giới trong Viện Hàn lâm. 

Ký sự là một lối tả chân, trông sự vật, rồi xét đoán theo khoa tâm lý để diễn ra lời văn thiết thực, hoạt động. Ấy báo giới nước Pháp trọng nhất cái ông viết giỏi mục việc vặt. Viết được việc vặt, tức là viết được thời sự, viết được các bài đại luận. Cái đó thật khác hẳn với báo giới bên ta chỉ chuyên trọng các ngài ngồi nặn hàng ngày mới xong một bài xã thuyết viển vông. Lý tưởng các ngài cũ rích, lời văn các ngài dài thượt, cả bài thường chỉ chứa có một ý, mà xoắn vào kéo ra, quanh đi quẩn lại, các ngài tài nặn nên những lời bóng bẩy, đọc nghe kêu gớm! 

Không còn là thời buổi ấy, thời buổi cho các ngài ngồi gẩy móng tay trong tòa soạn, ngồi nghĩ vẩn vơ hàng trăm cái thuyết khó tiêu để kéo dài ra hàng ba bốn cột. Cột báo ngày nay quí lắm, cũng như thời giờ, độc giả không chịu ăn mãi cái bả văn kêu, nó lắm khi vô nghĩa.

Page 9: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Vậy muốn viết theo lối ký sự, hạng văn cổ kia, ta phải bãi đi! Khuôn sáo cũ, ta phải phá đi! 

Tôi xin hiến các ngài một thứ văn khác, vì tôi tin rằng chỉ có thứ văn ấy là có thể dùng để viết theo lối ký sự được thôi. 

Ba số báo đầu, hồi tôi bắt đầu chủ trương tờ Ngọ báo, đã làm nao dư luận. 

"Ô kìa! Văn cộc!"

"Lạ! Cái anh này ngô nghê tệ! Văn gì mà đọc thấy không thông. Văn chó mửa!" 

Thư độc giả gửi đến hàng ngày không thiếu gì lời thống mạ, ông chủ nhiệm đã toan chịu tiền phí tổn tiễn tôi xuống bến Sáu Kho: 

"Văn Khai hóa năm xưa đâu? Xin ông cứ cho nghe lại, còn hơn…" 

"Nó chết rồi. Trong vòng ba tháng, nếu báo ông còn sụt mãi, tôi xin trả lại chỗ ngồi này." 

Chao ôi! Từ ngày tôi làm báo Khai hóa đến ngày tôi làm tờ Ngọ báo, tính ra thấm thoắt đã bảy năm. Bảy năm rồi mà sao văn Khai hóa của tôi, độc giả còn như muốn cho nó có ngày phục sinh?Không lạ, nghề làm báo của anh em đồng nghiệp, tôi xét ra vẫn không thấy nhúc nhích lên một bước nào trong khoảng bảy năm trời ấy. Xã thuyết viển vông cũ rích vẫn bệ vệ chiếm hai ba cột đầu, mục thời sự vẫn coi rẻ bằng bài bá cáo việc riêng. Cách xếp đặt không thay đổi, lối phô trương chẳng khác xưa. Trong khi người ta đương quên thói cũ, ngâm những câu văn kêu: “Gió thét năm châu, mưa gầm bốn bể”, mà tôi, một buổi sớm mai, tải vào những thứ, người ta trông chướng mắt, đọc chướng tai, tôi biết thân phận xin nhận mọi lời phỉ báng. 

Văn cộc! Văn chó mửa! Chưa quen, các ngài riễu thế. Tôi xin nhận, nhưng tôi không chịu cái tiếng “bịp” đời. Theo bổn phận nhà nghề, tôi chân thành cống hiến quốc dân thứ quà mới ấy, vì tôi tin rằng văn tôi không có hại, cũng như lối làm báo của tôi đã thay đổi được nhiều phần, mà anh em làng báo từ Bắc vào Nam đã lắm người theo, hay đã chịu ít nhiều ảnh hưởng. 

Phải chăng? Ở Bắc Kỳ, mấy tờ báo thủ cựu đã thấy canh tân lối xếp đặt, mấy ông nhà văn thủ cựu cũng thấy mạnh bạo đổi lại lối viết giọng văn. Cái chưa quen rồi là cái sẽ quen. Chớ ngại. 

Nói thế, chẳng phải tôi dám khoe công, thời thế với hoàn cảnh có một phần ảnh hưởng lớn với anh em đồng nghiệp. Nói thể chỉ là tôi muốn kể rõ cái lý đương nhiên: nghề làm văn với nghề làm báo phải đi đôi trên đường cải cách. 

Văn Hoàng Tích Chu thấy có người theo, vô số người theo, không phải vì tôi chiều lòng đăng những bài gởi đến cũng viết giọng văn tôi, như ý nhỏ nhen tưởng vậy; chỉ là độc giả đã công nhận cái thứ văn đó nó thiết thực, nó gọn ghẽ hơn thứ văn rườm rà viển vông đó thôi. Mà ngẫm xem, chính những kẻ lên tiếng công kích văn tôi, không những cũng chịu ảnh hưởng của văn tôi, mà cũng phải công nhận văn tôi đã thịnh hành. Bởi nó có thịnh hành, mấy kẻ đó mới tìm đường công kích nó. 

Áo mượn mặc không vừa đã đành là anh lố bịch; như vừa chăng nữa, mà nó cứ nỏ miệng nhận của mình thì nên gọi là gì… cho đúng. Ôi! Cái tính tự phụ của nhà văn. 

Nói đến đây, tôi không thể cầm được tiếng cười từ trong cổ họng. 

Họ chê văn tôi “cộc”. Cái “cộc” đó có dễ đâu! Một hay hai ba chữ, ta dùng làm sao cho đúng chỗ để câu ngắn ấy có sức mạnh nẩy được cái ngữ khí, bao quát được cả ý đáng lẽ diễn ra phải tốn hàng dòng. 

