Upload
neohon
View
943
Download
5
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Là một nhà giáo lâu nằm ,Lê Vinh Quốc viết tiểu luận này dựa trên những kinh nghiệm dạy và học lâu năm của bản thân và quá trình thực tập khoa học tại các đại học danh tiếng của Hoa Kỳ .Tác giả đã gủi cho Bộ Trưởng Nguyễn Thiện Nhân và mong đông đảo bạn đọc góp ý nhằm chấn hưng nện giáo dục nước nhà !
Citation preview
Lê Vinh Quốc
các yếu tố cơ bản
trong quá trình giáo dục hiện đại
và VấN Đề đổi mới dạy học ở việt nam
(lý thuyết và ứng dụng)
Chuyên đề đổi mới dạy học
Trường đại học sư phạm thành phố hồ chí minh - 2007
1
Trân trọng cảm ơn quý vị đồng nghiệp Hoa Kỳ tại các Trường Giáo dục
thuộc Đại học California ở Berkeley (UC Berkeley) và Đại học Stanford
(Stanford University) đã giúp tôi khai thác được nguồn tư liệu quý báu để thực
hiện công trình khảo cứu cống hiến cho sự nghiệp đổi mới giáo dục tại Việt
Nam. Trân trọng cảm ơn quý vị đồng nghiệp tại Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này;
đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Dương Thiệu Tống về những sự chỉ dẫn quý báu. Trân
trọng cảm ơn quý vị giáo viên và các em học sinh các trường Trung học Phổ
thông tại TP. Hồ Chí Minh đã tích cực tham gia các cuộc khảo sát phục vụ cho
việc nghiên cứu chuyên đề này.
TP. Hồ Chí Minh, Mùa thu 2007
Lê Vinh Quốc
2
MụC LụC
Trang
Mở đầu ..................................................................................................... 5
PHầN THứ NHấT: các yếu tố cơ bản
trong quá trình giáo dục HIệN ĐạI ......................................................................... 15
CHƯƠNG 1: Đặc trưng của các yếu tố cơ bản
trong quá trình giáo dục ........................................................................................ 17
1.1. Mục tiêu giáo dục .................................................................. 17
1.2. Nội dung chuyên môn ........................................................... 25
1.3. Phương pháp và tổ chức ........................................................ 36
1.4. Đánh giá ................................................................................ 68
CHƯƠNG 2: MốI QUAN Hệ GIữA CáC YếU Tố
CƠ BảN VớI NHAU ............................................................................................. 88
2.1. Quan hệ giữa Mục tiêu với Nội dung .................................... 88
2.2.Quan hệ giữa Mục tiêu với Phương pháp và tổ chức ................. 96
2.3.Quan hệ giữa Nội dung với Phương pháp và tổ chức .............. 103
2.4.Quan hệ giữa Đánh giá với các yếu tố cơ bản khác ................. 113
2.5.Nhận định chung ...................................................................... 126
PHầN THứ HAI: Đổi mới dạy học theo các yếu tố cơ bản .................................. 128
CHƯƠNG 3: CHƯƠNG TRìNH HọC ở NHà TRường
trung học việt nam : từ cảI cách đến đổi mới ......................................... 129
3.1. Từ cuộc Cải cách Giáo dục lần thứ ba đến
cuộc Đổi mới Giáo dục cuối thế kỷ XX ............................... 129
3.2. Chương trình Giáo dục Phổ thông của cuộc
CCGD và cuộc đổi mới cuối thể kỷ XX .............................. 137
3.3. Cuộc Đổi mới Chương trình Giáo dục Phổ thông
3
đầu thế kỷ XXI .................................................................... 160
CHƯƠNG 4: DạY HọC MộT Bộ MÔN: THựC TRạNG
Và đổi mới ...................................................................... 186
4.1. Chương trình bộ môn Lịch sử CCGD ................................ 187
4.2.Dạy học theo Chương trình CCGD ....................................... 201
4.3.Hiệu lực của Chương trình CCGD qua các công trình
đánh giá trong nhà trường .................................................. 228
4.4. Đổi mới dạy học bộ môn ..................................................... 245
KếT LUậN ............................................................................................ 258
TàI LIệU THAM KHảO ..................................................................... 267
4
Mở đầu
1. Sự nghiệp giáo dục Việt Nam đang ở trong quá trình đổi mới một cách
căn bản và toàn diện. Đường lối đổi mới giáo dục đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam vạch rõ qua các Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII (1991), lần thứ
VIII (1996), và lần thứ IX (2001). Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010” với 7 nhóm giải pháp lớn
mà 3 nhóm đầu nhằm thực hiện đổi mới: 1) Đổi mới mục tiêu, nội dung
chương trình giáo dục; 2) Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp
giáo dục; 3) Đổi mới quản lý giáo dục. Phương hướng đổi mới giáo dục là “Đổi
mới theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu
vực và thế giới; đồng thời thích ứng với các nhu cầu nguồn nhân lực cho các
lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước ...” [11]. Như vậy, thực chất của đổi mới
giáo dục là áp dụng những thành tựu của khoa học giáo dục tiên tiến trên thế
giới vào thực tiễn Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
nước ta tiến kịp với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Đường lối chiến lược đề ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện đổi mới
trong thực tiễn lại không hề dễ dàng. Các cấp có trách nhiệm đã phê phán
chương trình giáo dục hiện hành ở nhà trường là nặng tính hàn lâm, kinh viện,
nặng về thi cử, chưa chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng
nghiệp; chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của thực tiễn kinh tế xã hội cũng như
nhu cầu của người học... Người ta nhận xét nội dung giáo dục vừa thừa vừa
thiếu và nhìn chung quá tải đối với học sinh. Người ta nói phương pháp giáo
dục hiện nay nặng về truyền thụ một chiều, không khơi dậy được khả năng tư
duy sáng tạo của học sinh... Những sự phê phán đó được cảm nhận là đúng,
nhưng rất trừu tượng. Không ai biết được những sự phê phán đó dựa trên cơ sở
nào: phân biệt tính hàn lâm và tính thực tiễn bằng tiêu chuẩn nào? Đâu là tiêu
chí để xác định một nội dung thừa hay thiếu trong chương trình? ... Do đó, các
5
nhà giáo dục sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thiết kế chương trình mới để khắc
phục những nhược điểm và thiếu sót đã được phê phán của chương trình hiện
hành, nhất là khi đi sâu vào từng môn học, từng khoá trình hay từng bài học cụ
thể.
Những vấn đề vướng mắc khi phê phán chương trình hiện hành cũng như
thiết kế chương trình mới đều có chung một nguồn gốc: cơ sở khoa học chưa
đầy đủ. Chính chuyên đề này sẽ trình bày một nguyên lý trọng yếu của Khoa
học giáo dục hiện đại trên thế giới, để đưa vào áp dụng tại Việt Nam nhằm giải
quyết vấn đề đổi mới dạy học trong nhà trường một cách đúng đắn và có hiệu
quả tốt.
Khoa học giáo dục hiện đại đã thừa nhận trong quá trình giáo dục có 4 yếu
tố cơ bản là mục tiêu, nội dung, phương pháp - tổ chức và đánh giá. Các yếu tố
này cùng mối quan hệ giữa chúng với nhau là trọng tâm nghiên cứu của khoa
học giáo dục nói chung, đồng thời là những chủ đề xuyên suốt các bộ môn
thuộc khoa học này, như Phát triển Chương trình học (Curriculum
Development), Đo lường và Đánh giá (Measurement and Evaluation), Phương
pháp Dạy học (Methods for Teaching)... Có thể nói rằng việc xác định đúng
hay không các yếu tố này, với sự xem xét đầy đủ hay thiếu sót các mối quan hệ
giữa chúng với nhau sẽ quyết định sự thành bại của một chương trình giáo dục
cũng như của quá trình dạy học trong mỗi cấp lớp, mỗi bộ môn, mỗi khoá
trình, thậm chí mỗi bài học ở nhà trường. Do đó, việc xác định đúng và đủ các
yếu tố này cùng mối quan hệ giữa chúng với nhau là bước đầu tiên, cơ bản và
quan trọng nhất để đảm bảo cho thành công của sự đổi mới một quá trình giáo
dục, một chương trình dạy học ở một cấp lớp, một bộ môn, một khoá trình
hoặc một bài học.
Như vậy, việc đưa lý luận của khoa học giáo dục hiện đại về các yếu tố cơ
bản trong quá trình giáo dục và mối quan hệ giữa chúng với nhau vào Việt
6
Nam, với sự bổ sung và cụ thể hoá bằng lý thuyết và thực hành của các bộ môn
thuộc khoa học giáo dục hiện đại để áp dụng vào việc đổi mới dạy học ở nước
ta, đã cho thấy ý nghĩa quan trọng của chuyên đề. Từ những đặc trưng của các
yếu tố cơ bản và mối quan hệ giữa chúng với nhau, người ta có thể rút ra được
những nguyên tắc chung để xem xét, đánh giá hoặc thiết kế các bài học, các
khoá trình, các chương trình học hay quá trình giáo dục khác ở mọi cấp độ. Với
những quá trình giáo dục được thiết kế và đánh giá đúng với nguyên lý khoa
học hiện đại, việc đổi mới dạy học sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và
vững chắc.
2. Hệ thống các tri thức liên quan đến vấn đề được trình bày trong chuyên
đề này đã có một lịch sử lâu dài, nếu xem xét từ khi các yếu tố cơ bản của quá
trình giáo dục hiện đại được bắt đầu nghiên cứu.
Nhà giáo dục danh tiếng Ralph W.Tyler của Hoa kỳ là người đầu tiên đã
xác định đúng đắn các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục qua công trình
nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của Chương trình học và Giảng dạy” do
nhà xuất bản Đại học Chicago xuất bản năm 1950. Trong công trình này, ông
đã nêu lên 4 câu hỏi chủ yếu mà bất cứ một quá trình giáo dục nào cũng phải
giải đáp:
1) Nhà trường phải tìm kiếm để đạt được những mục đích giáo dục
gì?
2) Những trải nghiệm giáo dục* nào có thể được cung cấp nhằm đạt
được những mục đích đó?
3) Những trải nghiệm giáo dục này có thể tổ chức như thế nào để đạt
hiệu quả?
4) Chúng ta có thể xác định như thế nào để biết các mục đích này đã
đạt được? [134,tr.1-2].
7
* Thuật ngữ “Trải nghiệm giáo dục” (Educational Experience) ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng đã được trải nghiệm và tích lũy trong giáo dục (L.V.Q)
Lời giải đáp cho câu hỏi này chính là 4 yếu tố cơ bản của quá trình giáo
dục: Mục tiêu (Objective), Nội dung chuyên môn (Subject Matter), Phương
pháp và Tổ chức (Method and organization) và Đánh giá (Evaluation). Phân
tích mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố này với nhau để vạch ra các bước đi
cho việc xác định chúng trong một quá trình dạy học, “Nguyên lý Tyler” (The
Tyler Principle) trở thành nền tảng lý luận của các bộ môn khoa học giáo dục
Hoa Kỳ.
Tiếp theo đó, một nhà giáo dục nổi tiếng khác của Hoa Kỳ là Benjamin
S.Bloom và các cộng sự của ông đã công bố công trình khoa học “Phân loại
các mục tiêu giáo dục” gồm 2 tập, trong đó các mục tiêu giáo dục được phân
loại thành 3 lĩnh vực: lĩnh vực Nhận thức (Cognitive domain), lĩnh vực Thái độ
Tình cảm (Affective domain) và lĩnh vực Tâm vận động (Psychomotor
domain), tức là Kỹ năng hành vi. Bloom và các cộng sự đã trình bày 2 lĩnh vực
đầu trong tập I - lĩnh vực Nhận thức (xuất bản năm 1956) và tập II - lĩnh vực
Thái độ Tình cảm (xuất bản năm 1964). Riêng lĩnh vực thứ 3 được Anita
J.Harlow trình bày trong cuốn sách “Phân loại lĩnh vực Tâm vận động” (xuất
bản năm 1972). Sự phân loại này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc xác
định các mục tiêu và đánh giá thành quả đạt được của các mục tiêu đó.
Phát triển nguyên lý Tyler, nữ giáo sư Hilda Taba của Đại học Quốc gia
San Francisco cho xuất bản cuốn “Phát triển Chương trình học - lý thuyết và
thực hành” vào năm 1962. Trong công trình này, bà đã hướng dẫn phương pháp
xác định mục tiêu giáo dục, cách thức chuyển các mục tiêu tổng quát vào các
mục tiêu chuyên biệt, những nguyên tắc lựa chọn kinh nghiệm và phương
pháp, tổ chức nội dung chương trình học và đánh giá kết quả của chương trình.
8
Với các công trình khoa học kinh điển như trên, hệ thống lý luận của Hoa
Kỳ về các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục thường xuyên được bổ sung,
hoàn thiện, cụ thể hoá và cập nhật để đi vào lý thuyết và thực tiễn các bộ môn
Giáo dục học, Phát triển Chương trình học, Đo lường và Đánh giá, Phương
pháp Dạy học ...
Nhìn chung, hệ thống lý luận dựa trên mối quan hệ tương tác giữa 4 yếu
tố cơ bản trong quá trình giáo dục và sự phân loại 3 lĩnh vực của học vấn đã
bao trùm mọi chuyên ngành giáo dục, đi sâu vào mọi cấp học, mọi bộ môn cho
đến từng khoá trình, từng bài học trong lớp ở Hoà Kỳ. Chẳng những thế, hệ
thống lý luận này còn được áp dụng phổ biến trên khắp thế giới, ảnh hưởng đến
cả những nước có truyền thống lâu đời về lý luận giáo dục như Pháp và Đức,
chỉ dừng bước trước Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thời
kỳ chiến tranh lạnh.
Khi ấy, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa có một hệ thống lý luận
giáo dục riêng của mình.Tiêu biểu cho hệ thống lý luận này là các nhà giáo dục
Xô Viết như T.A.Ilina với cuốn “Giáo dục học” (1969),N.A.Sorokin với cuốn
“Lý luận Dạy học” (1979),Iu.K.Babanski với cuốn “Giáo dục học” (1983) ...
Iu.K.Babanski đã phân tích quá trình dạy học và nêu rõ:
Các thành tố của quá trình dạy học là: Mục tiêu, Kích thích Động cơ,
Nội dung, hoạt động tác nghiệp (các hình thức, phương pháp dạy và
học), Kiểm tra điều tiết, Đánh giá kết quả. Các thành tố ấy của quá
trình dạy và học phản ánh sự phát triển tác động qua lại giữa giáo
viên và học sinh từ lúc đề xuất và tiếp nhận mục tiêu, đến khi thực
hiện mục tiêu với những kết quả cụ thể [13,tr.187].
Về sự tác động qua lại giữa các thành tố này, ông viết: “Mục tiêu dạy và
học quy định nội dung của nó. Mục tiêu và nội dung dạy và học đòi hỏi những
phương pháp, phương tiện và hình thức kích thích và tổ chức dạy và học”
9
[13,tr.190]. Cuốn “Lý luận dạy và học ở trường Phổ thông” của M.N.Skatkin
(1982), cuốn “Lý luận dạy học ở trường Phổ thông” của M.A Danilov (1988),
cuốn “Dạy học nêu vấn đề” của I.Ia.Lecne (1973), đều ít nhiều thể hiện quan
điểm nêu trên về mối quan hệ một chiều theo tuyến tính giữa các thành tố của
quá trình dạy học.
I.Ia.Lecne (1973) đã khẳng định rằng “yếu tố cấu trúc của mọi hệ thống
giáo dưỡng và dạy học là: mục đích dạy học, thành phần học sinh, nội dung
dạy học và phương pháp dạy học” [52,tr.79].
Rõ ràng hệ thống lý luận Xô Viết không thua kém Hoa Kỳ về quan điểm
chung đối với các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục, mặc dù có sự khác biệt
trong nhận thức về mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ
thống lý luận xuất phát từ Hoa Kỳ được coi là hệ thống lý luận giáo dục quốc
tế hiện đại có tầm ảnh hưởng lớn nhất, chính vì sự vượt trội của nó trong việc
cụ thể hoá để ứng dụng và thực hành ở các bộ môn mới thuộc khoa học giáo
dục, được áp dụng rộng rãi trong mọi quá trình giáo dục ở nhà trường.
Các công trình chủ yếu của khoa học giáo dục quốc tế hiện đại du nhập
vào Việt Nam tương đối muộn và khá rời rạc. Không kể những gì đã được đưa
vào miền Nam trước năm 1975, mãi đến năm 1994 mới có bản dịch sang tiếng
Việt đầu tiên của cuốn “Phân loại các mục tiêu giáo dục, tập I: Lĩnh vực nhận
thức” của B.S.Bloom và các cộng sự (bản dịch của Đoàn Văn Điều với nhan đề
“Nguyên tắc phân loại Mục tiêu giáo dục: lĩnh vực Nhận thức”; lưu hành nội bộ
trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh). Tuy nhiên, tập II của cuốn
sách viết về lĩnh vực Thái độ Tình cảm, do David R.Krathwohl và Bertram
Masia đứng tên tác giả cùng Bloom; cũng như cuốn sách “Phân loại lĩnh vực
Tâm vận động” của Anita J. Harlow thì chưa bao giờ được dịch. Mãi đến năm
2004, cuốn “Phát triển Chương trình học: hướng dẫn thực hành” của Jon Wiles
và Josefh Bondi mới được dịch sang tiếng Việt (bản dịch của Nguyễn Kim
10
Dung với nhan đề “Xây dựng chương trình học: hướng dẫn thực hành”, lưu
hành nội bộ trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh).
Ngoài hai cuốn sách đã được dịch nêu trên, chưa có một công trình nào
của Tyler hay các tác giả khác được giới thiệu hay chính thức được lưu hành ở
Việt Nam. Trong tình hình như vậy, các nhà giáo dục Việt Nam vẫn tiếp cận
các vấn đề lý luận và thực tiễn bằng các công trình nghiên cứu của mình.
Dương Thiệu Tống, người đã giảng dạy môn trắc nghiệm thành quả học tập ở
trường Đại học Sư phạm Sài Gòn từ thập niên 70 của thế kỷ trước, đã biên soạn
cuốn “Trắc nghiệm và Đo lường Thành quả Học tập (phương pháp thực
hành)”, do trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm
1995. Dựa trên các nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục hiện đại, ông đã
trình bày rõ việc soạn thảo mục tiêu cho mỗi môn học để đáp ứng việc đánh giá
thành quả môn học bằng trắc nghiệm.
Phan Ngọc Liên và các cộng sự của ông đặc biệt quan tâm đến mối quan
hệ giữa Mục tiêu, Nội dung và Phương pháp dạy học.
Giáo trình “Phương pháp dạy học Lịch sử” của Phan Ngọc Liên, Trần Văn
Trị và các cộng sự (Nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ 2 năm 1999) đã chỉ
rõ:
Yếu tố cấu thành quá trình dạy học Lịch sử bao gồm mục đích, nội
dung và phương pháp. Mục đích là điều quyết định phương hướng
chọn lựa nội dung và các biện pháp dạy học. Song mục đích không
phải được đặt ra một cách tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan của người
giảng dạy mà phải nghiên cứu khả năng, sở trường của môn học
trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh để xác định
tính hiện thực của mục đích, nghĩa là có thể thực hiện có hiệu quả
trong những điều kiện cụ thể của việc xác định nội dung và phương
pháp dạy học [39,tr.7].
11
Tóm lại, các nhà giáo dục đã viết nhiều về mục tiêu, nội dung, phương
pháp trong chương trình và trong thực tiễn dạy học. Cũng đã có một số tác giả
đề cập mục tiêu, nội dung và phương pháp cùng mối quan hệ giữa các yếu tố
này, hoặc đi sâu vào kỹ thuật đánh giá - đo lường. Nhưng đến nay tại Việt Nam
vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và kỹ lưỡng cả 4 yếu tố cơ
bản trong quá trình giáo dục và mối quan hệ giữa các yếu tố đó theo quan điểm
Khoa học hiện đại để áp dụng vào việc đổi mới dạy học ở nhà trường Phổ
thông Việt Nam. Chuyên đề này sẽ bổ sung bước đầu cho sự khiếm khuyết đó.
3. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này là các yếu tố cơ bản trong quá
trình giáo dục và mối quan hệ giữa các yếu tố đó với nhau, được áp dụng để
xem xét chương trình học và việc dạy học nhằm đáp ứng việc đổi mới dạy học
ở nhà trường Phổ thông Việt Nam. Mặc dù trọng tâm nghiên cứu và áp dụng là
nhà trường Trung học, chuyên đề này có thể mở rộng để vận dung cho tất cả
các bậc học khác.
Trong khoa học giáo dục hiện đại, thuật ngữ “giáo dục” (education) hầu
như đồng nghĩa với thuật ngữ “dạy học” (teaching); mặc dù giáo dục thường có
nghĩa rộng và khái quát hơn, trong khi dạy học có nghĩa hẹp và cụ thể hơn. Do
vậy, thuật ngữ “quá trình giáo dục” là đồng nghĩa và bao hàm cả “quá trình dạy
học”.
Thuật ngữ “quá trình giáo dục” (educational process) được hiểu là một quá
trình diễn ra hoạt động giáo dục (hay dạy học) theo một chương trình (hay kế
hoạch) được thiết kế, trong một khoảng thời gian đã được xác định. Theo nghĩa
từ rộng đến hẹp, quá trình giáo dục có thể bao gồm cả một hệ thống giáo dục
(từ giáo dục Mầm non đến giáo dục Sau Đại học), cả một bậc học (như giáo
dục Phổ thông, giáo dục Đại học ...), cả một cấp học (Trung học Cơ sở, Trung
học Phổ thông...); đồng thời có thể là quá trình thực hiện chương trình của một
12
cấp lớp, một môn học hay một khoá trình... Như vậy, khái niệm chứa trong
thuật ngữ này tuỳ thuộc vào phạm vi vấn đề được đề cập.
Thuật ngữ “các yếu tố cơ bản” (basic elements) có nghĩa là những yếu tố
hợp thành, tạo nên nền tảng của quá trình giáo dục, chi phối những yếu tố khác
và có vai trò quyết định hiệu lực của quá trình giáo dục.
Việc nghiên cứu các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục và mối quan
hệ giữa chúng với nhau phải đi từ những cơ sở lý luận chung của giáo dục học
qua sự cụ thể hoá về lý thuyết và hướng dẫn thực hành của các nhà thiết kế
chương trình cũng như các chuyên gia về phương pháp dạy học, đến việc thể
hiện hay ứng dụng chúng trong từng môn học và từng khoá trình dạy học ở nhà
trường.
4. Sau khi hoàn tất việc học tập chuyên đề này, người học sẽ:
Hiểu 4 yếu tố cơ bản trong mọi quá trình giáo dục là Mục tiêu, Nội dung,
Phương pháp và Đánh giá; nhận thức đầy đủ các đặc trưng của mỗi yếu tố và
mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó hợp thành một hệ thống. Hiểu hiệu
lực của hệ thống này cao hay thấp tùy thuộc vào đặc trưng của từng yếu tố
được trình bày và mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó.
AÙp dụng được các kiến thức trên vào việc xem xét chương trình đào
tạo của một bậc học hay cấp học, chương trình học của một bộ môn, các khoá
trình hay bài học trong sách giáo khoa của nhà trường Phổ thông; từ đó nêu lên
được một số ưu điểm và nhược điểm của chương trình, khoá trình hay bài học
được xem xét, rút ra nhận định về hiệu lực của chúng.
AÙp dụng được các kiến thức trên vào việc thiết kế khoá trình hay bài học
ở nhà trường theo tiêu chuẩn của khoa học giáo dục hiện đại; chú trọng rèn luyện
kỹ năng trình bày mục tiêu, lựa chọn nội dung, thực hiện các phương pháp dạy
học tiên tiến, lựa chọn và tạo lập các công cụ đánh giá - đo lường thành quả học
tập của khoá trình hay bài học được thiết kế.
13
Đáp ứng nhu cầu đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại; chú
trọng thực hành đổi mới dạy học bộ môn mà mình phụ trách.
Những kiến thức và kỹ năng tiếp nhận được từ chuyên đề này sẽ tạo thành
cơ sở tốt để người học tiếp tục tìm hiểu sâu rộng hơn, nhằm đạt tới những trình
độ học vấn cao hơn trong các bộ môn chính của khoa học giáo dục hiện đại:
Giáo dục học (Education), Phát triển Chương trình học (Curriculum
Development), Thiết kế khoá trình (Course Design), Phương pháp dạy học
(Methods for Teaching), Đo lường và Đánh giá (Measurement and Evaluation).
Như vậy, chuyên đề này cũng hữu ích cho sự nghiệp đổi mới giáo dục ở Việt
Nam.
Tuy nhiên, tiếp thu hệ thống lý thuyết và thực hành của nước ngoài để áp
dụng vào nhà trường nước ta là một việc hết sức khó khăn, trong khi khả năng
và trình độ chuyên môn của người viết còn nhiều hạn chế. Vì vậy, chắc rằng
chuyên đề này vẫn còn những sai sót và những điều bất cập. Người viết mong
nhận được những sự chỉ dẫn quý báu của các nhà chuyên môn, quý vị đồng
nghiệp và bạn đọc nói chung, để giúp cho chuyên đề ngày càng được hoàn
thiện.
14
PHầN THứ NHấT
các yếu tố cơ bản trong
quá trình giáo dục HIệN ĐạI
Mỗi quá trình giáo dục luôn bao gồm hai công đoạn gắn bó mật thiết với
nhau là Chương trình học (curriculum) và Giảng dạy (instruction). Sự vận hành
và hiệu lực của mỗi quá trình giáo dục qua hai công đoạn đó luôn chịu sự tác
động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Có những yếu tố thuộc về con
người: người dạy (bao gồm phẩm chất, năng lực ...); người học (bao gồm đặc
điểm tâm lý, khả năng tư duy, động cơ học tập ...); người thiết kế chương trình,
người quản lý giáo dục ... Có những yếu tố thuộc về hoàn cảnh (như môi
trường và điều kiện dạy học). Nhưng quan trọng hơn hết là những yếu tố hợp
thành quá trình giáo dục (bao gồm triết lý, nguyên tắc, tiêu chuẩn, mục tiêu,
nội dung, phương pháp, tổ chức, đánh giá, điều hành ... ). Trong số những yếu
tố hợp thành đó, những yếu tố có vai trò quyết định hiệu lực của quá trình giáo
dục được coi là những yếu tố cơ bản (hoặc thành tố cơ bản).
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những quan điểm của R.W.Tyler về 4 yếu tố
cơ bản trong quá trình giáo dục vẫn làm cơ sở cho hệ thống lý luận khoa học
giáo dục quốc tế hiện đại.
Một số hệ thống lý luận khác thường phân biệt hai khái niệm là “giáo dục”
(với chức năng chủ yếu là xây dựng nhân cách, đạo đức, hình thành thế giới
quan cho con người) và “giáo dưỡng” (chủ yếu là truyền thụ tri thức khoa học
kỹ thuật cho con người); dẫn tới sự khác biệt giữa quá trình giáo dục (thực hiện
chức năng giáo dục), với quá trình dạy học (thực hiện chức năng giáo dưỡng),
trong đó các yếu tố cơ bản của hai quá trình này không hoàn toàn trùng khớp
với nhau [xem 13,tr.105-108 và tr.187-190]. Sự phân biệt này làm cho lý luận
15
trở nên phức tạp, gây trở ngại cho việc ứng dụng thực tiễn. Trong khi đó, hệ
thống lý luận quốc tế hiện đại không tách rời giáo dục với giáo dưỡng, không
phân biệt quá trình giáo dục với quá trình dạy học, mà dùng chung thuật ngữ
“quá trình giáo dục” với 4 yếu tố cơ bản của nó là Mục tiêu, Nội dung, Phương
pháp - Tổ chức và Đánh giá. Quan điểm này đơn giản hơn, nhưng lại hợp lý và
đã được kiểm nghiệm khi áp dụng lý luận vào thực tiễn.
Một số hệ thống lý luận đã phân chia học vấn mà học sinh cần tiếp nhận ở
nhà trường thành các lĩnh vực trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục, lao động...
Phân chia như vậy khá rành mạch, nhưng chưa phải đã hoàn toàn hợp lý để có
thể ứng dụng vào thực tiễn một cách đầy đủ với hiệu quả cao.
Hệ thống lý luận quốc tế hiện đại không phân chia như vậy, mà phân loại
học vấn thành 3 lĩnh vực: lĩnh vực Nhận thức, lĩnh vực Thái độ Tình cảm và lĩnh
vực Tâm vận động, tức là Kỹ năng hành vi, dựa trên nguyên tắc phân loại của
B.S. Bloom và các cộng sự. Nguyên tắc phân loại này đã được vận hành rất hiệu
quả trong thực tiễn.
Theo hệ thống lý luận này, việc xem xét các yếu tố cơ bản trong quá trình
giáo dục không thể tách rời nguyên tắc phân loại các lĩnh vực của học vấn;
đồng thời cần lưu ý sự khác biệt giữa hệ thống lý luận này với một số hệ thống
lý luận khác về vấn đề được xem xét.
Để phác thảo một tầm nhìn toàn diện và có hệ thống về mối quan hệ giữa
các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục, phần này bắt đầu trình bày những đặc
trưng của các yếu tố cơ bản đó, rồi tập trung phân tích mối quan hệ giữa các yếu
tố cơ bản đó với nhau. Chính mối quan hệ này sẽ tạo nên các nguyên tắc thiết kế
chương trình học và thực hiện các khoá trình dạy học cụ thể.
16
CHƯƠNG 1
Đặc trưng của các yếu tố cơ bản
trong quá trình giáo dục
Tyler (1950) nói: “Nếu chúng ta nghiên cứu một cách có hệ thống và
thông minh một chương trình giáo dục, trước hết chúng ta phải nắm vững
những mục tiêu giáo dục được nhắm đến” [134,tr.3]. Từ đó, ông đề xuất trình
tự nghiên cứu các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục khởi đầu từ Mục tiêu,
rồi đến Nội dung, tiếp đến Phương pháp và Tổ chức, và kết thúc ở Đánh giá.
1.1. Mục tiêu giáo dục
1.1.1. Định nghĩa
Các nhà giáo dục Hoa Kỳ đã thống nhất định nghĩa về mục tiêu giáo dục
như sau: Mục tiêu giáo dục là sự tuyên bố về những kết quả được dự kiến hay
mong đợi sẽ đạt được đối với người học, sau khi họ hoàn tất quá trình giáo dục.
Đây là định nghĩa khái quát nhất, vạch ra phương hướng chung để xác
định mục tiêu ở mọi cấp độ, mọi loại hình của bất cứ quá trình giáo dục nào.
1.1.2. Các cấp độ của mục tiêu giáo dục
Vì quá trình giáo dục có nhiều cấp độ khác nhau, từ một hệ thống giáo
dục của đất nước hay một bậc học, một cấp học, cho đến một lớp học, một môn
học, một khoá trình hay một bài học, cho nên mục tiêu giáo dục cũng có nhiều
cấp độ, tương ứng với quá trình giáo dục của mục tiêu đó. Các mục tiêu thuộc
những cấp độ khác nhau này có quan hệ chặt chẽ với nhau, hợp thành một
chuỗi liên kết, xuyên suốt từ cấp độ cao nhất đến cấp độ thấp nhất. Trong chuỗi
liên kết đó, mục tiêu của cấp độ trên là sự khái quát hoá để dẫn tới mục tiêu ở
17
cấp độ dưới kế cận; ngược lại, mục tiêu của cấp độ dưới là sự cụ thể hoá của
mục tiêu của cấp độ trên kế cận.
Các nhà giáo dục Hoa Kỳ, như A.C. Ornstein và D.U. Levine, cho rằng có
3 cấp độ mục tiêu chính trong hệ thống giáo dục phổ thông của đất nước. Họ
dùng 3 thuật ngữ đồng nghĩa (đều có nghĩa là mục tiêu hay mục đích) để biểu
thị 3 cấp độ này là Aim, Goal và Objective. Có thể tạm quy ước để dịch 3 thuật
ngữ đó sang tiếng Việt là Tôn chỉ, Mục đích và Mục tiêu (thuật ngữ Mục tiêu
trong chuyên đề này vừa có nghĩa chung cho các mục tiêu giáo dục, vừa để chỉ
cấp độ thứ ba đối với những trường hợp cụ thể). 3 cấp độ đó là:
Tôn chỉ (Aim): Là cấp độ cao nhất và rộng nhất của mục tiêu giáo dục.
Đó là những tuyên bố rộng, cung cấp đường lối chỉ đạo chung cho nhà trường
trong nền giáo dục quốc dân, thể hiện những giá trị và những năng lực mà
người học cần được tích lũy trong nhà trường. Tôn chỉ giáo dục được soạn thảo
ở cấp quốc gia (riêng tại Hoa Kỳ đôi khi ở cấp tiểu bang). Căn cứ vào điều kiện
xã hội của đất nước, các ủy ban (hay Hội đồng) quốc gia, hoặc nhóm chuyên
gia đặc biệt được giao nhiệm vụ, sẽ soạn thảo tôn chỉ giáo dục cho toàn quốc
(hay tiểu bang).
Mục đích (Goal): Là cấp độ thứ hai của mục tiêu giáo dục, thường được
gọi là các tuyên bố sứ mệnh (mission statements), hoặc các mục tiêu trung gian
(intermediate objectives). Đó là những tuyên bố về mục tiêu giáo dục của cơ
quan giáo dục địa phương (Quận Liên trường ở Hoa Kỳ hay Sở Giáo dục của
tỉnh ở Việt Nam) hoặc của nhà trường các cấp. Mục đích giáo dục được rút ra
từ tôn chỉ giáo dục của đất nước; đồng thời phản ánh điều kiện xã hội, những
ưu thế và những nhu cầu của cộng đồng địa phương. ở Mỹ, việc soạn thảo mục
đích giáo dục thường được giao cho một uỷ ban bao gồm một nhóm các nhà
quản lý, các giáo viên và/hoặc một số thành viên của cộng đồng.
18
Mục tiêu (Objective): Là thuật ngữ được dùng chung cho các cấp độ
mục tiêu giáo dục ở cơ sở, bao gồm mục tiêu của bộ môn hay cấp lớp, của khoá
trình và của bài học. Từ sự cụ thể hoá mục đích giáo dục hay mục tiêu của cấp
độ kế cận bên trên, các mục tiêu này được xác định để tổ chức nội dung,
phương pháp và kinh nghiệm học tập. Các mục tiêu này thường thể hiện trình
độ ứng xử được trông đợi ở học sinh đối với các kiến thức mà họ đã tiếp cận.
Do đó, chúng thường được gọi là các “mục tiêu ứng xử” (behavioral objective).
Khác với các tôn chỉ và mục đích của hai loại cấp độ bên trên thường
mang tính chất tổng quát rộng ở các mức độ nhất định, các mục tiêu của những
cấp độ này mang tính chất chuyên biệt - hẹp. Mức độ chuyên biệt sẽ tăng lên
khi chuyển từ các mục tiêu của bộ môn (hay cấp lớp) vào mục tiêu của khoá
trình hay bài học. Do đó, các tuyên bố mục tiêu ở đây phải được soạn thảo hết
sức cụ thể bằng cách sử dụng những thuật ngữ ứng xử trong chuyên môn, để có
thể theo dõi được quá trình thực hiện, và đánh giá được kết quả của việc thực
hiện mục tiêu.
Ba cấp độ mục tiêu chính được minh họa bằng sơ đồ sau:
19
Tôn chỉ(AIM)
Mục đích(GOAL)
Mục đích(GOAL)
Mục tiêu(objective)
Mục tiêu(objective)
Mục tiêu(objective)
Mục tiêu(objective)
Mục tiêu(objective)
Mục tiêu(objective)
Tổngquát
Chuyên
biệt
Quốc
gia hay Tiểu bang
Trường
hoặc Sở GD
Bộ môn
cấp lớp khoá trình
bài học
Hình 1.1: Sơ đồ 3 cấp độ chính của mục tiêu giáo dục
Nguồn: A.C. Ornstein và D.U. Levine [125,tr.495].
Ba cấp độ chính của mục tiêu trong hệ thống giáo dục phổ thông còn được
tóm lược trong bảng sau:
Hình 1.2: Bảng tóm tắt về 3 cấp độ chính của mục tiêu giáo dục
Nguồn: A.C. Ornstein và D.V. Levine [125,tr.500].
Cấp độmục tiêu
Nguồn chi phốimục tiêu
Cấp quản lýmục tiêu
Nơi soạn thảomục tiêu
1. Tôn chỉ giáo dục (Aim)
- Các điều kiện xã hội
- Quốc gia, hoặc tiểu bang
- Các Uỷ ban (hay Hội đồng) Quốc gia;- Nhóm chuyên gia đặc biệt.
2. Mục đíchgiáo dục (Goal)
- Tôn chỉ giáo dục- Các điều kiện của cộng đồng địa phương
- Cơ quan giáo dục địa phương- Trường học các cấp
- Nhóm các nhà quán lý, giáo viên và/hoặc các thành viên của cộng đồng.
3. Mục tiêugiáo dục (Objective)
- Mục đích giáo dục
- Bộ môn hoặc cấp lớp
- Hiệp hội hoặc Hội đồng các chuyên gia của bộ môn;- Các ban hoặc đơn vị phát triển Chương trình học thuộc cơ quan Giáo dục địa phương.
- Khoá trình - Các tác giả sách giáo khoa; giáo viên.
20
- Bài học - Các tác giả sách giáo khoa; giáo viên.
1.1.3. Phân loại các mục tiêu giáo dục
Không chỉ sắp xếp theo cấp độ, các mục tiêu giáo dục còn được phân loại
theo các lĩnh vực của học vấn và theo trình độ ứng xử của học sinh đối với kiến
thức mà họ tiếp nhận được theo từng lĩnh vực. Vì học vấn được phân chia
thành 3 lĩnh vực là Nhận thức, Thái độ Tình cảm và Kỹ năng Hành vi, nên các
mục tiêu thuộc mỗi loại hình này được phân loại theo trình độ ứng xử của học
sinh mà các mục tiêu đó đòi hỏi.
Các mục tiêu Nhận thức (cognitive objectives)
Các học vấn thuộc lĩnh vực nhận thức là những học vấn liên quan đến
những quá trình trí tuệ, được giới hạn từ sự ghi nhớ đến khả năng tư duy và
giải quyết vấn đề. Do đó, B.S. Bloom và các cộng sự (1956) đã xác định các
mục tiêu nhận thức bao gồm “những mục tiêu liên quan đến sự nhớ lại (recall)
hoặc nhận biết (recognition) kiến thức và sự phát triển những kỹ năng và khả
năng trí tuệ (intellectual skills and abilities)” [91,tr.7]. Theo nghĩa như vậy, các
mục tiêu nhận thức đã được phân loại thành 6 trình độ từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp:
- Biết (knowledge): Thuộc về trình độ này là các mục tiêu liên quan đến
sự nhận biết về các tri thức cụ thể riêng biệt như là các thuật ngữ và các sự
kiện; nhận biết rõ cách thức và phương tiện tiếp cận với các tri thức cụ thể
riêng biệt như là các quy ước, các khuynh hướng, các quy trình, các cách phân
loại và các hạng mục, các tiêu chuẩn và các hệ phương pháp; nhận biết về tổng
thể và trừu tượng, như là những nguyên tắc, những sự khái quát, các lý thuyết
và các cấu trúc.
21
- Hiểu (comprehension): Các mục tiêu ở trình độ này đòi hỏi học sinh khả
năng chuyển dịch các vấn đề hay thông tin đã tiếp nhận, bằng cách diễn đạt
khác và sử dụng một số thuật ngữ khác; khả năng giải thích được bản chất của
vấn đề với mối liên hệ bên trong của chúng; khả năng ngoại suy để mở rộng
các khuynh hướng hay xu hướng ngoài các dữ kiện của các tài liệu đã có.
- áp dụng (application): Các mục tiêu ở trình độ này đòi hỏi học sinh khả
năng áp dụng những kiến thức trừu tượng vào những hoàn cảnh cụ thể để giải
quyết vần đề được đặt ra. Học sinh phải tự mình lựa chọn kiến thức để áp dụng
mà không cần có sự hướng dẫn hay gợi ý của giáo viên.
- Phân tích (analysis): Thuộc về trình độ này là các mục tiêu liên quan
đến khả năng chia tách một tổng thể sự vật hay hiện tượng thành các bộ phận,
để nhận biết các yếu tố, các mối quan hệ và các nguyên tắc cấu tạo hay tổ chức
của chúng.
- Tổng hợp (synthesis): Thuộc về trình độ này là các mục tiêu liên quan
đến khả năng sắp đặt các bộ phận riêng lẻ lại với nhau để tạo thành một tổng
thể mới. Muốn đạt được mục tiêu này, học sinh phải rút ra được các yếu tố từ
nhiều nguồn và kết hợp chúng lại thành một cấu trúc hay một loại hình mà
trước đó còn chưa rõ ràng hay chưa có; như là tạo ra một nguồn thông tin duy
nhất, lập ra một kế hoạch điều hành, hay tập hợp các mối liên hệ trừu tượng...
- Đánh giá (evaluation): Đây là loại mục tiêu nhận thức ở trình độ cao nhất
do tính phức tạp của nó. Các mục tiêu này đòi hỏi học sinh về năng lực xét đoán
để đánh giá, dựa trên bằng chứng hoặc tính nhất quán logic của các dữ kiện bên
trong, và trên bằng chứng hoặc tính nhất quán của những tiêu chuẩn bên ngoài,
đối với sự kiện hay hiện tượng được phát triển ở một nơi nào đó.
Các mục tiêu Thái độ Tình cảm (affective objectives)
D.V. Krathwohl, B.S. Bloom và B.B. Masia xác định lĩnh vực Thái độ -
Tình cảm bao gồm những sự quan tâm, những thái độ và những tình cảm. Do
22
vậy, các mục tiêu thuộc lĩnh vực này “nhấn mạnh một sắc thái tình cảm, một
cảm xúc, hoặc một mức độ của sự chấp nhận hay bác bỏ” [119,tr.7]. Từ đó, họ
phân loại các mục tiêu này thành 5 trình độ từ thấp đến cao:
- Tiếp nhận (receiving): Mục tiêu loại này đòi hỏi sự nhạy cảm của học
sinh đối với thực trạng của các tác nhân kích thích; bao gồm sự cảm nhận, sự
sẵn sàng tiếp thu và sự chú ý có lựa chọn. Thí dụ: nhận biết những nhạc cụ
đang được chơi trong một dàn nhạc.
- Đáp ứng (responding): Loại mục tiêu bao gồm sự chú ý tích cực đối với
các tác nhân kích thích, như là sự chấp thuận, sự sẵn sàng đáp ứng, và những
sự thoả mãn tình cảm. Thí dụ: đóng góp cho các cuộc thảo luận nhóm bằng
cách nêu những câu hỏi.
- Chú trọng (valuing): Loại mục tiêu này thể hiện những niềm tin và
những thái độ của học sinh về giá trị của các tác nhân kích thích, bao gồm sự
chấp thuận, sự ưu ái, sự tận tâm và sốt sắng. Thí dụ: tranh luận về vấn đề bảo
vệ sức khoẻ.
- Tổ chức (organization): Loại mục tiêu này thể hiện trình độ hấp thụ của
học sinh, liên quan đến khái niệm về những giá trị và việc tổ chức một hệ thống
giá trị. Thí dụ: tổ chức một cuộc mít tinh của lớp (hay của trường) theo kế hoạch,
có sự tham gia chung của các đại biểu lớp bạn (hay trường bạn) ở kế cận.
- Tính cách hoá (characterization): Đây là những mục tiêu thể hiện trình
độ hấp thụ cao nhất, bao gồm những ứng xử liên quan đến sự khái quát hoá các
giá trị, sự tính cách hoá hoặc sự hình thành triết lý cuộc sống của người học.
Thí dụ: tranh luận về đạo đức của một xã hội cụ thể, hay về một luận thuyết
chính trị như “Tuyên ngôn Cộng sản” chẳng hạn.
Các mục tiêu Tâm vận động hay Kỹ năng Hành vi (psychomotor
objectives)
23
Lĩnh vực Kỹ năng Hành vi bao hàm những học vấn thuộc về những kỹ
năng vận động và thao tác. R.J. Armstrong, T.D. Cornell, R.E. Kraner và E.W.
Roberson (1970) xác định lĩnh vực này “trước hết nhấn mạnh đến những kỹ
năng về thần kinh - cơ bắp hay thể chất, liên quan đến các mức độ khéo léo của
cơ thể” [dẫn theo 124,tr.346]. A.J. Harlow (1972) đã phân loại 6 trình độ của
các mục tiêu này như sau:
- Các vận động phản xạ (reflex movements): các mục tiêu loại này bao
gồm những phản xạ phân đoạn (liên quan đến từng đoạn cột sống), những phản
xạ kết nối (liên quan đến vài ba đoạn cột sống trở lên) và những phản xạ vượt
mức. Thí dụ: co duỗi một cơ bắp.
- Các vận động cơ bản (fundamental movements): các mục tiêu loại này
bao gồm những vận động di chuyển (đi bộ, chạy, nhảy...), những vận động
không di chuyển (kéo, đẩy...) và những vận động thao tác (đá bóng, đánh
cầu...). Thí dụ: chạy hết tốc độ trong cự ly 100m.
- Các khả năng nhạy bén (perceptual abilities): những mục tiêu loại này
bao gồm những sự suy xét của khứu giác, thị giác, thính giác, xúc giác và
những khả năng phối hợp các giác quan. Thí dụ: phân biệt khoảng cách và
những âm thanh gần.
- Các khả năng thể chất (physical abilities): loại mục tiêu này thể hiện
các khả năng liên quan đến sức chịu đựng, sức bền, sức dẻo dai, sự linh hoạt,
thời gian phản ứng, sự khéo tay, thí dụ thực hiện nhiều lần động tác đứng lên
ngồi xuống.
- Các vận động khéo léo (skilled movements): loại mục tiêu này có liên
quan đến những kỹ năng thích ứng đơn giản, kỹ năng thích ứng có suy tính, kỹ
năng thích ứng phức tạp; thể hiện trong các trò chơi, các môn thể thao, múa và
khiêu vũ, các môn mỹ thuật. Thí dụ: trình diễn các bước cơ bản của vũ điệu
valse.
24
- Sự truyền đạt mạch lạc (nondiscursive communication): những mục tiêu
ở trình độ này bao gồm những hoạt động diễn cảm và những hoạt động biểu đạt
ý nghĩa; thể hiện qua dáng điệu, cử chỉ, vẻ mặt và các vận động sáng tạo. Thí
dụ: trình diễn một phần của một vở kịch.
Sự phân loại tổng thể các mục tiêu giáo dục dựa trên 3 lĩnh vực học vấn là
hết sức quan trọng và hữu ích đối với các nhà giáo dục, giúp họ khả năng xác
định đúng mục tiêu và khả năng chuyển các mục tiêu tổng quát vào các mục tiêu
chuyên biệt một cách thoả đáng cho các quá trình giáo dục ở mọi cấp độ.
Nhìn chung, mục tiêu giáo dục cần được định nghĩa đúng, cần được vạch
rõ các cấp độ và mối quan hệ giữa các cấp độ đó với nhau, và cần được phân
loại theo các lĩnh vực và các trình độ trong mỗi lĩnh vực. Có như vậy, mục tiêu
giáo dục mới có thể được áp dụng tốt vào thực tiễn của việc thiết kế chương
trình và dạy học các khoá trình cụ thể trong mọi quá trình giáo dục.
1.2. NộI DUNG CHUYÊN MÔN
1.2.1. Định nghĩa
Yếu tố “Nội dung” trong quá trình giáo dục cần được hiểu là nội dung
chuyên môn (Subject matter).
Thuật ngữ “nội dung chuyên môn” trước hết có nghĩa là nội dung kiến
thức. Kiến thức của nhân loại ở bất cứ lĩnh vực nào cũng vô cùng phong phú và
đa dạng, luôn luôn được bổ sung và không có giới hạn. Còn nội dung kiến thức
là một bộ phận kiến thức được lựa chọn, chứa đựng trong khuôn khổ quá trình
giáo dục, để đáp ứng mục tiêu của quá trình giáo dục đó. Tuy nhiên, nội dung
chuyên môn không chỉ là kiến thức, mà còn bao gồm cả kỹ năng và thái độ -
tình cảm liên quan đến kiến thức. Vậy, nội dung chuyên môn là những kiến
thức, kỹ năng và thái độ - tình cảm được lựa chọn để đáp ứng mục tiêu giáo
dục.
25
Vì có nhiều cấp độ quá trình giáo dục khác nhau, nên nội dung cũng bao
gồm những cấp độ tương ứng. Những nội dung của các cấp độ quan hệ chặt
chẽ với nhau theo trình tự từ trên xuống cũng như từ dưới lên. Nội dung của
cấp độ trên chứa đựng các nội dung của cấp độ dưới kế cận; nội dung của cấp
độ dưới tổng hợp lại thành nội dung của cấp độ trên kế cận.
Trong chương trình học ở nhà trường, nội dung chuyên môn được trình
bày thành nội dung các môn học, tức là lượng kiến thức cùng với kỹ năng và
thái độ - tình cảm chứa đựng trong mỗi bộ môn. Khoa học giáo dục hiện đại
cho rằng sự kết hợp 3 lĩnh vực kiến thức, kỹ năng và thái độ - tình cảm sẽ tạo
nên những giá trị khác, hợp thành năng lực chung của học sinh. Do đó, Hội
đồng Nghiên cứu Quốc gia (National Research Council - NRC) của Hoa Kỳ
(1996) đã đưa ra một định nghĩa đơn giản nhưng bao quát: “Nội dung là những
gì mà học sinh được học” [dẫn theo 130,tr.17].
1.2.2. Các đặc tính của nội dung kiến thức
Mọi nội dung kiến thức trong quá trình giáo dục đều có những đặc tính
chung cần được nhận thức rõ khi thiết kế chương trình và tiến hành dạy học.
Hilda Taba (1962) đã nêu lên 4 đặc tính, có quan hệ từng đôi một, là dung
lượng và quá trình,bề rộng và chiều sâu của nội dung kiến thức trong quá trình
giáo dục [xem 132,tr.172-174,tr.276-278].
Dung lượng (content) của kiến thức, được hình dung như một quỹ riêng
chứa đựng đủ các thông tin sẵn có của mỗi loại kiến thức. Tuỳ theo trình độ
học vấn của mỗi quá trình giáo dục chứa đựng một kiến thức nào đó, mà lượng
thông tin trong quỹ riêng của kiến thức này được sử dụng nhiều hay ít. Nếu
lượng thông tin được sử dụng quá ít so với trình độ yêu cầu, thì sẽ không đạt
được đầy đủ mục tiêu giáo dục. Nếu lượng thông tin được sử dụng nhiều hơn
so với trình độ yêu cầu, thì sẽ xuất hiện sự “quá tải” đối với học sinh, và mục
tiêu giáo dục cũng không được đáp ứng thoả đáng. Vấn đề đối với nhà giáo dục
26
là phải sử dụng đúng mức lượng thông tin cần thiết cho trình độ được yêu cầu,
để đáp ứng đầy đủ và thoả đáng mục tiêu giáo dục.
Quá trình (process) của kiến thức là quá trình phát triển theo một đường
lối và phương pháp nào đó của kiến thức đó. Mọi kiến thức đều có quá trình
phát triển của nó. Vì vậy, để lĩnh hội kiến thức, người ta không chỉ tiếp thu một
dung lượng thông tin, mà còn phải tiếp nhận quá trình phát triển của kiến thức
đó. Chính quá trình này sẽ rèn luyện cho người học phương pháp tư duy khoa
học để phát hiện và giải quyết vấn đề. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà giáo
dục là phải điều chỉnh sự tương quan giữa dung lượng và quá trình của kiến
thức, để đạt đến một tỷ lệ hợp lý cho người học tiếp nhận kiến thức có hiệu quả
tốt nhất. Taba (1962) cho rằng mọi khuynh hướng cực đoan, nghiêng hẳn về sự
tích luỹ dung lượng thông tin hay nghiêng hẳn về sự dẫn dắt quá trình nhận
thức, đều không đưa đến kết quả tốt nhất. Nhưng như thế không có nghĩa là
phải tạo ra một sự cân bằng bình đẳng máy móc giữa dung lượng và quá trình ở
tất cả các môn học. “Có một mối quan hệ giữa những quá trình nhận thức với
dung lượng của kiến thức. Cũng có những sự khác nhau trong những hệ thống
tư duy của các bộ môn; và sự độc đáo trong tư duy của mỗi môn học sẽ đóng
góp cho sự phát triển tri thức cân bằng” [132,tr.174].
Bề rộng (breadth) của kiến thức là phạm vi bao quát trên bề mặt của
toàn bộ kiến thức, bao gồm mọi thông tin liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến
kiến thức đó. Vì kiến thức của nhân loại là vô cùng tận, nên bề rộng của mỗi
kiến thức trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng thường xuyên được mở rộng thêm.
Nhưng trong mọi quá trình giáo dục, mỗi kiến thức đều chịu sự giới hạn của
thời gian tiến hành để dạy học nó, và của nhiều điều kiện vật chất khác nữa. Do
đó, khi thiết kế hay dạy học một chương trình giáo dục, các nhà thiết kế hay
các giáo viên phải giải quyết vấn đề phạm vi kiến thức được mở rộng đến đâu.
Nếu một phạm vi kiến thức quá rộng, lại được thực hiện trong một khoảng thời
27
gian quá hẹp, thì kết quả đạt được sẽ rất hạn chế. Bề rộng của kiến thức chẳng
những bị hạn chế bởi bởi khung thời gian, mà còn luôn mâu thuẫn với chiều
sâu của kiến thức.
Chiều sâu (depth) của kiến thức được thể hiện trong lượng thông tin
phong phú và đa dạng, đem lại cho người học sự hiểu biết đầy đủ, rõ ràng và
sâu sắc về kiến thức đó. Trong một quá trình giáo dục, bề rộng và chiều sâu của
kiến thức là hai đặc tính trái ngược nhau; và không bao giờ có thể cùng một lúc
đạt đến giới hạn tột cùng của cả hai đặc tính này. Khi cần phải đi sâu vào một
số vấn đề của kiến thức, người ta phải cắt giảm phạm vi bao quát của kiến thức
đó. Ngược lại, khi đã quyết định mở rộng phạm vi kiến thức, người ta phải
giảm bớt chiều sâu của nó. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà giáo dục là phải
xác định được một sự cân bằng giữa bề rộng và chiều sâu của kiến thức. Taba
(1962) cho rằng “Có khả năng đạt được một sự cân bằng tương đối giữa bề
rộng và chiều sâu, bằng cách chọn lựa một giới hạn thoả đáng đối với các ý
tưởng, để xem xét những gì phù hợp có hiệu suất cao nhất cho việc truyền đạt
kiến thức, và bằng cách tận dụng đủ thời gian cho cả bề rộng và chiều sâu kiến
thức” [132,tr.276].
Rất rõ ràng là việc nhận thức được 4 đặc tính của nội dung kiến thức sẽ
giúp cho các nhà giáo dục giải quyết được nhiều vấn đề khi thiết kế chương
trình và tiến hành dạy học.
1.2.3. Các trình độ của nội dung kiến thức trong chuỗi học vấn
Cũng như các mục tiêu giáo dục, nội dung kiến thức được phân loại từng
trình độ; và mỗi trình độ đều có tác dụng của nó trong quá trình giáo dục. Cách
phân loại của Hilda Taba (1962) được thừa nhận rộng rãi; theo đó nội dung
kiến thức bao gồm 4 trình độ khác nhau, sắp xếp từ thấp đến cao là các sự kiện
và các quá trình riêng biệt, các ý tưởng cơ bản, các khái niệm và các hệ thống
tư tưởng [xem 132,tr.174-181].
28
Các sự kiện và quá trình riêng biệt
Đây là trình độ cơ sở của kiến thức, bao gồm những kiến thức riêng biệt
và cụ thể, như: những sự việc cụ thể, những ý tưởng được miêu tả với mức độ
khái quát thấp, những quá trình và những kỹ năng cụ thể... Có thể xếp vào cấp
độ này những sự miêu tả về các ngành của Chính phủ, những đặc điểm của một
hệ thống tóm tắt, các dữ liệu của những sự kiện lớn, những quy tắc sử dụng
riêng, những quá trình thực hiện các phép tính trong số học và đại số, những thí
nghiệm về khoa học tự nhiên... Riêng đối với lịch sử, thuật ngữ “sự kiện” (fact)
ở đây được giới hạn trong những sự việc cụ thể quy mô nhỏ, thường là chi tiết
hay dữ liệu của các sự kiện lớn (landmark events).
Thuộc trình độ này là những kiến thức đơn giản ở dạng tĩnh, chưa lôi
cuốn học sinh vào những hoạt động trí tuệ tích cực, chưa tạo ra những ý tưởng
mới, nhưng lại là những kiến thức hết sức cần thiết và không thể thiếu, hợp
thành nền tảng tri thức trong quá trình nhận thức. Loại kiến thức này là những
nguyên liệu thô (raw material) cho sự phát triển tư duy, trong đó các sự kiện
riêng biệt và cụ thể được coi là “thực phẩm của tư duy” (food for thought).
Chính là từ các nguyên liệu này mà người học rút ra được những nhận thức rõ
ràng, những sự khái quát hoá để từ đó tạo nên tư duy đúng đắn.
Các ý tưởng và nguyên lý cơ bản
Các ý tưởng cơ bản và các nguyên lý cơ bản hợp thành trình độ thứ hai của
nội dung kiến thức, cao hơn trình độ thứ nhất đã trình bày ở trên. Thuộc trình độ
này là những ý tưởng (ideas) có tầm khái quát cao như những ý tưởng về mối
quan hệ nhân quả giữa nền văn minh nhân loại với môi trường tự nhiên, về mối
quan hệ giữa dinh dưỡng và chuyển hoá trong cơ thể người, về các yếu tố tự nhiên
như khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên để cấu thành các nhóm của môi
trường địa lý... Cũng thuộc trình độ này là những nguyên lý (principles) và quy
29
luật xã hội, những định luật khoa học, những định lý và quy tắc toán học, những
sự kiện lịch sử quan trọng có quy mô lớn (landmark events).
Các ý tưởng và nguyên lý cơ bản là loại nội dung kiến thức năng động
hơn những nguyên liệu thô. Do vậy, chúng có thể được ứng dụng để hiểu các
sự kiện, các biến cố, các hiện tượng và các vấn đề trong một phạm vi rộng rãi,
và cũng được dùng để giải thích và dự đoán về các sự kiện và hiện tượng đang
diễn ra hoặc sẽ hình thành. Bởi thế, tác dụng rèn luyện và phát triển khả năng
tư duy của học sinh của loại kiến thức này là rất lớn.
Do tác dụng quan trọng của chúng, các ý tưởng và nguyên lý cơ bản
được coi là chất liệu chính tạo nên cấu trúc (structure) của nội dung môn học.
Việc vạch rõ và hiểu rõ cấu trúc nội dung môn học được coi là một trọng tâm
của quá trình dạy học.
Các khái niệm
Trình độ thứ ba của nội dung kiến thức bao gồm các khái niệm
(concepts). Các khái niệm là những hệ thống phức tạp của tư duy trừu tượng
cao, chỉ được tạo nên từ những quá trình nhận thức nối tiếp nhau trong các bối
cảnh đa dạng. Chúng không thể tạo thành trong một đơn vị kiến thức riêng biệt
nào đó, mà cần phải được đan dệt trong khuôn khổ toàn bộ chương trình học,
phải được rà soát lại nhiều lần từ lớp dưới lên lớp trên, với mức độ khái quát
tăng dần theo hướng đi lên của hình xoáy trôn ốc. Bằng con đường đó, các khái
niệm trừu tượng như “dân chủ”, “phụ thuộc lẫn nhau”, “biến đổi xã hội” được
hình thành trong toàn bộ chương trình các môn khoa học xã hội; hay khái niệm
“tập hợp” được hình thành trong toán học từ lớp dưới lên lớp trên. Ví dụ khái
niệm “sự phụ thuộc lẫn nhau” (interdependence) được hình thành từ lớp 1,
mang ý nghĩa cụ thể của mối quan hệ đơn giản là sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên trong mỗi gia đình, phát triển dần lên đến lớp 12 trở thành khái
30
niệm rất trừu tượng và phức tạp, là “sự lệ thuộc lẫn nhau” về kinh tế và chính trị
giữa các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm là loại kiến thức tạo nên nền móng của quá trình nhận thức.
Chúng được hình thành qua quá trình tích luỹ thông tin và sự kiện, tồn tại và
được sử dụng xuyên suốt quá trình giáo dục. Quá trình tích luỹ thông tin và sự
kiện để hình thành khái niệm từ cụ thể đến trừu tượng cũng chính là quá trình
rèn luyện khả năng tổng hợp và khái quát hoá của học sinh.
Các hệ thống tư tưởng
Trình độ cao nhất của nội dung kiến thức là các hệ thống tư tưởng
(thought systems). Những cấp độ nội dung ở bên dưới, chủ yếu là các ý tưởng
và nguyên lý cơ bản, các định đề và các khái niệm, được hệ thống hoá theo một
dòng lưu thông của tư duy tạo thành hệ thống tư tưởng.
Mỗi bộ môn học thuật, thậm chí mỗi khoá trình, đều có thể hình thành
một hệ thống tư tưởng của nó. Một nhóm gồm các bộ môn có liên quan, hay
tập hợp các bộ môn trong nhà trường, cũng chứa đựng những hệ thống tư
tưởng với những tầm cỡ khác nhau.
Hệ thống tư tưởng có tác dụng vô cùng lớn trong quá trình giáo dục. Nó
mở ra những đường lối logic cho sự liên kết các sự kiện và các ý tưởng để tạo
nên những tư tưởng mới, quy định những phương pháp tư duy hợp lý để phát
hiện và giải quyết các vấn đề trong chuyên môn cũng như trong đời sống, tạo
nên nền tảng để hình thành nhân sinh quan và thế giới quan cho người học. Có
thể lấy ví dụ trong hệ thống tư tưởng của bộ môn lịch sử. Các sự kiện và khái
niệm về chiến tranh trong chương trình lịch sử tạo nên quan điểm về chiến
tranh và hoà bình trong hệ thống tư tưởng của bộ môn. Sau khi nhận thức đầy
đủ quan điểm này, người học có thể vận dụng nó để xem xét hàng loạt các cuộc
chiến tranh ở trong và ngoài chương trình học. Họ có thể phân tích những
nguyên nhân và điều kiện làm cho chiến tranh bùng nổ, có thể xác định tính
31
chất của chiến tranh đối với mỗi bên tham chiến, đánh giá được kết quả và ý
nghĩa của mỗi cuộc chiến tranh... Những nhận thức và năng lực nêu trên sẽ
biến thành nhân sinh quan và thế giới quan của người học về vấn đề chiến
tranh và hoà bình của nhân loại.
Đối với các nhà giáo dục, hệ thống tư tưởng trong nội dung kiến thức là
một trọng tâm định hướng cho việc thiết kế chương trình và cho quá trình dạy
học. Một chương trình học chứa đựng đầy đủ những hệ thống tư tưởng trọng
yếu sẽ mang lại những thành quả vô hạn đối với người học. Khi có được những
chương trình học như vậy, Taba (1962) cho rằng “với một sự học tập kỹ lưỡng
về những tư tưởng then chốt, kết hợp với một sự vận hành trí tuệ mạch lạc tối
thiểu đối với chương trình tiểu học và trung học, thì chỉ cần một số ít sự kiện
trong một phạm vi nhỏ cũng tạo ra được một định hướng vô cùng lớn hơn đối
với thế giới, một thiết bị có ưu thế hơn hẳn của trí tuệ, và một kỹ năng được cải
thiện hết sức tốt cho việc sử dụng những tư tưởng để tạo ra những tư tưởng
khác” [132,tr.179].
Nhìn chung, các trình độ kiến thức khác nhau về các mức độ đơn giản và
phức tạp, riêng biệt và khái quát, cụ thể và trừu tượng... Càng ở trình độ cao,
thì tính chất phức tạp, khái quát và trừu tượng của kiến thức càng tăng lên;
nhưng những kiến thức ở trình độ cao chỉ có thể được hình thành trên cơ sở
những kiến thức riêng biệt, đơn giản hơn và cụ thể hơn ở trình độ thấp hơn. Do
đó, trong quá trình giáo dục, 4 trình độ kiến thức hợp thành một chuỗi học vấn
(sequence of learning) liên hoàn chặt chẽ và không thể cắt rời để bỏ qua một
trình độ nào. Nếu nội dung chương trình chỉ dừng lại ở các kiến thức thuộc
trình độ thấp, thì kết quả giáo dục đối với học sinh cũng chỉ dừng lại ở trình độ
đó. Ngược lại, nếu hoàn toàn bỏ qua các trình độ thấp để đưa ngay vào chương
trình các kiến thức ở trình độ cao, thì chương trình giáo dục ấy chắc chắn sẽ
thất bại. Trong trường hợp những kiến thức ở trình độ cao nhất chỉ dựa trên
32
những kiến thức ở trình độ thấp nhất, mà bỏ qua các trình độ trung gian, kết
quả đạt được cũng hết sức ít ỏi.
Một chuỗi học vấn thông thường được khởi đầu từ những sự kiện và quá
trình riêng biệt, tiến tới các ý tưởng và nguyên lý cơ bản, qua khái niệm rồi đến
hệ thống tư tưởng. Trong chuỗi đó, liều lượng của kiến thức ở mỗi trình độ
được cân nhắc bằng khả năng tư duy của học sinh. Theo Taba (1962) khi kiến
thức được tiếp nhận trong một chuỗi gồm 4 trình độ nêu trên, thì quá trình thu
nạp kiến thức đồng nhất với quá trình tư duy. “Các dữ liệu về sự phát triển tư
duy cho thấy khả năng tư duy tổng quát và trừu tượng phát triển sớm hơn cách
quan niệm thông thường; vì vậy không cần thiết phải tích luỹ kiến thức để phục
vụ cho tư duy mai sau” [132,tr.188].
1.2.4. Những yêu cầu để nội dung chuyên môn có hiệu lực
Nội dung chuyên môn bao giờ cũng là yếu tố cơ bản quan trọng nhất của
quá trình giáo dục, hoặc nói như H.M. Kliebard (1975), “là phương tiện chủ
yếu nhất trong nhiều phương tiện, mà nhờ có nó người ta đáp ứng được những
nhu cầu cá nhân có định hướng hoặc thoả mãn những đòi hỏi của xã hội.” [Dẫn
theo 128,tr.73]. Nhưng muốn cho nội dung trong chương trình giáo dục phát
huy được hiệu lực, thì bản thân nó phải đạt được một số yêu cầu nhất định.
Taba (1962) đã nêu ra 3 yêu cầu chính như sau:
Nội dung chuyên môn phải được cập nhật (update)
Trong khoa học, không có những tri thức vững bền ngự trị mãi mãi ở mọi
lúc mọi nơi. Tri thức là tương đối, luôn luôn biến đổi để phát triển. Trong cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật dẫn tới thời đại văn minh tin học hiện nay, tri
thức khoa học phát triển hết sức nhanh, với nhịp điệu ngày càng nhanh hơn.
Không chỉ tri thức phát triển nhanh, mà cả các phương tiện truyền thông tri
thức trong xã hội cũng phát triển nhanh như vậy. Do đó, nội dung chuyên môn
trong các quá trình giáo dục ở nhà trường phải bắt kịp với nhịp điệu phát triển
33
nhanh chóng của tri thức khoa học, tức là phải được cập nhật thường xuyên.
Chỉ những nội dung chuyên môn cập nhật đối với tri thức khoa học hiện đại
mới phát huy được hiệu lực của nó trong quá trình giáo dục. Những nội dung
lạc hậu và lỗi thời được đưa vào chương trình học sẽ chỉ có tác dụng làm mệt
học sinh một cách vô ích.
Sự lạc hậu và lỗi thời của kiến thức được thể hiện dưới nhiều dạng khác
nhau: lạc hậu về các sự kiện, về ý nghĩa chứa đựng bên trong các khái niệm, về
những lý thuyết để tổ chức và giải thích các sự kiện; lỗi thời về cách tiếp cận
hoặc kiểu tư duy được sử dụng, bao gồm cả cách đặt vấn đề và giải quyết vấn
đề. Do đó, việc cập nhật kiến thức luôn gắn liền với việc cập nhật kỹ năng và
thái độ - tình cảm. Theo Taba (1962) “Các môn học ở nhà trường, mặc dù thích
hợp với hạng mục phân loại, vẫn có thể thay đổi khi kiến thức thay đổi hoặc tư
tưởng về học thuật được sửa đổi” [132,tr.270].
Nội dung chuyên môn phải mang tính cơ bản (fundamental)
Để phát huy được hiệu lực của nó trong quá trình giáo dục, nội dung
chuyên môn, trước hết là nội dung kiến thức, không chỉ cần tính cập nhật, mà
còn phải mang tính cơ bản. Dĩ nhiên nội dung kiến thức mang tính cơ bản
chính là kiến thức cơ bản.
Kiến thức cơ bản là kiến thức chính xác, có độ ổn định tương đối cao, có
phạm vi ảnh hưởng tương đối rộng, để từ đó có thể tìm hiểu về nó sâu hơn hoặc
có thể tiếp cận thêm những kiến thức mới.
Các nhà giáo dục sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn nêu trong định nghĩa này để
lựa chọn hay xác định một kiến thức cơ bản. Thí dụ trong chương trình vật lý,
lý thuyết về sóng ánh sáng là một kiến thức cơ bản, vì nó đã được chứng minh
chính xác bằng thực nghiệm. Lý thuyết này có độ ổn định rất cao do tính đúng
34
đắn của nó được áp dụng rộng rãi trong kỹ thuật và công nghệ, không ai có thể
phản bác. Trong quá trình giáo dục, lý thuyết này có phạm vi ảnh hưởng rất
lớn, nó giúp học sinh hiểu sâu hơn về bản chất của ánh sáng, đồng thời cũng
giúp họ nhận thức về sóng âm và các dạng sóng tương tự khác.
Trong chương trình lịch sử, cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc
địa Anh ở Bắc Mỹ là một sự kiện cơ bản, được xác định chính xác về thời gian,
không gian, các nhân vật và lực lượng tham gia, quá trình phát triển của nó. Sự
kiện này có tính ổn định cao do quan điểm nhất quán của giới sử học. Đối với
học sinh, kiến thức cơ bản này giúp họ hiểu sâu hơn về sự thành lập Hợp chúng
quốc châu Mỹ và quá trình phát triển của nước Mỹ sau đó, đồng thời tạo ra cho
họ một khuôn mẫu để nhận thức các sự kiện tương tự diễn ra trên thế giới, từ
đó hình thành các khái niệm về “chiến tranh giải phóng” và “cách mạng tư
sản”...
Được chọn lọc kỹ càng theo những tiêu chuẩn nêu trên, kiến thức cơ bản
đồng thời trở thành kiến thức chuẩn mực của chương trình giáo dục.
Đối với các trình độ khác nhau của nội dung kiến thức, kiến thức cơ bản
không chỉ có ở một trình độ nào, mà tồn tại trong cả 4 trình độ. Với các kiến
thức cơ bản ở mỗi trình độ, các sự kiện và quá trình riêng biệt được coi là nền
móng, các ý tưởng cơ bản, nguyên lý cơ bản và các khái niệm tạo thành nòng
cốt, và các hệ thống tư tưởng là kết cấu hoàn chỉnh của cả chuỗi học vấn cơ
bản, cũng như của chương trình học.
Nội dung kiến thức cần truyền đạt tinh thần và phương pháp tìm hiểu
(spirit and method of inquiry)
Bên cạnh tính cập nhật và tính cơ bản, nội dung kiến thức còn phải truyền
đạt tinh thần và phương pháp tìm hiểu nó, để có thể phát huy đầy đủ hiệu lực
trong chương trình giáo dục. Quan điểm coi nội dung kiến thức bao gồm tinh
thần và phương pháp tìm hiểu đã được các nhà khoa học và các nhà giáo dục
35
Hoa Kỳ khẳng định từ lâu. J.A. Easley (1959) chỉ rõ rằng: “Phương pháp tìm
hiểu đã được nhấn mạnh trong lý thuyết chương trình học của Hiệp hội Giáo
dục Tiến bộ và các nhóm chuyên gia khác, cũng như trong các công trình của
John Dewey và nhiều nhà triết học khác trong suốt một thời gian dài” [dẫn theo
132,tr.271].
Việc thể hiện quan điểm này trong các chương trình học và trong việc dạy
học các bộ môn đòi hỏi các nhà thiết kế chương trình và các giáo viên phải chú
trọng cùng một lúc đến cả hai đặc tính của nội dung kiến thức là “dung lượng”
và “quá trình”. Nếu chỉ thiên về dung lượng kiến thức, người ta sẽ dạy học theo
kiểu áp đặt và võ đoán. Chỉ khi nào quan tâm đến cả dung lượng và quá trình
của kiến thức, người ta mới truyền đạt được tinh thần và phương pháp tìm hiểu
kiến thức đó, và do vậy mà nội dung kiến thức phát huy được đầy đủ hiệu lực
của nó. Theo quan điểm này, việc học lịch sử có hiệu quả nghĩa là học để hỏi
và trả lời những câu hỏi mà nhà sử học nêu lên; và học để xử lý những bằng
chứng, những sự kiện, những quan điểm lịch sử như những nhà sử học vẫn
làm.
Lẽ dĩ nhiên, để có thể truyền đạt cho học sinh, thì nội dung kiến thức phải
chứa đựng những thông tin phản ánh tinh thần và tạo điều kiện cho việc thực
hiện phương pháp tìm hiểu nó.
Tóm lại, nội dung chuyên môn của một quá trình giáo dục luôn luôn thể
hiện 4 đặc tính của nội dung kiến thức (dung lượng và quá trình, bề rộng và
chiều sâu), được phân loại thành 4 trình độ liên quan chặt chẽ với nhau (các sự
kiện và quá trình riêng biệt, các ý tưởng và nguyên lý cơ bản, các khái niệm,
các hệ thống tư tưởng) và phải đáp ứng 3 yêu cầu để phát huy hiệu lực (về tính
cập nhật, tính cơ bản, tinh thần và phương pháp tìm hiểu). Tất cả các đặc trưng
nêu trên của nội dung chuyên môn phải được nắm vững để có thể thiết kế tốt
36
các chương trình học, biên soạn tốt các sách giáo khoa và tiến hành dạy học có
hiệu quả.
1.3. Phương pháp và tổ chức
1.3.1. Định nghĩa
Yếu tố cơ bản thứ ba trong quá trình giáo dục là một phức hợp gồm hai
thành phần: phương pháp và tổ chức (method and organization) gắn bó chặt
chẽ với nhau. Nói một cách đầy đủ, yếu tố này là phương pháp và tổ chức giáo
dục (hay dạy học).
Phương pháp (method) là một thuật ngữ trừu tượng hàm chứa nhiều ý
nghĩa tương tự và gần gũi nhau. Nghĩa chung nhất của phương pháp là cách
thức (procedure) và quá trình (process) nhằm đạt được một mục tiêu. Theo đó,
phương pháp giáo dục là cách thức hoặc hệ thống kế hoạch được áp dụng để
đạt được mục tiêu của quá trình giáo dục.
Trong quá trình giáo dục, tổ chức có quan hệ mật thiết với phương pháp,
nên nó gắn bó với phương pháp tạo thành một yếu tố cơ bản.
Nhìn chung, tổ chức là sự tập hợp và sắp xếp hài hoà giữa các yếu tố, các
nhân vật hay các bộ phận để tạo thành một hệ thống, một cơ quan hay một sản
phẩm vật chất hoặc tinh thần, nhằm thực hiện một chức năng nhất định. Theo
đó, tổ chức giáo dục (hay tổ chức dạy học) là tổ chức tạo thành một hệ thống,
một đơn vị hay một công trình có chức năng thực hiện mục tiêu giáo dục.
Phương pháp và tổ chức tồn tại song hành và quan hệ mật thiết với nhau ở tất
cả các quá trình giáo dục. Nhưng trong những quá trình càng lớn, mang tính
khái quát càng cao, thì tỷ trọng càng nghiêng về phía tổ chức (tổ chức một lớp
học, một cấp học, một hệ thống giáo dục...). Còn trong những quá trình càng
nhỏ, với tính cụ thể càng cao, thì tỷ trọng càng nghiêng về phía phương pháp
(phương pháp dạy học một bộ môn, một khoá trình, một bài học...).
37
Vì vậy, đối với những quá trình dạy học cụ thể, người ta thường chỉ dùng
thuật ngữ “phương pháp” để chỉ yếu tố cơ bản vốn mang tên kép là “phương
pháp và tổ chức”. Các nhà giáo dục học Hoa Kỳ còn dùng thuật ngữ “chiến
lược” (strategy) để chỉ yếu tố này trong các quá trình dạy học cụ thể, với hàm ý
bao gồm nhiều phương pháp và cách thức tổ chức trong thuật ngữ đó.
1.3.2. Khởi nguồn của phương pháp và tổ chức
Mọi phương pháp và tổ chức đều xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực
tiễn nhất định. Khởi nguồn cho các phương pháp và tổ chức giáo dục là những
triết lý giáo dục, các quy luật tâm lý và các phương tiện truyền thông.
Các triết lý giáo dục
Xuất phát từ nhận thức khác nhau về bản chất của thế giới, các triết lý
giáo dục sẽ giải thích khác nhau về chức năng và quá trình giáo dục, bao gồm
các mục tiêu, nội dung, phương pháp và tổ chức, đánh giá giáo dục. Như vậy,
triết lý giáo dục là sự khởi nguồn cho cả 4 yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục,
mà trọng tâm xem xét ở đây là yếu tố phương pháp và tổ chức.
