524
Giáo án ngữ văn lớp 11 1

Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Embed Size (px)

DESCRIPTION

 

Citation preview

Page 1: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Giáo án ngữ văn lớp 11

1

Page 2: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

KẾ HOẠCH BÁM SÁT CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN: 15 TIẾT (LỚP 11A1,4)

CHƯƠNG TRÌNH TỰ CHỌN NÂNG CAO: 35 TIẾT (LỚP 11A2)Giáo viên thực hiện: Nguyễn Trọng Đoan

Tổ chuyên môn: Văn

Tuần

Tiết Phân môn Nội dung chủ đề Ghi chú

1 1 Lí luận VH Tác phẩm văn học. 11A22 2 Lí luận VH Tác phẩm văn học. 11A23 3 Lí luận VH Chức năng của văn học. 11A24 4 Lí luận VH Các khái niệm nhân vật, cốt truyện, tình

tiết.11A2

5 5 Lí luận VH Các khái niệm nhân vật, cốt truyện, tình tiết.

11A2

6 6 Lí luận VH Kết cấu và các bình diện kết cấu của văn bản văn học.

11A2

7 7 Lí luận VH Đề tài, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học.

11A2

8 8 Lí luận VH Đề tài, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học.

11A2

9 9 Lí luận VH Lời văn nghệ thuật. 11A210 10 Lí luận VH Thể loại văn học (tự sự, trữ tình, kịch). 11A211 11 Lí luận VH Thể loại văn học (tự sự, trữ tình, kịch). 11A212 12 Lí luận VH Phong cách nghệ thuật. 11A213 13 Lí luận VH Chủ nghĩa hiện thực. 11A214 14 Lí luận VH Chủ nghĩa lãng mạn. 11A215 15 Tác gia VH Hồ Xuân Hương. 11A216 16 Tác gia VH Tác gia Nguyễn Khuyến. 11A1,2,417 17 Tác gia VH Tác gia Nguyễn Đình Chiểu.18 18 H.Dẫn Đ.hiểu Tiến sĩ giấy (Nguyễn Khuyến).19 19 H.Dẫn Đ.hiểu Vịnh khoa thi hương (Trần Tế Xương).20 20 H.Dẫn Đ.hiểu Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình

Chiểu).21 21 Văn học sử So sánh đặc trưng thi pháp văn học trung

đại với đặc trưng thi pháp văn học hiện đại.

22 22 Tác gia VH Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh23 23 Văn học sử Thơ mới24 24 Tác gia VH Xuân Diệu

2

Page 3: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

25 25 Tác gia VH Nguyễn Tuân.26 26 Tác gia VH Nam Cao.27 27 H.Dẫn Đ.hiểu Nhật kí trong tù(Hồ Chí Minh).28 28 H.Dẫn Đ.hiểu Giải đi sớm (Trích Nhật kí trong tù).29 29 H.Dẫn Đ.hiểu Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)30 30 H.Dẫn Đ.hiểu Thơ duyên (Xuân Diệu)31 31 H.Dẫn Đ.hiểu Tống biệt hành (Thâm Tâm)32 32 H.Dẫn Đ.hiểu Tràng giang (Huy Cận).33 33 H.Dẫn Đ.hiểu Chí Phèo (Nam Cao)34 34 H.Dẫn Đ.hiểu Đời thừa (Nam Cao)35 35 Tiếng Việt Phong cách ngôn ngữ chính luận.

CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA VĂN NGHỆ

***** 

I. NGUỒN GỐC CỦA VĂN NGHỆ 1. Những quan niệm duy tâm, sai lầm về nguồn gốc văn nghệ 2. Lao động là nguồn gốc của văn nghệ

II. VĂN CHƯƠNG LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC

1. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng 2. Tương quan giữa cơ sở hạ tầng với văn nghệ

III. VĂN NGHỆ VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI 1. Văn nghệ với chính trị 2. Văn nghệ với triết học 3. Văn nghệ với khoa học 4. Văn nghệ với đạo đức

             Văn chương, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, không phải là của cải vật chất của xã hội, cũng không phải là một lực lượng trực tiếp trực tiếp sản sinh ra một giá trị vật chất nào cho đời sống xã hội. Nhưng chúng ta sẽ không hình dung nổi một xã hội mà ở đó không có sự tồn tại của văn chương nghệ thuật.. Chỉ bởi, văn chương nghệ thuật chiếm giữ một vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống tinh thần của con người. Ðể tồn tại và phát triển, con người không chỉ cần "ăn ở" mà còn cần cả "múa hát". Ý thức được vai trò, giá trị của văn nghệ trong đời sống của mình, con người từ xa xưa đã muốn tìm hiểu để nắm được bản chất, quy luật, đặc trưng đặc điểm của văn nghệ hầu làm chủ nó, thúc đẩy nó phát triển.             Mối quan tâm trước nhất của con người đối với văn nghệ là nguồn gốc, bản chất của nó.   I.    NGUỒN GỐC CỦA VĂN NGHỆ            Tìm hiểu nguồn gốc của văn nghệ là tìm hiểu tác nhân chủ yếu đầu tiên nào đã làm cho văn nghệ này sinh và phát triển. Tức là xác định khởi điểm những mâu chuẩn đối lập nội tại và ngoại tại nào làm cho văn nghệ này sinh và phát triển.             Từ hàng nghìn năm nay, loài người đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc văn nghệ. Nhưng tựu trung, đều có thể quy về hai loại quan điểm: quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật về nguồn gốc văn nghệ.

3

Page 4: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

        1. Những quan niệm duy tâm, sai lầm về nguồn gốc nghệ thuật.

TOP

a. Quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật.             Các quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật rất đa dạng nhưng đều thống nhất ở một điểm là cho rằng : cái đã làm cho văn nghệ nảy sinh là một lực lượng siêu nhiên, thần kỳ ngoài đời sống con người.             - Quan niệm thần thoại Thần thoại Phương Ðông (Ấn Ðộ, Trung Quốc…) Thần thoại Phương Tây (Hy Lạp…) đều giải thích nguồn gốc thơ ca là do các vị thần nhà trời tạo ra. Từ quan niệm các thần trên thiên đình tạo ra nghệ thuật đã đưa đến quan niệm khá phổ biến trong sáng tác là "thần hứng" , được nhiều người tán đồng. Theo quan niệm này thì các nghệ sĩ bỗng dưng cảm xúc trào dâng đã sáng tác được những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Ấy chính là lúc "thần hứng" đã nhập vào người họ, "nàng thơ" đã đến với họ. Chứng cớ là có nhiều tác phẩm nghệ thuật tuyệt diệu ra đời trong những giấc mơ như các bản nhạc của Tác - ti - ni, của Sô - panh …             - Thuyết ma thuật

Một quan niệm có tính chất tôn giáo nữa là thuyết ma thuật. Ma thuật là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy. Ma thuật là những nghi lễ nhằm tác động hư ảo vào tự nhiên khi con người bất lực trước tự nhiên. Người nguyên thủy gán cho các hiện tượng tự nhiên khó hiểu ma lực. Họ thường hay cầu nguyện, tế lễ, ca hát, nhảy múa để cầu mong sự phù hộ của lực lượng siêu phàm nào đó. Chẳng hạn, người nguyên thủy cho rằng nhật thực là điềm báo tai họa, vì vậy, phải nổi trống, chiêng lên để xua đuổi ác quỷ. Ðể cầu mong thần linh và tạ ơn thần linh giúp đỡ trước và sau lúc săn bắt, họ có lễ cầu nguyện tế các thần. Tục đeo móng vuốt, răng, da của các loài thú dữ là để làm bùa hộ mệnh. Một số học giả cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là Reinach ở Pháp và Nga, đã căn cứ vào nghi tiết phù chú của ma thuật nguyên thủy để cho rằng nghệ thuật ra đời từ ma thuật.             Như đã nói, sai lầm cơ bản của quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật là ở chỗ cho rằng nghệ thuật nảy sinh do yếu tố siêu nhiên cách xa đời sống con người.             Việc các nhà nghệ thuật và khoa học sản sinh ra được những tác phẩm, những công trình xuất sắc từ giấc mơ là có thật. Nhưng đó không phải do ma lực mà chính là do năng lực của chính người sáng tác. Khoa học đã chứng minh rằng, trong khi ngủ một vùng nào đó của bộ óc các nhà nghệ sĩ và khoa học vẫn hoạt động.             Ma thuật nguyên thủy là có thật. Người nguyên thủy do chưa làm chủ được tự nhiên và bản thân mình trên thực tế, nên đã phải làm chủ nó, chiến thắng nó bằng ảo tưởng. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa đã chi phối mạnh mẽ đời sống người nguyên thủy. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ, trong sự phản ánh đó những lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu phàm. Ðiều đó đã phản ánh tình trạng bất lực của con người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên.             Như vậy, tôn giáo ra đời là do con người khiếp nhược trước tự nhiên. Còn nghệ thuật, như mọi người đều biết là phương tiện khẳng định cuộc sống. Nghệ thuật đưa lại cho con người những cảm xúc trái ngược với tôn giáo. Hơn nữa, cần phải thấy rằng tôn giáo thời nguyên thủy khác xa với tôn giáo trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị lợi dụng làm phương tiện ru ngủ và áp bức quần chúng. Thời nguyên thủy, đằng trong bộ áo duy tâm ấy là cả hạt nhân thực tiễn: vì cuộc sống thực sự của chính người nguyên thủy. Cầu nguyện tế lễ là mong cho các cuộc săn bắt đạt được kết quả hơn ; Ðeo móng vuốt hổ, gấu là để mong có sức mạnh như chúng, là chiến tích; xâm mình là để ngụy trang.

b. Quan niệm bản năng về nguồn gốc nghệ thuật. -    Thuyết bản năng du hí. Ðây là thuyết duy tâm về nguồn gốc nghệ thuật thịnh hành và có ảnh hưởng nhất ở Tây Âu.

Kant (1724 - 1801), nhà triết học duy tâm chủ quan Ðức, cho rằng tác phẩm nghệ thuật là một cứu cánh nội tại, không có mục đích ý nghĩa nào ngoài bản thân nó, nghệ thuật là một trò chơi không vụ lợi. Schiller (1759 - 1805), nhà văn Ðức, cũng cho rằng đặc trưng của cảm thụ thẩm mĩ là xu hướng tự do vui vẻ. Yếu tố kích thích thứ nhứt và quyết định của sáng tác nghệ thuật là xu hướng du hí

4

Page 5: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

bẩm sinh của con người. Spencer (1820 - 1903), nhà triết học và xã hội học Anh, bổ sung vào học thuyết của Schiller lí luận về sự phát tiết của sinh lực thừa. Theo ông, ở động vật bậc cao và ở con người, sinh lực rất dồi dào, nó không thể tiêu hao hết cho nhu cầu sinh tồn, phần dư thừa phải phát tiết ra ngoài. Con hổ vồ mồi, con mèo chạy vờn theo cuộn len, con mèo vờn chuột… là những hình thức của sự tiêu hao sinh lực thừa. Những cái đó là vô mục đích. Nghệ thuật ở mức độ cao hơn, nhưng xét nguồn gốc thì thực chất cũng là một thứ trò chơi vô mục đích, là sự phát tiết sinh lực thừa.             Một số học giả duy vật dung tục lại dựa trên một số nhận xét của Darwin (1809 - 1882), nhà bác học sinh vật Anh về bản năng tự làm đẹp của động vật để đề ra thuyết bản năng mỉ cảm ở con người. Bản năng mỉ cảm ở con người vốn là bản năng bẩm sinh, bản năng sinh vật chứ không phải là ý thức xã hội.             Như vậy, tóm lại là, các ý kiến của Kant, Schiller, Spencer là để sống, con người cần lao động. Nhưng lao động là ách đè nặng lên con người. Con người chỉ có niềm vui khi thoát khỏi lao động, sống trong vui chơi. Nghệ thuật là một loại hoạt động vui chơi. Nghệ thuật làm cho người ta thoát khỏi mọi ràng buộc của đời sống.             Cách lí giải của những người theo thuyết bản năng du hí trên đây có những yếu tố khả dĩ chấp nhận được. Ví dụ: Yếu tố vui chơi là một đặc trưng quan trọng của văn nghệ. Nhưng nếu xem vui chơi là mục đích là "cứu cánh" thì lại không đúng. Ðiều đó sẽ tạo nên sự đối lập giữa văn nghệ và lao động. Cũng tức là đối lập văn nghệ với con người và xã hội loài người. Thuyết bản năng mĩ cảm đã vô hình trung hạ thấp con người xuống hàng con vật. Con người khác con vật ở chỗ là có ý thức. Theo cứ liệu của khảo cổ học, dân tộc học, thì ý kiến mĩ cảm là bản năng bẩm sinh của con người, lại càng không có chỗ đứng. Con người với công cụ bằng đã đã xuất hiện cách đây 2 triệu rưỡi năm. Nhưng các hiện tượng nghệ thuật nguyên thủy xuất hiện cách đây dưới 4 vạn năm, còn những hiện tượng nghệ thuật đích thực xuất hiện cách đây dưới 18.000 năm. Ðiều đó có nghĩa là nghệ thuật chẳng những không xuất hiện đồng thời với con người mà còn xuất hiện cách xa hàng triệu năm so với sự xuất hiện con người. Nếu là bản năng bẩm sinh thì con người và nghệ thuật đã xuất hiện cùng một lúc.

-         Thuyết bản năng bắt chước. Thuyết này do các nhà bác học cổ đại đề xướng. Démocrite (460 - 370 trước CN), nhà triết

học duy vật cổ đại Hy Lạp cho rằng con người bắt chước tiếng chim hót để làm ra tiếng hát, bắt chước ong xây tổ để làm ra nhà cửa. Aristote (384 - 322 trước CN) cũng là nhà triết học duy vật Hy Lạp, cho rằng bắt chước đem lại nhận thức và niềm vui. Ông cho rằng, có 2 nguyên nhân là nguồn gốc thơ ca. Một là thiên tính bắt chước của nhân loại, hai là thiên tính hiểu biết của nhân loại. Ông khẳng định : "nghệ thuật là sự bắt chước tự nhiên". Sau này, người ta xuyên tạc ý kiến của Aristote, chủ trương văn nghệ bắt chước máy móc, lệ thuộc vào bề mặt sự vật, rồi từ đó đi đến giải thích nguồn gốc nghệ thuật là sự bắt chước có tính chất bản năng của con người.             Thuyết "bắt chước" của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã chỉ ra được nguyên nhân khách quan của nhận thức, sáng tạo nghệ thuật. Nhưng đã xem nhẹ tính tích cực sáng tạo của nghệ sĩ. Nghĩa là chưa thấy nguyên nhân chủ quan. Còn những người sau này xem văn nghệ là sự bắt chước giản đơn các hiện tượng tự nhiên thì họ đã hạ thấp nhận thức và sáng tạo nghệ thuật ở con người xuống hàng bản năng sinh vật.

            Mĩ học tư sản hiện đại cũng đề xướng nhiều học thuyết khác nhau về nguồn gốc nghệ thuật. Chẳng hạn, thuyết bản năng tính dục. Thuyết này do bác sĩ tâm thần người Ðức là Freud (1856 - 1939) đề xướng. Ông cho rằng sự ẩn ức về tính dục đến mức nào đó sẽ thăng hoa thành động lực sáng tạo nghệ thuật ở nghệ sĩ.        2. Lao động là nguồn gốc của văn nghệ. TOP

            Ðiều hiển nhiên mọi người đều nhận thấy là con người trực tiếp làm ra nghệ thuật. Cho nên tìm hiểu nguồn gốc nghệ thuật sẽ là tìm hiểu nguyên nhân nào kích thích con người làm ra nghệ

5

Page 6: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thuật. Do đó, việc truy tìm nguồn gốc nghệ thuật khiến chúng ta đi cùng đường với việc truy tìm nguồn gốc loài người.             Truy tìm nguồn gốc nghệ thuật là một việc làm hết sức khó khăn. Bởi vì nguồn gốc nghệ thuật là chuyện đã lùi quá xa xăm vào dĩ vãng. Phương pháp của chúng ta là căn cứ vào cứ liệu của dân tộc học, khảo cổ học, kết hợp với phép phân tích biện chứng Mác - xít.

a. Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể của thế giới. Con người trong thời kỳ mông muội xa xưa nhất chỉ là con vật, một bộ phận của tự nhiên.

Nhưng để cạnh tranh sinh tồn với tự nhiên con người đã tác động vào tự nhiên để cải tạo nó. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo mình. Trong Tư bản, Mác viết: "Lao động trước tiên là hành động diễn ra giữa người với tự nhiên. Trong hành động đó, bản thân con người đóng vai trò một lực lượng tự nhiên đối với tự nhiên. Con người vận dụng những lực lượng sẵn có trong thân thể, cánh tay và chân, đầu và bàn tay để chiếm hữu vật chất, bằng cách sáng tạo cho những vật đó một hình thái có ích cho đời sống của mình. Do sự vận động đó, con người tác động vào tự nhiên bên ngoài và thay đổi tự nhiên , đồng thời cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Như thế, từ chỗ là một lực lượng của tự nhiên con người đã trở thành chủ thể của tự nhiên; từ chỗ phải cải tạo tự nhiên con người đã đi đến chỗ tự cải tạo mình. Chính lao động đã làm nên con người và xã hội loài người.

b.Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể thẩm mĩ. Nhưng vậy thì, lao động có liên quan gì đến việc làm ra nghệ thuật của con người? Quá trình lao động sáng tạo ra con người là một quá trình diễn ra từ từ và rất lâu dài, hàng chục triệu năm: từ chỗ con vượn đến, vượn người, đến người vượn, đến con người bầy đàn, đến con người xã hội. Quá trình đó, con người phát triển và hoàn thiện, không chỉ kỉ năng lao động - khả năng to lớn tác động vào tự nhiên để kiếm sống mà còn khả năng đáng giá tự nhiên về cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp cho tự nhiên - tức là khả năng làm chủ thế giới về mặt thẩm mĩ.             Chính lao động làm cho các "khí quan" của con người phát triển và hoàn thiện, tư duy và ngôn ngữ hình thành, từ đó, tạo tiền đề cho cho văn nghệ ra đời. Ðể làm ra văn nghệ con người còn có bàn tay kì diệu.

- Lao động đã làm ra bàn tay nghệ sĩ của con ngườiù. Ăngghen viết: "Bàn tay không những là khí quan dùng để lao động mà còn là sản phẩm của

lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng với động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các bắp thịt, của các gân cốt, sau những khoảng thời gian dài hơn, của cả xương nữa, và cuối cùng nhờ tinh luyện thừa hưởng được của các thế hệ trước mà áp dụng nhiều lần liên tục vào những động tác ngày càng mới, ngày càng phức tạp hơn, chỉ nhờ có thế, bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao đó, khiến nó có thể, như một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Rafael, các pho tượng của Thorwaldsen, và các điệu nhạc của Paganini". Bàn tay nghệ sĩ thoát thai từ bàn tay lao động là như vậy.             - Lao động sáng tạo ra bộ óc và các giác quan ngệ sĩ của con người.             Ðể làm ra nghệ thuật, không chỉ có bàn tay mà cần phải có bộ óc và các giác quan. Chính lao động đã làm cho bộ óc con người phát triển, ngôn ngữ phát triển, các giác quan ngày một tinh tế. Aêngghen nói: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu, đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn người, làm cho bộ óc dần dần chuyển thành bộ óc người (…) khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là các giác quan cũng song song phát triển theo (…) Bộ óc và các giác quan phụ thuộc bộ óc càng phát triển lên, ý thức càng sáng suốt hơn, năng lực trừu tượng hóa và năng lực suy lí càng phát triển hơn, tất cả những cái đó tác động trở lại lao động và ngôn ngữ, đã không ngừng thúc đẩy lao động và ngôn ngữ không ngừng phát triển thêm (…) Nhờ hoạt động phối hợp của bàn tay, của các khí quan phát âm và bộ óc, chẳng những ở mọi cá nhân mà ở cả trong xã hội nữa, loài người đã có đủ khả năng hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn".

6

Page 7: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Rõ ràng là, cùng với việc sáng tạo ra bàn tay kì diệu, lao động đã sáng tạo ra bộ óc kì diệu cùng các giác quan, tức là sáng tạo ra năng lực cảm giác của con người và thế giới tâm hồn con người. Mác viết :             "Chỉ nhờ sự phong phú của sinh thể người được mở ra trong thế giới vật chất thì mới phát triển , và phần nào, phần đầu tiên mới nảy sinh ra sự phong phú của con người về mặt cảm tính chủ quan: cái tai biết nghe nhạc, con mắt cảm thấy được vẻ đẹp của hình thức, nói tóm lại, làø những giác quan có khả năng hưởng thụ theo kiểu người và tự khẳng định mình như là những sức mạnh bản chất của con người. Bởi vì, không chỉ năm giác quan bên ngoài, mà cả giác quan được gọi là giác quan tinh thần, giác quan thực tiễn (ý chí, tình yêu …) tóm lại là giác quan con người, tính người của giác quan đã xuất hiện nhờ sự có mặt của một đối tượng phù hợp, có một tự nhiên đã được người hóa".             Như vậy giác quan của con người đã không chỉ là giác quan người lao động mà còn là giác quan nghệ sĩ.             c. Lao động sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ

Lao động không chỉ sáng tạo ra chủ thể thẩm mĩ mà còn trực tiếp sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ, hiện tượng thẩm mĩ. Con người đầu tiên không phân biệt được cái đẹp và cái có ích. Chỉ dần dần về sau cái đẹp mới được tách ra. Plékhanov (1856 - 1918) đã nói: "Lao động có trước nghệ thuật, nói chung, con người trước hết xuất phát từ quan điểm cái có ích để quan sát sự vật và hiện tượng rồi sau mới đứng trên quan điểm thẩm mĩ để nhìn nhận chúng".             Plékhanov đã đưa ra một ví dụ: "Những bộ lạc da đỏ miền Tây Bắc Mĩ ưa chuộng nhất là trang sức bằng vuốt gấu xám là kẻ thù hung dữ nhứt của họ","thoạt đầu những thứ ấy được đeo với nghĩa tượng trưng cho lòng dũng cảm, sự nhanh khéo và sức mạnh, Và chỉ sau đó, và chính chúng tượng trưng cho lòng dũng cảm sự nhanh khéo và sức mạnh mà chúng bắt đầu khêu gợi mĩ cảm và trở thành đồ trang sức".

Lao động đã làm nảy sinh những yếu tố thiết yếu của nghệ thuật:             - Lao động và hình tượng nghệ thuật. Giác quan là những khí quan của bộ óc. Khi chúng phát triển phong phú và tinh tế thì cũng có ý nghĩa là năng lực suy lí, trừu tượng hóa và hình tượng hóa của bộ óc phát triển tinh tế và phong phú. Trí tưởng tượng phong phú, bay bổng của bộ óc đã khiến cho những hình tượng nghệ thuật nguyên thủy ra đời. Gorky đã nói: "Ngay từ thời tối cổ, con người đã mơ ước có thể bay lên không trung như ta có thể thấy qua chuyện Phaêtôn, truyện Ðê - đan và con trai là Icaro, cũng như chuyện Tấm thảm biết bay. Họ mơ ước tìm cách di chuyển nhanh hơn trên mặt đất - truyện cổ tích về Ðôi hài vạn dặm- họ thuần phục giống ngựa, ý muốn di chuyển trên sông nhanh hơn nhờ dòng nước đã đưa đến sự phát minh ra mái chèo và buồm, ý muốn giết kẻ thù hay săn thú từ xa là nguyên do phát sinh ra cung nỏ. Họ mơ tưởng có thể dệt xong trong một đêm một số vải vóc thật lớn, xây xong một đêm một ngôi nhà thật tốt, hay thậm chí cả một tòa lâu đài, tức là một chỗ ở kiên cố có thể chống chọi với kẻ thù, họ sáng tạo ra xa quay sợi, một trong những công cụ cổ xưa nhất, sáng tạo ra khung cửi dệt bằng tay và sáng tạo ra chuyện cổ tích nàng Va xi li xa khôn ngoan tuyệt trần…".             - Lao động và ngôn ngữ: Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu trao đổi tư tưởng, tình cảm trong quá trình lao động. Mác viết: "Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ". Do muốn tổ chức tốt lao động, con người cần có tín hiệu để trao đổi tư tưởng, để thông tin cho nhau. Maiakovsky đã hình dung: "Cứ một động tác tay hay chân của đoàn người lao động đều kèm theo những âm thanh không rõ ràng, do đoàn người nhất trí phát ra". Không có sự phối hợp âm thanh thì không thể tiến hành lao động chung được. Ngôn từ yếu tố thứ nhất của văn chương, đầu tiên như là một bộ phận của sản xuất thực tế, đã ra đời như thế.             - Lao động và tiết tấu: Lao động cũng đã khám phá ra giá trị thẩm mĩ của tiết tấu. Lúc đầu cảm giác về tiết tấu mang tính chất sinh lí và tâm lí. Nghĩa là một hoạt động tự nhiên, nhưng lao động đã làm cho cảm giác tiết tấu mang tính chất xã hội. Bucher lập luận: "Lao động mà có tiết tấu thì đời mệt mỏi, nhất là khi lao động tập thể, động tác có tiết tấu càng có hiệu lực". Tiết tấu đã được con người sử dụng như là phương tiện để tổ chức động tác, thống nhất ý chí, hành động, tình cảm… làm giảm cường độ lao động, tăng hiệu quả. Tiết tấu còn làm người ta say sưa lao động.

7

Page 8: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bước phát hiện ra cảm xúc tiết tấu là bước quan trọng để từ đó con người sáng tạo ra tiết tấu trong nghệ thuật.             - Lao động và vũ thuật. Người nguyên thủy khống chế tự nhiên bằng 2 cách: hoặc bằng thực tế, hoặc bằng ảo tưởng. Vũ thuật là kỹ thuật ảo tưởng của người nguyên thủy - cách tác động vào tự nhiên một cách hư ảo. Kết quả là qua vũ thuật con người đã sáng tạo ra những điệu múa. Về sau, ý thức tôn giáo phai nhạt đi, nghệ thuật biểu diễn với tư cách là phương tiện biểu hiện tình cảm phát triển.             d. Nghệ thuật khẳng định mình bằng tác động trở lại lao động.

Nghệ thuật nảy sinh không phải một sớm một chiều và cũng không phải là sản phẩm thụ động của lao động. Quá trình nghệ thuật hình thành là quá trình nó tự khẳng định mình bằng tác động trở lại lao động và thông qua lao động mà tác động trực tiếp vào đời sống xã hội. Những cái đẹp như: hài hòa, cân đối, êm tai, đẹp mắt của các sự vật rõ ràng là có tác dụng tăng hiệu quả lao động. Con người lúc đầu còn sống đơn độc hoặc bầy đàn, chứ chưa thành xã hội. Nhưng để chống chọi với tự nhiên, để làm chủ tự nhiên con người cần tập hợp nhau thành xã hội. Chính nghệ thuật có vai trò không nhỏ trong việc thống nhất loài người lại với nhau thành xã hội (thống nhất hành động, thống nhất tư tưởng). Chẳng hạn: mỗi khi săn bắt được con thú, người ta tụ tập nhau lại, đốt lửa lên, nướng con thú, mổ thịt chia nhau rồi nhảy múa ca hát chung quanh đống lửa để ăn mừng thắng lợi. Ðồng thời, qua đó họ hiểu nhau hơn, qua đó mà truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, động viên nhau. Nghệ thuật đã tham gia vào nhu cầu thống nhất xã hội, giữ gìn lưu truền hoạt động đời sống xã hội, nhu cầu tự điều chỉnh xã hội. Ngược lại, những nhu cầu này lại thúc đẩy nghệ thuật phát triển.             Tóm lại, không phải bản năng, không phải lực lượng siêu nhiên thần kỳ, cũng không phải là hoạt động cá nhân trực quan tự biểu hiện mà chính là quá trình lao động xã hội lâu dài đã sáng tạo ra khả năng nhu cầu sáng tạo nghệ thuật ở con người. Nhu cầu tất yếu của xã hội hình thành dưới tác dụng của lao động sáng tạo ra nghệ thuật. Ngay từ đầu, văn nghệ chưa bao giờ là sản phẩm tự nhiên của bản năng hay của hoạt động cá nhân riêng lẻ mà bao giờ cũng là hoạt động xã hội, có tính chất xã hội, luôn luôn gắn với lao động xã hội.    II. VĂN CHƯƠNG LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC.            Trong cơ cấu đời sống xã hội, văn chương có vị trí như thế nào? Cái gì đã quyết định chiều hướng phát sinh và phát triển của nó? Từ lâu, người ta đã có những kiến giải khác nhau về vấn đề này. Có người tìm nguyên nhân ở thượng đế, có người tìm trong "kết cấu chủ quan của trí tuệ" người sáng tác, có người tìm ngay trong bản thân văn chương.             Chủ nghĩa Mác không giải thích văn chương bằng thượng đế, đã đành, mà cũng không giải thích nó bằng chính nó. Xem văn chương là một hiện tượng xã hội, chủ nghĩa Mác xuất phát từ những mối liên hệ thực tế giữa nó với toàn bộ các hiện tượng xã hội để giải thích văn chương: văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định, đồng thời, có tác dụng năng động với cơ sở hạ tầng.             Xem văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc và lí giải nó trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, lần đầu tiên trong lịch sử mĩ học nhân loại, mĩ học Mác - Lênin đã đem đến cho nhân loại một kiến giải duy nhất đúng đắn về bản chất của văn chương nghệ thuật. Và cũng chính nhờ quan niệm đúng đắn và khoa học đó, mĩ học Mác - Lênin đã có khả năng thâm nhập sâu vảo bản chất, quy luật, đặc trưng của văn chương nghệ thuật.

  1. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng

tầng      TOP

Chủ nghĩa Mác - Lênin chia cơ cấu đời sống xã hội thành 2 bộ phận. Toàn bộ kết cấu kinh tế của xã hội là cơ sở hạ tầng. Tất cả những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế bao gồm những tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng với những tư tưởng ấy là kiến trúc thượng tầng.

8

Page 9: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở thực tại, trên đó dựng lên một kiến thức thượng tầng pháp lí và chính trị, và tương ứng với những cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định.[1]             Những tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng thuộc thượng tầng kiến trúc bao gồm: những tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức, khoa học, triết học, tôn giáo, nghệ thuật (trong đó có văn chương)… và các thiết chế tương ứng: Nhà nước, chính đảng, giáo hội, các tổ chức văn hóa…

            Như thế văn chương nghệ thuật là một hình thức ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc.  

2. Tương quan giữa cơ sở hạ tầng với văn nghệ         

TOP

            -  Cơ sở kinh tế quyết định văn nghệ Tương quan giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng là tương quan giữa ý thức và tồn

tại. Marx và Engels viết: "Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của con người; ngược lại, chính tồn tại xã hội của con người quyết định ý thức của con người".[1]             Kiến trúc thượng tầng của xã hội do quan hệ kinh tế tức là cơ sở hạ tầng hạ tầng sinh ra và bị cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở kinh tế nào sẽ có kiến trúc thượng tầng ấy. Khi cơ sở hạ tầng có sự biến đổi căn bản thì kéo theo sự biến đổi cơ bản trong kiến trúc thượng tầng.             Mác chỉ rõ: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ ấy cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng."[1]             Là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, như bất kỳ một hình thái ý thức xã hội nào khác, văn chương do cơ sở kinh tế sinh ra, bị cơ sở hạ tầng quyết định. Do đó, đi tìm hiểu văn chương không phải tìm ở thượng đế, cũng không phải tìm ngay trong bản thân nó, mà trước hết là tìm ngay ở cái đã sinh ra nó, đã quyết định nó. "Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, cho nên cần phải tìm nguyên nhân đầu tiên - tạo nên tất cả sự biến đổi của nghệ thuật - trong tồn tại của con người, trong cơ sở kinh tế của xã hội" (Mác).             Trên bình diện tổng quát, ta thấy, cơ sở kinh tế quyết định sự nảy sinh và phát triển của văn chương. Cơ sở kinh tế là nền tảng của xã hội, nó quyết định nội dung và tính chất của xã hội, vì thế, nó quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng do nó tạo nên, trong đó có văn chương. Như thế, cơ sở kinh tế quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội chủ nghĩa. Ðó là nền văn chương có nội dung xã hội chủ nghĩa tức là cuộc sống mới, con người mới; có tính dân tộc đậm đà tính Ðảng và tính nhân dân sâu sắc.             Nhân tố kinh tế là nhân tố khách quan quyết định tiền đề lịch sử về vật chất cũng như về tinh thần của đời sống xã hội trong đó có văn chương. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với đại sản xuất công nghiệp đã tạo ra một "giai cấp công nhân", là người làm chủ lịch sử trong thời đại mới, thời đại xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vậy là, chính nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã vô tình tạo ra yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa của văn chương xã hội chủ nghĩa nảy sinh từ trong giai cấp công nhân.             Cơ sở kinh tế quyết định bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp trong đó có văn chương tham gia. Nền kinh tế Việt Nam thời Nguyễn Du vẫn là nền kinh tế phong kiến tự túc, tự cấp, mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ sản xuất là mâu thuẫn giữa nông dân và các tập đoàn phong kiến.             Trong thời kỳ này, yếu tố kinh tế hàng hóa đã xuất hiện, vai trò đồng biến đã có tác dụng mạnh. Ðồng tiền, với sự tác oai, tái quái của nó đã bắt đầu bị lên án: "làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền". Nhưng hiện tượng trong Truyện Kiều vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của cuộc sống xã hội phong kiến, với chế độ người bóc lột người theo kiểu phong kiến. Vì vậy, tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp trong Truyện Kiều là tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp giữa một bên là các tập đoàn phong kiến và một bên là những người bất hạnh, quyền sống bị chà đạp.             Cơ sở kinh tế quyết định trình độ tư duy, quyết định tính chất của thế giới quan, quyết định mọi phong tục, tập quán… Cơ sở kinh tế cũng tạo điều kiện khách quan cho sự nảy nở các tài năng,

9

Page 10: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tạo điều kiện cho sự tiếp thu các tư tưởng, kinh tế còn quyết định tính chất lịch sử và xã hội và do đó quyết định tính chất lịch sử và xã hội của văn chương.             -  Kinh tế là nguyên nhân quyết định suy tới cùng.             Qua trên, ta thấy kinh tế quyết định mọi phương diện của văn chương nghệ thuật. Vì vậy, khi tìm hiểu nội dung và tính chất của bất kỳ một nền văn chương nào cũng phải chú ý đến cơ sở kinh tế đã sản sinh ra nó. Nhưng lại sẽ phạm sai lầm nếu quá say mê về thống kê kinh tế để cố tìm một sợi dây liên hệ trực tiếp giữa các hiện tượng kinh tế và hiện tượng nghệ thuật. Ở Liên Xô, trước đây, đã có thời kỳ sách giáo khoa văn chương xác định một mối quan hệ nhân quả giữa những con số xuất cảng và nhập cảng lúa mì ở Nga đầu thế kỷ XIX với thơ ca Puskin. Ðây là biểu hiện một cách hiểu dung tục quan điểm chủ nghĩa Mác - nghĩ là nghệ thuật lệ thuộc một cách trực tiếp, máy móc vào các hiện tượng kinh tế. Vì sao vậy? Ðiều này có gì mâu thuẫn với những luận điểm đã nêu trên không? Thực ra, cơ sở kinh tế chỉ quyết định một cách gián tiếp đối với văn chương nghệ thuật, bản thân nó không trực tiếp đẻ ra một giá trị văn chương nào. Về vấn đề này, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra một cách rõ ràng về các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của các loại hình thái ý thức xã hội với cơ sở kinh tế. Trong các hình thái ý thức xã hội, có loại liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như tư tưởng chính trị, Nhà nước, pháp quyền … loại này cơ sở kinh tế trực tiếp sản sinh ra nó và khi cơ sở kinh tế thay đổi thì lập tức chúng thay đổi theo. Lại có loại hình thái ý thức liên hệ gián tiếp với cơ sở kinh tế, cách xa cơ sở kinh tế, bị cơ sở kinh tế quyết định gián tiếp như: triết học, khoa học, tôn giáo, văn chương nghệ thuật. Ăngghen đã vạch rõ "văn chương một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế" là "lĩnh vực ý thức bay cao hơn hết trong không trung" và Người giải thích: "Ở đây cơ sở kinh tế không sáng tạo ra một cái gì mới cả, nó chỉ quy định phương hướng cải biền phát triển thêm của các tài liệu thực tế hiện có, nhưng cả đến điều này cũng chỉ là tác động một cách gián tiếp.[1]             Như thế, kinh tế không trực tiếp sáng tạo ra một cái gì mới cho nghệ thuật cả, nó chỉ là cơ sở để mở đường cho cái mới hình thành và phát triển. Giữa cơ sở kinh tế và văn chương là toàn bộ đời sống xã hội (vật chất và tinh thần) với tất cả những quan hệ nhân sinh vô cùng phức tạp và thiên hình vạn trạng, với tất cả những lĩnh vực khác nhau, tác động lẫn nhau. Văn chương chính là sản phẩm của toàn bộ đời sống xã hội. Bác Hồ đã khẳng định Xã hội nào, văn nghệ ấy. Ðiều đó thật là chí lí. Văn nghệ ra đời và phát triển trong những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định. Nó là con đẻ của một hình thái xã hội, một hình thái kinh tế xã hội tức lá chế độ kinh tế và toàn bộ kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.             Cho nên, cơ sở kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định đối với văn chương. Chúng ta không được vì xem trọng nhân tố kinh tế mà bỏ qua các nhân tố khác rất quan trọng như đấu tranh giai cấp, truyền thống văn hóa … ảnh hưởng trực tiếp tới văn chương. Nhân tố kinh tế chỉ là nhân tố quyết định xét đến cùng. Ăngghen đã nhấn mạnh: "Theo quan niệm duy vật lịch sử, thì trong lịch sử, nhân tố quyết định cuối cùng là sức sản xuất và tái sản xuất đời sống kinh tế. Cả Mác và tôi, chúng tôi không khẳng định điều gì hơn cả. Nhưng nếu người nào muốn xuyên tác lời nói đó đến nỗi bảo rằng câu ấy có ý nói nhân tố kinh tế duy nhất quyết định , thì người đó biến câu ấy thành một câu trống rỗng, trừu tượng, phi lí."[1]             Chính và vậy mà "Sự phồn vinh của nghệ thuật" thì không nhất thiết lúc nào cũng tương ứng với sự phồn vinh của cơ sở kinh tế.              -  Quy luật về sự phát triển không đều giữa văn nghệ với kinh tế

Tuy là không trực tiếp, nhưng kinh tế là nguyên nhân quyết định tới văn chương. Vậy, có thể lập được chăng một biểu đồ về sự tương ứng song song giữa sự phát triển kinh tế và phát triển văn chương? Phải chăng một xã hội có cơ sở kinh tế phát triển cao thì đương nhiên sản sinh ngay ra một nền văn chương có chất lượng cao, và ngược lại? Thực sự thì, giữa cơ sở kinh tế và văn chương nghệ thuật, phải lúc nào cùng có sự phát triển tương ứng. Trái lại, trong lịch sử, thường có sự không ăn khớp giữa sự phát triển của văn chương nghệ thuật của thời đại với sự phát triển của cơ sở hạ tầng - tức chế độ kinh tế. Khi nghiên cứu nghệ thuật của quá khứ, Mác đã chỉ ra: "Ðối với nghệ thuật thì có những thời kỳ phồn vinh lại tuyệt nhiên không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó, cũng tuyệt nhiên không tương ứng với cơ sở vật chất tức là xương cốt của tổ chức xã

10

Page 11: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hội, nếu có thể nói được như thế. Vì, người Hy Lạp so với người thời nay hay như Shakespeare chẳng hạn."[1]             Về phương diện kinh tế thì thời Hy Lạp cổ đại thấp kém thời kỳ tư bản chủ nnghĩa và thời kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa thế kỷ XVI cũng thấp kém hơn thời kỳ phát triển cao của chủ nghĩa tư bản về sau này. Nhưng tình hình này không nhất thiết dẫn tới chỗ văn chương nghệ thuật thời Home và Shakespeare phải thấp kém hơn thời chủ nghĩa tư bản phát triển. Sự thực thì ngược lại, chẳng hạn, những tác phẩm của Home ra đời trong điều kiện kinh tế thấp kém nhưng vẫn là những tác phẩm "mẫu mực" của nghệ thuật của lịch sử văn hóa nhân loại. Chính Mác đã khẳng định điều này: " … nghệ thuật Hy Lạp, thể anh hùng ca, vẫn cho ta một sự thỏa Mácn về thẩm mĩ, và về một phương diện nào đó, chúng vẫn còn được dùng làm tiêu chuẩn, làm cái mẫu mực mà chúng ta chưa đạt tới."[1]             Sự phát triển không tương ứng của nghệ thuật đối với kinh tế đã được xem như là một trong những quy luật cơ bản của sự phát triển văn nghệ. Chúng ta giải thích thế nào về quy luật này.             Trước hết, đứng về phía kinh tế mà xét thì, văn chương là một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế, do đó cơ sở kinh tế quyết định một cách gián tiếp. Cơ sở kinh tế không trực tiếp sản sinh ra một giá trị văn chương nào. Về phía văn chương, là một hình thái ý thức xã hội, nó có tính chủ thể, tính độc lập tương đối có quy luật phát sinh và phát triển riêng. Ý thức xã hội có thể lạc hậu so với tồn tại xã hội, và trong những điều kiện nào đó có thể vượt lên trước tồn tại xã hội. (đặc biệt là trong khoa học - sự phát hiện những quy luật khách quan của sự phát triển của sự vật). Văn chương nghệ thuật có thể đi sau hoặc đi trước ít nhiều so với cơ sở kinh tế. Văn chương có thể dự báo một thời đại mới sắp ra đời. Ví dụ hiện tượng Gorky (Bài ca con chim ưng, Bài ca con chim báo bão) chẳng hạn.             Mặt khác, ý thức xã hội có quy luật kế thừa và phát triển. Ý thức xã hội tuy là phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó vẫn có giá trị tư thân… Nó kế thừa mạnh mẽ những giá trị tinh thần của thời đại trước, tiếp thu tinh hoa tinh thần của mọi dân tộc.             Lại nữa, giữa các hình thái ý thức xã hội bao giờ cũng có sự tác động lẫn nhau, trong khi kinh tế là yếu tố quyết định gián tiếp tới văn chương thì văn chương lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của hàng loạt yếu tố khác như chính trị, triết học, đạo đức, khoa học, nghệ thuật …             Văn chương nghệ thuật chịu ảnh hưởng trực tiếp và dữ dội nhất của chính trị và đấu tranh giai cấp. Có thể khẳng định rằng đấu tranh giai cấp là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định to lớn và quan trọng đối với văn chương nghệ thuật. Trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp, nội dung chủ yếu của tời đại được biểu hiện trong đấu tranh giai cấp. Văn chương, sản phẩm của thời đại, dĩ nhiên mang trong mình nó nội dung giai cấp đó của thời đại. Ðây cũng là một lí do quan trọng để giải thích vì sao để nghiên cứ văn chương đạt kết quả tốt người ta cần thiết phải phân tích mối tương quan giai cấp trong xã hội ở thời kỳ văn chương đó ra đời. Nền văn chương Việt Nam đạt được thành tựu xuất sắc lại rơi vào thế kỷ XVIII đầu XIX lúc kinh tế suy bại. Lôgic của vấn đề là ở chỗ xã hội có thối nát, kinh tế suy vong dẫn đến đấu tranh giai cấp bùng lên. Thế kỷ XVIII - Nửa đầu XIX là thời kỳ bão táp của dân tộc. Cuộc đấu tranh giai cấp biến động dữ dội - một bên là sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi - và một bên là sự vùng dậy mạnh mẽ không thể gì dập tắt của phong trào quần chúng mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Chính bão táp đó của cuộc sống đã dội vào nghệ thuật, tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới tư tưởng , tình cảm của người sáng tác để rồi có những kiệt tác như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn phái …             Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là bản chất tự do sáng tạo của nghệ thuật. Nghệ thuật không chỉ là hành động nhận thức, phản ánh đơn thuần mà là một hoạt động có tính chất thực tiễn vật chất, hoạt động sáng tạo. Mà, sự phát triển tài năng sáng tạo của con người không phải bất kỳ thời nào cũng giống nhau. Có chế độ xã hội trong đó tài năng của con người được phát triển tự do, có chế độ xã hội thì ngược lại, tài năng bị kìm hãm, bị mai một. Chế độ tư bản chủ nghĩa mặc dù sức sản xuất phát triển cao nhưng nhân cách con người bị què quặt, tự do và sáng tạo của nghệ sĩ bị đèn nén, con người trở thành hàng hóa nên không thể có nghệ thuật tốt đẹp. Chính Marx đã khẳng định: "… Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số ngành nhất định trong sản xuất

11

Page 12: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tinh thần, như nghệ thuật và thi ca chẳng hạn." [1] Nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là nền sản xuất hàng hóa đã biến con người thành hàng hóa.             "Nền sản xuất sản sinh ra con người không những với tính cách là hàng hóa, không những với tính cách là con người hàng hóa, con người với sự quy định của hàng hóa; nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như một thực thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác (…) sản phẩm của nền sản xuất đó là hàng hóa có một ý thức và có một hoạt động độc lập, … là con người hàng hóa."[1]             Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa sẽ đưa cơ sở kinh tế phát triển đến mức thỏa mãn mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội, con người sẽ được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc và "Người nào mang trong mình một Rapphael thì đều có điều kiện tự do phát triển."[1]             Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng. Nếu như hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng, thì đến lượt mình, kiến trúc thượng tầng lại tác động tích cực đến hạ tầng cơ sở. Nó có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển hạ tầng cơ sở.             -  Sự tác động trở lại kinh tế của văn nghệ             Do hạ tầng cơ sở sinh ra nhưng văn chương không phụ thuộc một cách máy móc thụ động, đơn giản một chiều. Nó có tính độc lập tương đối, tính chủ thể, nó cũng tác động trở lại hạ tầng cơ sở. Nó có thể góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp củng cố hoặc cản trở sự phát triển đời sống xã hội. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ tính năng động của ý thức xã hội, trong đó có văn chương:             "Sự phát triển về chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn chương và nghệ thuật … đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả các lĩnh vực đó ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế."[1]             Vậy tác động trở lại của văn chương nghệ thuật đối với cơ sở kinh tế là như thế nào? Nói văn chương nghệ thuật tác động trở lại kinh tế thì không có nghĩa là xem văn chương như một thứ lịch sử có thể trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, hay một yếu tố có khả năng tạo tiền đề cho đời sống xã hội loài người. Văn chương là một hình thái ý thức, có nghĩa là nó là một hoạt động của ý thức, tinh thần (chứ không phải hoạt động thực tiễn vật chất). Cho nên, tác động của nó là tác động về mặt ý thức tư tưởng , thông qua ý thức, tư tưởng. Nếu hạ tầng cơ sở quyết định sự ra đời của văn chương và sự phát triển của nó thông qua chính trị, thông qua đấu tranh giai cấp đấu tranh xã hội, thì đến lượt mình, văn chương có thể ảnh hưởng trở lại cơ sở cũng thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội với tư cách là một thứ vũ khí đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh xã hội. Văn chương phản động phục vụ cho chính trị của giai cấp thống trị thì có tác dụng củng cố quan hệ bóc lột và trật tự xã hội của giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản phản động. Ngược lại, văn chương cách mạng, phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng cách mạng, phục vụ cho lợi ích nhân dân, cho trật tự xã hội mới.             Quần chúng là người làm nên lịch sử, là lực lượng trực tiếp, làm ra của cải vật chất cho xã hội. Văn chương tác động đến cơ sở kinh tế qua con đường đấu tranh tư tưởng, cải tạo tư tưởng của họ bằng phương tiện nghệ thuật.             Bản thân ý thức, tư tưởng không trực tiếp cải tạo được thế giới vật chất, nhưng khi nó được con người nhận thức và biến thành hoạt động thực tiễn thì lại có sức mạnh cải tạo to lớn như một sức mạnh vật chất. Mác khẳng định:             "Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất phải do lực lượng vật chất đánh đổ, nhưng ngay cả lí luận nữa cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập sâu vào quần chúng."[1]             Văn chương cũng nằm trong quy luật ấy. Nó có thể tác động mạnh mẽ đến kinh tế như một lực lượng vật chất khi nó xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động sâu sắc, dội mạnh vào tư tưởng, tình cảm, đạo đức, trí tuệ và nhận thức của quần chúng, mà nói như Hugo là "làm cho tư tưởng biến thành những cơn lốc".             Ý thức xã hội có tác động hai chiều, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vai trò của ý thức tư tưởng được xác định cụ thể ở chỗ chúng thuộc giai cấp nào, đáp ứng nhu cầu của ai. Văn chương cách mạng thì có tác dụng thúc đẩy xã hội tiến lên, văn chương phản độngthì kìm

12

Page 13: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hãm sự phát triển của xã hội. Nó tác oai, tác quái, đầu độc tư tưởng con người. Nó trói tay, bịt mắt, bưng tai con người. Thứ văn chương dâm ô, đồi trụy, kiếm hiệp … cùng với đường lối văn hóa giáo dục phản động, tồi bại sẽ tạo ra một lớp người lấy hưởng lạc làm mục đích, lấy bóc lột, tiền tài, lợi nhuận, giành giật cướp đoạt làm đối tượng.             Cần thiết phải thấy tác dụng ngược lại, kìm hãm của văn chương để ngăn ngừa loại nghệ thuật đồi bại, đến nay, vẫn còn được lén lút lưu truyền.    III. VĂN NGHỆ VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC.            Trong cơ cấu đời sống xã hội, chúng ta đã xem xét văn chương trong mối quan hệ với cơ sở kinh tế. Nhưng sẽ phiến diện, sai lầm, nếu chúng ta chỉ dừng tại đây mà không xem xét thấu đáo mối quan hệ giữa văn chương với kiến trúc thượng tầng. Bởi, tuy cơ sở hạ tầng quyết định tới văn chương nhưng là nguyên nhân gián tiếp và suy tới cùng, trong lúc đó, nhiều hình thái ý thức khác thuộc tầng - tuy là tinh thần - nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp và nhiều khi là nguyên nhân rất quan trọng.             Văn chương, chính trị, triết học, khoa học, luân lí, tôn giáo … đều nằm trên thượng tầng kiến trúc và do cơ sở kinh tế sinh ra. Tuy vậy, chúng có quy luật phát sinh, phát triển riêng, có quan hệ không giống nhau với cơ sở kinh tế, sự tác động qua lại và quan hệ không như nhau đối với văn chương.

        1.  Văn nghệ với chính trị. TOP

            Xác định mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, đồng chí Trường Chinh nói: "Quan hệ giữa chính trị và văn nghệ là chính trị lãnh đạo văn nghệ, văn nghệ phục vụ chính trị."[1] Ý kiến này đã xác định một cách đầy đủ đặc điểm và tính chất của mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Quan hệ giữa chúng, trước hết, là quan hệ nội tại, quan hệ bên trong, bản chất, chứ không phải quan hệ bên ngoài, hình thức, gán ghép "từ trên đưa xuống, từ ngoài đưa vào". Mặt khác, quan hệ đó là sự quan hệ phụ thuộc của văn nghệ và chính trị chứ không phải quan hệ độc lập, càng không phải là quan hệ đối lập kiểu "hai bên vỗ tay nhau cùng đi lên, hai bên cùng có lợi".             Tại sao có quan hệ đặc biệt này?             "Văn chương là một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế" Cơ sở kinh tế không quyết định trực tiếp mà nó phục vụ trở lại cơ sở bằng con đường gián tiếp. Vậy khâu trung gian đó là gì? Ðó là chính trị. Cơ sở kinh tế muốn ảnh hưởng đến văn chương phải thông qua chính trị và ngược lại văn chương muốn tác động vào kinh tế thì phải tác động vào chính trị. Bởi vì, tuy thuộc kiến trúc thượng tầng, do cơ sở kinh tế sinh ra, nhưng chính trị là sự thể hiện trực tiếp và tập trung nhất của yêu cầu kinh tế. Lênin đã chỉ rõ "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Vì thế, khi nói văn chương phục vụ kinh tế thì có nghĩa là văn chương phục vụ chính trị, phục vụ cho một hình thái ý thức mà ở đó là biểu hiện tập trung của kinh tế. Ngược lại, nói văn nghệ phục vụ chính trị thì tức là nó đã phục vụ kinh tế. Như thế, đã thừa nhận kinh tế quyết định văn chương thì đương nhiên phải thừa nhận chính trị quyết định tới văn chương - chính trị lãnh đạo văn nghệ.             Theo Lênin, chính trị là "tham gia công việc nhà nước, là chỉ đạo nhà nước, là xác định những hình thức, những nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước". Hiểu rộng ra, chính trị là biểu hiện những lợi ích căn bản của các giai cấp và quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, chính trị là sự thể hiện tập trung những đòi hỏi, những nhu cầu nguyện vọng của giai cấp nhân dân. nói khác đi, chính trị là tổng hóa những quan hệ và tư tưởng và tình cảm, tâm lí, tổ chức, thể hiện tập trung trong những quan hệ kinh tế, chính quye quốc gia dân tộc. Như thế, chính trị bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống của xã hội. Không có thành viên nào có thể đứng ngoài sự chi phối đó, không có lĩnh vực nào của đời sống lại không liên quan đến chính trị. Văn chương là một trong những hình thức của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, đương nhiên văn chương chịu sự chi phối của chính trị. Mặt khác, bản thân văn chương là một hình thức nhận thức, phản ánh xã hội, là sự thể hiện những tư tưởng tình cảm, ước mơ, nguyện vọng… của con người xã hội nên tất yếu nó gắn liền với chính trị.

13

Page 14: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Trong thực tế, văn chương nghệ thuật phục vụ chính trị dưới hai hình thái: hình thái tự phát vô ý thức và hình thái tự giác, có ý thức. Nghĩa là có loại văn nghệ phục vụ chính trị, đi theo một xu hướng chính trị nào đó một cách vô ý thức. Lại có loại văn nghệ phục vụ cho chính trị một cách tự giác có ý thức, "dùng cán bút làm đòn xoay chế độ". Hình thái này trong văn chương là phổ biến và ngày càng trở nên sâu sắc.             Trung thành với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx - lénine về văn nghệ và chính trị, Ðảng ta luôn luôn coi văn nghệ là một bộ phận không thể thiếu được, không thể tách rời của sự nghiệp cách mạng, và luôn luôn có chủ trương và chính sách đối với văn nghệ. Năm 1943, Ðề cương văn hóa của Ðảng ghi "mặt trận văn hóa là một trong 3 mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động". Năm 1951, trong thư gởi các họa sĩ, Hồ Chủ tịch khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em (văn nghệ sĩ) là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Năm 1957, trong bài nói chuyện tại Ðại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, thay mặt trung ương Ðảng, Trường Chinh xác định "Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị là chính trị lãnh đạo văn nghệ và văn nghệ phục vụ chính trị" và đồng chí giải thích: "Chính trị lãnh đạo văn nghệ là lãnh đạo về đường lối (bao gồm cả đường lối nghệ thuật) về phương châm, chính sách, tổ chức … Chứ không can thiệp vào những vấn đề cụ thể có tính chất quá chuyên môn. Chính trị lãnh đạo văn nghệ không phải bằng mệnh lệnh hành chính gò ép tình cảm và sự suy nghĩ … tìm tòi của văn nghệ sĩ cũng không phải bằng rập khuôn, san bằng sự sáng tác, mà phải thông qua sáng tác chủ quan của văn nghệ sĩ, tôn trọng tính chủ động và óc sáng tạo của văn nghệ sĩ: càng không phải ép văn nghệ sĩ nhai lại những khẩu hiệu chính trị một cách máy móc khô khan, gượng gạo, vụng về". Về phương diện văn nghệ phục vụ chính trị , đồng chí Trường Chinh chỉ rõ : "Văn nghệ phục vụ chính trị là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất tổ quốc, và phục vụ sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội".

                2. Văn nghệ với triết học. TOP

            Từ xa xưa, khi trình độ tư duy của con người còn đang thấp kém thì đời sống tinh thần của con người có hiện tượng "văn chiết bất phân". Ở phương Tây, trước đây, triết học được xem là khoa học của mọi khoa học. Nghĩa là nó bao gồm toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới, nó thay thế cho toàn bộ các khoa học. Nhưng dần dần nó nhờ sự tiến bộ của tri thức cụ thể của con người dẫn tới có sự phân ngành khoa học thì triết học không còn là khoa học của mọi khoa học. Nó trở thành khoa học độc lập.             Tuy vậy, ngay cả khi triết học trở thành một khoa học độc lập và văn chương trở thành một loại hình nghệ thuật độc lập thì giữa chúng vẫn tồn tại một quan hệ khăng khít. Triết học và văn chương là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở kinh tế quyết định. Marx : "Triết học không đứng ngoài thế giới" Bởi vì "các nhà triết học không phải mọc từ dưới đất lên như nấm, họ là con đẻ của thời đại họ, cả nhân dân nước họ, và những tinh hoa tốt đẹp nhất, quý báu nhất và khó trông thấy nhất của thời đại và của nhân dân nước họ, đều thể hiện trong tư tưởng triết học. Cái tinh thần đã xây dựng nên các hệ thống triết học trong bộ óc những nhà triết học, cũng là cái tinh thần đã xây dựng đường sắt với những bàn tay công nhân".             Cũng như văn chương, triết học là hình thái ý thức xã hội nhằm mục đích nhận thức thế giới, nhận thức, khám phá chân lí cuộc sống để cải tạo thế giới, cải tạo cuộc sống. Triết học chẳng qua là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới. Mặt khác, tác phẩm văn chương xuất sắc, đạt được tầm nhận thức và phản ảnh sâu sắc, có ý nghĩa khái quát cao về những vấn đề lớn, vấn đề chung của xã hội thì cũng có nghĩa đạt được những kết luận mang tính triết học, là những tư tưởng triết học. Tác phẩm văn chương chẳng qua là sự thể hiện qua một cơ cấu hình tượng nghệ thuật những quan điểm, quan niệm của nghệ sĩ về cuộc sống. Những quan điểm, quan niệm của nhà văn đó là những kết luận triết học. Nói đến triết học là nói đến thế giới quan và nhân sinh quan, tức là nói đến   ý thức tư tưởng. Nói đến văn chương là nói đến nghệ thuật miêu tả, phản ánh. Quan hệ giữa triết học và văn chương nghệ thuật là quan hệ giữa ý thức tư tưởng với nghệ thuật miêu tả, phản ánh. Nói đến triết học là nói đến vấn đề lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến vấn đề tình cảm.

14

Page 15: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tình cảm và lí trí là nhất trí. Lê Duẩn nói: "thường thường triết học giải quyết vấn đề lí trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm, cả hai đều phải nhất trí với nhau".             Triết học cung cấp cho văn chương lối nhìn cách nghĩ, cách rút ra những kết luận về hiện tượng và sự vật. Văn chương bằng tình cảm nêu lên được những vấn đề cuộc sống, con người, những mối quan hệ giữa người và người, giữa người với tự nhiên và văn chương đạt được tầm triết học. Những tư tưởng triết học thường có ý nghĩa chỉ đường cho văn chương, làm cơ sở tư tưởng cho văn chương, làm chỗ dựa tinh thần cho văn chương. Triết học Mác - Lênin là một khoa học chân chính đã thực sự soi đườngcho văn chương nghệ thuật. Các nghệ sĩ hiện thức xã hội chủ nghĩa được chủ nghĩa Mác - Lênin vũ trang cho nhận thức khách quan, chính xác các quy luật phát triển của thế giới. Những quy luật này giúp họ chẳng những đường hướng đi mà còn giúp họ vạch ra đúng đắn những gì quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong quá trình phát triển của thế giới, và chỉ giúp họ xử lí một cách đúng đắn những sự kiện những hiện tượng phức tạp trong đời sống. Triết học Mác - Lênin được các nghệ sĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa coi như là một vũ khí tư duy và tư tưởng. Với triết học Mác - Lênin, phương pháp nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu một bước ngoặc, một sự thay đổi về chất trong phương pháp nghệ thuật.             Triết học và văn chương gần gũi và ảnh hưởng lẫn nhau như vậy. Nhưng triết học là một khoa học, còn văn chương là một nghệ thuật. Những tác phẩm văn chương dù có tầm khái quát cao về cuộc sống đến đâu cũng chỉ đạt đến tầm nhận thức có tính chất triết học, chứ bản thân nó không phải và không thể trở thành tác phẩm triết họcvới tư cách là một khoa học. Ngược lại, các tác phẩm triết học dù viết có sinh động đến đâu cũng không trở thành một tác phẩm văn chương với tư cách là một nghệ thuật được. Sự khác nhau giữa triết học văn chương nghệ thuật là ở phương pháp khái quát chân lí cuộc sống và ở phương thức nhận thức và biểu hiện cuộc sống. Triết học dùng tư duy logic để nhận thức, nghiên cứu các hiện tượng đời sống và khái quát lại thành những quy luật, khái niệm. Văn chương nghiên cứu cuộc sống cũng đạt tới những nhận thức khái quát về hiện tượng cuộc sống, nhưng văn chương thể hiện nó dưới những hình tượng sinh động. Phương pháp biểu hiện của văn chương là phương pháp hình tượng hóa, điển hình hóa. Hình thức của nghệ thuật là "hình thức hình tượng" , ở nghệ thuật điển hình tồn tại trong cái cá biệt. Phương pháp biểu hiện trong triết học là phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa. Mọi hiện tượng ngẩu nhiên, cá biệt đều bị loại bỏ.             Có thể nói, quan hệ giữa triết học và văn chương là quan hệ giữa ý thức tư tưởng (đã được quy lại thành thế giới quan, nhân sinh quan) với nghệ thuật miêu tả, phản ánh.  

        3. Văn nghệ với khoa học TOP

            Khoa học và nghệ thuật là hai hình thức nhận thức cơ bản  của con người. hai hình thức đó không hề có mâu thuẫn, không hề đối lập, trái lại ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy vậy, những người chủ trương nghệ thuật thuần túy hoàn toàn bác bỏ ý kiến này, phủ nhận vai trò nhận thức của nghệ thuật. Chúng cho rằng thà gán nghệ thuật với bất cứ cái gì cũng được , trò chơi vô mục đích, không tư tưởng, biểu hiện cảm tính chứ không thể gán nghệ thuật với chân lí. Cái đẹp của nghệ thuật và chân lí khoa học là hoàn toàn thù địch nhau.             Trái hẳn với lí luận đó, Phạm Văn Ðồng khẳng định : "Văn chương nghệ thuật là công cụ hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tại xã hội. Nó là một khoa học. Người làm văn học nghệ thuật phải hiểu biết nhiều lắm. Nghệ thuật là một sự hiểu biết, khoa học là một sự hiểu biết, văn học là một sự hiểu biết, hiểu biết cao sâu lắm. Và đồng thời khám phá, sáng tạo. Hiểu biết sâu đến chừng nào, thì khám phá, sáng tạo, cao đến chừng ấy. Bởi vì, nó là một nghệ thuật, nó là khoa học". Khẳng định văn học là một khoa học là không hề đánh đồng khoa học với văn chương nghệ thuật, mà trái lại, đó là sự đánh giá hết sức đúng đắn bản chất nhận thức của văn chương nghệ thuật, là sự nhận chân khả năng to lớn của văn chương trong việc nhận thức và phản ánh đời sống, là sự khẳng định tính chất khoa học của văn chương trong quá trình nhận thức và phản ánh đời sống.             Nghệ thuật và khoa học không hế đối lập nhau. Trước hết là ở chỗ: chúng đều là những công cụ nhận thức hiện thực khách quan. Khoa học là hệ thống tri thức của con người về tự nhiên và xã hội. Mục đích của khoa học là phát hiện những quy luật khách quan của các hiện tượng và giải thích

15

Page 16: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

các hiện tượng đó. Như thế, khoa học và nghệ thuật thống nhất với nhau ở chỗ là phát hiện, nhận thức thế giới. Con người không chỉ sử dụng một hình thức nhận thức đơn nhất nào. Vì bản chất thế giới là vô cùng phức tạp, vô cùng vô tận. Nhưng có thể nói nghệ thuật là khoa học là 2 hình thức nhận thức cơ bản của con người. Với mục đích nhận thức bản chất thế giới, con người sử dụng công cụ nhận thức khoa học để hiểu biết nó, nắm bắt nó dưới dạng những công thức định lí, định luật, khái niệm … trừu tượng. Nhưng , cũng với mục đích nhận thức thế giới, con người sử dụng công cụ nhận thức nghệ thuật thì kết quả đạt được lại là những hình tượng nghệ thuật. Ở đây bản chất, quy luật của đời sống được phát hiện, tồn tại dưới dạng thức đời sống.             Nghệ thuật và khoa học không đối lập nhau còn là ở chỗ mục đích và tác dụng nhận thức của chúng. Cả khoa học và nghệ thuật đếu có mục đích là phát hiện ra những quy luật của thế giới, vũ trang cho con người những hiểu biết về thế giới để con người tiến hành cải tạo thế giới. Những người chủ trương nghệ thuật thuần tú, phủ nhận giá trị nhận thức của văn chương nghệ thuật, cho rằng: "Nếu nghệ thuật là một phương tiện để nhận thức thì nó thấp hơn nhiều so với hình học" (G. Maritin). Hoặc cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật sống và phát sinh không phải là hồi quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc ngôn ngữ khép kín trong bản thân nó". Nhưng thực tiễn nghệ thuật đã chứng tỏ rằng nó có thể cung cấp và thực sự cung cấp cho con người một nhận thức to lớn. Biélinski đã đánh giá: "Chỗ khác nhau giữa khoa học và nghệ thuật không phải là ở nội dung mà ở phương pháp sáng tạo ra nội dung". Nghệ thuật, mà đặc biệt là nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa, nó không phải là sự tái hiện giản đơn những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống mà sự phát hiện chân lí cuộc sống, sự khái quát, bộc lộ ý nghĩa bản chất cuộc sống. Cũng như khoa học, nghệ thuật không được phép dừng lại ở việc đúc kết, thống kê, hệ thống hóa máy móc vật liệu sống, cũng không chỉ nhằm mức độ chính xác có tính chất tài liệu mà chủ yếu ở chỗ nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm bằng cách lựa chọn có ý thức những nét bản chất nhất, những mặt điển hình của cuộc sống là khái quát hóa. Không có sự lựa chọn đó, thì tác phẩm nghệ thuật giỏi lắm chỉ tạo ra sự tương tự bên ngoài của chân lí chứ chưa đạt tới tính chân thực, trung thực. Nghệ thuật, vì vậy, không chỉ hiểu biết mà còn khám phá, phát hiện. Trong quá trình khái quát hóa cuộc sống, nghệ sĩ phải phát hiện một cách trung thực ý nghĩa chân chính của cuộc sống, làm cho những gì là tính chất, bản chất quy luật của đời sống đang bị che phủ trong sự rối bời, ngổn ngang của cái ngẩu nhiên, cá biệt, không bản chất được sáng tỏ.             Nghệ thuật và khoa học còn thống nhất với nhau ở tính cộng đồng về nhận thức luận, phản ánh luận và phương pháp của nó. Nghệ thuật không phải là một cuộc phiêu lưu của tâm hồn. Cũng như khoa học, nghệ thuật có phương pháp của nó. Ðó là phương pháp nghệ thuật - những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mĩ bao quát các mối quan hệ giữa nghệ sĩ và hiện thực trong quá trình nhận thức, phản ánh cuộc sống. Nghệ thuật và khoa học có tính cộng đồng về nhận thức luận và phản ánh luận duy vật biện chứng. Biện chứng của quá trình nhận thức là từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình đó đúng với cả nhận thức nghệ thuật.             Khoa học và nghệ thuật liên hệ với nhau còn ở chỗ chân lí khoa học thâm nhập sâu vào nội dung nghệ thuật một cách hữu cơ. Với tư cách là công cụ nhận thức cuộc sống, lúc này khoa học cũng nằm trong đối tượng của văn chương. Vì, khoa học cũng là cuộc sống. Những chân lí mà khoa học đã đạt được sẽ tạo điều kiện cho nhà văn phản ánh cuộc sống đúng đắn hơn, chính xác hơn. Những thành tựu và hiểu biết về tâm lí học , xã hội học … sẽ làm cho nhà văn phản ánh con người và cuộc sống đúng đắn hơn, sâu sắc hơn, và có dựa trên những chân lí khoa học đó, quá trình quan sát thế giới nội tâm của nhà văn mới chính xác và "phép biện chứng tâm hồn" sự phân tích, thể hiện tâm lí con người mới được phong phú đúng đắn và có tính thuye phục cao.             Hiện thực của thời đại ngày nay là hiện thực của thời đại khoa học kỹ thuật, văn chương phải lấy hiện thực đó làm trung tâm. Thi sĩ ngày nay không chỉ là thi sĩ của "cô hàng xóm" "dậu mùng tơi xanh rờn" của nông thôn cổ xưa. Nghệ sĩ ngày nay là nghệ sĩ của những người làm chủ nhà máy, công trường, bầu trời, mặt đất và biển cả. Hơn nữa, ngày nay có xu hướng xâm nhập của khoa học kỹ thuật vào các lĩnh vực khác của con người trong đó có nghệ thuật.             Dỉ nhiên, tất cả những điều trên không hề chứng tỏ sự đồng nhất của khoa học và nghệ thuật. Ngày nay có người lo ngại sự bành trướng của khoa học đối với nghệ thuật, làm cho nghệ thuật có nguy cơ tiêu diệt. Thực ra, khoa học phát triển chỉ có thể làm cho nghệ thuật phát triển mà

16

Page 17: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thôi. Vì nói đến khoa học là nói đến lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến tình cảm, thẩm mĩ. Con người càng văn minh thì tình cảm phát triển càng cao đẹp, ý thức thẩm mĩ càng phong phú, thời gian để thưởng thức cái đẹp càng dồi dào, vì vậy, nghệ thuật càng cần thiết cho cuộc sống.    

        4. Văn nghệ với đạo đức. TOP

            Nghệ thuật gắn bó với đạo đức tới mức được Gorky cho rằng: "luân lí là mĩ học của tương lai". Sự gắn bó này trước hết thể hiện ở chỗ: đạo đức là nội dung quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Con người được thể hiện, xác định trong các mối quan hệ mà chủ yếu là quan hệ xã hội - quan hệ giữa người này với người khác và giữa với xã hội. Trong quan hệ giữa người và người có quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là điều không thể thiếu được, thậm chí rất quan trọng và chủ yếu để tạo nên các tính cách. Phong thái đạo đức, cảm nghỉ đạo đức của nhân vật thường khi là một nguồn sức mạnh của nghệ thuật.             Ðạo đức là quy tắc sinh hoạt chung của xã hội và của hành vi con người, quy định nghĩa vụ của người này đối với người kia và đối với xã hội nói chung. Như thế, đạo đức là việc không thể thiếu được ở con người. Văn chương nghệ thuật miêu tả con người không thể không miêu tả nó trong quan hệ đạo đức, trong hành động đạo đức, trong lí tưởng đạo đức. Con người xã hội khác với con người phi xã hội và loài vật là ở chỗ đạo đức.             Ðạo đức là biểu hiện của lí tưởng thẩm mĩ. Nói đến nghệ thuật là nói đến ý nghĩa thẩm mĩ. Nhưng cái đẹp ở trong nghệ thuật trước hết là con người đẹp - những nhân vật lí tưởng - lí tưởng thẩm mĩ. Sẽ không phải là con người đẹp nếu người đó không bao giờ có đạo đức. Một tính cách mà về đạo đức là ác quỷ thì không thể đẹp được. Do đó, khi xây dựng các nhân vật lí tưởng, nhà văn không lấy việc miêu tả cái đẹp hình dáng làm mục đích mà lấy cái đẹp trong hành động , suy nghĩ mang phẩm chất đạo đức làm chính.             Ðạo đức là nội dung trọng yếu của văn chương xưa nay. Có thể khẳng định rằng lịch sử văn chương là lịch sử phong thái đạo đức của các tính cách. Từ xưa tới nay, nghệ thuật tường thuật về tính cách đạo đức của con người.             Nội dung đạo đức của tác phẩm là một phẩm chất của nghệ thuật. Người đọc đồng tình hay phản đối không chỉ với hành động đạo đức của nhân vật mà còn với cách thể hiện hành động đạo đức của nhân vật bởi nhà văn.             Tác phẩm nghệ thuật không chỉ tái hiện phạm vi đạo đức mà còn giải quyết những vấn đề đạo đức bằng cách khẳng định lí tưởng đạo đức. Người nghệ sĩ chân chính luôn luôn có khát vọng không chỉ tái hiện cuộc sống mà còn chỉ cho con người biết cuộc sống nào đáng sống.             Ðạo đức không chỉ là nhân tố thiết yếu của cái đẹp, mà bản thân cái đẹp cũng là một phương tiện giáo dục đạo đức cho con người.CHƯƠNG II:

QUAN HỆ GIỮA VĂN NGHỆ VÀ HIỆN THỰC      

I. PHẢN ÁNH HIỆN THỰC LÀ THUỘC TÍNH CỦA VĂN NGHỆ II. NHẬN THỨC VÀ BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG, TÌNH CẢM TRƯỚC HIỆN THỰC LÀ

PHẨM CHẤT CỦA VĂN NGHỆ. III. TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH CHÂN THỰC CỦA VĂN NGHỆ

1. Tính hiện thực 2. Tính chân thực

      I. PHẢN ÁNH HIỆN THỰC LÀ THUỘC TÍNH CỦA VĂN NGHỆ.            Ðứng ở góc độ nhận thức luận, phản ánh hiện thực là quy luật khách quan của văn nghệ. Cách giải quyết vấn đề cơ bản trong triết học - quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội

17

Page 18: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

và ý thức xã hội có ý nghĩa phương pháp luận cho việc tìm hiểucơ sở khách quan của vấn đề quan hệ giữa hiện thực và văn nghệ, trong mĩ học, trong lí luận văn nghệ.             Phản ánh luận Marx - Lénine khẳng định rằng: bản chất thế giới là vật chất, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào đầu óc con người. Lénine viết:             "Kết luận duy nhất của mọi người nhất định phải rút ra trong đời sống thực tiễn, kết luận mà chủ nghĩa duy vật lấy làm cơ sở cho nhận thức luận của mình một cách tự giác là: có những đối tượng, vật, vật thể tồn tại ở ngoài chúng ta, và cảm giác của chúng ta là hình ảnh thế giới ở ngoài chúng ta, và cảm giác của chúng ta là hình ảnh thế giới bên ngoài".             Triết học Marx - Lénine đã giải thích một cách đúng đắn, sâu sắc thuộc tính phản ánh của ý thức. ta biết rằng mọi vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Bộ óc con người là tổ chức cao nhất của vật chất, nó chẳng những mang thuộc tính phản ánh chung của vật chất mà nó còn là sự biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của đặc tính phản ánh. Ý thức con người chính là sản phẩm của bộ óc, tức ý thức con người là sự phản ánh thế giới vật chất của bộ óc. Tiếp xúc với thế giới vật chất bên ngoài, con người dùng các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác … các giác quan - những "khí quan" của bộ óc trực tiếp tiếp xúc với thế giới bên ngoài làm nảy sinh ra kinh nghiệm cảm giác. Không có vật thể bên ngoài thì không thể có cảm giác nảy sinh trong cơ thể con người. Chính nhờ có hiện thực khách quan và hiện thực đó phản ánh vào óc con người thông qua các giác quan nên người ta mới có kinh nghiệm cảm giác. Kinh nghiệm cảm giác là tài liệu để hình thành ý thức con người.             Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại là quan hệ giữa cái được phản ánh và cái phản ánh. Lénine viết : "cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chẳng qua là hình ảnh của thế giới bên ngoài, vả chăng, rõ ràng là không có cái được phản ánh thì không có sự phản ánh. Nhưng cái được phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh".             Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, bên cạnh các hình thái ý thức khác như triết học, khoa học, chính trị … Là một hình thái ý thức xã hội, văn chương, như mọi hình thái ý thức khác, phản ánh tồn tại xã hội.             Quan hệ giữa văn chương và hiện thực là một biểu hiện của quan hệ giữatư duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được phản ánh.             Như thế, hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, văn chương là một hình thái ý thức; một hình thức nhận thức; do đó, hiện thực đời sống là nguồn gốc của văn chương, là mảnh đất nuôi dưỡng văn chương, là chìa khóa để giải thích mọi hiện tượng , dù là phức tạp nhất của văn chương. Cũng chính từ cơ sở lí luận này mà chúng ta đã hiểu vì sao đối tượng của văn chương là hiện thực khách quan, là con người và đời sống xã hội.             Như thế, bất kỳ một nền văn chương nào cũng hình thành trên cơ sở một hiện thực xã hội nhất định; bất kỳ một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ của những vấn đề cuộc sống, bất kỳ một nhà văn nào cũng thoát thai từ một môi trường sống nhất định. Phản ánh hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn chương.

            Khẳng định văn nghệ phản ánh hiện thực, nhưng không được hiểu một cách hạn hẹp khái niệm "hiện thực" để rồi hiểu sự phản ánh hiện thực của văn chương như là sự tái hiện một cách giản đơn các hiện tượng, các sự kiện lịch sử - xã hội cụ thể nào đó. Cần hiểu "hiện thực" là bao gồm cả tự nhiên bao quanh con người, con người, cả môi trường xã hội, cả các quan điểm và học thuyết chính trị, xã hội, cả tư tưởng, tâm trạng … Trung tâm hiện thực là con người, nhưng nội dung hiện thực của tác phẩmchủ yếu không phải là ở các chi tiết xã hội, ở việc ghi chép mô tả cho nhiều các sự kiện, hoạt động bên ngoài con người. Hiện thực độc đáo của văn

18

Page 19: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nghệ là thế giới tinh thần, tình cảm, tâm lí của con người xã hội. Con người trung tâm của hiện thực là con người kết tinh của những quan hệ xã hội - "tổng hòa của những quan hệ xã hội" nhưng không phải là con người được trừu tượng hóa với những phẩm chất người nói chung mà là con người cá nhân, con người số phận. Việc yêu cầu sáng tác hay phân tích văn nghệ theo nguyên tắc nghề nghiệp kiểu "hình tượng người lính", "hình tượng người nông dân", "Hình tượng người phụ nữ", truyện nông nghiệp, tiểu thuyết sản xuất, truyện lâm nghiệp là một cách lãng quên  nhiệm vụ của nghệ thuật - Văn nghệ hướng mục đích chủ yếu vào việc thể hiện tâm trạng, tình cảm, quan điểm, tâm lí của những số phận.II. NHẬN THỨC VÀ BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG, TÌNH CẢM TRƯỚC HIỆN THỰC LÀ PHẨM CHẤT CỦA VĂN NGHỆ.

TOP

            Nói nghệ thuật phản ánh hiện thực là xác định cơ sở khách quan của nhận thực nghệ thuật. Nhưng sẽ sai lầm nếu xem phản ánh hiện thực như là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá văn nghệ. Ðứng ở góc độ mĩ học và lí luận nghệ thuật, văn nghệ không nhằm mục đích phản ánh cuộc sống mà là sự nhận thức, nghiền ngẫm về cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật là cả thế giới chủ quan của nghệ sĩ : tình cảm, tâm lí, tư tưởng, ước mơ, lí tưởng, cá tính, tài năng … Tác phẩm nghệ thuật là cách nhìn , cách đánh giá của nhà văn về cuộc sống, là sự khao khát công lí xã hội, là tiếng nói tâm tình, là lẽ ưu tư trước cuộc đời. Biélinski đã từng khẳng định: Tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống để mà miêu tả, không có sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó có cội nguồn từ trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó không phải là tiếng kêu đau khổ, một lời ca sung sướng, một câu hỏi đặt ra hay câu trả lời".             Giá trị nội dung của tác phẩm văn chương, trước hết, không phải ở sự chân thực các chi tiết, ở những sự kiện lịch sử - xã hội được mô tả chính xác, ở sự tái hiện máy móc các hiện tượng, tình huống cuộc sống hay sự chuyển dịch giản đơn những tư tưởng nào đấy sang ngôn ngữ nghệ thuật. Lénine lưu ý chúng ta câu nói sau đây của Feuerbach: "Nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực". Lénine thấy rõ sự vĩ đại của L.Tolstoi không phải chủ yếu ở chỗ nhà văn đã đưa ra được "những bức tranh vô song về đời sống Nga" mà trước hết là ở chỗ L.Tolstoi đã thể hiện được các tư tưởng tâm trạng, sự thay đổi quan điểm của quần chúng nhân dân Nga. Cũng cần hiểu trên tinh thần ấy ý kiến sau đây của Lénine về L.Tolstoi: "L.Tolstoi, tấm gương phản chiếu cách mạng Nga" và "nếu trước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thật sự vĩ đại thì thế nào trong tác phẩm của anh ta cũng phản ánh cho được vài ba khía cạnh của cuộc cách mạng". Lénine không nhằm đòi hỏi văn chương phải là những tấm gương phản chiếu đời sống. Bởi chính Lénine đã khẳng định rằng Tolstoi "không muốn nhìn ông ta nhắm mắt lại" trước hiện thực. Và như mọi người đều biết, trong các sáng tác nghệ thuật của L. Tolstoi không có sự phản ánh trực tiếp sự kiện cách mạng 1905 - 1907 ; nhà văn không xây dựng trên tài liệu này một tác phẩm đáng kể nào.             Nhà văn thông qua việc phản ánh thế giới khách quan để biểu hiện thế giới chủ quan của mình. Tác phẩm nghệ thuật là khát vọng thể hiện một quan niệm về chân lí đời sống, về cái "chân" "thiện" "mĩ" trong tự nhiên, xã hội, trong quan hệ giữa người với người và trong mỗi con người. Ðó là chân lí tác giả đã thể nghiệm, tác giả muốn bày tỏ, muốn trang trải, muốn thuyết phục mọi người. Thạch Sanh và Lí Thông là mặt phải và mặt trái của chân lí đạo đức : "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" mà tác giả của truyện nôm khuyết danh này muốn răn dạy chúng ta. Chân lí của tính cách Chí Phèo không phải ở chỗ Chí là con ác thú mà là ở chỗ con ác thú trong con người Chí Phèo đã chịu thất bại trước bản năng nhân tính tiềm tàng của chính Chí. Hiện thực đời sống trong tác phẩm nghệ thuật chan chứa cảm hứng Mácnh của nghệ sĩ. Nếu thơ là cây xanh thì, theo Bạch Cư Dị, gốc của thơ là tình cảm, (căn: tình, miêu: ngôn, hoa: thanh, thựa: nghĩa). Lê Quý Ðôn cũng xem tình là điều đầu tiên trong 3 điều chính: "Thơ có 3 điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự …" Tình cảm trong nghệ thuật phải là sự nồng cháy, sục sôi khẳng định điều thiện, phủ nhận điều ác, thiết tha với lẽ phải. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là viết về "Những điều trông thấy" với một tình cảm nhức nhối

19

Page 20: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

"đau đớn lòng". Ðiều đau đớn nhất đối với Nguyễn Du là thân phận của người phụ nữ trong xã hội vạn ác.             Nguyễn Du phải thét lên :                         Ðau đớn thay phận đàn bà.             Hồ Xuân Hương cũng đã nguyền rủa:                         Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.             Hiện thực trong tác phẩm bao giờ cũng được thể hiện theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định do những xung đột, mâu thuẫn trong đời sống gợi nên. Không phải ngẩu nhiên mà trong mĩ học có những phạm trù : đẹp và xấu, cao cả và thấp hèn, bi và hài … sự tồn tại những phạm trù đó trong mĩ học và nghệ thuật, chứng tỏ rằng nghệ sĩ bao giờ cũng có thiên hướng trong sáng tác. Kết thúc bài thơ "Ðời trước làm quan" Nguyễn Khuyến viết:                         Có tiền việc ấy mà xong nhỉ                         Ðời trước làm quan cũng thế a?             Dưới hình thức "ngâm vịnh" về chuyện ngày xửa ngày xưa ("đời trước"), Nguyễn Khuyến đã tỏ thái độ hết sức bất bình với bọn tham quan ô lại đồng thời.     III. TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH CHÂN THỰC CỦA VĂN NGHỆ

        1. Tính hiện thực. TOP

Phản ánh hiện thực là thuộc tính, còn biểu hiện trước hiện thực là phẩm chất của văn nghệ. Tương ứng với đặc tính đó của văn nghệ là tính hiện thực và tính chân thực của nó. tính hiện thực là khái niệm xác định cơ sở khách quan của nhận thức nghệ thuật, tính chân thực lại xác định cơ sở chủ quan của nhận thức nghệ thuật. Một bên (tính hiện thực) chỉ thuộc tính tất yếu, một bên (tính chân thực) chỉ phẩm chất, giá trị. Tác phẩm nào cũng có tính hiện thực vì bất kỳ tác phẩm nào cũng phản ánh hiện thực. Nhưng, không phải tác phẩm nào cũng có tính chân thực. Văn nghệ có chân thực hay không, không phải tùy thuộc vào đối tượng mà tùy thuộc vào chủ thể.

        2. Tính chân thực. TOP

Vậy tính chân thực là gì? Tính chân thực của văn nghệ không hề đồng nghĩa với việc phản ánh lập lại hiện thực, giống với tự nhiên, với "tính sự thực". Bởi vì, không phải mọi sự thực trong đời sống đều chân thực. Có những sự thực ngẫu nhiên, có những sự thực tất nhiên. Chỉ có sự thực trong sự vận động tất nhiên mới là cái chân thực của đời sống. Cho nên, tính chân thực của văn nghệ, trước hết, hàm nghĩa là sự phản ánh đúng đắn bản chất và quy luật đời sống. Nhưng đó mới là một phương diện của tính chân thực. Tính chân thực lịch sử (Tính chân thực lịch sử là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự phản ánh của văn chương với hiện thực đời sống). Tính chân thực của văn nghệ còn bao hàm một phương diện khác - Tính chân thực nghệ thuật. Tính chân thực nghệ thuật là thước đo giá trị chân thực của cảm xúc, sự đánh giá, bày tỏ thái độ của nghệ sĩ trước hiện thực, sự thể hiện bản lỉnh, nhân cách, cá tính độc đáo, tài năng sáng tạo của nghệ sĩ (Tính chân thực nghệ thuật là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn với yêu cầu tiếp thu của người thưởng thức). Như vậy, từ 2 phương diện trên,ta có thể xác định một cách đầy đủ khái niệm Tính chân thực của văn nghệ như sau: sự thống nhất giữa tính tất yếu và tự do sáng tạo của nghệ sĩ.             Tóm lại, cần phân biết tính hiện thực và tính chân thực trong văn nghệ để tránh thái độ dung tục hóa văn nghệ, coi thường cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, lãng quên nhiệm vụ, đặc trưng của văn nghệ. CHƯƠNG III:

TÍNH GIAI CẤP VÀ TÍNH NHÂN DÂN CỦA VĂN NGHỆ  

I. TÍNH GIAI CẤP CỦA VĂN NGHỆ

20

Page 21: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Tính giai cấp là thuộc tính tất yếu của văn nghệ trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp

2. Tính giai cấp của văn chương là một hiện tượng lịch sử phức tạp.     3. Văn chương là một vũ khí đấu tranh giai cấp. 4. Biểu hiện tính giai cấp trong tác phẩm văn chương.   5. Vài nét về tính Đảng trong văn chương

II. TÍNH NHÂN DÂN CỦA VĂN NGHỆ 1. Những quan niệm về tính nhân dân trong lịch sử 2. Tính nhân dân trong lí luận văn học mác - xít. 3. Tiêu chuẩn tính nhân dân trong tác phẩm văn chương.

III. QUAN HỆ GIỮA TÍNH GIAI CẤP VÀ TÍNH NHÂN DÂN, TÍNH ĐẢNG 1. Tính nhân dân và tính giai cấp 2. Tính nhân dân và tính Đảng

 

    I. TÍNH GIAI CẤP CỦA VĂN NGHỆ            Trong xã hội có giai cấp, bất kỳ một hiện tượng văn chương nghệ thuật nào cũng đều đề cập tới mặt này hay mặt khác, khía cạnh này hay khía cạnh khác, nông hay sâu, trực tiếp hay gián tiếp cuộc đấu tranh giai cấp của xã hội trên cơ sở lợi ích của một giai tầng nhất định mà người cầm bút đại diện. Ðặc điểm này của văn nghệ được gọi là tính giai cấp.        1. Tính giai cấp là thuộc tính tất yếu của văn nghệ trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh gai cấp.

a. Tính giai cấp của văn chương là gì?            Tổng hòa tất cả những đặc điểm về đề tài, chủ đề, tư tưởng, tình cảm cùng các biện pháp nghệ thuật thể hiện ý thức của một tầng lớp, một giai cấp xã hội nhất định trong văn nghệ là tính giai cấp của nó. Dù người nghệ sĩ cố ý hay không cố ý, muốn hay không muốn, bao giờ cũng sáng tạo nghệ thuật theo quan điểm của một giai tầng nhất định. Ta có thể thấy rõ điều đó khi đem đối chiếu tác phẩm của các tác giả thuộc các giai tầng khác nhau nhưng cùng viết về một đề tài. Chẳng hạn, cùng đề tài về chùa Trấn Bắc, nhưng thơ của bà Huyện Thanh Quan khác với thơ Ngô Ngọc Du về tư tưởng (bài chơi chùa Trấn Bắc và bài Ðàm ni thân thế khẩu thuật). Một bên là sự nuối tiếc, chua xót, một bên là hoan hỉ, vui mừng. Khi đi qua chùa Trấn Bắc, bà Huyện Thanh Quan nhìn thấy cảnh điêu tàn do Nguyễn Hữu Chỉnh phá phách, bà chạnh lòng nhớ tiếc nơi đã từng diễn ra những cuộc hoan lạc dưới thời Lê - Trịnh. Bà viết :

Trấn Bắc hành cung có dãi dầu Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau. … Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau Người xưa cảnh cũ, nào đau tả Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu                

            Trong khi đó, Ngô Ngọc Du lại vui mừng trước sự sụp đỗ của triều Lê - Trịnh, tác giả reo vui trước sự đổi dời mà không một chút nuối tiếc thời đã qua. Ðây là tiếng nói của một con người bị chà đạp đè nén, được đổi đời, được giải phóng:

Một sớm cửa tung, bừng ánh sáng Mọi người ùa tới dắt tay nhau Họ bảo: ngày nay đã đổi đời Trịnh bị diệt vong, Lê cũng tàn rồi Ðoạn trường rày hết kiếp oan trái.

21

Page 22: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Tính giai cấp của văn nghệ được biểu hiện trong tác phẩm rất đa dạng, nhiều màu sắc, cung bậc, đậm nhạt khác nhau. Ðó có thể là nói một cách xa xôi bóng gió thân phận quẩn quanh của kiếp người dân xưa:

Con kiến mà đeo cành đa Leo phải cành cụt leo ra, leo vào Con kiến mà leo cành đào Leo phải cành cụt leo vào leo ra.

            Hoặc thân phận người phụ nữ bị ràng buộc trong lễ giáo phong kiến khắc khe: Em như con hạc đầu đình Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay

            Hoặc đề cập trực tiếp tới vấn đề áp bức bóc lột giai cấp: Ðịa chủ và nông dân như trong truyện Tấm Cám, tiểu thuyết Tắt đèn, Bước đường cùng …             Hoặc đề cập đến một cách gay gắt, trực tiếp cuộc đấu tranh một mất một còn đối với kẻ thù giai cấp, dân tộc: Người mẹ cầm súng, Sống như Anh …             Văn nghệ nhân loại đã có thời kỳ, người sáng tác ra nó đã không có sự chế ước của hệ tư tưởng giai cấp này hay giai cấp khác và tác phẩm của họ cũng không nói tiếng nói của giai cấp nào cả. Ðó là thời kỳ xã hội chưa có giai cấp. Sau này, khi chủ nghĩa cộng sản đã trở thành hiện thực bao trùm lên toàn bộ trái đất thì văn nghệ cũng sẽ không còn biết đến tính giai cấp là gì. Nhưng trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã trở thành động lực của sự phát triển xã hội thì văn nghệ mang bản chất giai cấp là điều không tránh khỏi, dù sáng tác là của một em bé, dù nhân vật của một sáng tác nào đó là một em bé. Trần Ðăng Khoa có những bài thơ nổi tiếng , tuyệt hay về tư tưởng cũng như nghệ thuật từ lúc 7,8 tuổi. Những bài thơ thật ngây thơ nhưng thật già dặn:

Thằng Mĩ nó đến nước tôi Búp bê nó giết, mạng người nó tra Nó bắn các cụ mù lòa Nó giết cả bé chưa và được cơm.

            Nhân vật đứa bé đi ở phải bóp cổ giết chết đứa bé con nhà chủ để được ngủ trong chuyện Buồn ngủ của Chekhov phải chăng là phản ứng của bản năng giai cấp.

b. Vì sao trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp văn nghệ lại mang tính giai cấp?

Văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, chịu sự qui định của hạ tầng cơ sở, khi bản chất cơ sở là bản chất giai cấp thì văn chương nảy sinh trên cơ sở ấy tất yếu mang tính giai cấp.

Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác khẳng định văn chương là một hình thái ý thức xã hội, do cơ sở sinh ra và chịu sự qui định của nó. Trên một cơ sở kinh tế nhất định, nảy sinh một nền văn chương nhất định. Cơ sở kinh tế chẳng những quyết định sử nảy sinh mà phát triển của văn chương mà còn quyết định nội dung và tính chất của văn chương. Trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng - toàn bộ những quan hệ sản xuất - là quan hệ giữa các giai cấp về địa vị đối với hệ thống sản xuất xã hội đối với hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, về phương thức phân phối của cải. Nói cách khác, là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Văn chương nảy sinh trên cơ sở hạ tầng mang bản chất giai cấp đó tất yếu mang bản chất giai cấp - bản chất của cái đã sinh ra nó.

Ví dụ: khi xã hội mà mâu thuẫn giai cấp cơ bản là mâu thuẫn  giữa địa chủ và nông dân thì văn chương cũng xoay quanh mâu thuẫn đó (Tấm cám, Vợ chồng A Phủ, Tắt đèn). Khi xã hội chuyển sang chế độ tư bản - bản chất kinh tế là kinh tế hàng hóa, mâu thuẫn giai cấp cơ bản là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản thì văn chương xoay quanh vấn đề hàng hóa sức lao động, vấn đề nhân phẩm con người và tiền tài (Eugénie-Grandet, Người mẹ v.v…)

Mặt khác, văn chương là một hình thái ý thức xã hội, như các hình thái ý thức xã hội khác, có tác dụng phục vụ, duy trì, bảo vệ hạ tầng cơ sở; khi cơ sở mà nội dung trọng yếu của nó là đấu tranh giai cấp thì văn chương có nhiệm vụ phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp đó. Các giai cấp cầm quyền luôn luôn có ý thức sử dụng thượng tầng kiến trúc để duy trì lợi ích giai cấp mình. Văn

22

Page 23: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

chương là một trong những vũ khí lợi hại của giai cấp. Các giai cấp tận dụng triệt để sức mạnh của văn chương dùng nó làm vũ khí đấu tranh cho lợi ích giai cấp mình. Vì vậy mà văn chuơng là vũ khí đấu tranh giai cấp. Từ ngày xưa, Chu Ðôn Dy đã xem văn chương như là công cụ đằc lực truyền bá tư tưởng: văn dĩ tải đạo. Ngày nay, Bác Hồ khẳng định trực diện vũ khí đấu tranh giai cấp - văn chương rất đặc biệt này:Văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Ðứng ở góc độ nhận thức luận, phản ánh luận, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, văn chương là một hình thái ý thức nên nó phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội chủ yếu là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp thì văn chương - hình ảnh của tồn tại đó - tất yếu phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp. Phản ánh hiện thực là thuộc tính cơ bản của văn chương. Dù muốn hay không khi sáng tạo nghệ thuật, nghệ sĩ bao giờ cũng phàn ánh vào trong tác phẩm của mình thế này hay thế khác tồn tại xã hội, đời sống xã hội. Khi tồn tại xã hội là tồn tại mang bản chất giai cấp, văn chương phản ánh nó, tất yếu phản ánh các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp.