Page 10: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Họ chê văn tôi “chó mửa”, vì nó không kêu. Thứ văn kêu là thứ văn cân nhắc từng chữ bằng trắc, từng nhịp vắn dài, chỉ nên dùng làm văn tế, văn tiêu khiển, không thể dùng để bàn bạc theo lối khoa học cần rõ ràng, chắc chắn… 

Họ lại chê văn tôi “chẳng ra Tàu cũng chẳng ra Tây”. 

Nó là thứ văn lai thật. Vì mỗi khi đọc văn Hán hay văn Pháp, thấy được cái hay, tôi liền tìm cách đem nó vào văn Quốc ngữ. Đại khái nói người Âu tranh nhau sang Mỹ kiếm tiền, trong một câu, tôi có thể dùng được cả hai ngữ từ của văn Hán và văn Pháp: “Bỏ nước mẹ cha để theo đuổi con ‘bò vàng’ xứ khác.” [“bỏ nước mẹ cha” = khứ phụ mẫu chi bang; theo đuổi con bò vàng xứ khác = la poursuite du Veau d’Or] 

Cái lối lai ấy, tôi tưởng có lợi cho văn Quốc ngữ để mỗi ngày một giàu thêm. Đến giọng văn cũng lắm lúc nên cho nó lai, như văn Tàu hiện nay đã thấy lai nhiều rồi đấy. 

Đại khái nói: Đứng cả lên! Người thiên cổ. Tôi nghe nó hùng hơn: Hỡi người thiên cổ, đứng cả lên! 

Không phải để bịp các ngài đâu, lối đặt ngược ấy chỉ là giúp cho lời văn cứng cáp, lắm khi lại để lời văn không đến nỗi buồn teo. 

Muốn cho nhà văn được có “mùi lai” ấy, nhà viết văn phải có học, phải bạo viết, phải khéo dùng.

Trái thế, ta chỉ là hạng vẽ hổ chẳng nên đấy thôi. Cái hại này, tôi đã thấy sinh xuất hàng ngày trên báo trên sách ít lâu nay bởi mấy ông không thuộc lai mà giả lai. /.

* Chú thích của người sưu tầm:

[1]Kỳ đầu của bài này không có tiểu đề; người sưu tầm tạm ghi là “Vào đề”

[2] [3]Các chỗ này báo rách, mỗi chỗ mất 1-3 từ [4]Ngụ ngôn La Fontaine (chú thích của người sưu tầm)

Phần đọc thêm:

Người nối nhịp cầu  báo chí Đông - Tây

(ANTĐ) - Ở Bắc Ninh chẳng mấy không biết câu ví “Trai Phù Lưu gái Đình Bảng”. Hoàng Tích là dòng họ lớn của làng Phù Lưu, nơi đã sản sinh ra nhiều anh tài ở các lĩnh vực văn học nghệ thuật. Chỉ có duy nhất Hoàng Tích Chu là để lại dấu ấn sâu đậm trong làng báo. ông là người đã có công rất lớn trong việc cải tiến ngôn ngữ cũng như đã canh tân nhiều mặt cho làng báo Việt Nam.

Long đong bởi một chữ tài

Hoàng Tích Chu sinh ra trong một gia đình quan  lại có tiếng. Được giáo dục cẩn thận từ nhỏ, Hoàng Tích Chu rất giỏi chữ Hán (cỡ Tam Trường). Năm 1921, ông ra Hà Nội xin vào làm cho

tờ Nam Phong. Đây là tờ báo lớn thời đó, xuất bản theo dạng bách khoa nguyệt san chuyên khảo cứu về văn chương, lịch sử, văn hóa, chính trị với những cây bút lẫy lừng như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Lâm Tấn Phác, Nguyễn Văn Ngọc, Dương Quảng Hàm...

Page 11: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Tuy nhiên, đây không phải là môi trường thích hợp để một chàng trai mới ngoài 20 tuổi thi thố tài năng.

Đang loay hoay tìm lối đi, Hoàng Tích Chu nhận được lời mời sang làm chủ bút cho tờ nhật báo Khai hóa của nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, vì một tai nạn nghề nghiệp ông bị đuổi việc một cách phũ phàng. Hận mình tài hèn sức mọn, ông quyết tâm sang Pháp học nghề.

Sang đến Pháp, Hoàng Tích Chu gặp Đỗ Văn. Hai ông phân công nhau, người học cách viết báo, người theo nghề in và kỹ thuật trình bày. Mọi phí tổn ăn học của cả hai người được ông Lê Hữu Phúc, giáo sư trường Albert Sarraut (Hà Nội) tài trợ.

Sau 4 năm, Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn về nước đầu quân cho tờ Hà thành ngọ báo của cha con nhà tư bản Bùi Xuân Thành, Bùi Xuân Học. Tòa soạn báo nằm ở nhà số 24 đường Gia Long - Hà Nội. Kể từ khi được giao vai trò chủ bút Hoàng Tích Chu đã cải tiến tờ báo về nhiều mặt.

Các trang, chuyên mục được thay đổi sao cho thiết thực, gắn chặt với đời sống xã hội. Một số thể loại như tiểu phẩm, xã thuyết, thời luận được rút ngắn tối đa, bỏ hết các từ nối thì, mà, và, là... loại câu một mệnh đề được khai thác triệt để. Lối trình bày sao cho hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh cũng được Đỗ Văn áp dụng rộng rãi linh hoạt. Số nào cũng vậy, ngay ở cột 1 trang 1 bao giờ cũng có một bài xã thuyết do Hoàng Tích Chu chấp bút (ký bút danh Hoàng Hồ) bàn về những vấn đề đang được dư luận quan tâm. Cột 2 dùng để tóm  tắt những tin quan trọng và có tính thời sự cao.