Trong nhiều triết lý giáo dục hiện đang tồn tại, Jon Wiles và Joseph
Bondi (2002) nêu lên 5 triết lý nổi bật [xem 136,tr.64-67].
- Triết lý vĩnh cửu (Perennialism)
Triết lý này coi hiện thực là thế giới của lý tính tồn tại vĩnh cửu, và bản
chất của con người là không đổi. Do đó, giáo dục là dạy cho học sinh những
đặc tính cố định của thế giới được khám phá. Vì vậy, trường học có chức năng
chủ yếu là giảng dạy những chân lý bất diệt của lý tính. Để đáp ứng được chức
năng đó, phương pháp và tổ chức dạy học được xác định theo hướng giáo viên
diễn giảng và học sinh tiếp thu thụ động với tính kỷ luật cao.
- Triết lý lý tưởng (Idealism)
38
Đây là một triết lý duy tâm, coi thế giới là những tồn tại trong tư tưởng
của mỗi cá nhân. Chân lý được tìm thấy trong tính nhất quán của các tư tưởng.
Chân lý cao đẹp nhất là một lý tưởng mà con người phải cố gắng để đạt được.
Do vậy, giáo dục chủ yếu là sự rèn luyện tư tưởng cho học sinh. Chức
năng của nhà trường là làm cho các quá trình trí tuệ sâu sắc hơn, để giới thiệu
sự thông thái của các thời đại và những mô hình gương mẫu cho học sinh.
Trong nhà trường, giáo viên phải là mẫu mực của chính hành vi lý tưởng để
đóng vai trò thuyết giảng cho học sinh. Còn học sinh cần nỗ lực tiếp thu các bài
thuyết giảng, và noi theo những hành vi mẫu mực của giáo viên.
- Triết lý hiện thực (Realism)
Triết lý này cho rằng thế giới là tất cả những gì hiện đang tồn tại; chân lý
chỉ đơn giản là những gì có thể quan sát được; sự tốt đẹp được tìm thấy trong
các quy luật của tự nhiên và trong trật tự của thế giới vật chất. Do đó, giáo dục
tức là dạy cho học sinh hiểu biết về thế giới. Nhà trường có trật tự và kỷ luật
cao như những quy luật và trật tự của thế giới tự nhiên. Giáo viên truyền đạt
kiến thức về thực tế, hoặc trình bày những thông tin cần thiết để học sinh quan
sát và nghiên cứu. Học sinh là người tham gia thụ động trong việc học tập và
nghiên cứu các sự vật.
- Triết lý thực chứng (Experimentalism)
Những người theo triết lý này cho rằng thế giới là một nơi luôn luôn thay
đổi. Trong thế giới này, thực tế là những gì mà con người đã thực sự kinh qua;
chân lý là những gì có chức năng hiện tại; và sự tốt đẹp là những gì được thừa
nhận qua thực nghiệm của công chúng. Triết lý này công khai chấp nhận sự
thay đổi và liên tục tìm kiếm để phát hiện đường lối mới nhằm mở rộng và cải
tiến xã hội. Do đó, giáo dục phải tập trung vào việc truyền thụ và phát triển các
giá trị và kinh nghiệm đã được kiểm chứng của nhân loại. Trong nhà trường,
giáo viên đóng vai trò giúp đỡ hoặc tư vấn cho học sinh chủ động tham gia vào
39
việc phát hiện và kiểm chứng thế giới mà họ đang sống. Việc học tập được tiến
hành theo cách thức giải quyết vấn đề, tìm hiểu điều tra hoặc làm việc theo
nhóm.
- Triết lý hiện sinh (Existentialism)
Các nhà triết lý hiện sinh coi thế giới là tất cả những gì hiện hữu, được
nhận thức theo chủ quan của mỗi cá nhân hiện sinh. Mọi chân lý và hiện thực
đều tùy thuộc vào sự xác định của mỗi cá nhân. Điều tốt đẹp là vấn đề của sự
tự do, nghĩa là con người không chịu sự ràng buộc bởi một tất yếu tự nhiên hay
tất yếu xã hội nào, mà tự tạo ra chính mình bằng mọi hành động và hành vi của
mình, tự chịu trách nhiệm về những hành động và hành vi ấy. Theo đó, chức
năng chủ yếu của giáo dục là giúp cho học sinh hiểu chính bản thân mình và
biết được chỗ đứng của mình trong xã hội. Vấn đề cá thể hoá giáo dục được
nhấn mạnh; chương trình học cần được xác định theo từng cá nhân, thậm chí
học sinh không nhất thiết phải học ở nhà trường. Mối quan hệ giữa giáo viên và
học sinh tập trung quanh việc giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập cá nhân
của chúng. Các môn học chủ yếu đề cập các vấn đề cần được diễn giải.
Theo trình tự đã trình bày, các triết lý nói trên chuyển dịch dần từ quan
điểm bảo thủ, cứng nhắc và cố định sang quan điểm cách tân, mềm dẻo và linh
hoạt trong giáo dục. Không có một triết lý nào nắm quyền thống trị độc tôn,
nên cả 5 triết lý vẫn tồn tại song hành. Mỗi triết lý sẽ khơi nguồn cho những
phương pháp và tổ chức thích hợp tương ứng với nó.
Các quy luật tâm lý
Muốn phát huy được hiệu quả giáo dục, phương pháp và tổ chức phải phù
hợp với khả năng trí tuệ của học sinh. Mà các khả năng trí tuệ ấy được phản
ánh trong các qui luật tâm lý. Vì vậy, các quy luật tâm lý trở thành cơ sở tạo
nguồn cho phương pháp và tổ chức. Liên hệ mật thiết với phương pháp và tổ
40
chức là các quy luật về hoạt động trí óc, về phát triển tâm lý và về trí thông
minh của học sinh.
- Các quy luật về hoạt động trí óc
Các nhà tâm lý - giáo dục trên thế giới đã khẳng định rằng hoạt động trí óc
có quy luật chung cho tất cả mọi người, có thể mô tả được, do đó có thể luyện
tập và điều khiển được. Nhà giáo dục Pháp Antoine de La Garandrie đã phân
biệt 5 thao tác của hoạt động trí óc cơ bản là sự chú ý, sự ghi nhớ, sự tìm hiểu,
sự suy nghĩ và sự tưởng tượng sáng tạo [xem 51]. Các thao tác này đã được mô
tả đầy đủ, phân tích kỹ lưỡng và chứng minh rõ ràng để trở thành quy luật
chung của hoạt động trí óc (cũng là quy luật chung của tư duy).
Bên cạnh quy luật chung đó là những cách thức và thói quen hoạt động trí
óc riêng biệt của mỗi người. Sự khác nhau trong hoạt động đó tập trung ở khả
năng tái hiện và ở nhịp độ nhanh nhạy của tư duy mỗi người. Hoạt động thu
nhận thông tin của các giác quan ở mỗi người đều khác nhau, do đó khả năng
tái hiện thông tin ở mỗi người cũng không giống nhau. Sự nhạy bén của các
giác quan mỗi người luôn khác nhau, nên nhịp độ tư duy của mỗi người cũng
khác nhau. Các quy luật chung của hoạt động trí óc đòi hỏi các phương pháp và
tổ chức giáo dục phù hợp với chúng. Những cách thức và thói quen hoạt động
trí óc riêng biệt của mỗi người lại yêu cầu những phương pháp và tổ chức
tương ứng với mỗi cá nhân.
- Các quy luật về phát triển tâm lý
Bộ môn tâm lý học phát triển (developmental psychology) đã vạch ra
những quy luật về sự phát triển tâm lý qua từng giai đoạn trưởng thành của mỗi
con người. Sự phát triển đó tuỳ thuộc vào yếu tố sinh vật (gen di truyền), đồng
thời cũng tuỳ thuộc vào yếu tố môi trường. Trẻ em có cấu tạo bộ não giống
nhau về cơ bản, và môi trường sống hiện nay của đa số các em cũng không
khác biệt nhau nhiều. Do đó khả năng phát triển trí tuệ của trẻ em có thể là
41
ngang nhau ở cùng độ tuổi. Bloom (1964) cho rằng trẻ em từ sơ sinh đến 4 tuổi
có thể đạt 50% khả năng trí tuệ, từ 4 đến 8 tuổi thêm 30% và từ 8 đến 21 tuổi
trẻ có thể bổ sung nốt 20% còn lại [xem 125,tr.422]. Nhưng các em khác nhau
về một số yếu tố di truyền, về mối quan hệ với những người xung quanh và về
kinh nghiệm sống, nên dẫn đến những khác biệt lớn trong việc hình thành
những kỹ năng cụ thể. Sự phát triển trí tuệ của trẻ em không theo một chiều
nhất định, mà có tăng hoặc giảm theo tác động của nhiều yếu tố. Một số khả
năng nhận thức có thể phát triển sớm hơn, hay muộn hơn tuỳ theo tác động của
từng yếu tố nhất định.
Trong xã hội hiện đại, sự đầy đủ của đời sống vật chất và sự phong phú
của đời sống tinh thần đã thúc đẩy khả năng trí tuệ của trẻ em phát triển sớm
hơn. Nhưng quy luật chung của quá trình phát triển nhận thức vẫn không thay
đổi: nhận thức khởi đầu từ cảm tính và phát triển dần lên lý tính. Nhà tâm lý
giáo dục Thụy Sĩ Jean Piaget (1952) đã phân chia quá trình phát triển của trí
tuệ trẻ em thành 4 giai đoạn: giai đoạn thể hiện cảm giác (sensorimotor) từ 8
tháng đến 2 tuổi, giai đoạn chuẩn bị vận hành (preoperational): từ 2 đến 7 tuổi;
giai đoạn vận hành cụ thể (concrete operations): từ 7 đến 11 tuổi; giai đoạn vận
hành chính thức (formal operations): từ 11 đến 15 tuổi [xem 125,tr.48]. Do đó,
trẻ em nhỏ tuổi (từ học sinh tiểu học trở xuống) chủ yếu chỉ nhận thức được
các kiến thức cụ thể ở trình độ những sự kiện và quá trình riêng biệt. ở lứa tuổi
lớn hơn (học sinh các cấp trung học), cùng với sự phát triển của khả năng suy
luận, các em sẽ tiếp thu được các kiến thức khái quát và trừu tượng từ trình độ
thấp đến trình độ cao hơn. Trong tư duy của học sinh, mọi nhận thức khái quát
và trừu tượng đều được xây dựng trên nền tảng của những kiến thức riêng biệt
và cụ thể.
42
Khi áp dụng vào giáo dục, các quy luật nói trên đòi hỏi nội dung, phương
pháp và tổ chức dạy học phải phù hợp với sự phát triển tâm lý lứa tuổi của học
sinh.
- Các trình độ và loại hình về trí thông minh
Ai cũng biết trí thông minh liên hệ mật thiết với thành quả học tập của
mỗi học sinh và tương lai của các em sau khi ra trường.
Từ đầu thập kỷ 20 của thế kỷ trước, các nhà tâm lý giáo dục Hoa Kỳ đã
đưa ra lý thuyết về “khả năng trí tuệ tổng quát” (general mental ability), tức “trí
thông minh tổng quát” (general intelligence) bao gồm khả năng học tập, khả
năng suy luận và khả năng giải năng quyết vấn đề, để đo lường trí thông minh
của học sinh. Các trắc nghiệm đo lường đã sử dụng hệ số thông minh
(Intelligence Quotient - viết tắt là IQ) với tiêu chuẩn trung bình là 100 để đánh
giá. Những học sinh có chỉ số IQ từ trên 70 đến dưới 130 thường chiếm 95%
tổng số học sinh được coi là hội đủ trí thông minh để theo học các trường phổ
thông. Những học sinh có hệ số IQ từ 70 trở xuống được coi là chậm phát triển
trí tuệ, cần được tổ chức giáo dục đặc biệt. Số học sinh có hệ số từ 130 trở lên
được coi là có trí thông minh vượt trội, cần được tổ chức giáo dục theo những
chương trình năng khiếu. Cách đánh giá tổng quát bằng chỉ số IQ rất có giá trị
và được thường xuyên áp dụng cho đến nay. Nhưng vẫn tồn tại vấn đề về
những trường hợp có thành quả học tập không tương xứng với chỉ số IQ và
những trường hợp có kết quả học tập không cao nhưng lại rất thành đạt ngoài
xã hội. Để giải quyết vấn đề này, Howard Gardner (1983) đã xây dựng lý
thuyết về trí thông minh đa dạng (multiple intelligence) phân biệt 8 loại hình
ngang nhau về trí thông minh: về ngôn ngữ (linguistic), về logic toán (logical -
mathematical), về sức tưởng tượng (visual - spatial), về âm nhạc (musical), về
kỹ năng thể chất (bodili-kinesthetic), về giao tiếp song phương (interpersonal),
về giao tiếp đa phương (intrapersonal) và về tự nhiên học (naturalist). Lý
43
thuyết này cho thấy mỗi người thể hiện trí thông minh theo một hoặc một số
dạng khác nhau. Khi được học tập hoặc hành nghề phù hợp với trí thông minh
của mình, con người sẽ được phát huy khả năng cao nhất để thành đạt. Như
vậy, phải chăng lý thuyết về trí thông minh tổng quát với hệ số IQ không còn
giá trị? Lý thuyết về ba tầng trí tuệ của John B. Caroll (1993) đã góp phần giải
đáp câu hỏi này. Theo ông khả năng trí tuệ của con người có sự khác nhau về
loại hình và trình độ, thể hiện theo ba tầng trí tuệ. Tầng I thấp nhất, bao gồm
những khả năng trí tuệ có quan hệ riêng như ghi nhớ và đọc hiểu. Tầng II cao
hơn, bao gồm các loại hình tư duy liên quan đến ngôn ngữ, suy luận, trí tưởng
tượng, nhận thức thính giác, trí nhớ và tốc độ nhận thức. Tầng III cao nhất,
chính là trí thông minh tổng quát. Các loại hình trong mỗi tầng đều có sự liên
quan với nhau đồng thời liên quan với hai tầng kia. Các mối liên quan đó cho
thấy rằng trí thông minh tổng quát chính là sự tổng hợp của các loại hình khả
năng trí tuệ khác [xem 106,tr.35-45].
Các trình độ và loại hình trên thường được coi là trí thông minh lý trí. Bên
cạnh đó còn có trí thông minh cảm xúc được đo bằng chỉ số EQ (Emtional
Quotient) và trí thông minh vượt khó, được đo bằng chỉ số AQ (Adversity
Quotient).
Mặc dù trí thông minh của con người được lí giải như thế nào đi nữa, thì
đó vẫn là một nguồn kiến thức trọng yếu để các nhà giáo dục tìm ra những
phương pháp và tổ chức phù hợp, nhằm phát huy tối đa trí thông minh của học
sinh, giúp các em đạt kết quả học tập đúng với khả năng trí tuệ của mình.
Các phương tiện dạy học
Các phương tiện truyền thông do nhân loại tạo ra, khi áp dụng vào giáo
dục trở thành phương tiện dạy học, là công cụ hỗ trợ cho phương pháp và tổ
chức dạy học. Nhưng khi các phương tiện đó trở nên cực kì tinh xảo và được
áp dụng rộng rãi trong nhà trường và toàn xã hội, thì chúng lại trở thành khởi
44
nguồn cho các phương pháp và tổ chức dạy học mới,có thể tạo nên những
chuyển biến cực kỳ to lớn trong giáo dục.
Tiếp theo tiếng nói, chữ viết được thể hiện bằng các loại bút trên nền
những chất liệu khác nhau rồi đến sách in thủ công và in máy, là những phương
tiện truyền thông cổ xưa nhất và không thể thay thế, được nhân loại áp dụng để
dạy học từ thời cổ đại đến nay. Với các phương tiện này, dạy học chỉ đơn giản
là sự truyền thụ kiến thức của thầy cho trò, phương pháp dạy học là cách thức
truyền đạt của thầy cho trò sao cho dễ nhớ dễ hiểu, tổ chức dạy học là việc tập
hợp thầy và trò vào một nơi thích hợp để truyền thụ kiến thức. Trong mô hình
dạy học như vậy, người thầy (và sách) là nhân vật trung tâm nắm độc quyền về
kiến thức và hoàn toàn chủ động trong việc truyền thụ kiến thức; học trò là
người thụ động tiếp thu tri thức qua sự giảng dạy của thầy. Khi các dụng cụ thí
nghiệm - thực hành cùng với các sản phẩm của kỹ thuật chụp hình và kỹ thuật
điện ảnh được sử dụng thì hiệu quả của việc truyền thụ tri thức tăng lên, nhưng
mô hình dạy học về cơ bản vẫn không thay đổi.
Trong thế kỷ XX, có ba phát minh lớn về phương tiện truyền thông ảnh
hưởng sâu sắc đến toàn xã hội, làm biến đổi tình hình giáo dục, là máy phát
thanh vô tuyến điện, máy vô tuyến truyền hình và máy tính điện tử với mạng
internet.
- Máy phát thanh vô tuyến điện (radio)
Được sử dụng phổ biến từ nửa đầu thế kỷ XX, radio là phương tiện truyền
thông giao tiếp đầu tiên đã mở rộng phạm vi truyền đạt kiến thức mà trước đó
chỉ dựa vào các tài liệu in và các nhà giáo. Được truyền tải qua các làn sóng vô
tuyến điện bao quanh trái đất, kiến thức phong phú và đa dạng trên radio dành
cho tất cả mọi người. Kiến thức đó, cùng với những công cụ dẫn xuất từ radio
như máy ghi âm sử dụng băng từ, đã trợ giúp đắc lực cho giáo viên cả về nội
dung lẫn phương pháp dạy học, đồng thời cũng làm giảm bớt sự độc quyền về
45
truyền thụ tri thức của người thầy, làm tăng thêm tính chủ động và khả năng tự
học của học trò. Chính radio đã tạo nên sự chuyển biến về phương pháp và tổ
chức dạy học.
- Máy vô tuyến truyền hình (television- viết tắt là TV)
Trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng từ giữa thế kỷ XX, vô
tuyến truyền hình có truyền thanh đi kèm lại mở rộng và làm dày thêm tấm
thảm kiến thức bao quanh trái đất. Kiến thức truyền hình cũng phong phú, đa
dạng và còn sinh động hơn kiến thức trên radio. Do vậy ảnh hưởng của truyền
hình đối với xã hội và nhà trường cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Việc sử dụng phổ
biến TV và các công cụ dẫn xuất của nó như máy video thu phát băng hình đã
làm cho văn hoá nghe- nhìn lấn át dần văn hoá đọc. AÙp dụng vào nhà trường,
các phương tiện nghe-nhìn làm tăng hiệu quả dạy học, thay thế một phần
không nhỏ cho các phương tiện đọc-hiểu và việc trình bày miệng của giáo viên,
giúp học sinh tăng cường khả năng tự học hoặc theo học các chương trình đào
tạo từ xa mà không phải đến trường.
Tác động mạnh mẽ vào nội dung, phương pháp và tổ chức dạy học, vô
tuyến truyền hình lại làm giảm bớt hơn nữa sự độc quyền về truyền thụ tri thức
của giáo viên, làm tăng hơn nữa tính chủ động và khả năng tự học của học
sinh.
- Máy tính điện tử (computer) với mạng Internet
Từ một phát minh vĩ đại hồi giữa thế kỷ, máy tính điện tử trở thành một
phương tiện truyền thông đại chúng vào cuối thế kỷ XX, và phát huy ảnh
hưởng mãnh liệt của nó đối với toàn xã hội kể từ năm 1995, khi Hoa Kỳ thiết
lập Mạng thông tin dịch vụ Toàn cầu (World Wide Web hoặc www) tức mạng
Internet.
Với sự xuất hiện của mạng Internet, tấm thảm kiến thức bao quanh trái đất
trở nên dày đặc và thường xuyên liên tục được bổ sung hàng loạt kiến thức mới
46
được phát minh với nhịp điệu hết sức nhanh và ngày càng nhanh hơn. Sử dụng
máy tính điện tử cá nhân được kết nối với mạng internet, bất cứ ai cũng có thể
truy cập được những kiến thức cần thiết cho mình. Người ta giao dịch mua bán
qua mạng, quản lý điều hành xã hội qua “Chính phủ điện tử”. Dĩ nhiên máy tính
điện tử với mạng Internet cũng được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa
học và giáo dục. Người học có thể tiếp thu kiến thức từ mạng thay vì từ người
dạy. Máy giúp học sinh ghi chép, thiết kế, tính toán vô cùng nhanh và chính
xác. Với máy tính điện tử và các dụng cụ dẫn xuất của nó như máy thu phát đĩa
CD, VCD, DVD, máy tính cầm tay..., học sinh có thể tự học mà không cần đến
trường hay vào thư viện. Như vậy, theo Jon Wiles và Joseph Bondi (2002), vị
trí trung tâm nắm độc quyền về truyền thụ kiến thức của người thầy đã bị phá
vỡ. Người học sẽ trở thành trung tâm của mọi nỗ lực, trở nên tích cực hơn, có
nhiều lựa chọn hơn và có trách nhiệm hơn đối với chính việc học của mình
[xem 136, tr .7-13].
Máy tính điện tử và mạng Internet đưa loài người vào thời đại văn minh
tin học, đồng thời tạo nên sự đổi mới toàn diện và sâu sắc trong giáo dục. Sự
đổi mới này sẽ bao gồm cả những phương pháp và tổ chức dạy học mới.
1.3.3 Các loại hình tổ chức dạy học
Những thành tựu mới của tâm lý học và những phương tiện mới được áp
dụng vào dạy học đã thúc đẩy các nhà giáo dục Hoa Kỳ nghiên cứu, theo
những triết lý khác nhau, để tìm ra những loại hình tổ chức dạy học(thường
được gọi tắt là các kiểu dạy học) mới, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học
sinh. Mỗi loại hình tổ chức đều mang ý nghĩa của phương pháp dạy học và bao
gồm những phương pháp thích hợp. Từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến
nay, các kiểu dạy học chủ yếu sau đây đã được thực hiện trong trường học:
Dạy học cá thể hoá (Individualized Instruction)
47
Dạy học cá thể hoá là loại hình dạy học chú trọng đến những đặc điểm
riêng biệt trong sự phát triển trí tuệ và tâm lý của mỗi người; từ đó thực hiện
việc dạy học cho từng cá nhân học sinh, sao cho phù hợp với đặc điểm riêng
biệt, nhằm đạt kết quả học tập tốt nhất theo khả năng của mỗi cá nhân. Kiểu
dạy học này thường được thực hiện theo mô hình một thầy-một trò, hoặc một
học sinh một máy tính. Kế hoạch học tập của học sinh được xác định theo tiến
độ phù hợp với mỗi cá nhân. Tài liệu học tập được cấu tạo và phối hợp cẩn
thận, chủ yếu để giúp học sinh thực hành và luyện tập tốt. Học sinh có thể được
học theo những modul kiến thức với những tài liệu học tập không phân chia
theo lớp. Trong quá trình học tập, mỗi học sinh có thể điều chỉnh mục tiêu và
tiến độ học tập một cách linh hoạt hoặc được hướng dẫn để tự nghiên cứu.
Thực tiễn dạy học ở nhà trường cho thấy loại hình dạy học này mang lại hiệu
quả tích cực.
Dạy học hợp tác (Cooperation Instruction)
Dạy học hợp tác là loại hình dạy học nhằm đạt hiệu quả tốt bằng cách hạn
chế sự cạnh tranh và tăng cường sự hợp tác giữa học sinh với nhau.
ở mọi lớp học thông thường, sự đua tranh (tức cạnh tranh) về thành quả
học tập thường xuyên diễn ra giữa học sinh với nhau. Với những hoàn cảnh
học tập như nhau, sự khác nhau về khả năng trí tuệ và trí thông minh sẽ quyết
định kẻ “thắng” và người “thua” trong sự đua tranh đó.
Trong những điều kiện lành mạnh, sự cạnh tranh giữa các cá nhân hay các
nhóm ngang tài nhau có tác dụng tích cực khi tạo ra tâm trạng hứng thú và
hưng phấn thúc đẩy việc học tập. Nhưng sự cạnh tranh giữa các cá nhân khác
nhau về khả năng trí tuệ, dẫn đến kết quả là một số học sinh luôn đạt thành tích
cao, luôn nhận được các phần thưởng và sự động viên khuyến khích, trong khi
một số khác luôn đạt thành tích thấp, chỉ nhận được những kinh nghiệm thất
bại và sự thất vọng, lại có tác dụng tiêu cực khi tạo ra tâm trạng đối nghịch và
48
căng thẳng giữa kẻ thắng người thua cùng với mặc cảm tự ti của những người
luôn luôn thua cuộc.
Sự hợp tác trong học tập không chỉ giúp khắc phục những tác dụng tiêu
cực của cạnh tranh, mà còn tạo ra nhiều tác dụng tích cực đối với học sinh.
Theo David W.Johnson (1982), sự hợp tác trong học tập giúp cho học sinh xây
dựng “tính cách chân thực và rõ ràng, khả năng tự thể hiện và sức khoẻ tinh
thần, sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau, và bồi dưỡng tốt các mối quan hệ làm
giảm sự xung đột” [dẫn theo 125,tr.556]. Sự hợp tác học tập có hiệu quả hơn
nhiều trong việc xây dựng các kỹ năng giao tiếp giữa hai người và trong xã hội,
so với sự cạnh tranh hoặc những nỗ lực cá nhân.
Kiểu dạy học này thường được tổ chức theo mô hình phân chia lớp học
thành các đội tương đương nhau về khả năng học tập và các mặt khác. Mỗi đội
bao gồm 4 hoặc 5 thành viên có học lực khác nhau. Khi thực hiện nhiệm vụ
học tập, mỗi thành viên đều nhận được sự trợ giúp và các thông tin phản hồi từ
các đồng đội khác. Nhiệm vụ hoàn thành được đánh giá theo từng thành viên,
đồng thời cả đội cũng được đánh giá chung. Sau một thời gian khoảng 5-6
tuần, các đội được phân chia lại để cho mỗi học sinh có cơ hội làm việc với
những bạn khác, và để các thành viên thuộc đội được đánh giá thấp có dịp cải
thiện kết quả học tập của mình. Dĩ nhiên mọi việc diễn ra dưới sự điều khiển
của giáo viên.
Dạy học theo trình độ (Mastery Instruction)
Dạy học theo trình độ là loại hình dạy học theo kế hoạch được lập ra, dựa
trên trình độ ban đầu, khả năng nhận thức và đặc điểm tâm lý của học sinh,
nhằm đưa hầu hết học sinh đạt đến trình độ mới tương đương với nhau sau khi
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
John Carroll (1963) khẳng định rằng nếu các học sinh bình thường được
phân chia theo khả năng hay năng khiếu đối với một số môn học, và được dạy
49
học thích ứng với đặc điểm cá nhân của mình, thì đa số các em có thể đạt kết
quả cao trong học tập bộ môn. Nhưng muốn đạt được kết quả đó, mỗi học sinh
phải có đủ thời gian cần thiết để học tập. Trong cùng một môn học, tổng số
thời gian cần thiết (dựa trên đặc điểm tâm lý của từng cá nhân) rất khác nhau
đối với mỗi học sinh. Thời gian cần thiết này lại bị giới hạn bởi thời gian hiện
có (để học tập dưới sự kiểm tra của giáo viên). Do vậy, giáo viên cần xét đoán
để xác định số thời gian dạy khác nhau, thích hợp với các cá nhân (hoặc các
nhóm học sinh)[xem 125, tr.558].
Để thực hiện kiểu dạy học này, giáo viên phải trắc nghiệm trình độ ban
đầu, khả năng trí tuệ và đặc điểm tâm lý học sinh để phân loại, xếp lớp hay
chia nhóm cho các em. Từ đó lập kế hoạch dạy học với phương thức thích ứng
và thời gian thích hợp cho từng đối tượng học sinh. Nội dung kiến thức cần
được phân chia thành các đơn vị nhỏ để học sinh dễ học, còn giáo viên dễ
theo dõi và đánh giá tiến độ học tập của học sinh. Kiểu dạy học này có thể áp
dụng cho mọi môn học ở mọi cấp lớp, nhưng việc tổ chức thực hiện có phần
phức tạp nên khó áp dụng rộng rãi. Ưu thế nổi bật của kiểu dạy học này là làm
cho học sinh đạt kết quả đồng đều mà không chịu những áp lực lớn của việc
học quá sức mình. Xét về bản chất, dạy học theo trình độ cũng là một kiểu dạy
học cá thể hoá.
Phát triển khả năng và kỹ năng tư duy (Developing Thinking Abilities
and Skills)
Trước sự gia tăng cực kỳ nhanh chóng và ngày càng nhanh hơn của kho
tàng kiến thức nhân loại, làm cho các kiến thức hiện có mau chóng trở nên lạc
hậu, một quan điểm mới về giáo dục đã hình thành, như phát biểu của B.S.
Bloom (1956): “Không thể truyền thụ cho mỗi cá nhân tất cả những tri thức
người đó sẽ cần trong mọi hoàn cảnh mới mà người đó sẽ gặp. Tuy nhiên, có
thể giúp mỗi cá nhân tiếp thu tri thức mà người ta nhận thấy có ích nhất trong
50
quá khứ, và giúp người đó phát triển những khả năng và kỹ năng trí tuệ để có
thể áp dụng tri thức này vào hoàn cảnh mới”[14, tr.69].
Xuất phát từ quan điểm này, một loại hình dạy học mới đã ra đời: dạy phát
triển khả năng và kỹ năng tư duy (Developing Thinking Abilities and Skills).
Vì các khả năng và kỹ năng tư duy được đề cập chủ yếu là tư duy phê phán và
tư duy sáng tạo, nên loại hình dạy học này còn được gọi là dạy tư duy phê phán
và sáng tạo (Teaching Critical and Creative Thinking). Một trong những người
đề xướng kiểu dạy học này là Mathew Lipman (1984) đã tuyên bố: “Trẻ em có
thể và cần phải học để suy nghĩ cho chính mình, để thăm dò những sự lựa chọn
cho những quan điểm riêng của mình, để xem xét bằng chứng, tiến hành việc
phân tích và nêu ra những kết luận” [dẫn theo 125 tr.560].
Tư duy phê phán và tư duy sáng tạo được thể hiện chủ yếu trong khả năng
giải quyết vấn đề, phát hiện và khám phá tri thức. Do đó, loại hình dạy học này
được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp dạy học dựa trên vấn đề (Problem-
based learning), trong đó quan trọng nhất là phương pháp giải quyết vấn đề
(Problem-solving method), và các phương pháp phát hiện và khám phá. Các
phương pháp này có thể áp dụng ở tất cả các bộ môn học thuật trong nhà
trường. Theo Bloom (1956), đối với kiểu dạy học này: “Tri thức trở thành tài
liệu làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề, hoặc tri thức là thước đo của tính
phức hợp và chính xác của cách giải quyết vấn đề”[14, tr.58]. Do tác động tích
cực của nó, kiểu dạy học này được áp dụng ngày càng rộng rãi.
Dạy học vi tính hoá (Computerized Instruction)
Việc áp dụng máy tính điện tử với mạng Internet vào giáo dục ngày càng
phổ biến, với hiệu quả ngày càng cao, tất yếu dẫn tới loại hình dạy học vi tính
hoá, tức dạy học bằng máy tính điện tử. Theo nhận định của John Cook (1985),
loại hình này được phát triển qua 3 cấp độ khác nhau:
- Thứ nhất, máy tính là một công cụ
51
ở cấp độ này, máy tính được sử dụng như một công cụ trợ giúp cho cá
nhân làm phong phú thêm các hoạt động dạy học ở trường và ở nhà. Thí dụ:
học sinh dùng máy tính để giải một số đề toán, để phân tích kiến thức, tham
khảo tài liệu hay viết bài nghị luận... Việc dạy học vẫn diễn ra trong quan hệ
chủ yếu giữa thầy và trò, có sử dụng máy tính hay không là việc hoàn toàn do
cá nhân tự ý quyết định.
- Thứ hai, dạy học với máy tính trợ giúp
ở cấp độ này, máy tính được sử dụng một phần trong dạy học, tập trung
vào các chương trình phụ đạo và nâng cao kiến thức, hoặc các chương trình
luyện tập thực hành những kỹ năng cơ bản của các bộ môn, chuẩn bị tiến tới
những trình độ học vấn cao hơn. Các chương trình này chỉ có thể dạy học bằng
máy tính, nên việc sử dụng chúng là bắt buộc, trong khi các chương trình khác
vẫn dạy học bình thường với máy tính là công cụ trợ giúp.
- Thứ ba, dạy học bằng máy tính
Đây là cấp độ cao nhất mà việc dạy học hầu hết các chương trình đều sử
dụng máy tính. Mọi việc tổ chức, điều hành, kiểm tra được thực hiện một cách
có hệ thống qua một mạng nội bộ (Intranet) với một máy chủ ở trung tâm.
Được lập trình đúng và nhập đủ các dữ liệu thông tin cần thiết, máy tính sẽ trắc
nghiệm khả năng học tập, cung cấp kiến thức, ra chỉ lệnh để học sinh thực hiện.
Việc đánh giá thành quả học tập cũng được thực hiện chủ yếu bằng máy tính
(ngoại trừ việc chấm các luận văn và một số thiết kế bằng tay của học sinh)
[xem 125 tr.562]. Trong loại hình dạy học vi tính hoá này, mối quan hệ truyền
thống hai bên giữa thầy và trò đã trở thành quan hệ ba bên giữa giáo viên, máy
tính và học sinh. Giáo viên dần dần chuyển giao bớt chức năng nhiệm vụ của
mình cho máy tính, để đảm nhiệm một số chức năng nhiệm vụ mới. Quan hệ
52
thầy-trò giảm xuống, trong khi quan hệ học sinh- máy tính tăng lên. Với máy
tính trong tay, học sinh trở thành nhân vật trung tâm của quá trình dạy học.
Loại hình dạy học này còn dẫn tới việc thay đổi tổ chức nhà trường. Trong
mỗi trường học truyền thống sẽ tồn tại một “ trường học ảo” điều hành công
việc qua mạng nội bộ. Một số quận trường học (school district) ở Hoa Kỳ đã
thành lập trung tâm nguồn với mạng giáo dục nội bộ kết nối với mọi trường
học và tất cả các hộ gia đình trong quận, để học sinh có thể theo học ở trường
hay tự học ở nhà với cùng một chương trình.
Tương lai sẽ thuộc về loại hình dạy học vi tính hoá. Các phương pháp và
tổ chức dạy học mới sẽ được hình thành từ loại hình dạy học này.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm (Student-Centered Instruction)
Các lý thuyết về loại hình dạy học hiện hành vẫn chưa giải quyết được
đầy đủ các vấn đề đặt ra cho giáo dục trong thời đại văn minh tin học. Dựa trên
các tri thức hiện đại về tâm lý học và những hiệu quả rõ ràng của việc vi tính
hoá hoạt động dạy học, vào năm 1995 Hiệp Hội Tâm Lý Học Hoa Kỳ đã thiết
lập một lý thuyết về giáo dục lấy người học làm trung tâm, bao gồm 14 nguyên
lý. Dưới đây là một số trong các nguyên lý đó:
1) Việc học những nội dung chủ đề phức tạp sẽ đạt hiệu quả cao nhất
nếu đó là một quá trình có chủ ý, cấu thành từ những thông tin và
kinh nghiệm đã được tích luỹ.
(...).
5 ) Các chiến lược dạy học có hiệu lực cao đối với việc tuyển chọn và
kiểm soát các hoạt động trí tuệ hỗ trợ cho tư duy sáng tạo và tư duy
phê phán.
(...)
7 ) Học được những gì và học được bao nhiêu phụ thuộc vào động cơ
học tập của người học. Đến lượt mình, động cơ học tập lại phụ thuộc
53
vào trạng thái tình cảm, sở thích, mục đích học tập và thói quen suy
nghĩ của người học.
8 ) Khả năng sáng tạo, tư duy có hiệu lực cao và bản chất ham hiểu
biết của người học hợp thành động cơ học tập. Động cơ nội tại có thể
được kích thích bằng những nhiệm vụ mới lạ, khó khăn nhưng lạc
quan, phù hợp với sở thích cá nhân, được cá nhân lựa chọn và kiểm
soát.
9 ) Sự tiếp thu những kiến thức và kỹ năng phức tạp đòi hỏi nỗ lực
của người học và sự hướng dẫn thực hiện. Nếu người học không có
động cơ học tập, họ sẽ không nỗ lực, trừ khi bị ép buộc.
(...)
12 ) Mọi người học đều có những phương pháp, cách tiếp cận và khả
năng học tập khác nhau, xuất phát từ những kinh nghiệm sẵn có và
yếu tố di truyền. [Dẫn theo 136, tr.10-11].
Một số nguyên lý khác khẳng định rằng: người học thành công là người
có thể diễn đạt tốt những tri thức đã học, liên kết tốt những thông tin mới với
thông tin sẵn có, đồng thời có thể tạo ra hoặc sử dụng những cách tư duy và
phương pháp lý luận để đạt mục tiêu học tập.
Các nguyên lý trên cho thấy lý thuyết về giáo dục lấy người học làm
trung tâm có tầm phổ quát rất rộng, bao hàm hầu hết các loại hình dạy học hiện
hành, đồng thời cũng tạo ra loại hình dạy học mới: dạy học lấy học sinh làm
trung tâm. Cách thức tổ chức dạy học của loại hình này rất đa dạng, có thể áp
dụng theo cách thức tổ chức của các loai hình dạy học khác hiện có. Nhưng
chương trình dạy học cần được thiết kế theo hướng lấy người học làm trung
tâm (Student - Centered Curriculum). Loại chương trình này nhấn mạnh về
những sở thích và nhu cầu của người học, để kích thích động cơ học tập. Đặc
trưng chủ yếu của loại hình dạy học này được thể hiện trong mối quan hệ giữa
54
thầy và trò. ở vị trí trung tâm của quá trình dạy học, học sinh có vai trò độc lập,
chủ động của người tự học, tự nghiên cứu để giải quyết các vấn đề nhằm phát
hiện và tiếp thu những tri thức cần đạt tới. Giáo viên có vai trò của người
hướng dẫn, trợ lực và đánh giá thành quả học tập của học sinh.
Đáp ứng được những yêu cầu giáo dục của thời đại mới, lại kết hợp
được với những kiểu dạy học khác, loại hình dạy học lấy học sinh làm trung
tâm đã trở thành kiểu mẫu dạy học chủ yếu hiện nay.
Mỗi loại hình dạy học đều có một số ưu điểm riêng, cũng có loại hình
vượt trội về ưu thế và triển vọng to lớn, nhưng chưa có loại hình nào được độc
tôn sử dụng thay cho mọi loại hình khác. Vì thế, tất cả các loại hình dạy học
nêu trên vẫn đang được áp dụng, để hỗ trợ và bổ sung cho nhau trong mọi quá
trình giáo dục.
1.3.4. Các phương pháp dạy học chủ yếu
Phương pháp dạy học là phương pháp được giáo viên sử dụng để tác động
đến học sinh nhằm đạt hiệu quả dạy học. Mỗi loại hình dạy học tạo nên một số
phương pháp thích hợp với nó. Nhiều loại hình phối hợp với nhau làm cho
phương pháp dạy học trở nên rất phong phú và đa dạng. Phương pháp dạy học
vừa mang tính khoa học (thể hiện ở sự chính xác và hiệu quả trong dạy học),
lại vừa mang tính nghệ thuật (thể hiện ở đặc tính cá nhân, sự nhạy cảm và óc
sáng tạo của giáo viên). Căn cứ vào đặc điểm và yêu cầu của nội dung kiến
thức, đặc tính và khả năng của học sinh cũng như điều kiện và phương tiện dạy
học, giáo viên sẽ lựa chọn hoặc xác định phương pháp.
Dựa trên cách tiếp cận của giáo viên với học sinh trong từng phương
pháp, các nhà giáo dục Hoa Kỳ thường phân chia phương pháp dạy học thành
các loại: tiếp cận trực tiếp, tiếp cận gián tiếp, tiếp cận dạy học độc lập.
Các phương pháp tiếp cận trực tiếp (Direct Instructional Strategies)
55
Sau khi đã từ bỏ kiểu dạy học truyền thống là thầy truyền thụ theo lối áp
đặt đồng loạt để trò lĩnh hội kiến thức một cách thụ động máy móc, các phương
pháp dạy học nhằm đưa kiến thức trực tiếp từ thầy đến trò được cải tiến để sử
dụng với liều lượng nhất định nhằm phát huy hiệu lực trong các loại hình dạy
học mới. Đó là: giảng bài, phát vấn, thực hành-luyện tập và một số phương
pháp khác. Các phương pháp này đều vận dụng nguyên tắc diễn dịch kết hợp
với nguyên tắc quy nạp để hình thành kiến thức.
- Giảng bài (lecturing)
Đây là phương pháp gần như độc tôn trong kiểu dạy học truyền thống;
theo đó giáo viên một mình thuyết trình và giải thích (có thể kèm minh hoạ)
những kiến thức cần thiết, để học sinh ghi nhận và học bài. Phương pháp này
có rất ít sự trao đổi giữa thầy và trò hoặc giữa học sinh với nhau. Trong bối
cảnh giáo dục hiện tại, các nhà giáo dục cho rằng phương pháp này làm tăng sự
thụ động, làm giảm vai trò của học sinh thay vì lôi cuốn họ vào hoạt động học
tập tích cực hơn. Khi các kiến thức và thông tin trong bài giảng của giáo viên
có thể tìm thấy trong sách, trong các chương trình máy tính hay các băng đĩa
thông tin, thì bài giảng trở nên vô ích.
Vì vậy, phương pháp giảng bài chỉ được áp dụng có hiệu quả trong những
trường hợp cần thiết, với đối tượng học sinh thích hợp và với liều lượng vừa
phải. Do nhận thức này, một số nhà giáo dục (như P.R.Burden và D.M.Byrd
chẳng hạn) không dùng thuật ngữ “ giảng bài”, mà gọi là phương pháp trình bày
(presentation) và thể hiện (demonstration).
Theo N.Gage và D.Berliner (1998), việc áp dụng phương pháp giảng bài
là thích hợp khi 1) mục đích cơ bản là để truyền bá thông tin, 2) thông tin đó
không có sẵn ở những nơi khác, 3) thông tin cần được trình bày một cách tỉ mỉ
hoặc điều chỉnh để thích hợp với một nhóm riêng biệt, 4) hướng vào một chủ
đề cần thiết kích thích được người nghe, 5 ) thông tin cần thiết để nhớ trong
56
một thời gian ngắn, và 6) mục đích để hướng dẫn hoặc giải thích cho những
nhiệm vụ học tập khác. [Dẫn theo 126,tr.174].
A.C.Ornstein và T.J.Lasley II (2000) cho rằng: phương pháp giảng bài có
ưu thế khi trình bày các ý tưởng dựa trên những khái niệm phức tạp. Hai ông
phân biệt ba loại bài giảng trong nhà trường:
1 ) Bài giảng chính thức, được thực hiện trọn vẹn trong buổi học hay
giờ học; học sinh có thể hỏi hoặc bình luận ở mức độ hạn chế. Loại
bài giảng này thích hợp với trình độ học sinh trung học những năm
cuối (lớp 10,11,12) và sinh viên đại học. (...).
2 ) Bài giảng không chính thức, thường được thực hiện từ 5 đến 10
phút; học sinh đáp ứng tốt, được phép hỏi nhưng không hào hứng.
3 ) Bài giảng vắn tắt, được thực hiện trong vòng 5 phút; học sinh đáp
ứng và hào hứng. [126,tr.173].
- Phát vấn (Questioning)
Phát vấn là phương pháp dùng câu hỏi để kiểm tra trình độ nhận thức của
học sinh, đồng thời bổ sung kiến thức cho các em qua việc trả lời những câu
hỏi đó.
Muốn thực hiện tốt phương pháp phát vấn, giáo viên cần phân biệt rõ các
trình độ, các loại và các kiểu câu hỏi. Căn cứ vào 6 trình độ của quá trình nhận
thức mà Bloom đã vạch rõ, các nhà giáo dục Hoa Kỳ thường phân biệt các câu
hỏi theo hai trình độ: câu hỏi trình độ thấp và câu hỏi trình độ cao.
Theo D.A.Jacobsen, P.Euggen và D.Kauchak (2002), câu hỏi trình độ thấp
là câu hỏi yêu cầu học sinh nhớ lại thông tin đơn giản và cụ thể mà họ đã học
và lưu giữ một thời gian dài trong ký ức, tương ứng với trình độ thấp nhất của
quá trình nhận thức là “biết” (knowledge) [xem 114,tr.149]. Còn P.R. Burden
và D.M. Byrd (2003) thì cho rằng đó là các câu hỏi yêu cầu học sinh nhớ lại,
hiểu và sử dụng được các thông tin như vậy; tức là tương đương với 3 trình độ
57
thấp của quá trình nhận thức (biết, hiểu và áp dụng) [xem 92,tr.174]. A.C.
Ornstein và T.J. Lasley II (2000) mô tả câu hỏi trình độ thấp thường yêu cầu trả
lời cụ thể về “cái gì?”, “khi nào?”, “ở đâu?” hoặc “ai?” Thí dụ: Bản Tuyên ngôn
Độc lập của nước Mỹ được ký khi nào? Tượng Thần Tự do được đặt ở đâu? Ai
đã giành thắng lợi trong cuộc Nội chiến Mỹ? [Xem 126,tr.180]. Các câu hỏi
trình độ thấp dùng để thăm dò nền tảng tri thức của học sinh, nhắc nhở họ về
những thông tin quan trọng, và để thiết lập cơ sở thông tin chuẩn bị cho việc
tiếp nhận các câu hỏi ở trình độ cao hơn.
Câu hỏi trình độ cao là câu hỏi về những kiến thức phức tạp và khát quát,
đòi hỏi học sinh thể hiện nhận thức cao (theo 5 trình độ: hiểu, áp dụng, phân
tích, tổng hợp, đánh giá - như quan điểm của Jacobsen, Eggen và Kauchak;
hoặc theo 3 trình độ cao nhất - như quan điểm của Burden và Byrd).
Theo sự mô tả của Ornstein và Lasley II (2000), câu hỏi trình độ cao
thường yêu cầu giải đáp nguyên nhân, kết quả, ý nghĩa qua các đại từ nghi vấn
“như thế nào?”, “tại sao?”... Thí dụ: Những nguyên nhân nào dẫn tới việc ký kết
bản Tuyên ngôn Độc lập? Các nhà cách mạng có những quá trình hành động gì
khác tiếp theo đó? Những hành động khác này ảnh hưởng đến lịch sử như thế
nào? Những sự kiện nào về kinh tế, chính trị và xã hội đã dẫn đến cuộc Nội
chiến? Vì sao miền Bắc giành được chiến thắng trong cuộc Nội chiến? Những
kết quả nào của cuộc Nội chiến về mối quan hệ giữa người da đen và người da
trắng được giữ lại trong thế kỷ XIX và cho đến nay? Tượng Thần Tự do có ý
nghĩa gì đối với bản thân em? Và đối với một người di trú đến nước Mỹ bằng
tàu thủy vào năm 1920? [Xem126,tr.180-181].
Câu hỏi trình độ cao có tác dụng kích thích học sinh tư duy ở mức độ cao,
để nhận thức cao và sâu rộng hơn nội dung kiến thức được tiếp cận, để có thể
diễn đạt nội dung kiến thức theo cách riêng của mình và tạo ra khả năng giải
quyết vấn đề.
58
Căn cứ vào yêu cầu của đáp án, các câu hỏi được chia thành hai loại: câu
hỏi quy tụ (covergent question) đòi hỏi câu trả lời duy nhất đúng hoặc tốt nhất,
và câu hỏi tán phát (divergent question) mở ra nhiều hướng trả lời thích hợp,
nên còn được gọi là câu hỏi kết thúc mở (open - ended question). Dựa trên mục
đích tác động của giáo viên đối với học sinh, các câu hỏi lại được phân biệt
thành những kiểu khác nhau: câu hỏi tập trung (focusing question) nhằm tập
trung sự chú ý của học sinh vào bài học hoặc tư liệu học, câu hỏi gợi ý
(prompting question) nhằm giúp đỡ học sinh tháo gỡ những vướng mắc để tìm
ra câu trả lời đúng, câu hỏi thăm dò (probing question) nhằm giúp học sinh
phát hiện thêm những ý mới để có câu trả lời đầy đủ hoặc trọn vẹn hơn, câu hỏi
cấu trúc (structured question) để tìm hiểu cấu trúc kiến thức của học sinh có
được vững vàng không, câu hỏi kích thích (stimulus question) dùng để kích
thích tư duy phê phán và tư duy sáng tạo của học sinh.
Với các trình độ, các loại và các kiểu câu hỏi nêu trên, phương pháp phát
vấn có thể phát huy hiệu lực cao trong mọi loại hình dạy học.
- Thực hành và luyện tập (practice and drills)
Thực hành và luyện tập là một phương pháp chung để dạy và củng cố
những kỹ năng, những quá trình hay những thông tin riêng biệt của các bộ môn
học thuật cho học sinh. Thực hành là công việc do học sinh tự làm dựa trên các
tư liệu học tập, có sự điều khiển và thông tin phản hồi từ phía giáo viên. Thực
hành nhằm mục đích củng cố, làm rõ và nhấn mạnh những gì mà học sinh đã
được học. Luyện tập là việc học sinh lặp đi lặp lại một quá trình hay một thông
tin cụ thể, cho đến khi nó được thiết lập vững chắc trong tâm trí học sinh, để sử
dụng thường xuyên hay lưu giữ lâu dài. Thực hành và luyện tập có thể áp dụng
phối hợp với các phương pháp khác ngay trong giờ học ở lớp, hoặc bố trí
những tiết học riêng hay thực hiện ngoài giờ học ở trường.
59
Phương pháp này thường được sử dụng để rèn luyện các kỹ năng cơ bản
về đọc, viết và tính toán, để phát triển sự nhạy bén và chính xác trong việc nhớ
lại các sự kiện, các khái niệm hay kiến thức khái quát hoá. Thực hành và luyện
tập cũng thường được áp dụng khi học một số thông tin nhất định, như các sự
kiện và niên đại lịch sử, các ký hiệu hoá học hoặc phiên dịch trong ngoại ngữ.
Cũng như phương pháp phát vấn, thực hành và luyện tập là phương pháp
hữu ích có thể áp dụng ở mọi loại hình dạy học. Trong kiểu dạy học vi tính
hoá, các chương trình thực hành - luyện tập riêng được thành lập với những tư
liệu học tập được chia nhỏ thành hàng trăm hay hàng nghìn đơn vị gọi là
“khung” (frame) và sắp xếp theo một trật tự logic từ đơn giản đến phức tạp
nhất. Học sinh sử dụng máy tính để thực hiện chương trình này theo trật tự của
các “khung” cho đến khi đạt đủ các yêu cầu. [Xem 126,tr.192].
Phối hợp với các phương pháp chủ yếu nêu trên, còn có các phương pháp
tiếp cận trực tiếp khác như vấn đáp phản hồi (recitation), kiểm diện tri thức
(review), hướng dẫn thực hành và bài tập về nhà (guided practice and
homework)...
Các phương pháp tiếp cận gián tiếp (Indirect Instructional Strategies)
Trong các phương pháp tiếp cận gián tiếp, thầy không đưa kiến thức trực
tiếp đến trò, mà chỉ cung cấp chất liệu và sự hướng dẫn, để học sinh tự tìm hiểu
mà “phát hiện” ra tri thức. Các phương pháp này thường đòi hỏi học sinh vận
dụng nguyên tắc quy nạp. Có rất nhiều phương pháp tiếp cận gián tiếp trong
dạy học; trong đó thông dụng nhất là: dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát
hiện và khám phá, dạy học theo nhóm, dạy học qua hành động...
- Dạy học dựa trên vấn đề (problem - based learning)
Để phát triển tư duy phê phán và tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo viên
cần áp dụng phương pháp dạy học dựa trên vấn đề. Đây là phương pháp sử
dụng một vấn đề làm trọng điểm cho học sinh tìm hiểu và điều tra để dẫn đến
60
một kiến thức mới. Các bài học dựa trên vấn đề thường có 3 mục đích liên
quan với nhau: 1) Phát triển sự hiểu biết và khả năng của học sinh trong việc
tìm hiểu một cách có hệ thống đối với một vấn đề hay một câu hỏi, 2) phát
triển khả năng tự học, 3) tiếp thu nội dung kiến thức.
Phương pháp này được thể hiện dưới một số dạng gần gũi nhau: dạy học
giải quyết vấn đề (problem solving teaching) dạy học theo đề án (project based
teaching), bài học điều tra (inquiry lesson)... Dạy học giải quyết vấn đề là dạng
kinh điển nhất, dựa trên lý thuyết do John Dewey đề xuất từ nửa đầu thế kỷ XX
và ngày càng phát triển cho đến nay. Theo phương pháp này, giáo viên nêu lên
cho học sinh một vấn đề cần giải quyết, giúp đỡ các em giải quyết vấn đề đó
thông qua những kinh nghiệm học tập được truyền lại. Quá trình giải quyết vấn đề
thường được thực hiện theo 5 bước: nhận biết vấn đề, trình bày vấn đề, chọn cách
giải quyết, thực hiện việc giải quyết, đánh giá kết quả. [Xem 114,tr.215 và
126,tr.198-203].
Dạy học theo đề án là một dạng khác của phương pháp này; nhưng thay vì
nêu cho học sinh một vấn đề, giáo viên trao cho các em một đề tài (hay dự án),
hướng dẫn các em thực hiện và báo cáo về kết qủa thực hiện đề án đó theo
những cách thức khác nhau. Dạy học theo đề án tạo cơ hội để học sinh làm việc
độc lập tương đối với giáo viên, trao đổi kinh nghiệm với các bạn cùng học để
hình thành cho mình những kỹ năng và kiến thức riêng trong một lĩnh vực của
nội dung được đề cập. [Xem 92,tr.195].
Bài học điều tra cũng là một dạng của phương pháp này. Điều tra là quá
trình giải đáp các câu hỏi và giải quyết các vấn đề, dựa trên việc kiểm tra logic
các sự kiện và những hiện tượng quan sát được. Bài học điều tra sử dụng quá
trình này để dạy nội dung và giúp học sinh thực hiện tư duy phân tích. Bài học
loại này được giáo viên khởi đầu bằng việc cung cấp cho học sinh những vấn
đề liên quan đến nội dung, tạo thành trọng điểm cho các hoạt động nghiên cứu
61
của lớp học. Học sinh sẽ nêu giả thuyết, dự tính phương án giải quyết vấn đề,
tập hợp dữ liệu thích hợp với giả thuyết, đánh giá dữ liệu để đi đến kết luận.
Thông qua các bài học điều tra, học sinh không chỉ học được nội dung liên
quan đến các vấn đề, mà còn được luyện tập phương pháp để giải quyết các
vấn đề sẽ gặp trong tương lai. [Xem 110,tr.208].
Theo D.A. Jacobsen, P. Eggen và D. Kauchak, tất cả các dạng của phương
pháp dạy học dựa trên vấn đề đều có chung những đặc điểm sau đây:
1) Các bài học được bắt đầu bằng một vấn đề hay một câu hỏi dùng
làm trọng điểm để học sinh nỗ lực nghiên cứu (theo Duffy và
Cunningham, 1996; Grabinge, 1996)...
2) Học sinh được thừa nhận là người chịu trách nhiệm hàng đầu
trong việc nghiên cứu các vấn đề và giải đáp các câu hỏi (Slavin và
các cộng sự, 1994). Trách nhiệm này là quan trọng trên cả hai mặt:
đem lại kiến thức và thúc đẩy động cơ học tập; bởi vì qua các bài học
dựa trên vấn đề, học sinh tiếp thu kiến thức bằng việc làm của mình,
và cách học tích cực đó tác động tốt đến động cơ học tập (Pintrich &
Schunk, 1996).
3) Vai trò hàng đầu của giáo viên là mở đường cho học sinh dễ tiếp
cận và giải quyết vấn đề (Stepien & Gallagher, 1993). Trái với những
phương pháp tiếp cận trực tiếp, trong đó giáo viên trực tiếp truyền
thụ kiến thức, dạy học dựa trên vấn đề đòi hỏi giáo viên trợ giúp học
sinh một cách gián tiếp hơn, thông qua các vấn đề hoặc câu hỏi,
ngoại trừ những câu hỏi thăm dò. [144,tr.207].
- Dạy học phát hiện và khám phá (expository and discovery teaching)
62
Một phương pháp khác chú trọng đến việc nâng cao khả năng và rèn luyện
kỹ năng tư duy cho học sinh là dạy học phát hiện và khám phá. Mô hình chung
của phương pháp này là: giáo viên cung cấp các thông tin và tư liệu cần thiết
(nếu cần, thêm cả phương tiện), hướng dẫn học sinh xử lý các thông tin và tư
liệu đó thông qua kiến thức sẵn có của mình để “phát hiện” hoặc “khám phá”
kiến thức mới cần được học.
D.A. Jacopsen, P. Eggen và D. Kauchak phân biệt hai dạng khác nhau của
phương pháp này là dạy học phát hiện và dạy học hướng dẫn khám phá.
Trong dạy học phát hiện (expository teaching), giáo viên xác định ngay từ
đầu cho học sinh biết kiến thức mới cần được học. Tiếp đó cung cấp thông tin
hay tư liệu rồi dùng các câu hỏi quy tụ để hướng dẫn học sinh xử lý các thông
tin và nội dung của kiến thức cần được học.
Còn trong dạy học hướng dẫn khám phá (guided discovery teaching) thì
giáo viên không cho học sinh biết trước kiến thức mới mà các em cần được
học, mà cung cấp ngay cho các em những tư liệu hay thông tin cần thiết; rồi
dùng các loại câu hỏi khác nhau (cả câu hỏi tán phát, câu hỏi quy tụ, câu hỏi
gợi ý...) để hướng dẫn các em quan sát, so sánh, giải thích nhằm phát hiện dần
từng bước cho đến khi khám phá ra toàn bộ kiến thức mới.
Cả hai dạng của phương pháp dạy học phát hiện và khám phá đều đáp ứng
được yêu cầu kết hợp truyền thụ nội dung kiến thức với rèn luyện kỹ năng tư
duy cho học sinh, nhưng mỗi dạng có ưu thế và nhược điểm khác nhau. Dạy
học phát hiện có ưu thế về tiết kiệm thời gian và thuận tiện cho giáo viên kiểm
soát các bước tiền hành trong giờ học, nhưng hiệu quả trong việc rèn luyện tư
duy cho học sinh còn bị hạn chế. Ngược lại, dạy học hướng dẫn khám phá
khiến giáo viên tốn nhiều thời gian và công sức hơn, nhưng việc rèn luyện tư
duy và truyền thụ kiến thức cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn nhiều. [Xem
114,tr.178].
63
- Dạy học theo nhóm (instructional grouping)
Trong các phương pháp tiếp cận gián tiếp, dạy học theo nhóm có một vị
trí hết sức quan trọng và được áp dụng rất phổ biến. Đây là phương pháp dạy
học theo từng nhóm học sinh, làm cho các em phát huy được mọi khả năng của
mình, đồng thời tiếp nhận được những nội dung kiến thức cùng với những kỹ
năng học tập và ứng xử mới. Thực hiện phương pháp này, giáo viên chỉ can
thiệp và hướng dẫn ở mức tối thiểu, để phát huy tối đa khả năng tự quản và tự
học của học sinh với nhau. Vì phương pháp này thường được thực hiện dưới
hình thức các cuộc thảo luận, nên còn được gọi là phương pháp thảo luận
(discussion strategies). Phương pháp này không dành để áp dụng cho một loại
nội dung kiến thức riêng biệt nào, mà chủ yếu để phát triển các khả năng nhận
thức và ứng xử của học sinh trong quá trình học tập. Theo Jacobsen, Eggen và
Kauchak (2002), phương pháp này có thể dùng để giúp học sinh hiểu những sự
liên kết và các mối quan hệ giữa các ý tưởng; biết lắng nghe một cách tích cực;
khả năng tóm tắt ý kiến trong nhóm; phát triển các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng
tự học, kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh giá; khả năng đạt đến một sự nhất
trí trong thảo luận, khả năng xử lý sự tranh cãi và những ý kiến khác nhau.
[Xem 114,tr.201].
Dựa trên khả năng và đặc điểm của học sinh, điều kiện học tập và mục
tiêu cần đạt, giáo viên có thể áp dụng phương pháp này dưới một số hình thức
khác nhau: thảo luận cả lớp (còn gọi là nhóm toàn thể), học theo nhóm nhỏ
hoặc phụ đạo lẫn nhau.
Thảo luận cả lớp (whole - class discussions) hay nhóm toàn thể (whole
groups) là cuộc hội thoại giữa tất cả học sinh trong một lớp về một chủ đề hay
mục tiêu cụ thể, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hình thức thảo luận này
thường do chính giáo viên điều khiển, làm cho tất cả các học sinh trong lớp đều
hoạt động tích cực, và để các ý kiến không đi chệch hướng hay lạc đề.
64
Dạy học nhóm nhỏ (small - group instruction) là hình thức chia lớp học
thành những nhóm nhỏ (mỗi nhóm 4 - 5 học sinh) để thực hiện các nhiệm vụ
học tập do giáo viên đặt ra theo từng nhóm. Hình thức này làm tăng khả năng
tự quản - tự học của học sinh lên rất nhiều so với thảo luận cả lớp, và trở nên
đặc biệt quan trọng khi giáo viên vận dụng loại hình dạy học hợp tác. Các
nhóm học tập có thể được tổ chức dưới nhiều dạng khác nhau. Có những nhóm
không chính thức thường được thành lập đột xuất sau một bài giảng hay một
quá trình tiếp cận trực tiếp khác, làm việc trong một buổi hoặc một thời gian
ngắn để học sinh phối hợp với nhau làm rõ thêm các thông tin, xác định đúng
mục tiêu hoặc kết luận một chủ đề. Các nhóm chính thức được thiết kế cẩn
thận theo nguyên tắc trộn lẫn các học sinh khác nhau về trình độ học vấn, đặc
điểm tư duy, giới tính và điều kiện học tập trong mỗi nhóm, để các em cùng
nhau làm việc theo nhiệm vụ học tập do giáo viên quy định. Các nhóm chính
thức bao gồm cả các đội học tập theo loại hình dạy học hợp tác. Các nhóm cơ
bản cũng được thiết kế theo nguyên tắc trên, nhưng tồn tại dài hạn để các thành
viên mỗi nhóm làm việc với nhau trong suốt một năm học. Nhờ đó, học sinh
trong mỗi nhóm xây dựng được mối quan hệ dài hạn để khuyến khích và giúp
đỡ nhau tiến bộ trong học tập. [Xem 92,tr.201-203].
Phụ đạo lẫn nhau (peer tutoring) là hình thức tổ chức để học sinh học hỏi
nhau, chủ yếu theo nguyên tắc “một kèm một”. Hình thức phụ đạo lẫn nhau
thường có 3 dạng: học sinh khá phụ đạo cho học sinh yếu trong cùng một lớp,
học sinh lớp trên phụ đạo cho học sinh lớp dưới ngoài giờ học, và hai học sinh
cùng trình độ giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ. [Xem 126,tr.320].
- Dạy học qua hành động (teaching in action)
Đây là phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và rèn
luyện kỹ năng bằng hành động của chính mình. Phương pháp này được thực
65
hiện qua 3 hình thức: nhập vai (role playing), đóng giả (simulations) và trò
chơi (games).
Nhập vai là hoạt động trình diễn của học sinh theo kịch bản, thể hiện các
nhân vật (có thể là nhân vật lịch sử, nhân vật văn học hoặc nhân vật giả định)
trong những hoàn cảnh, tình huống hay ý tưởng cụ thể. Giáo viên xây dựng
kịch bản, tạo điều kiện cho học sinh trình diễn và hướng dẫn thảo luận sau buổi
diễn.
Nhập vai giúp học sinh hiểu ước vọng và tình cảm con người trong hoàn
cảnh cụ thể của thời đại, quan tâm đến sự đa dạng trong những vấn đề về con
người và xã hội. Nhập vai còn có tác dụng làm rõ và thể hiện những thái độ và
khái niệm, hoạch định và trắc nghiệm việc giải quyết vấn đề...
Đóng giả là những bài tập giao cho học sinh những vai trò giả định (giám
đốc, bộ trưởng, nghị sĩ...) để các em làm việc trong môi trường đời sống thực
sự. Các em phải đảm nhiệm đầy đủ vai trò, làm các quyết định và đối phó với
những hậu quả. Đóng giả giúp học sinh hiểu những yếu tố quan trọng và cách
ứng xử trong hoàn cảnh cụ thể. Học sinh cũng thu hoạch được nhiều điều bổ
ích khi xem xét những cách ứng xử khác nhau của mỗi người trong những hoàn
cảnh cụ thể của họ.
Các trò chơi giáo dục được thực hiện nhằm thúc đẩy học sinh đua tranh để
đạt được một mục tiêu dạy học nhất định. Các trò chơi có thể được sử dụng để
dạy những kỹ năng đa dạng, bao gồm cả kỹ năng giải quyết vấn đề và làm
quyết định.
Lẽ dĩ nhiên, trò chơi giáo dục được lựa chọn phải vừa khớp với mục tiêu
được đặt ra, có luật chơi và cách xác định kết quả rõ ràng. [Xem 92,tr.204-
207].
Tiếp cận dạy học độc lập (Independent Instructional Approaches)
66
Những phương pháp (và phương tiện) dùng để thúc đẩy và tạo điều kiện
cho học sinh làm việc độc lập, để tự mình thực hiện các nhiệm vụ học tập đã
được giao và không ngừng nâng cao khả năng tự học, được gọi là những
phương pháp tiếp cận dạy học độc lập. Trong những phương pháp này, giáo
viên có trách nhiệm nhận biết các nhiệm vụ học tập thích hợp với học sinh,
thiết kế để giao nhiệm vụ đó cho các em, và sau cùng là đánh giá kết quả thực
hiện. Học sinh hoàn toàn độc lập và chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao.
Dưới đây là một số phương pháp tiếp cận dạy học độc lập:
- Tự học tại trung tâm học liệu (learning centers)
Trung tâm học liệu là nơi chứa đựng đầy đủ các tư liệu học tập cần thiết
đối với học sinh cùng các phương tiện hữu ích cho việc học tập. Trung tâm
được sử dụng để bổ sung và tăng cường học vấn cho học sinh, thúc đẩy học
sinh tự học bằng cách cung cấp những hoạt động học tập đáp ứng các trình độ
khả năng và các kiểu học tập khác nhau của học sinh. Giáo viên thường thiết kế
sẵn những nhiệm vụ học tập thực hiện được tại trung tâm học liệu, phù hợp với
khả năng và sở thích đa dạng của học sinh. Học sinh có quyền chọn một số
nhiệm vụ học tập thích hợp nhất đối với mình để tự thực hiện mà không tiếp
nhận bất cứ một sự trợ giúp nào của giáo viên.
- Làm việc độc lập theo giao ước (independent work on contracts)
Làm việc độc lập là hoạt động học tập do cá nhân học sinh một mình thực
hiện, theo các nhiệm vụ hay bài tập được giáo viên thiết kế giao cho. Khi làm
việc độc lập, học sinh phải vận dụng những phương pháp khác nhau như thí
nghiệm, điều tra, giải quyết vấn đề, phát hiện và khám phá... Có những bài tập
làm việc độc lập nhỏ, có thể thực hiện ngay trong giờ học trên lớp. Nhưng cũng
có những nhiệm vụ lớn chỉ có thể thực hiện trong những khoảng thời gian lâu
dài hơn ngoài giờ học trên lớp. Việc thực hiện những nhiệm vụ lâu dài này
được gọi là làm việc độc lập theo giao ước. Khi cho phép học sinh làm việc
67
độc lập, giáo viên giao ước với các em về những nhiệm vụ phải thực hiện và
thời gian hoàn thành chúng. Phần lớn những nhiệm vụ học tập trong các giao
ước được trích từ chương trình chính thức của các bộ môn; nhưng cũng có
những nhiệm vụ được mở rộng thêm từ chương trình chính thức, không bắt
buộc phải học, nhưng lại được học sinh ham thích lựa chọn.
Mỗi giao ước có thể bao gồm một hoặc một số nhiệm vụ có liên quan với
nhau. Thời gian thực hiện được quy định tùy theo tầm cỡ của nhiệm vụ được
giao, có thể kéo dài trong suốt năm học.
Làm việc độc lập theo giao ước là một phương pháp giúp học sinh thể
hiện khả năng tự học và chủ động ở mức độ cao trong việc lĩnh hội tri thức và
rèn luyện kỹ năng học tập. [Xem 92,tr.161 và 207].
- Hướng dẫn tự học bằng máy tính (using computer to promote learning)
ở những phần trên đã nêu rõ, máy tính điện tử và mạng internet không chỉ
là một công cụ vô cùng hữu ích làm cho chất lượng và hiệu quả dạy học tăng
lên rất nhiều, mà bản thân chúng đã tạo ra loại hình dạy học vi tính hoá, sẽ từng
bước vượt qua và bao trùm mọi loại hình dạy học hiện có để chiếm vị trí độc
tôn trong tương lai. Nhưng nếu chỉ giới hạn trong phương pháp dạy học, thì
hướng dẫn tự học bằng máy tính (nguyên văn tiếng Anh: sử dụng máy tính để
thúc đẩy học tập) là một phương pháp tiếp cận độc lập hết sức hiệu quả và đầy
triển vọng.
Với phương pháp này, giáo viên giao nhiệm vụ học tập cho học sinh bằng
cách lập chương trình hoặc giới thiệu chương trình thích hợp sẵn có trong các
phương tiện truyền thông của công nghệ thông tin. Học sinh làm việc độc lập
bằng máy tính điện tử để thực hiện chương trình đã cho. Theo A.C. Ornstein và
T.J. Lasley II (2000), việc học bằng máy tính luôn trải quan 3 giai đoạn: tiếp
nhận, biến đổi và đánh giá. Trong giai đoạn tiếp nhận (acquisition), học sinh
dùng máy tính để truy cập các thông tin cần thiết từ 3 nguồn chính: các dịch vụ
68
hồi đáp (retrieval services) cho những thông tin thông dụng như tin tức, thời
tiết, thể thao, khuynh hướng của thị trường chứng khoán...; các ngân hàng dữ
liệu (databanks) và địa chỉ thông tin trên mạng (web site) sẵn có trên Internet
sẽ cung cấp các dữ liệu và tri thức cần thiết về mọi lĩnh vực; các sách điện tử
(computerized books) hoặc các đĩa điện tử (computer discs - CD, VCD, DVD)
cung cấp các khái niệm, các thiết kế đồ hoạ, phim ảnh các loại... để có thể trình
bày thế giới hiện thực một cách sinh động mà không cần đến những ấn bản
truyền thống.
Qua giai đoạn biến đổi (transformation), tất cả các thông tin, dữ liệu và
kiến thức trên sẽ được biến đổi và sắp xếp thành các đơn vị kiến thức (hay các
modules) được sử dụng để bổ sung kiến thức cho học sinh hoặc tạo thành
những chương trình tự tích luỹ. Các tư liệu phối hợp với nhau trong máy tính
cũng giúp học sinh trình bày những chủ đề đã chọn và hướng dẫn các em trắc
nghiệm kiến thức, ứng dụng các kỹ năng và các khái niệm thông qua hàng loạt
bài tập. Đến giai đoạn đánh giá (evaluation), học sinh có thể tự đánh giá thành
quả học tập của mình, vì máy tính cung cấp cho các em những thông tin phản
hồi (feedback) nhanh chóng và chính xác. [Xem 126,tr.278].
D.A. Jacopsen, P. Eggen và D. Kauchak (2002) nhấn mạnh 4 ưu thế của
phương pháp hướng dẫn tự học bằng máy tính là: 1) Trình bày và thể hiện tri
thức với chất lượng cao, 2) tạo nên những giả định cho phép học sinh trực tiếp
tham gia hành động, một điều không thể có trong các phương tiện khác, 3) tạo
điều kiện thực hành các kỹ năng hết sức tốt cho học sinh, với thông tin phản
hồi nhanh chóng và chính xác, 4) tạo ra những vấn đề thực sự để học sinh giải
quyết. [Xem 114,tr.219-223].
Tận dụng những công năng có ưu thế vô hạn của máy tính điện tử và
mạng Internet, khả năng tự học của học sinh trở nên hết sức cao, làm cho vai
trò của giáo viên phải thay đổi. Dù vậy, giáo viên vẫn là người làm quyết định
69
và lập chương trình cho học sinh, dựa trên các mục tiêu giáo dục được xác định
trong những tình huống hiện tại. Ralph Tyler (1980) nhận xét: khi giáo dục
được vi tính hoá, “người ta có hai giả định nhầm lẫn, rằng dạy học hầu như chỉ
là trình bày các tư liệu cho học sinh, và rằng dạy học trước hết chỉ là một hành
động kỹ thuật; tuy nhiên trên thực tế nó là một dịch vụ nhân văn” [dẫn theo
125,tr.563].
Tóm lại, phương pháp và tổ chức là một yếu tố cơ bản phức tạp của quá
trình giáo dục. Yếu tố này gồm hai thành phần (phương pháp và tổ chức) gắn
bó chặt chẽ với nhau. Trong tổ chức có sắc thái phương pháp, và trong phương
pháp cũng có sắc thái tổ chức. Các loại hình tổ chức dạy học chứa đựng trong
nó những phương pháp dạy học tương ứng; còn các phương pháp dạy học lại
được vận hành trong những loại hình tổ chức nhất định. Mỗi loại hình hay
phương pháp đều có những ưu điểm riêng và một số nhược điểm nhất định.
Việc lựa chọn để áp dụng loại hình hay phương pháp nào, hoặc áp dụng nhiều
loại hình và phương pháp phối hợp với nhau, đều do giáo viên quyết định dựa
trên khả năng và đặc tính của học sinh, mục tiêu và đặc điểm môn học hay bài
học, điều kiện và phương tiện dạy học. Các loại hình dạy học lấy học sinh làm
trung tâm và dạy học vi tính hoá có cùng một bản chất, luôn kết hợp chặt chẽ
với nhau đồng thời có liên hệ mật thiết với nhiều loại hình khác, trở thành hai
loại hình dạy học chủ yếu trong nền văn minh tin học hiện đại. Các phương
pháp tiêu biểu của hai loại hình này cũng trở thành những phương pháp dạy
học hiện đại nhất, ngày càng phát triển mạnh trong tương lai.
1.4. Đánh giá
1.4.1. Định nghĩa
Yếu tố cơ bản thứ tư (và là cuối cùng) trong quá trình giáo dục là đánh giá
(evaluation). Trong ý nghĩa chung nhất của nó, đánh giá là sự xác định và phán
70
xét về giá trị của các sự vật hoặc hiện tượng, của các sản phẩm vật chất hay
tinh thần, và của quá trình tạo ra các sản phẩm đó. Như vậy, đánh giá trong
giáo dục là sự xác định và phán xét những giá trị mà người học đã đạt được
theo các mục tiêu của quá trình giáo dục. Định nghĩa này bao quát từ khái niệm
hẹp nhất đến khái niệm rộng nhất của đánh giá giáo dục.
Theo Hilda Taba (1962), khái niệm hẹp nhất của đánh giá giáo dục là việc
chấm điểm, để “đưa mọi điều được biết về sự tiến bộ của học sinh đến một
điểm số duy nhất” [132,tr.311], còn khái niệm rộng nhất là việc đánh giá cả
một chương trình học. Trong khái niệm này “đánh giá là một quá trình phức tạp
và rắc rối, được khởi đầu với việc đề ra các mục tiêu, tiếp đến là xác định
những biện pháp để bảo đảm các bằng chứng về thành quả đạt được của các
mục tiêu đó, giải thích để nắm bắt ý nghĩa của những bằng chứng này, từ đó
phán xét những điểm mạnh và điểm yếu của học sinh, và đi đến kết thúc bằng
các quyết định nhằm dẫn đến những sự sửa đổi và cải tiến cần thiết đối với
chương trình học và việc dạy học” [132,tr.312]. Còn G.J. Posner và A.N.
Rudnitsky (2001) thì định nghĩa ngắn gọn hơn: “Đánh giá là việc sưu tập và
phân tích dữ liệu nhằm mục đích phán xét một giá trị hay phản hồi một quyết
định” [130,tr.275].
Khái niệm đánh giá (evaluation) luôn có quan hệ mật thiết với khái niệm
đo lường (measurement) và xếp hạng (grading). Đo lường là quá trình vận
dụng các công cụ để đạt được các dữ liệu hoặc thông tin định lượng phản ánh
về giá trị đáng quan tâm của đối tượng được đánh giá. Các trắc nghiệm truyền
thống bằng giấy và bút, việc xếp hạng theo các mẫu câu hỏi - đáp... là những
hình thức đo lường. Còn đánh giá nhấn mạnh đến việc sử dụng các dữ liệu và
thông tin được rút ra từ nhiều nguồn khác nhau để đi đến một phán xét định
tính hoặc định lượng về giá trị của đối tượng.
71
Đánh giá có thể dựa trên các dữ liệu đo lường, nhưng cũng dựa trên những
cách thức thu nhận dữ liệu khác, như là quan sát trực tiếp, phân loại qua quá
trình thực hiện hoặc phỏng vấn [xem 92,tr.305]. Theo D.E. Tanner (2001), đo
lường và đánh giá dẫn dắt một cách logic tới xếp hạng. “Theo thuật ngữ thông
thường, xếp hạng là đánh giá dưới hình thức ngắn gọn” [113,tr.101].
1.4.2. Các tiêu chuẩn của một công trình đánh giá
Yếu tố đánh giá trong quá trình giáo dục phát huy hiệu quả của nó qua các
công trình (hay chương trình) đánh giá. Dù quy mô và mức độ như thế nào đi
nữa, một công trình đánh giá muốn thực hiện thành công đều phải đảm bảo
những tiêu chuẩn nhất định.