- Ðiều đặc biệt quan trọng là: tác phẩm văn chương là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, khi chủ thể nhận thức mang bản chất giai cấp thì sản phẩm ý thức của nó- tác phẩm văn chương tất yếu mang bản chất giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, nhà văn là con đẻ của một giai cấp nhất định. Lênin đã từng nói:không một người nào đang sồng mà lại có thể không đứng về một giai cấp này hay một giai cấp khác. Tác phẩm văn chương là ý thức, là tư tưởng, là hiện thực được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nghệ sỹ mang bản chất giai cấp, tất yếu mang tính giai cấp. Hơn thế, nhà văn là công dân giai cấp, đồng thời còn là người phát ngôn, đại biểu cho lợi ích giai cấp. Gorki đã từng khẳng định : Nhà văn là con mắt, là lỗ tai, là tiếng nói của một giai cấp". Vì thế, khi phản ánh hiện thực, sáng tạo nghệ thuật, nhà văn không thể không xất phát từ lập trường, từ quan điểm, từ nguyện vọng, từ lợi ích của giai cấp mình.

Tóm lại, Tính giai cấp là một tất yếu lịch sử.        2. Tính giai cấp của văn chương là một hiện tượng lịch sử phức tạp. TOP

a. Tính giai cấp của văn chương không thuần nhất, đơn nhất.Con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội. Các thành viên thuộc các giai cấp

trong xã hội luôn luôn đấu tranh, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau, các thành viên của từng giai cấp không ngừng thay đổi và chuyển hóa từ giai cấp này sang giai cấp khác. Vì vậy, tính giai cấp của con người là không thuần nhất. Văn chương là tinh thần, tư tưởng của con người, do đó, tính giai cấp của nó không thuần nhất, đơn nhất. Chẳng hạn, Nguyễn Du và Truyện Kiều của ông, những mâu thuẫn gay gắt trong thế giới quan của Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều.

Mỗi thời đại, giai cấp nào nắm quyền thống trị về vật chất thì đồng thời nắm quyền thống trị về tinh thần. Tư tưởng thống trị thời đại là tư tưởng giai cấp thống trị. Tư tưởng giai cấp bị trị không thể không bị ảnh hưởng, không thể không mang dấu ấn tư tưởng giai cấp thống trị. Văn chương là sản phẩm tư tưởng của kẻ bị thống trị không thể không bị pha tạp bởi tư tưởng giai cấp thống trị. Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến thống trị mà trong ca dao xưa - sáng tác của nhân dân lao động, có lúc biểu hiện tư tưởng bi quan, bất lực, cam chịu … thậm chí, ước muốn cao xa nhất cũng chỉ là ước muốn làm kẻ thống trị người khác.

b. Tính giai cấp của văn chương không phải bao giờ cũng mang những hình thức riêng biệt, sáng rõ.

Trong lịch sử văn chương, không hiếm những tác phẩm mang những hình thức giai cấp riêng biệt, sáng rõ, ca dao cổ là một ví dụ. Ca dao có câu:

Vì chưng bác mẹ tôi nghèo                         Cho nên tôi phải băm bèo, thái rau.

Ðây chỉ có thể là tiếng nói của nhân dân lao động nghèo khổ mà thôi - không nhầm lẫn vào đâu được. Những con người của tầng lớp phong kiến bóc lột không nói và không thể nói được vậy.

Phần lớn các tác phẩm văn chương ưu tú của quá khứ thì tính giai cấp của chúng lại thường khoác chiếc áo "nhân tính",nhân đạo chung chung, không mang màu sắc giai cấp, thời đại lịch sử cụ thể. Chẳng hạn : Tây Sương kí của Vương Thực Phủ, tác giả nêu lên lí tưởng là mong sao lứa đôi được thành gia thất. Trường hận ca của Bạch Cư Dị nêu lên lí tưởng tình yêu chung thủy.

23

Page 24: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

c. Tính giai cấp của tác phẩm không phải lúc nào cũng tương ứng với thành phần giai cấp của tác giả.

Sự phân hóa giai cấp diễn ra gay gắt trong cuộc đấu tranh giai cấp đã làm cho nhiều nhà văn vốn thuộc giai cấp này trở thành người phát ngôn cho giai cấp khác. Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tolstoi, balzac chẳng hạn. Do đó, thành phần giai cấp xuất thân của tác giả là một chuyện, còn khuynh hướng giai cấp toát ra từ thực tế hình tượng tác phẩm của anh ta lại là chuyện khác; có thể tương ứng, cũng có thể không, hoặc chỉ tương ứng một phần nào…

d. Tính giai cấp của tác phẩm không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan hay lời tuyên bố của nhà văn.

Tính giai cấp là khuynh hướng thực tế toát ra từ tác phẩm, cho nên, không nhất thiết là thống nhất với ý định hay lời tuyên bổ của nhà văn, có nhiều nhà văn tuyên bố mình đứng trên các giai cấp (siêu giai cấp) nhưng thực tế tác phẩm của họ phục vụ cho giai cấp tư sản, có nhà văn tuyên bố mình đứng về giai cấp vô sản nhưng thực tế tác phẩm của họ lại chống lại Ðảng, chống lại giai cấp vô sản.

Tóm lại, tính giai cấp của văn chương là một hiện tượng lịch sử phức tạp, nó là khuynh hướng khách quan của tác phẩm thể hiện mối liên hệ thực tế giữa văn chư giai cấp và đấu tranh giai cấp, thể hiện mối lợi ích lịch sử của các giai cấp trong xã hội. Cho nên, không thể đồng nhất tính giai cấp của tác phẩm với thành phần giai cấp của nhà văn, với tính giai cấp của nhân vật, với ý muốn chủ quan của tác giả, với hình thức biểu hiện của tác phẩm…        3. Văn chương là một vũ khí đấu tranh giai cấp.

TOP

Là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, văn chương có tác dụng năng động trở lại hạ tầng cơ sở, phục vụ cơ sở. Trong xã hội có giai cấp, văn chương phục vụ hạ tầng cơ sở, có nghĩa là phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp và tất yếu trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp.

Nhà văn sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật để thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của mình,tức là thể hiện những nhu cầu khát vọng và tư tưởng của một giai cấp nhất định. Trong tác phẩm, nhà văn bao giờ cũng miêu tả lí tưởng của mình thành ra cái đẹp và các hợp lí hơn cả, đáng noi theo và đúng hơn cả. Bà huyện Thanh Quan viết bài thơ Ðèo ngang với một tình cảm lạc hậu nhưng bà cho đó là tình cảm hợp lí nhất: Bà nhớ tiếc Triều Lê - Trịnh đã bị đánh đổ, Ðèo ngang là nơi chia cắt Trịnh - Nguyễn, lẽ ra việc được phá bỏ sự chia cắt, thống nhất giang san thành một mối thì vui mới phải, nhưng Bà huyện lại buồn tái tê.

Dù muốn hay không, qua tác phẩm của mình, nhà văn đã khuôn tư tưởng, tình cảm của người đọc theo kích thước, cung bậc của tư tưởng, tình cảm của mình, truyền cho người đọc sự cảm thụ thế giới theo phương thức cảm thụ của mình và phù hợp với lợi ích lịch sử của một giai cấp lịch sử nhất định. Trong ý nghĩa đó mà mọi tác phẩm văn chương mang tính giai cấp đều trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp. Cũng chính với ý nghĩa như vậy mà Gorki đã nói: "Nhà văn là lỗ tai, con mắt, tiếng nói của một giai cấp". Ðể bảo vệ quyền lợi của mình, giai cấp thống trị luôn luôn tìm cách làm cho tư tưởng, tình cảm của giai cấp mình trở thành tư tưởng, tình cảm thống trị thời đại. Giai cấp thống trị không từ bỏ một thủ đoạn nào (bạo lực, dụ dỗ, mua chuộc …), không từ bỏ một phương tiện nào (báo chí, xuất bản …) để tuyên truyền, giáo dục ý thức hệ của giai cấp mình. Cho nên, giai cấp thống trị luôn luôn có ý thức dùng văn nghệ làm vũ khí đấu tranh giai cấp, đào tạo ra một đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp phục vụ tích cực cho giai cấp mình, và sẵn sàng trấn áp, thủ tiêu nền văn nghệ đối lập. Ngược lại, nhân dân lao động và giai cấp bị trị bao giờ cũng dùng văn nghệ để chống lại ý thức hệ của giai cấp thống trị.

Bởi vậy, trong xã hội có giai cấp đối kháng "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận" (Bác Hồ). Trong mặt trận đó, diễn ra sự đấu tranh giữa cái tiến bộ vì lợi ích của nhân dân lao

24

Page 25: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

động với cái thoái bộ vì lợi ích của bọn thống trị bóc lột; giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái trưởng thành và cái mục nát. Những bức thư trao đổi giữa Phan Ðình Phùng và Hoàng Cao Khải, những bài thơ xướng họa của Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường, những bài bút chiến giữa Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc Kháng với Phạm Quỳnh, những bài bút chiến giữa Bùi Công Trừng, Hải Triều với những nhà văn "nghệ thuật vị nghệ thuật" … đều là sự phản ánh xung đột tư tưởng giai cấp trên lĩnh vực văn nghệ.        4. Biểu hiện tính giai cấp trong tác phẩm văn chương. TOP

Trong một tác phẩm, tính giai cấp không chỉ biểu hiện ở nội dung tư tưởng mà còn cả hình thức nghệ thuật. Ðể xác định tính giai cấp của tác phẩm ta phải xem xét nhiều mặt: đề tài, chủ đề, tư tưởng, hình tượng, ngôn ngữ … đồng thời tùy theo từng tác phẩm cụ thể mà có cách xem xét tính giai cấp khác nhau vì tính giai cấp của tác phẩm được biểu hiện ra một cách khác nhau tùy theo phương pháp sáng tác, phong cách, sức mạnh tình cảm giai cấp của từng nhà văn cụ thể.

-         Về đề tài. Ðứng trước hiện thực đời sống phong phú, muôn màu muôn vẻ nhà văn chọn lấy phạm vi

hiện thực nào để đưa vào tác phẩm, đương nhiên, tùy thuộc vào nhiều điều kiện chủ quan của tác giả trong có có vấn đề lập trường, quan điểm giai cấp. Chủ nghĩa cổ điển ở châu Âu thế kỷ XVII, các tác phẩm của nó được quy định nghiêm ngặt về nhiều mặt, trong đó có đề tài. Cuộc sống của ông Hoàng, bà Chúa chốn cung đình là loại đề tài "cao quí" , cuộc sống của con người thuộc đẳng cấp thứ ba là đề tài "thấp hèn". Các nhà văn của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với quan điểm nhân dân lao động là người làm chủ lịch sử thời đại mới đã hướng về đề tài cuộc sống lao động, chiến đấu, xây dựng của quần chúng lao động.

-         Tư tưởng chủ đề. Ðiều quan trọng là không phải chọn cái gì để miêu tả, mà quan trọng là ở chỗ miêu tả, lí giải

cái đã chọn như thế nào. Ở đây bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng giai cấp của tác giả, tác phẩm. Cùng viết về đề tài người phụ nữ nông dân nhưng cách nhìn nhận và lí giải số phận của họ đối với các nhà văn của chủ nghĩa hiện thực phê phán khác với các nhà văn của chủ nghĩa hiện thực XHCN. Ngô Tất Tố với lập trường tiểu tư sản tiến bộ một mặt ca ngợi những đức tính tốt đẹp của chị Dậu, nhưng mặt khác lại thấy một tương lai "tối như mực" của chị. Nguyễn Thi với lập trường giai cấp vô sản đã chẳng những nhìn thấy được những mặt bản chất tốt đẹp, truyền thống của người phụ nữ Việt Nam mà còn thấy được bản chất cách mạng của học. Hơn thế, tương lai của số phận người phụ nữ dưới ngòi bút Nguyễn Thi khác Ngô Tất Tố về căn bản. Nếu như chị Dậu thụ động, bất lực không có lối thoát trước bao nhiêu thế lực hắc ám, thì chị Út Tịch luôn luôn chủ động, vươn lên chiến thắng mọi kẻ thù để làm chủ cuộc sống và trở thành người anh hùng.

-         Về hình tượng. Hình tượng, đặc biệt, là hình tượng nhân vật, là nơi bộc lộ tập trung, rõ rệt tính giai cấp của

tác phẩm. Tính giai cấp của hình tượng nhân vật bộc lộ chủ yếu ở hành động, ở tư tưởng tình cảm của nhân vật. Phương diện này của hình tượng - phương diện nội dung, chúng ta đã đề cập ở phần tư tưởng chủ đề. Nhưng hình tượng là yếu tố nội dung mang tính chất hình thức. Tính giai cấp còn biểu lộ ở quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả.

Quan niệm nghệ thuật về người anh hùng thời đại của Nguyễn Du qua Từ Hải, khác với quan niệm nghệ thuật và người anh hùng của Trần Ðình Vân qua Nguyễn Văn Trỗi. Nhân vật trung tâm của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực phê phán và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là khác nhau. Nếu nhân vật trung tâm của chủ nghĩa hiện thực phê phán chủ yếu là phản diện thì nhân vật trung tâm của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là chính diện. Nếu nhân vật người lao động trong chủ nghĩa hiện thực phê phán là những con người nhỏ bé quẩn trong miếng cơm, manh áo sau lũy tre làng, thì người lao động của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là con người chính trị tham gia cuộc vận động lớn của lịch sử nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ

25

Page 26: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

người bóc lột người, xây dựng xã hội mới. Chính lập trường, quan niệm giai cấp bao gồm cả quan điểm thẩm mĩ của tác giả đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người - nhân vật của tác phẩm.

-         Về loại thể. Loại thể là một yếu tố của hình thức biểu hiện. Tính giai cấp biểu hiện qua loại thể thật khó

thấy. Nhưng không phải loại thể không bị chi phối bởi quan điểm giai cấp của người sáng tác. Các nhà văn của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa mở rộng cửa cho các loại thể trong sáng tác nhưng khước từ loại nghệ thuật cầu kỳ, bí hiểm tắc tị của nghệ thuật tư sản trong thời kỳ suy đồi, đồng thời cũng không xem là khuôn thước loại nghệ thuật có tính quy phạm với những quy định ngặt nghèo gò bó sáng tạo của nghệ thuật phong kiến.

-         Về ngôn ngữ. Ngôn ngữ thì không mang tính giai cấp. Nhưng khi tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật với tư

cách là ngôn từ - chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật thì nó mang màu sắc cá nhân, và do đó, mang khuynh hướng tư tưởng. Văn chương văn gian tiếng nói của người lao động, ngôn ngữ của nó giản dị, mộc mạc, trong sáng nhưng cũng điêu luyện. Văn chương của tầng lớp phong kiến thống trị, ngôn ngữ của nó mang đậm màu sắc khoa cử, khuôn phép do đó thường sáo mòn, thiếu tính đại chúng.

 

        5. Vài nét về tính đảng trong văn chương. TOP

Tính đảng cộng sản là nguyên tắc tối cao, là linh hồn của toàn bộ nền nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nhưng tính đảng nói chung lại là linh hồn của mọi nền văn nghệ. Bởi vì, tính đảng không gì khác hơn là sự biểu hiện tập trung nhất và cao nhất của tính giai cấp.

Xã hội phân chia giai cấp thì cá nhân con người trong xã hội đó bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định và mang bản chất giai cấp. Lênin viết: "Không có người nào sống lại có thể không đứng về phía giai cấp này hay giai cấp khác…" và quan điểm của mọi người bao giờ "tất yếu cũng xuất phát từ một môi trường xã hội nhất định, môi trường đó là vật liệu, là đối tượng đời sống tinh thần của cá nhân và được phản ánh vào ý nghĩ, tình cảm của cá nhân một cách tiêu cực hay tích cực, đại diện cho quyền lợi giai cấp xã hội này hay giai cấp xã hội khác". Lênin cũng chỉ rõ rằng: "Trong xã hội dựa vào sự phân chia giai cấp thì đến một mức độ phát triển nhất định của nó, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù địch nhất thiết sẽ trở thành cuộc đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh giữa các đảng phái là biểu hiện hoàn chỉnh, đầy đủ, rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị giữa các giai cấp". Ðấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới tổ chức đảng. Nếu như đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp thì tính đảng chính là biểu hiện tập trung nhất, cao nhất của tính giai cấp. Lênin nói: "Tính đảng nghiêm túc là người bạn đường và là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến cao độ". Là một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp trong xã hội, khi mà cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến cao độ, bản thân văn chương tự nó đã mang tính đảng - theo nghĩa rộng rãi nhất của nó. Nhưng do, giai cấp tư sản luôn luôn che đậy tính đảng trên mọi lĩnh vực, cho nên họ phủ nhận luôn tính đảng trong văn chương. Còn giai cấp vô sản chẳng những công khai thừa nhận tính đảng của văn chương mà còn đề ra yêu cầu và nguyên tắc tính đảng cho văn chương của mình. Do đó, trong thực tế, tính đảng trong văn chương thường được dùng để chỉ tính đảng cộng sản của văn chương. Vì vậy, tính đảng của văn chương là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn chương với giai cấp vô sản và đảng của nó.

Tóm lại: - Trong cơ cấu đời sống xã hội, văn chương là sản phẩm tinh thần của xã hội, "Xã hội thế

nào, văn nhgệ thế ấy". Bản chất xã hội quy định bản chất nghệ thuật. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, bản chất xã hội là bản chất giai cấp; văn chương là con đẻ của xã hội, tất yếu mang bản chất giai cấp. Tính giai cấp của văn chương, vì vậy, là một thuộc tính tất yếu.

- Văn chương mang tính giai cấp nên lịch sử văn chương trong xã hội có giai cấp còn là lịch sử đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn chương, là nhà văn là chiến sĩ trên mặt trận ấy.

- Tính giai cấp là một bản chất xã hội lịch sử của văn chương, do đó, không thể hiểu các hiện tượng nếu như không phân tích nội dung giai cấp của nó.  

26

Page 27: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

     II. TÍNH NHÂN DÂN CỦA VĂN NGHỆ            Trong xã hội có giai cấp, văn chương mang tính giai cấp. Như thế có nghĩa là văn chương của giai cấp tiến bộ thì mang tính giai cấp của giai cấp tiến bộ. Văn chương của giai cấp lạc hậu mang tính giai cấp của giai cấp lạc hậu. Ý nghĩa và tác dụng lịch sử của chúng, vì vậy, hoàn toàn khác nhau. Nó phục vụ cho từng giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp của mình ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng trong lịch sử văn chương nhân loại, chúng ta còn thấy có một hiện tượng khá phổ biến là khi thời đại đó qua đi, nhưng có những tác phẩm vẫn còn sống Máci và phát huy tác dụng tích cực đối với nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ðiều đó cho thấy rằng: Bên cạnh mối liên hệ với giai cấp thì văn chương còn có mối liên hệ lâu dài hơn, rộng lớn hơn, đó là mối liên hệ với quần chúng nhân dân - lực lượng sáng tạo nên lịch sử. Ðặc điểm này của văn chương được gọi là tính nhân dân. Tính nhân dân, vì vậy, là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân.

         1. Những quan niệm về tính nhân dân trong lịch sử

TOP

            Mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân là mối liên hệ sống còn của nghệ thuật. Ðã từ lâu, tính nhân dân được mĩ học cổ điển thừa nhận là một thuộc tính và là phẩm chất của văn chương, một tiêu chuẩn đánh giá về mặt nội dung - tư tưởng và hình thức - nghệ thuật. Tuy nhiên, về mặt lí luận, khái niệm tính nhân dân được đề cập một cách tập trung và có ý thức chỉ từ thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản (ở phương Tây) thế kỷ XVIII. Ở phương Ðông, chẳng hạn ở Trung Quốc, có thể khẳng định người đặt vấn đề quan hệ giữa văn chương với nhân dân một cách thiết tha và tương đối hoàn chỉnh là Bạch Cư Dị (772 - 846) ; Tính nhân dân là yếu tố quan trọng trong hệ thống lí luận thơ ca của ông. Trong tựa Tân nhạc phủ ông viết: Vị dân nhi tác, bất vi văn nhi tác. Quan niệm đó xác định rõ mục đích của nghệ thuật. Nghệ thuật vị nhân sinh chứ không phải nghệ thuật vị nghệ thuật.             Ở Việt Nam ta, tuy chưa khái quát trực diện lí luận tính nhân dân nhưng qua cách đặt vấn đề lấy dân làm gốc để cai trị nước và sáng tạo nghệ thuật thì cha ông ta gắn nghệ thuật với nhân dân.             Nguyễn Trãi đã từng hiểu sức mạnh của nhân dân : "Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân" và "việc nhân nghĩa cốt ở an dân". Ông đã nói với vua Thái Tông (tháng giêng năm Ðinh Tỵ - 1937) Khi vua giao cho ông thẩm định nhạc nhã: Ngày nay định ra lễ nhạc là phải thời lắm. Song không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc … Dám xin bệ hạ rũ lòng thương yêu và chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.             Nguyễn Du cũng đã "vị dân nhi tác" và học tập nhân dân để sáng tác, kết thúc truyện Kiều tác giả viết:

                        Lời quê chắp nhặt rông dài                                     Mua vui cũng được một vài trống canh.             Ðây là sự khiêm tốn, nhưng cũng bộc lộ quan điểm học tập nhân dân của ông. Ông đã đề cập một cách trực diện vấn đề này trong bài thơ chữ Hán Thanh minh ngẫu hứng                                     Thôn ca sơ học tang ma ngữ.             (Buổi đầu học tập lời ăn tiếng nói của những người dân trồng dâu, trồng gai).             Ở phương Tây những nhà khai sáng thế kỷ XVIII như Diderot, Lessing, Rausseau … đã nêu khái niệm tính nhân dân lần đầu tiên.             Didercot (1773 - 1784) (Pháp) đã đấu tranh chống lại văn nghệ có tính chất quý tộc của chủ nghĩa cổ điển (thế kỷ XVII) - một thứ nghệ thuật miêu tả cung đình với những ông Hoàng bà Chúa "những bậc đại trượng phu quốc gia" hoặc tìm chất liệu trong lịch sử cổ đại (Hy - La) của Corneille, Racine, Voltaire … ông chủ trương phải mở rộng diện phản ánh ra ngoài đường phố, chợ búa, miêu tả những con người bình thường thuộc "đẳng cấp thứ 3".

27

Page 28: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Rausseau (1712 - 1778) (Pháp) với quan niệm cần thiết phải dân chủ hóa nghệ thuật cả đối tượng miêu tả và người thưởng thức, ông mong muốn có một nền nghệ thuật mà nhân dân "vừa là khán giả vừa là diễn viên" trong một quốc gia tự do và bình đẳng.             Chịu ảnh hưởng của Mĩ học khai sáng, Mĩ học duy tâm cổ điển Ðức cũng quan tâm đến vấn đề tính nhân dân của nghệ thuật.             Hégél (1770 - 1831) trong Mĩ học đã cho rằng: "Nghệ thuật tồn tại không phải để cho một tập đoàn nhỏ bé sống thầm kín, không phải để cho một số người có học thức cao, mà nói chung để cho toàn thể nhân dân". Ðến mĩ học của các nhà dân chủ cách mạng Nga Biélinski, Tchernychevski, Dobrolioubov, tính nhân dân được nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.             Biélinski đã khẳng định tính nhân dân là tính chất của văn chương. Ông cho rằng tính nhân dân là "tiêu biểu cao nhất hiện nay, là hòn đá thử vàng xác định phẩm chất của mọi tác phẩm nghệ thuật, xác định sự bền vững của mọi vinh quang nghệ thuật".             Quan niệm về tính nhân dân của Biélinski cũng có một quá trình phát triển. Buổi đầu ông chưa thấy được sự khác nhau giữa tính nhân dân và tính dân tộc. Chẳng hạn ông thường gọi Puskin và Gogol là "các nhà thơ nhân dân" với hàm nghĩa sáng tác của họ mang tính độc đáo dân tộc. Hoặc cho rằng tính nhân dân không phải "ở việc sưu tầm những lời lẽ của những người muzic… mà ở trong nếp của trí tuệ Nga, ở trong cách nhìn các sự vật của người Nga".             Dobrolioubov đã không còn hiểu tính nhân dân là tính dân tộc như Biélinski nữa, mà là như là sự thể hiện trong văn chương những quan điểm của quần chúng nhân dân. Ông mong muốn thành lập một đảng nhân dân trong văn chương.             Nhìn chung, lí luận về tính nhân dân trước Marx đã có những đóng góp đáng kể. Ðặc biệt là đóng góp của mĩ học dân chủ cách mạng Nga (tính nhân dân là phẩm chất cao nhất của nghệ thuật; tính nhân dân đã được bắt đầu nhận thức với nội dung giai cấp). Tuy nhiên, Họ vẫn chưa đi đến một quan niệm hoàn toàn chính xác. Ðiều này chỉ có thể có được trong mĩ học và lí luận văn học Mácxít.             Mĩ học của các học giả tư sản, xét lại trong thời đại ngày nay đã chẳng những có một quan niệm về tính nhân dân khác với truyền thống tốt đẹp trên mà thậm chí còn rất phản động.             J. Ortega Y Gasset (Tây Ban Nha 1883 - 1955) nhà mĩ học tư sản phản động cho rằng, nền "nghệ thuật mới" đó là một nền nghệ thuật của một đẳng cấp mới, chứ không phải là nghệ thuật dân chủ. Lí do là vì nghệ thuật mới sẽ phân chia người ta ra thành 2 giai cấp, gồm những con người khác nhau: những kẻ am hiểu nghệ thuật và những kẻ không am hiểu nghệ thuật - tức là hạng nghệ sĩ và hạng không phải nghệ sĩ".             Như thế, theo Gasset, nghệ thuật có tính nhân dân là nghệ thuật lạc hậu, tầm thường.              Ở Nga, sau cách mạng tháng 10, cũng có những nhà lí luận xem tính nhân dân như là tính thấp kém của nghệ thuật. Levidov: "Người nông dân mang từ chợ về không phải là Biéliski và Gogol mà là sách hướng dẫn phổ thông gieo trồng lúa".

         2. Tính nhân dân trong lí luận văn học mác - xít.

TOP

            Xuất phát từ ý thức về vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử : quần chúng là người làm nên lịch sử, Mác, Aêng ghen - Lênin và những người mácxít đã xây dựng nên một quan niệm khoa học về "nhân dân" từ đó đặc cơ sở cho việc xây dựng một quan niệm và tính nhân dân trong văn chương một cách đúng đắn.             a. Cơ sở xác định tính nhân dân của văn chương.             Vấn đề tính nhân dân của văn chương đã được đặt ra khá lâu trong lịch sử. Nhưng không phải ngay từ đầu đã có một quan niệm đúng đắnvà khoa học. Và cho đến cả ngày nay nữa, không phải đã có sự thống nhất. Chẳng hạn có người cho rằng tính nhân dân là tính quần chúng, tính đại chúng. Nghĩa là tác phẩm viết ra phải được đại đa số dân chúng ưa thích. Với quan niệm này thì những tác phẩm viết bằng tiếng nước ngoài sẽ không có tính nhân dân. Vì nó không đại chúng. (ví dụ những tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Pháp của ta). Quan niệm này không thật đầy đủ.

28

Page 29: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Có người cho rằng tính nhân dân là tính dân tộc, đồng nhất tính nhân dân và tính dân tộc. Quan niệm này dẫn đến 2 trường hợp hoặc xem tính nhân dân là thuộc tính của văn chương (vì tính dân tộc vừa có ý nghĩa thuộc tính vừa có ý nghĩa phẩm chất) hoặc là phẩm chất văn chương. Quan niệm này dẫn đến chỗ thừa nhận có tính nhân dân cả ở những tác phẩm chống lại nhân dân (Vì những tác phẩm này ít nhiều có tính dân tộc. Chẳng hạn sáng tác của Phạm Quỳnh).             Trong thơ gửi Lassale phê bình vở kịch Prăngxơphôn Xíchkinhghen, ngày 18/5/1995, Engelx đã chỉ ra rằng tác phẩm có thể có tính dân tộc nhưng không có tính nhân dân : đó là "Vở kịch mà chủ đề cách diễn đạt đều rất đạt, thấy đều mang tính dân tộc Ðức".             Nhưng đồng thời Engelxs chỉ ra hạn chế của tác phẩm về nội dung mà chủ yếu là thiếu tính nhân dân : quan niệm sai lầm về đánh giá phong trào nông dân và dân nghèo thành thị.             Các nhà lí luận xét lại cho tính nhân dân là tính toàn dân, tức là toàn bộ dân chúng trên một lãnh thổ. Quan niệm này sai lầm ở chỗ tước bỏ nội dung giai cấp của tính nhân dân. Lẽ nào có một tác phẩm vừa thể hiện quyền lợi của tư sản vừa thể hiện quyền lợi của vô sản - của người bị áp bức và kẻ bị áp bức.             Có người lại không thừa nhận tính nhân dân, chỉ công nhận tính giai cấp. Quan niệm này quá cũ và sẽ không lí giải được sự trường tồn, vĩnh cửu của nghệ thuật ưu tú.             Những thiếu sót và sai lầm trên đây chủ yếu do xuất phát từ những quan niệm khác nhau về "nhân dân" (nhân dân là ai? Ai trong một dân tộc được gọi là nhân dân?) và về mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân (đó là mối liên hệ gì? Và liên hệ như thế nào?)

- Xác định khái niệm "nhân dân". Muốn biết tính nhân dân là gì thì trước hết phải hiểu nhân dân là ai. Ai trong xã hội được gọi là nhân dân. Chủ nghĩa Mác -Lênin đã xác định rõ điều này.             Nhân dân là người làm nên lịch sử.      Khi bàn về khái niệm nhân dân, Lênin viết : "Mác dùng khái niệm nhân dân là để đem những thành phần xác định có khả năng tiến hành cách mạng đến cùng liên kết thành một khối" và Lênin lưu ý : "Khi dùng khái niệm nhân dân, Mác không hề có ý đem khái niệm này xóa mờ ranh giới khác biệt giữa các giai cấp".             Như thế theo quan niệm học thuyết Mác - Lênin nhân dân không phải là những kẻ vai u thịt bắp, dốt nát … mà là những người làm nên lịch sử, là lực lượng cách mạng nhất. Vì :             Họ là người làm ra của cải vật chất cho xã hội - cơ sở tồn tại của xã hội. Ta biết rằng lịch sử phát triển xã hội là lịch sử đấu tranh để đi đến thay thế nhau giữa các phương thức sản xuất. Yếu tố quyết định nhất của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất. Và trong lực lượng sản xuất thì con người là yếu tố quan trọng nhất. Lênin đã từng xác nhận: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân là người lao động". Stalin cũng nhấn mạnh :             "Lịch sử phát triển của xã hội đồng thời là lịch sử của bản thân những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng lao động : họ là lực lượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và tiến hành sản xuất những của cải vật chất cần thiết cho sự sinh tồn xã hội".             Họ là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh của quần chúng lao động chống giai cấp thống trị phát triển đến một mức độ nào đó thì nổ ra cách mạng xã hội. Qua cuộc cách mạng đó, chế độ cũ bị xóa bỏ, chế độ mới ra đời. Chính trong lúc này quần chúng nhân dân nổi bật phi thường. Lênin: "Cách mạng xã hội là ngày hội của những người bị áp bức và bóc lột. Không lúc nào như trong thời kỳ cách mạng mà quần chúng nhân dân tỏ ra là người sáng tạo tích cực như thế trong việc xây dựng nên trật tự xã hội mới. Trong thời kỳ ấy, nhân dân có thể làm nên những sự việc kỳ diệu"…             Họ là những người sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Hồ Chủ tịch : "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo, nhưng quần chúng không những sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn sáng tạo nữa".             Gorki nói: Nhân dân không chỉ là lực lượng tạo nên mọi của cải vật chất, nhân dân còn là nguồn duy nhất và vô tận của mọi của cải tinh thần; về mặt thời gian, vẻ đẹp cũng như thiên về sáng tác, nhân dân là một nhà triết học và là một nhà thơ đầu tiên sáng tác nên mọi bài thơ vĩ đại mỗi vở kịch của quả đất mà vĩ đại nhất là lịch sử của nền văn hóa thế giới.

29

Page 30: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Như vậy: Theo học thuyết Mác-Lênin, nhân dân là một tập hợp của những lực lượng dân chúng cách mạng nhất, tiến bộ nhất có tác dụng sáng tạo và thúc đẩy lịch sử tiến lên.             Cần lưu ý ngay rằng:             - Khái niệm nhân dân bao hàm một nội dung giai cấp sâu sắc : người lao động, người làm nên lịch sử, đối lập với giai cấp ăn bám, bóc lột, cản trở lịch sử.             - Nhân dân là không thuần nhất và nhất trí trong nội bộ: nhân dân vẫn còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp nông dân chẳng hạn)             - Nhân dân là khái niệm có tính chất lịch sử. Nội dung của nó thay đổi theo sự phát triển của thời đại (khi chưa phân chia giai cấp thì "nhân dân" có nghĩa là "dân cư" "toàn dân" - bao gồm mọi người cư trú trên một lãnh thổ nhất định. Khi xã hội phân chia giai cấp thì "nhân dân"   là toàn thể bộ phận nhân dân lao động . Và trong một hoàn cảnh cụ thể nào đây nhân dân còn bao hàm cả tầng lớp thống trị tiến bộ.               - Xác định mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân:             Xác định mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân là một công việc vô cùng phức tạp, phong phú, bao gồm nhiều phương diện. Nó đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong khi nhìn nhận, vì bản thân "nhân dân" là một khái niệm có nội dung lịch sử.             Lênin đã vạch ra cho ta một cơ sở để xác định mối liên hệ đó.             "Nghệ thuật phải thuộc về nhân dân. Nó phải cắm rễ sâu xa trong quảng đại quần chúng lao động. nó phải được quần chúng hiểu và ưa thích. Nó phải thống nhất tình cảm, tư tưởng và ý chí của quần chúng lại là nâng họ lên".             Sau ý kiến của Lênin, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân như sau:             - Văn chương đó có từ quần chúng lao động mà ra hay không, có phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng hay không.             - Văn chương đó có trong sáng, giản dị phù hợp với và lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân hay không.

            - (Ðiều quan trọng hơn nữa), văn chương đó có tác dụng chiến đấu như thế nào với quần chúng nhân dân.             b. Khái niệm tính nhân dân của văn chương.  

TOP

            Từ những cơ sở trên ta đi đến một nhận định tổng quát về tính nhân dân của văn chương như sau:             Tổng hòa những đặc điểm về tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm văn chương, thể hiện những nhu cầu, khát vọng cách mạng, tiến bộ và lành mạnh của các giai cấp trong nhân dân chẳng những có ý nghĩa đối với tiến trình cách mạng đương thời mà còn có ý nghĩa đối với toàn bộ cuộc sống tinh thần phong phú của nhân loại được nhân loại yêu mến giữ gìn và lưu truyền.             Những điểm cần lưu ý khi xác định nội dung khái niệm tính nhân dân của văn chương :             - Trong ý nghĩa trực tiếp và cơ bản nhất thì tính nhân dân liên hệ sâu sắc với tính khuynh hướng, tính tư tưởng, giai cấp tiến bộ cách mạng của văn chương.             Trong tiến trình lịch sử, các giai cấp tiến bộ cách mạng, tiến hành đấu tranh giai cấp, làm cách mạng xã hội để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, thúc đẩy loài người tiến lên. Trong ý nghĩa đó, giai cấp đó là giai cấp cách mạng, tiến bộ. Văn chương có tính nhân dân là văn chương phải thể hiện cho được tính chất cách mạng tiến bộ.             Ví dụ: Hịch tướng sĩ tác giả chỉ đề cập đến lợi ích của tầng lớp quý tộc, kêu gọi bầy tôi đứng lên bảo vệ lợi ích của chủ.             Tuy nhiên Hịch tướng sĩ vẫn được đánh giá là Hịch cứu nước. Bởi vì lợi ích quý tộc lúc này đang thống nhất với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân dân lao động. Chống giặc ngoại xâm lúc này ngoài ý nghĩa báo thù cho chủ, cò có ý nghĩa bảo vệ tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc nhân dân, bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc của cá nhân những người chống giặc. Cho nên tính nhân dân của tác phẩm này thể hiện ở tính chất tiến bộ cách mạng của chủ nghĩa anh hùng phong kiến của

30

Page 31: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

giai cấp quý tộc thời Trần. Lúc này, họ cũng là một bộ phận của nhân dân; thậm chí họ là những thành viên ưu tú vì họ giữ vững được ngọn cờ dựng nước và giữ nước trong tay để tập hợp quần chúng nhân dân lao động.             Bình Ngô đại cáo, tính nhân dân thể hiện ở trong tính cách mang tiến bộ của tác phẩm. Chữ dân đã là sợi chỉ để xuyên suốt tác phẩm:             Nỗi đau của dân được đề cập một cách thống thiết:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ Nheo chóc thay kẻ góa bụa khốn cùng Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn Nặng thuế khóa sạch không dằm núi Kẻ bị bắt lên núi đãi cát tìm vàng Khốn nỗi rừng sâi nước độc Người bị bắt xuống biển dòng lưng mò trai Ngán thay cá mập thuồng luồng.

            Mục đích của cuộc chiến đấu là vì dân: Việc nhân nghĩa cốt ở an dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Lực lượng chiến đấu cũng là nhân dân.

            Tính nhân dân của tác phẩm nàythể hiện rõ nhất ở chữ "Dân". tính nhân dân và tính giai cấp cách mạng tiến bộ là thống nhất.vì giai cấp cách mạng lúc này thống nhất với nhân dân.             Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu, tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân lao động đóng vai trò lịch sử bảo vệ tổ quốc. Nhân dân mà đặc biệt là nông dân với vai trò lịch sử của họ đã được đề cập sâu sắc.             Như thế: Tính nhân dân ở tác phẩm ở trong tính cách mạng tiến bộ của tác phẩm. Ngược lại, những tác phẩm không có tính nhân dân là tác phẩm phản động, lạc hậu hoặc là những tác phẩm được sáng tác với mục đích có nhiều biểu hiện tâm tư cá nhân ích kỷ, thể hiện tư tưởng của nhóm người ăn trên ngồi trước. Hoặc có đề cập đến nhân dân thì với một thái độ trịch thượng khinh miệt, kênh kiệu, hoặc chống lại nhân dân một cách trực diện, hoặc gián tiếp.             Ví dụ: Trống mái  miêu tả tình yêu của Vọi, một nông dân quê mùa cục mịch lại si tình theo đuổi một tiểu thư một cách khinh miệt mỉa mai.             - Trong nghĩa mở rộng, tính nhân dân bao hàm mọi giá trị tư tưởng và nghệ thuật lành mạnh, có ý nghĩa đối với toàn bộ đời sống tinh thần của nhân dân.             Những tác phẩm miêu tả tình cảm gia đình: bố mẹ, anh em, vợ chồng, cha con, mẹ con, bà cháu … ; những tác phẩm tả cảnh thiên nhiên tuy nó không đề cập đến những tiến trình lịch sử cũng không đặt ra những vấn đề bức thiết của thời đại, những tác phẩm đó có một tình cảm lành mạnh, một nhân sinh quan lành mạnh, tiến bộ, vẫn có tính nhân dân. Chẳng hạn, ca dao tình yêu nam nữ:                                     - Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo                                        Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua

                        - Ðã yêu thì yêu cho chắc                                       Ðã trục trặc thì trục trặc cho luôn             Ca dao hôn nhân và gia đình:                                     - Con cò trắng bạch như vôi

                          Ai muốn làm lẽ cha tôi thì về                           Cha tôi chẳng đánh chẳng chê                           Mẹ tôi móc ruột lôi mề ăn gan                           Chồng ta áo rách ta thương                           Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

31

Page 32: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Hoặc đả phá lễ giáo phong kiến:                                       Mẹ ơi có muốn lấy chồng                                       Con ơi mẹ cũng một lòng như con.             Tính nhân dân còn bao hàm một nội dung: Mộc mạc mà sắc sảo, giản dị mà phong phú, hồn nhiên mà điêu luyện.             Mọi giátrị nghệ thuật chân chính đều bắt nguồn từ đời sống nhân dân, từ thị hiếu thẩm mĩ của nhân dân, nên bao giờ, cũng hồn nhiên, mộc mạc, giản dị nhưng phong phú tinh vi và điêu luyện.             Sự thống nhất của hai phương diện trên (giản dị, mộc mạc, hồn nhiên với phong phú, tinh vi, điêu luyện) là đặc điểm tiêu biểu của nghệ thuật có tính nhân dân. chính vì vậy mà những tác phẩm mang tính nhân dân sâu sắc bao giờ cũng có sự thống nhất giữa "phổ cập" và "nâng cao", giữa "bình dân" và "bác học". Ðó là những tác phẩm mà ai cũng có thể hiểu được. Từ người bình dân đến người uyên bác ai cũng thấy hay, thấy thấm thía, thích thú. "đó là những tác phẩm nói mãi không cùng" (Gớt) "tác phẩm khơi mãi không cạn" (Hoài Thanh). Những tác phẩm như thế chẳng những thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ hiện đại mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng nâng cao của những thế hệ sau. Nó tạo nên tính chất vĩnh hằng của nghệ thuật.             Truyện Kiều là ví dụ tiêu biểu. Nó là đỉnh cao của văn chương cổ điển dân tộc. Rất nhiều nhà nghiên cứ đã có nhiều công trình đồ sộ tìm hiểu cái hay cái đẹp của nó.             Nhưng gần đây một công trình mới của Phan Ngọc nghiên cứu về Truyện Kiều lại cho rằng tất cả các công trình của những người nghiên cứu trước đây đều giống nhau đó là đều chưa chỉ đúng cái hay cái đẹp của Truyện Kiều. Ðó là về phía những người uyên thâm, còn về phía những người bình dân thì người ta thích, yêu, hiểu Truyện Kiều đến mức đọc ngược được. Truyện Kiều có một điều thú vị là có những câu thơ không biết là Nguyễn Du đã mượn từ ca dao hay ca dao đã đi ra từ Truyện Kiều. Hiện tượng này cho thấy Truyện Kiều đã đạt được cái hồn nhiên mà điêu luyện, "bác học" mà "bình dân".             Truyện Kiều:                                     Vừng trăng ai xẻ làm đôi                                     Nữa in gối chiếc nữa soi dặm trường.             Ca dao:

                        Tiễn đưa một chén rượu nồng                                     Vừng trăng xẻ nữa tơ lòng dứt đôi.                                     Vừng trăng ai xẻ làm đôi

                        Ðường trường ai xẻ ngược xuôi hởi chàng.             Truyện Kiều:                                     Rắp mong treo ấn từ quan                                     Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua.             Ca dao:

                        Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo                                     Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua.             Truyệân Kiều:

                        Sầu đông càng lắc càng đầy                                     Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.             Ca dao:                                     Ai đi muôn dặm non sông

                        Ðể ai chứa chấp sầu đông vơi đầy.             Tính nhân dân của văn chương đối lập với tính chất lạc hậu, bảo thủ, phản động, với chủ nghĩa hình thức sơ lược, dung tục, tầm thường, cầu kỳ bí hiểm. Tính nhân dân luôn gắn với những truyền thống tốt đẹp và cao thượng như chủ nghĩa yêu nước,chủ nghĩa nhân đạo, tinh thần dân chủvà xã hội chủ nghĩa, gắn với truyền thống nghệ thuật ưu tú.

32

Page 33: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Nói một cách tổng quát tính nhân dân là tổng hòa những đặc trưng làm nên sức sống kỳ diệu và bất diệt của nghệ thuật.

        3. Tiêu chuẩn tính nhân dân trong tác phẩm văn chương.

TOP

            a. Nội dung tư tưởng            - Trước hết, một tác phẩm có tính nhân dân là một tác phẩm đề cập đến những hiện tượng, những tính cách, những vấn đề xã hội quan trọng có ý nghĩa đối với nhân dân (phạm vi vấn đề phản ánh).             Ðề tài có liên hệ đến tính nhân dân trong chừng mực nhất định. Vì, có những tác phẩm không trực tiếp phản ánh đời sống nhân dân nhưng vẫn có tính nhân dân và ngược lại.             Ví dụ: truyện nôm khuyết danh có tính nhân dân do trực tiếp miêu tả nhân dân, nhưng có loại tuy nói khá nhiều về nhân dân nhưng không có nhân dân (Lục xì…) .             Trong khi đó, có loại tác phẩm đề cập đến những người lớp trên, ít hoặc không trực tiếp nói đến nhân dân vẫn có tính nhân dân sâu sắc. Vì nó có nhận thức, một thái độ đúng đắn giữa đúng sai, nhân đạo và phản nhân đạo … (Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoàng Lê nhất thống chí)             Nhân tố cơ bản quyết định tính nhân dân của một tác phẩm văn chương không nhất thiết phải là đề tài về đời sống nhân dân mà chủ yếu là ở chỗ nó đề cập đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa đối với nhân dân.             - Cuộc sống hiện thực được miêu tả phản ánh theo quan điểm của nhân dân, dưới ánh sáng của những lí tưởng tiến bộ của thời đại (phương hướng và cách giải quyết vấn đề).             Chủ đề tư tưởng là vấn đề sống còn của tính nhân dân một tác phẩm.             Vấn đề được đưa ra trong tác phẩm phải được lí giải, giải quyết phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.              Truyện Kiều, số phận con người bé nhỏ trong xã hội được ca ngợi, trân trọng- thể hiện được ước muốn đạp đổ bất công.              Hịch tướng sĩ, Lập trường quan điểm tác giả là lập trường quan điểm thời đại.              Chinh phụ ngâm, là tiếng kêu oán ghét chiến tranh phi nghĩa dày xéo lên hạnh phúc nhân dân.             Về mặt nội dung, xét tính nhân dân của văn học không phải xét ở đề tài là chủ yếu , mà yếu tố cơ bản quyết định là ở chỗ chủ đề tư tưởng, ở những vấn đề xã hội đối với nhân dân, ở cách nêu lên và cách giải quyết vấn đề phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân dưới ánh sáng của nhân sinh quan lành mạnh, lí tưởng tiên tiến của thời đại.             b. Hình thức nghệ thuật             Tiêu chuẩn quan trọng về nghệ thuật là tính dân chủ của nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật "phải được quần chúng hiểu và ưa thích" (Lênin) Vì nghệ thuật là sự đồng cảm. Tố Hữu: "Thơ là điệu nhạc của tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Gorky: "Do sự hòa hợp, sự trùng lặp giữa kinh nghiệm nhà văn và kinh nghiệm của độc giả mà nảy sinh chân lí nghệ thuật".             Quan niệm này đối lập với loại quan niệm nghệ thuật chỉ để dành cho một số người có chọn lọc, được ưu đãi về mặt trí thức của J. Ortega Y Gasset.             Nghệ thuật có tính nhân dân là nghệ thuật vừa sâu sắc,trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Biélinski viết: "Tác phẩm có tính nhân dân dù nội dung lớn lao trọng yếu thế nào đối với mọi người vẫn dễ hiểu". J.danov nói: "Không phải hễ cứ dễ hiểu là thành thiên tài nhưng đã là tác phẩm thiên tài thì nhất định phải dễ hiểu, càng thiên tài bao nhiêu thì càng làm cho quần chúng nhân dân đông đảo dễ hiểu bấy nhiêu".             Nghệ thuật có tính nhân dân còn là nghệ thuật giản dị dễ hiểu nhưng phải sâu sắc và điêu luyện, không vì giản dị mà hạ thấp nghệ thuật. Hơn nữa giản dị là biểu hiện của nghệ thuật, "đẹp là ở cái giản dị" (Gorky).             Tóm lại: Tính dân chủ là đặc trưng của nghệ thuật có tính nhân dân, nghệ thuật đó phải có sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt: giản dị và tinh vi, điêu luyện. Những tác phẩm nghệ thuật như

33

Page 34: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thế chẳng những thỏa mãn nhu cầu hiện tại về mặt thẩm mĩ mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao của thế hệ sau. Nó tạo nên tính vĩnh cửu trong nghệ thuật.   III. QUAN HỆ GIỮA TÍNH NHÂN DÂN VÀ TÍNH GIAI CẤP, TÍNH ÐẢNG.

        1. Tính nhân dân và tính giai cấp. TOP

            Trong xã hội phân chia giai cấp, văn học bao giờ cũng mang tính giai cấp cụ thể. Nhưng tùy theo vị trí xã hội và vai trò lịch sử của các giai cấp, nền văn học vốn mang tính giai cấp ấy có ảnh hưởng tiêu cực, tích cực đến quá trình giải phóng nhân dân, quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân. Như thế, văn chương phục vụ cho giai cấp bóc lột duy trì tình trạng nghèo nàn của quần chúng là không có tính nhân dân. Chỉ có văn chương phản ánh được nguyện vọng, tâm tư tình cảm của nhân dân lao động, có ảnh hưởng tích cực đến quá trình giải phóng nhân dân thì mới có tính nhân dân.             Vậy: Tính nhân dân đối lập gay gắt với tính giai cấp lạc hậu, phản động và thống nhất với tính giai cấp tiến bộ cách mạng.

         2. Tính nhân dân và tính đảng. TOP

            Tính đảng cộng sản và tính nhân dân thống nhất với nhau trong thời đại chúng ta. Vì: tính đảng là tính giai cấp tiến bộ nhất, giác ngộ nhất trong nhân dân lao động. Hơn nữa đảng ta "ngoài lợi ích của nhân dân ra Ðảng ta không có một lợi ích nào khác" (Bác). Vì thế lấy tiêu chuẩn tính nhân dân để đánh giá các tác phẩm hiện nay thì nó đã bao hàm tính đảng rồi - tính đảng là biểu hiện cao độ của tính nhân dân (tiêu chuẩn tính nhân dân cao nhất mọi thời kỳ phải đo bằng lực lượng xã hội tiên tiến nhất thời kỳ đó).             Tuy nhiên, không thể đồng nhất tính nhân dân và tính đảng. Vì :       - Nền văn chương vô sản có kế thừa và sáng tạo, kế thừa là kế thừa tính nhân dân.             - Cách mạng có quy luật phát triển không đều, ở đâu giai cấp vô sản chưa nắm được chính quyền thì ở đó văn chương vô sản chưa ở mức quy mô, công khai hợp pháp, toàn dân. Cho nên, bên cạnh đó phải có nền văn chương hợp pháp.             - Hơn nữa đề ra tính đảng là đề ra một tiêu chuẩn cao nhất cho sáng tác để lưu ý, yêu cầu sáng tác.             Tóm lại             Tính nhân dân là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên sức sống lâu bền, phi thường và bất diệt của nghệ thuật, là niềm tự hào chân chính của các thế hệ nhà văn, chỉ có liên hệ một cách sâu xa, rộng lớn, lâu bền với nhân dân thì văn chương nghệ thuật mới được tồn tại và phát triển lành mạnh.             Chỉ có dưới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, với tính đảng vô sản, văn chương mới có điều kiện khắc phục những hạn chế của văn chương nhân dân quá khứ và phát triển mạnh mẽ, toàn diện tính nhân dân của mình.CHƯƠNG IV:

TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH QUỐC TẾ CỦA VĂN NGHỆ  

I. TÍNH DÂN TỘC LÀ GÌ, HAY XÁC ÐỊNH MỘT QUAN NIỆM ÐÚNG ÐẮN VỀ TÍNH DÂN TỘC.

1. Những quan niệm khác nhau về tính dân tộc. 2. Cơ sở để xác định tính dân tộc của văn nghệ. 3. Khái niệm về tính dân tộc của văn nghệ

II. BIỂU HIỆN TÍNH DÂN TỘC TRONG TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG 1. Nội dung tư tưởng 2. Hình thức nghệ thuật

III. TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH QUỐC TẾ CỦA VĂN CHƯƠNG IV. TÍNH DÂN TỘC VỚI TÍNH NHÂN DÂN, TÍNH GIAI CẤP

34

Page 35: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Tính dân tộc và tính nhân dân 2. Tính dân tộc và tính giai cấp

            Trong kho tàng văn chương nhân loại, ta thấy, mỗi dân tộc có một nền văn chương riêng, một truyền thống văn chương khác nhau, dễ dàng phân biệt văn chương dân tộc này với dân tộc khác. Cái làm nên sự phân biệt ấy chính là bản sắc dân tộc của văn chương. Nhưng đồng thời từ mỗi gương mặt đặc sắc, độc đáo của mình, văn chương các dân tộc đã tụ họp lại dưới mái nhà chung thế giới đã tạo ra khuôn mặt chung vừa đa dạng, vừa phong phú nhưng thống nhất của văn chương thế giới. Cái làm nên sự liên kết ấy lại là đặc tính quốc tế của văn chương.     I. TÍNH DÂN TỘC LÀ GÌ, HAY XÁC ÐỊNH MỘT QUAN NIỆM ÐÚNG ÐẮN VỀ TÍNH DÂN TỘC.        1. Những quan niệm khác nhau về tính dân tộc.            Trong lịch sử mĩ học và lí luận nghệ thuật nhân loại, vấn đề tính dân tộc không phải mới xuất hiện. Tuy vậy, cho đến nay bản thân câu hỏi tính dân tộc là gì thì vẫn chưa có kiến giải đúng đắn thống nhất, nghĩa là có rất nhiều cách lí giải khác nhau, quan niệm không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau.            a. Quan niệm tuyệt đối hóa tính đặc thù dân tộc Quan niệm này cho rằng những gì thật đặc biệt, riêng biệt chỉ có ở một dân tộc nào đó mới là tính dân tộc.             Việc tuyệt đối hóa các đặc thù dân tộc sẽ dẫn đến sai lầm:             - Bảo thủ, làm nghèo nàn nghệ thuật dân tộc (không chịu tiếp thu cái hay, cái đẹp của dân tộc khác).             - Nhấn mạnh mặt hình thức biểu hiện (không thấy được sự hòa quyện, xuyên thấm lẫn nhau của nội dung của hình thức trong nghệ thuật, xem nhẹ mặt nội dung của tính dân tộc).             - Không phân biệt được tốt xấu, đúng sai (vì cứ hễ là khác biệt).              b. Quan niệm tính dân tộc là tính nông dân Quan niệm này co rằng nghệ thuật do nông dân làm ra phục vụ cho nông dân thì nghệ thuật đó có tính dân tộc.             Ở những nước nông nghiệp như nước ta, nhân dân, đại bộ phận là nông dân thì "vấn đề dân tộc, cốt tử là vấn đề dân cày" (Lê Duẫn). Nhưng xem tính dân tộc chỉ là vấn đề văn nghệ phục vụ dân cày thì sẽ phạm những khuyết điểm sau đây:             - Phiến diện (bởi vì trong một dân tộc không thể chỉ có nông dân; nền văn nghệ phục vụ cho chiến đấu, phục vụ công nhân thì sao?)             - Nhấn mạnh mặt đề tài (đề tài không tự nó làm nên nội dung chân chính của tác phẩm; vẫn có thể có những tác phẩm viết về nông dân nhưng không có tính dân tộc chân chính).             - Thiếu quan điểm phát triển (Trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển, giai cấp công nhân đã và đang là giai cấp làm chủ lịch sử thì sao?)               c. Quan niệm tính dân tộc là tính hiện thực Quan niệm này xem tính dân tộc như là thuộc tính tất yếu của nghệ thuật.             Nếu tính dân tộc là thuộc tính tất yếu của nghệ thuật thì phải chăng mọi tác phẩm không phân biệt khuynh hướng, chất lượng đều có tính dân tộc. Bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào cũng nảy sinh trên một cơ sở hiện thực nhất định, tính hiện thực là thuộc tính tất yếu của nghệ thuật. Nhưng không thể nói bất kỳ tác phẩm nào cũng có tính dân tộc. Việc đánh đồng tính dân tộc và tính hiện thực dẫn đến sai lầm sau đây:             - Không phân biệt tính hiện thực và tính chân thực của nghệ thuật (Mọi tác phẩm đều phản ánh hiện thực, nhưng không phải mọi tác phẩm đều có giá trị như nhau).             - Không phân biệt chất lượng của tính dân tộc (một tác phẩm được xem là có tính dân tộc tức là đã bao hàm sự đánh giá, sự xác nhận về chất lượng, về giá trị).

35

Page 36: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            - Nhấn mạnh mặt đề tài, mặt khách quan của nhận thức nghệ thuật (chất lượng giá trị của nghệ thuật là tùy thuộc vào nghệ sĩ, vào thủ thể nhận thực).                d. Quan niệm tính dân tộc là tính toàn dân tộc Quan niệm này cho rằng những gì chung cho mọi giai cấp hoặc trên mọi giai cấp mới được xem là có tính dân tộc. Dân tộc là một cộng đồng người, nó bao gồm nhiều giai cấp. Nhưng tính dân tộc không thể và không phải là những gì chung cho mọi giai cấp, mọi người trên cùng một lãnh thổ. Khuynh hướng xem tính dân tộc là tính toàn dân tộc sẽ mắc phải sai lầm sau:             Tước bỏ nội dung giai cấp của vấn đề dân tộc.

         2. Cơ sở để xác định tính dân tộc của văn nghệ.

TOP

            a. Khái niệm "dân tộc"            Tính nhân dân là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn nghệ với nhân dân; Tính dân tộc sẽ là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn nghệ và dân tộc. Ðể xác định mối liên hệ đó, trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem "dân tộc" là gì.             Khái niệm dân tộc được Stalin định nghĩa như sau: "Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về đời sống kinh tế và trạng thái tâm lí biểu hiện trong một cộng đồng về văn hóa". Như vậy, tiêu biểu cho "dân tộc" là tính cộng đồng về những điều kiện sinh hoạt vật chất, lãnh thổ, đời sống kinh tế, cộng đồng về ngôn ngữ, cấu tạo tâm lí. Cần phân biệt dân tộc với chủng tộc. Chủng tộc là tập đoàn người mang tính sinh vật, có những đặc điểm sinh vật bên ngoài: màu da, nét mặt, hình thể, màu tóc… Còn dân tộc là một phạm trù xã hội. Cũng cần phân biệt dân tộc với bộ lạc, bộ lạc là một phạm trù nhân chủng chỉ có trong chế độ cộng sản nguyên thủy, còn dân tộc là một phạm trù lịch sử do những người thuộc nhiều chủng tộc, bộ lạc họp nhau lại mà thành. Ở nhiều nước Âu - Mĩ , dân tộc sinh ra trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế để xuất hiện dân tộc ở các nước này là việc thủ tiêu tình trạng phân tán phong kiến chủ nghĩa, củng cố những mối liên hệ kinh tế giữa các khu vực riêng lẽ trong nước, thống nhất các thị trường địa phương thành thị trường toàn quốc. Ở những nước như nước ta, không phải quan con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng như thế không có nghĩa là nước ta không hình thành dân tộc, mà trái lại, thậm chí ở nước ta, dân tộc hình thành rất sớm. "Ở Việt Nam, dân tộc hình thành từ khi lập nước, chứ không phải khi chủ nghĩa tư bản nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam" (Lê Duẩn). Ðiều kiện để dân tộc Việt Nam hình thành sớm là do các bộ lạc cần liên kết nhau lại để chống thiên tai, làm thủy lợi, để sản xuất lúa nước và để chống giặc ngoại xâm.             b. Ðặc trưng về văn hóa dân tộc

Cộng đồng về văn hóa là linh hồn của dân tộc. Nó là toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần, những văn minh vật chất và văn minh tinh thần do cộng đồng người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử : tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và lao động, học vấn, khoa học, giáo dục, văn nghệ … Mỗi một dân tộc có một cộng đồng văn hóa riêng mang những đặc trưng hết sức độc đáo.

            Nếu tính dân tộc của văn nghệ là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn nghệ với dân tộc thì đặc sắc đời sống văn hóa của dân tộc đã tạo ra bản sắc dân tộc cho văn nghệ.        3. Khái niệm về tính dân tộc của văn nghệ TOP

            Tính dân tộc của văn nghệ là tổng hóa những đặc sắc về nội dung và hình thức của sáng tác tạo nên gương mặt văn nghệ của dân tộc.             Tìm hiểu đặc điểm tính dân tộc cần lưu y ù những điểm sau đây:             a. Tính dân tộc là một phạm trù thẩm mĩ.             Những người phủ nhận hoặc coi nhẹ tính dân tộc của văn nghệ đã xem tính dân tộc chủ yếu là khái niệm chính trị, hoặc lẫn lộn tính dân tộc với tư cách làm một phạm trù xã hội, dân tộc học. Ở bình diện này, người ta không phân biệt sự tiêu cực hay tích cực, văn minh hay cổ sơ, miễn là

36

Page 37: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

những hiện tượng đặc thù có tính loại hình đặc trưng cho đời sống, phong tục tập quán khác biệt với các dân tộc khác. Hoặc có người tuy có nhìn nhận tính dân tộc như là lĩnh vực của nghệ thuật như nhấn mạnh một cách thiên lệch, xem vấn đề tính dân tộc của văn nghệ sĩ chỉ là vấn đề nội dung tư tưởng : "Vấn đề tính dân tộc chủ yếu là về tư tưởng tình cảm, nội dung của văn chương". Lại có nhìn nhận tính dân tộc của văn nghệ, chủ yếu là vấn đề hình thức: "Tính dân tộc thể hiện trước tiên ở ngôn ngữ, ngôn ngữ là một đặc trưng chủ yếu của tính dân tộc".             Thực ra, tính dân tộc của văn nghệ, phải được nhìn nhận như một phạm trù thẩm mĩ, phạm trù đó hòa quyện và xuyên thắm vào trong mọi yếu tố của văn chương từ nguồn gốc, đối tượng, nhiệm vụ, chức năng đến nội dung (cả ngôn ngữ, loại thể, thủ pháp, nghệ thuật …). Trong một tác phẩm tính dân tộc là tổng hòa những đặc điểm và nội dung và hình thức chứ không phải nằm ở một yếu tố nào.             Lâu nay, vẫn có tình trạng lấn cấn, lẫn lộn, nhập nhằng: hoặc cho rằng đại phàm, văn chương là dân tộc. Do đó, đã không lí giải nổi tính dân tộc của tác phẩm xấu và tác phẩm tốt. Hoặc, lại có ý kiến cho rằng những tác phẩm tốt mới là có tính dân tộc. Sự lẫn lộn, nhập nhằng đó là do không xem tính dân tộc như là một phạm trù thẩm mĩ. Thực ra, tính dân tộc là một phạm trù thẩm mĩ. Nó không chỉ là thuộc tính tất yếu của văn chương mà quan trọng là tiêu chuẩn đánh giá tư tưởng và nghệ thuật trong nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương. Do đó, tính dân tộc chủ yếu được nhìn nhận như một phạm trù giá trị. Nghĩa là khi nói đến tính dân tộc là nói đến phẩm chất, nói đến sự kết tinh những bản sắc độc đáo của một dân tộc.             Do đó, cần minh định hai bình diện sau đây của tính dân tộc :             - Bình diện thuộc tính: Ðứng ở góc độ tổng quát thì tính dân tộc là thuộc tính tất yếu của văn chương. Nghĩa là "Văn chương nghệ thuật là dân tộc" (Phạm Văn Ðồng). Ðứng ở bình diện này thì bất kỳ tác phẩm văn chương nào cũng có tính dân tộc. Dù muốn hay không tác phẩm của bất kỳ nhà văn nào cũng mang đặc điểm dân tộc ở một mức độ nhất định. Bởi vì: văn chương phản ánh hiện thực, mà hiện thực nào cũng nằm trong một dạng thái dân tộc nhất định. Vì vì, tác phẩm văn chương là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Chủ thể nhận thức nào cũng sinh ra và lớn lên trong một môi trường dân tộc nhất định. Chẳng hạn, tác phẩm của những nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam và các nhà văn tự lực văn đoàn đều có thuộc tính dân tộc. Mặc dù khác nhau về khuynh hướng tư tưởng nhưng họ cũng viết về một hiện thực, cũng dùng ngôn ngữ Việt Nam, cũng là người Việt Nam. Thuộc tính dân tộc của các hiện tượng đời sống của đối tượng, của ngôn ngữ, của tác giả … đã tạo nên thuộc tính dân tộc của sáng tác.             - Bình diện phẩm chất: Tác phẩm văn chương nào cũng có thuộc tính dân tộc. Nhưng không phải tác phẩm nào chất lượng tính dân tộc cũng giống nhau. Thường khi, chúng ta nói đến tác phẩm này đậm đà tính đấu tranh, tác phẩm nọ rất dân tộc, có nghĩa chúng ta đã đánh giá tác phẩm. Tức là chúng ta xác định giá trị của văn chương. Khái niệm tính dân tộc lúc này có nghĩa là tính dân tộc chân chính. Tác phẩm mang tính dân tộc chân chính là tác phẩm phản ánh sâu sắc, sinh động cuộc sống của nhân dân, dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng giai cấp tiến bộ, cách mạng của thời đại trong những hình thức và thủ pháp nghệ thuật độc đáo đặc sắc thấm nhuần đặc trưng văn hóa dân tộc, tính cách dân tộc, tâm hồn dân tộc.            b. Tính dân tộc là một phạm trù mang tính lịch sử             Tính dân tộc của văn nghệ là một phạm trù thẩm mĩ mang tính lịch sử. Nó gắn liền với những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Do đó, mà nó biến đổi không ngừng. Tính dân tộc không phải là một hệ thống khép kín những yếu tố nhất thành bất biến nào đó. Mà ngược lại, nó gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể và biến đổi, phát triển không ngừng. Do những điều kiện lịch sử - xã hội mà qua từng thời kỳ lịch sử tính dân tộc mang một nội dung không giống nhau.             "Mọi vật đều thay đổi … Ðời sống thay đổi và cùng với nó "vấn đề dân tộc" cũng thay đổi theo. Trong các thời kỳ khác nhau thì có những giai cấp khác nhau xuất hiện trên vũ đài đấu tranh, và mỗi giai cấp đều hiểu "vấn đề dân tộc" theo quan điểm riêng của mình. Do đó, trong những thời kỳ khác nhau, "vấn đề dân tộc" phục vụ cho những lợi ích khác nhau, mang những sắc thái khác nhau tùy theo từng thời kỳ và tùy theo giai cấp đề xuất ra nó" (Stalin). Ta có thể thấy sự thay đổi đó qua một vì dụ sau đây. Lòng thủy chung là một truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam. Lòng thủy chung trước hết là thủy chung với Tổ quốc, với dân tộc. Tuy vậy, lòng thủy chung đó được các

37

Page 38: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thời đại lịch sử hiểu qua chữ "trung" một cách khác nhau. Giai cấp phong kiến thống trị hiểu Trung là "trung quân, ái quốc". Nhưng Trung được hiểu theo nội dung trung một cách mù quán: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Ðối với thời đại chúng ta "Trung" là "trung với nước, hiếu với dân"      II. BIỂU HIỆN TÍNH DÂN TỘC TRONG TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG

        1. Nội dung tư tưởng TOP

            Trong một tác phẩm văn chương, tính dân tộc xuyên thắm vào mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức.             a. Ðề tài             Phạm vi hiện thực để từ đó nhà văn khái quát nên tác phẩm góp phần quan trọng thể hiện tính dân tộc của tác phẩm văn chương. Bởi vì, tác phẩm văn chương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố: chủ thể và khách thể - là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Giữa hai yếu tố đó, yếu tố khách thể, yếu tố thế giới khách quan, yếu tổ hiện thực là yếu tố đầu tiên tạo tiền đề cho tác phẩm văn chương. Yếu tố đó, phạm vi hiện thực đó tồn tại một cách cụ thể lịch sử trong từng dân tộc một. Nói cách khác hiện thực đời sống là hiện thực của từng dân tộc nhất định. Không có hiện thực chung chung, trừu tượng cho mọi dân tộc. Bởi vậy, tự trong bản thân đề tài đã hàm chứa yếu tố dân tộc. Do đó, tác phẩm văn chương phản ánh đời sống dân tộc thì tác phẩm đó đã mang tính dân tộc. Biélinski viết : "Cuộc sống của bất cứ dân tộc nào cũng hiện ra dưới hình thái của bản thân nó và duy nhất thuộc về nó mà thôi. Do đó mà nếu được miêu tả cuộc sống chân thực thì nó cũng có tính dân tộc". Ðề tài dân tộc gồm 3 yếu tố chính. Những hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người. Những hiện tượng tự nhiên bao gồm: Ðiều kiện địa lí, phong cảnh thiên nhiên, môi trường tự nhiên của từng dân tộc khác nhau sẽ để lại dấu ấn khác nhau trong tác phẩm văn chương. Môi trường xã hội đó là những quan hệ xã hội, những sự kiện lịch sử - xã hội của dân tộc, những hiện tượng kinh tế - chính trị, văn hóa xã hội diễn ra trong đời sống dân tộc. Môi trường xã hội là nội dung chính của đề tài sẽ để lại dấu ấn đặc biệt rõ trong tác phẩm nghệ thuật. Trung tâm hiện thực là con người. Con người là sản phẩm của lịch sử xã hội. Nó là nơi thể hiện tập trung của đặc trưng dân tộc. Tác phẩm nghệ thuật ấy lấy con người làm đối tượng chủ yếu do đó mà nó mang tính dân tộc. Biélinski đã nói rất chí lí rằng: "Mỗi một nhân vật phải gắn với một dân tộc nhất định, một thời đại nhất định, vì con người không có tính dân tộc thì không phải là con người thực sự mà là một khái niệm trừu tượng.              b. Tư tưởng chủ đề             Ðiều cần lưu ý là: đề tài dân tộc thật là quan trọng. Nhưng tự nó không có khả năng làm nên tính dân tộc chân chính, tính dân tộc phẩm chất. Vấn đề là ở chỗ tùy thuộc vào cách khai thác đề tài của nhà văn. Bọn nhà văn thực dân bồi bút trước đây đã từng khai thác nhiều hiện thực Việt Nam nhưng đã xuyên tác nó. Người dân Việt Nam được khai thác như là người "dân bản xứ man rợ". Gorky đã lưu ý: "Tính dân tộc chân chính không phải là ở chỗ miêu tả cái ao xaraphan mà ở ngay trong tinh thần dân tộc. Nhà thơ vẫn có thể là nhà thơ dân tộc ngay cả khi ông ta miêu tả một thế giới hoàn toàn xa lạ, nhưng nhìn nó bằng con mắt của dân tộc mình, nhân dân mình, cảm thấy và phát biểu theo lời của đồng bào mình cảm thấy và phát biểu". Cho nên, yếu tố chính tạo nên tính dân tộc trong tác phẩm, về nội dung, không phải là những cảnh tượng sinh hoạt địa phương, sắc thái địa phương, mà nói như Puskin là "những điển hình về tư tưởng tình cảm". " điển hình về tư tưởng tình cảm", "tinh thần dân tộc" là nội dung quan trọng của chủ đề tư tưởng. Trong một tác phẩm nhân tố quyết định tính dân tộc là ở tư tưởng chủ đề. Nền văn nghệ Việt Nam, muốn có tính dân tộc Việt nam, về chủ đề tư tưởng phải đạt cho được việc phản ánh hiện thực và lí giải cuộc sống theo tinh thần dân tộc Việt Nam:             - Lòng yêu nước thương nòi, ý chí "không có gì  quý hơn độc lập tự do".             - Ðạo lí Việt Nam: Lòng thủy chung ; lòng nhân nghĩa, tình yêu thương; ý thức cộng đồng.

         2. Hình thức nghệ thuật TOP

            a. Hình tượng

38

Page 39: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tính dân tộc được thể hiện tập trung ở hình tượng. Ở đó tính dân tộc được bộc lộ ở tính cách, tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ, đồng thời còn được bộc lộ qua diện mạo, y   phục, hành động, động tác, cử chỉ …             Nói về tình mẹ con, ca dao ta có câu:                         Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa                         Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.             Ðây là câu ca dao khá đặc sắc về tính dân tộc. Nó bộc lộ tư tưởng, tâm hồn Việt Nam qua hình ảnh và phong tục, tập quán, sinh hoạt người Việt Nam. Nghĩ về mẹ, nhớ về công lao của mẹ thường người ta vẫn nói đến những giọt sữa ngọt ngào, hay những lời ru êm ái … Nhưng ở đây tác giả bình dân nhớ mẹ qua hành động chăm nuôi con của mẹ rất đặc biệt :nuôi bằng cơm nhai. Có lẽ khó có dân tộc nào có cách nuôi con độc đáo như vậy. Người mẹ mớm từng miếng cơm nhai cho con không những tiếp cho con sự sống mà còn truyền cho con tình cảm. Ðộng tác miệng thì "nhai cơm" còn lưỡi thì "lừa" tìm xương cá trong miệng vừa biểu thị sự nhẫn nại, cần mẫn, sự chăm chút, tình thương yêu con hết mực của người mẹ vừa biểu thị tình yêu thương mẹ sâu thẳm của người con - vì động tác đó để lại dấu ấn sâu sắc nhất trong đời người con.             Xây dựng tình cảm nhân vật Núp trong Ðất nước đứng lên, Nguyên Ngọc đã đạt được thành công xuất sắc trong việc thể hiện đặc trưng dân tộc. Cái độc đáo ở Núp không phải chủ yếu ở cách ăn mặc, nói năng, suy nghĩ. Nhưng ngay ở đây Nguyên Ngọc đã có công gây ấn tượng đầu tiên trực tiếp cho người đọc về nếp sống, phong tục một tộc người của dân tộc Việt Nam. Ðộc đáo hơn ở Núp là tình thương yêu dân bản hết mực lòng căm thù giặc một cách sâu sắc và ý chí "không có gì quý hơn độc lập tự do…"             b. Ngôn ngữ

Về hình thức, tính dân tộc thể hiện rõ nhất ở ngôn từ. Vì ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn chương, chất liệu duy nhất để xây dựng hình tượng. Ngôn ngữ dân tộc thể hiện sâu sắc và vững bền đặc điểm về tư duy, cảm thụ, tâm lí … Do đó mà nó là công cụ để khắc họa tính cách dân tộc, miêu tả cảnh sắc, phong tục tập quán sinh hoạt của dân tộc. Vốn từ vựng phong phú và giàu có của tiếng nói dân tộc bộc lộ trong nguyên tắc miêu tả và đặc trưng lời của tác phẩm, cú pháp của ngôn ngữ dân tộc quy định các kiểu giọng điệu trong văn xuôi và thơ, tổ chức ngữ âm của các từ tạo ra vẻ độc đáo về hòa thanh và tính nhạc của văn thơ.             Ngôn ngữ dân tộc ta là một thứ ngôn ngữ hay và đẹp. Các nghệ sĩ ngôn từ Việt Nam đã may mắn được thừa hưởng chất liệu tuyệt hảo này để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ dân tộc ta là ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm thanh nhạc điệu, trong sáng, phong phú … các nghệ sĩ sẽ có cơ hội để chọn lọc sử dụng ngôn ngữ sao cho diễn đạt được tư tưởng sâu sắc, tình cảm thắm thiết.             - Ðặc tính giàu hình ảnh của ngôn ngữ dân tộc là điều kiện hết sức thuận lợi để nhà văn, nhà thơ tạo nên tính tạo hình của hình tượng. Một trong những đặc điểm thơ Việt Nam là "thi trung hữu họa". Cái "hữu họa" đó có được là nhờ tính hình ảnh của ngôn ngữ Việt Nam. Truyện Kiều là mẫu mực của việc sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Mỗi cảnh sắc trong Truyện Kiều là một cảnh - tình. Cũng là tả dòng nước và cây cầu bên chỗ gặp nhau giữa Kim và Kiều, nhưng do ba trường hợp gặp nhau khác nhau về tình nên Nguyễn Du đã vẽ lại ba cảnh tình khác nhau, lúc mới gặp nhau lần đầu :                                     Nao nao dòng nước uốn quanh                                     Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang             Nhưng lúc kẻ ở, người đi thì:

                        Dưới cầu nước chảy trong veo                                     Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha             Và kẻ còn người mất:                                     Một vùng cỏ mọc xanh rì

                        Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu.             Sắc màu của ngọn cỏ cũng thật khác nhau theo tình người.             Trên mộ của người bạc mệnh:                                     Rầu rầu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa xanh.

39

Page 40: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Trên áo chàng Kim:                                     Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.             Trong buổi tìm lại nơi hội ngộ:

                        Một vùng cỏ mọc xanh rì             Ngôn ngữ ta là ngôn ngữ giàu thanh điệu, giàu tính nhạc, đây lại là một thuận lợi nữa của nghệ sĩ ngôn từ Việt Nam trong việc tạo nên tính nhạc và nhịp điệu của hình tượng, để thể hiện sâu sắc tư tưởng tình cảm. Những câu thơ lục bát của dân tộc thực chất là sự tổ chức ngôn ngữ giàu nhạc điệu, thanh điệu theo một quy luật nhất định: quy luật phối hợp thanh điệu: bằng, trắc, vần điệu và tổ chức cú pháp, làm cho câu thơ lên bổng xuống trầm để thấm vào lòng người. Nguyễn Du tả cuộc chia tay giữa Thúc và Kiều, ngoài việc sử dụng hình ảnh - cảnh sắc, còn sử dụng nhịp điệu:                                     Người lên ngựa / kẻ chia bào                                     Rừng phong / thu đã nhuộm màu quan san

                        Dặm hồng / bụi cuốn chinh an                                     Trông người / đã khuất mấy ngàn dâu xanh.             Câu lục bát bình thường là nhịp đôi : 2 / 2 / 2 và 2 / 2 / 2 / 2 nhưng để diễn tả cuộc chia tay, Nguyễn Du đã cắt nhịp khác hẳn:             Câu 1 : Nhịp 3 / 3 : chia đôi dòng thơ : bắt đầu cuộc chia tay, 2 người 2 ngã.             Câu 2, 3, 4 : Nhịp 2 / 6 và nhịp 2 / 4 : dòng thơ chia không cân đối, cuộc chia tay thực sự, kẻ ở thì đứng lại ngậm ngùi, người đi thì ngày một xa thẳm.             Sự phong phú về từ loại sẽ làm cho nghệ sĩ có điều kiện chọn lọc để sử dụng từ đúng, đắt, chính xác diễn đạt được tư tưởng tình cảm của mình.             Truyện Kiều có câu:                                     Trông lên mặt sắt đen sì             Chúng ta hãy nghe Tố Hữu bình câu thơ này : "Nếu chỉ nói nội dung chính trị thì chỉ cần nói đây là hình ảnh của giai cấp phong kiến thống trị tàn ác. Nhưng nếu chỉ nói thế thì không gây được ấn tượng gì. Tôi cho đó là một trong những câu thơ hay nhất của Truyện Kiều. Chỉ có 6 chữ mà chứa chất cho bao nhiêu căm phẩn, khinh bỉ đối với bọn thống trị. Nó có sức mạnh của một cái búa tạ đập vào mặt chúng, tại sao lại 'trông lên" mà không "trông ngang" "trông ra"  "trông vào" ? Ở đây tác giả đứng về phía nhân dân bị áp bức là "trông lên" bọn thống trị ngồi trên đầu họ. Nhưng rồi đốp một cái "mặt sắt" và tiếp theo "đen sì" . Thật có chữ nào mô tả bọn thống trị một cách gọn mà sắc hơn. Mặt sắt lạnh lùng không chút tình người, đạo lí. Và đen sì đến ghê tởm. Không chỉ nghĩa của chữ mà là âm của chữ "sắt" chữ "sì" chỉ nghe thôi cũng đủ thấy tàn ác, thấy ghê người. Tác giả đưa lên rồi quật xuống. Văn như thế thật là tuyệt". Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận cũng là một thí dụ về việc tác giả đã khổ công chọn lọc từ ngữ. Câu cuối của khổ thơ đầu:             "Củi một cành khô lạc mấy dòng" được tác giả thể nghiệm để lựa chọn từ ngến  8 lần:

                        - Một cánh bèo trôi đã lạc giòng                                     - Một cánh bèo đơn lạnh giữa giòng                                     - Một chút bèo đơn lạnh giữa giòng

                        - Một cánh bèo đơn lạc mấy giòng                                     - Một gót bèo xanh lạc mấy giòng                                     - Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết giòng

                        - Củi một cành xuôi lạc mấy giòng.             Hà Minh Ðức đã bình: Ðể nói lên cái trôi giạt, cô đơn giữa mênh mông cuộc đời sóng gió, Huy Cận đã dừng lại ở câu " Củi một cành xuôi lạc mấy giòng". Hình ảnh củi một cành khô trên sóng nước, mới mẻ hơn, đỡ ước lệ hơn một cánh bèo - Hơn nữa từ một cành cây xanh tươi trên núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập bềnh trôi nổi, thân phận của cỏ cây đã mấy lần đau thương khô héo, mấy lần trôi giạt đổi thay. Do đó, sức gởi cảm thấm thía hơn.             Màu xanh "xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển. Xanh trời xanh của những ước mơ" (Tố Hữu) của đất nước Việt Nam đã hiện lên trong thơ ca Việt Nam thật đa dạng và tinh tế. Mỗi nhà thơ có một cách sử dụng định ngữ cho từ xanh để tạo nên sắc thái riêng của màu xanh:

40

Page 41: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Nguyễn Du :                         Cỏ non xanh rợn chân trời.

            Tố Hữu:                                     Tháng tám mùa thu xanh thẳm.             Hồng Ðức quốc âm thi tập:                                     Ngàn lau san sát cỏ xanh xanh             Nguyễn Bỉnh Khiêm :

                        Leo lẻo duyên xanh con mắt mèo             Nguyễn Bính:                                     Nhà nàng ở cạnh nhà tôi                                     Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn             Chế Lan Viên:                                     Nhớ từ sóng Hạ Long xanh biếc.             Tú Mỡ:

                        Ðứng trông làn nước vẫn xanh ngầu             Huy Cận:                                     Ruộng bát ngát lúa xanh màu cộm             Tế Hanh:                                     Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị             Chế Lan Viên:

                        Cỏ bên trời xanh một sắc Ðạm Tiên.               Ðiều cần lưu ý : ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất thể hiện tính dân tộc xét về mặt hình thức. Nhưng sẽ sai lầm, nếu xem ngôn ngữ là yếu tố duy nhất biểu hiện tính dân tộc của văn chương. Nếu chỉ căn cứ vào ngôn ngữ để tìm hiểu tính dân tộc không thôi thì sẽ không tìm được đặc điểm dân tộc gì ngoài một khối từ ngữ, âm thanh. Nếu lấy ngôn ngữ làm đặc trưng chủ yếu của tính dân tộc thì chúng ta không thể nào đánh giá một tác phẩm cùng bằng một thứ tiếng nhưng mang nội dung tư tưởng khác nhau. Hoặc ngược lại, chúng ta sẽ gạt bỏ đi những tác phẩm viết bằng thứ tiếng khác tiếng dân tộc mình, nhưng nội dung lại có tính dân tộc mình sâu sắc.             c. Loại thể Loại thể là phương thức phản ánh, miêu tả, nhận thức cuộc sống của văn chương và nhà văn. Trong quá trình hình thành và phát triển, văn chương nhân loại đã hình thành nên 3 phương thức sáng tác cơ bản, tự sự trữ tình và kịch. Từ 3 loại ấy, văn chương chia ra các loại nhỏ hơn gọi là thể. Ví dụ trong loại hình tự sự ta có : thần thoại, anh hùng ca, truyện cổ, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài … Ðó là những loại và thể văn chương phổ biến trong nhiều dân tộc. Nhưng trong mỗi dân tộc, do đặc điểm của ngôn ngữ, tư duy, tâm lí, tập quán … các loại và thể trên có đặc điểm riêng. Chẳng hạn cùng là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết Pháp, Anh, Nga thiên về phân tích tâm lí nhân vật, còn tiểu thuyết Trung Quốc thiên về hành động, động tác nhân vật. Về hình thức thì tiểu thuyết cổ Trung Quốc là tiểu thuyết chương hồi, các chương gắn với nhau rất chặt. Còn tiểu thuyết phương Tây các chương gắn với nhau khá lỏng lẻo …             Ngoài những loại, thể chung, văn chương dân tộc nào cũng có những loại thể riêng độc đáo của mình. Dân tộc ta có rất nhiều loại thể văn chương độc đáo, đặc sắc. Chẳng hạn, về thơ, có thơ lục bát, một thể thơ truyền thống đã cho phép nhà thơ khả năng phản ánh hiện thực và lí giải cuộc sống to lớn và sâu sắc. Truyện Kiều là một ví dụ. Ngoài loại thơ truyền thống ta còn có loại thơ có tính chất cách tân với truyền thống và tiếp thu của nước ngoài như "thơ mới" "thơ tự do" "thơ văn xuôi"  … Về sân khấu, chúng ta có những loại độc đáo như : tuồng, chèo, cải lương, tuồng của khu 5, chèo của vùng bắc bộ và cải lương nam bộ là những thể sâu khấu đặc trưng cho từng miền dân tộc ta…

41

Page 42: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Tóm lại, biểu hiện tính dân tộc của sáng tác không chỉ ở 5 điểm nói trên, mà có bao nhiêu yếu tố của sáng tác thì có bấy nhiêu yếu tố thể hiện đặc trưng dân tộc của nghệ thuật. Nhưng yếu tố cơ bản quyết định tính dân tộc trong sáng tác là ở  chínhngười sáng tác. Hiện thực đời sống sinh động phong phú, ngôn ngữ giàu đẹp, truyền thống sáng tạo lâu đời phải được thông qua một chủ thể sáng tạo có tài năng và tâm hồn dân tộc trong sáng.    III. TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH QUỐC TẾ CỦA VĂN CHƯƠNG

TOP

            Có hai thái độ cực đoan, sai lầm khi bàn đến tính dân tộc mà ta cần bác bỏ. Một, thái độ hư vô chủ nghĩa. Ðó là chủ nghĩa thế giới, chủ nghĩa nhân bản trừu tượng, phi lịch sử, phi dân tộc … Thái độ này cho rằng, ngày nay cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng. Hàng rào giữa các dân tộc bị phá toang, văn chương dân tộc được giải thỏa khỏi sự vây hãm của biên giới quốc gia - dân tộc. Do đó, tính dân tộc chỉ là một thứ đồ cổ trong thời đại ngày nay.             Hai, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi phục cổ bế quan tỏa cảng, muốn tạo nên sự ngăn cách vĩnh viễn giữa các dân tộc. Theo quan niệm này tính dân tộc và tính quốc tế là hai thái cực không bao giờ có thể dung hòa. Một tác phẩm đã có tính dân tộc thì không có tính quốc tế và ngược lại.             Cả hai thái độ cực đoan trên đều dẫn đến sai lầm chung là không chỉ ra được bản chất của tính dân tộc. Lí giải bản chất của tính dân tộc cần thiết phải đặt nó vào trong nhiều mối quan hệ. Một trong những mối quan hệ đó là quan hệ giữa nó với tính quốc tế. Muốn hiểu được quan hệ này, chúng ta phải từ quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Quan hệ giữa dân tộc và quốc tế là quan hệ biện chứng của cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung. Các dân tộc cụ thể tạo nên cộng đồng quốc tế. Quốc tế là bao gồm các dân tộc. Dân tộc và quốc tế là 2 mặt của một vấn đề, là hai hiện tượng mâu chuẩn - thống nhất của sự vật.             Trong văn chương, nghệ thuật quan hệ giữa tính dân tộc và tính quốc tế là quan hệ biện chứng. Tác phẩm có tính dân tộc đậm đà thì có tính quốc tế sâu sắc, và ngược lại. Hồ Chủ tịch nói: "Nếu dân tộc hóa mà phát triển đến cực điểm thì tới chỗ thế giới hóa rồi đó". Biélinsky người sáng lập ra mĩ học dân chủ cách mạng Nga từ những năm 40 của thế kỷ trước đã có những kiến giải xuất sắc về tính dân tộc và tính quốc tế của văn chương. Ông nói: "Ðối với nhà thơ, muốn làm cho thiên tài của anh ta được mọi người công nhận" thì cần phải "làm cho tính dân tộc trong tác phẩm của anh ta trở nên hình hài, cơ thể, xương thịt, diện mạo, nhân cách của thế giới tinh thần và vô hình của tư tưởng toàn nhân loại". Hai ý kiến trên đây có vẻ như tra ngược nhau nhưng kỳ thực, rất thống nhất: có tính dân tộc độc đáo ấy là con đường đi đến cái quốc tế sâu sắc. Cái dân tộc phải chứa đựng cái quốc tế, cái toàn nhân loại. Các quốc tế tức là cái được tổng hợp từ cái dân tộc.             Một tác phẩm có tính dân tộc chân chính là tác phẩm thể hiện được những tư tưởng tình cảm chung của nhân loại trong dạng thái dân tộc độc đáo. Tư tưởng tình cảm, tâm trạng nhân loại luôn luôn nảy sinh trên cơ sở dân tộc. Do đó, tư tưởng tình cảm toàn nhân loại đó luôn luôn có tính chất cụ thể lịch sử. Nó biểu hiện ra dưới dạng tư tưởng, tình cảm tâm trạng từng dân tộc. Tác phẩm văn chương phản ánh hiện thực dân tộc một cách đặc sặc, độc đáo dưới ánh sáng tư tưởng tiến bộ của thời đại, tư tưởng nhân dân thì tác phẩm đó sẽ vượt ra ngoài biên giới quốc gia dân tộc mà đến với mọi dân tộc, đến với trái tim toàn nhân loại. Bởi tư tưởng tiến bộ cách mạng của nhân dân một dân tộc cũng sẽ là một tư tưởng của thời đại, tư tưởng quốc tế. Tính dân tộc là sự biểu hiện đa dạng, sinh động, cụ thể của tính quốc tế.             Việc các tác phẩm văn chương xuất sắc được dịch ra hàng trăm thứ tiếng, in hàng chục triệu bản là bằng chứng hùng hồn về quan hệ biện chứng về cái dân tộc và ca quốc tế của văn chương. Dân tộc này tìm đến sáng tác của dân tộc khác, rõ ràng không phải do sự hiếu kỳ mà là do cần phải thỏa mãn khát vọng chung, do có nhu cầu chung về tư tưởng, tình cảm, Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch, nội dung tư tưởng căn bản của nó là khát vọng tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc. Khát vọng đó đâu chỉ là nhu cầu của riêng Việt Nam mà của mọi con người, mọi dân tộc chân chính và của cả thời đại.

42

Page 43: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Tóm lại, tính dân tộc không phải là những yếu tố lập dị, đối lập sâu sắc với tính quốc tế, tính nhân loại. Nếu tuyệt đối hóa tính đặc thù dân tộc sẽ dần đến chỗ làm cho nhà văn chỉ thể hiện các tàn dư, những tập quán, phong tục cổ hủ, hoặc sa vào miêu tả những biểu hiện bên ngoài, hình thức. Ngược lại, những yếu tố mang tính dân tộc chân chính sẽ và đồng thời có ý nghĩa quốc tế sâu sắc.    IV. TÍNH DÂN TỘC VỚI TÍNH NHÂN DÂN, TÍNH GIAI CẤP

        1. Tính dân tộc và tính nhân dân TOP

            Xét theo bình diện tính dân tộc là thuộc tính của văn chương, thì, không phải tác phẩm nào cũng có tính nhân dân, nhưng bất kỳ một tác phẩm nghệ thuật nào ít nhiều cũng mang tính dân tộc biểu biện ở nội dung hoặc ở hình thức.             Biélinski nói: Mỗi nhân vật gắn với một dân tộc nhất định, một thời đại nhất định, vì con người không có tính dân tộc không phải là con người thực sự mà là một khái niệm trừu tượng. Vì vậy mà rõ ràng là tính dân tộc trong tác phẩm nghệ thuật không phải là một thành tích mà là một thuộc tính tất yếu của việch sáng tạo.             Nhưng xét trên phương diện phẩm chất thì tính dân tộc sâu sắc, chân chính chỉ có thể có được ở những tác phẩm của những nghệ sĩ gắn bó mật thiết với vận mệnh dân tộc, vận mệnh nhân dân.             Lénine đã chỉ ra có 2 thứ văn hóa dân tộc trong một dân tộc. Trong bài báo "Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc" (1913) Lênin viết:             "Trong mỗi dân tộc hiện nay đều có hai dân tộc (…) Trong mỗi một nền văn hóa dân tộc, có 2 nền văn hóa dân tộc. Có nền văn hóa đại Nga của bọn Purisơkêvich, bọn Guxơxốp và bọn Stơruvê, nhưng cũng có nền văn hóa đại Nga mà đại biểu là những người như Séc nưa sếp sky và Plê kha nốp".             Một nơi khác Lênin viết : "Mỗi một nền văn hóa dân tộc đều có những thành phần, thậm chí không phát triển, của một nền văn hóa dân tộc và xã hội chủ nghĩa, vì trong mỗi dân tộc, đều có quần chúng lao động và bị bóc lột mà điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong mỗi dân tộc, cũng còn một nền văn hóa tư sản (nền văn hóa này, phần lớn là một nền văn hóa cực kỳ phản động và có tính chất tăng lữ), không phải ở trong tình trạng là "thành phần" mà là dưới hình thức nền văn hóa chiếm địa vị thống trị".

            Như vậy, tính nhân dân thống nhất với tính dân tộc phẩm chất, tính nhân dân gắn liền với tính dân tộc của nền văn hóa nhân dân. Tác phẩm văn chương nghệ thuật nào mang tính chất dân tộc đậm đà thì tác phẩm đó có tính nhân dân sâu sắc. Ngược lại, những tác phẩm nào xa rời nhân dân, xa rời "hệ tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa" thì tác phẩm đó không thể có tính dân tộc chân chính được.        2. Tính dân tộc và tính giai cấp. TOP

            Trong lịch sử vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn luôn đặt ra và bao giờ cũng gắn liền với nhau.             Lê Duẩn nói: "Trong mỗi giai đoạn lịch sử có một giai cấp đại diện cho dân tộc. Trong xã hội phong kiến thì giai cấp phong kiến đại diện cho dân tộc. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản đại diện cho dân tộc. Ðến thời đại ngày nay thì giai cấp vô sản đại diện cho dân tộc".             Dân tộc là gồm nhiều giai cấp, nhưng lại không có thứ dân tộc chung chung cho mọi giai cấp. Chỉ có dân tộc cụ thể của từng giai cấp: dân tộc phong kiến, dân tộc tư sản, dân tộc vô sản.             Stalin, trong tác phẩm Vấn đề dân tộc và thuộc địa viết: Mọi vật đều thay đổi … Ðời sống xã hội thay đổi - và, cùng với nó, "vấn đề dân tộc" cũng thay đổi theo. Trong các thời kỳ khác nhau thì có những giai cấp khác nhau xuất hiện trên vũ đài đấu tranh, vì mỗi giai cấp đều hiểu "vấn đề dân tộc" theo quan niệm riêng của mình. do đó, trong những thời kỳ khác nhau "vấn đề dân tộc" phục vụ cho những lợi ích khác nhau, mang những màu sắc khác nhau tùy theo giai cấp đề xuất ra nó". và cũng trong tác phẩm trên, Stalin viết:

43

Page 44: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            "Một giai cấp mới, giai cấp vô sản đã bước vào vũ đài đấu tranh, và từ đó một vấn đề mới về dân tộc đã xuất hiện: "vấn đề dân tộc của giai cấp vô sản". Giai cấp vô sản khác với tầng lớp quý tộc và giai cấp tư sản chừng nào thì "vấn đề dân tộc" mà giai cấp vô sản đề ra khác với "vấn đề dân tộc" của tầng lớp quý tộc và giai cấp tư sản chừng đó".             Như thế tính giai cấp thống nhất hữu cơ với tính dân tộc. Nội dung của vấn đề dân tộc chính là vấn đề giai cấp nhưng tính giai cấp là không đồng nhất với tính dân tộc. Và tính giai cấp cũng không mâu thuẫn, bài trừ tính dân tộc. Tính giai cấp và tính dân tộc là thống nhất hữu cơ, lồng vào nhau, xuyên thắm lẫn nhau, đến mức không thể tách bạch ra được. Ðồng chí Lê Duẩn lưu ý chúng ta: "Chúng ta không nên tách vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Nếu tách hai vấn đề đó ra thì dễ đi đến biệt phái, dễ dẫn đến sai lầm. Phải nói rằng càng đứng trên lập trường giai cấp bao nhiêu thì càng có ý thức dân tộc bấy nhiêu." Và "vấn đề lập trường giai cấp bao giờ cũng gắn liền với vấn đề dân tộc. Bọn tư bản chỉ nói đến dân tộc mà không nói đến giai cấp, nhưng thực chất là vì lợi ích của giai cấp tư sản. Người cộng sản chúng ta nói đến giai cấp là nói đến dân tộc. Nhất là khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền thì càng phải gắn chặt vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Quan điểm giai cấp càng đúng đắn bao nhiêu thì quan điểm dân tộc càng đúng đắn bấy nhiêu. Ngược lại, lập trường giai cấp vô sản cùng đúng đắn bao nhiêu thì phải càng nắm chắc vấn đề dân tộc bấy nhiêu".             Tính dân tộc và tính giai cấp gắn bó với nhau, trong mối quan hệ này tính giai cấp là cái quyết định tính dân tộc. Bởi vì, dân tộc tuy là một tồn tại khách quan nhưng "mỗi giai cấp hiểu vấn đề dân tộc theo quan điểm riêng của mình, và vấn đề dân tộc phục vụ cho những lợi ích khác nhau, mang những màu sắc khác nhau, tùy theo từng thời kỳ và tùy theo giai cấp đề xuất ra nó. Lênin nói: "Trong mọi vấn đề chính trị thực sự nghiêm chỉnh và sâu sắc, người ta tập hợp nhau la theo giai cấp chứ không phải theo dân tộc". Vì vậy, sẽ sai lầm nếu cho rằng tính giai cấpvà tính dân tộc tồn tại song song (nghĩa là không có sự gắn bó hữu cơ). Còn quan niệm cho rằng tính dân tộc là của chung tất cả mọi giai tầng trong xã hội thì lại càng không đúng và rơi vào quan điểm tư sản.CHƯƠNG V:

VĂN NGHỆ, MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI ÐẶC THÙ  

I.   ĐẶC TRƯƠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG CỦA VĂN NGHỆ 1. Đặc trưng đối tượng của văn nghệ. 2. Đặc trưng nội dung của văn nghệ.