 Cuối trang là những câu châm ngôn, cách ngôn nói về lẽ sống ở đời hoặc một truyện hài hước ngắn có tính giáo huấn cao. Cách đặt tít thường xoáy vào các vấn đề trọng tâm, được in cỡ chữ lớn. Cách rút tít cũng khá giật gân, kích thích tối đa trí tò mò của độc giả cho dù nội dung không có gì lớn, thậm chí nhạt nhẽo kiểu như “Thi gan với xe lửa bị húc vỡ bong bóng”, “Một ông Tây chủ đồn điền bắn nhầm chết con ông Chánh Tổng”...

Tuy nhiên, những cải tiến nói trên diễn ra quá đột ngột đã làm mất một phần khá lớn đọc giả truyền thống của Hà thành ngọ báo, những người đã quá quen với lối viết nhẩn nha, với những bài xã luận dài lê thê. Họ bị sốc trước những bài xã luận chỉ vài trăm chữ mà ngồn ngộn thông tin, từ ngữ lại quá thô nhám như bản thân cuộc sống. Không ít người lên tiếng phê phán lối văn của Hoàng Tích Chu, gọi đó là lối văn cộc, văn nhát gừng, văn cứt dê. Người phản đối đa phần thuộc giới cưu học, lối văn biền ngẫu, tầm chương trích cũ đã ngấm vào xương tủy họ.

 Giới trẻ tân học tuy ít nhiều ủng hộ cải cách của Hoàng Tích Chu nhưng vẫn có phần dè dặt. Số lượng phát hành của Hà thành ngọ báo bị sút giảm thê thảm. Ông Bùi Xuân Thành đã “mời” hai nhà cải cách ra khỏi tòa soạn một cách không lấy gì làm nhã nhặn cho lắm. Không những thế, ngày 10-9-1929 Hà thành ngọ báo còn có bài “Nhà báo với nhà văn” chỉ trích Hoàng Tích Chu là kẻ học mót, lên mặt dạy đời.

Cái lối đi riêng có bằng phẳng bao giờ

Sau lần chịu nhục đó, Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn quyết chí ra tờ báo riêng. Hai ông về quê bán ruộng vườn, vay mượn bạn bè sau đó lên Hà Nội nộp đơn xin phép lập tờ Đông Tây. Số đầu tiên của báo ra ngày 15-11-1929, tòa soạn đặt tại số nhà 12 phố Nhà thờ Hà Nội Đông Tây lúc đầu ra hàng tuần, sau tuần 2 số. Từ ngày 28-5-1932 báo ra hàng ngày. Báo in 4 trang khổ lớn.

Trên măng-xéc ghi chủ nhiệm Hoàng Tích Chu, chủ bút Phùng Tất Đắc. Ngay khi vừa thành lập Đông Tây đã quy tụ được khá nhiều cây bút tên tuổi có tư tưởng canh tân như Phan Khôi, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bính, á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Nam Sáu, Tô Ngọc Vân, Trần Quang

Page 12: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Trân, Lê Phổ, Đỗ Mộng Ngọc, Vi Huyền Đắc, Trịnh Đình Rư, Thiết Can, Song an Hoàng Ngọc Phách. Đông Tây in tại nhà in Trung - Bắc của ông Nguyễn Văn Vĩnh. Những cải tiến trên Hà thành ngọ báo giờ được Hoàng Tích Chu áp dụng triệt để hơn trên tờ Đông Tây. Các bài báo của Đông Tây mang đậm màu sắc chính trị hơn. Tờ báo tỏ ra thông cảm với những thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, với những lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính.

 Đông Tây đã không ít lần phê phán chủ thuyết Quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh, tố cáo mạnh mẽ những tên tham quan ô lại như Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định. Những việc làm trên của Hoàng Tích Chu đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn đọc. Số lượng phát hành tăng rất nhanh, chỉ sau vài tháng đã lên đến con số 5.000 trở thành tờ báo bán chạy nhất Bắc Kỳ thời đó. Uy tín Hoàng Tích Chu nổi như cồn. Năm 1930, ông ứng cử vào viện Dân biểu và đã trúng với số phiếu rất cao.

Có thể nói, Đông Tây là tờ báo có lối trình bày khác lạ nhất thời bấy giờ. Báo dùng nhiều ảnh minh họa ở những bài quan trọng. Có những bài thời luận khoảng 400-500 chữ, xung quanh đặt những mẩu thông tin nhỏ xoay quanh những khía cạnh liên quan đến nội dung chính của bài thời luận. Cách làm này giúp bạn đọc có thể hiểu một cách khái quát nhất, sâu sắc nhất những vấn đề xã hội mà họ quan tâm. Đề cập đến những cải tiến của mình, Hoàng Tích Chu từng viết “Tôi vốn bị cái bả viết văn kéo dài hàng mười lăm dòng mới hạ được cái chấm dứt câu, hàng hai, ba cột báo vẫn trọi một ý. Phải có lối viết khác. Cái lối viết phải làm sao cho gọn, không thừa nhiều lời... Tôi định rằng bài nào cũng vậy, chỉ được chiếm một cột là nhiều lắm”. ở những bài áp dụng lối viết mới, ông thường dùng bút danh Văn Tôi một mặt để phân biệt rạch ròi với người khác, mặt khác cũng hàm ý tự chịu trách nhiệm về những gì mình làm. Hoàng Tích Chu không chỉ tinh giản câu chữ đến mức tối đa, mà ông còn rất khuyến khích phóng viên hạn chế sử dụng những từ gốc Hán. Các bài viết của ông bao giờ cũng đi thẳng vào vấn đề, không vòng vo, thuyết lý dài dòng. Ông quan niệm báo chí là phải đặt nhiệm vụ thông tin lên hàng đầu.