Theo Hilda Taba (1962), có 6 tiêu chuẩn cho một chương trình đánh giá
là: nhất quán với mục tiêu, toàn diện, đầy đủ giá trị chẩn đoán, đảm bảo tính
hiệu lực, thống nhất trong phán xét giá trị và có tính liên tục. [Xem 132,tr.316-
323]. Dưới đây là sự phân tích các tiêu chuẩn đó.
Nhất quán với mục tiêu (consistency with objectives)
Trước hết, một công trình đánh giá phải nhất quán với mục tiêu của quá
trình giáo dục. Đây là tiêu chuẩn cơ bản và quan trọng nhất; bởi vì bất cứ công
trình đánh giá nào cũng đều bắt buộc phải, và chỉ có thể, đo lường và phán xét
những giá trị của quá trình giáo dục được quy định trong mục tiêu của nó. Như
vậy, nếu một quá trình giáo dục không nêu rõ mục tiêu, thì quá trình đó không
thể đánh giá được, cũng có nghĩa là quá trình đó không có giá trị. Tương tự,
một công trình đánh giá không nhất quán mà đi lạc khỏi mục tiêu của quá trình
giáo dục, thì công trình đó có rất ít hoặc không có giá trị.
Muốn bảo đảm sự nhất quán giữa mục tiêu và đánh giá, người ta phải hiểu
rõ mục tiêu, để có thể giải thích và cụ thể hoá mục tiêu đó thành những tiêu chí
đánh giá. Điều này tương đối dễ thực hiện đối với mục tiêu (objective) của
những quá trình giáo dục cụ thể ở cấp độ cơ sở (bộ môn, cấp lớp, khoá trình,
72
bài học). Các mục tiêu này thường được trình bày rõ ràng, cụ thể và khá đầy đủ
để dùng làm tiêu chí, hoặc trở thành tiêu chí đánh giá với một số gia công của
giáo viên. Tuy nhiên, ngay ở cấp độ này cũng có những mục tiêu ẩn giấu
(implicit objectives) bên cạnh những mục tiêu hiện rõ (explicit objectives). Thực
tế cho thấy những bài thi nhằm đáp ứng mục tiêu rèn luyện tư duy phê phán và
khả năng phân tích những ý tưởng và các mối quan hệ phức tạp đều ẩn chứa mục
tiêu kiểm tra khả năng nhớ lại những thông tin lịch sử, những định nghĩa khái
niệm và các tư liệu thực tế khác. [Xem 128,tr.316-317].
Đối với những mục tiêu ở cấp độ cao của các quá trình dạy học lớn, như
các tôn chỉ (aim) của hệ thống giáo dục, hay mục đích (goal) của trường học
các cấp, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Các mục tiêu này thường được trình bày
dưới dạng khái quát và trừu tượng hơn là diễn đạt bằng những khái niệm cụ
thể. Do vậy, để hiểu rõ các mục tiêu đó, người đánh giá phải nắm vững triết lý
giáo dục là nền tảng của các mục tiêu này; đồng thời phải nhận thức được sự
thể hiện muôn hình muôn vẻ của các mục tiêu đó trong thực tiễn dạy học. Từ
đó làm cho các mục tiêu này trở nên cụ thể, sinh động hơn, chuyển thành các
tiêu chí đánh giá. Sự hiểu nhầm hay nhận thức không đầy đủ về mục tiêu dĩ
nhiên dẫn đến sự không nhất quán giữa mục tiêu và đánh giá, làm hỏng công
trình đánh giá đó. Nếu mục tiêu của chương trình học nhấn mạnh đến sự phát
triển cá nhân thì công trình đánh giá không được nhận chìm những đặc điểm cá
nhân khác nhau của học sinh khi so sánh kết quả học tập của các nhóm. Một
công trình đánh giá đi sâu vào tính tuân thủ và khả năng ghi nhớ máy móc đối
với các sự kiện khô cứng của học sinh, trong khi chương trình học nhấn mạnh
về tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề, là một công trình đánh giá
không nhất quán với mục tiêu, và do đó có rất ít giá trị.
Sự không nhất quán còn xảy ra khi những trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá
(standardized tests) được sử dụng mà chưa hiểu rõ những sự vận hành bên
73
trong của chúng, hoặc sử dụng những công cụ không phản ánh được bản chất
của chương trình học. Thí dụ, trong khi chương trình ở nhà trường có sự tích
hợp kiến thức về xã hội trong bộ môn tìm hiểu xã hội, thì các trắc nghiệm tiêu
chuẩn hoá hiện có lại chỉ có thể sử dụng cho từng môn riêng biệt như lịch sử,
kinh tế hay địa lý.
Sự nhất quán giữa mục tiêu và đánh giá phải được coi là một tiêu chuẩn
tuyệt đối. Ngay cả khi có những mục tiêu được cảm nhận là trình bày sai hoặc
thiếu, công trình đánh giá cũng phải thực hiện theo đó, để tìm ra những bằng
chứng xác thực làm rõ sai lầm hoặc thiếu sót của mục tiêu, góp phần tu chỉnh
mục tiêu đó sau này.
Toàn diện (comprehensiveness)
Các công trình đánh giá cần đảm bảo tiêu chuẩn toàn diện, nghĩa là đánh
giá đầy đủ các giá trị về mọi mặt mà mục tiêu của quá trình giáo dục đã thể
hiện. Taba (1962) nhận xét rằng có lẽ nhược điểm thường gặp và dễ nhận thấy
nhất của các công trình đánh giá hiện hành là sự thiếu tính toàn diện của chúng.
Bà giải thích nguyên nhân của nhược điểm này xuất phát từ sự lạc hậu của các
công cụ đánh giá và đo lường thành quả học tập, so với sự mở rộng rõ ràng các
mục tiêu giáo dục trong nhà trường hiện đại.
Các trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá bằng giấy và bút hiện hành chỉ quan tâm
chủ yếu đến việc đánh giá sự thành thạo của học sinh đối với những thông tin
riêng biệt và những kỹ năng học thuật như đọc, viết, tính toán và xác định bản
đồ. Các trắc nghiệm này không quan tâm thoả đáng đến những mục tiêu thể
hiện quá trình trí tuệ cao hơn, như là tư duy, thái độ xã hội, phát triển thẩm mỹ
và những giá trị tinh thần khác. [Xem 132,tr.317].
74
Để khắc phục nhược điểm trên, giáo viên và các nhà đánh giá cần phát
huy cao độ khả năng sáng tạo của mình, tận dụng các phương pháp định tính
bằng sự quan sát thực tiễn, lập luận chặt chẽ dựa trên những bằng chứng xác
thực để đánh giá những gì chưa thể đo lường bằng trắc nghiệm. Đồng thời, các
chuyên gia về đo lường và đánh giá đã nghiên cứu và đưa ra rất nhiều dạng trắc
nghiệm mới để có thể đánh giá toàn diện các mục tiêu giáo dục. Cho đến nay,
các nhà đánh giá có thể sử dụng các trắc nghiệm chuẩn mực (norm - referenced
test) trắc nghiệm tiêu chí (criterion referenced test), trắc nghiệm theo mục tiêu
(objective referenced test), trắc nghiệm lĩnh vực (domain - referenced test) để
phục vụ cho công trình đánh giá của mình. Bên cạnh đó, chủ đề trắc nghiệm
các loại còn được lưu trữ tại các ngân hàng danh mục trắc nghiệm (item bank)
vận hành bằng máy tính điện tử. Các danh mục trong ngân hàng này bao trùm
mọi cấp học, môn học, mọi mục tiêu giáo dục, với đủ các dữ liệu thống kê.
Mặc dù các công cụ và phương tiện đánh giá đã đầy đủ hay vẫn còn thiếu,
một công trình đánh giá có đạt được tiêu chuẩn toàn diện hay không vẫn tuỳ
thuộc chủ yếu vào người đánh giá.
Chẩn đoán đầy đủ giá trị (sufficient diagnostic value)
Một tiêu chuẩn quan trọng nữa của mọi công trình đánh giá là chẩn đoán
đầy đủ giá trị. Theo tiêu chuẩn này, giá trị đạt được của người học phải được
chẩn đoán cả trong quá trình thực hiện lẫn trong sản phẩm cuối cùng, để vừa
xác định đúng trình độ nhận thức hoặc vận dụng thành thạo cao hay thấp, lại
vừa mô tả rõ ràng tất cả những mặt mạnh và mặt yếu của giá trị đó. [Xem
132,tr.318].
Thật dễ nhận thấy rằng một sự chẩn đoán đầy đủ cả trong quá trình thực
hiện lẫn trong sản phẩm cuối cùng sẽ mang lại kết quả chính xác hơn việc chẩn
đoán bị hạn chế ở một trong hai nơi. Chẳng hạn, khi chẩn đoán khả năng toán
học qua một bài giải toán, giáo viên sẽ phán xét chính xác dựa trên cả quá trình
75
làm bài lẫn đáp số cuối cùng của học sinh. Nếu chỉ căn cứ vào quá trình làm
bài hoặc riêng theo đáp số, phán xét sẽ kém phần chính xác.
Việc xác định đúng trình độ của giá trị đạt được luôn luôn có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng trong đánh giá. Sử dụng các bằng chứng do người học thể hiện
qua các phương tiện chẩn đoán, công trình đánh giá phải xác định đúng trình
độ học vấn của người học, chiếu theo các trình độ của mục tiêu giáo dục trong
từng lĩnh vực phù hợp. Ví dụ, khi chẩn đoán về khả năng nhận thức của học
sinh, giáo viên phải xác định được khả năng đó thuộc trình độ “biết”
(knowledge), hay cao hơn là trình độ “hiểu” (comprehension), hoặc cao hơn
nữa, đến trình độ “áp dụng” (application)...
Nhưng xác định đúng trình độ vẫn chưa phải là đã hoàn tất mọi việc. Một
sự chẩn đoán đầy đủ còn đòi hỏi việc làm rõ những mặt mạnh và mặt yếu của
giá trị đạt được. Việc này cũng không kém phần quan trọng, vì nó giúp giải
quyết vấn đề tại sao người học đạt được trình độ này mà không phải là trình độ
khác; để từ đó tìm ra hướng cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương
pháp dạy học của giáo viên, và cả chương trình học ở nhà trường. Thực tiễn
dạy học cho thấy có những học sinh vì không nhớ hoặc hiểu sai nguyên lý (hay
công thức) nên không thực hiện được nhiệm vụ học tập; trong khi những học
sinh khác nhớ và hiểu đúng nguyên lý (hay công thức) nên thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao để đi đến những kết luận (hay đáp số) đúng. Cũng có những học
sinh nhớ và hiểu đúng những nguyên lý (hay công thức), nhưng lại đi đến
những kết luận (hoặc đáp số) sai. Thực tiễn đó thể hiện những mặt mạnh và
mặt yếu của học sinh mà công trình đánh giá phải làm rõ.
Một sự chẩn đoán đầy đủ còn giúp cho công trình đánh giá đảm bảo được
tính khách quan của nó. Mọi công trình đánh giá đều sử dụng cả hai phương
pháp định tính và định lượng phối hợp với nhau; đồng thời đều chứa đựng cả
tính chủ quan lẫn tính khách quan. Do vậy, tính chủ quan theo thiên kiến cá
76
nhân làm tổn hại đến tính khách quan luôn luôn là vấn đề trong đánh giá. Vấn
đề này phải được giải quyết sao cho những phán xét chủ quan phù hợp với
những bằng chứng khách quan. Chính sự chẩn đoán đầy đủ tạo nên nguồn dữ
liệu thông tin đa dạng và đa chiều, trở thành các bằng chứng khách quan có sức
thuyết phục cao. Trước những bằng chứng hiển nhiên được rút ra từ cả quá
trình thực hiện lẫn thành quả cuối cùng, được xem xét chính xác cả về trình độ
nhận thức và trình độ vận dụng, lại được vạch rõ cả mặt mạnh lẫn mặt yếu, mọi
thiên kiến chủ quan trái ngược với chúng khó có thể đứng vững. Nhờ đó, tính
khách quan của công trình đánh giá được bảo đảm.
Nói chung, chẩn đoán đầy đủ giá trị là tiêu chuẩn quan trọng nhằm đảm
bảo cho tính chính xác, tính khách quan và hiệu quả sử dụng của công trình
đánh giá.
Bảo đảm tính hiệu lực (validity)
Mọi công trình đánh giá đều phải bảo đảm tính hiệu lực của nó, tức là phải
đánh giá được đúng những gì cần đánh giá, và phải đo lường được đúng mức
độ giá trị của chúng. Tiêu chuẩn nhất quán với mục tiêu đã quy định những gì
cần đánh giá, tức là quy định phạm vi của tiêu chí đánh giá. Nhưng những tiêu
chí trong phạm vi đó có được đánh giá và đo lường đúng hay không, lại phải
được đảm bảo bằng tính hiệu lực.
Muốn đảm bảo tính hiệu lực của công trình đánh giá, trước hết phải xác
định đúng những tiêu chí có hiệu lực trong phạm vi mục tiêu giáo dục. Những
tiêu chí này phải tạo cơ hội cho người học bộc lộ được những ứng xử (hay
động thái) thể hiện mức độ đạt được của mục tiêu, và loại trừ những yếu tố
không có liên quan hoặc không cần thiết đối với mục tiêu đó. Việc xác định
tiêu chí có hiệu lực trở nên khó khăn hơn đối với những mục tiêu mơ hồ, rườm
rà hoặc quá khái quát, không chứa đựng những mối quan hệ có thể nhận biết
qua ứng xử của người học. Chẳng hạn, với mục tiêu được đề ra là “hiểu trật tự
77
xã hội”, người ta khó có thể biết rằng mục tiêu đó đòi hỏi người học hiểu cái gì
của trật tự xã hội: hiểu quá trình hình thành, chức năng của các thiết chế, mối
quan hệ giữa các tầng lớp xã hội với nhau, hay hiểu các lực lượng vận hành trật
tự xã hội đó ?... Những mục tiêu như vậy đòi hỏi một sự phân tích cẩn thận và
đầy đủ mới có thể xác định đúng những tiêu chí có hiệu lực.
Tính hiệu lực của đánh giá còn tùy thuộc phần lớn vào các biện pháp và
công cụ được sử dụng. Có nhiều kiểu hiệu lực khác nhau, đồng thời cũng có
nhiều loại biện pháp và công cụ thích hợp với từng kiểu hiệu lực. Nếu sử dụng
đúng biện pháp và công cụ thích hợp, hiệu lực của công trình đánh giá sẽ được
bảo đảm. Ngược lại, nếu áp dụng nhầm biện pháp và công cụ không thích hợp,
hiệu lực của việc đánh giá sẽ rất kém, thậm chí không còn nữa. Thí dụ một
công trình đánh giá về khả năng giải thích dữ liệu của học sinh nhưng lại sử
dụng một trắc nghiệm đòi hỏi học sinh phải vượt qua những khó khăn về đọc
hiểu, sẽ đem lại những bằng chứng về khả năng đọc hiểu của học sinh hơn là
về khả năng giải thích dữ liệu. Hiệu lực của các biện pháp và công cụ đánh giá chỉ
có thể phát huy trên cơ sở những nội dung và những kỹ năng mà học sinh đã được
học hoặc được luyện tập. Một bài kiểm tra kiến thức văn học đòi hỏi học sinh thể
hiện những kiến thức không có trong chương trình và áp dụng những nguyên lý
chưa được biết đến là một công trình đánh giá không có hiệu lực.
Nói chung, đảm bảo tính hiệu lực là một tiêu chuẩn rất quan trọng đối với
mọi công trình đánh giá. Taba (1962) cho rằng, nếu cần sắp xếp thứ tự của tầm
quan trọng, thì tính hiệu lực (validity) còn đứng trên cả tính tin cậy
(dependability or reliability) và tính khách quan (objectivity). Bởi vì một công
trình đánh giá nếu không bảo đảm tính hiệu lực, tức là đánh giá không đúng cái
cần đánh giá, thì dù cho nó có cả tính tin cậy và tính khách quan, cũng trở
thành vô giá trị [xem 132,tr.321].
Thống nhất trong phán xét giá trị (unity of evaluative judgment)
78
Khi đánh giá thành quả học tập của mỗi cá nhân hay một nhóm người, các
bằng chứng về giá trị đạt được trên những lĩnh vực khác nhau, do các công cụ
khác nhau phát hiện, phải được thống nhất trong một phán xét chung. Đó chính
là tiêu chuẩn về sự thống nhất trong phán xét giá trị.
Để đo lường được rõ ràng và chính xác thành quả học tập của người học,
mỗi công trình đánh giá thường phải phân chia mục tiêu giáo dục thành những
bộ phận riêng biệt, tương ứng với các ứng xử riêng biệt của người học, để sử
dụng những công cụ khác nhau nhằm phát hiện những bằng chứng về giá trị
đạt được từ các ứng xử này. Tuy nhiên, vì mọi ứng xử đều có quan hệ hữu cơ
trong mỗi con người, nên mỗi ứng xử ở một bộ phận nào đó đều liên quan mật
thiết với những ứng xử ở các bộ phận khác. Vì vậy, các bằng chứng thu được
từ những công cụ khác nhau của công trình đánh giá phải được tập hợp lại
trong một khuôn khổ chung; trong đó mỗi bằng chứng do một công cụ bảo đảm
sẽ góp phần vào việc kiểm tra, mở rộng và bổ sung cho những bằng chứng do
các công cụ khác phát hiện. Nhờ đó, bức chân dung hoàn chỉnh với đầy đủ ý
nghĩa về giá trị đạt được của người học sẽ hình thành, làm cơ sở cho sự phán
xét giá trị này. Sự phán xét sẽ bị thiếu sót nếu chưa hội đủ bằng chứng về mối
quan hệ giữa các ứng xử và về những điều kiện ảnh hưởng đến những ứng xử
đó. Muốn phán xét mối liên quan giữa cảm thụ văn học với sở thích văn học,
thì phải có đủ các bằng chứng của mối quan hệ này từ cả hai phía cảm thụ và
sở thích. Nếu xác định sự hiểu biết các nguyên lý ảnh hưởng đến khả năng áp
dụng chúng, mà chỉ có bằng chứng về một trong hai mặt, sự hiểu biết hoặc khả
năng áp dụng, thì không thể rút ra một phán xét chính xác được.
Sự phán xét cũng sẽ bị sai lạc nếu không dựa trên sự đồng nhất về những
đặc tính cơ bản của người học và về bản chất của mục tiêu chương trình học.
Việc so sánh trình độ lĩnh hội thông tin giữa một nhóm học sinh gặp nhiều khó
khăn trong đời sống văn hoá với một nhóm không gặp khó khăn gì, hoặc giữa
79
một nhóm được chú trọng về rèn luyện tư duy với nhóm khác không phải chú
trọng điều gì ngoài việc tiếp nhận thông tin, sẽ dẫn tới những phán xét không
thoả đáng về giá trị đạt được của các nhóm. Những phán xét dựa trên những cơ
sở sai sót như vậy đã khiến Taba (1962) nhận xét rằng: “Có lẽ nguy cơ lớn nhất
đối với hiệu lực của đánh giá nằm ở cách phán xét giá trị đạt được của các cá
nhân hoặc các nhóm, dựa trên những bằng chứng hiện có.” [132,tr.322].
Nói chung, sự phán xét giá trị phải được thống nhất rút ra từ các bằng
chứng đầy đủ về mọi mặt của các ứng xử khác nhau và của các điều kiện tác
động đến chúng, đồng thời dựa trên sự đồng nhất về đặc tính cơ bản của người
học và của bản chất mục tiêu chương trình học. [Xem 132,tr.322-323].
Có tính liên tục (continuity)
Đánh giá là một quá trình liên tục và không thể thiếu của mọi quá trình
giáo dục, phục vụ cho sự phát triển chương trình học và việc dạy học. Do vậy,
mọi công trình đánh giá đều phải có tính liên tục, nghĩa là thể hiện giá trị đạt
được trong cả quá trình giáo dục, bao gồm việc xác định những gì đã đạt trong
thời gian qua, và việc tiên đoán những gì sẽ đạt trong thời gian tới. Đối với nhà
trường, những bằng chứng của sự tiến bộ, của những mặt mạnh và mặt yếu của
học sinh cần được xác định liên tục trong suốt năm học hay khoá học. Sự tiến
bộ cần phải được quan sát và ghi nhận khi nó đang diễn ra. Sau các bài học
hoặc các khoá trình của chương trình học, sự chẩn đoán những thuận lợi và khó
khăn cho các bước tiếp theo của việc thực hiện chương trình là luôn luôn hữu
ích và không thể thiếu. Những điều nêu trên có nghĩa là mọi công trình đánh
giá, kể cả những trắc nghiệm cuối cùng hay các bài thi cuối khoá, chỉ là một
phần nhỏ trong một thời điểm nhất định của toàn bộ quá trình (hay chương
trình) đánh giá. Trong nhà trường, quá trình này được khởi đầu từ một sự chẩn
đoán ban đầu đối với một số chương trình học mới hoặc một số khoá trình mới
của một chương trình, rồi liên tục đánh giá trong suốt quá trình phát triển của
80
khoá trình hay chương trình đó, và kết thúc bằng những sự kiểm tra thích hợp
để đi đến kết luận.
Nhưng sự kết thúc một quá trình đánh giá cũng chỉ là tương đối. Vì mọi
quá trình (hay công trình) đánh giá đều có mục đích cải tiến và hoàn thiện khoá
trình hay chương trình học cũng như quá trình dạy học, nên mọi kết luận của
một quá trình đánh giá đều trở thành những định hướng khởi đầu cho những sự
cải tiến và hoàn thiện đó. Khi khoá trình, chương trình hay quá trình dạy học đã
cải tiến và hoàn thiện đó được thực hiện, một quá trình (hay chương trình) đánh
giá mới lại bắt đầu trong một chu kỳ mới. [Xem 132,tr.323].
Tóm lại, các tiêu chuẩn nêu trên cần phải được áp dụng cho mọi công
trình (hay chương trình) đánh giá. Mỗi tiêu chuẩn đều có ý nghĩa quan trọng
riêng, nhưng nó không tồn tại biệt lập, mà ít nhiều đều có quan hệ với các tiêu
chuẩn khác để phối hợp với nhau hoặc bổ sung cho nhau. Các tiêu chuẩn này
và mối quan hệ giữa chúng với nhau sẽ đảm bảo cho chất lượng của công trình
(hay chương trình) đánh giá.
1.4.3. Các khuôn mẫu đánh giá (frameworks for evaluation)
Mọi công trình (hoặc chương trình) đánh giá đều phải được thực hiện theo
một số khuôn mẫu (hay cấu trúc) nhất định.
B.S. Bloom (1956) và các cộng sự của ông đã vạch ra khuôn mẫu đầu tiên
cho các công trình đánh giá khi khẳng định rằng mọi sản phẩm vật chất hay
tinh thần đều có thể được đánh giá theo hai khuôn khổ, hoặc theo các tiêu
chuẩn bên trong, hoặc theo những tiêu chuẩn bên ngoài của sản phẩm đó. [Xem
14,tr.281-286].
Đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên trong (inner criteria - based evaluation)
Đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên trong (gọi tắt là đánh giá từ bên trong)
là việc đánh giá mà các bằng chứng về giá trị của sản phẩm chỉ được rút ra từ
các dữ liệu chứa đựng trong nó, để xác định và phán xét theo những tiêu chuẩn
81
bên trong sản phẩm đó như tính hợp lý, tính nhất quán, tính đúng đắn, tính hệ
thống, hiệu quả sử dụng... Việc đánh giá này thường do người trong cuộc thực
hiện đối với sản phẩm của chính mình, nên lợi ích của sản phẩm đối với người
đó sẽ làm tăng tính chủ quan trong quá trình đánh giá. Những gì có lợi cho
người đó thì được đánh giá cao, còn những gì bất lợi cho người đó (nhưng có
thể mang lại nhiều lợi ích cho người khác) sẽ bị đánh giá thấp. Chính vì vậy,
Bloom (1956) và các cộng sự đã chỉ ra rằng: “Một tài liệu, một sản phẩm hay
một tác phẩm là chính xác hay nhất quán hoàn toàn trên cơ sở các tiêu chuẩn
bên trong, thì nó cũng không nhất thiết tạo thành một phẩm vật có thể được
đánh giá cao, trừ khi nó cũng thỏa mãn một số tiêu chuẩn bên ngoài”.
[14,tr.280].
Đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên ngoài (exterior criteria based evaluation)
Đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên ngoài (gọi tắt là đánh giá từ bên ngoài)
là việc đánh giá mà các bằng chứng về giá trị của một sản phẩm không chỉ
được rút ra từ các dữ liệu chứa đựng trong nó mà còn được rút ra từ các sản
phẩm cùng loại với nó, để xác định và phán xét theo tiêu chuẩn chung của loại
sản phẩm này. Các tiêu chuẩn chung này được coi là tiêu chuẩn bên ngoài của
sản phẩm được đánh giá. Ngoài những tiêu chuẩn bên trong được xem xét trên
mặt bằng chung của các sản phẩm cùng loại, các tiêu chuẩn bên ngoài còn bao
gồm những kết quả cần được thỏa mãn, những nguyên lý và quy trình kỹ thuật
cần được tuân thủ, sự độc đáo hay tầm thường, sự vượt trội hay yếu kém của
sản phẩm được đánh giá so với các sản phẩm khác cùng loại... Thật rõ ràng,
việc đánh giá từ bên ngoài dựa trên nguyên tắc coi mỗi sản phẩm là một thành
phần của một loại và được đánh giá bằng các tiêu chuẩn phù hợp với loại đó.
Như vậy, việc đánh giá này luôn bao hàm sự so sánh giữa sản phẩm được đánh
giá với các sản phẩm cùng loại và với tiêu chuẩn cao nhất của loại đó. [Xem
14,tr.283-285].
82
Một công trình đánh giá từ bên ngoài, lại do người ngoài cuộc thực hiện,
sẽ dễ dàng bảo đảm được tính khách quan của nó. Nhưng như vậy không có
nghĩa là đánh giá từ bên ngoài bao giờ cũng tốt hơn đánh giá từ bên trong. Việc
áp dụng khuôn khổ đánh giá nào là do mục đích đánh giá quyết định. Một công
trình đánh giá từ bên trong luôn luôn có giá trị trong khuôn khổ của nó, nhất là
khi hạn chế được những định kiến chủ quan. Về thực chất, việc đánh giá từ bên
ngoài chính là sự mở rộng một công trình đánh giá từ bên trong, làm cho nó
được xác định và phán xét đầy đủ và toàn diện hơn. Thế tức là sự kết hợp giữa
đánh giá từ bên trong với đánh giá từ bên ngoài sẽ tạo nên công trình đánh giá
trọn vẹn.
Đánh giá theo chuẩn mực (norm - reference evaluation)
Đánh giá theo chuẩn mực là việc xác định khả năng hoặc thành quả đạt
được của một cá nhân so với những cá nhân khác khi cùng thực hiện một
nhiệm vụ. Trong giáo dục, đánh giá theo chuẩn mực được thực hiện bằng các
trắc nghiệm chuẩn mực là loại trắc nghiệm dùng để đo lường thành tích của
người học căn cứ vào trình độ tương đối của một cá nhân so với một nhóm
người đã được biết [xem 76, tr.18-21].
Đánh giá theo tiêu chí (criterion - referenced evaluation)
Đánh giá theo tiêu chí là việc xác định khả năng hoặc trình độ mà mỗi cá
nhân đạt được trong một nhiệm vụ được giao, so với tiêu chuẩn định trước của
nhiệm vụ đó. Trong giáo dục, khuôn mẫu đánh giá này được thực hiện bằng
các trắc nghiệm tiêu chí, là loại trắc nghiệm dùng để đo lường mức độ thành
thạo của người học dựa trên nhiệm vụ học tập đã được xác định tiêu chuẩn từ
trước [xem 76, tr.18-23].
1.4.4. Các loại hình đánh giá
Chương trình đánh giá toàn diện (comprehensive evaluation program)
83
Theo Hilda Taba (1962), chương trình đánh giá toàn diện là một chương
trình đáp ứng được mọi nhu cầu của một chương trình học cụ thể và bảo đảm
đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết của một công trình đánh giá. Để tạo dựng
khuôn khổ cho một chương trình đánh giá toàn diện, người ta phải trả lời được
5 nhóm câu hỏi sau đây: 1) Các mục tiêu của chương trình học này là gì?
Những động thái hay ứng xử nào buộc phải đạt được (hay thể hiện) trong kết
quả thực hiện các mục tiêu đó? Việc điều hành các động thái hay ứng xử này
liên quan đến những nội dung và những kinh nghiệm gì? Những loại thông tin
gì có thể xác định việc xếp hạng học sinh, và những thông tin đó lấy từ những
nguồn nào?... 2) Trong điều kiện hoặc hoàn cảnh nào học sinh có cơ hội thể
hiện các ứng xử? Công cụ gì là thích hợp để đo lường các ứng xử của học sinh
trong hoàn cảnh hay điều kiện đó? 3) Những tiêu chuẩn gì có thể áp dụng để
đánh giá kết quả đạt được của học sinh đối với mục tiêu? Chẳng hạn như đánh
giá sở thích đọc sách của học sinh bằng những tiêu chuẩn nào (có thể là số
lượng sách đã đọc? giá trị của các sách đó? sự tiến bộ sau quá trình đọc
sách?...) 4) Những yếu tố gì đã xác định thành quả đạt được của các mục tiêu
giáo dục? Các yếu tố đó có thể được xác định như thế nào?... 5) Những phát
hiện của chương trình đánh giá liên quan thế nào đến chương trình học, việc
dạy học hoặc việc hướng dẫn học sinh?
Giải đáp đầy đủ các câu hỏi này tức là đã vạch ra được những vấn đề cơ
bản của một chương trình đánh giá toàn diện: diễn đạt và làm sáng tỏ các mục
tiêu, lựa chọn hoặc tạo ra những công cụ thích hợp để khai thác các bằng
chứng, quy định và áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá, xác định và phán xét
thành quả học tập và chất lượng dạy học theo các tiêu chuẩn và bằng chứng đã
có, chuyển các phát hiện đánh giá vào việc cải tiến chương trình và dạy học.
Sắp xếp lại và cụ thể hoá các vấn đề trên, Taba (1962) tạo dựng khuôn
mẫu cho một chương trình đánh giá tổng quát qua 4 bước như sau:
84
- Bước 1: Xác định các loại dữ liệu đánh giá cần thiết
Có 4 loại dữ liệu chủ yếu cần thiết cho chương trình đánh giá là: a) Dữ
liệu về các mục tiêu và bằng chứng liên quan đến chúng: về các khả năng tư
duy, quan điểm - thái độ, các kỹ năng, sức sáng tạo, các khái niệm, trình độ
nhận thức... b) Dữ liệu về các yếu tố ảnh hưởng đến học tập: các nền tảng văn
hoá, ảnh hưởng văn hoá của bạn bè cùng trang lứa, học vấn về xã hội, trình độ
kiến thức ban đầu về các bộ môn, các kiểu động cơ học tập, các khả năng đặc
biệt, tình cảm... c) Dữ liệu về các hoạt động dạy học: bản chất của những sự
phân công trách nhiệm, những thủ tục để bảo đảm dự kiểm soát, các kiểu đáp
ứng của giáo viên đối với những ứng xử của học sinh ... d) Phương pháp dạy
học được áp dụng: dùng lời nói, phát hiện và khám phá, làm thí nghiệm, học
thuộc lòng, thảo luận, dạy học dựa trên vấn đề, chứng minh...
- Bước 2: Lựa chọn hoặc tạo dựng các công cụ và phương thức cần thiết
Các công cụ và phương thức được sử dụng để thu thập dữ liệu bao gồm
rất nhiều chủng loại: các trắc nghiệm ghi điểm khách quan, các trắc nghiệm
thăm dò và những bài kiểm tra viết, các trắc nghiệm câu điền khuyết, băng ghi
âm, cân đo thái độ, cân đo tầng lớp xã hội, các bảng thống kê sở thích, các
danh mục kiểm chứng ứng xử, các biểu đồ về sự tham gia các chương trình xã
hội, các bảng câu hỏi, các cuộc phỏng vấn, các trắc nghiệm về sự thực hiện,
cân đo chất lượng quá trình thực hiện và sản phẩm đạt được, ghi âm các giai
thoại...
- Bước 3: Phân tích và giải thích dữ liệu để chứng minh cho các giả
thuyết và giá trị đạt được
Sau khi được thu thập đầy đủ theo 4 loại đã xác định trong bước 1, các dữ
liệu được phân tích trở thành các loại bằng chứng đánh giá: bằng chứng về các
yếu tố ảnh hưởng đến học tập, bằng chứng về các hoạt động dạy học và bằng
chứng về những ứng xử của học sinh đáp ứng mục tiêu giáo dục. Sự phân tích
85
Mục tiêu giáo dục
Bằng chứng về các ứng xử của
học sinh đáp ứng mục tiêu
Bằng chứng về các yếu tố ảnh hưởng
đến học tập
Bằng chứng về các hoạt động
dạy học
và giải thích các loại dữ liệu này dựa trên mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với
nhau và với mục tiêu giáo dục theo sơ đồ sau:
Hình 1.3. Quan hệ giữa các bằng chứng đánh giá với nhau và với mục tiêu giáo dụcNguồn: Hilda Taba [132,tr.329].
Mọi giả thuyết của chương trình (hay công trình) đánh giá đều được
chứng minh qua việc phân tích và giải thích các bằng chứng này, để xác định
và phán xét giá trị của chương trình học hay quá trình giáo dục. [Xem
128,tr.329,331-336].
- Bước 4: Chuyển kết quả đánh giá vào hoạt động thực tiễn
Các giả thuyết đã được chứng minh, nghĩa là chương trình đánh giá đã đi
đến kết quả ban đầu với việc xác định và phán xét đầy đủ các giá trị: thành quả
đạt được thấp hay cao, mặt nào mạnh và mặt nào yếu... Nhưng kết quả đó còn
phải được chuyển vào hoạt động thực tiễn để cải tiến chương trình học hay quá
trình dạy học. Do vậy, công trình đánh giá còn phải xác định và phán xét được
mối liên quan giữa kết quả đánh giá với chương trình học hay quá trình dạy
học hiện hành, vạch rõ nguyên nhân nào dẫn đến những thành quả thấp và
những mặt yếu? Những sự yếu kém đó nằm ở đâu? Những sự yếu kém này có
thể khắc phục bằng cách nào?...
Chỉ đến khi các kết quả đánh giá được chuyển vào hoạt động thực tiễn, tạo
nên chương trình học hoặc quá trình dạy học được cải tiến, thì chương trình
đánh giá mới được coi là hoàn thành. [Xem 132,tr329,336-338].
86
Đánh giá học tập của học sinh (assessing student learning)
Đánh giá học tập của học sinh là loại hình phổ biến nhất trong đánh giá
giáo dục, do giáo viên thực hiện để xác định và phán xét khả năng và thành quả
học tập của học sinh. Trong nhà trường hiện đại, việc đánh giá học tập của học
sinh được thực hiện rất đa dạng với nhiều kiểu cách khác nhau, nhưng vẫn có
thể quy tụ vào hai loại chính: đánh giá theo chuẩn mực và đánh giá theo tiêu
chí. Cả hai loại này đều được áp dụng trong ba dạng đề tài đánh giá chủ yếu ở
nhà trường là đánh giá thành quả học tập, đánh giá thực hiện và xếp hạng học
sinh.
- Đánh giá thành quả học tập (assessing learning achievement)
Đánh giá thành quả học tập là việc giáo viên sử dụng các công cụ của
mình để đo lường học vấn đạt được của học sinh. Hai loại công cụ thường
được giáo viên sử dụng là luận đề (essay) và trắc nghiệm (test). Luận đề là
những đề bài của tất cả các bộ môn do giáo viên giao cho học sinh làm để họ
tìm ra lời giải đáp. Còn trắc nghiệm là những bản thiết kế do giáo viên làm sẵn
để học sinh thể hiện trình độ của mình bằng cách lựa chọn những phương án
đúng. Cả trắc nghiệm và luận đề đều có khả năng đo lường mọi thành quả học
tập được thể hiện bằng giấy - và - bút: đo lường kiến thức về các sự kiện, sự
hiểu biết các khái niệm, các ý tưởng khái quát, các nguyên lý và các kỹ năng...
Tuy nhiên, giữa trắc nghiệm và luận đề luôn có những khác biệt với những ưu
điểm và nhược điểm riêng. Do vậy, việc lựa chọn luận đề hay trắc nghiệm làm
công cụ đánh giá tuỳ thuộc vào mục đích và điều kiện của việc đánh giá.
Chẳng hạn, khi giáo viên muốn học sinh thể hiện khả năng suy nghĩ và diễn đạt
các ý tưởng của mình bằng văn viết, thì nên dùng luận đề. Nhưng khi giáo viên
muốn kiểm tra kiến thức bao quát toàn bộ chương trình để ngăn ngừa việc học
tủ và học vẹt, thì nên chọn trắc nghiệm... [Xem 73,tr.2-12].
87
Do những ưu điểm về tính khách quan, chính xác và đáp ứng nhanh, trắc
nghiệm là công cụ đo lường được áp dụng ngày càng rộng rãi trong đánh giá
giáo dục, nghiên cứu khoa học và điều tra trong xã hội với rất nhiều kiểu loại
khác nhau. Để đánh giá thành quả học tập của học sinh, người ta dùng các trắc
nghiệm thành quả (achievement tests), có kết hợp với ít nhiều với các trắc
nghiệm trí thông minh (intelligence tests), trắc nghiệm năng khiếu (aptitude
tests) và trắc nghiệm nhân cách (personality tests). Các kiểu trắc nghiệm này
đều thuộc loại trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá (standardized tests). [Xem
122,tr.401-403].
- Đánh giá thực hiện (performeance based assessment)
Đánh giá thực hiện là việc giáo viên đo lường học vấn đạt được dựa trên
sự quan sát trực tiếp đối với việc thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh và
những sản phẩm do học sinh tạo ra để thể hiện trình độ học vấn của mình.
Như vậy, có hai loại đánh giá thực hiện là đánh giá sản phẩm (product
assessment) và đánh giá việc thực hiện (performance assessments). Theo R.R.
Burden và D.M. Byrd (2003), các sản phẩm do học sinh tạo ra để thể hiện trình độ
học vấn của mình thường là các tập hồ sơ làm việc ngoài giờ (portfolios), các biểu
mẫu công việc (work samples), các báo cáo kinh nghiệm (experience summaries),
các tập ghi chép hoặc nhật ký công việc (logs or jurnals), các đề án, báo cáo hoặc
tham luận, các mô hình và các băng đĩa truyền thông (media products). Còn
những việc thực hiện phản ánh trình độ học vấn của học sinh là thuyết trình (oral
presentation), trình bày bằng phương tiện truyền thông (presentation with media),
làm thí nghiệm khoa học, trình diễn thể dục thể thao, biểu diễn nhạc, múa hay
kịch nghệ, tranh luận, thực hiện những nhiệm vụ riêng, tham gia một sự kiện,
phỏng vấn ... [Xem 88,tr.307-311].
Để có thể đo lường chính xác trình độ học vấn thể hiện qua các sản phẩm
hay việc thực hiện nêu trên, giáo viên phải tự thiết kế những bảng danh mục
88
kiểm tra (checklist) và phân loại trình độ (rating scale) để dựa vào đó mà chấm
điểm từng bộ phận rồi hợp thành điểm chung của sản phẩm hay việc thực hiện.
Các bảng thiết kế này còn được gọi là những trắc nghiệm do giáo viên tự làm
(teacher - made tests).
- Xếp hạng (grading)
Xếp hạng là việc đánh giá tổng kết trình độ học vấn đạt được của học sinh
sau khi kết thúc một khoá trình, một môn học, một cấp lớp hay một bậc học,
được ghi nhận bằng thứ bậc trong một hệ thống nhất định, để có thể sử dụng
lâu dài.
Có nhiều hệ thống khác nhau để nhà trường xếp hạng học sinh theo yêu
cầu của mình: xếp hạng theo tỷ lệ phần trăm (percentage grades) học vấn đạt
được so với 100% yêu cầu của mục tiêu giáo dục; xếp hạng đạt - không đạt
(pass - fail grading) là hệ thống đơn giản nhất được áp dụng khi không cần
thiết phải phân chia tỉ mỉ các thứ hạng; xếp hạng theo danh mục kiểm tra các
mục tiêu (checklists of objectives) khi nhấn mạnh đến trình độ thực hiện...
Nhưng được áp dụng phổ biến nhất vẫn là hệ thống xếp hạng 5 bậc theo thứ tự
vẫn chữ cái:
A; ưu tú, xuất sắc,
B: giỏi, khá,
C: tương đối khá, trên trung bình, trung bình,
D: trung bình yếu, yếu,
F: yếu nghiêm trọng, kém
[Xem 126,tr.470].
Dĩ nhiên, xếp hạng là sự đánh giá tổng hợp đối với học sinh, dựa trên các
kết quả đánh giá riêng biệt mà học sinh đó đạt được. Do vậy, theo R.R. Burden
và D.M. Byrd, muốn xếp hạng chính xác học sinh, giáo viên phải thực hiện một
quy trình 4 bước: 1) Chọn các biện pháp đánh giá thích hợp sẽ được dùng để
89
xác định trình độ học sinh. Các biện pháp này được thực hiện thông qua các
công cụ đo lường như là trắc nghiệm, báo cáo viết hoặc miệng, bài tập về nhà,
phân loại, thực hiện thí nghiệm, các đề án... 2) Phân tích mối quan hệ giữa các
biện pháp đánh giá. Mỗi biện pháp sẽ có một giá trị khác nhau đối với một
phạm vi kiến thức nhất định và độ khó của mục tiêu giáo dục. Vì vậy, sự phân
tích này sẽ giúp giáo viên áp dụng đúng các biện pháp thích hợp, phối hợp
chúng với nhau trong cả quá trình dạy học: kiểm tra trong giờ học (quiz), kiểm
tra bài học (unit tests), thi giữa kỳ hạn (midterm exam) và thi tổng kết
(comprehensive final exam). 3) Xác định tỷ lệ đóng góp của mỗi biện pháp
đánh giá cho kết quả tổng hợp của quá trình dạy học. Vì mỗi biện pháp có một
giá trị riêng, nên giáo viên phải xác định tỷ lệ đóng góp của mỗi biện pháp so
với các biện pháp khác trong cả quá trình dạy học. Chẳng hạn, quá trình dạy
học một bộ môn có 6 lần kiểm tra bài học, 2 bài thi giữa kỳ hạn và 1 bài thi
tổng kết, thì 6 lần kiểm tra đó chiếm 33,3% (nghĩa là mỗi bài kiểm tra đóng
góp 5,55%), 2 bài thi giữa kỳ hạn chiếm 33,3% (mỗi bài thi này đóng góp
16,65%) và bài thi tổng kết chiếm 33,3% trong 100% kết quả tổng hợp. 4) Kết
hợp điểm số của các biện pháp đánh giá khác nhau thành một điểm số tổng hợp
để xếp hạng học sinh. [Xem 92,tr.336-339]. Kết quả xếp hạng học sinh có
nhiều công dụng: thông tin về học vấn đạt được và sự tiến bộ của học sinh,
quản lý hành chính (lên lớp và tốt nghiệp, khen thưởng, cấp học bổng, học
vượt...), hướng dẫn cho học sinh khắc phục mặt yếu, bồi dưỡng mặt mạnh,
phân loại và lựa chọn nghề nghiệp, thúc đẩy học sinh cố gắng, làm nguồn
thông tin nghiên cứu khoa học. Nói chung, để đánh giá học tập của học sinh
được xác đáng, công trình đánh giá phải có đủ tính hiệu lực (validity), tính tin
cậy (reliability) và tính thực tiễn (practicality).
Tóm lại, Đánh giá là một trong bốn yếu tố cơ bản của bất cứ một quá trình
giáo dục nào. Mặc dù thường được xem xét sau cùng theo một trình tự logic
90
nhất định, tầm quan trọng của đánh giá không hề thua kém mục tiêu, nội dung
hay phương pháp - tổ chức ở bất cứ phương diện nào. Đánh giá luôn tồn tại
song song với các yếu tố cơ bản kia trong mối quan hệ tương hỗ giữa chúng
với nhau để thực hiện trọn vẹn các quá trình giáo dục.
CHƯƠNG 2
Mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản với
nhau
Bốn yếu tố cơ bản là Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp (gồm cả tổ chức)
và Đánh giá không bao giờ tồn tại biệt lập, mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau trong mọi quá trình giáo dục. Hilda Taba (1962) đã chỉ rõ rằng: “Mỗi
yếu tố cơ bản của chương trình học có được ý nghĩa và bản chất trong sự quy
chiếu với những yếu tố khác, và do vị trí của nó ở trong một khuôn mẫu bao
gồm tất cả các yếu tố khác” [132,tr.424].
2.1. Quan hệ giữa Mục tiêu với Nội dung
2.1.1. Mục tiêu chi phối Nội dung
Mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục do chức năng
của mỗi yếu tố quy định. Vì vậy, việc xem xét mối quan hệ đó phải xuất phát
từ chức năng của từng yếu tố.
Chức năng của Mục tiêu giáo dục
Để có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của yếu tố Mục tiêu trong quá trình
giáo dục, Taba (1962) đã phân tích 4 chức năng của Mục tiêu giáo dục là: 1) Định
hướng chương trình giáo dục; 2) Hướng dẫn lựa chọn về chuyên môn, bao gồm nội
dung, phương pháp, tổ chức và kinh nghiệm giáo dục; 3) Cung cấp tiêu điểm chung
91
nhất quán cho mọi hoạt động trong chương trình của nhà trường; 4) Hướng dẫn
đánh giá quá trình giáo dục. [Xem 132,tr.196-1999].
- Định hướng chương trình giáo dục (Orientation of educational programs) là
chức năng chủ yếu của Mục tiêu giáo dục. ở cấp độ cao nhất, tôn chỉ (aim) của
hệ thống giáo dục quốc gia có chức năng định hướng tổng quát cho toàn bộ hệ
thống, thể hiện triết lý giáo dục, nhấn mạnh trọng tâm của chương trình giáo
dục, vạch ra phương hướng để chuyển các nhu cầu và các giá trị của xã hội và
của cá nhân vào chương trình giáo dục. ở cấp độ trung gian, mục đích (goal)
của hệ thống giáo dục địa phương hay của trường học các cấp sẽ định hướng cụ
thể hơn về những kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật, những thái độ tình cảm, những
khả năng, kỹ năng trí tuệ và những năng lực khác mà mỗi cá nhân phải đạt
được qua quá trình giáo dục, để thỏa mãn tôn chỉ nêu trên, đồng thời đáp ứng
những yêu cầu của cộng đồng địa phương hay của nhà trường các cấp. ở cấp độ
cơ sở, mục tiêu (objective) phải được định hướng cụ thể, rõ ràng và chi tiết đối
với chương trình học của mỗi lớp, mỗi môn học, mỗi khoá trình và mỗi bài
học, đồng thời đáp ứng mục đích chung của nhà trường.
- Hướng dẫn lựa chọn về chuyên môn (guiding selection of speciality) có
thể được coi là hệ quả của sự định hướng quá trình giáo dục, nhưng là một hệ
quả đặc biệt để biến định hướng thành thực tiễn, nên đã trở thành một chức
năng trọng yếu của mục tiêu giáo dục. Những định hướng trong tôn chỉ (aim)
dẫn tới sự lựa chọn loại hình chương trình học sẽ được thiết kế để đáp ứng
những định hướng đó. Những định hướng trong mục đích (goal) được sử dụng
để hướng dẫn thực hiện các quyết định về chương trình học, trong đó gồm có
những gì được đề cập, những gì phải nhấn mạnh, những nội dung nào được lựa
chọn và chúng được sắp xếp trong chương trình như thế nào, những kinh
nghiệm học tập nào cần được quan tâm, việc dạy học được thực hiện bằng
phương pháp và cách thức tổ chức như thế nào ...
92
Đối với cấp độ cơ sở, chức năng hướng dẫn lựa chọn của mục tiêu
(objective) lại càng trở nên phức tạp và đa dạng. Quan trọng nhất là sự hướng
dẫn để lựa chọn nội dung, kinh nghiệm và phương pháp dạy học, đồng thời với
việc cung cấp những tiêu chuẩn để giáo viên biết phải dạy những gì và dạy như
thế nào đối với mỗi bộ môn, khoá trình hay bài học.
- Cung cấp tiêu điểm chung nhất quán (providing common and consistent
focus) cho mọi hoạt động trong chương trình của nhà trường cũng là chức năng
quan trọng của mục tiêu giáo dục. Trường học luôn có nhiều cấp lớp, nhiều bộ
môn nhiều giáo viên và nhiều người điều hành để thực hiện những hoạt động
rất phong phú và đa dạng. Vì vậy, sự quy tụ mọi hoạt động trong chương trình
của nhà trường vào một số tiêu điểm chung nhất quán là hết sức cần thiết để
làm tăng hiệu quả của mọi nỗ lực. Hơn nữa, mọi nỗ lực tăng trưởng của nhà
trường sẽ không thể phát triển nếu không có một sự nhất quán xuyên suốt
chương trình tổng thể. Chính mục tiêu giáo dục phải đảm nhiệm chức năng của
tiêu điểm chung nhất quán này. Để bảo đảm được chức năng này, bản thân các
mục tiêu giáo dục phải được trình bày nhất quán với nhau; mục tiêu riêng của
từng bộ phận phải nhất quán với mục tiêu chung của nhà trường.
- Hướng dẫn đánh giá (guiding evaluation) là chức năng trọng yếu và
không thể thiếu của mục tiêu giáo dục.
Trong mọi quá trình giáo dục, mục tiêu là kết quả dự kiến hoặc mong đợi
mà học sinh sẽ đạt được, còn đánh giá là xác định và phán xét kết quả mà học
sinh đạt được sau khi đã hoàn tất quá trình này. Do đó, người ta chỉ đánh giá
những kết quả đã được tuyên bố trong mục tiêu. Điều đó có nghĩa là mục tiêu
quy định phạm vi đánh giá. Hơn thế nữa, đánh giá phải đáp ứng đầy đủ mọi
yêu cầu đã nêu ra trong mục tiêu. Trong thực tế dạy học, phạm vi đánh giá
thành quả đạt được thường hẹp hơn nhiều so với phạm vi của mục tiêu chương
trình; đồng thời các yêu cầu của mục tiêu cũng ít khi được đáp ứng đầy đủ.
93
Nguyên nhân của thực trạng này một phần do sự hạn chế của các công cụ đo
lường và đánh giá hiện có, nhưng phần lớn là do chính các mục tiêu được trình
bày không rõ ràng và không đủ tiêu chuẩn để đánh giá. Do vậy, để đảm bảo
chức năng hướng dẫn đánh giá, các mục tiêu phải được phát biểu cụ thể, rõ
ràng và đầy đủ, sao cho có thể đánh giá được. [Xem 132,tr.199].
Với các chức năng trên, mục tiêu giáo dục sẽ chi phối các yếu tố cơ bản
khác, trước hết là nội dung của quá trình giáo dục.
Mục tiêu định hướng cho Nội dung chuyên môn
Các chức năng 1) và 2) của mục tiêu giáo dục sẽ trực tiếp chi phối nội
dung dạy học. Trước hết, những định hướng trong tôn chỉ và mục đích của quá
trình giáo dục sẽ chỉ ra loại hình chương trình học nào cần được thiết kế, và
trong đó phải bao hàm những nội dung kiến thức nào. Chẳng hạn, tôn chỉ của
hệ thống giáo dục nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được trình bày như
sau:
1) Phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
2) Phát triển lòng yêu nước
3) Học vấn và trí tuệ
4) Khoẻ mạnh về thể chất
5) Quan tâm đến mỹ học. [Dẫn theo 136,tr.102].
Tôn chỉ này đã định hướng cho chương trình học của hệ thống giáo dục
quốc gia, đòi hỏi chương trình học phải đáp ứng đầy đủ 5 điểm nêu trên. Điều
đó có nghĩa là chương trình học phải bao gồm những nội dung chuyên môn
nhằm giáo dục các phẩm chất đạo đức, giáo dục lòng yêu nước, rèn luyện thể
chất và trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ và các loại học vấn khác.
Mục đích giáo dục sẽ cụ thể hoá định hướng nói trên: các phẩm chất đạo
đức nào cần phát triển? Lòng yêu nước được thể hiện trên lĩnh vực nào? Các
loại học vấn gì cần được giáo dục và những khả năng trí tuệ nào cần được rèn
94
luyện? Sự khoẻ mạnh về thể chất phải được thể hiện như thế nào? Mỹ học phải
được tiếp nhận từ nguồn nào?... Đây chính là sự định hướng cho các nội dung
đưa vào chương trình học, tức là lựa chọn và sắp xếp các môn học trong
chương trình.
Mục tiêu hướng dẫn lựa chọn Nội dung môn học
Các mục tiêu giáo dục cấp cơ sở sẽ cụ thể hoá mục đích nêu trên theo hai
nhóm song hành: một nhóm trình bày các mục tiêu rộng của nhà trường cho
đến từng cấp lớp; nhóm kia là mục tiêu của các bộ môn, các khoá trình và các
bài học đáp ứng các mục đích giáo dục theo lĩnh vực chuyên môn của mình,
đồng thời đóng góp cho mục tiêu của nhà trường và cấp lớp. Chính các mục
tiêu này sẽ quyết định việc lựa chọn các nội dung của môn học, khoá trình hay
từng bài học. Taba (1962) đã minh họa sự chi phối của mục tiêu đối với nội
dung môn học như sau:
Nếu mục tiêu của việc học lịch sử thế giới là tạo ra sự phán xét thông
minh về bối cảnh thế giới hiện tại, thì một số phần nhất định của lịch
sử được định hướng sẽ là quan trọng hơn những phần khác. Nếu mục
tiêu là tạo nên một sự nhận thức chung về quá khứ, thì các lĩnh vực
khác của lịch sử thế giới và những cách học khác sẽ trở nên quan
trọng. Nếu tư duy phản ánh là một mục tiêu quan trọng, thì việc học
kỹ lưỡng một số chủ đề nhưng có nhiều cơ hội để liên hệ các ý tưởng
sẽ trở nên quan trọng hơn việc bao quát đầy đủ các sự kiện.
[132,tr.12].
Như vậy, sự chi phối của mục tiêu giáo dục đối với nội dung được xuyên
suốt qua mọi cấp độ của quá trình giáo dục, bao quát tất cả các lĩnh vực học
vấn và đi sâu vào từng môn học, từng khoá trình và từng bài học.
95
2.1.2. Nội dung tác động lại Mục tiêu
Chức năng của Nội dung chuyên môn
Trong mọi quá trình giáo dục, nội dung đảm nhiệm 3 chức năng chính: 1)
Là một nguồn để lựa chọn mục tiêu; 2) Là phương tiện chủ yếu để đạt các mục
tiêu; 3) Cung cấp dữ liệu cho phương pháp và đánh giá.
- Nội dung chuyên môn là một nguồn để lựa chọn mục tiêu (a source of objectives)
là quan điểm của chính Ralph Tyler (1950), khi ông miêu tả 3 nguồn của các
mục tiêu: “nghiên cứu người học, nghiên cứu đời sống hiện tại và những đề
xuất của các nhà chuyên môn về nội dung các môn học” [dẫn theo 128,tr.71].
Theo đó, để có thể xác định được đúng đắn và đầy đủ mục tiêu của quá
trình giáo dục, bên cạnh việc nắm bắt các nhu cầu của xã hội đương đại cũng
như nhu cầu của cá nhân sống trong xã hội đó, người ta còn phải biết đến kho
tàng những trải nghiệm của nhân loại (tức là nội dung chuyên môn) có thể tạo
nên và đáp ứng các nhu cầu của xã hội và của cá nhân. Lẽ dĩ nhiên thuật ngữ
“nội dung chuyên môn” (subject matter) ở đây cần được hiểu là toàn bộ tri thức
hiện có và những trải nghiệm đã tích luỹ được của các bộ môn khoa học. Chính
nguồn này sẽ giúp các nhà giáo dục lựa chọn mục tiêu của quá trình giáo dục.
Sau khi mục tiêu đã được xác định, người ta sẽ căn cứ vào đó để lựa chọn
những nội dung chuyên môn nhất định cho một môn học cụ thể trong chương
trình học ở nhà trường.
- Nội dung chuyên môn là phương tiện chủ yếu (main means) để thực hiện
mục tiêu giáo dục. Các mục tiêu giáo dục chỉ có thể đạt được qua nội dung các
môn học trong nhà trường. Mỗi môn học, tuỳ theo chức năng và nhiệm vụ của
mình, sẽ đóng góp một phần vào việc làm biến đổi cá nhân người học theo
96
những mục tiêu đã đề ra. Có những bộ môn giúp cho người học hiểu biết rõ
hơn về thế giới mà chúng ta đang sống, vị trí của thế giới trong vũ trụ bao la và
mối quan hệ giữa con người với thế giới này. Bên cạnh đó là những bộ môn
giúp người học hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã
hội, những triết lý và tư tưởng dẫn dắt để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Nhiều môn học còn giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng để sống và lao động
tốt, góp phần bảo tồn các nguồn lợi thiên nhiên... Mỗi bộ môn luôn có quy luật,
phương pháp và đặc trưng riêng của nó; nhưng khi đã được chọn vào chương
trình học, thì đều trở thành phương tiện để thực hiện các mục tiêu giáo dục.
Theo H.M. Kliebard(1975), “nội dung chuyên môn là phương tiện chủ yếu
trong nhiều phương tiện, mà nhờ nó người ta thỏa mãn được các nhu cầu cá
nhân như là những ước vọng có định hướng, hoặc đáp ứng những đòi hỏi của
xã hội” [128,tr.73].
- Cung cấp dữ liệu (providing data) cho phương pháp và đánh giá cũng là
một chức năng quan trọng của nội dung môn học. Nội dung chuyên môn không
phải là phương tiện duy nhất để thực hiện mục tiêu giáo dục. Nội dung được
thực hiện thông qua phương pháp và với sự trợ giúp của đánh giá. Trong mối
quan hệ với phương pháp và đánh giá, nội dung có chức năng cung cấp dữ liệu
để hai yếu tố này thực hiện chức năng của mình.
Mọi phương pháp dạy học đều dựa trên nội dung chuyên môn; và chính
nội dung môn học cung cấp dữ liệu để thực hiện phương pháp dạy học. Yếu tố
phương pháp ở đây luôn đi kèm với ý nghĩa tổ chức; thí dụ: phương pháp dạy
học theo nhóm.
Mọi chương trình (hay công trình) đánh giá đều phải khai thác đúng và đủ
nguồn dữ liệu từ mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Trong ba nguồn
dữ liệu đó, các dữ liệu về nội dung có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu dữ liệu
97
về kiến thức được xác định không chính xác hoặc nằm ngoài nội dung môn
học, kết quả đánh giá sẽ không còn chính xác.
Sự tác động của Nội dung đối với Mục tiêu
Các chức năng 1) và 2) cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa nội dung với
mục tiêu giáo dục.
Khi đã là một nguồn để lựa chọn mục tiêu, nội dung chuyên môn rõ ràng
đã tác động trở lại, thậm chí chi phối mục tiêu giáo dục. Nội dung chuyên môn
trong bất cứ lĩnh vực nào cũng vô cùng phong phú và không có giới hạn. Bất
kể một phạm vi kiến thức nào trong một lĩnh vực nhất định cũng có thể tác
động tích cực đến con người. Không ai có thể nói rằng một lĩnh vực kiến thức
nào đó đã được khai thác hết để lựa chọn các mục tiêu giáo dục. Vì vậy, trong
một hoàn cảnh cụ thể nào đó, một phạm vi kiến thức chưa được khai thác lại
thể hiện rõ tác động tích cực của nó đối với con người, và do đó sẽ trở thành
một nguồn để mở rộng mục tiêu, hoặc xác định một mục tiêu giáo dục mới.
Hơn thế nữa, kho tàng kiến thức của nhân loại luôn luôn được bổ sung những
tri thức mới với nhịp độ ngày càng nhanh. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn nội
dung chuyên môn được dùng để lựa chọn muc tiêu cũng luôn luôn được tăng
thêm và đổi mới. Như vậy, nội dung chuyên môn sẽ luôn luôn tác động trở lại
và chi phối mục tiêu giáo dục. Thí dụ, đứng trước khối lượng tri thức mới đồ sộ
do thời đại công nghệ thông tin mang lại từ cuối thế kỷ XX, đến năm 2000 các
nhà giáo dục Hoa Kỳ đã đưa vào chương trình học của nhà trường hàng loạt
mục tiêu mới theo “Khuôn khổ vận hành Công nghệ hữu hiệu trong Trường
học” như sau:
Trước khi kết thúc lớp 2, học sinh phải: thể hiện những hành vi đạo
đức và tính tích cực đối với xã hội khi sử dụng công nghệ thông tin
(...).
98
Trước khi kết thúc lớp 5 học sinh phải: thảo luận về việc sử dụng
chung công nghệ thông tin trong đời sống hàng ngày, các ưu điểm và
nhược điểm trong việc sử dụng những phương tiện được cung cấp
(...).
Trước khi kết thúc lớp 8, học sinh phải: thể hiện những hành vi đạo
đức và tuân thủ pháp luật khi sử dụng thông tin công nghệ, đồng thời
thảo luận về những hậu quả của việc sử dụng sai (...).
Trước khi kết thúc lớp 12, học sinh phải: hợp tác được với các bạn
học, với các chuyên gia và những người khác để đóng góp vào cơ sở
kiến thức có nội dung liên quan, bằng cách sử dụng công nghệ để
biên soạn, tổng hợp, sản xuất và phổ biến (...). [Dẫn theo 136,tr.212-
213].
Sự tác động của nội dung chuyên môn đối với mục tiêu giáo dục diễn ra
lặng lẽ trong suốt quá trình tích lũy và khám phá tri thức; nhưng việc điều
chỉnh hay bổ sung mục tiêu chỉ được thực hiện vào những thời điểm nhất định,
thường vào lúc kết thúc một chu kỳ để chuẩn bị bước sang một chu kỳ giáo dục
mới.
Sau khi được lựa chọn để đưa vào chương trình, nội dung chuyên môn trở
thành nội dung môn học với chức năng là phương tiện chủ yếu để thực hiện
mục tiêu giáo dục. Nhưng trong lúc đảm nhiệm chức năng này, nội dung môn
học của các cấp lớp trên luôn góp phần định hướng (tức là chi phối) mục tiêu
của cấp lớp dưới kế cận. Điều này cũng dễ hiểu, vì thành quả học tập của các
cấp lớp dưới luôn luôn phải tạo ra được một nền tảng kiến thức đầy đủ để học
sinh có thể tiếp thu các nội dung ở trình độ cao hơn.
Như vậy, mối quan hệ giữa mục tiêu với nội dung là mối quan hệ tương
tác hai chiều: mục tiêu chi phối nội dung, nội dung cũng tác động trở lại mục
tiêu theo một con đường khác.
99
2.2. Quan hệ giữa Mục tiêu với Phương pháp và tổ chức
2.2.1. Mục tiêu chi phối Phương pháp và tổ chức
Trở lại với chức năng của mục tiêu giáo dục, có thể thấy rõ rằng các chức
năng định hướng chương trình và hướng dẫn lựa chọn về chuyên môn sẽ chi
phối yếu tố phương pháp và tổ chức trong quá trình dạy học, cụ thể là định
hướng cho các loại hình tổ chức dạy học và lựa chọn phương pháp dạy học.
Mục tiêu định hướng cho loại hình tổ chức dạy học
Mục tiêu (tức kết quả phải đạt) chỉ có thể được thực hiện thông qua nội
dung (dạy cái gì) cùng với phương pháp và tổ chức (dạy như thế nào). Do đó,
cả nội dung lẫn phương pháp và tổ chức đều được coi là các phương tiện để
thực hiện mục tiêu, gọi tắt là phương tiện mục tiêu (means-ends).
Như ở phần trên đã chỉ rõ, triết lý giáo dục là khởi nguồn của các yếu tố
cơ bản trong quá trình giáo dục. Nhưng theo trình tự xem xét, thì triết lý phải
được thể hiện trước hết ở mục tiêu. Do đó, mục tiêu giáo dục sẽ định hướng
các yếu tố được coi là phương tiện của mình bằng triết lý mà nó đã tuân theo.
Nếu tôn chỉ và mục đích thể hiện triết lý vĩnh cửu (perennialism) hay triết
lý lý tưởng (idealism), các nội dung kiến thức được coi là vĩnh cửu hoặc mang
tính lý tưởng sẽ được định hướng cho chương trình; đồng thời định hướng về
phương pháp và tổ chức sẽ không phải là gì khác ngoài loại hình tổ chức dạy
học thuyết giảng, trong đó học sinh tiếp thu thụ động với tính kỷ luật cao, và
noi theo những hành vi mẫu mực của giáo viên. Nhưng nếu tôn chỉ và mục
đích thể hiện triết lý thực chứng (experimentalism), dẫn đến một nội dung
chương trình bao gồm những kiến thức mà con người đã thực sự kinh qua, với
các giá trị và kinh nghiệm đã được kiểm chứng của nhân loại, thì định hướng
về phương pháp và tổ chức sẽ ưu tiên cho loại hình dạy học nhằm phát triển tư
duy phê phán và tư duy sáng tạo, dựa trên các vấn đề được đặt ra từ thực tế.
100
Định hướng loại hình tổ chức dạy học đồng thời cũng là định hướng tổ
chức chương trình học. Theo định hướng của tôn chỉ và mục đích, các nhà giáo
dục sẽ vạch ra cách tổ chức các nội dung kiến thức và phương pháp dạy học
thích hợp đối với chương trình học ở nhà trường. Theo P.H. Hirst và R.S.
Peters(1974), các kiến thức và kinh nghiệm khác nhau được định hướng vào
chương trình học sẽ trở thành những đơn vị chương trình (curriculum units),
“bất kể chúng là bộ môn, chủ đề, đề tài hay một loại nào khác, đều phải được
coi như những đơn vị cấu thành cho các mục tiêu giáo dục. Chúng không có
giá trị cuối cùng nào khác ngoài bối cảnh này” [98,tr.186].
Mục tiêu hướng dẫn lựa chọn phương pháp dạy học
ở cấp độ cơ sở, sự chi phối của mục tiêu đối với các yếu tố cơ bản khác
không chỉ là những định hướng khái quát, mà còn trở thành những tiêu chuẩn
cụ thể để hướng dẫn việc lựa chọn nội dung môn học và phương pháp dạy học
cho quá trình giáo dục.
Theo sự hướng dẫn của mục tiêu, các nhà giáo dục phải lựa chọn yếu tố
nào cần được ưu tiên giữa nội dung (dạy cái gì) và phương pháp (dạy như thế
nào). Nếu mục tiêu chủ yếu nhắm đến việc phát triển các quá trình nhận thức
của học sinh, thì chính phương pháp là yếu tố cần được ưu tiên lựa chọn. Theo
E.W. Eisner và E. Vallance (1974), loại chương trình học nhằm phát triển quá
trình nhận thức (development of cognitive processes) sẽ phải tập trung giải
quyết vấn đề dạy như thế nào (tức phương pháp) hơn là dạy cái gì (nội dung).
Hai ông giải thích rằng: “Nhằm phát triển một loại công nghệ của trí tuệ,
chương trình đó coi vấn đề trung tâm của mình là mài sắc các quá trình trí tuệ
và phát triển một tập hợp các kỹ năng nhận thức để có thể áp dụng cho việc học
hầu hết các kiến thức” [98,tr.5-6]. Chính vì vậy, nó coi phương pháp là yếu tố
101
được ưu tiên lựa chọn trước hết. Nhưng đối với loại chương trình tự hiện thực
hoá (self - actualization) thì lại khác. Loại chương trình này nhằm mục tiêu chủ
yếu là cung cấp đầy đủ những giá trị cần thiết đã được tích lũy và hoàn thiện
của nhân loại cho học sinh, để các em tự xây dựng và phát triển nhân cách của
mình phù hợp với xã hội hiện đại. Do đó, nó đặc biệt ưu tiên cho việc lựa chọn
nội dung kiến thức, còn phương pháp sẽ được lựa chọn tùy thuộc vào sự đòi
hỏi của nội dung môn học. [Xem 98,tr.9-10].
E.W. Eisner và E. Vallance (1974) đã mô tả 5 định hướng chương trình
khác nhau dẫn tới những sự ưu tiên lựa chọn khác nhau về nội dung và phương
pháp. Trong số các định hướng này, kiểu chương trình phát triển quá trình nhận
thức (the development of cognitive processes) và chương trình công nghệ giáo
dục (curriculum as educational technology) luôn ưu tiên lựa chọn phương
pháp; còn các kiểu chương trình tự hiện thực hoá (self - actualization), chương
trình tái cấu trúc xã hội (social reconstruction - relevance), và chương trình duy
lý hàn lâm (academic rationalism) đều dành ưu tiên lựa chọn cho yếu tố nội
dung [xem 98,tr.5-14].
Mỗi chương trình học theo quy định nói trên sẽ có các loại hình tổ chức
dạy học tương ứng với chúng. Mục tiêu của các kiểu dạy học này sẽ trở thành
tiêu chuẩn để lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Chẳng hạn loại hình
dạy học phát triển tư duy phê phán và tư duy sáng tạo sẽ lựa chọn các phương
pháp tiếp cận gián tiếp, bao gồm dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát hiện và
khám phá, dạy học theo nhóm và dạy học qua hành động.
2.2.2. Phương pháp và tổ chức tác động lại Mục tiêu
Cũng như nội dung kiến thức, phương pháp và tổ chức phát triển không
ngừng theo nhịp điệu của khoa học và công nghệ; cho nên đến một mức độ nào
102
đó, chính yếu tố cơ bản này cũng tác động trở lại để chi phối mục tiêu hoặc
chuyển thành mục tiêu giáo dục.
Phương pháp và tổ chức chi phối Mục tiêu giáo dục
Đã từ lâu, các nhà giáo dục Hoa Kỳ khẳng định rằng phương tiện và công
cụ dạy học làm thay đổi quá trình giáo dục. Robert M. Gagné (1974) chỉ rõ
rằng:
1) Những sự thay đổi trong quá trình dạy học có thể còn sâu rộng
hơn những sự thay đổi về công cụ.
2) Trong một số trường hợp, công cụ nhỏ làm thay đổi việc dạy học
còn hơn cả công cụ lớn.
3) Công cụ lớn và nhỏ thỉnh thoảng tạo ra khả năng thay đổi việc dạy
học vượt xa về hiệu quả của nó; tuy nhiên điều này lệ thuộc vào cách
sử dụng công cụ. [98,tr.51].
Như ở phần trên đã chỉ rõ, các phương tiện hay công cụ là một khởi nguồn
cho phương pháp và tổ chức dạy học, đồng thời có thể tạo nên những chuyển
biến to lớn trong giáo dục, bao gồm cả mục tiêu giáo dục. Cụ thể là phương
tiện hay công cụ mới dẫn tới kiểu chương trình và loại hình dạy học mới với
phương pháp và tổ chức mới; rồi tất cả những cái mới này tác động trở lại làm
thay đổi quá trình giáo dục mà trước hết là mục tiêu giáo dục. Thực tế cho thấy
rằng vào cuối thế kỷ XX, khi vô tuyến truyền hình đã rất thông dụng và máy
tính điện tử bắt đầu được dùng cho giáo dục, thì một kiểu chương trình học mới
được gọi là công nghệ giáo dục (Educational Technology) ra đời, tương ứng
với nó là loại hình tổ chức dạy học vi tính hoá (Computerized Instruction),
trong đó áp dụng các phương pháp dạy học tiếp cận độc lập (Independent
Instructional Approaches) mà nổi bật là phương pháp hướng dẫn tự học bằng
máy tính (Using Computer to promote learning). Chính loại hình tổ chức dạy
học này cùng các phương pháp mới của nó đã làm thay đổi mục tiêu giáo dục.
103
Thay vì nhấn mạnh vào những mục tiêu do nội dung kiến thức đem lại như
trong các loại hình dạy học truyền thống, loại hình này lại chú trọng trước hết
đến các mục tiêu do phương pháp dạy học đưa đến cho người học.
Cũng như vậy, loại chương trình phát triển nhận thức, tương ứng với loại
hình dạy học phát triển khả năng và kỹ năng tư duy áp dụng các phương pháp
tiếp cận gián tiếp, cũng chú trọng trước hết đến những mục tiêu do phương
pháp dạy học đem lại.
Hiện nay, việc chú trọng những mục tiêu về phương pháp đã trở thành phổ
biến trong các trường học ở Hoa Kỳ. Một chương trình học của trường trung
học cơ sở (middle school) của Hoa Kỳ đã đặt mục tiêu về phương pháp lên
hàng đầu như sau:
Chương trình học thuật của trường trung học cơ sở nhấn mạnh các kỹ
năng phát triển thông qua các khoá trình khoa học, tìm hiểu xã hội,
đọc, toán và nghệ thuật ngôn ngữ. Một chuỗi các kỹ năng được xác
định rõ có thể sử dụng như sự hướng dẫn cơ bản trong tất cả các
trường ở mỗi khu vực, bao gồm giáo dục thể chất, sức khoẻ, hướng
dẫn và các hoạt động giáo dục khác. Các cơ hội khám phá được cung
cấp thông qua các chương trình câu lạc bộ được xác định rõ và tổ
chức tốt, các chương trình hoạt động, các khoá trình chuyên biệt theo
sở thích; nhờ đó tạo cho học sinh những cơ hội giao tiếp xã hội, kinh
qua cuộc sống dân chủ, khám phá các lĩnh vực không có trong yêu
cầu của chương trình học, tiến hành việc học tập và nghiên cứu độc
lập, phát triển và thực hành việc ứng xử có trách nhiệm và kinh
nghiệm làm việc với các nhóm lứa tuổi khác nhau. [Dẫn theo
136,tr.276].
Mục tiêu nêu trên cho thấy trọng tâm của nó đặt ở các phương pháp phát
triển các kỹ năng tư duy, phát hiện và khám phá, nghiên cứu và học tập độc
104
lập, luyện tập và thực hành, làm việc theo nhóm. Một cuốn sổ tay hướng dẫn
của Hội đồng Trường học thành phố South Bend (1949) đã đề ra các mục tiêu
sau đây cho nhà trường:
Trẻ em cần được học như thế nào?
1) Tìm thông tin từ nhiều nguồn và xét đoán giá trị của nó.
2) Cấu tạo các sự kiện và hình thành những sự khái quát hoá dựa trên
các sự kiện.
3) Thảo luận dựa trên các sự kiện được đưa ra để đi đến những sự
khái quát hoá hoặc kết luận.
4) Hoạch định, đưa ra các kế hoạch, đánh giá công việc và kế hoạch.
5) Chấp nhận trách nhiệm khi tham gia vào đời sống.
6) Phát triển một tập hợp các giá trị để phán xét các hành động đúng
hoặc sai. [Dẫn theo 132,tr.229].
Rõ ràng các mục tiêu nêu trên được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp
dạy học nhằm phát triển khả năng và kỹ năng tư duy. Trong trường hợp này,
nội dung kiến thức (bao gồm các thông tin, các sự kiện, các giá trị) trở thành
chất liệu và phương tiện để thực hiện phương pháp. Các dẫn chứng nêu trên
cho thấy sự chi phối sâu sắc của phương pháp và tổ chức đối với mục tiêu giáo
dục.
Phương pháp chuyển thành Mục tiêu
Sự chi phối của phương pháp và tổ chức đối với mục tiêu, đến một mức
độ nào đó sẽ dẫn tới việc chuyển phương pháp thành mục tiêu giáo dục. Taba
(1962) nói: “Vì giáo dục không chỉ bao gồm việc làm chủ nội dung, nên các
mục tiêu cũng cần đáp ứng để làm sáng tỏ các kiểu khả năng trí tuệ hoặc những
năng lực tư duy khác cần được phát triển.” [132,tr.198]. Nói như vậy có nghĩa
là sự phát triển các khả năng và kỹ năng tư duy cần được thể hiện trong mục
tiêu giáo dục. Mà phát triển khả năng và kỹ năng tư duy chính là một loại hình
105
tổ chức dạy học được thực hiện thông qua các phương pháp tiếp cận gián tiếp,
như dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát hiện và khám phá... Bởi thế, nói
cách khác, đó chính là việc chuyển phương pháp thành mục tiêu giáo dục.
Trở lại với “Khuôn khổ vận hành Công nghệ hữu hiệu trong Trường học”
được công bố vào năm 2000, có thể nhận thấy rằng phương pháp hướng dẫn tự
học bằng máy tính đã được chuyển thành mục tiêu giáo dục:
Trước khi kết thúc lớp 2, học sinh phải: sử dụng được các công cụ
nhập dữ liệu ở đầu vào (con chuột, bàn phím, remote control) và các
công cụ phục vụ đầu ra (monitor, máy in) để vận hành máy tính,
VCRs, băng đĩa, điện thoại và các phương tiện kỹ thuật khác (...).
Trước khi kết thúc lớp 5, học sinh phải: sử dụng được các nguồn
công nghệ thông tin (máy tính, máy dò, video, phần mềm giáo dục)
để giải quyết vấn đề, tự định hướng học tập và các hoạt động mở
rộng học tập (...).
Trước khi kết thúc lớp 8, học sinh phải: có thể nghiên cứu và đánh
giá được tính chính xác, thích hợp, thích đáng, toàn diện và xu hướng
trong các nguồn thông tin điện tử có liên quan đến các vấn đề của thế
giới thực tế (...).
Trước khi kết thúc lớp 12, học sinh phải: xác định được khả năng và
hạn chế của các nguồn kỹ thuật công nghệ hiện đại đang phát triển,
và đánh giá được khả năng tiềm tàng của các hệ thống này cùng các
dịch vụ nhắm đến những nhu cầu ở nơi làm việc (...). [Dẫn theo
136,tr.212-213].