II. ÐẶC TRƯNG PHƯƠNG TIỆN NHẬN THỨC CỦA VĂN CHƯƠNG 1. Hình tượng, phương tiện nhận thức của văn nghệ 2. Những thuộc tính cơ bản của hình tượng văn chương.

III. HÌNH TƯỢNG ĐIỂN HÌNH  

   I. ÐẶC TRƯNG CỦA ÐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG CỦA VĂN NGHỆ          1. Ðặc trưng đối tượng của văn nghệ            a. Ðối tượng chung             Không có đối tượng thì không có nhận thực. Ðối tượng là điều kiện khách quan của nhận thực. Văn nghệ là một hình thức ý thức xã hội, một hình thức nhận thức, vậy, đối tượng của nó là gì?             Nhận thức luận Mác xít chỉ rõ : tồn tại khách quan quyết định ý thức con người "ý thức con người không có gì khác hơn là tồn tại được  ý thức" (C. Mác). Văn nghệ là một trong những hình thái ý thức xã hội ; cho nên, đứng ở góc độ nhận thức luận,đối tượng của văn nghệ cũng là đối tượng của nhận thức nói chung: đó là tồn tại khách quan.

44

Page 45: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Biélinski khẳng định: "Chỗ khác nhau giữa khoa học và nghệ thuật không phải ở nội dung mà ở phương pháp sáng tạo ra nội dung".             Plékhanov cũng có ý kiến tương tự: "Ðối tượng của triết học cũng đồng thời là đối tượng của nghệ thuật". Theo ý nghĩa triết học thì không có sự phân biệt giữa đối tượng của khoa học và đối tượng của nghệ thuật.             Hiện thực phong phú vô cùng vô tận của tự nhiên và xã hội là đối tượng của nghệ thuật. Biélinski đã từng xác nhận: "Tất cả thế giới, tất cả những bông hoa, màu sắc và âm thanh, tất cả các hình thức của tự nhiên và đời sống đều có thể là những hiện tượng của thơ ca".             Xác định một phạm vi phản ánh rộng lớn như vậy của nghệ thuật là để khẳng định khả năng to của văn chương trong việc miêu tả và phản ánh. Nhưng sẽ sai lầm nếu đánh đồng đối tượng của khoa học và đối tượng của nghệ thuật. Cần phải phân biệt tồn tại khách quanvà đối tượng (với ý nghĩa đích xác của từ này). Tồn tại khách quan là cơ sở của mọi hoạt động nhận thức và cải tạo của con người. nhưng tồn tại khách quan là vô cùng tận, muôn màu muôn vẻ, mang nhiều phương diện và nhiều tính chất khác nhau. Mỗi một hình thức nhận thức của con người chỉ có thể hướng chủ yếu vào một phạm vi nào đó của khách thể và trong phạm vi đó lại quan tâm đến những tính chất nào đó mà thôi, tùy thuộc vào mục đích, yêu cầu, năng lực của mình. Mặt trời làm cho nhiều nhà khoa học quan tâm, nhưng nhà hóa học chú ý đến những phản ứng hóa học, nhà vật lí quan tâm đến nguồn nhiệt năng, nhà sinh vật quan tâm đến nguồn ánh sáng của nó, còn nhà thơ chú ý đến khả năng gây hứng thú ở con người.                                     - Mặt trời là trái tim anh                                       Mặt trăng vành vạnh là tình của em

                        - Thấy anh như thấy mặt trời                                       Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.

            Viện sỹ T. Pavlov đã chỉ rõ: cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội không hề có những đối tượng vật lí, hóa học, mĩ học thuần túy, nhưng mỗi đối tượng ấy lại có những thuộc tính khiến nó thu hút sự chú ý của nhà vật lí, nhà hóa học, nhà nghệ thuật. Như thế, đối tượng của một hình thức nhận thức nào đó là những thuộc tính nào đó của một phần khách thể.             b. Ðối tượng đặc trưng   TOP

            Vậy đối tượng đích thực của văn nghệ là gì? Cái làm cho nhà nghệ thuật quan tâm trước tồn tại khách quan là gì? Trả lời vấn đề này Chernychevski đã khẳng định phạm vi của nghệ thuật "bao hàm trong nó tất cả những gì có trong hiện thực (trong tự nhiên và trong xã hội) khêu gợi được hứng thú của con người - không phải với tư cách là học giả mà với tư cách là con người bình thường; cái mọi người quan tâm trong đời sống - đó là nội dung của nghệ thuật ". Trong đời sống, con người có 2 mối quan tâm lớn : mối quan tâm tới tự nhiên và mối quan tâm tới xã hội. Tức chính là 2 mối quan hệ đảm bảo cho con người tồn tại và phát triển : quan hệ tự nhiên và quan hệ xã hội. Hai mối quan hệ này quay quanh một trung tâm là con người. chính những mối quan hệ quay quanh con người này là trung tâm chú ý của nghệ sĩ. Nếu như đối tượng của khoa học là sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập với ý thức con người thì đối tượng của nghệ thuật là tất cả những gì quan hệ với con người, là hiện thực trong quan hệ của nó đối với con người. Hay nói chính xác hơn, đối tượng của nghệ thuật là những mối quan hệ có tính người của thế giới.             Nhà khoa học và nhà nghệ thuật cũng quan tâm tới thế giới tự nhiên. Nhưng đối tượng của nhà khoa học sẽ là bản chất, quy luật vận động, thuộc tính phổ quát độc lập khách quan với ý thức con người thì nhà nghệ thuật lại chọn cho mình trong giới tự nhiên những phương diện liên quan đến ý thức con người, đến tư tưởng, tình cảm của con người, đến đời sống tinh thần của con người. chẳng hạn, mưa đối với nhà khoa học là quá trình ngưng tụ của hơi nước khi gặp lạnh và rớt xuống. Nhưng mưa đối với nhà thơ bao giờ cũng có hồn người ở trong đó.                                     Nặng lòng xưa hạt mưa đau                                     Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà

45

Page 46: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

                                                                        (Tố Hữu)                         Ðêm mưa làm nhớ không gian

                                    Lòng run thêm lạnh nổi hàn bao la                                     Tai nương nước giọt mái nhà

                        Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn                                                                         (Huy Cận)                                     Ôi cơn mưa quê hương                                     Ðã ru hồn ta thuở bé

                        Ðã tắm nặng lòng ta tình yêu chớm hé                                     Nghe tiếng mưa rơi trên tàu chuối bẹ dừa                                     Thấy mặt trời lên khi tạnh những cơn mưa

                        Ta yêu quá như lần đầu mới biết                                     Ta yêu mưa như yêu gì tha thiết                                                                         (Lê Anh Xuân)             Thời tiết ở Trường sơn đối với nhà thiên văn, địa lí khác hẳn đối với nhà thơ. Tố Hữu nghĩ về mưa - nắng Trường sơn.                                     Trường sơn Ðông nắng Tây mưa

                        Ai chưa đến đó như chưa rõ mình             Còn Phạm Tiến Duật :                                     Anh lên xe trời đổ cơn mưa                                     Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ

                        Em xuống núi nắng về rực rỡ                                     Cái nhành cây gạt mối riêng tư.             Thế giới tự nhiên là vô cùng, vô tận, vô thủy vô chung và thế giới nghệ thuật cũng vô cùng phong phú. Khó có thể và không thể thống kê ra rằng bộ phận nào trong thế giới hiện thực được nhà văn quan tâm nhiều hơn cả. Từ thế giới vi mà đến thế giới vỉ mô, từ hữu sinh đến vô sinh đều có thể xuất hiện trong nghệ thuật. Nhưng khi chúng đã xuất hiện trong nghệ thuật thì bao giờ cũng là bộ phận tự nhiên bị con người đồng hóa, tiềm ẩn, kết tinh một quan hệ người ở trong đó.             Ðối với thế giới tự nhiên, nghệ thuật tìm cho ra một quan hệ người kết tinh ở trong đó, thì đối với thế giới xã hội, nghệ thuật càng quan tâm đến quan hệ này. Quan hệ người ở đây chính là quan hệ xã hội. Nếu bản chất của con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội thì văn nghệ đã biết xác định cho mình đối tượng trong thế giới con người cái bản chất nhất, đó là bản chất xã hội. Nghệ thuật tìm ra cho mình những "kiểu quan hệ xã hội" ở trong con người.             Con người là một sinh vật của tự nhiên, một bộ phận của hiện thực. Trong nó, một mặt tồn tại những quy luật của sinh vật, mặt khác tồn tại những quy luật xã hội. Quy luật, bản chất xã hội, quan hệ xã hội của con người là đối tượng của nghệ thuật. Nếu không nhận thức được, hoặc cố tình xuyên tác đặc trưng đối tượng của nghệ thuật thì nhà văn sẽ phạm sai lầm nghiêm trọng trong quá trình sáng tạo. Chủ nghĩa tự nhiên, Chủ nghĩa Freud … đã dùng những quy luật sinh học để giải thích con người. Con người trong nghệ thuật của họ không phải con người xã hội mà là con vật - người. Con người hoàn toàn bị bản năng sinh vật chi phối. Ðối với tự nhiên, nghệ thuật lưu tâm đến quan hệ người kết tinh trong đó; đối với xã hội, nghệ thuật quan tâm đến những quan hệ xã hội, chính vì vậy mà người ta đã xác định đối tượng chủ yếu của nghệ thuật là con người. Con người là phạm vi hiện thực chủ yếu mà nghệ thuật quan tâm. Nhưng sẽ không chính xác nếu nói đối tượng của nghệ thuật là con người một cách chung chung. Nếu hiểu theo nghĩa này con người là đối tượng của hàng loạt khoa học (tự nhiên và xã hội) chứ đâu có riêng vì nghệ thuật. Khác với khoa học, con người trong nghệ thuật là trung tâm, kết tinh của những quan hệ.             Con người trong nghệ thuật được miêu tả từ rất nhiều phương diện kinh tế, chính trị, lao động, sản xuất, tinh thần, vật chất, bên trong, bên ngoài … Nhưng cũng sẽ không chính xác nếu nói con người trong nghệ thuật là con người đa diện. Con người trong nghệ thuật không phải là tổng số các tri thức nghiên cứu về con người của các khoa học. Quan hệ xã hội của con người gắn chặt với

46

Page 47: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

những phẩm giá tinh thần của nó. Quan hệ xã hội, phẩm giá tinh thần là thế giới vô hình - thế giới vô hình đó được hun đúc từ thế giới hữu hình ở con người. Thế giới vô hình càng phong phú phức tạp thì thế giới hữu hình càng phong phú và phức tạp. Chính đối tượng của nghệ thuật là những quan hệ xã hội - những phẩm giá tinh thần sẽ khiến cho người nghệ sĩ quan tâm toàn diện về con người. Như thế, nghệ thuật không lấy miêu tả con người toàn diện làm mục đích mà như là phương tiện để lí giải những kinh nghiệm quan hệ. Do đó, không phải mặt nào của đời sống con người cũng được nghệ thuật quan tâm và không phải những mặt được quan tâm đều có được sự quan tâm ngang nhau.             Như nhiều khoa học xã hội khác, nghệ thuật đặt cho mình mục đích tìm hiểu bản chất xã hội con người. Nhưng nghệ thuật không đặt ra cho mình nhiệm vụ khái quát trừu tượng bản chất xã hội của con người như trong chính trị, lịch sử … Nghệ thuật tái hiện và tái tạo bản chất xã hội của con người. Muốn vậy, nghệ thuật phải có miêu tả những mặt bản chất xã hội cụ thể. Do đó, trong nghệ thuật con người xuất hiện như là những cá nhân, những số phận, những tính cách. A. Drémov phân biệt :             " … Khi phản ánh những quan hệ đối kháng giữa công nhân và tư bản nào trong tác phẩm nghệ thuật, thì chúng ta không trực tiếp trình bày các công thức của quy luật giá trị thặng dư (đó là nhiệm vụ của chính trị kinh tế hoc). Nghệ thuật miêu tả những biểu hiện của quy luật ấy trong số phận những cá nhân con người".             Trung tâm chú ý của con người trong chính trị, lịch sử là những sự kiện, quy luật đã được trừu tượng hóa. Nghệ thuật có sứ mệnh tái hiện con người với yêu cầu giữ cho được cá tính riêng biệt, sinh động, bảo đảm cho con người có sức sống, hoạt động và phát triển như trong hiện thực. Con người trong nghệ thuật là con người xã hội, đồng thời là con người cá tính… H. Heine nói: "Mỗi con người là cả một vũ trụ … Dưới mỗi tấm mộ bia - có chôn cất cả một pho sử toàn thế giới".

         2. Ðặc trưng nội dung của văn nghệ TOP

            Cần thiết phải phân biệt đối tượng và nội dung của văn nghệ. Giữa đối tượng và nội dung của văn nghệ có sự thống nhất nhưng không đồng nhất. Ðối tượng là cái tồn tại khách quan, còn nội dung là tồn tại khách quan đã được chiếm hữu bởi chủ quan. Ðối tượng là khách thể của nhận thức, còn nội dung là sự nhận thức khách thể bởi chủ thể. Nội dung là đối tượng đã được ý thức. tái hiện, tái tạo, khái quát, đánh giá cho phù hợp với tình cảm, tư tưởng, lí tưởng của nhà văn.             Vì vậy, mặc dù nói văn nghệ phản ánh cuộc sống, nhưng đặc trưng nội dung của văn nghệ không phải ở chỗ những bức ảnh chụp về đời sống. Giá trị nội dung của văn nghệ không phải là ở sức chứa ngồn ngộn những chi tiết sự thực về đời sống, cũng không phải ở sự "tương đương xã hội học" giữa cái được phản ánh (đời sống) và cái phản ánh (tác phẩm).             Ðặc trưng nội dung của văn nghệ là thế giới chủ quan của nghệ sĩ được bộc lộ trước những vấn đề đời sống phản ánh trong tác phẩm :             Trước hết, nội dung của văn nghệ thể hiện rõ khát vọng của nghệ sĩ muốn thể hiện một quan niệm về chân lí đời sống, về đời sống chân, thiện, mĩ. Cuộc sống trong tác phẩm là cuộc sống theo một quan niệm, theo đề nghị, yêu cầu của nhà văn - cuộc sống cần có nên có chứ không chỉ vốn có.             Thứ đến, nội dung của văn nghệ là cảm hứng Mácnh liệt của nhà văn trước những vấn đề đời sống. Nhà văn bao giờ cũng muốn khẳng định điều này, phủ nhận điều kia, tôn thờ điều nọ.             Cuối cùng, nội dung văn nghệ là cuộc sống được lí giải, đánh giá, biểu hiện theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định phù hợp với xu hướng tư tưởng nhất định trong cuộc sống.             Tóm lại, nội dung của nghệ thuật là hiện thực được nhìn nhận dưới con mắt của nghệ sĩ, thấm đượm khát vọng, nhiệt tình của nghệ sĩ, được trình bày, lí giải dưới ánh sáng của thế giới quan, lí tưởng thẩm mĩ nhất định.    II. ÐẶC TRƯNG PHƯƠNG TIỆN NHẬN THỨC CỦA VĂN CHƯƠNG

        1. Hình tượng, phương tiện nhận thức của văn nghệ

TOP

47

Page 48: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Xác định phương tiện nhận thức của văn chương là xác định tế bào của cơ thể sống, xác định yếu tố cơ bản để cấu thành tác phẩm văn chương, xác định công cụ tiếp cận cuộc sống của nhà văn, xác định cơ sở cho sự tồn tại của Khoa nghiên cứu văn chương và cơ sở tiếp thu văn chương của người thưởng thức.             Ðơn vị cơ bản (hoàn chỉnh, nhỏ nhất, có ý nghĩa) là điều kiện tồn tại của thế giới và là điều kiện tồn tại cho các hình thức nhận thức về thế giới. Mọi sinh vật trên trái đất đều được cấu tạo bằng tế bào (đơn bào hoặc đa bào). Tế bào là đơn vị sống nhỏ nhất. Sinh vật học lấy tế bào làm xuất phát điểm. Thế giới vật chất nói chung được cấu tạo bằng những nguyên tử. Nguyên tử là đơn vị trọn vẹn nhỏ nhất có ý nghĩa của vật chất. Nó là điều kiện tối thiểu của sự tồn tại vật chất. Trong khoa học tự nhiên đã vậy, trong khoa học xã hội cũng cần phải như vậy. Chính Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ "hàng hóa". Bằng việc nghiên cứu hàng hóa, Mác đã thấy được bản chất mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Lênin, trong tác phẩm "Bút ký triết học" phần "về phép biện chứng" đã chỉ cho ta thấy điều đó:             Trong Tư bản, Mác đã phân tích trước hết cái đơn giản nhất, quen thuộc nhất, chung nhất, thông thường nhất, cái thường gặp đến hàng nghìn triệu lần, mối quan hệ xã hội tư sản (xã hội thương phẩm): sự trao đổi hàng hóa, sự phân tích phát hiện trong cái đơn giản ấy (trong cái "tế bào" của xã hội tư bản) tất cả những mâu thuẫn,tức là tất cả những mầm móng của mọi mâu thuẫn xã hội hiện đại. Sau đó, sự trình bày của Marx vạch cho chúng ta thấy sự phát triển (cả sự lớn lên và sự vận động) của các mâu thuẫn ấy trong tổng số các bộ phận của nó, từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc của xã hội".             Vậy, đối với văn chương nghệ thuật đơn vị cơ bản là gì? Tế bào đã cấu tạo nên cơ thể sống - chính thể tác phẩm là gì?             Ðã có ý kiến cho rằng từ là đơn vị cơ bản của tác phẩm văn chương. Ðành rằng, văn chương là nghệ thuật ngôn từ, ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn chương, tác phẩm văn chương là sự tổ chức ngôn từ theo một cách thức nào đó. Nhưng nếu xem từ là phương tiện nhận thức, là đơn vị cơ bản của tác phẩm thì sẽ không phân biệt được chất liệu cấu tạo nên tác phẩm với phương tiện nhận thức. Triết học, chính trị, và nhiều khoa học khác, tác phẩm của nó cũng là những ngôn từ. Vấn đề là tại sao cũng được xây dựng từ ngôn từ nhưng tác phẩm này là triết học, chính trị, khoa học … còn tác phẩm kia lại là nghệ thuật. Hơn nữa, ngôn từ là phương tiện giao tiếp, là công cụ giao tế, nó là của cải chung của xã hội chứ không phải của riêng nhà văn.             Lại có ý kiến cho rằng hình ảnh là tế bào của tác phẩm. Ý kiến này phần nào thấy được sự khác biệt giữa nghệ thuật ngôn từ và ngôn từ phi nghệ thuật. Nhưng, hình ảnh chỉ là sự phản ánh những thuộc tính của ngoại giới vào đầu óc con người. Nó mang tính chất tri giác. Nó chưa phải là kết quả của một sự nhận thức đúng đắn. Mặt khác, hình ảnh không phải là gia tài riêng của nghệ thuật. Trong các tác phẩm ngôn từ không phải nghệ thuật ta vẫn thường bắt gặp các hình ảnh. Những hình ảnh đó có tác dụng minh họa cho các phán đoán và kết luận trừu tượng, làm cho các kết luận ấy rõ ràng, sinh động và trực quan. Chẳng hạn, các nhà thiên văn nghiên cứu về sao chỗi halây, ngoài việc khái quát nên bản chất và quy luật vận động của nó thì họ đã không thể không mô tả về nó và đặc biệt là chụp những bức ảnh về nó để minh họa cho kết quả của mình.             Trong văn chương, "cái chung nhất, cái quen thuộc nhất, cái thường gặp hàng nghìn triệu lần" đấy là hình tượng. Người sáng tác luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, phấn đấu cho sáng tác của mình có hình tượng đạt chất lượng cao. Doboline nói : đối với tôi "hình tượng luôn luôn nằm ở đầu ngòi bút".             Biélinski cho rằng "nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà thơ không chứng minh mà trình bày chân lí" . Ipxen: "Trước khi viết ra giấy một chữ nào,tôi cần nắm chắc hình tượng đã nảy sinh trong tôi". Tchekhov, ở trong đầu ông hình thành "cả một đội ngũ sẵn sàng chờ lệnh". Gorky gọi văn chương là khoa học về con người và "nghệ thuật bắt đầu nói mà độc giả quên mất tác giả, chỉ trông thấy và nghe thấy những con người do tác giả trình bày trước độc giả".             Nếu nhà văn không xây dựng được hình tượng thì tác phẩm của anh ta sẽ rơi vào lí thuyết khô khan trừu tượng. Trường Chinh đã có một so sánh thú vị:

                        Không long lanh hình tượng

48

Page 49: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

                        Chắp cánh ước mơ                                     Thì thơ đó chỉ thua vè một chút.             Vè, diễn ca thực sự là loại văn vần minh họa chủ trương đường lối. Hình tượng là phương tiện cơ bản, độc lập duy nhất để nhà văn nhận thức cuộc sống. Nghệ thuật và khoa học là hai hình thức nhận thức cơ bản của con người. chúng thống nhất với nhau ề mục đích nhận thức : phát hiện ra quy luật, bản chất của thế giới để giúp con người tiến hành cải tạo thế giới ngày càng tích cực hơn. Khoa học và nghệ thuật tồn tại bên nhau để bổ sung cho nhau; làm cho nhận thức con người phong phú toàn diện, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của con người được đầy đủ. Nhưng khoa học và nghệ thuật không bài trừ lẫn nhau chính vì chúng có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn, nghệ thuật và khoa học đều có chức năng nhận thức thế giới. Nhưng đặc trưng chức năng nhận thức của nghệ thuật là ở chỗ không chỉ góp phần vào việc nhận thức thế giới mà còn giúp con người bồi dưỡng tâm hồn dưới ánh sáng của một lí tưởng đạo đức và thẩm mĩ nhất định. Năng lực gây cảm xúc là một đặc tính tất yếu của nghệ thuật. Song, sự khác nhau quan trọng mà ta cần đặc biệt chú ý là ở phương tiện nhận thức của chúng. Khoa học nhận thức thế giới bằng công thức , định lí, định luật, khái niệm … trừu tượng. Còn nghệ thuật nhận thức thế giới bằng hình tượng cụ thể, cảm tính, trực tiếp. Ðến với một tác phẩm khoa học là đến với những công thức định lí, định luật, khái niệm. Tất cả những cái đó là hình thức tóm gọn bản chất thế giới muôn màu lại. Quá trình thâm nhập sau vào bản chất thế giới là quá trình nhà khoa học trừu tượng hóa các điểm cá biệt riêng lẽ của từng hiện tượng, sự vật để rút ra thuộc tính chung nhất của đối tượng. Thuộc tính chung nhất được biểu thị bằng một khái niệm nhất định. Chẳng hạn, sau quá trình nghiên cứu về nước từ nhiều thứ nước khác nhau người ta đã tìm ra thuộc tính cơ bản của nước là tổng hợp của hai chất Hydro và Oxy, cứ một phân tử nước có hai nguyên tử Hydro và một nguyên tử Oxy. Và người ta ký hiệu H2O. H2O là công thức trừu tượng và là một sự ký hiệu , quy ước. Công thức này không hề gợi cho ta một sự liên hệ trực tiếp nào giữa nó với nước cả.             Một ngành khoa học sẽ có một hệ thống những khái niệm, công thức trừu tượng, có nội dung được xác định rõ ràng, chặt chẽ. Hệ thống những khái niệm, thuật ngữ, công thức là phương tiện nhận thức thế giới của nhà khoa học, là phương tiện truyền thụ kiến thức của nhà khoa học đến người khác, cũng tức là phương tiện tư duy của nhà khoa học. Do đó mà người ta nói nhà khoa học tư duy bằng khái niệm. Nhưng đến với nghệ thuật, ta không đến với những công thức khô khan trừu tượng. Ðến với nghệ thuật là đến với "thế giới đã qua bàn tay nhào nặn của con người nhưng chung quy vẫn là ở dạng thái cuộc sống". Nghĩa là thế giới qua nghệ thuật không bị khô đi, cứng lại trừu tượng hóa ra. Một pho tượng, một bức tranh, một điệu múa, một cuốn phim ta không hề thấy công thức hay một khái niệm nào cả mà chỉ thấy những cảnh đời, những con người, những phong cảnh thiên nhiên có hình dáng, diện mạo, màu sắc, âm thanh, đường nét cụ thể. Ở đây, bằng giác quan ta có thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy hình hài cuộc sống.             Trong nghệ thuật có một sự nhập nhằng thú vị : nội dung của nó là sự phản ánh về đời sống, là ý thức tư tưởng của tác giả nhưng nhiều lúc người ta tưởng đó chính là cuộc sống. Có người kể rằng khi đọc xong truyện Phòng số 6 của Tchekhov Lénine đã nói với chị của mình rằng : "Tôi không thể ngồi trong phòng của mình được nữa, tôi đứng dậy và đi ra ngoài. Tôi có cảm giác là chính tôi đang bị giam trong phòng số 6 đó". Mặc dầu Lénine rất tán thành ý kiến sau đây của Feuerbach: "Nghệ thuật không đòi hỏi người ta thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực". Nhưng chính Lénine đã bị nghệ thuật cuốn hút đến mức tưởng nó là sự thực ngoài đời.             Hình thức phản ánh đời sống như đã nói trên, theo Tchernychevski là phản ánh hiện thực dưới "hình thức đời sống". Biélinski đã so sánh 2 cách nhận thức thế giới của khoa học và nghệ thuật như sau:             "Tự vũ trang bằng những con số thống kê để tác động vào trí tuệ của thính giavà  độc giả, nhà chính trị kinh tế học chứng minh rằng tình hình của một giai cấp nào đó đang hưng thịnh hay đang suy đồi do những hậu quả của những nguyên nhân nào đó …             Còn nhà thơ vũ trang bằng những hình ảnh trong sáng và sinh động của hiện thực trong một bức tranh chân thực để tác động đến trí tưởng tượng của độc giả mình, cho thấy tình hình của một giai cấp nào đó đang hưng thịnh hay đang suy đồi do những nguyên nhân nào đó …

49

Page 50: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Một đằng là chứng minh, một đằng là biểu hiện và cả hai đều thuyết phục, một đằng chỉ có lí là logic, còn một đằng là những bức tranh.             "Những bức tranh" đời sống đấy là những hình tượng. Hình tượng chính là phương tiện nhận thức và phản ánh hiện thực của nhà văn, là môi giới giữa nhà văn và bạn đọc, là phương tiện truyền đạt tư tưởng, tình cảm của nhà văn tới bạn đọc. Hình tượng là ngôn ngữ của nghệ sĩ, là ngôn ngữ đích thực của nghệ thuật. Công cụ giao tiếp của tác giả với độc giả là hình tượng chứ không phải là ngôn ngữ hàng ngày. Ngôn ngữ hàng ngày ngoài xã hội là công cụ giao tiếp của xã hội chỉ là chất liệu vật chất để xây dựng nên hình tượng. Người ta gọi người nghệ sĩ tư duy bằng hình tượng.  

        2. Những thuộc tính cơ bản của hình tượng văn chương. TOP

            a. Phản ánh và sáng tạo.             Phản ánh hiện thực là quy luật của văn chương. Tác phẩm nghệ thuật là hình ảnh của thế giới khách quan. Tuy vậy, không được đánh đồng khái niệm "hình tượng" trong nhận thức luận (triết học) với "hình tượng" trong lí luận văn học.             Trong triết học, khái niệm hình tượng hiểu là bất kỳ một sự phản ánh nào về ngoại giới vào trong ý thức con người. Ở đây, "hình tượng" đồng nghĩa với "hình ảnh" Lénine viết: ... Cảm giác, tri giác, biểu tượng và nói chung, ý thức của con người là hình ảnh của thực tại khách quan.             Trong nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật không phải là bất kỳ một sự phản ánh nào về hiện thực mà là một sự phản ánh được ghi giữ lại trong một chất liệu của một loại hình nghệ thuật nhất định. Cụ thể, trong tác phẩm nghệ thuật sự phản ánh về hiện thực phải có được một sự tái hiện có nghệ thuật trong một chất liệu nhất định của một loại hình nghệ thuật cụ thể. Như thế, nghệ thuật bao gồm cả tư duy hình tượng và cả hoạt động thực tiễn nhất định sự sáng tạo nghệ thuật, sự nhào nặn thẩm mĩ một chất liệu nhất định. Nghệ thuật vừa tư duy (bằng hình tượng) vừa là hoạt động thực tiễn trực tiếp. Ðược vật chất hóa ở trong một tác phẩm nghệ thuật cụ thể, nghệ thuật tồn tại như một khách thể tinh thần trong dạng các giá trị nghệ thuật nhất định. Ở đây, tác phẩm nghệ thuật cũng là tự nhiên thứ hai như tất cả những gì được tạo ra bằng bàn tay khối óc của con người.             Với tư cách là một hình thái đặc thù của ý thức xã hội, nghệ thuật chính là một sự thống nhất liên tục của nhận thức hình tượng về hiện thực và sự tái hiện cảm tính - cụ thể hiện thực trong chất liệu của một loại hình nghệ thuật . Do đó, không được xem hình tượng chỉ là một kiểu tư duy (tư duy hình tượng) mà nó còn là một hành động thực tiễn vật chất - hoạt động sáng tạo, tạo ra một sự vật mới, tạo ra hiện thực khách quan. Hình tượng văn chương được vật chất hóa nhờ chất liệu ngôn ngữ. Nó vừa là ý thức tư tưởng của nhà văn vừa là tài năng sáng tạo - nhào nặn chất liệu ngôn ngữ của nhà văn.             Tuy vậy, không được xem phản ánh và sáng tạo như là 2 giai đoạn của việc xây dựng hình tượng theo nghĩa , nhà văn có sẵn hình tượng tinh thần ở trong đầu óc sau đó, tìm và khoác cho nó một bộ áo vật liệu cụ thể nào đó. Thực ra, trước khi được vật chất hóa ra, hình tượng nghệ thuật đã tồn tại trong óc người nghệ sĩ, nghĩa là đã bao hàm sự sáng tạo trong ý thức tư tưởng. Lénine viết ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan. Hình tượng nghệ thuật không phải là một bức ảnh chụp, một hình ảnh thu được trong tấm gương, cũng không phải là một sự tái hiện đơn giản cuộc sống, sự bắt chước máy móc tự nhiên. Sự bắt chước giỏi lắm cũng chỉ nhân đôi đối tượng mô tả chứ không tạo ra giá trị thẩm mĩ mới. Hình tượng nghệ thuật không phải là hình ảnh minh họa của khoa học. Hình ảnh minh họa của khoa học tái hiện các hình tượng như chúng vốn có trong hiện thực. Tức là tái hiện thực tế một cách chính xác. Còn hình tượng nghệ thuật, sáng tạo là bản chất của nó. Hình tượng nghệ thuật bao hàm cả sự phóng đại, cường điệu, cả sự tỉa xén, nhào nặn. Hình tượng nghệ thuật là kết quả của trí tưởng tượng và tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ.             Phản ánh và sáng tạo là hai mặt của quá trình sản sinh ra hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật một mặt là hình ảnh của thế giới khách quan, mặt khác là sự sáng tạo lại thế giới khách quan ; một mặt là ý thức tư tưởng mặt khác là hoạt động thực tiễn vật chất của nhà văn; một mặt là khách thể tinh thần mặt khác là thế giới hiện thực (tự nhiên thứ 2).             b. Cụ thể và khái quát

50

Page 51: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Cả hình tượng nghệ thuật và khái niệm khoa học đều là sự phản ánh hiện thực khách quan; đều không phải là sự lặp lại hiện thực. Nhưng nếu khái niệm khoa học là sự trừu tượng hóa cái chung ra khỏi cái cá biệt, cụ thể của đối tượng thì hình tượng nghệ thuật lại phản ánh cái chung thông qua cái cá biệt, cụ thể cảm tính trong dạng thái bản thân cuộc sống.             Một công thức khoa học cũng như một hình tượng nghệ thuật đó là sự thống nhất biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Nhưng nếu như công thức khoa học, phép biện chứng này được biểu lộ thông qua cái chung thì ở hình tượng nghệ thuật phép biện chứng này lại được biểu lộ thông qua cái riêng, cái đơn nhất. Một hình tượng nghệ thuật là tổng hòa các phẩm chất , thuộc tính, đặc điểm tiêu biểu cho một hiện tượng nhất định, con người nhất định. Hình tượng nghệ thuật là nơi phơi bày sự phong phú của cái cá biệt, tính muôn vẻ của các hiện tượng. Hình tượng nghệ thuật tác động trực tiếp vào giác quan của chúng ta. Tiếp xúc với hình tượng nghệ thuật là tiếp xúc với những bức tranh những sự vật, những hiện tượng, những cảnh đời, những con người, những số phận riêng lẻ, cụ thể đang sống, vận động trong một tương quan cụ thể. Nội dung cụ thể của các tác phẩm là không hề bao giờ lặp lại nhau. Ðiều đó có nghĩa là các hình tượng nghệ thuật mang tính cá biệt - kể cả hình tượng phong cảnh tự nhiên và hình tượng nhân vật. Có biết bao nhân vật xuất hiện trong các sách ta đã đọc nhưng có ai giống ai đâu. Sự riêng biệt của các nhân vật không phải chủ yếu ở tên gọi, hình hài diện mạo mà chủ yếu ở tính cách, ở cá tính. Có người đã nhận định : nền văn chương nhân loại là một phòng triển lãm các tính cách, là nơi phơi bày sự đa dạng phong phú của cốt cách, phẩm chất của con người.             Tính cá biệt cụ thể của hình tượng không chỉ biểu hiện ở chỗ miêu tả trực quan có tính chất tạo hình các sự vật và con người riêng biệt mà còn là ở chỗ : nhưng tâm trạng của các nhân vật. Mỗi bài thơ trữ tình là mỗi một trạng thái tình cảm, suy nghĩ riêng của nhà thơ, của nhân vật trữ tình. Nếu như hiện tượng phong phú hơn quy luật, thì tính cụ thể, cá biệt của hình tượng đem đến cho con người sự nhận thức về tính đa dạng, phong phú của hiện tượng. Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng nói với độc giả về một vấn đề gì đó của đời sống. Bạn đọc thông qua những chi tiết, hình ảnh … của hình tượng để hiểu về đời sống. Tính cụ thể, cá biệt của hình tượng, vì vậy hàm chứa ý nghĩa khái quát . Trong hình tượng nghệ thuật không có chỗ cho những chi tiết, hiện tượng ngẫu nhiên. Trong nghệ thuật cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Chị Út Tịch 6 con ở xã Tam Ngãi huyện Cầu Kè với những đặc tính rất riêng biệt. Nhưng chị Út Tịch còn là người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Qua chị, ta hiểu được một lớp người và thậm chí, có thể hiểu cả một dân tộc, một thời đại.

            Trong hình tượng nghệ thuật cái cụ thể và cái khái quát xuyên thấu vào nhau, xoắn xuýt lẫn nhau; cái khái quát chuyển ra dưới dạng cái cụ thể, cái cụ thể lại chuyển vào cái khái quát, cái này chuyển thành cái kia; cả hai hòa với nhau làm một. Balzac đã nói: Tư tưởng phải trở thành nhân vật             c. Chủ quan và khách quan   TOP

            Tất cả các hình thái ý thức xã hội đều không chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan mà còn là sự biểu hiện thế giới chủ quan. Lénine đã chỉ rõ : Tư tưởng không chỉ là nhận thức mà còn là ý nguyện của con người. Ðiều này đúng với cả nghệ thuật. Và hơn thế, trong nghệ thuật ý nguyện của con người (những rung cảm, hưng phấn, khát vọng …) là một đòi hỏi có tính tất yếu, là bản chất. nhà văn hướng tới đối tượng của mình không phải với tư cách là người chiêm ngưỡng mà với tư cách là chiến sĩ đấu tranh tích cực vì những lí tưởng của mình. Bélinski đã từng khẳng định : tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống để mà miêu tả, không có sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó có nguồn gốc từ trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó không phải là tiếng kêu đau khổ , một lời ca sung sướng, một câu hỏi đặt ra hay một câu trả lời. Trong hình tượng nghệ thuật, sự giống với tự nhiên không phải là yêu cầu duy nhất, chưa phải là tất cả tính chân thực. Tính chân thực của nghệ thuật còn bao hàm cả việc phản ánh chân thực cảm xúc, cảm nhận và sự đánh giá về thực tại của người sáng tác. Trong tác phẩm nghệ thuật, sự biểu hiện nhân cách cá tính độc đáo của người sáng tạo cũng quan trọng như sự tái hiện chân thực hiện thực đời sống . Khái niệm khoa học có thể có hoặc không có chứa đựng sự đánh giá, nhưng hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là bản

51

Page 52: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

án đối với hiện thực , bao giờ cũng là sự đánh giá về hiện thực. Trong hình tượng nghệ thuật, hiện thực được phản ánh dưới ánh sáng của một lí tưởng, thẩm mĩ xã hội nhất định, dưới ánh sáng của các phạm trù cái đẹp và cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn…             Nhưng, sự đánh giá trong hình tượng nghệ thuật không phải là những lời bình luận đưa từ ngoài vào. Sự đánh giá về nghệ thuật nằm ngay trong bản chất của hình tượng. Một hình tượng nghệ thuật vừa bao hàm sự phản ánh về hiện thực vừa bao hàm sự đánh giá về hiện thực đó. Nghĩa là, bằng hình tượng nghệ thuật nhà văn phản ánh để đánh giá và đánh giá qua việc phản ánh hiện thực. Cái khách quan và chủ quan ở đây xuyên thấu vào nhau.             d. Lí trí và tình cảm             Cùng với khoa học, nghệ thuật có nhiệm vụ giúp con người nhận thức về thế giới, về con người và đời sống. Các hình tượng nghệ thuật, vì vậy tác động vào lí trí con người. Qua hình tượng, nhà văn bày tỏ quan điểm, quan niệm và lí giải những vấn đề đời sống. Bất kỳ một hình tượng nghệ thuật nào cũng chứa đựng trong đó những nhận thức của người sáng tác. Qua hình tượng nghệ thuật, bạn đọc tiếp nhận được những vấn đề về đời sống, lí trí bạn đọc bao giờ cũng được soi sáng, nhận thức của bạn đọc bao giờ cũng được mở rộng, nâng cao.             Nhưng nếu như khái niệm khoa học là kết quả của lí trí thì hình tượng nghệ thuật lại có sự thống nhất của hai yếu tố : lí trí và tình cảm. K. Marx viết : Con người khẳng định mình trong thế giới vật thể không chỉ bằng tư duy mà còn bằng tất cả cảm xúc. Ðiều này được bộc lộ đặc biệt rõ ràng trong nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật vừa thức tĩnh lí trí lại vừa rung động trái tim. Hai mặt thức tĩnh và rung động này của nghệ thuật hòa quyện vào nhau. Từ rung động mà thức tĩnh càng thức tĩnh càng rung động hơn. Giá trị thức tĩnh của hình tượng nghệ thuật to lớn bao nhiêu là do sức rung động Mácnh liệt bấy nhiêu. Ðối với nghệ thuật, không thể nói giá trị nhận thức to lớn mà lại không gắn liền với một tình cảm mạnh mẽ được. Thậm chí giá trị nhận thức của nghệ thuật chỉ có thể có được khi nghệ thuật đó tác động vào tình cảm con người.             Tình cảm đối với nghệ thuật là quy luật. Ðồng chí Lê Duẫn đã khẳng định : thường thường triết học giải quyết vấn đề lí trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm và nói đến nghệ thuật là nói đến quy luật riêng của tình cảm.             Do vậy, hình tượng bao giờ cũng là kết quả của tình cảm chín muồi của nhà văn trước những vấn đề đời sống. Nguyên nhân thành công của Truyện Kiều về cơ bản chính là sự đau đớn của tác giả đối với thân phận người phụ nữ trong xã hội vạn ác. Phải có một tình cảm cháy bỏng "Lệ chảy quanh thân Kiều" như Nguyễn Du mới có tuyệt tác Truyện Kiều. Tâm sự về thơ, Tố Hữu khẳng định: "Thơ là từ trái tim đi rồi về trái tim". Nhà văn phải có tình cảm với cuộc sống, rồi những "hình bóng" của đời sống - hình tượng do nhà văn tạo nên thấm đượm tình cảm và tình cảm đó lây lan qua bạn đọc.             Nếu như tình cảm có thể là nguyên nhân sâu sa của sự ra đời một công thức khoa học, nhưng bản thân nó không gắn liền trực tiếp với tình cảm của người sáng tạo ra nó, thì, ở hình tượng nghệ thuật tình cảm không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả. Quá trình xây dựng hình tượng cũng như quá trình hình thành khái niệm khoa học là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Song điểm khác biệt của tư duy trừu tượng là trên mọi giai đoạn của tư tưởng đều gắn liền với cảm xúc. Tư tưởng không tách khỏi hình tượng và được thể hiện trong hình tượng đầy cảm xúc, nên hình tượng, không chỉ hướng va lí trí mà còn hướng vào cảm xúc chúng ta.             Chính ở đây ta hiểu thêm lí do tại sao hình tượng nghệ thuật lại mang tính cá biệt, cụ thể cảm tính. Tình cảm con người nảy sinh do chỗ tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng cụ thể sinh động, riêng lẻ của thế giới bên ngoài. Nhà văn muốn truyền đạt tới bạn đọc tư tưởng và tình cảm của mình thì không thể không làm cho tư tưởng tình cảm đó có hình hài xương thịt của đời sống, không thể không làm cho tư tưởng hình tượng của mình có một dạng thái của đời sống - một "tự nhiên thứ 2" trong một chất liệu nhất định của đời sống. Tính sinh động của hình tượng là yêu cầu đối với nghệ sĩ, là bản chất của hình tượng. Lénine viết: "nắm lấy cái sinh động - chính là sức mạnh của nghệ sĩ".             đ. Tạo hình và biểu hiện

52

Page 53: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Xét về mặt quá trình vận động của tư duy thì quá trình vận động của tư duy logic là đi từ những hình tượng cá biệt riêng rẽ để rút ra cái chung cái quy luật. Trong quá trình này người ta tiến hành gạt bỏ những cái ngẫu nhiên để đi đến cái chung. Nhưng trong cái chung  khi đã được rút ra thì tách hẳn khỏi cái riêng. Còn ở tư duy nghệ thuật cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cụ thể thống nhất ngay từ đầu và cái chung, cái khái quát được biểu hiện qua cái riêng, cái cụ thể. Nếu như yếu tố ngẫu nhiên, tạm thời lạ với tư duy khoa học, thì nó lại có chỗ đứng trong tư duy nghệ thuật. Quá trình phát hiện bản chất của sự vật và quá trình lựa chọn, sáng tạo những chi tiết cụ thể gợi cảm bộc lộ bản chất sự vật kết hợp hữu cơ với nhau. Nhà văn, nhà nghệ sĩ luôn luôn nghiền ngẫm, nhìn nhận và thể hiện đối tượng trong dạng thái tổng hợp sinh động, họ không một phú rời bỏ cái cụ thể, cá biệt. Nhà nghệ thuật âm nhạc vĩ đại Tchaikovski nói :             "Tôi không bao giờ sáng tác một cách trừu tượng, nghĩa là bao giờ tư tưởng âm nhạc cũng hiện ra trong tôi dưới một hình thức bề ngoài thích ứng với nó. Như vậy, tôi phát hiện ra tư tưởng âm nhạc cùng một lúc với sự phối khí".             Từ cơ sở tư duy này mà hình tượng nghệ thuật có thuộc tính tạo hình. Các hình tượng nghệ thuật … là đứa con tinh thần của nhà văn. Nhưng không vô hình mà tồn tại một cách cụ thể, cảm tính trong một chất liệu vật chất nhất định. Ðứa con tinh thần của nghệ sĩ luôn luôn có hình hài cụ thể, tồn tại trong không gian, thời gian và trong những mối quan hệ nhất định. Người ta chỉ có thể hiểu được phần hồn đứa con của nghệ sĩ thông qua phần xác của nó. Do đó, phần xác của hình tượng không phải là một thứ áo khoác ngoài, một loại nước sơn mà nó thực sự là một hình thức tồn tại một cách cụ thể vật chất của hình tượng. Không có nó thì không có hình tượng. Tính tạo hình của hình tượng đã khiến cho người thưởng thức nó luôn luôn có cảm giác là đấy không phải là tư tưởng mà là cuộc sống thực. Tính tạo hình của hình tượng không chỉ bao hàm việc tái tạo không gian hay ngoại hình của đối tượng mà điều quan trọng là tạo dựng cả thời gian, cả những mối quan hệ, cả nội tâm - những cái không thể sờ thấy, nhìn thấy. Nguyễn Du viết :                         Ðầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông             Thì ta không chỉ nhìn thấy hoa lựu đỏ như lửa ở đầu tường (màu sắc, không gian) mà ta còn thấy được cả sự vận động của nó trong thời gian : đang nở - lập lòe đâm bông. Ta biết hoa lựu nở qua động từ "đâm" nhưng ta thấy hoa lựu nở qua từ 'lập lòe" . Tính tạo hình làm cho hình tượng tương đồng với đối tượng nhưng hình tượng không phải là sự lập lại, bắt chước đơn giản hay sự thống kê, liệt kê. Nhà văn chọn lọc những chi tiết có ý nghĩa nhất để tạo dựng hình tượng. Cho nên, hình tượng nghệ thuật nhiều khi là "những nét chấm phá" nhưng từ một giọt nước mà thấy biển cả, từ một cây mà thấy cả rừng. Như vậy, tạo hình là một đòi hỏi tất yếu nhưng lại không phải là mục đích cuối cùng. Qua tạo hình mà biểu hiện. Thông qua tạo hình mà hình tượng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất, cái vô hình. Mọi chi tiết tạo hình chỉ có ý nghĩa khi nó là sự nén chặt năng lượng. Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện làm cho hình tượng mang tính đa nghĩa, vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian, vừa gợi tình huống, tính cách và thái độ của tác giả, và cũng vì vậy, trong hình tượng nghệ thuật mọi chi tiết có ý nghĩa và chức năng của chúng. Không có chi tiết thừa.

            e. Hư cấu và tưởng tượng   TOP

            Sự thống nhất giữa tính cá biệt, cảm tính cụ thể với tính khái quát là một đặc điểm hết sức quan trọng của văn chương. Vì nghệ thuật yêu cầu nhận thức quy luật của đời sống bằng hình tượng. Bản chất của cuộc sống trong nghệ thuật được thể hiện dưới dạng thức của chính đời sống. Tuy nói hiện tượng phong phú hơn quy luật song không phải ở đâu và bao giờ mọi hiện tượng của đời sống đều mang trong mình nó tính quy luật cả. Hơn nữa không phải bản thân nhưng hiện tượng mang trong mình nó tính quy luật đều trôi hơn, đều dễ thấy và đều thường xảy ra. Mặt khác, nhà văn là người đón đầu thời đại, tác phẩm văn chương không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc sống một cách thụ động mà còn phải hướng đạo cuộc sống. Cuộc sống trong tác phẩm vừa là cuộc sống diễn ra ngoài đời, đồng thời phải là cuộc sống tất phải diễn ra và cần thiết phải diễn ra nhưng chưa diễn ra. Tình hình mâu thuẫn này đặt ra cho nhà văn một nhiệm vinh quang là "hợp lí hóa" sự mâu thuẫn đó. Nhà văn bằng vào kinh nghiệm cuộc sống, bằng vào tài năng và trí tuệ của mình tiến hành công việc : so sánh đối chiếu, khám phá, phát hiện để tìm thấy các hiện tượng chứa nhiều yếu tố quy luật, vứt bỏ, gạt ra ngoài những yếu tố ngẫu nhiên; chọn lấy yếu tố bản chất nhất, quan trọng nhất, trên

53

Page 54: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

cơ sở đó bằng vào trí tưởng tượng nhà văn tạo nên những sự kiện, những hiện tượng, những con người thật sinh động, cụ thể nhưng mang trong mình nó đầy đủ tính quy luật. Công việc này trong nghệ thuật gọi là hư cấu. Hư cấu nghệ thuật chính là quá trình tập hợp, lựa chọn, sắp xếp tài liệu từ nhiều hiện tượng khác nhau, trên cơ sở đó thông qua trí tưởng tượng nhà văn sáng tạo ra một hiện tượng cá biệt mới, hiện tượng này thể hiện được bản chất đời sống một cách sinh động, trong sáng và tập trung.             Có thể gọi quá trình xây dựng một tác phẩm văn chương là quá trình hư cấu nghệ thuật. Ðiều này càng khẳng định thêm rằng tác phẩm nghệ thuật không phải là sự đơn thuần chụp ảnh máy móc cuộc sống hay kiểu "thấy gì ghi nấy" tùy tiện được. Tình hình này đặt ra một vấn đề, một yêu cầu quan trọng không thể thiếu được, đồng thời là một yêu cầu thể hiện tài năng nhà văn đó là trí tưởng - sáng tạo. Trên cơ sở tài liệu đã được lựa chọn, bằng vào trí tưởng tượng - sáng tạo, nhà văn xây dựng nên những sự kiện nghệ thuật đó là có sự dung hòa, xuyên thắm giữa cái cá biệt và cái khái quát, giữa cái hiện tượng và bản chất, giữa yếu tố và hệ thống, giữa chung và riêng …             Cho nên, sự kiện nghệ thuật là sự kiện cuộc sống được chỉnh lí lại, nó cô đọng hơn, điển hình hơn trong cuộc sống, bằng vào nó mà người đọc nhận thức cuộc sống nhanh hơn, nhạy hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn.             Gorki đã định nghĩa quá trình hư cấu như sau : "Hư cấu là kết thúc quá trình nghiên cứu, lựa chọn tài liệu, làm cho tài liệu ấy thành một điển hình xã hội sinh động, có ý nghĩa tích cực hay tiêu cực."             L. Tolstoi kể lại việc sáng tác của mình, một công việc khó khăn phức tạp, đầy suy ngẫm trong quá trình hư cấu :             Tôi chán và chẳng viết gì cả, tôi làm việc rất khổ não. Anh không thể hình dung được là tôi đã gian nan như thế nào trong bước đầu cày sâu, trên cánh đồng mà trên đó tôi buộc lòng phải gieo. Cân nhắc rồi suy đi nghĩ lại Máci tất cả những điều có thể xảy ra với những nhân vật trong tác phẩm tương lai. Tác phẩm lớn lắm, suy nghĩ, cân nhắc có đến hàng triệu điều có thể kết hợp được, để chọn lấy trong số đó một phần triệu thôi - thật là khó khăn vất vả một cách kinh khủng.             Tưởng tượng trong quá trình hư cấu phải đến mức dường như chính mình là nhân vật vậy. Balzac tưởng tượng đến mức:             Cảm thấy trên lưng mình có những quần áo rách nát, còn dưới chân thì có những giày dép há mõm, thủng lỗ của những con người nghèo đói mà tác giả đang viết về họ.             Flaubert lại hóa thân vào nhân vật để sáng tạo:             Thật là một điều kỳ diệu, viết không phải là sống thu hẹp lại trong bản thân mình mà phải quay về với toàn bộ cuộc sống mà mình nói đến. Chẳng hạn như năm nay tôi là đàn ông lại vừa là đàn bà, kiêm cả đôi trai gái yêu nhau cưởi ngựa dạo chơi trong rừng, giữa một buổi trưa mùa thu dưới lá vàng, gió heo may, vang rộn tiếng cười và ánh mặt trời đỏ tía, làm những đôi mắt say sưa vì yêu đương phải ngắm lại và cứ từng phút, từng giây tôi phải đặt mình vào địa vị vào những người mà tôi ác cảm, tôi phải cố gắng hết sức lắm mới hình dung nổi các nhân vật của mình và nói thay cho họ, khốn nỗi họ lại làm cho tôi ghê tởm một cách sâu sắc.             Nhờ vào tài năng hư cấu nghệ thuật  mà người nghệ sĩ tạo ra được những hình tượng rõ ràng, xác thực, đầy sức hấp dẫn và thuyết phục.             Phạm Văn Ðồng nói : Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tế xã hội.             Sóng Hồng viết :

                        Tôi tán thành phải sáng tạo trong thơ                                     Ðừng nhai lại như voi ăn bã mía.             Tố Hữu viết : Cuộc sống muôn hình nghìn vẻ, nghệ thuật không thể lặp lại, nghệ thuật bao giờ cũng sáng tạo.             Ông đặc biệt nhất mạnh yếu tố tưởng tượng trong văn chương đặc biệt là trong thơ : Thơ là nghệ thuật kỳ diệu nhất của trí tưởng tượng.             Tưởng tượng và sáng tạo là vô cùng quan trọng trong sáng tác nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng. Bởi vì nghệ thuật không chụp ảnh lại thực tại xã hội mà là sáng tạo lại thực tại xã

54

Page 55: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hội. Nhưng cần lưu ý rằng tưởng tượng sáng tạo không phải là bịa đặt hoặc là vũ đoán hay ảo tưởng. Mà, những điều tưởng tượng ra phải hợp lí, hợp logich của đời sống, có gốc rễ trong đời sống. Muốn có điều này nhà văn phải hiểu nhiều biết rộng và bám sát lấy mảnh đất thực tế. Thoát ly thực tế mà tưởng tượng thì không thể tránh khỏi bịa đặt giả dối. Phản ánh luận Lénine cho thấy : ý thức phản ánh tồn tại. Vật chất quyết định ý thức. Cho nên sẽ không thể sáng tác được, không thể tưởng tượng ra điều gì hợp lí nếu không có thực tế, không bám vào thực tế. Những yêu cầu đi sâu, bám sát thực tế đối với nhà văn của với Ðảng ta có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Ði vào thực tế, cắm rễ sâu ở các cơ sở sản xuất, công tác, lao động, chiến đấu, tham gia tích cực vào hoạt động xã hội, chẳng những nhà văn trưởng thành về lập trường tưởng tượng mà có còn là nguyên nhân sâu sa : giúp nhà văn nâng cao tay nghề, tài năng và sáng tạo. Cái thực tế vĩ đại - hoạt động thực tiễn sản xuất và chiến đấu của nhân dân sẽ là bệ phóng cho trí tưởng tượng. Tưởng tượng chắp cánh cho công việc hư cấu nghệ thuật và từ đó làm cho hình tượng văn chương xác thực hơn và gần cuộc sống hơn. Nhà văn có vốn hiểu nhiều biết rộng, vũ trang cho mình thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng là cơ sở chắc chắn để cho trí tưởng tượng mình bay bổng nhưng lại không vượt ra ngoài quỹ đạo của đời sống cũng như quy luật và quy tắc phản ánh của nghệ thuật. Có sự hiểu nhiều biết rộng, có nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn thì cuộc sống nên có mà tác phẩm đặt ra theo giả định của nhà văn là có cơ sở thực tế và cơ sở khoa học, từ đó hình tượng có sức thuyết phục hơn. Cũng nhờ hiểu sâu biết rộng, có nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn mà trí tưởng tượng của nhà văn không hề bay bổng đến mức hư ảo, thoát ly hiện thực. Ðiều này ta thấy rất rõ hiện tượng một số nhân vật của tác giả đã tỏ ra bất kham với dự định ban đầu của nhà văn trong quá trình sáng tác. Có những nhân vật theo dự kiến chủ quan ban đầu là phải thế này nhưng trong quá trình sáng tác vì tuân theo logic cuộc sống nhân vật đó lại trở thành thế khác. Có những nhân vật theo ý muốn tốt đẹp của nhà văn là phải sống, nhưng thể hiện nó vào tác phẩm thì nó phải chết. Nếu tác phẩm nghệ thuật là nhận thức thì cuộc sống là thước đo của sự nhận thức đó. Lénine chỉ rõ :  thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo của nhận thức. Bám sát thực tiễn tuân thủ những nguyên tắc của đời sống, nghệ sĩ chân chính không bao giờ uốn cong ngòi bút theo ý muốn chủ quan, đã đành, nhà văn còn có thể dùng ngòi bút để đón đầu thời đại, dự kiến tương lai một cách có căn cứ.

Trường hợp I.Tolstoi viết Sống lại là một ví dụ. Ông ta phải thay đổi kết cấu câu chuyện sau rất nhiều lần tìm tòi, suy nghĩ. Câu chuyện tình yêu giữa Nekholiudov và Maxlov được viết lần đầu theo một chiều hướng tốt đẹp : Nekholiudov lấy Maxlov làm vợ, sống với nhau ở Xibêri, biên soạn trước tác về vấn đề chiếm hữu ruộng đất và dạy học ở trong vùng … Nhưng vừa qua bản thảo đầu tiên đó, tác giả thấy cần phải thay đổi bố cục : trọng tâm câu chuyện trước kia là ở Nekholiudov nay phải chuyển sang Katiusa. Ông thấy cách kết thúc tốt đẹp trước đây là không thực tế, trái với sự thật cuộc sống, làm mờ mắt những mâu thuẫn xã hội đang tồn tại hiển nhiên trước mắt ông. L.Tolstoi đã tự nhận thấy tại sao Sống lại bị bế tắc mặc dù nó đã được viết ra. Bởi vì, - ông nói: Tôi đã xuất phát sai. Tôi nhận thấy rằng tôi cần phải xuất phát từ đời sống nông dân. Nông dân mới là mục tiêu, mới là cái chính diện, còn cái kia (đời sống của giai cấp thống trị) chỉ là bóng tối, chỉ là cái phản diện, cần phải xuất phát từ cái chính diện. Vì ông cảm thấy rằng việc Nekholiudov, một gã quý tộc giàu có vì cắn xé lương tâm đã nhường lại điền trang để theo đuổi và quyết tâm lấy Maxlov cô gái ở đã bị anh quyến rũ rồi bỏ rơi trước đây làm vợ, L. Tolstoi không hoàn toàn thỏa mãn. Ông tự phê phán: tất cả đều là bịa đặt, kém cỏi …. Vì vậy, cho nên đến cuối 1888, L. Tolstoi đã viết lại tác phẩm lần cuối, chiều hướng câu chuyện lần này thay đổi hoàn toàn. Cái kết thúc tốt đẹp cũ bị bỏ đi và thay vào đấy một kết thúc thực tế hơn: Maxlova từ chối đề nghị của Nekkholiudov, tiếp xúc với anh em tù chính trị, nàng đã được sống lại và lớn lên.

Ta cũng có thể thấy một trường hợp viết lại cho hợp lí hơn ở Tô Hoài về chuyện ngắn Vợ chồng A Phủ và chuyện phim Vợ chồng A Phủ. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Mỵ sau khi cởi trói cho A Phủ thì cùng A Phủ chạy thoát khỏi nhà thống lí Pá- Tra đến khu du kích nhưng trong chuyện phim Vợ chồng A Phủ thì Mỵ không chạy thoát được, cứu được A Phủ nhưng Mỵ không thể cứu nổi mình trong vòng vây và đêm đen dày đặc của bọn chúa đất dưới tầm tay thực dân Pháp. Mỵ chỉ thực sự được giải thoát khi A Phủ và bộ đội về giải phóng. Sửa đổi chi tiết này, câu chuyện thực hơn, giá trị tố cáo sâu sắc hơn.

55

Page 56: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Từ những sự phân tích trên, ta thấy rõ ràng: hư cấu nghệ thuật không hề mâu thuẫn với hiện thực, trái lại nó làm cho nghệ thuật gần cuộc sống hơn, chân thực hơn, phong phú hơn. Bởi hư cấu không gì khác hơn là sự chắt lọc tính chất cuộc sống, sắp xếp chúng lại trong một cơ cấu nhất định dưới ánh sáng của một lí tưởng nhất định. Hư cấu như là một ống kính kỳ diệu soi cho thấy bản chất của đời sống, gạt ra ngoài những gì là ngẫu nhiên, đang che lấp cái bản chất, chỉ ra lối đi lên của cuộc sống mà chính nó đang manh nha ở ngoài đời.

            g.Thẩm mĩ và nghệ thuật   TOP

Hình tượng khác một cách căn bản với khái niệm khoa học ở tính thẩm mĩ và nghệ thuật của nó. Tính thẩm mĩ và nghệ thuật của hình tượng đã sản sinh ra một năng lực diệu kỳ: sức lay động tình cảm dữ dội, sức thức tĩnh tư tưởng lớn lao, sức lôi cuốn hành động mạnh mẽ ở con người. Ðó là sức mạnh không gì cưỡng lại được của nghệ thuật. Diderot đặt ra yêu cầu đối với nghệ thuật sáng tạo hình tượng: Trước hết anh phải làm cho tôi cảm động, kinh hoàng, đê mê, anh phải làm cho tôi sợ hãi, run rẫy, rơi lệ hay căm hờn. Ðể đạt được năng lực thẩm mĩ như vậy, bằng trí tưởng tượng, tài năng sáng tạo của mình, nhà văn phải hợp lí hóa nhiều phương diện, thuộc tính khác nhau thậm chí trái ngược nhau vào trong mối chỉnh thể thống nhất để tạo ra hình tượng nghệ thuật : cụ thể và khái quát, hình thức và nội dung, lí trí và tình cảm, chủ quan và khách quan, tạo hình và biểu hiện, ước lệ và hư cấu, … Quá trình xây dựng hình tượng là một quá trình khắc phục khó khăn của nhà văn. Quá trình đó để lại dấu ấn tài năng trong hình tượng nghệ thuật, tạo ra tính nghệ thuật của hình tượng. Tính nghệ thuật vừa là thuộc tính vừa là giá trị của hình tượng. Ðặc trưng nghệ thuật của hình tượng là ở chỗ tính sinh động của chi tiết của hiện thực được phản ánh, chiều sâu nhận thức và tầm cao ý nghĩa của tư tưởng, tính thống nhất giữa các mối liên hệ và sự phù hợp giữa các yếu tố, sự hoàn thiện của hệ thống ngôn từ. Hình tượng nghệ thuật là kết quả nhào nặn một chất liệu vật chất nào đó của đời sống của nghệ sĩ, nhưng không phải để tạo ra một vật phẩm vô tri như mọi sản phẩm vật chất của sản xuất, mà nó tạo ra một sinh thể mới. Sinh thể này có sức sống động diệu kỳ, nó lung linh, xáo xạc; nó tươi mát ngon lành, nó vận động và biến đổi … Khi Nguyễn Du viết:

- Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày                         - Ðầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông. Thì những cảnh vật này sống động hơn rất nhiều so với cảnh vật thực ngoài cuộc đời. Sự

vận động và sinh sôi của chúng khó có thể nhận thấy bằng mắt ở ngoài thực tế thì trong thơ Nguyễn Du chúng ta dường như trực tiếp chứng kiến: cỏ thì đang lan ra, rêu thì đang phong lại   còn hoa lựu thì đang nở lập lòe.

Không chỉ cảnh vật mà con người trong nghệ thuật cũng sống động. Nó không phải là những khái niệm người mà là những con người cụ thể có tính cách, có cá tính , có số phận riêng, biết suy nghĩ, biết hành động v.v… Tính sinh động này của hình tượng nghệ thuật đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu đã xem nghệ thuật là một hình thức của đời sống, hay xem hình tượng là những bức tranh của cuộc sống hay xem hình tượng là hiện thực thứ 2, tự nhiên thứ 2. Nhưng tính sinh động của hình tượng không chỉ ở những cảnh, những người được miêu tả mà mà còn ở cả những tâm trạng được biểu hiện. Một tác phẩm nghệ thuật có muôn vàn tâm trạng, một tâm trạng có muôn cách biểu hiện.

Nỗi cô đơn rợn ngợp: Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng bến cô liêu. (Huy Cận)

Sự tang thương: Lởm chởm vài hàng tỏi Lơ thơ mấy khóm gừng Vẻ chi là cảnh mọn Mà cũng đến tang thương

56

Page 57: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

                                    (Ôn Như Hầu) Rặng liễu đìu hìu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

                                                (Xuân Diệu) Niềm suy nghĩ:

Mái gianh ơi hởi mái gianh Ngấm bao sương nắng mà thành quê hương

                                                (Trần Ðăng Khoa) Sáng tạo hình tượng nghệ thuật là để khám phá ra những vấn đề cuộc sống. Tác phẩm nghệ

thuật là câu hỏi đặt ra hay câu trả lời. Mỗi hình tượng nghệ thuật là một vấn đề tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật là tư tưởng - thẩm mĩ. Tính nghệ thuật của hình tượng bộc lộ quan trọng nhất ở chiều sâu tư tưởng và tầm cao ý nghĩa. Khi Trần Ðăng Khoa viết:

Mái gianh ơi hởi mái gianh Ngấm bao sương nắng mà thành quê hương

thì em đã gợi cho ta biết bao suy nghĩ về tổ quốc quê hương. Có biết bao nhiêu nhà thơ định nghĩa về quê hương:

- Quê hương là câu tre nhỏ   Mẹ về nón là nghiêng che - Quê hương là đường đi học - Ðất là nơi anh đến trường - Nước lànơi em tắm

Ðất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. - Ngàn năm tổ quốc quê hương Là hòn đất trộn với xương máu mình v.v…

Nhưng có lẽ thấm thía nhất vẫn là câu thơ của Trần Ðăng Khoa. Quê ta nghèo, đơn sơ nhưhg quê hương ta đã trải bao buồn vui, chìm nỗi, người dân trải biết bao khổ nắng mưa để gầy dựng nên quê hương. Quê hương ta bình dị nhưng là tất cả. Chúng ta phải trân trọng, yêu thương, giữ gìn nơi đã sinh ra chúng ta…

Hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng chứa đựng nhiệt tình và niềm tin của tác giả trước hiện thực và bộc lộ ra ở cảm hứng chỉ đạo trong sáng tác, do đó bao giờ hình tượng cũng có tính khuynh hướng. Không có nghệ thuật vô can, nghệ thuật nào cũng có tính khuynh hướng. Không có khuynh hướng thì nghệ thuật sẽ không có sức lay động tư tưởng. Khuynh hướng tư tưởng - cảm xúc cũng là một tiêu chuẩn của tính nghệ thuật. Một con người như Chí Phèo nếu ta gặp ở đâu đó nơi đầu đường, xó chợ ngoài cuộc đời thì cảm giác của chúng ta về chí có lẽ cũng là cảm giác của dân làng Vũ Ðại về Chí: kinh sợ con thú dữ của làng. Nhưng dưới ngòi bút có vẽ khách quan, lạnh lùng đối với Chí của Nam Cao thì chúng ta suy nghĩ về Chí rất khác: thương đau một số phận nhân từ bị đẩy vào con đường cô cùng, căm ghét những thế lực tàn bạo vô tâm, đã vùi dập Chí, trân trọng bản chất nhân tính tiềm tàng trong con người Chí, đồng tình với hành động hung bạo của Chí đối với Bá Kiến. Cảm giác chung khi ta gặp cuốn truyện Chí Phèo lại là một sự nhức nhói không cùng và một tin tưởng vô cùng ở con người .

Khi nói hình tượng nghệ thuật là một cơ thể sống thì không thể chỉ hiểu nó ở góc độ tính sinh động mà quan trọng hơn là khẳng định tính trọn vẹn, tính cơ thể, tính hệ thống của nó. Một cơ thể sống là phải có sự tương hợp , hài hòa của tất cả các yếu tố đã cấu tạo nên nó. Hình tượng nghệ thuật là một hệ thống của nhiều yếu tố được bàn tay kỳ diệu của nghệ sĩ tổ chức nên. Hình tượng nghệ thuật không có yếu tố thừa và thiếu, mọi yếu tố đều có chức năng riêng nhưng lại phù hợp với nhau, có mối liên hệ đa dạng mà thống nhất, phức tạp mà hoàn chỉnh. Tài năng tổ chức hình tượng, tác phẩm của nhà văn làm cho hình tượng có tính nghệ thuật và kết cấu. Xây dựng hình tượng, kết cấu tác phẩm là một công việc cực kỳ khó khăn, xây lên rồi phá xuống, sửa đi sửa lại. Ðể có được một hình tượng thơ Tràng giang hoàn chỉnh, Huy Cận đã trải qua 17 bản thảo. Tư tưởng bao quát của bài thơ đã được biểu hiện trong cấu tứ ban đầu, nhưng rồi cảm hứng thi ca, vẫn lên xuống, đi

57

Page 58: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

về, không ổn định, lập ý, còn thiếu cụ thể. Hình ảnh chọn lọc chưa thật phù hợp, ngôn ngữ chưa sinh động. Nội dung chưa hình thàh trọn vẹn vì thiếu hình thức cân xứng để biểu hiện. Nhưng khi Tràng giang đã hoàn chỉnh thì mọi yếu tố trong bài thơ thật đích đáng và không thể khác được.

Biểu hiện quan trọng nhất của tính nghệ thuật xét về hình thức là sự hoàn thiện của hệ thống ngôn từ của hình tượng. Thật khó có thể nói thế nào là sự hoàn thiệb của hệ thống ngôn từ bởi vì không có một chuẩn mực ngôn từ nhất định nào cho hình tượng cả. Cũng không thể qui về sự giản dị hay phức tạp của cú pháp, sự chừng mực hay phong phú của từ loại, việc có hay không có những biện pháp tu từ, phương thức chuyển nghĩa v.v… Hệ thống ngôn từ đạt được ý nghĩa nghệ thuật chừng nào nó phục vụ đắc lực, tốt đẹp cho nhiệm vụ tư tưởng - thẩm mĩ của tác giả. Do đó, ngôn ngữ chỉ có giá trị nghệ thuật khi nó là chất liệu xây dựng hình tượng, phát huy năng lực tối đa khả năng nghệ thuật vốn có của mình trong hình tượng.

Người ta vẫn thường nói tới khả năng nghệ thuật của ngôn từ, đến đặc trưng của ngôn ngữ văn chương như tính hình tượng, tính biểu cảm, tính hàm xúc … song không phải sử dụng nhiều lớp từ có những đặc trưng trên thì tự nhiên tác phẩm đạt được tính nghệ thuật. Tất cả là ở chỗ sử dụng đúng và đắt, khai thác đúng ma lực của nó. Chữ tót trong từ điển đâu có ý nghĩa thẩm mĩ gì. Nhưng dưới bàn tay Nguyễn Du thì nó có ý nghĩa nghệ thuật, khi Nguyễn Du dùng để đặc tả một thế ngồi của Mác Giám Sinh :

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng Người ta Nguyễn Du đã giêt Mác Giám SInh bằng một chữ tót Từ trắng trong từ điển là tính từ chỉ một thứ màu, màu trắng. Nhưng khi nó xuất hiện trong

bài thơ Viếng hồn trinh nữ của Nguyễn Bính thì mang nét nghĩa khác: Một chiếc xe tang màu trắng đục Hai con ngựa trắng quấn song song Mang đi một chiếc quan tài trắng Với những vòng hoa trắng lạnh người Theo vết chân nàng khăn áo trắng Khóc hồn trinh trắng Máci không nguôi.

Nghĩa đen thì vẫn là trắng đấy nhưng nghĩa nghệ thuật là sự tring trắng và việ lặp đi lặp lại nhiều lần từ trắng để mô tả đám tangcủa người con gái làm tăng thêm nỗi đau xót. Cái chết của con người đã là đau xót, nhưng cái chết của người con gái tring trắng nữa thì đau xót biết chừng nào. Cũng với cách lặp từ trắng trong bài thơ Cát trắng của Nguyễn Duy có khác:

Bên ni cửa Tùng mênh mông cát trắng Bên tê cửa Tùng cát trắng mêng mông Cát trắng bên ni sao trắng lạnh, trắng lùng Trắng đất, trắng tay, trắng một vùng đất trắng.

Trắng ở đây không có liên quan gì với nét nghĩa trinh trắng ở bài thơ trên cả. Trắng ở đây phục vụcho một tư tưởng - thẩm mĩ khác: sự trắng trơn- sạch bách của đất quê hương dưới gót giày giặc.

     III. HÌNH TƯỢNG ÐIỂN HÌNH TOP

Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nói hình tượng là nói đến đặc trưng của văn chương nhưng chưa nói tới chất lượng của hình tượng đó. Tác phẩm nào cũng có tính hình tượng, vì đó là kết quả tất yếu của sự phản ánh có tính đặc thù của văn học. Nhưng không phải tác phẩm nào hình tượng văn chương cũng đạt được một chất lượng ngang nhau. Ðiển hình nghệ thuật là một khái niệm dùng để chỉ chất lượng của hình tượng.

Ðặc điểm cơ bản của hình tượng văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái quát. Và vì điển hình là khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên một hình tượng văn chương có tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc đáo thì hình tượng trong đó trở thành điển hình.

58

Page 59: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chẳng hạn, trong hàng loạt nhân vật của Tắt đèn thì hình tượng chị Dậu là điển hình. Ðiển hình văn học là hình tượng được khái quát một cách sinh động nhất, sâu sắc nhất, tính qui luật của con người, sự vật vả hiện tượng đời sống xã hội.          *. Ðặc điểm cơ bản của hình tượng điển hình

a. Tính cách điển hình Tính cách là những đặc điểm tâm lí tương đối ổn định nói lên cốt cách và phẩm chất của nhân vật. Vì tính cách là cốt cách, phẩm chất của nhân vật cho nên tính cách còn dùng để chỉ nhân vật.

Tính cách điển hình là tính cách có sự thống nhất sâu sắc giữa tính chung và tính riêng (tức là giữa cái khái quát và cái cụ thể).

Về mặt tính riêng (yêu cầu của tính riêng điển hình). -    Sự phong phú đa dạng của tính cách. C. Mác nói: Bản chất con người là tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Tính cách mà con

người điển hình phải phong phú, đa dạng như chính những quan hệ đa dạng của nó trong cuộc sống. Kiều được Nguyễn Du mô tả trong rất nhiều mối quan hệ với gia đình và ngoài xã hội, với

rất nhiều kiểu người khác nhau. -    Tính xác định của tính cách tức là tính cá biệt, tính có một không hai, tính duy nhất của

điển hình. Cuộc sống của con người là đa tạp nhưng hoàn toàn cụ thể, xác định. Do đó nghệ thuật cũng

phản ánh cho được tính xác định đó. Tính xác định của điển hình được biểu hiện tập trung ở cá tính. Cá tính của nhân vật là

những đặc trưng tương đối ổn định, nổi bật nhất, dễ thấy nhất, lắp đi lắp lại nhiều lần nhất như một cái khuôn, khuôn mọi biểu hiện của tính cách vào một số hình thái nhất định.

Aêngghen viết: Tính cách nhân vật không những biểu hiện ở chỗ nó làm gì mà còn ở chỗ nó làm như thế nào.[1] Chính làm như thế nào của tính cách là cá tính của nó. Ví dụ: cùng là ghen cả nhưng cái ghen của hoạn thư hoàn toàn khác cái ghen của phụ nữ bình thường. Ðó là cái ghen biểu thị tính giảo quyệt của mụ.

Lưu ý tính riêng của điển hình không phải là một nét, một khía cạnh, hoặc từng nét từng khía cạnh mà là sự tổng hợp những nét, những khía cạnh cụ thể, những cái xác định. vì những nét riêng lẻ không thể tiêu biểu cho bản chất thẩm mĩ của hình tượng; hình tượng nghệ thuật phải là sự tổng hợp hữu cơ của những đặc tính riêng muôn hình muôn vẻ cái cụ thể sở dĩ nó cụ thể vì là nó kết hợp của vô số những xác định, là sự thống nhất của cái nhiều vẻ. Muốn thể hiện nhân vật trong tính cá thể, xác định thì phải cá thể hóa - biện pháp cơ bản, tất yếu của việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, nhằm làm cho hình tượng nghệ thuật trở nên  cụ thể, cá biệt, cảm tính và đầy sức sống. Về mặt tính chung

Tính chung của tính cách là những đặc trưng có ý nghĩa khái quát, phổ biến của tính cách. Ðó là những đặc trưng quyết định phương hướng hành động hay bản chất xã hội của hành động nhân vật.

Chị Dậu trong Tắt đèn là một phụ nữ rất mực yêu chồng, thương con, phẩm chất này (tính chung) đã quyết định những hành động hy sinh của chị.

Yêu cầu của tính chung là tính khái quát rộng rãi. Mỗi tính cách điển hình phải tiêu biểu cho một tằng lớp người, một giai cấp nhất định, và là sự biểu hiện cho quy luật, cho mặt bản chất của đời sống xã hội.

Tính giai cấp là mặt chủ yếu, là đặc điễm quan trọng nhất của tính chung. Trong xã hội có giai cấp, con người là thành viên của một giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp

có tác dụng và ý nghĩa quyết định đến toàn bộ đời sống từng cá nhân. Mỗi con người xã hội từng đặc điểm riêng, nó còn mang những đặc điểm chung của giai cấp nhất định. Chị Dậu điển hình cho giai cấp nông dân lao động. Paven vlaxốp, Paven cortsaghin điển hình cho giai cấp công nhân. Ðặc điểm của tính cách giai cấp của điển hình được thể hiện cụ thể hơn các đặc điểm của tầng lớp, bộ

59

Page 60: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

phận cấu tạo nên giai cấp. Vì trong quá trình đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp được hình thành và cấu tạo nên từ những tầng lớp người khác nhau. Chí Phèo điển hình cho bộ phận nông dân - cố nông bị lưu manh hóa.

Tính giai cấp của con người trong xã hội là không đơn thuần mà phức tạp. Vì: bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Mỗi con người mang bản sắc giai cấp xuất thân đã đành, nó còn mang bản chất của các giai cấp khác. Do đó, trong văn chương, mỗi nhân vật thường có tình trạng mang theo bản sắc nhiều giai cấp. AQ ngoài bản tính nông dân ra, y còn mang bản tính giai cấp khác. Ví như tư tưởng tiểu tư sản.

Ngoài tính giai cấp ra, tính chung của tính cách còn được biểu hiện ở đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, dân tộc thời đại … vì mỗi con người, tuy là những cá nhân nhưng là thuộc một giới nhất định của xã hội, có cùng nghề nghiệp nhất định và nảy sinh phát triển trong điều kiện của một dân tộc và ở một thời đại cụ thể. Chính đặc trưng giới tính nghề nghiệp, dân tộc, thời đại góp phần làm xác định tính chung của điển hình. Về giới tính: chị dậu điển hình cho phụ nữ nông dân Việt Nam trong thời đại chưa có ánh sáng cách mạng rọi tới. Chị Út Tịch điển hình cho phụ nữ Việt Nam trong thời đại có Ðảng v.v…

Lưu ý: Nói đến đặc trưng tính chung của điển hình chính là xác định bản chất của điển hình. Mà nội dung trọng yếu của nó là bản chất giai cấp. Tính chung của điển hình vì vậy có một nội dung giai cấp rõ ràng chứ không phải tính chung của điển hình là tính người chung chung siêu giai cấp.

Còn hiện tượng một số nét, đặc điểm thuộc bản chất cố hữu giai cấp này, nhưng tìm thấy biểu hiện ở một số cá nhân thuộc giai tầng khác (ví dụ: lénine đã khẳng định về nhân vật Ôblômốp của Gontrasốp là không phải tính người chung chung. Mà là (như đã nói) bản chất giai cấp con người là không thuần khiết mà pha tạp. Muốn cho cá tính có tính khái quát rộng rãi thì người nghệ sĩ không thể chụp ảnh cuộc sống mà phải dùng đến phép "khái quát hóa" - Biện pháp xây dựng hình tượng trong đó nhà văn làm cho hình ảnh biểu tượng cụ thể, cá biệt mang ý nghĩa chung phổ biến và có khả năng phản ánh được thực chất của mọi hiện tượng mọi quá trình nào đó của hiện thực như nhà văn quan niệm. Tchenychevrki: "Nhà văn phải tẩy rữa tính hạn chế của sự vật bằng cách tập trung nhấn mạnh, nghĩa là phải tiến hành khái quát hóa".

- Khái quát hóa là biện pháp cơ bản, tất yếu để làm cho nhân vật trở nên điển hình. Flaubert: "Bao giờ cũng phải xây dựng nhân vật của mình đến mức điển hình tối đa. Ðiểm

nổi bật ở các bậc thiên tài lỗi lạc là ở chỗ biết khái quát và sáng tạo, từ toàn bộ những đặc tính của nhiều nhân vật, các bậc thiên tài ấy đã xây dựng thành một nhân vật điển hình".

Ý nghĩa, giá trị của tính chung là tạo nên giá trị nhận thức rộng rãi, tác dụng mạnh mẽ sâu sắc. Vì, mỗi một nhân vật có tính chung rộng rãi, sâu sắc thì nó như là tấm gương soi, mọi người đều soi thấy bóng dáng mình, nhìn nhận được sự ưu nhược của mình qua tấm gương để người ta sửa chữa. Chẳng hạn giai thoại về AQ trong AQ chính truyện mà Lỗ Tấn đã nêu trong Gào thét. Tương quan giữa tính riêng và tính chung của tính cách: Tính cách điển hình là sự thống nhất giữa 2 đặc tính chung và tính cá biệt. Tương quan giữa tính chung và tính riêng trong điển hình là tính tương quan giữa cái chung và cái riêng.

Biélinski: "Ðiển hình ở trong nghệ thuật cũng chẳng khác gì loại và dạng ở trong tự nhiên, chẳng khác gì một anh hùng ở trong lịch sử. Ðiển hình là sự thống nhất của sự liên kết hữu cơ giữa 2 cực - cái chung và cái đặc biệt".

Thể hiện cho bằng được mối liên kết hữu cơ này là yêu cầu có tính chất bắt buộc cho việc xây dựng hình tượng. Biélinski: "Cần phải làm cho nhân vật vừa làm những biểu hiện của cả một thế giới gồm nhiều người, lại vừa là một người, một chính thể, một cá biệt. Chỉ với điều kiện đó, chỉ có thông qua sự điều hòa giữa các mặt đối lập ấy với nhau, thì nhân vật đó mới có thể là một người điển hình". Engels rất hài lòng về ưu điểm điển hình hóa trong tiểu thuyết "những người cũ và những người mới của Minna Kautski: "Tôi biết bà đã thể hiện nổi bật những cá tính của nhân vật, đó là biệt tài bà thường tỏ ra về phương diện này; mỗi cá tính là một điển hình, nhưng đồng thời là một cá nhân riêng biệt, tức là "con người này" - như ông già Hégel đã nói - và hẳn phải như thế."[1] Mối quan hệ xuyên thắm hữu cơ của tính chung và tính riêng trong điển

60

Page 61: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hình là yêu cầu tất yếu. Vì, nghệ thuật yêu cầu nhận thức cuộc sống trong tính sinh động cảm tính của nó. Bản thân cuộc sống - đối tượng của nhận thức nghệ thuật là cái hiện tượng và cái bản chất không tách rời nhau. Nhận thức nghệ thuật không thuần túy lôgich mà còn là tư duy hình tượng: không chia nhỏ đối tượng, không đi từ cá biệt đến trừu tượng mà là một quá trình bao quát đối tượng trong sự thống nhất giữa nội dung bản chất và hình thức ngay từ đầu.

b. Hoàn cảnh điển hình.   TOP

            Hoàn cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, là phạm vi hiện thực khách quan tác động đến quá trình hoạt động của nhân vật. Con người tồn tại và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Môi trường này chính là hoàn cảnh của con người. Môi trường hoạt động chủ yếu của con người là môi trường xã hội. Cho nên, nội dung cơ bản của hoàn cảnh : quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ xã hội là quan hệ giai cấp.

Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm, vừa có tính chất tiêu biểu và độc đáo, thể hiện được những tương quan bản chất của đời sống trong những mối liên hệ phát triển biện chứng của chúng với nhau.

Không có người nào là không tồn tại trong một hoàn cảnh. Hoàn cảnh, vì vậy, là việc làm tất yếu để từ đó nhà văn tạo nên tính cách trong quá trình phản ánh. Nhưng phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép những cảnh ngộ tầm thường mà sự phân tích, phát hiện, thể hiện nội dung chủ yếu, mâu thuẫn cơ bản của những tương quan xã hội.

Yêu cầu của hoàn cảnh điển hình: Trước hết, hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh thể hiện được những mâu thuẫn cơ bản của xã

hội, những tương quan bản chất của đời sống xã hội, những vấn đề cơ bản bức thiết của thời đại. Engels nhấn mạnh đặc trưng này qua việc nhận xét vở kịch "Franz von sickingen" của Lassalle:

"Các nhân vật thì thực sự đại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định, do đó tiêu biểu cho những tư tưởng nhất định của thời đại họ, và động cơ hành động của họ không phải là những ham thích vụn vặt cá nhân, mà là cái trào lưu lịch sử lôi cuốn họ."[1]

Hoàn cảnh điển hình không phải là môi trường, bối cảnh đơn thuần, mà là "trào lưu lịch sử" - hoàn cảnh thể hiện được tương quan bản chất của xã hội.

Trong thực tế, không phải bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng thể hiện được đặc trưng quan trọng này của hoàn cảnh điển hình. Engel phê phán Cô gái thành thị của Harkness là không điển hình về hoàn cảnh :

"Các tính cách của cô khá điển hình trong những giới hạn trong đó những tính cách ấy hành động, nhưng về các hoàn cảnh bao quanh họ bắt họ hành động thì người ta có thể nói là không được điển hình đầy đủ."[1]

Những sáng tác Tự lực văn đoàn trong văn chương Việt Nam 30 - 45 không xây dựng được một hoàn cảnh điển hình nào. Trong lúc đó Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao lại xây dựng được những hoàn cảnh điển hình: thể hiện được mâu thuẫn của thời đại một cách sâu sắc - mâu thuẫn giữa nông dân lao động với địa chủ phong kiến, thực dân.

Hoàn cảnh điển hình thể hiện bản chất, quy luật cuộc sống do đó nó không chấp nhận lối miêu tả bên lề cuộc sống (kiểu Tự lực văn đoàn) lối tô hồng hiện thực (kiểu văn học lãng mạn).             Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh đang vận động và phát triển theo quy luật phát triển của xã hội. Vì : bản thân cuộc sống đối tượng của văn chương là vận động phát triển không ngừng. Yêu cầu của nghệ thuật là biểu hiện cuộc sống trong tính sinh động của nó cho nên hoàn cảnh không thể là một bức ảnh chụp, một khung cảnh tĩnh, một hoàn cảnh ngưng đọng hay đứng im. Muốn vậy, nghệ sĩ phải có quan điểm biện chứng, phát triển để nắm bắt hết quy luật vận động của đời sống.

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực phê phán thường là không phát triển  (Như Chí Phèo trong Chí Phèo). Hoàn cảnh trong văn học lãng mạn tuy có phát triển nhưng bị lí tưởng hóatheo thiện ý chủ quan của nghệ sĩ (Như Giăng Văngiăng trong Những người khốn khổ…)

61

Page 62: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển (Như Nilốpna, Paven Vlaxốp trong  Người mẹ…)

c. Quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh TOP

Quan hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau: tính cách được nảy sinh trong một hoàn cảnh nhất định, hoàn cảnh thúc đẩy tính cách phát triển. Là con đẻ của hoàn cảnh, tích cách có tác dụng thúc đẩy hoàn cảnh. Tuy nhiên quan hệ này trong thực tiễn sáng tác không phảimọi phương pháp nghệ thuật đều thể hiện được một chất lượng ngang nhau. Chỉ có đến chủ nghĩa hiện thực mới thể hiện được mối quan hệ này với chất lượng mới.

Engels đã vạch ra đặc trưng, yêu cầu này cho chủ nghĩa hiện thực : "Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi sự tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình".

Hoàn cảnh thúc đẩy tính cách. Hoàn cảnh xác định tính cách: "Tính cách của con người do các hoàn cảnh tạo nên". Sự phong phú của tâm hồn, tư tưởng

của con người tùy thuộc ở sự phong phú của những quan hệ thực tế của con người. Tính cách của chị Dậu hoàn toàn do những quan hệ thực tế của chị với môi trường xung quanh mà có.

Hoàn cảnh vận động và phát triển bắt buộc tính cách vận động và phát triển theo. Cuộc sống không đứng im, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối. Vì bị đèn nén đến cực độ (hoàn cảnh thúc ép) chị Dậu vùng lên đánh lại người nhà Lí trưởng. Và khi "vùng lên" tính cách chị Dậu đã thay đổi.

Tính cách tác động trở lại hoàn cảnh: Con người là con đẻ của hoàn cảnh, nhưng nó không phải là sản phẩm thụ động của hoàn

cảnh. Trong quá trình phát triển, con người ngày càng làm chủ tự nhiên và xã hội, và trở thành chủ thể lịch sử. Con người tạo nên lịch sử. Như thế chính con người tạo nên hoàn cảnh. Văn chương phản ánh đời sống con người không phải chủ yếu là phản ánh cái hoàn cảnh như một lực lượng siêu nhiên đẻ ra những con người, mà phải thể hiện hoàn cảnh do con người tạo nên đó. Engels : " hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh".

Truyện Vợ chồng A Phủ: từ cuộc sống tối tăm dưới ách bọn chúa đất, những người nông dân sống như trâu ngựa, được ánh sáng cách mạng soi đường đã vùng lên giải phóng quê hương, làm chủ cuộc sống.

Tóm lại : Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình là 2 đặc điểm cơ bản nhất của hình tượng điển hình, chúng làm cho hình tượng điển hình luôn luôn có tính chân thực cao, chúng là thước đo tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Chính trên ý nghĩa ấy mà Biélinski viết: "Tính cách điển hình là huy chương của nhà văn, là một trong những dấu hiệu nổi bật nhất của sức sáng tạo nghệ thuật và là dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tác".

CHƯƠNG VII:  

VĂN CHƯƠNG, NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ      

I. NGÔN TỪ, CHẤT LIỆU CỦA VĂN CHƯƠNG 1. Ngôn từ, chất liệu duy nhất để xây dựng hình tượng của văn chương 2. Phân biệt ngôn ngữ và ngôn từ 3. Khả năng nghệ thuật của ngôn từ

II. ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT CỦA NGÔN TỪ

62

Page 63: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ. 2. Không gian và thời gian trong hình tượng văn chương 3. Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư duy của hình tượng văn chương 4. Tính vạn năng và tính phổ thông của văn chương

III. VĂN CHƯƠNG VỚI CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT KHÁC 1. Vị trí của văn chương trong các loại nghệ thuật 2. Quan hệ giữa văn chương và các nghệ thuật

  

    I. NGÔN TỪ, CHẤT LIỆU CỦA VĂN CHƯƠNG        1. Ngôn từ, chất liệu duy nhất để xây dựng hình tượng của văn chương

Tất cả các loại hình nghệ thuật, kể cả văn chương, đều thống nhất ở một điểm cơ bản là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nhưng sở dĩ các loại hình nghệ thuật đều song song tồn tại, và dường như là để bổ sung cho nhau là vì đặc trưng hình tượng của các loạt hình nghệ thuật đó khác nhau trên nhiều điểm cơ bản. Chẳng hạn, hình tượng của nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc là có tính chất tĩnh và chiếm một khoảng không gian nhất định; hình tượng của nghệ thuật âm nhạc, điện ảnh… có tính chất động và diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định v.v… Vậy, cái gì đã khiến cho hình tượng các loại hình nghệ thuật có đặc điểm riêng biệt đó? Lí do trên hết và trước hết chính là ở đặc trưng của chất liệu xây dựng nên hình tượng nghệ thuật của chúng. Chất liệu màu sắc, đường nét của hội họa khác hẳn chất lượng âm thanh của âm nhạc, hình khối của điêu khắc. Chất liệu ngôn từ của hình tượng văn chương khác xa với màu sắc, âm thanh, đường nét, hình khối của các nghệ thuật kia. Từ cơ sở chất liệu xây dựng hình tượng này mà người ta đã tiến hành mô tả, dựng lại bức tranh về các hình tượng của thế giới nghệ thuật như sau:     Nghệ thuật biểu hiện Nghệ thuật tạo hình Nghệ thuật tĩnh     Nghệ thuật động     Nghệ thuật ngôn từ   Nghệ thuật tổng hợp

Kiến trúc Hoa văn   Vũ đạo Âm nhạc   Trữ tình   Ba lê, Ô pêra Ðiện ảnh

Ðiêu khắc Hội họa Nhiếp ảnh       Tự sự, kịch   Sân khấu    

  Ðiều đáng lưu ý trong bức tranh này là văn chương được xếp ở một vị trí đặc biệt: nó vừa

mang tính chất của nghệ thuật tĩnh, không gian, lại vừa mang tính chất nghệ thuật động, thời gian; vừa là nghệ thuật biểu hiện, lại vừa có mặt trong nghệ thuật tạo hình; lại nữa, nó như là cầu nối giữa nghệ thuật tổng hợp với các nghệ thuật riêng rẽ.             Chính ngôn từ, chất liệu cấu tạo nên các hình tượng văn chương đã qui định tính độc đáo và đặc biệt đó của văn chương. Vì vậy, để tìm hiểu về văn chương nghệ thuật, không thể không tìm hiểu đặc trưng bản chất liệu đã tạo nên hình tượng văn chương.

         2. Phân biệt ngôn ngữ và ngôn từ TOP

63

Page 64: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Cần thiết phải phân biệt khái niệm ngôn ngữ với ngôn từ để đi tới nắm bắt đặc trưng chất liệu xây dựng hình tượng văn chương dễ dàng hơn. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, một sản phẩm tập thể được ra đời trong quá trình lao động sản xuất xã hội. Nó cũng là hệ thống ký hiệu tồn tại trong ý thức của những người cùng một dân tộc. Ngôn ngữ ra đời đồng thời với tư duy và chức năng quan trọng của nó là giao tế - giao lưu giữa người này với người kia. Ngôn ngữ là nguồn dự trữ các từ và nguyên tắc kết hợp - ngữ pháp, là một pho tự điển chung cho mọi người, mỗi cá nhân không thể sáng tạo ra ngôn ngữ. Còn lời nói là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong hành động, là bản thân quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa người và người cụ thể, nảy sinh trong một hoàn cảnh cụ thể và bao giờ cũng biểu đạt những tư tưởng nhất định, mang màu sắc tình cảm và khuynh hướng tư tưởng nhất định. Lời bao gồm lời nói và lời viết, đồng nghĩa với hoạt động ngôn từ.

Như vậy, không phải ngôn ngữ là chất liệu xây dựng hình tượng văn chương mà là ngôn từ - lời được sử dụng với tất cả phẩm chất và khả năng thẩm mĩ của nó. Ngôn ngữ là tổng thể các yếu tố của phương tiện giao tiếp là cơ sở của ngôn từ. Chỉ có ngôn từ - yếu tố vật chất mang tính hình tượng mà cơ sở là câu - cái có khả năng phản ánh các yếu tố của hiện thực trong một tương quan nhất định mới là chất liệu văn chương.

         3. Khả năng nghệ thuật của ngôn từ TOP

Tính độc đáo của các loại hình nghệ thuật là do tính chất của chất liệu đã cấu tạo nên hình tượng nghệ thuật của chúng. Tức là các loại nghệ sĩ đã tìm thấy cho mình khả năng nghệ thuật ở trong từng loại chất liệu nhất định, cũng có nghĩa là các loại hình nghệ thuật tồn tại dựa trên cơ sở khả năng nghệ thuật của chất liệu. Vậy khả năng nghệ thuật của chất liệu cấu tạo hình tượng văn chương là như thế nào?