Thông tin không những phải khách quan, trung thực mà nhất thiết phải mang tính thời sự nóng hổi, phải thiết thực với người đọc. Đây là những tiêu chí cơ bản để ông xây dựng các trang, mục như: Chuyện Đông Tây, chuyện đâu, cuốn phim, chuyện lạ đường rừng, chuyện Hà thành, Trong tiệm hút, Bút mới. Điều đáng nói là ông đã cố gắng để mỗi chuyên mục lại có một giọng điệu riêng, khi thì mạnh mẽ, rắn rỏi, khi lại mềm mỏng, thiết tha, dí dỏm, khiến bạn đọc luôn có tâm trạng hứng khởi, không bị rơi vào tâm trạng đơn điệu, nhàm chán khi đọc Đông Tây.

Trước khi Hoàng Tích Chu về nước, đội ngũ các nhà làm báo Việt Nam vẫn chỉ mang tính nghiệp dư. Họ là công chức, nhà khoa học, nhà chính trị, là những công tử con nhà giàu vô công rỗi nghề “Chẳng biết làm gì khác ngoài nghề cầm bút” - lời nhà báo Vũ Bằng. Nghề này chỉ làm cho vui, chứ không nuôi sống được người ta. Có lần mẹ Vũ Bằng đã khuyên giải con: “Ở đời có nghề gì xấu nhất, tồi bại nhất, bất nhân bạc ác nhất thì nhất định đó là nghề báo”. Còn bố Tam lang Vũ Đình Chí thì than thở: “Báo với bổ gì, báo hại, báo cô cha mẹ, rồi ra vô nghề nghiệp, bố mẹ già thì chết, cũng đến liếm lá đầu chợ dở ông dở thằng...”. Có nhà văn đã khái quát, đa số văn nhân ký giả đầu thế kỷ 20 đều quần chùng áo dài, ra đường luôn có cuốn sách dày cộp cắp nách.

 Họ thả bộ chậm rãi trên phố, mắt đăm chiêu như triết gia, nhưng thực ra lúc nào trong đầu cũng chỉ nghĩ đến cơm áo gạo tiền, đến những thú vui chơi đàng điếm. ông nào ông nấy nghiện oặt xà lai, nói phét thành thần, chỉ giỏi vay chứ không giỏi trả, luôn coi văn mình là thiên hương, văn người là xú uế... Khi Hoàng Tích Chu về nước, các ký giả trẻ không chỉ học lối viết, mà còn đua đòi lối sống buông thả, hưởng lạc, hơi một tý là thách đấu súng kiểu phương Tây của ông.

 Việc một số người cũng bắt chước Hoàng Tích Chu sắm môtô, dùng máy chữ, đến tòa soạn là ôm lấy cái điện thoại, ra đường là mặc đồ Tây, cổ lủng lẳng chiếc máy ảnh chính là sự khởi đầu cho lớp ký giả mới, năng động hơn, chuyên nghiệp hơn. Để việc thông tin được sâu rộng, Hoàng Tích Chu rất chú trọng đến việc mở rộng đội ngũ thông tin viên. Thỉnh thoảng trên một số tin bài của Đông Tây

Page 13: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

ghi rõ “Nguồn tin do phóng viên của Đông Tây tại nước ngoài chuyển về”. Có thể nói cách làm này, cho đến nay, không phải tờ báo nào cũng làm được.

Qua những nét khái lược trên, chúng ta đã phần nào hình dung được vai trò của Hoàng Tích Chu trong việc canh tân báo chí. ông Thiếu Sơn, trong phê bình và cảo luận đã nhận định: “Cái cảm tình của quốc dân đối với ông Chu tưởng cũng là một sự thưởng công xứng đáng cho ông đã ra tờ Đông Tây để gây nên sự cải cách lớn trong làng báo Bắc Kỳ”. Còn ông Phan Khôi, vào năm 1931 đã viết trên báo Trung lập “Trong văn quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật nó biệt hẳn ra một lối đủ để kêu được là “Lối văn Hoàng Tích Chu”. Sự ấy trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi.  Chẳng luận lối văn ấy ông Chu sáng tạo ra hay bắt chước của ai, nội một cái biệt lập ra một nhà được như thế cũng khá gọi là một tay hào kiệt trong làng văn vậy”.

Cuối năm 1932, vì bài thơ “Cái chày” ám chỉ Tổng đốc Thái Bình Vi Văn Định dùng chày đánh vào đầu gối phạm nhân mà Đông Tây bị thu hồi giấy phép với tội danh vu khống người nhà nước. Buồn vì đứa con tinh thần của mình không sống được lâu, Hoàng Tích Chu lâm bệnh và mất sau khi tờ báo bị đóng cửa được mấy tháng. Ông ra đi đúng vào thời khắc cuối cùng của năm Quý Dậu, khi mà mọi nhà đang hân hoan chuẩn bị đón chào năm mới. Cái chết của ông như là sự kết thúc của cái cũ, cái bảo thủ, trì trệ, là sự khởi đầu cho cái mới, cái tiến bộ, văn minh của làng báo Việt Nam.