Các mục tiêu này đã thể hiện rất cụ thể và rõ ràng những trình độ khác
nhau về phương pháp sử dụng máy tính mà học sinh phải đạt được qua từng
cấp lớp. Tương tự như vậy, các phương pháp khác như phát triển các kỹ năng
tư duy, phát hiện và khám phá, tiếp cận độc lập... điều có thể chuyển thành mục
106
tiêu giáo dục khi cần. Phương pháp dạy học theo nhóm thường được chuyển
thành mục tiêu làm việc theo nhóm (working with groups), một mục tiêu hết
sức quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội công nghiệp hiện
đại.
Nói chung, quan hệ giữa Mục tiêu với Phương pháp và tổ chức là mối
quan hệ tương tác giữa hai yếu tố: mục tiêu định hướng và hướng dẫn cho
phương pháp và tổ chức; đồng thời phương pháp và tổ chức cũng chi phối mục
tiêu và có thể chuyển thành mục tiêu giáo dục.
2.3. Quan hệ giữa Nội dung với Phương pháp và tổ chức
Nội dung chuyên môn (hay nội dung môn học) là phương tiện để thực
hiện mục tiêu giáo dục, chịu sự chi phối của mục tiêu và tác động trở lại mục
tiêu trong mối quan hệ tương tác. Bên cạnh đó, quan hệ giữa Nội dung với
Phương pháp và tổ chức cũng là mối quan hệ bình đẳng giữa hai yếu tố cơ bản
của quá trình giáo dục. Tùy theo kiểu chương trình và loại hình tổ chức dạy
học được áp dụng mà Nội dung sẽ chi phối Phương pháp và tổ chức, hay ngược
lại chính Phương pháp và tổ chức sẽ chi phối Nội dung. Vì vậy, đây cũng là
mối quan hệ tương tác.
2.3.1. Nội dung chi phối Phương pháp và tổ chức
Các kiểu Chương trình học chú trọng Nội dung
Các kiểu chương trình học cổ điển và các loại hình dạy học truyền thống
luôn luôn chú trọng trước hết đến nội dung chuyên môn, chủ yếu là nội dung
kiến thức. Các nhà giáo dục Hoa Kỳ xếp vào đây các kiểu chương trình tự hiện
thực hoá, chương tái cấu trúc xã hội và chương trình duy lý hàn lâm. Các kiểu
chương trình này đều có các loại hình dạy học tương ứng đi kèm. Các kiểu
chương trình và loại hình dạy học này luôn luôn coi phương pháp và tổ chức
107
chỉ là phương tiện để truyền tải nội dung chuyên môn, chủ yếu là nội dung kiến
thức cho học sinh.
- Chương trình tự hiện thực hoá (Curriculum as Self - Actualization)
Kiểu chương trình này đặt mục tiêu chủ yếu là phát triển nhân cách con
người. Chương trình học được coi là phương tiện để con người tự hiện thực
hoá nhân cách. Do đó, chức năng cơ bản của chương trình học là cung cấp cho
học sinh những giá trị và những kinh nghiệm đã hoàn thiện của nhân loại, được
chọn lọc một cách có chủ ý, để thỏa mãn những nhu cầu phát triển nhân cách
hài hoà cho mỗi cá nhân. Với tất cả những gì đã được cung cấp, mỗi cá nhân
học sinh sẽ có phương tiện để tự phát hiện về bản thân mình, tự hoàn thiện và
phát triển nhân cách của mình một cách độc lập. Với mục tiêu, chức năng và
hiệu lực như trên, kiểu chương trình này đặc biệt chú trọng đến những gì được
dạy trong nhà trường, tức là chú trọng trước hết đến nội dung kiến thức. [Xem
98,tr.9-10].
- Chương trình tái cấu trúc xã hội (Curriculum for social reconstruction -
relevance)
Xuất phát từ quan điểm truyền thống coi giáo dục là phương tiện để cải
tạo xã hội, kiểu chương trình này đặt mục tiêu cải cách xã hội và định hướng
phát triển tương lai của xã hội lên hàng đầu. Đối với kiểu chương trình này,
theo cách diễn đạt của W.E. Eisner và E. Vallance (1974), “nhà trường được
nhìn nhận và đáp ứng với vai trò của một chiếc cầu nối giữa những gì là và
những gì có thể là, giữa hiện thực và lý tưởng” và “việc dạy học được coi là sức
kéo làm sao cho xã hội có thể thay đổi chính nó” [98,tr.11]. Do các quan điểm
như trên, kiểu chương trình này coi các vấn đề xã hội và sự biến đổi của nó như
một bối cảnh trọng yếu với sự phát triển con người. Vì vậy, kiểu chương trình
này ưu tiên cho việc cung cấp những kiến thức đáp ứng nhu cầu xã hội và việc
108
cải tạo xã hội, rồi mới đến những gì đáp ứng nhu cầu cá nhân, để giúp họ sống
trong một thế giới luôn thay đổi và không bền vững. [Xem 98,tr.10-12].
- Chương trình duy lý hàn lâm (Curriculum as Academic Rationism)
Duy lý hàn lâm là kiểu chương trình học truyền thống cổ điển nhất khởi
phát từ châu Âu. Chương trình này quan tâm trước hết đến việc giúp cho thế hệ
trẻ có được những công cụ để tham gia vào đời sống văn hoá truyền thống
phương Tây, và việc tạo nên đường lối dẫn vào những mục tiêu và những tư
tưởng lớn nhất mà con người đã tạo ra được. Với định hướng như vậy, kiểu
chương trình này không cho phép nhà trường đưa vào giảng dạy mọi điều cần
thiết, kể cả những gì đã được coi là rất có giá trị. Chức năng chính thống của
chương trình học và của nhà trường là truyền bá văn hoá theo nghĩa chuyên
biệt nhất: trau dồi trí tuệ trẻ em bằng cách cung cấp cho chúng những cơ hội để
có thể tiếp nhận các sản phẩm lành mạnh nhất của trí tuệ con người. Hầu hết
các sản phẩm này được tìm kiếm ở các bộ môn đã được thiết lập, trong đó chú
trọng các môn học cổ điển, khởi đầu là văn minh Hy Lạp cổ và các di sản văn
hoá khác. [Xem 98,tr.12].
Cả ba kiểu chương trình học nêu trên đều chú trọng trước hết đến nội
dung kiến thức, coi nội dung là phương tiện chủ yếu của quá trình giáo dục, coi
phương pháp và tổ chức chỉ là phương tiện để truyền thụ nội dung cho người
học và chịu sự chi phối của nội dung.
Sự chi phối của Nội dung đối với Phương pháp và tổ chức
Các kiểu chương trình học trên luôn luôn có các loại hình dạy học thích
hợp tương ứng với chúng, được thể hiện qua các phương pháp dạy học cụ thể.
Bất kể loại hình dạy học nào được áp dụng cho các chương trình kiểu này, thì
nội dung chuyên môn cũng đều chi phối các phương pháp dạy học. Như vậy,
phương pháp dạy học (bao gồm cả những khía cạnh về tổ chức) cùng một lúc
109
chịu sự chi phối của mục tiêu (đã trình bày ở mục 2.2.1) và nội dung. Tuy
nhiên, đối với các kiểu chương trình học này, sự chi phối trực tiếp của mục tiêu
đối với phương pháp không nhiều, nên nội dung trở thành yếu tố chi phối chủ
yếu đối với phương pháp trong quá trình giáo dục. Chính nội dung sẽ là cơ sở
để lựa chọn phương pháp dạy học. Theo A.C. Ornstein và T.J. Lasley II (2000),
đối với mỗi nội dung chuyên môn cần giảng dạy, giáo viên phải trả lời được
các câu hỏi sau: “Quý vị sẽ sử dụng những phương pháp nào? Tai sao? Việc sử
dụng những phương pháp đó đem lại những kết quả gì? Khi nào thì những
phương pháp này được sử dụng có hiệu quả nhất? Làm thế nào để các phương
pháp này vận hành được đối với loại hình dạy học riêng của quý vị?”
[126,tr.172]. Giải đáp được đầy đủ các câu hỏi này tức là giáo viên đã lựa chọn
được đúng phương pháp thích hợp.
Để giúp giáo viên trong việc lựa chọn phương pháp thích ứng với nội
dung, hai ông đưa ra công thức “nếu - thì” (if - then). Thí dụ: nếu nội dung là
những ý tưởng khái niệm phức tạp, thì dùng phương pháp giảng bài, nếu muốn
kiểm tra nội dung kiến thức đã có của học sinh, thì dùng các hình thức câu hỏi
khác nhau; nếu cần củng cố quá trình hoặc kỹ năng chuyên biệt của kiến thức,
thì dùng phương pháp thực hành và luyện tập; nếu muốn bồi dưỡng tư duy phê
phán hay sáng tạo, thì nhấn mạnh phương pháp giải quyết vấn đề và tiếp cận
thí nghiệm... [Xem 126,tr.173-208]. Lẽ dĩ nhiên, công thức này có thể vận
dụng cho mọi kiểu chương trình học cũng như tất cả các loại hình dạy học
tương ứng. Nó thể hiện sự chi phối của cả nội dung lẫn mục tiêu đối với
phương pháp dạy học. Riêng đối với ba kiểu chương trình học được xem xét ở
đây, công thức này cho thấy rõ sự chi phối chặt chẽ của nội dung đối với
phương pháp. Dù muốn hay không, các kiểu chương trình này gần gũi với
loại hình dạy học truyền thống, trong đó giáo viên là người truyền thụ nội
dung kiến thức để học sinh lĩnh hội chúng. Với loại hình dạy học này, các
110
phương pháp tiếp cận trực tiếp luôn luôn chiếm ưu thế (giảng bài, phát vấn,
thực hành và luyện tập...). Bên cạnh đó, các loại hình dạy học cá thể hoá,
dạy học theo trình độ, dạy học hợp tác, dạy học lấy học sinh làm trung tâm
với những phương pháp đặc thù của chúng cũng có thể được vận dụng ở một
mức độ nào đó.
2.3.2. Phương pháp và tổ chức chi phối Nội dung
Các kiểu chương trình học chú trọng phương pháp
Bên cạnh những kiểu chương trình chú trọng nội dung có tính truyền
thống kể trên, các kiểu chương trình học chú trọng phương pháp đang ngày
càng phát triển và chiếm ưu thế trong giáo dục hiện đại. Đó là chương trình
phát triển quá trình nhận thức, chương trình công nghệ giáo dục...
- Chương trình phát triển quá trình nhận thức (Curriculum as the
Development of Cognitive Processes)
Như tên gọi của nó, kiểu chương trình học này coi nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục là phát triển quá trình nhận thức của con người. Do đó, nó quan tâm
trước hết đến việc tinh chế các hoạt động trí tuệ. Nhằm phát triển một loại công
nghệ của tâm trí, nó coi vấn đề trung tâm của chương trình học là mài sắc các
quá trình trí tuệ và phát triển một tập hợp những kỹ năng nhận thức, để có thể
áp dụng vào việc học tập đối với hầu hết các loại tri thức bất kỳ nào. Với bản
chất như vậy, kiểu chương trình học này chú trọng vào vấn đề dạy học như thế
nào (phương pháp) hơn là dạy học cái gì (nội dung). Theo E.V. Vallance
(1974), “kiểu chương trình học này có hai hướng tiếp cận: nó gắn với mục tiêu
giáo dục khi cung cấp một nguồn vốn cơ bản của những kỹ năng nhận thức độc
lập với nội dung và thích ứng với những tình hình đa dạng, đồng thời nó quan
tâm đến sự hiểu biết về những quá trình trí tuệ mà nhờ đó việc học tập được
tiến hành trong lớp học” [98,tr.6].
- Chương trình công nghệ giáo dục (Curriculum as Educational Technology)
111
Theo R.M. Gagné (1974), “công nghệ giáo dục có thể được hiểu theo
nghĩa là sự phát triển của một tập hợp những kỹ thuật có tính hệ thống, gắn liền
với kiến thức thực tiễn, để thiết kế, khảo sát và vận hành nhà trường như là
những hệ thống giáo dục” [98,tr.51]. Như vậy, công nghệ giáo dục có thể được
coi là công trình giáo dục mang tính kỹ thuật.
Xuất phát từ định nghĩa trên, kiểu chương trình công nghệ giáo dục có
chức năng chủ yếu là tìm kiếm và tổ chức những phương tiện có hiệu lực đối
với việc thực hiện các mục tiêu giáo dục được xác định trước và có thể đạt
được. Giống như kiểu chương trình phát triển quá trình nhận thức, kiểu chương
trình này chú trọng đến việc dạy học “như thế nào” hơn là dạy học “cái gì”. Tuy
nhiên, giữa hai kiểu chương trình học này có một sự khác biệt rõ ràng. Chương
trình công nghệ giáo dục không chú trọng nhiều đến việc phát triển các quá
trình trí tuệ và những kỹ năng nhận thức của người học, mà đặt trọng tâm chú ý
vào công nghệ (với các phương tiện và công cụ của nó) mà nhờ đó kiến thức
được truyền thông, khiến cho việc học tập được thực hiện một cách dễ dàng
[xem 98,tr.7-8].
Cả hai kiểu chương trình học nói trên đều có những loại hình dạy học mới
tương ứng với chúng. Nếu như kiểu chương trình phát triển quá trình nhận thức
được thể hiện chủ yếu qua loại hình dạy học phát triển khả năng và kỹ năng tư
duy, thì kiểu chương trình công nghệ giáo dục tạo ra công nghệ dạy học riêng
cho nó, kết hợp chặt chẽ với loại hình dạy học vi tính hoá. Cho đến nay, cả hai
kiểu chương trình học này đều thích hợp với loại hình dạy học lấy học sinh làm
trung tâm. Các loại hình dạy học thích ứng với hai kiểu chương trình học này
đều chú trọng các phương pháp tiếp cận gián tiếp và tiếp cận độc lập.
Nói chung, trong các kiểu chương trình và loại hình dạy học chú trọng
phương pháp, chính phương pháp dạy học sẽ chi phối nội dung môn học được
lựa chọn cho chương trình học.
112
Sự chi phối của Phương pháp đối với Nội dung
Đối với các kiểu chương trình học chú trọng phương pháp và các loại hình
dạy học tương ứng với chúng, thì nội dung chuyên môn sẽ chịu sự chi phối
đồng thời của mục tiêu và phương pháp.
Kiểu chương trình phát triển quá trình nhận thức luôn đặt mục tiêu hàng
đầu là rèn luyện các khả năng và kỹ năng trí tuệ cho học sinh, bao gồm những
kỹ năng giải quyết vấn đề, những kỹ năng hình thành khái niệm, khả năng phán
xét và phân loại, khả năng liên kết nguyên nhân và hiệu quả, khả năng đưa ra
những kết luận có giá trị. Để đạt được các mục tiêu đó, các nhà giáo dục phải
vận dụng loại hình dạy học phát triển khả năng và kỹ năng tư duy, kết hợp với
một số loại hình khác được thực hiện chủ yếu bằng những phương pháp tiếp
cận gián tiếp: dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát hiện và khám phá, dạy học
theo nhóm, dạy học qua hành động...
Tương tự như vậy, kiểu chương trình công nghệ giáo dục và các loại hình
dạy học tương ứng với nó cũng đòi hỏi các phương pháp tiếp cận gián tiếp và
tiếp cận độc lập.
Nếu so sánh giữa các kiểu chương trình và loại hình dạy học chú trọng nội
dung (chủ yếu sử dụng các phương pháp tiếp cận trực tiếp) với các kiểu
chương trình và loại hình dạy học chú trọng phương pháp (chủ yếu sử dụng các
phương pháp tiếp cận gián tiếp và tiếp cận độc lập), có thể thấy rõ sự khác
nhau về phương pháp dạy học cần áp dụng là do mục tiêu giáo dục quy định.
Các phương pháp tiếp cận khác nhau lại dẫn tới sự khác biệt đến mức trái
ngược nhau về những ứng xử và phản hồi của học sinh trong quá trình học tập.
Chính A.C. Ornstein và T.J. Lasley II (2000) đã khẳng định: “Sự khác biệt giữa
phương pháp tiếp cận đòi hỏi học sinh đưa ra câu trả lời có sẵn với phương
pháp tiếp cận yêu cầu các em tự tìm kiếm câu trả lời thích hợp có thể được tóm
lược như sau: phương pháp giảng bài trái với (versus) dạy học bằng thí nghiệm,
113
tiếp cận trực tiếp trái với dạy học phát hiện và khám phá, học tập dựa trên nội
dung trái với học tập dựa trên quá trình” [126,tr.202]. Điều đó cho thấy rằng
các phương pháp dạy học khác nhau khó có thể thực hiện trong cùng một nội
dung như nhau. Mỗi phương pháp cần có một dạng thức nội dung thích hợp
tương ứng với nó. Đây chính là sự chi phối của phương pháp đối với nội dung.
Sự chi phối này được thể hiện chủ yếu qua việc lựa chọn nội dung thích hợp và
việc tổ chức nội dung kiến thức phù hợp với phương pháp dạy học.
- Phương pháp đòi hỏi việc lựa chọn Nội dung thích hợp
Đối với các kiểu chương trình và loại hình dạy học chú trọng nội dung,
việc lựa chọn nội dung hầu như chỉ do mục tiêu quy định, còn phương pháp
chủ yếu do nội dung chi phối. Vì vậy, việc phương pháp đòi hỏi lựa chọn nội
dung thích hợp với nó rất ít khi được đặt ra. Các kiểu chương trình và loại hình
dạy học này thường dựa vào các môn học sẵn có để lựa chọn nội dung, và các
phương pháp tiếp cận trực tiếp luôn có vai trò chủ đạo. Các phương pháp tiếp
cận khác chỉ có thể thực hiện khi nội dung môn học cho phép.
Nhưng đối với các kiểu chương trình và loại hình dạy học chú trọng
phương pháp thì lại khác. Do việc phát triển quá trình nhận thức cho học sinh
và việc trao cho các em những công cụ của một công nghệ để tự mình khám
phá ra tri thức được đặt thành mục tiêu chủ yếu, việc dạy phương pháp cho học
sinh trở nên quan trọng hơn việc cung cấp kiến thức cho các em. Vì vậy, chính
phương pháp được áp dụng sẽ đòi hỏi việc lựa chọn nội dung thích hợp với nó.
Từ những sự phân tích ở trên, có thể nhận biết sự khác biệt giữa nội dung
đòi hỏi các phương pháp tiếp cận trực tiếp với nội dung đáp ứng yêu cầu của
các phương pháp tiếp cận gián tiếp. Đối chiếu với những nội dung đòi hỏi các
phương pháp tiếp cận trực tiếp, các phương pháp tiếp cận gián tiếp và độc lập
cần lựa chọn các nội dung mang những đặc điểm sau:
114
Thứ nhất, sự lựa chọn nghiêng về những nội dung được trình bày dưới
dạng thông tin để học sinh xử lý, hơn là những nội dung chỉ chứa đựng những
giá trị sẵn có cho việc lĩnh hội một cách giản đơn. Thí dụ: cung cấp nội dung
các dữ liệu lịch sử để học sinh tự mình xử lý và rút ra kết luận thích đáng hơn
là đưa ra những kết luận đã được định sẵn để các em học thuộc lòng.
Thứ hai, những nội dung kiến thức chứa đựng tình huống có vấn đề cần
giải quyết sẽ được lựa chọn thay cho những nội dung được trình bày trọn vẹn
để học sinh chỉ còn việc tiếp thu. Việc lựa chọn theo đặc điểm này là điều dĩ
nhiên đối với phương pháp dạy học dựa trên vấn đề. Bởi vì chỉ những nội dung
như vậy mới có thể phát huy được phương pháp dạy học này.
Thứ ba, những nội dung kiến thức được lựa chọn cho các phương pháp
tiếp cận gián tiếp và độc lập thường được giảm bớt bề rộng để tăng thêm chiều
sâu so với những nội dung đòi hỏi các phương pháp tiếp cận trực tiếp. Theo
A.C. Ornstein và T.J. Lasley II (2000), việc áp dụng các phương pháp tiếp cận
gián tiếp “như là một sự tiếp cận tốn thời gian, vì vậy nó giới hạn phạm vi bao
quát nội dung”, “có nghĩa là làm chậm xuống quá trình dạy học và học nội dung
theo chiều sâu” [126,tr.202,203].
- Phương pháp đòi hỏi tổ chức lại Nội dung
Không chỉ lựa chọn nội dung thích hợp, phương pháp còn đòi hỏi việc tổ
chức lại nội dung cho phù hợp với nó. Đối với kiểu chương trình và loại hình
dạy học chú trọng nội dung, các phương pháp tiếp cận trực tiếp thường dựa
trên nội dung của các môn học sẵn có, được tổ chức theo hệ thống kiến thức
của từng bộ môn, có đối chiếu với mục tiêu giáo dục. Nhưng khi muốn áp dụng
các phương pháp tiếp cận gián tiếp hay độc lập, các nhà giáo dục và giáo viên
cũng phải ít nhiều tổ chức lại nội dung kiến thức của môn học đó, theo những
đặc điểm mà các phương pháp này đòi hỏi: trình bày kiến thức dưới dạng thông
115
tin dữ liệu, đưa ra tình huống có vấn đề, cắt giảm bề rộng để đi vào chiều sâu
của nội dung kiến thức...
Nhưng đối với kiểu chương trình và loại hình dạy học chú trọng phương
pháp, trong đó các phương pháp tiếp cận gián tiếp và độc lập đóng vai trò chủ
đạo, thì việc tổ chức nội dung kiến thức vượt khỏi giới hạn của từng bộ môn,
để tạo nên những nội dung tích hợp từ nhiều loại kiến thức của các bộ môn
phối hợp với nhau trong một khuôn khổ nhất định.
Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề (bao gồm phương pháp giải quyết
vấn đề, dạy học theo đề án...) đòi hỏi việc phối hợp kiến thức các bộ môn tạo
nên những nội dung tích hợp trong một chủ đề (topic), một đề tài hay dự án
(project). Đó chính là việc tổ chức lại nội dung theo đòi hỏi của phương pháp,
bằng cách tích hợp các kiến thức khác nhau từ những môn học khác nhau trong
một khuôn khổ mới là chủ đề, đề tài hay dự án đó. P.H. Hirst và R.S. Peters
(1974) khẳng định rằng: trong bối cảnh của đời sống hàng ngày cũng như trong
những tình huống kỹ thuật, việc dạy cho học sinh các phương pháp tích hợp
kiến thức để đưa ra những phán xét đúng là cực kỳ quan trọng. Vì vậy, “giáo
dục tất yếu phải đòi hỏi một sự tích hợp kiến thức và hiểu biết từ nhiều lĩnh
vực khác nhau” [98,tr.190].
Trên thực tế, những đòi hỏi của phương pháp không chỉ dẫn tới sự tích
hợp nội dung kiến thức, mà còn dẫn tới sự tích hợp chương trình học
(curriculum integration) [xem 98,tr.188-191]. Trong khi so sánh với các
phương pháp tiếp cận trực tiếp (cung cấp kiến thức cho học sinh), A.C.
Ornstein và T.J. Lasley II (2000) khẳng định các phương pháp tiếp cận gián
tiếp hay độc lập (giúp học sinh tự xây dựng được kiến thức cho mình) có hiệu
lực cá nhân hơn đối với học sinh và trang bị cho các em “khả năng tích hợp học
vấn trong một trí nhớ dài hạn dễ dàng hơn, bởi vì chính người học tự tạo ra, tự
dự đoán và đánh giá nội dung” [126,tr.202]. Tuy nhiên, hai ông không phủ
116
nhận hiệu lực tích cực của các phương pháp tiếp cận trực tiếp trong những
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể cũng như mối quan hệ giữa các phương pháp
tiếp cận này với các phương pháp tiếp cận khác. Vấn đề then chốt đối với thành
công của việc dạy học là chọn đúng thời điểm và điều kiện để áp dụng các
phương pháp tiếp cận cần thiết. Vì vậy, việc tổ chức lại nội dung theo sự đòi
hỏi của phương pháp không thể thực hiện một cách máy móc hay áp đặt. Việc
đó phụ thuộc vào “sự vận dụng tính đa dạng của các phương pháp tiếp cận của
giáo viên” [126,tr.203].
2.4. Quan hệ giữa Đánh giá với các yếu tố cơ bản khác
Ba mục trên trong phần 1.2 đã trình bày mối quan hệ giữa Mục tiêu với
Nội dung, Mục tiêu với Phương pháp và tổ chức, Nội dung với Phương pháp
và tổ chức. Mục này sẽ trình bày mối quan hệ giữa Đánh giá với Mục tiêu, Nội
dung, Phương pháp và tổ chức.
Giữa Đánh giá với các yếu tố khác trong quá trình giáo dục có mối quan
hệ hết sức mật thiết. Đúng như Hillda Taba (1962) đã nhận định: “Mỗi cách
thức đánh giá như thế nào đó, sẽ chỉ dẫn cho quá trình học tập diễn ra theo một
cách thức tương ứng. Phạm vi của đánh giá sẽ xác định những loại hình gì hoặc
những trình độ nào của học vấn được chú trọng, bất kể những gì được thể hiện
trong chương trình học” [132,tr.313]. Mối quan hệ này sẽ được thể hiện từ chức
năng vai trò của đánh giá trong quá trình giáo dục.
2.4.1. Chức năng và vai trò của Đánh giá
Chức năng của Đánh giá
Từ góc độ của một nhà xây dựng chương trình học, Hilda Taba (1962) đã
phân tích ba chức năng của đánh giá như sau [xem 132,tr.313-316]:
- Chức năng thứ nhất: “Có lẽ chức năng thông dụng và chủ yếu nhất của
đánh giá là xác minh những giả thuyết được dùng làm cơ sở để xây dựng
117
chương trình học” [132,tr.314]. Taba chỉ rõ rằng tất cả các kế hoạch chương
trình và các loại hình tiếp cận dạy học mới được thiết kế đều chỉ là các giả
thuyết (hyprotheses) mà hiệu quả của chúng cần phải được kiểm chứng. Điều
đó xuất phát từ thực tế: khi thực hiện việc xây dựng hay đổi mới một chương
trình học, người ta dựa trên vô số những điều giả định chưa được thử nghiệm
đầy đủ ngay trong cốt lõi của các chương trình học đó. Thậm chí một số niềm
tin có vẻ hiển nhiên nhưng thực chất vẫn là giả thuyết nếu chưa được xác minh,
như hình học dạy cho học sinh phát triển óc suy luận, lịch sử phải sắp xếp theo
lịch đại để có được nhận thức về thời gian, khả năng trí tuệ có thể tự động phát
triển như một sản phẩm phụ của việc thu nhận thông tin có hệ thống... Những
câu hỏi như nội dung và tư liệu nào được lựa chọn và chúng được tổ chức như
thế nào để đem lại kết quả học tập tốt?, kiểu tổ chức nội dung nào là có hiệu
quả nhất trong việc phát triển khả năng tích hợp kiến thức?, đâu là những ưu
thế trong việc vận dụng lý thuyết tập hợp để dạy toán?... đều không thể trả lời
đầy đủ nếu chỉ dựa trên trực giác về những gì diễn ra qua quá trình học tập.
Những vấn đề do thực tiễn đặt ra như trên cho thấy rằng: mọi chương
trình học được xây dựng cũng như mọi kế hoạch đổi mới chương trình đều phải
được xác minh một cách khoa học mới có thể trở thành những chương trình
thực sự có hiệu lực. Việc kiểm chứng để xác minh những giả thuyết được dùng
làm cơ sở xây dựng chương trình học chính là chức năng của đánh giá. Khi
thực hiện chức năng này, “đánh giá không chỉ phục vụ cho việc kiểm chứng
những giả thuyết làm chỗ dựa của chương trình học, mà còn phát hiện thêm
những tác động rộng hơn của một chương trình có thể đáp ứng mục tiêu chủ
yếu của nó, nhưng đồng thời lại tạo ra những hậu quả phụ ngoài ý muốn.”
[132,tr.315].
118
- Chức năng thứ hai: “cung cấp thông tin về những mặt mạnh và những
mặt yếu của chương trình học qua việc đánh giá những điểm mạnh và điểm
yếu trong thành quả học tập của học sinh” [132,tr.315].
Sau khi đã xác minh đầy đủ các giả thuyết, chương trình học trở nên có
hiệu lực, nhưng vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định nó có đem lại hiệu quả tốt
hay không và tốt đến mức nào. Một chương trình học hay một loại hình dạy
học có hiệu lực vẫn có thể bộc lộ những khiếm khuyết có tính hệ thống đối với
một số loại hình kết quả đạt được. Vì vậy, cần có thông tin về những điều kiện
tiên quyết trong những lĩnh vực cụ thể của việc dạy học để học sinh có thể đạt
hoặc không đạt yêu cầu, về trình độ của các khái niệm và kỹ năng mà các em
có thể nắm bắt để xác định mức độ đề cập đến chúng là bao nhiêu, về những
lĩnh vực của học vấn cần được chú ý đặc biệt... Bên cạnh đó, những thông tin
về sự đa dạng trong thành quả học tập của các cá nhân học sinh cũng hết sức
cần thiết. Một học sinh lĩnh hội được đầy đủ các thông tin cần thiết vẫn có thể
yếu kém về tư duy phê phán đối với các ý tưởng. Một học sinh nắm được
những tri thức khái quát hoá vẫn có thể bộc lộ sự mâu thuẫn trong tư duy khi
cần liên kết các quan điểm liên quan đến các giá trị và những quan điểm cần
tranh luận.
Tất cả những thông tin nói trên chỉ có thể tìm được qua việc đánh giá quá
trình học tập và kết quả đạt được của học sinh. Các thông tin đó thể hiện rõ
những điểm mạnh và những điểm yếu trong thành quả học tập của học sinh, sẽ
trở thành dữ liệu của những công trình đánh giá chương trình học, để phán xét
những mặt mạnh và mặt yếu của chương trình học đó. Thí dụ, công trình
nghiên cứu của G.T. Buswell và B.Y. Hersh (1956) đã chỉ ra rằng chương trình
toán học đương thời của nhà trường phổ thông Hoa Kỳ là một chương trình yếu
kém đối với mục tiêu phát triển các khả năng giải quyết vấn đề của học sinh
[xem 132,tr.315].
119
Mọi chương trình học hay loại hình dạy học đều phải liên tục cải tiến và
hoàn thiện dựa trên những thông tin từ các công trình đánh giá. Bởi thế, chức
năng cung cấp thông tin của đánh giá là hết sức quan trọng.
- Chức năng thứ ba: “đánh giá để cung cấp loại bằng chứng có thể được
dùng để chấm điểm, xếp hạng và báo cáo thành quả học tập một cách thỏa
đáng” [132,tr.315-316]. Đây là chức năng được áp dụng rộng rãi nhất trong nhà
trường và thiết thực nhất đối với giáo viên. Việc chấm điểm và xếp hạng thành
quả học tập của học sinh dựa trên những bằng chứng xác đáng do các phương
tiện và công cụ đánh giá cung cấp, sẽ trở nên khách quan, thỏa đáng và sát
đúng với thực chất hơn, so với những điểm số hay thứ hạng được xác định từ
những nhận định ít nhiều có phần cảm tính và chủ quan của giáo viên. Những
dữ liệu đánh giá thỏa đáng luôn có khả năng khuyến khích học tập hơn so với
một điểm số hay một thứ hạng đơn độc.
Hilda Taba (1962) khẳng định rằng: “đánh giá thực chất là yếu tố chỉ đạo
sự vận hành chương trình học, bởi vì giáo viên luôn chú trọng đến những gì mà
họ có thể đánh giá được, còn học sinh thì chú trọng đến những gì mà họ biết là
sẽ bị kiểm tra” [132,tr.315].
Vai trò của Đánh giá
Từ góc độ đánh giá thành quả dạy học (assessing academic achievement),
các nhà giáo dục Hoa Kỳ vạch rõ vai trò của đánh giá trong quá trình giáo dục.
J.A. Belk và G.J. Calais (1993) phát biểu như sau: “Đánh giá chính là một bộ
phận cấu thành không thể thiếu của chương trình học. Nó cung cấp cho giáo
viên một phương tiện để xác định không chỉ sự tiến bộ của trẻ em, mà cả
những mục đích và mục tiêu của chương trình, cũng như những phạm vi mà
các phương pháp dạy học giúp cho trẻ em đạt được những mục tiêu này” [dẫn
theo 133,tr.17]. Theo quan điểm đó, D.E. Tanner (2001) đã nêu lên bốn vai trò
cụ thể của đánh giá như sau:
120
1) Đo lường những thành quả mà học sinh đạt được theo các mục
tiêu của chương trình và của việc dạy học,
2) xác định những gì mà học sinh biết và cần,
3) sửa đổi việc dạy học trên cơ sở các dữ liệu đánh giá, và
4) nhận định và có thể so sánh việc thực hiện của các học sinh.
[133,tr.17].
Với những chức năng và vai trò được trình bày như trên, có thể nhận thấy
đánh giá vừa đảm nhiệm việc chấm điểm và xếp hạng về thành quả học tập của
học sinh, lại vừa là một phương tiện để cải tiến việc dạy học, xem xét lại các
mục tiêu giáo dục và hoàn thiện các chương trình học nói chung. Chính vì vậy,
trong mọi quá trình giáo dục, yếu tố đánh giá không tồn tại đơn độc, mà luôn
có các mối quan hệ liên kết với các yếu tố cơ bản khác. Đúng như D.E. Tanner
(2001) đã nhận định: “Đánh giá có thể được coi là một “chất keo” để gắn kết
các bộ phận hợp thành khác trong kế hoạch giáo dục lại với nhau, và khi nó
được thực hiện thích đáng, đánh giá tạo nên khả năng làm cho mỗi phần của
quá trình giáo dục trở nên có hiệu quả hơn” [133,tr.18]. Một cách cụ thể hơn,
ông nhấn mạnh: “Bên cạnh việc chỉ rõ các trình độ thực hiện của học sinh, các
dữ liệu đánh giá có thể làm bộc lộ sự xác đáng của các mục tiêu, sự chính xác
trong những giả định của chúng ta về kiến thức học sinh, hoặc hiệu quả của các
phương pháp dạy học, và nhiều điều tương tự như vậy” [133,tr.20].
Nói chung, đánh giá có mối quan hệ liên kết chặt chẽ với mục tiêu, nội
dung, phương pháp và tổ chức.
2.4.2. Mối quan hệ giữa Đánh giá với Mục tiêu
Các nhà giáo dục Hoa Kỳ đã khẳng định giữa đánh giá với mục tiêu tồn
tại một mối quan hệ liên kết và tương tác hai chiều: mục tiêu quy định phạm vi
và hướng dẫn đánh giá, ngược lại đánh giá chỉ dẫn việc sửa đổi và phát triển
mục tiêu.
121
Mục tiêu hướng dẫn Đánh giá
Như ở phần trên đã chỉ rõ, trong số 4 chức năng của mục tiêu giáo dục do
Hilda Taba (1962) đề ra, chức năng hướng dẫn đánh giá quá trình giáo dục
được coi là trọng yếu và không thể thiếu. Sự hướng dẫn của mục tiêu được thể
hiện trước hết trong việc quy định phạm vi đánh giá, nghĩa là người ta chỉ đánh
giá những gì đã được tuyên bố trong mục tiêu giáo dục. Tiếp đó, sự hướng dẫn
được thể hiện trong những yêu cầu của mục tiêu, đòi hỏi việc đánh giá phải đáp
ứng đầy đủ [xem lại 2.1.1.]. Do chức năng này của mục tiêu chi phối, mọi công
trình đánh giá phải bảo đảm tiêu chuẩn đầu tiên là nhất quán với mục tiêu
(consistency with objectives). Đây chính là tiêu chuẩn cơ bản và quan trọng
nhất trong tổng số 6 tiêu chuẩn đã trình bày ở phần trên; bởi vì mọi công trình
đánh giá đều bắt buộc phải, và chỉ có thể, đo lường và phán xét những giá trị
của quá trình giáo dục được quy định trong mục tiêu của nó [xem lại 1.4.2.].
Trong khi tuân thủ sự nhất quán giữa đánh giá với mục tiêu, Taba (1962)
nhấn mạnh rằng: “các quyết định về những bộ phận chuyên biệt của chương
trình đánh giá, như là chọn lựa một trắc nghiệm cụ thể hay vận dụng một
phương pháp xếp hạng cụ thể, đều phải được hình thành dưới ánh sáng của một
tầm nhìn bao quát toàn bộ chương trình, và mỗi công cụ đánh giá sẽ phục vụ
cho một chức năng rõ ràng” [132,tr.317]. Điều đó cho thấy chức năng hướng
dẫn của mục tiêu được cụ thể hoá cho đến từng phương pháp, phương tiện và
công cụ của mỗi chương trình (hay công trình) đánh giá. D.E. Tanner (2001)
nhận định rằng: “các mục tiêu đã xác định sẽ hướng dẫn đánh giá ở bất cứ nơi
nào mà việc đánh giá được thực hiện” [133,tr.23].
Đánh giá chỉ dẫn việc sửa đổi và phát triển Mục tiêu
Sự cải tiến và hoàn thiện thường xuyên của các quá trình giáo dục bao
gồm cả việc sửa đổi và phát triển các mục tiêu của chúng. Chính các dữ liệu và
122
kết quả của các công trình đánh giá sẽ chỉ dẫn cho việc sửa đổi và phát triển
các mục tiêu giáo dục.
Trước hết, các dữ liệu và kết quả đánh giá được dùng để tu chỉnh những
mục đích hoặc mục tiêu của các quá trình giáo dục mới được thiết kế. Đây
chính là một phần tác dụng trong chức năng thứ nhất của đánh giá theo phân
tích của Taba (1962). Như ở phần trên đã chỉ rõ, mọi quá trình giáo dục mới
được thiết kế đều chỉ là những giả thuyết dựa trên những ý tưởng giả định. Lẽ
dĩ nhiên, mục đích hay mục tiêu của các quá trình này cũng chỉ là giả thuyết,
cần phải được kiểm chứng. Việc kiểm chứng được thực hiện bằng các công
trình đánh giá để xác định những gì là đúng đắn cần giữ vững, những gì chưa
đúng cần tu chỉnh hoặc loại bỏ, những gì còn thiếu cần bổ sung. Chỉ sau khi đã
tu chỉnh theo kết quả đánh giá, mục đích hoặc mục tiêu của quá trình giáo dục
mới thực sự có hiệu lực.
Tiếp theo, đánh giá có tác dụng phát hiện những điều kiện thay đổi dẫn tới
việc sửa đổi các mục tiêu. Các mục đích hay mục tiêu được kiểm chứng trở nên
có hiệu lực, nhưng không có nghĩa là sẽ tồn tại vững bền mãi mãi. Khi điều
kiện dạy học thay đổi, thì sớm muộn mục tiêu giáo dục cũng phải sửa đổi cho
phù hợp với điều kiện mới. Nhưng người ta không thể xác định sự thay đổi
điều kiện theo suy nghĩ chủ quan, để rồi sửa đổi mục tiêu theo cảm tính. Vì thế,
các công trình đánh giá sẽ đảm nhiệm vai trò phát hiện và xác minh một cách
khách quan đối với sự thay đổi điều kiện, và chỉ dẫn một cách chính xác việc
sửa đổi mục tiêu đáp ứng với điều kiện mới. Tác dụng này của đánh giá thuộc
về chức năng thứ hai của nó theo quan điểm của Taba (1962), đồng thời thể
hiện các vai trò số 1 và số 3 theo quan điểm của Tanner (2001). Dưới đề mục
“Đánh giá để phát triển các mục đích và mục tiêu”, D.E. Tanner (2001) trình
bày sự thay đổi điều kiện dẫn tới sự sửa đổi mục tiêu qua việc dạy phép tính
khai căn bậc hai trong chương trình toán học ở trường Trung học Hoa Kỳ.
123
Trước thập kỷ 70 của thế kỷ vừa qua, khi máy tính điện tử cầm tay chưa được
biết tới, mục tiêu chủ yếu của việc dạy phép tính này là rèn luyện kỹ năng tính
toán cho học sinh với sự trợ giúp của thước tính logarithm. Nhưng ngày nay,
khi máy tính điện tử cầm tay trở thành công cụ phổ thông, thì mục tiêu dạy học
nhấn mạnh vào việc ứng dụng phép tính này trong thực tiễn. Việc sửa đổi mục
tiêu đó là kết quả của các công trình đánh giá [xem 137,tr.26,27].
Sau cùng, các dữ liệu đánh giá về nội dung và phương pháp dạy học, được
lưu giữ qua các quá trình thực hiện chương trình học hay khoá trình dạy học, sẽ
dẫn đến việc điều chỉnh và phát triển mục tiêu dạy học. Như ở phần trên đã ghi
rõ, các yếu tố nội dung và phương pháp luôn có tác động trở lại, thậm chí chi
phối mục tiêu giáo dục, làm cho mục tiêu luôn luôn được hoàn thiện và phát
triển [xem lại 2.1.2 và 2.2.2]. Nhưng những tác động này chỉ được nhận biết
một cách khách quan và đúng đắn thông qua các công trình đánh giá được thực
hiện trong suốt quá trình. Vì vậy, dựa trên các dữ liệu về nội dung và phương
pháp, đánh giá sẽ điều chỉnh và phát triển mục tiêu giáo dục. Trong trường hợp
này, đánh giá thể hiện chức năng thứ hai theo quan điểm của Taba (1962),
đồng thời cũng thuộc về vai trò thứ 3 theo quan điểm của Tanner (2001).
2.4.3. Mối quan hệ giữa Đánh giá với Nội dung và Phương pháp
Nội dung và Phương pháp (bao gồm cả tổ chức) là hai yếu tố cơ bản riêng
biệt, nhưng lại gắn kết với nhau chặt chẽ trong mối quan hệ với đánh giá. Do
vậy, chúng được xem xét chung trong mối quan hệ này.
Nội dung và Phương pháp là trọng tâm, là cơ sở và định hướng
của Đánh giá.
- Trọng tâm của Đánh giá
Đánh giá giáo dục bao gồm nhiều chủng loại (species): đánh giá chương
trình học, đánh giá việc dạy học, đánh giá giáo viên, đánh giá học sinh... Mỗi
124
chủng loại lại có nhiều loại hình (shape) khác nhau; thí dụ đánh giá học sinh
bao gồm đánh giá thành quả học tập (assessing learning achievement), đánh giá
thực hiện (performance - based assessment), xếp hạng (grading)... Mỗi loại
hình lại có nhiều dạng (sort) phục vụ nó; thí dụ đánh giá thành quả học tập là
sự tập hợp của các dạng đánh giá khởi sự (placement evaluation), đánh giá tổng
kết (summative evaluation)... Các loại hình đa dạng đánh giá thường được thực
hiện theo một số khuôn mẫu (framework) nhất định: đánh giá bằng các tiêu
chuẩn bên trong (inner criteria - based evaluation), đánh giá bằng những tiêu
chuẩn bên ngoài (exterior criteria - based evaluation), đánh giá theo chuẩn mực
(norm - referenced evaluation), đánh giá theo tiêu chí (criterion - referenced
evaluation)... Mọi loại hình và khuôn mẫu đánh giá lại được thực hiện bằng các
kiểu (model hoặc type) đánh giá, đo lường, trắc nghiệm và xếp hạng khác
nhau.
Các chủng loại, loại hình, các dạng và các kiểu đánh giá liên quan mật
thiết đến tất cả các yếu tố khác nhau trong quá trình giáo dục hay hoạt động
dạy học, như phẩm chất người dạy, đặc tính của người học, nội dung kiến thức,
phương pháp và tổ chức dạy học, bối cảnh và điều kiện dạy học... Mỗi loại
đánh giá nhằm xác định và phán xét một loại giá trị nhất định, nên nó cũng chú
trọng nhiều hơn đến một số yếu tố so với một số yếu tố khác trong quá trình
giáo dục. Tuy nhiên, tất cả các loại đánh giá đều phải đưa ra được lời giải đáp
cho hai câu hỏi cuối cùng là “dạy học cái gì?” và “dạy học như thế nào?”. Chính
vì vậy mà hai yếu tố nội dung (dạy học cái gi?) và phương pháp (dạy học như
thế nào?) luôn luôn trở thành trọng tâm của mọi loại đánh giá. D.E. Tanner
(2001) đã nhận định:
Quá trình giáo dục quy định rằng giáo viên phải liên tục thực hiện
các phán xét về những gì học sinh đã được học, những gì các em cần
học, những gì các em đang chuẩn bị để học, và người ta cần tiến
125
hành việc dạy học như thế nào cho các em. Bốn vấn đề đó nằm trong
trái tim của giáo dục. [133,tr.162].
Ông cũng nói thêm rằng mọi câu trả lời các các câu hỏi liên quan đến bốn
vấn đề nêu trên đều “không rõ ràng và vô nghĩa” nếu chúng ta không dành thời
gian để thực hiện những đánh giá chính xác [xem 133,tr.162]. Như vậy, nhận
định của Tanner (2001) đã vạch rõ nội dung và phương pháp là các yếu tố
trọng tâm của mọi công trình đánh giá.
- Cở sở của Đánh giá
Không chỉ là trọng tâm, Nội dung và Phương pháp còn là cơ sở của đánh
giá. Như B.E. Walvoord và V.J. Anderson (1998) đã xác định, “đánh giá là sự
tập hợp và phân tích thông tin một cách có hệ thống để cải tiến việc học tập của
học sinh” [135,tr.2], và theo D.E. Tanner (2001) “dữ liệu đánh giá là một nguồn
thông tin quan trọng để hoạch định, thực hiện và đánh giá hiệu lực của chương
trình dạy học” [133,tr.41], dữ liệu thông tin chính là cơ sở của mọi công trình
đánh giá. Thông tin được tập hợp trong quá trình giáo dục và dạy học để phân
tích trở thành dữ liệu đánh giá, rồi bản thân dữ liệu này lại trở thành nguồn
thông tin để đánh giá ở cấp độ cao hơn, để cải tiến việc dạy học hoặc hoàn
chỉnh chương trình học. Tuỳ theo các chủng loại và loại hình đánh giá mà
thông tin có thể được lấy từ người dạy, người học, bối cảnh và điều kiện dạy
học... Nhưng nguồn thông tin chủ yếu luôn luôn được lấy từ nội dung và
phương pháp dạy học, hoặc có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với hai yếu tố
này. Hơn thế nữa, trong khi phân tích để xử lý, các nhà giáo dục luôn dựa vào
nội dung và phương pháp dạy học chuẩn mực (norm) để phán xét mức độ giá
trị của đối tượng được đánh giá. Khi đánh giá phương pháp học tập theo nhóm,
Tanner (2001) lưu ý rằng: “Mặc dù tiêu điểm đặt ở việc thực hiện của mỗi cá
nhân trong nhóm, cơ sở để so sánh vẫn là một số kiến thức hoặc khả năng đã
được dạy trong nội dung” [133,tr.203]. Chính vì vậy, Nội dung và Phương pháp
126
(bao gồm tổ chức) là cơ sở của đánh giá. Theo W.J. Webster (1994), “các dữ
liệu về chất lượng dạy học sẽ được đánh giá dựa trên ba nguồn: thông tin được
tích lũy của các nhà giáo về sự thực hiện riêng của họ, sự phản hồi do học sinh
cung cấp, và (...) những dữ liệu hiện có của đồng nghiệp và cấp trên của họ”
[dẫn theo 133,tr.112-113]. Lẽ dĩ nhiên, cả ba nguồn thông tin trên đều xoay
quanh nội dung và phương pháp dạy học.
- Định hướng lựa chọn các loại công cụ đánh giá
Muốn đánh giá được chính xác và đáng tin cậy đối với các giá trị của nội
dung và phương pháp dạy học, các nhà giáo dục cần phải lựa chọn các loại,
hoặc các kiểu công cụ đánh giá thích hợp đối với nội dung hoặc phương pháp
đó. Nếu loại kiểu được lựa chọn có những đặc điểm hoặc hoàn toàn không phù
hợp với nội dung hay phương pháp được đánh giá, thì việc phán xét giá trị của
chúng là không đáng tin cậy, thậm chí bị hỏng hoàn toàn (mặc dù vẫn có thể
chính xác trong việc thực hiện loại công cụ đánh giá đó). Về vấn đề này, D.E.
Tanner (2001) đã chỉ rõ:
Giá trị nội dung bị làm hỏng khi công cụ đánh giá không thể hiện
được nội dung một cách chính xác (...). Tuy nhiên, ngay cả khi công
cụ đánh giá thể hiện nội dung một cách tốt đẹp, nhà giáo dục vẫn có
thể làm cho môn học bị méo mó và giảm bớt giá trị, bằng cách nhấn
mạnh vào những điểm thứ yếu và bỏ qua những chủ đề trọng tâm
trong suốt quá trình dạy học. [133,tr.178-179].
Qua đó có thể nhận thấy việc lựa chọn công cụ đánh giá là hết sức quan
trọng. Tiêu chuẩn của việc lựa chọn này là sự phù hợp của công cụ đối với nội
dung hay phương pháp được đánh giá. Nhà giáo dục phải căn cứ vào nội dung
hay phương pháp hoặc cả hai yếu tố đó để lựa chọn công cụ đánh giá thích
hợp. Như vậy có nghĩa là Nội dung và Phương pháp là các yếu tố định hướng
cho sự lựa chọn các loại công cụ để sử dụng cho mỗi công trình đánh giá.
127
Tanner (2001) nhấn mạnh: “Như một điểm khởi đầu, đánh giá phải trình bày
được tất cả tầm cỡ quan trọng của phạm vi nội dung” [133,tr.199]; và “để trình
bày nội dung một cách tốt đẹp, chúng ta thường cần nhiều kiểu công cụ đa
dạng, và số lượng các công cụ mà chúng ta cần sẽ tăng lên theo kích thước của
phạm vi nội dung” [133,tr.173].
Đánh giá chỉ dẫn việc điều chỉnh Nội dung và Phương pháp
Như ở trên đã vạch rõ, đánh giá có chức năng và vai trò quan trọng là cải
tiến, hoàn thiện chương trình học và sửa đổi việc dạy học, nên nó có tác dụng
chỉ dẫn việc sửa đổi và phát triển mục tiêu. Trong khi đó, đánh giá cũng có tác
dụng chỉ dẫn việc điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học để đạt được
những thành quả tốt hơn. Tác dụng này được thể hiện cả ở chương trình học
lẫn việc dạy học ở nhà trường.
Đối với chương trình học, các loại hình đánh giá thích hợp sẽ làm rõ
những điểm mạnh, điểm yếu và thiếu sót để cải tiến và hoàn thiện nó. Đúng
như D.E. Tanner (2001) đã nói: “Nếu được thiết kế cẩn thận, công trình đánh
giá cuối cùng sẽ cung cấp những dữ liệu giá trị cho phép chúng ta cải tiến
những bộ phận hợp thành của kế hoạch giáo dục sớm hơn, trước khi chúng ta
sử dụng lại chúng” [133,tr.20]. Dĩ nhiên, bên cạnh mục tiêu có thể được sửa đổi
và phát triển, “những bộ phận hợp thành” ở đây chủ yếu là nội dung và phương
pháp dạy học.
Tác dụng của Đánh giá đối với Nội dung và Phương pháp dạy học được
thể hiện thường xuyên liên tục trong suốt quá trình giáo dục. Các nhà giáo dục
Hoa Kỳ khẳng định mối quan hệ giữa đánh giá và dạy học là vô cùng mật thiết
và không thể tách rời nhau. Bản Báo cáo của Hội đồng Quốc gia các Giáo viên
Toán học của Hoa Kỳ (1991) vạch rõ: “Đánh giá học sinh và phân tích việc dạy
học được liên kết chặt chẽ với nhau một cách cơ bản” [dẫn theo 133,tr.41]. Do
vậy, tác dụng của đánh giá đối với việc dạy học là thường xuyên và liên tục,
128
đúng như D.E. Tanner (2001) đã nhận xét: “Từ lần này tới lần khác, đánh giá sẽ
chỉ dẫn những sự thay đổi, thường là vì những điều kiện có liên quan (đến việc
dạy học - LVQ) đã thay đổi” [133,tr.41]. Các nhà giáo dục Hoa Kỳ đã trình bày
tác dụng của đánh giá đối với việc điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy
học rất rõ ràng trong loại hình đánh giá thành quả học tập (assessing academic
achievement) ở cả bốn dạng: đánh giá trước (preassessment), đánh giá hình
thành (formative assessment), đánh giá chẩn đoán (diagnostic assessment) và
đánh giá cuối cùng (final assessment). Mỗi dạng sẽ tác động đến nội dung và
phương pháp dạy học ở một góc độ khác nhau.
- Đánh giá trước (preassessment), một tên gọi khác của đánh giá khởi sự
(placement evaluation), được thực hiện trước khi khởi sự việc dạy học một
khoá trình để biết học sinh đã đạt mục tiêu của quá trình giáo dục đến mức độ
nào, họ đã có đủ tri thức và kỹ năng để học khoá trình mới hay chưa? Theo
Tanner (2001), dạng đánh giá này “sẽ nói với chúng ta học sinh đang ở chỗ nào
trong mối quan hệ đối với những gì chúng ta muốn dạy, những gì mà các em
cần, và chúng ta có thể bắt đầu từ đâu” [133,tr.41]. Đó chính là sự chỉ dẫn của
Đánh giá đối với Nội dung và Phương pháp khi khởi đầu một khoá trình dạy
học.
- Đánh giá hình thành (formative assessment) là dạng đánh giá được thực
hiện thường xuyên trong suốt quá trình dạy học một bộ môn hay một khoá
trình, được dùng để theo dõi sự tiến bộ của học sinh trong khi thực hiện quá
trình đó. Dựa trên những dữ liệu thông tin phản hồi (feedback) liên tục từ các
kiểu đánh giá và trắc nghiệm, giáo viên sẽ điều chỉnh nội dung và phương pháp
dạy học thích hợp với từng đối tượng học sinh. Tanner (2001) chỉ rõ rằng: “nơi
nào mà đánh giá vạch ra những sự khác nhau rõ rệt trong cách học của học
sinh, chúng ta phải sửa đổi việc dạy học cho phù hợp” [133,tr.211]. Ông cũng
khẳng định “đánh giá hình thành cho phép chúng ta điều chỉnh chính xác (fine -
129
tune) việc dạy học” [133,tr.41]. Thật rõ ràng rằng Đánh giá hình thành đã tác
động thường xuyên liên tục để điều chỉnh Nội dung và Phương pháp trong suốt
quá trình dạy học.
- Đánh giá chẩn đoán (diagnostic assessment) thường được áp dụng đối
với một số học sinh có những khó khăn đặc biệt do những khuyết tật nhất định
gây ra. Các dữ liệu thông tin của dạng đánh giá này có tác dụng phát hiện
nguyên nhân căn bản khiến học sinh gặp khó khăn mà không khắc phục được
bằng những giải pháp thông thường, để từ đó đề ra các biện pháp đặc biệt giúp
học sinh khắc phục khó khăn. Tanner (2001) nói: “Nơi nào mà đánh giá chỉ ra
một điều kiện bị khuyết tật, chúng ta có trách nhiệm làm một sự điều chỉnh hợp
lý, cho thấy tác động của nó đối với các dữ liệu đã đạt được” [133,tr.221]. Đó
chính là tác dụng điều chỉnh của Đánh giá đối với Nội dung và Phương pháp
dạy học trong một điều kiện đặc biệt.
- Đánh giá cuối cùng (final assessment), còn gọi là đánh giá tổng kết
(summative evaluation), là những bài thi hoặc kiểm tra kết thúc một khóa trình,
một học kỳ, một năm học hay một khoá học, được thực hiện bằng một kiểu
đánh giá phù hợp với việc dạy học trong quá trình giáo dục đó. Dĩ nhiên, dạng
đánh giá này dùng để ghi nhận thành quả của học sinh sau mỗi quá trình học
tập. Đồng thời, các dữ liệu thông tin của nó sẽ chỉ ra những mặt mạnh và mặt
yếu về nội dung và phương pháp dạy học theo cách nhìn tổng quát xuyên suốt,
để các nhà giáo dục điều chỉnh mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học của
khoá trình, môn học, hay chương trình học vừa kết thúc. Đây chính là sự chỉ
dẫn của Đánh giá để điều chỉnh các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục ở tầm
khái quát.
D.E. Tanner (2001) cho rằng, trong loại hình đánh giá thành quả, “sự bao quát
thỏa đáng một môn học hay một phạm vi chương trình học nằm ở đâu là điều rất
quan trọng, trong đó giá trị nội dung đứng hàng đầu” [133,tr.220-221].
130
Tóm lại, Đánh giá chịu sự chi phối của Mục tiêu, Nội dung và Phương
pháp (bao gồm cả tổ chức); đồng thời Đánh giá cũng tác động trở lại cả ba yếu
tố trên. Chính vì vậy, theo D.E. Tanner (2001), “dữ liệu đánh giá là một nguồn
thông tin quan trọng để hoạch định, thực hiện và phán xét giá trị của chương
trình dạy học” [133,tr.41].
2.5. Nhận định chung
Giữa bốn yếu tố trong mọi quá trình giáo dục luôn tồn tại một mối quan
hệ tương tác (interactive relation) tạo nên sự liên kết cơ bản (fundamental
interconnectedness) mang tính chất nhân quả (cause - effect). Để nghiên cứu
hay thiết kế một quá trình giáo dục hay khoá trình dạy học, bốn yếu tố này cần
được xem xét theo một trình tự nhất định: khởi đầu từ Mục tiêu, qua Nội dung,
Phương pháp rồi kết thúc ở Đánh giá. Mọi quá trình giáo dục hay khoá trình
dạy học đều phải được thường xuyên điều chỉnh, cải tiến và hoàn thiện, nên
việc xem xét bốn yếu tố trên cũng diễn ra thường xuyên, liên tục theo từng chu
kỳ của việc dạy học. ở bất kỳ thời điểm nào, mối quan hệ tương tác giữa bốn
yếu tố đó vẫn thể hiện rất rõ ràng: Mục tiêu chi phối Nội dung, trong khi Nội
dung tác động lại Mục tiêu, Mục tiêu chi phối Phương pháp, đồng thời Phương
pháp (và tổ chức) cũng tác động lại Mục tiêu; Nội dung chi phối Phương pháp,
và Phương pháp chi phối lại Nội dung; Mục tiêu hướng dẫn Đánh giá; còn
Đánh giá chỉ dẫn việc sửa đổi và phát triển Mục tiêu; Nội dung và Phương
pháp là trọng tâm, là cơ sở và định hướng của Đánh giá, còn Đánh giá lại chỉ
dẫn việc điều chỉnh Nội dung và Phương pháp.
Mối quan hệ tương tác này đã làm cho 4 yếu tố cơ bản hợp thành một hệ
thống liên kết chặt chẽ với nhau. Những đặc trưng của từng yếu tố và mối quan
hệ giữa các yếu tố đó với nhau sẽ quyết định hiệu lực của cả hệ thống, nghĩa là
quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục.
131
Mối quan hệ tương tác giữa bốn yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục đã
được R.W. Tyler (1950) vạch rõ, và được một đồng nghiệp cộng sự của ông là
V.E. Herrick minh họa bằng sơ đồ dưới đây:
Hình 1.3: Sơ đồ về quan hệ tương tác giữa 4 yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục.Nguồn: Hilda Taba [132,tr.425].
Được phát hiện từ hơn nửa thế kỷ qua, nguyên lý Tyler về mối quan hệ
tương tác giữa 4 yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục vẫn giữ nguyên giá trị,
liên tục được các nhà giáo dục thuộc các thế hệ sau nghiên cứu, chứng minh,
bổ sung và hoàn chỉnh cho thích hợp với thời đại mới. Là một lý thuyết về hệ
thống (systems theory), nguyên lý này đã đóng một vai trò quan trọng trong
việc cải tiến và đổi mới các chương trình học và việc dạy học nói chung, cũng
như phương pháp dạy học nói riêng.
PHầN THứ HAI
đổi mới dạy học theo các
yếu tố cơ bản
132
Mục tiêu
Đánh giá
Nội dung Chuyên
môn
Phương pháp Và tổ chức
Vì mỗi quá trình giáo dục đều bao gồm hai công đoạn là Chương trình
học (Curriculum) và Giảng dạy (Instruction), nên việc đổi mới giáo dục (hay
dạy học) phải được thực hiện đối với cả hai công đoạn đó.
Những nội dung trình bày ở phần thứ nhất đã cho thấy rõ 4 yếu tố cơ
bản, với đầy đủ các đặc trưng của từng yếu tố và mối quan hệ tương tác giữa
chúng trong một hệ thống, sẽ quyết định hiệu lực của mọi quá trình giáo dục.
Do đó, việc đổi mới dạy học phải được tiến hành đồng bộ theo cả 4 yếu tố cơ
bản trong mọi quá trình giáo dục.
Để tiến hành một công cuộc đổi mới giáo dục đúng đắn, trước hết cần
hiểu rõ thực trạng giáo dục của đất nước hiện nay, cả về chương trình học lẫn
việc giảng dạy, bao gồm đầy đủ mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá.
Trên cơ sở đó, những giải pháp để đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục
hiện đại sẽ được vạch ra để áp dụng vào thực tiễn ở nhà trường, cả trong
chương trình học cũng như trong việc giảng dạy.
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG TRìNH HọC ở NHà TRƯờng trung học việt
nam : từ cảI cách đến đổi mới
3.1. Từ cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba đến cuộc Đổi mới
giáo dục cuối thế kỷ XX
133
Toàn bộ chương trình học và sách giáo khoa được áp dụng tại nhà trường
phổ thông Việt Nam từ 1981 đều bắt nguồn từ cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba,
cuộc Đổi mới giáo dục cuối thế kỷ XX và cuộc Đổi mới chương trình giáo dục
đầu thế kỷ XXI. Vì vậy, chương trình học hiện hành phải được tìm hiểu qua cuộc
cải cách và hai cuộc đổi mới đó.
3.1.1. Cuộc Cải cách Giáo dục lần thứ ba (từ năm học 1980 - 1981)*
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được tiến hành xuất phát từ hoàn cảnh
kinh tế - xã hội trong nửa cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Khi ấy, đất nước vừa
mới được thống nhất sau đại thắng mùa Xuân 1975, nhưng tình hình kinh tế - xã
hội giữa miền Bắc và miền Nam còn rất khác nhau. Miền Bắc được coi là đã hoàn
thành việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu là
sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, nền kinh tế được kế hoạch hoá cao độ, được
tập trung chỉ đạo từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Còn miền Nam vẫn tồn
tại kinh tế thị trường, việc cải tạo quan hệ sản xuất đã và đang được tiến hành trên
tất cả các lĩnh vực, từ nông nghiệp đến công thương nghiệp, theo mô
hình của miền Bắc. Phương hướng chung lúc bấy giờ là đưa cả nước lên chủ
nghĩa xã hội theo cơ chế mà về sau được gọi là quan liêu bao cấp.
Về giáo dục, giữa hai miền cũng có sự khác biệt. Miền Bắc tiếp tục thực
hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm theo 3 cấp (cấp I: lớp 1 đến lớp
4, cấp II: từ lớp 5 đến lớp 7 và cấp III: từ lớp 8 đến lớp 10). Trong khi đó, miền
Nam thực hiện chương trình giáo dục 12 năm do Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam xây dựng, với nội dung và tinh thần phù
hợp với chương trình của miền Bắc, đồng thời đáp ứng được yêu cầu kết hợp
với hệ thống giáo dục 12 năm do chế độ Sài Gòn để lại.
Chính hoàn cảnh lịch sử như trên là cơ sở xuất phát đường lối và quan
điểm chỉ đạo cuộc cải cách giáo dục (CCGD).
134
Đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
“Nghị quyết của Bộ Chính trị về Cải cách giáo dục” được Đảng chính thức
công bố năm 1979 là văn kiện mở đầu cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba.
Văn kiện này chứa đựng những quan điểm cơ bản nhất, trọng yếu nhất để chỉ
đạo cuộc CCGD:
- Về Tôn chỉ giáo dục, bản Nghị quyết nêu rõ:
* Chương trình giáo dục phổ thông đầu tiên được nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà áp dụng sau Cách
mạng tháng Tám 1945 là “Chương trình Hoàng Xuân Hãn” (có sửa đổi). Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất
(từ năm học 1950 - 1951) được thực hiện tại vùng tự do trong cuộc kháng chiến chống Pháp, với việc xác lập
nhà trường phổ thông 9 năm. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (từ năm học 1956 - 1957) được thực hiện ở
miền Bắc, với việc xác lập hệ thống nhà trường phổ thông 10 năm, chia thành ba cấp (cấp I: 4 năm, cấp II: 3
năm, cấp III: 3 năm). Trong khi đó miền Nam vẫn theo chương trình giáo dục phổ thông 12 năm (tiểu học: 5
năm, trung học đệ nhất cấp: 4 năm, trung học đệ nhị cấp: 3 năm).
“Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho đến
lúc trưởng thành, nhằm tạo ra cơ sở ban đầu quan trọng của con người Việt
Nam mới, người lao động làm chủ tập thể (L.V.Q nhấn mạnh) và phát triển
toàn diện, kế tục sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hết lòng lao động xây
dựng chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc” [19,tr.12].
- Về phương hướng và quy mô phát triển giáo dục, bản Nghị quyết viết:
“Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, góp phần xây dựng quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến
hành 3 cuộc cách mạng” [19,tr.13]; và:
“Đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới,
có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học kỹ thuật và
quản lý phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội” [19,tr.14].
- Về nguyên lý giáo dục, bản Nghị quyết nhấn mạnh:
“Phải làm cho công tác giáo dục thấu suốt hơn nữa nguyên lý học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã
hội” [19,tr.14].
- Về nội dung giáo dục, Nghị quyết vạch rõ:
135
Cải cách là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tạo ra
những lớp người lao động mới làm chủ tập thể, đủ sức gánh vác sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
Cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối và chính sách của
Đảng, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đạo đức mới của
người lao động làm chủ tập thể, đi đôi với việc bồi dưỡng lý luận
cách mạng, xây dựng thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa, cần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình cảm cách mạng và
nếp sống văn minh trong các mối quan hệ gia đình, xã hội, người với
người, cá nhân với tập thể, công dân với Tổ quốc... Công tác giáo
dục chính trị và tư tưởng của nhà trường xã hội chủ nghĩa phải tiến
hành thông qua tất cả các hoạt động giáo dục gắn học tập lý luận với
hành động thực tiễn, coi trọng hơn nữa vai trò của văn học nghệ thuật
trong việc giáo dục tư tưởng và tình cảm cách mạng.
Cần hiện đại hoá một cách vững chắc chương trình học tập văn hoá,
khoa học kỹ thuật. Chọn lọc có hệ thống những kiến thức cơ bản,
hiện đại, những kiến thức sát với thực tế Việt Nam làm cho vốn văn
hoá, khoa học kỹ thuật giảng dạy ở các nhà trường có tác dụng thực
sự trong việc hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy
khoa học, phát triển năng lực hành động của học sinh [19,tr.19-20].
- Về phương pháp giáo dục: “Cải cách là nhằm thực hiện tốt việc kết hợp
hữu cơ quá trình giáo dục con người với quá trình cải tạo xã hội và cải tạo tự
nhiên, phát huy ý thức làm chủ tập thể, tính tự giác chủ động, trí thông minh
sáng tạo, tình cảm trong sáng, thói quen lành mạnh của học sinh trong học tập
và rèn luyện” [19,tr.21].
136
Với Nghị quyết của Bộ Chính trị về Cải cách giáo dục, quan điểm chủ đạo
của cuộc cải cách đã được trình bày rõ ràng và đầy đủ trên những nét lớn. Theo
đó, mục đích trọng tâm của sự nghiệp giáo dục là đào tạo những người lao động
làm chủ tập thể, đáp ứng yêu cầu của “3 cuộc cách mạng” trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội (cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản
xuất và cách mạng văn hoá tư tưởng) theo cơ chế hiện hành lúc đó.
Thực hiện cải cách
Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định về
Hệ thống Giáo dục phổ thông mới, đưa cuộc Cải cách giáo dục vào thực tiễn từ
năm 1980.
Hệ thống này bao gồm 12 năm học được chia làm hai bậc:
- Bậc phổ thông cơ sở (PTCS) gồm 2 cấp là PTCS cấp I (từ lớp 1 đến lớp
5) và PTCS cấp II (từ lớp 6 đến lớp 9).
- Bậc phổ thông trung học (PTTH) tức là trường PT cấp III cũ (từ lớp 10
đến lớp 12).
Cách tổ chức hệ thống giáo dục phổ thông như vậy là rất mới, hoàn toàn
khác với cách phân chia ba cấp học của hệ thống 10 năm cũ, và cũng khác biệt
so với hệ thống 12 năm ở miền Nam trước đây gồm hai bậc: Tiểu học và Trung
học (bao gồm hai cấp Đệ nhị và Đệ nhất).
Hệ thống giáo dục phổ thông được tổ chức thành hai bậc học như vậy
nhằm mục đích nhanh chóng phổ cập trình độ PTCS (cấp II), để đưa phần lớn
học sinh tốt nghiệp bậc học này ra đời tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng của bậc PTTH dành cho số ít học sinh
vượt trội tiếp tục học lên.
Theo mục đích này, mục tiêu và kế hoạch đào tạo của trường phổ thông
cơ sở (cấp I và II) được chính thức ban hành năm 1986, và của trường phổ
thông trung học ban hành năm 1990.
137
Việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa cho hệ thống
giáo dục mới được tiến hành theo một quy trình gọi là “cuốn chiếu” từ cấp lớp
dưới lên cấp lớp trên. Theo đó, chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo
dục đã được áp dụng tuần tự vào việc dạy học trong hệ thống giáo dục mới như
sau:
PTCS cấp I từ 1981 đến 1986, cụ thể là:
Lớp 1: từ năm học 1981 - 1982
Lớp 2: từ năm học 1982 - 1983
Lớp 3: từ năm học 1983 - 1984
Lớp 4: từ năm học 1984 - 1985
Lớp 5: từ năm học 1985 - 1986
PTCS cấp II từ 1986 đến 1990, cụ thể là:
Lớp 6: từ năm học 1986 - 1987
Lớp 7: từ năm học 1987 - 1988
Lớp 8: từ năm học 1988 - 1989
Lớp 9: từ năm học 1989 - 1990
PTTH từ 1990 đến 1993, cụ thể là:
Lớp 10: từ năm học 1990 - 1991
Lớp 11: từ năm học 1991 - 1992
Lớp 12: từ năm học 1992 - 1993
Các nhà cải cách giáo dục đã dự kiến hệ thống giáo dục mới này sẽ tồn tại
để đáp ứng các nhu cầu của đất nước trong khoảng thời gian 20 năm [xem
17,tr.3]. Nhưng chỉ mới 6 năm, khi chương trình cải cách bắt đầu được áp dụng
cho lớp 6 của cấp II bậc PTCS, thì đất nước đã bước vào công cuộc đổi mới
toàn diện về kinh tế - xã hội, làm rung chuyển những nền tảng lý luận của cuộc
Cải cách Giáo dục, buộc người ta phải đặt vấn đề “điều chỉnh CCGD”. Tiếp đến
4 năm sau đó, khi hệ thống này bắt đầu được áp dụng cho lớp 10 của bậc
138
PTTH, thì công cuộc đổi mới giáo dục bắt đầu, đòi hỏi phải xem xét lại tất cả
những giá trị của cuộc cải cách giáo dục đang được thực hiện.
3.1.2. Cuộc Đổi mới Giáo dục cuối thế kỷ XX
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội
Từ 1979 đến 1985, đúng trong thời gian đang triển khai cuộc cải cách giáo
dục, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh tế, xã hội, chính trị và lâm
vào một cuộc khủng hoảng thực sự. Cơ chế quan liêu bao cấp đã bộc lộ những
yếu tố tiêu cực khiến lực lượng sản xuất không thể phát triển mạnh, đời sống
nhân dân trở nên hết sức khó khăn. Vì vậy mà “sự nghiệp giáo dục - đào tạo
đang gặp phải những khó khăn rất lớn. Quy mô giáo dục - đào tạo đang có
chiều hướng bị thu hẹp, chất lượng giáo dục - đào tạo, cơ sở vật chất của các
trường học sút kém nhiều nơi” [31].
Để đưa đất nước phát triển theo con đường đúng đắn của quy luật khách
quan nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng, Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra đường lối đổi mới đất nước. Phương
hướng chung là xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở 5 thành phần kinh tế (kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế cá thể), mở cửa để hội nhập với thế giới bên ngoài.
Công cuộc đổi mới đưa nước ta vào một giai đoạn phát triển mới đòi hỏi
ngành giáo dục phải đáp ứng những yêu cầu của giai đoạn mới đó.
Đường lối đổi mới giáo dục phổ thông
Công cuộc đổi mới đất nước đã buộc ngành giáo dục phải đổi mới ngay
khi cuộc cải cách giáo dục đang thực hiện giữa chừng. Tất cả các vấn đề cơ bản
như vị trí, vai trò, nguyên lý, phương châm, hệ thống tổ chức, mục tiêu đào tạo,
139
chế độ chính sách... đều phải được đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới của đất
nước.
Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đồng thời vạch ra phương hướng và mục
tiêu chung để đổi mới sự nghiệp giáo dục. Phương hướng và mục tiêu này khác
biệt rất xa so với Nghị quyết về CCGD của Bộ Chính trị năm 1979, có thể coi
là tôn chỉ (aim) của cuộc đổi mới giáo dục.
Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có
đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà
trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên
môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần” [20,tr.2].
Bản “Kết luận của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân
tại hội nghị các Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo toàn quốc (8-1992)” có thể
được coi là văn kiện chính thức của Bộ nhằm đổi mới sự nghiệp giáo dục theo
đường lối do Đại hội VII vạch ra.
Văn kiện này khẳng định quan điểm mới:
Giáo dục của chúng ta phải thích nghi với cơ chế mới của kinh tế - xã
hội, thích nghi từ mục tiêu đến cơ cấu hệ thống và cơ chế quản lý. Về
mục tiêu: trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mục tiêu
đào tạo của chúng ta cũng không hợp lý. Khuyết điểm của giáo dục
quá khứ là mục tiêu đào tạo đã hoà nhập con người với tập thể, từng
cá nhân không được khẳng định, nhân cách cá nhân không được nâng
cao, tính chủ động, năng động, sáng tạo của cá nhân không được
chuẩn bị tốt, khuyết điểm đó càng nổi rõ tầm quan trọng trong cơ chế
140
thị trường hiện nay... Đây là một trong những vấn đề quan trọng cần
phải cải cách nội dung trong việc xây dựng bậc Trung học mới [7].
Nhiệm vụ của công cuộc đổi mới giáo dục đã được Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII chỉ rõ: “Phải xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương
trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng bậc
học, cấp học, ngành học” [21].
Thực hiện đổi mới
Để khởi đầu cho cuộc đổi mới giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho tổ
chức lại hệ thống trường phổ thông thành hai bậc như sau:
- Bậc Tiểu học (tức cấp I trong bậc phổ thông cơ sở cũ).
- Bậc Trung học: gồm cấp Trung học Cơ sở (tức cấp II của bậc Phổ thông
cơ sở cũ) và cấp Trung học Phổ thông (tức bậc PTTH cũ).
Như vậy, mô hình hệ thống giáo dục phổ thông mà cuộc CCGD đưa ra đã
bị xoá bỏ, để thay thế bằng một mô hình hoàn toàn mới. Hệ thống đổi mới này
dường như là sự quay trở lại với hệ thống giáo dục của miền Nam trước 1975.
Sự đổi mới về hệ thống tổ chức đó được đẩy mạnh thêm bằng kế hoạch tổ chức
lại cấp Trung học Phổ thông (THPT) thành cấp “Trung học Chuyên ban”.
Chương trình Trung học Chuyên ban được thiết kế trên cơ sở cấp THPT chia
thành 3 ban: ban khoa học tự nhiên (ban A), ban khoa học tự nhiên - kỹ thuật
(ban B) và ban khoa học xã hội (ban C). Sách giáo khoa thí điểm chuyên ban
được biên soạn và việc tổ chức dạy học thí điểm chương trình này được thực
hiện (từ 1990 đến 1996).
Nhưng nếu chỉ đổi mới về hệ thống tổ chức, thì nhiệm vụ của công cuộc
đổi mới giáo dục chưa được hoàn thành khi các khâu trọng yếu khác của hệ
thống giáo dục phổ thông chưa được đổi mới.
141
Về mục tiêu, mặc dù tôn chỉ cho cuộc đổi mới đã được đề ra trong các văn kiện
của Đảng*, nhưng Bộ Giáo dục lại không chính thức xác định lại mục đích (goal) cho
các bậc học mới là Tiểu học và Trung học (bao gồm THCS và THPT).
Từ đó, mục tiêu (objective) của các cấp học cũng không được đổi mới,
nên cả bậc Tiểu học lẫn hai cấp của bậc Trung học mới vẫn vận hành theo các
mục tiêu sẵn có của cuộc CCGD không phù hợp với hệ thống giáo dục mới.
Do mục đích và mục tiêu không được xác định lại, nên việc đổi mới kế
hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo của từng bậc học, cấp học,
ngành học không thể thực hiện được. Cũng do việc xác định mục tiêu không
thỏa đáng, nên việc áp dụng thí điểm chương trình “Trung học Chuyên ban” đã
kết thúc thất bại vào năm 1996. Cuộc Đổi mới Giáo dục có thể được coi là kết
thúc ở thời điểm này, mà chưa hoàn thành được nhiệm vụ (sứ mệnh) của nó.