Nếu nghệ thuật, tính hình tượng là thuộc tính của chúng thì nghệ sĩ ngôn từ đã có một lợi thế là tính hình tượng văn chương đã có cơ sở ngay từ trong chất liệu. Ngôn từ mang tính hình tượng tự trong bản chất của nó. Bởi vì, ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và ý thức không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được. Các từ câu của lời nói là hình ảnh của hiện thực. Ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tế trên 3 phương diện: định danh (lời nói gọi tên các sự vật - chức năng định danh), biểu ý (lời nói trao đổi ý kiến với nhau) biểu cảm (lời nói biểu hiện và truyền đạt tình cảm). Như vậy lời nói gợi lên các sự vật, đưa con người thâm nhập vào thế giới của ấn tượng, cảm xúc.

Khi tín hiệu ngôn ngữ tác động đến thị giác hay thính giác của con người, thì lập tức bằng thói quen và kinh nghiệm, các sự vật được gợi đến hiện lên trong đầu óc chúng ta. Sự vật, hiện tượng nào chúng ta tiếp xúc nhiều thì hiện lên càng rõ. Chính vì vậy mà ngôn ngữ tuy là vỏ vật chất nhưng có khả năng biểu đạt được một cách hình tượng cuộc sống xã hội cùng những cảm xúc, suy tư, thái độ của con người trước cuộc sống. Âm thanh trong âm nhạc, màu sắc trong hội họa, gỗ đá trong điêu khắc, trước hết chúng chỉ là vật vô tri, vô giác của tự nhiên, có sẳn trong tự nhiên. Trong lúc đó, ngôn ngữ là của cải của xã hội, nó không vô tri mà bất cứ đơn vị nào cũng là yếu tố của tư tưởng. Vì vậy mà rất thường khi trong tác phẩm văn chương ta bắt gặp những câu như là những lời nói bình thường với những từ chỉ có nghĩa đen - gợi lên sự vật bình thường nhưng nó vẫn mang tính hình tượng. Chỉ bởi các từ đó đã gợi ra các sự vật. Có người thắc mắc rằng, ví dụ, câu sau đây trong một cuốn tiểu thuyết nọ thì nghệ thuật ở đâu: Bà bá tước ra đi lúc 5 giờ sáng? Trước hết phải thấy rằng tiểu thuyết có những lời văn bình thường như lời nói ngoài đời là bình thường. Còn tính nghệ thuật của chúng ở đây là chỗ gọi ra đúng tên, sự việc cần gọi (nghĩa đen) và như vậy là gợi lên hình ảnh hiện thực - đạt được tính hình tượng. Hơn nữa, không thể hiểu hết lời văn đó, khi tách nó ra khỏi văn cảnh. Tính hình tượng của ngôn từ tồn tại trong bản thân nó mà người ta dễ nhận ra ở loại từ tượng hình, tượng thanh, mô tả cảm giác và tâm trạng. Chẳng hạn:

- Chị ấy năm nay còn gánh thóc.   Dọc bờ sông trảng nắng chang chang - Kẽo cà, kẽo kẹt,

64

Page 65: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

  Kẽo cà, kẽo kẹt   Tay em đưa đều,   Ba gian nhà nhỏ   Ðầy tiếng võûng kêu.

Tính hình tượng của ngôn từ còn thể hiện ở các phương thức chuyển nghĩa: tỷ dụ, ẩn dụ, hoán dụ…

- Nghe như cưa xe, tiếng ve rít dài - Nghìn tay than chảy rạch máu trời xanh - Vì sao trái đất nặng ân tình Nhắc Máci tên người Hồ Chí Minh

Lời nói là hình thức tồn tại cụ thể của ngôn ngữ, là hành động cá nhân mang tư tưởng, tình cảm, ý chí nguyện vọng cá nhân. lời nói không bao giờ vô chủ cả, má bao giờ cũng là phát ngôn của một chủ thể. Như thế qua lời nói mà ta nhận ra người nói, ở đây, ngôn từ bộc lộ khả năng nghệ thuật của mình ở giác độ cá thể hóa.

Khả năng nghệ thuật của ngôn từ là cơ sở của ngôn từ nghệ thuật.    II. ÐẶC TRƯNG CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ

        1. Tính phi vật thể của hình tượng nghệ thuật ngôn từ.

TOP

           a. Hình tượng ngôn từ thiếu tính trực quan             Tính độc đáo của chất liệu xây dựng nên hình tượng văn chương là ngôn từ đã khiến cho hình tượng văn chương mang tính phi vật thể.

Người ta vẫn thường đối lập văn chương với nghệ thuật. Ðây không phải là ngẫu nhiên. Có thể phân chia thế giới nghệ thuật của con người ra làm hai loại: một loại chỉ có một ngành là văn chương, còn loại kia là gồm tất cả các ngành nghệ thuật khác. Căn cứ vào chất liệu xây dựng hình tượng thì cách phân chia này hoàn toàn hợp lí. Các ngành nghệ thuật (ngoài văn chương) hình tượng của nó được xây dựng bằng chất liệu vật chất cụ thể của tự nhiên: gỗ, đá, kim loại, sơn màu, thân thể con người v.v… Từ những vật liệu có tính chất vật thể đó, hình tượng các loại hình nghệ thuật được xây dựng nên đều mang tính hữu hình trực tiếp, tính xác thực, tính trực quan. Các hình tượng hữu hình vật thể này có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan, gây nên những ấn tượng, cảm xúc thị giác mạnh mẽ.

Ðược xây dựng từ chất liệu ngôn từ, hình tượng văn chương không tác động trực tiếp vào các giác quan của chúng ta, dù là thị giác hay thính giác. Người thưởng thức tác phẩm văn chương được gọi là độc giả còn người thưởng thức tác phẩm nghệ thuật  thường được gọi là khán giả, mặc dầu cả 2 loại người này đều dùng mắt cả. Chỉ bởi, đối với văn chương không ai trực tiếp nhìn, ngắm hình tượng của nó bằng mắt cả. Các hình tượng văn chương hiện lên trong óc người thưởng thức bằng trí tưởng tượng. Người đọc phá vỡ ý nghĩa các từ, câu để liên tưởng với các biểu tượng về đối tượng được miêu tả, nhờ vào trí tưởng tượng mà người đọc dường như tái tạo đối tượng miêu tả màvăn bản chỉ ra. Như thế chúng ta không sờ thấy, nghe thấy, nhìn thấy trực tiếp tượng văn chương. Các hình tượng văn chương thiếu tính trực quan, chúng phi vật thể. Nghệ thuật là qui luật của tình cảm, mà tình cảm chỉ xuất hiện khi con người tiếp xúc trực tiếp với sự vật, hiện tượng cụ thể. Ðứng về phương diện này, văn chương phải nhường chỗ cho các nghệ thuật khác. Tính phi vật thể của hình tượng văn chương đã không thể tạo ra được tri giác cảm tính trực tiếp. Ðây là một khiếm khuyết, nhiều khi không phải là nhỏ của văn chương. Ðể khắc phục tình trạng đó, nghệ sĩ ngôn từ luôn luôn phấn đấu cho các hình tượng vật thể của mình trở nên hữu hình. Vì vậy, mà tính tạo hình là một thuộc tính của hình tượng văn chương. Người xưa thường nói thi trung hữu họa, ngày nay Gorki đã gọi văn chương là nghệ thuật tạo hình bằng phương tiện ngôn ngữ. Chính những biểu tượng hữu hình mà ngôn từ gợi nên đã khiến cho độc giả có cảm giác là có thể cảm thụ nghệ thuật văn chương bằng thị giác.

b.      Hình tượng nghệ thuật ngôn từ tác động tới mọi giác quan của độc giả

65

Page 66: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nếu như các ngành nghệ thuật khác, hình tượng của nó chỉ có thể cảm thụ bằng 2 giác quan là thị giác và thính giác, thì hình tượng phi vật thể của văn chương lại có năng tác động  tới người đọc không chỉ ở cơ quan thị giác mà cả thính giác, vị giác và khứu giác. Ðộc giả dường như phải vận dụng mọi cơ quan cảm giác để tiếp nhận hình tượng văn chương. Những câu thơ sau đây ta phải dùng thị giác để tiếp nhận màu sắc, hình khối của hiện thực:

            - Cỏ non xanh tận chân trời               Cành lê trắng điểm một vài bông hoa             - Long lanh đáy nước in trời               Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.             - Dưới trăng quyên đã gọi hè               Ðầu tường lửa lựu lập lòe dăm bông.

Những câu thơ sau đây ta phải dùng thính giác để tiếp nhận âm thanh cuộc sống. - Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài biển bắc   Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên - Ðùng đùng gió dục mây vần   Một xe trong cõi hồng trần như bay

Hình tượng ngôn từ còn đem đến cho con người cả hương vị cuộc sống. -  Em ạ! Cu_ba ngọt lịm đường    Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương    Cam ngon, xoài ngọt vàng nông trại    Ong lạc đường hoa rộn bốn phương          -  Thoảng mùi hoa thiên lí ngõ nhà ai     Một tiếng chim khuya gọi mùa vải đỏ.

Hình tượng văn chương còn đem đến cho con người những cảm giác khác: - Cảm giác về sự đau đớn:

Cháu buốt ở trong tim này Nơi tang đeo suốt đêm ngày Bác ơi.

- Cảm giác về buồn chán: Ðêm mưa làm nhớ không gian

            Lòng run thêm lạnh nổi hàn bao la Tai nương nước giọt mái nhà

            Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn. Ðó là những cảm giác ngoài cảm giác vì nó không do các giác quan đem lại mà do sự thể nghiệm của độc giả đưa lại khi các hình tượng văn chương tác động tới sự tưởng tượng trí tuệ của chúng ta. Tính hơn hẳn của nghệ thuật ngôn từ không chỉ ở chỗ nó tác động tới nhiều cơ quan cảm giác của người đọc mà còn ở chỗ tác động tới trí tưởng tượng trí tuệ. Thực sự thì nghệ thuật ngôn từ không lấy mục đích tối thượng là khắc họa bản thân các thuộc tính của sự vật để có thể cảm nhận bằng giác quan của người đọc, mà nó lấy việc khắc học những phản ứng của ý thức con người trước hiện thực làm quan trọng. Do đó, điều quan trọng trong hình tượng nghệ thuật ngôn từ là tâm trạng và muốn thưởng thức nó bạn đọc không phải nhìn ngắm mà là thể nghiệm. Ðây là tâm trạng đau đớn vì mất mát quá lớn của Nguyễn Khuyến:

            Bác Dương thôi, đã thôi rồi             Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta

            c.Tính chủ quan, cá biệt của hình tượng văn chương Hình tượng nghệ thuật văn chương là phi vật thể nó lại lấy việc khắc họa tâm trạng, thể hiện

các môn quan hệ, các phản ứng của ý thức con người- là những cái vô hình - làm chủ yếu, chứ không lấy sự liệt kê các chi tiết có thể thụ cảm bằng thị giác làm cứu cánh. Ðo đó, trong các liên tưởng ở người đọc do hình tượng ngôn từ gợi nên có tính chủ quan cá biệt, thậm chí tùy tiện. Nhưng đây lại là đặc trưng bản chất của văn chương. Không nói những yếu tố vô hình mà ngay những yếu

66

Page 67: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tố hữu hình - ví dụ như ngoại hình nhân vật, phong cảnh thiên nhiên của hình tượng văn chương, biểu tượng của chúng xuất hiện rất khác nhau ở người đọc, khác với biểu tượng xuất hiện của người xem tranh, xem kịch hay xem chiếu bóng. Trong các người đọc khác nhau sẽ xuất hiện những biểu tượng khác nhau về cùng một nhân vật văn chương. Tố Hữu xem Kiều là con người đáng thương:

- Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều - Tố Như ai, lệ chảy quanh thân Kiều

Còn Tản Ðà xem Kiều là người con gái đáng trách:   Ðoạn trường cho đáng kiếp tà dâm   Bán mình trong bấy nhiêu năm   Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai.       

Không nắm được đặc điểm bản chất này của văn chương, nên có người đã muốn cụ thể hóa các hiện tượng nghệ thuật văn chương bằng bàn tay các họa sĩ. Có thầy giáo làm giáo cụ trực quan để phục vụ giảng văn bài Tùng của Nguyễn Trãi bằng cách thuê họa sĩ vẽ một bức tranh về cây tùng. Cái sai lầm trước hết là biểu tượng về cây tùng xuất hiện ở người thầy nọ và ở ông họa sĩ kia là khác nhau. Hơn nữa, Nguyễn Trãi ca ngợi cây tùng chủ yếu là cốt cách, phẩm chất bằng nét vẽ. Mặt khác, thực sự tùng này không phải là hình ảnh chụp lại một cây tùng nào thật ngoài đời. cây Tùng ở đây là con người. Nó mang tính tượng trưng và ước lệ cao.

Chính đo đặc điểm này của hình tượng văn chương mà người ta xem bạn đọc là một khâu trong quá trình sáng tạo. Việc sáng tác một hình tượng nghệ thuật kết thúc không phải ở trong các trang tác phẩm mà ở chỗ khi nó đã nằm trọn trong tâm trí bạn đọc.  

        2. Không gian và thời gian trong hình tượng văn chương

TOP

a. Nghệ thuật thời gian và nghệ thuật không gian Chất liệu ngôn từ của hình tượng văn chương cũng đã làm cho tính chất không gian và thời

gian của hình tượng văn chương có đặc trưng riêng. Người ta phân chia thế giới nghệ thuật ra làm 2 loại chủ yếu - nghệ thuật thời gian và nghệ

thuật không gian - là căn cứ hình tượng các loại hình nghệ thuật này đã chiếm lĩnh hiện thực trong các chiều không gian và thời gian như thế nào. Loại nghệ thuật mà hình tượng của nó chiếm một khoảng không gian và bất động là loại nghệ thuật không gian, đây là loại nghệ thuật chiếm lĩnh đối tượng mà các phần của nó cái này nằm bên cạnh cái kia. Loại nghệ thuật mà hình tượng của nó diễn ra theo thứ tự trước sau và chiếm và chiếm một khoảng thời gian nhất định là nghệ thuật thời gian. Ðây là loại nghệ thuật chiếm lĩnh đối tượng mà bộ phận của nó lần lượt xuất hiện trong thời gian.

b. Tính chất thời gian của nghệ thuật ngôn từ Ðứng về phương diện thời gian, người ta xếp văn chương vào loại nghệ thuật thời gian.

Chính đặc trưng chất liệu ngôn từ đã qui định tính chất thời gian của hình tượng văn chương. Lời nói là âm thanh được phát ra từng tiếng lần lượt theo thời gian. Hình tượng văn chương có khả năng to lớn trong việc chiếm lĩnh đối tượng mà các bộ phận của nó xuất hiện theo thời gian. Văn chương chủ yếu tái hiện các quá trình đời sống, các sự vật và hiện tượng nối tiếp nhau trong thời gian.

Có một loạt các nghệ thuật thời gian, nhưng nghệ thuật thời gian - văn chương là có tính đặc thù. Tính đặc thù đó là ở chỗ, trong văn chương, thời gian được thể hiện uyển chuyển, biến hóa khôn lường nhà văn có thể ép mỏng lại hoặc kéo căng thời gian ra tùy theo yêu cầu nghệ thuật nhất định. thời gian trong văn chương không nhất thiết được thể hiện đúng như thật, trực tiếp như thời gian trên sâu khấu là trùng khít với thời gian được miêu tả. Trong văn chương thời gian nhiều khi chỉ là khoảng khắc nhưng được nhà văn đặc tả tỉ mỉ và có thể có cả lời bình phẩm kéo dài hàng trang sách. Như vậy ở đây thời gian cần để miêu tả nhiều gấp mấy lần thời gian được miêu tả. Hãy so sánh 9 phút cuối cùng của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi trong phim và truyện Sống như Anh với bài thơ Nguyễn Văn Trỗi, 9 phút đã được miêu tả chỉ trong mấy chục giây trong phim và truyện, nhưng trong thơ Tố Hữu lại được miêu tả mấy chục phút. Thường khi, văn chương dồn nén thời gian từ một khoảng thời gian tự nhiên dài ngoài thực tế lại một vài dòng ngắn gọn.

67

Page 68: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ngày qua, ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Các tác phẩm văn chương có thể mô tả đối tượng chiếm một khoảng khắc thời gian, cũng có thể mô tả đối tượng diễn ra hàng thế kỷ. Bài thơ vịnh pháo sau đây, thời gian thực tế chỉ là tích tắc:

Pháo mới kêu to một tiếng đùng Hỡi ơi xác pháo đã tan không Tiếc thay thân pháo không còn nữa Nhưng đã tan ra vạn sắc hồng.

Nhưng bộ sử thi Chiến tranh và hòa bình của L.Tolstoi là cả một gian đoạn lịch sử dài một thế kỉ.

Về mặt nhịp độ, thời gian trong văn chương có thể trôi nhanh hay chậm; đều đặn êm đềm hay biến động căng thẳng. Thời gian trong bài thơ Nhật ký của Hoàng Nhuận Cầm sau đây trôi rất nhanh:

Sáng: Bình minh ấy là bình minh kỉ niệm Chiều: Hoàng hôn như lạ lại như quen Tối: Tắc kè kêu ném lưỡi vào đêm Có ngủ được đâu Nằm nghe lá thở Nằm nghe súng nổ Thôi, sáng rồi vẫn tiếng gà xóm mẹ Cuốn võng vào theo hướng súng mà đi

Mối quan hệ thời gian giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trong văn chương có thể rất gần nhau nhưng cũng có thể rất xa nhau. liên hệ thời gian ở VIếng bạn của Hoàng Lộc rất gần nhau:

Hôm qua, hôm nay và mai mốt Hôm qua còn theo anh Ði ra đường quốc lộ Sáng nay đã chặt cành Ðắp cho người dưới mộ ..................................... Mai mốt bên cửa rừng Anh có nghe súng nổ là chúng tôi đang cố Tiêu diệt kẻ thù chung

Ở bài Quê hương của Giang Nam mối liên hệ thời gian khá xa - từ thuở còn thơ đến cách mạng bùng lên, kháng chiến trường kỳ và hòa bình trở lại.

Thời gian trong văn chương có thể diễn ra cùng chiều với thời gian tự nhiên ngoài đời; cũng có thể có sự ngược lại từ tương lai rồi trở về quá khứ hoặc xen kẽ giữa quá khứ, hiện tại.

Nhưng điều quan trọng là thời gian trong hình tượng văn chương không chỉ đơn thuần là vấn đề tương quan như thế nào giữa thời gian được miêu tả với thời gian khách quan, giữa dòng ngôn từ trần thuật với thời gian khách quan. mà là tương quan trước -sau giữa các lớp, đoạn, cảnh, sự kiện, chi tiết.

Khả năng nghệ thuật thời gian nghệ thuật của văn chương rất lớn nó chẳng những hơn hẳn sân khấu mà còn hơn hẳn điện ảnh, truyền hình.

c. Tính không gian của nghệ thuật ngôn từ Người ta đã xếp văn chương vào hàng nghệ thuật thời gian, nhưng đứng ở góc độ nào đó mà

xét thì văn chương còn là nghệ thuật không gian - loại nghệ thuật không gian đặc biệt. Không gian nghệ thuật của văn chương là có tính đặc thù. Tính đặc thù này cũng là do đặc thù chất liệu xây dựng hình tượng - ngôn từ, quy định. các lời nói trong tác phẩm văn chương không phải được diễn ra cùng một lúc mà theo trật tự trước sau và ngay trong lời nói các từ cũng từ này tiếp sau từ kia. Có

68

Page 69: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

lợi thế về mặt thời gian, nhưng quảng tính thời gian của lời nói đã là trở ngại cho văn chương khi miêu tả không gian. Lessing đã viết: Những gì mà con mắt ta nắm bắt được ngay tức khắc thì nhà thơ phải trình bày cho chúng ta chậm rãi, theo từng bộ phận, và thường kết quả là, khi cảm thụ bộ phận sau thì quên mất bộ phận trước ở đây sự đối chiếu vật thể trong không gian đã vấp phải tính liên tục của lời nói trong thời gian. Ðây là một hạn chế so với các nghệ thuật không gian vật thể. tuy vậy, văn chương đã dùng sở trường để khắc phục sở đoản. Văn chương xem việc miêu tả sự vật tĩnh tại là thứ yếu. Vì nó không có khả năng hấp dẫn độc giả. Văn chương thiên về miêu tả quá trình đời sống, sự vận động, tái hiện các hành động. Ngay miêu tả một sự vật cũng vậy, nhà văn không dừng lại ở chỗ liệt kê, thống kê tỉ mỉ một cách tĩnh tại mà là vẽ chiều sâu lịch sự của sự vật. Còn các bức tranh phong cảnh hoặc hoàn cảnh xung quanh nhân vật thì không phải là phong cảnh tĩnh tại, chết mà là vận động hoặc động. Nguyễn Du trong bức tranh sau đây đã nhìn thấy sự vận động của tạo vật mà con mắt thường không thể thấy được.

Xập xé én liệng tầng không Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.

Và bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Ðăng Khoa, chẳng hạn, có họa sĩ nào vẽ được:

Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay...   Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả các cờ Sớm nào chống hạn Vục mẻ miệng gàu Trưa nào bắt sâu Lúa cao xáp mặt Chiều nào gánh phân Quang trành quét đất  

Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy   Hạt gạo làng ta Những năm bom Mĩ Trút trên mái nhà Những năm cây súng Theo nguời đi xa Những năm băng đạn Vàng như lúa đồng Bát cơm mùa gặt Thơm hào giao thông...   Hạt gạo làng ta Có công các bạn Hạt gạo làng ta Gởi ra tiền tuyến Gởi về phương xa... Em vui em hát Hạt vàng làng ta.

Không gian trong văn chương có thể rất hẹp cũng có thể rất rộng: một sự vật, một con người, một căn phòng v.v... và có thể là một công trường, một chiến trường. Nói chung, không gian trong văn chương không bị một hạn chế nào. có họa sĩ nào vẽ được không gian của Tây du kí, Tam quốc chí, Chiến tranh và Hòa bình. Không gian trong văn chương được di chuyển rất dễ dàng. Ðang ở không gian này người đọc có thể được đưa sang một không gian khác một cách dễ dàng và bất kỳ ở đâu. Sự thay đổi không gian trong văn chương cũng không bị hạn chế. Khả năng bao quát của không gian trong văn chương là vô cùng. Không một bức tranh nào so sánh nỗi khả năng này của văn chương.

69

Page 70: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Có một không gian nghệ thuật của văn chương mà các nghệ thuật khác khó lòng với tới. Ðó là không gian tâm tưởng (thế giới nội tâm - suy tư và mơ ước của con người). Chẳng hạn suy tư của Gamzatov trong bài thơ 8 câu sau đây:

Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên Từ xưa tới nay vẫn thế Thuốc độc, lòng tham và tiền Có thể giết người ta rất dễ Nhưng tôi không hiểu một điều Vì sao, tôi không biết: Rằng nhiều khi sự thật và tình yêu Cũng có thể làm cho người ta chết.

Không gian và thời gian của văn chương là không gian và thời gian nghệ thuật - nó vừa là sự phản ánh không gian và thời gian hiện thực nhưng vừa mang ý nghĩa khái quát. Nhưng đồng thời không gian và thời gian trong văn chương nhiều khi mang ý nghĩa tượng trưng. Ví dụ trong thơ, văn cách mạng hay dùng đường cách mạng, chẳng hạn.  

        3. Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư duy của hình tượng văn chương

TOP

a.  Khả năng phản ánh ngôn ngữ Lời nói trong văn chương nghệ thuật không chỉ như một phương tiện vật liệu để xây dựng

hình tượng mà nó còn là đối tượng miêu tả của văn chương. Ðó chính là tính song bình diện độc đáo của hình tượng ngôn từ. Một mặt, nhờ có ngôn từ nghệ thuật (với tư cách là vật liệu xây dựng hình tượng) mà các phương diện khác nhau của hiện thực ngoài lời nói (con người và tồn tại nói chung) được tái hiện. Mặt khác, ngôn từ nghệ thuật còn tái hiện cụ thể mọi mặt của hoạt động lời nói của con người (lời nói ở đây với tư cách là đối tượng miêu tả).

Văn bản tác phẩm văn chương bao giờ cũng là một tổng thể của những lời phát ngôn của những con người nhất định: phát ngôn của người kể chuyện, nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình. Trong tác phẩm văn chương không có lời nói vô chủ - bất kỳ lời nói nào cũng phát ra từ cửa miệng của một người nào đó nhất định. Do đó, con người ở trong văn chương xuất hiện với tư cách là con người mang lời nói, con người biết nói năng.

Xem lời nói là đối tượng miêu tả, văn chương khắc phục hạn chế tính lược đồ, tính không trọn vẹn của hình tượng ngôn từ, tức là những khiếm khuyết do tính phi vật thể của hình tượng sinh ra, tạo ra những ưu thế cho mình so với nhiều nghệ thuật vật thể. Các nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc là nghệ thuật tĩnh không những với nghĩa hình tượng của nó không cử động mà còn với nghĩa đây là những hình tượng im lặng - không có lời nói. Âm nhạc, nghệ thuật của âm thanh, nó tác động Mácnh liệt vào tình cảm của con người nhưng nó vẫn là phạm vi không lời của hiện thực và nó cũng không nói bằng lời nói cho thính giả được.

Lời nói với tư cách là đối tượng miêu tả nó chẳng những tác động vào trí tưởng tượng của độc giả mà còn tác động vào thính giác của độc giả nữa. Văn bản văn chương là hệ thống của những giọng điệu khác nhau của con người. Lời nói là điều kiện tiên quyết để nhà văn khắc họa tính cách nhân vật, dựng lại bức tranh ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là bằng chứng về văn hóa và văn minh của dân tộc.

b. Khả năng phản ánh tư duy Lời nói và tư duy gắn chặt với nhau. không thể tư duy mà không có lời nói và lời nói chính

là tư duy. Vì vậy, nếu nói văn chương miêu tả ngôn từ thì đồng thời phải nói văn chương miêu tả tư tưởng. Văn chương vừa vẽ lên những bức chân dung về tư tưởng của con người. Văn chương là ngành nghệ thuật duy nhất tái tạo các quá trình tư duy của con người. Mỗi con người trong văn chương là mỗi nhà tư tưởng; họ không những là con người biết suy nghĩ, cảm xúc, có ý thức về mình mà còn có ý thức về người - họ có ý kiến nhất định trước vận mệnh và cuộc đời. đây là một ưu thế đặc thù của văn chương. Nghệ thuật nào cũng gắn liền với tư tưởng. Nhưng các loại hình nghệ

70

Page 71: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thuật khác biểu hiện tư tưởng của con người một cách gián tiếp. Qua một bức tranh, bản nhạc chúng ta không tìm được những tư tưởng cụ thể mà chỉ là đoán định - ngay cả những bức tranh tượng về con người. Các nghệ thuật đó không dựng lên được con người đang tư duy. Trong văn chương, quá trình tư duy của con người được thể hiện một cách trực tiếp. Người đọc tiếp xúc trực tiếp qua các lời thoại của nhân vật hoặc lời nói thầm ... của các nhân vật - những ý tưởng chưa thốt nên lời.

Là nghệ thuật phương tiện tư duy, văn chương về thực chất là lời đề nghị, là cuộc tranh luận, là cuộc đối thoại, nói theo Biélinski, là câu hỏi đặt ra hay câu trả lời. Do vậy, tính tư tưởng của văn chương chúng ta dễ thấy vì nó vừa sâu sắc; vừa nổi bật, vừa phong phú lại trực tiếp.  

       4. Tính vạn năng và tính phổ thông của văn chương

TOP

             a.  Tính vạn năng

Mỗi từ mỗi câu của lời nói là yếu tố tư tưởng, mà tư tưởng là hình ảnh của thế giới khách quan, lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, văn chương có tính vạn năng trong việc phản ánh đời sống. Tính vạn năng đó, thể hiện:

- Chiều rộng của phạm vi hiện thựcphản ánh: Không có giới hạn về phạm vi hiện thực trong văn chương. Bất cứ phạm vi hiện thực nào văn chương cũng có khả năng với tới.

- Chiều sâu của sự phản ánh: Tính vạn năng còn được biểu hiện ở chỗ khả năng phản ánh chiều sâu của hiện thực. Bức tranh hình tượng văn chương thực sự là bức tranh của không gian 3 chiều: cao, sâu, rộng.

- Phương diện vô hình, tâm tưởng: Tính vạn năng còn ở chỗ bất kỳ phương diện nào của hiện thực văn chương cũng có thể đạt tới. Ðặc biệt là phương diện vô hình - tâm tưởng. Những dòng suy tư của con người, một khó khăn của nghệ thuật tạo hình, thì ở văn chương là một lợi thế. Tính vạn năn của văn chương còn ở chỗ nhà văn tự do xử lí mối quan hệ thời gian thực tế trong miêu tả, có khả năng miêu tả bất cứ nội dung nào dưới hình thức nào.

b. Tính phổ thông Chất liệu xây dựng hình tượng văn chương ngôn từ - phương tiện giao tiếp của xã hội đã

làm cho văn chương có tính phổ thông. - Về mặt sáng tác: Ðể trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp thì thật là khó, nhưng có thể nói hầu

như người nào cũng có thể làm được vài câu thơ. hơn nữa, phương tiện vật chất phục vụ cho sáng tác văn chương đơn giản nhất so với bất cứ nghệ thuật nào: giấy - viết và thậm chí có khi cũng không cần hai thứ đó nữa. (ví dụ văn chương dân gian hay loại ứng tác)

- Về mặt truyền bá: Văn chương truyền bá rất dễ dàng nhưng lại thâm nhập sâu vào bạn đọc. Phương tiện duy nhất cần thiết cho sự truyền bá là ngôn từ - mà ngôn từ thì ai cũng có. điều kiện và phương tiện cần thiết cho sự truyền bá cũng thật là đơn giản là những quyển sách hoặc thậm chí không có sách, và bất kỳ ở đâu, lúc nào. Nó khác hẳn sân khấu, điện ảnh, âm nhạc ... là nhũng nghệ thuật mà điều kiện và phương tiện truyền bá có những đòi hỏi nhất định và nhiều khi rất phức tạp.

- Về mặt tiếp nhận: Yêu cầu quan trọng nhất để tiếp nhận văn chương là ngôn từ, mà ngôn từ thì ai cũng có. vì vậy, ai cũng có thể tiếp nhận được văn chương. Kể cả các em bé mới ra đời. mặt nữa, bạn đọc có thể lựa chọn những cung bậc và nhịp độ tùy thích và thời gian tùy thích.      III. VĂN CHƯƠNG VỚI CÁC LOẠI HÌNH NHỆ THUẬT KHÁC

        1. Vị trí văn chương trong các loại nghệ thuật

TOP

a. Sự phân loại các nghệ thuật Thế giới nghệ thuật vô cùng phong phú. Việc yêu cầu nắm bắt cho được bản chất và quy

luật của nghệ thuật khiến người ta phải tìm cách phân chia nó thành từng loại nhất định. xuất phát từ những cơ sở nhất định, người ta đã chia ra các loại nghệ thuật cơ bản sau đây:

71

Page 72: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Nghệ thuật không gian và nghệ thuật thời gian (điêu khắc, sân khấu v.v... ), xét theo khách thể của việc phản ánh.

- Nghệ thuật tạo hình và biểu hiện (như hội họa, điêu khắc, kiến trúc, vũ đạo, v.v... ), xét theo chủ thể nhận thức - trực tiếp hay gián tiếp của việc biểu hiện tư tưởng và tình cảm.

- Nghệ thuật động và nghệ thuật tĩnh (kiến trúc, điêu khắc, nhảy múa, âm nhạc v.v... ), xét theo góc độ hình tượng của chúng đứng im hay vận động và đối tượng của chúng.

- Nghệ thuật thị giác và nghệ thuật thính giác (hội họa, điêu khắc - âm nhạc v.v... ), xét theo góc độ những đặc điểm của sự cảm thụ cảm tính, thẩm mĩ.

- Nghệ thuật đơn nhất và nghệ thuật tổng hợp (điêu khắc, hội họa - sân khấu điện ảnh) dựa vào chất liệu xây dựng hình tượng đơn hay đa chất, và vân vân.

Có hàng loạt cách phân chia loại hình nghệ thuật. nhưng nhu đã nói, người ta thật khó xếp văn chương vào loại nghệ thuật nào và thường khi người ta xếp văn chương thành một ô riêng, người ta đặt văn chương bên cạnh nghệ thuật (văn chương và nghệ thuật). phải chăng cách đối lập đó vừa thấy được sự khác biệt vừa thấy được sự hơn hẳn của văn chương đối với các nghệ thuật khác!

Ðánh giá cao vai trò của văn chương, Biélinski coi văn chương là loại nghệ thuật hàng đầu. Thơ ca là loại nghệ thuật tối cao ... vì vậy, thơ ca bao hàm trong bản thân nó tất cả mọi yếu tố của các nghệ thuật khác, dường như nó bất ngờ sử dụng được một cách hữu cơ mọi phương tiện khác nhau của các nghệ thuật khác. Thơ ca chính là toàn bộ chỉnh thể của nghệ thuật... Tính hình tượng gián tiếp và tính tư duy trực tiếp của hình tượng văn chương do chất liệu ngôn ngữ đưa lại đã làm cho văn chương có những chỗ mạnh nhưng đồng thời so với các nghệ thuật khác, văn chương cũng bộc lộ những chỗ yếu của mình: ý kiến của Biélinski đã đánh giá rất cao chỗ mạnh của văn chương nhưng có phần cực đoan, phiến diện: không thấy được chỗ yếu của văn chương(chẳng hạn tính phi vật thể của hình tượng) và khiến cho người ta nghĩ rằng văn chương có thể thay thế được tất cả.

b.     Văn chương là nghệ thuật tối cao Nhìn một các tổng quát, văn chương hơn hẳn các nghệ thuật khác trên những mặt sau đây: - Khả năng bao quát cả chiều rộng lẫn chiều sâu của hiện thực. Văn chương có khả năng

rộng lớn để phản ánh toàn diện cuộc sống (không chừa một phạm vi nào). Ðồng thời nó thể hiện một cách đầy đủ và chính xác về hiện thực; đặc biệt là tính xác định cụ thể cao trong việc thể hiện tâm trạng, cảm xúc, tình cảm tư tưởng.

- Từ khả năng bao quát hiện thực rộng lớn ấy, văn chương có khả năng to lớn trong việc tác động tới bạn đọc.

- Khả năng xuất bản và lưu hành cũng vô cùng rộng lớn. Người ta có tể xuất bản một số lượng cực kỳ lớn.

- Văn chương tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nghệ thuật khác. Các hình tượng văn chương thường có cuộc sống thứ 2 với nghệ thuật biểu diễn: sân khấu, đọc trên đài phát thanh, trên truyền hình, nhà hát, rạp chiếu bóng, điêu khắc hội họa, âm nhạc, vũ đạo v.v...

- Có nhiều ngành nghệ thuật đã mượn chất liệu ngôn từ của văn chương, ví dụ: hội họa, sân khấu, điện ảnh v.v...

cái yếu của văn chương là thiếu tính cụ thể vật thể - trực tiếp. Người ta không nghe, nhìn và sờ nắn các hình tượng văn chương được. Cái yếu khác là văn

chương lại phải dịch. Ngoài ra văn chương ra, không có nghệ thuật nào phải dịch cả. Vậy thì, tóm lại, văn chương xếp thứ mấy trong hàng các nghệ thuật? Vấn đề là cần phải

xem xét một cách lịch sử trong sự phát triển của nghệ thuật. - Thời xa xưa, nghệ thuật đang chung đụng với nhau- nghệ thuật nguyên hợp thì vũ đạo và

phỏng hình là hàng đầu. - Thời cổ đại thì tạo hình (chủ yếu kiến trúc và điêu khắc) giữ vị trí chủ đạo. - Thời phục hưng và chủ nghĩa cổ điển thì hội họa là nghệ thuật hàng đầu. - Thế kỷ XIX - XX vai trò hàng đầu là văn chương.

72

Page 73: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Ngày nay trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều ngành nghệ thuật hiện đại giàu tính đại chúng ra đời: điện ảnh, truyền thanh, văn chương, vẫn giữ vị trí quan trọng nhất nhì của nó.        

        2. Quan hệ giữa văn chương và các nghệ thuật

TOP

Người ta thường đối lập văn chương với các loại hình nghệ thuật khác. Ðiều này chỉ ra rằng văn chương khác xa với các loại hình nghệ thuật, tuy vậy, văn chương vẫn có những quan hệ nhất định, thậm chí quan hệ gắn bó khăng khít. Ðặc biệt có những ngành nghệ thuật không thể tồn tại được nếu thiếu sự hỗ trợ của văn chương.

a. Văn chương với hội họa Nghệ thuật tạo hình gồm có hội họa, đồ họa, điêu khắc, nhiếp ảnh nghệ thuật. Ðặc điểm của

chúng: phản ảnh hiện thực thông qua sự tái hiện hình tượng các hình thức thấy được của hiện thực, đều thể hiện diện mạo các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan, diện mạo con người, thể hiện toàn bộ tính muôn vẻ của các sự kiện và quá trình cuộc sống được cảm nhận bằng thị giác. Nghệ thuật tạo hình còn được gọi là nghệ thuật thị giác (trong tạo hình, hội họa là ngành tiêu biểu). Việc thể hiện trực tiếp  toàn bộ tính muôn hình muôn vẻ của các hiện tượng được cảm thụ cảm tính: các sự vật, đường nét, màu sắc, hình khối, dáng vẻ của thế giới bên ngoài đã làm cho nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa nói riêng có ưu thế về phía tác động trực tiếp, xác thực, cụ thể đến người tiếp nhận.

Về phương diện này, văn chương có những hạn chế nhất định. nhưng, nhà văn cố phấn đấu làm cho hình tượng của mình đạt được tính tạo hình. Người ta đã xem các hình tượng văn chương là những bức tranh. Bằng ngôn từ, văn chương có thể khắc họa rõ nét những hiện tượng riêng lẻ của thế giới. (Song sự khắc họa này diễn ra thông qua sự liên tưởng, thông qua kinh nghiệm sống của người tiếp nhận). Ở đây cần lưu ý rằng: văn chương không chỉ đơn thuần là vẽ bằng ngôn từ về các sự vật hiện tượng mà người vẽ còn thể hiện trực tiếp cả thái độ của mình về đối tượng, hơn nữa, văn chương không xem yếu tố tạo hình, yếu tố khắc họa là yếu tố tự quyết, tiên quyết.

Văn chương có ưu thế trong việc thể hiện sự vận động, sự phát triển và sự thay đổi đang diễn ra của thế giới, ngay cả những hiện tượng tưởng như đứng im, không vận động của thế giới. Chẳng hạn, miêu tả sắc đẹp của người phụ nữ. nếu như hội họa cố gắng miêu tả tỉ mỉ về sắc đẹp chân dung một phụ nữ thì, văn chương lại không đi theo con đường của hội họa mà kể lại ấn tượng do vẻ đẹp đó dấy lên ở những người xung quanh. Vẻ đẹp ở đây được thể hiện dường như ở trong trạng thái vận động, trong hành động. Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp, tài sắc của chị em Kiều theo kiểu đó:

- Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang - Một hai nghiêng nước, nghiêng thành

Hội họa tìm cách khắc phục mặt tĩnh tại của mình bằng cách thể hiện những tình huống điển hình, khoảng khắc tiêu biểu từ toàn bộ quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng. Hình tượng nghệ thuật tạo hình cũng mang tính thời gian, tính vận động, vì bản thân nó là sự thể hiện một thời điểm nhất định của sự vận động và phát triển của sự vật. nó dừng lại ở một khoảnh khắc nhất định để giúp người tiếp nhận nhìn thấy được kỹ lưỡng hơn cái được miêu tả.

Sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa văn chương và hội họa khá đa dạng. Trước hết là ở chỗ chúng học tập lẫn nhau các biện pháp, thủ pháp nghệ thuật. Chẳng hạn, văn chương sử dụng biện pháp hài sắc, độ sáng tối, luật cận - viễn. Tác giả dân gian đã dùng các màu sắc các màu sắc để vẽ nên màu sắc của sen:

Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng Cũng có thể chỉ dùng một thứ màu:

Tổ quố c tôi chưa đẹp thế bao giờ Xanh núi, xanh sông, xanh đồng xanh biển Xanh trời, xanh của giấc mơ.

73

Page 74: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cũng có thể phối hợp màu sắc (hài sắc): Một vùng cỏ mọc xanh rì Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu.

Phối hợp xa gần (luật viễn cận): Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Hội họa chịu ảnh hưởng của khả năng nêu vấn đề, tính vạn năng của văn chương. Trước đây chức năng minh họa của hội họa được đề cao, nhưng do tác động của văn chương và nhiều ngành nghệ thuật khác mà trong mấy thế kỷ nay bản chất hội họa có thay đổi, tính minh họa bị đưa xuống hàng thứ yếu, điều cốt yếu của hội họa ngày nay là khả năng khái quát nghệ thuật, tính diễn cảm và năng động.

Ngoài ra, chúng ta thường thấy là hội họa tìm các chủ đề và đề tài cho mình từ các hình tượng văn chương.

b. Văn chương với âm nhạc: Âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh. Ðây cũng là một hình thức phản ảnh nghệ thuật đặc

biệt về hiện thực khách quan. hình tượng của nó được tạo dựng từ chất liệu âm thanh. Nó cũng phi vật thể như hình tượng văn chương. Nhưng do chất liệu hình tượng văn chương là các yếu tố của tư tưởng nên hình tượng văn chương vẫn mang tính cụ thể - xác định. Còn hình tượng âm nhạc bị hạn chế ở phương diện này. Người ta đã thử làm thí nghiệm cho nhiều cho nhiều người cùng nghe một khúc nhạc cổ điển rồi yêu cầu mỗi người nghe, giảng giải nội dung tư tưởng của khúc nhạc đó. Người thì cho đấy là cuộc đời của một cô gái bị hại, người cho đây là truyện một loài hoa bị bão táp quật ngã, người khác cho rằng đó là nói về con bướm nhỏ bị thiêu cháy trong đống than. Như vậy, so với âm nhạc, văn chương, nội dung của nó, không mơ hồ như âm nhạc. Mĩ học tư sản đã xuyên tạc đặc tính này của âm nhạc để đi đến chỗ xem âm nhạc (và kiến trúc) là nghệ thuật không phản ảnh hiện thực, nghĩa là họ phủ nhận nội dung tư tưởng của âm nhạc.

Thực ra âm nhạc vừa có thể thể hiện các mặt vật thể của cuộc sống chẳng hạn âm nhạc có chương trình, thanh nhạc. Dựa vào chất liệu âm thanh, âm nhạc có ưu thế thể hiện nhịp độ, nhịp điệu, tính chất của sự vận động và phát triển cuộc sống. Âm nhạc là loại nghệ thuật tác động trực tiếp tới tình cảm của con người, thống nhất các tình cảm, thông qua cảm xúc mà thể hiện tư tưởng. Văn chương và âm nhạc có sự tác động qua lại lẫn nhau có nguồn gốc sâu xa ngay trong bản thân bản chất của hai loại hình nghệ thuật  này. văn chuơng, mà đặc biệt làthơ ca, chất nhạc là bản chất của nó. Thơ có thể không có vần nhưng không thể không có tính nhạc. còn âm nhạc lại thường sử dụng tính chất phát âm của ngôn từ và ngữ ngôn.

Từ xa xưa và cho tới ngày nay, âm nhạc thường sử dụng các tác phẩm văn chương. Tại sao lại như vậy? trước hết, do âm nhạc luôn luôn vươn tới đạt cho được tính xác định, tính sâu sắc trong nội dung tư tưởng của mình. Do đó, nó kế thừa hiện thực đã được lựa chọn, khái quát và nhào nặn của văn chương để tạo ra sự thuận lợi, dễ dàng cho điển hình âm nhạc. cũng do hạn chế ở chỗ không thể tự mình thể hiện đầy đủ tính cụ thể, tính vật thể của thế giới, nên âm nhạc phải sử dụng tác phẩm văn chương - cái mà người ta đã biết trước rồi. Âm nhạc dựa vào văn chương còn vì lí do, thơ ca là chất liệu cho thanh nhạc. Những bản nhạc bài hát được phổ từ thơ, nhạc sĩ đã lợi dụng 2 điều quan trọng của thơ ca: tính nhạc và ngôn từ.

Âm nhạc ảnh hưởng đến văn chương ở những mặt nào? nếu như tính nhạc của thơ ca đã ảnh hưởng tới âm nhạc, thì ngược lại, việc phối khí của âm nhạc cũng ảnh hưởng tới văn chương.

Nó cung cấp cho văn chương những môtíp đề tài: tiếng đàn Thạch sanh, tiếng đàn Kiều, tiếng hát Trương Chi. Âm nhạc còn cung cấp, gợi ý cho văn chương các tứ thơ, ý thơ.

c. Văn chương với điện ảnh   TOP

Ðiện ảnh là ngành nghệ thuật tổng hợp. Ở nó có sự kết hợp của nghệ thuật biểu diễn: biểu diễn, tạo hình, biểu hiện. Nghệ thuật điện ảnh có khả năng bao quát rộng rãi về thế giới có khả năng tác động mạnh mẽ đến người nhận, tính chất quần chúng rộng rãi, tính hiện thực dường như tiếp cận với sự thực.

74

Page 75: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cơ sở tồn tại của điện ảnh là văn chương. Mọi bộ phim đều được dựng nên dựa trên một kịch bản điện ảnh nhất định - mà thực chất đó là những truyện phim hay các tác phẩm văn chương. So với điện ảnh, văn chương có khả năng bao quát hiện thực cả bề rộng, lẫn bề sâu; khả năng này của văn chương là vô địch.

Mọi tác phẩm văn chương khi được chuyển thể sang ngôn ngữ điện ảnh đều không còn giữ được cả bề rộng lẫn bề sâu về sức khái quát cuộc sống. Nguyên do là ở chỗ đặc trưng của điện ảnh. Trước hết là do thời gian điện ảnh, thường một bộ phim xem không quá 3 tiếng đồng hồ. Còn thời gian văn chương thì vô cùng. Nhưng lí do quan trọng là điện ảnh yêu cầu một sự thống nhất cao của hành động làm nổi bật các tuyến nhân vật và diễn biến cốt truyện. Ðiện ảnh phải thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật thông qua hành động xung đột, thông qua hành vi cụ thể, thông qua các tính cách nhân vật  và quan hệ giữa chúng. Ðiện ảnh không thể tác động tới người tiếp nhận bằng các phương tiện biểu hiện trực tiếp các tư tưởng và tình cảm thông qua lời kễ trực tiếp của tác giả như văn chương.

Sự tác động trở lại văn chương của điện ảnh trước hết là đặt ra cho văn chương nhiệm vụ viết các kịch bản phim. Mặt nữa, phim là nơi gợi ý cho văn chương và nhiều khi là nguyên nhân thành công cho văn chương. Tùy bút rất hay ấy chính là lời bình cho của bộ phim Cây tre Việt Nam, và chắc chắn là gợi ý cho bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy.

CHƯƠNG VIII

NHÀ VĂN VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC

   

I. HÀNH VI SÁNG TẠO CỦA NGHỆ SĨ 1. Những quan niệm của mĩ học duy tâm 2. Quan niệm của mĩ học duy vật

II. TƯ CHẤT NGHỆ SĨ CỦA NGƯỜI SÁNG TÁC 1. Sự mẫn cảm đặc biệt 2. Óc quan sát tinh tế 3. Trí tưởng tượng sáng tạo 4. Cảm hứng sáng tạo 5. Trí tuệ sắc sảo 6. Trí nhớ tốt 7. Cá tính độc đáo

III. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN TÀI NĂNG 1. Lập tường tư tưởng chính trị 2. Sự hiểu biết cuộc sống 3. Trí thức văn hóa dồi dào

IV. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC 1. Giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác 2. Giai đoạn chuẩn bị sáng tác 3. Giai đoạn lập hồ sơ - kết cấu tác phẩm 4. Giai đoạn viết tác phẩm 5. Giai đoạn sửa chữa

75

Page 76: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

      I. VỀ HÀNH VI SÁNG TẠO CỦA NGHỆ SĨ

        1. Những quan niệm của mĩ học duy tâm

Qua các chương trên chúng ta đã tìm hiểu nhiều đặc tính, bản chất khác nhau của tác phẩm văn chương đó cũng là quá trình chúng ta tiến hành xác định vai trò, vị tr1i, ý nghĩa to lớn của văn chuơng trong đời sống kinh tế xã hội. Ðến đây, một vấn đề đặt ra là: vậy thì, quá trình sản sinh ratác phẩn văn chương - một văn minh tinh thần kỳ diệu của con người được diễn ra như thế nào. người cha của đứa con kỳ diệu đó cần có những phẩm chất đặc biệt gì?

Cũng như nhiều vấn đề quan trọng khác của nghiên cứu văn chương, vấn đề phẩm chất tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ và quá trình sáng tạo của anh ta như thế nào là câu hỏi hóc búa được đặt ra từ lâu trong lịch sử mĩ học nhân loại. Sáng tác là gì? Có thể giải thíchđược quá trình sáng tác không? Những lực lượng nào đã tham gia và chi phối quá trình sáng tác?

Mĩ học duy tâm ngay từ thời Platon đã cho rằng không thể hiểu được quá trình sáng tác của nghệ sĩ. Nghệ thuật là điều kỳ diệu đặc biệt, nghệ sĩ là công cụ của sức mạnh huyền bí, anh ta có một bản chất thần linh. Nghệ sĩ sáng tác trong trạng thái đó không bị kiểm tra bởi ý thức. tác phẩm hiện thực của nhà văn là tái hiện ý niệm bất biến, tồn tại vĩnh viễn trước khi có thế giới xuất hiện. Do đó, không thể nhận thứcbằng lí trí.

Tán đồng ý kiến của Platon, các nhà mĩ học duy tâm tư sản theo thuyết trực giác như Bergson, Croce, Freud đã lái cách giảithích của Platon sang lĩnh vực sinh học. Họ xem trực giác phi lí tính là sức mạnh sáng tạo duy nhất, là khởi điểm, là nội dung của sáng tạo nghệ thuật. Bergson cho rằng nhà văn sáng tạo bằng trực giác. Freud thì khẳng định: quan niệm về một tinh thần vô thức lần đầu tiên cho phép (hoạt động) ta có được khái niệm về thực chất các hoạt động sáng tạo của nhà thơ. Mritain cho trực giác là thứ ánh sáng vô cùng quý báu và là nguyên tắc tối quan trọng trong nghệ thuật. đề cao vô ý thức. những nhà trực giác cho rằng nghệ thuật xét theo bản chất của nó là không có dụng ý, thái độ có dụng ý, thái độ có ý thức của nhà văn chẳng những vô ích mà thậm chí còn có hại. Mọi ý định trong sáng tạo nghệ thuật đều giết chết nghệ thuật.

Những người theo chủ nghĩa xét lại cũng phủ nhận lí trí trong sáng tạo nghệ thuật. theo Phi se, người nghệ sĩ cần xa lánh những quan điểm chính trị rõ ràng. y cho rằng những ấn tượng trực tiếp  về hiện thực là duy nhất có khả năng dẫn người nghệ sĩ đến việc tạo ra tác phẩm chân chính.

        2. Quan niệm của mĩ học duy vật   TOP

Khác hẳn mĩ học duy tâm, mĩ học suy đồi tư sản và mĩ học xét lại, mĩ học duy vật, đã có cách nhìn nhận khoa học về sự sáng tạo nghệ thuật, mà điều cơ bản nhất là khẳng định ý thức con người là sức mạnh chủ yếu của sự sáng tạo nghệ thuật. Aristote cho rằng nghệ thuật là sự bắt chước thực tại, là công cụ hiểu biết thực tại. Người ta có thể hiểu và giải thích được quá trình sáng tác. Biélinsky phản đối quan niệm xem hoạt động sáng tác như là một hiện tượng cảm tính. Tất cả các nhà thơ, ngay cả nhà thơ vĩ đại đi nữa, cũng phải đồng thời là nhà tư tưởng, nếu không thế thì tài năng cũng không giúp được ích gì.[1] Tchernuchevski khẳng định: ... dù tài năng vô thức mạnh mẽ nhất, nhà thơ cũng không sáng tạo được gì vĩ đại hết, nếu anh ta không được phú cho một trí tuệ sắc sảo, một lương trí khỏe khoắn, một thị hiếu tinh tế.[1]

76

Page 77: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Mĩ học Marx - Lénine kiên quyết chống lại những sai trái của mĩ học duy tâm và khẳng định sáng tạo nghệ thuật không phải là hành động có tính chất thần bí, bẩm sinh, đồng thời cũng không chấp nhận quan điểm dung tục cho rằng tài năng nghệ thuật không có gì đặc biệt cả. Mĩ học Marx - Lénine đánh giá đúng đắn vai trò của tài năng và thế giới quan trong quá trình sáng tạo.

    II. TƯ CHẤT NGHỆ SĨ CỦA  NGƯỜI SÁNG TÁC

        1. Sự mẫn cảm đặc biệt.   TOP

Tư chất đầu tiên và cơ bản đòi hỏi phải có ở người sáng tác là một tâm hồn giàu xúc động, tính xúc động Mácnh liệt. Tình cảm là biểu hiện tâm lí của con người nói chung. Ðã là người ai cũng có những yêu, ghét, hờn giận, vui buồn... nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ xúc động, dễ nhạy cảm.

Khi định nghĩa về thơ, Bạch Cư Dị viết: căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa. Xem thơ là một cây sống mà gốc là tình cảm, Bạch Cư Dị đã coi vấn đề cơ bản, gốc của văn chương là tình cảm. Ðồng chí Lê Duẩn xem tình cảm trong nghệ thuật là quy luật là bản chất: Thường thường triết học giải quyết vấn đề lí trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm. Nói đến nghệ thuật là nói đến qui luật riêng của tình cảm.

Tình cảm là qui luật là bản chất của văn chương phải được hiểu theo 2 nghĩa. Trước hết là, tình cảm nồng cháy của nhà văn trước hiện thực đời sống; thứ đến là, tác phẩm rực cháy tình cảm đó của nhà văn đốt cháy lên tình cảm trong bạn đọc. Vấn đề này L. Tolstoi viết:

Khi người xem, người nghe cũng được lây truyền một thứ tình cảm mà người viết đã cảm thấy, thì nó chính là nghệ thuật.[1]

Như thế muốn có nghệ thuật trước hế người sáng tác phải có tình cảm nồng nàn, cảm xúc Mácnh liệt. Sóng Hồng viết: người làm thơ phải có tình cảm Mácnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng.

Nhiều nhà văn, nhà thơ đã khẳng định sự thiết yếu của tình cảm Mácnh liệt và nồng cháy của mình trước cuộc sống và trong sáng tác. Lỗ Tấn ví sự Mácnh liệt của tình cảm của nhà văn với cuộc sống như sự Mácnh liệt của tình cảm yêu đương. gặp cái gì đáng yêu thơ họ ôm choàng lấy, nếu gặp điều trái giận thì họ bác bỏ ... Phải kịch liệt công kích cái sai như đã từng nhiệt liệt ủng hộ cái đúng. ôm chặt người yêu như thế nào thì nghiến chặt kẻ thù như thế.[1] Ngô Thời Nhận cũng có suy nghĩ tương tự: Tình cảm dồi dào thì nảy sinh thơ. hoặc là tình nam nữ thương nhau hoặc là tình vợ chồng nhớ nhau ... Ngô Giang Tiệp (Ðời Thành Trung Quốc) viết: Thơ là từ trái tim đi rồi trở về với trái tim.

Tố Hữu viết: Mỗi khi có cái gì nghĩ ngơi chứa chất trong lòng không nói ra không chịu được thì tôi cảm thấy cần làm thơ.

Nekrasov, nhà dân chủ cách mạng Nga thế kỷ XIX viết:

Nếu những nỗi khổ đã từ lâu bị kìm chế, nay sôi sục và dâng lên trong lòng thì tôi viết.

Lermontov, nhà thơ Nga viết:

Có những đêm rất khổ, không ngủ được, mắt rực cháy và thổn thức lòng tràn ngập nhớ nhung khi đó tôi viết.

Garcia Lorka nhà thơ lớn Tây Ban Nha (1898 - 1930) viết:

77

Page 78: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Thơ không chấp nhận trạng thái bàng quan. P.Valéri, nhà thơ Pháp nổi tiếng Châu Âu vào những năm 20 - 30 của thế kỷ viết:

Sự truyền đạt lại một trạng thái thơ đòi hỏi phải dựa vào dây toàn bộ cảm xúc là điều khác với sự truyền đạt lại một tư tưởng.

Tô Hoài đã tâm sự về nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thành công của truyện Tây Bắc là Ðất nước và con người miền tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá.

        2. Óc quan sát tinh tế   TOP

Tình cảm là nguyên nhân quan trọng tạo nên tác phẩm văn chương của người nghệ sĩ. Muốn có được tình cảm đó nhà văn không thể không là nhân chứng của cuộc sống. nhà văn không thể không có bộ máy cảm quan tinh tế. Ðặc điểm của sự nảy sinh tình cảm ở con người là do tiếp xúc trực tiếp với những hiện tượng cụ thể của đời sống và đặc trưng của hình tượng nghệ thuật là tính cá biệt cụ thể cảm tính (chứ không phải là tính trừu tượng). Bởi vậy, nhà văn phải có tài năng quan sát tường tận mọi ngóc ngách, mọi hiện tượng cuộc sống, nhiều lúc là những chi tiết tưởng như là vụn vặt có khi lọt khỏi tầm mắt của con người bàng quan, thậm chí là, con người bình thường.

Quan sát chính là quá trình thu thập tài liệu để xây dựng hình tượng. Hình tượng nghệ thuật, máu thịt của nó là chất liệu cuộc sống. Vậy nên, nếu không có quá trình thu thập tài liệu thì nhà văn sẽ không có chất sống để xây dựng hình tượng. Do đó, quan sát cuộc sống, tiếp xúc với cuộc sống, thu lượm những ấn tượng về đời sống là điều khao khát của nhà văn và cũng là nguyên nhân thành công của nhà văn.

Gogol đã từng nói: Tôi cần sờ mó một cách thật sự và đều nói đến chốn chứ không phải nhìn nó trong khi khiêu vũ hay đi dạo.

L.Tolstoi có một cách quan sát tường tận và tế nhị đối với thiên nhiên và đặc biệt là con người. Ði tàu hỏa, ông thường đi vé hạng 3 để cùng ngồi với nông dân do đó mà có điều kiện quan sát và lắng nghe câu chuyện của họ.

Dostoevsky, trong nhiều năm bị kết án khổ sai ở Xibia, ông đã được tiếp xúc với nhiều con người thú vị, nghe vô số chuyện về những người lưu manh, trộm cướp và nói chung là tầng lớp người sống tối tăm, bất hạnh nhất. ông đã thực sự xem thời gian là vàng ngọc: Nói chung, đối với tôi thời gian không trôi qua một cách vô ích.

Quan sát và thu thập tài liệu, nhưng không phải thụ động trước tài liệu. Ngược lại, nhà văn chủ động tìm kiếm tài liệu cần thiết đối với mình về cuộc sống; chọn lọc từ hàng hà sa số các sự việc những cái vững chắc, tiêu biểu, điển hình. Như vậy, óc quan sát của nhà văn khác con người bình thường là ở chỗ tìm ra được sự kiện, những sự việc, những con người, những chi tiết có ý nghĩa lí thú, khái quát. Dovgienko đã phát biểu về điều này một cách lí thú: Hai người cùng nhìn xuống, một người chỉ nhìn thấy vũng nước, người kia lại thấy được những vì sao.

Ðối tượng quan sát của nhà văn không chỉ là hiện thực khách quan bên ngoài nhà văn, mà có một phương diện không kém phần quan trọng là chính bản thân nhà văn. Ðể có cơ sở cho sự quan sát hiện thực bên ngoài, trước hết, nhà văn phải tự quan sát bản thân mình, là sự thể hiện mình. Thơ trữ tình, văn tự truyện là nơi bộc lộ tự quan sát của người sáng tác rõ nhất. nhưng yếu tố tự truyện còn bộc lộ khá rõ trong phương pháp sáng tác của nhà văn. Ví dụ, Dickens với Ðêvit copơphin, Rousseau khẳng định nhân vật của ông là bản sao của chính đời ông và Ibsen khẳng định: Sáng tác, có nghĩa là tiến hành một cuộc xét xử không giả dối về chính mình.

78

Page 79: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tự quan sát là tự phân tích, mổ xẻ mình đồng thời đây là con đường tự mình đến với người, từ tự quan sát đến quan sát, từ cây mà thấy rừng. Muốn hiểu người khác, trước hết phải hiểu mình, từ chỗ hiểu mình mà nhà văn đi đến hiểu người.

        3. Trí tưởng tượng sáng tạo   TOP

Trí tưởng tượng sáng tạo là dấu hiệu quan trọng nhất của tài ba nghệ thuật, là một trong những sức mạnh chủ yếu của quá trình sáng tạo.

Mặc dầu vậy, năng lực tưởng tượng không phải là vương quốc riêng của người nghệ sĩ. Năng lực tưởng tượng tồn tại trong mọi con người. Theo Lénine thì tưởng tượng là phẩm chất có giá trị vĩ đại nhất. Trong Bút ký triết học, Lénine viết: Trong sự khái quát dù dơn giản nhất, trong một ý niệm dù sơ đẳng nhất cũng đều có một mẫu nhất định của trí tưởng tượng. Như thế, trí tưởng tượng sáng tạo tồn tại trong mỗi con người từ người bình thường cho đến nhà khoa học. Tại đại hội lần thứ IX của Ðảng cộng sản Liên Xô, Lénine khẳng định:

Thật là sai lầm khi nghĩ rằng tưởng tượng chỉ cần cho nhà thơ. đấy là một định kiến ngu xuẩn. Ngay trong toán học, tưởng tượng cũng cần thiết, nếu không có tưởng tượng thì ngay sự phát minh ra các phép tính vi phân và tích phân cũng không thể có được.

Tưởng tượng là ước đoán, là mơ ước, là đoán định, là vượt lên phía trước, không có tưởng tượng con người ta không sáng tạo ra được gì hết, và do đó, con người ta sẽ không tồn tại và phát triển được.

Tuy vậy, đối với sáng tạo nghệ thuật, tưởng tượng (hay sức hình dung) là đặc biệt quan trọng. Gorky coi sức tưởng tượng như là một trong những biện pháp quan trọng nhất của kỹ thuật xây dựng hình tượng.

Viatsexlap siskov viết: Nếu không có tưởng tượng thì không có nghệ thuật.

Metvedev viết: Ðặc diểm cơ bản nhất, dấu hiệu chủ yếu của hoạt động sáng tạo là óc tưởng tượng xây dựng, sáng tạo với tư cách là năng lực tích cực liên hợp và khái quát hóa các khái niệm và các hình ảnh của những hồi ức vốn là hồi quang của thực tại khách quan và thực tiễn xã hội của người nghệ sĩ.

Không có tưởng tượng thì không thể xây dựng được hình tượng. Từ dòng thác của những cảm xúc những điều quan sát về hiện thực, trí tưởng tượng vẽ nên những hình tượng có tượng có tính sáng tạo của hư cấu. Nhờ trí tưởng tượng sáng tạo mà hình tượng nghệ thuật hư cấu trở nên đúng hơn và trung thực hơn cả sự thật cuộc sống.

Nếu không có trí tưởng tượng, nghệ thuật sẽ trở thành sao chép tự nhiên, sao chép cuộc sống một cách máy móc vụn vặt, hời hợt là tẻ nhạt, chụp ảnh những biểu hiện bề ngoài của hiện thực. Flaubert thực hiện nhữngcuộc du lịch vòng quanh trái đất mà vẫn không bước ra khỏi căn phòng của mình và để xây dựng các kế hoạch - nghĩ ra các cảnh tưởng bằng cách làm cho Tâm hồn chìm đắm vào tưởng tượng.

Chính Flaubert phải hóa thân vào nhân vật để sáng tạo: Thật là một điều kỳ diệu, viết, không phải là sống thu hẹp lại trong bản thân mình mà phải quay trở về với toàn bộ cuộc sống mà mình nói đến. Chẳng hạn hôm nay tôi vừa là đàn ông lại vừa là đàn bà, kiêm cả đôi trai gái yêu nhau

79

Page 80: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

cưởi ngựa dạo quanh trong rừng, giữa buổi trưa mùa thu, dưới lá vàng giữa heo may, vang rộn tiếng cười và ánh mặt trời đỏ tía, làm những đôi mắt say sưa vì yêu đương phải nhắm lại, và Cứ từng phút từng giây tôi đặt mình vào địa vị của những người mà tôi ác cảm, tôi phải hết sức cố gắng mới hình dung nổi các nhân vật của mình và nói thay cho họ, khốn nổi họ lại làm cho tôi ghê tởm một cách sâu sắc.[1]

Balzac tưởng tượng về những người dưới đáy xã hội đến mức: cảm thấy trên lưng mình có những quần áo rách nát, còn dưới chân thì có những đôi giày há mõm, thủng lỗ của những con người nghèo đói mà tác giả đang viết về họ.

        4. Cảm hứng sáng tạo   TOP

Bằng những tình cảm Mácnh liệt trước những điều quan sát được từ cuộc sống và trí tưởng tượng, nhà văn, trong quá trình sáng tác thường có sự căng thẳng tối đa của ý chí, sự trào dâng của mọi năng lực sáng tạo. Trạng thái sẵn sàng tạo lớn nhất này của nhà văn được gọi là cảm hứng.

Trong những giờ phút có cảm hứng, quá trình sáng tạo của nhà văn diễn ra với cường độ mạnh nhất và hiệu quả cao nhất.

Chaikovski nói về trạng thái của mình khi cảm hứng đến: Người ta quên hết mọi thứ, người ta như hóa điên, người ta như hóa điên, tất cả ở bên trong đều rung chuyển, chưa kịp bắt đầu ghi phác thì ý này sẽ chuyển sang ý khác.

Balzac cũng tự nhận rằng : Chưa bao giờ dòng thác lại cuốn tôi đi một cách nhanh chóng như vậy. Puskin viết: Các dòng thơ cứ vang lên, tuôn ra. Lermontov nói: Các vần thơ cứ nhịp nhàng đến, chẳng khác nào các làn sống cứ kế tiếp nhau”.

Nguyễn Công Hoan, viết Bước đường cùng trong một tuần lễ, nhưng Xuân Diệu, có lúc viết một câu thơ đến 20 năm.

Như vậy, cảm hứng không phải là một trạng thái thường trực trong con người nghệ sĩ. Những nhà mĩ học duy tâm (Platon chẳng hạn) xem cảm hứng là cuồng hứng xâm nhập - một thứ cuồng loạn trong nghệ thuật. Nhiều nhà sáng tác cũng có lời giải thích tương tự. Gogol cho rằng: Có một sưc mạnh vô hình nào đấy viết trước mặt tôi bằng chiếc gậy thần quyền lực. Chateaubriand cho rằng cảm hứng là sức mạnh huyền bí của thế giới.

Nekrasov kêu gọi: Hỡi nàng thơ, hãy đem đến cho ta thần hứng. Cảm hứng thường đến đột ngột, khiến cho người ta tưởng thần hứng xâm nhập, nhưng thực chất, nó là một hành động của tư duy. Nó đến đột ngột, nhưng không phải là một lực lượng siêu hình từ bên ngoài nhập vào nhà thơ. Thực chất, cảm hứng chỉ là sự kết tinh của quá trình tích lũy, quá trình chuẩn bị, là quá trình làm việc căng thẳng của tư duy và óc tưởng tượng.

Vì vậy, sáng tác không có nghĩa là ngồi chờ giây phút cảm hứng, mà là một quá trình lao động kiên trì bền bỉ. Chính Turgenev đã khẳng định: Ở đây không có gì để mà chờ đợi cái gọi là những giây phút cảm hứng cả, nó đến càng tốt còn dù sao anh vẫn cứ làm việc đi đã.

Tài năng sáng tạo không chỉ là sáng tạo có cảm hứng mà là năng lực lao động hằng ngày căng thẳng, có hệ thống, vất vả, nặng nhọc. Goethe đã thừa nhận:

80

Page 81: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Người ta luôn coi tôi là đứa con nuông chiều đặc biệt của số phận ... Nhưng thực ra trong đời tôi không có gì ngoài lao động nặng nhọc... Y như lúc nào tôi cũng vần một tảng đá nó cứ lăn xuống hết lần này đến lần khác, và lại phải đẩy nó lên.

Cảm hứng chính là kết quả của quá trình làm việc vất vả, là kết quả của năng lực lao động hàng ngày. Chaikovsky khẳng định: Cảm hứng cũng là người khách không ưa đến thăm kẻ lười.

        5. Trí tuệ sắc sảo   TOP

Cảm hứng là sức mạnh nâng hiệu suất sáng tác lên một mức độ cực kỳ cao. Gogol viết: ... Ngọn gió thuận chiều thổi đến cảm hứng chúng ta, và cái tưởng đâu làm trong nhiều năm thì nay được thực hiện đôi khi chỉ trong phút chốc. Tuy vậy, cảm hứng dù có Mácnh liệt đến đâu, nếu không có sự kiểm soát của lí trí, nếu chỉ có cảm hứng không thôi thì nhiều khi cảm hứng sẽ đẩy nhà văn xuống vực thẳm. Trong sáng tác, ý thức - lí trí giữ vai trò chủ đạo - kiểm tra nghiêm ngặt cảm hứng. G.Sand khẳng định: Sôi sục là tốt, nhưng ý thức của người nghệ sĩ nhất thiết phải xét duyệt một cách thanh thản những hình ảnh quyến rũ, sự mơ mộng tự do và đơn chiếc trước khi truyền báo những hình ảnh ấy cho mọi người.

Mĩ học duy tâm phủ nhận vai trò của lí trí trong sáng tác nghệ thuật. Họ coi sáng tạo là kết quả của một lực lượng phi lí tính. Mĩ học duy vật chẳng những xem trọng vai trò của lí tính trong sáng tạo với tư cách là kẻ chỉ đạo mà còn chỉ ra rằng đối với nhà sáng tác có lí trí đã đành mà còn cần có lí trí tốt - tức là có một trí tuệ sắc sảo. Nhà văn nào có trí tuệ tinh nhạy, sáng suốt năng động nhà văn đó sẽ phát hiện nhanh chóng và đúng đắn bản chất cuộc sống.

       6. Trí nhớ tốt   TOP

Trí nhớ tốt là cần thiết cho tất cả mọi người và là phẩm chất quan trọng cho những người hoạt động trên lĩnh vực tinh thần nói chung: các nhà khoa học và nghệ thuật. Nhưng nếu như đối với các nhà khoa học có trí nhớ tốt là người có khả năng ghi giữ lâu bền những số liệu, những kết luận, những công thức định lí, định luật v.v… nói chung là những tri thức khái quát trừu tượng thì, đối với nhà văn, trí nhớ tốt là khả năng ghi giữ lâu bền những ấn tượng, những hình ảnh, những chi tiết … những hiện thực đời sống do mình đã kinh qua. Trí nhớ của nhà văn là một cái kho chứa giữ những ấn tượng về thế giới của anh ta, đó là kho vật liệu để từ đó nhà văn cơ cấu nên tác phẩm nghệ thuật. Những nhà văn lớn thường là những nhà văn có trí nhớ tốt. Balzac nhớ rõ họ tên 2000 nhân vật do ông sáng tác và hình dung được một cách rõ ràng  đậm nét những sự vật và con người như đang chứng kiến. Xtandal đã tự nhận: … Chỉ nhớ lại mà thôi, tôi viết dễ dàng và thoải mái. Nekrascov có một trí nhớ rất kỳ lạ. Ông ghi lại cả một câu chuyện chỉ bằng một từ thôi và dựa vào từ ấy ông nhớ lại câu chuyện suốt đời. Pautovski khẳng định: Một trong những điều kiện của việc làm văn là trí nhớ tốt.

Tác phẩm nghệ thuật là kho tàng kinh nghiệm sống của nhà văn, nó chẳng qua là những hồi tưởng của cái quá khứ đã diễn ra. Một nhà văn có trí nhớ tốt, trước hết, là nhớ lâu và nhớ dai những điều tai nghe mắt thấy. Ðồng thời, trí nhớ đó có chọn lọc, tức là nhớ những cái gì đáng nhớ và để cho những cái được chọn lọc trở nên thuần khiết. Gorki đã nói: Sáng tác chính là hoạt động của trí nhớ căng thẳng tới mức sự nhanh chóng của hoạt động này rút từ cái vốn trí thức ấn tượng ra những sự việc, những cảnh, những tình tiết nổi bật và tiêu biểu nhất.

81

Page 82: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

        7. Cá tính độc đáo   TOP

Trong khoa học, cá tính của nhà khoa học không có mặt trong các công thức, định lí định luật. Ngược lại, trong nghệ thuật, qua tác phẩm mà người ta nhận ra bộ mặt tác giả. Nghệ thuật yêu cầu người nghệ sĩ phải có cá tính sáng tạo, phải có khuôn mặt sáng tạo, có tiếng nói, giọng nói riêng. Ðó là bản lĩnh sáng tạo hay bản sắc sáng tác của nghệ sĩ.

Turgenjev đã khẳng định đặc điểm tiêu biểu của nghệ sĩ chân chính cái quan trọng trong tài năng văn chương (…) là cái tôi muốn gọi là tiếng nói của mình. Ðúng thế, cái quan trọng là giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác…. L.Tolstoi xác nhận giá trị của bản sắc sáng tạo của người nghệ sĩ: Thực ra khi chúng ta đọc hoặc xem một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả mới thì câu đầu tiên chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: nào anh là con người như thế nào đây? Anh có gì khác với những con người mà tôi biết … còn đối với một nhà văn đã quen thuộc thì câu hỏi không phải là anh là người như thế nào? Mà sẽ là Nào, anh có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới? Bây giờ anh sẽ lí giải cho tôi cuộc sống từ khía cạnh nào?.

Bản sắc, cá tính sáng tạo là một tư chất vô cùng quan trọng, quan trọng tới mức nó là tiêu chuẩn về sự sống còn của nghệ sĩ. Vì vậy, các nghệ sĩ phải khẳng định và tìm cho được bản sắc của mình.

Trên đây là một số tư chất quan trọng của người nghệ sĩ. Song chưa phải là tất cả. Mặt khác các tư chất của một người nghệ sĩ không bao giờ tồn tại độc lập, tách rời mà tồn tại một cách hữu cơ, xuyên thấm bổ sung và chi phối lẫn nhau. Hơn nữa, mức độ phát triển các tư chất đó ở từng nhà văn là không đồng đều, thậm chí có những nhà văn lớn có tư chất kém phát triển chẳng hạn như trí nhớ.

    III. CON ÐƯỜNG DẪN ÐẾN TÀI NĂNG

Những tư chất trên đây là cơ sở quan trọng để nhà văn sáng tác tốt. Có thể coi đó như là năng khiếu. Nhưng năng khiếu và tài năng không phải là một. Từ năng khiếu đến tài năng là cả một con đường đầy gian lao và thử thách của nhà văn. Nghĩa là có một năng khiếu bẩm sinh, nhà văn đồng thời phải có một nổ lực rèn luyện, trau dồi, khổ công mới có thành tựu vẽ vang trong nghệ thuật.

            Tài năng nghệ thuật, vì vậy, không phải là một lực lượng siêu nhiên. G.and đã khẳng định:

            Nghệ thuật không phải là một năng khiếu có thể phát triển mà không cần mở rộng kiến thức về mọi mặt. Cần phải sống, phải tìm tòi, phải xào nấu lại rất nhiều, phải yêu rất nhiều mà chịu nhiều đau khổ, và đồng thời không ngừng kiên trì làm việc. Trước khi dùng kiếm, cần phải học kiếm thuật. Nghệ sĩ mà chỉ thuần túy là nghệ sĩ thôi thì sẽ là một người bất lực, tức là một kẻ tầm thường, hoặc sẽ đi tới chỗ thái quá, tức là một kẻ điên rồ.[1]

            Việc trau dồi, rèn luyện để thành tài năng, nhất thiết phải trên 4 mặt cơ bản sau đây: Lập trường - vốn sống - vốn văn hóa - kỹ thuật viết văn.

        1.  Lập trường tư tưởng chính trị   TOP

82

Page 83: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

             Mĩ học Marx Lénine xem sáng tác là một sức mạnh về thể chất và tinh thần của con người dưới ánh sáng của một lập trường tư tưởng nhất định. Nghĩa là, thế giới quan thống nhất với sáng tác, quyết định sáng tác.

            Như thế, tài năng gắn rất chặt với lập trường tư tưởng. Trong lịch sử văn chương nhân loại, những nhà văn lớn đồng thời cũng là những nhà nhân đạo lớn. Thành công trong sáng tác Balzac, Tolstoi, Nguyễn Du là thành quả của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa dân chủ, thái độ phê phán xã hội thối nát.

            Ngày nay, muốn trở thành nghệ sĩ vĩ đại, nhà văn phải sáng tác dưới ánh sáng của thế giới quan Mác Lênin. Bởi vì, theo Trường Chinh thì:

            Chủ nghĩa MácLênin vũ trang cho ta thế giới quan cách mạng, làm cho ta sáng mắt sáng lòng, giúp cho ta tìm ra lí tưởng của đời mình, mục đích của cuộc sống. Nó giúp cho ta nắm được qui luật phát triển của tự nhiên, của xã hội và tư duy. Nó đặt ta vào trung tâm của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của những mâu thuẫn để cho ta nhìn thấy mọi khía cạnh của sự vật, nhìn thấy chân lí. Nó giúp cho ta nắm được những cái bản chất, quan trọng nhất và nổi bật nhất trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Nó giúp ta không những hiểu rõ hiện tại mà còn nhìn thấy tương lai, làm cho ta có ý thức trách nhiệm của mình đối với cuộc sống.

Gorky đã từng nhấn mạnh: Nghệ sĩ là người xướng lệnh của giai cấp mình, là tiếng kèn chiến đấu và ngọn kiếm đầu tiên của giai cấp, nghệ sĩ bao giờ cũng luôn luôn thèm khát tự do, trong cái tự do này có cái đẹp và sự thật. Và Nghệ sĩ là một đại giác quancủa đất nước mình, là tai, là mắt là tim của nó; nghệ sĩ là tiếng nói của thời đại mình.

Xuân Diệu được ánh sáng của thế giới quan mới chiếu dọi, đã tâm sự: Cám ơn tư tưởng vô sản: Quý biết bao cái chất tư tưởng tiến bộ nhất, hoàn mĩ nhất, mạnh mẽ nhất, tinh hoa của lịch sử tư tưởng loài người.

Ðồng chí Phạm Văn Ðồng đã xem chính trị tư tưởng là linh hồn của người nghệ sĩ: Vốn chính trị tư tưởng là linh hồn của người nghệ sĩ trong thời đại chúng ta.

Người nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa xem việc chăm lo trau dồi phẩm chất chính trị, thế giới quan Mác Lênin và nắm vững đường lối Ðảng là công việc thường xuyên và một thứ vốn quan trọng quyết định sự thành bại của mình.

Nhưng vốn chính trị ở đây - chủ nghĩa Mác Lênin và đường lối Ðảng - muốn trở thành nguyên nhân thắng lợi của người nghệ sĩ thì nhất thiết nó không được dừng lại ở sách vở như một giáo điều, ở lí luận trừu tượng, tức là ở trong nhận thức lí luận mà phải được dấy lên thành tình cảm, thành cảm hứng, thành máu thịt của tâm hồn tư tưởng của anh ta.

       2. Sự hiểu biết cuộc sống   TOP

Nhà văn cần thiết phải am hiểu cuộc sống, phải có một vốn sống đa dạng, phong phú sâu sắc và đúng đắn. Sự hiểu biết rộng là cần thiết cho mọi người và cho cả những nhà chuyên môn. Tuy vậy, nhà chuyên môn văn chương đối tượng của anh ta là thế giới hiện thực quay quanh tiêu điểm là con người nên đối với anh ta hiểu biết rộng là yêu cầu bắt buộc.

83

Page 84: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Muốn có sáng tác tốt, thì sự hiểu biết đó phải đúng đắn. Nhưng sự hiểu biết đúng đắn chỉ có thể gắn với một thế giới quan đúng đắn. Ơû đây vốn chính trị và vốn sống gắn chặt với nhau. Ngoài hiểu biết đúng đắn, người ta phải có một tri thức đa dạng, phong phú và sâu sắc về cuộc sống.

Balzac khẳng định: Trước khi viết một quyển sách, nhà văn phải phân tích hết mọi tính cách, thâm nhập được vào mọi tính tình, chạy vòng khắp trái đất, cảm hiểu hết được mọi say mê. Gorky: Nhà văn bắt buộc phải hiểu biết: phải biết tất cả các dòng cuộc sống và tất cả những nhánh nhỏ của dòng, tất cả các mâu thuẫn của hiện thực.

Lê Quý Ðôn viết : Trong bụng không có 3 vạn quyển sách, trong mắt không có núi sông kỳ lạ thì không thể làm văn được.

Vì tầm quan trọng của vốn sống mà nhà văn phải là người lịch lãm - từng trải, người tham gia tích cực vào cuộc sống. Gorky: … Thật ra, bất kỳ lúc nào cũng cần thiết phải tham gia trực tiếp vào những quá trình của cuộc sống mà mình muốn hiểu. Ðiều này đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với nhà văn. Chính Engels đã cắt nghĩa về sự vĩ đại của các nhà hoạt động Phục hưng có nguyên nhân quan trọng là họ đã tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh cải tạo xã hội:

Ðiều làm cho họ đặc biệt nổi làở chỗ hầu hết họ đều hoà mình vào phong trào của thời đại họ, vào cuộc đấu tranh thực tế; họ tham gia chính đáng, tham gia chiến đấu, người thì dùng lời nói về cây bút, người thì chỉ dùng kiếm, thường là dùng cả hai”.

            Tham gia tích cực vào cuộc sống, nhà văn có thể là nhà hoạt động xã hội, nhà chính trị và chiến sĩ ngoài mặt trận. Chính các nhà văn lớn thường là những người đã từng nếm trải. Họ đấu tranh chống cường quyền bạo lực, chống áp bức, bất công. Các nhà văn Nga thế kỷ XIX như Puskin, Lermontov, Nekrasov, Saltukov - Shedrin, Lev Tolstoi đã tham gia vào cuộc sống đấu tranh chống chế độ nông nô đến mức phải chịu tù đày khổ sai…

Ơû ta, có thể nói các thế hệ nhà văn, nhà thơ cách mạng đều trực tiếp lăn lộn với cuộc sống, sản xuất và chiến đấu mới có những tác phẩm ưu tú. Một loạt bài thơ của Phạm Tiến Duật được hâm mộ ra đời dọc trường sơn, các tác phẩm của Nguyễn Thi hầu hết ra đời ở chiến trường Nam bộ v.v…

            Ngoài trực tiếp tham gia cuộc sống nhà văn phải đi nhiều, qua các cuộc du lịch để hiểu, nhận thức thế giới một cách đầy đủ và toàn diện. Tchekhov đã khuyên Telechov: Anh hãy đi đâu thật xa, đi một nghìn dặm … biết bao nhiêu điều anh sẽ thấy, biết bao nhiêu truyện ngắn anh sẽ có thể đưa về. Anh sẽ trông thấy cuộc sống nhân dân, anh sẽ ngủ đêm trong những túp lều, trong những trạm bưu vụ hẻo lánh … Có điều khi đi tàu hỏa, anh nhất thiết phải lấy vé hạng ba, ngồi cùng với nhân dân bình thường,nếu không anh sẽ chẳng nghe thấy một điều gì thú vị đâu. Nếu muốn thành nhà văn, ngày mai anh hãy lấy vé đi Nijni, rồi từ đấy đi dọc theo sông Volga, sông Kama. Chính Tchekhov đã thực hiện chuyến đi gian khổ nhất thời bấy giờ: xuyên qua Xiberi rồi tới đảo Xakhaline (năm 1890). Kết quả của chuyến đi là thế giới quan của ông đã thay đổi. Yù nghĩa của các chuyến đi là đưa nhà văn đến tắm mình trong thế giới hiện thực, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống.

            Ði trong nước đã đành, đồng thời phải đi ra nước ngoài. Ði nước ngoài để hiểu biết, học tập đất nước người, nhưng đồng thời để hiểu hơn đất nước mình. Ibsen: Về phương diện tinh thần, con người là một sinh vật viễn thị. Chúng ta thấy rõ hơn khi đứng cách xa sự vật, các chi tiết thường làm người ta mờ mắt đi, phải biết tách mình ra khỏi mọi mối quan hệ với điều mình muốn xét đoán; miêu tả mùa hè dễ đạt hơn khi quanh ta là mùa đông. Hugo đã từng đến Tây Ban Nha. Các nhà văn Nga thế kỷ XIX đã từng sang Tây Âu: Turgenjer, Gogol, Gersene.

84

Page 85: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Ðể đi vào cuộc sống, thông thường nhà văn không đơn thuần sống bằng nghề viết văn. Họ có nghề thứ 2 - nghề phụ. Các nhà văn lớn, ngoài viết văn thường là thầy thuốc, kĩ sư, nhà giáo. Nghề phụ đối với nhà văn là một bộ phận cấu thành vốn sống của nhà văn. Lev Tolstoi: Không cần biến viết văn thành kiếm sống cho mình. có thể cày ruộng hay thêu giày, hoặc làm một việc gì đấy để nuôi thân, còn viết thì chỉ khi nào thấy không thể không viết được, hãy viết. Nghề có nghĩa to lớn đối với thành đạt của nhà văn.

Nghề viên chức tồi ở cơ quan hành chánh ở Peterburg đã để lại cho Gogol những nhận xét về thời kỳ này mà ông đưa vào Quan thanh tra, Những linh hồn chết.

Một thời tòng ngũ ở miền nam nước Nga đã để lại cho Lev Tolstoi những ấn tượng, mà những ấn tượng đó là cơ sở cho việc xây dựng những cảnh chiến trận trong Chiến tranh và Hoà bình.

Ðặc biệt, Gorky là nhà văn phải trải qua nhiều loại nghề mạt hạng khác nhau: anh ký quèn ở ga xe lửa, nướng bánh mỳ, phụ bếp trên tàu … những nghề này đã đưa lại cho Gorky tấm giấy thông hành vào đời độc đáo - những hiểu biết phong phú và toàn diện về cuộc sống của nhân dân.

Ðương nhiên, không thể trong mọi trường hợp nghề phụ phải có đối với nhà văn. Ðến một lúc nào đó, nghề phụ lại cản trở nghề chính.

        3.  Trí thức văn hóa dồi dào   TOP

Tác phẩm văn chương là cuốn sách giáo khoa về đời sống. Vì vậy, nhà văn cần phải có vốn văn hóa toàn diện và sâu sắc. Mọi tri thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là điều cần thiết cho nhà văn.

Các nhà văn thiên tài luôn luôn cố gắng chiếm lĩnh những đỉnh cao của văn hóa. Ðó là con đường làm phong phú tài năng của mình.

Tri thức về khoa học tự nhiên đã giúp Goethe thành công trong Faust (Những đoạn bàn về triết học và khoa học); trí thức hóa học, cổ sinh vật học là những ham thích Balzac và đã có ảnh hưởng mạnh đến việc hình thành chủ đề sáng tác Tấn trò đời; Zola viế tiểu thuyết thực nghiệm Gia đình Rugong - Macca đã dựa vào di truyền học.

            Trí thức về y học giúp cho nhà văn phân tích tâm lí nhân vật. Nghề thầy thuốc - nghề thứ 2 của Tchekhov đã giúp tác giả rất nhiều trong xây dựng nhân vật.

            Trí thức về địa lí học giúp nhà văn hiểu biết về tự nhiên và đất nước. Ðiều đó tạo điều kiện thuận lợi cho nhà văn miêu tả phong cảnh thiên nhiên. Việc ham mê nghiên cứu về nông nghiệp của Lev Tolstoi làm tăng tính nghệ thuật của các tác phẩm của ông như Anakarenina, Phục sinh.

            Trí thức về xã hội học là đặc biệt quan trọng, đối với nhà văn. Trí thức về kinh tế chính trị học đã là một thành công của Balzac trong Tấn trò đời ; Engels đã học tập được ở các tác phẩm của Balzac những chi tiết kinh tế hơn cả các sách chuyên môn lịch sử, kinh tế thống kê thời đó cộng lại.

Trí thức về lịch sử là cực kỳ quan trọng. Chỉ có trên cơ sở nghiên cứu về quá khứ và nắm bắt khuynh hướng phát triển của lịch sử xã hội, con người thì nhà văn mới nắm bắt được và phản ánh đúng đắn con người xã hội và đất nước. Gorky: Càng hiểu quá khứ bao nhiêu, càng hiểu hiện tại bấy nhiêu.

85

Page 86: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trí thức về triết học là chỗ dựa cho nhà văn trong sáng tác. Cơ sở triết học sẽ là phương pháp và tri thức của nhà văn. Các nhà văn XHCN lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm cơ sở triết học. Vì nó là toàn năng, vì nó đúng, nó đầy đủ và có hệ thống, nó đưa lại cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh.

Trí thức và tài năng nghệ thuật nói chung sẽ chắp cánh cho nhà văn. Pautovski đã khẳng định: Những hiểu biết tất thảy các lĩnh vực nghệ thuật lân cận - thơ ca, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc … nhất định sẽ làm phong phú thế giới bên trong của người viết văn xuôn và đưa lại cho lời văn một khả năng diễn đạt đặc biệt. Trong lời văn sẽ tràn đầy ánh sáng và màu sắc của hội họa, sự tươi tắn của từ ngữ thơ ca, tính cân xứng của kiến trúc, tính rõ nét và hình khối của điêu khắc, tính nhịp nhàng và uyển chuyển của âm nhạc. Tất cả những tài phụ này chẳng khác nào những màu sắc bổ sung cho văn xuôi. Vân, vân …

Trí thức văn hóa nói chung cần cho nhà văn là vô cùng phong phú, khó có thể nói hết. Một nhà văn mà hạn chế về trí thức văn hóa thì khó có thể là văn ưu tú được.

    IV. QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC

Quá trình sáng tác của nhà văn qua nhiều khâu, nhiều đoạn và mỗi người có một cách riêng. Tố Hữu nói: Mỗi người có một cách làm của mình, không ai giống ai. Ông cũng đã nhận xét: Trong sáng tạo, mỗi người có một phương pháp, có một lối (…) cùng một tư tưởng, một lí tưởng nhưng mỗi người một tính, một lối viết, một lối cảm nghĩ…

Tuy vậy, vẫn có thể phân ra những giai đoạn tiêu biểu của quá trình sáng tạo.

        1. Gai đoạn hình thành ý đồ sáng tác   TOP

Như mọi hoạt động sáng tạo khác của con người, trước khi hành động, con người đã chuẩn bị ý định trong óc mình rồi. Công việc viết một tác phẩm nào đó của nhà văn chỉ thực sự bắt đầu khi có ý định nảy sinh.

Yù định sáng tác đến với nhà văn theo nhiều con đường khác nhau. Nhưng nó thường xuất hiện do những ấn tượng trực tiếp, Mácnh liệt về một vấn đề nào đó của cuộc sống. Tô Hoài có ý định viết Truyện Tây Bắc do xúc động trước cảnh vợ chồng Lí Nủ Chu tiễn mình ra về trong chuyến đi thực tế ở Tây Bắc và tha thiết mong nhà văn trở lại. Minh Huệ xúc động về câu chuyện Bác Hồ đi chiến dịch biên giới (1950) do một người bạn kể lại đã cho ra đời bài thơ Ðêm nay Bác không ngủ. L. Tolstoi viết Phục sinh từ câu chuyện do người bạn kể lại.

Yù đồ sáng tác cũng có thể nảy sinh do một nhiệm vụ chính trị - tư tưỏng được tác giả đặt ra chủ động, có ý thức như là một kế hoạch vạch sẵn. Chẳng hạn, Là thi sĩ của Sóng Hồng, hoặc loại tiểu thuyết luận đề kiểu Trùng quang tâm sử của Phan Bội Châu.

Yù đồ sáng tác cũng có thể nảy sinh từ một nguyên cớ không đâu. Hoàng Nhuận cầm viết bài thơ Anh bộ đội và tiếng nhạc la lại do xung đột giữa tác giả với anh bộ đội vận tải bằng la.

Yù đồ sáng tác đến một cách đột ngột nhưng lại không tự nhiên vô cớ. Mà, nó là kết quả của một quá trình tích lũy nung nấu. Trước khi có ý đồ, người nghệ sĩ đã có một thời kỳ tích lũy ban đầu. Ðây là thời kỳ người nghệ sĩ có trong đầu chất liệu thực tại tươi nguyên, di động hỗn loạn trong ý thức tác giả và chỉ khi chất liệu đó bắt gặp được một ấn tượng mạnh mẽ nào đấy thì mới tạo ra ý đồ sáng tác. Yù đồ đóng vai trò tổ chức, phác họa đường viền, giúp sàng lọc chất liệu. Tố Hữu đã tâm sự về việc viết: Người con gái Việt Nam: Có anh em hỏi tôi làm bài Người con gái Việt Nam

86

Page 87: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

trong trường hợp nào, tôi xin báo cáo với các đồng chí vắn tắt như sau. Chuyện chị Lí chỉ là một cơ hội để nói thôi. Cũng như các đồng chí, tôi luôn luôn nghĩ đến những nỗi đau đớn và những gương anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam. Và tôi muốn nói to cái ý nghĩa dù kẻ địch hung ác đến mấy, dân tộc ta không chết, đồng bào miền Nam ta vẫn sống, vẫn là người chiến thắng. Những ý đồ đó ai cũng có, không có gì mới mẻ cả, nhưng đến lúc gặp chuyện chị Lí thì đó là một hình tượng cụ thể để cho những ý nghĩ, cảm xúc kia trở thành có da có thịt.

Yù đồ sáng tác từ khi bật lóe cho đến khi kết thúc sáng tác tác phẩm là cả một sự phức tạp. Yù đồ có thể bật sáng rồi lụi tàn. Yù đồ có thể được bật sáng và chiếu dọi, nung đốt, thúc đẩy tác giả ráo riết làm việc. Và, do đó mà tác phẩm có thể hoàn thành nhanh chóng. Nguyễn Công Hoan tâm sự về viết Kép Tư Bền:

Hôm ấy tôi đau mắt nặng, nhưng cốt truyện hay quá tôi không chờ đến ngày tôi bình phục. Tôi phải viết ngay. Ðợi lúc vợ con đã ngủ yên vào khoảng 10 giờ, tôi lẳng lặng dậy, thắp đèn, vặn nhỏ ngọn, che giấy bốn bên cho kín ánh sáng, rồi viết. Tôi viết xong, đọc để sửa lại. Lúc thật được vừa lòng thì tôi nghe chuông đồng hồ điểm 5 tiếng. Tôi nhìn ra ngoài đã thấy mờ mờ sáng. Hôm sau, hai mắt tôi sưng húp, đau nặng dần, tưỏng đến mù.

Yù đồ có thể mở đầu cho một quá trình nghiền ngẫm nung nấu để đến chín dần. Minh Huệ từ khi nghe người bạn kể về Bác Hồ đi chiến dịch đến khi cho ra mắt Ðêm nay Bác không ngủ là 3 tháng trời. Nhecrasov viết Ai sống sung sướng ở nước Nga hơn 14 năm. Shakespear viết Rômeo và Juliet hơn 5 năm.

Nhiều khi sự nghiền ngẫm và thai nghén tác phẩm, sự nảy sinh ý đồ rất chậm chạp, thậm chí tác giả đã không kịp hoàn thành tác phẩm, thực hiện ý đồ trong cuộc đời mình. Balzac không viết được tiểu thuyết về chiến tranh của Napoleon, Lermontov không viết được bộ tam thiên tiểu thuyết về 3 thời kỳ của xã hội Nga, trước khi chết.

Từ ý đồ đến sáng tác là cả một khoảng cách mà nhiều khi kết quả sáng tác lại phủ định ý đồ ban đầu. L.Tolstoi đã viết Phục sinh mà kết quả kết thúc tác phẩm trái ngược với dự đồà ban đầu.