TS. Hoàng Văn Quang

Hoàng Tích Chu quan niệm về nghề báo và người làm báo

Gốc quê làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn (Tỉnh Bắc Ninh), Hoàng Tích Chu sinh năm 1897 trong một gia đình quan lại, cha đã có thời làm tri phủ. Lúc nhỏ ông được học chữ nho, sau chuyển sang học tiếng Pháp. Năm 1921, ông được nhận vào giúp viêc cho tòa soạn tờ Nam Phong. Cũng vào năm này, Bạch Thái Bưởi cho ra mắt bạn đọc tờ Khai hóa và mời Hoàng Tích Chu về làm chủ bút. Dưới bút danh Kế Thương, những bài báo của Hoàng Tích Chu đăng trên tờ báo này đã bắt đầu gây chú ý cho báo giới và bạn đọc. Một năm sau Hoàng Tích Chu rời Khai hóa và nung nấu ý định sang Pháp học nghề báo. Năm 1923, ông vào Nam Kỳ làm phụ bếp trên một con tàu biển, và đã đến được nước Pháp. Năm 1927, Hoàng Tích Chu về nước. Tháng 6 năm ấy, Hà Thành ngọ báo của Bùi Xuân Học ra đời, Hoàng Tích Chu được mời về làm biên tập và Đỗ Văn lo in ấn. Những cách tân trong cách viết và cách trình bày mới lạ đã chưa thuyết phục được bạn đọc. Ngày 15-11-1929, Hoàng Tích Chu cho xuất bản tờ Đông Tây. Bằng ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, trong sáng, mang hơi thở cuộc sống hàng ngày; bằng hàng loạt chuyên mục độc đáo và lối trình bày hiện đại... tờ Đông Tây đã được bạn đọc và báo giới đón nhận nhiệt thành pha nhiều ngỡ ngàng. Cuối năm 1932, Đông Tây bị thu hồi giấy phép xuất bản. Đấy cũng là lúc tờ Thời báo được xuất bản và Hoàng Tích Chu lại được chọn làm chủ bút. Toàn bộ các chuyên mục của Đông Tây đã được Hoàng Tích Chu chuyển sang tờ Thời báo, nhưng tờ này cũng chỉ ra được 20 số thì bị thu giấy phép. Năm 1933, vào đúng ngày 30 Tết, Hoàng Tích Chu qua đời sau một thời gian bị bệnh, hưởng dương 36 năm.

Đầu thế kỷ XX, chỉ sau hơn ba thập niên tính từ thời điểm tờ Gia Định báo ra đời (1865), báo chí quốc ngữ đã đạt được một sự tăng trưởng đáng kể. Các nhà báo sáng lập và hoạt động trong các tờ báo tiếng Việt đã không ngừng mày mò tìm kiếm những phương cách nhằm nâng cao chất lượng các tờ báo của họ, với mơ ước đạt tới sự bình đẳng nghề nghiệp với những tờ báo tiếng Pháp do chính người Pháp thực hiện tại Đông Dương.

Trong số những nhà báo tên tuổi đó, vào thời điểm 1927, nổi lên một gương mặt đặc biệt Hoàng Tích Chu (1897- 1933). Chỉ có 6 năm hoạt động, ông giống như một vệt sao băng

Page 14: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

để lại những dấu ấn không phai mờ trong lịch sử báo chí Việt Nam. Ông được coi là nhà báo chuyên nghiệp đầu tiên được đào tạo tại Pháp và cũng là người đầu tiên đã táo bạo thực hiện một cuộc cách mạng trong nghề làm báo ở nước ta, bằng cả quan niệm và hoạt động thực tiễn (ông đã làm chủ bút hoặc giữ vai trò yếu nhân 4 tờ báo nổi tiếng: Khai hóa, Hà Thành ngọ báo, Đông Tây, Thời báo). Chính những phát ngôn và hành xử nghề nghiệp của ông đã làm đảo lộn quan niệm về nghề và người làm báo trong đời sống báo chí đương thời, làm thay đổi cách tiếp nhận thông tin từ số đông bạn đọc - những người chưa quen với những thông tin bộc lộ một thái độ quyết liệt về những vấn đề xã hội, chính trị...Và ông, như một lẽ đương nhiên của kẻ đi tiên phong, đã hứng chịu rất nhiều búa rìu của dư luận - chủ yếu là từ các đồng nghiệp vẫn “theo lối làm báo cổ hủ ở xứ ta” (Tế Xuyên). Dẫu có thể còn có những cách nhìn khác nhau về Hoàng Tích Chu, nhưng khi nhắc đến ông và các tờ báo mà ông đã thực hiện, đặc biệt là tờ Đông Tây, người ta không thể không thừa nhận những tác động tích cực của “hiện tượng Hoàng Tích Chu và Đông Tây” đến đời sống báo chí Việt Nam đương thời và mấy thập niên về sau. Ông xứng đáng với danh hiệu “người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”.

Trở lại thời điểm 1929, thời điểm mà Hoàng Tích Chu, “một khách giang hồ hơn là một du học sinh” đã từ Pháp trở về được hai năm, bắt đầu gây sốc với báo giới nước nhà và bạn đọc bằng việc tung ra tờ Đông Tây. Có thể nói Hoàng Tích Chu và Đông Tây đã thẳng thắn đối diện với số đông các nhà báo và các tờ báo đương thời còn đang quanh quẩn trong một lối làm nghề trì trệ, trước hết bằng những quan niệm rất mới mẻ của một nhà báo chuyên nghiệp cộng với nhiệt huyết của một thanh niên thời đại mới - một trong những đại diện tiêu biểu của trào lưu kết hợp văn hóa Đông - Tây lúc bấy giờ.

Ông đã đánh giá và có quan niệm như thế nào về nghề và người làm báo ở nước ta lúc đó?