3.2. Chương trình giáo dục phổ thông của cuộc CCGD và cuộc
đổi mới cuối thế kỷ XX
Do công cuộc Đổi mới Giáo dục chưa hoàn thành các nhiệm vụ của nó,
nên chương trình giáo dục phổ thông cuối thế kỷ XX vẫn là sản phẩm của cuộc
Cải cách Giáo dục lần thứ ba (gọi tắt là Chương trình CCGD), được áp dụng
trong hệ thống giáo dục đã đổi mới. Chương trình đó được thể hiện qua mục
đích của hệ thống và mục tiêu bậc học (hay cấp học), kế hoạch dạy học các cấp
bậc và chương trình học của các bộ môn trong từng bậc học (hay cấp học).
3.2.1. Mục đích của hệ thống nhà trường phổ thông và mục tiêu đào tạo
của cấp học
Mục đích (goal) của hệ thống nhà trường phổ thông
Các nhà CCGD đã nhận thức rõ hệ thống nhà trường phổ thông theo sự tổ
chức của họ (bao gồm hai bậc PTCS và PTTH) có một mục đích (goal) chung.
142
Qua cuốn “Hệ thống giáo dục phổ thông mới” Hoàng Ngọc Di (1982) xác
định mục đích đào tạo mà hệ thống giáo dục này phải thực hiện là “con người
lao động mới có tinh thần làm chủ tập thể”:
Đó là những con người phát triển toàn diện và phải sống, phải làm
việc, lao động trong hoàn cảnh chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn XHCN, đồng thời ra sức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bậc THCS chuẩn bị cho số đông học sinh đi vào đào tạo nghề
nghiệp, trong một thời gian dài, chưa phải tất cả đều là thợ cơ khí
hoặc có sử dụng cơ khí, song dù công tác theo nghề nào họ cũng phải
biết khoa học kỹ thuật...
Bậc PTTH: một mặt có thể chuẩn bị cho học sinh có thể học lên đại
học, do đó phải nắm vững kiến thức, công cụ cần cho tự học, mặt
khác chuẩn bị cho họ đi vào các nghề lao động có kỹ thuật, có sử
dụng cơ khí hoặc biết vận dụng những quy trình tiên tiến (...)
[17,tr.28-29].
Mấy năm sau, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phạm Minh Hạc (1986) khẳng định
lại mục đích của hệ thống giáo dục phổ thông:
* Mãi đến tháng 12-1998, khi cuộc đổi mới đã lùi về quá khứ, tôn chỉ của hệ thống giáo dục
quốc dân mới được chính thức xác định trong luật pháp của nhà nước, điều 2 của Luật Giáo dục
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [xem 61a, điều 2].
Xây dựng cho thế hệ trẻ cơ sở vững chắc để phát triển toàn diện nhân
cách XHCN và năng lực làm chủ tập thể XHCN, chuẩn bị lực lượng
lao động xã hội, tạo nguồn bổ sung cho giai cấp công nhân, đào tạo
143
cán bộ và nhân tài cho sự nghiệp xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá
khoa học kỹ thuật và tăng cường quyền lực quốc phòng. [83,tr.6].
Hướng vào việc xây dựng chương trình học của hệ thống giáo dục phổ
thông, ông chỉ rõ:
Bồi dưỡng cho học sinh cả về mặt quan điểm, phương pháp, kiến
thức, kỹ năng đảm bảo tính chất cơ bản, hiện đại, Việt Nam, thiết
thực của học vấn phổ thông nhằm tạo điều kiện cho học sinh ra
trường có thể sống và làm việc tốt nhất cho đất nước, cho cách mạng
và có khả năng vươn lên không ngừng. [83,tr.6].
Những ý tưởng nêu trên của các nhà CCGD khác nhau về cách diễn đạt và
góc độ tiếp cận vấn đề, nhưng nhất quán về mục đích giáo dục là: đào tạo con
người lao động có nhân cách XHCN phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ
tập thể, có đủ tri thức và khả năng tham gia xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc. Mục đích này chiếu theo tôn chỉ do Đảng đề ra, và cũng cụ thể hoá tôn
chỉ đó trong việc vạch rõ yêu cầu khác nhau giữa hai bậc học và giải thích thế
nào là nhân cách phát triển toàn diện. Tuy nhiên, mục đích giáo dục này chưa
được soạn thảo để công bố chính thức trong một văn bản pháp quy duy nhất,
lại được đưa ra sau khi chương trình học của các bậc phổ thông đã được thiết
kế, nên nó không đủ hiệu lực để chi phối mục tiêu đào tạo cũng như chương
trình học của các bậc và các cấp phổ thông.
Mục tiêu (objective) của các bậc và các cấp học
Dựa trên hệ thống giáo dục phổ thông được phân chia thành hai bậc học,
Bộ Giáo dục đã xác định mục tiêu đào tạo cho hai bậc học này.
- Mục tiêu đào tạo của trường Phổ thông Cơ sở (cấp I và cấp II) được
chính thức ban hành năm 1986 bằng văn bản “Quy định về Mục tiêu và Kế
hoạch đào tạo của trường phổ thông cơ sở”. Lẽ dĩ nhiên, khi một bậc học được
xây dựng từ sự hợp thành của hai cấp học, thì nó có một mục tiêu đào tạo
144
chung cho cả hai cấp học đó. Mục tiêu bậc học này đã được trình bày chiếu
theo mục đích của hệ thống giáo dục phổ thông quy định cho bậc học này [xem
2,tr.3-4].
Nhưng bởi vì giữa hai cấp học của bậc học này có sự khác biệt rất lớn về
độ tuổi học sinh và về tổ chức đào tạo, nên mục tiêu bậc học cần phải được cụ
thể hoá thành mục tiêu của từng cấp học. Văn bản nói trên đã không trình bày
cụ thể mục tiêu của từng cấp học, nên sự chi phối của mục tiêu bậc học đối với
chương trình của từng cấp học là rất yếu. Hơn thế nữa, mục tiêu bậc học chỉ
được công bố sau khi các trường PTCS cấp I đã hoàn tất việc áp dụng chương
trình CCGD cho tất cả các cấp lớp, và khi chương trình đó bắt đầu được áp
dụng vào lớp đầu của các trường PTCS cấp II. Điều đó lại càng cho thấy rõ
chương trình CCGD của bậc PTCS ít chịu sự chi phối của mục tiêu bậc học.
Cuộc CCGD đã không trình bày cụ thể mục tiêu của hai cấp học, cuộc Đổi
mới Giáo dục cũng không xác định lại mục tiêu của hai cấp học này. Rốt cuộc,
khi bậc PTCS tách thành bậc Tiểu học và cấp THCS thuộc bậc Trung học, thì
cả bậc Tiểu học và cấp THCS thuộc bậc Trung học đều không có mục tiêu
thích hợp trong hệ thống giáo dục phổ thông đổi mới.
- Mục tiêu đào tạo của trường Phổ thông Trung học được chính thức ban
hành năm 1990 bằng văn bản “Quy định về Mục tiêu và Kế hoạch đào tạo của
trường Phổ thông trung học”. Việc soạn thảo và ban hành văn bản này nằm
trong quy trình “cuốn chiếu” của cuộc CCGD, nhưng lại diễn ra trong bối cảnh
đất nước đã đổi mới rất nhiều làm cho nền tảng lý luận của cuộc CCGD trở nên
hoàn toàn lạc hậu so với thực tiễn. Do đó, mục tiêu đào tạo của trường PTTH
đã được trình bày theo một cách thức mới với nhiều ý tưởng mới:
Phát huy thành quả giáo dục PTCS, bậc PTTH tiếp tục đào tạo để
phát triển nhân cách hài hòa ở học sinh: có thế giới quan khoa học, lý
tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có lòng yêu nước và tinh thần
145
quốc tế chân chính, có lòng nhân ái, có ý thức trách nhiệm với gia
đình, sống và làm việc theo pháp luật; có học vấn phổ thông kỹ thuật
tổng hợp, có kỹ năng lao động và tâm thế sẵn sàng lao động, có sức
khoẻ; có thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, ham học hỏi, biết cách tự học
và tự rèn luyện nhằm phát triển năng lực và sở trường cá nhân để
bước vào cuộc sống tự lập của người lao động năng động, sáng tạo,
đáp ứng yêu cầu đào tạo, nhu cầu cuộc sống của bản thân và gia đình,
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước, góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [3,tr.4].
Mục tiêu tổng quát mang tính định hướng nêu trên được tình bày thành 5
mục tiêu bộ phận: 1) Về thế giới quan, tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức và
cư xử có văn hoá; 2) Về văn hoá khoa học; 3) Về lao động, kỹ thuật tổng hợp,
hướng nghiệp, chuẩn bị nghề nghiệp và dạy nghề; 4) Về thể chất, vệ sinh, quốc
phòng; và 5) Về thẩm mỹ.
Mỗi mục tiêu bộ phận trên lại được trình bày thành 3 lĩnh vực cụ thể: a)
Kiến thức; b) Kỹ năng, và c) Thái độ. Mỗi mục tiêu cụ thể này lại được chia
thành nhiều mục tiêu chi tiết.
Rõ ràng mục tiêu bậc học này đã không còn nhắc đến một số quan điểm
trọng yếu trong tôn chỉ và mục đích của cuộc CCGD như đào tạo “người lao
động làm chủ tập thể” đáp ứng cho việc “tiến hành 3 cuộc cách mạng”. Thay
vào đó là những quan điểm mới về phát triển nhân cách hài hoà ở học sinh:
Phát triển năng lực và sở trường cá nhân, ý thức trách nhiệm với gia đình, sống
và làm việc theo pháp luật ..., để trở thành “người lao động năng động, sáng
tạo”, đáp ứng yêu cầu đào tạo, nhu cầu cuộc sống “của bản thân và gia đình”,
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội “của địa phương và đất nước”.
Mặc dù mục tiêu tổng quát trên vẫn được chia thành các mục tiêu bộ phận
dựa trên 5 bộ phận hợp thành nền giáo dục truyền thống là trí dục, đức dục, thể
146
dục, mỹ dục và giáo dục lao động, việc cụ thể hoá mục tiêu tổng quát thành các
mục tiêu bộ phận và sự phân chia mỗi mục tiêu bộ phận thành 3 lĩnh vực kiến
thức, kỹ năng và thái độ cho thấy cách trình bày mục tiêu đã được đổi mới theo
hướng tiếp cận với khoa học giáo dục hiện đại.
Nhìn chung, Mục tiêu đào tạo của trường PTTH do Bộ Giáo dục ban hành
năm 1990 là khá đầy đủ, toàn diện và cụ thể, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế -
xã hội của đất nước. Do đó, mục tiêu này có thể dùng làm cơ sở xác định chức
năng - nhiệm vụ cũng như vị trí - vai trò của các môn học để xây dựng kế
hoạch đào tạo, đồng thời xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp của từng
môn học, từng khoá trình ở các cấp lớp PTTH. Tuy nhiên, vì mục tiêu của bậc
PTTH (theo hệ thống CCGD) cũng là của cấp THPT (theo hệ thống Đổi mới
Giáo dục) lại tách rời khỏi tôn chỉ của cuộc CCGD và mục đích của hệ thống
phổ thông, nên nó trở thành đơn độc, không gắn kết với mục tiêu của các bậc
học (hay cấp học) dưới nó. Hơn thế nữa, khi Mục tiêu đào tạo được ban hành
thì kế hoạch đào tạo bậc học (hay cấp học) cũng như chương trình và sách giáo
khoa các bộ môn đã được xây dựng và biên soạn xong trước đó để bắt đầu áp
dụng trong nhà trường PTTH. Do vậy, có thể thấy trước rằng kế hoạch giáo
dục chung cũng như chương trình và sách giáo khoa các bộ môn khó có thể đáp
ứng đầy đủ Mục tiêu đào tạo của bậc học (hay cấp học).
3.2.2. Kế hoạch dạy học và nguyên tắc chung xây dựng chương trình
học các bộ môn ở trường trung học
Về nguyên tắc, mục tiêu sẽ định hướng nội dung cùng phương pháp và tổ
chức trong mọi quá trình giáo dục. Do vậy, đối với chương trình giáo dục phổ
thông hình thành từ cuộc CCGD, mục tiêu của bậc học (hay cấp học) sẽ định
hướng về nội dung để lựa chọn các môn học, đồng thời định hướng phương
pháp và tổ chức để sắp xếp và phân phối thời gian dạy học cho các bộ môn.
Những định hướng trên sẽ được thể hiện thành kế hoạch dạy học chung của bậc
147
học (hay cấp học). Đến lượt mình, kế hoạch dạy học chung sẽ trở thành cơ sở
để xây dựng chương trình học của các bộ môn.
Kế hoạch dạy học của trường PTCS cấp II (tức THCS)
Các nhà xây dựng chương trình CCGD đã xây dựng kế hoạch đào tạo
chung cho bậc PTCS (bao gồm cả cấp I và cấp II) [xem 2]. Tuy nhiên, chương
trình giáo dục hiện hành lại theo hệ thống đổi mới, đưa cấp II vào hệ thống
trung học thành cấp THCS, nên kế hoạch của cấp I (đã trở thành bậc Tiểu học),
cần phải được xem xét riêng. Trong kế hoạch đào tạo của trường PTCS cấp II
(đã trở thành cấp THCS) phần cốt lõi là kế hoạch dạy học bao gồm 16 môn học
được lựa chọn, sắp xếp và bố trí thời gian dạy học theo bảng sau:
Hình 3.1. Bảng tóm tắt kế hoạch dạy học của trường PTCS
cấp II
STT Môn họcSố tiết mỗi tuần ở các lớp
VI VII VIII IX
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Văn - Tiếng Việt
Giáo dục công dân
Lịch sử
Địa lý
Ngoại ngữ
Toán học
Vật lý
Hoá học
Sinh học
Thủ công
Kỹ thuật
Nhạc
Họa
Thể dục
Sinh hoạt tập thể
6 tiết
1
1
1
4
5
0
0
2
2
0
1
1
2
1
5 tiết
1
1
1
3
5
2
1
2
0
2
1
1
2
1
4 tiết
1
2
1
3
5
2
1
2
0
2
1
0
2
1
4 tiết
1
2
1
3
5
2
2
2
0
2
0
0
2
1
148
Cộng 27 27 27 27
Nguồn: Bộ Giáo dục (1986) [2].
Xem xét kế hoạch dạy học này, khó có thể nhận biết được rằng các môn
học có được lựa chọn theo mục tiêu cấp học hay không; và do đó cũng khó xác
định vị trí - vai trò của từng môn học trong chương trình được xác định theo
tiêu chí nào. Điều dễ nhận thấy là các môn học trong kế hoạch này đều đã có
sẵn trong chương trình cũ của trường Phổ thông cấp II trước CCGD. Nay các
môn đó lại được đưa vào chương trình CCGD với một số điều chỉnh về thời
gian dạy học phân bố cho các bộ môn. Cũng như trong chương trình cũ, kế
hoạch dạy học của chương trình CCGD là sự tổng hợp các môn học riêng lẻ,
được sắp xếp theo các lĩnh vực truyền thống về khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên, giáo dục lao động, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất... Kế hoạch này
cho thấy chương trình học cấp THCS mang tính chất cứng, áp đặt với mọi học
sinh, không có sự tích hợp giữa các môn gần nhau để bổ sung cho nhau trong
từng bộ môn lớn.
Kế hoạch dạy học của trường PTTH (tức THPT)
Như ở phần trên đã phân tích, Mục tiêu đào tạo của trường PTTH với
nhiều ý tưởng mới, phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước, được trình bày
khá đầy đủ để làm cơ sở xây dựng kế hoạch đào tạo của bậc học. Nhưng kế
hoạch đào tạo có thể hiện được sự định hướng của Mục tiêu hay không lại là
vấn đề khác. Cốt lõi của kế hoạch đào tạo này là kế hoạch dạy học bao gồm 12
môn (bỏ bớt 5 môn trong kế hoạch của trường PTCS cấp II, nhưng lại tách Văn
- Tiếng Việt thành 2 môn học), được sắp xếp và bố trí thời gian dạy học theo
bảng sau:
Hình 3.2. Bảng tóm tắt kế hoạch dạy học của trường phổ thông
trung học (tức THPT)
STT Môn học Số tiết mỗi tuần ở các lớp
149
X XI XII123456789101112
VănTiếng ViệtSửĐịaGiáo dục công dânToán Vật lýHoáSinhTiếng nước ngoàiKỹ thuậtThể dục - quốc phòng
221114321322
2212
1,55321322
2121
1,55322322
Cộng 24 26,5 26,5
Nguồn: Bộ Giáo dục (1990) [3].
Cũng như kế hoạch của trường PTCS cấp II, kế hoạch dạy học của trường
PTTH không cho thấy rõ sự chi phối của Mục tiêu bậc học đối với nó, nên
cũng không thể hiện các tiêu chí để xác định vị trí và vai trò các môn học trong
đó. Việc chọn lựa và sắp xếp các môn học trong kế hoạch này cũng theo cách thức
đã áp dụng cho kế hoạch của trường PTCS cấp II, chủ yếu dựa trên nội dung sẵn
có của các môn học để điều chỉnh về thời gian phân bố cho các môn đó. Vì vậy,
qua kế hoạch này, chương trình học của nhà trường PTTH cũng thể hiện cùng một
tính chất với chương trình của nhà trường PTCS cấp II.
Nguyên tắc chung xây dựng chương trình học các bộ môn
Cuốn “Hệ thống giáo dục phổ thông mới” của Hoàng Ngọc Di (1982) đã
nêu lên các nguyên tắc chung để xây dựng chương trình CCGD của các bộ
môn:
- Nguyên tắc thứ nhất là phải phục vụ mục tiêu đào tạo của trường
phổ thông trong 20 năm tới. Đó là những con người phát triển toàn
diện và phải sống, làm việc, lao động trong hoàn cảnh chuyển biến từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, đồng thời ra sức bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
150
- Nguyên tắc thứ hai là hiện đại hoá tức là sử dụng những thành tựu
khoa học hiện đại (quan điểm, quy luật, phương pháp) nhằm phát
triển con người học sinh một cách cơ bản, nhanh chóng và bền vững.
Phải đứng trên qua điểm phát triển mà tiến hành hiện đại hoá kiến
thức.
- Nguyên tắc thứ ba là quán triệt tinh thần kỹ thuật tổng hợp, nhất là
trong các môn khoa học tự nhiên và toán (...), cần vận dụng các kiến
thức khoa học cơ bản vào việc giải thích cơ sở khoa học của các quá
trình sản xuất chính và các công trình công nghệ học chủ yếu, vẽ nên
bức tranh của nền sản xuất hiện đại, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn của sản xuất. Các môn khoa học xã hội giúp phần
chuẩn bị con người lao động mới về tâm lý và ý thức.
- Nguyên tắc thứ tư là nhằm mục đích giáo dục thế giới quan khoa
học và các phẩm chất khác của con người mới XHCN VN (...). Đó là
đạo đức, là năng lực trí tuệ, là ý chí... [17,tr.3,28,30].
Nói chung, các nguyên tắc được nêu như vậy là đúng đắn, vì chúng đề cập
đến cả mục tiêu, nội dung, phương pháp và kỹ năng, chú trọng cả việc nâng
cao kiến thức và giáo dục nhân cách cho học sinh. Nguyên tắc thứ nhất nêu rất
đúng rằng chương trình CCGD “Phải phục vụ mục tiêu đào tạo của trường phổ
thông...”. Nhưng khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới bao gồm cuộc đổi
mới giáo dục, mục tiêu đào tạo được xác định lại cho trường PTTH, thì việc
thiết kế chương trình học lại không dựa vào mục tiêu đào tạo mới. Như vậy,
chương trình học của các bộ môn không đáp ứng đúng mục tiêu đào tạo. Từ đó,
ba nguyên tắc còn lại cũng khó có thể được áp dụng đầy đủ.
3.2.3. Các đặc tính của chương trình CCGD
Từ các cấp độ mục tiêu, kế hoạch dạy học và những nguyên tắc xây dựng
chương trình học các bộ môn, có thể nhận rõ các đặc tính của chương trình CCGD
151
về kiểu chương trình học, cách tiếp cận trong xây dựng chương trình và những đặc
điểm khác.
Về kiểu chương trình học :
Cho đến nay, trên thế giới đã tồn tại 5 kiểu chương trình học chính như đã
trình bày ở chương 2 [xem lại mục 2.3]. Đối chiếu với các kiểu chương trình
học đó, có thể nhận thấy Chương trình CCGD thuộc về một kiểu pha trộn giữ
chương trình tái cấu trúc xã hội (curriculum for social reconstruction
relevance) với chương trình duy lý hàn lâm (curriculum as academic
rationism). Căn cứ vào tôn chỉ và phương hướng của cuộc CCGD [đã trình bày
trong mục 3.1.1.1], có thể thấy rõ cuộc cải cách này nhằm tạo ra con người
Việt Nam mới, “người lao động làm chủ tập thể” để xây dựng một xã hội mới :
xã hội xã hội chủ nghĩa, bằng cách tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng văn hoá tư
tưởng. Như vậy, chương trình học của cuộc CCGD phải là kiểu chương trình
tái cấu trúc xã hội. Để tạo ra những con người mới, xây dựng xã hội mới, nội
dung chương trình phải tập trung vào việc “Giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục chủ nghĩa Mac-Lênin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối và chính
sách của Đảng, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và đạo đức mới của
giới lao động làm chủ tập thể…” [19, trang 19-20]. Nội dung chương trình như
vậy được coi là các sản phẩm lành mạnh nhất cần cung cấp cho thế hệ trẻ, để
họ có được những công cụ thích hợp với cuộc sống trong xã hội mới đang được
xây dựng và sẽ hình thành trong tương lai. Như vậy, chương trình học lại mang
thêm tính chất của kiểu chương trình duy lý hàn lâm, đặt trọng tâm ở nội dung
kiến thức lấy được ở các bộ môn riêng biệt sẵn có.
Kiểu chương trình học pha trộn giữa chương trình tái cấu trúc xã hội với
chương trình duy lý hàn lâm sẽ luôn chú trọng trước hết đến nội dung kiến thức
được chọn lọc một cách có chủ ý. Nó thường có xu hướng coi nhẹ các phương
152
pháp, kỹ năng và những giá trị thiết thực khác để thực hành và áp dụng vào đời
sống con người trong xã hội. Chính mục tiêu đào tạo của trường Phổ thông
trung học 1990, được soạn thảo theo quan điểm đổi mới giáo dục, đã thoát khỏi
tôn chỉ nêu trên của cuộc CCGD khi nhấn mạnh mục tiêu “phát triển năng lực
và sở trường cá nhân để bước vào cuộc sống tự lập của người lao động năng
động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đào tạo, nhu cầu cuộc sống của bản thân và
gia đình, yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương và đất nước, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr.4]. Mục tiêu này rời xa kiểu chương trình học
đã được xác định trong cuộc CCGD, thích hợp với kiểu chương trình phát triển
quá trình nhận thức (curriculum as the development of cognitive processes).
Song, mục tiêu này lại được ban hành sau khi chương trình CCGD đã được xây
dựng xong và sách giáo khoa các môn học đã được biên soạn theo chương trình
này, nên nó không làm thay đổi tính chất của chương trình CCGD.
Khi đi sâu vào chương trình học của từng bộ môn, được cụ thể hoá bằng
các sách giáo khoa của chúng, có thể nhận thấy kiểu chương trình tái cấu trúc
xã hội được thể hiện đậm nét ở môn Văn - Tiếng Việt và các môn khoa học xã
hội như Lịch Sử, Giáo dục công dân, Địa lý (có pha trộn tính chất duy lý hàn
lâm), trong khi kiểu chương trình duy lý hàn lâm thể hiện rõ ràng trong môn
Toán và các môn Khoa học tự nhiên như Vật Lý, Hoá học và Sinh học (có pha
trộn tính chất tái cấu trúc xã hội).
Về cách tiếp cận để xây dựng chương trình :
Lịch sử phát triển Chương trình học (Curriculum Development) đã lần
lượt trải qua 4 cách tiếp cận để xây dựng chương trình học : cách tiếp cận Nội
dung là cổ điển nhất; cách tiếp cận Mục tiêu trở nên phổ biến từ giữa thế kỷ
XX với những ưu điểm rất lớn; cách tiếp cận Phát triển lại có thêm một số ưu
điểm mới, được hầu hết các nước công nghiệp tiêu biểu áp dụng từ cuối thế kỷ
153
XX; và hiện nay đã xuất hiện cách tiếp cận Tích hợp, để tận dụng mọi ưu điểm
của các cách tiếp cận trên.
Đặt trọng tâm vào nội dung kiến thức theo các kiểu chương trình học nêu
trên, chương trình CCGD được xây dựng bằng cách tiếp cận nội dung. Theo
cách tiếp cận này, mục tiêu giáo dục ở mọi cấp độ không được quan tâm đầy
đủ. Dựa trên một khung thời gian được phân chia cho từng môn học một cách
máy móc, hoặc theo một nguyên tắc nào đó không được biết rõ, người ta giao
nhiệm vụ thiết kế chương trình học cho các nhà chuyên môn của các môn học
sẵn có. Các nhà chuyên môn này chỉ chú trọng Nội dung kiến thức mà ít khi
quan tâm đến Mục tiêu giáo dục ở mọi cấp độ. Trong khi thiết kế chương trình
học, họ không dựa vào Mục tiêu đào tạo (Goal) của cấp học để xác định Mục
tiêu môn học (học sinh sẽ đạt được những thành quả gì sau khi học) mà thường
xác định Nhiệm vụ của môn học (môn học sẽ cung cấp những gì cho học sinh).
Trong nhiệm vụ môn học, Nội dung kiến thức luôn luôn chiếm phần chủ yếu.
Còn thái độ tình cảm và kỹ năng cần hình thành cho học sinh, tùy theo đặc
trưng và chức năng của mỗi môn học, cũng được đề cập ít nhiều. Nhưng khi cụ
thể hoá nhiệm vụ này trong kế hoạch dạy học và sách giáo khoa, thì nội dung
kiến thức hầu như lấn át hoàn toàn các yêu cầu về kỹ năng và thái độ - tình
cảm. Các nhà chuyên môn cũng đề ra những nguyên tắc xây dựng (hay thiết
kế) chương trình môn học. Nhưng những nguyên tắc này thường chỉ bao gồm
những yêu cầu về nội dung kiến thức môn học. Trong nhiều trường hợp, chúng
cũng không thể hiện đầy đủ nguyên tắc chung xây dựng chương trình học các
bộ môn mà các nhà CCGD đã nêu lên. Thí dụ: Chương trình môn Lịch sử của
Trường Phổ thông cơ sở và của Trường Phổ thông trung học đều nêu rõ nhiệm
vụ môn học trên cả 3 lĩnh vực: Nội dung kiến thức, kỹ năng và thái độ tình cảm
[xem 84, tr.1-2 và 85, tr.3]. Nhưng phân phối chương trình và sách giáo khoa
lịch sử hầu như chỉ cho phép truyền đạt nội dung kiến thức [xem 64, tr.45-111].
154
Nguyên tắc xây dựng chương trình môn học này cũng được nêu rõ là: Hiện đại,
Cơ bản, phù hợp với thực tiễn Việt Nam [xem 56]. Nguyên tắc này rất đúng
đắn, nhưng nó chỉ bao gồm những yêu cầu đối với nội dung kiến thức. Hơn
nữa, nguyên tắc này cũng không thể hiện đầy đủ các nguyên tắc chung xây
dựng chương trình học của các bộ môn, thiếu cả nguyên tắc đứng đầu trong số
đó là “phải phục vụ mục tiêu đào tạo của trường phổ thông…” [17, tr.3].
Chương trình mỗi môn học được xây dựng theo cách tiếp cận nội dung,
với nhiệm vụ và nguyên tắc xây dựng riêng mà không gắn chặt với mục tiêu
đào tạo của cấp học, luôn có xu hướng tăng thêm nhiều kiến thức mà các nhà
chuyên môn cho là cần thiết. Do xu hướng này, chương trình mỗi môn học sẽ
trở nên rất nặng, vì phải chứa đựng những kiến thức sâu rộng của các nhà
chuyên môn, nhưng không thích hợp với mục tiêu đào tạo. Những chương trình
học như vậy luôn ẩn chứa một mục tiêu riêng của môn học là đào tạo học sinh
thành nhà chuyên môn của môn học đó. Hầu hết chương trình CCGD của các
môn học được xây dựng theo cách tiếp cận nội dung, nên ít nhiều mỗi môn học
đều thể hiện xu hướng nói trên. Chính vì vậy, chương trình học của nhà trường
phổ thông luôn bị coi là rất nặng mà từ thường dùng là “quá tải”, nghĩa là có
quá nhiều kiến thức buộc học sinh phải lĩnh hội trong khi các em không có đủ
điều kiện về thời gian và trình độ để có thể lĩnh hội. Chương trình CCGD môn
Toán cấp THPT ở Việt Nam nặng và cao hơn nhiều so với chương trình toán
cùng cấp của Hoa Kỳ, có thể xếp vào loại nặng nhất so với các chương trình
toán cùng cấp ở các nước Châu Âu. Chương trình CCGD môn Văn - Tiếng
Việt (theo khuôn mẫu quốc tế phải gọi là môn Việt văn) của các trường THCS
và THPT cũng rất nặng, bao gồm rất nhiều tác giả và tác phẩm của họ, từ cổ
điển đến đương đại. Đã vậy, chương trình THPT còn có thêm một phần không
nhỏ những tác phẩm của các tác giả nước ngoài dịch sang tiếng Việt, được gọi
là “Văn học nước ngoài”. Chương trình CCGD môn Lịch sử của các trường
155
THCS và các trường THPT đều bao quát một phạm vi nội dung vô cùng rộng
lớn: Lịch sử thế giới từ nguyên thủy, cổ đại, qua trung đại, cận đại đến hiện đại,
trong đó đề cập mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học - kỹ thuật với
vô vàn sự kiện dẫn ra trên khắp Châu Âu - Bắc Mỹ, AÙ - Phi - Mỹ Latinh và
khu vực Đông Nam AÙ. Bên cạnh đó là Lịch sử Việt Nam cũng xuyên suốt từ
nguyên thủy đến hiện đại, bao gồm mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá …
như Lịch sử thế giới. Phạm vi nội dung rộng lớn với dung lượng kiến thức đồ
sộ như vậy lại được thực hiện trong một thời gian quá eo hẹp, đã làm cho
chương trình học trở nên hết sức nặng nề và kém hiệu lực.
Các đặc tính khác của chương trình
Cùng với kiểu chương trình học và cách tiếp cận, chương trình CCGD còn
thể hiện các đặc tính sau đây:
- Chương trình CCGD là loại chương trình học cứng, dùng để áp đặt đồng
loạt cho toàn thể học sinh từ năm học đầu tiên đến năm học cuối cùng của nhà
trường phổ thông. Loại chương trình học này tổ chức việc dạy học theo niên
chế : mọi học sinh cùng cấp lớp được phân chia vào từng lớp học để cùng thực
hiện một chương trình học chung của từng năm học trên toàn quốc. Cuối mỗi
năm học, nếu đạt yêu cầu các em được lên lớp trên cho đến khi tốt nghiệp
THPT. Với loại chương trình học này, học sinh hoàn toàn thụ động trong suốt
quá trình giáo dục trong vai trò của người tiếp thu tri thức do nhà trường truyền
thụ. Các em buộc phải học toàn bộ các kiến thức trong tất cả các môn học theo
đúng quy định, không có cơ hội lựa chọn một chương trình học tập theo đặc
điểm tâm lý, khả năng và nguyện vọng của mình. Về phần mình, các giáo viên
buộc phải thực hiện chương trình học theo đúng qui định, bằng cách sử dụng
một bộ sách giáo khoa duy nhất cho mỗi môn học trên toàn quốc, được phân
phối chương trình chính xác đến từng tiết học. Như vậy, chương trình học này
156
cũng hạn chế rất nhiều sự chủ động sáng tạo của giáo viên trong hoạt động dạy
học.
- Trong chương trình CCGD, mỗi môn học tồn tại biệt lập và rất ít quan hệ
với các môn học khác gần gũi hoặc có liên quan với nó.
Trong chương trình học hiện đại, các môn học gần gũi nhau thường được tích
hợp (integration) thành một bộ môn (thí dụ: lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế
được tích hợp thành bộ môn tìm hiểu xã hội - social study). Còn những môn
học có liên quan với nhau thì được tổ chức liên hợp (combining) với nhau (thí
dụ: lịch sử Mỹ liên hợp với văn học Mỹ. Sau khi giáo viên sử cho học sinh học
về cuộc Nội chiến Mỹ, thì giáo viên Anh văn sẽ giới thiệu văn học thời kì đó).
Sự tích hợp và liên hợp kiến thức các môn có tác dụng rất tích cực làm tăng
hiệu quả học tập của học sinh, nhất là khi áp dụng các kiến thức đã học. Đồng
thời, tích hợp các kiến thức, còn có tác dụng giới hạn số môn học chuyên biệt
mà vẫn bảo đảm các kiến thức cần thiết đáp ứng mục tiêu đào tạo, bảo đảm cho
sự cân bằng giữa các lĩnh vực học vấn.
- Chương trình CCGD của Việt Nam không có sự tích hợp và liên hợp nêu
trên. Mỗi môn học có nhiệm vụ và nguyên tắc xây dựng chương trình riêng,
với kế hoạch dạy học được tổ chức biệt lập với nhau. Do đó, mỗi môn học rất
ít quan hệ với các môn học khác gần gũi hoặc có liên quan với nó.
- Chương trình CCGD nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành - luyện tập và
áp dụng vào thực tiễn.
Đường lối chỉ đạo cuộc CCGD đã nhấn mạnh một nguyên lý rất đúng
đắn: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường
gắn liền với xã hội” [19, tr.14]. Tuy nhiên, chương trình đào tạo các cấp học và
chương trình các môn học trong nhà trường chưa thể hiện đầy đủ nguyên lý
này. Các văn bản “Quy định về Mục tiêu và kế hoạch đào tạo” của trường
PTCS cũng như của trường PTTH đã vạch ra kế hoạch để thực hiện việc kết
157
hợp giáo dục với lao động sản xuất và việc gắn liền nhà trường với xã hội, bao
gồm cả lao động sản xuất, lao động công ích và công tác giáo dục ngoài giờ lên
lớp [xem 3, tr.20-13]. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm tách rời lao động sản xuất
khỏi chương trình học các bộ môn, những bất cập về quản lý điều hành và áp
lực quá lớn mà chương trình học tạo nên đã làm cho kế hoạch nói trên hầu như
không được thực hiện. Trong khi đó, chương trình các môn học, được thể hiện
qua sách giáo khoa, luôn có xu hướng nặng về lý thuyết và nhẹ về thực hành -
luyện tập. Toán là bộ môn có thời lượng thực hành - luyện tập nhiều nhất, qua
việc làm các bài tập. Tuy nhiên, các chuyên gia về giáo dục toán học của nước
ngoài vẫn nhận xét các đề thi toán của Việt Nam còn nặng về lý thuyết. Hơn
nữa, các bài tập toán luôn nặng về học thuật thuần túy mà nhẹ về ứng dụng
trong thực tiễn. Chương trình học các môn khoa học tự nhiên (vật lý, hoá học,
sinh học) cũng nặng về lý thuyết sách vở hơn là thực hành - thí nghiệm và áp
dụng vào thực tiễn, mặc dù đây là các môn khoa học thực nghiệm. Môn Văn -
Tiếng Việt đòi hỏi học sinh lĩnh hội rất nhiều kiến thức các loại, nhưng chưa
chú trọng đầy đủ đến việc rèn luyện các kỹ năng thực hành: đọc hiểu để tự
nâng cao trình độ và mở rộng kiến thức, nói và viết để diễn đạt các ý tưởng và
sáng tác bằng tư duy của chính mình. Các môn khoa học xã hội là công cụ chủ
yếu để gắn liền nhà trường với xã hội. Nhưng chương trình học đã biến các
môn này thành các môn học thuộc lòng, vì học sinh ít được thực hành - luyện
tập (như môn Địa Lý) hoặc hầu như không được thực hành - luyện tập (như các
môn Lịch sử và Giáo dục công dân). Những kiến thức được nhồi nhét bằng
cách học thuộc lòng mà không trải qua việc thực hành - luyện tập sẽ nhanh
chóng bị lãng quên, không thể trở thành học vấn đích thực của học sinh, do đó
không thể áp dụng vào thực tiễn xã hội.
Như vậy, chương trình CCGD không đáp ứng được nguyên lý của chính
cuộc CCGD. Trong khi đó, chương trình học của các nước công nghiệp tiêu
158
biểu lại thể hiện nguyên lý này một cách rất rõ ràng. Chương trình giáo dục
Trung học của Hoa Kỳ luôn khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động xã
hội phục vụ cộng đồng. Kết quả của các hoạt động này được sử dụng khi xếp
loại tốt nghiệp Trung học, và trở thành 1 trong 3 tiêu chuẩn xét tuyển vào Đại
học (hai tiêu chuẩn khác là thành tích học tập ở trung học - GPA và kết quả
trắc nghiệm khả năng học tập - SAT). Chương trình học các môn không dựa
trên những lý thuyết học thuật thuần túy, mà xuất phát từ những yêu cầu của
thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội, nhằm trang bị cho học sinh những kiến
thức thực tiễn đó, để sau khi tốt nghiệp các em có thể sống và giải quyết các
vấn đề do thực tiễn đặt ra bằng trí tuệ của mình. Vì vậy, cùng với những kiến
thức cần thiết được chọn lọc, chương trình học các môn luôn chú trọng việc
thực hành - luyện tập, để gắn liền nhà trường với thực tiễn sản xuất và đời sống
xã hội.
3.2.1. Hiệu lực của chương trình CCGD:
Các đặc tính của Chương trình học chi phối các yếu tố cơ bản của nó, và
các yếu tố cơ bản này sẽ quyết định hiệu lực (hay chất lượng) của chương trình
học. Vì vậy, hiệu lực của Chương trình CCGD sẽ được thể hiện qua hiệu lực
của các yếu tố Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp, Đánh giá và mối quan hệ
giữa các yếu tố đó trong chương trình này.
Hiệu lực của mục tiêu giáo dục :
Như ở trên đã phân tích, trong chương trình giáo dục phổ thông của cuộc
CCGD và cuộc đổi mới giáo dục cuối thế kỷ XX có sự không nhất quán về
mục tiêu giáo dục.
ễÛ cấp độ cao nhất, tôn chỉ của cuộc CCGD và của cuộc đổi mới khác
biệt nhau rất rõ ràng. ễÛ cấp độ trung gian, mục tiêu của nhà trường các cấp
(tức là mục đích – goal) cũng không nhất quán với tôn chỉ giáo dục và không
nhất quán với nhau. Trong khi mục tiêu của trường PTCS (bao gồm cấp I và
159
cấp II) được trình bày theo tôn chỉ của cuộc CCGD, thì mục tiêu của trường
PTTH (cấp III) lại thể hiện tôn chỉ của cuộc đổi mới giáo dục. Khi bậc PTCS
được tách thành bậc Tiểu học (cấp I) và cấp THCS (cấp II) của bậc THPT, thì
cả hai cấp bậc học này trở nên không có mục tiêu. Bất chấp sự thiếu nhất quán
và khiếm khuyết vì mục tiêu giáo dục đó, nội dung và kế hoạch dạy học được
thiết kế từ cuộc CCGD vẫn được thực hiện chặt chẽ trong nhà trường, cả trong
hệ thống tổ chức của cuộc CCGD lẫn trong hệ thống tổ chức của cuộc đổi mới
giáo dục. Điều đó có nghĩa là mọi hoạt động dạy học trong nhà trường vẫn
được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất mà không cần quan tâm đến
những sự thay đổi về tôn chỉ và mục đích giáo dục nêu trên.
ễÛ cấp độ cơ sở, đáng lẽ phải dựa trên mục tiêu cấp học để xác định mục
tiêu các môn học, người ta lại đề ra nhiệm vụ của mỗi bộ môn chỉ thuần túy
dựa trên nội dung của từng môn học. Dĩ nhiên, nhiệm vụ môn học được xác
định như vậy sẽ khó có thể nhất quán với mục tiêu giáo dục của cấp học. Đến
lượt mình, các giáo viên không mấy quan tâm đến nhiệm vụ môn học sẽ xác
định mục tiêu các khoá trình và bài học chỉ dựa trên nội dung của chúng trong
SGK theo quan điểm riêng của mỗi người. Như vậy, cả 3 cấp độ của mục tiêu
giáo dục đều thiếu sự nhất quán với nhau và đều kém hiệu lực. Vì thế, hiệu lực
chung của mục tiêu giáo dục trong chương trình CCGD là rất thấp.
Hiệu lực của Nội dung chương trình :
Như đã phân tích ở trên, chương trình CCGD được xây dựng theo cách
tiếp cận Nội dung, nên chứa đựng nhiều nhược điểm. Xét riêng giữa yếu tố nội
dung cũng thấy rõ những nhược điểm cơ bản: nội dung các môn học nói chung
rất nặng. Bởi vì, chúng không bảo đảm được các đặc trưng của nội dung
chương trình. Nội dung các môn học thường có dung lượng kiến thức lấn át
quá trình của từng kiến thức, bề rộng kiến thức lấn át chiều sâu của chúng. Do
đó, hiệu lực dạy học của mỗi môn học thường lệ thuộc vào quỹ thời gian dành
160
cho nó. Nhìn chung, môn học nào được dành nhiều thời gian hơn thì việc tiến
hành dạy học sẽ có hiệu lực hơn. Môn học nào có bề rộng kiến thức rất lớn, có
dung lượng kiến thức rất nhiều, mà chỉ được dành một khung thời gian rất nhỏ
thì hiệu lực dạy học sẽ rất thấp. Bên cạnh đó, môn học nào bảo đảm được các
trình độ của nội dung kiến thức (từ các sự kiện và quá trình riêng biệt qua các ý
tưởng và nguyên lý cơ bản, rồi đến các khái niệm và các hệ thống tư tưởng) thì
sẽ có hiệu lực dạy học tốt hơn những môn không bảo đảm được đầy đủ các
trình độ đó. Đi sâu vào nội dung các môn học trong chương trình CCGD, có
thể nhận thấy dường như Toán, các môn Khoa học tự nhiên và ngoại ngữ bảo
đảm được tương đối đầy đủ các trình độ của nội dung kiến thức hơn các môn
khoa học xã hội, do đó có hiệu lực dạy học tương đối cao hơn. Trong chương
trình CCGD, bộ môn Lịch sử (cả ở THCS và THPT) có bề rộng kiến thức rất
lớn, dung lượng rất nhiều, lại được thực hiện trong một khung thời gian quá
hẹp, không thể đảm bảo đầy đủ các trình độ của nội dung kiến thức, nên hiệu
lực dạy học của môn này rất thấp. Ngoài ra, nội dung các môn học ở chỗ này
hay chỗ khác cũng không bảo đảm đầy đủ những yêu cầu về tính cập nhật, tính
cơ bản, tinh thần và phương pháp tìm hiểu, nên hiệu lực của chúng cũng bị hạn
chế nhiều. Khi so sánh tương đối giữa các bộ môn với nhau, có thể nhận thấy
hiệu lực của nội dung môn này cao hơn, còn môn khác thấp hơn. Nhưng nói
chung, hiệu lực của nội dung chương trình CCGD, bao gồm tất cả các môn
học, là thấp. Do vậy, để học sinh có thể đạt kết quả học tập ở mức độ nào đó,
người ta phải dạy thêm và học thêm ngoài chương trình rất nhiều. Đối với
những môn mà hiệu lực của nội dung chương trình quá thấp, người ta phải
bằng lòng với việc biến những môn đó thành môn học thuộc lòng câu chữ, và
đánh giá học sinh theo tiêu chuẩn (hay tiêu chí) có “thuộc bài” hay không, một
loại tiêu chuẩn nằm ngoài 6 trình độ của mục tiêu nhận thức do Bloom xác
định.
161
Hiệu lực của phương pháp và tổ chức :
Như ở trên đã phân tích, kiểu chương trình học của cuộc CCGD có xu
hướng coi nhẹ các phương pháp, kỹ năng để thực hành và áp dụng vào đời
sống xã hội.
Mặc dù nguyên tắc chung xây dựng chương trình học các bộ môn có đề ra
việc sử dụng những thành tựu khoa học hiện đại về quan điểm, quy luật và
phương pháp “để phát triển con người học sinh một cách cơ bản, nhanh chóng
và bền vững” [17, tr.28], nhưng khi xây dựng chương trình học của mỗi bộ
môn, yếu tố phương pháp được thể hiện rất mờ nhạt, hoàn toàn bị yếu tố nội
dung lấn át. Các phương pháp dạy học hiện đại hầu như không được đề cập
trong sách giáo khoa (và sách giáo viên đi kèm). Nội dung của các SGK cũng
không thích ứng với các phương pháp dạy học hiện đại. Do vậy, khi áp dụng
chương trình và SGK vào thực tiễn dạy học, các giáo viên chỉ có thể áp dụng
các phương pháp tiếp cận trực tiếp theo kiểu dạy học truyền thống, bao gồm
phương pháp giảng bài, phát vấn, thực hành và luyện tập. Đối với một số môn
mà hiệu lực của nội dung quá thấp, thì ngay cả các phương pháp này cũng khó
có thể thực hiện đầy đủ và tốt: giảng bài gần như biến thành việc tóm lược
SGK để đọc cho học sinh chép, phát vấn thường sử dụng các câu hỏi ở trình độ
thấp, còn thực hành và luyện tập thì hầu như không thực hiện được. Các
phương pháp tiếp cận gián tiếp (dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát hiện và
khám phá, dạy học theo nhóm, dạy học qua hành động, …) và các phương
pháp tiếp cận độc lập (tự học tại trung tâm học liệu, làm việc độc lập theo giao
ước, dạy học vi tính hoá…) đều vắng bóng trong chương trình CCGD. Trong
nhà trường, kiểu dạy học nêu vấn đề đã được đề cập, nhưng được quan niệm
162
như là một cách thức để nâng cao chất lượng bài giảng. Vào đầu thế kỷ XXI,
máy tính điện tử bắt đầu được sử dụng trong dạy học các bộ môn, một số “giáo
án điện tử” đã được thực hiện. Nhưng trong đó máy tính vẫn chỉ là công cụ để
nâng cao chất lượng bài giảng, nghĩa là chưa vượt khỏi giới hạn của phương
pháp tiếp cận trực tiếp.
Cuộc đổi mới giáo dục cuối thế kỷ XX đã dẫn tới những biến đổi quan
trọng về hệ thống tổ chức nhà trường so với hệ thống của cuộc CCGD. Tuy
nhiên, sự biến đổi về tổ chức đó không kéo theo sự biến chuyển của mục tiêu
và nội dung giáo dục, nên chưa thể hiện được hiệu lực tích cực của nó. Nói
chung, yếu tố phương pháp và tổ chức của chương trình CCGD cũng chỉ có
hiệu lực thấp.
Hiệu lực của đánh giá :
Chương trình CCGD đề ra mục tiêu, quy định nội dung, lưu ý về phương
pháp nhưng không hề đề cập về đánh giá. Đây là một thiếu sót rất lớn của một
chương trình học. Mặc dù mục tiêu đào tạo của trường Phổ thông Trung học đã
được cụ thể hoá theo 3 lĩnh vực là Kiến thức (hay nhận thức), Kỹ năng và Thái
độ, nhưng chương trình giáo dục của cấp học này không hề chỉ rõ các mục tiêu
đó sẽ được đánh giá như thế nào và bằng cách nào. Có thể nhận thấy rằng các
nhà xây dựng chương trình CCGD không quan niệm đánh giá là một bộ phận
cơ bản hợp thành một chương trình giáo dục. Do vậy, những thành tựu về lý
thuyết và thực hành của khoa học về đánh giá giáo dục hiện đại cũng hoàn toàn
vắng bóng trong chương trình này.
Việc đánh giá thành quả học tập của học sinh được giao cho các hình thức
kiểm tra và thi ở nhà trường (kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết, thi học kỳ, thi tốt
nghiệp…). Trong các SGK, yếu tố đánh giá được thể hiện qua các câu hỏi và
bài tập.
163
Nói chung, yếu tố đánh giá không được quan tâm đầy đủ, thiếu hẳn mối
quan hệ tương tác với yếu tố mục tiêu, thiên về đánh giá nội dung mà coi nhẹ
về kỹ năng - phương pháp, lại chưa tiếp cận được với các công cụ đánh giá
hiện đại. Do đó, yếu tố đánh giá trong chương trình học này cũng có hiệu lực
rất hạn chế.
Hiệu lực chung của hệ thống các yếu tố cơ bản:
Các phân tích ở trên đã cho thấy hiệu quả của từng yếu tố cơ bản trong
chương trình CCGD là mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức và đánh giá
đều thấp. Do vậy, dĩ nhiên hiệu lực của mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố
này cũng rất thấp. Vì thế, hiệu lực chung của cả hệ thống bao gồm 4 yếu tố cơ
bản trên là thấp. Điều đó có nghĩa là chương trình học của cuộc CCGD có
nhiều nhược điểm làm hạn chế hiệu quả dạy học. Trong suốt 20 năm áp dụng
chương trình học này, những nhược điểm của nó ngày càng bộc lộ rõ ràng, đòi
hỏi phải có một sự đổi mới.
3.2.5. Nhận định chung về chương trình CCGD
Để định hướng cho việc đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục
phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra nhận định chung về chương trình
CCGD đã áp dụng từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX cho đến đầu thế kỷ XXI:
Về mục tiêu chương trình:
Trong khi khẳng định những giá trị truyền thống đã được kế thừa và phát
triển trong chương trình CCGD như lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng
nhân ái, thái độ quý trọng và nhiệt tình lao động, ý thức trách nhiệm, các kỹ
năng cơ bản…, Bộ đã chỉ ra rằng mục tiêu của chương trình này còn thiếu
những giá trị mới xuất hiện trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường, từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công
nghiệp và kinh tế tri thức. Đó là:
164
Tư duy phê phán và khả năng sáng tạo; năng lực tổng hợp, chuyển đổi
và ứng dựng thông tin vào hoàn cảnh mới để giải quyết các vấn đề đặt
ra, để thích ứng với những thay đổi trong cuộc sống; năng lực hợp tác
và giao tiếp có hiệu quả; năng lực chuyển đổi nghề nghiệp theo yêu
cầu mới của sản xuất và thị trường lao động, năng lực quản lý, v.v…
[10].
Khách quan mà nói, các giá trị trên đã được đề cập ít nhiều trong cuộc Đổi mới
giáo dục cuối thế kỷ XX, được trình bày trong mục tiêu đào tạo của trường Phổ
thông Trung học, nhưng không được thể hiện và áp dụng trong chương trình
học đã được thiết kế trong cuộc CCGD.
Về nội dung chương trình:
Bên cạnh những ưu điểm trong việc quán triệt đường lối chính trị của
Đảng và Nhà nước, thực hiện giáo dục toàn diện và có hệ thống giữa các cấp
học, góp phần phổ cập giáo dục, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài … Bộ đã vạch
rõ những hạn chế trong nội dung chương trình CCGD:
Nội dung chương trình và sách giáo khoa còn thiên về lý thuyết, ít các
kiến thức ứng dụng và hoạt động thực hành, ít gắn bó với thực tiễn;
khối lượng và mức độ nội dung ở một số phần của một số môn học
còn nặng và cao, còn có sự trùng lặp giữa một số phân môn và giữa
một số môn học; nhiều thành tựu lớn và mới của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội nhân văn, của công nghệ chưa được giới thiệu hoặc
phản ánh một cách thích hợp trong các môn học [10].
Về phương pháp của chương trình:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đặc biệt quan tâm vạch rõ những nhược điểm của
chương trình và sách giáo khoa CCGD:
Chương trình và Sách giáo khoa hiện hành được soạn thảo thiên về
phương pháp truyền thụ một chiều, tạo nên lối học thụ động, chủ yếu
165
đối phó với thi cử, không thích hợp với cách dạy học tích cực để phát
triển năng lực sáng tạo, năng lực tự học của học sinh và tạo điều kiện
gắn bó học tập với các hoạt động thực tế. [10]
Mặc dù chưa đề cập đến yếu tố đánh giá, các nhận định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về mục tiêu, nội dung và phương pháp của chương trình CCGD là
hoàn toàn xác đáng.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những nhược
điểm của chương trình CCGD. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có những công
trình nghiên cứu vạch rõ những nguyên nhân ấy. Có thể tạm coi nhận xét sau
đây của Hoàng Thị Tuyết (2001) như là nói về một trong những nguyên nhân
ấy:
Việc tiến hành cải cách chương trình đào tạo có thể là một hoạt động
nặng tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa, được thực hiện trên căn cứ
của những quan niệm, ý chí chủ quan, không thực sự dựa trên cơ sở
nghiên cứu lý luận cơ bản về chương trình và xây dựng chương trình
đào tạo. Thực tế này có thể xảy ra, xuất phát từ tiền đề là nước ta
chưa hình thành một ngành khoa học chương trình (Curriculum
Studies). [83, tr.184].
Nếu cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông
khắc phục được những nhược điểm và thiếu sót nêu trên, thì nhà trường phổ
thông nước ta sẽ có một chỗ dựa vững chắc và đúng đắn để tiến hành việc đổi
mới dạy học.
3.3. Cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đầu thế
kỷ XXI
3.3.1. Hoàn cảnh và đường lối đổi mới
Hoàn cảnh kinh tế – xã hội:
166
Từ cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI, đất nước ta bước sang một giai
đoạn phát triển mới. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong cơ chế thị
trường theo định hướng XHCN đã tiến những bước dài và vững chắc. Việc hội
nhập với thế giới bên ngoài ngày càng đi vào chiều sâu và phát huy những tác
dụng tích cực: bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ (1995) đồng thời với việc
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam AÙ (ASEAN), Việt Nam
tham gia Hợp tác kinh tế Châu AÙ – Thái Bình Dương (APEC) năm 1998,
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết năm 2000 và Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2006 … Những chuyển biến trên
tạo nên triển vọng to lớn hướng tới mục tiêu là đến năm 2020 đất nước ta về cơ
bản sẽ trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nguồn lực con người Việt Nam được
phát triển trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy “trước hết phải
chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những
phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn
mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông” [10].
Đường lối đổi mới:
Ngay từ năm 1993, Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung Ương Đảng Khoá 7 đã
nhấn mạnh phải “xác định mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội
dung, phương pháp giáo dục và đào tạo cụ thể của từng bậc học, cấp học,
ngành học” [21, tr.25]. Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung Ương Đảng Khoá 8
(năm 1997) cũng nêu rõ ngành giáo dục cần phải đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục phổ thông cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới của
Đất nước.
Dựa trên đường lối của Đảng, và tờ trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ra nghị quyết số 40/2000/QH10 về
Đổi mối Chương trình Giáo dục Phổ thông, ký ngày 09/12/2000, chính thức
167
khởi đầu cho cuộc đổi mới Chương trình Giáo dục Phổ thông đầu thế kỷ XXI.
Bản nghị quyết này chứa đựng toàn bộ đường lối chung của cuộc đổi mới.
Theo đó:
- Phạm vi đổi mới là chương trình giáo dục phổ thông bao gồm cả mục
tiêu, nội dung, phương pháp, trang thiết bị, tổ chức đánh giá, thi cử … Như
vậy, phạm vi cuộc đổi mới này hẹp hơn so với cuộc CCGD lần thứ 3. Nếu như
cuộc CCGD lần thứ 3 là một cuộc cải cách toàn diện cả hệ thống tổ chức lẫn
chương trình học, thì cuộc đổi mới lần này không đụng chạm đến hệ thống tổ
chức đã được thiết lập từ cuộc đổi mới giáo dục cuối thế kỷ XX mà chỉ tập
trung vào chương trình học. Cuộc đổi mới lần này cũng khác biệt với cuộc đổi
mới cuối thế kỷ XX: cuộc đổi mới lần trước chỉ sửa đổi được hệ thống tổ chức
nhà trường mà giữ nguyên chương trình học do cuộc CCGD để lại, còn cuộc
đổi mới lần này lại giữ nguyên hệ thống tổ chức hiện có mà chỉ sửa đổi chương
trình học.
- Mục tiêu của việc đổi mới chương trình đã được xác định:
Nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ
thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ,
đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt
Nam;tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong
khu vực và thế giới [62].
Mục tiêu trên được cụ thể hoá rõ ràng trong Nghị quyết: khắc phục
những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành; tăng
cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; bổ sung những thành
tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh
[xem 62]. Cụ thể hơn, Nghị quyết còn chỉ rõ chương trình mới phải “bảo đảm
sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, có phương án vận dụng chương
168
trình, sách giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện các địa bàn khác
nhau” [62].
Cơ sở pháp lý của cuộc đổi mới được vạch rõ là Luật Giáo dục ban hành năm
1998: “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu,
yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định
trong Luật Giáo dục” [62]. Luật Giáo dục 1998(và cả Luật Giáo dục 2005)xác
định mục tiêu giáo dục chung(aim) là:
Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,có đạo đức,tri thức,sức
khỏe,thẩm mỹ và nghề nghiệp,trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,phẩm chất và năng
lực của công dân,đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. [61a,61b].
Đường lối mới trên được chính phủ đặt vào vị trí đầu tiên trong “Chiến
lược phát triển Giáo dục 2001-2010”; trong đó nhấn mạnh: “Đổi mới theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và
thế giới” [11].
3.3.2. Quá trình thực hiện đổi mới
Nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đổi mới là xây dựng chương trình học và
biên soạn sách giáo khoa dựa trên chương trình này. Tiến độ thực hiện nhiệm
vụ này được quy định như sau:
Từ năm 2000 đến năm 2005 thông qua thí điểm và trưng cầu ký kiến
rộng rãi để hoàn thiện chương trình, sách giáo khoa, triển khai bồi
dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở từng cấp, bậc học
trong phạm vi cả nước (…).
169
Từ năm học 2002-2003 triển khai dạy học theo các sách giáo khoa đã
được nghiệm thu từ lớp 1 (ở tiểu học) và từ lớp 6 (ở trung học cơ sở).
Dự kiến sẽ triển khai ở trung học phổ thông từ năm học 2004-2005.
Như thế đến năm học 2006-2007 sẽ hoàn thành triển khai dạy học
theo chương trình và sách giáo khoa mới ở tất cả các cấp, các bậc học
ở Phổ thông (…) [15].
Đổi mới chương trình bậc Tiểu học
Việc soạn thảo chương trình tiểu học được bắt đầu từ năm 1996 do một
ban gồm 75 thành viên thuộc 21 cơ quan và trường học đảm nhiệm. Từ năm
1998, bản dự thảo chương trình tiểu học mới được hoàn thành, được trưng cầu
ý kiến các cơ quan của Bộ, các chuyên gia và các Sở Giáo dục và Đào tạo
trong cả nước. Tiếp theo đó, các sách giáo khoa (SGK) thí điểm được biên soạn
theo chương trình này và lần lượt đưa vào giảng dạy thử nghiệm từ lớp 1 đến
lớp 5; đồng thời tiến hành thẩm định chương trình và SGK để hoàn thiện
chúng.
Chương trình mới của bậc Tiểu học được chính thức ban hành vào tháng
9 năm 2001.
Từ năm 2002, chương trình và SGK mới bắt đầu được áp dụng đại trà
trên toàn quốc theo đúng kế hoạch cho từng cấp lớp:
Lớp 1 : từ năm học 2002 - 2003
Lớp 2 : từ năm học 2003 - 2004
Lớp 3 : từ năm học 2004 - 2005
Lớp 4 : từ năm học 2005 - 2006
Lớp 5 : từ năm học 2006 - 2007
Đổi mới chương trình Trung học cơ sở
Việc soạn thảo chương trình Trung học cơ sở (THCS) được khởi đầu từ
năm 1997 do một tập đoàn bao gồm 57 chuyên gia và cộng tác viên thực hiện.
170
Năm 1998, bản dự thảo chương trình THCS được hoàn thành và được trưng
cầu ý kiến của Viện khoa học giáo dục, Viện phát triển giáo dục, một số trường
cao đẳng sư phạm và trường cán bộ quản lý giáo dục, các cơ sở Giáo dục và
Đào tạo, các phòng Giáo dục và Đào tạo và một số chuyên gia Giáo dục. Năm
1999 chương trình được thẩm định để sửa chữa. Từ đó, việc biên soạn SGK thí
điểm theo chương trình dạy học mới được thực hiện. Từ năm học 2000 - 2001
việc dạy học thí điểm theo chương trình và SGK mới bắt đầu được thực hiện
tại 151 trường THCS được lựa chọn trên toàn quốc. Sau khi được điều chỉnh
trong quá trình thí điểm, chương trình THCS mới được chính thức ban hành
vào tháng 1 năm 2002, chương trình và SGK mới được áp dụng đại trà cho
từng cấp lớp theo trình tự sau:
Lớp 6 : từ năm học 2002 - 2003
Lớp 7 : từ năm học 2003 - 2004
Lớp 8 : từ năm học 2004 - 2005
Lớp 9 : từ năm học 2005 - 2006
Đổi mới chương trình trung học phổ thông
Chương trình Trung học Phổ thông (THPT) được bắt đầu soạn thảo gần
như đồng thời với chương trình THCS, với sự tham gia của các chuyên gia giáo
dục hàng đầu (nhiều người trong số đó tham gia cùng một lúc cả hai chương
trình THPT và THCS) và các cộng tác viên được lựa chọn. Tuy nhiên, tiến độ
của công việc đã diễn ra chậm hơn so với chương trình THCS và so với dự
kiến, do tính phức tạp của một chương trình phân ban và những vấn đề mới
phát sinh trong quá trình soạn thảo.
Theo định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình THPT mới
là một chương trình học phân ban:
ễÛ Trung học Phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban mới với
các yêu cầu: phổ thông, cơ bản, toàn diện và phân hoá. Cụ thể là sẽ
171
chia làm 2 ban (Ban Khoa Học Tự Nhiên và Ban Khoa Học Xã Hội
và Nhân Văn), bắt đầu phân ban từ lớp 10. Đối với các môn phân hoá
(đó là Toán, Lý, Hoá, Sinh trong Ban Khoa học Tự nhiên và Ngữ
văn, Sử, Địa trong Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn) thì sự chênh
lệch giữa chương trình phân ban với chương trình tối thiểu không
được vượt quá 20%. Các môn còn lại của từng ban thì học sinh cả 2
ban đều học theo một chương trình thống nhất. [15]
Theo định hướng này, chương trình thí điểm THPT đã được xây dựng và
ban hành tháng 11 năm 2002. Dựa trên chương trình này, các SGK thí điểm đã
được biên soạn và lần lượt đưa vào dạy học thí điểm tại một số trường THPT
được lựa chọn trên toàn quốc: Lớp 10 từ năm học 2003 -2004, lớp 11 từ năm
học 2004 -2005 và lớp 12 từ năm học 2005 -2006. Quá trình dạy học thí điểm
đã cho thấy chương trình và SGK phân ban còn nhiều vấn đề bất ổn, ngay từ
cách phân chia 2 ban theo định hướng như trên. Tại các trường dạy thí điểm,
tuyệt đại đa số học sinh chọn học ban Khoa học Tự nhiên (thường gọi là Ban
A), chỉ một số rất ít học sinh chọn học ban Khoa học Xã hội và Nhân văn
(thường gọi là Ban C). Ngay trong số ít này, nhiều em chọn ban đó không phải
vì ham thích hay có năng khiếu, mà vì các em không còn khả năng lựa chọn
nào khác. Thêm vào đó, Quốc Hội lại cho ban hành Luật Giáo dục sửa đổi vào
năm 2005. Điều này có nghĩa là cơ sở pháp lý của cuộc đổi mới chương trình
giáo dục Phổ thông đã được sửa đổi. Sự sửa đổi quan trọng nhất của Luật Giáo
dục 2005 so với Luật Giáo dục 1998 ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đổi mới là
sự bổ sung một điều luật (điều 29) về chương trình giáo dục phổ thông và
SGK:
Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ
thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và hình thức tổ
172
chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với
các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông [61b].
Quả thật những quy định về điều khoản trên cho thấy một nhận thức khá
đầy đủ và phù hợp với khoa học giáo dục hiện tại về chương trình học. Điều
luật này đòi hỏi phải xem xét lại tất cả các chương trình học đã được xây dựng
của cuộc đổi mới.
Với tất cả các lý do trên, việc điều chỉnh và hoàn thiện chương trình giáo
dục phổ thống mới đã được thực hiện từ tháng 12-2003 với sự tham gia của
135 chuyên gia giáo dục và 106 cộng tác viên, dưới sự chủ trì của Viện Chiến
lược và Chương trình giáo dục. Việc điều chỉnh và hoàn thiện đã dẫn đến
những sự sửa đổi quan trọng đối với chương trình THPT. Trong khi ban A
được giữ nguyên với 4 môn chính được nâng cao trình độ lên 20%, thì ban C
được bổ sung thêm môn Ngoại ngữ trở thành môn chính cùng với Văn, Sử,
Địa. Nhưng quan trọng hơn là việc đưa thêm một “ban” mới vào chương trình
học: ban “Cơ bản” (tạm gọi tắt là ban B) không áp dụng chương trình và SGK
của những môn chính thuộc hai ban kia, mà theo chương trình và SGK của
những môn không nâng cao trình độ của hai ban đó. Nói cách khác, ban B là
một chương trình không phân ban, được kết hợp với chương trình của hai ban
kia thành chương trình THPT mới. Trong chương trình mới này, chương trình
phân ban được gọi là chương trình nâng cao. Như vậy, chương trình phân ban
theo kế hoạch ban đầu đã trở thành chương trình dạy học phân hoá bằng phân
ban kết hợp với dạy học tự chọn.
Chương trình giáo dục phổ thông mới được Bộ Giáo dục và Đào tạo
chính thức ban hành tháng 5 năm 2006. Theo đó, chương trình và SGK mới
của trường THPT được áp dụng đại trà trên toàn quốc cho từng cấp lớp theo
trình tự như sau:
Lớp 10 : từ năm học 2006 – 2007
173
Lớp 11 : từ năm học 2007 – 2008
Lớp 12 : từ năm học 2008 – 2009
Thực tế ở nhà trường THPT năm học 2006 -2007 cho thấy đa số học sinh
chọn chương trình chuẩn (tức là ban cơ bản), một số học sinh có năng lực khá
giỏi chọn chương trình nâng cao về khoa học tự nhiên (tức ban A), số ít các em
chọn chương trình nâng cao về khoa học xã hội và nhân văn (tức ban C với 4
môn nâng cao là Văn, Sử, Địa và Ngoại Ngữ).
3.3.3. Khái quát Chương trình Giáo dục Phổ thống mới
Chương trình Giáo dục Phổ thông mới gồm 3 bộ phận: những vấn đề
chung, chương trình các môn học, chương trình các cấp học.
Những vấn đề chung:
Chương trình có tất cả 5 vấn đề chung được nêu rõ: Mục tiêu giáo dục phổ
thông; kế hoạch giáo dục phổ thông, và yêu cầu đối với nội dung giáo dục;
chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của chương trình giáo dục,
phương pháp và tổ chức hoạt động giáo dục; đánh giá kết quả giáo dục.
- Mục tiêu giáo dục phổ thông được nêu rõ theo Luật Giáo dục:
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách
và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc [12a, tr.5].
Văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định rõ: “Mục tiêu của giáo
dục phổ thông được cụ thể hoá ở mục tiêu các cấp học và mục tiêu các môn
học, các hoạt động giáo dục” [12a, tr.5].
174
- Kế hoạch giáo dục phổ thông và yêu cầu đối với nội dung giáo dục
cũng được vạch rõ.
Kế hoạch giáo dục phổ thông được thiết kế bao quát và xuyên suốt từ
tiểu học qua THCS đến THPT với thời lượng tối thiểu là 35 tuần/năm cho mỗi
cấp học, gồm có kế hoạch dạy học môn học và hoạt động giáo dục của từng
cấp lớp. Thực hiện kế hoạch trên, nội dung giáo dục phổ thông phải đạt 5 yêu
cầu:
a) Bảo đảm giáo dục toàn diện (...) đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
b) Bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, hiện đại, hướng nghiệp và có hệ
thống, chú trọng thực hành, gắn với thực tiễn cuộc sống (…)
c) Tạo điều kiện (…) phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh (…).
d) Bảo đảm tính thống nhất của chương trình giáo dục phổ thông
trong phạm vi cả nước, đồng thời có thể vận dụng cho phù hợp
với đặc điểm các vùng miền, nhà trường và các nhóm đối tượng
học sinh.
e) Tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước có nền giáo
dục phát triển trong khu vực và thế giới. [12a, tr.8]
- Chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của chương trình cũng
được quy định:
Chuẩn kiến thức, kỹ năng là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến
thức, kỹ năng của môn học, hoạt động giáo dục mà học sinh cần
phải và có thể đạt được sau từng giai đoạn học tập. Mỗi cấp học có
chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ mà học sinh cần
phải đạt được [12a, tr.8].
175
Văn bản của Bộ cũng chỉ rõ: “Chuẩn kiến thức, kỹ năng là căn cứ để
biên soạn SGK, quản lý dạy học, đánh giá kết quả giáo dục ở từng môn học,
hoạt động giáo dục” [12a, tr.8]. Bộ cho rằng đó chính là căn cứ để “bảo đảm
tính thống nhất, tính khả thi của chương trình giáo dục phổ thông; bảo đảm
chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục” [12a, tr.8].
- Phương pháp và tổ chức hoạt động giáo dục được trình bày khá cụ thể:
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy được tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng môn
học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi
dưỡng cho học sinh phương pháp tự chọn, khả năng hợp tác, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức và thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh
[12a, tr.9].
Văn bản của Bộ quy định tổ chức giáo dục phổ thông bao gồm các hình
thức tổ chức dạy học và hoạt động giáo dục trên lớp, trong và ngoài nhà
trường; phải bảo đảm “cân đối, hài hoà giữa dạy học các môn học và hoạt động
giáo dục; giữa dạy học theo lớp; nhóm và cá nhân; bảo đảm chất lượng giáo
dục chung cho mọi đối tượng và tạo điều kiện phát triển năng lực cá nhân của
học sinh” [12a, tr.9]. Văn bản cũng yêu cầu “giáo viên chủ động lựa chọn, vận
dụng các phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục cho phù hợp với nội
dung, đối tượng và điều kiện cụ thể” [12a, tr.9].
- Đánh giá kết quả giáo dục, lần đầu tiên được coi là một vấn đề chung
của chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam, đã được trình bày trong văn
bản của Bộ. Chức năng của đánh giá được vạch rõ: “Đánh giá kết quả giáo dục
của học sinh ở các môn học và hoạt động giáo dục trong mỗi lớp, mỗi cấp học
nhằm xác định mức độ đạt được mục tiêu giáo dục, làm căn cứ để điều chỉnh
176
quá trình giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện” [12a,
tr.9].
Nguyên tắc đánh giá cũng được quy định cụ thể:
a) Bảo đảm tính khách quan, toàn diện, khoa học và trung thực;
b) Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ được
cụ thể hoá ở từng môn học, hoạt động giáo dục;
c) Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ, đánh
giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, đánh giá của nhà
trường và đánh giá của gia đình, của cộng đồng;
d) Kết hợp giữa hình thức trắc nghiệm khách quan, tự luận và các
hình thức đánh giá khác;
e) Sử dụng công cụ đánh giá thích hợp [12a, tr.10].
Văn bản cũng chỉ rõ hình thức đánh giá: “Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định việc đánh giá bằng điểm kết hợp với nhận xét của giáo viên hoặc chỉ đánh
giá bằng nhận xét của giáo viên cho từng môn học và hoạt động giáo dục”
[12a, tr.10]. Quá trình tiến hành đánh giá cũng được quy định: “Sau mỗi lớp,
cấp học có đánh giá xếp loại kết quả giáo dục của học sinh. Kết thúc lớp 12, tổ
chức kì thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông”. [12a, tr.10]. Tất cả các vấn đề
chung nêu trên được thể hiện qua chương trình các môn học ở cả 3 cấp học:
Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học Phổ thông.
Chương trình tiểu học:
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học được trình bày theo Luật Giáo dục:
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và
177
trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học
cơ sở [12b].
Theo mục tiêu này, chương trình các môn học từ lớp I đến V được trình
bày trong kế hoạch giáo dục như sau:
Hình 3.3. Bảng tóm tắt kế hoạch giáo dục của trường Tiểu học
Môn học và Hoạt động Giáo dụcSố tiết mỗi tuần ở các lớp
I II III IV VTiếng Việt Toán Đạo ĐứcTự nhiên và Xã hội Khoa họcLịch sử và Địa lý Âm nhạc Mĩ thuật Thủ công Kĩ thuật Thể dục Tự chọn (không bắt buộc) Giáo dục tập thể
10411--111-1.2
9511--111-2.2
8512--111-2.2
851-2211-12.2
851-2211-12.2
Giáo dục ngoài giờ lên lớp 4 tiết/tháng
Tổng số tiết/tuần 22+ 23+ 23+ 25+ 25+
Ghi chú: mỗi tiết trung bình 35 phút
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) [12a]
Theo kế hoạch trên, mỗi cấp lớp có quy định những “yêu cầu cần đạt” (thực
chất là mục tiêu của cấp lớp) đối với học sinh. Chẳng hạn, yêu cầu đối với lớp
1:
Học hết lớp 1 học sinh cần đạt được những yêu cầu sau:
1. Đọc đúng và rõ ràng bài văn đơn giản (tốc độ khoảng 30tiếng/1
phút), hiểu nghĩa các từ thông thường và ý của câu đã học. Viết
đúng chữ thường, chép đúng chính tả đoạn văn (khoảng 30 chữ 15
178
phút). Nghe hiểu lời giảng và hướng dẫn học tập của giáo viên.
Nói rõ ràng, trả lời được câu hỏi dạng đơn giản.
2. Biết đếm, đọc, viết, so sánh, cộng, trừ (không nhớ) các số trong
phạm vi 100. (…)
3. Biết cách ngồi học đúng tư thế, giữ vệ sinh cá nhân, vui chơi an
toàn. Biết các thành viên trong gia đình, lớp học. (…).
4. Biết sử dụng bút chì, sáp màu, thước kẻ, kéo… để vẽ, xé, gấp một
sô” hình đơn giản. (…).
5. Làm quen với một số bài tập rèn luyện tư thế cơ bản, thể dục phát
triển toàn thân và trò chơi vận động.
6. Thích đi học, yêu quý người thân trong gia đình, thầy cô giáo, bạn
bè, trường lớp; gần gũi với thiên nhân. [12b].
Mỗi môn học cũng đều có mục tiêu cho cả lớp học. Thí dụ mục tiêu của môn
Toán:
Môn Toán ở trường tiểu học nhằm giúp học sinh:
1. Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên,
phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng; một số yếu tố
đại số, hình học và thống kê đơn giản.
2. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải toán có
nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống.
3. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là năng
lực trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng suy luận hợp lý và
diễn đạt đúng (nói và viết) các phát hiện và cách giải quyết vấn đề
đơn giản, gần gũi trong cuộc sống (…). [12b].
Những yêu cầu (tức mục tiêu) của cấp lớp và các mục tiêu môn học như trên
được coi là sự cụ thể hoá mục tiêu cấp học và những yêu cầu về nội dụng,
phương pháp giáo dục tiểu học được quy định trong Luật Giáo dục.
179
Chương trình Trung học cơ sở:
Mục tiêu của giáo dục Trung học cơ sở cũng được trình bày theo luật giáo dục:
Giáo dục Trung học cơ sở giúp học sinh củng cố, phát triển những kết
quả của giáo dục Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
Trung học Phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động [12c].
Đây là mục tiêu chung mang tính định hướng khái quát ở cấp độ tôn chỉ (aim).
Trong chương trình THCS (thí điểm) được công bố vào tháng 5 - 2001, mục
tiêu chung này đã được cụ thể hoá thành các mục tiêu cụ thể về phẩm chất,
kiến thức, kỹ năng và năng lực mà học sinh cần đạt được. Theo mục tiêu như
trên, kế hoạch giáo dục THCS đã được trình bày chương trình các môn học từ
lớp VI đến lớp IX theo bảng sau:
Hình 3.4. Bảng tóm tắt kế hoạch giáo dục của trường Trung
học cơ sở
Môn học và Hoạt động Giáo dục
Số tiết mỗi tuần ở các lớpVI VII VIII IX
Ngữ văn 4 4 4 5
Toán 4 4 4 4
Giáo dục Công dân 1 1 1 1
Vật lý 1 1 1 2
Hoá học 2 2
Sinh học 2 2 2 2
Lịch sử 1 2 1,5 1,5
Địa lý 1 2 1,5 1,5
Âm nhạc 1 1 1 0,5
Mĩ thuật 1 1 1 0,5
Công nghệ 2 1,5 1,5 1
Thể dục 2 2 2 2
Ngoại ngữ 3 3 3 2
Tự chọn 2 2 2 2
Giáo dục tập thể
180
Giáo dục ngoài giờ lên lớp 4 tiết/tháng
Giáo dục hướng nghiệp 3 tiết/tháng
Tổng số tiết/tuần 27+ 28,5+ 29,5+ 29+
Ghi chú: mỗi tiết 45 phút
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) [12c]
Khác với chương trình tiểu học, chương trình THCS không trình bày yêu cầu
cần đạt (tức mục tiêu) của từng cấp lớp; nhưng mỗi môn học đều có mục tiêu
cho cả cấp học. Thí dụ mục tiêu của môn Ngữ văn:
Môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở nhằm giúp học sinh:
1. Có những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về văn học và
tiếng việt bao gồm: kiến thức về những tác phẩm, đoạn trích tiêu
biểu cho một số thể loại văn học Việt Nam và một số tác phẩm,
trích đoạn văn học nước ngoài; (…).
2. Hình thành và phát triển các năng lực ngữ văn, bao gồm: năng lực
sử dụng tiếng Việt thể hiện ở 4 kỹ năng cơ bản (đọc, viết, nghe,
nói); năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự
học và năng lực thực hành, ứng dụng.