        2. Giai đoạn chuẩn bị sáng tác   TOP

Sau khi xuất hiện ý đồ sáng tác nhà văn bắt tay vào chuẩn bị sáng tác. Chuẩn bị sáng tác là giai đoạn cần thiết và tất yếu. Chuẩn bị càng kĩ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Thu nhập tài liệu là công việc đầu tiên của chuẩn bị sáng tác. Tài liệu đối với người sáng tác cũng giống như vật liệu đối với thợ xây nhà. Không có tài liệu, không thể có vật liệu để xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật. Tài liệu càng đầy đủ, phong phú là tiền đề quan trọng cho hư cấu nghệ thuật. Bởi vì, thực ra, nếu so sánh vật liệu của thợ xây nhà với vật liệu của của nhà văn là sự so sánh rất khập khiễng. Chẳng hạn, phần vật liệu dư thừa của thợ xây nhà thường là phần không dùng hết và phần này rất ít. Còn phần dư thừa của nhà văn là phần không thể dùng được và thường rất nhiều. Gorki đã từng nói để miêu tả một ông cố đạo thì tác giả đã phải gặp hàng nghìn ông cố đạo. Thu tập tài liệu là một quá trình lao động đầy gian lao, công phu và tỉ mỉ vì tài liệu đối với nhà văn không phải chỉ có một nguồn, một phương diện mà rất nhiều nguồn, nhiều phương diện. tác phẩm càng lớn thì tài liệu càng nhiều, càng phong phú và phức tạp. L.Tolstoi chuẩn bị tài liệu cho Chiến tranh và Hòa bình bằng nguồn trực tiếp (thăm chiến trường Bôrôđinô…) bằng trực tiếp với những người tham gia chiến trận (chiến tranh vệ quốc 1812) bằng gián tiếp qua các tài liệu nhât ký, hồi ký, thư từ, vào các viện lưu trữ, đọc các tác phẩm có liên quan v.v… Lev Tolstoi đã viết: Trong tiểu thuyết của tôi, ở bất kỳ chỗ nào có lối nói và hành động của các nhân vật lịch sử thì những cái đó không phải do tôi bịa ra, mà đều do tôi rút ra trong những tài liệu mà trong khi tôi làm việc này đã chất thành một thư viện …

87

Page 88: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tài liệu ngoài nguồn quan trọng là tác giả đã chứng kiến, đã kinh qua thì còn phải có những nguồn khác: hỏi và nghe kể, đọc sách báo, thư từ và kể cả tiểu thuyết khác.

Nguồn tài liệu đã phong phú, các phương diện tài liệu để khai thác càng phong phú hơn: những vấn đề lớn: kinh tế chính trị, xã hội văn hóa… và cả những cái thật tỉ mỉ như chiếc khuy áo hay màu lông ngựa. L.Tolstoi viết  Hasrji Murat ông phải tìm hiểu xem con ngựa mà Hasrji Murat cưỡi là màu gì.

       3. Giai đoạn lập sơ đồ - kết cấu tác phẩm   TOP

Ðây là giai đoạn xử lí tài liệu hệ thống hóa những điều đã quan sát được, thu thập được và tổ chức chúng lại theo một chỉnh thể.

            Trong giai đoạn này, toàn bộ cấu trúc của hình tượng được tạo lập, tính chất quan trọng việc triển khai cốt truyện được xác định, tính cách nhân vật được suy tính kĩ càng.

So với ý đồ, giai đoạn lập hồ sơ là giai đoạn làm cho tư tưởng chủ yếu xuất hiện ở ý đồ có máu thịt. Sơ đồ chính là giai đoạn chuyển ý đồ sang sự thật nghệ thuật.

            Lập sơ đồ chính là con đường tìm những phương án tối ưu về mặt thẩm mĩ. Puskin có 7 sơ đồ về truyện Dubrovski. Dostojevski xây dựng sơ đồ Thằng ngốc: Tôi suy nghĩ từ ngày mùng 4 đến 18 tháng chạp. Có lẽ trung bình mỗi ngày tôi nghĩ ra đến 6 bản bố cục (không ít hơn thế). Ðầu óc tôi biến thành cái cối xay. Xây dựng bố cục là cả một nỗi thống khổ. Nhưng khi đã có bố cục rồi thì công việc sẽ vô cùng thuận lợi. Dostojevski nói với vợ: Nếu tìm được bản bố cục đạt, thì công việc nhanh như trượt trên mỡ.

Nhưng bố cục không phải là nhất thành bất biến. Nó biến đổi và phát triển. Bố cục chỉ tốt trong trường hợp nó mềm dẻo. Bố cục là kế hoạch sáng tác. Nó quan trọng nhưng không có ý nghĩa quyết định mà chỉ có tính chất hỗ trợ.

Bố cục không thể là sợi dây trói buộc người nghệ sĩ. Nhiều khi bố cục làm ra để rồi bỏ đi. Balzac đã khẳng định: Thật đáng buồn cho một viên tướng tiến ra trận với một hệ thống bố trận định sẵn. Như vậy, nếu so sánh sơ đồ tác phẩm với bản thiết kế một toà nhà là sai lầm nghiêm trọng. Ðối với xây dựng, người thi công không thể thay đổi thiết  kế, thiết kế có trước thi công, còn đối với xây dựng một tác phẩm thì vừa thiết kế vừa thi công, trong quá trình thi công thiết kế bị thay đổi. Gorky nhận xét: Bố cục tự nó được xây dựng trong quá trình làm việc, bản thân các nhân vật xây dựng nó.

        4. Giai đoạn viết tác phẩm   TOP

Viết tác phẩm là giai đoạn định hình chất liệu, suy nghĩ, cảm xúc của nhà văn. Ðây là giai đoạn căng thẳng của lao động nhà văn. Nhà văn phải vật lộn với từng câu, từng  chữ, từng chi tiết, từng nhân vật. Ðây là giai đoạn nhà văn sống hết mình với thế giới hình tượng, thực sự nhập thân vào nhân vật. Nguyễn Công Hoan viết: Khi tôi viết thì những nhân vật của truyện hiện ra trong óc tôi. Tôi bắt họ biểu diễn thật thong thả những ý nghĩ, từng cử chỉ, từng lời nói, từng cách đi đứng v.v… như trong cuốn phim quay chậm, để tôi nhìn rõ và ghi cho hết.

88

Page 89: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Viết là giai đoạn kết tinh cao độ của lòng dũng cảm Mácnh liệt với óc tưởng tượng phong phú. Flaubert kể về việc viết Bà Bôvary:

Từ 2 giờ chiều tôi ngồi viết Bà Bôvary. Tôi miêu tả cuộc đi chơi bằng ngựa, bấy giờ tôi đang ở chỗ sôi sục nhất, tôi đã viết đến đoạn giữa, mồ hôi tuôn ra ướt đầm, cổ nghẹn lại. Tôi vừa sống qua một trong những nguy hiểm có nhất trong đời tôi, đây là những ngày suốt từ đầu đến cuối được sống bằng ảo ảnh … Hôm nay cùng một lúc, tôi vừa là đàn ông vừa là đàn bà, vừa là tình quân vừa là tình nương và đã cưỡi ngựa vào rừng đầy những lá vàng giữa một ngày thu, tôi vừa là những con ngựa, những chiếc lá, là làn gió, vừa là những lời thổ lộ giữa những người yêu nhau, vừa là mặt trời đỏ rực làm nhíu lại những cặp mắt chan chứa tình yêu.

Ðây là giai đoạn khó khăn nhất. Khó khăn từ câu thơ đầu. Tố Hữu tâm sự: Về quá trình làm một bài thơ như thế nào, riêng tôi thì thấy rất khó viết những câu thơ đầu. Gorky cũng cho rằng khó hơn cả là lúc bắt đầu, là câu đầu tiên, vì nó có tác dụng qui định giọng điệu cơ bản cho toàn bộ tác phẩm.

Khó là mở đầu nhưng mở đầu được rồi không phải văn chương cứ thế mà tuôn chảy. Nguyễn Huy Tưởng thuộc loại nhà văn sinh nở khó khăn nhất, có ngày chỉ nhích được mấy dòng, nhưng cuối cùng phải dập xóa hết. Nguyễn Ðình Thi, dòng nào, trang nào cũng làm lại, xóa, kéo móc, thêm bớt chi chít như mắc cửi trên giấy. Tô Hoài cũng vào loại viết phải dập xóa, thêm nhiều. Ôâng tâm sự: Viết được cả đoạn dài, hoặc xong cả truyện, tôi mới chữa tỉ mỉ và thường chữa cũng lâu công, có khi lâu hơn lúc viết.

Tất nhiên cũng có những nhà văn, trong những trường hợp cụ thể lại thực hiện giai đoạn viết đặc biệt thuận lợi và nhanh chóng. Chẳng hạn Nguyễn Công Hoan, E. Zola, Guy de Maupassant viết rất nhanh. Stendhal đọc cho người khác viết Tu viện thành Parme trong 24 ngày, viết Rudin 50 ngày, Mối tình đầu 70 ngày.

Cũng có người viết đều đặn, thường xuyên. Bà George Sand làm việc như thể đan các cuốn tiểu thuyết của mình bằng que đan vậy… hàng ngày viết một số trang nhất định và không hề bao giờ dừng lại một chỗ nào đó trong khi viết.

        5. Giai đoạn sửa chữa   TOP

Thật khó tưởng tượng được trong quá trình xây nhà lại có giai đoạn cuối cùng để hoàn tât công trình là sửa chữa. Thực tế, có lúc vừa xây nhà xong đã phải sửa chữa nhưng đó là trường hợp xảy ra do dốt, kém. Nhưng trong xây dựng tác phẩm việc sửa chữa coi như là đương nhiên, là quy luật. Cũng có nhà văn ghét sửa chữa, viết một lần là xong (Walter Scott, George Sand, Daudet v.v…) song, nói chung sửa chữa là cần thiết. Nó cần thiết tới mức mà Dostojevski coi đó là kĩ năng vĩ đại nhất của nhà văn Ai biết cách và đủ sức xóa cái của mình, người đó sẽ thành công. Tolstoi từng tuyên bố: Không một đoạn thực tài tình nào đó có thể làm cho tác phẩm tốt lên nhiều như những đoạn xóa được. Rất hiếm tác phẩm được viết một lần, nghĩa là ra đời dưới dạng hoàn thành tuyệt đối, mà thuờng khi, trước khi có một phương án tối ưu - nhà văn có nhiều thảo cảo. Tolstoi viết đi viết lại nhiều lần Chiến tranh và Hòa bình đây là nhà văn kiên nhẫn nhất trong sửa chữa. Flaubert có câu châm ngôn: Apôlông, đó là vị thần sửa chữa. Chính ông đã kiệt sức vì sửa chữa Bà Bôvary. Gorky đã chỉnh lí hơn 4000 chỗ trong Người mẹ. Balzac sửa cả bản in thứ 11, 12 biến bản in thử thành bản nháp mới. Ðể hoàn thành tác phẩm, ngoài sửa chữa ra, có thể có trường hợp làm lại. Làm lại không coi là sửa chữa vì ở đây đã thay đổi ý đồ, thay đổi cơ bản về tổ chức tác phẩm.

89

Page 90: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

CHƯƠNG IX:

BẠN ÐỌC VÀ TIẾP NHẬN VĂN CHƯƠNG

   

I. TIẾP NHẬN VÀ ĐỜI SỐNG LỊCH SỬ CỦA SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG 1. Tiếp nhận là giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác 2. Tính khách quan của tiếp nhận văn chương   3. Tính khuynh hướng xã hội của tiếp nhận văn chương.   4. Tính sáng tạo của tiếp nhận văn chương.   5. Đời sống lịch sử và tính nhiều tầng nghĩa của tác phẩm văn chương

II. NGƯỜI ÐỌC TRONG QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VĂN CHƯƠNG.   1. Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn chương 2. Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương  

   I. TIẾP NHẬN VÀ ÐỜI SỐNG LỊCH SỬ CỦA SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG

        1. Tiếp nhận là giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác

a. Các giai đoạn của quá trình sáng tác giao tiếp.

            Bên cạnh hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại và phát triển, loài người còn có hoạt động sản xuất rất quan trọng đó là sản xuất ra của cải tinh thần. Văn chương nghệ thuật là một trong những dạng sản xuất của cải tinh thần của con người. Quá trình sản xuất ra của cải tinh thần - tác phẩm nghệ thuật diễn ra như thế nào? Trong chương nhà văn và quá trình sáng tác, chúng ta đã biết các khâu sáng tác tác phẩm của nhà văn là ý đồ, lập sơ đồ, viết, sửa chữa và hoàn thành tác phẩm. vậy, phải chăng hoàn thành công việc sửa chữa thì quá trình sản xuất tinh thần đã hoàn tất? Thực ra không phải như vậy. Hiểu một cách đúng đắn và nghiêm ngặt thì, xong khâu sửa chữa, việc sáng tạo nghệ thuật mới chỉ hoàn thành được một công đoạn trong cả một quá trình sản xuất. Ðó là công đoạn hoàn thành văn bản tác phẩm. nếu ví tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của nhà văn, nhà văn phải thai nghén, mang nặng, đẻ đau thì hoàn thành văn bản tác phẩm chỉ ứng với lúc đứa con được sinh ra, đứa con chào đời. Còn sự sống, cuộc đời, số phận của nó như thế nào là chưa nói đến. Số phận đứa con sẽ được định đoạt như thế nào là tùy thuộc vào nó và xã hội chung quanh. Số phận của tác phẩm nghệ thuật như thế nào là tùy thuộc vào nó và người tiếp nhận nó. Chỉ đến khi được người đọc tiếp nhận thì hoạt động sáng tạo nghệ thuật mới hoàn tất. Hoạt động sản xuất tinh thần này cũng giống như hoạt động sản xuất vật chất. Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản xuất một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm(C. Mác). Một vật phẩm được làm ra nhưng không được đưa vào sử dụng thì nó chẳng có ích lợi gì cho sự sống, nó chẳng có giá trị gì cả. Một tác phẩm nghệ thuật được viết xong nhưng nằm im trong ngăn kéo của nhà văn hoặc không được ai đoái hoài tới thì chưa phải là tác phẩm nghệ thuật thực sự. Vì nó chưa được sử dụng. Nghệ thuật có chức năng giao tiếp, tác phẩm hình tượng là công cụ, phương tiện giao tiếp rất quan trọng của con người. Lev Tolstoi đã khẳng định: Nghệ thuật là một trong những phương tiện cần thiết để giao tiếp mà thiếu nó nhân loại không thể nào sống được. Và ông phân tích rõ Nghệ thuật là một trong những phương tiện giao tiếp giữa người với người. Bất kỳ một tác phẩm nào

90

Page 91: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

cũng đều làm công việc khiến cho người cảm thụ tham gia vào sự giao tiếp với người đã hoặc đang sản sinh ra nghệ thuật cũng như với tất cả những ai cùng một lúc với anh ta, trước hoặc sau anh ta đã cảm thụ hoặc sẽ cảm thụ ấn tượng nghệ thuật của anh ta. Chính quá trình giao tiếp của nghệ thuật là quá trình sử dụng sản phẩm của nghệ thuật, là quá trình phát huy tác dụng chức năng của nghệ thuật. Quá trình đó xác định con đường sống hay số phận lịch sử của tác phẩm nghệ thuật.

Sơ đồ của quá trình sáng tác - giao tiếp của văn chương như sau:

Nhà văn   (  Tác phẩm   (  Bạn đọc

Như vậy, có 3 giai đoạn của quá trình sinh tồn sản phẩm văn chương:

Giai đoạn 1 là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn 2 là giai đoạn sáng tác. Ðây là giai đoạn ý đồ sáng tác cộng với tài năng sáng tạo được vật chất hóa trong chất liệu ngôn ngữ, thành tác phẩm. giai đoạn 3 là giai đoạn tiếp nhận của bạn đọc. Ðây là giai đoạn văn bản tác phẩm thoát ly khỏi nhà văn để tồn tại một cách độc lập trong xã hội, trong từng người đọc.

b. Giá trị sử dụng của hình tượng nghệ thuật.

Chúng ta đã nghiên cứu giai đoạn làm ra sản phẩm nghệ thuật nhưng chưa nghiên cứu giai đoạn sử dụng nó. Chúng ta có nói tới sự tương đồng về quá trình sản xuất sản phẩm vật chất và quá trình sản xuất sản phẩm nghệ thuật nhưng đây là sự tương đồng về các giai đoạn, còn từng giai đoạn giữa 2 loại sản xuất hoàn toàn khác nhau. Việc sử dụng tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn khác việc sử dụng vật phẩm khác. Nếu như sử dụng vật phẩm của sản xuất vật chất là người ta chiếm hữu giá trị vật chất của nó thì sử dụng vật phẩm nghệ thuật người ta lại chiếm hữu giá trị tinh thần của nó. Mặc dầu hình tượng nghệ thuật tồn tại một cách hữu hình trong những chất liệu vật chất nhất định, nhưng giá trị của hình tượng không phải ở giá trị của chất liệu xây dựng nên hình tượng. Một pho tượng làm bằng đất nung vẫn có thể có giá trị hơn một pho tượng bằng vàng, và đánh giá một pho tượng bằng vàng không phải bắc lên bàn cân để xem pho tượng nặng bao nhiêu kylôgam vàng. Còn việc nói đến giá trị của chất liệu xây dựng nên hình tượng trong nghiên cứu nghệ thuật là, người ta nói đến những thuộc tính vật chất liệu tạo ra khả năng thuận lợi, to lớn cho nghệ sĩ thể hiện tư tưởng tình cảm.

            Tiếp nhận văn chương là sử dụng thế giới tinh thần (tư tưởng - tình cảm …) trong văn chương. Thế giới tinh thần tình cảm - tư tưởng đó toát ra từ những hình tượng cụ thể do chất liệu ngôn ngữ xây dựng nên. Việc mua bán tác phẩm văn chương đương nhiên không phải là tiếp nhận văn chương. Nhưng đọc văn chương để tìm hiểu những cứ liệu lịch sử, địa lí, tâm lí, ngôn ngữ v.v… cũng không phải là tiếp nhận văn chương đích thực. Mặc dầu cùng đọc những quyển sách được viết ra bằng những con chữ cả, nhưng đọc văn không phải như đọc tác phẩm chính trị hay triết học.

c.Các giai đoạn của quá trình tiếp nhận văn chương.

            Quá trình tiếp nhận văn chương diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau. Trước hết phải hiểu ngôn ngữ, cốt truyện, loại thể để tiếp nhận hình tượng nghệ thuật, cảm nhận nó trong tính toàn vẹn. Trong các mối liên hệ của các yếu tố, chi tiết cấu thành hình tượng. Muốn tiếp nhận Truyện Kiều, phải biết tiếng Việt và tiếng Việt trong truyện Kiều, tiếp đó, nắm diễn biến câu chuyện, rồi thể loại tiểu thuyết và truyện thơ mà Nguyễn Du sử dụng làm phương tiện tổ chức tác phẩm. Và như vậy, ta bắt đầu tiếp xúc với hệ thống hình

91

Page 92: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tượng tác phẩm, các nhân vật, các mối liên quan giữa các nhân vật, các tiết đoạn, các chương, hồi v.v… Nhưng nếu dừng lại ở đây thì chúng ta mới nắm được câu chuyện, mới biết mà chưa hiểu. Phải tiến lên một cấp độ thứ hai là thâm nhập sâu vào hệ thống hình tượng để hiểu được ý đồ sáng tác, tư tưởng, tình cảm của tác giả đã kết tinh trong hình tượng như thế nào. Tư tưởng tình cảm như là chất tinh túy kết tinh ở trong hình tượïng nghệ thuật, người đọc có nhiệm vụ chắc lọc lấy tinh chất đó. Người đọc ví như con ong bay đến đóa hoa, không phải để chiêm ngưỡng màu sắc của cánh hoa mà để hút mật ở trong nhụy hoa. Ðọc Tây du kí, chẳng hạn, ta tiếp xúc với nhân vật Trư Bát Giới thì không phải chỉ để biết đây là một trong ba đệ tử của Ðường Tăng đến Tây Trúc thỉnh kinh. Mà phải hiểu dụng ý thâm thúy của tác giả ở nhân vật này là muốn nói đến cái chất heo ở trong mỗi con người. Cấp độ thứ ba là người đọc thể nghiệm và đồng cảm hình tượng nghệ thuật. Sau khi thâm nhập sâu vào hình tượng, người đọc sẽ không còn dửng dưng nữa mà tỏ thái độ thiện cảm hay ác cảm, yêu và ghét, vui cười hay khóc thương. Ðây là giai đoạn không phải người đọc thâm nhập sâu vào hình tượng nữa mà là, giai đoạn hình tượng thâm nhập sâu vào người đọc. Tư tưởng hình tượng đã trở thành máu thịt của người đọc. Hình tượng từ trang sách bước vào cuộc đời. chúng ta bất bình về thói tham ăn và hám sắc của Trư Bát Giới, nhưng chính Trư Bát Giới cũng cảnh tĩnh cho chúng ta về con heo ở trong mỗi con người trong chúng ta. Cấp độ cuối cùng là cấp độ đề lên thành quan niệm và hiểu biết vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa tư tưởng nghệ thuật và đời sống. Ðây là cấp độ cao của tiếp nhận văn chương. Ðây là giai đoạn định giá một cách nghiêm túc và bắt buộc đối với loại người đọc - nghiên cứu.

        2. Tính khách quan của tiếp nhận văn chương  

TOP

a.Những quan niệm sai lầm về tiếp nhận văn chương.

            Ðể tiếp nhận văn chương, đòi hỏi người đọc đưa vào đây toàn bộ nhân cách của mình: tình cảm và lí trí, tri giác cảm tính trực tiếp và suy tưởng trừu tượng, cá tính, thị hiếu và lập trường chính trị xã hội, tình cảm và thái độ. Nhưng như vậy không có nghĩa là tiếp nhận văn chương hoàn toàn mang tính cá nhân chủ quan tùy tiện. Ơû Phương Ðông hay ở Phương Tây tồn tại một xu hướng xem tiếp nhận văn chương là phạm vi tự biểu hiện thẩm mĩ của người đọc, là phạm vi phụ gia của năng lực sáng tạo của người đọc. Mĩ học cổ Ðông Phương (Trung Quốc và Việt Nam…) có quan niệm tiếp nhận tác phẩm là việc tri kỉ, tri âm, Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long đã giải thích: Tri âm thực khó thay!Ââm đã khó tri, người tri khó gặp, gặp kẻ tri âm ngàn năm có một. Kết thúc Truyện Kiều của mình Nguyễn Du nói là để Mua vui cũng được một vài trống canh nhưng tâm sự riêng của Nguyễn Du là không biết đến bao giờ mới có người hiểu mình, tiếp nhận được tác phẩm mình. Khóc Tiểu Thanh là ông khóc cho chính mình:

92

Page 93: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Bất tri tam bách dư niên hậu

                        Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

            Không biết ba trăm năm sau thì ai trong thiên hạ hiểu được cái chí của mình? Ai là kẻ tri âm với mình. Những người theo chủ nghĩa ấn tượng Pháp chủ trương người tiếp nhận văn chương là người kể lại cuộc phiêu lưu của tâm hồn mình giữa những kiệt tác (A. France), phải gạt bỏ mọi qui tắc, công thức để tìm các đẹp tùy theo cảm hứng cá nhân (T.Gôchiê). Họ lấy chủ nghĩa chủ quan làm nguyên tắc quyết định để hiểu và lí giải tác phẩm. R.Ingarden, nhà hiện tượng học Ba Lan đã nói: Có bao nhiêu độc giả và có bao hiêu sự đọc mới cho cùng một tác phẩm thì có bấy nhiêu những thành tạo mà chúng ta gọi là những sự cụ thể hóa các tác phẩm. Trước Ingarden, Potebnhia, nhà ngữ văn học Nga đã xem tác phẩm văn chương như một bình chứa sẽ được người đọc làm đầy bằng những nội dung mà nó còn chưa đủ. Nhà lí luận đồng thời là nhà phê bình Pháp, Roland Barthes phát biểu: Khi đọc tác phẩm, tôi đặt vào sự đọc cái tình huống của tôi,.. tình huống hay thay đổi làm ra tác phẩm, tác phẩm không thể phản đối, chống lại cái ý nghĩa mà tôi phán cho nó…[1]

            Hiển nhiên là vai trò chủ quan của người tiếp nhận cái quan trọng trong quá trình tiếp nhận văn chương. nhưng nếu sự sống của tác phẩm nghệ thuật, vai trò quyết định là thuộc về người sử dụng nghệ thuật hoàn toàn thì một vấn đề được đặt ra là tại sao có những tác phẩm chịu đựng được thử thách của thời gian và gần như bất tử lại có tác phẩm sống một cách trầy trật hoặc chết yểu.

b. Tiếp nhận văn chương là một hoạt động mang tính chất khách quan.

Thực ra, tiếp nhận văn chương là một hoạt động xã hội - lịch sử, mang tính khách quan. Chứ không phải là một hoạt động cá nhân chủ quan thuần túy. Tác phẩm sau khi thoát ly khỏi nhà văn thì nó trở thành một hiện tượng tinh thần, một khách thể tinh thần tồn tại một cách khách quan đối với người đọc. Người đọc tiếp nhận nó là một kiểu phản ảnh, nhận thức thế giới. Mà nhận thức nào cũng có phương diện chủ quan và phương diện khách quan của nó. Hơn nữa, một nhận thức đúng đắn là một nhận thức tiếp cận được với bản chất và quy luật của đối tượng. Nội dung của tác phẩm trước hết là do những thuộc tính nội tại của nó tạo nên, là cái vốn có chứa đựng trong bản thân tác phẩm. Việc người đọc khác nhau đã cắt nghĩa khác nhau khi cùng đọc một tác phẩm là thuộc phương diện chủ quan của tiếp nhận. Với thuyết Mác hóa - tượng trưng, Roland Barthes cố tình bảo vệ quan điểm về tính đa nghĩa đến vô hạn của nghệ thuật và bảo vệ tính xác đáng của mọi cách đọc, đã chẳng những không lưu ý tới tính khách quan của tiếp nhận tác phẩm mà còn thổi phồng một cách vô căn cứ phương diện chủ quan. Cần phải thấy rằng đời sống của tác phẩm trong tiếp nhận: tác phẩm nghệ thuật là một sự chuyển hóa qua lại giữa đặc thù khách quan và chủ quan, một quan hệ xã hội, một tương quan với độc giả, một tổng thể gồm nhiều quá trình khác nhau, đa dạng, nhưng hệ thống. Có thể nói tác phẩm nghệ thuật gồm có hai phần, phần cứng và phần mềm. Phần cứng là văn bản, là sự khái quát đời sống, là một hệ thống ý nghĩa, tiếp nhận phụ thuộc vào các tương quan đời sống xã hội, phụ thuộc vào lòng người đọc. Phần cứng tạo ra cơ sở khách quan của tiếp nhận. Trong phần cứng này, có nhiều phương diện để tạo ra tính khách quan cho tiếp nhận văn chương. thứ nhất là hiện thực đời sống được phản ảnh. Thứ hai là chất liệu nghệ thuật xây dựng hình tượng phản ánh đời sống là trên cơ sở ngôn ngữ toàn dân, thứ ba là sự định hướng nội tại của tác phẩm vào việc tác động thẩm mĩ do nhà văn tạo nên. Nhà văn không giản đơn chỉ làm cái truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện nghệ thuật của mình mà anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả. Ðây là thuộc tính tất yếu của tác phẩm ở cả nội dung và hình thức.

Chính cơ sở khách quan của việc tiếp nhận tác phẩm đã tạo ra ấn tượng chung đồng nhất ở mọi người đọc. Phần cứng của tác phẩm tạo ra phần nội dung tương đồng bất biến từ tác giả đến mọi

93

Page 94: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

người đọc. Rõ ràng là, độc giả hay khán giả sau khi cùng xem xong một tác phẩm nghệ thuật nào đó đều có một ấn tượng chung về một nhân vật nào đó. Trong dân gian những nhân vật nghệ thuật sau đây đã đi vào cuộc sống có ấn tượng tương đồng ở mọi người: Trương Phi, Tào Tháo; (Nóng như Trương Phi, Ða nghi như Tào Tháo) Sở Khanh, Hoạn Thư (người nào lừa đảo phụ nữ được gán cho hiệu Sở Khanh, người phụ nữ nào hay ghen và ghen một cách cay độc thì được gán cho hiệu máu Hoạn Thư).

        3. Tính khuynh hướng xã hội của tiếp nhận văn chương.  

TOP

            Tiếp nhận văn chương không chỉ mang tính khách quan, mà con mang tính chủ quan, cá nhân sâu sắc, nó gắn chặt với tình cảm và thị hiếu của mình và do đó mà họ có thể thích, khoái nhân vật này, nhân vật nọ, tác phẩm này, tác phẩm nọ và ngược lại. Ðiều đó, góp phần làm phong phú phần mềm của tác phẩm. Tiếp nhận văn chương tuy mang dấu ấn cá nhân sâu sắc nhưng chưa bao giờ là hoạt động thoát ly khỏi điều kiện lịch sử xã hội. Hoạt động nghệ thuật luôn luôn là hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh mẽ. Khuynh hướng xã hội, đời sống thực tế sẽ chi phối mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận văn chương của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cái ta nữa. Họ cắt nghĩa tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích xã hội. Tiếp nhận Truyện Kiều, Nguyễn Khuyến suy ngẫm về xã hội đồng tiền trở thành cán cân công lí mà Nguyễn Du lên án:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Ðời trước làm quan cũng thế à?

Rõ ràng Nguyễn Khuyến đã nhìn Truyện Kiều từ điều kiện lịch sử mà ông đang sống. Vịnh Kiều nhưng lên án xã hội đương thời. Ðời trước làm quan cũng thế, cũng như đời nay. Ðó là tiền. Tác giả bộ phim Chị Dậu đã nói lên khó khăn thì chuyển thành kịch bản phim từ tiểu thuyết Tắt đèn cảnh kết thúc tác phẩm, chị Dậu của tác giả điện ảnh đã chạy ra trong một đêm tối nhưng không phải tối như mực và như cái tiền đồ của chị mà đêm tối có mưa gíó, sấm chớp, với ý nghĩa:

Bão ngày mai là gió nổi hôm nay,

Trời chớp giật tất đến sét đánh.

Việc dựng phim từ tiểu thuyết cũng là một cách cắt nghĩa tác phẩm văn chương. Hiện tượng có những tác phẩm nào đấy mà số phận của nó sự thăng trầm qua các thời đại thì không phải lúc thăng là do công chúng thời đại đó thông minh còn lúc trầm là do công chúng thời đại đó dốt nát. Ðiều chính yếu là do xu hướng tư tưởng thời đại tác động đến. Trường hợp Pasternax chẳng hạn, hay việc tiếp nhận Thơ mới ở ta chẳng hạn. Khi phong trào Thơ mới ra đời, người đọc rầm rộ đón nhận, nhất là thanh niên, nhưng sau đó, khi đất nước tiến hành cuộc sống chiến chống Pháp, Mĩ thì Thơ mới đã trở nên cũ. Vì nó làm ủy mị con người kiên cường xông pha lửa đạn. Ngày nay, đất nước hoà bình xây dựng, người ta lại tiếp nhận Thơ mới như là nó vẫn mới. Ðúng như Kharavchenko nói: Mỗi thời đại riêng thường thích hợp với những sắc điệu khác nhau trong tác phẩm nghệ thuật với những phương diện khác nhau của khái quát hình tượng của nó.

        4. Tính sáng tạo của tiếp nhận văn TOP

94

Page 95: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

chương.  

Tiếp nhận là khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo - giao tiếp của văn chương. Không có tiếp nhận thì không có đời sống của tác phẩm. Tác phẩm chưa được sử dụng thì đó chưa phải là sản phẩm đích thực của sản xuất tinh thần. Nhưng tác phẩm - người sáng tác và người đọc là 2 việc khác nhau. Nhà văn và bạn đọc không phải là những người đồng sáng tạo. Ðại biểu của lí thuyết người đọc là đồng sáng tạo với tác giả. Potebnya, nhà ngữ văn Nga khẳng định: chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca, chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo nó. Yù kiến này không xem người đọc - nguời tiếp nhận là khâu hoàn tất của quá trình sáng tạo - giao tiếp mà xem người đọc cùng tham gia vào quá trình làm ra tác phẩm. Ingarder giải thích rõ thêm và khẳng định tác phẩm sẽ được cụ thể hóa trong quá trình tiếp nhận của người đọc. Tác phẩm văn chương tự thân nó, chỉ như là một bộ xương, sẽ được người đọc bổ sung và bù đắp ở một loại phương diện, nhưng trong một số trường hợp, nó cũng bị biến đổi hoặc bóp méo. Chỉ dưới cái diện mạo mới, đầy đủ và cụ thể hơn này (mặc dù giờ đây vẫn chưa được hoàn toàn cụ thể), tác phẩm cùng với những bổ sung cho nó mới là đối tượng của tiếp nhận và khoái cảm thẩm mĩ.[1]

Ðiều hiển nhiên mà ai cũng thấy là tiếp nhận phải là công việc sau khi văn bản tác phẩm đã thoát ly khỏi nhà văn và tồn tại như một hiện tượng, một sự vật độc lập khách quan. Ðộc giả chỉ tiếp xúc với tác phẩm là kết quả của quá trình sáng tạo của nhà văn chứ không phải cùng tham gia viết tác phẩm. Xem tác phẩm là bộ khung, bộ xương, Ingarder đã nhấn mạnh tính chất sơ lược của tác phẩm để từ đó biện hộ cho lí thuyết đồng sáng tạo cũng không đúng. Thực sự nhà văn không muốn và không đặt mục đích cuối cùng là tái hiện và truyền đạt lại tất cả các đặc điểm cá nhân vốn có của đối tượng. Nhà văn chỉ chọn lấy cái tiêu biểu, cái điển hình. Mục tiêu xã hội và ý nghĩa thẩm mĩ của nghệ thuật là ở chỗ tạo ra những khái quát nghệ thuật.

Tiếp nhận văn chương không phải là đồng sáng tạo, nhưng cũng không đơn giản là hoạt động thụ động. Hoạt động tiếp nhận văn chương có tính tích cực chủ động sáng tạo của nó. Tính tích cực chủ động sáng tạo của người đọc là ở chỗ bằng vào năng lực cá nhân, kinh nghiệm cá nhân, thị hiếu thẩm mĩ, lập trường xã hội, người đọc tiếp cận tác phẩm cố gắng làm sống dậy hình tượng, khôi phục những nét lờ mờ, phần chìm của tảng băng, tầng ngầm của toà lâu đài, của hệ thống hình tượng …, từ đó thâm nhập vào chiều sâu tác phẩm nhận ra sức nặng của ý nghĩa khái quát của hình tượng. Lúc đó, hình tượng từ tác phẩm sống dậy trong lòng người đọc. Ở mỗi người đọc có một hình tượng nghệ thuật riêng. Ðỗ Ðức Hiếu đã nói về tính sáng tạo của người đọc như sau: Ðọc văn chương có nghĩa là tháo gỡ các ký hiệu văn chương trong văn bản, là tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm thông qua các cấu trúc của văn bản (cốt truyện, kết cấu, nhân vật, đối thoại, không gian, thời gian v.v…) đọc là Mác hóa cách đọc, là tổng hợp các khâu của việc đọc - cảm tưởng, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, đánh giá, v.v… là phát hiện và sáng tạo. đọc trước hết là phát hiện trong văn bản, một thế giới khác, những con người khác, người đọc sống trong một thế giới tưởng tượng của mình, thông qua tác phẩm, xây dựng cho mình một thế giới riêng. đọc là một hoạt động tích cực; người đọc nhập cuộc hóa thân, với những cảm xúc riêng của mình, những kỉ niệm, ký ức, khát vọng riêng. đọc có nghĩa là chuyển đổi tác phẩm thành một vũ trụ tình cảm, cảm xúc, tư duy, tình cảm riêng của mình.[1]

Ðiều gì đã cho phép người đọc  có thể và có quyền sáng tạo khi tiếp nhận văn bản văn chương như vậy? Tất cả là ở chỗ tính đặc thù của nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng.

        5. Ðời sống lịch sử và tính nhiều tầng nghĩa của tác phẩm văn chương.

TOP

95

Page 96: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Sau khi nhà văn hoàn tất văn bản tác phẩm thì, tác phẩm nghệ thuật bắt đầu trôi nỗi trong dòng đời và đón nhận số phận lịch sử của mình. Có tác phẩm vừa mới ra đời, liền được người đọc vồ vập ấp iu, nhưng sau đó bị lãng quên. Có tác phẩm, lúc mới ra đời thì bị hắt hủi, lãng quên nhưng sau đó lại được nâng niu trân trọng. Có tác phẩm đời sống của nó êm ả hoặc sáng chói lâu dài, có tác phẩm mờ mờ ảo ảo… Có tác phẩm cùng trong một thời đại nhưng bạn đọc, người ghét, kẻ yêu, người khen, kẻ chê. Lại có tác phẩm ý đồ nhà văn một đằng mà người đọc hiểu một nẻo. Truyện Kiều ở ta là một thí dụ. Ngày nay chúng ta xem Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương dân tộc. Và thực sự Truyện Kiều đã làm nhiều thế hệ mê mẫn. Trong đó, có vua Tự Ðức:

Mê gì mê thú tổ tôm

Mê ngựa Hậu bổ, mê nôm Thúy Kiều.

Nhưng không phải đã không có thời , có người sợ Truyện Kiều

Làm trai chớ đọc Phan Trần

Làm gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.

Hoặc giả Chinh phụ ngâm của Ðoàn Thị Ðiểm cũng có số phận lịch sử đặc biệt. Lúc mới ra đời người đọc tiếp nhận như là tiếng kêu ai oán chống chiến tranh giành đất đai của các tập đoàn phong kiến. Nhưng đến thời đại chúng ta lúc đất nước đang lâm nguy, nhân dân ta đang làm chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta tiếp nhận Chinh phụ ngâm như một thứ đồ cổ - quý mà không thể xài. Bởi vì nỗi gian truân, đau khổ và vô vọng của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm sẽ không có mấy tác dụng tích cực cho bạn đọc hiện thời.

Cơ sở để tạo ra tính nhiều tầng nghĩa của văn chương, đứng về phía văn bản tác phẩm, chúng ta thấy, văn bản là một cấu trúc mang những nét đặc biệt:

- Tác phẩm nghệ thuật là một tác phẩm hoàn chỉnh của nhiều yếu tố riêng biệt và mối liên hệ mật thiết giữa các yếu tố. Nghệ thuật yêu cầu phản ánh toàn vẹn con người (với các mặt tâm hồn và thể xác, hoạt động và đời sống …) các hiện tượng đời sống một cách hình tượng cảm tính.

- Tác phẩm nghệ thuật thường bộc lộ sự phân tích và tổng hợp những quá trình của đời sống. Nhà văn muốn hiểu biết con người trong sự đa dạng và phức tạp của nó.

- Trong tác phẩm nghệ thuật, vai trò quyết định cấu trúc tác phẩm là xung đột. Những xung đột này phản ảnh xung đột đời sống. Tác phẩm là một sự tranh cãi về đời sống của nhà văn, của nhân vật, sự bất đồng giữa các nhân vật. Sự xung đột giữa các hiện tượng đời sống.

- Tác phẩm là một hệ thống hình tượng, mỗi hình tượng mang một chức năng khái quát hóa đời sống. Tổng thể các sự khái quát của hình tượng tạo ra sự khái quát của tác phẩm. tác phẩm là phức thể gồm những tư tưởng cảm xúc.

- Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một hệ thống của những sắc điệu. Những sắc điệu đó hợp lại tạo thành giọng điệu của tác phẩm. hay nói đúng hơn, cùng với giọng điệu cơ bản, trong tác phẩm có một hệ thống các sắc điệu phức tạp vô vàn.

- Tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo chẳng những nhằm khách quan hóa sự lĩnh hội thực tại bằng hình tượng mà còn có mục đích tác động đến người sử dụng nghệ thuật. Cho nên, mỗi thành tố của tác phẩm vừa thực hiện chức năng nhận thức, vừa thực hiện chức năng biểu hiện.

96

Page 97: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tóm lại, tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc đa dạng phức tạp và hoàn chỉnh của các thành tố. Ðặc điểm này là cơ sở tạo ra tính đa tầng nghĩa của văn chương . Eizenshtein đã nói rất hay về cấu trúc của một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh về các thành tố tạo nên cấu trúc ấy: Bộ phim hoàn chỉnh là một mớ không gì so sánh được của những phương tiện biểu hiện và tác động hết sức nhiều vẻ. Quan niệm lịch sử về đề tài, tình huống kịch bản, tiến trình chung mang tính kịch, sức sống của hình tượng nghệ thuật và diễn xuất của diễn viên, thực tế tiết tấu dựng phim  và cấu tạo hình khối của khuôn hình; âm nhạc, tiếng động, tiếng ồn; dàn cảnh và trò diễn bố trợ của các thủ pháp hội họa; ánh sáng và bố cục lời nói có sắc điệu v.v …và cái tưởng như hỗn độn của các lĩnh vực riêng biệt không đo được, cũng như những cái có thể đo lường, đã được kết hợp lại thành một chỉnh thể hợp lí; thống nhất.[1] Ðặc điểm này của văn bản tác phẩm sẽ tạo ra tính đa nghĩa của nó khi nó va chạm với cuộc sống xã hội.

    II. NGƯỜI ÐỌC TRONG QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VĂN CHƯƠNG.

        1. Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn chương  

TOP

            Người đọc không đồng sáng tạo với nhà văn, nhưng lại là một yếu tố bên trong của sáng tác. người đọc đối với sáng tạo nghệ thuật cũng giống như một người tiêu dùng trong lao động sản xuất. Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu, bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố nội tại của hoạt động lao động sản xuất (C. Mác). Người tiêu dùng là mục tiêu của sản xuất, người đọc là mục tiêu của sáng tác. Chính nhu cầu của người tiếp nhận, người tiêu dùng, người sử dụng văn chương là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình văn chương. Người đọc hiện lên trước nhà văn dưới một hệ thống câu hỏi: Viết cho ai?, Viết để làm gì?, Viết như thế nào?. Người đọc yêu cầu, đòi hỏi, chờ đợi và phê bình nhà văn. Nhà văn sáng tác để đáp ứng đòi hỏi bạn đọc. Người đọc tạo nên mối quan hệ trực tiếp với tác phẩm của sáng tác - tiếp nhận.

            Nhưng ai là người đọc, người tiếp nhận văn chương? Loại hình học người đọc văn chương chia ra nhiều loại người đọc khác nhau.

            - Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra 4 loại. Thứ nhất là người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc  ngấu nghiến cốt truyện, ham thích tình huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bẫy. Loại này đọc lướt nhanh vào giờ nhàn rỗi, tìm thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. Thứ hai là, loại đọc điểm sách. Loại  người này có ý thức tìm ở văn chương những thông tin mới về cuộc sống, đạo đức … để thông báo cho độc giả của các báo. Thứ ba là loại người đọc chuyên nghiệp - những người giảng dạy nghiên cứu phê bình ở các trung tâm nghiên cứu. Thứ tư là những người sáng tác - nhà văn, nhà thơ đọc theo cảm hứng bất chợt hoặc để tham gia viết những trang phê bình ngẫu hứng.

            - Ðứng ở góc độ sáng tác người ta chia người đọc ra làm ba loại. Thứ nhất: người đọc thực tế. Tức là những người đọc, người tiếp nhận sáng tác tồn tại một cách cụ  thể, cá thể. Họ là những người A, người B nào đó trong đời sống, tiếp nhận văn chương theo cá tính, theo sở thích cá nhân. Như vậy, trước mắt người sáng tác có biết bao nhiêu người đọc thực tế. Nhưng nhà văn không viết để đáp ứng cho từng người cụ thể mà viết cho người đọc nói chung. Thứ hai: người đọc giả thiết. Ðây là loại độc giả của từng tác giả. Loại này tồn tại trong tác giảsuốt quá trình sáng tác từ nảy sinh ý đồ cho đến kết thúc. Nhà văn có chủ đích hướng tới họ là chủ yếu. Thứ ba: người đọc hữu hình hay người đọc bên trong là loại người đọc tồn tại bên trong tác phẩm như một nhân vật luôn đối diện và đối thoại với nhà văn, nhưng không phải nhân vật mà là hiện thân của người đọc bên ngoài tác phẩm. Tố Hữu viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, suốt bài thơ tác giả nói với cụ Nguyễn cụ thể nhưng thực tế Tố Hữu chủ yếu viết cho người đọc thực tế hôm nay, nói với người hôm nay. Trong thơ Tố Hữu dạng nhân vật này thường hay xuất hiện dưới đại từ em như một đối tượng thân thiết gần gũi để tâm sự:

97

Page 98: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

- Em ạ ! Cu-ba ngọt lịm đường

            - Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm 3 loại: Thứ nhất: người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực sự tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số người đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc bình thường; người đọc của người đọc - nhà phê bình; người đọc thiếu nhi, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức… Thứ hai: người đọc quá khứ. Ðây là loại người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du thì đây phải là bức thư gởi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở đâu đó, mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã có loại người đọc như thế. đó là Tiểu Thanh (xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh ký.  Nhân vật nàng trong màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người đọc quá khứ. Thứ ba: người đọc tương lai. Loại người đọc này chưa tồn tại thực tế sẽ có thể, hoặc không thực sự đọc tác phẩm nhưng vẫn xuất hiện trong quá trình làm tác phẩm của tác giả, và có khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn muốn gởi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện với người 300 năm sau như Nguyễn Du đã nói:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Stendhal thì chờ người đọc nửa thế kỉ sau.

            - Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ. Cách này, chia người đọc ra làm 2 loại. Thứ nhất: người đọc bạn bè, đây là loại người đọc chỉ hướng, cùng quan điểm xã hội, lập trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí cốt mà Tố Hữu đã nói: Tôi buộc hồn tôi với mọi người. để hồn tôi với bao hồn khổ.Thứ hai: loại người đọc đối thủ. Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp xã hội của mình. chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hởi cụ Ngáo của Tố Hữu.

            Tính quyết định của người đọc đối với quá trình sáng tác văn chương là ở chỗ nếu không có người đọc thì không có bản thân quá trình sáng tác. Nghệ thuật như là một hình thức giao tiếp. Nó ra đời để đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi giữa người viết văn và người đọc văn, nhưng trước hết là để thỏa mãn nhu cầu tự bộc lộ mình của người sáng tác. Người đọc lúc này sẽ là nơi gởi gắm tâm sự của nhà văn. Ở đây người đọc trở thành người phục vụ nhà văn. Ðến lượt mình, nhà văn lại trở thành người phục vụ bạn đọc. Ðây là một mục tiêu quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ người đọc ở 2 phương diện. Một là thỏa nhu cầu nghệ thuật của họ. Hai là đào tạo họ thành những người sính nghệ thuật. Rồi những người sính nghệ thuật đó lại yêu cầu nghệ sĩ không được tự thỏa mãn mà phải nâng mình lên. Ðây là một sự phát triển theo đường tròn xoáy ốc. Tác phẩm nghệ thuật - và mọi sản phẩm khác cũng thế, - đều tạo một thứ công chúng sính nghệ thuật và có khả năng thưởng thức cái đẹp, như vậy là sản xuất không những chỉ sản sinh ra một đối tưọng cho chủ thể, mà còn sản sinh ra một chủ thể cho đối tượng. (C. Mác)

        2. Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương  

TOP

            Cấu trúc nội tại của tác phẩm với tính đa thanh, đa giọng điệu, nhiều tầng nghĩa do thuộc tính phản ánh và khái quát đời sống và chất liệu ngôn từ đã tạo nên phương diện khách quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Còn người đọc thực tế tạo ra phương diện chủ quan của đời sống

98

Page 99: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Chính vai trò năng động sáng tạo của bạn đọc đã làm cho đời sống lịch sử của nghệ thuật vô cùng phong phú, sinh động.

            Ta có thể thấy những yếu tố cụ thể từ phiá người đọc tham gia vạch ra con d8ường lịch sử của văn chương:

            - Khác với tiếp nhận khoa học, tiếp nhận nghệ thuật có một công chúng rộng rãi. Tính chất dân chủ rộng rãi của tiếp nhận sẽ vẽ ra gương mặt đa dạng của tác phẩm. Mọi người, mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi nghề nghiệp, giai cấp đều có thể tiếp nhận văn chương và tiếp nhận theo cách của mình. Do đó, ở trong mỗi một độc giả sẽ có một hình tượng mà hình tượng đó sẽ không trùng khít với hình tượng tác phẩm và cũng không trùng khít với hình tượng mà người khác cùng tiếp nhận. Quyết định tới tính đa dạng và đa diện của nghệ thuật từ phía chủ thể tiếp nhận là do tuổi tác đã đành, còn do cá tính cảm xúc, quan điểm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ khác nhau; lại còn do trình độ văn hóa, địa vị xã hội, thành phần giai cấp, năng lực của từng người…

            - Mặt khác, lại còn tâm lí tiếp nhận của công chúng. Công chúng tiếp nhận có nhiều kiểu. Loại tiếp nhận để giết thì giờ lúc chờ đợi, hay rảnh rỗi. Loại này chủ yếu đọc ngấu nghiến tiếp nhận một cách bàng bạc, hời hợt. Loại người tiếp nhận sâu về phương diện đồng cảm, đồng điệu của hình tượng. Với những người này hình tượng trở nên sống động một cách kỳ lạ: y như thật. Có người đã tưởng thật. Có người thuơng khóc, hay uất ức thực sự đối với nhân vật: loại người tiếp nhận thiên về lí trí. Loại này khai thác sâu phương diện khái quát của hình tượng. Họ nặng suy tư, suy tính. Hình tượng nghệ thuật đến với họ đều ở bề chìm. Loại người tiếp nhận sơ lược, nắm bắt hình tượng không trọn vẹn. Hình tượng nghệ thuật đến với những người này không toàn bích và chỉ ở một số phương diện, khía cạnh nào đấy. Cuối cùng là loại người tiếp nhận trọn vẹn. Loại người này tiếp nhận hình tượng một cách đa diện, cả chiều cao, chiều sâu, bề chìm bề nổi nhận ra phong cách nghệ thuật, thi pháp và tư tưởng tác phẩm.

            Tiếp sức, định hướng, chế ước người đọc đó là điều kiện lịch sử - xã hội. Trong điều kiện xã hội phát triển, đời sống văn hóa nâng cao người có điều kiện tiếp nhận nghệ thuật và tiếp nhận tốt hơn trong xã hội có điều kiện kinh tế thấp. Trong điều kiện xã hội có những biến động nào đấy về chính trị  -xã hội, ví du,ï đang hoà bình chuyển sang chiến tranh và ngược lại thì việc tiếp nhận nghệ thuật của công chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng v.v… Ðã có một thời công chúng tiếp nhận vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ  ở phương diện tình bạn cao cả đầy ân nghĩa của Dương Lễ; dám cho vợ đi tìm Lưu Bình để nuôi ăn học thành đạt. Trong chế độ đa thê, năm the, bảy thiếp, thì người tiếp nhận, kể cả phụ nữ cũng rất tán đồng Dương Lễ. Nhưng trong chế độ chúng ta - chế độ phụ nữ được giải phóng, được tôn trọng thì người ta không tán thành cách làm của Dương Lễ. Và vở chèo đó không được dàn dựng, không được tiếp nhận như trước đây nữa.

            Tất cả những điều trên đây chúng ta chỉ mới nói với vai trò người đọc trong tiếp nhận ở góc độ thiên về phương diện nào đó của hình tượng, nhưng chưa nói tới việc người đọc mở rộng giới hạn nghĩa cho hình tượng. Nói mở rộng giới hạn nghĩa không có nghĩa là người đọc viết thêm vào tác phẩm, mà người đưa tác phẩm vào hoàn cảnh của mình, quan hệ với mình và phát hiện ra nghĩa cho tác phẩm từ những quan hệ mới, có thể thấy điều này qua lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhiều trường hợp tiêu biểu khác. Hình tượng cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm - Cám được các loại người nhận khác nhau cảm nhận khác nhau. Ðối với người bình dân xưa, cô Tấm điển hình cho quan niệm đạo đứcở hiền gặp lành. Ðối với Chế Lan Viên, cô Tấm là của tài năng diệu kỳ:

Ôi đất nước của vạn nghìn cô Tấm

Xé vỏ thị bà tiên ra mà làm chuyện bất ngờ

99

Page 100: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

            Ở Phó Ðức Phương, cô Tấm là hiện thân của vẻ đẹp trong lao động, của tình yêu lao động : Những cô Tấm ngày xưa như vẫn còn đây trong mùa trẩy hội.

            Ðến đây ta thấy được vấn đề bức thiết đặt ra cho nghệ thuật là cần phải đào tạo người đọc, để người tiếp nhận biết cách đọc, thói quen đọc, kỹ năng đọc. Có thể có 4 bước cho người đọc như sau:

            Trước hết, lựa chọn sách đọc. chọn những sách phù hợp với khát vọng lớn lao, chính đáng của con người như hoà bình, tự do, chống bạo lực, tình yêu, tình bạn, tình người.

            Thứ đến, định hướng đọc: đọc để làm gì? Ðể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, giáo dục, thẩm mĩ, giải trí, giao tiếp v.v…

            Thứ ba, phương pháp đọc: tìm các mã của văn bản, các đặc trưng phong cách, các thao tác phân tích, thống kê, đối chiếu.

            Thứ tư, đánh giá tác phẩm: Giá trị nội dung và tư tưởng xét trên nhiều chiều đồng đại và lịch đại v.v…

Chương 1.

KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC

I. KHÁI NIỆM CHUNG II. TÁC PHẨM VĂN HỌC LÀ CHỈNH THỂ CƠ BẢN NHẤT ĐỜI SỐNG VĂN HỌC

1. Tầm quan trọng của tác phẩm trong đời sống văn học. 2. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học .

Chương 1.

KHÁI QUÁT VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC

I.KHÁI NIỆM CHUNG

Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc một tập thể sáng

tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người; biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái

độ ...của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật

Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng (văn học dân gian, folklore văn học)

hay dưới hình thức văn bản nghệ thuật được giữ gìn  qua văn tự (văn học viết, văn học bác học), có

100

Page 101: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thể được viết bằng văn vần hay văn xuôi. Xét về dung lượng, tác phẩm văn học có thể rất đồ sộ như

Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, Sông Ðông êm đềm của Sôlôkhốp, Những người khốn khổ

của V. Hugo hoặc cũng có thể chỉ là một bài thơ ngắn vài ba câu...

Tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”

II. TÁC PHẨM VĂN HỌC LÀ CHỈNH THỂ CƠ BẢN NHẤT ĐỜI SỐNG VĂN HỌC.

1. Tầm quan trọng của tác phẩm trong đời sống văn học. TOP    Ðời sống văn học bao gồm nhiều chỉnh thể: tác phẩm, tác giả, trào lưu, nền văn học của một dân

tộc. Trong những chỉnh thể đó, tác phẩm văn học là đơn vị cơ bản, trực tiếp của người sáng tác,

nghiên cứu, phê bình, thưởng thức. Chính vì vậy, có thể nói tác phẩm văn học có một tầm quan

trọng đặc biệt trong đời sống văn học. Tầm quan trọng đó còn được biểu hiện trên các phương diện

của việc nghiên cứu văn học Mọi bộ môn của khoa nghiên cứu văn học đều xuất phát từ sự tìm

hiểu, phân tích, nghiên cứu tác phẩm.

Từ sự phân tích tác phẩm, lịch sử văn học mới có thể đánh giá thành quả của từng tác giả,

dựng lại chân thật bộ mặt văn học của một thời kì lịch sử, khái quát những qui luật phát triển của

văn học dân tộc, khu vực... Phê bình văn học cũng luôn tiếp xúc trực tiếp với những tác phẩm cụ

thể nhằm kịp thời khẳng định, biểu dương những tìm tòi, khám phá, sáng tạo, ngăn chặn những

biểu hiện lệch lạc về cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Trên cơ sở

nghiên cứu tác phẩm, lí luận văn học mới có thể khái quát một cách chính xác các vấn đề đặc trưng,

bản chất, qui luật phát triển của văn học. Việc giảng dạy văn học, nhất là giảng văn, đòi hỏi thầy trò

phải tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm. Những nguyên tắc và phương pháp phân tích do lí luận đề xuất

chỉ mới là chỗ dựa cần thiết cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế cho việc tìm hiểu trực tiếp

tác phẩm được.

Như vậy, mọi vấn đề của văn học đều tập trung trước hết ở tác phẩm. Có thể coi tác phẩm

như một chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học.

Tính chỉnh thể của tác phẩm văn học được xem xét chủ yếu

trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.

2. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. TOP

2.1. Nội dung của tác phẩm nghệ thuật.

101

Page 102: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Khái niệm nội dung có cơ sở vững chắc từ mối quan hệ mật thiết giữa văn học và hiện thực,

nó bao hàm cả nhân tố khách quan của đời sống và nhân tố chủ quan của nhà văn, nó vừa là cuộc

sống được ý thức, vừa là sự đánh giá- cảm xúc đối với cuộc sống đó. Vì vậy, người ta thường nói

đến hai cấp độ của nội dung tác phẩm. Cấp độ thứ nhất là nội dung cụ thể (nội dung trực tiếp). Khái

niệm này nhằm chỉ dung lượng trực cảm của tác phẩm. Ðó là sự thể hiện một cách sinh động và

khách quan một phạm vi hiện thực cụ thể của đời sống với sự diễn biến của các sự kiện, sự thể hiện

các hình ảnh, hình tượng, sự hoạt động và quan hệ giữa các nhân vật, suy nghĩ và cảm xúc của các

nhân vật...Xuyên qua nội dung cụ thể của tác phẩm, ở một cấp độ cao hơn, sâu hơn là nội dung tư

tưởng (nội dung khái quát). Ðó chính là sự khái quát những gì đã trình bày trong nội dung cụ thể

thành những vấn đề của đời sống và giải quyết những vấn đề ấy theo một khuynh hướng tư

tưởng nhất định. Như vậy, có thể nói nội dung của tác phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ

độc đáo được phản ánh bằng hình tượng thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ

sĩ, tức là tiếng nói riêng của nhà văn bao gồm những cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng, khát vọng của tác

giả về hiện thực dó. Khi nói đến nội dung của tác phẩm, Secnưxepki không chỉ nhấn mạnh việc "tái

hiện các hiện tượng hiện thực mà con người quan tâm" mà còn nhấn mạnh đến việc "giải thích cuộc

sống", "đề xuất sự phán xét đối với các hiện tượng được miêu tả". Ông viết: "Thể hiện sự phán xét

đó trong tác phẩm là một ý nghĩa mới của tác phẩm nghệ thuật, nhờ đó nghệ thuật đứng vào hàng

các hoạt động tư tưởng, đạo đức của con người". Có thể mượn những câu thơ mở đầu Truyện Kiều

của Nguyễn Du để nói về nội dung tác phẩm văn học :

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu .

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Chu Mạnh Trinh khi nhận xét về Truyện Kiều cũng cho rằng: "Nếu không phải có con mắt

trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy". Có thể coi con

mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời chính là vấn đề của nội dung thì có thể

coi cái bút lực ấy lại là một trong những vấn đề thuộc về  hình thức tác phẩm.

2.2.2. Hình thức của tác phẩm nghệ thuật

Là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể hiện nội dung. Nó được hợp thành bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật sử dụng các chất liệu, phương tiện nghệ thuật, các qui định của loại thể, những biện pháp kết cấu, cách xây dựng nhân vật, thể hiện hình tượng...Tất cả đều nhằm mục đích biểu

102

Page 103: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hiện trực tiếp và sinh động nội dung của tác phẩm, tạo thành một dạng tồn tại nhất định của nội dung ấy, qua đó xây dựng tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất. Biêlinxki cho rằng: Dù một bài thơ có chứa chất những tư tưởng đẹp đến mấy đi nữa... nhưng nếu trong nó không có tính thơ thì nó cũng chỉ  là một dụng ý đẹp đã được thực hiện tồi. Rêpin cũng nói: Ý tưởng anh đẹp đẽ như vậy nhưng anh vẽ tồi thì anh chỉ làm cho người ta ghê sợ và coi rẽ ý tưởng của anh mà thôi. Như vậy, hình thức là một yếu tố rất quan trọng của tác phẩm nghệ thuật. Ông Phạm văn Ðồng nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức nghệ thuật : Giá trị hình thức rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật được ! Nó là con số không ! Chúng ta đều phải hiểu như vậy...Tư tưởng, nội dung tư tưởng phải đúng và nói về mặt yêu cầu thì nó phải một trăm phần trăm nhưng giá trị nghệ thuật cũng cần thiết, đòi hỏi cũng phải trăm phần trăm chứ không phải là năm mươi và năm mươi cộng lại. Bởi vì một tác phẩm không có giá trị nghệ thuật là không có nghĩa gì hết. Nó không phải là một sản phẩm. Cũng như có thể có những đồng chí có tư tưởng tốt lắm, nghĩa là như Lênin nói, khi chết có thể lên thiên đường, nhưng không làm được việc ! Chính những tác phẩm đúng về tư tưởng nhưng không có giá trị nghệ thuật cũng giống như những con người ấy

2.2.3. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức

Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học có liên quan đến mọi hiện tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Không thể có cái này mà không có cái kia hoặc ngược lại. Tác phẩm nghệ thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khắng khít với nhau.

Nói về một tác phẩm có giá trị, Biêlinxki cho rằng: Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng và

hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức

thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy. Ở một chỗ khác, ông viết Khi hình

thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó ra khỏi nội dung,

có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại, tách nội dung khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu

diệt hình thức.

Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiên ở 2 mặt: nội dung quyết định hình

thức và hình thức phù hợp nội dung.

Trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức, nội dung bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Nó là cái có trước, thông qua ý thức năng động và tích cực của chủ quan nghệ sĩ,  cố gắng tìm một hình thức phù hợp nhất để bộc lộ một cách đầy đủ, hấp dẫn nhất bản chất của nó.

Chương 2.

ÐỀ TÀI - CHỦ ÐỀ - TƯ TƯỞNG - Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM

VĂN HỌC.

I. ÐỀ TÀI

103

Page 104: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Khái niệm 2. Đề tài và đối tượng 3. Đề tài và hệ thống đề tài 4. Tính lịch sử - cụ thể của đề tài 5. Tính khách quan tương đối của đề tài

II. CHỦ ĐỀ 1. Khái niệm 2. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề 3. Chủ đề và hệ thống chủ đề 4. Một số chủ đề xuất phát từ

III. TƯTƯỞNG TÁC PHẨM 1. Khái niệm chung 2. Sự lý giải chủ đề 3. Cảm hứng tư tưởng   4. Tính điệu thẩm mĩ

IV. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM 1. Khái niệm chung 2. Những nguyên nhân tạo nên sự lý giải khác nhau về tác phẩm

Chương 2.

ÐỀ TÀI - CHỦ ÐỀ - TƯ TƯỞNG - Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.

I. ĐỀ TÀI

1. khái niệm. TOP

Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo thành chất liệu của

thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà

mình quan tâm. Có thể nói, đề tài là khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa

trong tác phẩm và bản thân đời sống. Người ta có thể xác định đề tài trên 2 phương diện: bên ngoài

và bên trong.

Nói đến phương diện bên ngoài là nói đến sự  liên hệ thuần túy đến phạm vi hiện thực mà tác phẩm

phản ánh. Ơí đây, sự xác đinh đề tài thường dựa trên cơ sở các phạm trù lịch sử- xã hội. Có thể nói

đến đề tài chống Pháp, chống Mĩ, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ

đội...

Tuy nhiên, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản ánh

và thấy được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào

phương diện bên trong của đề tài. Ðó là cuộc sống nào, con người

104

Page 105: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nào...được thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính

chất của đề tài bên ngoài. Trong trường hợp này, đề tài chính là vấn

đề được thể hiện trong tác phẩm và trong nhiều trường hợp nó

trùng khít với chủ đề. Chẳng hạn, Sống mòn của Nam Cao viết về

người trí thức tiểu tư sản nhưng đó là người trí thức tiểu tư sản quẩn

quanh, bế tắc, mòn mỏi. Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu viết về

người con gái giang hồ với cuộc sống đau đớn, tủi nhục và ước mơ

tốt đẹp của họ trong cuộc sống cũ...

2. Ðề tài và đối tượng. TOP

    Ðề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất

2 khái niệm này. Ðối tượng là một phần của khách thể mà con

người có thể chiếm lĩnh, phù hợp với một nhu cầu, một năng lực

nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa được chủ thể

nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu

tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng

là cơ sở của đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử

trong tác phẩm.

3. Ðề tài và hệ thống đề tài. TOP

Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài

mà có rất nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo

thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng: "Hệ đề tài là toàn bộ

đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác". Chẳng hạn, Truyện Kiều của

Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu, về hạnh phúc lứa đôi, về các

quan mặt sắt đen sì, về nông dân khởi nghĩa, về cuộc đời của các cô

gái lầu xanh...Các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận bi thảm

của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về

cuộc sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc

sống của bọn quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé

105

Page 106: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nghèo khổ... Như vậy, khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của

văn học nói chung, thực chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả

một hệ thống đề tài.

4. Tính lịch sử -cụ thể của đề tài. TOP

Ðề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà nhà văn đang

sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử văn học,

có thể nhận thấy trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, thường nổi lên những loại đề tài trung tâm

khác nhau. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ 19, đề tài về số phận của người phụ

nữ  chiếm một vị trí đáng kể trong trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn

từ 1945-1975, đề tài về người chiến sĩ cách mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên

hàng đầu.

Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn

học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh

phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết...Có người cho

rằng đấy là những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là

một cách nói. Bởi vì, ngay chính một nhà văn khi viết về một phạm

vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là một cái gì mới mẻ,

không lặp lại.

5. Tính khách quan tương đối của đề tài. TOP

-Khách quan. Ðề tài có tính khách quan vì bản thân nó chưa thể hiện tính tư tưởng.

Những nhà văn có lập trường tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau vẫn có thể cùng viết về

một đề tài. Raxun Gamzatôp từng viết:

"Ðừng nói: trao cho tôi đề tài.

Hãy nói: Trao cho tôi đôi mắt".

Chế Lan Viên có lần nói về thơ Tố Hữu: "Hãy đi tìm tình cảm, tư tưởng công nhân hơn là đi

tìm ống khói trong thơ Tố Hữu."

-Tương đối. Tính khách quan của đề tài cũng chỉ mang tính tương đối vì xét đến cùng, đề

tài ít nhiều cũng gắn bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm và hứng thú của nhà văn

106

Page 107: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

đối với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất phát từ chỗ đứng, quan điểm tư tưởng,

thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà văn đó.

Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận xét về đề tài của một số nhà văn như sau: "Trong thực tế của

đời sống văn học, thường thấy hiện tượng này: các nhà văn dù lớn đến đâu cũng chỉ có một vùng đề

tài ưa thích nhất và ông ta chỉ có thể viết hay về những đề tài ấy mà thôi. Khi vì một lí do nào đó,

ông ta hướng ngòi bút ra ngoài khu vực đề tài ấy, thì ông ta không còn sắc sảo nữa, tác phẩm trở

nên nhạt nhẻo, hình tượng thiếu sức sống, thiếu linh hồn, tài năng dường như rời bỏ ông ta. Thiếu

thực tế chăng? Không hẳn như vậy. Chẳng hạn, Nguyễn Ðình Thi đâu phải thiếu thực tế về những

ngày sôi sục của Cách mạng tháng Tám mà chính ông là một nhân chứng? Nhưng trong Vỡ bờ,

những trang tương đối xem được chỉ có ở tập 1 khi viết về đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ,

tối tăm, cơ cực. Ðến tập 2, càng về cuối, càng thấy nhạt nhẻo, sơ lược: ấy là nhữg trang mô tả cuộc

tổng khởi nghĩa tháng 8 và đất nước vùng lên tức nước vỡ bờ. Có lẽ Nguyễn Ðình Thi là cây bút

sinh ra để làm thơ, soạn nhạc hơn là viết văn xuôi, chỉ có thể viết hay về đất nước mình đẹp trong

đau khổ, bất hạnh:

"Anh yêu em như yêu đất nước,

Vất vả, đau thương, tươi thắm vô ngần.

Không phải ngẫu nhiên mà con người ấy chọn viết Nguyễn Trãi ở Ðông quan chứ không

phải Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Và câu thơ hay nhất trong bài Ðất nước là những câu thơ viết về Hà

Nội đẹp một cách hoang vắng, hiu hắt trước Cách mạng tháng 8 "Những phố dài xao xác hơi may/

Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" và những câu thơ viết về đất

nước bị giày xéo, cào xé trong cuộc kháng chiến chống Pháp "Ôi những cánh đồng quê chảy máu/

Dây thép gai đâm nát trời chiều" (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, tr12-13).

II. CHỦ ĐỀ

1. Khái niệm. TOP

Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách khác, chủ đề là

những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là

quan trọng nhất. Có thể nêu lên một số chủ đề của các tác phẩm:

Tắt đèn của Ngô Tất Tố tập trung phản ánh số phận bi thảm của người nông dân  do chế độ

sưu thuế, sự bóc lột tàn khốc trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Chí phèo của Nam Cao lại tập

trung tô đậm vấn đề tha hóa, biến chất của một bộ phận nông dân và ước mơ làm người lương thiện

107

Page 108: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

của họ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nêu bật lên số phận bi kịch của người phụ nữ, những ước

mơ vươn tới hạnh phúc, vấn đề đấu tranh để thực hiện tự do và

công lí. Qua Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh cuộc sống khốn khổ của

nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và tình cảm

hướng về cách mạng của họ đồng thời nêu lên một vấn đề có ý

nghĩa nhân bản sâu sắc : Ðó là cái tình trong cuộc sống đời thường

của những người lao động trong một hoàn cảnh gần như hoàn toàn

bế tắc. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải quan tâm đến sự thay đổi số

phận của những con người đã từng chịu nhiều bất hạnh trong xã hội

cũ, nay đã tìm lại được niềm vui, hạnh phúc và chỗ đứng trong xã

hội mới.

2. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề. TOP

-Chủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định. Nói cách khác, chủ đề không phải là

một cái gì bên trên, bên ngoài đề tài mà xuất phát từ ý đồ, từ những gợi ý của những hiện tượng

cuộc sống cụ thể thông qua cái nhìn, quan niệm của nhà văn. Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ

giữa hiện thực khách quan và tư tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, cùng viết về một đề tài gần

gũi, nhà văn vẫn nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc vào tài năng, khả năng

thâm nhập đời sống và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn.

Từ đề tài về các cô gái giang hồ trong xã hội cũ, các nhà văn có thể nêu lên những chủ đề

không giống nhau. Có thể thấy rõ điều này qua những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Lời kĩ nữ

của Xuân Diệu; Ðời mưa gió của Nhất Linh và Khái Hưng; Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu...

Từ đề tài về miếng ăn, nhiều tác giả đã đặt ra những vấn đề rất khác nhau: Ngô Tất Tố tiếp

cận với miếng ăn như một điều kiện để tồn tại (Làm no), Nam Cao nêu lên những vấn đề về nhân

cách (Một bửa no, Tư cách mỏ, Trẻ con không được ăn thịt chó, Sú vơ nia, Sống mòn....); Nguyễn

Tuân lại chú trọng đến miếng ăn như một giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc ( Giò lụa, Hương

cuội, Chén trà trong sương sớm, Phở, Cốm...) ...Trần Ðăng Khoa nhận xét về vấn đề miếng ăn, vấn

đề cơm áo trong tác phẩm Nam Cao có lẽ chưa thực xác đáng và thấu đáo: "Văn chương của Nam

Cao cũng rất gần với văn chương của Tsêkhôp, Lỗ Tấn nhưng khoảng cách tầm cỡ thì hình như vẫn

còn xa nhau lắm. Sở dĩ có cái khoảng cách ấy cũng là vì ở chỗ, Lỗ Tấn và Tsêkhốp quan tâm đến

nỗi đau ở cõi tinh thần còn Nam Cao lại để tâm trí đến cái bụng (Tào VĂn Ân nhấn mạnh). Ðọc

108

Page 109: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

ông ấy, trang nào cũng thấy đói. Mà văn học chỉ luẩn quẩn xung quanh miếng ăn, cũng khó mà

lớn được" (Chân dung và đối thoại)

Chủ đề gắn bó với đề tài nhưng nhiều khi nó vượt qua những giới

hạn của những đề tài cụ thể mà nêu lên những vấn đề khái quát,

rộng lớn hơn. Không nên nghĩ rằng viết về đề tài nông dân, công

nhân, trí thức... thì chủ đề cũng sẽ bị hạn định với những tầng lớp cụ

thể, xác định đó. Những tác phẩm văn học lớn, bên cạnh việc phản

ánh những nội dung lịch sử xã hội cụ thể, bao giờ cũng từ đó, nêu

lên những vấn đề chung có ý nghĩa khái quát về thân phận, nỗi đâu,

hạnh phúc của con người. Vì vậy, không nên hạn chế ý nghĩa của

chủ đề trong phạm vi đề tài xác định.

3. Chủ đề và hệ thống chủ đề. TOP

Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy

nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo

thành một hệ thống chủ đề (Pospelôp gọi là hệ vấn đề). Trong hệ

thống chủ đề, có thể nổi lên vài chủ đề có ý nghĩa trung tâm, quán

xuyến toàn bộ tác phẩm. Ðó là chủ đề chính. Bên cạnh đó, có những

chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi bật chủ đề

chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề

không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn chủ đề

chính, chủ đề phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa

của tác phẩm.

4. Một số chủ đề xuất phát từ những đề tài lịch sử, thiên nhiên, khoa học... TOP

Nhà văn sáng tác bao giờ cũng nêu lên những vấn đề liên quan đến thời đại mình nhưng vì

một lí do nào đó, nhà văn có thể không viết về những đề tài đương thời hoặc trực tiếp liên quan đến

những vấn đề xã hội nóng bỏng. Vì vậy, có một số tác phẩm viết về các đề tài lịch sử, thiên nhiên,

khoa học...Ở đây, tác phẩm có thể nêu lên hai chủ đề nhưng không cùng trên một bình diện: chủ đề

nổi bên trên không trực tiếp biểu hiện nội dung xã hội và một chủ đề ẩn bên dưới kín đáo bộc lộ

một ý nghĩa sâu xa về những vấn đề xã hội nóng bỏng. Ðây là một lối viết bóng gió, khai thác tối đa

109

Page 110: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tính đa nghĩa của hình tượng văn học.  Trong cuộc họp với hơn 100 nhà hoạt động văn hóa và văn

nghệ sĩ vào ngày 7.10.1987,  Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng :"Sáng tác tác phẩm đụng đến

nhà quan liêu mệnh lệnh nào đó đương chức đương quyền là điều khó nhưng phải dũng cảm bằng

cách này cách khác mà viết. Có khi phải mượn chuyện đời xưa để nói làm ai đó phải giật mình,

phải thấy nhột. Trước đây, có những tác phẩm vì thế mà phải xổ tọet, tác giả phải hứng chịu nhiều

sự phiền toái, thậm chí lao đao nhưng có phải vì thế mà ta phải uốn cong ngòi bút cho hợp khẩu vị

của những con người xấu ấy không? Tôi cho rằng nếu phải làm như vậy thì người nghệ sĩ mất hết

chất cách mạng rồi".

Chủ đề và nhất là đề tài là phương diện khách quan của nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nó

giúp người đọc nhận biết tác phẩm đề cập và nêu ra những vấn đề gì của đời sống hiện thực. Gọi là

khách quan vì chủ yếu nó bắt nguồn từ hiện thực, do hiện thực gợi ý mặc dù có sự lựa chọn, suy

ngẫm của nhà văn. Khách quan ở đây cần được hiểu với ý nghĩa tương đối của nó.

III. TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Khái niệm chung. TOP

Nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn

học cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó.

Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm nhận, suy nghĩ về

cuộc đời...Do yêu cầu của tư duy khái quát, người ta thường đúc kết tư tưởng của tác phẩm bằng

một số mệnh đề ngắn gọn, trừu tượng. Thực ra, tư tưởng náu mình trong những hình tượng sinh

động, những cảm hứng sâu lắng của tác giả. Biêlinxki cho rằng: "Tư tưởng thơ, đó không phải là

phép tam đoạn luận, không phải là giáo điều mà là một ham mê sống động, đó là cảm hứng".

Nếu có thể coi đề tài và chủ đề thuộc về phương diện khách quan thì tư tưởng tác phẩm

thuộc về phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm.

Tư tưởng tác phẩm văn học là sự khái quát của cả hai phương diện: lí giải, nhận thức và khát

vọng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm thông qua hình tượng nghệ thuật. Nó gắn bó chặt chẽ với

đề tài và chủ đề và được biểu hiện tập trung ở ba phương diện: Sự lí giải chủ đề, cảm hứng tư tưởng

và tình điệu thẩm mĩ.

2. Sự lí giải chủ đề. TOP

110

Page 111: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

3.2.1. Khái niệm. Chủ đề và sự lí giải chủ đề có liên quan với nhau nhưng không phải là một.

Nếu chủ đề chú ý đến vấn đề đặt ra trong tác phẩm xuất phát từ hiện thực thì sự lí giải chủ đề lại

quan tâm đến sự giải thích, cắt nghĩa, nhận thức của nhà văn về những vấn đề đặt ra trong tác

phẩm dựa trên một quan điểm nhất định nào đó. Ðây là phương diện rất cơ bản trong nội

dung tư tưởng của tác phẩm.

Chủ đề của Tắt đèn là cuộc sống bị bần cùng hóa của người nông dân Việt Nam trước Cách

mạng tháng 8. Nhưng tác giả không chỉ nêu ra cuộc sống đó mà còn lí giải nó. Trên lập trường nhân

đạo chủ nghĩa, Ngô Tất Tố cắt nghĩa, giải thích cuộc sống khổ đau, bế tắc đó đồng thời bộc lộ rõ

thái độ, quan điểm, cảm xúc của mình trước những hiện tượng khác nhau của cuộc sống. Qua sự lí

giải chủ đề, người đọc sẽ thấy được sức khái quát và sự hiểu biết sâu sắc của nhà văn về cuộc đời.

3.2.2. Biểu hiện của sự lí giải chủ đề trong tác phẩm.

Sự lí giải chủ đề có thể được biểu hiện trong tất cả những yếu tố của tác phẩm nhưng nhìn

chung thường được xem xét trên 2 mặt: những lời thuyết minh trực tiếp của tác giả, của nhân vật và

tính khách quan của hình tượng nghệ thuật, lôigic của sự mô tả. Hai mặt này nhìn chung thường

thống nhất với nhau. Người đọc cần chú trọng đến tính khách quan của hình tượng nghệ thuật hơn

bởi vì ý nghĩa của tác phẩm chủ yếu được biểu hiện thông qua hình tượng nghệ thuật chứ không

phải là ở những phát ngôn trực tiếp của tác giả.

Hai mặt này có khi mâu thuẫn với nhau, nhất là trong văn học cổ. Trong Truyện Kiều,

Nguyễn Du nhiều lần nêu lên quan niệm "hồng nhan bạc mệnh", "hồng nhan đa truân", "tài mệnh

tương đố"...để giải thích cho thân phận long đong, chìm nổi của Kiều nhưng thông

qua toàn bộ hình tượng nghệ thuật, thông qua logic  của sự miêu tả,

người đọc có thể nhận ra được số phận của Kiều không phải do "trời

xanh", "hóa công" ...mà chính là do những lực lượng thống trị xã hội

lúc bấy giờ. Ở đây, sự lí giải vấn đề đầy mâu thuẫn nhưng đó lại là

một trong những điều làm cho Nguyễn Du vĩ đại và bất tử.

3. Cảm hứng tư tưởng của tác phẩm. TOP

3.3.1.Khái niệm. Ngay từ thời cổ Hy Lạp và sau này Hégel và Biêlinxki đều đã dùng từ cảm hứng

(tiếng Hy Lạp cổ: Pathos) để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu sắc

khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi là thái độ tư tưởng-tình cảm đối với những

điều được miêu tả.

111

Page 112: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật thiết với nhau

nhưng không phải là một. Cảm hứng tư tưởng là tình cảm mãnh liệt, một ham muốn tích cực, là tư

tưởng của nhà văn được thể hiện cụ thể, sinh động trong hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Bến

không chồng của Dương Hướng thể hiện tâm trạng khắc khoải, một ước mơ về hạnh phúc đích thực

của cuộc đời thường, là sự cảm thông sâu sắc với những con người đã chịu nhiều mất mát. Tràng

giang của Huy Cận là một nỗi buồn mênh mông, vô tận trước cảnh trời rộng, sông dài, là sự nhỏ bé,

cô đơn của con người trước cái vô cùng của thiên nhiên, vũ trụ...

3.3.2. Sự thể hiện của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học.

Có 2 khả năng thể hiện rõ nét cảm hứng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm qua thái độ- tư

tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện tượng, tính cách được miêu tả: khẳng định hoặc phủ

định đối với những điều được miêu tả. Khẳng định lí tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái

xấu, là sự đồng tình, cảm thông, ngợi những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các thế lực đen

tối. Ðiều này làm cho tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng, "thiên vị" đối với những nhân vật lí

tưởng mà tác giả yêu mến và cho phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin khẳng

định:"Nếu thiếu một tư tưởng thiên vị (không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên tạc người khác mà

là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm) thì sẽ không có sức sống sôi động. Ngẫu nhiên,

rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng.

Không tình tiết nào có thể bù đắp cho thiếu sót đó".

Trong văn học, mối tương quan giữa 2 khả năng này có thể khác nhau tùy thuộc vào từng

giai đoạn văn học, vào từng nhà văn cụ thể.

Cảm hứng bắt nguồn từ tình cảm nhưng đó là tình cảm nhiều chiều, phức hợp chứ không phải đơn

điệu. Những hài kịch của Molière, phía sau nụ cười là những giọt nước mắt. Nhiều bài thơ của Hồ

Xuân Hương, bên cạnh giọng điệu tưởng chừng như bỡn cợt là nỗi xót xa sâu sắc về thân phận của

người phụ nữ, là sự khẳng định giá trị của người phụ nữ...

Cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình

tượng nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái

"loa" phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bài thơ "Không chồng mà

chữa" của Hồ Xuân Hương là sự khẳng định tình yêu, là sự cảm

thông sâu sắc về sự cả nể của cô gái. Ðó không phải là điều tội lỗi,

112

Page 113: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

không phải là một điều vô đạo đức. Tác giả không trực tiếp lên án

xã hội phong kiến nhưng những câu thơ tự nó đã nói lên điều đó.

4.Tình điệu thẩm mĩ (Cảm hứng thẩm mĩ). TOP

Cùng với các khái niệm đề tài, chủ đề, sự lí giả chủ đề, cảm hứng tư tưởng...nội dung tư tưởng của

tác phẩm còn được khái quát và biểu hiện qua tình điệu thẩm mĩ.

3.4.1. Khái niệm chung. Tình điệu thẩm mĩ là hệ thống những giá trị được khái quát và thể hiện

trong tác phẩm. Mọi tác phẩm văn học trong khi phản ánh hiện thực đều tái hiện những lớp hiện

tượng đời sống giá trị thẩm mĩ nhất định, độc đáo và không lặp lại. Chính điều này làm cho tư

tưởng của tác phẩm khác với tư tưởng trong các lĩnh vực khác.

Tình điệu thẩm mĩ là toàn bộ không khí, mùi vị, cảm giác, hơi thở, nhịp điệu tiêng bao trùm

lên tác phẩm. Qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, người đọc cảm nhận cái không khí dữ dội và

rợn ngơp, là nỗi đau thương và khắc khoải trước những mất mát của chiến tranh và hậu quả của nó.

Nhiều bài thơ của Huy Cận để lại một ấn tượng bát ngát, mênh mông, vô tận của không gian, vũ trụ.

Thơ Nguyễn Bính là sự bâng khuâng, sâu lắng và tha thiết về tình yêu. Trần Ðình Sử cho rằng

"Tình điệu này có thể là cái bát ngát của bình minh trên biển, cái dịu êm của đêm trăng, cái dìu hiu

nơi thôn vắng, cái dữ dội của dông tố, cái mênh mang của đất trời...dó có thể là cái mĩm cười của

sự sống, niềm bâng khuâng trước đổi thay. Ðó là toàn bộ cái không khí, mùi vị, cảm giác đầy ý

nghĩa mà con người hít thở và thấy mình tồn tại ở trong đó". Vì vậy cũng thật khó để chỉ rõ và phân

biệt rạch ròi tình điệu thẩm mĩ và các yếu tố khác trong tác phẩm.

3.4.2. Tình điệu thẩm mĩ và cảm hứng tư tưởng. Hai khái niệm này gắn bó chặt chẽ, khó

thể tách rời nhưng cũng có thể phân biệt ở những mức độ nhất định.

Cảm hứng tư tưởng là niềm say mê, nhiệt tình khẳng định hay phủ định, thể hiện tinh thần

chiến đấu nhằm bảo vệ công lí, lẻ phải...Tình điệu thẩm mĩ là phẩm chất, giá trị thẩm mĩ của nội

dung tác phẩm. Chẳng hạn, chất trào phúng, châm biếm trong thơ Hồ Xuân Hương là tình điệu

thẩm mĩ thì cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm của bà lại là nhiệt tình khẳng định những tình cảm tự

nhiên đáng quí ở con người đồng thời là sự phê phán, căm giận đối với lễ giáo khắc khe của xã hội.

Tình điệu thẩm mĩ trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng của Chế Lan Viên thiên về cái

đẹp, cái anh hùng của thời đại và con người còn cảm hứng tư tưởng là sự khẳng định, tôn vinh con

người và cuộc sống đó...Tình điệu thẩm mĩ có thể được khái quát vào các phạm trù mĩ học như cái

đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, cái bi, cái hài và các biến thể của chúng. chẳng hạn, cái sầu, cái hận,

cái thống thiết,cái buồn...là các dạng khác nhau của cái bi; chất humour, châm biếm, trào lộng...là

113

Page 114: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

các dạng của cái hài; sự hài hòa, cân đối, hoàn thiện, cái xinh xắn là sự biểu hiện của cái đẹp; cái

lớn lao, phi thường, mênh mông, bát ngát...là sự biểu hiện của cái cao cả. Nói về tình điệu thẩm mĩ

trong tác phẩm, ông Trần Ðình Sử cho rằng: "Có thể nói tới chất châm biếm, u-mua của Nhật kí

trong tù bên cạnh chất trữ tình cổ điển và chất văn xuôi hiện đại. Có thể nói tới cái bát ngát trong

nhiều bài thơ Huy Cận, cái thống thiết trong thơ Phan Bội Châu, cái buồn trong thơ moiứ, cái hận

sầu trong một số thơ cổ...Cần hiểu đó là các biểu hiện cụ thể, độc đáo của các phạm trù thẩm mĩ".

Chính các tình điệu thẩm mĩ này góp phần vào việc bộc lộ rõ tư tưởng của tác phẩm văn học.

Tóm lại, những yếu tố được trình bày trên tồn tại thống nhất hữu cơ trong tác phẩm và sự

phân biệt chúng với nhau cũng chỉ có tính chất tương đối.

IV. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Khái niệm chung. TOP

Nói đến ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học là nói đến sự đánh

giá, thẩm định các phương diện thuộc về nội dung tư tưởng tình

cảm, nội dung nhận thức, nghệ thuật, sự chân thành của tình

cảm....được thể hiện trong tác phẩm. Vấn đề đặt ra là những ý

nghĩa và giá trị đó do đâu mà có ? Bởi vì  có một thực tế là trước

cùng một tác phẩm, người đọc nói chung và giới phê bình, nghiên

cứu nói riêng có thể có những cảm nhận và đánh giá không giống

nhau, thậm chí trái ngược nhau? Tại sao có tác phẩm chỉ tồn tại

trong một thời gian ngắn ngủi so với cuộc đời của tác giả nhưng

cũng có những tác phẩm tồn tại mãi mãi với thời gian? Trả lời những

câu hỏi này một cách đầy đủ và đúng đắn đòi hỏi người nghiên cứu

không chỉ hiểu được đặc trưng của lí luận sáng tác mà còn phải chú

ý đến  lí luận tiếp nhận, lí luận về cảm thụ văn học. Trong phần này,

chúng tôi chỉ  nêu lên một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc lí

giải, nhận định khác nhau về ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn

học qua các giai đoạn phát triển của lịch sử nghiên cứu và phê bình

văn học.

2. Những nguyên nhân tạo nên sự lí giải khác nhau về tác phẩm . TOP

114

Page 115: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

4.2.1. Nguyên nhân từ phía người đọc.

Tác phẩm văn học được sáng tác là để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm chỉ tồn tại với

tư cách là một tác phẩm đích thực khi nó đến với người đọc. Người đọc ở đây là một khái niệm hết

sức rộng lớn, bao quát, đa dạng, phức tạp...bao gồm các tầng lớp người khác nhau về giai cấp, dân

tộc, trình độ văn hóa, lứa tuổi, giới tính, kinh nghiệm, năng khiếu, cảm xúc thẩm mĩ... với những

động cơ và mục đích đọc tác phẩm khác nhau. Chính sự khác biệt này là một nguyên nhân quan

trọng trong việc định giá tác phẩm văn học.

- Tính chủ quan của ngừơi đọc.

Có một quan niệm tương đối phổ biến ở phương Ðông cũng như ở phương Tây khẳng định

vai trò chủ quan của người đọc trong việc tiếp nhận, thưởng thức và đánh giá tác phẩm. Những

người theo quan niệm này cho rằng đọc tác phẩm không phải là tái hiện lại một cách trung thành

những điều tác giả đã gửi gắm và thể hiện trong tác phẩm mà chủ yếu là tìm kiếm tâm hồn mình

qua tác phẩm, người đọc là  người kể lại tâm hồn mình qua những kiệt tác (A.France). Kim Thánh

Thán cho rằng: Tôi ngày ngày sở dĩ phê bình Mái Tây thật là vì người sau họ nghĩ tới tôi, tôi muốn

có gì làm quà cho họ, cho nên bất đắc dĩ mà làm  việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ của người viết

Mái Tây có quả đúng  như vậy hay không? Nếu quả cũng như thế, thì ta có thể nói rằng nay mới bắt

đầu thấy rõ Mái Tây...Bằng không như vậy thì ta có thể nói là trước đây vẫn thấy Mái Tây nhưng

nay lại thấy có riêng vở Mái Tây của Thánh Thán cũng được. Việc tiếp nhận tác phẩm văn học ở

đây như là một hành động gửi gắm tâm sự của người đọc. Ðịnh cho tác phẩm một ý nghĩa và giá trị

có phù hợp với những vấn đề ẩn chứa trong tác phẩm hoặc với ý định của tác giả hay không không

phải là điều quan trọng mà quan trọng là ở vai trò của chủ thể cảm thụ. Ingarden nhấn mạnh Có bao

nhiêu độc giả và có bao nhiêu sự đọc mới cho cùng một tác phẩm thì có bấy nhiêu những thành tựu

mà chúng ta gọi là sự cụ thể hóa của tác phẩm. Rolland Barthes còn cực đoan hơn Khi đọc tác

phẩm tôi đặt sự đọc vào cái tình huống của tôi...Tình huống hay thay đổi làm ra tác phẩm chứ

không tìm lại được tác phẩm; tác phẩm không thể phản đối, chống lại cái ý nghĩa mà tôi gán cho

nó.

- Tính khách quan của người đọc.

Lí giải sự cảm thụ, đánh giá tác phẩm khác nhau dựa trên cơ sở chủ quan của người đọc là

đúng đắn. Nếu như trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, dấu ấn cá nhân được thể hiện đậm nét thì

trong lĩnh vưcû nghiên cứu, cảm thụ nghệ thuật cũng có tình trạng tương tự. Tuy nhiên, sẽ hoàn

toàn sai lầm khi cho rằng người đọc là yếu tố hoàn toàn chủ quan trong việc xác định giá trị của tác

phẩm văn chương. Bởi vì nếu vậy thì sẽ không lí giải nổi nhiều hiện tượng văn học khác nhau: Tại

115

Page 116: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

sao có một số tác phẩm được đánh giá cao ở giai đoạn này nhưng đến giai đoạn khác thì hoàn toàn

ngược lại? Tại sao trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, người ta lại thường chú ý và khai thác

một cách khác nhau một vài yếu tố nào đó trong tác phẩm ? Tại sao sau khi xem xong một tác phẩm

nghệ thuật, người đọc nói chung đều có thể có một ấn tượng chung nào đó về tác phẩm, về một số

nhân vật ? (Trương Phi, Quan Công, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Sở Khanh...). Chính vì vậy, khi nói

đến giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, không thể tách rời với những  hoàn cảnh văn hóa-lịch

sử- xã hội nhất dịnh.

Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào vai trò chủ quan của người đọc,

đặc biệt là những người đọc chuyên nghiệp (những nhà phê bình, nghiên cứu). Nhưng người đọc ở

đây là những con người cụ thể và sống trong một môi trường, một hoàn cảnh xã hội, một thời kì

lịch sử nhất định. Vì vậy, người đọc ở mỗi thời đại khác nhau sẽ có cái nhìn không hoàn toàn giống

nhau về giá trị của tác phẩm. Nếu coi sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động mang tính khuynh

hướng xã hội mạnh mẽ thì tiếp nhận nghệ thuật cũng không thể thoát li khỏi những điều kiện lịch sử

trong những thời kì nhất định. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học, mỗi cá nhân đến với tác

phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cả cái ta nữa.Người đọc sẽ cắt nghĩa, định giá cho

tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích dân tộc, xã hội, nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ không

giống nhau qua từng thời kì lịch sử nhất định. Khrapchenkô đã dẫn lời của Biêlinxki để nói về

Puskin như sau: Puskin thuộc về những hiện tượng mãi mãi tồn tại và vận động không dừng lại ở

điểm bắt gặp cái chết  mà tiếp tục được phát triển trong ý thức xã hội. Mỗi thời đại sẽ nói lên sự

phán xét của mình về những hiện tượng ấy, và cho dù nó có hiểu đúng đến đâu chăng nữa thì bao

giò nó cũng để dành lại cho thời đại tiếp sau nó nói lên một điều gì đó mới mẻ và đúng đắn hơn, và

chẳng bao giờ một thời đại nào lại có thể nói hết tất cả . Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt

Nam, có thể coi Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trường hợp tiêu biểu cho sự khai thác những

phương diện khác nhau của tác phẩm qua các thời đại khác nhau như trường hợp mà Biêlinxki đã

nêu lên với Puskin.

Một trong những khái niệm quan trọng để giải thích tính chất quyết định ý nghĩa và giá trị

của tác phẩm qua từng thời kì lịch sử nhất định là tầm văn hóa hoặc tầm đón nhận của công chúng.

Ðây là khái niệm do nhà triết học và xã hội học người Ðức là Các Manheim nêu ra, được Hans

Robert Jauss vận dụng vào việc nghiên cứu văn học.  Jauss phân biệt có sự tiếp nhận bên trong và

sự tiếp nhận bên ngoài. Nếu sự tiếp nhận bên trong chủ yếu mang tính cá nhân, chủ quan thì tiếp

nhận bên ngoài lại mang tính khách quan. ...sự tiếp nhận bên ngoài là sự gặp gỡ bị qui định bởi

những điều kiện khách quan; sự tiếp nhận ở đây mang những hình thức lịch sử nhất định. Ðó là sự

gặp gỡ của một truyền thống văn hóa này với tác phẩm của một truyền thống văn hóa khác, vì vậy

nó diễn ra trên bình diện xã hội và văn hóa- lịch sử. Chính sự tiếp nhận bên ngoài này mới tác động

116

Page 117: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

quyết định đến sự hình thành và chuyển hóa tầm đón nhận của độc giả. Tất nhiên, nếu không có sự

tiếp nhận bên trong thì sự tiếp nhận bên ngoài không thể nào phát huy tác dụng một cách sâu xa

được.