Trong bài báo nổi tiếng Nghề làm báo ngày nay (Đông Tây số 2, ra ngày 2-12-1929), một bài báo gây sóng gió trong làng báo đương thời, Hoàng Tích Chu đã nói thẳng: “Nghề làm báo ở nước ta cho đến ngày nay vẫn chưa phải là một nghề theo nghĩa đúng của nó vì ở nước ta chưa có trường dạy về báo chí. Chúng ta xem đó là một trò tiêu khiển về tinh thần, ký giả chỉ là những người lĩnh lương, tức là những người làm công, vì vậy ký giả làm việc miễn cưỡng”. Ai sẽ trước hết phải chịu trách nhiệm về thực trạng này? Hoàng Tích Chu đã rất có lý: “Người chịu trách nhiệm lớn là các ông chủ báo. Khi lập tờ báo, ông chủ chỉ chú ý tới vấn đề tiền bạc, thay vì chú ý tới bộ biên tập. Chủ báo quan niệm rằng ký giả là người làm công, ngày hai buổi đến tòa soạn viết xã luận, dịch tin tức để trám cho đầy cột báo (...) Người chủ báo, tuy ở trong nghề, nhưng chưa biết tờ nhật trình có vai trò gì? Nhật báo đối với họ chỉ là những bài xã thuyết cộng với vài tin tức lượm lặt... Có người xem việc lập một tờ báo như mở một tiệm tạp hóa. Chủ báo ít vốn nên không dám chịu tốn kém để mua hoặc tìm tin tức. Họ chỉ trám vào mấy cột báo bất cứ tin tức nào bắt gặp trong báo Tàu hay báo Pháp”. Đây là những quy kết xác đáng về trách nhiệm của người chủ bút - những người sẽ gây ảnh hưởng đặc biệt đến diện mạo và khuynh hướng cho mỗi tờ báo. Nhưng vào thời điểm Hoàng Tích Chu đang đề cập, họ đã phần nhiều chưa làm được việc này. Nên nhớ là từ khá lâu trước đó, vào những năm 1907 - 1908, thông qua Văn minh tân học sách, các nhà yêu nước Việt Nam đã đề xuất một trong hai yêu cầu để báo chí có thể góp phần quan trọng thúc đẩy phong trào canh tân xứ sở: các chủ bút phải được lựa chọn từ hàng ngũ những trí thức Việt Nam ưu tú nhất. Đó là một đề xuất đúng đắn, nhất là trong bối cảnh báo chí thật sự được coi như một phương tiện văn hóa (cùng với nhà trường) để mở mang dân trí, nâng tầm dân tộc.

Page 15: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

Hoàng Tích Chu cũng là người luôn đề cao và nhấn mạnh yếu tố văn hóa trong nghề làm báo. Trong cách nhìn của ông, mỗi tờ báo cũng đồng thời là một cơ quan văn hóa, bởi vậy những ứng xử nghề nghiệp cũng phải theo tinh thần đó. Nhân một cuộc bút chiến giữa hai tờ Phổ thông và Ngọ báo - cuộc bút chiến có nguy cơ đưa hai cơ quan ngôn luận này rời xa mục đích đi tìm chân lý mà quay ra hạ bệ nhau với những toan tính cá nhân, vị kỷ - Hoàng Tích Chu đã viết bài Thử ngẫm về cuộc bút chiến giữa hai tờ báo đăng trên Đông Tây số ra ngày 22-10-1930. Sau khi tóm tắt nguyên nhân cuộc bút chiến, trong phần Mối cảm tưởng của tôi, ông viết: “Tờ báo là nơi công chúng quan chiêm, chỉ có ta khinh độc giả thì ta mới ăn nói một cách sỗ sàng... Một điều tôi rất phàn nàn là trong ít lâu nay, làng báo ta thường hay có thói khích bác, bêu riếu nhau”. Hoàng Tích Chu cho rằng nghề làm báo cũng như nhiều nghề khác trong xã hội, phải chịu sức ép của luật cạnh tranh, nhưng - nói theo ngôn ngữ bây giờ - đó phải là sự cạnh tranh lành mạnh, bằng chính chất lượng nội dung và hình thức của tờ báo, “chứ không phải ganh nhau ở cái chỗ khuynh loát bằng những cách đê hèn, soi mói đời tư nhau ra để hòng giảm giá trị người ta... Bất cứ nghề nào cũng vậy, nói xấu nhau là phạm một điều vô đạo”. Kết thúc bài báo đầy ưu tư này, Hoàng Tích Chu kêu gọi các đồng nghiệp: “Muốn tăng trình độ cho người đọc báo, ta nên tự tăng trình độ cho ta trước”. Đã hơn 70 năm từ khi bài báo này xuất hiện, nội dung của nó vẫn còn rất nhiều ý nghĩa đối với các nhà báo hôm nay.

Kiểm duyệt báo chí luôn luôn là một vấn đề nhạy cảm trong hoạt động của lĩnh vực này. Chính sách kiểm duyệt ngặt nghèo của nhà cầm quyền Pháp với báo chí đương thời, đặc biệt là với báo chí quốc ngữ, là điều khiến cho những nhà báo tâm huyết như Hoàng Tích Chu thấy sẽ phương hại đến tính năng động tích cực của báo chí, phương hại đến vai trò thật sự của báo chí đối với đời sống xã hội. Dĩ nhiên có rất nhiều nhà báo nhận thức được vấn đề này, nhưng quả cảm như Hoàng Tích Chu thì không phải ai cũng làm được: ông đã cho đăng trên trang nhất Đông Tây ra ngày 12-4-1930 bài Báo quốc ngữ với quyền tự do ngôn luận của tác giả A.E.Babut, đương nhiên cũng là quan điểm của ông và Đông Tây: “Khi nào báo chí được tự do, khi nào báo chí có những người xứng đáng chủ trương, thì bấy giờ báo chí đối với dư luận của mọi người sẽ có ảnh hưởng rất sâu xa... Nhiều người rất mong cho ngôn luận được tự do để nâng cao trình độ luân lý của các hạng người trong xã hội”. Tuy nhiên, Hoàng Tích Chu ý thức được giới hạn của vấn đề để không rơi vào cực đoan. Bài báo còn có đoạn sau: “Có nên cho báo quốc ngữ ngày nay được hưởng quyền tự do như báo bên Pháp không? (...) ý kiến như sau này: nên bỏ cái chế độ (kiểm duyệt) hiện thời và nên cho báo được tự do, nhưng nên đặt luật riêng để cho khỏi có sự tệ lạm (người viết nhấn mạnh)”. Đây không phải là một ý kiến cải lương, nó cho thấy sự mềm mỏng của Đông Tây khi đối thoại với nhà cầm quyền, trong nỗ lực “đòi (tự do) bằng lời” mà Hoàng Tích Chu đã từng đề cập trong cuốn chuyên luận xuất bản từ 1927.