3. Có tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hoá, tình yêu gia đình, thiên
nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lý
tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; ý thức trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế; ý thức tôn
trọng, phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại [12c,
tr.11].
Mục tiêu của các môn học được coi là sự cụ thể hoá mục tiêu cấp học đã
trình bày ở trên. Mục tiêu này sẽ chi phối nội dung môn học, phương pháp dạy
học và cách thức đánh giá thành quả học tập của học sinh trong chương trình
THCS.
181
Chương trình Trung học phổ thông:
Theo Luật Giáo dục, mục tiêu của giáo dục THPT là:
Giáo dục Trung học Phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố phát
triển những kết quả của giáo dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học
vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy
năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động [12d, tr.7].
Là một bộ phận của mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung (ở cấp độ
tôn chỉ-aim), mục tiêu của cấp THPT nêu trên cần được cụ thể hoá (ở cấp độ
mục đích - goal) để có thể chi phối nội dung, phương pháp và đánh giá trong
chương trình học, nhất là đối với một chương trình dự định phân ban (sau trở
thành dạy học phân ban kết hợp với dạy học tự chọn). Kế hoạch giáo dục
THPT được trình bày theo bảng sau:
Hình3.5. Bảng tóm tắt kế hoạch giáo dục của trường Trung học
phổ thông
Môn học và hoạt động giáo dục
Lớp X (số tiết) Lớp XI (số tiết) Lớp XII (số tiết)KHTN KHXH-
NVCơ bản
KHTN KHXH-NV
Cơ bản
KHTN KHXH-NV
Cơ bản
Ngữ văn 3 4 3 3,5 4 3,5 3 4 3
Toán 4 3 3 4 3,5 3,5 4 3,5 3,5
Giáo dục CD 1 1 1 1 1 1 1 1 1
Vật lý 2,5 2 2 2,5 2 2 3 2 2
Hoá học 2,5 2 2 2,5 2 2 2,5 2 2
Sinh học 1,5 1 1 1,5 1,5 1,5 2 1,5 1,5
Lịch sử 1,5 1,5 1,5 1 2 1 1,5 2 1,5
Địa lý 1,5 2 1,5 1 1,5 1 1,5 2 1,5
Công nghệ 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1 1 1
Thể dục 2 2 2 2 2 2 2 2 2
Ngoại ngữ 3 4 3 3 4 3 3 4 3
Tin học 2 2 2 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5 1,5
Giáo dục QP&AN 35 tiết/năm
182
Tự chọn 1,5 1,5 4 1 1 4 1,5 1,5 4
Giáo dục tập thể 2 2 2 2 2 2 2 2 2
Giáo dục ngoài giờ lên lớp
4 tiết/tháng
3 tiết/tháng
3 tiết/tuần
Giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục nghề phổ thông
Tổng số tiết/tuần 29,5+ 29,5+ 29,5+ 28+ 29,5+ 29,5+ 29,5+ 30+ 29,5+
Ghi chú: - Mỗi tiết 45 phút
- Các chữ viết tắt: KHTN: ban khoa học tự nhiên
KHXH-NV: ban khoa học xã hội và nhân văn.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo 920060 [12d]
Dựa trên kế hoạch này, chương trình học của các bộ môn được xây dựng
cho 3 ban và SGK được biên soạn theo chương trình đó. Ban khoa học tự nhiên
dạy học theo chương trình nâng cao đối với 4 môn học: Toán, Vật lý, Hoá học,
Sinh học, theo chương trình chuẩn đối với các môn học còn lại và theo chủ để
tự chọn. Ban khoa học Xã hội và Nhân văn dạy học theo chương trình nâng cao
đối với 4 môn học: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ; theo chương trình
chuẩn đối với các môn học còn lại và theo các chủ đề tự chọn. Ban Cơ bản dạy
học theo chương trình chuẩn và theo các môn học tự chọn hay chủ đề tự chọn.
Các môn học tự chọn được lựa chọn trong 8 môn học theo chương trình nâng
cao.
Cũng như chương trình THCS, chương trình THPT không trình bày yêu
cầu cần đạt (tức mục tiêu) của từng cấp lớp; nhưng mỗi môn học đều có mục
tiêu cho cả cấp học đối với chương trình chuẩn và chương trình nâng cao. Đối
với 8 bộ môn có cả chương trình chuẩn và chương trình nâng cao, thì mục tiêu
chủ yếu được xác định cho chương trình chuẩn, từ đó phát triển thêm mục tiêu
của chương trình nâng cao. Thí dụ mục tiêu chương trình chuẩn của môn Lịch
sử:
183
Môn Lịch sử ở Trung học Phổ thông nhằm giúp học sinh:
1. Về kiến thức:
- Hiểu biết sâu hơn, có hệ thống về quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc từ nguồn gốc đến nay trên cơ sở nắm được những sự kiện nổi
bật, những chuyển biến chính của mỗi thời kỳ lịch sử, những mối
quan hệ của lịch sử dân tộc với tiến trình phát triển của lịch sử loài
người, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX đến nay.
- Nắm được sự kiện lịch sử cơ bản, tiêu biểu cho những bước phát
triển chủ yếu, những chuyển biến quan trọng trong lịch sử thế giới từ
thời cổ đại đến nay (...).
- Hiểu biết một số nội dung cơ bản, cần thiết trong nhận thức xã
hội như: kết cấu xã hội loài người, mối quan hệ giữa các yếu tố trong
cơ cấu hệ thống xã hội, đặc biệt là vai trò to lớn của sản xuất (vật
chất, tinh thần) trong tiến trình lịch sử, vai trò của quần chúng nhân
dân và cá nhân trong lịch sử, nguyên nhân và động lực tạo ra các
chuyển biến lịch sử, quy luật vận động lịch sử.
2. Về kỹ năng:
- Hình thành các kỹ năng cần thiết trong học tập bộ môn (...).
- Hình thành năng lực phát hiện, đề xuất và giải quyết các vấn đề
trong học tập lịch sử (….).
- Tiếp tục rèn luyện năng lực tự học, tự làm giàu trí thức lịch sử
qua các nguồn sử liệu khác nhau.
3. Về thái độ:
- Có lòng yêu quê hương, đất nước gắn liền với CNXH, lòng tự
hào dân tộc, trân trọng các di tích lịch sự dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
184
- Có thái độ tôn trọng đối với các nền văn hoá, các dân tộc trên thế
giới, có tinh thần quốc tế chân chính.
- Có niềm tin về sự phát triển từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn
minh của lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc để góp phần vào cuộc đấu
tranh xã hội.
- Có những phẩm chất cần thiết của người công dân: thái độ tích
cực vì xã hội, tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng, yêu lao động,
sống nhân ái, có kỷ luật, tôn trọng và làm theo pháp luật. [12d,
tr.575-576].
Thêm vào đó, chương trình nâng cao môn Lịch sử có mục tiêu như sau:
Ngoài mục tiêu chung đã được xác định trong chương trình chuẩn,
chương trình nâng cao còn nhằm nâng cao hiểu biết nội dung, rèn
luyện kỹ năng học tập lịch sử, phát huy khả năng tìm tòi sáng tạo về
một số vấn đề lịch sử cho những học sinh có năng lực, hứng thú về
lịch sử, qua đó góp phần phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu
bộ môn, tạo nguồn cho việc đào tạo các ngành khoa học xã hội và
nhân văn [12d, tr.622].
Cùng với mục tiêu và kế hoạch giáo dục được cụ thể hoá thành chương
trình các môn học, chương trình giáo dục THPT còn nhấn mạnh chuẩn kiến
thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ, vạch rõ phương pháp và hình thức tổ chức
các hoạt động giáo dục, quy định về đánh giá kết quả giáo dục Trung học Phổ
thông chiếu theo văn bản về “Những vấn đề chung” đã trình bày ở phần trên.
3.3.4. Những phản hồi ban đầu:
Cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đầu thế kỷ XXI đã tạo
nên một Chương trình Giáo dục Phổ thông mới được áp dụng trên toàn quốc từ
năm học 2002-2003 (đối với bậc Tiểu học và cấp THCS) và từ năm học 2005 -
2007 (đối với cấp THPT). Chương trình này đã được xây dựng theo một đường
185
lối đổi mới đúng đắn với một tiến độ hợp lý. Chương trình cũng thể hiện sự đổi
mới quan niệm về chương trình học, tiếp cận được với khoa học giáo dục hiện
đại về phát triển chương trình học (curriculum development) dựa trên 4 yếu tố
cơ bản là Mục tiêu (Objective), Nội dung (Subject Matter), Phương pháp và tổ
chức (Method and Organization) và Đánh giá (Evaluation). Thực hiện nguyên
tắc tích hợp các môn học một cách linh hoạt với các hình thức, mức độ phù hợp
với điều kiện cụ thể của nước ta, chương trình đã thể hiện một quan điểm đúng
đắn theo xu hướng chương trình học hiện đại. Quan điểm về chuẩn của chương
trình bao gồm chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ, nếu được xem xét trong mối
quan hệ tương tác giữa mục tiêu với nội dung, phương pháp và đánh giá, sẽ có
tác dụng tích cực đối với hiệu lực của chương trình. Việc xây dựng một chương
trình dạy học phân hoá bằng phân ban kết hợp với dạy học tự chọn ở cấp THPT
là một bước tiến theo xu hướng giáo dục hiện đại trên thế giới.
Những đường lối, nguyên tắc và quan niệm đúng đắn trên cho phép nhận
định bước đầu rằng chương trình Giáo dục Phổ thông mới đã được thiết kế tốt
hơn, để áp dụng thay cho Chương trình CCGD đã bộc lộ nhiều nhược điểm và
bất cập. Tuy nhiên, hiệu lực thực sự của chương trình mới với những mặt mạnh
và mặt yếu của nó sẽ chỉ bộc lộ qua quá trình áp dụng chương trình và SGK
trong thực tiễn dạy học ở nhà trường. Chương trình mới được áp dụng chưa
lâu, nên những thông tin về nó vẫn chỉ là những phản hồi ban đầu, chưa đủ để
phán xét nhưng có thể dùng làm dữ liệu nghiên cứu.
Về chương trình Tiểu học:
Những phản hồi từ việc áp dụng SGK mới biên soạn theo chương trình
mới nhìn chung là tích cực. Cô giáo Đặng Thị Kim Quy, Hiệu trưởng trường
Tiểu học Xuân Hoà (Vĩnh Phúc) phát biểu trên báo Giáo dục và Thời đại:
Tôi thấy ưu điểm của SGK Tiếng Việt 1 mới là đã chú trọng cả 4 kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết. (…). Qua thực tế giảng dạy chương trình
186
này ở Trường, chúng tôi thấy học sinh tiếp thu rất tốt, hoạt bát hơn,
có hứng thú trong học tập.(…). Qua quá trình dạy thực nghiệm,
chúng tôi cảm thấy rất yêu tâm phấn khởi với chương trình mới [149,
số 106 ngày 03/9/2002].
Cô giáo Nguyễn Minh Phương của Trường Tiểu học Việt Nam - CuBa
(Hà Nội) cho biết:
Cho đến nay, chúng tôi thấy có thể yên tâm về cuốn SGK Tiếng Việt
mới này (cả về trình độ dạy của GV và tiếp thu của HS). Một ưu
điểm khi thực hiện chương trình này là HS phát huy được ý thức tự
giác trong học tập cao hơn. Tuy vậy, để tiếp thu tốt chương trình này
theo mục đích đề ra, HS trước khi vào lớp 1 nhất thiết phải được học
chương trình mẫu giáo. [149, số 106 ngày 03/9/2002].
Bên cạnh đó, vẫn có một số phê phán theo hướng phản bác. Khi cuốn
SGK Tiếng Việt 1 bắt đầu được áp dụng, có một số ý kiến cho rằng xưa nay
các SGK đầu cấp tiểu học đều dạy theo thứ tự bảng chữ cái (a, b, c); SGK
Tiếng Việt 1 cho học chữ e, b đầu tiên là đi ngược trình tự, phản khoa học. Một
số ý kiến chỉ trích việc dạy viết hoa, dạy các dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng)
không theo trình tự cần thiết. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nghiêm túc xem xét
để trả lời đầy đủ và thoả đáng các ý kiến này, trong đó việc bắt đầu dạy từ chữ
e “chỉ là một phương án giảng dạy cụ thể, hoàn toàn không phải là sự thay đổi
thứ tự bảng chữ cái” [149, số 108 ngày 10/9/20002].
Trong suốt quá trình dạy học theo chương trình mới từ lớp 1 đến lớp 5,
giáo viên có một số băn khoăn thắc mắc về phương pháp dạy học mới và cách
đánh giá mới về kết quả học tập của học sinh (tại sao chỉ tính điểm trung bình
hai môn Toán và Tiếng Việt? Mẫu đề kiểm tra chung và các hình thức đánh giá
khác được thực hiện như thế nào?...). Những băn khoăn thắc mắc này dần dần
được giải toả trong quá trình thực hiện.
187
Về chương trình Trung học cơ sở:
Từ khi thực hiện thí điểm cho đến khi áp dụng đại trà, những phản hồi về
chương trình và SGK mới của cấp THCS chủ yếu theo hướng tích cực. Tại Hội
nghị sơ kết sau nửa năm thí điểm lớp 6, đại diện 11 tỉnh thành tham gia thí
điểm đều khẳng định những ưu điểm của chương trình và SGK mới. Cô giáo
Phạm Thị Lai, Hiệu trưởng Trường THCS Bàn Cờ, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
phát biểu:
Chương trình THCS thí điểm đã đáp ứng được sự mong đợi của mọi
người. Giáo viên thích dạy theo SGK mới và tích cực nghiên cứu bài
giảng vì họ cũng thấy rằng cần dạy và học như vậy mới có thể đáp
ứng được yêu cầu phát triển hiện nay. [152, ngày 13/2/2001].
Ông Trần Văn Đồng, đại diện Sở Giáo dục và Đào tạo Bạc Liêu khẳng
định:
Chương trình và SGK mới đã làm được việc quan trọng là trong 1
giờ học, cả những học sinh kém lẫn học sinh khá đều có thể bày tỏ ý
kiến của mình về một vấn đề nào đó, gây được sự hứng thú cho cả
lớp học [152, ngày 13/2/2001].
Đại diện Phòng Giáo dục huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh nhấn mạnh rằng
chương trình và SGK mới đã từng bước “gắn học với hành”, “tăng cường được
khả năng tự tư duy cho học sinh” [152, ngày 13/2/2001].
Trong quá trình áp dụng đại trà từ lớp 6 đến lớp 9, Chương trình và SGK
mới cũng nhận được nhiều nhận xét tốt. Cô giáo Nguyễn Thị Bằng ở Trường
THCS Yên Hoà, Cầu Giấy, Hà Nội nhận xét về SGK Sinh học 6: “SGK đã đổi
mới cách viết từ thông báo kiến thức chuyển sang tổ chức các hoạt động học
tập thể HS khám phá kiến thức mới. Sách không nhồi nhét các kiến thức hàn
lâm mà trang bị cho HS phương pháp quan sát, nhận xét, phân tích, khái quát
hoá kiến thức”. [149, số 129 ngày 26/10/2002]. Ông Trần Đồng Quang, nhà
188
giáo hưu trí ở phường Yên Phụ, Hà Nội nhận định về sách Ngữ Văn 6: “SGK
đã quán triệt 4 mục tiêu: tích hợp, giảm tải, thực hành, thực tế thông qua việc
rèn 4 kỹ năng: đọc, nghe, nói, viết hợp với 4 loại học sinh giỏi, khá, trung bình,
yếu kém” [149, số 129 ngày 26/10/2002]. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng những
ý kiến phê phán chương trình các môn học. Nhà Toán học Phan Đình Diệu
nhận thấy nội dung chương trình môn Toán THCS chưa cập nhật được các
thành tựu khoa học trong thế kỷ 20: “Nội dung chương trình về cơ bản bao
gồm các kiến thức khoa học của thế kỷ 19 trở về trước” [dẫn theo 149, ngày
8/2/2003]. Thầy Nguyễn Trọng Di, nguyên Trưởng khoa Vật Lý Trường Đại
học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, không tán thành việc đưa môn Vật lý vào dạy
học từ lớp 6 vì không phù hợp với sự phát triển về năng lực nhận thức của học
sinh theo quy luật phát triển tâm lý học, đồng thời nêu rõ nhiều chi tiết thiếu
chính xác trong cuốn SGK Vật Lý 6 [xem 150, ngày 31/7/2002]. Phân tích toàn
bộ chương trình Vật lý THCS, ông nêu lên những điều bất hợp lý của nó, nổi
bật là 3 điểm:
1) Nội dung môn học thể hiện trong chương trình khung và chương
trình chi tiết chưa phản ánh được những thành tựu trong thế kỷ 20
của Khoa học Vật lý.
2) Việc xây dựng chương trình theo 2 vòng xoắn ốc, vòng một gồm
lớp 6 và 7, vòng 2 gồm lớp 8 và 9 cũng còn những bất hợp lý. Tuy
nêu là một vòng xoắn ốc nhưng lại không phải vậy. Đó lại là sự
chia cắt tùy tiện hệ thống kiến thức vật lý rồi đặt nó vào các lớp,
cách nhau đến một năm học (…).
3) Thời lượng môn học. Môn Vật lý từ lớp 6 đến lóp 8 chỉ được học
mỗi tuần 1 tiết (…) đã khiến cho GV lẫn HS đều xem nó là một
môn phụ. Có lẽ vì điều này mà SGK Vật Lý mới có nhiều điểm
thiếu sót. [149, ngày 08/2/2003].
189
Cô giáo Nguyễn Ngọc Hà, giáo viên Anh văn THCS tại TP. Hồ Chí
Minh nhận xét rằng chương trình mới còn nhiều bất hợp lý ở các lớp 7, 8, 9;
“chương trình quá dài, quá nặng và không gây cảm hứng cho học sinh” [154,
ngày 7/10/2007]. Thầy Nguyễn Hoàng Trung, giáo viên Trường THCS Dương
Đông 1, Phú Quốc, Kiên Giang cũng cho rằng chương trình học của ta quá
nặng, “đơn cử như môn Lịch Sử ở cấp THPT, có những bài SGK in hơn bốn
trang nhưng học sinh chỉ được học trong một tiết. Như vậy làm sao giáo viên
có thể truyền tải hết tất cả các nội dung nếu nhà trường không tăng tiết, dạy
thêm?” [154, ngày 7/10/2007].
Những sự phê phán trên cho thấy, khi đi sâu vào chương trình học của
các bộ môn, sẽ nhận thấy nhiều vấn đề cần tiếp tục xem xét và giải quyết. Tuy
nhiên, nhận định chung của Viện khoa học Giáo dục là chương trình và SGK
đã đáp ứng được yêu cầu cần khắc phục khuynh hướng hàn lâm hoá, chú ý đến
việc lựa chọn các kiến thức, kỹ năng cơ sở giàu tính ứng dụng. Nội dung
chương trình và SGK thể hiện rõ tính cơ bản, tinh giản và thiết thực. Viện
khẳng định rằng “ưu điểm của chương trình và SGK mới đã tạo nên sự hứng
thú, cách học độc lập, chủ động và sáng tạo của học sinh, đồng thời góp phần
giảm tải cho các em” [152, ngày 13/2/2001].
Về chương trình Trung học Phổ thông:
Chương trình mới của Trường THPT chỉ vừa được áp dụng đại trà trọn
vẹn ở lớp 10 trong năm học 2006-2007, nên chỉ mới có những phản hồi ban
đầu chủ yếu từ cấp lớp này. Trong giai đoạn thí điểm, chương trình phân ban bị
phê phán cả trong lý luận và thực tiễn, thậm chí có cả một số ý kiến phản đối
phân ban. Nhưng sau khi điều chỉnh dạy học phân ban thành dạy học phân hoá
bằng phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, chương trình THPT mới đã được
áp dụng thuận lợi và bước đầu thể hiện được tính tích cực của nó. Theo báo cáo
của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội nghị sơ kết một năm thực hiện đổi mối
190
chương trình giáo dục THPT (Vũng Tàu, tháng 7-2007), tính tích cực của
chương trình được thể hiện qua các ưu điểm:
Phân ban đại trà có tác dụng chủ động phân luồng HS sau khi tốt
nghiệp THPT, dự báo sẽ làm giảm tỉ lệ HS chọn con đường thi vào
đại học. Việc tổ chức dạy học phân hoá theo ba ban thể hiện tính
mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với nguyện vọng, năng lực của HS và
khả năng tổ chức thực hiện của từng trường THPT, không chỉ định
hướng duy nhất là chuẩn bị thi đại học. [154, ngày 22/7/2007].
Những số liệu thống kê của Bộ cũng cho thấy tính tích cực của chương
trình mới. Toàn bộ 64/64 tỉnh thành đã bố trí đủ ban KHTN, ban KHXH &
NV, ban cơ bản với hình thức phân hoá theo khối thi tuyển sinh đại học (A, B,
C, D). Đáng chú ý nhất có 25,66% học sinh lớp 10 không chọn học môn nâng
cao nào. Đó chính là số học sinh không có định hướng rõ rệt để tham dự kỳ thi
tuyển sinh.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào chương trình học của các bộ môn, nhiều ý kiến
của các đại biểu dự Hội nghị trên phát biểu theo hướng: chương trình quá tải và
quá khó đối với học sinh. Thầy Lê Văn Anh, Hiệu trưởng trường THPT Gò
Đen tỉnh Long An cho biết: “Học sinh sợ văn, sợ toán, sợ cả ngoại ngữ. Môn
Anh Văn mà bài khoá quá dài, nội dung nặng nề, một câu có một mệnh đề
chính thì có đến 4-5 mệnh đề phụ.” [154, ngày 22/7/2007]. Một số ý kiến khác
cho rằng chương trình chưa hợp lý. Thầy Võ Tây Phiên, Hiệu trưởng trường
THPT Long Thượng (Long An) cho rằng chương trình có đến 17 môn gây rối
rắm cho nhà trường và cho giáo viên, trong khi đó “những cái học sinh cần như
giáo dục giới tính, hướng dẫn về tình yêu, quan hệ với bạn bè, đạo lý làm
người, văn hoá ứng xử … chúng ta lại không dạy” [154, ngày 22/7/2007].
Tại một cuộc hội thảo về chương trình và SGK lớp 10 phân ban tổ chức
tại Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2007, cô giáo Lê Thúy
191
Hoà, Hiệu trưởng Trường THPT tư thục Thái Bình (TP. Hồ Chí Minh) phát
biểu: “cấu tạo chương trình từ cấp tiểu học đến THPT hiện nay không hợp lý,
vừa thiếu lại vừa thừa” [154, ngày 10/11/2007]. Ông Ngô Ngọc Thư, phó
trưởng Phòng giáo dục Trung học, Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên, cho rằng”
“Tham vọng về một sự đầy đủ cho SGK là điều chưa thể. Chúng ta đang thừa
SGK nhưng lại thiếu kiến thức (…). Cần xem lại khái niệm “chuẩn” và “nâng
cao” của hai bộ sách phân ban hiện nay”. [154, ngày 10/11/2007]. Tại Hội nghị
chuyên đề về Giáo dục của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc TP. Hồ Chí Minh (tháng
8/2007), ông Huỳnh Công Minh, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo của Thành
Phố đã khẳng định: “Chương trình Giáo dục phổ thông quá nặng, quá tải, đi
vào kiến thức hàn lâm, lý thuyết, thiếu tính thực tế” [154, ngày 22/8/2007]. Từ
đó, ông báo cáo rằng Sở “đã xin phép Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đề tài
khoa học nhằm hệ thống lại kiến thức, xác định lại trọng tâm chương trình (…)
sao cho sát với mục tiêu “dạy làm người”” [154, ngày 22/2007].
Các thông tin phản hồi như trên được đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo
tiếp nhận một cách nghiêm túc, thận trọng và khách quan. Ông Nguyễn Hải
Châu, Phó vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học của Bộ phát biểu: “Tôi đồng tình
với ý kiến chương trình và SGK quá tải một phần do thời lượng chưa tương
xứng với nội dung bài học. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chúng ta nên nhìn nhận
vấn đề này một cách khách quan và toàn diện” [154, ngày 10/11/2008]. Ông Lê
Quán Tần, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học của Bộ cho thấy những nhược
điểm của chương trình và SGK vừa bộc lộ qua thực tế dạy học còn có nguyên
nhân ở chất lượng giáo viên, ở phương pháp dạy học và đánh giá của giáo viên,
và ở điều kiện dạy học hiện đại của các trường [xem 154, ngày 22/7/2007].
Ông nhận định:
Dù sao phương án dạy học phân hoá cũng đã khắc phục được hạn
chế của phương án thí điểm chỉ có hai ban (KHTN và KHXH&NV),
192
tăng tính linh hoạt, phù hợp với đặc điểm các vùng, miền có trình độ
phát triển khác nhau, đáp ứng tốt hơn sự đa dạng về điều kiện của các
trường THPT và nhu cầu của các bộ phận học sinh (với năng lực,
trình độ, xu hướng phát triển khác nhau). [154, ngày 22/7/2007].
Các thông tin phản hồi từ thực tiễn dạy học ở nhà trường, mặc dù còn
chủ quan phản diện, có thể còn cực đoan và ngược chiều nhau, vẫn là một
nguồn dữ liệu cho những công trình đánh giá toàn diện theo các nguyên lý
khoa học để xác định rõ hiệu lực (hay giá trị) của chương trình học các cấp
cũng như toàn bộ chương trình giáo dục phổ thông mới.
Đánh giá để hoàn thiện là việc tất yếu phải thực hiện thường xuyên đối
với bất cứ chương trình giáo dục nào. Dĩ nhiên, những chương trình học được
đánh giá tốt sẽ tồn tại bền vững, lâu dài và ít phải chỉnh sửa hơn những chương
trình bị đánh giá là chưa tốt. Có rất nhiều yếu tố chi phối việc xây dựng (hay
phát triển), đánh giá và hoàn thiện một chương trình giáo dục; nhưng mục tiêu,
nội dung, phương pháp tổ chức và đánh giá vẫn là 4 yếu tố cơ bản. Các đặc
trưng của mỗi yếu tố này và mỗi quan hệ tương tác giữa 4 yếu tố đó với nhau
sẽ quyết định giá trị (hay hiệu lực) của mọi chương trình giáo dục.
CHƯƠNG 4
DạY HọC MộT Bộ MÔN:
THựC TRạNG Và Đổi mới
193
Muốn đổi mới việc dạy học, trước hết phải hiểu rõ thực trạng của việc đó
trong nhà trường. ễÛ nhà trường Trung học Việt Nam, việc dạy học được thực
hiện theo từng bộ môn, với phương pháp riêng biệt của mỗi môn. Trong phạm
vi một chuyên đề không thể trình bày đầy đủ việc dạy học tất cả các môn học,
nên phải lựa chọn một bộ môn để xem xét như một trường hợp cụ thể, từ đó có
thể hình dung tình hình chung của việc dạy học ở nhà trường. Chuyên đề này
lựa chọn môn Lịch sử để trình bày, do tầm quan trọng của giáo dục lịch sử đối
với thế hệ trẻ, và do sự quan tâm đặc biệt của xã hội đối với việc dạy học lịch
sử trong nhà trường hiện nay. Chương này sẽ trình bày việc dạy học lịch sử
theo chương trình CCGD, chương trình Đổi mới đầu thế kỷ XXI và giải pháp
đổi mới dạy học dựa trên các yếu tố cơ bản của quá trình giáo dục.
4.1. Chương trình bộ môn Lịch sử CCGD.
4.1.1. Nhiệm vụ, vị trí và nguyên tắc xây dựng chương trình bộ môn lịch
sử
Nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở nhà trường phổ thông
Các nhà thiết kế chương trình bộ môn lịch sử đã trình bày rất rõ ràng
nhiệm vụ của bộ môn theo hai bậc học thuộc hệ thống nhà trường phổ thông
của cuộc CCGD.
- Nhiệm vụ bộ môn lịch sử ở trường PTCS
1) Cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông cần thiết về
lịch sử làm cơ sở bước đầu cho việc hình thành thế giới quan, giáo dục tư
tưởng, tình cảm, bồi dưỡng truyền thống dân tộc và xây dựng phương pháp suy
nghĩ đúng đắn cho học sinh.
Học hết lớp IX trường PTCS, học sinh phải:
- Nắm được sơ lược quá trình phát triển của lịch sử dân tộc với
những nét nổi bật nhất của mỗi thời kỳ về những sự kiện lớn, quan
trọng.
194
- Nắm được những nét lớn và những sự kiện tiêu biểu của lịch sử thế
giới cận, hiện đại.
- Có nhận thức đơn giản bước đầu về một số quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê Nin về lịch sử như: vai trò của người lao động
trong lịch sử, động lực thúc đẩy xã hội tiến lên trong xã hội có giai
cấp, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò của hệ thống
XHCN trong sự phát triển của thế giới ngày nay. [84,tr.1].
2) Làm cho học sinh bước đầu hiểu biết và vận dụng được một số kỹ năng
cần thiết trong việc học tập bộ môn, bao gồm:
- Kỹ năng sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập đơn giản.
- Kỹ năng trình bày phân tích, so sánh, đánh giá các nhân vật và sự
kiện lịch sử theo quan điểm duy vật lịch sử ở mức độ đơn giản.
[84,tr.1-2].
3) Bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những phẩm chất tốt đẹp, tình cảm
cách mạng và thái độ đúng đắn, đó là:
- Lòng yêu nước XHCN, niềm tự hào về tổ quốc và dân tộc mình,
biết kính trọng và đoàn kết với nhân dân các dân tộc trên thế giới,
kiên quyết chống mọi kẻ thù xâm lược và bọn tay sai.
- Lòng yêu quý lao động, kính trọng người lao động và tôn trọng kết
quả lao động của mọi người, căm ghét mọi biểu hiện ăn bám, bóc lột,
áp bức.
- Tinh thần tự giác trước nghĩa vụ học tập và lao động, mong muốn
đem hết sức mình góp phần xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. [84,tr.2].
- Nhiệm vụ bộ môn lịch sử ở trường PTTH
195
1) Hoàn chỉnh vốn kiến thức ở trình độ phổ thông của học sinh về lịch sử
để làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học và đạo đức công dân
XHCN của người lao động mới trên đất nước ta.
Trên cơ sở nội dung và trình độ đã đạt được ở trường PTCS, học sinh học
lớp XII trường PTTH cần có hiểu biết tương đối có hệ thống và hoàn chỉnh về
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới bằng cách:
- Hoàn chỉnh hiểu biết cần thiết về LSTG, bao gồm kiến thức cụ thể
về những sự kiện điển hình của LSTG và nhận thức về sự phát triển
theo quy luật của xã hội loài người.
- Nâng nhận thức khái quát về đặc điểm lịch sử dân tộc và truyền
thống dân tộc, đồng thời hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc
những thời kỳ gần đây.
- Có hiểu biết về những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử (mà ở PTCS học sinh mới được giới thiệu một cách đơn giản),
như vai trò của sản xuất, của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật trong
quá trình phát triển của xã hội, vai trò của quần chúng nhân dân và
của cá nhân trong lịch sử, sứ mệnh của giai cấp công nhân và sự hình
thành hệ thống các nước XHCN, nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ hoà
bình, chống nguy cơ chiến tranh hiện nay. [85,tr.3].
2) Tiếp tục rèn luyện làm cho học sinh nắm được một số kỹ năng hoạt
động trí tuệ và thực hành cần thiết nhất trong học tập bộ môn ở trường phổ
thông (trường PTCS đã được chuẩn bị bước đầu). Cụ thể là:
- Biết sử dụng sách giáo khoa và tài liệu học tập các loại (dùng cho
trường phổ thông) để thu nhận kiến thức, hoàn thiện vốn hiểu biết về
lịch sử của mình.
- Thực hiện một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát...) trong việc giải thích đánh giá sự kiện lịch sử để
196
nâng nhận thức tư tưởng, liên hệ thực tế, rút ra bài học, định hướng
thái độ hành động. [85,tr.3-4].
3) “Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần quốc tế XHCN, bồi dưỡng phẩm
chất công dân cho học sinh trên cơ sở nhận thức khoa học và năng lực trí tuệ
được phát triển lên, tích cực góp phần làm cho học sinh có khả năng tự định
hướng trong cuộc sống, tự giác trước nghĩa vụ học tập, lao động sản xuất, xây
dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[85,tr.4].
Rõ ràng bộ môn lịch sử đã được giao nhiệm vụ cực kỳ quan trọng (chứa
đựng những mục tiêu hết sức to lớn) để đáp ứng tôn chỉ và mục đích của hệ
thống giáo dục phổ thông: giáo dục nhân cách XHCN cho học sinh, bao gồm
thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê Nin; phẩm chất chính trị, đạo đức và lý
tưởng cách mạng; lòng yêu nước XHCN và tinh thần quốc tế chân chính; ý
thức và động cơ lao động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
Nhiệm vụ này bao trùm cả hai lĩnh vực: nhận thức (gồm cả kiến thức lẫn
kỹ năng) và thái độ tình cảm.
Dĩ nhiên, nhiệm vụ của bộ môn ở trường PTTH là sự nâng cao để hoàn
chỉnh nhiệm vụ đó ở trường PTCS.
Vị trí của bộ môn
Theo logic thông thường, với nhiệm vụ cực kỳ quan trọng như vậy, bộ
môn lịch sử có một vị trí rất cao trong kế hoạch dạy học của nhà trường.
Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Việc tìm hiểu vị trí bộ môn trong
chương trình của một bậc hay một cấp học trước hết dựa vào quỹ thời gian
dành cho bộ môn đó. Chỉ cần xem xét số tiết học dành cho các bộ môn trong
mỗi tuần ở các lớp theo kế hoạch dạy học của trường là nhận biết được vị trí
của từng môn học.
Trong kế hoạch dạy học của trường PTCS cấp II [xem lại hình 3.1], môn
lịch sử đứng ở vị trí thứ 8 trong tổng số 16 môn học. Với mỗi tiết một tuần cho
197
lớp VI, lớp VII và hai tiết một tuần cho lớp VIII và IX, Lịch sử đứng dưới các
môn Toán, Văn - Tiếng Việt, Ngoại ngữ, Sinh học, Thể dục, Kỹ thuật và Vật
lý. Chỉ có các môn Giáo dục Công dân, Địa lý, Hoá học, Nhạc, Họa, Sinh hoạt
tập thể và Thủ công là xếp dưới môn Lịch sử. Như vậy, Lịch sử là một bộ môn
có vị trí trung bình trong kế hoạch dạy học, kém xa các môn Toán, Văn - Tiếng
Việt và Ngoại ngữ.
Trong kế hoạch dạy học của trường PTTH [xem lại hình 3.2], môn Lịch
sử đứng ở vị trí thứ 9 trong tổng số 12 môn học (trong đó Văn và Tiếng Việt
tách thành hai môn). Với mỗi tiết một tuần cho các lớp X, XI và hai tiết một
tuần cho lớp XII, lịch sử đứng dưới các môn Toán, Vật lý, Hóa học, Văn, Kỹ
thuật, Thể dục - quốc phòng, Tiếng Việt, Tiếng nước ngoài. Lịch sử đứng cùng
hàng với Địa lý, Giáo dục Công dân, Sinh học và không có môn nào đứng sau
4 môn này. Như vậy, từ vị trí trung bình trong chương trình học của trường
PTCS cấp II, Lịch sử đã rơi xuống vị trí thấp nhất trong chương trình học của
trường PTTH.
Việc một bộ môn có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng lại bị xếp vào vị trí thấp
nhất trong chương trình học của nhà trường cho thấy rõ: sự sắp xếp vị trí không
dựa vào nhiệm vụ hay mục tiêu của môn học đáp ứng mục đích của bậc học
hay cấp học. Sự trái ngược giữa vị trí với nhiệm vụ làm cho bộ môn không thể
thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của nó.
Nguyên tắc xây dựng chương trình bộ môn lịch sử
Nguyên tắc được vận dụng để xây dựng chương trình môn lịch sử CCGD
là: Hiện đại, Cơ bản, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nguyên tắc đó chứa
đựng 3 yêu cầu có quan hệ chặt chẽ với nhau, cần phải được đáp ứng cùng một
lúc [xem 56].
- Yêu cầu về tính Hiện đại được giải thích như sau:
198
Chương trình lịch sử phải thể hiện tính hiện đại, trước hết là hiện đại về lý
luận và quan điểm. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lê Nin vẫn là
cơ sở lý luận có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc nghiên cứu và học tập lịch sử. Các
quan điểm hiện đại của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được thể hiện ở những
thành tựu mới của khoa học lịch sử, được thừa nhận và vận dụng để thay thế
những kết luận không còn phù hợp hoặc đã lạc hậu với hiện thực.
- Yêu cầu về tính Cơ bản được áp dụng để lựa chọn nội dung kiến thức
cho chương trình học: các nội dung được lựa chọn phải là kiến thức cơ bản.
Các nhà thiết kế chương trình giải thích kiến thức cơ bản của bộ môn có
hai mặt. “Một mặt, đó là những nội dung cốt lõi, thiết yếu của khoa học lịch sử
mà nhờ nó, học sinh có thể hình dùng được lịch sử đã diễn ra như thế nào. Mặt
khác, những nội dung đó cần phải có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
nhân cách của học sinh” [39,tr.36].
- Yêu cầu về sự phù hợp với thực tiễn Việt Nam tạo nên một định hướng
rất quan trọng cho nội dung chương trình. Nội dung đó phải bao gồm những
kiến thức bổ ích cho công cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo để
xây dựng đất nước ta, có tác dụng thiết thực đối với việc hình thành nhân cách
con người Việt Nam hiện tại, phù hợp với đặc điểm học sinh Việt Nam, với
điều kiện thực tế của việc dạy và học ở nước ta. [Xem 39,tr.36; 41 (tập I)
tr.105-106].
Quả thực, nếu chỉ xét về yếu tố nội dung của chương trình, nguyên tắc này
rất đúng đắn, đầy đủ và tiếp cận được với lý luận giáo dục hiện đại.
Tuy nhiên, nguyên tắc xây dựng chương trình bộ môn mà chỉ bao gồm
những yêu cầu về nội dung kiến thức thì chưa đủ. Đối chiếu với các nguyên tắc
chung xây dựng chương trình học các bộ môn, nguyên tắc xây dựng chương
trình bộ môn lịch sử thiếu hẳn yêu cầu phục vụ mục tiêu đào tạo của trường
phổ thông. Các yêu cầu về phương pháp và kỹ năng được đề cập khái quát ở
199
nguyên tắc chung cũng không được cụ thể hoá trong nguyên tắc xây dựng
chương trình bộ môn lịch sử.
Nguyên tắc xây dựng chương trình bộ môn lịch sử cho thấy chương trình
này được xây dựng theo cách tiếp cận nội dung, là cách xây dựng chương trình
học truyền thống đã trở nên lạc hậu. Cách tiếp cận này đặt trọng tâm của
chương trình vào việc truyền thụ kiến thức, không quan tâm đầy đủ đến mục
tiêu giáo dục và các yếu tố cơ bản khác của quá trình giáo dục. [Xem 98 và
129].
4.1.2. Chương trình môn lịch sử ở trường trung học
Cấu tạo chương trình
Để đáp ứng hệ thống giáo dục phổ thông của cuộc CCGD bao gồm bậc
PTCS (hoàn chỉnh từ cấp I đến cấp II) và bậc PTTH (hoàn chỉnh từ lớp 10 đến
lớp 12), chương trình lịch sử của hai bậc học này buộc phải cấu tạo theo dạng
đồng tâm phát triển, nghĩa là tạo nên một chương trình hoàn chỉnh từ lịch sử
nguyên thuỷ đến hiện đại cho bậc PTCS, tiếp đó lặp lại một chương trình tương
tự nhưng ở trình độ cao hơn cho bậc PTTH. Song, khi hệ thống giáo dục đó
được đổi mới bằng cách xóa bỏ bậc PTCS, chuyển PTCS cấp I thành bậc Tiểu
học, chuyển PTCS cấp II thành cấp THCS gắn với THPT trong bậc trung học,
thì chương trình học các bộ môn phải được cấu tạo lại để đáp ứng mục tiêu của
bậc Trung học gồm hai cấp gắn với nhau trong hệ thống mới. Tuy nhiên, cũng
như đối với các môn khác, chương trình bộ môn lịch sử không được cấu tạo lại,
vẫn giữ nguyên dạng đồng tâm phát triển theo hệ thống CCGD. Lẽ dĩ nhiên,
việc áp dụng nguyên vẹn chương trình CCGD (đã trở thành cũ) cho hệ thống
nhà trường mới đã làm cho chương trình bộ môn trở nên bất hợp lý.
Theo dạng cấu tạo đó, nội dung chương trình bao gồm hai phân môn là
lịch sử thế giới (LSTG) và lịch sử Việt Nam (LSVN) không tích hợp với nhau,
200
được trình bày thành từng khoá trình theo thứ tự niên đại, hợp thành hai vòng
kiến thức đồng tâm, tương ứng với hai cấp học. Cụ thể là:
- Chương trình PTCS cấp II (tức THCS)
Lớp 6 (1 tiết/tuần): LSVN từ nguồn gốc đến thế kỷ X;
Lớp 7 (1 tiết/tuần): LSVN từ thế kỷ X đến thế kỷ XV;
Lớp 8 (2 tiết/tuần): LSTG từ cổ đại đến cận đại;
LSVN từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX;
Lớp 9 (2 tiết/tuần): LSTG hiện đại;
LSVN từ đầu thế kỷ XX đến nay.
[Xem 84].
Như vậy, sau 4 năm học ở trường THCS, học sinh được học “toàn bộ”
LSTG và LSVN từ nguồn gốc đến hiện đại.
- Chương trình PTTH (tức THPT)
Lớp 10 (1 tiết/tuần): LSTG từ nguyên thủy đến 1870;
Lớp 11 (1 tiết/tuần): LSTG từ 1870 đến 1945;
LSVN từ nguồn gốc đến đầu TK XX;
Lớp 12 (2 tiết/tuần): LSTG hiện đại (từ 1945 đến nay);
LSVN từ sau chiến tranh thế giới I đến
nay. [Xem 85].
Như vậy, sau 3 năm học tiếp ở trường THPT, học sinh lại được học “toàn
bộ” LSTG và LSVN từ nguồn gốc đến hiện đại ở vòng thứ hai.
Các yếu tố cơ bản của chương trình
Như mọi quá trình giáo dục, chương trình học của mỗi bộ môn đều phải
được thiết kế dựa trên 4 yếu tố cơ bản của nó: mục tiêu, nội dung, phương pháp
và đánh giá. Xem xét chương trình bộ môn lịch sử ở trường trung học hiện
hành và các sách giáo khoa biên soạn theo chương trình này, có thể nhận rõ các
yếu tố cơ bản đó được thể hiện như thế nào.
201
- Về mục tiêu của chương trình
Mục tiêu của mỗi môn học phải được xác định theo mục tiêu đào tạo của
cấp học; xuất phát từ chức năng - nhiệm vụ mà bộ môn có thể đảm nhiệm để
đáp ứng mục tiêu đào tạo đó. Các nhà CCGD đã nêu rõ nhiệm vụ của bộ môn
lịch sử ở trường PTCS và trường PTTH, và cũng đã xác định mục tiêu đào tạo
của cả hai bậc học này, nhưng lại không vận dụng nhiệm vụ của bộ môn và
mục tiêu đào tạo đó để xác định mục tiêu của bộ môn lịch sử. Mặc dù giữa
nhiệm vụ và mục tiêu của bộ môn có những ý tưởng tương đồng, vẫn không
thể lấy nhiệm vụ để thay thế cho mục tiêu của bộ môn; bởi vì nhiệm vụ chỉ quy
định những gì mà bộ môn cần cung cấp cho học sinh, còn mục tiêu mới chính
là những gì mà học sinh phải đạt được sau khi học tập bộ môn. Chỉ khi nào xác
định đầy đủ mục tiêu của nó, chương trình bộ môn mới được định hướng rõ
ràng và cụ thể.
Khi hệ thống giáo dục phổ thông được tổ chức lại theo đường lối đổi mới
giáo dục, nhiệm vụ bộ môn vẫn giữ nguyên như cũ và mục tiêu của bộ môn
vẫn không được xác định trong hệ thống mới. Một chương trình học thiếu mục
tiêu, được xây dựng theo cách tiếp cận nội dung, sẽ không đáp ứng đầy đủ mọi
lĩnh vực của mục tiêu đào tạo, và không tránh khỏi khuynh hướng truyền thụ
kiến thức tràn lan, vừa thiếu lại vừa thừa.
- Về nội dung chương trình
Nhìn chung, chương trình thể hiện được nguyên tắc “cơ bản, hiện đại, Việt
Nam”. Vì đây là những nguyên tắc đúng, nên nội dung chương trình bảo đảm
được sự đúng đắn về quan điểm chính trị và cả về học thuật (ngoại trừ những
sai sót về kiến thức trong các sách giáo khoa được biên soạn theo chương trình
này).
Tuy nhiên, sự sai lầm về vị trí của bộ môn, sự bất cập trong cấu tạo
chương trình và sự khiếm khuyết của mục tiêu bộ môn đã làm cho nội dung
202
chương trình bộc lộ những đặc điểm làm hạn chế hiệu lực của chương trình học
(sẽ phân tích ở phần dưới).
- Về phương pháp của chương trình
Trong chương trình CCGD, yếu tố phương pháp rất ít được lưu ý nếu
không muốn nói là chưa được quan tâm. Trong nguyên tắc chung để xây dựng
chương trình CCGD, yếu tố này có được đề cập: “Nguyên tắc thứ hai là hiện
đại hoá tức là sử dụng những thành tựu khoa học hiện đại (quan điểm, quy luật,
phương pháp)...” [17,tr.28]. Song không hề có một sự chỉ đạo nào về phương
pháp trong chương trình các bộ môn. Do đó, các sách giáo khoa lịch sử của
chương trình CCGD chứa đựng rất ít các yếu tố thuộc về phương pháp: các bài
học không được trình bày bằng một dàn bài chi tiết, tranh ảnh và bản đồ minh
họa rất thiếu và rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, không có những bài tập thực
hành để hướng dẫn học sinh chủ động đi đến với kiến thức, không có các tư
liệu lịch sử để học sinh phát huy tư duy độc lập... Yếu tố phương pháp được thể
hiện chủ yếu trong các SGK là những câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời bằng
cách học thuộc các dòng câu chữ của SGK. Tưởng Phi Ngọ (2005) phát hiện
rằng các phương pháp thực hành và luyện tập giúp học sinh “nhào nặn” kiến
thức hầu như không tồn tại trong bộ môn Lịch sử [xem 77, tr.56].
Yếu tố đánh giá hoàn toàn không được đề cập trong chương trình CCGD
của bộ môn lịch sử.
Đặc điểm của nội dung chương trình
Nhìn tổng quát, nội dung chương trình bộ môn lịch sử thể hiện qua SGK
có những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, phạm vi nội dung quá rộng lại được thực hiện trong một
khung thời gian quá hẹp. Phạm vi nội dung của phân môn LSTG xuyên suốt từ
thời nguyên thủy đến hiện đại, bao trùm cả Châu Âu - Bắc Mỹ, á - Phi - Mỹ
Latin và khu vực Đông Nam á; đề cập mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
203
khoa học kỹ thuật... Phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế, phong trào
Giải phóng dân tộc trên thế giới cũng chiếm một phạm vi lớn, lại thêm Quan hệ
Quốc tế trong một số thời kỳ lịch sử. Phạm vi nội dung của phân môn LSVN
cũng xuyên suốt từ nguyên thủy đến hiện đại, đề cập mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá như LSTG. Với phạm vi nội dung như vậy, muốn cho chương
trình được thực hiện có hiệu quả, thì bộ môn lịch sử phải được đặt ở vị trí cao
để được dành một qũy thời gian thỏa đáng với nội dung đó. Tiếc rằng trong
chương trình CCGD của nhà trường phổ thông, môn lịch sử có vị trí rất thấp
với khung thời gian dành cho nó hết sức hạn hẹp. Phạm vi nội dung chương
trình lịch sử trung học của Việt Nam tương đương với phạm vi nội dung
chương trình lịch sử của nhà trường phổ thông Liên Xô hệ 10 năm trước đây.
Nhưng vị trí của bộ môn và qũy thời gian dành cho nó ở mỗi chương trình khác
nhau rất xa. Điều đó thể hiện rõ trong bảng sau:
Hình 4.1. So sánh qũy thời gian dành cho môn lịch sử giữa
chương trình giáo dục phổ thông 10 năm của Liên Xô và
chương trình CCGD của Việt Nam.
Chương trình 10
năm của Liên Xô
(cũ)
Số giờ mỗi tuần ở các lớp Tổng số
giờ theo
tuầnIV V VII VII VIII IX X
2 2 2 2 3 4 3 18
Chương trình
CCGD của Việt
Nam
Số tiết mỗi tuần ở các lớp Tổng số
tiết theo
tuầnVI VII VIII IX X XI XII
1 1 2 2 1 1 2 10
204
Nguồn: Tổng hợp từ Iu.K.Babanxki (1983) [13,tr.154] và Bộ Giáo dục
(1986) [2,tr.14], Bộ Giáo dục (1990) [3,tr.15].
Theo bảng so sánh trên, quỹ thời gian dành cho môn lịch sử trong chương
trình 10 năm của Liên Xô (cũ) vượt rất xa qũy đó trong chương trình CCGD
của Việt Nam. Nếu lưu ý đơn vị thời gian dạy học trong chương trình của Liên
Xô (cũ) là giờ (60 phút), còn của Việt Nam là tiết (45 phút) thì sự vượt trội lên
đến hơn 2,1 lần (không kể lớp IV thuộc bậc Tiểu học). Riêng đối với 3 lớp cuối
trung học (lớp VIII, IX, X của Liên Xô, tương đương các lớp X, XI, XII bậc
THPT Việt Nam) thì sự vượt trội về qũy thời gian của chương trình Liên Xô
lên đến 3,5 lần. Hơn thế nữa, chương trình lịch sử trung học Liên Xô (từ lớp V
đến lớp X) được cấu tạo theo đường thẳng, còn của Việt Nam lại theo dạng
đồng tâm phát triển (nghĩa là nhiều nội dung kiến thức thường được dạy hai lần
theo hai vòng ở hai cấp học). Do vậy, qũy thời gian dành cho từng đơn vị kiến
thức trong chương trình lịch sử CCGD Việt Nam vốn đã quá hẹp, lại chỉ còn
khoảng phân nửa để tiến hành việc dạy học. Một phạm vi nội dung quá rộng
được thực hiện trong một khung thời gian quá hẹp dĩ nhiên hạn chế chiều sâu
kiến thức và tác động trực tiếp đến phương pháp. Nguyễn Thị Kim Dung và
Cao Thị Lan Chi (2005) mô tả: “Hầu hết các tiết học đều phải tải một lượng
kiến thức rất lớn. Để đảm bảo đúng phân phối chương trình, giáo viên buộc
phải “chạy bài”, nên chỉ có thể dừng lại ở việc giới thiệu cho học sinh những
kiến thức sơ lược” [77, tr.37].
- Thứ hai, giữa dung lượng kiến thức của các phân môn và khoá trình với
qũy thời gian dành cho chúng không có sự tương quan hợp lý.
Nếu so sánh qũy thời gian dành cho hai phân môn LSVN và LSTG, có thể
thấy chương trình dành nhiều thời gian cho LSVN hơn hẳn. Trong tổng số 316
tiết học của bộ môn lịch sử ở cả hai cấp trung học, LSVN có 191 tiết, còn
LSTG 125 tiết. Tính riêng cho từng cấp học thì tương quan về thời gian dành
205
cho hai phân môn là 137 tiết LSVN - 48 tiết LSTG (ở cấp THCS) và 54 tiết
LSVN - 77 tiết LSTG (ở cấp THPT). Sự ưu tiên về qũy thời gian đối với LSVN
là xác đáng nếu chương trình bộ môn đặt các mục tiêu mà học sinh cần đạt qua
việc học lịch sử dân tộc làm trọng tâm, đồng thời giới hạn những mục tiêu cần
đạt qua phân môn LSTG. Nhưng chương trình này, được xây dựng theo cách
tiếp cận nội dung, không xác định mục tiêu như vậy. Bởi thế, việc phân phối
qũy thời gian cho hai phân môn phải căn cứ vào dung lượng kiến thức của
chúng. Trong chương trình này, phạm vi nội dung của cả hai phân môn được
mở rất rộng, nên dung lượng kiến thức của LSTG đương nhiên lớn hơn nhiều
so với LSVN. Do vậy, việc dành cho LSTG một qũy thời gian chỉ bằng 2/3 của
LSVN là bất hợp lý trong mối tương quan về dung lượng kiến thức giữa hai
phân môn. Sự bất hợp lý này làm cho nội dung phân môn LSTG phải cắt giảm
chiều sâu kiến thức nhiều hơn để bảo đảm bề rộng của nội dung. Trong phân
môn này, qũy thời gian phân phối cho các khoá trình của nó cũng không tương
thích với dung lượng kiến thức. Các khoá trình về LSTG nguyên thủy, cổ đại
và trung đại chiếm gần hết lịch sử nhân loại với dung lượng kiến thức vô cùng
phong phú chỉ được thực hiện ở cả hai cấp học trong 20 tiết; còn LSTG cận đại
50 tiết, LSTG hiện đại 52 tiết. Phân phối chương trình như vậy mang tính chất
“hậu kim bạc cổ”.
- Thứ ba, nội dung chương trình vừa sơ lược, dàn trải, lại vừa dồn nén,
ôm đồm. Đây chính là hệ quả của hai nhược điểm nêu trên. Nội dung chương
trình được dàn trải rộng khắp cả về thời gian (từ nguyên thủy đến hiện đại), về
không gian (từ phương Đông đến phương Tây), về các lĩnh vực (kinh tế, chính
trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật...). Với những nội dung được dàn trải rộng như
vậy trong một khung thời gian quá hạn hẹp, người ta buộc phải đề cập rất nhiều
kiến thức từ các sự kiện, các quá trình, những nhận định, những ý tưởng, những
khái niệm cho đến những hệ thống tư tưởng dưới dạng sơ lược, khái quát và
206
trừu tượng nhất. Việc đưa hàng loạt kiến thức dưới dạng như vậy vào từng bài
học và từng chương trình SGK tạo nên sự dồn nén và ôm đồm kiến thức hết
sức nặng nề. Thí dụ trong chương trình lớp 10 THPT:
Người ta phải dạy 2 tiết (khoảng 70 phút thực dạy) toàn bộ lịch sử xã
hội nguyên thủy, giai đoạn dài nhất, khó nhận thức nhất với hàng loạt
vấn đề khoa học phức tạp có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Bởi thế, hàng
loạt những tri thức và khái niệm quan trọng và trừu tượng đã được
dồn nén trong mấy chục phút giảng dạy và trong gần 10 trang sách
giáo khoa: tri thức về nguồn gốc loài người, đời sống của bầy người
nguyên thủy, các thời đại khảo cổ (đồ đá cũ, đồ đá mới, thời đại kim
khí...), các khái niệm nhân chủng học (người vượn, vượn người,
người thượng cổ (?), người tinh khôn...), các khái niệm khảo cổ học
(di cốt, di vật, công cụ...), các khái niệm sử học (công xã, thị tộc, bộ
lạc...) các quá trình về sự tan rã công xã nguyên thủy, sự xuất hiện
của gia đình, chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước... [64,tr.45-46].
Những thí dụ tương tự như trên có thể dẫn ra ở bất cứ khoá trình nào trong
phân môn LSTG (và cả một số khoá trình LSVN). Một nội dung chương trình
dàn trải sơ lược và dồn nén ôm đồm những kiến thức trừu tượng và khái quát
cao, mà không dựa trên những tri thức cụ thể riêng biệt, là một nội dung rất
nghèo nàn tri thức đích thực và rất kém hiệu lực.
4.1.3. Khoá trình LSTG hiện đại trong chương trình bộ môn lịch sử
Chương trình bộ môn Lịch sử bao gồm 2 phân môn với nhiều khoá trình
trong mỗi phân môn đó. Để hiểu sâu hơn về chương trình bộ môn, có thể tìm
hiểu thêm khoá trình LSTG hiện đại thuộc phân môn LSTG.
Nhiệm vụ của khoá trình LSTG hiện đại
207
Từ nhiệm vụ chung của bộ môn lịch sử đã nêu ở phần trên, các nhà
CCGD đã xác định nhiệm vụ cụ thể cho phân môn LSTG là góp phần khẳng
định những quy luật tất yếu sau đây của sự phát triển xã hội:
- Xã hội loài người từng phát triển theo hướng tiến bộ, các hình thái
kinh tế - xã hội sẽ thay thế nhau.
- Sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định trong đời sống xã hội, sự
phát triển của sức sản xuất là nguyên nhân cơ bản của sự phát triển
tiến bộ xã hội và của sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội.
- Đấu tranh giai cấp là tất yếu trong xã hội có giai cấp đối địch, nó có ý
nghĩa như là động lực phát triển của tất cả các xã hội có bóc lột.
- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là
người sản xuất ra những giá trị vật chất và tinh thần. [17,tr.30].
Cùng với các quy luật đó là những quan điểm cơ bản về “vai trò của lao
động trong lịch sử”, về “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân”... [84,tr.1].
Là khoá trình cuối cùng để kết thúc phân môn, LSTG hiện đại phải kế
thừa những gì đã được thực hiện từ các khoá trình LSTG nguyên thủy, cổ -
trung đại và cận đại, để hoàn tất đầy đủ nhiệm vụ nêu trên. Bên cạnh đó, khoá
trình LSTG hiện đại còn có nhiệm vụ giáo dục cho học sinh về “vai trò của hệ
thống XHCN trong sự phát triển của thế giới ngày nay”, về tinh thần “đoàn kết
với nhân dân các dân tộc trên thế giới, kiên quyết chống mọi kẻ thù xâm lược
và bọn tay sai” [84,tr.2], về “tinh thần quốc tế XHCN” và “nhiệm vụ đấu tranh
bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh hiện nay” [85,tr.3].
Vị trí của khoá trình
Nếu so sánh với các phần lịch sử Cổ đại, Trung đại và Cận đại thì lịch sử
Hiện đại là khoá trình được coi trọng nhất trong toàn bộ chương trình lịch sử
thế giới. Phân phối thời gian thực hiện chương trình cho thấy rõ điều này:
Hình 4.2. Phân phối thời gian cho các khoá trình LSTG
208
Khoá trìnhSố tiết học
THCS THPT Tổng số
LSTG Cổ - Trung đại 3 17 20
LSTG Cận đại 23 27 50
LSTG Hiện đại 21 31 52
Nguồn: Lê Vinh Quốc (chủ nhiệm), Phan Thế Kim, Nguyễn Duy Tuấn,
Nguyễn Thị Thư, Trần Hương Văn (2001) [64,tr.69].
Tổng số 52 tiết trong chương trình (chia ra 21 tiết cho lớp 9; 11 tiết cho
lớp 11 và 20 tiết cho lớp 12) nếu được dùng để giảng dạy toàn bộ lịch sử thế
giới hiện đại từ đầu đến cuối theo đường thẳng, thì khoá trình này có thể được
thực hiện tương đối hiệu quả. Nhưng vì chương trình được cấu tạo theo dạng
“đồng tâm xoáy trôn ốc” nên phải dành 21 tiết ở THCS (lớp 9) để dạy toàn bộ
nội dung chương trình, rồi lên PTTH lại phải dạy lại có nâng cao (ở lớp 11 và
lớp 12). Bởi thế, một phần lớn thời gian phải dành để dạy học những kiến thức
trùng lặp, và số thời gian thực sự để thực hiện chương trình bị cắt giảm rất
nhiều. Vì vậy, cả hai cấp trung học đều thiếu thời gian để có thể giảng dạy đầy
đủ, nghiêm túc và có hiệu quả theo đúng yêu cầu của nội dung chương trình.
4.1.4. Nhận định chung
Chương trình môn lịch sử của trường trung học Việt Nam, được xây dựng
từ cuộc CCGD lần thứ ba và thực hiện cho đến nay, mang tính chất của kiểu
chương trình Duy lý Hàn lâm (Curriculum as Academic Rationalism), được
xây dựng theo cách tiếp cận nội dung. Chương trình này không quan tâm đầy
đủ đến mục tiêu, phương pháp và đánh giá giáo dục. Sự bất hợp lý về vị trí bộ
môn và cấu tạo chương trình làm cho nội dung chương trình có nhiều nhược
điểm, dẫn tới sự hạn chế hiệu lực của chương trình.
4.2. Dạy học theo chương trình CCGD:
209
Chương trình bộ môn Lịch sử CCGD được áp dụng ở trường THCS bắt
đầu từ năm học 1986 - 1987 (lớp 6) và kết thúc ở năm học 2004 - 2005 (lớp 9);
ở trường THPT bắt đầu từ năm học 1990 - 1991 (lớp 10) và kết thúc ở năm học
2007 - 2008 (lớp 12).
Trong suốt hơn 20 năm áp dụng chương trình này ở nhà trường trung học,
việc dạy học lịch sử đã được thực hiện đồng bộ và đồng loạt, với một bộ sách
giáo khoa duy nhất cho từng cấp lớp, kèm theo một bộ sách giáo viên tương
ứng với bộ sách giáo khoa đó. Hiệu lực của chương trình học và chất lượng dạy
học sẽ được thể hiện qua các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục bộ môn.
Trong phần này, chất lượng và hiệu lực đó sẽ được khảo sát ở nhà trường
THPT qua 3 yếu tố Mục tiêu, Nội dung và Phương pháp, là những yếu tố được
quan tâm trong chương trình CCGD. Yếu tố đánh giá sẽ được khảo sát riêng ở
một phần sau để hiểu rõ hiệu lực của nó, đồng thời để xác định chất lượng dạy
học bộ môn. Việc khảo sát sẽ được thực hiện qua giáo viên và học sinh đối với
chương trình bộ môn, rồi đi sâu vào một khoá trình cụ thể lá khoá trình Lịch sử
thế giới Hiện đại (LSTG Hiện đại).
4.2.1. Nhận định của giáo viên về chương trình bộ môn lịch sử và khoá
trình LSTG Hiện đại
Sau khi chương trình CCGD được thực hiện đầy đủ ở cả 3 cấp lớp của
trường THPT, nhóm nghiên cứu đề tài “Tình hình dạy và học môn Lịch sử ở
các trường Trung học Phổ thông (cấp II và cấp III) tại TP. Hồ Chí Minh hiện
nay” (1993) đã thực hiện đợt khảo sát đầu tiên về chương trình và SGK bộ môn
Lịch sử, với các phiếu tham khảo ý kiến gửi tới 10 giáo viên giỏi và có uy tín
cao nhất về chuyên môn ở các trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh [xem 63]. 8
năm sau, khi việc dạy học theo chương trình và sách giáo khoa CCGD đã đi
210
vào chiều sâu, cũng nhóm nghiên cứu trên với đề tài “Nghiên cứu chương trình
và sách giáo khoa Lịch sử ở trường Trung học cơ sở và Trung học Phổ thông
(khảo sát qua thực tiễn dạy học tại TP. Hồ Chí Minh)” (2001) đã thực hiện đợt
khảo sát thứ hai, với các phiếu thăm dò ý kiến gửi tới 24 giáo viên THPT vững
vàng về chuyên môn (chỉ có 1 người đã tham gia cuộc khảo sát đầu tiên) [xem
64]. Mặc dù hai đợt khảo sát cách nhau một khoảng thời gian rất xa, và có
thành phần giáo viên khác biệt nhau, đa số giáo viên được tham khảo ý kiến
(đợt 1) hoặc được thăm dò ý kiến (đợt 2) đều có nhận định cơ bản thống nhất
với nhau về chương trình và SGK bộ môn Lịch sử.
Về mục tiêu của chương trình và khoá trình
Mặc dù Phiếu tham khảo yêu cầu giáo viên phát biểu ý kiến về mục tiêu
đào tạo cấp học, nhiệm vụ và mục tiêu của bộ môn Lịch sử trong trường phổ
thông [xem 63, tập II, tr.61], hầu hết giáo viên được tham khảo ý kiến không
phát biểu về vấn đề này. Chỉ có giáo viên Hà Văn Khoan (1993) của trường
THPT Lương Văn Can nêu nhận xét: “Mục tiêu đề ra quá lớn, nhưng cấu trúc
chương trình không thể hiện đầy đủ mục tiêu đề ra” [63, tập II, tr.63]. Còn Lê
Văn Huấn (2001), giáo viên trường THPT Nguyễn Chí Thanh, thì lại nhận
định: “Chương trình đáp ứng được các yêu cầu về giáo dục, giáo dưỡng và rèn
luyện kỹ năng” [64, tr.139]. Cả hai giáo viên này đều không chứng minh cụ thể
quan điểm của mình.
Đa số giáo viên hầu như không quan tâm đến mục tiêu của bộ môn Lịch
sử, nên họ cũng không có cơ sở để nhận định về mục tiêu của một bộ phận hợp
thành chương trình bộ môn là khóa trình LSTG Hiện đại. Tuy nhiên, qua một
số ý kiến của họ về nội dung chương trình bộ môn, có thể gián tiếp nhận biết
một số quan điểm của giáo viên về mục tiêu khóa trình. Chẳng hạn, khi Trần
Như Thanh Tâm (1993) phát biểu rằng “chương trình lớp 12 tương đối hợp lý,
nhất là phần LSTG Hiện đại từ 1945 đến nay, vì đây là nội dung rất cần thiết”
211
[64, tr.138], thì vô hình trung giáo viên này đã có một quan điểm của mình về
mục tiêu khóa trình, nhưng chưa diễn đạt được nó. Khi Hà Văn Khoan (1993)
nêu ý kiến rằng, trong chương trình lớp 12 “phần LSTG chỉ cần học những nội
dung liên quan đến LSVN 1930 - 1945 (thí dụ: Cách mạng Tân Hợi, các cường
quốc giữa hai trận thế chiến, chiến tranh thế giới thứ hai …)”, thì giáo viên này
đã coi mục tiêu chủ yếu của khóa trình LSTG Hiện đại là giúp học sinh nhận
thức các sự kiện trên thế giới liên quan đến Việt Nam, làm cơ sở để học tốt
khóa trình LSVN Hiện đại.
Về nội dung của chương trình và khóa trình
Hầu hết các nhận định của giáo viên về nội dung chương trình bộ môn
lịch sử đều có thể áp dụng cho khóa trình LSTG Hiện đại. Có thể coi nhận định
của Nguyễn Khánh Bình (1993) là sự khái quát đặc điểm của nội dung khóa
trình LSTG Hiện đại: “Phần lịch sử thế giới hầu như bài nào cũng quá tải so với
thời gian dành cho nó” [64, tr.137].
Đi sâu vào nội dung khóa trình trong SGK, các giáo viên nêu lên những
sự thiếu chính xác, những thiếu sót về kiến thức và những nhận định, đánh giá
thiếu khách quan. Ngô Thúy Vinh (2001) nêu một số kiến thức thiếu chính xác:
“SEATO (South East Asia Treaty Organization) sao lại dịch là “Hiệp ước
phòng thủ tập thể Đông Nam AÙ?” Cuộc Đại Cách Mạng Văn Hoá vô sản ở
Trung Quốc đâu phải kéo dài chỉ 2 năm mà sách lại ghi “(1966-1968)”; khi nói
đến Thụy Điển, Phần Lan sao lại xếp vào phần các nước Tây Âu ?” [64, tr.143].
Nguyễn Khánh Bình (1993) đặt câu hỏi: “Cuộc đảo chính ở Indonesia ngày
30/9/1965 phải chăng (chỉ) do một đơn vị quân đội bảo vệ Tổng thống chủ
mưu? Vai trò của Đảng Cộng sản Indonesia trong sự kiện đó như thế nào?” [64,
tr.143]. Giáo viên này còn vạch ra một loạt thiếu sót quan trọng về nội dung
kiến thức trong SGK:
212
Viết về AÁn ẹoọ không đưa vấn đề Kashmir và sự tranh chấp lâu dài
với Pakistan; viết về Triều Tiên không thấy rõ sự xung đột Nam -
Bắc Triều Tiên; viết về Trung Đông không làm rõ mâu thuẫn tôn
giáo giữa AÛ Raọp với Isarel và nguyên nhân xung đột ở đây, vai trò
của các cường quốc trong khu vực này; viết về Tây Đức không đề
cập tiến bộ của nước này dưới thời Đảng Xã Hội - Dân chủ cầm
quyền; viết về Nhật Bản chưa đề cập vai trò quốc tế của Nhật hiện
nay; chưa làm rõ chức năng cơ cấu của Tổ chức Liên Hiệp Quốc [64,
tr.143].
Hà Văn Khoan (1993) cho rằng SGK đã thiếu trung thực và khách quan,
“như trong việc đánh giá các sự kiện ở Ai Cập, Nam Triều Tiên, Liên Xô và về
chủ nghĩa đế quốc” [64, tr. 142]. Trần Vĩnh Thanh (1993) cũng cho rằng “sự
kiện được SGK cung cấp đúng nhưng chưa đủ nên đôi khi đánh giá sai và chưa
có sức thuyết phục, như sự kiện mặt trận thứ hai, việc Liên Xô tấn công đạo
quân Quan Đông …” [64, tr.142-143].
Về phương pháp của chương trình
Cũng như đối với yếu tố nội dung, hầu hết các nhận định của giáo viên
tập trung vào yếu tố phương pháp trong chương trình bộ môn (thể hiện qua
SGK): thiếu hệ thống bản đồ, biểu đồ và tranh ảnh minh hoạ, thiếu các câu hỏi
để phát triển kỹ năng tư duy của học sinh … Nhược điểm lớn nhất về phương
pháp của bộ môn là thiếu khâu thực hành trong chương trình học. Nhược điểm
này đã được Đặng Thị Chiếu Trinh (1993), Nguyễn Thị Cẩm Thúy (1993) và
Nguyễn Đức (1993) nêu lên từ đợt khảo sát đầu tiên. Trong đợt khảo sát thứ
hai, Huỳnh Việt Hùng (2001) lại nhận định: “Chương trình nặng về phần lý
thuyết, thiếu phần thực hành” [64, tr.139]. Để có điều kiện cho học sinh thực
hành và luyện tập nhằm phát triển kỹ năng nhận thức, đa số giáo viên nhận rõ
rằng việc “giảm tải” là hết sức cần thiết. Nhưng cách thức giảm tải, do các cơ
213
quan chức năng chỉ đạo thực hiện từ năm 2000-2001, đã làm cho các thầy cô
thất vọng. Nguyễn Phương Hoa (2001), giáo viên trường Trung học Thực hành
thuộc Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, phát biểu: “Giảm tải là điều hết sức
cần thiết và rất hợp lý để qua đó tăng thêm thời gian thực hành, rèn luyện kỹ
năng, ngoại khóa bộ môn. Song trên thực tế lại được thực hiện bằng cách cắt
giảm tiết học, nên các bài học lại nặng nề thêm; vì vậy mà việc dạy học, việc
kết hợp “học với hành” liên hệ với thực tế … vẫn bị hạn chế” [64, tr.140]. Để
tránh những sai lầm như vậy trong việc giảm tải, Phạm Thị Hạ Tùng (2001) đã
chỉ ra rằng: “Giảm tải nghĩa là bớt nội dung chương trình, chứ không phải bớt
thời gian hay ghép thời gian” [64, tr.140].
Hai đợt khảo sát nêu trên đã cho thấy đa số giáo viên được thăm dò hay
tham khảo ý kiến đều nắm vững nội dung kiến thức của bộ môn và khóa trình.
Nhờ đó, mặc dù chưa tiếp cận được với lý thuyết về mối quan hệ giữa bề rộng
với chiều sâu và giữa dung lượng với quá trình, các giáo viên đã vạch rõ được
nhược điểm chủ yếu của nội dung kiến thức bộ môn (và khóa trình) là rất nặng
(hoặc quá nhiều) so với thời gian dành cho việc dạy học. Các giáo viên này
cũng có phương pháp dạy học vững vàng (trong giới hạn của các phương pháp
tiếp cận trực tiếp), nên họ đã phê phán một cách xác đáng những nhược điểm
thuộc yếu tố phương pháp qua chương trình và SGK, nhất là về sự khiếm
khuyết của khâu thực hành và luyện tập.
Những nhận định của giáo viên về nội dung và phương pháp cũng cho
thấy họ đã cố gắng khắc phục các nhược điểm của chương trình học trong thực
tiễn dạy học. Nhưng vì giáo viên không được phép tự điều chỉnh chương trình
học, nên những cố gắng của họ chỉ đạt kết quả ở một mức độ rất hạn chế.
Khi nhận định về nội dung và phương pháp của chương trình học, có
giáo viên đã đề cập mục tiêu bộ môn, và nhiều người đã nhận thấy, ở một mức
độ nào đó, mối quan hệ giữa nội dung với phương pháp của chương trình học.
214
Song, muốn biết giáo viên có nhận thức được đầy đủ mối quan hệ Mục tiêu -
Nội dung - Phương pháp để vận dụng vào thực tiễn dạy học hay không, thì cần
có thêm một cuộc khảo sát nữa.
4.2.2. Quan niệm của giáo viên về mối quan hệ Mục tiêu - Nội dung -
Phương pháp qua thực tiễn dạy học
Cuộc khảo sát quan niệm của giáo viên về mối quan hệ Mục tiêu - Nội
dung - Phương pháp, qua thực tiễn dạy học khóa trình LSTG Hiện đại, được
thực hiện với sự tham gia của 20 giáo viên các trường THPT tại TP. Hồ Chí
Minh. Các giáo viên này có thâm niên dạy học từ 5 năm đến 28 năm, được
tuyển chọn về trình độ chuyên môn, để làm giáo khảo kỳ thi tuyển sinh vào
khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh (tháng 7 năm 2005).
Mỗi giáo viên nhận được một “Phiếu thăm dò ý kiến giáo viên về khóa
trình Lịch sử thế giới Hiện đại (theo chương trình không phân ban áp dụng ở
các trường THPT)” với 3 câu hỏi như sau:
1) Việc dạy học khóa trình LSTG Hiện đại ở trường THPT nhằm đạt
được những mục tiêu gì?
2) Nội dung kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa hiện
hành của lớp 11 và lớp 12 có đáp ứng được các mục tiêu đó
không? Nội dung đó có phù hợp với phương pháp dạy học hiện
hành không?
3) Phương pháp dạy học được thể hiện trong sách giáo khoa hiện
hành như thế nào? Có đáp ứng được mục tiêu khóa trình không?
Sau khi xem xét mọi câu trả lời của tất cả các phiếu, kết quả khảo sát có
thể được trình bày như sau:
Quan niệm về mục tiêu của khoá trình
Là những người cùng dạy học một khoá trình trong một chương trình bộ
môn chung được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chặt chẽ, cùng sử dụng một
215
bộ SGK duy nhất (và một bộ sách hướng dẫn giáo viên kèm theo), lại cùng tiếp
nhận một sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn của một Sở Giáo dục và Đào tạo,
nhưng các giáo viên lại trình bày mỗi người một khác về mục tiêu của khoá
trình LSTG Hiện đại, không dựa trên bất cứ một quy phạm chung nào. Các
giáo viên không trình bày mục tiêu như là kết quả dự kiến đạt được của học
sinh, mà thường nêu lên ý muốn đạt được của người dạy. Họ tuyệt nhiên không
dùng đến các thuật ngữ “nhận thức”, “thái độ - tình cảm” và “kỹ năng” để
phân biệt các mục tiêu. Tuy nhiên, qua những gì được họ trình bày, có thể nhận
thấy đa số giáo viên được thăm dò quan niệm mục tiêu khoá trình chỉ nằm
trong lĩnh vực nhận thức (12/20 phiếu = 60%). Số còn lại (8/12 = 40%) cũng
tập trung vào mục tiêu nhận thức, nhưng đề cầp thêm một số ý có thể xếp vào
loại mục tiêu thái độ - tình cảm hoặc kỹ năng nhận thức. Không một giáo viên
nào trình bày được mục tiêu khóa trình trên cả 3 lĩnh vực.
- Về mục tiêu nhận thức
Tất cả các giáo viên được thăm dò đều coi mục tiêu nhận thức là chủ
yếu, thậm chí là duy nhất. Xuất phát từ nội dung khoá trình, họ trình bày mục
tiêu của nó theo quan niệm riêng của mỗi người. Có giáo viên lấy ngay các chủ
đề trong SGK làm mục tiêu khóa trình:
Các nước XHCN: quá trình ra đời, phát triển, sụp đổ và bản
chất ưu việt của CNXH.
Các nước TBCN: cho học sinh nhận thức quá trình phát triển
và bản chất của CNTB.
Quan hệ quốc tế: các nước tư bản lớn mạnh với (các nước)
XHCN và các nước thế giới thứ ba.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới làm thay
đổi bộ mặt thế giới.
216
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật làm thay đổi đời sống vật
chất (và) tinh thần của con người. [Phiếu 6].
Có giáo viên lại trình bày mục tiêu một cách hết sức khái quát:
Truyền đạt những nội dung cơ bản của lịch sử thế giới từ 1945
đến 1991 (?).
Học sinh hiểu và làm theo đường lối đối ngoại của Đảng (và)
Chính phủ.
Hình thành nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan cho học
sinh.
Nhận biết đúng đắn hơn về quan hệ quốc tế. [Phiếu 10].
Một giáo viên khác lại quan niệm đơn giản rằng: mục tiêu của khoá trình
LSTG Hiện đại chỉ là để cho học sinh nắm được các sự kiện trong giai đoạn
lịch sử ấy:
Việc giảng dạy khoá trình LSTG Hiện đại ở trường THPT nhằm
đạt mục tiêu cho học sinh nắm được những sự kiện đã và đang xảy ra
trên thế giới từ “mười ngày rung chuyển thế giới” năm 1917 cho đến
nay; học sinh nắm được một hệ thống từ sự kiện, tác động của sự
kiện, các mối quan hệ chồng chéo phức tạp của thế giới cũng như sự
phát triển vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật, đôi đũa thần mà
cách mạng khoa học kỹ thuật đã đem đến cho nhân loại (…). [Phiếu
7].