Trong văn học Việt Nam, vấn đề xác định giá trị của những tác phẩm thuộc dòng văn học

lãng mạn giai đoạn 1930-1945 cũng là một bằng chứng tiêu biểu cho vai trò của thực tế văn hóa- xã

hội- lịch sử  trong việc cảm nhận văn học. Ngay từ khi những bài thơ đầu tiên của phong trào Thơ

mới ra đời, một tầng lớp công chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những quan

niệm mới về văn học đã nhiệt tình ủng hộ  và đánh giá cao thì đồng thời cũng chịu sự phản ứng

quyết liệt của những nhà Nho cũng như những người đọc đã quen với những chuẩn mực của thơ ca

cổ điển. Nếu có thể coi những năm từ 1936 dến 1945 thơ ca lãng mạn được đánh giá là những tác

phẩm có giá trị, thì sau năm 1945 cho đến những năm đầu của thập kỉ 80, tình hình lại hoàn toàn

thay đổi. Do hoàn cảnh chiến tranh với những điều kiện sống khó khăn, ác liêt, do nhận thức mục

đích quan trọng nhất của lịch sử không phải là vấn đề số phận cá nhân, mơ mộng của con người mà

là vấn đề đôc lập dân tộc, vấn đề giải phóng giai cấp...văn học lãng mạn nói chung và thơ mới nói

riêng đã bị xem là một bộ phận văn học tiêu cực, có hại cho cách mạng...Ở giai đoạn này, không

phải chỉ những nhà phê bình phủ nhận văn học lãng mạn mà ngay chính những nhà thơ lãng mạn đã

tham gia vào cuộc kháng chiến như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân

Sanh, Ðoàn Phú Tứ...cũng đã lên tiếng phủ nhận tác phẩm của mình. Từ 1986 trở lại đây, do sự thay

đổi của hoàn cảnh xã hội, những tác phẩm của dòng văn học lãng mạn lại được đánh giá cao với

một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc. Người đọc nói chung và giới nghiên cứu phê bình nói riêng laiû

phát hiện ở Thơ mới cũng như ở những tác phẩm của tổ chức Tự lực văn đoàn những khía cạnh mới

mẻ mà hình như trước đó người ta chưa hề phát hiện và khẳng định bộ phận văn học này đã góp

phần to lớn vào quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam hiện đại.

4.2.2. Nguyên nhân từ phía bản thân tác phẩm.

Khẳng định giá trị của tác phẩm văn chương từ tính chất chủ quan, cá nhân cũng như tính

chất khách quan do những điều kiện lịch sử- văn hóa xã hội qui định chủ yếu cũng mới chỉ xác định

giá trị của tác phẩm từ phía người đọc. Nhưng nếu giá trị của tác phẩm văn chương chỉ chịu sự qui

dịnh của người đọc thì sẽ không giải thích được tại sao tác phẩm này lại đứng vững và tồn tại mãi

với thời gian còn tác phẩm khác thì ngược lại ? Thực ra, giá trị của tác phẩm không chỉ do người

đọc, thời đại mang đến mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính bản thân tác phẩm. Và có thể

nói đây là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết  định vì nó giúp cho ta giải thích được lí do

người đọc cảm nhận, đánh giá tác phẩm khác nhau. Nói như Khrapchenkô, nội dung của tác phẩm

dù được xem là biến đổi như thế nào trong các thời kì lịch sử khác nhau vẫn không phải là được

117

Page 118: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

mang từ ngoài vào mà là vốn chứa đựng trong bản thân chúng. Như vậy, giá trị nội dung tư tưởng

và hình thức nghệ thuật nằm ngay trong chính bản thân nó nhưng không phải được thể hiện rõ ràng,

đơn nghĩa. Giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không giống nhau

một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do tính mơ hồ, đa nghĩa  ở nhiều

phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện

trong tác phẩm.

Một trong những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là tính mơ hồ, đa nghĩa và

cũng  từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được đầy đủ và đánh giá thống nhất với nhau về một

tác phẩm. Vấn đề này đã được các nhà lí luận, nghiên cứu văn học đề cập đến từ lâu.Tạ Trân, nhà

thi thoại đời Minh cho rằng: Thơ có chỗ khả giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa dưới

nước, trăng trong gương, không cần câu nệ tới dấu tích. Vương Sĩ Trinh cũng cho rằng thơ khó ở

chỗ nếu không giải thích được thì thơ vô vị, mà giải thích được thì thơ hết vị.

Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, văn học phản ánh đời sống trong tính toàn vẹn, sinh

động thông qua hình tượng nghệ thuật với một cấu trúc phức tạp, đa dạng nhằm thể hiện những cảm

nhận và khái quát của nhà văn về cuộc đời. Chính vì vậy người đọc không dễ gì nắm bắt được một

cách đầy đủ ý nghĩa vốn có của nó. Sẽ không có gì quá đáng nếu có người coi tính mơ hồ, đa nghĩa

không chỉ là nét đặc trưng của văn học mà còn gắn liền với số phận lịch sử của nó.

Tính mơ hồ, đa nghĩa trước hết được biểu hiện ở ngôn ngữ. Ðây vốn là thuộc tính của ngôn

ngữ toàn dân nhưng khi sáng tác nhà văn luôn có ý thức hướng về một ngôn ngữ mang tính hàm

súc, đa nghĩa, gợi nên ở người đọc những cách giải thích, những mối tương quan khác nhau,làm cho

một chữ mà nghĩ ba năm chưa xong, giảng nghìn năm chưa hết(Nguyễn Cư Trinh). Ðây cũng chính

là một trong những nguyên nhân tạo nên sức sống, chiều sâu và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm văn

học.

Theo W. Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý định biểu hiện nhiều loại

sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích khác nhau. GS. Trần Ðình Sử đã tóm tắt những loại ý

nghĩa mơ hồ của ngôn ngữ văn học mà Empơxơn đã nêu ra như sau : 1. Nói vật này mà như nói tới

vật khác vì giữa những sự vật ấy có nhiều điểm giống nhau;2. Ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp

không chặt chẽ và ngữ cảnh cho phép; 3. Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều thông;

4. Lời trần thuật của tác giả có mâu thuẩn, không nhất trí, nhưng đều thể hiện trạng thái chung của

tư tưởng của nhà văn;5.Tác giả vừa viết ý này nhưng lại hé ra một ý khác chân thực hơn thuộc về

vô thức; 6. Ý nghĩa mặt chữ của lời trần thuật vừa trùng lặp vừa mâu thuẫn khiến cho người đọc có

thể giải thích trái ngược nhau; 7. Một từ có hai nghĩa, hai loại giá trị mơ hồ nhưng lại là hai ý

118

Page 119: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nghĩa trái ngược nhau do văn cảnh qui định.. Sau Empơxơn, các nhà nghiên cứu cũng nói đến các

biện pháp chuyển nghĩa để tạo nên tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học như mỉa mai, nhại,

nghịch lí, song quan, tượng trưng...

Bên cạnh ngôn ngữ, tính cách nhân vật cũng thường là một yếu tố tạo nên những cảm nhận

khác nhau, đặc biệt là các điển hình nhânhà vănật. Những nhân vật được xây dựng thành công trong

văn học xưa nay thường không bao giờ đơn giản một chiều mà luôn phong phú, phức tạp. Họ là

những con người cụ thể, sinh động nhưng đồng thời cũng mang trong mình những vấn đề của một

thời đại, những vấn đề của con người nói chung, nó có những nét nhòe, khó xác định mà không phải

thời đại nào cũng có thể hiểu được... Nếu coi tác phẩm văn học như một hình thức tranh luận của

nhà văn về đời sống thì sự tranh luận đó được thể hiện rõ nét qua các nhân vật mà nhà văn đem hết

tâm huyết của mình để xây dựng nên. Những nhân vật điển hình càng sâu sắc, càng phổ biến bao

nhiêu thì khả năng biểu hiện phẩm chất người ở mức độ này hay mức độ khác qua các thời kì lịch

sử khác nhau càng lớn bấy nhiêu. Hainơ nhận xét về nhân vật Clêôpâtre của Sêchxpia như sau :

Nàng Clêôpâtre đó quả là một người đàn bà. Nàng yêu đồng thời là phản nghịch. Nàng khiến tôi

nghĩ tới một câu nói của Raxin: Thượng đế khi sáng tạo đàn bà đã dùng một thứ đất quá nhão. Cái

chất liệu quá nhão ấy không đủ đáp ứng với đòi hỏi của sức sống. Cái sản phẩm ấy quá tốt mà cũng

quá ư không tốt. Chỗ đáng yêu nhất của nàng lại chính là cái lí do khiến nàng trở thành đáng ghét

nhất.

Những nét tính cách ở nhân vật Kiều không phải chỉ do người đọc mang đến và gán cho

nàng mà trước hết nằm ngay trong chính bản thân nàng. Nguyễn Công Trứ không thông cảm với

Kiều và coi Kiều như một cô gái hư hõng không phải hoàn toàn vô lí khi ông  đứng trên quan niệm

đạo đức phong kiến và quan niệm sáng tác văn dĩ tải đạo. Cái hư hỏng, nếu có thể gọi là hư hỏng,

nằm ngay trong chính bản thân Kiều khi cô đã vượt quyền cha mẹ, đã xăm xăm băng lối vườn

khuya một mình, đã Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường...mà hàng trăm năm sau Hoài Thanh

cũng như bao nhiêu người khác còn phải ngẫn ngơ  ...Cái suy tính thiệt hơn của Kiều khi khuyên

Từ Hải ra hàng không phải ai cũng có thể thông cảm được...Những người khác cảm phục Kiều,

đánh giá cao tấm lòng nhân hậu, thủy chung, son sắc hoặc khát vọng giải phóng cho ý thức cá

nhân...cũng chính là sự phát hiện ra những phẩm chất vốn có trong chính bản thân Kiều...Kiều

không phải là tấm gương để giáo dục đạo đức phong kiến cho mọi người mà trước hết và trên hết,

nàng là con người của đời, nàng là tiếng nói của  Nguyễn Du về thân phận con người. Ở mỗi thời

đại khác nhau, người đọc lại phát hiện những nét tính cách vốn có ở Kiều phù hợp với quan niệm

thẩm mĩ của mình, với thời đại của mình chứ không thể gán ghép một cách tùy tiện được. 

119

Page 120: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trong khi xây dựng các hình tượng nhân vật, nhất là những nhân vật chính, nhà văn bao giờ

cũng gửi gắm vào đó những tư tưởng tình cảm của mình. Ở những nhà văn lớn, tư tưởng- tình cảm

thường cũng không đơn giản, một chiều mà là một phức hợp, đa dạng bao gồm những nỗi niềm,

tâm sự, những lời kí thác, những điều mà nhà văn gửi gắm cho độc giả với nhiều cách diễn đạt khác

nhau. Nhà văn có thể diễn đạt trực tiếp quan niệm của mình qua ngôn ngữ chính luận hoặc thông

qua hình tượng nghệ thuật, ẩn chứa trong các chi tiết, trong cách xử lí về không gian thời gian,

trong kết cấu, trong giọng điệu...mà không phải người đọc thời nào cũng chú ý để có thể phát hiện

hết được. GS Hoàng Ngọc Hiến có nhận xét tinh tế về yếu tố giọng điệu  để nói lên quan niệm về

cuộc đời mà Nguyễn Du  thể hiện thông qua 6 câu triết luận mở đầu như sau : Muốn hiểu Truyện

Kiều , phải bắt được cái giọng của tác giả trong 6 câu triết luận mở đầu. Ðiều quan trọng trong

đoạn mở đầu này không chỉ ở những luật oái oăm, ác hại trong cõi người ta: Tài mệnh tương đố, bỉ

sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Ðiều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn mát, đay đả

của tác giả khi nói đến những luật này:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau

Tác giả không thản nhiên ghi nhận cái luật oái oăm này. Thái độ của tác giả bao hàm nhiều

sắc thái: mỉa mai, hờn mát, rỡn cợt, châm chọc...Tài mệnh tương đố không phải là tư tưởng của

truyện Kiều. Triết lí của Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ

khéo làì xen vào câu tài mệnh tương đố.

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Cũng như cách phân tích ở trên, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh không phải là tư tưởng đích

thực của Truyện Kiều. Ở đây, cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật của đời và luật  của trời,

Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông :

Lạ gì...Ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán. Khi ta nói lạ gì anh ấy thì hoặc

là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, là ta chán ngán... anh ấy, chắc chắn không phải là một thái độ thiện

cảm.

Ý Kiến của GS Hoàng Ngọc Hiến có gần với chân lí nghệ thuật hoặc có gần với tư tưởng

của Nguyễn Du đến đâu có lẽ còn cần phải bàn bạc nhưng có một điều không thể phủ nhận là yếu tố

giọng điệu đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong văn học và yếu tố đó cũng mang tính phức

120

Page 121: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

điệu, đa dạng...trong việc biểu hiện tư tưởng và tình cảm của tác giả mà người đọc không dễ gì phát

hiện được. Ðiều này cũng được Khrapchencô khẳng định: Cùng với giọng điệu cơ bản trong tác

phẩm nghệ thuật còn có một hệ thống các sắc điệu phức tạp, với vô vàn nhánh ngành vốn có trong

các bộ phận lớn của thiên truyện, trong câu truyện kể về những hiện tượng quan trọng nào đó của

đời sống cũng như trong sự miêu tả các nhân vật, các tình tiết riêng lẻ .

Có thể nói tác phẩm có bao nhiêu yếu tố là có bấy nhiêu chỗ để nhà văn gửi gắm tâm sự của

mình, từ những từ ngữ đơn giản đến toàn bộ cấu trúc phức tạp và đa dạng. Chính sự đa dạng và

phức tạp đó tạo nên sự đa dạng và phức tạp của nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Ðiều

này cũng có nghĩa là giá trị của tác phẩm nằm trong chính những yếu tố nội tại của bản thân tác

phẩm, trong tính chất và chiều sâu của những khái quát nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm.

Nhưng những giá trị đó không đứng yên mà luôn vận động tùy thuộc vào sự vận động của đời sống,

lí tưởng thẩm mĩ của từng thời đại và năng khiếu cũng như kinh nghiệm của người cảm thụ.

Khrapchenkô đã nói về một tiêu chuẩn khách quan  để xác định giá trị của tác phẩm văn học Tiêu

chuẩn đó là sự tương quan giữa những đặc tính nội tại của nó, những khái quát của nó, với sự vận

động của đời sống, với xu thế phát triển của đời sống, sự tương quan với thực tại, với kinh nghiệm

tinh thần chẳng những của thời gian nghệ sĩ sáng tác ra tác phẩm mà còn của cả những thời đại về

sau".

Trong cảm thụ và phê bình văn học, có một thực tế không thể chối cãi được là có thể có

những cách lí giải và đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về tác phẩm nhưng không phải

chỉ có một cách lí giải và đánh giá được coi là đúng đắn còn những cách lí giải khác đều sai. Ðôi

khi nếu xem xét vấn đề này trên một bình diện lịch sử rộng lớn thì số lượng khá đáng kể những

cách lí giải không giống nhau nhiều khi hóa ra lại là tương đối đúng. Và đây cũng chính là sự khác

biệt quan trọng trong việc xác định những giá trị giữa văn học nghệ thuật với các ngành khoa học

chính xác khác. Dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa là mọi sự đánh giá tác phẩm đều đúng đắn và

gần với chân lí nghệ thuật. Khẳng định vai trò của người đọc, khẳng định nhu cầu tinh thần và thẩm

mĩ của thời đại  trong việc đánh giá, thưởng thức tác phẩm là cần thiết và là một thực tế nhưng cần

nhớ mọi sự thẩm định đều không thể tách rời với những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm. Thiếu một thái

độ chân thành, đồng cảm và khách quan, người đọc khó có thể tiếp cận và đánh giá đúng đắn những

giá trị đích thực của tác phẩm văn học.

121

Page 122: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chương 3. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC.

I. NHÂN VẬT VĂN CHƯƠNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM 1. Khái niệm chung 2. Chức năng của nhân vật văn học

II. PHÂN LOẠI NHÂN VẬT 1. Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vât 2. Xét từ góc độ kết cấu 3. Xét từ góc độ thể loại 4. Xét từ góc độ chất lượng

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT 1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình 2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm 3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật 4. Miêu tả nhân vât qua hành động

Chương 3. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC.

Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác"

I. NHÂN VẬT TRONG VĂN HỌC VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM1.Khái niệm chung. TOP

Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.

Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.

Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài  của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà  là  một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học.

122

Page 123: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:

"Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước toc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" Hay việc giới thiệu Hoạn Thư: "Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"

gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.

Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Ơí đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.  2. Chức năng của nhân vật văn học. TOP

Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong  xã hội thực dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người...

Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ  trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". II. PHÂN LOẠI NHÂN VẬT

Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được xây dựng thành công từ xưa đến  nay bao giờ cũng là

123

Page 124: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau. 1. Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật. TOP

Có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).

Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ơí đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn. Ơí đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện.

Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án.

Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân vật thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại.

Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu...Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài Gòn...là những nhân vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin cho rằng: cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ, với nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm chất chính diện hoặc phản diện. 2 Xét từ góc độ kết cấu. (Tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm).

TOP

Xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm, có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ơí đây, nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ.

Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn

124

Page 125: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của Cervantes, Anna Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của Nguyễn Du...

Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh. 3. Xét từ góc độ thể loại. TOP

 Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. (sẽ nói rõ trong phần các loại thể) 4. Xét từ góc độ chất lượng miêu tả. TOP

Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính cách, điển hình. Nhân vật là những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ơí đây, nhà văn có

thể chỉ mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm nét.

Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật.

Ðiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau. Ngoài những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. chẳng hạn, khái niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật-con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây.. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT

Ðể xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.

Có nhiều biện pháp khác nhau trong việc xây dựng nhân vật. Ơí đây chỉ xét một số biện pháp chung, chủ yếu nhất: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động. 1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình. TOP

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.

Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật.

Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo.

125

Page 126: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời đại...Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật . 2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm. TOP

Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong cuộc đời. Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội tâm ngày càng có vai trò quan trọng. Trong văn học Việt Nam, so với các giai đoạn trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Tác phẩm chứng tỏ Nguyễn Du có khả năng nắm bắt một cách tài tình những ý nghĩ, tình cảm sâu kín của nhân vật và diễn tả nó một cách sinh động.

Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính của nghệ thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật. 3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật. TOP

Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hóa, tư tưởng, tâm lí, thị hiếu...Ðằng sau mỗi câu câu nói của mỗi con người đều có lịch sử riêng của nó. Sêđrin cho rằng: "Từ cửa miệng một người nói ra không hề có lấy một câu nào mà lại không thể truy nguyên đến cái hoàn cảnh đã khiến cho nó xuất hiện...Trong cuộc sống, không thể có những hành động, những câu nói mà đàng sau lại không có một lịch sử riêng". Quả là trong cuộc sống không thể có những người nói hoàn toàn giống nhau, vì vậy nhà văn cần phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện trong tác phẩm.

Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Trong đoạn báo ân, báo oán của Truyện Kiều, mặc dù đang hồn lạc phách xiêu, Hoạn Thư vẫn biết lựa điều kêu ca:

Rằng: Tôi chút dạ đàn bà Ghen tương thì cũng người ta thường tình Nghĩ cho khi các viết kinh Ðến khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo

Lòng riêng, riêng những kính yêu Chồng chung, ai dê,ù ai chiều cho ai Trót đà gây việc chông gai Cũng nhờ lượng bể tha bài nào chăng? Những lời nói trên hoàn toàn phù hợp với con người khôn ngoan, thông minh, lanh lợi, của

Hoạn Thư. Trong các trào lưu văn học hiện thực, việc cá thể hóa nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật được

nhà văn đặc biệt quan tâm và được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại nhiều lần một số từ hoặc một số câu mà nhân vật thích (Biết rồi, khổ lắm, nói mãi của cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), có thể để nhân vật sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài, cách

126

Page 127: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

phát âm sai...nhưng dù sử dụng cách nào, ngôn ngữ của nhân vật cũng phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự thống nhất giữa cá thể hóa và khái quát hóa, đồng thời cũng phải phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nhân vật. 4. Miêu tả nhân vật qua hành động. TOP

    Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt truyện...Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản chất của nhân vật.

Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường kết hợp với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến trong việc miêu tả nhân vật. Trên đây là những biện pháp chung nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài những biện pháp trên, nhà văn còn có thể khắc họa nhân vật thông qua việc đánh giá của các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Ở những tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện là một yếu tố rất quan trọng trong việc bộc lộ, miêu tả và đánh giá nhân vật.

Việc phân biệt các biện pháp xây dựng nhân vật như trên chỉ có tính chất tương đối. Trong thực tế, các biện pháp này nhiều khi không tách rời mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nhiều khi rất khó chỉ ra các biện pháp xây dựng nhân vật dưới một hình thức thuần túy và độc lập. Một điều cũng cần lưu ý là, nắm bắt các biện pháp trên đây cũng chỉ là nhằm mục đích hiểu một cách đầy đủ và chính xác về nhân vật trong tác phẩm văn học. 

Chương 4.

CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.

I. CỐT TRUYỆN 1. Cốt truyện và cơ sở của cốt truyện 2. Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua các giai đoạn lịch sử văn học 3. Các thành phần chính của cốt truyện

II. KẾT CẤU 1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học 2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học

Chương 4.

CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.

127

Page 128: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà chỉ tồn tại trong

những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ...), kí và các tác

phẩm kịch. Trong một số tác phẩm thuộc loại kí, không có yêu cầu xây dựng cốt truyện một cách

chặt chẽ. Loại tác phẩm trữ tình không có yếu tố cốt truyện vì tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện

trực tiếp tâm trạng, tình cảm, ý nghĩ cảm xúc...của tác giả, nó không đòi hỏi nhà văn phải xây dựng

những sự kiện, biến cố, hành động thành một hệ thống liên tục làm cơ sở cho sự triển khai các tính

cách.

I. CỐT TRUYỆN

1. Cốt truyện và cơ sở của cốt trụyên TOP

1.1.1. Khái niệm chung.

Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và

tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định

nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Cần phân biệt 2 khái niệm: cốt truyện và sườn truyện.

Thuật ngữ sườn truyện dùng để chỉ những nét bao quát nhất của một câu chuyện, bao gồm

những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu cắm mốc cho sự phát triển của cốt truyện. Nó có thể

được vay mượn từ nước này sang nước khác, từ nhà văn này sang nhà văn khác trong quá trình giao

lưu văn hóa. Dĩ nhiên sự mô phỏng sườn truyện không có nghĩa là sao chép của người khác mà vẫn

có một khoảng rộng rãi cho sáng tạo của người nghệ sĩ. Việc Nguyễn Du vay mượn sườn truyện

"Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân là một ví dụ cụ thể. Sự  sáng tạo ấy được thể hiện

trên nhiều phương diện, từ thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, đến việc xây dựng nhân vật và chủ đề tư

tưởng của tác phẩm. Cũng có thể nói như vậy giữa Iphighêni của Euripidơ và Iphighêni của Racine,

giữa Le Cid của De Catro và Le Cid của Corneille.

-Nếu sườn truyện chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự kiện cụ thể để diễn

đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa, hình tượng hóa một cách cụ thể,

sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn

bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho tác phẩm văn học trở thành một chỉnh  thể nghệ thuật.

Có thể kể lại sườn truyện một cách dễ dàng nhưng khó có thể kể lại đầy đủ cốt truyện của

một tác phẩm, nhất là một tác phẩm lớn. Khi có người đề nghị kể lại cốt truyện của một tác phẩm, L

Tônxtôi cho rằng cứ đọc toàn bộ tác phẩm sẽ khắc biết cốt truyện là gì.

128

Page 129: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.1.2. Cơ sở chung của cốt truyện.

- Cơ sở khách quan. Ðó là xung đột xã hội. Trong quá trình xây dựng tác phẩm, nhà văn bao giờ

cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội của thời đại vào tác phẩm của mình. Vì

vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được qui định bởi những điều kiện lịch sử, xã hội mà nhà

văn đang sống. Chính những điều kiện lịch sử, xã hội khác nhau đã tạo nên sự khác nhau giữa các

cốt truyện trong thần thoại và cổ tích, giữa những truyện thơ Nôm và văn học hiện đại...Dostoiepxki

nhấn mạnh vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt truyện :

"Anh hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. anh hãy lấy những cái do bản thân

cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra được những điều mà đôi khi cuộc sống

bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn trọng cuộc sống."

Không nên tuyệt đối hóa ý kiến của Dostoiepxki nhưng rõ ràng trong đời sống văn học, nhất

là trong văn học của các trào lưu hiện thực, nhiều cốt truyện đã được xây dựng từ chính những câu

chuyện ngoài cuộc đời. Cốt truyện của những tác phẩm Bà Bovary của Flobert, Ðỏ và đen của

Standhal. Nhiều cốt truyện của Tsêkhôp, L. Tônxtôi, Dostoiepxki ...thường dựa vào những câu

chuyện có thật ngoài cuộc đời và trên báo chí...Ở Việt Nam, ta có thể kể đến cốt truyện của các tác

phẩm Ðào kép mới của Nguyễn Công Hoan, Chí phèo của Nam Cao, Ðất nước đứng lên của

Nguyên Ngọc, Hòn Ðất của Anh Ðức, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi...

- Cơ sở chủ quan.

Xung đột xã hội mới chỉ là cơ sở khách quan của cốt truyện vì vậy không thể đồng nhất xung đột xã

hội với cốt truyện. Khi nói đến cốt truyện, cần chú ý rằng, đó luôn luôn là sản phẩm sáng tạo của

người nghệ sĩ. Thông qua cốt truyện, nhà văn vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện

tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của họ đối với cuộc sống. Vì vậy, không thể bê nguyên

xi những chuyện có thật ngoài cuộc đời vào tác phẩm. Những xung đột xã hội phải được đồng hóa

một cách có nghệ thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu để xây dựng cốt truyện theo

hướng điển hình hóa. Vì vậy, cùng xuất phát từ một xung đột xã hội giống nhau, những nhà văn

khác nhau lại xây dựng những cốt truyện khác nhau nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư

tưởng, phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống. Những xung đột xã

hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại được thể hiện qua nhiều cốt truyện khác nhau trong các tác

phẩm của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng ...là những thí dụ

cụ thể.

129

Page 130: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Quá trình xây dựng cốt truyện là một quá trình lao động phức tạp và gian khổ. Timôfiép có

nhận xét về quá trình xây dựng cốt truyện của L. Tônxtôi như sau:

"Tất cả các cốt truyện của Tônxtôi đều được thai nghén nhiều năm và mỗi cốt truyện đều có

một lai lịch phức tạp và một số phận riêng của nó. Tônxtôi lo lắng về các cốt truyện, giận dỗi đối

với chúng như người sống vậy, đôi khi ông chán, mệt mỗi vì chúng, vì sự vật lộn với tài liệu và ngôn

từ để không ngừng hoàn thiện từng cốt truyện, từng tác phẩm. Trong đầu óc thiên tài của ông,

trong các phòng thí nghiệm tuyệt diệu ấy, bao giờ cũng có nhiều cốt truyện luôn luôn sống và vật

chọi với nhau, làm cho ông phải lần lượt chú ý tới chúng lúc nhiều hơn, lúc ít hơn".

2. Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua các giai đoạn lịch sử văn học.

TOP

Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật được thể hiện khác nhau  trong quá trình phát

triển của lịch sử văn học. Nhìn chung, có thể chia làm 2 thời kì lớn. Trong văn học phương Tây,

thời kì đầu bao gồm văn học Hy La đến văn học Trung đại. Thời kì 2 đánh dấu bằng văn học thời

phục hưng nhưng được thể hiện rõ nét nhất là từ thế kỉ 18 trở về sau. Trong văn học Việt Nam,

Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là tác phẩm của thời kì đầu nhưng đồng thời cũng có những

yếu tố đánh dấu cho sự mở đường của thời kì sau. Thời kì này chỉ thực sự mở đầu từ thế kỉ 20.

1.2.1. Trong thời kì thứ nhất. Cốt truyện được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng, là nơi

xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng tác là sáng tác cốt truyện và người

thưởng thức chủ yếu là thưởng thức cốt truyện. Nhà văn chưa thể sáng tác được nếu chưa có được

một cốt truyện hấp dẫn. Ơí đây, cốt truyện qui định và chi phối tính cách. Nhà văn chưa xây dựng

được tính cách có sự phát triển hợp với logic đời sống mà chỉ dùng nó để triển khai cho hệ thống

biến cố của tác phẩm.

  1.2.2. Trong thời kì thứ hai. Vai trò của cốt truyện và tính cách hoàn toàn thay đổi. Cốt

truyện không còn giữ vai trò chủ yếu mà thay vào đó là tính cách. Chính tính cách quyết định cho

sự diễn biến của cốt truyện. trong Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Tô Hoài viết:

"Một sáng tác mà ta có thể thêm vào hay bớt ra bao nhiêu cũng được là một sáng tác hỏng.

Vì không thể nào kiểm tra chặt chẽ được khi vị trí của nhân vật đã phải rút xuống hàng dưới cốt

truyện. chỉ có nhân vật mới kiểm tra được cốt truyện, nhân vật mới có quyền phân phối ý chính, ý

phụ.".

Phêđin cũng có phát biểu tương tự:

130

Page 131: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

"Trong việc xây dựng cốt truyện, nên xuất phát từ tính cách. Các nhân vật tạo ra cốt truyện

chứ không phục tùng cốt truyện".

Trong quá trình xây dựng tác phẩm, những nhà văn trong thời kì này thường đặt tính cách

vào hoàn cảnh nên tính cách phong phú, đa dạng và luôn phát triển theo sự phát triển của hoàn

cảnh. Nhà văn không ép nhân vật vào cốt truyện định trước của mình. Tônxtôi kể lại rằng khi viết

chương miêu tả tâm trạng của Vrônxki sau cuộc gặp gỡ giữa anh với Anna và chồng nàng, ông

bỗng nảy ra ý định là Vrônxki phải tự sát. Và sau đó khi viết tiếp, tác giả thấy điều dó là tất yếu,

không thể khác đi được. Rõ ràng những thay đổi về số phận của nhân vật sẽ ảnh hưởng không nhỏ

đến cốt truyện của tác phẩm.

Như vậy, trong văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện để

bộc lộ tính cách, cốt truyện được sử dụng để triển khai các tính cách

chứ không phải cốt truyện quyết định và chi phối tính cách như

trước kia. Nói như thế không có nghĩa là xem thường vai trò của cốt

truyện vì tính cách chỉ có thể được biểu hiện và phát triển thông

qua cốt truyện. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn

luôn cố gắng xây dựng những cốt truyện chân thực và hấp dẫn

đồng thời thể hiện được chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật.

3. Các thành phần chính của cốt truyện. TOP

Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát triển của

một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát

triển và kết thúc. Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:

1.3.1. Phần trình bày.

Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện, nguyên nhân làm náy sinh

xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Hoàn cảnh ở đây thường nằm trong trạng thái tĩnh,

mâu thuẫn chưa vận động và phát triển, nhân vật chưa đứng trước những thử thách nên chưa phát

hu tính năng động của mình. Trong Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị

em Thúy Kiều và gia cảnh của họ. Cảnh Lí trưởng sai Trương tuần đóng cổng làng để thu thuế,

cảnh thu thuế ở đình làng, cảnh nghèo đói túng thiếu của gia đình chị Dậu là phần giới thiệu của Tắt

đèn.

131

Page 132: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.3.2. Phần thắt nút.

Phần này đánh dấu sự kiện mà từ đó phát sinh mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính là biến cố

đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo thành xung đột của cốt truyện. phần thắt nút có nhiệm  vụ bộc

lộ trực tiếp những mâu thuẫn đựơc tích tụ một cách âm ỉ từ trước, các nhân vật sẽ đứng trước những

thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó bộc

lộ rõ tính cách. Cảnh gia biến và việc Kiều phải bán mình chuộc cha là phần thắt nút của Truyện

Kiều. Thắt nút của Tắt đèn là cảnh tuần đinh, lính lệ đến đánh đập anh Dậu để đòi sưu thuế (chương

IV)

1.3.3. Phần phát triển.

Ðây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến

cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này. Nó có thể được thay đổi

thông qua các bước ngoặt, môi trường khác nhau. phần phát triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15

năm lưu lạc, từ "chữ trinh đáng gíá nghìn vàng" đến "tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa", là những

chuỗi dài bi kịch "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần", là sự tiếp xúc với đủ các hạng người trong xã

hội, là nỗi đau khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều. Trong Tắt đèn, phần phát triển bao gồm

những sự kiện: đàn con bị đói, chồng bị bắt, chị Dậu một mình tất tả ngược xuôi cho đến lúc người

nhà lí trưởng ném cái xác lạnh ngắt, mê man bất tỉnh của anh Dậu vào nhà. (từ chương V - XVII)

1.3.4. Ðiểm đỉnh.

Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột. Lúc này, xung đột đã phát

triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết theo một chiều hướng nhất định. Ðiểm

đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân

vật trung tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải chết,

Kiều phải đánh đàn cho Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng nhảy xuống sông Tiền

Ðường tự vẫn. Ðiểm đỉnh của Tắt đèn là lúc chị Dậu bị dồn vào đường cùng đã xô tên Cai Lệ và

túm tên ngườn nhà của Lí trưởng "lẳng một cái, ngã nhào ra thềm" (chương XVIII)

1.3.5. Phần kết thúc.(Mở nút)

Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm một cách cụ thể. Ởí đây, tác giả trình bày

những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. một cốt truyện tốt, bao giờ phần kết thúc cũng

được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ

thường có phần kết thúc phù hợp với ước muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của Truyện

132

Page 133: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Kiều là Kiều được cứu sống, là đoạn đoàn viên của Kiều với Kim Trọng và gia đình sau 15 năm

luân lạc. Trong Tắt đèn, chị Dậu từ lúc bị bắt lên hầu quan phủ, sau đó phải xa chồng, xa con để đi

làm vú hầu cụ cố nhà quan Tỉnh, đến lúc chị choàng dậy mở cửa chạy té ra sân "Trời tối đen như

mực, như cái tiền đồ của chị" là phần kết thúc của tác phẩm. (chương XIX- XXVI)

Những thành phần chính trên đây tạo thành một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế

văn học, không phải lúc nào cốt truyện cũng đầy đủ cả 5 thành phần đồng thời cũng không phải

được trình bày theo thứ tự như trên. Ơí một số cốt truyện, có thể thiếu mất một vài thành phần, ở

một số cốt truyện khác, có thể không có phần mở đầu hoặc nhiều khi lại bắt đầu bằng phần kết thúc

hoặc một biến cố gần với điểm đỉnh. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành phần của cốt

truyện, không nên gò ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần này hay thành phần khác với

những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và phân tích sự xây dựng cốt truyện có thể hiện

được những xung đột xã hội, sự phát triển của nó có phù hợp với qui luật cuộc sống và có thể hiện

được ý đồ nghệ thuật của tác giả hay không.

II. KẾT CẤU

1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học. TOP

2.1.1. Khái niệm.

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể nghệ thuật,

bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức

theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định..gọi là kết cấu.

Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học.

Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự liên kết những sự

kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu là một khái niệm rộng hơn nhiều.

Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các chương, các

đoạn, các khổ thơ...Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác phẩm. Nói cách khác bố cục

mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh

việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những

mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu

tố của bố cục.

2.1.2. Chức năng của kết cấu.

133

Page 134: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trước hết, kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Trong

lao động sáng tạo văn học, có thể coi chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong

quá trình phát hiện và xây dựng kết cấu. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá kết cấu một tác phẩm

chính là hiệu quả diễn đạt nội dung của nó. Khi Radinxki cho rằng kết cấu của tiểu thuyết Anna

Karênina lỏng lẻo, đó là hai cuốn tiểu thuyết với hai tuyến nhân vật (Anna- Vrônxki và Lêvin-Kitti)

đứng cạnh nhau, thì L. Tônxtôi đã viết thư trả lời ông: "Ngược lại, tôi tự hào với cách kết cấu: các

vòm đã được xây dựng thế nào mà không thể nhận ra được bộ đỡ ở đâu. Chính điều này làm cho tôi

phải cố gắng nhiều nhất. Mối liên hệ của công trình xây dựng không dựa và sườn truyện và những

mối quan hệ của các nhân vật, mà dựa vào mối liên hệ bên trong". Phan Cự Ðệ khẳng định mối liên

hệ bên trong "chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Những tìm kiếm của Levin là một lời giải đáp

cho những câu hỏi mà số phận của Anna đặt ra. Anna phải li dị với chồng và sau đó phải tự vẫn vì

không tìm thấy trong xã hội một tình yêu chân chính còn Lêvin thì đi tìm một con đường xác lập một

thực tế có tình yêu. Anna thấy gia đình là một cái gì xa lạ đối với con người thì Lêvin cố gắng đi tìm

một gia đình thực sự trong đó có tình thương yêu giữa con người với con người"

Trong tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã dành 2/3 tác phẩm để diễn tả hàng loạt sự việc diễn

ra trong 1 ngày. Tác giả đã cố gắng dồn nén tất cả những mâu thuẫn vào trong một thời gian thật

ngắn nhằm có điều kiện thể hiện một cách tập trung nhất bản chất của bọn địa chủ, quan lại và nỗi

điêu đứng, cơ cực, đau xót của người nông dân đối với sưu cao, thuế nặng.

Trong bài thơ Mặt quê hương, Tế Hanh đã sắp xếp để tạo nên sự hòa nhập và phản ánh, so

sánh lẫn nhau giữa khuôn mặt người yêu và hình ảnh quê hương nhằm thể hiện một chủ đề tư

tưởng: Tình yêu dành cho quê hương là một tình yêu đằm thắm, bền vững như một cái gì gắn bó,

thân thiết nhất:

Mặt em như tấm gương,

Anh nhìn thất quê hương

Kìa đôi mắt đôi mắt

Dòng sông yêu trong vắt

Kìa vừng trán thanh thanh

Khoảng trời xưa trong lành...

134

Page 135: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật, sự kiện, các biến cố, hình ảnh,

cảm xúc...làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại ngay từ bên trong tác phẩm,

làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn không thể chia cắt được.

Trong đời sống văn học, đôi khi có người cho rằng một số tác phẩm có chủ đề tư tưởng tốt

nhưng tác phẩm vẫn chưa được cảm nhận như một chỉnh thể nghệ thuật. Ðiều này có thể do nhiều

nguyên nhân nhưng một phần quan trọng là do kết cấu. Việc nhà văn sắp xếp các tình huống, sự

kiện, mối liên hệ qua lại giữa các tính cách, sự tác động giữa bộ phận và toàn thể...không phải đơn

giản. Gônsarôp cho rằng "Chỉ riêng một cách cấu tạo, tức là việc xây dựng tòa nhà cũng đã ngốn

hết toàn bộ trí óc của tác giả: Phải suy nghĩ cân nhắc về sự tham gia của các nhân vật, kèm theo

vào đó là phải luôn luôn kiểm tra và phê phán sự bất hợp lí của những chỗ thiếu, cả những chỗ

thừa".

Có thể nhìn thấy sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong tác phẩm văn học qua "Suất sưu

người chết" trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Những chi tiết của đoạn văn trên có ý nghia tự thân

nhưng đồng thời nếu thay đổi vị trí của nó, để nó xuất hiện ngay từ đầu truyện và chị Dậu cùng một

lúc chạy vạy cho đủ tiền để nộp suất sưu thì ý nghĩa tố cáo của nó sẽ không cao. Sự sắp xếp đúng

chỗ đã tạo nên sức mạnh gấp nhiều lần ý nghĩa riêng của nó. Kim Thánh Thán cũng có nhận xét rất

tinh về sự sắp xếp hệ thống nhân vật trong Thủy hử : "Một bộ sách lớn 70 hồi, viết 108 người

nhưng mở đầu chưa viết 108 người vội mà miêu tả Cao Cầu trước đã: đó là vì nếu không tả Cao

Cầu trước mà viết ngay 108 người thì tức là loạn nẩy sinh từ dưới, nếu không viết 108 người trước

mà viết Cao Cầu trước thì tức là loạn nổi từ trên. Loạn sinh từ dưới thì không thể để lâu được, tác

giả rất lo là vậy. Một bộ sách lớn 70 hồi mà mở đầu viết Cao Cầu trước, thật là có lí vậy."

Như vậy, kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh

nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người

đọc. Phân tích kết cấu tác phẩm, người đọc có thể so sánh nó với

các hình thức, thủ pháp kết cấu chung nhưng điều quan trọng là

phải xuất phát từ bản thân tác phẩm và xem nó có thể hiện tốt nhất

chủ đề tư tưởng của tác phẩm hay không.

2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học. TOP

Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng. Nó có thể chịu

sự qui định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự và kịch với kết cấu tác phẩm trữ tình) của từng giai

135

Page 136: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

đoạn lịch sử khác nhau (có những hình thức kết cấu chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng

sau đó lại bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay vào đó là một kết cấu mới phù hợp với giai đoạn lịch sử

mới)... Vì vậy, khó có thể xác định những hình thức kết cấu nếu thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên,

ở đây có thể tìm hiểu một số hình thức kết cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên

nhiều tác phẩm có giá trị.

2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian.

Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từ trước 1930. Theo kết cấu này,

câu chuyện được trình bày theo thứ tự, phát triển trước sau của thời gian. Các sự kiện được sắp xếp,

xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Hầu hết những tác phẩm chương hồi sử

dụng lối kết cấu này. Ơí đây, tác phẩm được chia thành nhiều chương, hồi théo sự phân bố về mặt

hành động và sự kiện của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền với một giai đoạn nào

đó của cốt truyện và nhiêu khi khá trọn ven, loại kết cấu này gíup người đọc dễ theo dõi câu chuyện

nhưng nhiều khi lại đơn điệu.

2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Nhà văn xây dựng 2 tuyến nhân vật

chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động...Một bên đại diện

cho lực lượng chính nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh

không khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa. Hầu hết

những truyện thơ Nôm ở Việt Nam sử dụng kết cấu này.

Kết cấu này có tác dụng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối chiếu giữa 2

tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên sự phân biệt khá rạch ròi giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí

tưởng hóa hiện thực. Trong thực tế cuộc sống, các lực lượng xã hội có tác động qua lại, chuyển hóa

cho nhau chứ không tồn tại một cách ổn định và tĩnh tại.

Hình thức kết cấu theo 2 tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải là sự đối lập mà

là 2 tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho nhau. Ở đây mỗi tuyến tập họp những

kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh sống, về tính cách, đạo đức...Có thể coi Anna Karênina

của L. Tônxtôi được xây dựng theo hình thức kết cấu này.

2.3. Kết cấu đa tuyến.

Trong những bộ tiểu thuyết lớn, để khái quát về một bức tranh xã hội rộng lớn gồm nhiều

hạng người, nhiều mối quan hệ đan xen nhau, khai thác nhiều mặt khác nhau của đời sống, các nhà

136

Page 137: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

văn thường sử dụng hình thức kết cấu theo tuyến nhân vật. Trong những tác phẩm này, nhà văn tổ

chức các nhân vật theo các tuyến dựa trên những mối quan hệ về gia đình, nghề nghiệp, giai cấp...

Trong Chiến tranh và hòa bình, L. Tônxtôi đã xây dựng hai tuyến lớn và ở mỗi tuyến lớn lại có

nhiều tuyến nhỏ tập họp các nhân vật theo từng dòng họ, từng gia đình.

Hình thưc kết cấu này thường được sử dụng trong văn học hiện đại, nhất là trong các tiểu

thuyết lớn. Erenbourg có nhận xét về kết cấu của một số tiểu thuyết trong thế kỉ XX:

"Tiểu thuyết của thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu thuyết thế kỉ XIX vốn xây dựng trên

lịch sử một con người hay một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại có nhiều nhân vật hơn, số phận

của họ đan chéo vào nhau, nhà văn thường hay đưa người đọc từ thành phố này sang thành phố

khác, đôi khi di sang một nước khác nữa, cách kết cấu khiến ta nghĩ tới sự luân phiên của những

đoạn cận cảnh với những cảnh quần chúng trên màn ảnh". Có thể coi những bộ tiểu thuyết Sông

Ðông êm đềm của Sôlôkhôp hay Vỡ bờ của Nguyễn Ðình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng ...sử

dụng lối kết cấu này.

2.4. Kết cấu tâm lí.

Ðây là hình thức kết cấu dựa theo qui luật phát triển tâm lí của các nhân vật trong tác phẩm.

Loại kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các trào lưu văn học khẳng định vai trò của cá

nhân trong xã hội. Kết cấu này thường dựa vào trạng thái tâm lí có ý nghĩa nào đó để sắp xếp các sự

kiện, nhân vật, cốt truyện...Trong Sống mòn, Nam Cao đã sắp xếp nhiều mẫu chuyện vặt vãnh, quẩn

quanh trong sinh hoạt hằng ngày với những trạng thái tâm lí bi quan, bất lực, tự ti, khinh bạc...của

các nhân vật. Kết cấu đó góp phần thể hiện cuộc sống chật hep, tù túng, bế tắc của người tiểu tư sản

nghèo trong xã hội cũ.

2.5. Kết cấu trong tác phẩm trữ tình.

Những hình thức kết cấu trên tiêu biểu cho loại tác phẩm có cốt truyện: tác phẩm tự sự và

kịch. Loại tác phẩm trữ tình, tiêu biểu nhất là thơ trữ tình không có cốt truyện nên cần xem xét cho

phù hợp với đặc trưng thể loại: tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, cảm xúc, ý

nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Vì vậy, xây dựng kết cấu trong tác phẩm trữ tình là sự tổ chức hệ

thống cảm xúc, tâm trạng trong quá trình vận động và phát triển của chúng. Một kết cấu tốt trong

tác phẩm trữ tình phải liên kết được các mạch thơ, dòng thơ, các biện pháp biểu hiện nhằm thể hiện

tốt nhất sự vận động cảm xúc nội tâm của nhân vật.

137

Page 138: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Có thể nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà văn khi xây dựng tác phẩm, lựa

chọn kết cấu nào bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của chủ đề tư tưởng, tăng cường sức

tác động thẩm mĩ của tác phẩm đối với người đọc. Các hình thức kết cấu dù phong phú và đa dạng

cũng chỉ là hữu hạn trong khi thực tế sáng tác thì vô hạn. Tong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận

dụng nhiều hình thức kết cấu khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, không thể qui những tác

phẩm cụ thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần phải xem xét tác động nghệ thuật của kết

cấu đối với người đọc cũng như chức năng cụ thể của nó trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác

phẩm.

Chương 5.

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

I. NGÔN NGỮ VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

1. Phân biệt ngôn ngữ và lời văn (lời nói) TOP

Trong "Giáo trình ngôn ngữ học đại cương", F. De Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi kí hiệu bao gồm hai phương diện gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được.

Lời nói là sản phẩm của cá nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật này chính là đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học.

2. Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. TOP    Ðặc điểm chung của văn học nghệ thuật là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng trong

mỗi bộ môn và loại hình nghệ thuật khác nhau, các hình tượng có những đặc điểm cụ thể riêng. Những đặc điểm cụ thể đó của hình tượng được qui định bởi chất liệu và phương tiện riêng. Trong nghệ thuật tạo hình, hội họa sử dụng đường nét, màu sắc; điêu khắc dùng hình khối nhằm trực tiếp miêu tả các hiện tượng của đời sống. Trong nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc sử dụng âm thanh, múa dùng điệu bộ, dáng vẻ đã được cách điệu hóa...Trong loại hình nghệ thuật tổng hợp, người ta sử dụng nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau nhằm phục vụ cho việc diễn xuất.

138

Page 139: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Văn học, một loại hình nghệ thuật độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ làm phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là phương tiện diễn đạt riêng của văn học. Nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng sử dụng ngôn ngữ. Vậy, ngôn ngữ văn học có gì khác so với các lĩnh vực khác?

3. Ðặc trưng của lời văn nghệ thuật. TOP

1.3.1. Tính chính xác, trong sáng có thể được coi là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Chỉ với những lời văn chính xác, trong sáng, nhà văn mới có thể biểu hiện một cách đúng đắn và đầy đủ những sắc thái, cảm xúc, những điều mà nhà văn muốn diễn đạt. Ngôn ngữ nói chung có thể diễn đạt được mọi thứ nhưng để đạt được điều đó, nhà văn phải vật lộn, học hỏi, tích lũy... Nói như một nhà văn: "Trên đời không có sự giày vò nào ghê gớm hơn sự giày vò của ngôn ngữ" hoặc như Maiacôpxki từng viết:

Làm thơ

Chẳng khác gì khai thác

Chất hiếm radium

Lấy một gam

Mất hàng năm lao lực

Chỉ mỗi một từ

Có khi mất đứt

Hàng trăm nghìn

Tấn quặng xỉn ngôn từ.

(Nói chuyện với người thanh tra tài chánh)

Tính chính xác của lời văn nghệ thuật cần được hiểu không phải theo nghĩa cơ giới, toán học mà là sự diễn đạt hoàn hảo nhất một tâm trạng, một sự vật, một ý nghĩ, một hiện tượng bằng một từ duy nhất đúng. Guy de Maupassant cho rằng "Ðối tượng mà anh (nhà văn) muốn nói đến, dù là cái gì đi nữa, cũng chỉ có một từ biểu hiện nó". Người ta thường nhắc đến việc chọn lựa từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật qua câu chuyện "thôi, xao". Một hôm, Giả Ðảo (779-843), một nhà sư hoàn tục cưỡi ngựa về Tràng An. Ông đương bận nghĩ đến 2 câu thơ vừa mới sáng tác:

Ðiểu túc trì biên tụ

Tăng thôi nguyệt hạ môn"

(Chim đậu ở cây bờ ao

Nhà sư đẩy cửa dưới trăng)

139

Page 140: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Giả Ðảo băn khoăn không biết nên dùng chữ thôi (đẩy cửa) hay xao (gõ cửa).  Ông buông cương, huơ tay bắt chước nhà sư lúc đẩy cửa, lúc gõ cửa. Ngựa đi vào đám quân của một vị quan đang đi kinh lí. Quân lính bắt Giả Ðảo trình quan. May thay, viên quan đó chính là Hàn Dũ. Sau khi nghe Giả Ðảo bày tỏ sự việc, Hàn Dũ suy nghĩ và góp ý nên dùng chữ "xao" (gõ). Có lẽ gõ gợi lên được hình tượng về âm thanh. Sau này, người ta thường dùng  chữ "thôi, xao" với ý nghĩa là cân nhắc từng chữ để sửa chữa bài văn, bài thơ cho thật tốt.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hàng loạt các từ khác nhau để chỉ người phụ nữ nhưng ở mỗi lời văn lại có những sắc thái khác nhau:

- Ðau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

-Hồng quân với khách hồng quần

Ðã xoay đến thế vần vần chưa tha.

- Rằng: hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

- Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

- Canh khuya bức gấm rủ thao

Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.

- Cớ sao chị tốt một bề

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao.

..............

Lời văn nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm khắc để có được những từ diễn đạt một cách đắc địa nhất tư tưởng, tình cảm của mình.

1.3.2. Tính hàm súc. Ðặc điểm này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, nghĩa là nói và viết sao cho "lời chật mà ý rộng", là sử dụng một số lượng chất liệu tối thiểu mà đạt được hiệu quả nghệ thuật tối đa. Mượn ý của Tô Ðông Pha, Lê Quí Ðôn viết: "Ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên hạ. Song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt".

1.3.3. Tính mơ hồ, đa nghĩa cũng là một đặc điểm của lời văn nghệ thuật dù đây cũng là đặc điểm dễ nhận thấy trong lời nói hằng ngày. Trong văn học, tính mơ hồ, đa nghĩa được nhân lên và trở thành một đặc điểm nổi bật bởi vì người nghệ sĩ thường hướng tới lời văn mơ hồ, đa nghĩa nhằm tạo nên những tầng lớp nghĩa khác nhau, nhằm "khêu gợi vô số những tư tưởng, những quan niệm, những cách giải thích". Ðiều này về bản chất có thể phân biệt khá rõ giữa lời văn nghệ thuật và lời văn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.

140

Page 141: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.3.4. Tính tạo hình và biểu cảm. Một đặc trưng có tầm quan trọng nhất nhằm phân biệt lời văn nghệ thuật với lời văn thuộc các lĩnh vực khác là tính tạo hình và biểu cảm. Tạo hình là tạo nên  một lời văn giàu hình ảnh, tái tạo đối tượng trong hình thái cụ thể, không lặp lại của nó. Chỉ bằng tính chất tạo hình, nhà văn mới làm sống lại một cách cụ thể , cảm tính những dáng vẻ riêng biệt . Bên cạnh đó, lời văn nghệ thuật còn biểu hiện những cảm nhận độc đáo của nhà văn với tư cách là nghệ sĩ và những nhà văn lớn bao giờ cũng có những độc đáo trong phong phong cách. Tsêkhôp quan niệm "nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả"

Hai phẩm chất tạo hình và biểu cảm được kết hợp một cách hữu cơ, xuyên thấm vào nhau và trong nhiều trương hợp, khó thể tách rời. Vì vậy cần nhìn chúng là một đặc điểm thống nhất của lời văn nghệ thuật: tạo hình để biểu cảm, biểu cảm để tạo hình, trong tạo hình có biểu cảm và ngược lại.

Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao.

II. CÁC PHƯƠNG TIỆN XÂY DỰNG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

Lời văn nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương tiện của ngôn ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các phương thức tu từ...đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc như từ cổ, tiếng địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc. Như vậy, những phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật cũng được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhưng điểm khác nhau ở đây là lời văn nghệ thuật có chức năng xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc thù. Có thể xét các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật trên các góc độ:

1. Xét từ góc độ ngữ âm. TOP

Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố này thường tạo được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanh bằng hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnh hưởng đến việc biểu hiện nội dung. Người xưa thường nói "Thi trung hữu nhạc". Lê Ðình Diên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hổ trợ của thơ, tình rung động phát ra thành thanh, người ta có thanh mà  sau đó có ý".

Chẳng hạn, giọng điệu của một nhân vật trong Sống mòn của Nam Cao: "Tiền giai đưa gái có đòi được cái đếch người ta". bốn phụ âm đ gần nhau, tạo ra một giọng điệu bất cần, có phần đểu cáng. Hoặc "Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ăc, hi hí, hô hố". Các câu thơ của Tản Ðà:

Tài cao phận thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương.

Có 5 thanh trắc cuối và hai phụ âm cuối tắt thanh hầu (p,t) tạo nên sự uất nghẹn. Bảy thanh bằng kết hợp với các âm cuối vang (n, ng), 3 âm tiết mở (ô, ê, ê) tạo nên sự rộng mở, thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.

141

Page 142: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.

2. Xét từ góc độ từ vựng. TOP

Là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ. Ðây là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại: từ đồng nghĩa , phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn giáo..Ðể tạo nên lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng lúc lúc, đúng chỗ. Chế Lan Viên có những câu thơ rất hay về vấn đề này:

Mỗi ngày gặp một người, họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.

Máu và mồ hôi người góp nên bao hình ảnh ngữ ngôn,

Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vải

Tất cả, một người, dù lạ hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.

Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang,

3. Xét từ góc độ ngữ nghĩa. TOP

Các phương tiện chuyển nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên những khả năng biểu hiện của lời văn. Ðó là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự tương ứng của hai hiện tượng, hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện tượng kia. Chức năng chung của các phương tiện chuyển nghĩa là làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau. Có thể nói đến các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:

2.3.1. So sánh.(Ví von) là hình thức được sử dụng quen thuộc nhất trong tác phẩm văn học. Nó đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.

-Ðôi ta làm bạn thong dong.

Như đôi đũa bạc nằm trong mâm vàng. (ca dao).

-Lòng em như quán bán hàng

Lòng anh như khách qua đàng dừng chân. (ca dao).

- Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Ðã chôn điếu xuống lại đào điếu lên (ca dao).

So sánh thường dùng các liên từ: như , giống như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giữa hai vế nhiều người vẫn không sử dụng  từ so sánh:

- Lòng anh, giếng ngọt trong veo.

142

Page 143: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trăng thu trong vắt, biển trời trong xanh (ca dao).

- Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

2.3.2. Ẩn dụ. (ví ngầm) là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so sánh:

- Thuyền về có nhớ bến chăng?

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền .

- Tiếc thay một đóa trà mi

Con ong đã tỏ đường đi lối về (Kiều)

- Em tưởng nước giếng sâu em nối sợi gàu dài

Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây. (ca dao).

2.3.3. Nhân hóa là hiện tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người.

-Vì sương nên núi bạc đầu

Biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa (ca dao)

Hoặc trò chuyện, bày tỏ với một đối tượng không phải người:

Núi cao chi lắm núi ơi,

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (ca dao)

2.3.4. Phúng dụ là một ẩn dụ được phát triển bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường mang tính chất ngụ ý. Ðây là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ cũng có 2 ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.

- Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

- Con kiến mày leo cành đa

143

Page 144: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Leo phải cành cụt leo ra leo vào

Con kiến mày leo cành đào

Leo phải cành cụt leo vào leo ra

Những bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, Con cáo và tổ ong, Bài ca sợi chỉ, Nhóm lửa... của Hồ Chủ Tịch đều được viết theo biện pháp phúng dụ. Loại này thường được sử dụng trong thơ, truyện ngụ ngôn.

2.3.5. Tượng trưng. Khi hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại trong tư duy của con người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng trưng. Chẳng hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, diều hâu tượng trưng cho chiến tranh; tùng, cúc, trúc, mai làm người ta liên tưởng đến phẩm giá của con người. Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phát. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo seo mặt nước buổi đò đông.

2.3.6. Khoa trương là lối dùng từ cố ý thay đổi kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật nhằm đạt đến mục đích làm rõ bản chất của đối tượng và tăng hiệu quả biểu hiện:

Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn.

Lững lưng trời nhạn ngẫn ngơ sa

Hương trời đắm nguyệt say hoa

Tây Thi khiếp vía Hằng Nga giật mình. (Cung oán ngâm khúc)

Trong truyện Lang Rận, Nam Cao miêu tả bộ mặt của Lang Rận qua cái nhìn của bà Cựu: "Cái mặt ấy cho dù mỗi ngày có rửa ba lượt xà phòng, bà Cựu trông thấy vãn còn buồn nôn"

2.3.7. Nhã ngữ. Ngược lại với khoa trương. Ðây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết:

- Bác đã lên đường theo tổ tiên (Tố Hữu)

- Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến)

2.3.8. Phản ngữ vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:

144

Page 145: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Ðức chúa trời của chúng mặt Sa Tăng. (Chế Lan Viên)

- Anh đã chết rồi, anh còn sống mãi (Tố Hữu)

2.3.9. Chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này mang nghĩa hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ sở.

- Bà già đi chợ cầu Ðông

Bói xem một qủ có chồng lợi chăng

Ông thầy xem quẻ đoán rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao)

-Dỡ dang dang dỡ vì sông

Ngày làm công nhật đêm trông dạ chàng (ca dao)

- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non (ca dao).

4. Xét từ góc độ cú pháp TOP

 Các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng gíúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn:

- Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san

- Bạc phơ mái tóc người cha. (Tố Hữu)

- Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị (Tế Hanh)

- Cỏ bên trời xanh một sắc Ðạm Tiên (Chế Lan Viên)

-Màu thời gian xanh xanh,

Màu thời gian tím ngắt

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh (Màu thời gian. Ðoàn Phú Tứ)

Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Ðiều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật.

IV. CÁC THÀNH PHẦN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

145

Page 146: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Có thể chia lời văn nghệ thuật ra thành lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực tiếp và lời gián tiếp.

1. Lời tác giả và lời nhân vật. TOP

 Lời tác giả thường chính là lời trần thuật hoặc miêu tả còn lời nhân vật là lời mà nhân vật trực tiếp nói lên trong tác phẩm.

Việc phân biệt như trên thực ra chỉ có tính chất ước lệ, tương đối bởi vì mọi lời văn trong tác phẩm thực chất đều là lời của tác giả. Mọi lời nói của nhân vật đều do tác giả hư cấu, sáng tạo nên. Tuy nhiên, sự phân biệt này vẫn có một ý nghĩa nhất định.

Ơí đây, có sự khác biệt giữa lời nhân vật trong văn học cổ và lời nhân vật trong văn học cận, hiện đại. Trong văn học cổ, lời nhân vật thường không được cá tính hóa rõ nét, thể hiện bản chất của nhân vật mà thường do sự gán ghép từ những suy nghĩ riêng của tác giả. Trong văn học cận, hiện đại, lời nhân vật được tác giả tôn trọng. Tác giả thường để cho nhân vật nói năng phù hợp với trình độ, suy nghĩ của chính họ. Nhân vật nói theo giọng điệu riêng của mình chứ không phải theo suy nghĩ chủ quan của tác giả.

2. Lời trực tiếp và lời gián tiếp. TOP

Lời trực tiếp chủ yếu là lời nhân vật và một bộ phận lời của tác giả thể hiện một cách trực tiếp trong tác phẩm. Lời trực tiếp trong tác phẩm chủ yếu là những câu đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác. Có thể kể đến một số lời trực tiếp.

Lời trực tiếp phù hợp là lời mà nhân vật nghĩ sao, nói vậy. Lời trực tiếp không phù hợp là lời nhân vật nghĩ một dằng, nói một nẽo, nghĩ ít, nói nhiều hoặc ngược lại. Chẳng hạn, đoạn Kiều suy nghĩ trước khi khuyên Từ Hải ra hàng và những lời của Kiều nói với Từ  Hải. Ơí đây, cần hiểu lời nói của nhân vật không phải bằng câu chữ mà cần phải thấy ẩn ý, ý định của tác giả và nhân vật.

Lời gián tiếp là toàn bộ lời văn của tác giả hay người trần thuật có chức năng trình bày sự vật, hiện tượng như ngoại hình, môi trường, phong cảnh, sự kiện...vốn không tự nói được, được nói lên trong tác phẩm.

Theo Bakhtin, lời gián tiếp có thể chia làm 2 loại: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp 2 giọng.

Lời gián tiếp một giọng là lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Lời gián tiếp hai giọng là lời tái hiện, bình phẩm các hiện tượng, hướng tới lời và ý thức người khác, tranh luận, phản bác hay đồng tình với chúng. loại này có thể có các dạng lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp của người kể chuyện và lời gián tiếp phong cách hóa.

Tùy theo từng loại tác phẩm khác nhau, hai loại lời văn trên có vị trí, vai trò khác nhau. Nếu như trong tác phẩm tự sự ì, lời gián tiếp giữ vai trò chủ đạo thì trong loại tác phẩm kịch, lời trực tiếp lại giữ vai trò chủ đạo và hạn chế tối đa lời gián tiếp. Trong loại tác phẩm trữ tình, sự phân bố 2 thành phần trên phức tạp hơn nhưng điều quan trọng trong lời văn tác phẩm trữ tình không phải ở 2 thành phần đó mà chủ yếu được thể hiện ở nhịp thơ, câu thơ, luật thơ...

146

Page 147: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chương 6

LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC 

I. KHÁI NIỆM II. SỰ PHÂN LOẠI THỂ VĂN CHƯƠNG

1. Ở phương Tây 2. Ở Trung Quốc 3. Ở Việt Nam

III. MỘT SỐ TIÊU CHÍ PHÂN CHIA THỂ LOẠI TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG 1. Dựa vào hình thức câu văn 2. Dựa vào thể văn hình thức lời văn   được mô tả theo một thể thức nào đó 3. Dựa vào dung lượng tác phẩm 4. Dựa vào cảm hứng, tính điệu thẩm mĩ có thể phân ra.

 

Chương 6

LOẠI THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC 

1. KHÁI NIỆM

Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định: một cuốn tiểu

thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một kí sự...Không có tác phẩm văn học nào được

xây dựng ngoài những hình thức quen thuộc đó. Vì vậy, bên cạnh nhan đề tác phẩm, tác giả thường

ghi tên thể loại: Những người khốn khổ- tiểu thuyết; Dấu chân người lính- Tiểu thuyết;  truyện ngắn

của Guy de Maupassant; Từ ấy - thơ; Bài thơ Màu tím hoa sim; Lão hà tiện- kịch...Nhiều khi tên thể

loại gắn liền với nhan đề tác phẩm: Hoàng lê nhất thống chí, Bình Ngô đại cáo, Tam quốc chí diễn

nghĩa, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giụôc.

    Ðiều gì dã tạo nên sự giống nhau về hình thức tồn tại của tác phẩm văn học trong khi nội dung nhiều khi rất khác nhau đó ? Chính là qui luật loại hình tác phẩm, tức là sự tổng hợp các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống của những đặc trưng cơ bản gần gũi với nhau.

Mỗi loại truyện; thơ; kí; kịch đều có các phương thức tổ chức, phương thức tái hiện gần gũi

với nhau và từ đó qui định sự tiếp nhận văn học. Nhà văn cũng như người đọc đều hiểu mình sáng

147

Page 148: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tác hay tiếp nhận loại tác phẩm này chứ không phải loại tác phẩm khác. Lí luận văn học đã khái

quát các tác phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa theo những qui luật loại hình.

Những qui luật này chi phối, qui định các yếu tố khác nhau của tác phẩm văn học. Mỗi loại thể khác

nhau có các loại nhân vật, kết cấu, lời văn khác nhau. Chẳng hạn khi nói đến loại tác phẩm trữ tình,

ta có thể nhắc đến nhân vật trữ tình, kết cấu trong thơ trữ tình, lời thơ, câu thơ, đoạn thơ, luật thơ..

Nói đến tác phẩm tự sự, có thể nói đến nhân vật tự sự, kết cấu trong tác phẩm tự sự, lời văn tự sự.

Qua tác phẩm kịch, có thể nói đến nhân vật kịch, kết cấu kịch, lời đối thoại, hành động kịch...

Tuy nhiên cũng cần chú ý bên cạnh qui luật loại hình, thực tiễn văn học bao giờ cũng phong

phú và đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác phẩm là nhằm diễn đạt một cách đúng đắn và đầy

đủ nhất những vấn đề đời sống mà họ quan tâm, những rung động thẩm mĩ độc đáo. Chính vì vậy,

khi nghiên cứu về loại thể, cần nắm vững tính lặp lại của qui luật nhưng đồng thời cũng phải nhận

ra sự độc đáo trong sự vận dụng và sáng tạo của tác giả.

2. SỰ PHÂN LOẠI THỂ LOẠI VĂN HỌC

Lí luận văn học xưa nay đã có nhiều cách phân chia loại thể

văn học khác nhau:

1. Ở phương Tây. TOP

Ngay từ thế kỉ thứ 4 trước công nguyên, Aristote trong Nghệ thuật thơ ca đã dựa vào nguyên

tắc phản ánh phân chia văn học thành 3 loại. Ông cho rằng nghệ thuật là sự "mô phỏng", "bắt

chước" thực tại. Tương ứng với 3 hình thức mô phỏng đó là 3 loại văn học: loại tác phẩm tự sự, loại

tác phẩm trữ tình và loại kịch. Cách phân loại này của Aristote nhìn chung được nhiều nhà mĩ học,

trong đó có Secnưxepxki, Ðôbrôliubôp tán thành.

Horace, Boileau đồng ý với quan điểm phân loại của Aristote nhưng đồng thời nhấn mạnh

đến giá trị cao thấp của từng loại thể. Theo họ, loại "thơ chủ yếu" gồm bi kịch, hài kịch và anh hùng

ca, còn thơ trữ tình chỉ là "thơ thứ yếu"

Hégel cũng phân chia văn học làm 3 loại nhưng lại dựa vào đối

tượng mô tả. Theo ông, loại tự sự mô tả sự kiện, loại trữ tình thể

hiện những trạng thái tâm hồn còn kịch thì miêu tả hành động.

Biêlinxki tán thành ý kiến của Hégel đồng thời nói rõ thêm: tác

phẩm tự sự  chủ yếu mô tả sự tiếp xúc, va chạm giữa con người và

148

Page 149: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

xã hội, tác phẩm trữ tình chủ yếu bộc lộ cảm xúc cá nhân, kịch chủ

yếu miêu tả sự xung đột, mâu thuẫn giữa các tính cách. Biêlinxki

cũng đã nêu lên ý kiến cho rằng trong thực tế văn học, nhiều khi

các loại trên thâm nhập, chuyển hóa, kết hợp với nhau chứ không

tách biệt một cách tuyệt đối.

2. Ở Trung Quốc. TOP

Sự phân loại văn học ở Trung Quốc xuất hiện khá sớm. Lúc đầu họ chia là 2 loại: thơ và văn

xuôi (vận văn và tản văn). Sau này, Tào Phi chia văn học làm 4 loại: Tấu- nghị, Thư luận, Minh lỗi,

Thơ phú. Sau Tào Phi, Lục Cơ, Chấp Ngu, Tiêu Thống cũng có nêu lên những cách phân loại khác

nhau. tuy nhiên cách phân loại của những tác giả này quá chi li, vụn vặt nhưng vẫn không thoát

khỏi những cách phân loại đã có từ đầu.

Trong thời kì cận và hiện đại, Trung Quốc thừa nhận cách phân chia văn học thành 4 loại:

thơ ca, văn xuôi, tiểu thuyết và kịch. Theo cách phân loại này, văn xuôi bao gồm tất cả các loại

ngoài thơ ca, tiểu thuyết và kịch. Tiểu thuyết, thực ra phải thuộc loại văn xuôi nhưng do tầm vóc

cũng như dung lượng hiện thực nên được xếp vào một loại riêng còn kịch thì thống nhất với kịch ở

phương tây. 

3. Ở  Việt Nam. TOP

Các giáo trình chủ yếu dựa theo phân loại của phương tây nhưng trình bày thành 4 loại chủ

yếu: Thơ, tiểu thuyết, kí và kịch. Có người chia làm 5 loại: tự sự, trữ tình, kịch, kí, trào phúng.

Trong lí luận văn học tập 2, Trần Ðình Sử  lại phân chia thành: tự sự, trữ tình, kịch, kí và chính

luận.

Các sự phân loại trên đều có tính chất tương đối. Bởi vì, thực tế văn học vốn đa dạng, phong

phú, khó có một sự khái quát nào đầy đủ và trùng khít với thực tế được. Vì vậy, giáo trình này tạm

chấp nhận cách phân văn học thành 5 loại: Loại tác phẩm trữ tình, loại tác phẩm tự sự, loại tác

phẩm kịch, loại tác phẩm kí văn học và loại tác phẩm chính luận

Dựa vào sự phân loại trên, có thể sắp xếp các thể loại vào các loại tương ứng:

Loại tự sự bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ, anh hùng ca, truyện cổ

tích...

Loại trữ tình bao gồm thơ trữ tình, văn xuôi trữ tình...

149

Page 150: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Loại kịch bao gồm bi kịch, hài kịch, chính kịch, kịch thơ...

Loại kí bao gồm kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí...

Loại chính luận bao gồm các kí chính luận, nghị luận văn chương, xã hội, chính trị...

Ngoài cách phân chia văn học như trên, cần phải dựa vào các tiêu chí khác nữa để tiến hành

phân chia các thể loại văn học.

III. MỘT SỐ TIÊU CHÍ PHÂN CHIA THỂ LOẠI TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Dựa vào hình thức câu văn: thơ (văn vần) và văn xuôi (tản văn) TOP

Ở đây có thể nói đến truyện thơ, truyện văn xuôi, thơ, thơ văn

xuôi, kịch thơ, kịch nói, thơ ngụ ngôn, truyện ngụ ngôn.

2. Dựa vào thể văn, tức hình thức lời văn được tổ chức theo một thể thức nào đó TOP

Chẳng hạn thể thơ 2, 3, 4, 5, 6, 8 chữ, thơ song thất lục bát,

thơ lục bát, thơ tự do. Thể văn xuôi: thể nhật kí, chiếu, biểu, văn

tế ...Mỗi loại văn thường sử dụng một thể văn tương ứng: loại tự sự

sử dụng văn trần thụât, kịch sử dụng văn đối thoại, thơ dùng thể

văn giải bày cảm xúc, bộc lộ.

3. Dựa vào dung lượng tác phẩm. TOP

    Là tiêu chí, chủ yếu dựa vào hiện thực được thể hiện trong

tác phẩm và độ dài ngắn của nó. Có thể nói đến truyện ngắn,

truyện vừa, tiểu thuyết, thơ, trường ca, khúc ngâm, kịch ngắn, kịch

nhiều hồi.

4. Dựa vào cảm hứng, tình điệu thẩm mĩ có thể phân ra: TOP

    Tụng ca, bi ca, trữ tình hay châm biếm, truyện cười, truyện tình cảm, bi kịch, hài kịch,

chính kịch...Ngoài ra, người ta có thể dựa vào nội dung thể loại để phân chia tác phẩm văn học: thể

loại lịch sử dân tộc, thể loại đạo đức thế sự, thể loại đời tư.

150

Page 151: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Các thể loại được trình bày trên đều có thể được thể hiện trong các loại tác phẩm văn học

khác nhau và nhiều khi có sự kết hợp chặt chẽ chứ không hoàn toàn tách biệt. Vì vậy, khi nghiên

cứu về loại thể tác phẩm văn học cần chú ý đến các hình thức trung gian, kết hợp giữa văn xuôi và

văn vần, giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và truyện, hoặc giữa văn học với các lĩnh vực khác, chẳng

hạn như giữa văn học và lịch sử, giữa văn học và nghiên cứu, giữa văn học và âm nhạc, giữa văn

học và nghệ thuât sân khấu.

Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học viết,

từ văn học cổ đến văn học hiện đại, có thể có nhiều loại, thể loại văn học khác nhau nhưng nhìn một

cách tổng quát, dựa vào cơ sở phương thức tổ chức, phương thức tái hiện đời sống, những dạng kết

hợp khác nhau có thể phân văn học thành 5 loại: trữ tình, tự sự, kịch, kí, chính luận.

Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TÁC PHẨM TRỮ TÌNH 1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người 2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm thể hiện thế giới chủ quan 3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình 4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình 5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình

II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH 1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc 2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ

III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH 1. Đề thơ 2. Dòng thơ, câu thơ 3. Khổ thơ, đoạn thơ 4. Tứ thơ, bài thơ

Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

151

Page 152: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. TOP

Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của con người

trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời sống và do sự giao tiếp

nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác phẩm văn học cũng khác nhau. Trong tác

phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội

dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần

kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.

Trong ca dao:

Hôm qua tát nước đầu đình.

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (sau này nhiều người cho là ca dao).

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Bốn câu thơ trên thể hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, đối với người

thương..., là nỗi buồn, là sự nhớ nhung lúc xa xôi cách trở. Ngoài những tình cảm, nỗi niềm đó,

người đọc không biết gì cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối quan hệ cụ thể của hai người với

nhau.

Bài Nguyên đán của Xuân Diệu cũng thể hiện rõ đặc điểm này:

Xuân của đất trời nay mới đến

Trong tôi xuân đến đã lâu rồi

152

Page 153: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Từ độ yêu nhau hoa nở mãi.

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.

Trong bốn câu thơ trên, không hề có mâu thuẫn, xung đột như trong kịch, cũng không có

những biến cố, sự kiện, hệ thống sự kiện nào. Ðiều mà người đọc cảm nhận chủ yếu là niềm vui,

hạnh phúc, là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Như vậy, từ ca dao đến những tác phẩm thơ ca hiện đại, người

đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và

tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên

nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và

những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này

chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc

điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình.

2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.

TOP

Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập

trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ

của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng

cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Chế Lan Viên đã nói lên mối quan hệ này qua

những câu thơ:

- Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể

Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời.

- Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Người ta có thể bắt gặp một bài thơ miêu tả một bức tranh phong cảnh thiên nhiên. Trong

bài Ðây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử, ngoài những nét chấm phá về một bức tranh thiên nhiên với

những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế...là tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ.

Mơ khách đường xa, khách đường xa

153

Page 154: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ơí đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà. (Ðây thôn Vĩ Giạ. Hàn Mặc Tử.)

Có những bài thơ có ít nhiều sự kiện khá liên tục- đó là những câu chuyện được kể lại một

cách ngắn gọn. Những sự kiện, biến cố ở đây không được miêu tả chi tiết, tỉ mỉ...mà được thể hiện

hết sức cô đọng. Các bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, Núi Ðôi của Vũ Cao, Bà má Hậu Giang

của Tố Hữu...nằm trong trường hợp này. Qua bài Quê hương của Giang Nam, người đọc có thê kể

một số nét chính về mối quan hệ giữa chàng trai và cô gái một cách khá liên tục nhưng chức năng

chủ yếu của hệ thống sự kiện đó là để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng. Chúng làm cho

tình cảm được bộc lộ dễ dàng, gợi cảm.

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm.

Có những lần trốn học bị đòn ri

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.(Quê hương- Giang Nam.)

Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu

tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Những

chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều

những chi tiết trong tác phẩm trữ tình bao giữ cũng hết sức cô đọng, súc tích.

Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan

nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc,

tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.

3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình. TOP

Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là những nỗi niềm

chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình lên thành người mang tâm

trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và cả những chân lí phổ biến...Người ta

thường nói đến từ chân trời của cái "tôi" đến chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến

chân trời của tất cả" cũng trên ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm

154

Page 155: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

súc: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình - dù là

miêu tả những nỗi đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ

đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi

vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại".

Tóm lại, trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ

những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực

cuộc đời. Ởí đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai

trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ

tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm

đẫm suy tư và dằn vặt của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh

động tình cảm, tâm trạng ...của cả một lớp người, một thời đại nhất

định.

4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. TOP

Nội dung tác phẩm trữ tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình (có người gọi là chủ thể

trữ tình). Ở đây, cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân vật trong tác phẩm trữ tình.

Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của

mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải

là đối tượng để nhà thơ miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về

lẽ sống và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta không

chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một hình tượng của một

ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là

nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm

thơ ca.

Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình

cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có

nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác

giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà

thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân

vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật.

Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.

155

Page 156: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình. TOP

Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và kịch đều

mang tính chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng có những đặc điểm

riêng.

Trước hết, đó là lời của chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét  về đối tượng,

trực tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ định. Chính vì vậy, sự lựa chọn

từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình- chủ yếu là trong thơ- luôn luôn nhằm làm cho

nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.

Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những ý tập trung,

hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu gây ấn tượng mạnh, không

phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu

nhiên mà nhiều người khẳng định đặc điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là 

giàu nhạc tính. Nhạc tính này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau.

Trong thơ Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp nhàng

và trùng điệp.

II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH.

Phạm vi của tác phẩm trữ tình rất rộng. Có thể kể đến các khúc ngâm, thơ văn xuôi, ca trù,

từ khúc. Những đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình được biểu hiện tập trung và tiêu biểu nhất là

trong tác phẩm thơ trữ tình.

Tùy theo truyền thống thơ ca của từng nước, người ta có nhiều

cách phân loại thơ trữ tình khác nhau. Ở phương Tây, có những

cách phân loại:

1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc: TOP

Có thể chia thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng.

- Bi ca:là những bài thơ buồn và những nỗi buồn đó được nâng lên thành quan niệm, thành

triết lí. Chẳng hạn, trong bài Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu viết:

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

156

Page 157: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bèo hợp để chia tan

Người gần để li biệt.

-Tụng ca là những bài thơ ca ngợi những sự kiện anh hùng, những chiến công của con

người, những cảnh tượng hùng vĩ của non sông đất nước. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên, Tố Hữu

có thể được coi là tụng ca.

-Thơ trào phúng là một dạng trữ tình đặc biệt, trong đó tác giả

phủ nhận những điều xấu xa bằng một giọng văn châm biếm, mĩa

mai, trào lộng. Nhiều bài thơ của Tú Xương, Tú Mỡ ...thuộc loại này.

2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ. TOP

Có thể phân thơ trữ tình thành các loại: trữ tình tâm tình, trữ tình thế sự, trữ tình công dân,

trữ tình phong cảnh.

- Trữ tình tâm tình là những bài thơ gắn liền với những tình cảm trong mối quan hệ hằng

ngày: tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, tình cha mẹ, anh em...

- Trữ tình thế sự: là những bài thơ nghiêng về những xúc động về cuộc đời với tính chất

"nhân tình thế thái"

Trong những thời kì lịch sử có nhiều biến đọng, nhiều giá trị chưa được xác định rõ ràng,

thơ trữ tình thế sự gợi ý cho người sọc những suy tư, băn khoăn, trăn trở về thực trạng xã hội. Nhiều

bài thơ của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương...là những tiếng nói trữ tình thế

sự có giá trị.

-Trữ tình công dân là những bài thơ nói lên những cảm xúc, tình cảm, suy tư của nhà thơ

trong mối quan hệ với xã hội, với chế độ chính trị...Ở đây, nhà thơ lấy tư cách công dân để cổ vũ, ca

ngợi sự nghiệp của nhân dân và lên án kẻ thù chung. Nhiều bài thơ trong văn học Việt Nam giai

đoạn chống Pháp, chống Mĩ thuộc loại này.

-Trữ tình phong cảnh là những bài thơ nói lên những cảm xúc của con người với thiên

nhiên: cây cỏ, núi non, sông biển, cảnh đẹp của quê hương, đất nước.

Những sự phân loại thơ trữ tình trên đây chỉ có tính chất tương đối. Thế giới nội tâm của

con người vô cùng phong phú, phức tạp, tinh tế và có trăm nghìn mối quan hệ khó có thể phân biệt

157

Page 158: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

một cách rạch ròi. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ tình phong cảnh, trữ tình thế sự, trữ tình công

dân và ngược lại. Ơí đây, sự phân loại chỉ nhằm giúp người đọc nhân ra cảm hứng chủ đạo, khuynh

hướng nghệ thuật của nhà thơ.

III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH.

1. Ðề thơ. TOP

Nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho

người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ, giúp họ nhớ và phân biệt

với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ không có đề

(vô đề). Ơí đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài

thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên

được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ.

2. Dòng thơ, câu thơ. TOP

Dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các thể thơ cách

luật, số chữ mỗi dòng có sự qui định chặt chẽ. Ơí thơ tự do, không có sự qui định đó nhưng thường

mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.

Câu thơ là dòng thơ diễn đạt trọn vẹn một ý. Thông thường, mỗi câu thơ là một đìng thơ. tuy

nhiên, có khi hai ba dòng thơ mới thành một câu thơ:

Ơi! Kháng chiến, mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường. (Chế Lan Viên)

3. Khổ thơ, đoạn thơ TOP

Sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ

điệu. Mỗi khổ thơ được kết thuc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong những bài thơ ngắn, mỗi khổ thơ

có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường hợp, nhiều khổ thơ mới thành một đoạn thơ.

Ðoạn thơ là sự tập họp nhiều câu thơ chằm diễn đạt một ý

tương đối trọn ven, hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu

dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào vần, bhịp, cú pháp như khổ thơ.

158

Page 159: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

việch phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác định nên các

nhà nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không

giống nhau.

4. Tứ thơ, Bài thơ. TOP

Tứ  thơ  là ý lớn xuyên suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà hòa quyện, biến

hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ. Nói cách khác, một bài thơ có tứ là một

bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ thể hiện

đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ... của nhà thơ.

Bài thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là sự tổng hợp từ đề thơ, dòng thơ,

câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác nhau và dĩ nhiên giá trị của mỗi

bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng va hình thức nghệ thuật của nó chứ không phải ở chỗ ngắn

dài.

Chương 8

LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ   1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính cách khách quan của nó thông qua các

sự kiện hệ thống sự kiện 2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát 3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật 4. Lời văn trong tác phẩm tự sự

II. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN 1. Tiểu thuyết 2. Truyện ngắn 3. Truyện vừa

Chương 8

LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

159

Page 160: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện.

TOP

    Các nhà lí luận từ Aristote đến Lessing, Hégel, Biélinxki đều cho rằng tác phẩm tự sự đưa ra một

bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote cho rằng thế giới của tác phẩm

tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật, không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ.

Ở đây, nhà văn dường như đứng bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà

văn kể lại như một đối tượng khách quan ở bên ngoài mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính

khách quan..

Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các sự kiện, hệ

thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng

và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố, sự kiện này có thể là những biến cố, sự

kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được,

cũng có thể là những biến cố, sự kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ... nhưng những

biến cố, sự kiện này không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra

phân tích, nhận biết.

Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm

những sự kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều

xem chúng như là những sự kiện khác nhau về đời sống con người,

xã hội.

2.Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát.

TOP

Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự kiện là sản phẩm

của mối quan hệ giữa con người với con người, con người và môi trường xung quanh. Do đó, tác

phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể

hiện trong nhiều mối quan hệ.

Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà văn có thể thể hiện

những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, có thể lướt qua hoặc

tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc

hoặc một sự kiện dài 10, 20, 50 năm trong một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất khác

nhau.

160

Page 161: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt nhất; có thể

được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong phú. Nhân vật thường có số

phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật

khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự được khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện

tại và trong xu thế phát triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh

động, nhiều màu sắc thẩm mĩ.

Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết

trong tác phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn

xuôi". Ở đây, có thể bắt gặp những chi tiết về chân dung, ngoại

hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật, dời sống lao động sản

xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực, tưởng

tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác.

3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật. TOP

Hình tượng người trần thuật có thể là tác giả nhưng không nên

đồng nhất người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất

hiện dưới nhiều hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân

vật tưởng tượng, khi thì nhân danh chính bản thân mình mà kể

chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào, người trần

thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích,

nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp

giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác

phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức

quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên

hiểu nhân vật, hoàn cảnh...thế này hoặc thế khác.

4. Lời văn trong tác phẩm tự sự TOP

Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó có thể được viết

bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc đến đối tượng mà nó miêu tả.

161

Page 162: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự, do đó nó thường

được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều này khác với tác phẩm kịch và tác

phẩm trữî tình.

II. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN

Phạm vi của tác phẩm tự sự hết sức rộng lớn và có thể được

phân loại ở nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào hình thức lời văn, có

thể nói tới các thể loại cơ bản như  anh hùng ca, (sử thi), truyện thơ,

trường ca (văn vần), tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn (văn

xuôi), ngụ ngôn (thường dùng cả hai hình thức văn vần và văn

xuôi). Dựa vào nội dung thể loại, có thể phân thành các tác phẩm có

chủ đề dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư...Giáo trình này chỉ trình bày

một số thể loại phổ biến trong đời sống hiện nay: tiểu thuyết,

truyện vừa, truyện ngắn.

1. Tiểu thuyết. TOP

Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển mạnh mẽ trong

thời kì cận và hiện đại. Ðây là thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện thực, cả về

không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết, người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử

với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ, địa điểm, tình huống...mà khó có thể loại nào có thể đạt được.

Các yếu tố khác của tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi phối

của đặc điểm này.

Tuy nhiên, dung lượng hiện thực chưa phải là đặc điểm duy nhất và cơ bản nhất của tiểu

thuyết mà chính là sự miêu tả cuộc sống từ góc độ đời tư. Tùy theo từng giai đoạn phát triển khác

nhau, yếu tố đời tư và yếu tố lịch sử, dân tộc có thể kết hợp với nhau nhưng nếu yếu tố lịch sử dân

tộc phát triển, tác phẩm sẽ gần với anh hùng ca; chất đời tư phát triển, tác phẩm sẽ đậm đà chất tiểu

thuyết hơn.

        Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xuôi. Nó thể hiện cuộc sống như một thực

tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi yếu tố ngỗn ngang, bề bộn của cuộc đời...bao gồm những

bi-hài; cao cả-thấp hèn; vĩ đai-tầm thường, lớn-nhỏ..Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng lớn

giúp nhà văn miêu tả nhân vật và hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ từ những trạng thái

tâm hồn cũng như những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.

162

Page 163: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mĩ, có khả năng tổng hợp và thu hút vào bản

thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ thuật khác "Ðức tính căn bản

của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi loại tác phẩm khác vào mình" (Ph. Mác xô-

Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp)

2. Truyện ngắn. TOP

    Về từ nguyên, truyện ngắn có nghĩa là một tin tức mới mẻ, sốt dẽo. Ðây là loại văn xuôi tự sự có

hình thức ngắn gọn. Tuy nhiên, đặc trưng của truyện ngắn không phải chỉ vì nó ngắn mà chủ yếu là

cách nắm bắt và thể hiện hiện thực cuộc sống. Nhà văn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng,

phát hiện một nét bản chất nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Trong

truyện ngắn, nếu nhà văn đặt quá nhiều vấn đề, câu chuyện sẽ dễ bị loãng. Tập trung về sự kiện, tập

trung về chủ đề, về ấn tượng là yêu cầu của truyện ngắn.

Người viết truyện ngắn luôn luôn chú ý vào một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi tiết, loại bỏ

những gì thiếu súc tích. Maugham cho rằng: truyện ngắn cần phải viết sao cho người ta không thể

bổ sung thêm vào đó chút gì cũng không thể rút bớt ra chút gì.

Nhiều người cho rằng viết truyện ngắn đơn giản và dễ hơn tiểu thuyết. Ðiều này không

chính xác. Thực ra, ở đây tùy thuộc vào thiên hướng, sở thích và khả năng của từng nhà văn. Ðạt

đến đỉnh cao nghệ thuật viết truyện ngắn không phải là điều dễ dàng. Có nhà văn đã viết: Hôm nay

tôi không có thì giờ để viết truyện ngắn vì đây là thể loại đòi hỏi người viết phải gói trọn những

băn khoăn, ấn tượng...vào trong một dung lượng có hạn.

Do dung lượng ngắn, nhân vật của truyện ngắn thường không

nhiều và cuộc đời của nhân vật cũng thường chỉ được miêu tả như

một khoảnh khắc, mảnh nhỏ nhưng lại có ý nghĩa trong cả cuộc đời

nhân vật nên nhịp điệu truyện ngắn khẩn trương, gấp rút, có nhiều

yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn đột ngột trong giới thiệu, bố cục, kết

thúc câu chuyện.

3. Truyện vừa. TOP

Truyện vừa là thể loại tự sự cỡ trung bình, xét về dung lượng, đứng giữa tiểu thuyết và

truyện ngắn. Do chỗ giống nhau về phương pháp xây dựng điển hình cũng như hình thức biểu hiện

163

Page 164: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nên ranh giới giữa truyện vừa và tiểu thuyết rất dễ lẫn lộn. Chẳng hạn A Q chính truyện, Xung kích,

Ông già và biển cả...có người gọi là tiểu thuyết, có người chỉ cho là truyện vừa.

Ðiều phân biệt trước hết giữa truyện vừa và tiểu thuyết chủ yếu là dung lượng hiện thực,

biểu hiện ở số lượng nhân vật, khuôn khổ cốt truyện và ngay cả ở số trang, thường một truyện vừa

từ 150 trang trở lại. Tuy nhiên, điều cần chú ý là truyện vừa trần thuật cô đọng và súc tích hơn tiểu

thuyết. Nếu như tiểu thuyết nặng về miêu tả thì truyện vừa chú ý nhiều hơn đến yếu tố thuật vì vậy

dung lượng thường ngắn hơn. Như vậy, giữa truyện vừa và tiểu thuyết, ngoài dung lượng hiện thực

được thể hiện còn có sự khác nhau ở nguyên tắc tái hiện hiện thực nữa.

Chương 9.

TÁC PHẨM  KÍ  VĂN HỌC.

I. XÁC ĐỊNH PHẠM VI CỦA KÍ 1. Một vài quan niệm không hoàn chỉnh về kí 2. Giới hạn kí qua các hệ thống phân loại

II. NGƯỜI THẬT, VIỆC THẬT TRONG KÍ 1. Kí trần thuật người thật 2. Kí có tính thẩm mĩ

III. TÍNH CHẤT, MỨC ĐỘ, PHẠM VI HƯ CẤU CỦA TÁC PHẨM KÍ 1. Tính chất 2. Mức độ   3. Phạm vi

IV. MỘT SỐ THỂ LOẠI KÍ 1. Phóng sự 2. Kí sự 3. Hồi kí 4. Bút kí 5. Truyện kí

Chương 9.

TÁC PHẨM  KÍ  VĂN HỌC.

Tác phẩm  kí văn học và kí báo chí giống nhau ở chỗ đều tôn trọng tính xác thực và tính thời

sự. Nhưng ở kí báo chí, tính xác thực phải được đảm bảo ở mức độ cao nhất và tính thời sự cũng

mang tính chất thật cấp bách, hằng ngày. Kí văn học không đòi hỏi như vậy, ngược lại, nó đề ra yêu

164

Page 165: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

cầu cao hơn về chất suy nghĩ và tình cảm của chủ thể. Dĩ nhiên sự phân biệt trên chỉ có tính chất

tương đối.

I. XÁC ĐỊNH PHẠM VI CỦA KÍ

Ðể có một định nghĩa tương đối chính xác về kí, cần giới hạn

phạm vi phản ánh của nó.

1. Một vài quan niệm không hoàn chỉnh về kí. TOP

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về kí. Theo Goulaiep, đặc trưng của kí là tính tổng hợp về

đối tượng mô tả và người ta có thể tìm thấy ở đó không chỉ là những số phận mà là những bức tranh

về phong tục, về đời sống kinh tế, chính trị...Ðặc trưng này thực ra có thể được xác định rõ nét hơn

trong tiểu thuyết. Có người cho rằng đặc trưng của kí là ở tính chủ quan. Ðiều này có một phần căn

cứ nhưng tính chất này có lẽ được chỉ rõ nhất trong tác phẩm  trữ tình. Do kí là một thể loại có tính

chất ghi chép nên nhiều người cho rằng kí phản ánh người thật, việc thật. Quan niệm này được

nhiều người chấp nhận nhưng vẫn chưa lí giải một cách thuyết phục tại sao lại gọi Ðất nước đứng

lên, Thép đã tôi thế đấy...là tiểu thuyết mà gọi Người mẹ cầm súng, Sống như anh là Kí.Việc xác

định một khái niệm đúng đắn về kí khó khăn một phần vì trong kí có nhiều loại khác

nhau, phần khác vì cách gọi tên của các nhà văn đối với tác phẩm 

của mình. Chẳng hạn Tây du kí của Ngô Thừa Ân là một tiểu thuyết,

Nhật kí ở rừng của Nam Cao là một truyện ngắn...Muốn giải quyết

vấn đề này, cần xem xét kí một cách có hệ thống.

2. Giới hạn kí qua các hệ thống phân loại. TOP

Theo hệ thống Thơ- tiểu thuyết- kịch- kí:

Trong hệ thống này, kí buộc phải bao hàm các loại văn xuôi còn lại. Và nếu chấp nhận hệ

thống Trữ tình- tự sự- kịch thì có thể, trước hết, có một số tác phẩm  giàu chất trữ tình mà từ trước

đến nay thường được gọi là kí hư  tùy bút cần phải được xếp vào loại trữ tình. Bởi vì trong tùy bút,

chủ yếu không phải là thồn tin sự thực. Sự thực ở đây chỉ là cái cớ để tác giử bộc lộ tâm trạng, "là

cái đinh để tác giả treo lên bức tranh tình cảm của mình" (Nguyễn Tuân).

Theo hệ thống trữ tình- tự sự và kịch:

165

Page 166: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Hệ thống này hoàn toàn đúng cho văn chương thẩm mĩ mà không bao gồm hết các loại, vốn

không phải là văn chương thẩm mĩ nhưng vẫn có giá trị nghệ thuật cao. Ðó là loại văn chính luận.

Tuy nhiên không thể xếp văn chính luận vào kí như từ trước đến nay vì văn chính luận chủ yếu

không phải nhằm thông tin sự thật mà thông tin lí lẽ. Có thể sắp xếp bút kí chính luận vào văn nghị

luận. Như vậy, kí sẽ không bao gồm tùy bút và bút kí chính luận.

Qua các giới thuyết trên, kí có thể phân biệt được với kịch, trữ tình và chính luận. Như vậy,

kí chỉ còn liên quan với loại tự sự. Có thể nói, kí là một loại văn tự sự hay nới như Goulaiep kí là

một biến thể của loại tự sự.

So sánh kí với loại tự sự sẽ tìm ra được đặc trưng của kí.

II. NGƯỜI THẬT - VIỆC THẬT TRONG KÍ

1. Kí trần thuật người thật TOP

Đã xãy ra một cách xác thực nhằm trước hết là thông tin sự thật chứ không phải là

thông tin thẩm mĩ. Tính xác thực là đặc trưng quan trọng nhất và có tính nguyên tắc của kí. (Dĩ

nhiên tính xác thực về người thật, việc thật bao hàm những tâm trạng và lí lẽ chứa đựng trong

ngeoeig thật việc thật đó. Nới như Pôlêvoi "Kí có địa chỉ chính xác của nó"

2. Kí có tính thẩm mĩ. TOP

Xét từ bản chất và gốc gác, kí không nhằm thông tin thẩm mĩ mà là thông tin sự thật nhưng

không vì vậy mà kí thiếu tính nghệ thuật. Sở dĩ kí có tính nghệ thuật bởi vì trước hết nga trong hiện

thực cung đã bao hàm cái thẩm mĩ đồng thời chính nhiệt tình khát khao mong biết được sự thật

cũng góp phầm tạo nên những quan hệ thẩm mĩ. Bám chặt cào người thật, việc thật, các tác phẩm 

kí xét một cách tương đối có thể rút ngắn khoảng cách giữa sáng tạo nghệ thuật và cuộc sống, phục

vụ kịp thời hơn cho những nhu cầu hiểu biết cuộc sống của người đọc.