Không chỉ phát ngôn trực tiếp những ý kiến, những nhận xét và những quan niệm như trên về nghề làm báo, thông qua tờ Đông Tây, Hoàng Tích Chu còn muốn mở một cánh cửa để đồng nghiệp và bạn đọc nhìn ra đời sống báo chí thế giới, giúp họ có thêm cơ sở so sánh với báo chí nước nhà và, có lẽ, ông hy vọng những người làm báo Việt Nam có thể học hỏi được những kinh nghiệm có giá trị từ những nền báo chí tiên tiến đương thời. Ông đã từng cho đóng khung và in đậm một câu trích của thi hào Tagore (Ấn Độ) trên trang nhất tờ Đông Tây số ra ngày 3-5-1930, như một cách phát biểu quan niệm của ông về vấn đề thu lượm những tinh hoa văn hóa nhân loại trong thời buổi nền văn minh phương Tây đã tràn vào Việt Nam: “Ta nên nhận rằng thứ văn hóa cổ không hợp với tình thế ngày nay nữa, nó phải biết thu lấy thứ văn hóa mới của thế giới, đó là cái nghĩa chính về sự tiến bộ trong loài người”. Theo tinh thần đó, tờ Đông Tây đã đề cập đến khá nhiều

Page 16: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

những vấn đề thuộc về lĩnh vực văn hóa, và nó chính là tờ báo đã cung cấp cho bạn đọc nhiều nhất - vào thời điểm đó - những thông tin về báo chí nước ngoài. Trên số ra ngày 27-1-1932, Đông Tây có bài Murayama-ông vua báo Nhật nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập tờ Asahi, tờ báo lớn nhất của xứ Phù Tang. Chắc chắn những thông tin về tờ báo này sẽ gây sửng sốt cho bạn đọc lúc ấy: “Vốn 6 triệu yên, 3.795 người làm, 40 bộ máy in, 19 chiếc tàu bay, 500 con chim bồ câu để đi thông tin và một đường dây nói riêng từ Tokyo đến Osaka, đó là qui mô vĩ đại của tờ báo Asahi, tờ báo lớn nhất của Nhật Bản, và đó là công cuộc 50 năm nỗ lực không biết mệt của ông Murayama”. Người ta có thể thấy đằng sau bài báo này một mơ ước của Đông Tây (và Hoàng Tích Chu), dường như nó cũng ngầm đưa ra một thông điệp: con đường mà Murayama và tờ Asahi đã đi - với tính mục đích của một tờ báo trong hoàn cảnh không mấy khác nước ta ở điểm xuất phát - không phải là điều không tưởng đối với báo giới Việt Nam.

Những vấn đề thuộc về kỹ thuật nghề nghiệp cũng được Hoàng Tích Chu quan tâm. Dĩ nhiên, là người được đào tạo bài bản, ông có điều kiện hơn hết khi nói về những “ngón nghề” có thể giúp ích ít nhiều cho những đồng nghiệp của ông phần đông còn đang hoạt động trong tình trạng thiếu chuyên nghiệp ở ta. Trong bài viết Hai góc trời hai hạng phóng sự, Đông Tây (số ra ngày 16-1-1932) đã giới thiệu những điểm khác nhau trong cách làm tin và phóng sự giữa các nhà báo châu Âu và châu Mỹ. Những nhận xét khá thú vị, chẳng hạn: “Bên châu Âu, muốn đương nổi cái chức trách một người đi “nhặt tin chó chết” phải có học, học rộng (...) Trái lại, nhà phóng sự các báo bên Mỹ không thế. Họ chẳng cần phải có học vấn rộng. Mà lại phần nhiều là những người vô học hay ít học mới chịu chạy đi “nhặt tin chó chết” (...) vậy mà các báo bên Mỹ vẫn có đủ tin tức mau chóng một cách lạ thường”. Có điểm khác biệt này là bởi “Nước Mỹ là một nước rất tiến bộ về đường máy móc. Một ly một tí gì cũng làm theo phương pháp khoa học” và vì thế các nhà báo Mỹ cũng “ở trong guồng máy tri thức (...) Một tin vặt trước khi xuất hiện trên mặt báo đã phải qua tay năm bảy người gọt nặn”. Bài báo kết luận: “Các phóng sự Mỹ có giống các phóng sự châu Âu là ở tính lanh lợi, lòng mạo hiểm của họ. ở hai góc trời, châu Âu và châu Mỹ, nghề làm báo cùng tiến bộ mà sao phương pháp làm việc lại khác nhau!”. Đây chỉ là một trong không ít ví dụ cho thấy những nỗ lực của Hoàng Tích Chu trong hoài bão đóng góp sự biết sự học của mình vào việc đưa hoạt động báo chí ở nước ta lên tầm chuyên nghiệp.

Hoàng Tích Chu ý thức được một xã hội tiến bộ là một xã hội mà mọi ngành nghề phải có tính chuyên nghiệp cao, mọi công dân đều phải sống với nghề của mình. Quan niệm này đã được ông bộc lộ từ khá sớm trong bài báo Vì sao phải chọn nghề cho con trẻ?: “Bọn thiếu niên phải nhận lấy cái chức trách tìm tia ánh sáng, phải chọn cái nghề nghiệp hợp với tài năng, để đến khi đầu bạc, bước ra khỏi vòng hoạt động, ta có thể nói được cái câu này: “Tôi còn muốn hăng hái ra làm việc nữa! Mà kiếp sau có làm người thì tôi vẫn con đường này tôi đi, tôi vẫn cái nghệ kia tôi làm”. Với nghề làm báo, điều đó lại càng đúng. Nó không chỉ là nghề, mà còn là cái nghiệp.