Nhưng lại có giáo viên coi mục tiêu của khoá trình này là để giúp cho
học sinh nhận thức được các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học kỹ
thuật trong thế giới hiện đại:
Cho học sinh nhận thức được nguyên nhân thành công của các
cuộc cách mạng hiện đại.
217
Sự phát triển của các nền kinh tế khi cách mạng thành công,
hay nói một cách khác là quá trình đúng hướng phát triển kinh
tế (?).
Sự mâu thuẫn trong lòng xã hội hiện đại và cách giải quyết nó
bằng những cuộc cách mạng (hay chiến tranh), mà phe chính
nghĩa luôn thắng, mặc dù có rất nhiều tổn thất (cái thiện luôn
thắng cái ác, chính nghĩa luôn thắng phi nghĩa).
Nhận thức được sự chuyển mình về khoa học kỹ thuật, kinh tế
ở các nước thắng trận cũng như bại trận trong chiến tranh. Thể
hiện tính ưu việt của khoa kỹ thuật hiện đại, không chỉ dừng lại
ở nghiên cứu phục vụ nhu cầu đời sống, mà còn vươn xa hơn là
chinh phục vũ trụ và cải thiện giới tự nhiên. [Phiếu 8].
Quả thực, trong tổng số 20 giáo viên tham gia khảo sát, mỗi người đã
trình bày mục tiêu nhận thức của khoá trình theo quan niệm riêng của mình,
với sự khác biệt nhau rất lớn, không có một ý tưởng chung cho tất cả. Nhưng
cũng có một số ý tưởng được cùng chia sẻ giữa một số giáo viên. Chẳng hạn,
mục tiêu hình thành “thế giới quan, nhân sinh quan” được 3 người cùng nêu lên
[các phiếu 4, 10, 13]; mục tiêu giúp học sinh nhận thức về “quy luật tiến hoá
của nhân loại” hay “quy luật biện chứng” được 4 người đề cập [các phiếu 1, 2,
15, 20]; mục tiêu “giúp học sinh hiểu và tin theo đường lối của Đảng và Chính
phủ” cũng được 4 giáo viên nêu lên [các phiếu 4, 10, 16, 20]; mục tiêu “phục
vụ cho việc hiểu lịch sử Việt Nam” được 5 người đề cập [các phiếu 3, 5, 7, 18,
20].
Tất cả các giáo viên đều xác định mục tiêu khoá trình từ chính nội dung
của nó. Do đó, một số giáo viên xác định mục tiêu của cả khoá trình bằng cách
nêu lên mục tiêu của từng bài học trong SGK [các phiếu 5, 6, 7, 18, 19].
- Về mục tiêu thái độ - tình cảm
218
Chỉ có 4/20 giáo viên (20%) quan tâm đến mục tiêu về thái độ - tình cảm
[các phiếu 5, 7, 14, 20]. Họ thường trình bày mục tiêu này gắn liền với các mục
tiêu nhận thức. Chẳng hạn, một giáo viên nêu mục tiêu: “Giúp học sinh nắm
một cách cụ thể và khái quát những kiến thức cơ bản nhất của khoá trình LSTG
Hiện đại (…). Từ đó góp phần bồi dưỡng tình cảm, đạo đức cách mạng và sự
phát triển toàn diện cho học sinh …” [Phiếu 5]. Một giáo viên khác: “Khoá
trình LSTG Hiện đại (…) giúp học sinh có niềm tin vào tương lai của đất nước,
tin vào con đường xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn” [Phiếu 20]. Từ các sự kiện lịch sử
cụ thể, một giáo viên rút ra mục tiêu về thái độ - tình cảm: “Học sinh sẽ nắm
được “hai lần bể dâu” qua hai cuộc chiến tranh thế giới khốc liệt và từ đó dẫn
tới thái độ, hành động của học sinh đối với các cuộc chiến tranh…” [phiếu 7].
Các số liệu và dẫn chứng nêu trên cho thấy đa số giáo viên chưa biết đến
loại mục tiêu thái độ - tình cảm của khoá trình. Số ít giáo viên cảm nhận được
các mục tiêu này, nhưng quan niệm về chúng còn rất mơ hồ, chỉ coi chúng là
hệ quả thụ động của việc tiếp thu kiến thức. Do vậy, họ không thể trình bày các
mục tiêu thái độ - tình cảm của khoá trình một cách đầy đủ, cụ thể và chính
xác.
- Về mục tiêu kỹ năng
Trong tổng số 20 giáo viên được thăm dò, không có ai chính thức nêu lên
một mục tiêu kỹ năng nào của khoá trình LSTG Hiện đại. Tuy nhiên, gạn lọc
trong các mục tiêu khác nhau được họ nêu lên, có thể tìm được 4 giáo viên
(20% tổng số) đã đề cập loại mục tiêu này ở một mức độ nào đó [các phiếu 1,
2, 3, 12]. Một giáo viên nêu lên cho học sinh mục tiêu “biết liên kết các sự kiện
đã xảy ra với những gì đang diễn ra, từ đó hình thành tư duy để có thể phân
tích và hiểu đúng bản chất của các sự kiện hay vấn đề trên thế giới hiện nay”
[phiếu 2]. Tương tự như vậy, một giáo viên khác đặt mục tiêu “giúp học sinh
219
nâng cao năng lực vận dụng kiến thức lịch sử để quan sát, phân tích vấn đề
hiện nay; hiểu quá khứ để nhận biết sâu sắc hơn hiện thực” [phiếu 3]. Một
người khác cùng quan niệm nhưng diễn đạt khác: “Qua những sự kiện lịch sử,
kiến thức lịch sử đã xảy ra trong quá khứ, học sinh có thể nhận thức và lý giải
một cách logic, theo quy luật biện chứng của lịch sử, để hiểu những vấn đề
đang xảy ra hiện tại, theo khả năng của mình” [phiếu 12].
Theo các số liệu và dẫn chứng nêu trên, số giáo viên tiếp cận được mục
tiêu kỹ năng của khoá trình là rất ít. Họ quan niệm đúng, nhưng còn quá đơn
giản, không đầy đủ và thiếu cụ thể về loại mục tiêu này.
Quan niệm về mối quan hệ giữa mục tiêu với nội dung khoá trình
Phân tích mối quan hệ tương tác giữa mục tiêu với nội dung một khoá
trình là một việc làm vượt quá khả năng của giáo viên trong một cuộc thăm dò
ý kiến. Do đó, để khảo sát quan niệm của giáo viên về mối quan hệ này, phiếu
thăm dò chỉ yêu cầu họ trả lời một câu hỏi: nội dung kiến thức (trong chương
trình và SGK) có đáp ứng được mục tiêu khoá trình (mà họ đã nêu lên) hay
không?
Vì các giáo viên quan niệm về mục tiêu khoá trình rất khác nhau, nên họ
xem xét sự đáp ứng của nội dung kiến thức đối với mục tiêu do chính mình nêu
lên cũng rất khác nhau. Có 4/20 giáo viên (20%) cho rằng nội dung khoá trình
đáp ứng đầy đủ các mục tiêu của nó [các phiếu 4, 6, 12, 14]; 6 người (30%)
cho rằng nội dung đáp ứng chưa đầy đủ đối với mục tiêu [các phiếu 1, 5, 10,
11, 15, 19]; còn 10 người (50%) khẳng định nội dung nói chung không đáp ứng
được mục tiêu khoá trình [các phiếu 2, 3, 7, 8, 9, 13, 16, 17, 18, 20].
Những người cho rằng nội dung đáp ứng đầy đủ mục tiêu khoá trình
không giải thích lý do, mà chỉ nêu lên nhận định, chẳng hạn: “Nội dung kiến
thức trong chương trình và sách giáo khoa hiện hành của lớp 11 và 12 đáp ứng
được mục tiêu khoá trình” [phiếu 6]; hoặc giải thích rất sơ sài: “vì những nội
220
dung đó bao trùm cả giai đoạn lịch sử từ sau thế chiến thứ II đến năm 1991 (?)”
[phiếu 4]. Những câu trả lời như vậy cho thấy quan niệm của giáo viên về mối
quan hệ giữa mục tiêu với nội dung là rất mơ hồ, thậm chí chưa có quan niệm
về mối quan hệ đó.
Những giáo viên cho rằng nội dung đáp ứng chưa đầy đủ mục tiêu khoá
trình thường giải thích rõ ràng hơn về nhận định của mình. Chẳng hạn, một
giáo viên viết:
Nội dung kiến thức trong chương trình và sách giáo khoa hiện hành
của lớp 11 và 12 có đáp ứng được các mục tiêu cơ bản đã nêu; nhưng
nội dung của từng chương từng bài chưa đồng nhất, lượng kiến thức
còn quá dàn trải, quá nhiều so với thời lượng được quy định trong
một tiết dạy (…); các kiến thức đưa vào từng bài còn nặng tính liệt
kê hoặc thuyết lý suông về chính trị (…) [phiếu 1].
Một người khác trình bày: “Về cơ bản, nội dung kiến thức (…) đã đáp
ứng được phần lớn các mục tiêu trên. Tuy nhiên cũng còn một số vấn đề gây
trở ngại trong quá trình dạy và học đối với một số bài cụ thể (…)” [phiếu 5].
Những giáo viên này đã bắt đầu có quan niệm về mối quan hệ giữa mục tiêu
với nội dung, đã cảm nhận được rằng các chủ đề của những bài học trong nội
dung kiến thức thì đáp ứng được phần lớn các mục tiêu (chủ yếu là mục tiêu
nhận thức), nhưng những nhược điểm của nội dung kiến thức đã làm cho nó
không đáp ứng đầy đủ mục tiêu khoá trình.
Những giáo viên cho rằng nội dung kiến thức của khoá trình không đáp
ứng được các mục tiêu của nó cũng giải thích cho nhận định của mình một
cách khái quát hay cụ thể. Có người giải thích một cách ngắn gọn: “chưa đáp
ứng được do thời lượng chưa hợp lý” [phiếu 9]. Người khác nêu rõ hơn: “Với
khối lượng kiến thức nhiều, dàn trải, thiên về liệt kê (…), học sinh không thể
liên kết các sự kiện, làm nổi bật các trọng tâm để đạt các mục tiêu cần phải
221
nắm” [phiếu 2]; hoặc diễn đạt một cách khác: “Nội dung kiến thức (…) chưa
đáp ứng được các mục tiêu mà khoá trình LSTG Hiện đại đề ra, bởi đó là
những sự kiện ngồn ngộn đầy sôi động, mà với thời gian được phân bố qua các
bài, thì (việc day học) chỉ có tính cách “cưỡi ngựa xem hoa” [phiếu 7]. Các
giáo viên này đã có quan niệm về mối quan hệ giữa nội dung với mục tiêu của
khoá trình, thấy rõ những nhược điểm của nội dung kiến thức bao trùm toàn bộ
khoá trình, khiến cho nội dung không đáp ứng được mục tiêu khoá trình.
Về mối quan hệ giữa nội dung với phương pháp của khoá trình
Nội dung và phương pháp là hai yếu tố được giáo viên quan tâm nhiều
nhất, nên cũng hiểu sâu sắc hơn hết. Do đó, đa số giáo viên (16/20 người =
80%) trình bày vế mối quan hệ giữa hai yếu tố này một cách khá rõ ràng và
thống nhất với nhau (qua việc trả lời các câu hỏi số 2 và số 3 của phiếu thăm
dò). 4 người còn lại (20%) [các phiếu 3, 6, 9, 16] trình bày không đúng yêu
cầu, không giải thích hoặc không trả lời các câu hỏi. Đối với câu hỏi: phương
pháp dạy học có được thể hiện trong SGK hiện hành không?, có thể lấy câu trả
lời sau đây làm đại diện cho đa số:
Sách giáo khoa hiện hành chỉ thể hiện phương pháp thông báo nhưng
không đầy đủ, phương pháp miêu tả nhưng chưa sinh động, phương
pháp trực quan nhưng nghèo nàn và thiếu chính xác; còn phương
pháp nêu vấn đề, phát triển tư duy độc lập và sáng tạo cho học sinh
thì chưa đáp ứng được [phiếu 20].
Cùng quan điểm như vậy, một giáo viên trình bày theo cách khác:
Phương pháp dạy học có được thể hiện trong SGK hiện hành, tuy
nhiên chưa sâu. Cụ thể là:
(Các kỹ năng) phân tích, so sánh thể hiện rất ít.
Chủ yếu là nêu sự kiện, diễn biến, kết quả.
Các câu hỏi phần lớn (chỉ yêu cầu) thuộc bài, ít tư duy.
222
Hình ảnh, bản đồ rất ít, do đó thiếu tính trực quan. [Phiếu 4].
Đối với câu hỏi: Nội dung đó (của khoá trình LSTG Hiện đại) có phù
hợp với phương pháp dạy học hiện hành không? câu trả lời sau đây phản ánh
quan điểm chung của đa số giáo viên:
Nội dung kiến thức trong SGK chỉ phù hợp với phương pháp giảng -
ghi. Do lượng kiến thức quá lớn và cách trình bày từng đề mục của
các chương trình trong SGK rất nặng nề, nên giáo viên đa phần khó
phát huy được tư duy và tính tích cực của học sinh, vì luôn bị giới
hạn bởi thời gian phân bố cho từng bài. Nội dung chủ yếu là chữ,
kênh hình rất ít, nên khó áp dụng được phương pháp trực quan (…).
Phương pháp phát vấn cũng chưa thể hiện tốt, vì hệ thống câu hỏi
trong SGK còn chưa phù hợp”. [Phiếu 2].
Một số giáo viên khác nhấn mạnh: “Nếu theo mục đích đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay là dạy học nêu vấn đề, phát triển tư duy độc lập, sáng
tạo cho học sinh thì nội dung kiến thức trong SGK hiện hành chưa đáp ứng
được” [phiếu 20].
Về mối quan hệ giữa phương pháp với mục tiêu của khoá trình
Mối quan hệ giữa hai yếu tố phương pháp và mục tiêu được thể hiện chủ
yếu qua loại mục tiêu kỹ năng của khoá trình. Vì đa số giáo viên chưa tiếp cận
được loại mục tiêu này, nên họ cũng chưa nhận biết được mối quan hệ giữa
phương pháp với mục tiêu của khoá trình. Ngay cả số ít giáo viên tiếp cận được
các mục tiêu này ở mức độ nào đó, thì họ cũng chưa nhận rõ mối quan hệ này.
Do đó, hầu hết giáo viên được thăm dò đã không trả lời câu hỏi: phương pháp
dạy học (được thể hiện trong SGK hiện hành) có đáp ứng được mục tiêu khoá
trình không? Chỉ duy nhất có 1 giáo viên (1/20 = 0,5%), người đã nêu lên một
mục tiêu kỹ năng của khoá trình (đã dẫn ở phần trên) là gián tiếp trả lời câu hỏi
này, bằng một dẫn chứng từ thực tế dạy học:
223
Sau khi đã học hết khoá trình LSTG Hiện đại, khi được hỏi, học sinh
vẫn không thể sử dụng các kiến thức đã học để phân tích và nhận
định về những vấn đề đang xảy ra trong hiện tại. Ví dụ, khi giáo viên
đặt vấn đề: “Tại sao xung đột lại thường xuyên xảy ra ở khu vực
Trung Đông hiện nay?”, “các cuộc xung đột tại các khu vực hiện nay
có chứa đựng mầm mống của một cuộc chiến tranh thế giới mới
không?”, học sinh tuyệt nhiên không giải đáp được. [Phiếu 2].
Dẫn chứng trên cho thấy mục tiêu rèn luyện kỹ năng liên kết các sự kiện
lịch sử với tình hình thời sự, kỹ năng phân tích tình hình dựa trên kiến thức lịch
sử đã không đạt được. Điều đó có nghĩa là phương pháp dạy học của khoá trình
LSTG Hiện đại không đáp ứng được mục tiêu kỹ năng của nó.
4.2.3. Khảo sát qua học sinh
Muốn biết hiệu lực của hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp
trong khoá trình LSTG Hiện đại đối với người học, trước hết phải tìm hiểu hiệu
lực của mục tiêu khoá trình đối với học sinh, thể hiện qua những lợi ích mà học
sinh cảm nhận được từ khoá trình. Tiếp đó, hiệu lực của cả hệ thống (bao gồm
Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp) sẽ được tìm hiểu qua những thành quả mà
học sinh đạt được sau khi học xong khoá trình.
Việc khảo sát vấn đề này được thực hiện bằng các phiếu thăm dò dưới
hình thức “kiểm tra chất lượng đầu năm học” đối với học sinh các lớp 12 của
trường THPT Marie Curie, một trường trung học bình thường, không phải
trường chuyên hay trường trọng điểm chất lượng cao, nhưng rất có uy tín về
chuyên môn trong TP. Hồ Chí Minh. 300 phiếu thăm dò đã được phát trong
năm học 2005 - 2006 để thu về 277 phiếu đã được trả lời từ học sinh 6 lớp:
12A2 (từ phiếu A1 đến A44), 12A3 (từ phiếu B1 đến B45), 12A9 (từ phiếu C1
đến C46), 12A20 (từ phiếu D1 đến D46), 12A22 (từ phiếu E1 đến E51) và
224
12A29 (từ phiếu F1 đến F45). Học sinh được yêu cầu trả lời 3 câu hỏi trong
phiếu thăm dò:
1) Theo em, việc học lịch sử thế giới hiện đại (LSTGHĐ) đem lại lợi ích
gì cho học sinh?
2) Em đã học được những kiến thức và kỹ năng nào trong phần
LSTGHĐ?
3) Hãy trình bày tóm tắt một sự kiện trong LSTGHĐ mà em nhớ nhất.
(Chú ý nêu rõ sự kiện diễn ra ở đâu, vào thời gian nào, có những lực
lượng nào tham gia, kết quả và ý nghĩa của sự kiện đó).
Khi trả lời câu 1), học sinh sẽ phản hồi về mục tiêu khóa trình đối với
các em. Câu 2) nhằm thu được sự phản hồi khái quát về hiệu lực của khoá
trình, qua những thành quả mà các em đã lĩnh hội được; câu 3) nhằm xác định
hiệu lực cụ thể ở trình độ nhận thức mà các em đạt được qua các thành quả đó.
Toàn bộ 277 phiếu thăm dò đã đưa ra các thông tin phản hồi như sau:
Phản hồi về mục tiêu của khoá trình
Vì mục tiêu của một khoá trình chính là kết quả dự kiến mà học sinh sẽ
đạt được, cho nên những lợi ích mà học sinh nhận được sau khi học xong sẽ
cho thấy hiệu lực của khoá trình đã học. Nếu các lợi ích được học sinh nhận
biết đầy đủ và thống nhất với nhau, điều đó có nghĩa là mục tiêu đã có hiệu lực
tốt. Ngược lại, nếu các lợi ích được học sinh nhận biết không đầy đủ và cũng
không thống nhất với nhau, thì có nghĩa là mục tiêu không có hiệu lực, hoặc
chỉ có hiệu lực thấp.
Việc khảo sát về mục tiêu khoá trình đối với 277 học sinh, qua câu hỏi 1
của phiếu thăm dò, đã thu được những thông tin phản hồi khác nhau về những
lợi ích mà khoá trình đem lại cho học sinh theo 3 loại:
Có tất cả 73 học sinh (chiếm 26% tổng số), gồm 12 em thuộc lớp 12A2,
6 em lớp 12A9, 13 em lớp 12A13, 10 em lớp 12A30, 27 em lớp 12A22 và 5
225
em lớp 12A29, cho rằng khoá trình LSTG Hiện đại không mang lại lợi ích nào
cho học sinh. Thông tin này được thể hiện qua 8 em không trả lời câu hỏi; 36
em trả lời: không biết, 6 em viết rằng “không có ích lợi gì” [các phiếu A31,
C10, C22, C40, C42, C36]. Còn lại 24 em nêu lên một vài ý hết sức mơ hồ
hoặc không thuộc về khoá trình đã học; chẳng hạn: “giúp em hiểu được tình
hình lịch sử thế giới từ xưa đến nay” [phiếu F35], “giúp em có nhiều hiểu biết
hơn về lịch sử thế giới” [phiếu E11]; hoặc: “Học LSTG Hiện đại để mai mốt
xem phim lịch sử còn biết đó là cái gì, học để lấy điểm thi, chứ thực ra chẳng
hiểu gì cả” [phiếu C27].
Có tới 135 học sinh (49% tổng số), gồm 21 em thuộc lớp 12A2, 30 em
lớp 12A9, 24 em lớp 12A13, 16 em lớp 12A20, 17 em lớp 12A22 và 27 em lớp
12A29, nhận biết rằng khoá trình này mang lại một số lợi ích nhất định cho học
sinh. Trong số đó, có 48 học sinh chỉ nêu lên 1 lợi ích. Nhiều em nêu lên lợi ích
rất khái quát và không có một tác động thiết thực cụ thể nào đối với bản thân
mình. Ví dụ: “Việc học LSTG hiện đại giúp em biết được lịch sử của các nước
khác” [phiếu F31], “giúp em hiểu về các nước trên thế giới (quá trình phát
triển, những thành tựu đạt được)” [phiếu E41], “biết được quá trình hình thành
LSTG trong thời kỳ cận hiện đại (ngày nay), các vấn đề đã và đang diễn ra trên
thế giới” [phiếu E21], “giúp em hiểu biết về các giai đoạn lịch sử của thế giới
và từ đó rút ra nhiều bài học cho bản thân” [phiếu E19]. Một số em khác lại
nêu lên một lợi ích rất phiến diện. Ví dụ: “LSTG hiện đại có thể giúp em biết
được những diễn biến trong các cuộc chiến và mục đích hình thành các chế độ
trong lịch sử” [phiếu F6], “giúp em biết được những sự kiện (về việc giành)
độc lập của các nước” [phiếu F27], “học LSTG Hiện đại là để biết được những
cuộc chiến tranh lớn của thế giới và trong lịch sử của các nước” [phiếu E47],
“giúp em biết được quá trình gây chiến tranh của các nước tư bản và xã hội
trong thời đó” [phiếu F32]. Cũng có em nêu được rằng “việc học LSTG Hiện
226
đại giúp em nắm bắt và tìm hiểu được về tình hình kinh tế, chính trị và những
biến cố của các nước trên thế giới” [phiếu F15]. 87 học sinh kia nêu lên 2 lợi
ích của khoá trình dưới những gốc độ khác nhau. Phần lớn các em nêu lên 2 lợi
ích khái quát thuộc về nhận thức; chẳng hạn “việc học LSTG Hiện đại mang lại
các lợi ích sau: - tìm hiểu được quá trình phát triển của lịch sử xã hội; - thấy
được những ưu khuyết điểm trong quá trình xây dựng xã hội của từng nước”
[phiếu D4]; “- có thêm hiểu biết về các sự kiện lịch sử đã xảy ra trên thế giới; -
rút ra được nhiều kinh nghiệm và bài học đánh giá” [phiếu F45];” - biết được
quá trình thành lập, phát triển của từng quốc gia trên thế giới; - hiểu thêm
nguyên nhân dẫn đến các cuộc xung đột giữa các nước” [phiếu E29]. Một số
em nêu lên những lợi ích về nhận thức cụ thể hơn, nhưng cũng phiến diện hơn:
“- giúp em thấy được những tội ác, những thiệt hại do chiến tranh gây ra; - thấy
được tình hình kinh tế - chính trị của các nước lúc trước so với bây giờ” [phiếu
B11]; “LSTG Hiện đại giúp em: - tiếp thu những kiến thức mới, những nguyên
nhân sâu xa cũng như trực tiếp (làm) bùng nổ các cuộc chiến tranh; - nắm diễn
biến của các cuộc cách mạng, cuộc đấu tranh giành độc lập và sự hình thành
của các nước trên thế giới” [phiếu B6].
Còn lại 69 học sinh (25% tổng số), gồm 11 em ở lớp 12A2, 9 em lớp
12A9, 9 em lớp 12A13, 20 em lớp 12A20, 7 em lớp 12A22 và 13 em lớp
12A29, nhận biết rằng khoá trình này mang lại nhiều lợi ích cho học sinh (mỗi
phiếu nêu từ 3 lợi ích trở lên). Hầu hết các lợi ích được các em nêu lên đều
thuộc về nhận thức. Một số học sinh đã nêu lên rất nhiều lợi ích của khoá trình.
Thí dụ, một em nêu lên 9 lợi ích:
LSTG Hiện đại giúp em
Hiểu rõ con đường, chính sách, chiến lược, quá trình phát triển, các
cuộc cách mạng của các nước trên thế giới.
Hiểu được một phần của nền văn hoá thế giới.
227
Hiểu được các nguyên nhân và mục đích của các cuộc chiến tranh,
(kể cả những cuộc chiến tranh) mà đến nay vẫn đang tiếp diễn.
Biết được một số kiến thức về địa lý và sự phân chia lãnh thổ quốc
gia.
Biết được quá trình phát triển của CNXH, sự lớn mạnh của CNTB, sự
sụp đổ của chế độ phong kiến cũng như sự khủng hoảng thường
xuyên về mọi mặt trên thế giới.
Biết được vì sao ngày nay có nhiều quốc gia sử dụng chung một ngôn
ngữ chính.
Biết được vô số kiến thức về việc cấm vận, thuộc địa, sân sau, bàn
đạp…
Hiểu biết nhiều hơn về chính trị, kinh tế, xã hội của các nước trên thế
giới.
Biết được ý chí kiên cường, mục đích tốt đẹp của loài người đã và
đang xây dựng thế giới và còn rất nhiều lợi ích nữa mà em không đủ
điều kiện và thời gian để trình bày. [Phiếu B29].
Một số em khác nêu lên 5 lợi ích cho học sinh nói chung:
Giúp học sinh hiểu rõ quá trình phát triển của thế giới trong giai đoạn
lịch sử hiện đại (từ 1917 cho đến nay).
Học sinh có thể thấy rõ khoa học - kỹ thuật của thế giới phát triển qua
từng thời kỳ như thế nào (…).
Học sinh có được các kiến thức về sự hình thành và phát triển của các
quốc gia ở các châu lục qua từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Học sinh được biết những vấn đề cần giải quyết của thế giới hiện nay
(như đói rét, mù chữ, bùng nổ dân số, bệnh tật, tệ nạn xã hội, thất
nghiệp gia tăng …).
228
Học sinh biết được một số nhà chính trị nổi tiếng đã viết nên những
trang sử hào hùng của đất nước (như Lênin, Hồ Chí Minh, Fidel
Castro …). [Phiếu B2].
Hai thí dụ trên cho thấy dường như các học sinh này đã tiếp cận được
những lợi ích chủ yếu mà mục tiêu nhận thức của khoá trình đã đề ra. Nhờ đó,
các em đã trình bày khá cụ thể, rõ ràng, tương đối đầy đủ và toàn diện những
lợi ích về nhận thức mà khoá trình đem lại. Tuy nhiên, những lợi ích vượt ra
ngoài mục tiêu khoá trình mà các em đề cập (“biết được một số kiến thức địa lý
…”, “biết được vì sao ngày nay có nhiều quốc gia sử dụng chung một ngôn
ngữ chính” và “rất nhiều lợi ích nữa …”) lại cho thấy các em phát hiện các lợi
ích từ kinh nghiệm của chính mình, mà không phải do tác động của mục tiêu
khoá trình. Ngoại trừ hai trường hợp đặc biệt trên các học sinh khác cũng nêu
lên nhiều lợi ích thiết thực về nhận thức, nhưng thường trình bày thiếu cụ thể
và không đầy đủ.
Phản hồi về hiệu lực của khoá trình
Hiệu lực của khoá trình chính là hiệu lực của hệ thống các yếu tố cơ bản
của nó, bao gồm hiệu lực của từng yếu tố và hiệu lực của mối quan hệ tương
tác giữa các yếu tố đó với nhau. Hiệu lực này được phản hồi từ thành quả học
tập của học sinh, nhờ việc khảo sát hoặc đánh giá bằng nhiều phương tiện khác
nhau.
Phiếu thăm dò đưa ra câu hỏi 2) và câu hỏi 3), đều là những câu hỏi mở,
để học sinh thoải mái tự do trình bày những thành quả mà các em đạt được sau
khi học xong khoá trình LSTG Hiện đại, trong điều kiện bình thường không
cần những nỗ lực đặc biệt, không chịu những áp lực như trong một kỳ thi hay
trong việc xếp hạng học tập. Các thông tin về thành quả học tập của học sinh,
qua việc trả lời 2 câu hỏi trên, đã phản hồi về hiệu lực của khoá trình như sau:
229
Với câu hỏi 2) “em đã học được những kiến thức và kỹ năng nào trong
phần LSTG Hiện đại?”, có 78 học sinh trả lời rằng mình không học được một
kiến thức nào từ khoá trình này. So với tổng số học sinh được khảo sát, con số
đó chiếm tỷ lệ 78/277 = 28%, bao gồm 32 em không trả lời câu hỏi, 31 em trả
lời “không nhớ” hoặc “không biết”, 15 em chỉ nêu được mỗi em một kiến thức
sai. Các học sinh nêu kiến thức sai cho thấy các em không hiểu gì về điều mình
viết, chẳng hạn như “cuộc chiến tranh giữa Hồng quân Đức với quân đội Liên
Xô” (!) [phiếu C2] hay “cuộc chiến giữa Hồng quân Liên Xô trong cách mạng
tháng Mười Nga với phát xít Đức” (!) [phiếu C30]; hoặc các em không hiểu thế
nào là LSTG Hiện đại, nên đã nêu lên những sự kiện thuộc về các khoá trình
khác, như “Cách mạng tư sản Pháp” [các phiếu D17, D19], “Cách mạng Tân
Hợi” [các phiếu C8, C24, E38] và các “cách mạng Đông Dương” [phiếu C37].
Không học được một kiến thức nào, lẽ dĩ nhiên các em cũng không học được
một kỹ năng nào ở khoá trình này.
Có tới 160 học sinh (chiếm tỷ lệ 160/277 58% tổng số học sinh được
khảo sát) chỉ nêu lên được 1 hoặc 2 kiến thức mà em học được trong khoá trình
LSTG Hiện đại. Mặc dù câu hỏi yêu cầu cả về kiến thức và kỹ năng, tất cả các
câu trả lời của học sinh không hề đề cập một kỹ năng nào. Về kiến thức đã học
được, học sinh cũng chỉ nêu lên những sự kiện mà các em nhớ được, không hề
có các kiến thức khái quát và trừu tượng như khái niệm, quy luật hay hệ thống
tư tưởng. Có 50 em (18% tổng số học sinh được khảo sát) nhớ được đúng 1 sự
kiện. Có 86 em (31% tổng số) nêu lẫn lộn 1 - 2 kiến thức LSTG Hiện đại trong
những kiến thức khác mà các em nhớ được. Ví dụ: “Em đã học được những
kiến thức sau trong LSTG Hiện đại: Cách mạng tháng Mười Nga, Công xã
Pari, Cách mạng Tân Hợi, Cải cách Minh Trị (Mêgi), chiến tranh thế giới I,
chiến tranh thế giới II”[phiếu D44]; hoặc: “Em còn nhớ các sự kiện như: Cách
mạng tháng Mười Nga, các dân tộc ít người (?), Văn minh - văn hoá Văn Lang
230
- Âu Lạc, chiến tranh thế giới I, chiến tranh thế giới II, Công xã Pari” [phiếu
D39]. Điều đó cho thấy các em chưa hiểu rõ khái niệm LSTG Hiện đại, không
nắm được sự phân kỳ các thời đại lịch sử, không phân biệt được các khoá trình
LSTG với LSVN.
Chỉ còn lại 39 học sinh (chiếm 14% tổng số học sinh được khảo sát) lĩnh
hội được từ 3 kiến thức trở lên trong khoá trình LSTG Hiện đại. Trong số này,
có 13 em nêu lẫn lộn các sự kiện về LSTG Hiện đại với các sự kiện thuộc các
khoá trình khác. Có 24 em nêu đúng từ 3 đến 7 sự kiện hoặc chủ đề thuộc kiến
thức LSTG Hiện đại, bao gồm: 12 em nêu được 3 sự kiện, 6 em nêu được 4 sự
kiện, 4 em nêu được 5 sự kiện và chủ đề, 1 em nêu được 6 và 1 em nêu được 7
sự kiện và chủ đề: “Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và các nước Đông Âu
sau chiến tranh thế giới II, Liên Xô lâm vào tình trạng “trì trệ” và công cuộc
cải tổ, các nước AÙ - Phi – Mỹ Latinh sau CTTG II, các nước Đông Nam AÙ
sau CTTG II, phong trào các mạng Trung Quốc, sự thành lập các khối quân sự
NATO và SEATO” [phiếu B38].
Trình độ nhận thức từ các sự kiện đã học
Khi học sinh nêu lên được các kiến thức đã học (bằng cách kể tên các sự
kiện còn nhớ), các em vẫn chưa bộc lộ trình độ nhận thức của mình từ các kiến
thức (hay sự kiện) đó, và người ta chưa thể hiểu biết chiều sâu của những kiến
thức (hay sự kiện) mà các em đã học được. Chỉ đến khi các em trình bày tóm
tắt một sự kiện mà mình nhớ nhất, theo yêu cầu của câu hỏi 3), thì mới có thể
biết được trình nhận thức (hay chiều sâu kiến thức) mà các em đã đạt được.
Những phản hồi của học sinh từ câu hỏi này cho thấy: 130 học sinh (47%
tổng số học sinh được khảo sát) không trình bày được một sự kiện nào mà các
em nhớ nhất. Trong đó:
42 em không trả lời câu hỏi,
64 em trả lời “không nhớ” hoặc “không biết”,
231
10 em nêu lên 1 sự kiện sai,
14 em nêu lên 1 sự kiện đúng nhưng không trình bày.
Bên cạnh đó, 147 học sinh (53% tổng số) đã nêu và đã trình bày 1 sự
kiện (hoặc 1 chủ đề) mà các em nhớ nhất. Tuy nhiên, trong số này có tới 113
em (trên 40% tổng số) trình bày chưa đạt yêu cầu. Trong số chưa đạt này, có 67
em trình bày sự kiện hết sức sơ sài, thiếu nhiều ý chính. Rốt cuộc chỉ còn lại 34
em (chưa tới 13% tổng số) đạt yêu cầu khi trình bày sự kiện mà em nhớ nhất,
thể hiện được trình độ nhận thức cao của học sinh. Bởi vì đa số các sự kiện
được trình bày chính là bản tóm lược trong bài giảng của giáo viên để học sinh
ghi chép, học thuộc lòng và trình bày nguyên trạng. Một số ít học sinh đã thể
hiện nhận thức của mình ở trình độ “hiểu” qua việc trình bày tóm tắt cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai. Thí dụ:
Chiến tranh thế giới thứ II (1939 - 1945) bùng nổ do quan hệ quốc tế
phức tạp: thế giới hình thành 2 khối đối lập (khối phát xít Đức - YÙ -
Nhaọt; khối đế quốc Anh - Pháp - Mỹ). Cả hai khối đều muốn tiêu
diệt Liên Xô, nhưng đối lập nhau vì hiệp ước Vecxây - Washington.
Chiến tranh bùng nổ bằng việc Pháp chiếm Ba Lan tháng 1/1939 (!).
Lúc đầu, Anh - Pháp - Mỹ còn nhượng bộ; nhưng sau khi Pháp bị
phát xít Đức chiếm gần hết, Mỹ bị Nhật đánh ở Trân Châu Cảng …
Và sự kiện Hồng quân Liên Xô cố thủ thành công ở Xtalingrat …
Anh - Pháp - Mỹ thành lập mặt trận thống nhất với Liên Xô chống
phát xít. Từ đó, khối phát xít bị đánh bại (1945), chiến tranh thế giới
kết thúc.
YÙ nghĩa: chủ nghĩa phát xít hoàn toàn bị đánh bại, thúc đẩy phong
trào giải phóng dân tộc thế giới phát triển mạnh mẽ hơn, hệ thống
XHCN phát triển. [Phiếu B2].
232
Rõ ràng học sinh này đã hiểu và trình bày tóm tắt được sự kiện dưới hình
thức khái quát hoá mà không lệ thuộc vào câu chữ của một văn bản nào.
4.2.4. Kết quả khảo sát qua thực tiễn dạy học
Thực tiễn dạy học đã được khảo sát qua giáo viên và học sinh qua hoạt
động dạy học một khoá trình trong chương trình bộ môn Lịch sử CCGD. Việc
khảo sát đã cho kết quả tổng hợp như sau:
Kết quả khảo sát qua giáo viên
Việc khảo sát nhận định của giáo viên về khoá trình LSTG Hiện đại và
quan niệm của họ về mối quan hệ Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp của khoá
trình đã mang lại những kết quả rất rõ ràng.
Thứ nhất, các thông tin tiếp nhận từ giáo viên đã cung cấp thêm những
bằng chứng sinh động từ thực tiễn dạy học, để củng cố vững chắc các luận
điểm đã phân tích ở mục 4.1.2. Mặc dù chưa hiểu rõ về những đặc trưng của
các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục, đa số giáo viên dựa vào tri thức sẵn
có và kinh nghiệm thực tế vẫn đưa ra được những nhận định xác đáng về nội
dung và phương pháp của chương trình bộ môn lịch sử, cũng như của khoá
trình LSTG Hiện đại. Các ý kiến phản hồi từ thực tiễn dạy học của giáo viên đã
cho thấy hiệu lực của hệ thống các yếu tố cơ bản trong chương trình bộ môn và
khoá trình LSTG Hiện đại là rất thấp, đúng như sự phân tích ở mục 4.1.2.
Thứ hai, những ý kiến và thông tin phản hồi từ các giáo viên được khảo
sát đã cho thấy những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của họ khi vận
dụng các yếu tố cơ bản trong quá trình dạy học. Những điểm mạnh của họ
được thể hiện ở sự vững vàng về nội dung kiến thức và sự thành thạo về các
phương pháp dạy học tiếp cận trực tiếp (bao gồm cả việc đổi mới phương pháp
dạy học).
Điểm yếu rõ nhất của giáo viên chính là những khiếm khuyết của họ
trong quan niệm về mục tiêu giáo dục. Sự thiếu thống nhất giữa các giáo viên
233
trong việc xác định mục tiêu khoá trình chứng tỏ họ chưa tiếp cận được mục
tiêu đào tạo của cấp học những nhiệm vụ của bộ môn (đã được trình bày trong
các văn bản pháp quy) để làm cơ sở chung cho việc xác định mục tiêu khoá
trình. Họ cũng chưa nhận thức được mối liên hệ giữa các cấp độ của mục tiêu
giáo dục cũng như sự phân loại các mục tiêu giáo dục, để có thể dựa vào các
mục tiêu ở cấp độ trên mà xác định mục tiêu cho cấp độ dưới, theo đúng các
loại mục tiêu khoá trình. Các giáo viên chỉ quen với việc xác định mục tiêu cho
từng bài học trong SGK, nên họ rất bỡ ngỡ khi phải xác định mục tiêu cho một
khoá trình bao gồm nhiều bài học. Do vậy, họ đã xác định mục tiêu khoá trình
bằng những quan niệm chủ quan, hoặc bằng cách tổng hợp các mục tiêu của
từng chủ đề hay từng bài học trong SGK. Các giáo viên chỉ chú trọng các mục
tiêu nhận thức, rất ít quan tâm đến mục tiêu thái độ - tình cảm và hầu như
không để ý đến các mục tiêu kỹ năng.
Sự khiếm khuyết trong quan niệm về mục tiêu kéo theo sự khiếm khuyết
trong quan niệm về mối quan hệ giữa mục tiêu với các yếu tố cơ bản khác, kể
cả đánh giá (chưa được đề cập ở đây). Những thông tin phản hồi từ các phiếu
thăm dò cho thấy giáo viên quan niệm khác nhau và rất mơ hồ về mối quan hệ
giữa mục tiêu với nội dung khoá trình, mặc dù một số người bước đầu đã cảm
nhận được mối quan hệ đó khi phải đối diện với những khó khăn, do các nhược
điểm của nội dung kiến thức tạo nên. Những thông tin đó cũng cho thấy hầu
hết giáo viên chưa nhận biết được mối quan hệ giữa phương pháp với mục tiêu
của khoá trình. Kinh nghiệm thực tế đã giúp cho các giáo viên có quan niệm rõ
ràng và thống nhất với nhau về mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp.
Tuy nhiên, quan niệm đó chưa đầy đủ và sâu sắc, chỉ giới hạn ở tác động tiêu
cực của nội dung đối với phương pháp, trong trường hợp nội dung có nhiều
nhược điểm và bị hạn chế bởi thời gian trong phân phối chương trình.
234
Thứ ba, việc khảo sát qua giáo viên bộ môn cho thấy nguyên lý về mối
quan hệ tương tác giữa các yếu tố cơ bản chưa được vận dụng trong chương
trình học và quá trình dạy học.
Các luận điểm phân tích ở mục 4.1 cho phép nhận định rằng: việc xây
dựng chương trình bộ môn (bao gồm khoá trình LSTG Hiện đại) đã được thực
hiện mà không dựa trên đặc trưng của các yếu tố cơ bản và không có sự tham
chiếu nguyên lý về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó trong quá trình
giáo dục. Việc khảo sát qua giáo viên bộ môn vừa góp phần chứng minh cho
nhận định trên, lại vừa cho thấy những khiếm khuyết trong quan niệm của họ
về nguyên lý này. Điều đó cũng có nghĩa là họ chưa vận dụng nguyên lý này
vào thực tiễn dạy học. Chính việc thiếu vận dụng nó trong chương trình học và
trong quá trình dạy học đã dẫn tới những nhược điểm, làm hạn chế hiệu lực của
mục tiêu, nội dung và phương pháp của chương trình bộ môn và khoá trình
LSTG Hiện đại. Cũng chính do đó mà chất lượng dạy học của giáo viên và học
sinh trong nhà trường bị hạn chế. Việc khảo sát qua giáo viên nêu trên đã cho
thấy những sự hạn chế của chương trình và khoá trình đối với người dạy.
Những kết quả dưới đây sẽ làm sáng tỏ sự hạn chế đối với người học và
thành quả dạy học nói chung.
Kết quả khảo sát qua học sinh
Việc khảo sát qua học sinh về hiệu lực của hệ thống Mục tiêu - Nội dung -
Phương pháp trong khoá trình LSTG Hiện đại đã mang lại những kết quả cụ
thể.
Thứ nhất, hiệu lực của mục tiêu khoá trình là rất thấp. Số học sinh cho
rằng khoá trình không mang lại lợi ích nào cho các em chiếm tới 26% tổng số
học sinh được khảo sát, có nghĩa là mục tiêu khoá trình hoàn toàn không tác
235
động tới số học sinh này. Số học sinh cho rằng khoá trình mang lại một số lợi
ích nhất định chiếm 49% tổng số, nhưng những lợi ích mà các em nêu lên
thường rất khái quát, mơ hồ, phiến diện và rất khác nhau. Điều đó cho thấy
mục tiêu khoá trình không trở thành định hướng chung cho các em trong học
tập. Số học sinh cho rằng khoá trình mang lại nhiều lợi ích chỉ chiếm 25%. Hầu
hết những lợi ích mà các em nêu lên đều thuộc về lĩnh vực nhận thức (97,7%);
về thái độ - tình cảm là hết sức ít ỏi (2,1%); còn về kỹ năng thì hầu như không
đáng kể (0,16%). Điều này cho thấy các mục tiêu thái độ - tình cảm và kỹ năng
hầu như không tác động tới học sinh. Một số học sinh nêu lên nhiều lợi ích,
nhưng chỉ có rất ít những lợi ích được nêu phù hợp với mục tiêu khoá trình.
Tất cả những thông tin và số liệu nêu trên đã chứng tỏ mục tiêu khoá trình
có hiệu lực rất thấp đối với học sinh.
Thứ hai, hiệu lực chung của hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp
trong khoá trình là rất thấp. Một khoá trình có những mục tiêu rất lớn cả về
nhận thức, thái độ - tình cảm lẫn kỹ năng, có phạm vi nội dung rất rộng với
dung lượng kiến thức rất nhiều; nhưng lại có tới 28% số học sinh được khảo sát
trả lời rằng các em không học được gì, 58% số đó nói rằng mình chỉ học được
1 - 2 kiến thức, và chỉ 14% học được từ 3 kiến thức trở lên; thì khoá trình đó có
hiệu lực rất thấp. Nhưng hiệu lực không chỉ thể hiện ở khối lượng kiến thức
được học sinh lĩnh hội, mà còn ở trình độ nhận thức của các em. Với yêu cầu
trình bày tóm tắt chỉ một sự kiện mà mình nhớ nhất (khi vừa mới học xong
khoá trình LSTG Hiện đại), đã có tới 47% số học sinh được khảo sát không thể
trình bày được, nghĩa là các em này không nhận thức được một sự kiện nào.
Trên 40% số này đã trình bày được 1 sự kiện nhưng chưa đạt yêu cầu, nên
nhận thức của em cao nhất cũng chỉ là trình độ “biết”. Chỉ còn dưới 13% số học
sinh trình bày đạt yêu cầu, thể hiện nhận thức ở trình độ “hiểu”. Câu hỏi thăm
dò chưa yêu cầu các em thể hiện trình độ nhận thức cao hơn. Nhưng muốn có
236
trình độ “áp dụng”, “phân tích”, “tổng hợp” hay “đánh giá”, trước hết các em
phải “hiểu” (chính xác là “thông hiểu”). Bởi thế, nếu có một số em có trình độ
nhận thức cao hơn, thì cũng không vượt khỏi số học sinh đạt trình độ “hiểu”.
Thứ ba, các thông tin và số liệu phản hồi từ học sinh hoàn toàn phù hợp
với kết quả khảo sát qua giáo viên.
Những khiếm khuyết của giáo viên trong quan niệm về mục tiêu giáo dục
cũng như mục tiêu khoá trình, được thể hiện rất rõ trong sự phản hồi của học
sinh về mục tiêu khoá trình. Khi giáo viên quan niệm tản mạn, không rõ ràng
và không thống nhất với nhau về mục tiêu khoá trình, thì học sinh cảm nhận rất
mơ hồ và khác nhau về những lợi ích mà khoá trình mang lại cho các em. Khi
giáo viên chỉ chú trọng đến các mục tiêu nhận thức mà ít quan tâm các mục
tiêu thái độ - tình cảm và không để ý đến các mục tiêu kỹ năng, thì học sinh
cũng chỉ cảm nhận được những lợi ích về nhận thức là chủ yếu, còn những lợi
ích về thái độ - tình cảm là rất ít, và hầu như không biết đến lợi ích về kỹ năng.
Những nhận định của giáo viên về các nhược điểm trong nội dung và phương
pháp của khoá trình đã được các thông tin phản hồi từ học sinh minh hoạ rất rõ
ràng.
Những thông tin phản hồi từ học sinh về hiệu lực rất thấp của khoá trình
đã cho thấy rõ: mỗi yếu tố có hiệu lực thấp làm cho hiệu lực của cả hệ thống
Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp trở nên thấp kém, do đó cả khoá trình có
hiệu lực rất thấp.
4.3. Hiệu lực của chương trình CCGD qua các công trình đánh
giá trong nhà trường
Hiệu lực của chương trình bộ môn đối với việc dạy học đã được chứng
minh rõ ràng qua các cuộc khảo sát giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, để việc
kiểm chứng được đầy đủ, chặt chẽ và khách quan hơn, cần có thêm việc kiểm
237
chứng qua các kỳ thi và kiểm tra trong phạm vi nhà trường hoặc trên quy mô
toàn quốc. Bởi vì các kỳ thi và kiểm tra này là sự đánh giá chính thức có giá trị
pháp lý đối với bộ môn và khoá trình. Việc kiểm chứng sẽ đi từ hiệu lực chung
của chương trình học trình đến hiệu lực của từng yếu tố trong đó.
4.3.1. Hiệu lực chung của chương trình học
Hiệu lực chung của chương trình học bộ môn hay khoá trình (chủ yếu là
hiệu lực của hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp của nó) được phản
hồi từ các hình thức kiểm tra đánh giá cho giáo viên thực hiện trong giờ học ở
nhà trường, cho đến các kỳ thi tầm cỡ quốc gia.
Kiểm tra trong giờ học (KTTG)
Việc kiểm tra trong giờ học hoàn toàn thuộc quyền của giáo viên phụ
trách bộ môn. Giáo viên tự đặt câu hỏi, ra đề và tự mình chấm điểm học sinh.
Thời gian tiến hành kiểm tra lấy trong giờ học do thời khoá biểu quy định.
- Kiểm tra miệng (M) là hình thức gọi học sinh lên bảng để trả lời câu hỏi
của giáo viên về nội dung của bài (hay viết) vừa được học (thường được gọi là
“bài cũ”) trước khi bước vào “bài mới”. Mọi học sinh đều biết trước nội dung
bài sẽ được kiểm tra, nhưng không biết ai sẽ được gọi lên “trả bài” cho giáo
viên. Vì vậy, muốn có kết quả tốt, mọi học sinh đều phải học và làm bài tập
(nếu có) của “bài cũ” trước khi đến lớp. Vì môn lịch sử có ít giờ học mà sĩ số
mỗi lớp học thường rất đông (khoảng trên dưới 50 học sinh) nên mỗi học sinh
chỉ được kiểm tra M 1 lần trong mỗi học kỳ, hãn hữu mới có em được hơn 1
lần lên bảng trả bài.
Kết quả kiểm tra M thường rất cao, số điểm đạt yêu cầu trở lên (từ điểm 5
đến điểm 10) thường chiếm 90% đến 100% tổng số điểm M của mỗi lớp.
- Kiểm tra 15’ là hình thức kiểm tra viết có hoặc không báo trước, được
thực hiện trong 15 phút đầu tiết học mà tất cả học sinh trong lớp đều phải làm
bài. Nội dung bài kiểm tra 15’ cũng tương tự như những câu hỏi kiểm tra M,
238
nghĩa là nhắc lại kiến thức trong bài vừa học, nhưng đôi khi giáo viên cũng hỏi
về một số kiến thức đã được học.
Mỗi học kỳ ở lớp 10 và lớp 11 thường chỉ có 1 bài kiểm tra 15’, còn ở lớp
12 thường có 2 bài.
Kết quả kiểm tra 15’ thường cũng rất cao như kiểm tra M.
- Kiểm tra 1 tiết (T) là bài kiểm tra viết bắt buộc học sinh phải làm trong 1
tiết học (45 phút). Nội dung bài kiểm tra T bao gồm các kiến thức đã được học
qua nhiều tiết học trên lớp, thuộc một phần khá lớn của chương trình (thường
là nửa học kỳ đầu). Đây là loại bài kiểm tra định kỳ có báo trước, đòi hỏi học
sinh phải ôn tập những kiến thức đã học để có thể làm được bài. Điểm kiểm tra
T được tính hệ số 2, nghĩa là có giá trị gấp 2 lần so với điểm M và 15’.
Mỗi học kỳ thường chỉ có 1 bài kiểm tra T đối với lớp 10, lớp 11 cũng
như lớp 12.
Kết quả kiểm tra T cũng thường rất cao, như kiểm tra M và kiểm tra 15’.
Bảng thống kê dưới đây cho thấy tỷ lệ học sinh đạt và không đạt yêu cầu
về môn Lịch sử của học sinh lớp 12 một trường THPT TP. Hồ Chí Minh, qua
các hình thức KKTG:
Hình 4.3: Bảng thống kê kết quả KTTG Học kỳ I môn Lịch
sử của 4 lớp 12 trường THPT Marie Curie (năm học 2000 -
2001)
Lớp Sĩ số Số điểm M Số điểm 15’ Số điểm T
239
Không
đạtĐạt
Tỷ lệ
đạt
Không
đạtĐạt
Tỷ lệ
đạt
Không
đạtĐạt
Tỷ lệ
đạt
12A12 54 1 61 98% 0 108 100% 0 54 100%
12A14 55 4 58 94% 0 110 100% 0 55 100%
12A18 55 18 64 78% 0 110 100% 0 55 100%
12P 30 0 35 100% 0 60 100% 0 30 100%
Nguồn: Trường THPT Marie Curie - phiếu điểm cá nhân giáo viên, năm
học 2000 - 2001
Bảng này cho thấy chỉ có một số rất ít học sinh không đạt yêu cầu ở hình
thức kiểm tra M (từ 2% đến 22%), còn tất cả các em trong 4 lớp đều đạt yêu
cầu 100% ở các bài kiểm tra 15’ và T. Hơn thế nữa, nếu đi sâu vào phiếu điểm
cá nhân của giáo viên để xếp loại điểm số mà học sinh đạt được, có thể nhận
thấy đa số học sinh đạt điểm khá và giỏi. Chẳng hạn, trong tổng số 443 điểm
KTTG mà học sinh lớp 12A14 được ghi trong cả năm học, chỉ có 4 điểm kém
(từ 0 đến 2), 2 điểm yếu (điểm 3 và 4), 75 điểm trung bình (từ 5 đến 6), 343
điểm khá (7 và 8) và 19 điểm giỏi (9 và 10). Như vậy, trình tự xếp hạng các
loại điểm từ nhiều đến ít là:
1) Khá : 77,42%
2) Trung bình : 16,93%
3) Giỏi : 4,29%
4) Kém : 0,9%
5) Yếu : 0,45%
Đó là những kết quả tuyệt vời nhưng không phải đặc biệt, mà chỉ là dẫn
chứng tiêu biểu cho kết quả KTTG đối với môn lịch sử nói chung, ở hầu hết
các trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh và trên toàn quốc.
Kiểm tra học kỳ (KTHK) và điểm trung bình môn học (TBM)
240
- Kiểm tra học kỳ: là đợt kiểm tra quan trọng nhất để đánh giá trình độ
học sinh sau mỗi học kỳ. Đợt kiểm tra này được tiến hành đồng loạt giữa các
lớp cùng khối trong toàn trường. Trường ra đề chung cho tất cả các lớp (đối với
khối lớp 10 và 11), hoặc Sở Giáo dục và Đào tạo ra đề chung cho tất cả các
trường trong thành phố (đối với khối lớp 12). Hệ thống giám thị và giám khảo
được tổ chức sao cho giáo viên bộ môn không thể tác động vào bài làm của học
sinh do chính mình dạy.
- Điểm trung bình môn: là kết quả học tập của học sinh trong mỗi học kỳ
và cả năm học:
Điểm TBM mỗi học kỳ được tính theo công thức sau:
TBM3
KTHK) 2 x KTTG bìnhtrung (Ñieåm
2) x T 15' (M tra kieåmlaàn Soá2) x T 15' (M ñieåm soá Toång
KTTG bìnhtrung ñieåm ñoù Trong
Với cách thức kiểm tra và tính điểm như vậy, kết quả học tập LSTG
Hiện đại trong học kỳ I năm học 2000 - 2001 của các học sinh nêu trên được
thể hiện qua bảng thống kê sau:
Hình 4.4. Bảng thống kê kết quả KTHK và điểm TBM học
kỳ I môn Lịch sử của 4 lớp 12 trường THPT Marie Curie (năm
học 2000 - 2001)
LớpSố điểm KTHK Số điểm TBM
Không đạt Đạt Tỷ lệ đạt Không đạt Đạt Tỷ lệ đạt
12A12 15 39 72% 1 53 98%
12A14 12 42 78% 0 54 100%
12A18 10 45 82% 0 55 100%
12P 3 26 90% 0 29 100%
Nguồn: Trường THPT Marie Curie - phiếu điểm cá nhân giáo viên, năm
học 2000 - 2001.
241
Bảng này cho thấy kết quả KTHK thấp hơn so với các hình thức KTTG,
nhưng vẫn là kết quả rất tốt (đạt yêu cầu từ 72% đến 90%). Tuy nhiên, do kết
quả KTTG rất cao nên điểm TBM của học sinh các lớp vẫn rất cao (3 lớp đạt
yêu cầu 100%, 1 lớp đạt 98%).
Thi tốt nghiệp THPT
Các kỳ thi tốt nghiệp THPT có giá trị cao nhất trong việc đánh giá trình độ
học sinh sau 3 năm học tập ở cấp THPT, kết thúc 12 năm học tại nhà trường
phổ thông. Mặc dù là kỳ thi tốt nghiệp một cấp học, phạm vi học vấn phải thi
thường chỉ giới hạn trong chương trình lớp 12 - lớp cuối cùng của cấp học. Bộ
Giáo dục và Đào tạo ra đề chung cho toàn quốc, việc tổ chức thi thuộc thẩm
quyền Sở Giáo dục và Đào tạo ở các địa phương.
Giống như những môn “phụ” khác, bộ môn Lịch sử chỉ được chọn làm
môn thi tốt nghiệp trong một số năm học nhất định. Bài thi được thực hiện
trong thời gian 90 phút, dưới hình thức bài viết và học sinh không được sử
dụng bất cứ tài liệu nào ngoài trí nhớ của mình. Bảng thống kê sau đây sẽ cho
thấy tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu (được điểm 5 trở lên) trong 4 kỳ thi tốt nghiệp
THPT liên tiếp mà môn Sử được chọn làm môn thi:
Hình 4.5: Bảng thống kê tỷ lệ học sinh tốt nghiệp và đạt
yêu cầu về bộ môn Lịch sử trong 4 kỳ thi tốt nghiệp THPT tại
TP. Hồ Chí Minh
Kỳ thi
(Năm học)
Tổng số
thí sinh
Tỷ lệ tốt nghiệp
chung
Tỷ lệ đạt yêu cầu
môn lịch sử
1996 - 1997 26.190 80,66% 84,70%
1997 - 1998 29.205 69,34% 62,48%
1998 - 1999 32.134 92,76% 80,30%
1999 - 2000 35.939 89,30% 93,62%
242
Nguồn : Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh - Tài liệu lưu trữ
Bảng này cho thấy tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu môn lịch sử không có gì đặc
biệt so với tỷ lệ tốt nghiệp chung. Nếu so sánh kết quả KTTG và TBM, thì kết
quả thi tốt nghiệp môn lịch sử thấp hơn rõ ràng (đạt yêu cầu từ 62,48% đến
93,62%), xấp xỉ với kết quả KTHK trong học kỳ I ở trường THPT Marie Curie.
Nếu xem xét về hiệu lực của chương trình bộ môn, thì kết quả thi tốt nghiệp
môn lịch sử vẫn rất tốt, với tỷ lệ đạt yêu cầu cao.
Thi tuyển sinh vào Đại học (TSĐH)
Tuyển sinh vào Đại học là kỳ thi có giá trị cao nhất đối với học sinh
THPT. Việc ra đề thi thuộc trách nhiệm của các trường đại học (cho đến năm
2001) và của Bộ Giáo dục và Đào tạo (từ năm 2002 trở đi). Phạm vi học vấn
của đề thi chủ yếu nằm trong chương trình lớp 12 THPT, giống như của đề thi
tốt nghiệp THPT, nhưng đòi hỏi học sinh phải trình bày một khối lượng học
vấn lớn hơn, đôi khi phải vận dụng cả kiến thức lớp 11, trong khoảng thời gian
làm bài 180 phút (gấp đôi thời gian làm bài thi tốt nghiệp). Mọi công tác tổ
chức thi (coi thi, chấm thi, xét trúng tuyển ...) do các trường đại học thực hiện
dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Việc thi môn lịch sử trong kỳ thi này có sự khác biệt với kỳ thi tốt nghiệp
THPT: chỉ những thí sinh thi khối C (khoa học Xã hội và Nhân văn) mới dự thi
môn lịch sử. Điểm trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh không phải là điểm “đạt yêu
cầu” như trong kỳ thi tốt nghiệp THPT; nhưng tỷ lệ đạt hay không đạt yêu cầu
sẽ cho thấy kết quả của việc dạy học bộ môn cũng như hiệu lực của các khoá
trình LSTG Hiện đại và LSVN Hiện đại. Bảng thống kê sau đây sẽ cho thấy rõ
kết quả và hiệu lực đó qua các kỳ thi tuyển sinh của trường Đại học Sư phạm
(ĐHSP) TP. Hồ Chí Minh:
243
Hình 4.6: Bảng thống kê tỷ lệ bài thi đạt và không đạt yêu
cầu môn Lịch sử qua các kỳ thi TSĐH vào trường ĐHSP TP. Hồ
Chí Minh
Kỳ thi
(năm)
Tổng số
bài thi
Đạt yêu cầu
(từ 5 đến 10 điểm)
Không đạt yêu cầu
(từ 0 đến 4,5 điểm)
Số bài thi Tỷ lệ Số bài thi Tỷ lệ
1995 2121 575 27,11% 1546 72,89%
1998 3186 500 15,69% 2686 84,30%
1999 5809 1585 27,29% 4224 72,71%
2000 11522 4425 38,40% 7097 61,60%
2005 8956 308 03,44% 8648 96,56%
2006 9241 613 06,63% 8628 93,37%
Nguồn : Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh - Hồ sơ lưu trữ
Ghi chú: Trong kỳ thi tuyển sinh năm 2006, số bài thi đạt yêu cầu được
tính từ 4,75 điểm.
Bảng này cho thấy một kết quả hoàn toàn trái ngược giữa kỳ thi Tuyển
sinh vào Đại học (TSĐH) với kỳ thi tốt nghiệp THPT, với kết quả KTHK,
KTTG và với điểm TBM mà học sinh đạt được ở nhà trường THPT. Trong kỳ
thi TSĐH, số thí sinh đạt yêu cầu chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, cao nhất là
38,40%, thấp nhất là 03,44%, trung bình khoảng 15%. Trong khi đó, đa số thí
sinh không đạt yêu cầu, ít nhất cũng chiếm 61,60%, nhiều nhất lên tới 96,56%,
bình quân khoảng 85%.
244
Hơn thế nữa, khi đi sâu phân loại điểm số của các bài thi không đạt yêu
cầu, có thể thấy đa số thuộc về loại kém. Bảng phân loại sau đây thể hiện rõ
điều đó.
Hình 4.7: Bảng phân loại theo tỷ lệ điểm số các bài thi môn lịch sử qua
các kỳ thi TSĐH vào trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh
Kém
(0 - 0,25)Yếu
(3 - 3,4)Trung bình
(6 - 6)Khá
(6,5 - 8)Giỏi
(8,5 - 10)
Tỷ lệXếp
hạngTỷ lệ
Xếp
hạngTỷ lệ
Xếp
hạngTỷ lệ
Xếp
hạngTỷ lệ
Xếp
hạng
1995 50,83% 1 22,06% 2 13,62% 3 11,60% 4 1,89% 5
1998 57,38% 1 26,93% 2 9,79% 3 5,49% 4 0,4% 5
1999 48,25% 1 24,46% 2 14,72% 3 10,78% 4 1,79% 5
2000 37,52% 1 24,08% 2 16,85% 4 18,06% 3 3,50% 5
2005 86,00% 1 10,58% 2 2,72% 3 0,70% 4 0,01% 5
2006 73,24% 1 20,11% 2 5,70% 3 0,94% 4 0% 5
Nguồn : Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh - Hồ sơ lưu trữ
Theo bảng này, tỷ lệ bài đạt điểm kém (từ 0 đến 2,5 điểm) thấp nhất là
37,52%, cao nhất là 86,00%, tính bình quân là trên dưới 50% tổng số bài thi.
Các thí sinh bị điểm kém là những học sinh hầu như không học được gì trong
cả hai khoá trình LSTG Hiện đại và LSVN Hiện đại. Chưa kể đến số bài điểm
kém tăng vọt trong hai kỳ thi tuyển sinh mới nhất, cùng với các bài thi loại yếu
(từ 3 đến 4,5 điểm) đứng thứ hai, đã chiếm đại đa số thí sinh dự thi. Tỷ lệ bài
đạt điểm trung bình, khá và giỏi luôn luôn thấp hơn hẳn hai loại bài không đat
yêu cầu. Trình tự xếp hạng số bài từ nhiều đến ít theo các loại điểm của chúng
hầu hết là:
245
Loại điểm
Kỳ thi
1) Kém : từ 37,53% đến 86,00%
2) Yếu : từ 10,58% đến 26,93%
3) Trung bình : từ 2,72% đến 16,85%
4) Khá : từ 0,70% đến 18,06%
5) Giỏi : từ 0% đến 3,5%
Những kỳ thi TSĐH ở các trường đại học trên toàn quốc cũng có những
số liệu tương tự như của trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh. Các số liệu này luôn
luôn trái ngược với kết quả của các kỳ thi và kiểm tra ở các trường THPT, kể
cả kỳ thi tốt nghiệp. Điểm số của các kỳ thi TSĐH thấp kém như vậy chứng tỏ
hiệu lực của chương trình học và việc dạy học trong trường THPT là rất thấp.
4.3.2. Hiệu lực của từng yếu tố trong mối quan hệ tương tác với nhau
Hiệu lực chung của chương trình chính là sự tổng hợp hiệu lực của từng
yếu tố cơ bản trong mối quan hệ tương tác với nhau. Các kỳ thi và kiểm tra ở
nhà trường cũng thể hiện điều này.
Hiệu lực của mục tiêu
Các kỳ thi và kiểm tra thuộc về yếu tố Đánh giá trong quá trình dạy học.
Mỗi bài thi hay kiểm tra đều là một công trình đánh giá thành quả học tập của
học sinh. Mà tiêu chuẩn đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất của mọi công trình
đánh giá là phải bảo đảm sự nhất quán với mục tiêu (consistency with
objectives).
Việc phân tích chương trình và khảo sát thực tiễn dạy học đã cho thấy cả
chương trình và sách giáo khoa lẫn giáo viên đứng lớp đều không quan tâm đầy
đủ đến mục tiêu của bộ môn hay khoá trình. Cũng không có ai quan tâm đến
mối quan hệ giữa mục tiêu và đánh giá. Do đó, hầu hết các câu hỏi KTTG,
KTHK, các đề thi tốt nghiệp THPT cũng như một số đề thi TSĐH đều bỏ qua
các mục tiêu về kỹ năng và về thái độ tình cảm, chỉ tập trung đánh giá về nhận
thức của học sinh dựa trên nội dung khoá trình trong SGK. Mà việc đánh giá
246
nhận thức của học sinh cũng chỉ giới hạn chủ yếu ở hai trình độ thấp nhất theo
cách phân loại của Bloom là “biết” và “hiểu”. Sau khi khảo sát 10 đề thi tốt
nghiệp THPT môn lịch sử (từ năm học 1999 - 2000 đến năm học 2004 - 2005)
cùng với đáp án và thang điểm của chúng, Nguyễn Thục Anh (2005) đã đưa ra
bảng thống kê như sau:
Hình 4.8: Bảng thống kê các loại câu hỏi trong 10 đề thi
tốt nghiệp THPT môn Lịch sử.
Tổng số câu chi tiết Số câu hỏi tư duy bậc thấp Số câu hỏi tư duy bậc cao
Số đề thi Số câu hỏi Số câu Tỷ lệ Số câu Tỷ lệ
10 71 61 86% 10 14%
Nguồn : Nguyễn Thục Anh (2005) [77, tr.49]
Theo bảng này, trong tổng số 71 câu hỏi của 10 đề thi, số câu hỏi tư duy
bậc thấp (với yêu cầu nhận thức ở trình độ thấp: “nêu”, “trình bày”, “là gì”)
chiếm 86%, chỉ còn lại 14% câu hỏi về nhận thức ở trình độ cao (“phân tích”,
“nhận xét”). Nguyễn Thục Anh (2005) nhận xét: “Về hình thức thì các câu hỏi
tư duy bậc cao chiếm tỷ lệ gần 14%, nhưng với thực trạng dạy và học môn
Lịch sử thì học sinh trả lời một câu hỏi yêu cầu tư duy bậc cao bằng kỹ năng tư
duy bậc thấp như học thuộc lòng rồi chép” [77, tr.50]. Và bà đã phát hiện:
“Hoàn toàn không có câu hỏi nào kiểm tra kỹ năng hoặc thái độ” [77, tr.49].
Hiệu lực của nội dung
Sự phân tích chương trình cùng việc khảo sát qua giáo viên và học sinh
đều cho thấy hiệu lực của nội dung chương trình là rất thấp. Điều đó cũng được
kiểm chứng qua các kỳ thi và kiểm tra ở nhà trường.
Cả giáo viên và học sinh đều biết rõ, với những nội dung kiến thức như
trong SGK, con đường duy nhất để có thể “lĩnh hội” được chúng là học thuộc
lòng câu chữ. Do đó, giáo viên buộc phải tóm lược các bài trong SGK thành
247
những bài học ngắn ngọn và rõ ràng hơn, để học sinh dễ học hơn. Vì vậy, khi
tiến hành các cuộc KTTG (gồm cả kiểm tra M, 15’, T), giáo viên thường đưa ra
các câu hỏi mà chỉ cần thuộc bài là học sinh có thể trả lời: “hãy trình bày...”,
“hãy nêu ...”. Họ hầu như không nêu những câu hỏi ở trình độ nhận thức cao
(áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá). Việc khảo sát qua giáo viên đã cho
thấy học sinh không thể trả lời các câu hỏi này. Khi tiến hành KTHK, những
người có trách nhiệm buộc phải giới hạn nội dung kiến thức, để tránh cho học
sinh phải học thuộc lòng quá sức mình. Trong mỗi kỳ thi tốt nghiệp THPT,
chính Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng phải giới hạn nội dung kiến thức, với hy
vọng nâng cao kết quả kỳ thi. Sự giới hạn nội dung kiến thức làm tăng thêm
những câu hỏi trùng lặp trong đề thi tốt nghiệp THPT ở những năm học khác
nhau. Với 10 đề thi của 6 năm học được khảo sát nêu trên, Nguyễn Thục Anh
(2005) đã thống kê số đơn vị câu hỏi trùng lặp (đều thuộc về khoá trình LSTG
Hiện đại) như sau:
Hình 4.9: Bảng thống kê số đơn vị câu hỏi trùng lặp trong
các đề thi tốt nghiệp THPT khác nhau
Số đơn vị trùng lặp Nội dung trùng lặp
2 Chủ đề sự hình thành ASEAN
2 Tình hình kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh
2 Bài học kinh tế Nhật Bản
Nguồn: Nguyễn Thục Anh (2005) [77, tr.49]
Chỉ với 10 đề thi đã có 3 chủ đề với 6 đơn vị trùng lặp. Đây là một tỷ lệ
trùng lặp cao, cho thấy những nội dung kiến thức có hiệu lực trong khoá trình
là khá hiếm, khiến cho những người làm đề không có nhiều lựa chọn cho một
đề thi tốt. Các thông tin phản hồi từ các kỳ thi và kiểm tra ở trường THPT như
trên đã chứng minh rất rõ: do hiệu lực của các nội dung kiến thức bộ môn rất
248
thấp, các giáo viên và các cơ quan hữu trách buộc phải áp dụng những biện
pháp tóm lược và giới hạn phạm vi và dung lượng của chúng, nhằm giảm bớt
sự nặng nề trong việc học thuộc lòng (tức học vẹt) cho học sinh.
Đối với kỳ thi TSĐH, người ta lại phải trợ giúp các thí sinh bằng một biện
pháp khác. Từ năm 1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành và chỉ đạo sử
dụng các bộ đề thi tuyển sinh và hướng dẫn làm bài thi vào các trường Đại học,
Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, trong đó có cuốn “Đề thi tuyển sinh và
Hướng dẫn làm bài thi môn Lịch sử”. Dựa vào các đề thi có sẵn kèm theo đáp
án trong cuốn sách này, các trường chỉ việc bốc thăm để chọn đề thi cho mình;
còn thí sinh chỉ việc học thuộc lòng các đáp án có sẵn của các đề thi đã cho,
chờ dịp áp dụng trong kỳ thi TSĐH. Loại ấn phẩm này chỉ tồn tại 4 năm (1993
- 1997), nhưng nó cho thấy rằng: với những nội dung kiến thức của các khoá
trình trong SGK hiện hành, cách tốt nhất để đạt kết quả trong kỳ thi TSĐH là
học “vẹt” và học “tủ”.
Hiệu lực của phương pháp
Hiệu lực của phương pháp dạy học thể hiện ở trình độ nhận thức mà học
sinh đạt được và kỹ năng mà các em được rèn luyện. Sự phân tích và việc khảo
sát qua thực tiễn dạy học đã chứng minh rõ ràng bằng phương pháp dạy học
hiện hành có hiệu lực rất thấp đối với nhận thức của học sinh. Phương pháp
tóm lược bài trong SGK để học sinh ghi chép cũng không rèn luyện được kỹ
năng gì cho các em, ngoại trừ việc học thuộc lòng. Chính vì vậy mà trong các
kỳ thi và kiểm tra ở trường THPT, người ta hầu như không đặt các câu hỏi để
kiểm tra kỹ năng. Các kỳ thi TSĐH sẽ cho thấy hiệu lực của phương pháp
trong việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh.
Trong các kỳ thi TSĐH, Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu:
Đề thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp
phải đạt được các yêu cầu về kiểm tra những kiến thức cơ bản, khả
249
năng vận dụng và kỹ năng thực hành của thí sinh trong phạm vi
chương trình THPT (hoặc THCS đối với một số trường THCN), chủ
yếu là chương trình cuối cấp, phù hợp với trình độ chung của thí sinh
dự thi, đúng với chương trình và mức độ mà trường đã công bố. [Dẫn
theo 64, tr.175-176].
Đáp ứng yêu cầu này, một số đề thi TSĐH môn Lịch sử đã nêu những câu
hỏi buộc thí sinh phải thể hiện kỹ năng của mình. Thí dụ 1: “Năm 2001 là năm
chẵn (10 năm, 15 năm, v.v...) của những sự kiện lịch sử quan trọng nào đã diễn
ra trong lịch sử Việt Nam từ 1918 đến 1991, nội dung và ý nghĩa của những sự
kiện ấy?” [Đề thi của trường ĐHSP Hà Nội năm 2001]. Ngoại trừ cách diễn đạt
có phần lủng củng, câu hỏi này yêu cầu học sinh phải thể hiện một loạt kỹ
năng: kỹ năng nhớ sự kiện, kỹ năng xem xét sự kiện trong mối quan hệ lịch
đại, kỹ năng áp dụng kiến thức lịch sử vào các dịp kỷ niệm, kỹ năng phân tích
ý nghĩa sự kiện. Thí dụ 2: “Hãy nêu những sự kiện chính của Chiến tranh thế
giới thứ hai từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 6 năm 1941 và tác động của chúng
đối với Việt Nam trong thời gian đó” [đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm
2003]. Câu hỏi này yêu cầu các kỹ năng ghi nhớ và sắp xếp sự kiện theo lịch
đại, kỹ năng xem xét các sự kiện trong mối quan hệ đồng đại, kỹ năng liên kết
kiến thức LSTG với LSVN. Thí dụ 3: “Nêu những sự kiện lịch sử tiêu biểu thể
hiện tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào trong thời kỳ
chống Pháp và chống Mỹ (1945 - 1975)” [đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo
năm 2005] và thí dụ 4: “Những thắng lợi của quân Đồng Minh trong việc tiêu
diệt phát xít Nhật và tác động của những thắng lợi đó đối với Việt Nam năm
1945?” [đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2006] cũng đều là những câu
hỏi yêu cầu kỹ năng như trong thí dụ 2. Các bảng điểm chấm thi đã cho thấy
đại đa số thí sinh không thể trả lời, hoặc trả lời rất kém, đối với những câu hỏi
yêu cầu các em vận dụng các kỹ năng học tập và kỹ năng nhận thức như trên.
250
Riêng trong hai kỳ thi TSĐH năm 2005 và 2006, với những đề thi không thuận
lợi cho việc học vẹt (và học tủ), có nhiều đòi hỏi về kỹ năng, lại mắc nhiều sai
sót trong đề thi và đáp án thì kết quả đạt được của thí sinh đã sút giảm đột biến
so với các kỳ thi trước đó vốn cũng có kết quả rất thấp [xem hình 4.7].
4.3.3. Kết quả kiểm chứng
Việc kiểm chứng về hiệu lực của chương trình học và việc dạy học qua
các kỳ thi và kiểm tra ở các trường THPT và các trường Đại học đã đi đến
những kết quả rất rõ ràng.
Thứ nhất, kết quả về điểm số rất cao mà học sinh đạt được qua các kỳ thi
và kiểm tra ở trường THPT thuộc về một tiêu chí thấp chưa phản ánh đúng
thực chất hiệu lực của khoá trình và bộ môn, không phù hợp với sự khảo sát
qua giáo viên và học sinh.
Như ở phần trên đã trình bày, các hình thức KTTG và KTHK luôn đạt kết
quả rất cao (thường đạt yêu cầu từ 90% đến 100%) khiến cho điểm TBM càng
cao hơn (thường có từ 98% đến 100% số học sinh đạt yêu cầu). Kết quả điểm
thi tốt nghiệp bộ môn cũng rất cao, thường trên 80% đạt yêu cầu, cá biệt mới
có những năm thấp hơn tỷ lệ đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả như
vậy.
Các kỳ thi và kiểm tra này thuộc khuôn khổ những công trình đánh giá
bằng các tiêu chuẩn bên trong (inner criteria based evaluation) do những người
trong cuộc (giáo viên, các cấp lãnh đạo giáo dục phổ thông) thực hiện đối với
sản phẩm của chính mình (thành quả học tập của học sinh THPT). Do lợi ích
của người đánh giá liên quan mật thiết với giá trị sản phẩm được đánh giá
(chẳng hạn như uy tín và thành tích thi đua của giáo viên liên quan mật thiết
với tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu), nên các kỳ thi và kiểm tra này thường mang
tính chất chủ quan, theo hướng nâng cao kết quả đạt được của học sinh. Vì vậy,
251
từ nhiều phía, người ta áp dụng những biện pháp trợ giúp và nâng đỡ học sinh
ngoài hiệu lực của chương trình học và quá trình dạy học.