III. TÍNH CHẤT, MỨC ĐỘ, PHẠM VI HƯ CẤU CỦA TÁC PHẨM KÍ

1.Tính chất. TOP

Do đặc điểm viết về người thật- việc thật nên mục tiêu,

phương hướng của người viết kí là phải luôn luôn phấn đấu theo

hướng xác thực tối đa như là một ý thức trách nhiệm thông tin cho

166

Page 167: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

người đọc chứ không phải lad sáng tạo nên một thiên nhiên thứ hai

như trong truyện.

2 Mức độ. TOP

Tuy nhiên, đã là một tác phẩm  nghệ thuật, không thể không nói đến hư cấu. Vì vậy, có thể

nói đến một số trường hợp hư cấu trong kí.

Như trên đã nói, tác phẩm  kí viết về sự thật nhưng thực ra, cứ giả định rằng, có sự thật đang

"Dâng sẵn, đón chờ" và nhà văn có tư tưởng, tình cảm hoàn toàn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại thì

trước khi ghi chép, ít nhất cũng phải nghe hoặc thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng kiến. Trong

trường hơp chứng kiến và viết lại, nhà văn vẫn không thể bao quát hết mọi sự việc hoặc nhớ hết mọi

sự diễn biến một cách tường tận...Trong trường hợp nhà văn chỉ nghe kể lại mà không chứng kiến

thì có thể sẽ nghe từ nhiều nguồn khác nhau- trực tiếp hoặc gián tiếp- và trong trường hợp nào,

người kể cũng không thể biết hết, nhớ hết.

Vì vậy, trước khi đặt bút viết, người viết kí chỉ có một mớ tư

liệu lộn xộn, nhiều lỗ hổng, chưa móc nối được tư liệu với nhau...nhà

văn buộc phải sử dụng trí tưởng tượng và hư cấu nhằm làm cho bức

tranh trở nên hợp lí, liên tục và hấp dẫn.

3. Phạm vi. TOP

Người viết kí không thể tự do tưởng tượng và hư cấu thế nào cũng được. Về nguyên tắc,

những thành phần xác định của người thật- việc thật (ngoại hình, tên tuổi, lai lịch, nguồn gốc gia

đình...) người viết phải phấn đấu thể hiện xác thực đến mức tối đa. Nhà văn có thể hiện được hư cấu

rộng rãi hơn với những thành phần không xác định (như nội tâm nhân vật, cảm xúc, thiên nhiên,

những nhân vật phụ...) cũng như việc sắp xếp, tổ chưc hệ thống côt truyện.

Tóm lại, trong tác phẩm  kí văn học, nhà văn có thể hư cấu nhưng nhìn chung có phần hạn

chế và thường ở những thành phần không xác đinh.

IV. MỘT SỐ THỂ LOẠI KÍ

1. Phóng sự TOP

Là một loại kí đặc biệt chú trọng đến sự việc. Trong "nhà văn hiện đại" của Ngọc Phan viết

"Phóng sự là thăm dò lấy sự việc và ghi lấy việc". Phóng sự nhằm phản ánh một sự kiện, hiện tượng

167

Page 168: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

xã hội một cách kịp thời và thường mang tính chất điều tra, phỏng vấn, một vấn đề có ý nghĩa thời

sự.

Người viết phóng sự phải đáp ứng một đòi hỏi nào đó về thời

sự trực tiếp của người đọc. Ơí đây nhà văn thường ít bộc lộ cảm xúc,

suy tư nhưng lại mang tính khuynh hướng rõ rệt.

2.  Kí sự TOP

Kí sự khá gần gũi với phóng sự vì nó chú trọng đên sự việc, ít

yếu tố trữ tình. Kí sự ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện, một

phong trào, một giai đoạn..., gần với truyện ngắn, ít hư cấu.

3. Hồi kí TOP

Ghi lại những sự việc đã xãy ra qua hồi tưởng. Ðó có thể là câu chuyện  mà người viết đã

tham gia, chứng kiến hoặc được nghe thuật lại một cách tường tận và gắn liền với kỉ niệm của

người viết hoặc kể.

Hồi kí đòi hỏi phải tôn trọng tính chân thực của câu chuyện và

có sự khái quát cao.

4. Bút kí. TOP

Nhằm ghi lại những sự việc, cảnh vật mà nhà văn đã mắt thấy,

tai nghe cũng như cảm xúc, suy nghĩ của họ qua một chuyến đi. Ở

đây, những sự việc luôn xen kẽ với những yếu tố liên tưởng, tưởng

tượng, cảm xúc. Vì vậy, bút kí luôn  mang đâm sắc thái trữ tình.

5.Truyện kí TOP

Là một thể loại trung gian giữa truyện và kí. Truyện kí thường tập trung cốt truyện vào một

nhân vật, một danh nhân, một nhân vật lịch sử, một người anh hùng trên các mặt trận...Trong truyện

kí, tác giả có thể hư cấu để câu chuyện được hoàn chỉnh nhưng phải giữ được tính xác thực của sự

việc và con người.

168

Page 169: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ranh giới của việc phân chia các thể kí nêu trên chỉ có tính chất tương đối. Các thể kí luôn luôn

chuyển hóa, xâm nhập lẫn nhau. trong sáng tác, các nhà văn có thể không quan tâm đến đặc trưng

của từng thể loại mà chủ yếu là vận dụng các khả năng, phương tiện của văn học nhằm thể hiện một

cách tốt nhất mục đích của mình.

Chương 10.

KỊCH BẢN VĂN HỌC. 

1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu.

2. Xung đột kịch.

3. Hành động kịch.

4. Nhân vật kịch.

5. Ngôn ngữ kịch.

6. Phân loại kịch.

Chương 10.

KỊCH BẢN VĂN HỌC. 

1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu. TOP

Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến một loại hình của

nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa

trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những

yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch

Là một trong 3 loại chính của văn học, kịch bản trước hết tự nó

phải là một tác phẩm  hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những

đặc điểm của một tác phẩm  văn học. Tuy nhiên, kịch bản văn học

được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước một tập thể

169

Page 170: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật sân khấu qui

định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà

văn. Sự qui định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là

về dung lượng phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể

xây dựng kịch bản với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua

những không gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân

vật còn phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu tả. Những sự

kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù

hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua

hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là

một tác phẩm  văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ

với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những

đặc điểm của kịch bản văn học.

2. Xung đột kịch. TOP

Kịch bắt đầu từ xung đột. "Xung đột là cơ sở của kịch" (Pha đê ép). Hiểu theo nghĩa hẹp,

xung đột trong tác phẩm  kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng

đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi

kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co,

chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của một nhân

vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do

tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước

vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết

bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho

rằng " tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên cảu nghệ thuật kịch".

Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời đại, nói cách

khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ơí những thời đại khác nhau có những xung đột khác nhau.

Ở  thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm

chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những

người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong kiến, đó là xung đột

giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp bức và đòi được giải phóng.

170

Page 171: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trong thời kì hiện đại, các xung đột thưòng xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách

mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...

Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung

đột làm cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở

chỗ nhà văn phải phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn

nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác của kịch phải góp phần tô đậm

xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề

của cuộc sống

3. Hành động kịch. TOP

Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở của tác phẩm 

kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, quan hệ...của con người

trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch, hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua

hành vi, động tác, ngôn ngữ của họ.

Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi là hành động

xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Trong Roméo và Juliette của Shakespeare

tất cả những động tác, cử chỉ, lời nói của hai nhân vật luôn gắn liền với ý thức bảo

vệ và hy sinh cho tình yêu. Qua hàng loạt các hành động của các

tính cách, các xung đột của vở kịch được bộc lộ.

4. Nhân vật kịch. TOP

Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt động. Trong kịch

bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật, con người thường được in

nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người

xem. Vì vậy, có thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc

lộ thông qua nhân vật.

Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm  kịch với tác phẩm  tự sự và kí là kịch không có nhân

vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng : "Kịch, bi kịch, hài kịch là thể loại khó nhất trong văn

học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi mỗi nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và

hành động không có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ

171

Page 172: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn

ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả".

Tác phẩm  kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế bởi không gian và

thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong các tác phẩm  tự sự và cũng không

được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó, tính cách nhân vật trong kịch tập trung, nổi bật và xác định

nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có

nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến thái làm

cho gương măt của nhân vật sinh động và đa dạng.

Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội

tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những

xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con

người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn

vặt...Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn

học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất

trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện

pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm

của chính nhân vật đó.

5. Ngôn ngữ kịch. TOP

Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch không có

nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân

khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc

thoại và bàng thoại.

Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây là dạng ngôn

ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và có tác dung hỗ tương

với nhau nhằm thể hiện kịch tính.

Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và

những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân vật nhưng

không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh độc thoại, người ta có thể thay

thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế...

172

Page 173: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bàng thoại là nói với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng dưng

nhân vật tiến gần đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân trần, giải thích một cảnh ngộ, một

tâm trạng cần được chia xẽ, một điều bí mật: loại này chiếm tỉ lệ thấp trong ngôn ngữ kịch.

Các dạng ngôn ngữ của kịch đòi hỏi phải mang tính khấu ngữ, động tác hóa và tính cách

hóa. Trước hết, đó là những lời đối thoại thông thường trong cuộc ssống, phải có tác dụng khắc họa

tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ văn hóa...của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng

tình cách, do từ miệng nhân vật nói ra, chứ không phải do tác giả. Ngôn ngữ trong kịch đòi hỏi phải

gắn liền mật thiết với động tác, điều này íup người xem hiểu được những suy nghĩ, tâm tư nhân vật.

Ngay trong trường hợp chỉ nghe kịch trong radio, người nghe cũng cảm được sắc mặt, họat động và

trạng thái tâm lí của nhân vật.

Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu

biết phong phú và sâu rộng về quàn chúng, nắm được cách nói đa

dạng cảu quần chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói

chung nhưng đặc biệt là đối với người viết kịch.

6. Phân loại kịch. TOP

Có nhiều cách phân loại kịch khác nhau. dựa trên phương thức biểu diễn, có thể phân ra các loại: ca

kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch câm...Dựa trên dung lượng, ta có kịch ngắn, kịch dài..Cách phân loại

phổ biến nhất là dựa trên đặc điểm và nội dung của xung đột kịch. Theo cách phân loại này, ta có bi

kịch, hài kịch và chính kịch (kịch drame).

Bi kịch là một thể loại kịch mà xung đột chủ yếu nằm ở giữa "yêu sách tất yếu về mặt

lịch sử và tình trạng không tài nào thực hiện được điều đó trong thực tế" (Enghel). Bi kịch đưa lên

sân khấu những con người lương thiện, dũng cảm, có những ham muốn mãnh liệt với những cuộc

đáu tranh căng thẳng, khốc liệt đối với cái ác, cái xấu nhưng do điều kiện lịch sử,họ phải chịu thất

bai. Thất bại của họ gợi lên ở khán giả "sự xót thương và sự sợ hãi để thanh lọc tình cảm" (Aristote)

hoặc "để ca ngợi, biểu dương ý chí luôn luôn vươn lên của con người trước những sức mạnh mù

quáng của các thế lực hắc ám" (Biêlinxki).

Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột giữa các thế lực

xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng, giả tạo bên ngoài. Tính hài kịchtạo

ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật. Trong một số hài kịch, có những nhân vật tích cực thể

hiện lí tưởng tiến bộ, nhưng nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực có nhiều thói

173

Page 174: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hư tật xấu. Tiếng cười trong hài kịch có tác dụng giải thóat cho con người khỏi những thói xấu, có

tác dung trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.

Chính kịch còn gọi là kịch drame, đề cập đến mọi mặt của đời sống con người, đó là

con người toàn vẹn, không bị cắt xén hoặc chỉ tô đậm ở nét bi hoặc hài. Shakespeare là người đầu

tiên đã thể hiện thành công cho loại kịch có sự pha trộn giữa bi và hài này. Dần dần chính kịch phát

triển mạnh vì thích hợp hơn với cuộc sống và con người hiện đại. 

Tiết 02- Lí luận văn học:TÁC PHẨM VĂN HỌC

Ngày soạn:

Ngày dạy tiết 01:

I. YÊU CẦU CẦN ĐẠT: Giúp học sinh:

1. Kiến thức- Nắm được khái niệm tác phẩm văn học; đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn

học.- Phân biệt văn bản văn học với tác phẩm văn học.2. Kỹ năng

Nâng cao năng lực cảm thụ và phẩm bình tác phẩm văn học. 3. Thái độ

Có ý thức phát huy vai trò người đọc trong việc hiện thực hoá văn bản thành tác phẩm.II. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC GIỜ HỌC:

1. Kiểm tra bài cũ: Không2. Khởi động: Các văn bản được in trong SGK có phải là TPVH không? Vì

sao? Vậy tác phẩm văn học là gì? Nó có đặc trưng cơ bản nào?...3. Tiến trình bài dạy:

** *

1. Khái niệmLấy ví dụ về một số tác phẩm văn học tiêu biểu đã biết?Ví dụ: Truyện Kiều, Tắt đèn, Lão Hạc, Chí Phèo, Gió lạnh đầu mùa, Cảnh

khuya,...Tác phẩm văn học là gì?

- Là công trình nghệ thuật do một cá nhân hoặc tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát bằng hình tượng về hiện thực, biểu hiện tâm tư tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại.

174

Page 175: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, là đối tượng thưởng thức và phẩm bình của người đọc, là đơn vị tồn tại hoàn chỉnh và hết sức đa dạng của văn học.

Đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học?- Hình thức tồn tại: + Văn vần: Tự tình II (HXH); Văn xuôi: Thượng kinh kí sự (LHT)+ Truyền miệng: văn học dân gian; văn bản nghệ thuật: văn học viết.- Dung lượng rất khác nhau nhưng bao giờ cũng là một chỉnh thể thẩm mỹ toàn

vẹn.Ví dụ: Bộ “Tấn trò đời” của H.Bandắc hơn 900 tác phẩm, dài hàng vạn trang,

có 425 nhân vật quí tộc, 188 nhân vạt tư sản và 487 nhân vật tiểu tư sản; Thơ haicư chỉ có 17 âm tiết chia 3 dòng.

- Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều yếu tố thuộc nội dung và hình thức.=> Biện chứng giữa nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật.

- Tính phức tạp của TPVH không chỉ biểu hiện qua cấu trúc nội tại của nó mà còn biểu hiện qua hàng loạt mối quan hệ khác:

+ Đối với đời sống hiện thực: muôn màu muôn vẻ, đa cự hai chiều của không gian, thời gian với bao sự sinh - diệt

+ Đối với người sáng tạo: TPVH là nơi kí thác thế giới quan, nhân sinh quan, lí tưởng thẩm mỹ. => “tấc lòng” tác giả; cá tính sáng tạo nghệ thuật.

+ Đối với người tiếp nhận: tầm đón nhận, động cơ tiếp nhận,...- Tác phẩm văn học có tính lịch sử, không phải là hiện tượng nhất thành bất

biến. Là sự thống nhất giữa phần được khái quát, mã hoá trong văn bản và phần cảm nhận, khám phá của người đọc.

Ví dụ: Truyện Kiều: thời phong kiến2. Phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn họcCác văn bản được in trong SGK có phải là TPVH không? Vì sao? (Chú ý

đặc trưng của TPVH)- Văn bản là phương thức tồn tại thực tế của tác phẩm.- Theo Bakhtin: văn bản như một sự thật chất liệu và khách thể thẩm mỹ, là đối

tượng của sự phân tích khép kín về mặt giải thích học.- Văn bản là khách thể được nhìn từ “bên ngoài”, còn tác phẩm là sản phẩm có

được khi vào bên trong của văn bản, bắt gặp thế giới nhân vật, nhìn theo điểm nhìn nhân vật.

=> Mỗi người đọc sẽ tạo thành tác phẩm với điểm nhấn khác nhau. Người đọc là nhân vật then chốt trong việc hiện thực hoá ý nghĩa tác phẩm.

Ví dụ: Lộng Châu Khách đề tựa “Kim Bình Mai”: “Ai đọc KBM mà sinh lòng thương xót thì là vị bồ tát, ai đọc mà sinh lòng e sợ thì đó là bậc quân tử, ai đọc mà lấy làm thích thú thì đó là kẻ tiểu nhân; ai đọc rồi muốn bắt chước thì đó là loài cầm thú”*Củng cố: Tác phẩm văn học là gì? Làm rõ đặc trưng của nó qua một tác phẩm cụ thể?

** *

175

Page 176: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ngày dạy tiết 02: Kiêm tra bải cũ: Tác phẩm văn học là gì? Làm rõ đặc trưng của nó qua một tác phẩm cụ thể?

2. Đặc trưng của văn bản văn họcĐặc trưng cơ bản của văn bản văn học?

a. Văn bản văn học thường có tính hư cấu. Lời văn là lời hình tượng nói về hình tượng.

b. Văn bản văn học có tính sinh thành. Mỗi chữ như một gnon nến đang cháy. Ví dụ: “Chim hôm thoi thóp về rừng” không phải là bức ảnh mà là truyền sang

lòng ta cái nhịp phập phồng của buổi chiều. - Ý nghĩa nội chỉ rung mọi sợi dây tâm hồn trong lòng ta.- Hình tượng văn học, ý nghĩa của văn văn học không phải là cái đưa cho mà là cái làm nảy sinh, hình thành.c. Văn bản văn học có tính nổi bật khác thường- Cách nói lạ: Người đi tìm hình của nước chứ không phải người đi tìm đường cứu

nước.Ví dụ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm.- Tính hư cấu cắt đứt mối liên hệ trực tiếp với phát ngôn.Ví dụ: - Bánh trôi nước: “em”: + Căn cứ nhan đề: bánh+ Căn cứ lời tự bạch trong bài: Cô gái+ căn cứ tính biểu tượng ngầm: Vú- Tính kí hiệu: ngoài kí hiệu ngôn từ, dưới góc độ kí hiệu học, coi hình tượng cũng

là một hệ thống kí hiệu mang nội hàm đời sống, tư tưởng, văn hoá: cây cỏ, núi sông, đồ vật đều là sự kết tinh quan hệ người, phẩm chất người.

Ví dụ: Thuyền về có nhớ bến chăng...- Là một chỉnh thể toàn vẹn, sống động. Sử dụng tổng hợp mọi yếu tố ngôn ngữ

đều có nghĩa.d. Là khách thể thẩm mỹ.

- Là khách thể.- Mang trong bản thân nó thông điệp về cái đẹp.

** *

Tiết 03- Lí luận văn học:CHỨC NĂNG CỦA VĂN NGHỆ  

Ngày soạn:

Ngày dạy tiết 01:

I. YÊU CẦU CẦN ĐẠT: Giúp học sinh:

1. Kiến thức- Khái niệm chung về chức năng của văn nghệ.- Các chức năng chủ yếu:

176

Page 177: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

+ Chức năng nhận thức cuộc sống của văn chương. + Chức năng giáo dục của văn chương.  + Chức năng thẩm mĩ của văn chương.  

Quan hệ giữa các chức năng của văn nghệ.2. Kỹ năng

Khai thác hiệu quả các chức năng văn học. 3. Thái độCó nhận thức đúng đắn và ý thức phát huy các chức năng văn học trong học

tập và cuộc sống.II. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC GIỜ HỌC:

1. Kiểm tra bài cũ: Phân biệt văn bản văn học và tác phẩm văn học qua một ví dụ cụ thể?2. Khởi động: Là một hình thái xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, cũng như bất kỳ một hình thái ý thức nào khác văn chương nghệ thuật có tác dụng tích cực trở lại đối với toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng văn chương lại là một hình thái ý thức xã hội đặc thù vì vậy nó tác động tới xã hội theo phương thức riêng của mình, mà không một hình thái ý thức nào có thể thay thế được. Phần việc đặc thù mà văn chương đảm nhiệm đối với đời sống tinh thần của con người, cái suy đến cùng quyết định giá trị xã hội không thể thay thế được của văn chương, đó là chức năng của nó. Chỉ có thông qua chức năng của mình, văn chương mới phát huy được tác dụng tích cực của mình.

3. Tiến trình bài dạy:

     I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHỨC NĂNG VĂN NGHỆ  

Khái niệm chức năng của văn chương là khái niệm dùng để xác định ý nghĩa và giá trị của văn chương đối với đời sống xã hội. Muốn thấu hiểu chức năng của văn chương, hay nói cách khác là, muốn thấy rõ ý nghĩa, giá trị tác dụng của văn chương thì chỉ có đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với toàn bộ cơ cấu đời sống xã hội, với đối tượng phản ánh, với đời sống tinh thần phong phú của con người. Có như thế mới tránh được thái độ hạ thấp văn chương, xem văn chương là trò chơi chữ, là công việc nhàn rỗi, là trò mua vui giải trí tầm thường.       II. CÁC CHỨC NĂNG CHỦ YẾU.  

        1. Chức năng nhận thức cuộc sống của văn chương.  

Văn chương là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Luận điểm đó của mĩ học Mác - Lênin có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định giá trị của văn chương nghệ thuật. Trước hết là giá trị nhận thức. Văn chương phát sinh và phát triển từ lâu trong đời sống xã hội loài người, nhưng không phải ai cũng thấy được giá trị nhận thức của nó.

Maritain nhà triết học người Pháp đã viết: "Nếu nghệ thuật là một phương tiện để nhận thức, thì rõ ràng rằng nó thấp hơn nhiều so với hình học"

177

Page 178: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Kayser, nhà lí luận văn học theo chủ nghĩa cấu trúc viết: "Tác phẩm văn học sống và phát sinh không phải là hồi quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc ngôn ngữ khép kín". Hoặc quan điểm "nghệ thuật vị nghệ thuật" của mĩ học duy tâm phương Ðông, Tây cũng là thứ không thừa nhận giá trị nhận thức của văn chương.

Ngược hẳn với những quan điểm duy tâm đó, mĩ học Marx - Lénine cho nghệ thuật là phương tiện Mácnh liệt mà con người dùng để nhận thức thế giới.

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác luôn thấy rõ và nhấn mạnh ý nghĩa nhận thức cả văn học nghệ thuật. Mác và Ăngghen đã nhiều lần nêu rõ ý nghĩa nhận thức của văn chương. Về bộ tiểu thuyết Tấn trò đời của Balzac, bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống của xã hội Pháp trong nửa đầu thế kỷ XIX, Ăngghen viết: "Balzac mô tả toàn bộ lịch sử xã hội Pháp, trong đó ngay cả những chi tiết kinh tế (thí dụ như việc phân phối lại quyền tư hữu thực tế về quyền tư hữu cá nhân sau cách mạng) tôi đã học tập được nhiều hơn là tất cả các sách của các nhà sử học, các nhà kinh tế học, các nhà thống kê chuyên nghiệp thì ấy cộng chung lại."[1]

Cũng như C. Mác và F. Aêng ghen, Lênin đánh giá cao khả năng hiểu biết, khám phá, sáng tạo của văn học. Một ví dụ tiêu biểu là người đã đánh giá rất cao L. Tolstoi ở khả năng nhận thức và phản ánh đời sống xã hội qua tác phẩm của ông. Người xem "Tolstoi là tấm gương phản chiếu cách mạng Nga."[1] Phạm Văn Ðồng cũng đã từng phát biểu rất chí lí rằng: "Văn học nghệ thuật là công cụ để hiểu biết. Khám phá, sáng tạo lại thực tại xã hội". Văn chương nghệ thuật có chức năng nhận thức cuộc sống. Nhưng vì sao văn chương nghệ thuật khác các hình thức nhận thức khác?

C. Mác nói: "Ý thức con người chẳng qua là tồn tại được ý thức". Ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó có thể đúng hay méo mó lệch lạc nhưng muốn hay không thì những ý niệm, khái niệm, quan niệm có được trong đầu óc con người là bắt nguồn từ hiện thực. Văn chương là một hình thái ý thức, cho nên bất kỳ một hình thái ý thức nào khác nó có khả năng phản ánh tồn tại xã hội. Nhận thức con người chẳng qua là sự phản ánh thực tại vào đầu óc con người mà thôi. Vì vậy văn học có chức năng nhận thức hiện thực.

Sáng tạo văn chương nghệ thuật trước hết là một hành động nhận thức (tức là sự hiểu biết) nhận thức về sự vật, về con người, về đời sống xã hội và về cả chính bản thân mình nữa. Muốn sáng tạo trước hết phải nhận thức, phải hiểu biết. Bản thân sự nhận thức không phải là một cái gì bẩm sinh hay huyền bí, nó có nguồn gốc từ thực tiễn, từ trong lao động sản xuất, từ trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, xã hội của con người. Không hiểu biết cuộc sống thì cũng có nghĩa là không thể nhận thức và do đó không thể có văn chương nghệ thuật. Nhưng nhận thức không phải chỉ đơn thuần là hiểu biết theo nghĩa sát sạt của từ này, mà nó phải tiến lên cấp độ cao hơn là "khám phá" tức là phát hiện ra những mặt nào, yếu tố nào bản chất, là quy luật trong sự phức tạp, muôn màu muôn vẻ của hiện thực. Hiện thực là muôn màu, muôn vẻ, đa tạp, cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên tồn tại lẫn lộn, nhiều khi cái bản chất, cái quy luật lại biểu hiện ra dưới hình thức cái ngẫu nhiên cái tạm thời, cái không bản chất. Văn chương nhận thức cuộc sống là phải luôn luôn tìm ra được cái quy luật của đời sống. Nếu không làm được điều đó thì ý nghĩa nhận thức của văn chương chỉ dừng lại ở hiểu biết đơn giản, máy móc và bên ngoài của hiện thực mà thôi. Lại nữa, văn chương

178

Page 179: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

không chỉ nhận thức để mà nhận thức, hiểu biết để mà hiểu biết mà là để sáng tạo ra một công cụ nhận thức mới cho con người. Ðó là tác phẩm văn chương. Cho nên, ngoài việc hiểu biết sâu sắc, rộng rãi về thế giới, văn chương còn phải khám phá ra phát hiện ra bản chất quy luật của thế giới. "Sáng tạo" là một yêu cầu cực kỳ quan trọng của chức năng nhận thức của văn chương. Lênin nói: "Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn sáng tạo ra thế giới khách quan nữa". Sáng tạo là yêu cầu của mọi hình thức nhận thức của con người. Nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới một cách thụ động, máy móc mà là một sự sáng tạo lại một hiện thực mới cao hơn, hiện thực mà nhà văn đã nhận thức được. Và tác phẩm văn chương thực sự là một công cụ nhận thức khi nhà văn có sự sáng tạo đó. Tác phẩm văn chương sẽ hoàn thành sứ mạng là công cụ nhận thức khi người đọc tiếp xúc với nó không phải là tiếp xúc với cái thế giới mà mình đã nhận thấy ở ngoài đời mà tiếp xúc với thế giới mới hợp lí hơn, đáng sống hơn, nên có hơn.

Nói văn chương nghệ thuật là một hình thái ý thức cũng có nghĩa là nói tới chức năng nhận thức đặc thù - văn chương nghệ thuật trong toàn bộ hệ thống ý thức của con người. Và cũng có nghĩa là khẳng định tính chất khoa học của văn chương. "Văn học là một khoa học" , tính khoa học của nó là ở chỗ nó đưa lại những nhận thức, những hiểu biết đúng đắn và sinh động về tự nhiên xã hội (cuộc sống, con người) trên những mặt thuộc bản chất quy luật, sự vận động, phát triển. Với ý nghĩa đó mà Phạm Văn Ðồng đã viết: "Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tại xã hội. Nó là khoa học (…). Nghệ thuật là một sự hiểu biết, văn học là một sự hiểu biết, khoa học là một sự hiểu biết, hiểu biết cao sâu lắm".

Nói "văn học là một khoa học" chính là để nhấn mạnh ý nghĩa tầm quan trọng, tính chính xác của khả năng nhận thức, biểu hiện, khám phá thế giới của nó. Nhưng sẽ rất sai lầm nếu đem đánh đồng nhận thức khoa học và nhận thức nghệ thuật. Nhận thức của văn chương nghệ thuật không phải như nhận thức của khoa học. Sự khác nhau đó được phân biệt trên 2 bình diện sau :

Một mặt, tri thức và văn chương nghệ thuật đem lại cho con người về bản chất và quy luật của thế giới không phải bằng những khái niệm, công thức, định lí… mà là bằng phương thức thể hiện riêng, phương tiện đặc thù. Ðó là những hình tượng nghệ thuật. Nghệ thuật nhận thức các hiện tượng tự nhiên và xã hội không phải là tái hiện trực tiếp. Mặt khác, sự nhận thức ấy không bao giờ là trực tiếp mà thông qua con đường thẩm mĩ, bằng con đường tình cảm thẩm mĩ.

Tóm lại: Văn chương có khả năng nhận thức vô cùng to lớn trên nhiều bình diện của hiện thực đời sống về tự nhiên cũng như về xã hội. Nhưng đó là sự nhận thức về phương diện triết học, chính trị, xã hội, tâm lí và thẩm mĩ… "Nó là cuốn sách giáo khoa về đời sống". Chức năng đó diễn ra trong quá trình nhà văn nhận thức hiện thực bằng tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, đến lượt mình, trở thành một công cụ thẩm mĩ giúp người đọc nhận thức cuộc sống và hiện thực qua những khám phá và sáng tạo của nhà văn.           2. Chức năng giáo dục của văn chương. 

179

Page 180: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trong Luận cương về Phơ - bách Marx viết : "Triết học không những chỉ nhằm giải thích đúng đắn thế giới khách quan mà quan trọng hơn là cải tạo thế giới".

Lénine nói: "Nghĩa là thế giới không thỏa Mácn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình". Những tư tưởng vĩ đại đó không chỉ có ý nghĩa trên địa hạt triết học đơn thuần, hay ở một lĩnh vực nhận thức nào mà có ý nghĩa cho mọi lĩnh vực nhận thức chân chính của con người.

Văn chương một nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù, nhưng tựu trung vẫn là một hình thái ý thức xã hội, nó nằm trong quy luật nhận thức chung trên của con người. Vì vậy, văn chương không chỉ có chức năng nhận thức thế giới mà còn có chức năng cải tạo thế giới. Tác dụng cải tạo của văn chương, vì vậy là một thuộc tính tất yếu, là một đặc điểm mang tính quy luật, tính bản chất.

Giáo dục của văn chương là làm thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, quan điểm, nhận thức của con người theo chiều hướng tiến bộ hoặc cách mạng, giúp cho con người từ chỗ tán thành đến hành động theo lí tưởng nhân vật hoặc lí tưởng tác giả. Hoặc bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động và hấp dẫn, tác giả giúp con người phân biệt được tốt xấu, đúng sai, từ đó liên hệ đến mình và xác định cho mình một thái độ một lập trường nhất định theo những điều đã hấp thụ qua tác phẩm. Tóm lại văn chương thực hiện chức năng giáo dục đối với bạn đọc ở những phương diện sau:

- Học tập, nâng cao trình độ văn hóa. - Rèn luyện, trau dồi giác quan thẩm mĩ - Tu dưỡng đạo đức, phẩm chất. - Cải tạo thế giới quan và quan điểm chính trị - xã hội. Bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng có thể có tác dụng này hay tác dụng

khác đối với người đọc có tác dụng tiêu cực, có tác dụng tích cực, có tác dụng nhất thời, có tác dụng vĩnh cửu.

Văn chương thực hiện chức năng giáo dục bằng cách, trước hết, là ở tư tưởng của nhà văn thể hiện ngay trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Tác phẩm văn chương là sản phẩm ý thức nhà văn, là kết quả hoạt động có mục đích của nhà văn. Qua tác phẩm người sáng tác bao giờ cũng gửi gắm ký thác, truyền đạt một cái gì đó cho người đọc. Ðó là lập trường quan điểm, tư tưởng, ý nghĩ và những lời giải đáp cùng những ước vọng của người sáng tác trước cuộc sống. Những điều gửi gắm đó nếu rung động được lòng người thì giúp họ nhận thức được đúng đắn cuộc sống và khiến họ đi đến những suy nghĩ và hành động đúng.

Thứ đến là nội dung tư tưởng, ở khuynh hướng tuyên truyền, động viên và giáo dục của tác phẩm từ các nhân vật điển hình đại diện cho tư tưởng tác giả thông qua tâm tư, suy nghĩ, triết lí sống của nhân vật được trình bày dưới dạng này hay dạng khác. Hình tượng Từ Hải trong Truyện Kiều ngoài ý nghĩa là mơ ước tự do và công lí của Nguyễn Du, nó còn có tác dụng khơi dậy ở người đọc ý chí độc lập tự do, ý thức không cam tâm làm nô lệ, ý thức tháo củi sổ lồng đạp bằng mọi bất công ở con người. Hình tượng Kiều lại giáo dục con người ta lòng hiếu nghĩa với cha mẹ, lòng chung thủy vợ chồng, ý thức luôn luôn khơi dậy trong cuộc sống.

Nó còn thể hiện ở tính thẩm mĩ của tác phẩm. Tức là ở lí tưởng thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật mà tác giả vận dụng để truyền đạt có hiệu quả nhất những tư tưởng và kiến giải của mình đến người đọc.

180

Page 181: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Văn chương có nhiệm vụ xây dựng những hình tượng nghệ thuật mang lí tưởng thẩm mĩ, đó là cuộc sống đáng sống và con người đáng có. Hình tượng Từ Hải là một hình tượng mang lí tưởng thẩm mĩ của tác giả: Lí tưởng về con người anh hùng đầy lòng nhân đạo, bình đẳng, bác ái và ý chí quật cường không cam tâm làm nô lệ. Từ Hải còn là niềm vui mừng, nỗi ước muốn của quần chúng lao động. Nếu như Mác Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh … là những hình tượng làm cho người đọc căm ghét thì Từ Hải lại là nhân vật làm cho người ta thương yêu, trân trọng, đấy chính là mặt trái và mặt phải của tác dụng thẫm mĩ của hình tượng văn học.

Văn chương là một nghệ thuật, tác dụng cải tạo của nó còn ở hình thức nghệ thuật. Nghệ thuật trong sáng giản dị tạo cho người ta cảm giác nhẹ nhõ, nghệ thuật sinh động phong phú, hấp dẫn làm con người ta trở nên yêu cuộc sống hơn.

Chức năng giáo dục của văn chương còn ở tính chiến đấu của nó. Văn chương là vũ khí đấu tranh giai cấp. Tính chất "vũ khí" của văn chương biểu hiện tập trung ở chỗ này. Cải tạo là phê phán cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, đề xuất cái mới cái tốt cái tiến bộ cách mạng. Nếu văn chương chỉ vạch ra cái tiêu cực không thôi thì mới là được nhiệm vụ "phá" mà chưa làm được nhiệm vụ "xây". Như thế có nghĩa là chưa thực hiện trọn vẹn chức năng cải tạo. Mặt khác, không có một vụ "xây" nào mà không gắn với phê phán, phá bỏ cái cũ, cái xấu, cái lạc hậu, cái cản trở sự phát triển đi lên. Lénine đã từng gọi Người mẹ của Gorki là "quyển sách kịp thời" bởi vì chính Người mẹ đã có sức mạnh cải tạo, sức mạnh của một vũ khí tinh thần và tư tưởng cho công nhân Nga lúc bấy giờ. Người nói (theo lời thuật lại của Gorki):

"Quyển sách này là cần thiết, nhiều công nhân đã tham gia phong trào cách mạng một cách vô ý thức, tự phát, và bây giờ họ đọc Người mẹ, điều đó sẽ mang lại ích lợi lớn cho bản thân họ.[1]

Và quả thật, những hình tượng điển hình về những công nhân - những chiến sĩ cách mạng Nga, qua sự miêu tả của nhà sáng lập ra nền văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tỏ ra là những tấm gương mà nhờ đó nhiều thế hệ chiến sĩ đấu tranh nhằm giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức đã học tập được.

Văn chương là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sản phẩm của ý thức người nghệ sĩ, là sản phẩm của tài năng tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy, chức năng cải tạo của văn chương đạt được tới đâu là do người đẻ ra nó. Sáng tạo nghệ thuật ngoài sự hiểu biết, tài năng ra còn là vấn đề lí tưởng sống. Lí tưởng sống của nhà văn gắn liền với chức năng cải tạo của văn học. Một tâm hồn bệnh hoạn, yếu đuối, một lí tưởng sống hưởng lạc thì chỉ tạo ra được những hình tượng nghệ thuật nhằm trụy lạc hóa con người không hơn không kém.

Lí tưởng nhà văn luôn luôn gắn liền với mọi giai cấp nhất định. Nhà văn là người phát ngôn cho giai cấp và những lực lượng xã hội nhất định. Nói đến chức năng cải tạo của văn chương là nói đến việc nhà văn dùng tác phẩm của mình để truyền đạt lí tưởng sống của mình mà cũng là lí tưởng của giai cấp mình, của một lực lượng xã hội, một thời đại nhất định mà mình đang sống. càng gắn lí tưởng mình với lí tưởng tiến bộ của thời đại bao nhiêu thì nhà văn càng phát huy được chức năng cải tạo của nghệ thuật mình bấy nhiêu. Bởi vì lí tưởng thời đại cũng tức là lí tưởng của quần chúng nhân dân người chủ nhân lịch sử. Lịch sử văn chương đã chứng tỏ rằng

181

Page 182: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

có những tác phẩm nghệ thuật có sức sống trường cửu, có sức cải tạo lớn lao là do lí tưởng nhà văn gắn bó với lí tưởng thời đại đó, lí tưởng nhân loại cần lao lúc đó.

Ðặc trưng chức năng giáo dục của văn chương là ở chỗ : văn chương giáo dục con người thông qua con đường tình cảm. Từ xúc động, lay động về tình cảm mà người đọc liên hệ đến bản thân, tự giác nhận ra đúng, sai. Nghệ thuật giáo dục con người bằng biện pháp tự giác. Giáo dục nghệ thuật không phải bằng biện pháp cưỡng bách, hành chính gò ép mà hoàn toàn tự giác, thoải mái. Nghệ thuật giáo dục bằng hình thức hấp dẫn vui tươi, cuốn hút. Ở đây, tưởng như giáo dục vui chơi, giải trí là một. Tác dụng giáo dục của nghệ thuật thật là lâu bền ; từ từ nhưng vô cùng sâu sắc.          3. Chức năng thẩm mĩ của văn chương.  

Trong quá trình con người đồng hóa tự nhiên về mặt thẩm mĩ thì nghệ thuật là hình thái cao nhất, tập trung nhất, đầy đủ nhất của quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Nói như thế có nghĩa là, con người, trong hoạt động thực tiễn của mình, bao giờ cũng sáng tạo thế giới theo quy luật của cái đẹp. Trong "Bản thảo kinh tế - triết học 1844" C. Mác viết :

"Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo bất cứ giống loài nào, và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích hợp cho đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp.[1]

Không chỉ nghệ thuật mà bất kỳ hoạt động thực tiễn vật chất nào của con người cũng đều có ý nghĩa thẩm mĩ. Tuy vậy, phải nhận rằng cái đẹp trong nghệ thuật là tập trung nhất, là mãnh liệt nhất, là biểu hiện cao nhất của quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực. Trong đời sống tinh thần của con người thì nghệ thuật đảm đương trọng trách biểu hiện và truyền thụ cái đẹp. Những hình thái ý thức khác của xã hội như triết học, khoa học, … đều có chức năng nhận thức và giáo dục của nó. Nhưng chỉ có trong nghệ thuật, chức năng thẩm mĩ mới được đặt ra một cách bắt buộc.

Chức năng thẩm mĩ của văn chương bộc lộ ở điểm nào?Chức năng thẩm mĩ của văn chương bộc lộ ở chỗ: làm thỏa Mácn nhu cầu

thẩm mĩ, phát triển năng lực, thị hiếu thẩm mĩ của con người. Cũng tức là, nghệ thuật làm thỏa Mácn nhu cầu về lí tưởng, ước mơ, sự hoàn thiện hoàn mĩ của con người trước thế giới.

Nghệ thuật thực hiện chức năng thẩm mĩ bằng cách nào?Nghệ thuật thực hiện chức năng thẩm mĩ bằng nhiều cách: Trước hết là làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc bằng việc miêu tả

và phản ánh cái đẹp trong tự nhiên và xã hội. Cái đẹp là cái khả năng đưa đến cho người ta một khoái cảm, một thích thú, một niềm xúc động khi con người nhìn thấy hoặc thưởng thức. Những cái được gọi là đẹp phải là cái chân thực, sinh động, hài hòa, thống nhất được cái mặt tiêu biểu và đa dạng của sự vật, có khả năng tác động trực tiếp vào giác quan con người (thị giác và thính giác). Việc phản ánh này thường có chọn lọc và gắn liền với quá trình điển hình hóa, tài năng sáng tạo của nghệ sĩ. Nhờ vậy, cái đẹp của đời sống khi đã được đưa vào nghệ thuật thì nó đẹp gấp bội.

182

Page 183: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bởi vì ngoài đời sống, nó đã đẹp, khi đi vào nghệ thuật nó lại qua bàn tay trau chuốt gọt dũa của nhà văn. Thử đơn cử một ví dụ, bài ca dao sau:

Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng Nhị vàng, bông trắng, lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nói đến sen là nói đến đẹp. Sen là đẹp, nhưng chỉ nhìn nó ở ngoài đời thì chưa

thấy hết cái đẹp của nó. Phải nhìn nó trong nghệ thuật ta mới thấy hết, càng nhìn càng thấy đẹp, đẹp từ màu sắc, hương vị, hình thức, phẩm chất. Giải thích cái đẹp trong nghệ thuật có phần duy tâm, nhưng Hégel đã khẳng định: "Ngay bây giờ chúng ta có thể khẳng định rằng cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên". Nghệ thuật không chỉ miêu tả, phản ánh cái đẹp trong tự nhiên, xã hội mà còn sáng tạo ra cái đẹp mới vốn không có trong hiện thực - tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật là kết tinh tài năng sáng tạo trên cơ sở chất liệu hiện thực chứ không phải là bản thân hiện thực. Nó không chỉ là tư tưởng, tình cảm tài năng của nhà văn mà nó còn là cái đẹp mới. Bên cạnh cái đẹp của tự nhiên: vừng trăng, bầu trời, ánh sáng, cánh cò, giòng sông… là cái đẹp do bàn tay nghệ sĩ tạo ra: áng thơ, bản nhạc, điệu múa… đây là một tự nhiên đẹp thứ 2.

Nghệ thuật phát huy tác dụng chức năng thẩm mĩ đối với con người bằng cách rèn luyện năng lực thẩm mĩ cho con người trên rất nhiều bình diện.

Nghệ thuật làm cho cảm xúc thẩm mĩ của con người ngày một tinh tế. Do tiếp xúc với nghệ thuật mà các giác quan của con người tinh tế, nhạy bén, đi đến khả năng cảm thụ nhiều hơn, lớn hơn. Ví dụ giữa tai người không rành nhạc và rành nhạc, có tiếp xúc rèn luyện nhiều. Người rành nhạc có lỗ tai có khả năng thẩm âm tốt hơn người không rành nhạc.

Nghệ thuật đào tạo năng khiếu thẩm mĩ, tức là tạo ra năng lực sáng tạo, đánh giá cái đẹp của con người. Năng lực thẩm mĩ là một sự trao truyền, học tập lẫn nhau qua nhiều thế hệ. Không ai có thể sáng tạo hay thưởng thức được nghệ thuật nếu không biết đến nghệ thuật là gì. Chỉ có tôi luyện trong nghệ thuật thì năng lực nghệ thuật mới phát triển. Có vấn đề tài năng trong lĩnh vực này, nhưng tài năng đó là cả một sự hun đúc của nhiều thế hệ. Nghệ thuật hun đúc cho con người khả năng cảm thụ tinh tế, đánh giá chính xác cái đẹp trong cuộc sống. Ðồng thời, hình thành cho con người một nhận thức sâu sắc về cái đẹp. Thưởng thức nghệ thuật đồng thời là sự tiếp nhận giáo dục về nghệ thuật. C. Mác viết: "Nếu anh muốn hưởng thụ nghệ thuật, thì anh phải là con người có kiến thức về nghệ thuật".

Kiến thức về nghệ thuật không thể và chỉ đơn thuần lết quả sự tiếp thu theo con đường giáo dục bởi khoa mĩ học theo trường lớp sách vở mà còn bag cả con đường trực tiếp thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật. Con đường này tuy tự phát nhưng vô cùng sâu sắc.

Nghệ thuật cung cấp cho con người quan điểm thẩm mĩ, thái độ thẩm mĩ một cách sinh động và sâu sắc. Vì con người tiếp thu nó không phải dưới dạng kết luận, phán đoán trừu tượng như trong khoa nghiên cứu nghệ thuật.không một bài giảng về nghệ thuật nào có thể thay thế được điều mà con người trực tiếp nhận qua tác phẩm nghệ thuật.

183

Page 184: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nghệ thuật xây dựng cho con người lí tưởng thẩm mĩ. Con người, sản phẩm đẹp nhất của tạo vật là đối tượng của nghệ thuật. Nghệ thuật đã chọn cho mình một đối tượng đặc biệt: tinh hoa của trời đất, "người ta là hoa đất" (Tục ngữ), "Con người làcái đẹp nhất trong thế giới mà chúng ta cảm giác được" (Tchernychevski), "Con người là lí tưởng của cái đẹp" (Kant). Nhưng nghệ thuật vẫn xây dựng những con người lí tưởng. Ðó là lí tưởng thẩm mĩ. Vì mục đích nghệ thuật là không phải chụp lại , hay tái hiện tất cả những gì về phẩm chất mà con người hiện có. Con người trong nghệ thuật là con người sẽ có, cần có. Ðó là con người lí tưởng. Do bản thân con người không bao giờ tự thỏa Mácn với mình mà luôn luôn có nhu cầu vươn lên cái cao xa hơn - vươn lên con người lí tưởng.       III. QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN NGHỆ  

TOP

Văn chương là một nghệ thuật, là một hình thái ý thức đặc thù, nó mang tính thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ này gắn liền với bản chất của văn chương.nếu tách rời hoặc không thấy đặc thù thẩm mĩ thì hoặc là không hiểu được bản chất văn chương, hoặc hạ thấp nó, hoặc biến nó thành một cái gì khác ngoài văn nó.

Khi nói đến chức năng nhận thức của văn chương, dù có đề cập đến khả năng nhận thức to lớn của nó thế nào mặc lòng mà không thấy đây là sự nhận thức có tính đặc thù thẩm mĩ, nhận thức từ góc độ thẩm mĩ thì tức là đánh đồng nghệ thuật với mọi hoạt động nhận thức khác,và cũng tức là hạ thấp giá trị nhận thức của nghệ thuật dẫn đến hạ thấp hoặc thủ tiêu nghệ thuật.

Chức năng thẩm mĩ của văn chương chỉ có thể phát huyđược tác dụng Mácnh liệt khi văn chương đạt được giá trị tự nhận thức cao. Ngược lại, văn chương chỉ có thể đạt được tính thẩm mĩ cao đẹp khi nó đạt được giá trị nhận thức sâu. Diderot nói: cái đẹp chẳng qua là chân lí. như thế, nghệ thuật không phải là cái gì phi lí, hoặc siêu nhiên mà nó quan hệ đến vấn đề chân lí. tác phẩm nghệ thuật càng tiếp cận với cuộc sống càng phản ánh được chân lí khách quan một cách sâu sắc thì càng có tính nghệ thuật cao, xưa nay, những tác phẩm nghệ thuật lớn, bất hủ không có tác phẩm nào lại chỉ đạt một trong hai mặt này.

Xét về mặt hình thức nhận thức thì nghệ thuật có hình thức nhận thứcđặc thù so với hình thái ý thức khác, đó là hình thức nhận thức thẩm mĩ, nhận thức theo góc độ cái đẹp.nhưng xét về mặt bản chất nhận thức thì nghệ thuật thống nhất với các hoạt động nhận thức khác của con người. nếu như chức năng thẩm mĩ là đặc trưng của văn chương thì chức năng nhận thức là bản chất của văn chương.

Mọi hình thức nhận thức chân chính của con người đều vươn đến mục đích cải tạo mình. nhưng mọi hình thức nhận thức đó lại thực hiện chức năng cải tạo theo đặc trưng riêng. Nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng thực hiện chức năng cải tạo,giáo dục của mình theo góc độ thẩm mĩ, bằng thỏa Mácn nhu cầu thẩm mĩ. Dưới hình thức thẩm mĩ, bằng phương tiện thẩm mĩ, văn học tiến hành giáo dục và cải tạo con người.

Cải tạo giáo dục con người có rất nhiều hình thức, đó có thể bằng luân lí, đạo đức học, bằng chính trị và bằng hành chính v.v… Nhưng biện pháp nhẹ nhàng mà sâu

184

Page 185: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

sắc, tinh tế mà mạnh mẽ là biện pháp nghệ thuật. Nghệ thuật trực tiếp tác độngvào tình cảm con người để giáo dục, cải tạo con người.

Thơ Ban chấp hành trung ương Ðảng lao động Việt Nam gởi đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III viết:

"Là tiếng nói tình cảm, là hình thức nhuần nhị và sắc bén của tư tưởng có tác dụng sâu rộng và lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân,văn nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng đạo đức, tình cảm và tác phong xã hội chủ nghĩa".

Một tác phẩm văn chương muốn đạt tới chức năng cải tạo và giáo dục mình thì trước hết phải đạt được tính nghệ thuật cao. Với những hình tượng nghệ thuật sinh động, có sức truyền cảm, nghệ thuật tác động vào tình cảm con người ; khi những hình tượng nghệ thuật có sức lay động tình cảm con người thì tình cảm đó là xuất phát điểm, là sức bật cho lí trí và hành động của con người.

Nghệ thuật không phải là vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh. Tự nó, nghệ thuật đã mang tính cải tạo giáo dục của mình. tuy nhiên muốn có giá trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật phải đạt tới sức cải tạo mạnh mẽ, ngược lại để cải tạp và giáo dục nghệ thuật lại phải đạt được tính thẩm mĩ cao.

Nếu như chức năng thẩm mĩ là đặc trưng của nghệ thuật thì chức năng giáo dục là nhiệm vụ của nghệ thuật.

Văn chương là một hình thái ý thức, một hình thức nhận thức của con người như bất kỳ một hình thức nhận thức nào khác. Văn chương nhận thức không phải là để nhận thức mà nhận thức là để cải tạo, biến đổi thế giới. Cho nên, chức năng nhận thức và chức năng cải tạo giáodụccủa văn chương là không thể tách rời nhau.muốn cải tạo thì trước hết phải nhận thức, nhận thức là để cải tạo, nhận thức càng sâu thì cải tạo càng mạnh.

Chức năng nhận thức và giáo dục gắn chặt với nhau và gắn chặt với chức năng thẩm mĩ.trong nghệ thuật, nhận thức là nhận thức dưới góc độ cái đẹp. Giáo dục là giáo dục thông qua nhận thức thẩm mĩvà bằng phương tiện thẩm mĩ. Yù nghĩa thẩm mĩ của tác phẩm nghệ thuật là ở chỗ hiệu quả giáo dục cải tạo mà nó đạt được.

Tóm lại, văn chương nghệ thuật có 3 chức năng chủ yếu: nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Ba chức năng quan hệ khắng khít và xuyên thấu vào nhau vàcùng tác động tới con người. Trong cả 3 chức năng đó, không được xem nhẹ một chức năng nào và cũng không thể tách bạch ra từng chức năng một trong thực tế. Nói một cách chính xác và khoa học ra thì văn học nghệ thuật có một chức năng chủ yếu - nhận thức - giáo - thẩm mĩ. Bởi vì giáo dục, thẩm mĩ, nhận thứclà 3 phương diện khác nhau của một vấn đề, của một sự vật. Chức năng này đồng thời biểu hiện chức năng kia và tồn tại trong chức năng kia và ngược lại.

Ngoài 3 chức năng chủ yếu trên đây, văn chương còn có nhiều chức năng quan trọng khác như: chức năng giao tiếp, chức năng thanh lọc, chức năng giải trí v.v … văn chương phát huy tác dụng đa chức năng đối với đời sống.

** *

Chương 3. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC.

185

Page 186: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

I. NHÂN VẬT VĂN CHƯƠNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM

1. Khái niệm chung 2. Chức năng của nhân vật văn học

II. PHÂN LOẠI NHÂN VẬT 1. Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vât 2. Xét từ góc độ kết cấu 3. Xét từ góc độ thể loại 4. Xét từ góc độ chất lượng

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT 1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình 2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm 3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật 4. Miêu tả nhân vât qua hành động

Chương 3. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC.

Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác" I. NHÂN VẬT TRONG VĂN HỌC VÀ CHỨC NĂNG CỦA NÓ TRONG TÁC PHẨM1.Khái niệm chung. TOP

Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.

Nhân vật văn học có thể là con người có tên (như Tấm Cám, Thúy Vân, Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng...), có thể là những người không có tên (như thằng bán tơ, viên quan, mụ quản gia...) hay có thể là một đại từ nhân xưng nào đó (như một số nhân vật xưng tôi trong các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, như mình- ta trong ca dao...). Khái niệm con người này cũng cần được hiểu một cách rộng rãi trên 2 phương diện: số lượng: hầu hết các tác phẩm từ văn học dân gian đến văn học hiện đại đều tập trung miêu tả số phận của con người. Về chất lượng: dù nhà văn miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật...nhưng lại gán cho nó những phẩm chất của con người.

Trong nhiều trường hợp, khái niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Chẳng hạn, người ta thường nói đến nhân dân như là một nhân vật trung tâm trong Chiến tranh và hòa bình của L.

186

Page 187: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tônxtôi, ca cao là nhân vật chính trong Ðất dữ của G. Amađô, chiếc quan tài là nhân vật trong tác phẩm Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan...Tô Hoài nhận xét về Chiếc quan tài: "Trong truyện ngắn Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan, nhân vật không phải là người mà là một chiếc quan tài. Nhưng chiếc quan tài ấy chẳng phải là vô tri mà là một sự thê thảm, một bản án tố cáo chế độ thảm khốc thời Pháp thuộc. Như vậy, chiếc quan tài cũng là một thứ nhân vật". Tuy vậy, nhìn chung, nhân vật vẫn là hình tượng của con người trong tác phẩm văn học.

Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...Những dấu hiệu đó thường được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường, sự phát triển về sau của nhân vật gắn bó mật thiết với những giới thiệu ban đầu đó. Việc giới thiệu Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau dường như cũng báo trước về số phận của mỗi người sau này:

"Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước toc, tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" Hay việc giới thiệu Hoạn Thư: "Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già"

gắn liền với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của nhân vật.

Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác. Ơí đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.  2. Chức năng của nhân vật văn học. TOP

Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có mục đích gán liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính, người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Gắn liền với Kiều là thân phận của người phụ nữ có tài sắc trong xã hội cũ. Gắn liền với Kim Trọng là vấn đề tình yêu và ước mơ vươn tới hạnh phúc. Gắn liền với Từ Hải là vấn đề đấu tranh để thực hiện khát vọng tự do, công lí...Trong Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo thể hiện quá trình lưu manh hóa của một bộ phận nông dân trong xã hội thực

187

Page 188: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

dân nửa phong kiên. Ðằng sau nhiều nhân vật trong truyện cổ tích là vấn đề đấu tranh giữa thiện và ác, tốt và xấu, giàu và nghèo, những ước mơ tốt đẹp của con người...

Do nhân vật có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ thêm về nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời (anh hùng Núp trong Ðất nước đứng lên; Chị Sứ trong Hòn Ðất...) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". II. PHÂN LOẠI NHÂN VẬT

Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng. Những nhân vật được xây dựng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả..., có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau. 1. Xét từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật. TOP

Có thể nói đến các loại nhân vật chính diện (nhân vật tích cực), nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).

Nhân vật chính diện là nhân vật đại diện cho lực lượng chính nghĩa trong xã hội, cho cái thiện, cái tiến bộ. Khi nhân vật chính diện được xây dựng với những phẩm chất hoàn hảo, có tính chất tiêu biểu cho tinh hoa của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại, mang những mầm mống lí tưởng trong cuộc sống...có thể được coi là nhân vật lí tưởng. Ơí đây, cũng cần phân biệt nhân vật lí tưởng với nhân vật lí tưởng hóa. Loại nhân vật sau là loại nhân vật được tô hồng, hoàn toàn theo chủ quan của nhà văn. Ơí đây, nhà văn đã vi phạm tính chân thực của sự thể hiện.

Nhân vật phản diện là nhân vật đại diện cho lực lượng phi nghĩa, cho cái ác, cái lạc hậu, phản động, cần bị lên án.

Trong quá trình phát triển của văn học, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, việc xây dựng các loại nhân vật trên cũng khác nhau. Nếu như trong thần thoại chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện thì trong truyện cổ tích, các truyện thơ Nôm, các nhân vật thường được xây dựng thành 2 tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đây, hễ là nhân vật chính diện thường tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện thì hoàn toàn ngược lại.

Trong văn học hiện đại, nhiều khi khó phân biệt đâu là nhân vật chính diện, đâu là nhân vật phản diện. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung và con người nói riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật

188

Page 189: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nhiều chiều, phức hợp chứ không đơn điệu...Những nhân vật như Chí Phèo, Thị Nỡ, Tám Bính, Năm Sài Gòn...là những nhân vật có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin cho rằng: cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc. Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi đặt nhân vật vào loại nào để nghiên cứu, cần phải xét khuynh hướng chủ đạo của nó đồng thời phải chú ý đến các khuynh hướng, phẩm chất thẩm mĩ khác nữa. Trong giai đoạn trước, những nhân vật như Kiều, Hoạn Thư, Thúc Sinh cũng được Nguyễn Du miêu tả ở nhiều góc độ, với nhiều phẩm chất khác nhau chứ không phải chỉ có một phẩm chất chính diện hoặc phản diện. 2 Xét từ góc độ kết cấu. (Tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm).

TOP

Xem xét chức năng và vị trí của nhân vật trong tác phẩm, có thể chia thành các loại nhân vật: nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Ơí đây, nhà văn thường tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của nhân vật. Qua nhân vật chính, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ.

Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Với những tác phẩm lớn có nhiều nhân vật chính thì nhân vật chính quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ tác phẩm được gọi là nhân vật trung tâm. Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên cho tác phẩm. Ví dụ: Ðông Kísốt của Cervantes, Anna Karênina của L. Tônxtôi, A.Q chính truyện của Lỗ Tấn, Truyện Kiều của Nguyễn Du...

Trừ một hoặc một số nhân vật chính, những nhân vật còn lại đều là những nhân vật phụ ở các cấp độ khác nhau. Ðó là những nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong quá trình diễn biến của cốt truyện, của việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Nhân vật phụ phải góp phần hỗ trợ, bổ sung cho nhân vật chính nhưng không được làm mờ nhạt nhân vật chính. Có nhiều nhân vật phụ vẫn được các nhà văn miêu tả đậm nét, có cuộc đời và tính cách riêng, cùng với những nhân vật khác tạo nên một bức tranh đời sống sinh động và hoàn chỉnh. 3. Xét từ góc độ thể loại. TOP

 Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. (sẽ nói rõ trong phần các loại thể) 4. Xét từ góc độ chất lượng miêu tả. TOP

Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính cách, điển hình.

189

Page 190: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nhân vật là những con người nói chung được miêu tả trong tác phẩm. Ơí đây, nhà văn có thể chỉ mới nêu lên một vài chi tiết về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động...cũng có thể miêu tả kĩ và đậm nét.

Tính cách là nhân vật được khắc họa với một chiều sâu bên trong. Nó như một điểm qui tụ mà từ đó có thể giải thích được mọi biểu hiện muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài của nhân vật.

Ðiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sự sâu sắc, là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá thể...Nói một cách nghiêm ngặt, thuật ngữ này chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau. Ngoài những loại nhân vật được trình bày, có thể nêu lên một số khái niệm khác về nhân vật qua các trào lưu văn học khác nhau. chẳng hạn, khái niệm nhân vật bé nhỏ trong văn học hiện thực phê phán, khái niệm nhân vật-con vật người trong chủ nghĩa tự nhiên, nhân vật-phi nhân vật trong các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa ở phương Tây.. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT

Ðể xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Ðiều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời và hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Ðây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.

Có nhiều biện pháp khác nhau trong việc xây dựng nhân vật. Ơí đây chỉ xét một số biện pháp chung, chủ yếu nhất: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động. 1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình. TOP

Ngoại hình là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm y phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo...Ðây là yếu tố quan trọng góp phần cá tính hóa nhân vật.

Nếu như văn học cổ thường xây dựng ngoại hình nhân vật với những chi tiết ước lệ, tượng trưng thì văn học hiện đại thường đòi hỏi những chi tiết chân thực và cụ thể sinh động. M. Gorki khuyên các nhà văn phải xây dựng nhân vật của mình đúng như những con người sống và phải tìm thấy, nêu lên, nhấn mạnh những nét riêng độc đáo, tiêu biểu trong dáng điệu, nét mặt, nụ cười, khóe mắt...của nhân vật.

Ngoại hình nhân vật cần góp phần biểu hiện nội tâm. Ðây cũng chính là sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong của nhân vật. Vì vậy, khi tính cách, đời sống bên trong của nhân vật thay đổi, nhiều nét bên ngoài của nhân vật cũng thay đổi theo.

Khi xây dựng ngoại hình nhân vật, nhà văn cần thể hiện những nét riêng biệt, cụ thể của nhân vật nhưng qua đó, người đọc có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của những người cùng nghề nghiệp, tầng lớp, thời đại...Những nhân vật thành công trong văn học từ xưa đến nay cho thấy nhà văn bao giờ cũng chọn lựa công phu những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật . 2. Miêu tả nhân vật qua biểu hiện nội tâm. TOP

190

Page 191: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Khái niệm nội tâm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong của nhân vật. Ðó là những tâm trạng, những suy nghĩ, những phản ứng tâm lí... của nhân vật trước những cảnh ngộ, những tình huống mà nó gặp phải trong cuộc đời. Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, việc thể hiện nhân vật qua nội tâm ngày càng có vai trò quan trọng. Trong văn học Việt Nam, so với các giai đoạn trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Tác phẩm chứng tỏ Nguyễn Du có khả năng nắm bắt một cách tài tình những ý nghĩ, tình cảm sâu kín của nhân vật và diễn tả nó một cách sinh động.

Sự biểu hiện hợp lí và sâu sắc nội tâm góp phần rất lớn tạo nên sức sống của nhân vật. Nói như L. Tônxtôi: "Mục đích chính của nghệ thuật...là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được". Ðể làm được điều đó, nhà văn phải hiểu sâu sắc cuộc sống và con người, nắm bắt được những biểu hiện và diễn biến dù nhỏ nhặt nhất đời sống bên trong của nhân vật. 3. Miêu tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật. TOP

Khái niệm ngôn ngữ nhân vật nhằm chỉ những lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Lời nói đó phản ánh kinh nghiệm sống cá nhân, trình độ văn hóa, tư tưởng, tâm lí, thị hiếu...Ðằng sau mỗi câu câu nói của mỗi con người đều có lịch sử riêng của nó. Sêđrin cho rằng: "Từ cửa miệng một người nói ra không hề có lấy một câu nào mà lại không thể truy nguyên đến cái hoàn cảnh đã khiến cho nó xuất hiện...Trong cuộc sống, không thể có những hành động, những câu nói mà đàng sau lại không có một lịch sử riêng". Quả là trong cuộc sống không thể có những người nói hoàn toàn giống nhau, vì vậy nhà văn cần phát hiện những nét riêng của ngôn ngữ nhân vật để thể hiện trong tác phẩm.

Trong các tác phẩm tự sự nói chung, lời nói của nhân vật thường chiếm tỉ lệ ít hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện nhưng lại có khả năng thể hiện sinh động và khêu gợi cho người đọc hình dung về bản chất, tính cách của nhân vật. Trong đoạn báo ân, báo oán của Truyện Kiều, mặc dù đang hồn lạc phách xiêu, Hoạn Thư vẫn biết lựa điều kêu ca:

Rằng: Tôi chút dạ đàn bà Ghen tương thì cũng người ta thường tình Nghĩ cho khi các viết kinh Ðến khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo

Lòng riêng, riêng những kính yêu Chồng chung, ai dê,ù ai chiều cho ai Trót đà gây việc chông gai Cũng nhờ lượng bể tha bài nào chăng? Những lời nói trên hoàn toàn phù hợp với con người khôn ngoan, thông minh,

lanh lợi, của Hoạn Thư. Trong các trào lưu văn học hiện thực, việc cá thể hóa nhân vật qua ngôn ngữ

nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm và được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, nhà văn có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại nhiều lần một số từ hoặc một số câu mà nhân vật thích (Biết rồi, khổ lắm, nói mãi của cụ cố Hồng

191

Page 192: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng), có thể để nhân vật sử dụng một số từ địa phương, từ nước ngoài, cách phát âm sai...nhưng dù sử dụng cách nào, ngôn ngữ của nhân vật cũng phải có sự chọn lọc nhằm đạt đến sự thống nhất giữa cá thể hóa và khái quát hóa, đồng thời cũng phải phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nhân vật. 4. Miêu tả nhân vật qua hành động. TOP

    Hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ các việc làm của nhân vật. Ðây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của người đó. Hơn nữa, trong các tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật không phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ quá trình phát triển của tính cách và thúc đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt truyện...Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa các nhân vật trong những tình huống khác nhau, người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản chất của nhân vật.

Thông thường, khi miêu tả hành động nhân vật, nhà văn thường kết hợp với những biểu hiện nội tâm tương ứng vì đằng sau mỗi hành động, bao giờ cũng có một tâm trạng hoặc một động cơ nào đó. Dùng nội tâm để lí giải hành động, sử dụng hành động để làm sáng tỏ nội tâm là một hiện tượng phổ biến trong việc miêu tả nhân vật. Trên đây là những biện pháp chung nhất trong việc xây dựng nhân vật. Ngoài những biện pháp trên, nhà văn còn có thể khắc họa nhân vật thông qua việc đánh giá của các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Ở những tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện là một yếu tố rất quan trọng trong việc bộc lộ, miêu tả và đánh giá nhân vật.

Việc phân biệt các biện pháp xây dựng nhân vật như trên chỉ có tính chất tương đối. Trong thực tế, các biện pháp này nhiều khi không tách rời mà gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì vậy, nhiều khi rất khó chỉ ra các biện pháp xây dựng nhân vật dưới một hình thức thuần túy và độc lập. Một điều cũng cần lưu ý là, nắm bắt các biện pháp trên đây cũng chỉ là nhằm mục đích hiểu một cách đầy đủ và chính xác về nhân vật trong tác phẩm văn học. 

Chương 4.

CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.

I. CỐT TRUYỆN 1. Cốt truyện và cơ sở của cốt truyện 2. Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua các giai đoạn lịch sử

văn học 3. Các thành phần chính của cốt truyện

II. KẾT CẤU

192

Page 193: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học 2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học

Chương 4.

CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC.

Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà chỉ

tồn tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,

truyện thơ...), kí và các tác phẩm kịch. Trong một số tác phẩm thuộc loại kí, không có

yêu cầu xây dựng cốt truyện một cách chặt chẽ. Loại tác phẩm trữ tình không có yếu

tố cốt truyện vì tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, tình cảm, ý

nghĩ cảm xúc...của tác giả, nó không đòi hỏi nhà văn phải xây dựng những sự kiện,

biến cố, hành động thành một hệ thống liên tục làm cơ sở cho sự triển khai các tính

cách.

I. CỐT TRUYỆN

1. Cốt truyện và cơ sở của cốt trụyên TOP

1.1.1. Khái niệm chung.

Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác

phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong

một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Cần phân biệt 2 khái niệm: cốt truyện và sườn truyện.

Thuật ngữ sườn truyện dùng để chỉ những nét bao quát nhất của một câu

chuyện, bao gồm những sự kiện chính, những biến cố chủ yếu cắm mốc cho sự phát

triển của cốt truyện. Nó có thể được vay mượn từ nước này sang nước khác, từ nhà

văn này sang nhà văn khác trong quá trình giao lưu văn hóa. Dĩ nhiên sự mô phỏng

sườn truyện không có nghĩa là sao chép của người khác mà vẫn có một khoảng rộng

193

Page 194: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

rãi cho sáng tạo của người nghệ sĩ. Việc Nguyễn Du vay mượn sườn truyện "Kim

Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân là một ví dụ cụ thể. Sự sáng tạo ấy được

thể hiện trên nhiều phương diện, từ thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, đến việc xây dựng

nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Cũng có thể nói như vậy giữa Iphighêni

của Euripidơ và Iphighêni của Racine, giữa Le Cid của De Catro và Le Cid của

Corneille.

-Nếu sườn truyện chỉ là cái khung thì cốt truyện đã là một hệ thống biến cố, sự kiện

cụ thể để diễn đạt cái khung ấy. Cốt truyện là sườn truyện đã được chi tiết hóa, hình

tượng hóa một cách cụ thể, sinh động qua một chủ thể sáng tạo. Có thể nói cốt truyện

là một cái gì độc đáo, không lặp lại, gắn bó trực tiếp với những yếu tố khác làm cho

tác phẩm văn học trở thành một chỉnh thể nghệ thuật.

Có thể kể lại sườn truyện một cách dễ dàng nhưng khó có thể kể lại đầy đủ cốt

truyện của một tác phẩm, nhất là một tác phẩm lớn. Khi có người đề nghị kể lại cốt

truyện của một tác phẩm, L Tônxtôi cho rằng cứ đọc toàn bộ tác phẩm sẽ khắc biết

cốt truyện là gì.

1.1.2. Cơ sở chung của cốt truyện.

- Cơ sở khách quan. Ðó là xung đột xã hội. Trong quá trình xây dựng tác phẩm,

nhà văn bao giờ cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội của thời

đại vào tác phẩm của mình. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được qui định

bởi những điều kiện lịch sử, xã hội mà nhà văn đang sống. Chính những điều kiện

lịch sử, xã hội khác nhau đã tạo nên sự khác nhau giữa các cốt truyện trong thần thoại

và cổ tích, giữa những truyện thơ Nôm và văn học hiện đại...Dostoiepxki nhấn mạnh

vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt truyện :

"Anh hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. anh hãy lấy những cái

do bản thân cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra được những

điều mà đôi khi cuộc sống bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn trọng cuộc

sống."

194

Page 195: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Không nên tuyệt đối hóa ý kiến của Dostoiepxki nhưng rõ ràng trong đời sống

văn học, nhất là trong văn học của các trào lưu hiện thực, nhiều cốt truyện đã được

xây dựng từ chính những câu chuyện ngoài cuộc đời. Cốt truyện của những tác phẩm

Bà Bovary của Flobert, Ðỏ và đen của Standhal. Nhiều cốt truyện của Tsêkhôp, L.

Tônxtôi, Dostoiepxki ...thường dựa vào những câu chuyện có thật ngoài cuộc đời và

trên báo chí...Ở Việt Nam, ta có thể kể đến cốt truyện của các tác phẩm Ðào kép mới

của Nguyễn Công Hoan, Chí phèo của Nam Cao, Ðất nước đứng lên của Nguyên

Ngọc, Hòn Ðất của Anh Ðức, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi...

- Cơ sở chủ quan.

Xung đột xã hội mới chỉ là cơ sở khách quan của cốt truyện vì vậy không thể đồng

nhất xung đột xã hội với cốt truyện. Khi nói đến cốt truyện, cần chú ý rằng, đó luôn

luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua cốt truyện, nhà văn vừa khái

quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá chủ quan

của họ đối với cuộc sống. Vì vậy, không thể bê nguyên xi những chuyện có thật

ngoài cuộc đời vào tác phẩm. Những xung đột xã hội phải được đồng hóa một cách

có nghệ thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu để xây dựng cốt truyện

theo hướng điển hình hóa. Vì vậy, cùng xuất phát từ một xung đột xã hội giống nhau,

những nhà văn khác nhau lại xây dựng những cốt truyện khác nhau nhằm thể hiện

quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà

văn đối với cuộc sống. Những xung đột xã hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại được

thể hiện qua nhiều cốt truyện khác nhau trong các tác phẩm của các nhà văn Ngô Tất

Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng ...là những thí dụ cụ thể.

Quá trình xây dựng cốt truyện là một quá trình lao động phức tạp và gian khổ.

Timôfiép có nhận xét về quá trình xây dựng cốt truyện của L. Tônxtôi như sau:

"Tất cả các cốt truyện của Tônxtôi đều được thai nghén nhiều năm và mỗi cốt

truyện đều có một lai lịch phức tạp và một số phận riêng của nó. Tônxtôi lo lắng về

các cốt truyện, giận dỗi đối với chúng như người sống vậy, đôi khi ông chán, mệt mỗi

vì chúng, vì sự vật lộn với tài liệu và ngôn từ để không ngừng hoàn thiện từng cốt

195

Page 196: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

truyện, từng tác phẩm. Trong đầu óc thiên tài của ông, trong các phòng thí nghiệm

tuyệt diệu ấy, bao giờ cũng có nhiều cốt truyện luôn luôn sống và vật chọi với nhau,

làm cho ông phải lần lượt chú ý tới chúng lúc nhiều hơn, lúc ít hơn".

2. Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật qua các giai đoạn lịch sử văn học.

TOP

Vai trò của cốt truyện và tính cách nhân vật được thể hiện khác nhau trong quá

trình phát triển của lịch sử văn học. Nhìn chung, có thể chia làm 2 thời kì lớn. Trong

văn học phương Tây, thời kì đầu bao gồm văn học Hy La đến văn học Trung đại.

Thời kì 2 đánh dấu bằng văn học thời phục hưng nhưng được thể hiện rõ nét nhất là

từ thế kỉ 18 trở về sau. Trong văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du được

coi là tác phẩm của thời kì đầu nhưng đồng thời cũng có những yếu tố đánh dấu cho

sự mở đường của thời kì sau. Thời kì này chỉ thực sự mở đầu từ thế kỉ 20.

1.2.1. Trong thời kì thứ nhất. Cốt truyện được coi là yếu tố đặc biệt quan

trọng, là nơi xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng tác là

sáng tác cốt truyện và người thưởng thức chủ yếu là thưởng thức cốt truyện. Nhà văn

chưa thể sáng tác được nếu chưa có được một cốt truyện hấp dẫn. Ơí đây, cốt truyện

qui định và chi phối tính cách. Nhà văn chưa xây dựng được tính cách có sự phát

triển hợp với logic đời sống mà chỉ dùng nó để triển khai cho hệ thống biến cố của

tác phẩm.

1.2.2. Trong thời kì thứ hai. Vai trò của cốt truyện và tính cách hoàn toàn thay

đổi. Cốt truyện không còn giữ vai trò chủ yếu mà thay vào đó là tính cách. Chính tính

cách quyết định cho sự diễn biến của cốt truyện. trong Một số kinh nghiệm viết văn

của tôi, Tô Hoài viết:

"Một sáng tác mà ta có thể thêm vào hay bớt ra bao nhiêu cũng được là một

sáng tác hỏng. Vì không thể nào kiểm tra chặt chẽ được khi vị trí của nhân vật đã

phải rút xuống hàng dưới cốt truyện. chỉ có nhân vật mới kiểm tra được cốt truyện,

nhân vật mới có quyền phân phối ý chính, ý phụ.".

196

Page 197: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Phêđin cũng có phát biểu tương tự:

"Trong việc xây dựng cốt truyện, nên xuất phát từ tính cách. Các nhân vật tạo

ra cốt truyện chứ không phục tùng cốt truyện".

Trong quá trình xây dựng tác phẩm, những nhà văn trong thời kì này thường

đặt tính cách vào hoàn cảnh nên tính cách phong phú, đa dạng và luôn phát triển theo

sự phát triển của hoàn cảnh. Nhà văn không ép nhân vật vào cốt truyện định trước

của mình. Tônxtôi kể lại rằng khi viết chương miêu tả tâm trạng của Vrônxki sau

cuộc gặp gỡ giữa anh với Anna và chồng nàng, ông bỗng nảy ra ý định là Vrônxki

phải tự sát. Và sau đó khi viết tiếp, tác giả thấy điều dó là tất yếu, không thể khác đi

được. Rõ ràng những thay đổi về số phận của nhân vật sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến

cốt truyện của tác phẩm.

Như vậy, trong văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện để

bộc lộ tính cách, cốt truyện được sử dụng để triển khai các tính cách

chứ không phải cốt truyện quyết định và chi phối tính cách như

trước kia. Nói như thế không có nghĩa là xem thường vai trò của cốt

truyện vì tính cách chỉ có thể được biểu hiện và phát triển thông

qua cốt truyện. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn

luôn cố gắng xây dựng những cốt truyện chân thực và hấp dẫn

đồng thời thể hiện được chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật.

3. Các thành phần chính của cốt truyện. TOP

Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình

phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao

gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc. Nhìn chung, một cốt truyện thường

có các thành phần chính sau:

1.3.1. Phần trình bày.

197

Page 198: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Phần này giới thiệu khái quát về bối cảnh xã hội, các điều kiện, nguyên nhân

làm náy sinh xung đột và tình hình buổi ban đầu của nhân vật. Hoàn cảnh ở đây

thường nằm trong trạng thái tĩnh, mâu thuẫn chưa vận động và phát triển, nhân vật

chưa đứng trước những thử thách nên chưa phát hu tính năng động của mình. Trong

Truyện Kiều, phần trình bày là phần giới thiệu tài sắc của chị em Thúy Kiều và gia

cảnh của họ. Cảnh Lí trưởng sai Trương tuần đóng cổng làng để thu thuế, cảnh thu

thuế ở đình làng, cảnh nghèo đói túng thiếu của gia đình chị Dậu là phần giới thiệu

của Tắt đèn.

1.3.2. Phần thắt nút.

Phần này đánh dấu sự kiện mà từ đó phát sinh mâu thuẫn, xung đột. Ðây chính

là biến cố đầu tiên của cả hệ thống biến cố tạo thành xung đột của cốt truyện. phần

thắt nút có nhiệm vụ bộc lộ trực tiếp những mâu thuẫn đựơc tích tụ một cách âm ỉ từ

trước, các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những thái độ,

chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó bộc lộ rõ tính cách. Cảnh gia biến

và việc Kiều phải bán mình chuộc cha là phần thắt nút của Truyện Kiều. Thắt nút của

Tắt đèn là cảnh tuần đinh, lính lệ đến đánh đập anh Dậu để đòi sưu thuế (chương IV)

1.3.3. Phần phát triển.

Ðây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự

kiện và biến cố khác nhau. tính cách nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này.

Nó có thể được thay đổi thông qua các bước ngoặt, môi trường khác nhau. phần phát

triển của Truyện Kiều là cuộc đời 15 năm lưu lạc, từ "chữ trinh đáng gíá nghìn vàng"

đến "tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa", là những chuỗi dài bi kịch "thanh lâu hai

lượt thanh y hai lần", là sự tiếp xúc với đủ các hạng người trong xã hội, là nỗi đau

khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều. Trong Tắt đèn, phần phát triển bao gồm

những sự kiện: đàn con bị đói, chồng bị bắt, chị Dậu một mình tất tả ngược xuôi cho

đến lúc người nhà lí trưởng ném cái xác lạnh ngắt, mê man bất tỉnh của anh Dậu vào

nhà. (từ chương V - XVII)

198

Page 199: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.3.4. Ðiểm đỉnh.

Còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột. Lúc này, xung

đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết theo một

chiều hướng nhất định. Ðiểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn

nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung tâm. Ðiểm đỉnh của Truyện

Kiều là khoảnh khắc đau xót nhất của đời Kiều: Từ Hải chết, Kiều phải đánh đàn cho

Hồ Tôn Hiến, bị ép gã cho thổ quan và cuối cùng nhảy xuống sông Tiền Ðường tự

vẫn. Ðiểm đỉnh của Tắt đèn là lúc chị Dậu bị dồn vào đường cùng đã xô tên Cai Lệ

và túm tên ngườn nhà của Lí trưởng "lẳng một cái, ngã nhào ra thềm" (chương

XVIII)

1.3.5. Phần kết thúc.(Mở nút)

Ðây là phần giải quyết xung đột của tác phẩm một cách cụ thể. Ởí đây, tác giả

trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. một cốt truyện tốt, bao

giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật của

cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù hợp với ước

muốn chủ quan của con người. Phần kết thúc của Truyện Kiều là Kiều được cứu

sống, là đoạn đoàn viên của Kiều với Kim Trọng và gia đình sau 15 năm luân lạc.

Trong Tắt đèn, chị Dậu từ lúc bị bắt lên hầu quan phủ, sau đó phải xa chồng, xa con

để đi làm vú hầu cụ cố nhà quan Tỉnh, đến lúc chị choàng dậy mở cửa chạy té ra sân

"Trời tối đen như mực, như cái tiền đồ của chị" là phần kết thúc của tác phẩm.

(chương XIX- XXVI)

Những thành phần chính trên đây tạo thành một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên,

trong thực tế văn học, không phải lúc nào cốt truyện cũng đầy đủ cả 5 thành phần

đồng thời cũng không phải được trình bày theo thứ tự như trên. Ơí một số cốt truyện,

có thể thiếu mất một vài thành phần, ở một số cốt truyện khác, có thể không có phần

mở đầu hoặc nhiều khi lại bắt đầu bằng phần kết thúc hoặc một biến cố gần với điểm

đỉnh. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành phần của cốt truyện, không nên gò

ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần này hay thành phần khác với những lí

199

Page 200: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và phân tích sự xây dựng cốt truyện có thể

hiện được những xung đột xã hội, sự phát triển của nó có phù hợp với qui luật cuộc

sống và có thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác giả hay không.

II. KẾT CẤU

1. Kết cấu và chức năng của kết cấu trong tác phẩm văn học.

TOP

2.1.1. Khái niệm.

Một tác phẩm văn học, dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh

thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận...Tất cả những yếu tố, bộ phận đó

được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một

nội dung nghệ thuật nhất định..gọi là kết cấu. Nói cách khác, kết cấu là toàn bộ tổ

chức nghệ thuật sinh động, phức tạp của tác phẩm văn học.

Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Nếu khái niệm cốt truyện nhằm chỉ sự

liên kết những sự kiện, hành động, biến cố...trong tác phẩm tự sự và kịch thì kết cấu

là một khái niệm rộng hơn nhiều.

Cần có sự phân biệt giữa kết cấu và bố cục. Bố cục là sự sắp xếp các phần, các

chương, các đoạn, các khổ thơ...Ðây chỉ là sự tổ chức hình thức bên ngoài của tác

phẩm. Nói cách khác bố cục mới chỉ là kết cấu bề mặt của tác phẩm. Thuật ngữ kết

cấu rộng và phức tạp hơn nhiều. Bên cạnh việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố của tác

phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong, những mối liên hệ qua lại giữa các

yếu tố thuộc về nội dung và hình thức của tác phẩm, trong đó có cả yếu tố của bố cục.

2.1.2. Chức năng của kết cấu.

Trước hết, kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác

phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có thể coi chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm

hướng tới của nhà văn trong quá trình phát hiện và xây dựng kết cấu. Tiêu chuẩn cao

nhất để đánh giá kết cấu một tác phẩm chính là hiệu quả diễn đạt nội dung của nó.

200

Page 201: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Khi Radinxki cho rằng kết cấu của tiểu thuyết Anna Karênina lỏng lẻo, đó là hai cuốn

tiểu thuyết với hai tuyến nhân vật (Anna- Vrônxki và Lêvin-Kitti) đứng cạnh nhau,

thì L. Tônxtôi đã viết thư trả lời ông: "Ngược lại, tôi tự hào với cách kết cấu: các vòm

đã được xây dựng thế nào mà không thể nhận ra được bộ đỡ ở đâu. Chính điều này

làm cho tôi phải cố gắng nhiều nhất. Mối liên hệ của công trình xây dựng không dựa

và sườn truyện và những mối quan hệ của các nhân vật, mà dựa vào mối liên hệ bên

trong". Phan Cự Ðệ khẳng định mối liên hệ bên trong "chính là tư tưởng chủ đề của

tác phẩm. Những tìm kiếm của Levin là một lời giải đáp cho những câu hỏi mà số

phận của Anna đặt ra. Anna phải li dị với chồng và sau đó phải tự vẫn vì không tìm

thấy trong xã hội một tình yêu chân chính còn Lêvin thì đi tìm một con đường xác lập

một thực tế có tình yêu. Anna thấy gia đình là một cái gì xa lạ đối với con người thì

Lêvin cố gắng đi tìm một gia đình thực sự trong đó có tình thương yêu giữa con

người với con người"

Trong tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã dành 2/3 tác phẩm để diễn tả hàng loạt

sự việc diễn ra trong 1 ngày. Tác giả đã cố gắng dồn nén tất cả những mâu thuẫn vào

trong một thời gian thật ngắn nhằm có điều kiện thể hiện một cách tập trung nhất bản

chất của bọn địa chủ, quan lại và nỗi điêu đứng, cơ cực, đau xót của người nông dân

đối với sưu cao, thuế nặng.

Trong bài thơ Mặt quê hương, Tế Hanh đã sắp xếp để tạo nên sự hòa nhập và

phản ánh, so sánh lẫn nhau giữa khuôn mặt người yêu và hình ảnh quê hương nhằm

thể hiện một chủ đề tư tưởng: Tình yêu dành cho quê hương là một tình yêu đằm

thắm, bền vững như một cái gì gắn bó, thân thiết nhất:

Mặt em như tấm gương,

Anh nhìn thất quê hương

Kìa đôi mắt đôi mắt

Dòng sông yêu trong vắt

201

Page 202: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Kìa vừng trán thanh thanh

Khoảng trời xưa trong lành...

Kết cấu có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính cách nhân vật, sự kiện, các biến

cố, hình ảnh, cảm xúc...làm cho những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại

ngay từ bên trong tác phẩm, làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn

không thể chia cắt được.

Trong đời sống văn học, đôi khi có người cho rằng một số tác phẩm có chủ đề

tư tưởng tốt nhưng tác phẩm vẫn chưa được cảm nhận như một chỉnh thể nghệ thuật.

Ðiều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng một phần quan trọng là do kết cấu.

Việc nhà văn sắp xếp các tình huống, sự kiện, mối liên hệ qua lại giữa các tính cách,

sự tác động giữa bộ phận và toàn thể...không phải đơn giản. Gônsarôp cho rằng "Chỉ

riêng một cách cấu tạo, tức là việc xây dựng tòa nhà cũng đã ngốn hết toàn bộ trí óc

của tác giả: Phải suy nghĩ cân nhắc về sự tham gia của các nhân vật, kèm theo vào

đó là phải luôn luôn kiểm tra và phê phán sự bất hợp lí của những chỗ thiếu, cả

những chỗ thừa".

Có thể nhìn thấy sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong tác phẩm văn học

qua "Suất sưu người chết" trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Những chi tiết của đoạn

văn trên có ý nghia tự thân nhưng đồng thời nếu thay đổi vị trí của nó, để nó xuất

hiện ngay từ đầu truyện và chị Dậu cùng một lúc chạy vạy cho đủ tiền để nộp suất

sưu thì ý nghĩa tố cáo của nó sẽ không cao. Sự sắp xếp đúng chỗ đã tạo nên sức mạnh

gấp nhiều lần ý nghĩa riêng của nó. Kim Thánh Thán cũng có nhận xét rất tinh về sự

sắp xếp hệ thống nhân vật trong Thủy hử : "Một bộ sách lớn 70 hồi, viết 108 người

nhưng mở đầu chưa viết 108 người vội mà miêu tả Cao Cầu trước đã: đó là vì nếu

không tả Cao Cầu trước mà viết ngay 108 người thì tức là loạn nẩy sinh từ dưới, nếu

không viết 108 người trước mà viết Cao Cầu trước thì tức là loạn nổi từ trên. Loạn

sinh từ dưới thì không thể để lâu được, tác giả rất lo là vậy. Một bộ sách lớn 70 hồi

mà mở đầu viết Cao Cầu trước, thật là có lí vậy."

202

Page 203: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Như vậy, kết cấu của tác phẩm bao giờ cũng tăng cường sức mạnh

nghệ thuật của tác phẩm văn học, tạo nên sức hấp dẫn cho người

đọc. Phân tích kết cấu tác phẩm, người đọc có thể so sánh nó với

các hình thức, thủ pháp kết cấu chung nhưng điều quan trọng là

phải xuất phát từ bản thân tác phẩm và xem nó có thể hiện tốt nhất

chủ đề tư tưởng của tác phẩm hay không.

2. Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học. TOP

Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng. Nó

có thể chịu sự qui định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự và kịch với kết cấu tác

phẩm trữ tình) của từng giai đoạn lịch sử khác nhau (có những hình thức kết cấu chỉ

tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng sau đó lại bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay

vào đó là một kết cấu mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới)... Vì vậy, khó có thể

xác định những hình thức kết cấu nếu thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên, ở đây có

thể tìm hiểu một số hình thức kết cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã

tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.

2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian.

Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từ trước 1930. Theo

kết cấu này, câu chuyện được trình bày theo thứ tự, phát triển trước sau của thời gian.

Các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng.

Hầu hết những tác phẩm chương hồi sử dụng lối kết cấu này. Ơí đây, tác phẩm được

chia thành nhiều chương, hồi théo sự phân bố về mặt hành động và sự kiện của cốt

truyện. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền với một giai đoạn nào đó của cốt truyện

và nhiêu khi khá trọn ven, loại kết cấu này gíup người đọc dễ theo dõi câu chuyện

nhưng nhiều khi lại đơn điệu.

2.2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

203

Page 204: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Nhà văn xây dựng 2

tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức,

hành động...Một bên đại diện cho lực lượng chính nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì

ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không khoan nhượng với nhau và thường kết

thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa. Hầu hết những truyện thơ Nôm ở Việt

Nam sử dụng kết cấu này.

Kết cấu này có tác dụng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối

chiếu giữa 2 tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên sự phân biệt khá rạch ròi giữa thiện và

ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực. Trong thực tế cuộc sống, các lực lượng

xã hội có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau chứ không tồn tại một cách ổn định

và tĩnh tại.

Hình thức kết cấu theo 2 tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải là

sự đối lập mà là 2 tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho nhau. Ở đây

mỗi tuyến tập họp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh sống, về tính

cách, đạo đức...Có thể coi Anna Karênina của L. Tônxtôi được xây dựng theo hình

thức kết cấu này.

2.3. Kết cấu đa tuyến.

Trong những bộ tiểu thuyết lớn, để khái quát về một bức tranh xã hội rộng lớn

gồm nhiều hạng người, nhiều mối quan hệ đan xen nhau, khai thác nhiều mặt khác

nhau của đời sống, các nhà văn thường sử dụng hình thức kết cấu theo tuyến nhân

vật. Trong những tác phẩm này, nhà văn tổ chức các nhân vật theo các tuyến dựa trên

những mối quan hệ về gia đình, nghề nghiệp, giai cấp... Trong Chiến tranh và hòa

bình, L. Tônxtôi đã xây dựng hai tuyến lớn và ở mỗi tuyến lớn lại có nhiều tuyến nhỏ

tập họp các nhân vật theo từng dòng họ, từng gia đình.

Hình thưc kết cấu này thường được sử dụng trong văn học hiện đại, nhất là

trong các tiểu thuyết lớn. Erenbourg có nhận xét về kết cấu của một số tiểu thuyết

trong thế kỉ XX:

204

Page 205: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

"Tiểu thuyết của thời đại ta có nhiều chỗ khác với tiểu thuyết thế kỉ XIX vốn

xây dựng trên lịch sử một con người hay một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại có

nhiều nhân vật hơn, số phận của họ đan chéo vào nhau, nhà văn thường hay đưa

người đọc từ thành phố này sang thành phố khác, đôi khi di sang một nước khác nữa,

cách kết cấu khiến ta nghĩ tới sự luân phiên của những đoạn cận cảnh với những

cảnh quần chúng trên màn ảnh". Có thể coi những bộ tiểu thuyết Sông Ðông êm đềm

của Sôlôkhôp hay Vỡ bờ của Nguyễn Ðình Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng ...sử

dụng lối kết cấu này.

2.4. Kết cấu tâm lí.

Ðây là hình thức kết cấu dựa theo qui luật phát triển tâm lí của các nhân vật

trong tác phẩm. Loại kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các trào lưu văn

học khẳng định vai trò của cá nhân trong xã hội. Kết cấu này thường dựa vào trạng

thái tâm lí có ý nghĩa nào đó để sắp xếp các sự kiện, nhân vật, cốt truyện...Trong

Sống mòn, Nam Cao đã sắp xếp nhiều mẫu chuyện vặt vãnh, quẩn quanh trong sinh

hoạt hằng ngày với những trạng thái tâm lí bi quan, bất lực, tự ti, khinh bạc...của các

nhân vật. Kết cấu đó góp phần thể hiện cuộc sống chật hep, tù túng, bế tắc của người

tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ.

2.5. Kết cấu trong tác phẩm trữ tình.

Những hình thức kết cấu trên tiêu biểu cho loại tác phẩm có cốt truyện: tác

phẩm tự sự và kịch. Loại tác phẩm trữ tình, tiêu biểu nhất là thơ trữ tình không có cốt

truyện nên cần xem xét cho phù hợp với đặc trưng thể loại: tác phẩm trữ tình chủ yếu

thể hiện trực tiếp tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Vì vậy, xây

dựng kết cấu trong tác phẩm trữ tình là sự tổ chức hệ thống cảm xúc, tâm trạng trong

quá trình vận động và phát triển của chúng. Một kết cấu tốt trong tác phẩm trữ tình

phải liên kết được các mạch thơ, dòng thơ, các biện pháp biểu hiện nhằm thể hiện tốt

nhất sự vận động cảm xúc nội tâm của nhân vật.

205

Page 206: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Có thể nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà văn khi xây dựng tác

phẩm, lựa chọn kết cấu nào bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của chủ đề tư

tưởng, tăng cường sức tác động thẩm mĩ của tác phẩm đối với người đọc. Các hình

thức kết cấu dù phong phú và đa dạng cũng chỉ là hữu hạn trong khi thực tế sáng tác

thì vô hạn. Tong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận dụng nhiều hình thức kết cấu

khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, không thể qui những tác phẩm cụ thể

vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần phải xem xét tác động nghệ thuật của kết

cấu đối với người đọc cũng như chức năng cụ thể của nó trong việc thể hiện chủ đề tư

tưởng của tác phẩm.

Chương 5.

LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

I. NGÔN NGỮ VÀ LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

1. Phân biệt ngôn ngữ và lời văn (lời nói)

TOP

Trong "Giáo trình ngôn ngữ học đại cương", F. De Saussure đã đưa ra một phân biệt nổi tiếng giữa ngôn ngữ (langue) và lời nói (parole). Theo ông, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tạo thành một kho tàng dự trữ trong tư duy của một cộng đồng người. Mỗi kí hiệu bao gồm hai phương diện gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy: cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt trong ngôn ngữ gọi là vỏ vật chất còn cái được biểu đạt là khái niệm. Giữa chúng có mối quan hệ võ đoán tuyệt đối hay tương đối do qui ước của xã hội mà nhiều khi không thể giải thích một cách tường tận được.

Lời nói là sản phẩm của cá nhân, là sự vận dụng kho tàng ngôn ngữ của từng người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ngôn từ trong tác phẩm là một kiểu lời nói (lời văn) nghệ thuật do nhà văn sáng tạo trên cơ sở sản phẩm xã hội mà ông ta tiếp thu được. Lời văn nghệ thuật này chính là đối tượng của sự tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học.

2. Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật.

TOP

    Ðặc điểm chung của văn học nghệ thuật là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nhưng trong mỗi bộ môn và loại hình nghệ thuật khác nhau, các hình tượng có những

206

Page 207: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

đặc điểm cụ thể riêng. Những đặc điểm cụ thể đó của hình tượng được qui định bởi chất liệu và phương tiện riêng. Trong nghệ thuật tạo hình, hội họa sử dụng đường nét, màu sắc; điêu khắc dùng hình khối nhằm trực tiếp miêu tả các hiện tượng của đời sống. Trong nghệ thuật biểu hiện, âm nhạc sử dụng âm thanh, múa dùng điệu bộ, dáng vẻ đã được cách điệu hóa...Trong loại hình nghệ thuật tổng hợp, người ta sử dụng nhiều phương tiện của các ngành nghệ thuật khác nhau nhằm phục vụ cho việc diễn xuất.