Những người làm báo trước và cùng thời với Hoàng Tích Chu phần nhiều xuất thân Nho học và một số xuất thân Tây học. Dẫu xuất thân từ nguồn nào thì ở giai đoạn giao thời ấy, họ vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng của lối đào tạo truyền thống, lối đào tạo mà Đông Tây từng chỉ trích là “cái học khoa cử, cái học hư danh”. Những người này đến với báo chí trước hết bằng cả một tinh thần “túy tâm văn hóa”, và sau nữa như một nghề kiếm sống, với không ít bỡ ngỡ trước một hoạt động văn hóa còn rất mới. Tuy nhiên, là sản phẩm của lúc giao thời lại có nhiều ngỡ ngàng, không phải ai trong số họ cũng có được ngay một cái nhìn chân xác về công việc làm báo. Cũng là cầm bút, nhưng họ có xu hướng đề cao các sáng tạo văn chương, học thuật hơn là “viết nhật trình”. Hoàng Tích Chu nhận

Page 17: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu

thấy thực trạng này và ông hiểu rằng muốn cách tân nền báo chí Việt Nam thì phải có những con người xứng đáng phụng sự cho nghề báo - những người nhận thức được sứ mạng của nhà báo và có tính chuyên nghiệp cao, những người toàn tâm toàn ý đóng góp tâm trí mình cho lĩnh vực này.

Trọng nghề, đó cũng chính là biểu hiện cao nhất của lòng tự trọng ở người làm nghề, là trung thành với lý tưởng nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn trên đường đời. Trước sau Hoàng Tích Chu đã nhiều lần bày tỏ quan điểm này. Trong bài Thử ngẫm về cuộc bút chiến của hai tờ báo đã dẫn, ông đã viết những dòng thống thiết trước các đồng nghiệp: “Khi ta đã cùng nhau dấn mình vào tập cái nghề này, tuy không phải tuyên thệ trước tòa án như các luật sư, nhưng trước bàn thờ bà Chúa Báo, chúng ta con một nhà, đã ký kết một bản giao kèo thầm: Tôi xin trọng nghề!”. Thái độ này và những hành xử nghề nghiệp mang tính dấn thân của Hoàng Tích Chu đã có những tác động rất đáng kể đến các nhà báo đương thời, nhất là các nhà báo trẻ. Trong nhiều hồi ký báo chí sau này của các nhà báo thành danh (Phùng Bảo Thạch, Vũ Bằng, Tế Xuyên...), chúng ta thấy họ đều thừa nhận đã chịu ảnh hưởng của Hoàng Tích Chu như thế nào, trong đó có một điều quan trọng: Hoàng Tích Chu đã góp phần giúp họ ý thức được vị thế của nghề báo và của người làm báo.

Là một nhà cách tân, Hoàng Tích Chu dễ dàng nhận thấy tình trạng không rõ ràng giữa Văn và Báo, giữa phương cách hoạt động của Nhà văn và Nhà báo còn tồn tại trong thời buổi báo chí nước ta đang đi những bước ban đầu. Bao lớp trí thức trước và đồng thời với ông đã ôm mộng văn chương bước vào nghề báo. Đó là biểu hiện rõ nhất và kéo dài trong tính thiếu chuyên nghiệp của báo chí nước ta. Ông đã từng khuyên một người như thế - Tế Xuyên - khi thanh niên này bước vào làng báo mà vẫn chưa hiểu rõ công việc: “Anh nên kiếm đề tài sinh hoạt trong dân chúng mà viết những bài phóng sự, còn nếu anh chuyên chú vào tiểu thuyết, anh sẽ khó thành một nhà viết báo được”. Hơn nữa, dưới con mắt chuyên nghiệp, ông đã giúp nhà báo trẻ phân biệt được công việc viết văn và viết báo: “Kẻ viết văn lắm khi không phải là kẻ viết báo, dù là khi mình viết báo, điều tối thiểu là phải biết viết văn. Nhưng con nhà báo còn phải có lối viết riêng nữa: sáng sủa, rõ ràng, khúc chiết và dễ hiểu. Hơn nữa, nhà báo không sống bằng tưởng tượng quá nhiều như nhà văn mà phải sống thiết thực, có óc khoa học và quan sát tinh vi”. Những nhận xét của Hoàng Tích Chu quả thật là rất mới so với lúc bấy giờ, khi mà ngôn ngữ thông tấn còn là một điều khá xa lạ với bạn đọc và với không ít các nhà báo, khi mà lối viết kiểu văn chương biền ngẫu vẫn tràn ngập trên các trang báo và vẫn tỏ ra hợp khẩu vị với nhiều người.

Tất cả những quan niệm mang tính cách tân của Hoàng Tích Chu về nghề báo, về người làm báo và cách làm báo, đã được ông thực thi khá triệt để trên tờ Đông Tây. Có người đã ví sự xuất hiện của tờ báo này giống như “một quả tạc đạn ném vào làng báo Việt Nam” đương thời. Ông với các cộng sự đồng quan điểm (Tạ Đình Bính, Phùng Bảo Thạch, Tam Lang, Vũ Bằng, Tế Xuyên, Lãng Nhân và đặc biệt là Đỗ Văn - người lo trình bày in ấn) đã trình làng một tờ báo tiếng Việt được coi là hiện đại bậc nhất lúc ấy, “như một tờ báo bên Tây”. Một cái mới xuất hiện không dễ gì đã được số đông chấp nhận ngay, phải mất một thời gian, tờ Đông Tây mới thật sự khẳng định được vị trí của nó trong làng báo và trong xã hội. Có thể coi đó là một hiện tượng trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Đông Tây và những người chủ trương đã đi tiên phong trong việc không lưỡng lự tiếp nhận và học hỏi những kinh nghiệm từ một nền báo chí hiện đại bên ngoài để làm mới mình và họ đã làm mới một cách thành công, phù hợp với bước đi của thời đại.

Trần Hòa Bình (nguồn: internet)

Page 18: Đọc và bình luận về một bài viết của Hoàng Tích Chu