Cùng với khuynh hướng và các biện pháp nêu trên, sự bất cập về tiêu chí
đánh giá đã nâng điểm số của học sinh lên cao, cách xa thực chất học vấn mà
các em đạt được. Vì không quan tâm đến mục tiêu của bộ môn hay khoá trình,
các đề thi hoặc câu hỏi kiểm tra không hề có những tiêu chuẩn về kỹ năng hay
thái độ - tình cảm. Nhận thức của học sinh không được đánh giá theo các trình
độ đạt được, mà theo tiêu chí chính là “thuộc bài”. Tiêu chí đánh giá hẹp và
thấp như vậy khiến học sinh dễ dàng đạt điểm cao.
Về phần mình, các em học sinh chăm chỉ và có rất nhiều cố gắng (một số
em còn có hứng thú) trong học tập và thi cử. Các giáo viên đã thừa nhận rằng:
“Học sinh hiện nay học nhiều giờ, nhiều môn. Đối với bộ môn Lịch sử, thái độ
học tập như hiện nay là đáng khen ngợi rồi” [64, tr.173]. Tuy nhiên, đại đa số
các em chỉ biết học thuộc lòng câu chữ. Cách học này giúp học sinh vượt qua
các kỳ KTTG mà không gặp nhiều khó khăn, nhưng không thể giúp các em
nhồi nhét hết dung lượng kiến thức rất lớn (bao gồm nhiều “vỏ kiến thức
rỗng”) trong các khoá trình, để đối phó với các đợt KTHK hay kỳ thi tốt
nghiệp. Do đó, sự gian lận bằng nhiều hành vi của học sinh trở thành hiện
tượng phổ biến ở những mức độ khác nhau trong các kỳ thi và kiểm tra ở
trường THPT.
Những nỗ lực đáng trân trọng của giáo viên và học sinh đã làm cho những
khoá trình có hiệu lực thấp vẫn đạt được những thành quả nhất định. Song,
những công trình đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên trong đã làm cho điểm số
trong các kỳ thi và kiểm tra ở trường THPT tăng cao, vượt xa học vấn thực
chất mà học sinh đạt được.
Thứ hai, kết quả các kỳ thi TSĐH phản ánh sát thực chất hiệu lực của
chương trình bộ môn, phù hợp với sự khảo sát qua giáo viên và học sinh.
252
Các kỳ thi TSĐH luôn cho những kết quả về trình độ học vấn rất thấp của
học sinh, thể hiện qua điểm thi môn lịch sử (thường là từ 15% đến 30%, cá
biệt là 3,4% đến 6,6% thí sinh đạt yêu cầu). Kết quả này hoàn toàn trái ngược
với kết quả thi và kiểm tra ở trường THPT. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự
trái ngược trong kết quả thi như vậy. Các kỳ thi TSĐH thuộc khuôn khổ những
công trình đánh giá bằng các tiêu chuẩn bên ngoài (exterior criteria based
evaluation) do những người ngoài cuộc (giảng viên và lãnh đạo các trường Đại
học) thực hiện đối với sản phẩm của các cơ quan khác (các trường THPT). Lợi
ích của người đánh giá không có liên quan gì với giá trị sản phẩm được đánh
giá, nên các kỳ thi này bảo đảm được tính khách quan.
Hội đồng thi tuyển sinh của các trường đại học không có khuynh hướng
dễ dãi và rộng rãi đối với thí sinh, mà luôn cố gắng thực hiện nghiêm túc quy
chế của Bộ. Ngoại trừ những trường hợp riêng biệt, các giảng viên đại học (và
cả các giáo viên THPT được mời) tham gia tổ chức, coi thi, chấm thi đều
nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, các hành vi gian lận của thí
sinh được ngăn chặn khá kiên quyết, tuy vẫn chưa triệt để. TSĐH là kỳ thi
quốc gia mà lãnh đạo các địa phương không thể tác động vào kết quả của nó.
Tiêu chí đánh giá trong các đề thi TSĐH thường cao hơn và rộng hơn
trong các đề thi tốt nghiệp THPT, nhưng vẫn nằm trong “phạm vi chương trình
THPT (…), chủ yếu là chương trình cuối cấp” [dẫn theo 64, tr.175-176], đúng
theo quy chế của Bộ. Bao quát đầy đủ nội dung chương trình, các đề thi TSĐH
thường có yêu cầu cao hơn về trình độ nhận thức của học sinh, có thêm tiêu chí
kỹ năng và giảm bớt tiêu chí “thuộc bài” so với các đề thi tốt nghiệp THPT.
Các tiêu chí đánh giá này tuy chưa đáp ứng đầy đủ, nhưng đã tiếp cận được các
mục tiêu của bộ môn.
253
Với các nguyên nhân trên, rõ ràng kết quả các kỳ thi TSĐH đã phản ánh
sát đúng hiệu lực thực chất của chương trình học. Do đó, kết quả này phù hợp
với sự phân tích và kết quả khảo sát các phần trên.
Thứ ba, sự kiểm chứng qua các kỳ thi và kiểm tra đã dẫn tới kết quả xác
đáng như các cuộc khảo sát qua giáo viên và học sinh, chứng tỏ sự phân tích
chương trình bộ môn là đúng đắn.
Các cuộc khảo sát qua giáo viên và học sinh đã chỉ ra rằng: hiệu lực chung
của hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp của chương trình học là rất
thấp. Kết quả học tập thể hiện bằng điểm số của học sinh qua các kỳ thi và
kiểm tra ở trường THPT không cho thấy điều này. Nhưng các kỳ thi tuyển sinh
đại học, với tính chất khách quan của các công trình đánh giá từ bên ngoài, mặc
dù còn những bất cập và sai sót ở một số đề thi, đã cho những kết quả phù hợp
với các cuộc khảo sát nói trên.
Việc khảo sát qua giáo viên và học sinh đã cho thấy: hiệu lực thấp của
từng yếu tố Mục tiêu, Nội dung và Phương pháp đã làm cho hiệu lực chung của
chương trình học trở nên rất thấp. Sự kiểm chứng qua các kỳ thi và kiểm tra
cũng chứng tỏ điều này. Mục tiêu của khoá trình và bộ môn hầu như không có
hiệu lực về tiêu chí đánh giá trong các đề thi hay câu hỏi kiểm tra. Hiệu lực của
nội dung các khoá trình thấp đến mức học sinh phải học thuộc lòng, các đề thi
và kiểm tra ở trường THPT buộc phải lấy “thuộc bài” làm tiêu chí chính để
đánh giá; khi cần nâng cao kết quả thi, các cấp lãnh đạo buộc phải giới hạn nội
dung chương trình. Hiệu lực của phương pháp yếu kém đến mức tuyệt đại đa
số thí sinh không đáp ứng được các tiêu chí kỹ năng của các đề thi. Những
khảo sát qua giáo viên và học sinh cho thấy nguyên lý về mối quan hệ tương
tác giữa các yếu tố cơ bản chưa được vận dụng trong quá trình dạy học. Các kỳ
thi và kiểm tra đã cho thêm bằng chứng về vấn đề này. Hầu hết các đề thi và
câu hỏi kiểm tra chỉ dựa trên nội dung kiến thức của các khoá trình, mà không
254
quan tâm đến mối quan hệ giữa nội dung với mục tiêu và phương pháp. Tiêu
chí đánh giá học vấn của học sinh ở trường THPT cũng chỉ dựa trên nội dung ở
mức độ thấp nhất là: “thuộc bài”, không chú ý tới các trình độ nhận thức của
các em, không quan tâm đến mục tiêu thái độ - tình cảm, không thể hiện các kỹ
năng do phương pháp đem lại.
4.4. Đổi mới dạy học bộ môn
4.4.1. Chương trình mới của bộ lịch sử ở trường phổ thông
Cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đầu thế kỷ XXI đã tạo nên
chương trình giáo dục phổ thông mới, trong đó có chương trình mới của bộ
môn Lịch sử.
Được xây dựng theo quan điểm đảm bảo tính khoa học, tính cơ bản, tính
dân tộc và tính khả thi [xem 12e, tr.7-8], chương trình mới của bộ môn Lịch sử
xác định vị trí của bộ môn: “Môn lịch sử ở trường phổ thông được tổ chức dạy
học từ lớp 4 đến lớp 12, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục chung, đáp ứng
nhu cầu của học sinh trong việc tìm hiểu quá khứ, nhận thức xã hội hiện đại và
hành động hợp quy luật (...).” [12e, tr.5]. Từ đó, mục tiêu và nội dung tổng quát
của chương trình được trình bày như sau:
Mục tiêu
Môn Lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp cho học sinh có được
những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế
giới; góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo
dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng,
bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn
trong đời sống của xã hội [12e, tr.5].
Mục tiêu chung nêu trên được cụ thể hoá theo 3 lĩnh vực: về kiến thức,
về kỹ năng và về tình cảm, thái độ, tư tưởng [xem 12e, tr.6-7].
Nội dung
255
Do bộ môn lịch sử phải đảm bảo cung cấp cho học sinh những kiến thức
cơ bản, có hệ thống, phân biệt trình độ học tập ở các cấp, nên chương trình đã
làm nổi bật các mạch nội dung theo nguyên tắc đồng tâm kết hợp với đường
thẳng theo bảng dưới đây:
Hình 4.10: Các mạch nội dung của chương trình bộ môn lịch sử
TT Mạch nội dungLớp
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 121 Lịch sử thế giới cổ đại *
2Lịch sử thế giới trung đại *
3 Lịch sử thế giới cận đại *
4Lịch sử thế giới hiện đại * *
5Lịch sử Việt Namtừ nguồn gốc đến thế kỷ XIX
+ + * * *
6Lịch sử Việt Nam từthế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX
+ + * * *
7Lịch sử Việt Nam từgiữa thế kỷ XIX đến 1918
+ + * * * *
8Lịch sử Việt Namtừ 1919 đến nay
+ + * * *
9 Lịch sử địa phương * * * * * * * * *
Ghi chú: Dấu + thể hiện các yếu tố của tri thức lịch sử, chưa trở thành
môn học.
Nguồn : Bộ Giáo dục và Đào tạo [12e, tr.9]
Kế hoạch dạy học
Nội dung môn học như trên được thực hiện theo kế hoạch của cả 3 cấp:
Tiểu học, THCS và THPT theo bảng sau:
Hình 4.11: Kế hoạch dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ
thông
Cấp học LớpSố
tiết/tuần
Số
phút/tiếtSố tuần
Tổng số
tiết/năm
Tiểu học 4 1 40 35 35
5 1 40 35 35
256
Trung học cơ sở
6 1 45 35 35
7 2 45 35 70
8 1,5 45 35 52,5
9 1,5 45 35 52,5
Trung học phổ
thông
10 1,5 (1,5) 45 35 52,5 (52,5)
11 1 (2) 45 35 35 (70)
12 1,5 (2) 45 35 52,5 (70)
Ghi chú: Các số liện trong dấu ngoặc đơn “(…)” là số tiết thuộc
chương trình nâng cao của trường THPT.
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo [12e, tr.10]
Mục tiêu, nội dung và kế hoạch dạy học tổng quát trên đã được cụ thể
hoá thành chương trình bộ môn của từng cấp học. Chương trình học của mỗi
cấp đều có mục tiêu cụ thể chiếu theo mục tiêu tổng quát nêu trên, trình bày đủ
cả 3 lĩnh vực: kiến thức, kỹ năng và thái độ tình cảm. Nội dung dạy học cũng
được cụ thể hoá đến từng chủ đề và các đề mục. Các chuẩn kiến thức và kỹ
năng của từng chủ đề cũng được vạch rõ. Phương pháp dạy học và việc đánh
giá kết quả học tập của học sinh cũng được giải thích và hướng dẫn cụ thể. Dựa
trên chương trình bộ môn của từng cấp lớp, các sách giáo khoa đã được biên
soạn, bám sát nội dung chương trình đến từng chi tiết. Là một bộ phận của
chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình mới của bộ môn Lịch sử
cũng có những ưu điểm như chương trình giáo dục chung: được biên soạn theo
những quan niệm phát triển chương trình học hiện đại, đề cập đầy đủ 4 yếu tố
cơ bản trong quá trình giáo dục là mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh
giá, bước đầu đáp ứng việc dạy học phân hoá bằng phân ban kết hợp với dạy
học tự chọn … Trong khi đó, chương trình bộ môn Lịch sử vẫn kế thừa chương
257
trình CCGD của bộ mộn: vị trí của bộ môn trong kế hoạch dạy học chung vẫn
như trong chương trình cũ, thời lượng dành cho bộ môn hầu như không thay
đổi (ngoại trừ chương trình nâng cao ở cấp THPT được tăng lên); nguyên tắc
đồng tâm kết hợp với đường thẳng giữa chương trình THCS với chương trình
THPT vẫn được thể hiện như trong chương trình CCGD …
Dù sao đi nữa, chương trình mới của bộ môn được áp dụng chính là sự
khởi đầu của việc đổi mới dạy học bộ môn và kết quả của việc đổi mới đó
trước hết tùy thuộc vào hiệu lực của chương trình học mới. Việc đánh giá hiệu
lực của chương trình học mới không thuộc phạm vi chuyên đề này. Tuy nhiên,
với những quan niệm phù hợp với khoa học giáo dục hiện đại về phát triển
chương trình học, với chất lượng của SGK được nâng cao, có thể hy vọng rằng
chương trình mới của bộ môn Lịch sử sẽ có hiệu lực cao hơn chương trình
CCGD, tạo thuận lợi cho giáo viên đổi mới dạy học bộ môn, nâng cao được
chất lượng dạy học lịch sử trong nhà trường.
4.4.2. Những quan điểm cần thiết cho việc đổi mới dạy học ở nhà
trường
Như ở phần mở đầu đã chỉ rõ, thực chất của dổi mới giáo dục là áp dụng
những thành tựu của khoa học giáo dục tiên tiến trên thế giới vào thực tiễn Việt
Nam, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nước ta tiến kịp với trình
độ của khu vực và thế giới. Chương trình giáo dục phổ thông mới nói chung,
và chương trình mới của bộ môn Lịch sử nói riêng, đã thể hiện việc áp dụng
các quan điểm của khoa học giáo dục hiện đại về phát triển chương trình học ở
một mức độ nhất định. Tiếp theo đó, việc đổi mới dạy học ở nhà trường cũng
phải được đổi mới theo các nguyên lý, quan điểm và quan niệm phù hợp với
khoa học giáo dục tiên tiến. Đối chiếu khoa học giáo dục hiện đại với thực tiễn
dạy học ở nhà trường Việt Nam, có thể nhận thấy các quan điểm dưới đây cần
phải được áp dụng.
258
Gắn liền việc đổi mới chương trình học (curriculum) với đổi mới giảng
dạy (instruction)
Như ở phần thứ nhất đã trình bày, mọi quá trình giáo dục luôn bao gồm
hai công đoạn gắn bó mật thiết với nhau là chương trình học (curriculum) và
giảng dạy (instruction).
Do đó, đổi mới chương trình học phải gắn liền với đổi mới dạy học. Cuộc
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đầu thế kỷ XXI đã tạo nên chương
trình học mới cho các bộ môn ở nhà trường; vậy việc dạy học các bộ môn ở
nhà trường phải đổi mới theo chương trình học này. Thành quả của việc đổi
mới dạy học sẽ được thể hiện qua hiệu lực của chương trình học và chất lượng
giảng dạy ở nhà trường. Hiệu lực của chương trình học cao hay thấp sẽ tác
động trực tiếp đến chất lượng giảng dạy tốt hay không; ngược lại, thực tiễn
giảng dạy ở nhà trường sẽ cho thấy những ưu điểm và nhược điểm của chương
trình học để cải tiến và hoàn thiện nó.
Đổi mới đồng bộ cả 4 yếu tố cơ bản trong quá trình dạy học
Nguyên lý về mối quan hệ tương tác giữa 4 yếu tố cơ bản trong quá trình
giáo dục đã chỉ ra rằng: việc đổi mới dạy học không thể thực hiện riêng đối với
một yếu tố nào, mà phải tiến hành đồng bộ với tất cả các yếu tố Mục tiêu, Nội
dung, Phương pháp và Đánh giá.
Về nguyên tắc, khi chương trình Giáo dục phổ thông mới được công bố để
thực hiện thay cho chương trình CCGD, thì mục tiêu mới của giáo dục phổ
thông đã được xác định, từ đó nội dung chuyên môn mới cũng đã được lựa
chọn để đáp ứng mục tiêu mới; sự đổi mới về phương pháp và đánh giá cũng
đã được định hướng trong chương trình học của từng cấp lớp và từng bộ môn.
Đến lượt mình, khi tiến hành dạy học ở nhà trường, các vị giáo viên sẽ cụ
thể hoá mục tiêu bộ môn thành mục tiêu khoá trình và mục tiêu của từng bài
học, lựa chọn và sắp xếp nội dung chuyên môn đáp ứng mục tiêu đó, áp dụng
259
các phương pháp dạy học tương thích với những nội dung đó, rồi đánh giá
thành quả học tập của học sinh bằng những công cụ thích hợp. Khi vận hành hệ
thống bao gồm 4 yếu tố trên, sự đổi mới 1 yếu tố sẽ đòi hỏi và kéo theo việc
đổi mới 3 yếu tố còn lại. Thực tiễn dạy học ở nhà trường đã cho thấy: khi tiến
hành việc đổi mới phương pháp dạy học mà lại không lưu ý đến các yếu tố cơ
bản khác, thì việc đổi mới phương pháp không thể đạt kết quả tốt [xem lại mục
4.2].
Cần phân biệt rõ chức năng của chương trình học, của sách giáo khoa
và của giáo án (thiết kế bài học)
Từ trước đến nay, các chương trình học của Việt Nam thường được xây
dựng theo cách tiếp cận nội dung, đặt trọng tâm ở nội dung kiến thức mà không
quan tâm đầy đủ đến mục tiêu và các yếu tố cơ bản khác. Cách tiếp cận này đã
tạo nên những chương trình học dưới dạng đề cương của các cuốn sách. Dựa
theo đó, các nhà chuyên môn biên soạn các sách giáo khoa bộ môn, bám sát
chương trình (tức là đề cương) đến từng chi tiết, tuân thủ chặt chẽ thời lượng
được quy định trong phân phối chương trình. Do vậy, nếu chỉ chú trọng nội
dung kiến thức mà ít hoặc không quan tâm đến các yếu tố cơ bản khác, thì
SGK chính là chương trình học được chi tiết hoá. Trong điều kiện cả nước phải
sử dụng một bộ SGK duy nhất, thì SGK đã đảm nhiệm luôn chức năng của
chương trình học; nghĩa là chức năng của chương trình học với chức năng SGK
đã được đồng nhất với nhau. Điều đó được thể hiện qua một thuật ngữ được
dùng rất phổ biến là “chương trình SGK”. Trong thực tế, hầu hết giáo viên bộ
môn chỉ biết có SGK mà không cần biết đến chương trình học. Sự đồng nhất
chức năng này đã dẫn tới một quan điểm cho rằng “SGK là pháp lệnh”. Quan
điểm này không thể tìm thấy trong bất cứ một văn kiện chính thức nào, nhưng
lại được vận dụng phổ biến và có ảnh hưởng rất lớn đối với giáo viên. Chính
quan điểm này đã buộc giáo viên phải tuân thủ chặt chẽ các bài viết trong
260
SGK, từ bố cục , câu chữ đến các câu hỏi và bài tập. Nói cách khác, quan điểm
này biến giáo viên thành công cụ truyền đạt SGK cho học sinh, tạo nên cách
dạy học “thầy đọc, trò chép để học thuộc lòng”, hạn chế mọi sự chủ động sáng
tạo trong dạy học. Hàn Liên Hải (2003) nhận định rất đúng rằng: sở dĩ giáo
viên buộc phải “phát thanh SGK” những mong đừng bị “cháy giáo án” là do lỗi
tại SGK được coi là pháp lệnh” [149, ngày 11/10/2003]. Chính vì vậy, để thực
hiện đổi mới dạy học ở nhà trường, cần phải phân biệt rõ ràng chức năng của
chương trình học với chức năng của SGK. Chương trình học do nhà nước ban
hành là cơ sở pháp lý và khoa học để tiến hành việc dạy học. Do chức năng
pháp lý, chương trình học có thể được coi là “pháp lệnh” theo cách gọi thông
thường, để buộc giáo viên phải tuân thủ nghiêm túc. Do chức năng khoa học,
chương trình học lại luôn luôn cần được phát triển để nâng cao hiệu lực của nó.
Việc kiểm tra quá trình giảng dạy của giáo viên cũng như đánh giá thành quả
học tập của học sinh phải căn cứ vào chương trình học, với các yếu tố cơ bản
của nó. Còn SGK, sản phẩm khoa học của các nhà chuyên môn, mặc dù được
viết theo chương trình, vẫn chỉ là công cụ của giáo viên và học sinh để tiến
hành việc dạy học, và không thể thay thế chức năng của chương trình học.
Chính vì vậy, ở các nước công nghiệp phát triển, với một chương trình học
thống nhất, mỗi môn học có nhiều SGK của các tác giả hay nhóm tác giả khác
nhau để giáo viên và học sinh tự do lựa chọn.
Mặc dù sử dụng SGK như thế nào, các giáo viên cũng phải thể hiện năng
lực khoa học và nghệ thuật sư phạm của mình qua việc soạn giáo án, mà thuật
ngữ khoa học hiện đại là thiết kế khoá trình hay thiết kế bài học (course
design). Được thiết kế dựa trên chương trình học, với sự trợ giúp của SGK,
giáo án (hay thiết kế bài học) là công trình chủ yếu của giáo viên để tiến hành
việc dạy học. Bởi thế, trong mối liên quan một thiết với chương trình học, việc
261
đổi mới dạy học của giáo viên được tiến hành bằng thiết kế bài học để áp dụng
trong nhà trường.
4.4.3. Đổi mới dạy học bằng thiết kế bài học
Chương trình học hiện đại không phân chia nội dung kiến thức thành các
chương, bài với các thời lượng cụ thể, mà thường quy định các đề tài (theme)
bao gồm những chủ đề (topic) trong một môn học. Thí dụ: đề tài “tìm hiểu các
cuộc xung đột quốc tế” bao gồm các chủ đề như “chiến tranh thế giới”, “chiến
tranh lạnh…” Dựa trên chương trình với tổng quỹ thời gian dành cho các đề
tài, giáo viên sẽ thiết kế khoá trình (course design), bao gồm các đơn vị học
(unit) để tiến hành dạy học. AÙp dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, thiết
kế khoá trình (tương tự như việc soạn giáo án) được dịch là thiết kế bài học,
còn các đơn vị học có thể coi là các tiết học cho hợp với quan niệm truyền
thống ở nước ta.
Thiết kế bài học dựa trên mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản của quá
trình dạy học chính là biện pháp chủ yếu để đổi mới dạy học các bộ môn ở nhà
trường. Tham khảo các quy trình và khuôn mẫu thiết kế khoá trình của một số
nhà giáo dục Hoa Kỳ và các nước khác, đề mục này sẽ hướng dẫn một số thao
tác cơ bản trong quy trình thiết kế bài học theo một khuôn mẫu đơn giản, sát
hợp với điều kiện thực tế Việt Nam.
Xác định các yếu tố cơ bản để thiết kế bài học
Thiết kế bài học theo quan điểm hiện đại phải thể hiện được các đặc trưng
của 4 yếu tố cơ bản và mối quan hệ giữa các yếu tố đó với nhau. Vì vậy, cần
phải xác định rõ các yếu tố cơ bản của bài học cần được thiết kế.
Các yếu tố cơ bản của mỗi bài học được xác định theo trình tự sau:
1) Mục tiêu bài học: theo đúng hệ thống các cấp độ mục tiêu giáo dục,
trong đó mục tiêu của cấp độ dưới là sự cụ thể hoá của mục tiêu cấp độ trên,
mục tiêu bài học được xác định từ sự cụ thể hoá mục tiêu bộ môn (hay mục
262
tiêu khoá trình), căn cứ vào nội dung và phương pháp mà bài học có thể cung
cấp, và có thể đánh giá được. Mục tiêu bài học nằm trong hệ thống như sau:
Mục tiêu cấp học mục tiêu bộ môn mục tiêu khoá trình mục tiêu bài
học.
2) Nội dung chuyên môn được xác định với đầy đủ các đặc tính về bề
rộng, chiều sâu, dung lượng, quá trình chứa đựng trong bài học; cũng như các
sự kiện, ý tưởng, khái niệm, hệ thống tư tưởng cần nhấn mạnh (tất cả hợp thành
chuẩn kiến thức). Nội dung chuyên môn được lựa chọn để đáp ứng mục tiêu
bài học và phương pháp dạy học.
3) Phương pháp: Trước hết xác định loại hình dạy học (phát triển khả
năng và kỹ năng tư duy, dạy học vi tính hoá, dạy học lấy học sinh làm trung
tâm …) từ đó sẽ xác định phương pháp dạy học: tiếp cận trực tiếp (giảng bài,
phát vấn, thực hành và luyện tập), tiếp cận gián tiếp (dạy học dựa trên vấn đề,
dạy học phát hiện và khám phá, dạy học theo nhóm …), tiếp cận dạy học độc
lập. Phương pháp được lựa chọn để đáp ứng mục tiêu kỹ năng và phù hợp với
nội dung chuyên môn.
4) Đánh giá: Xác định công cụ đánh giá: bài tập, luận đề, câu hỏi hay trắc
nghiệm theo tiêu chí … Phải bảo đảm nguyên tắc đánh giá nhất quán với mục
tiêu: mỗi mục tiêu được đề ra phải có một công cụ đánh giá tương thích. Công
cụ đánh giá được lựa chọn hay thiết kế theo nội dung và phương pháp đã xác
định.
Hướng dẫn phân loại và viết mục tiêu bài học
- Phân loại mục tiêu
+ Nhận thức (cognition): những kiến thức cần đạt được (sự kiện, ý tưởng
và nguyên lý cơ bản, khái niệm, hệ thống tư tưởng). Trình độ đạt được của các
kiến thức đó (theo 6 trình độ của Bloom và các cộng sự).
263
+ Thái độ tình cảm (affects): những thái độ cần được tiếp nhận (ủng hộ -
chống đối, tin tưởng - hoài nghi, biết ơn - lên án, đề cao - hạ thấp, nhiệt tình -
lạnh nhạt), những tình cảm cần được thể hiện (yêu - ghét, quý trọng - căm thù,
cảm phục - khinh miệt, tự hào - tự ti ...). Trình độ đạt được các thái độ tình cảm
đó (theo 5 trình độ của Krathwohl, Bloom và Masia).
+ Kỹ năng nhận thức (cognitive skills): những kỹ năng học sinh cần
được rèn luyện trong bài học: kỹ năng học tập (đọc hiểu và sử dụng SGK; xem
xét sự kiện lịch sử trong mối quan hệ đồng đại, lịch đại; nhận thức qua bản đồ
và biểu đồ lịch sử; sưu tầm và phân tích tư liệu lịch sử …); kỹ năng thể hiện
(bài viết, lời nói, lập biểu đồ ...); kỹ năng áp dụng kiến thức (phân tích tình
hình, tạo lập một thông tin, dự đoán sự phát triển một sự kiện, giải quyết một
vấn đề, lập luận logic, so sánh các ý tưởng …).
- Hướng dẫn viết mục tiêu
Mỗi mục tiêu phải nêu được một hành động ứng xử (hay thực hiện) cụ
thể, dễ nhận biết, bằng một động từ thích hợp:
+ Mục tiêu nhận thức thường dùng các động từ: biết, hiểu, phân tích,
tổng hợp, đánh giá, phân biệt …
+ Mục tiêu thái độ - tình cảm thường dùng các động từ: nhận biết, ý thức
được, cảm nhận, đáp ứng, phê phán, tuyên bố, thể hiện …
+ Mục tiêu kỹ năng nhận thức có rất nhiều động từ để lựa chọn: áp dụng,
phân tích, tổng hợp, đánh giá, trình bày (nói, viết, hành động), diễn đạt, thể
hiện, giải thích, phân biệt, suy luận, chứng minh, khám phá, phát hiện, phát
triển, tranh luận, xét đoán, so sánh, đối chiếu, điền vào (một bảng …), phán
xét, nhận định, phân loại, biến đổi, chuyển, đề xuất, thiết kế, ghi nhớ v.v…
Hình thức trình bày mỗi mục tiêu là một câu với các thành phần sau đây:
chủ thể thực hiện là học sinh (làm chủ ngữ trong câu); hành động phải thực
hiện (một đồng từ); điều kiện thực hiện (một bổ ngữ nêu rõ điều kiện: trong
264
phạm vi nào, với phương tiện gì, trong bao nhiêu lâu …). Khi cần, sẽ thêm
phần tiêu chuẩn được chấp nhận (gồm mệnh đề phụ hoặc một câu nêu rõ tiêu
chuẩn về chất lượng, số lượng phải đạt).
Quy trình thiết kế bài học
Quy trình thiết kế khoá trình hay bài học thường trải qua 8 bước:
- Định hướng bài học
- Tạo lập một đề cương
- Phát triển cơ sở hợp lý của bài học
- Hoàn chỉnh kết quả học tập dự kiến (tức mục tiêu bài học).
- Hình thành các đơn vị học của bài học.
- Tổ chức các đơn vị của bài học.
- Phát triển phương pháp dạy học tổng quát
- Hoạch định một kế hoạch đánh giá.
Các sản phẩm được hoàn chỉnh là:
- Một cơ sở lý luận cho bài học bao gồm các mục tiêu giáo dục tổng
quát.
- Một kế hoạch chương trình học (curriculum plan) mô tả các kết quả
học tập dự kiến theo sự ưu tiên về mức độ quan trọng, nêu rõ những
nội dung thuộc chủ đề của bài học.
- Một kế hoạch dạy học (intructional plan) miêu tả nội dung mỗi đơn
vị, phù hợp với tổ chức chung của đơn vị trong bài học và phương
pháp dạy học tổng quát được sử dụng cho mỗi đơn vị để đạt được kết
quả học tập dự kiến.
- Một kế hoạch đánh giá (evaluation plan) miêu tả những tiêu chí ứng
xử cho mỗi kết quả học tập dự kiến.
Giới thiệu một mẫu thiết kế bài học
TệẽA ẹEÀ BAỉI HOẽC
265
A. Dẫn nhập: trình bày cơ sở hợp lý (rationale) của bài học
1) Đối tượng học sinh
- Độ tuổi
- Học vấn sẵn có để có thể tiếp nhận bài học mới.
- Khả năng trí tuệ.
- Điều kiện học tập.
2) Vị trí bài học trong chương trình học
- Kế thừa những bài học trước, tác động đến các bài học sau.
- Đáp ứng các mục tiêu của khoá trình và môn học.
- Tác dụng của bài học đối với việc học tập các môn học kế cận.
3) Điều kiện dạy học.
- Nguồn tài liệu: sách giáo khoa, sách tham khảo, mạng internet …
- Các phương tiện được sử dụng: hiện vật lịch sử, băng đĩa truyền thông,
phim ảnh, máy tính điện tử (computer) …
- Các điều kiện khác: học tại Viện bảo tàng, tham quan di tích lịch sử, di
chỉ khảo cổ.
B. Kế hoạch chương trình học (Curriculum plan)
1) Mục tiêu bài học: kết quả học tập dự kiến của học sinh sau khi hoàn
thành bài học (được gọi là mục tiêu ứng xử hay mục tiêu thực hiện của học
sinh).
- Mục tiêu nhận thức (cognitive objectives): dựa theo 6 trình độ nhận
thức của Bloom.
- Mục tiêu thái độ - tình cảm (affective objectives): dựa theo 5 trình độ
của Krathwohl, Bloom và Masia.
- Mục tiêu kỹ năng nhận thức (cognitive skills): bao gồm kỹ năng học
tập, kỹ năng thể hiện, kỹ năng áp dụng.
2) Phác thảo nội dung (content outline)
266
- Bài học bao gồm mấy vấn đề (hay chủ đề)? Nêu lên các vấn đề (hay
chủ đề đó).
- Mỗi vấn đề (hay chủ đề) chứa đựng những sự kiện (và nhân vật), ý
tưởng (hay nguyên lý), khái niệm, hệ tư tưởng nào? Liệt kê các nội dung đó.
- Lập sơ đồ cấu trúc kiến thức thuộc các vấn đề trong bài học.
3) Khái quát về phương pháp dạy học được áp dụng
- Loại hình dạy học chung.
- Các phương pháp dạy học cụ thể được áp dụng.
4) Tổ chức các tiết học (theo nội dung và phương pháp)
- Bài học chia làm mấy tiết?
- Mỗi tiết chứa đựng những vấn đề gì?
- Phương pháp áp dụng cho mỗi tiết?
C. Kế hoạch dạy học (intructional plan)
1) Tiết 1: đề mục tiết học.
- Mục tiêu tiết học: kết quả học tập dự kiến (rút ra từ mục tiêu bài học).
- Phạm vi nội dung
- Tiến hành dạy theo phương pháp đã lựa chọn.
- Các hoạt động bổ sung (nếu cần).
- Bài tập - đánh giá.
2) Tiết 2: - nt -
3) Tiết 3: - nt -
D. Đánh giá (evaluation plan)
1) Lựa chọn các loại hình công cụ.
- Mục tiêu bài học đòi hỏi phải đánh giá thế nào?
- Để đánh giá được như vậy, áp dụng loại công cụ nào là tốt nhất?
2) Thiết kế các loại công cụ đánh giá
- Bài tập làm việc độc lập.
267
- Bài trắc nghiệm
- Luận đề
- Vấn đáp
3) Thực hiện việc đánh giá
Mẫu thiết kế bài học trên được rút ra từ nhiều mẫu thiết kế khoá trình
của bộ môn Tìm hiểu xã hội, do George J. Posner và Alan N. Rudnitsky (2001)
giới thiệu [xem 130, tr.207-274] đã được rút gọn và đơn giản hoá cho phù hợp
với thực tiễn Việt Nam. Mẫu này không đòi hỏi một sự rập khuôn máy móc,
mà cần vận dụng linh hoạt và sáng tạo. Dù sao đi nữa, cốt lõi của mọi thiết kế
khoá trình hay bài học vẫn là 4 yếu tố cơ bản trong quá trình dạy học và mối
quan hệ giữa chúng với nhau.
KếT LUậN
Nguyên lý về mối quan hệ giữa 4 yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục
của Ralph W. Tyler (1950) đã trở thành một nền tảng lý luận của khoa học giáo
dục hiện đại. Tìm hiểu hệ thống lý luận dựa trên nguyên lý này và vận dụng nó
vào việc đổi mới dạy học ở Việt Nam, chuyên đề đã làm sáng tỏ các vấn đề
dưới đây.
1. Hệ thống lý luận dựa trên nguyên lý Tyler về các đặc trưng của 4
yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục và mối quan hệ tương tác giữa
chúng với nhau.
a) Đặc trưng của các yếu tố cơ bản
Tyler đã xác định 4 yếu tố cơ bản trong chương trình học và trong quá
trình dạy học là Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp - tổ chức và Đánh giá. Tiếp
268
theo ông, các nhà giáo dục Hoa Kỳ khác như B.S. Bloom (1956), Hilda Taba
(1962) … đã xác định đầy đủ các đặc trưng của mỗi yếu tố cơ bản này:
Mục tiêu giáo dục là sự tuyên bố về những kết quả dự kiến sẽ đạt đối
với người học; được thể hiện theo 3 cấp độ chính (tôn chỉ, mục đích, mục tiêu);
bao gồm 3 lĩnh vực học vấn (nhận thức, thái độ tình cảm, kỹ năng hành vi). ễÛ
cấp độ cơ sở, các mục tiêu thuộc mỗi lĩnh vực được phân loại theo trình độ ứng
xử của học sinh (6 trình độ về nhận thức, 5 trình độ về thái độ tình cảm, 6 trình
độ về kỹ năng hành vi).
Nội dung chuyên môn là những kiến thức và những kỹ năng, thái độ -
tình cảm được lựa chọn cho quá trình giáo dục để đáp ứng mục tiêu của nó; thể
hiện trên 4 đặc tính (dung lượng và quá trình, bề rộng và chiều sâu); bao gồm 4
trình độ khác nhau trong chuỗi học vấn (sự kiện và quá trình riêng biệt, ý tưởng
và nguyên lý cơ bản, khái niệm, hệ thống tư tưởng). Ngoài ra, nội dung trong
các khoá trình phải đáp ứng 3 yêu cầu về hiệu lực (tính cập nhật, tính cơ bản,
tinh thần và phương pháp tìm hiểu).
Phương pháp và tổ chức là yếu tố thuộc về cách thức, kiểu mẫu hay
chiến lược của quá trình dạy học để đạt được mục tiêu của nó. Yếu tố này được
thể hiện qua các loại hình dạy học (dạy học cá thể hoá, dạy học hợp tác, dạy
học theo trình độ, phát triển khả năng và kỹ năng tư duy, dạy học vi tính hoá,
dạy học lấy học sinh làm trung tâm). Phục vụ cho các loại hình trên có 3 loại
phương pháp dạy học chính (còn gọi là 3 chiến lược dạy học): các phương
pháp tiếp cận trực tiếp (giảng bài, phát vấn, thực hành và luyện tập), tiếp cận
gián tiếp (dạy học dựa trên vấn đề, phát hiện và khám phá, dạy học theo nhóm,
dạy học qua hành động) và tiếp cận độc lập (tự học tại trung tâm học liệu, làm
việc độc lập theo giao ước, sử dụng máy tính để tự học).
Đánh giá là sự xác định và phán xét những giá trị đạt được theo các
mục tiêu đã đề ra. Có nhiều khuôn mẫu để đánh giá trong giáo dục (đánh giá
269
bằng các tiêu chuẩn bên trong và các tiêu chuẩn bên ngoài, đánh giá theo chuẩn
mực và đánh giá theo tiêu chí …). Các công trình đánh giá thành quả học tập
của học sinh phải hội đủ tính hiệu lực (validity), tính tin cậy (reliability) và tính
thực tiễn (practicality).
b)Mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản
Nguyên lý Tyler, được sự bổ sung và hoàn thiện của các nhà giáo dục
khác, đã khẳng định mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo
dục là quan hệ tương tác (interactive relation), tạo nên sự liên kết cơ bản
(fundamental interconectedness) mang tính nhân quả (cause effect). Đây là
quan điểm hoàn toàn mới đối với những ai vẫn tin vào mối quan hệ tuyến tính.
Trong mối quan hệ tương tác này. Mục tiêu chi phối Nội dung, đồng thời Nội
dung cũng tác động lại Mục tiêu; Mục tiêu chi phối Phương pháp, nhưng
Phương pháp (và tổ chức) cũng tác động lại Mục tiêu; Nội dung chi phối
Phương pháp, và Phương pháp chi phối lại Nội dung; Mục tiêu hướng dẫn
Đánh giá, còn Đánh giá chỉ dẫn việc sửa đổi và phát triển Mục tiêu; Nội dung
và Phương pháp là trọng tâm và cơ sở của Đánh giá, còn Đánh giá lại chỉ dẫn
việc điều chỉnh Nội dung và Phương pháp.
c) Hiệu lực của hệ thống các yếu tố cơ bản
Mối quan hệ tương tác đã liên kết các yếu tố cơ bản thành một hệ thống
trong mỗi khoá trình hay môn học. Theo đúng lý thuyết về hệ thống, hiệu lực
của mỗi yếu tố được phát huy dựa trên các đặc trưng của nó, đồng thời chịu sự
chi phối hay tác động của những hiệu lực thuộc các yếu tố khác. Do vậy, hiệu
lực của mỗi yếu tố thấp hay cao sẽ làm cho hiệu lực của các yếu tố khác bị sút
giảm hay nâng cao, ảnh hưởng đến hiệu lực chung của cả hệ thống. Vì thế, khi
một yếu tố thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các yếu tố khác, làm cho cả hệ
thống thay đổi.
270
2. Thực trạng của mối quan hệ giữa Mục tiêu với Nội dung, Phương
pháp và Đánh giá ở trường THPT Việt Nam
a) Thực trạng của từng yếu tố
Vận dụng những đặc trưng của các yếu tố cơ bản theo hệ thống lý luận
nêu trên để phân tích, khảo sát và kiểm chứng qua bộ môn Lịch sử, thực trạng
của từng yếu tố trong chương trình CCGD và việc dạy học theo chương trình
đó được thể hiện rất rõ:
Mục tiêu của bộ môn không được trình bày cụ thể và cũng không được
chính thức công bố, nên chỉ có thể tìm hiểu theo nhiệm vụ của bộ môn và mục
tiêu đào tạo của cấp học. Nhiệm vụ của bộ môn vạch rõ những gì mà bộ môn
cung cấp cho học sinh học tập, nhưng không thể thay thế cho mục tiêu - sự
tuyên bố về những kết quả dự kiến mà học sinh sẽ đạt được. Mục tiêu đào tạo
của trường THPT cũng được trình bày rất đầy đủ, rõ ràng và cụ thể. Nhưng
mục tiêu này thuộc về cấp độ trên (mục đích - goal), nên chỉ có thể định hướng
mà không thay thế được cho mục tiêu của môn học hay khoá trình thuộc cấp độ
dưới (mục tiêu - objective).
Nội dung chuyên môn không được lựa chọn theo mục tiêu của nó,
nhưng về hình thức, vẫn đáp ứng khá đầy đủ những mục tiêu được rút ra từ
nhiệm vụ bộ môn và mục tiêu cấp học nêu trên. Tuy nhiên, những nội dung
chuyên môn nào mang những đặc điểm về bề rộng lấn át chiều sâu, dung lượng
lấn át quá trình, thiếu trình độ cơ sở trong chuỗi học vấn, lại thiếu cả tính cập
nhật, tính cơ bản cũng như tinh thần và phương pháp tìm hiểu, đã trở thành
những nội dung có tính chất áp đặt võ đoán với hiệu lực rất thấp.
Phương pháp dạy học được thể hiện qua SGK và quá trình dạy học của
giáo viên ở nhà trường chỉ là loại phương pháp tiếp cận trực tiếp dưới hình
thức đơn giản hoá: giảng bài (trong nhiều trường hợp biến thành tóm lược
SGK), phát vấn (với đa số câu hỏi thuộc về tư duy trình độ thấp), thực hành và
271
luyện tập. Một số bộ môn hầu như không có thực hành và luyện tập. Việc đổi
mới phương pháp dạy học ở nhà trường chỉ diễn ra trong phạm vi các phương
pháp tiếp cận trực tiếp đó. Hầu hết giáo viên không biết đến các phương pháp
tiếp cận gián tiếp và tiếp cận độc lập. Như vậy, yếu tố phương pháp rất mờ
nhạt, bị hạn chế và kém hiệu lực.
Đánh giá là yếu tố chưa được đề cập trong chương trình CCGD. Việc
đánh giá thành quả học tập của học sinh ở nhà trường được thực hiện bằng các
hình thức thi và kiểm tra truyền thống, mà ở nhiều bộ môn chỉ theo tiêu chí chủ
yếu là “thuộc bài”. Các thành tựu mới của khoa học về đánh giá và đo lường,
cả về lý thuyết lẫn thực hành, hầu như chưa được áp dụng trong dạy học bộ
môn ở nhà trường. Hiệu lực của yếu tố đánh giá trong dạy học rõ ràng còn rất
hạn chế.
b) Thực trạng của mối quan hệ giữa Mục tiêu với Nội dung, Phương pháp
và Đánh giá.
Mặc dù các yếu tố cơ bản trong chương trình học và quá trình dạy học bộ
môn có hiệu lực thấp kém, mối quan hệ giữa chúng với nhau vẫn là quan hệ
tương tác theo nguyên lý Tyler.
Quan hệ giữa Mục tiêu với Nội dung, dựa trên những mục tiêu ẩn
được rút ra từ nhiệm vụ bộ môn và mục tiêu cấp học, vẫn thể hiện khá rõ. Khi
đối chiếu nội dung SGK với các mục tiêu ẩn này, có thể thấy được sự chi phối
của mục tiêu với nội dung và sự đáp ứng của nội dung với mục tiêu là khá đầy
đủ, cả về nhận thức lẫn thái độ - tình cảm. Khi những biến chuyển trên thế giới
tạo nên những nội dung kiến thức mới cho bộ môn, thì những nội dung này đã
tác động lại mục tiêu, đòi hỏi việc sửa đổi nó. Dĩ nhiên, những sự chi phối và
tác động lẫn nhau giữa một mục tiêu ẩn với một nội dung có hiệu lực thấp
không thể tạo nên hiệu lực cao của mối liên kết. Giáo viên tuyệt nhiên không
nhận biết được mối quan hệ này.
272
Quan hệ giữa Nội dung với Phương pháp là mối quan hệ được thể
hiện rõ ràng nhất qua SGK cũng như qua quá trình dạy học. Đa số giáo viên đã
bước đầu nhận biết về mối quan hệ này qua thực tế dạy học. Nội dung môn học
đã chi phối mạnh mẽ phương pháp của nó. Những nội dung kiến thức có tính
chất áp đặt võ đoán thiếu hiệu lực đã dẫn tới sự lựa chọn duy nhất thích ứng
với nó là loại phương pháp tiếp cận trực tiếp đơn giản. Hơn nữa, những nội
dung kiến thức đó còn tác động tiêu cực làm biến dạng loại phương pháp này
(biến giảng bài thành “chạy bài” hay “đọc chép”, giới hạn việc phát vấn ở trình
độ tư duy thấp, không thể thực hiện phương pháp thực hành và luyện tập), làm
giảm hiệu lực của yếu tố phương pháp trong khoá trình. Khi việc đổi mới
phương pháp dạy học được tiến hành, thì sự tác động của phương pháp đối với
nội dung đã được thể hiện: người ta không thể đổi mới phương pháp dựa trên
nội dung hiện có. Muốn đổi mới phương pháp, thì phải đổi mới cả nội dung để
hai yếu tố tương thích với nhau.
Quan hệ giữa Mục tiêu với Phương pháp được thể hiện chủ yếu qua
các mục tiêu kỹ năng nhận thức. Vì mục tiêu của bộ môn không được công bố
rõ ràng, nội dung và phân phối chương trình không tạo điều kiện để áp dụng
những phương pháp đáp ứng các mục tiêu kỹ năng, nên sự chi phối của mục
tiêu đối với phương pháp được thể hiện rất mờ nhạt. Hầu hết giáo viên không
quan tâm đến các mục tiêu kỹ năng và họ đáp ứng các mục tiêu này chỉ bằng
phương pháp phát vấn (với đa số câu hỏi thuộc trình độ tư duy thấp), được sự
bổ sung không đáng kể của phương pháp thực hành và luyện tập. Sự tác động
trở lại của phương pháp đối với mục tiêu còn mờ nhạt hơn. Các phương pháp
hiện hành chưa đủ tầm để tác động lại những mục tiêu mà giáo viên không
quan tâm hoặc chưa được biết. Nhưng đến khi nào phương pháp dạy học được
đổi mới sâu sắc bằng các phương pháp tiếp cận gián tiếp và tiếp cận độc lập,
273
thì sự tác động của phương pháp sẽ trở nên mạnh mẽ, buộc mục tiêu phải được
điều chỉnh, bổ sung hay sửa đổi.
Quan hệ giữa Đánh giá với các yếu tố cơ bản khác, qua khảo sát bộ
môn Lịch sử, được thể hiện rất mờ nhạt. Các hình thức đánh giá thành quả học
tập của học sinh hầu như không căn cứ vào mục tiêu môn học; do vậy mục tiêu
cũng không hướng dẫn được cho đánh giá. Tuy nhiên, quan hệ giữa đánh giá
với nội dung và phương pháp vẫn được thể hiện ở một mức độ nào đó. Với một
nội dung có tính chất áp đặt võ đoán và một phương pháp tiếp cận trực tiếp đơn
giản, các công cụ đánh giá chỉ có thể áp dụng tiêu chí chủ yếu là “thuộc bài”.
Khi đánh giá mở rộng sang các tiêu chí khác, nó sẽ buộc nội dung và phương
pháp phải có sự đổi mới.
c) Hiệu lực thực sự của hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp -
Đánh giá
Hiệu lực thấp của từng yếu tố dẫn tới hiệu lực của các yếu tố khác và của
các mối liên kết trong quan hệ tương tác giữa chúng với nhau bị sút giảm, làm
cho hiệu lực của cả hệ thống Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp - Đánh giá
sút giảm theo. Kết quả khảo sát qua khoá trình LSTG Hiện đại của bộ môn
Lịch sử dựa trên số lượng kiến thức thức mà học sinh lĩnh hội được cho thấy
hiệu lực của hệ thống này (cũng là hiệu lực của khoá trình) đạt khoảng 14%.
Nếu dựa trên trình độ nhận thức của học sinh, thì đạt 13%. Kiểm chứng dựa
trên số thí sinh làm bài đạt yêu cầu qua các kỳ thi TSĐH của bộ môn Lịch sử,
thì hiệu lực đó dao động từ mức tối thiểu là 3,4%, mức trung bình khoảng 15%
và tối đa là 30%. Vậy, hiệu lực thực sự của hệ thống Mục tiêu - Nội dung -
Phương pháp - Đánh giá trong bộ môn Lịch sử ở trường THPT Việt Nam là rất
thấp.
3. Giải pháp để hoàn thiện và đổi mới dạy học ở nhà trường phổ
thông Việt Nam
274
Vì mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản quyết định hiệu lực của quá trình
giáo dục, nên việc hoàn thiện và đổi mới dạy học ở nhà trường phải dựa trên
mối quan hệ giữa Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp và Đánh giá. Do hiệu lực
của mỗi khoá trình hay bộ môn tùy thuộc vào cả chương trình học (curriculum)
cho nhà trường lẫn quá trình dạy học (instruction) ở nhà trường, nên việc hoàn
thiện và đổi mới phải được thực hiện ở cả hai công đoạn này. Vì hoàn thiện và
đổi mới dạy học gắn liền với việc tiếp nhận và áp dụng các thành tựu của khoa
học giáo dục hiện đại vào thực tiễn dạy học, nên việc đó phải được thực hiện
đầy đủ và nghiêm túc. Từ những định hướng trên, các giải pháp chung cần thực
hiện là:
a) Xây dựng lại chương trình học dựa trên mối quan hệ tương tác giữa
các yếu tố cơ bản
Một nguyên nhân trọng yếu dẫn tới những sự bất cập trong quá trình dạy
học là chương trình học được xây dựng theo cách tiếp cận nội dung, đặt trọng
tâm vào việc truyền thụ kiến thức mà không quan tâm đầy đủ đến mục tiêu và
các yếu tố cơ bản khác. Do vậy, chương trình học cần được xây dựng lại theo
cách tiếp cận mục tiêu hoặc tiếp cận phát triển (còn gọi là tiếp cận quá trình),
dựa trên mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố cơ bản, khởi đầu từ yếu tố mục
tiêu. Một chương trình học được xây dựng như vậy sẽ khắc phục được các
nhược điểm và bất cập trong chương trình hiện hành, nâng cao được hiệu lực
của bộ môn và các khoá trình, tiếp cận được với nền giáo dục hiện đại trên thế
giới. SGK biên soạn theo chương trình này sẽ thể hiện hiệu lực của các yếu tố
cơ bản trong mối quan hệ tương tác với nhau. Điều kiện cần có để thực hiện tốt
giải pháp này là: xác định đúng vị trí - vai trò của bộ môn theo mục tiêu đào
tạo cấp học, để dành cho nó một quỹ thời gian thích đáng.
b) Đổi mới dạy học trong nhà trường
275
Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố cơ bản đã chỉ ra rằng: việc đổi
mới dạy học không thể thực hiện riêng đối với một yếu tố nào (Phương pháp
chẳng hạn), mà phải tiến hành đồng bộ với tất cả các yếu tố Mục tiêu, Nội
dung, Phương pháp và Đánh giá. Muốn vậy, việc thiết kế khoá trình hay bài
học (design cours) phải được thực hiện theo khuôn mẫu hiện đại để phát huy
hiệu lực của hệ thống các yếu tố cơ bản; cụ thể là phải phát biểu mục tiêu đúng
chuẩn, lựa chọn đúng nội dung và phương pháp thích ứng với mục tiêu đó,
đánh giá đầy đủ và nhất quán với mục tiêu trên cơ sở nội dung và phương
pháp. Trong các hoạt động dạy học, các phương pháp tiếp cận trực tiếp cần
được phát huy đầy đủ hiệu lực (nhất là phương pháp thực hành và luyện tập).
Các phương pháp tiếp cận gián tiếp và độc lập phải được thực hiện và áp dụng
ngày càng nhiều hơn. Việc đánh giá thành quả học tập của học sinh cũng phải
đổi mới để có thể đánh giá đúng trình độ nhận thức, thái độ - tình cảm và kỹ
năng của các em, thay vì đánh giá theo tiêu chuẩn “thuộc bài”.
Một quan điểm thiết yếu để đổi mới dạy học thành công là phải phân biệt
rõ chức năng của chương trình học, của SGK và của thiết kế bài học.
c) Tiếp cận để áp dụng các thành tựu của khoa học giáo dục hiện đại
Hai giải pháp trên phải được thực hiện gắn liền với giải pháp tiếp nhận
để áp dụng các thành tựu của khoa học giáo dục hiện đại trên thế giới. Việc xây
dựng lại chương trình học không thể đạt kết quả tốt nếu thiếu sự am hiểu sâu
sắc về bộ môn phát triển chương trình học (curriculum development). Các giáo
viên chỉ có thể đổi mới việc dạy học của mình khi họ tinh thông cả về lý thuyết
lẫn thực hành của các bộ môn thiết kế khoá trình (design cours), đánh giá và đo
lường (evaluation and measurement) cùng với những phương pháp hiện đại
nhất trong bộ môn phương pháp dạy học (teaching method) để áp dụng vào
thực tiễn. Những nguyên lý và quan điểm hiện đại của các bộ môn giáo dục
học (education) và tâm lý học (psychology) cũng hết sức cần thiết đối với các
276
nhà giáo. Vì vậy, giải pháp này được thực hiện nghiêm túc trong quá trình đào
tạo sinh viên ĐHSP và bồi dưỡng giáo viên thuộc các cấp học ở nhà trường
phổ thông.
Cũng như trong trường hợp của bộ môn Lịch sử, mối quan hệ tương tác
giữa các yếu tố cơ bản luôn hiện diện trong tất cả các môn học khác. Cùng với
sự bảo đảm những đặc trưng của mỗi yếu tố việc xử lý và vận hành đúng đắn
mối quan hệ này là một đòn bẩy để đổi mới dạy học nhằm nâng cao hiệu lực
của mọi quá trình giáo dục.
Tài liệu tham khảo
277
Tiếng Việt:
1. Bộ Giáo dục (1985), Chương trình Trung học Phổ thông, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục (1986), Quy định về mục tiêu và kế hoạch đào tạo của
Trường Phổ thông Cơ sở, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục (1990), Quy định về mục tiêu và kế hoạch đào tạo của
Trường Phổ thông Trung học, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1990), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục Phổ thông Trung học phục vụ Cải cách Giáo dục -
Môn Sử (lớp 10), Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1991), Phân phối chương trình môn Lịch sử
cấp II phổ thông, Vụ Giáo dục Phổ thông, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1991), Tài liệu hướng dẫn dạy sách giáo khoa
lớp 11 CCGD môn Lịch sử, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Kết luận của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo Trần Hồng Quân tại Hội nghị các Giám đốc Sở Giáo dục
và Đào tạo toàn quốc (tháng 8/1992), Nhà xuất bản (NXB) Giáo dục,
Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Tài liệu bồi dưỡng dạy sách giáo khoa
lớp 12 CCGD môn Lịch sử, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Chương trình Trung học cơ sở (thí
điểm), (ban hành theo Quyết định số 2434/QĐ-BGD&ĐT ngày
08/7/1999).
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Kế hoạch tổ chức quán triệt và triển
khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX trong ngành Giáo
dục (công văn số 6178/VP), Hà Nội.
278
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Chiến lược phát triển Giáo dục 2001-
2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28-
12-2001 của Thủ tướng Chính phủ).
12a. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông –
những vấn đề chung (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-
BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
12b. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông,
chương trình Tiểu học (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-
BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội .
12c. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông,
chương trình Trung học Cơ sở (ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
12d. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông,
chương trình Trung học Phổ thông (ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội
12e. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn
Lịch sử (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT
ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Babanxki Iu.K (1983), Giáo dục học, bản dịch tiếng Việt của Lê
Khánh Trường, lưu hành nội bộ Trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, năm 1986.
14. Bloom Benjamin S. (1956), Nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục;
lĩnh vực nhận thức, bản dịch của Đoàn Văn Điều, NXB Giáo dục 1995.
15. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Tờ trình
Quốc hội về chủ trương đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa của
Giáo dục phổ thông (số 1004/CP-QH), Báo Giáo dục và Thời đại số
38, ngày 29/3/2001.
279
16. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới Chương trình giáo dục phổ
thông thực hiện Nghị quyết số 4 40/2000/QH 10 của Quốc hội.
17. Hoàng Ngọc Di (1982), Hệ thống giáo dục Phổ thông mới, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Anh Dũng (1995), Về chương trình môn Lịch sử ở trường Phổ
thông Trung học, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục (NCGD) số 5-1995.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá IV)
về Cải cách Giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Những nội dung cơ bản của Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng (khoá VII), Tạp chí
Công tác Tư tưởng - Văn hoá, tháng 02 - 1993.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đanhilốp M.A (1988), Lý luận dạy học ở trường Phổ thông, bản dịch
tiếng việt của NXB Giáo dục, Hà Nội 1973.
25. Đairi N.G (1971), Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào, bản dịch tiếng
Việt của NXB Giáo dục, Hà Nội 1973.
26. Phạm Văn Đồng, Bàn về vấn đề giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
27. Phạm Minh Hạc (1991), Điều chỉnh cải cách Giáo dục theo đường lối
đổi mới của Đảng, Tạp chí Cộng sản số 8/1991.
280
28. Phạm Minh Hạc (1993), Về phương pháp chiến lược xây dựng Chương
trình Phổ thông Trung học trong thời gian tới, Tạp chí NCGD số 7.
29. Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên (1988), Lịch sử 8 tập 1, NXB Giáo dục
(tái bản hàng năm từ 1989-2005), Hà Nội.
30. Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên (1993), Lịch sử 8 tập 1 (sách giáo
viên), NXB Giáo dục, Hà Nội.
31. Hội đồng Bộ trưởng (1980), Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
về một số vấn đề cấp bách trong công tác Giáo dục - Đào tạo, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
32. Đặng Thành Hưng (1994), Quan niệm và xu thế phát triển phương
pháp dạy học trên thế giới, Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê (1995), Giáo dục học đại cương,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Phạm Văn Lập (1998), Phát triển Chương trình đào tạo - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Phan Ngọc Liên và tập thể tác giả (1979), Về thực hiện mục tiêu và thấu
suốt nguyên lý giáo dục trong môn Lịch sử, Tạp chí NCGD số 4.
36. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Anh Thái, Nguyễn Xuân Trúc, Nguyễn Thừa
Hỷ (2005), Lịch sử 11, NXB Giáo dục (tái bản hàng năm từ 1992 đến
2005), Hà Nội.
37. Phan Ngọc Liên, Trịnh Tùng (1992), Hệ thống phương pháp dạy học
Lịch sử ở trường Phổ thông, Tạp chí NCGD số 1.
38. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tường
(đồng chủ biên) (2002), Một số chuyên đề phương pháp dạy học Lịch
sử, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị và tập thể tác giả (1999), Phương pháp
dạy học Lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.
281
40. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng,
Lưu Đức Thụ, Nguyễn Văn Phong (1999), Thiết kế bài giảng Lịch
sử ở trường Trung học Phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng
(2002), Phương pháp dạy học Lịch sử (tập I, tập II), NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
42. Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên), Lương Ninh - Trương Hữu Quýnh
(đồng chủ biên), Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn
Quang Ngọc, Nghiêm Đình Vỳ (2006), Lịch sử 10 - Sách giáo
khoa thí điểm Ban khoa học Xã hội và Nhân văn, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
43. Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên), Lương Ninh - Trương Hữu Quýnh
(đồng chủ biên), Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn
Quang Ngọc, Nghiêm Đình Vỳ (2006), Lịch sử 10 Ban khoa học
Xã hội và Nhân văn - Sách giáo viên, NXB Giáo dục, Hà Nội.
44. Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên, kiêm chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ
(đồng chủ biên), Nguyễn Hữu Chí, Lê Vinh Quốc, Trịnh Đình
Tùng, Nguyễn Trọng Văn, Trần Thị Vinh (2006), Lịch sử 11 - Sách
giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
45. Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên, kiêm chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ
(đồng chủ biên), Nguyễn Hữu Chí, Lê Vinh Quốc, Trịnh Đình
Tùng, Nguyễn Trọng Văn, Trần Thị Vinh (2006), Lịch sử 11- Sách
giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn, Sách Giáo
viên, NXB Giáo dục, Hà Nội.
46. Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên), Vũ Dương Ninh - Trần Bá Đệ
(đồng chủ biên), Vũ Ngọc Anh, Đỗ Thanh Bình, Lê Mậu Hãn,
282
Nguyễn Quốc Hùng, Bùi Tuyết Hương, Nguyễn Đình Lễ, Lê Văn
Quang, Nguyễn Sĩ Quế (2006), Lịch sử 12 - Sách giáo khoa thí
điểm, Ban khoa học Xã hội và Nhân văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
47. Phan Ngọc Liên (2002), Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở
trường Phổ thông, NXB ĐHSP, Hà Nội.
48. Lê Nguyên Long (1998), Thử đi tìm những phương pháp dạy học
hiệu quả, NXB Giáo dục, Hà Nội.
49. Lê Nguyên Long (2004), Nâng cao chất lượng đào tạo: thử bàn
về mục tiêu dạy học bộ môn, Báo Giáo dục và Thời đại Chủ nhật
04/01/2004.
50. Nguyễn Hữu Lương (2002), Dạy và Học hợp quy luật hoạt động
trí óc, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
51. Langlet Philippe (1997), Nhận xét về hình ảnh nước Pháp trong
sách giáo khoa Lịch sử bậc Trung học ở Việt Nam, Tạp chí Xưa và
Nay số 37.
52. Lecne I.Ia, Dạy học Nêu vấn đề, bản dịch của Phan Tất Đắc, NXB
Giáo dục, Hà Nội 1977.
53. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học Đại học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
54. Hà Thế Ngữ (1998), Giáo dục học - tập 1, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
55. Lương Ninh (1978), Thực hiện mục tiêu và quán triệt nguyên lý
giáo dục trong môn Lịch sử, Tạp chí NCGD số 1.
56. Lương Ninh (1978), Nghiên cứu cải cách chương trình môn Lịch
sử, Tạp chí NCGD số 4.
57. Lương Ninh, Nghiêm Đình Vỳ, TrầnVăn Trị (1990), Lịch sử 10,
NXB Giáo dục (tái bản hàng năm từ 1991 đến 1994), Hà Nội.
283
58. Lương Ninh, Nghiêm Đình Vỳ, TrầnVăn Trị (1990), Lịch sử 10
(Sách giáo viên), NXB Giáo dục (tái bản từ 1991 đến 1994), Hà
Nội.
59. Lê Đức Ngọc (1999), Xây dựng chương trình đào tạo và giảng
dạy, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
60. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Lý luận dạy học đại cương (tập 1,
tập 2), Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Hà Nội ấn hành.
61a. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo
dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
61b. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Giáo
dục, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
62. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết
về Đổi mới Chương trình Giáo dục Phổ thông (số 40/2000/QH10)
ngày 02/12/1998, Báo Giáo dục và Thời đại số 144 (30/11/2000).
63. Lê Vinh Quốc (chủ nhiệm), Phan Thế Kim, Nguyễn Duy Tuấn,
Nguyễn Thị Thư, Trần Hương Văn (1995), Tình hình dạy và học
môn Lịch sử ở các trường Trung học Phổ thông (cấp II và cấp III)
tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Tài liệu lưu trữ của Liên hiệp
các Hội Khoa học kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
64. Lê Vinh Quốc (chủ nhiệm), Phan Thế Kim, Nguyễn Duy Tuấn,
Nguyễn Thị Thư, Trần Hương Văn (2001), Nghiên cứu Chương
trình và Sách giáo khoa cải cách của bộ môn Lịch sử ở các trường
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông (khảo sát qua thực tiễn
dạy học tại Thành phố Hồ Chí Minh), Tài liệu lưu trữ của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh.
284
65. Lê Vinh Quốc (2001), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thể
hiện mối quan hệ giữa Mục tiêu - Nội dung - Phương pháp vào dạy
học khoá trình Lịch sử thế giới hiện đại lớp 12 Trung học phổ
thông", Đổi mới Nội dung và Phương pháp giảng dạy Lịch sử ở
trường Sư phạm và Phổ thông - Kỷ yếu Hội thảo khoa học của
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.61-72.
66. Lê Vinh Quốc (2002), Về mối quan hệ giữa Mục tiêu - Nội dung
- Phương pháp trong dạy học khoá trình Lịch sử thế giới hiện đại
- lớp 12 THPT. Tạp chí Giáo dục số 20, tr.36-37.
67. Lê Vinh Quốc (2002), "Về việc thể hiện mối quan hệ giữa Mục
tiêu - Nội dung - Phương pháp trong dạy học khoá trình Lịch sử
thế giới hiện đại ở trường phổ thông", Một số chuyên đề phương
pháp dạy học lịch sử - sách của Hội Giáo dục Lịch sử và khoa
Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr.69-82.
68. Lê Vinh Quốc (2003), ứng dụng bài tập làm việc độc lập trong
việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường Trung học,
Tạp chí khoa học số 33, của Trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, tr.108-118.
69. Lê Vinh Quốc (2007), Mối quan hệ giữa Mục tiêu, Nội dung và
Phương pháp trong dạy học Lịch sử Thế giới Hiện đại ở trường
Trung học Phổ thông Việt Nam, luận án Tiến sĩ Giáo dục học,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
70. Nguyễn Anh Thái, Nguyễn Quốc Hùng, Lý Trần Quý (1989),
Lịch sử 9, tập 1, NXB Giáo dục (tái bản hàng năm từ 1990 đến
2005), Hà Nội.
285
71. Nguyễn Anh Thái, Trần Văn Trị, Nguyễn Thừa Hỷ (1991), Lịch
sử 11 (sách giáo viên), NXB Giáo dục (tái bản từ 1992 đến
1994), Hà Nội.
72. Nguyễn Anh Thái (2005), Lịch sử 12, tập 1, NXB Giáo dục (tái
bản hàng năm từ 1993 đến 2005), Hà Nội.
73. Nguyễn Anh Thái (1992), Lịch sử 12, tập 1 (sách giáo viên),
NXB Giáo dục (tái bản 1993, 1994), Hà Nội.
74. Nguyễn Anh Thái, Nguyễn Quốc Hùng, Lý Trần Quý (1993),
Lịch sử 9, tập 1 (sách giáo viên), NXB Giáo dục, Hà Nội.
75. Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và Đo lường thành quả
học tập, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản.
76. Dương Thiệu Tống (1998), Trắc nghiệm tiêu chí (trắc nghiệm và
đo lường thành quả học tập, tập II), NXB Giáo dục.
77. Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (2005),
Thực trạng - giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn
Lịch sử trong trường Phổ thông theo hướng đổi mới phương
pháp dạy học, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.
78. Thái Duy Tuyên (1991), Tìm kiếm chiến lược phương pháp dạy
học phổ thông, Tạp chí NCGD số 4.
79. Thái Duy Tuyên (1991), Vấn đề lựa chọn phương pháp dạy học,
Tạp chí NCGD số 6.
80. Thái Duy Tuyên (1992), Một số vấn đề hiện đại của lý luận dạy
học, Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
81. Thái Duy Tuyên (1998), Lý luận dạy học, Viện Khoa học
Giáo dục, Hà Nội.
286
82. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản của Giáo dục học
hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
83. Hoàng Thị Tuyết (2001), Vài nét về ngành học Nghiên cứu
Chương trình, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh, số 3/2001.
84. Viện Khoa học Giáo dục (1986), Chương trình môn Lịch sử
trường Phổ thông cơ sở (lớp 6-9), Hà Nội.
85. Viện Khoa học Giáo dục (1989), Dự thảo Chương trình môn
Lịch sử Trường Phổ thông Trung học, NXb Giáo dục, Hà Nội.
86. Nghiêm Đình Vỳ, Trịnh Tùng (1991), Một vài suy nghĩ về đổi
mới nội dung giảng dạy Lịch sử ở trường Phổ thông Trung học
hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5.
87. Nghiêm Đình Vỳ (1993), Vấn đề đổi mới Chương trình và Nội
dung giảng dạy Lịch sử hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số
3.
88. Wiles Jon và Bondi Joseph (2002), Xây dựng Chương trình học –
Hướng dẫn thực hành, bản dịch tiếng Việt từ nguyên bản tái bản
lần thứ 6 (2002) của Nguyễn Kim Dung, lưu hành nội bộ trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 2004.
Tiếng Anh
89. Apple M.W. (1986); Teachers and Text, Routledge & Kegan
Paul, Boston.
90. Bailey Thomas A., Kennedy David M. and Cohen Lizabeth
(1998), The American Pageant (volume I and II), Houghton
Mifflin Company, Boston.
91. Bloom Benjamin S. et al. (1956), Taxonomy of Educational
Objectives, Handbook I: Cognive Domain, Mc Kay, New York.
287
92. Burden P.R.Byrd D.M (2003), Methods for effective Teaching,
A&B, Boston, New York, San Francisco, London, Madrid, Paris,
Hong Kong, Singapore, Tokyo, Sydney…
93. Cohen Louis, Manion Lawrence and Morrison Keith (2001),
Research Methods in Education, Routledge - Falmer, London and
New York.
94. Clark Wendy (1998), Modern Certificate Guides Modern World
History, Oxford University Press, Singapore.
95. Contra Costa County Schools (1959), Social Studies, Grades 1-6
Pleasant Hill, Califonia.
96. Contra Costa Schools (1959), United States History with a Word
History Background, Grades 10-11, Pleasant Hill, Califonia.
97. Dr. Nicholas Tate (2001), A History of the Modern World 1917-
1952, Curriculum Develoment Institute of Singapore and Federal
Publiccations, Singapore.
98. Eisner Elliot W.and Vallance Elizabeth (1974) Conflicting
Conceptions of Curriculum, Mc Cutchan Publishing Corporation,
Berkeley, Califonia.
99. Fenstermacher Gary D. and Soltis Jonas F. (1986), Approaches to
Teaching, Teachers College, Columbia University. New York
and London.
100. Fraenkel Jack R. (1973), Helping Students Think and Value:
Strategies for Teaching the Social Sciences, Prentice-Hall, Inc.
Englewood Cliffs, New Jersey.
101. Fraenkel Jack R. (1977), How to Teach about Values: an analytic
approach, Prentice-Hall, Inc. Englewood Cliffs, New Jersey.
288
102. Gage N.L (1978), The Scientific Basis of the Art of Teaching,
Teachers College Press, New York.
103. Gary Wehlege and Anderson Eugene M. (1972), Social Studies
Curriculum in Perspective: A Conceptual Analysis, Prentice-Hall,
Englewool Cliffis, N.J.
104. Gilliom Eugene (1977), Practical Methods for the Social Studies,
Wadsworth, Belmont, Califonia.
105. Goodlad John I (1979), What Schools are for, A Publication of
the Phi Delta Kappa Educational Foundation.
106. Gottfredson Linda S. (2004), Schools and the g Factor, Wilson
Quarterly, Summer 2004.
107. Green Thomas F. (1971), The Activities of Teaching, Mc Graw
Hill, New York.
108. Greenberg H.M. (1969), Teaching with feeling, Macmillan, New
York.
109. Gronlund N.E. (1970), Measurement and Evaluation in
Teaching, Macmillan, New York.
110. Harlow Anita J. (1972), Taxonomy of the Psychomotor Domain:
A Guide for Developing Behavioral Objectives, Mc Kay, New
York.
111. Herrick V.E and Tyler R.W (1950), "Toward Improved
Curriculum Theory"; Supplementary Educational Monograph
No.71, University of Chicago Press, pages 422-439.
112. Hoo Hui Teng (2001), Guidebook to New Textbook and Syllabus
History-Secondary 2, Preston, Singapore.
113. Hunt M.P and Lawrence E.M (1968), Teaching High School
Social Studies, Harper and Row, New York.
289
114. Jacobsen D.A., Eggen P., Kauchak D. (2002), Methods for
Teaching - Promoting Student Learning, Merill Prentice Hall,
Upper Saddle River, New Jersey, Columbus, Ohio.
115. Jones B.F., Palincsar A.S., Ogle D.S and Carr E.G. (1987),
Strategic Teaching and Learning: Cognitive Instruction in the
content Areas, Association for Supervision and Curriculum
Development, Alexandria, Va.
116. Klausmeier H.J. (1980), Learning and Teaching Conceps,
Academic Press, New York.
117. Kok Koun Chin (1978), Modern Certificate Guides History of
Malaysia, Oxford University Press, Singapore.
118. Kok Koun Chin (1982), Modern Certificate Guides History of
South East Asia, Oxford University Press, Kuala Lumpur.
119. Krathwohl David R., Bloom Benjamin S. and Masia Bertram
(1964), Taxonomy of Educational Objectives, Handbook II:
Affective Domain, Mc Kay, New York.
120. Loukes Harold, Wilson John and Cowell Barbara (1983),
Education: An Introducation, Martin Robertson, Oxford.
121. Marin Academy (1993), Course Catalogue 1993-1994, Marin
Academy, California.
122. Montgomeny County Public Schools (2004), High School Course
Bulletin, Rockville, Maryland.
123. Novak J.D (1977), A Theory of Education, Cornell University
Press, Ithaca and London.
124. Oliva Peter F. (1997), Developing the Curriculum, Longman, New
York.
290
125. Ornstein Allan C. and Levine Daniel U. (1989), Foundation of
Education, Houghton Mifflin Company; Boston, Dallas, Geneva,
Illinois, Palo Alto, Princeton, New Jersey.
126. Ornstein Allan C. and Lasley II Thomas J. (2000), Strategies for
Effective Teaching, McGraw Hill, Boston, New York, San
Francisco, London, Madrid, Bangkok, Seoul, Singabore,
Sydney…
127. Passmore John (1980), The Philosophy of Teaching, Harvard
University Press; Cambridge, Mass.
128. Pinar William F. (1975), Curriculum Theorizing - The
Reconceptualists, Mc Cutchan Publishing Corporation, Berkeley,
Califonia.
129. Pinar William F. and Reynolds William M. (1991),
Understanding Curriculum as Phenomenological and
Deconstructed Text, Teachers College, Columbia University,
New York and London.
130. Posner George J.and Rudnitsky Alan N. (2001), Course Design:
A Guide to Curriculum Devolopment for Teachers, Longman,
New York.
131. Smith Joan K. and Smith Gleun L. (1994), Education Today: The
Foundations of a Profession, St. Martin's Press, New York.
132. Taba Hilda (1962), Curriculum Development-Theory and
Practice, Harcourt, Brace & World, Inc. New York and
Burlingame.
133. Tanner David E. (2001), Assessing Academic Achievement, Allyn
and Bacon, Boston, London, Toronto, Sydney, Tokyo, Singapore.
291
134. Tyler Ralph W. (1950), Basic Principles of Curriculum and
Instruction, University of Chicago Press, Chicago.
135. Walvoord Barbara E. and Anderson Virginia J. (1998), Effective
Grading - A tool for learning and assessment, Jossey - Bass, a
Wiley Company.
136. Wiles Jon and Bondi Joseph (2002), Curriculum Development - A
Guide to Practice, Merrill Prentice Hall, Upper Saddle River,
New Jersey.
137. Woo Yoke Yoong (1994), History of Modern Singapore,
Longman, Singapore.
Tiếng Pháp:
138. Fancois Pommerolle (và các tác giả khác) (1998), Histoire 1re,
Belin, Paris.
139. Jean Michel Lambin (1993), Histoire 2e, Hachette, Paris.
140. Jean Monier (Collection) (1993), Histoire (Tous les volumes, de
la classe de 6e aux classe terminales, ont maintermant paru),
Fernand Nathan, Paris.
141. Jules Isaac (Collection) (1964), Histoire, classe de cinquieme,
Hachette, Paris.
142. Le Pellec J. (Collection) (1998), Histoire 1re, Bertrand - Lacoste,
Paris.
143. Marie - Hélène Maylac (và các tác giả khác) (1996), Histoire
seconde, Bordas, Paris.
144. Marseille J. (Collection) (1998), Histoire Terminales, Nathan,
Paris.
292
145. Ministère de l'education nationale de la jeunesse et des sports
(1990), Baccalauréat de l'enseignement du second degré (séries
A, B, C, D), Centre national de documentation pédagogique,
Paris.
146. Ministère de l'education nationale de la jeunesse et des sports
(1987), Horaires, objectifs, progammes, instructions (classe 6, 5,
4, 3, 2, 1 et terminal), Centre national de documentation
pédagogique, Paris.
147. Robert Frank (và các tác giả khác) (1998), Histoire 1re A, B, S, Belin,
Paris.
148. Wagret P (và các tác giả khác) (1984), Histoire, terminal A, B, S,
Casteilla.
Các báo
149. Giáo dục và Thời đại, Tiếng nói của ngành Giáo dục và Đào tạo
Việt Nam; Diễn đàn toàn xã hội vì sự nghiệp Giáo dục.
150. Giáo dục và Sáng tạo, Diễn đàn của ngành Giáo dục và Đào tạo
TP. Hồ Chí Minh.
151. Nhân dân, Cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam.
152. Sài Gòn Giải Phóng, Cơ quan của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt
Nam TP. Hồ Chí Minh, tiếng nói của Đảng bộ, Chính quyền và
Nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
153. Thanh Niên, Diễn đàn của Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt Nam.
154. Tuổi Trẻ, Cơ quan của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
TP. Hồ Chí Minh.
293