Văn học, một loại hình nghệ thuật độc lập, phát triển song song với các loại hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ làm phương tiện diễn đạt. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là phương tiện diễn đạt riêng của văn học. Nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống cũng sử dụng ngôn ngữ. Vậy, ngôn ngữ văn học có gì khác so với các lĩnh vực khác?

3. Ðặc trưng của lời văn nghệ thuật. TOP

1.3.1. Tính chính xác, trong sáng có thể được coi là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Chỉ với những lời văn chính xác, trong sáng, nhà văn mới có thể biểu hiện một cách đúng đắn và đầy đủ những sắc thái, cảm xúc, những điều mà nhà văn muốn diễn đạt. Ngôn ngữ nói chung có thể diễn đạt được mọi thứ nhưng để đạt được điều đó, nhà văn phải vật lộn, học hỏi, tích lũy... Nói như một nhà văn: "Trên đời không có sự giày vò nào ghê gớm hơn sự giày vò của ngôn ngữ" hoặc như Maiacôpxki từng viết:

Làm thơ

Chẳng khác gì khai thác

Chất hiếm radium

Lấy một gam

Mất hàng năm lao lực

Chỉ mỗi một từ

Có khi mất đứt

Hàng trăm nghìn

Tấn quặng xỉn ngôn từ.

(Nói chuyện với người thanh tra tài chánh)

207

Page 208: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tính chính xác của lời văn nghệ thuật cần được hiểu không phải theo nghĩa cơ giới, toán học mà là sự diễn đạt hoàn hảo nhất một tâm trạng, một sự vật, một ý nghĩ, một hiện tượng bằng một từ duy nhất đúng. Guy de Maupassant cho rằng "Ðối tượng mà anh (nhà văn) muốn nói đến, dù là cái gì đi nữa, cũng chỉ có một từ biểu hiện nó". Người ta thường nhắc đến việc chọn lựa từ ngữ trong sáng tạo nghệ thuật qua câu chuyện "thôi, xao". Một hôm, Giả Ðảo (779-843), một nhà sư hoàn tục cưỡi ngựa về Tràng An. Ông đương bận nghĩ đến 2 câu thơ vừa mới sáng tác:

Ðiểu túc trì biên tụ

Tăng thôi nguyệt hạ môn"

(Chim đậu ở cây bờ ao

Nhà sư đẩy cửa dưới trăng)

Giả Ðảo băn khoăn không biết nên dùng chữ thôi (đẩy cửa) hay xao (gõ cửa). Ông buông cương, huơ tay bắt chước nhà sư lúc đẩy cửa, lúc gõ cửa. Ngựa đi vào đám quân của một vị quan đang đi kinh lí. Quân lính bắt Giả Ðảo trình quan. May thay, viên quan đó chính là Hàn Dũ. Sau khi nghe Giả Ðảo bày tỏ sự việc, Hàn Dũ suy nghĩ và góp ý nên dùng chữ "xao" (gõ). Có lẽ gõ gợi lên được hình tượng về âm thanh. Sau này, người ta thường dùng chữ "thôi, xao" với ý nghĩa là cân nhắc từng chữ để sửa chữa bài văn, bài thơ cho thật tốt.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng hàng loạt các từ khác nhau để chỉ người phụ nữ nhưng ở mỗi lời văn lại có những sắc thái khác nhau:

- Ðau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

-Hồng quân với khách hồng quần

Ðã xoay đến thế vần vần chưa tha.

- Rằng: hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

- Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

- Canh khuya bức gấm rủ thao

Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.

208

Page 209: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Cớ sao chị tốt một bề

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao.

..............

Lời văn nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm khắc để có được những từ diễn đạt một cách đắc địa nhất tư tưởng, tình cảm của mình.

1.3.2. Tính hàm súc. Ðặc điểm này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, nghĩa là nói và viết sao cho "lời chật mà ý rộng", là sử dụng một số lượng chất liệu tối thiểu mà đạt được hiệu quả nghệ thuật tối đa. Mượn ý của Tô Ðông Pha, Lê Quí Ðôn viết: "Ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên hạ. Song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt".

1.3.3. Tính mơ hồ, đa nghĩa cũng là một đặc điểm của lời văn nghệ thuật dù đây cũng là đặc điểm dễ nhận thấy trong lời nói hằng ngày. Trong văn học, tính mơ hồ, đa nghĩa được nhân lên và trở thành một đặc điểm nổi bật bởi vì người nghệ sĩ thường hướng tới lời văn mơ hồ, đa nghĩa nhằm tạo nên những tầng lớp nghĩa khác nhau, nhằm "khêu gợi vô số những tư tưởng, những quan niệm, những cách giải thích". Ðiều này về bản chất có thể phân biệt khá rõ giữa lời văn nghệ thuật và lời văn trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.

1.3.4. Tính tạo hình và biểu cảm. Một đặc trưng có tầm quan trọng nhất nhằm phân biệt lời văn nghệ thuật với lời văn thuộc các lĩnh vực khác là tính tạo hình và biểu cảm. Tạo hình là tạo nên một lời văn giàu hình ảnh, tái tạo đối tượng trong hình thái cụ thể, không lặp lại của nó. Chỉ bằng tính chất tạo hình, nhà văn mới làm sống lại một cách cụ thể , cảm tính những dáng vẻ riêng biệt . Bên cạnh đó, lời văn nghệ thuật còn biểu hiện những cảm nhận độc đáo của nhà văn với tư cách là nghệ sĩ và những nhà văn lớn bao giờ cũng có những độc đáo trong phong phong cách. Tsêkhôp quan niệm "nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả"

Hai phẩm chất tạo hình và biểu cảm được kết hợp một cách hữu cơ, xuyên thấm vào nhau và trong nhiều trương hợp, khó thể tách rời. Vì vậy cần nhìn chúng là một đặc điểm thống nhất của lời văn nghệ thuật: tạo hình để biểu cảm, biểu cảm để tạo hình, trong tạo hình có biểu cảm và ngược lại.

Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao.

II. CÁC PHƯƠNG TIỆN XÂY DỰNG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

Lời văn nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương tiện của ngôn ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các phương thức tu từ...đến các hình thức ngôn từ

209

Page 210: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

vốn có trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc như từ cổ, tiếng địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở thành di sản nghệ thuật dân tộc. Như vậy, những phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật cũng được sử dụng trong những lĩnh vực khác nhưng điểm khác nhau ở đây là lời văn nghệ thuật có chức năng xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc thù. Có thể xét các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật trên các góc độ:

1. Xét từ góc độ ngữ âm. TOP

Lời văn nghệ thuật gắn liền với các yếu tố: thanh, vần, âm, nhịp điệu...Những yếu tố này thường tạo được những hiệu quả đáng kể. Trong văn học, khi nhà văn chọn lựa thanh bằng hoặc trắc, trầm hay bỗng, mở hay khép, nhịp điệu khoan hay nhặt...đều có ảnh hưởng đến việc biểu hiện nội dung. Người xưa thường nói "Thi trung hữu nhạc". Lê Ðình Diên viết: "Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hổ trợ của thơ, tình rung động phát ra thành thanh, người ta có thanh mà sau đó có ý".

Chẳng hạn, giọng điệu của một nhân vật trong Sống mòn của Nam Cao: "Tiền giai đưa gái có đòi được cái đếch người ta". bốn phụ âm đ gần nhau, tạo ra một giọng điệu bất cần, có phần đểu cáng. Hoặc "Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ăc, hi hí, hô hố". Các câu thơ của Tản Ðà:

Tài cao phận thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương.

Có 5 thanh trắc cuối và hai phụ âm cuối tắt thanh hầu (p,t) tạo nên sự uất nghẹn. Bảy thanh bằng kết hợp với các âm cuối vang (n, ng), 3 âm tiết mở (ô, ê, ê) tạo nên sự rộng mở, thanh thoát, phù hợp với tâm trạng thoát trần.

Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu...có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.

2. Xét từ góc độ từ vựng. TOP

Là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ. Ðây là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại: từ đồng nghĩa , phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn giáo..Ðể tạo nên lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng lúc lúc, đúng chỗ. Chế Lan Viên có những câu thơ rất hay về vấn đề này:

Mỗi ngày gặp một người, họ là một mảnh của thiên tài nhân loại.

Máu và mồ hôi người góp nên bao hình ảnh ngữ ngôn,

210

Page 211: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà đời rơi vải

Tất cả, một người, dù lạ hay quen đều viết cho thơ anh một chữ.

Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang,

3. Xét từ góc độ ngữ nghĩa. TOP

Các phương tiện chuyển nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng để tạo nên những khả năng biểu hiện của lời văn. Ðó là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự tương ứng của hai hiện tượng, hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện tượng kia. Chức năng chung của các phương tiện chuyển nghĩa là làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan ý nghĩa khác nhau. Có thể nói đến các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:

2.3.1. So sánh.(Ví von) là hình thức được sử dụng quen thuộc nhất trong tác phẩm văn học. Nó đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng.

-Ðôi ta làm bạn thong dong.

Như đôi đũa bạc nằm trong mâm vàng. (ca dao).

-Lòng em như quán bán hàng

Lòng anh như khách qua đàng dừng chân. (ca dao).

- Nhớ ai như nhớ thuốc lào

Ðã chôn điếu xuống lại đào điếu lên (ca dao).

So sánh thường dùng các liên từ: như , giống như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giữa hai vế nhiều người vẫn không sử dụng từ so sánh:

- Lòng anh, giếng ngọt trong veo.

Trăng thu trong vắt, biển trời trong xanh (ca dao).

- Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

211

Page 212: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

2.3.2. Ẩn dụ. (ví ngầm) là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so sánh:

- Thuyền về có nhớ bến chăng?

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền .

- Tiếc thay một đóa trà mi

Con ong đã tỏ đường đi lối về (Kiều)

- Em tưởng nước giếng sâu em nối sợi gàu dài

Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây. (ca dao).

2.3.3. Nhân hóa là hiện tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người.

-Vì sương nên núi bạc đầu

Biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa (ca dao)

Hoặc trò chuyện, bày tỏ với một đối tượng không phải người:

Núi cao chi lắm núi ơi,

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (ca dao)

2.3.4. Phúng dụ là một ẩn dụ được phát triển bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường mang tính chất ngụ ý. Ðây là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ cũng có 2 ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.

- Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

- Con kiến mày leo cành đa

Leo phải cành cụt leo ra leo vào

212

Page 213: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Con kiến mày leo cành đào

Leo phải cành cụt leo vào leo ra

Những bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, Con cáo và tổ ong, Bài ca sợi chỉ, Nhóm lửa... của Hồ Chủ Tịch đều được viết theo biện pháp phúng dụ. Loại này thường được sử dụng trong thơ, truyện ngụ ngôn.

2.3.5. Tượng trưng. Khi hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại trong tư duy của con người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng trưng. Chẳng hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình, diều hâu tượng trưng cho chiến tranh; tùng, cúc, trúc, mai làm người ta liên tưởng đến phẩm giá của con người. Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phát. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo seo mặt nước buổi đò đông.

2.3.6. Khoa trương là lối dùng từ cố ý thay đổi kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật nhằm đạt đến mục đích làm rõ bản chất của đối tượng và tăng hiệu quả biểu hiện:

Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn.

Lững lưng trời nhạn ngẫn ngơ sa

Hương trời đắm nguyệt say hoa

Tây Thi khiếp vía Hằng Nga giật mình. (Cung oán ngâm khúc)

Trong truyện Lang Rận, Nam Cao miêu tả bộ mặt của Lang Rận qua cái nhìn của bà Cựu: "Cái mặt ấy cho dù mỗi ngày có rửa ba lượt xà phòng, bà Cựu trông thấy vãn còn buồn nôn"

2.3.7. Nhã ngữ. Ngược lại với khoa trương. Ðây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của kích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết:

- Bác đã lên đường theo tổ tiên (Tố Hữu)

- Bác Dương thôi đã thôi rồi

213

Page 214: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta (Nguyễn Khuyến)

2.3.8. Phản ngữ vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:

- Ðức chúa trời của chúng mặt Sa Tăng. (Chế Lan Viên)

- Anh đã chết rồi, anh còn sống mãi (Tố Hữu)

2.3.9. Chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này mang nghĩa hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ sở.

- Bà già đi chợ cầu Ðông

Bói xem một qủ có chồng lợi chăng

Ông thầy xem quẻ đoán rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. (Ca dao)

-Dỡ dang dang dỡ vì sông

Ngày làm công nhật đêm trông dạ chàng (ca dao)

- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non (ca dao).

4. Xét từ góc độ cú pháp TOP

 Các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng gíúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn:

- Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san

- Bạc phơ mái tóc người cha. (Tố Hữu)

- Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị (Tế Hanh)

- Cỏ bên trời xanh một sắc Ðạm Tiên (Chế Lan Viên)

214

Page 215: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

-Màu thời gian xanh xanh,

Màu thời gian tím ngắt

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh (Màu thời gian. Ðoàn Phú Tứ)

Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Ðiều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật.

IV. CÁC THÀNH PHẦN LỜI VĂN NGHỆ THUẬT

Có thể chia lời văn nghệ thuật ra thành lời tác giả và lời nhân vật hay lời trực tiếp và lời gián tiếp.

1. Lời tác giả và lời nhân vật. TOP

 Lời tác giả thường chính là lời trần thuật hoặc miêu tả còn lời nhân vật là lời mà nhân vật trực tiếp nói lên trong tác phẩm.

Việc phân biệt như trên thực ra chỉ có tính chất ước lệ, tương đối bởi vì mọi lời văn trong tác phẩm thực chất đều là lời của tác giả. Mọi lời nói của nhân vật đều do tác giả hư cấu, sáng tạo nên. Tuy nhiên, sự phân biệt này vẫn có một ý nghĩa nhất định.

Ơí đây, có sự khác biệt giữa lời nhân vật trong văn học cổ và lời nhân vật trong văn học cận, hiện đại. Trong văn học cổ, lời nhân vật thường không được cá tính hóa rõ nét, thể hiện bản chất của nhân vật mà thường do sự gán ghép từ những suy nghĩ riêng của tác giả. Trong văn học cận, hiện đại, lời nhân vật được tác giả tôn trọng. Tác giả thường để cho nhân vật nói năng phù hợp với trình độ, suy nghĩ của chính họ. Nhân vật nói theo giọng điệu riêng của mình chứ không phải theo suy nghĩ chủ quan của tác giả.

2. Lời trực tiếp và lời gián tiếp. TOP

Lời trực tiếp chủ yếu là lời nhân vật và một bộ phận lời của tác giả thể hiện một cách trực tiếp trong tác phẩm. Lời trực tiếp trong tác phẩm chủ yếu là những câu đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác. Có thể kể đến một số lời trực tiếp.

Lời trực tiếp phù hợp là lời mà nhân vật nghĩ sao, nói vậy. Lời trực tiếp không phù hợp là lời nhân vật nghĩ một dằng, nói một nẽo, nghĩ ít, nói nhiều hoặc ngược lại. Chẳng hạn, đoạn Kiều suy nghĩ trước khi khuyên Từ Hải ra hàng và những lời

215

Page 216: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

của Kiều nói với Từ Hải. Ơí đây, cần hiểu lời nói của nhân vật không phải bằng câu chữ mà cần phải thấy ẩn ý, ý định của tác giả và nhân vật.

Lời gián tiếp là toàn bộ lời văn của tác giả hay người trần thuật có chức năng trình bày sự vật, hiện tượng như ngoại hình, môi trường, phong cảnh, sự kiện...vốn không tự nói được, được nói lên trong tác phẩm.

Theo Bakhtin, lời gián tiếp có thể chia làm 2 loại: lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp 2 giọng.

Lời gián tiếp một giọng là lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Lời gián tiếp hai giọng là lời tái hiện, bình phẩm các hiện tượng, hướng tới lời và ý thức người khác, tranh luận, phản bác hay đồng tình với chúng. loại này có thể có các dạng lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp của người kể chuyện và lời gián tiếp phong cách hóa.

Tùy theo từng loại tác phẩm khác nhau, hai loại lời văn trên có vị trí, vai trò khác nhau. Nếu như trong tác phẩm tự sự ì, lời gián tiếp giữ vai trò chủ đạo thì trong loại tác phẩm kịch, lời trực tiếp lại giữ vai trò chủ đạo và hạn chế tối đa lời gián tiếp. Trong loại tác phẩm trữ tình, sự phân bố 2 thành phần trên phức tạp hơn nhưng điều quan trọng trong lời văn tác phẩm trữ tình không phải ở 2 thành phần đó mà chủ yếu được thể hiện ở nhịp thơ, câu thơ, luật thơ...

Chương 2.

ÐỀ TÀI - CHỦ ÐỀ - TƯ TƯỞNG - Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM

VĂN HỌC.

I. ÐỀ TÀI 1. Khái niệm 2. Đề tài và đối tượng 3. Đề tài và hệ thống đề tài 4. Tính lịch sử - cụ thể của đề tài 5. Tính khách quan tương đối của đề tài

II. CHỦ ĐỀ 1. Khái niệm 2. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề 3. Chủ đề và hệ thống chủ đề 4. Một số chủ đề xuất phát từ

III. TƯTƯỞNG TÁC PHẨM

216

Page 217: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Khái niệm chung 2. Sự lý giải chủ đề 3. Cảm hứng tư tưởng   4. Tính điệu thẩm mĩ

IV. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM 1. Khái niệm chung 2. Những nguyên nhân tạo nên sự lý giải khác nhau về tác phẩm

Chương 2.

ÐỀ TÀI - CHỦ ÐỀ - TƯ TƯỞNG - Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM

VĂN HỌC.

I. ĐỀ TÀI

1. khái niệm. TOP

Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo thành

chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn

đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói, đề tài là khái niệm trung gian

giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hóa trong tác phẩm và bản thân đời sống.

Người ta có thể xác định đề tài trên 2 phương diện: bên ngoài và bên trong.

Nói đến phương diện bên ngoài là nói đến sự liên hệ thuần túy đến phạm vi hiện thực

mà tác phẩm phản ánh. Ơí đây, sự xác đinh đề tài thường dựa trên cơ sở các phạm trù

lịch sử- xã hội. Có thể nói đến đề tài chống Pháp, chống Mĩ, đề tài xây dựng chủ

nghĩa xã hội, đề tài công nhân, nông dân, bộ đội...

Tuy nhiên, để tránh sự đồng nhất đề tài và đối tượng phản ánh

và thấy được tính chất của phạm vi được phản ánh, cần phải đi vào

phương diện bên trong của đề tài. Ðó là cuộc sống nào, con người

nào...được thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác, đó chính là tính

chất của đề tài bên ngoài. Trong trường hợp này, đề tài chính là vấn

đề được thể hiện trong tác phẩm và trong nhiều trường hợp nó

217

Page 218: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

trùng khít với chủ đề. Chẳng hạn, Sống mòn của Nam Cao viết về

người trí thức tiểu tư sản nhưng đó là người trí thức tiểu tư sản quẩn

quanh, bế tắc, mòn mỏi. Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu viết về

người con gái giang hồ với cuộc sống đau đớn, tủi nhục và ước mơ

tốt đẹp của họ trong cuộc sống cũ...

2. Ðề tài và đối tượng. TOP

    Ðề tài gắn bó chặt chẽ với đối tượng nhưng không thể đồng nhất

2 khái niệm này. Ðối tượng là một phần của khách thể mà con

người có thể chiếm lĩnh, phù hợp với một nhu cầu, một năng lực

nhất định nhưng là cái nằm bên ngoài tác phẩm, chưa được chủ thể

nhận thức còn đề tài là đối tượng đã thông qua sự lựa chọn và miêu

tả, thể hiện trong tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác, đối tượng

là cơ sở của đề tài, là sự khái quát những phạm vi xã hội, lịch sử

trong tác phẩm.

3. Ðề tài và hệ thống đề tài. TOP

Trong tác phẩm văn học, thường không phải chỉ có một đề tài

mà có rất nhiều đề tài liên quan nhau, bổ sung cho nhau để tạo

thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng: "Hệ đề tài là toàn bộ

đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác". Chẳng hạn, Truyện Kiều của

Nguyễn Du vừa có đề tài về tình yêu, về hạnh phúc lứa đôi, về các

quan mặt sắt đen sì, về nông dân khởi nghĩa, về cuộc đời của các cô

gái lầu xanh...Các đề tài đó gắn bó chặt chẽ với số phận bi thảm

của nàng Kiều. Trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, bên cạnh đề tài về

cuộc sống bi thảm của người nông dân còn có các đề tài về cuộc

sống của bọn quan lại tham lam, ích kỉ, về cuộc đời của các em bé

nghèo khổ... Như vậy, khi nói đến đề tài của một tác phẩm hoặc của

văn học nói chung, thực chất không phải chỉ nói một đề tài mà là cả

một hệ thống đề tài.

218

Page 219: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

4. Tính lịch sử -cụ thể của đề tài. TOP

Ðề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà

nhà văn đang sống, vì vậy nó mang tính lịch sử xã hội sâu sắc. Tìm hiểu quá trình

phát triển của lịch sử văn học, có thể nhận thấy trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau,

thường nổi lên những loại đề tài trung tâm khác nhau. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ

18 nửa đầu thế kỉ 19, đề tài về số phận của người phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể

trong trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn từ 1945-1975,

đề tài về người chiến sĩ cách mạng, về những người công nhân tiên tiến lại nổi lên

hàng đầu.

Có những đề tài dường như thường được lặp đi lặp lại trong văn

học ở mọi nơi và mọi thời đại. Chẳng hạn đề tài về tình yêu và hạnh

phúc, chiến tranh và hòa bình, sự sống và cái chết...Có người cho

rằng đấy là những đề tài vĩnh cửu của văn học. Thật ra, đó chỉ là

một cách nói. Bởi vì, ngay chính một nhà văn khi viết về một phạm

vi cuộc sống thì đề tài của tác phẩm cũng đã là một cái gì mới mẻ,

không lặp lại.

5. Tính khách quan tương đối của đề tài.

TOP

-Khách quan. Ðề tài có tính khách quan vì bản thân nó chưa thể hiện tính

tư tưởng. Những nhà văn có lập trường tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau

vẫn có thể cùng viết về một đề tài. Raxun Gamzatôp từng viết:

"Ðừng nói: trao cho tôi đề tài.

Hãy nói: Trao cho tôi đôi mắt".

Chế Lan Viên có lần nói về thơ Tố Hữu: "Hãy đi tìm tình cảm, tư tưởng công

nhân hơn là đi tìm ống khói trong thơ Tố Hữu."

-Tương đối. Tính khách quan của đề tài cũng chỉ mang tính tương đối vì xét

219

Page 220: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

đến cùng, đề tài ít nhiều cũng gắn bó với thế giới tinh thần của nhà văn. Sự quan tâm

và hứng thú của nhà văn đối với một loại đề tài nhất định nào đó nhiều khi cũng xuất

phát từ chỗ đứng, quan điểm tư tưởng, thậm chí từ khuynh hướng chính trị của nhà

văn đó.

Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận xét về đề tài của một số nhà văn như sau: "Trong

thực tế của đời sống văn học, thường thấy hiện tượng này: các nhà văn dù lớn đến

đâu cũng chỉ có một vùng đề tài ưa thích nhất và ông ta chỉ có thể viết hay về những

đề tài ấy mà thôi. Khi vì một lí do nào đó, ông ta hướng ngòi bút ra ngoài khu vực đề

tài ấy, thì ông ta không còn sắc sảo nữa, tác phẩm trở nên nhạt nhẻo, hình tượng

thiếu sức sống, thiếu linh hồn, tài năng dường như rời bỏ ông ta. Thiếu thực tế

chăng? Không hẳn như vậy. Chẳng hạn, Nguyễn Ðình Thi đâu phải thiếu thực tế về

những ngày sôi sục của Cách mạng tháng Tám mà chính ông là một nhân chứng?

Nhưng trong Vỡ bờ, những trang tương đối xem được chỉ có ở tập 1 khi viết về đất

nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ, tối tăm, cơ cực. Ðến tập 2, càng về cuối, càng

thấy nhạt nhẻo, sơ lược: ấy là nhữg trang mô tả cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 và đất

nước vùng lên tức nước vỡ bờ. Có lẽ Nguyễn Ðình Thi là cây bút sinh ra để làm thơ,

soạn nhạc hơn là viết văn xuôi, chỉ có thể viết hay về đất nước mình đẹp trong đau

khổ, bất hạnh:

"Anh yêu em như yêu đất nước,

Vất vả, đau thương, tươi thắm vô ngần.

Không phải ngẫu nhiên mà con người ấy chọn viết Nguyễn Trãi ở Ðông quan

chứ không phải Nguyễn Trãi ở Lam Sơn. Và câu thơ hay nhất trong bài Ðất nước là

những câu thơ viết về Hà Nội đẹp một cách hoang vắng, hiu hắt trước Cách mạng

tháng 8 "Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau

lưng thềm nắng lá rơi đầy" và những câu thơ viết về đất nước bị giày xéo, cào xé

trong cuộc kháng chiến chống Pháp "Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép

gai đâm nát trời chiều" (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, tr12-13).

220

Page 221: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

II. CHỦ ĐỀ

1. Khái niệm. TOP

Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách

khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác

phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Có thể nêu lên một số chủ đề của các tác

phẩm:

Tắt đèn của Ngô Tất Tố tập trung phản ánh số phận bi thảm của người nông

dân do chế độ sưu thuế, sự bóc lột tàn khốc trong xã hội thực dân nửa phong kiến.

Chí phèo của Nam Cao lại tập trung tô đậm vấn đề tha hóa, biến chất của một bộ

phận nông dân và ước mơ làm người lương thiện của họ. Trong Truyện Kiều, Nguyễn

Du nêu bật lên số phận bi kịch của người phụ nữ, những ước mơ vươn tới hạnh

phúc, vấn đề đấu tranh để thực hiện tự do và công lí. Qua Vợ nhặt,

Kim Lân đã phản ánh cuộc sống khốn khổ của nhân dân ta trong

nạn đói khủng khiếp năm 1945 và tình cảm hướng về cách mạng

của họ đồng thời nêu lên một vấn đề có ý nghĩa nhân bản sâu sắc :

Ðó là cái tình trong cuộc sống đời thường của những người lao động

trong một hoàn cảnh gần như hoàn toàn bế tắc. Trong Mùa lạc,

Nguyễn Khải quan tâm đến sự thay đổi số phận của những con

người đã từng chịu nhiều bất hạnh trong xã hội cũ, nay đã tìm lại

được niềm vui, hạnh phúc và chỗ đứng trong xã hội mới.

2. Mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề. TOP

-Chủ đề luôn được xây dựng từ một đề tài nhất định. Nói cách khác, chủ đề

không phải là một cái gì bên trên, bên ngoài đề tài mà xuất phát từ ý đồ, từ những gợi

ý của những hiện tượng cuộc sống cụ thể thông qua cái nhìn, quan niệm của nhà văn.

Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hiện thực khách quan và tư tưởng chủ

quan của nhà văn. Vì vậy, cùng viết về một đề tài gần gũi, nhà văn vẫn nêu lên được

những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc vào tài năng, khả năng thâm nhập đời sống

221

Page 222: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn.

Từ đề tài về các cô gái giang hồ trong xã hội cũ, các nhà văn có thể nêu lên

những chủ đề không giống nhau. Có thể thấy rõ điều này qua những bài thơ chữ Hán

của Nguyễn Du, Lời kĩ nữ của Xuân Diệu; Ðời mưa gió của Nhất Linh và Khái

Hưng; Tiếng hát sông Hương của Tố Hữu...

Từ đề tài về miếng ăn, nhiều tác giả đã đặt ra những vấn đề rất khác nhau: Ngô

Tất Tố tiếp cận với miếng ăn như một điều kiện để tồn tại (Làm no), Nam Cao nêu

lên những vấn đề về nhân cách (Một bửa no, Tư cách mỏ, Trẻ con không được ăn thịt

chó, Sú vơ nia, Sống mòn....); Nguyễn Tuân lại chú trọng đến miếng ăn như một giá

trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc ( Giò lụa, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm,

Phở, Cốm...) ...Trần Ðăng Khoa nhận xét về vấn đề miếng ăn, vấn đề cơm áo trong

tác phẩm Nam Cao có lẽ chưa thực xác đáng và thấu đáo: "Văn chương của Nam Cao

cũng rất gần với văn chương của Tsêkhôp, Lỗ Tấn nhưng khoảng cách tầm cỡ thì

hình như vẫn còn xa nhau lắm. Sở dĩ có cái khoảng cách ấy cũng là vì ở chỗ, Lỗ Tấn

và Tsêkhốp quan tâm đến nỗi đau ở cõi tinh thần còn Nam Cao lại để tâm trí đến

cái bụng (Tào VĂn Ân nhấn mạnh). Ðọc ông ấy, trang nào cũng thấy đói. Mà văn

học chỉ luẩn quẩn xung quanh miếng ăn, cũng khó mà lớn được" (Chân dung và đối

thoại)

Chủ đề gắn bó với đề tài nhưng nhiều khi nó vượt qua những giới

hạn của những đề tài cụ thể mà nêu lên những vấn đề khái quát,

rộng lớn hơn. Không nên nghĩ rằng viết về đề tài nông dân, công

nhân, trí thức... thì chủ đề cũng sẽ bị hạn định với những tầng lớp cụ

thể, xác định đó. Những tác phẩm văn học lớn, bên cạnh việc phản

ánh những nội dung lịch sử xã hội cụ thể, bao giờ cũng từ đó, nêu

lên những vấn đề chung có ý nghĩa khái quát về thân phận, nỗi đâu,

hạnh phúc của con người. Vì vậy, không nên hạn chế ý nghĩa của

chủ đề trong phạm vi đề tài xác định.

3. Chủ đề và hệ thống chủ đề. TOP

222

Page 223: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trong một tác phẩm, thường không phải chỉ có một chủ đề duy

nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo

thành một hệ thống chủ đề (Pospelôp gọi là hệ vấn đề). Trong hệ

thống chủ đề, có thể nổi lên vài chủ đề có ý nghĩa trung tâm, quán

xuyến toàn bộ tác phẩm. Ðó là chủ đề chính. Bên cạnh đó, có những

chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi bật chủ đề

chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề

không có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng đắn chủ đề

chính, chủ đề phụ sẽ góp phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa

của tác phẩm.

4. Một số chủ đề xuất phát từ những đề tài lịch sử, thiên nhiên, khoa học...

TOP

Nhà văn sáng tác bao giờ cũng nêu lên những vấn đề liên quan đến thời đại

mình nhưng vì một lí do nào đó, nhà văn có thể không viết về những đề tài đương

thời hoặc trực tiếp liên quan đến những vấn đề xã hội nóng bỏng. Vì vậy, có một số

tác phẩm viết về các đề tài lịch sử, thiên nhiên, khoa học...Ở đây, tác phẩm có thể nêu

lên hai chủ đề nhưng không cùng trên một bình diện: chủ đề nổi bên trên không trực

tiếp biểu hiện nội dung xã hội và một chủ đề ẩn bên dưới kín đáo bộc lộ một ý nghĩa

sâu xa về những vấn đề xã hội nóng bỏng. Ðây là một lối viết bóng gió, khai thác tối

đa tính đa nghĩa của hình tượng văn học. Trong cuộc họp với hơn 100 nhà hoạt động

văn hóa và văn nghệ sĩ vào ngày 7.10.1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho

rằng :"Sáng tác tác phẩm đụng đến nhà quan liêu mệnh lệnh nào đó đương chức

đương quyền là điều khó nhưng phải dũng cảm bằng cách này cách khác mà viết. Có

khi phải mượn chuyện đời xưa để nói làm ai đó phải giật mình, phải thấy nhột. Trước

đây, có những tác phẩm vì thế mà phải xổ tọet, tác giả phải hứng chịu nhiều sự phiền

toái, thậm chí lao đao nhưng có phải vì thế mà ta phải uốn cong ngòi bút cho hợp

khẩu vị của những con người xấu ấy không? Tôi cho rằng nếu phải làm như vậy thì

người nghệ sĩ mất hết chất cách mạng rồi".

Chủ đề và nhất là đề tài là phương diện khách quan của nội dung tư tưởng của

223

Page 224: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tác phẩm. Nó giúp người đọc nhận biết tác phẩm đề cập và nêu ra những vấn đề gì

của đời sống hiện thực. Gọi là khách quan vì chủ yếu nó bắt nguồn từ hiện thực, do

hiện thực gợi ý mặc dù có sự lựa chọn, suy ngẫm của nhà văn. Khách quan ở đây cần

được hiểu với ý nghĩa tương đối của nó.

III. TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

1. Khái niệm chung. TOP

Nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác

phẩm văn học cũng như những vấn đề nhân sinh được đặt ra trong đó.

Tư tưởng là linh hồn, là hạt nhân của tác phẩm, là kết tinh của những cảm

nhận, suy nghĩ về cuộc đời...Do yêu cầu của tư duy khái quát, người ta thường đúc

kết tư tưởng của tác phẩm bằng một số mệnh đề ngắn gọn, trừu tượng. Thực ra, tư

tưởng náu mình trong những hình tượng sinh động, những cảm hứng sâu lắng của tác

giả. Biêlinxki cho rằng: "Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam đoạn luận, không

phải là giáo điều mà là một ham mê sống động, đó là cảm hứng".

Nếu có thể coi đề tài và chủ đề thuộc về phương diện khách quan thì tư tưởng

tác phẩm thuộc về phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm.

Tư tưởng tác phẩm văn học là sự khái quát của cả hai phương diện: lí giải,

nhận thức và khát vọng của nhà văn thể hiện trong tác phẩm thông qua hình tượng

nghệ thuật. Nó gắn bó chặt chẽ với đề tài và chủ đề và được biểu hiện tập trung ở ba

phương diện: Sự lí giải chủ đề, cảm hứng tư tưởng và tình điệu thẩm mĩ.

2. Sự lí giải chủ đề. TOP

3.2.1. Khái niệm. Chủ đề và sự lí giải chủ đề có liên quan với nhau nhưng không

phải là một. Nếu chủ đề chú ý đến vấn đề đặt ra trong tác phẩm xuất phát từ hiện thực

thì sự lí giải chủ đề lại quan tâm đến sự giải thích, cắt nghĩa, nhận thức của nhà văn

về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm dựa trên một quan điểm nhất định nào

đó. Ðây là phương diện rất cơ bản trong nội dung tư tưởng của tác phẩm.

224

Page 225: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chủ đề của Tắt đèn là cuộc sống bị bần cùng hóa của người nông dân Việt

Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng tác giả không chỉ nêu ra cuộc sống đó mà còn

lí giải nó. Trên lập trường nhân đạo chủ nghĩa, Ngô Tất Tố cắt nghĩa, giải thích cuộc

sống khổ đau, bế tắc đó đồng thời bộc lộ rõ thái độ, quan điểm, cảm xúc của mình

trước những hiện tượng khác nhau của cuộc sống. Qua sự lí giải chủ đề, người đọc sẽ

thấy được sức khái quát và sự hiểu biết sâu sắc của nhà văn về cuộc đời.

3.2.2. Biểu hiện của sự lí giải chủ đề trong tác phẩm.

Sự lí giải chủ đề có thể được biểu hiện trong tất cả những yếu tố của tác phẩm

nhưng nhìn chung thường được xem xét trên 2 mặt: những lời thuyết minh trực tiếp

của tác giả, của nhân vật và tính khách quan của hình tượng nghệ thuật, lôigic của sự

mô tả. Hai mặt này nhìn chung thường thống nhất với nhau. Người đọc cần chú trọng

đến tính khách quan của hình tượng nghệ thuật hơn bởi vì ý nghĩa của tác phẩm chủ

yếu được biểu hiện thông qua hình tượng nghệ thuật chứ không phải là ở những phát

ngôn trực tiếp của tác giả.

Hai mặt này có khi mâu thuẫn với nhau, nhất là trong văn học cổ. Trong

Truyện Kiều, Nguyễn Du nhiều lần nêu lên quan niệm "hồng nhan bạc mệnh", "hồng

nhan đa truân", "tài mệnh tương đố"...để giải thích cho thân phận long đong, chìm

nổi của Kiều nhưng thông qua toàn bộ hình tượng nghệ thuật, thông

qua logic của sự miêu tả, người đọc có thể nhận ra được số phận

của Kiều không phải do "trời xanh", "hóa công" ...mà chính là do

những lực lượng thống trị xã hội lúc bấy giờ. Ở đây, sự lí giải vấn đề

đầy mâu thuẫn nhưng đó lại là một trong những điều làm cho

Nguyễn Du vĩ đại và bất tử.

3. Cảm hứng tư tưởng của tác phẩm. TOP

3.3.1.Khái niệm. Ngay từ thời cổ Hy Lạp và sau này Hégel và Biêlinxki đều đã

dùng từ cảm hứng (tiếng Hy Lạp cổ: Pathos) để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn,

225

Page 226: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

một tình cảm nồng nàn, sâu sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi

là thái độ tư tưởng-tình cảm đối với những điều được miêu tả.

Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật thiết

với nhau nhưng không phải là một. Cảm hứng tư tưởng là tình cảm mãnh liệt, một

ham muốn tích cực, là tư tưởng của nhà văn được thể hiện cụ thể, sinh động trong

hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Bến không chồng của Dương Hướng thể hiện

tâm trạng khắc khoải, một ước mơ về hạnh phúc đích thực của cuộc đời thường, là sự

cảm thông sâu sắc với những con người đã chịu nhiều mất mát. Tràng giang của Huy

Cận là một nỗi buồn mênh mông, vô tận trước cảnh trời rộng, sông dài, là sự nhỏ bé,

cô đơn của con người trước cái vô cùng của thiên nhiên, vũ trụ...

3.3.2. Sự thể hiện của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học.

Có 2 khả năng thể hiện rõ nét cảm hứng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm

qua thái độ- tư tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện tượng, tính cách được

miêu tả: khẳng định hoặc phủ định đối với những điều được miêu tả. Khẳng định lí

tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái xấu, là sự đồng tình, cảm thông, ngợi

những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các thế lực đen tối. Ðiều này làm cho

tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng, "thiên vị" đối với những nhân vật lí tưởng

mà tác giả yêu mến và cho phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin

khẳng định:"Nếu thiếu một tư tưởng thiên vị (không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên

tạc người khác mà là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm) thì sẽ không có

sức sống sôi động. Ngẫu nhiên, rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn

nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng. Không tình tiết nào có thể bù đắp

cho thiếu sót đó".

Trong văn học, mối tương quan giữa 2 khả năng này có thể khác nhau tùy

thuộc vào từng giai đoạn văn học, vào từng nhà văn cụ thể.

Cảm hứng bắt nguồn từ tình cảm nhưng đó là tình cảm nhiều chiều, phức hợp chứ

không phải đơn điệu. Những hài kịch của Molière, phía sau nụ cười là những giọt

226

Page 227: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nước mắt. Nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương, bên cạnh giọng điệu tưởng chừng như

bỡn cợt là nỗi xót xa sâu sắc về thân phận của người phụ nữ, là sự khẳng định giá trị

của người phụ nữ...

Cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình

tượng nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái

"loa" phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bài thơ "Không chồng mà

chữa" của Hồ Xuân Hương là sự khẳng định tình yêu, là sự cảm

thông sâu sắc về sự cả nể của cô gái. Ðó không phải là điều tội lỗi,

không phải là một điều vô đạo đức. Tác giả không trực tiếp lên án

xã hội phong kiến nhưng những câu thơ tự nó đã nói lên điều đó.

4.Tình điệu thẩm mĩ (Cảm hứng thẩm mĩ).

TOP

Cùng với các khái niệm đề tài, chủ đề, sự lí giả chủ đề, cảm hứng tư tưởng...nội dung

tư tưởng của tác phẩm còn được khái quát và biểu hiện qua tình điệu thẩm mĩ.

3.4.1. Khái niệm chung. Tình điệu thẩm mĩ là hệ thống những giá trị được khái

quát và thể hiện trong tác phẩm. Mọi tác phẩm văn học trong khi phản ánh hiện thực

đều tái hiện những lớp hiện tượng đời sống giá trị thẩm mĩ nhất định, độc đáo và

không lặp lại. Chính điều này làm cho tư tưởng của tác phẩm khác với tư tưởng trong

các lĩnh vực khác.

Tình điệu thẩm mĩ là toàn bộ không khí, mùi vị, cảm giác, hơi thở, nhịp điệu

tiêng bao trùm lên tác phẩm. Qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, người đọc cảm

nhận cái không khí dữ dội và rợn ngơp, là nỗi đau thương và khắc khoải trước những

mất mát của chiến tranh và hậu quả của nó. Nhiều bài thơ của Huy Cận để lại một ấn

tượng bát ngát, mênh mông, vô tận của không gian, vũ trụ. Thơ Nguyễn Bính là sự

bâng khuâng, sâu lắng và tha thiết về tình yêu. Trần Ðình Sử cho rằng "Tình điệu này

có thể là cái bát ngát của bình minh trên biển, cái dịu êm của đêm trăng, cái dìu hiu

nơi thôn vắng, cái dữ dội của dông tố, cái mênh mang của đất trời...dó có thể là cái

mĩm cười của sự sống, niềm bâng khuâng trước đổi thay. Ðó là toàn bộ cái không

227

Page 228: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

khí, mùi vị, cảm giác đầy ý nghĩa mà con người hít thở và thấy mình tồn tại ở trong

đó". Vì vậy cũng thật khó để chỉ rõ và phân biệt rạch ròi tình điệu thẩm mĩ và các yếu

tố khác trong tác phẩm.

3.4.2. Tình điệu thẩm mĩ và cảm hứng tư tưởng. Hai khái niệm này gắn bó

chặt chẽ, khó thể tách rời nhưng cũng có thể phân biệt ở những mức độ nhất định.

Cảm hứng tư tưởng là niềm say mê, nhiệt tình khẳng định hay phủ định, thể

hiện tinh thần chiến đấu nhằm bảo vệ công lí, lẻ phải...Tình điệu thẩm mĩ là phẩm

chất, giá trị thẩm mĩ của nội dung tác phẩm. Chẳng hạn, chất trào phúng, châm biếm

trong thơ Hồ Xuân Hương là tình điệu thẩm mĩ thì cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm

của bà lại là nhiệt tình khẳng định những tình cảm tự nhiên đáng quí ở con người

đồng thời là sự phê phán, căm giận đối với lễ giáo khắc khe của xã hội. Tình điệu

thẩm mĩ trong bài thơ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng của Chế Lan Viên thiên về

cái đẹp, cái anh hùng của thời đại và con người còn cảm hứng tư tưởng là sự khẳng

định, tôn vinh con người và cuộc sống đó...Tình điệu thẩm mĩ có thể được khái quát

vào các phạm trù mĩ học như cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả, cái bi, cái hài và các

biến thể của chúng. chẳng hạn, cái sầu, cái hận, cái thống thiết,cái buồn...là các dạng

khác nhau của cái bi; chất humour, châm biếm, trào lộng...là các dạng của cái hài; sự

hài hòa, cân đối, hoàn thiện, cái xinh xắn là sự biểu hiện của cái đẹp; cái lớn lao, phi

thường, mênh mông, bát ngát...là sự biểu hiện của cái cao cả. Nói về tình điệu thẩm

mĩ trong tác phẩm, ông Trần Ðình Sử cho rằng: "Có thể nói tới chất châm biếm, u-

mua của Nhật kí trong tù bên cạnh chất trữ tình cổ điển và chất văn xuôi hiện đại. Có

thể nói tới cái bát ngát trong nhiều bài thơ Huy Cận, cái thống thiết trong thơ Phan

Bội Châu, cái buồn trong thơ moiứ, cái hận sầu trong một số thơ cổ...Cần hiểu đó là

các biểu hiện cụ thể, độc đáo của các phạm trù thẩm mĩ". Chính các tình điệu thẩm

mĩ này góp phần vào việc bộc lộ rõ tư tưởng của tác phẩm văn học.

Tóm lại, những yếu tố được trình bày trên tồn tại thống nhất hữu cơ trong tác

phẩm và sự phân biệt chúng với nhau cũng chỉ có tính chất tương đối.

IV. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

228

Page 229: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Khái niệm chung. TOP

Nói đến ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn học là nói đến sự đánh

giá, thẩm định các phương diện thuộc về nội dung tư tưởng tình

cảm, nội dung nhận thức, nghệ thuật, sự chân thành của tình

cảm....được thể hiện trong tác phẩm. Vấn đề đặt ra là những ý

nghĩa và giá trị đó do đâu mà có ? Bởi vì có một thực tế là trước

cùng một tác phẩm, người đọc nói chung và giới phê bình, nghiên

cứu nói riêng có thể có những cảm nhận và đánh giá không giống

nhau, thậm chí trái ngược nhau? Tại sao có tác phẩm chỉ tồn tại

trong một thời gian ngắn ngủi so với cuộc đời của tác giả nhưng

cũng có những tác phẩm tồn tại mãi mãi với thời gian? Trả lời những

câu hỏi này một cách đầy đủ và đúng đắn đòi hỏi người nghiên cứu

không chỉ hiểu được đặc trưng của lí luận sáng tác mà còn phải chú

ý đến lí luận tiếp nhận, lí luận về cảm thụ văn học. Trong phần này,

chúng tôi chỉ nêu lên một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc lí

giải, nhận định khác nhau về ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn

học qua các giai đoạn phát triển của lịch sử nghiên cứu và phê bình

văn học.

2. Những nguyên nhân tạo nên sự lí giải khác nhau về tác phẩm . TOP

4.2.1. Nguyên nhân từ phía người đọc.

Tác phẩm văn học được sáng tác là để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm

chỉ tồn tại với tư cách là một tác phẩm đích thực khi nó đến với người đọc. Người

đọc ở đây là một khái niệm hết sức rộng lớn, bao quát, đa dạng, phức tạp...bao gồm

các tầng lớp người khác nhau về giai cấp, dân tộc, trình độ văn hóa, lứa tuổi, giới

tính, kinh nghiệm, năng khiếu, cảm xúc thẩm mĩ... với những động cơ và mục đích

đọc tác phẩm khác nhau. Chính sự khác biệt này là một nguyên nhân quan trọng

trong việc định giá tác phẩm văn học.

229

Page 230: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Tính chủ quan của ngừơi đọc.

Có một quan niệm tương đối phổ biến ở phương Ðông cũng như ở phương Tây

khẳng định vai trò chủ quan của người đọc trong việc tiếp nhận, thưởng thức và đánh

giá tác phẩm. Những người theo quan niệm này cho rằng đọc tác phẩm không phải là

tái hiện lại một cách trung thành những điều tác giả đã gửi gắm và thể hiện trong tác

phẩm mà chủ yếu là tìm kiếm tâm hồn mình qua tác phẩm, người đọc là người kể lại

tâm hồn mình qua những kiệt tác (A.France). Kim Thánh Thán cho rằng: Tôi ngày

ngày sở dĩ phê bình Mái Tây thật là vì người sau họ nghĩ tới tôi, tôi muốn có gì làm

quà cho họ, cho nên bất đắc dĩ mà làm việc đó. Tôi thực không rõ ý đồ của người

viết Mái Tây có quả đúng như vậy hay không? Nếu quả cũng như thế, thì ta có thể

nói rằng nay mới bắt đầu thấy rõ Mái Tây...Bằng không như vậy thì ta có thể nói là

trước đây vẫn thấy Mái Tây nhưng nay lại thấy có riêng vở Mái Tây của Thánh Thán

cũng được. Việc tiếp nhận tác phẩm văn học ở đây như là một hành động gửi gắm

tâm sự của người đọc. Ðịnh cho tác phẩm một ý nghĩa và giá trị có phù hợp với

những vấn đề ẩn chứa trong tác phẩm hoặc với ý định của tác giả hay không không

phải là điều quan trọng mà quan trọng là ở vai trò của chủ thể cảm thụ. Ingarden nhấn

mạnh Có bao nhiêu độc giả và có bao nhiêu sự đọc mới cho cùng một tác phẩm thì có

bấy nhiêu những thành tựu mà chúng ta gọi là sự cụ thể hóa của tác phẩm. Rolland

Barthes còn cực đoan hơn Khi đọc tác phẩm tôi đặt sự đọc vào cái tình huống của

tôi...Tình huống hay thay đổi làm ra tác phẩm chứ không tìm lại được tác phẩm; tác

phẩm không thể phản đối, chống lại cái ý nghĩa mà tôi gán cho nó.

- Tính khách quan của người đọc.

Lí giải sự cảm thụ, đánh giá tác phẩm khác nhau dựa trên cơ sở chủ quan của

người đọc là đúng đắn. Nếu như trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, dấu ấn cá nhân

được thể hiện đậm nét thì trong lĩnh vưcû nghiên cứu, cảm thụ nghệ thuật cũng có

tình trạng tương tự. Tuy nhiên, sẽ hoàn toàn sai lầm khi cho rằng người đọc là yếu tố

hoàn toàn chủ quan trong việc xác định giá trị của tác phẩm văn chương. Bởi vì nếu

vậy thì sẽ không lí giải nổi nhiều hiện tượng văn học khác nhau: Tại sao có một số

230

Page 231: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tác phẩm được đánh giá cao ở giai đoạn này nhưng đến giai đoạn khác thì hoàn toàn

ngược lại? Tại sao trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, người ta lại thường chú ý

và khai thác một cách khác nhau một vài yếu tố nào đó trong tác phẩm ? Tại sao sau

khi xem xong một tác phẩm nghệ thuật, người đọc nói chung đều có thể có một ấn

tượng chung nào đó về tác phẩm, về một số nhân vật ? (Trương Phi, Quan Công,

Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Sở Khanh...). Chính vì vậy, khi nói đến giá trị tư tưởng

nghệ thuật của tác phẩm, không thể tách rời với những hoàn cảnh văn hóa-lịch sử- xã

hội nhất dịnh.

Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm văn chương phụ thuộc vào vai trò chủ quan của

người đọc, đặc biệt là những người đọc chuyên nghiệp (những nhà phê bình, nghiên

cứu). Nhưng người đọc ở đây là những con người cụ thể và sống trong một môi

trường, một hoàn cảnh xã hội, một thời kì lịch sử nhất định. Vì vậy, người đọc ở mỗi

thời đại khác nhau sẽ có cái nhìn không hoàn toàn giống nhau về giá trị của tác phẩm.

Nếu coi sáng tạo nghệ thuật là một hoạt động mang tính khuynh hướng xã hội mạnh

mẽ thì tiếp nhận nghệ thuật cũng không thể thoát li khỏi những điều kiện lịch sử

trong những thời kì nhất định. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học, mỗi cá

nhân đến với tác phẩm không chỉ đem đến cho nó cái tôi mà còn cả cái ta nữa.Người

đọc sẽ cắt nghĩa, định giá cho tác phẩm trên cơ sở lập trường giai cấp, lợi ích dân tộc,

xã hội, nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ không giống nhau qua từng thời kì lịch sử nhất

định. Khrapchenkô đã dẫn lời của Biêlinxki để nói về Puskin như sau: Puskin thuộc

về những hiện tượng mãi mãi tồn tại và vận động không dừng lại ở điểm bắt gặp cái

chết mà tiếp tục được phát triển trong ý thức xã hội. Mỗi thời đại sẽ nói lên sự phán

xét của mình về những hiện tượng ấy, và cho dù nó có hiểu đúng đến đâu chăng nữa

thì bao giò nó cũng để dành lại cho thời đại tiếp sau nó nói lên một điều gì đó mới

mẻ và đúng đắn hơn, và chẳng bao giờ một thời đại nào lại có thể nói hết tất cả .

Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, có thể coi Truyện Kiều của Nguyễn Du

là một trường hợp tiêu biểu cho sự khai thác những phương diện khác nhau của tác

phẩm qua các thời đại khác nhau như trường hợp mà Biêlinxki đã nêu lên với Puskin.

Một trong những khái niệm quan trọng để giải thích tính chất quyết định ý

231

Page 232: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nghĩa và giá trị của tác phẩm qua từng thời kì lịch sử nhất định là tầm văn hóa hoặc

tầm đón nhận của công chúng. Ðây là khái niệm do nhà triết học và xã hội học người

Ðức là Các Manheim nêu ra, được Hans Robert Jauss vận dụng vào việc nghiên cứu

văn học. Jauss phân biệt có sự tiếp nhận bên trong và sự tiếp nhận bên ngoài. Nếu sự

tiếp nhận bên trong chủ yếu mang tính cá nhân, chủ quan thì tiếp nhận bên ngoài lại

mang tính khách quan. ...sự tiếp nhận bên ngoài là sự gặp gỡ bị qui định bởi những

điều kiện khách quan; sự tiếp nhận ở đây mang những hình thức lịch sử nhất định.

Ðó là sự gặp gỡ của một truyền thống văn hóa này với tác phẩm của một truyền

thống văn hóa khác, vì vậy nó diễn ra trên bình diện xã hội và văn hóa- lịch sử.

Chính sự tiếp nhận bên ngoài này mới tác động quyết định đến sự hình thành và

chuyển hóa tầm đón nhận của độc giả. Tất nhiên, nếu không có sự tiếp nhận bên

trong thì sự tiếp nhận bên ngoài không thể nào phát huy tác dụng một cách sâu xa

được.

Trong văn học Việt Nam, vấn đề xác định giá trị của những tác phẩm thuộc

dòng văn học lãng mạn giai đoạn 1930-1945 cũng là một bằng chứng tiêu biểu cho

vai trò của thực tế văn hóa- xã hội- lịch sử trong việc cảm nhận văn học. Ngay từ khi

những bài thơ đầu tiên của phong trào Thơ mới ra đời, một tầng lớp công chúng mới,

chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những quan niệm mới về văn học đã

nhiệt tình ủng hộ và đánh giá cao thì đồng thời cũng chịu sự phản ứng quyết liệt của

những nhà Nho cũng như những người đọc đã quen với những chuẩn mực của thơ ca

cổ điển. Nếu có thể coi những năm từ 1936 dến 1945 thơ ca lãng mạn được đánh giá

là những tác phẩm có giá trị, thì sau năm 1945 cho đến những năm đầu của thập kỉ

80, tình hình lại hoàn toàn thay đổi. Do hoàn cảnh chiến tranh với những điều kiện

sống khó khăn, ác liêt, do nhận thức mục đích quan trọng nhất của lịch sử không phải

là vấn đề số phận cá nhân, mơ mộng của con người mà là vấn đề đôc lập dân tộc, vấn

đề giải phóng giai cấp...văn học lãng mạn nói chung và thơ mới nói riêng đã bị xem

là một bộ phận văn học tiêu cực, có hại cho cách mạng...Ở giai đoạn này, không phải

chỉ những nhà phê bình phủ nhận văn học lãng mạn mà ngay chính những nhà thơ

lãng mạn đã tham gia vào cuộc kháng chiến như Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế

232

Page 233: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Ðoàn Phú Tứ...cũng đã lên tiếng phủ nhận tác phẩm

của mình. Từ 1986 trở lại đây, do sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, những tác phẩm

của dòng văn học lãng mạn lại được đánh giá cao với một cái nhìn mới mẻ và sâu

sắc. Người đọc nói chung và giới nghiên cứu phê bình nói riêng laiû phát hiện ở Thơ

mới cũng như ở những tác phẩm của tổ chức Tự lực văn đoàn những khía cạnh mới

mẻ mà hình như trước đó người ta chưa hề phát hiện và khẳng định bộ phận văn học

này đã góp phần to lớn vào quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam hiện đại.

4.2.2. Nguyên nhân từ phía bản thân tác phẩm.

Khẳng định giá trị của tác phẩm văn chương từ tính chất chủ quan, cá nhân

cũng như tính chất khách quan do những điều kiện lịch sử- văn hóa xã hội qui định

chủ yếu cũng mới chỉ xác định giá trị của tác phẩm từ phía người đọc. Nhưng nếu giá

trị của tác phẩm văn chương chỉ chịu sự qui dịnh của người đọc thì sẽ không giải

thích được tại sao tác phẩm này lại đứng vững và tồn tại mãi với thời gian còn tác

phẩm khác thì ngược lại ? Thực ra, giá trị của tác phẩm không chỉ do người đọc, thời

đại mang đến mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính bản thân tác phẩm. Và có

thể nói đây là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định vì nó giúp cho ta giải

thích được lí do người đọc cảm nhận, đánh giá tác phẩm khác nhau. Nói như

Khrapchenkô, nội dung của tác phẩm dù được xem là biến đổi như thế nào trong các

thời kì lịch sử khác nhau vẫn không phải là được mang từ ngoài vào mà là vốn chứa

đựng trong bản thân chúng. Như vậy, giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ

thuật nằm ngay trong chính bản thân nó nhưng không phải được thể hiện rõ ràng, đơn

nghĩa. Giá trị của tác phẩm được xác định và ý nghĩa của nó được khai thác không

giống nhau một phần hết sức quan trọng là do các đặc điểm nội tại của nó, là do tính

mơ hồ, đa nghĩa ở nhiều phương diện, đặc biệt là ở tính chất và chiều sâu của những

khái quát nghệ thuật mà tác giả thể hiện trong tác phẩm.

Một trong những đặc trưng quan trọng của tác phẩm văn học là tính mơ hồ, đa

nghĩa và cũng từ đặc trưng này, người đọc khó nắm bắt được đầy đủ và đánh giá

thống nhất với nhau về một tác phẩm. Vấn đề này đã được các nhà lí luận, nghiên cứu

233

Page 234: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

văn học đề cập đến từ lâu.Tạ Trân, nhà thi thoại đời Minh cho rằng: Thơ có chỗ khả

giải, bất khả giải, bất tất giải, giống như hoa dưới nước, trăng trong gương, không

cần câu nệ tới dấu tích. Vương Sĩ Trinh cũng cho rằng thơ khó ở chỗ nếu không giải

thích được thì thơ vô vị, mà giải thích được thì thơ hết vị.

Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, văn học phản ánh đời sống trong tính toàn

vẹn, sinh động thông qua hình tượng nghệ thuật với một cấu trúc phức tạp, đa dạng

nhằm thể hiện những cảm nhận và khái quát của nhà văn về cuộc đời. Chính vì vậy

người đọc không dễ gì nắm bắt được một cách đầy đủ ý nghĩa vốn có của nó. Sẽ

không có gì quá đáng nếu có người coi tính mơ hồ, đa nghĩa không chỉ là nét đặc

trưng của văn học mà còn gắn liền với số phận lịch sử của nó.

Tính mơ hồ, đa nghĩa trước hết được biểu hiện ở ngôn ngữ. Ðây vốn là thuộc

tính của ngôn ngữ toàn dân nhưng khi sáng tác nhà văn luôn có ý thức hướng về một

ngôn ngữ mang tính hàm súc, đa nghĩa, gợi nên ở người đọc những cách giải thích,

những mối tương quan khác nhau,làm cho một chữ mà nghĩ ba năm chưa xong, giảng

nghìn năm chưa hết(Nguyễn Cư Trinh). Ðây cũng chính là một trong những nguyên

nhân tạo nên sức sống, chiều sâu và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm văn học.

Theo W. Empơxơn, mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, một ý định biểu

hiện nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích khác nhau. GS. Trần Ðình

Sử đã tóm tắt những loại ý nghĩa mơ hồ của ngôn ngữ văn học mà Empơxơn đã nêu

ra như sau : 1. Nói vật này mà như nói tới vật khác vì giữa những sự vật ấy có nhiều

điểm giống nhau;2. Ý nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh

cho phép; 3. Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều thông; 4. Lời trần

thuật của tác giả có mâu thuẩn, không nhất trí, nhưng đều thể hiện trạng thái chung

của tư tưởng của nhà văn;5.Tác giả vừa viết ý này nhưng lại hé ra một ý khác chân

thực hơn thuộc về vô thức; 6. Ý nghĩa mặt chữ của lời trần thuật vừa trùng lặp vừa

mâu thuẫn khiến cho người đọc có thể giải thích trái ngược nhau; 7. Một từ có hai

nghĩa, hai loại giá trị mơ hồ nhưng lại là hai ý nghĩa trái ngược nhau do văn cảnh

qui định.. Sau Empơxơn, các nhà nghiên cứu cũng nói đến các biện pháp chuyển

234

Page 235: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nghĩa để tạo nên tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ văn học như mỉa mai, nhại,

nghịch lí, song quan, tượng trưng...

Bên cạnh ngôn ngữ, tính cách nhân vật cũng thường là một yếu tố tạo nên

những cảm nhận khác nhau, đặc biệt là các điển hình nhânhà vănật. Những nhân vật

được xây dựng thành công trong văn học xưa nay thường không bao giờ đơn giản

một chiều mà luôn phong phú, phức tạp. Họ là những con người cụ thể, sinh động

nhưng đồng thời cũng mang trong mình những vấn đề của một thời đại, những vấn đề

của con người nói chung, nó có những nét nhòe, khó xác định mà không phải thời đại

nào cũng có thể hiểu được... Nếu coi tác phẩm văn học như một hình thức tranh luận

của nhà văn về đời sống thì sự tranh luận đó được thể hiện rõ nét qua các nhân vật mà

nhà văn đem hết tâm huyết của mình để xây dựng nên. Những nhân vật điển hình

càng sâu sắc, càng phổ biến bao nhiêu thì khả năng biểu hiện phẩm chất người ở mức

độ này hay mức độ khác qua các thời kì lịch sử khác nhau càng lớn bấy nhiêu. Hainơ

nhận xét về nhân vật Clêôpâtre của Sêchxpia như sau : Nàng Clêôpâtre đó quả là một

người đàn bà. Nàng yêu đồng thời là phản nghịch. Nàng khiến tôi nghĩ tới một câu

nói của Raxin: Thượng đế khi sáng tạo đàn bà đã dùng một thứ đất quá nhão. Cái

chất liệu quá nhão ấy không đủ đáp ứng với đòi hỏi của sức sống. Cái sản phẩm ấy

quá tốt mà cũng quá ư không tốt. Chỗ đáng yêu nhất của nàng lại chính là cái lí do

khiến nàng trở thành đáng ghét nhất.

Những nét tính cách ở nhân vật Kiều không phải chỉ do người đọc mang đến

và gán cho nàng mà trước hết nằm ngay trong chính bản thân nàng. Nguyễn Công

Trứ không thông cảm với Kiều và coi Kiều như một cô gái hư hõng không phải hoàn

toàn vô lí khi ông đứng trên quan niệm đạo đức phong kiến và quan niệm sáng tác

văn dĩ tải đạo. Cái hư hỏng, nếu có thể gọi là hư hỏng, nằm ngay trong chính bản thân

Kiều khi cô đã vượt quyền cha mẹ, đã xăm xăm băng lối vườn khuya một mình, đã

Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường...mà hàng trăm năm sau Hoài Thanh cũng

như bao nhiêu người khác còn phải ngẫn ngơ ...Cái suy tính thiệt hơn của Kiều khi

khuyên Từ Hải ra hàng không phải ai cũng có thể thông cảm được...Những người

khác cảm phục Kiều, đánh giá cao tấm lòng nhân hậu, thủy chung, son sắc hoặc khát

235

Page 236: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

vọng giải phóng cho ý thức cá nhân...cũng chính là sự phát hiện ra những phẩm chất

vốn có trong chính bản thân Kiều...Kiều không phải là tấm gương để giáo dục đạo

đức phong kiến cho mọi người mà trước hết và trên hết, nàng là con người của đời,

nàng là tiếng nói của Nguyễn Du về thân phận con người. Ở mỗi thời đại khác nhau,

người đọc lại phát hiện những nét tính cách vốn có ở Kiều phù hợp với quan niệm

thẩm mĩ của mình, với thời đại của mình chứ không thể gán ghép một cách tùy tiện

được.

Trong khi xây dựng các hình tượng nhân vật, nhất là những nhân vật chính,

nhà văn bao giờ cũng gửi gắm vào đó những tư tưởng tình cảm của mình. Ở những

nhà văn lớn, tư tưởng- tình cảm thường cũng không đơn giản, một chiều mà là một

phức hợp, đa dạng bao gồm những nỗi niềm, tâm sự, những lời kí thác, những điều

mà nhà văn gửi gắm cho độc giả với nhiều cách diễn đạt khác nhau. Nhà văn có thể

diễn đạt trực tiếp quan niệm của mình qua ngôn ngữ chính luận hoặc thông qua hình

tượng nghệ thuật, ẩn chứa trong các chi tiết, trong cách xử lí về không gian thời gian,

trong kết cấu, trong giọng điệu...mà không phải người đọc thời nào cũng chú ý để có

thể phát hiện hết được. GS Hoàng Ngọc Hiến có nhận xét tinh tế về yếu tố giọng điệu

để nói lên quan niệm về cuộc đời mà Nguyễn Du thể hiện thông qua 6 câu triết luận

mở đầu như sau : Muốn hiểu Truyện Kiều , phải bắt được cái giọng của tác giả trong

6 câu triết luận mở đầu. Ðiều quan trọng trong đoạn mở đầu này không chỉ ở những

luật oái oăm, ác hại trong cõi người ta: Tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng

nhan bạc mệnh. Ðiều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai, hờn mát, đay đả của

tác giả khi nói đến những luật này:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau

Tác giả không thản nhiên ghi nhận cái luật oái oăm này. Thái độ của tác giả

bao hàm nhiều sắc thái: mỉa mai, hờn mát, rỡn cợt, châm chọc...Tài mệnh tương đố

không phải là tư tưởng của truyện Kiều. Triết lí của Truyện Kiều là ở cái giọng của

tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ khéo làì xen vào câu tài mệnh tương đố.

236

Page 237: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Cũng như cách phân tích ở trên, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh không phải là

tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. Ở đây, cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật

của đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay đả, đay

nghiến của ông :

Lạ gì...Ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán. Khi ta nói lạ gì

anh ấy thì hoặc là ta dè bỉu, hoặc là ta bực tức, là ta chán ngán... anh ấy, chắc chắn

không phải là một thái độ thiện cảm.

Ý Kiến của GS Hoàng Ngọc Hiến có gần với chân lí nghệ thuật hoặc có gần

với tư tưởng của Nguyễn Du đến đâu có lẽ còn cần phải bàn bạc nhưng có một điều

không thể phủ nhận là yếu tố giọng điệu đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong

văn học và yếu tố đó cũng mang tính phức điệu, đa dạng...trong việc biểu hiện tư

tưởng và tình cảm của tác giả mà người đọc không dễ gì phát hiện được. Ðiều này

cũng được Khrapchencô khẳng định: Cùng với giọng điệu cơ bản trong tác phẩm

nghệ thuật còn có một hệ thống các sắc điệu phức tạp, với vô vàn nhánh ngành vốn

có trong các bộ phận lớn của thiên truyện, trong câu truyện kể về những hiện tượng

quan trọng nào đó của đời sống cũng như trong sự miêu tả các nhân vật, các tình tiết

riêng lẻ .

Có thể nói tác phẩm có bao nhiêu yếu tố là có bấy nhiêu chỗ để nhà văn gửi

gắm tâm sự của mình, từ những từ ngữ đơn giản đến toàn bộ cấu trúc phức tạp và đa

dạng. Chính sự đa dạng và phức tạp đó tạo nên sự đa dạng và phức tạp của nội dung

tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Ðiều này cũng có nghĩa là giá trị của tác phẩm nằm

trong chính những yếu tố nội tại của bản thân tác phẩm, trong tính chất và chiều sâu

của những khái quát nghệ thuật được thể hiện trong tác phẩm. Nhưng những giá trị

đó không đứng yên mà luôn vận động tùy thuộc vào sự vận động của đời sống, lí

tưởng thẩm mĩ của từng thời đại và năng khiếu cũng như kinh nghiệm của người cảm

237

Page 238: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thụ. Khrapchenkô đã nói về một tiêu chuẩn khách quan để xác định giá trị của tác

phẩm văn học Tiêu chuẩn đó là sự tương quan giữa những đặc tính nội tại của nó,

những khái quát của nó, với sự vận động của đời sống, với xu thế phát triển của đời

sống, sự tương quan với thực tại, với kinh nghiệm tinh thần chẳng những của thời

gian nghệ sĩ sáng tác ra tác phẩm mà còn của cả những thời đại về sau".

Trong cảm thụ và phê bình văn học, có một thực tế không thể chối cãi được là

có thể có những cách lí giải và đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về tác

phẩm nhưng không phải chỉ có một cách lí giải và đánh giá được coi là đúng đắn còn

những cách lí giải khác đều sai. Ðôi khi nếu xem xét vấn đề này trên một bình diện

lịch sử rộng lớn thì số lượng khá đáng kể những cách lí giải không giống nhau nhiều

khi hóa ra lại là tương đối đúng. Và đây cũng chính là sự khác biệt quan trọng trong

việc xác định những giá trị giữa văn học nghệ thuật với các ngành khoa học chính xác

khác. Dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa là mọi sự đánh giá tác phẩm đều đúng đắn

và gần với chân lí nghệ thuật. Khẳng định vai trò của người đọc, khẳng định nhu cầu

tinh thần và thẩm mĩ của thời đại trong việc đánh giá, thưởng thức tác phẩm là cần

thiết và là một thực tế nhưng cần nhớ mọi sự thẩm định đều không thể tách rời với

những yếu tố cấu tạo nên tác phẩm. Thiếu một thái độ chân thành, đồng cảm và

khách quan, người đọc khó có thể tiếp cận và đánh giá đúng đắn những giá trị đích

thực của tác phẩm văn học.

Chương 8

LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ   1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính cách khách quan của nó

thông qua các sự kiện hệ thống sự kiện 2. Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao

quát 3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần thuật 4. Lời văn trong tác phẩm tự sự

238

Page 239: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

II. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN 1. Tiểu thuyết 2. Truyện ngắn 3. Truyện vừa

Chương 8

LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI TÁC PHẨM TỰ SỰ

1. Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ thống sự kiện.

TOP

    Các nhà lí luận từ Aristote đến Lessing, Hégel, Biélinxki đều cho rằng tác phẩm tự

sự đưa ra một bức tranh khách quan về thế giới. Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote

cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự là thế giới tồn tại bên ngoài người trần thuật,

không phụ thuộc vào ý muốn và tình cảm của họ. Ở đây, nhà văn dường như đứng

bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự việc của đời sống được nhà văn kể lại như một

đối tượng khách quan ở bên ngoài mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính

khách quan..

Ðể có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống qua các

sự kiện, hệ thống sự kiện. Vì vậy, nhiều nhà lí luận khẳng định tính sự kiện có một ý

nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm tự sự. Các biến cố,

sự kiện này có thể là những biến cố, sự kiện bên ngoài, tức là phần tồn tại vật chất với

các việc làm, hành động cụ thể có thể thấy được, cũng có thể là những biến cố, sự

kiện bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ... nhưng những biến cố, sự kiện

này không được biểu hiện trực tiếp mà được xem như một đối tượng để đem ra phân

tích, nhận biết.

Như vậy, tác phẩm tự sự tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm

những sự kiện bên ngoài và bên trong của con người nhưng đều

239

Page 240: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

xem chúng như là những sự kiện khác nhau về đời sống con người,

xã hội.

2.Tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực một cách rộng lớn, bao quát.

TOP

Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống qua các sự kiện, hệ thống sự kiện mà sự

kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con người, con người và môi

trường xung quanh. Do đó, tác phẩm tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong

việc miêu tả hiện thực khách quan, được thể hiện trong nhiều mối quan hệ.

Trong tác phẩm tự sự, không gian và thời gian không bị hạn chế. Nhà văn có

thể thể hiện những vùng đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong

hiện tại, có thể lướt qua hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan

trọng. Nó có thể kể về một khoảnh khắc hoặc một sự kiện dài 10, 20, 50 năm trong

một không gian nhất định hoặc ở nhiều vùng đất khác nhau.

Từ những đặc điểm trên, nhân vật tự sự cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều

mặt nhất; có thể được triển khai sâu rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng và phong

phú. Nhân vật thường có số phận, con đường đi và quá trình phát triển qua nhiều giai

đoạn khác nhau. so với các loại nhân vật khác, nhân vật trong tác phẩm tự sự được

khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình đến nội tâm, cả quá khứ, hiện tại và trong xu thế phát

triển...Tóm lại, nhân vật tự sự được miêu tả nhiều mặt, toàn diện và sinh động, nhiều

màu sắc thẩm mĩ.

Do tính chất phản ánh rộng lớn và bao quát, hệ thống chi tiết

trong tác phẩm tự sự cũng phong phú và đa dạng, mang chất "văn

xuôi". Ở đây, có thể bắt gặp những chi tiết về chân dung, ngoại

hình, tâm sinh lí, phong tục, tập quán, đồ vật, dời sống lao động sản

xuất, tôn giáo, chính trị...bao gồm những chi tiết có thực, tưởng

tượng, hoang đường... hơn tất cả mọi loại tác phẩm khác.

3. Tác phẩm tự sự luôn luôn có hình tượng người trần TOP

240

Page 241: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thuật.

Hình tượng người trần thuật có thể là tác giả nhưng không nên

đồng nhất người trần thuật với tác giả. Người trần thuật có thể xuất

hiện dưới nhiều hình thức: khi thì tác giả ẩn mình sau những nhân

vật tưởng tượng, khi thì nhân danh chính bản thân mình mà kể

chuyện với ngôi thứ nhất. Nhưng dù dưới hình thức nào, người trần

thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích,

nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp

giữa nhân vật và nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh...Trong tác

phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức

quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên

hiểu nhân vật, hoàn cảnh...thế này hoặc thế khác.

4. Lời văn trong tác phẩm tự sự TOP

Lời văn trong tác phẩm tự sự chủ yếu là lời văn kể chuyện, miêu tả. Nó có thể

được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ cũng hướng người đọc đến đối

tượng mà nó miêu tả.

Lời nói của nhân vật trong tác phẩm tự sự là một bộ phận của văn tự sự, do đó

nó thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật phát biểu. Ðiều này khác với

tác phẩm kịch và tác phẩm trữî tình.

II. TIỂU THUYẾT, TRUYỆN VỪA, TRUYỆN NGẮN

Phạm vi của tác phẩm tự sự hết sức rộng lớn và có thể được

phân loại ở nhiều góc độ khác nhau. Dựa vào hình thức lời văn, có

thể nói tới các thể loại cơ bản như anh hùng ca, (sử thi), truyện thơ,

trường ca (văn vần), tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn (văn

xuôi), ngụ ngôn (thường dùng cả hai hình thức văn vần và văn

xuôi). Dựa vào nội dung thể loại, có thể phân thành các tác phẩm có

chủ đề dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư...Giáo trình này chỉ trình bày

241

Page 242: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

một số thể loại phổ biến trong đời sống hiện nay: tiểu thuyết,

truyện vừa, truyện ngắn.

1. Tiểu thuyết. TOP

Tiểu thuyết là thể loại lớn nhất trong loại tác phẩm tự sự, đặc biệt phát triển

mạnh mẽ trong thời kì cận và hiện đại. Ðây là thể loại không bị giới hạn về dung

lượng phản ánh hiện thực, cả về không gian cũng như thời gian. Qua tiểu thuyết,

người đọc có thể hiểu được một giai đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ,

địa điểm, tình huống...mà khó có thể loại nào có thể đạt được. Các yếu tố khác của

tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ đề, nhân vật, kết cấu...cũng chịu sự chi phối của đặc

điểm này.

Tuy nhiên, dung lượng hiện thực chưa phải là đặc điểm duy nhất và cơ bản

nhất của tiểu thuyết mà chính là sự miêu tả cuộc sống từ góc độ đời tư. Tùy theo từng

giai đoạn phát triển khác nhau, yếu tố đời tư và yếu tố lịch sử, dân tộc có thể kết hợp

với nhau nhưng nếu yếu tố lịch sử dân tộc phát triển, tác phẩm sẽ gần với anh hùng

ca; chất đời tư phát triển, tác phẩm sẽ đậm đà chất tiểu thuyết hơn.

        Tiểu thuyết miêu tả cuộc sống trong tính chất văn xuôi. Nó thể hiện cuộc sống

như một thực tại cùng thời và hấp thu vào bản thân mọi yếu tố ngỗn ngang, bề bộn

của cuộc đời...bao gồm những bi-hài; cao cả-thấp hèn; vĩ đai-tầm thường, lớn-

nhỏ..Chính dung lượng phản ánh hiện thực rộng lớn giúp nhà văn miêu tả nhân vật và

hoàn cảnh một cách đầy đủ, toàn diện, tỉ mỉ từ những trạng thái tâm hồn cũng như

những mối quan hệ đa dạng, phức tạp khác.

Tiểu thuyết là thể loại đa dạng về mặt thẩm mĩ, có khả năng tổng hợp và thu

hút vào bản thân nó những đặc trưng và sắc thái thẩm mĩ của nhiều loại hình nghệ

thuật khác "Ðức tính căn bản của tiểu thuyết là ăn được mọi thứ, nó đồng hóa mọi

loại tác phẩm khác vào mình" (Ph. Mác xô- Nhà nghiên cứu tiểu thuyết Pháp)

2. Truyện ngắn. TOP

242

Page 243: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

    Về từ nguyên, truyện ngắn có nghĩa là một tin tức mới mẻ, sốt dẽo. Ðây là loại văn

xuôi tự sự có hình thức ngắn gọn. Tuy nhiên, đặc trưng của truyện ngắn không phải

chỉ vì nó ngắn mà chủ yếu là cách nắm bắt và thể hiện hiện thực cuộc sống. Nhà văn

thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất nào đó trong

quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. Trong truyện ngắn, nếu nhà văn

đặt quá nhiều vấn đề, câu chuyện sẽ dễ bị loãng. Tập trung về sự kiện, tập trung về

chủ đề, về ấn tượng là yêu cầu của truyện ngắn.

Người viết truyện ngắn luôn luôn chú ý vào một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi

tiết, loại bỏ những gì thiếu súc tích. Maugham cho rằng: truyện ngắn cần phải viết

sao cho người ta không thể bổ sung thêm vào đó chút gì cũng không thể rút bớt ra

chút gì.

Nhiều người cho rằng viết truyện ngắn đơn giản và dễ hơn tiểu thuyết. Ðiều

này không chính xác. Thực ra, ở đây tùy thuộc vào thiên hướng, sở thích và khả năng

của từng nhà văn. Ðạt đến đỉnh cao nghệ thuật viết truyện ngắn không phải là điều dễ

dàng. Có nhà văn đã viết: Hôm nay tôi không có thì giờ để viết truyện ngắn vì đây là

thể loại đòi hỏi người viết phải gói trọn những băn khoăn, ấn tượng...vào trong một

dung lượng có hạn.

Do dung lượng ngắn, nhân vật của truyện ngắn thường không

nhiều và cuộc đời của nhân vật cũng thường chỉ được miêu tả như

một khoảnh khắc, mảnh nhỏ nhưng lại có ý nghĩa trong cả cuộc đời

nhân vật nên nhịp điệu truyện ngắn khẩn trương, gấp rút, có nhiều

yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn đột ngột trong giới thiệu, bố cục, kết

thúc câu chuyện.

3. Truyện vừa. TOP

Truyện vừa là thể loại tự sự cỡ trung bình, xét về dung lượng, đứng giữa tiểu

thuyết và truyện ngắn. Do chỗ giống nhau về phương pháp xây dựng điển hình cũng

như hình thức biểu hiện nên ranh giới giữa truyện vừa và tiểu thuyết rất dễ lẫn lộn.

243

Page 244: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chẳng hạn A Q chính truyện, Xung kích, Ông già và biển cả...có người gọi là tiểu

thuyết, có người chỉ cho là truyện vừa.

Ðiều phân biệt trước hết giữa truyện vừa và tiểu thuyết chủ yếu là dung lượng

hiện thực, biểu hiện ở số lượng nhân vật, khuôn khổ cốt truyện và ngay cả ở số trang,

thường một truyện vừa từ 150 trang trở lại. Tuy nhiên, điều cần chú ý là truyện vừa

trần thuật cô đọng và súc tích hơn tiểu thuyết. Nếu như tiểu thuyết nặng về miêu tả

thì truyện vừa chú ý nhiều hơn đến yếu tố thuật vì vậy dung lượng thường ngắn hơn.

Như vậy, giữa truyện vừa và tiểu thuyết, ngoài dung lượng hiện thực được thể hiện

còn có sự khác nhau ở nguyên tắc tái hiện hiện thực nữa.

Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TÁC PHẨM TRỮ TÌNH 1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người 2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm thể hiện thế giới

chủ quan 3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình 4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình 5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình

II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH 1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc 2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ

III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH 1. Đề thơ 2. Dòng thơ, câu thơ 3. Khổ thơ, đoạn thơ 4. Tứ thơ, bài thơ

Chương 7

LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

I. ÐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA LOẠI TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

244

Page 245: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Tác phẩm trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người.

TOP

Nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng là sự biểu hiện thế giới chủ quan của

con người trước cuộc đời. Tuy nhiên, do phương thức tổ chức, do kiểu tái hiện đời

sống và do sự giao tiếp nghệ thuật khác nhau nên sự biểu hiện đó ở những loại tác

phẩm văn học cũng khác nhau. Trong tác phẩm trữ tình; tình cảm, cảm xúc, tâm

trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác

phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo

bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào.

Trong ca dao:

Hôm qua tát nước đầu đình.

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (sau này nhiều người cho là ca dao).

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Bốn câu thơ trên thể hiện tình cảm của người ra đi đối với quê hương, đối với

người thương..., là nỗi buồn, là sự nhớ nhung lúc xa xôi cách trở. Ngoài những tình

cảm, nỗi niềm đó, người đọc không biết gì cụ thể hơn về chàng trai và cô gái, về mối

quan hệ cụ thể của hai người với nhau.

245

Page 246: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bài Nguyên đán của Xuân Diệu cũng thể hiện rõ đặc điểm này:

Xuân của đất trời nay mới đến

Trong tôi xuân đến đã lâu rồi

Từ độ yêu nhau hoa nở mãi.

Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.

Trong bốn câu thơ trên, không hề có mâu thuẫn, xung đột như trong kịch, cũng

không có những biến cố, sự kiện, hệ thống sự kiện nào. Ðiều mà người đọc cảm nhận

chủ yếu là niềm vui, hạnh phúc, là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Như vậy, từ ca dao đến những tác phẩm thơ ca hiện đại, người

đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và

tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên

nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và

những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này

chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc

điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình.

2. Tác phẩm trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan.

TOP

Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng

được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi

cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì,

tâm trạng trước vấn đề gì...Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác

phẩm trữ tình. Chế Lan Viên đã nói lên mối quan hệ này qua những câu thơ:

- Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tát bể

Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời.

246

Page 247: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy.

Người ta có thể bắt gặp một bài thơ miêu tả một bức tranh phong cảnh thiên

nhiên. Trong bài Ðây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử, ngoài những nét chấm phá về

một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế...là tâm trạng và cảm

xúc của nhà thơ.

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ơí đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà. (Ðây thôn Vĩ Giạ. Hàn Mặc Tử.)

Có những bài thơ có ít nhiều sự kiện khá liên tục- đó là những câu chuyện

được kể lại một cách ngắn gọn. Những sự kiện, biến cố ở đây không được miêu tả chi

tiết, tỉ mỉ...mà được thể hiện hết sức cô đọng. Các bài thơ Mưa xuân của Nguyễn

Bính, Núi Ðôi của Vũ Cao, Bà má Hậu Giang của Tố Hữu...nằm trong trường hợp

này. Qua bài Quê hương của Giang Nam, người đọc có thê kể một số nét chính về

mối quan hệ giữa chàng trai và cô gái một cách khá liên tục nhưng chức năng chủ yếu

của hệ thống sự kiện đó là để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc, suy tưởng. Chúng làm

cho tình cảm được bộc lộ dễ dàng, gợi cảm.

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm.

Có những lần trốn học bị đòn ri

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.(Quê hương- Giang Nam.)

247

Page 248: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi

trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết

chân thật, sinh động. Những chi tiết chân thật, sinh động trong đời sống dễ khêu gợi

những tình cảm sâu sắc, mới mẻ. Có điều những chi tiết trong tác phẩm trữ tình bao

giữ cũng hết sức cô đọng, súc tích.

Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan

nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc,

tâm trạng, suy nghĩ ...của con người.

3. Tình cảm điển hình trong tác phẩm trữ tình. TOP

Tác phẩm trữ tình bao giờ cũng mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ðó là

những nỗi niềm chủ quan thầm kín nhưng khi sáng tác nhà thơ luôn luôn nâng mình

lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ cho một loại người, một thế hệ và

cả những chân lí phổ biến...Người ta thường nói đến từ chân trời của cái "tôi" đến

chân trời của cái "ta", "từ chân trời của một người đến chân trời của tất cả" cũng trên

ý nghĩa này. Biêlinnki đã diễn đạt điều đó bằng một câu nói hàm súc: "Bất cứ thi sĩ

nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình và miêu tả mình - dù là miêu

tả những nỗi đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào,

sở dĩ họ vĩ đại là vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ hoãng sâu

thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và

của nhân loại".

Tóm lại, trong tác phẩm trữ tình, nhà thơ trực tiếp bộc lộ

những tình cảm yêu thương, căm giận của mình trước hiện thực

cuộc đời. Ởí đây, tình cảm riêng tư của nhà thơ bao giờ cũng giữ vai

trò quan trọng tạo nên giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm trữ

tình có giá trị được người đọc yêu mến xưa nay bao giờ cũng thắm

đẫm suy tư và dằn vặt của cá nhân nhưng đồng thời cũng đánh

động tình cảm, tâm trạng ...của cả một lớp người, một thời đại nhất

định.

248

Page 249: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

4. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình. TOP

Nội dung tác phẩm trữ tình gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình (có người

gọi là chủ thể trữ tình). Ở đây, cần phân biệt rõ 2 khái niệm: nhân vật trữ tình và nhân

vật trong tác phẩm trữ tình. Nhân vật trong tác phẩm trữ tình là đối tượng để nhà thơ

gửi gắm tâm sự, cảm xúc, suy nghĩ ...của mình, là nguyên nhân trực tiếp khêu gợi

nguồn cảm hứng cho tác giả. Nhân vật trữ tình không phải là đối tượng để nhà thơ

miêu tả mà chính là những cảm xúc, ý nghĩ, tình cảm, tâm trạng, suy tư...về lẽ sống

và con người được thể hiện trong tác phẩm. Khi đọc một bài thơ, trước mắt chúng ta

không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, sinh hoạt, những con người mà còn một

hình tượng của một ai đó đang ngắm nhìn, rung động, suy tư về chúng, về cuộc sống

nói chung. Hình tượng ấy chính là nhân vật trữ tình. Ðó là tâm hồn, nỗi niềm, tấm

lòng...mà người đọc cảm nhận được qua tác phẩm thơ ca.

Phần lớn nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách là những tình

cảm, tâm trạng, suy tư... của chính bản thân nhà thơ. Tuy nhiên, có

nhiều trường hợp nhân vật trữ tình không phải là hiện thân của tác

giả. Do tính chất tiêu biểu, khái quát của nhân vật trữ tình nên nhà

thơ có thể tưởng tượng, hóa thân vào đối tượng để xây dựng nhân

vật trữ tình theo qui luật điển hình hóa trong sáng tạo nghệ thuật.

Có thể coi đây là những nhân vật trữ tình nhập vai.

5. Lời văn trong tác phẩm trữ tình. TOP

Là hình thức của tác phẩm văn học, lời thơ cũng như lời của tác phẩm tự sự và

kịch đều mang tính chính xác, gợi cảm, hình tượng, hàm súc. Tuy nhiên, lời thơ cũng

có những đặc điểm riêng.

Trước hết, đó là lời của chủ thể, thường bộc lộ trực tiếp sự đánh giá, nhận xét

về đối tượng, trực tiếp thể hiện cảm xúc ca ngợi, khẳng định hoặc phê phán, phủ

định. Chính vì vậy, sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong tác phẩm trữ tình-

chủ yếu là trong thơ- luôn luôn nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự

đồng cảm hoặc phê phán của chủ thể trở nên nổi bật.

249

Page 250: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Lời văn trong tác phẩm trữ tình đòi hỏi bộc lộ những tình cảm mạnh mẽ, những

ý tập trung, hàm súc do đó nó phải tìm cho mình những lời văn phù hợp với yêu cầu

gây ấn tượng mạnh, không phải chỉ bằng ý nghĩa của từ mà còn bằng cả âm thanh,

nhịp điệu của từ ngữ nữa. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người khẳng định đặc

điểm quan trọng nhất của lời văn trong tác phẩm trữ tình là giàu nhạc tính. Nhạc tính

này, do đặc điểm ngôn ngữ của từng dân tộc, được biểu hiện khác nhau. Trong thơ

Việt Nam, tính nhạc thường được biểu hiện ở các mặt: sự cân đối, trầm bỗng, nhịp

nhàng và trùng điệp.

II. PHÂN LOẠI THƠ TRỮ TÌNH.

Phạm vi của tác phẩm trữ tình rất rộng. Có thể kể đến các khúc ngâm, thơ văn

xuôi, ca trù, từ khúc. Những đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình được biểu hiện tập

trung và tiêu biểu nhất là trong tác phẩm thơ trữ tình.

Tùy theo truyền thống thơ ca của từng nước, người ta có nhiều

cách phân loại thơ trữ tình khác nhau. Ở phương Tây, có những

cách phân loại:

1. Dựa vào đặc điểm cảm xúc: TOP

Có thể chia thành bi ca, tụng ca, thơ trào phúng.

- Bi ca:là những bài thơ buồn và những nỗi buồn đó được nâng lên thành quan

niệm, thành triết lí. Chẳng hạn, trong bài Hoa nở để mà tàn, Xuân Diệu viết:

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo hợp để chia tan

Người gần để li biệt.

250

Page 251: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

-Tụng ca là những bài thơ ca ngợi những sự kiện anh hùng, những chiến công

của con người, những cảnh tượng hùng vĩ của non sông đất nước. Nhiều bài thơ của

Chế Lan Viên, Tố Hữu có thể được coi là tụng ca.

-Thơ trào phúng là một dạng trữ tình đặc biệt, trong đó tác giả

phủ nhận những điều xấu xa bằng một giọng văn châm biếm, mĩa

mai, trào lộng. Nhiều bài thơ của Tú Xương, Tú Mỡ ...thuộc loại này.

2. Dựa vào đối tượng miêu tả tạo nên cảm xúc của nhà thơ. TOP

Có thể phân thơ trữ tình thành các loại: trữ tình tâm tình, trữ tình thế sự, trữ

tình công dân, trữ tình phong cảnh.

- Trữ tình tâm tình là những bài thơ gắn liền với những tình cảm trong mối

quan hệ hằng ngày: tình yêu nam nữ, tình vợ chồng, tình cha mẹ, anh em...

- Trữ tình thế sự: là những bài thơ nghiêng về những xúc động về cuộc đời với

tính chất "nhân tình thế thái"

Trong những thời kì lịch sử có nhiều biến đọng, nhiều giá trị chưa được xác

định rõ ràng, thơ trữ tình thế sự gợi ý cho người sọc những suy tư, băn khoăn, trăn trở

về thực trạng xã hội. Nhiều bài thơ của Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ

Xuân Hương...là những tiếng nói trữ tình thế sự có giá trị.

-Trữ tình công dân là những bài thơ nói lên những cảm xúc, tình cảm, suy tư

của nhà thơ trong mối quan hệ với xã hội, với chế độ chính trị...Ở đây, nhà thơ lấy tư

cách công dân để cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp của nhân dân và lên án kẻ thù chung.

Nhiều bài thơ trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Pháp, chống Mĩ thuộc loại

này.

-Trữ tình phong cảnh là những bài thơ nói lên những cảm xúc của con người

với thiên nhiên: cây cỏ, núi non, sông biển, cảnh đẹp của quê hương, đất nước.

251

Page 252: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Những sự phân loại thơ trữ tình trên đây chỉ có tính chất tương đối. Thế giới

nội tâm của con người vô cùng phong phú, phức tạp, tinh tế và có trăm nghìn mối

quan hệ khó có thể phân biệt một cách rạch ròi. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ

tình phong cảnh, trữ tình thế sự, trữ tình công dân và ngược lại. Ơí đây, sự phân loại

chỉ nhằm giúp người đọc nhân ra cảm hứng chủ đạo, khuynh hướng nghệ thuật của

nhà thơ.

III. TỔ CHỨC MỘT BÀI THƠ TRỮ TÌNH.

1. Ðề thơ. TOP

Nơi thể hiện tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, gợi ý cho

người đọc hiểu chủ đề chính của bài thơ, giúp họ nhớ và phân biệt

với hững bài thơ khác. Cũng có khi có những bài thơ không có đề

(vô đề). Ơí đây, có thể tác giả muốn để người đọc, qua nôi dung bài

thơ, suy ngẫm và tưởng tượng mà tự hiểu. Ðề thơ có thể chỉ nên

được coi như một định hướng để hiểu đúng bài thơ.

2. Dòng thơ, câu thơ. TOP

Dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Trong các

thể thơ cách luật, số chữ mỗi dòng có sự qui định chặt chẽ. Ơí thơ tự do, không có sự

qui định đó nhưng thường mỗi dòng thơ cũng không quá 12 chữ.

Câu thơ là dòng thơ diễn đạt trọn vẹn một ý. Thông thường, mỗi câu thơ là một

đìng thơ. tuy nhiên, có khi hai ba dòng thơ mới thành một câu thơ:

Ơi! Kháng chiến, mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường. (Chế Lan Viên)

3. Khổ thơ, đoạn thơ TOP

Sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm thống nhất với nhau về vần, nhịp,

cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ thơ được kết thuc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong

252

Page 253: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

những bài thơ ngắn, mỗi khổ thơ có thể là một đoạn thơ nhưng trong nhiều trường

hợp, nhiều khổ thơ mới thành một đoạn thơ.

Ðoạn thơ là sự tập họp nhiều câu thơ chằm diễn đạt một ý tương đối trọn ven,

hoàn chỉnh. Sự phân đoạn một bài thơ chủ yếu dựa vào ý chứ không phụ thuộc vào

vần, bhịp, cú pháp như khổ thơ. việch phân đoạn dựa vào ý thơ là một yếu tố khó xác

định nên các nhà nghiên cứu có thể có sự phân đoạn các bài thơ cụ thể không giống

nhau.

4. Tứ thơ, Bài thơ. TOP

Tứ thơ là ý lớn xuyên suốt bài thơ nhưng ý ấy không được nói thẳng ra mà

hòa quyện, biến hóa qua hình tượng có nhiều tìm tòi, sáng tạo của nhà thơ. Nói cách

khác, một bài thơ có tứ là một bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý của toàn

bài một cách mới mẻ, thú vị. Tứ thơ thể hiện đậm nét cách nhìn, cách cảm, cách

nghĩ... của nhà thơ.

Bài thơ là một tác phẩm hoàn chỉnh, có cấu trúc nội tại, là sự tổng hợp từ đề

thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, tứ thơ. Mỗi bài thơ có độ dài ngắn khác

nhau và dĩ nhiên giá trị của mỗi bài thơ phụ thuộc vào nội dung tư tưởng va hình thức

nghệ thuật của nó chứ không phải ở chỗ ngắn dài.

Chương 10.

KỊCH BẢN VĂN HỌC. 

1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu.

2. Xung đột kịch.

3. Hành động kịch.

4. Nhân vật kịch.

5. Ngôn ngữ kịch.

6. Phân loại kịch.

253

Page 254: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chương 10.

KỊCH BẢN VĂN HỌC. 

1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu. TOP

Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến một

loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động

của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản văn học chỉ là một

yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch

Là một trong 3 loại chính của văn học, kịch bản trước hết tự nó

phải là một tác phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những

đặc điểm của một tác phẩm văn học. Tuy nhiên, kịch bản văn học

được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước một tập thể

khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật sân khấu qui

định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà

văn. Sự qui định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là

về dung lượng phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể

xây dựng kịch bản với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua

những không gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân

vật còn phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu tả. Những sự

kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù

hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua

hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là

một tác phẩm văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ

với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã qui định những

đặc điểm của kịch bản văn học.

2. Xung đột kịch. TOP

254

Page 255: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Kịch bắt đầu từ xung đột. "Xung đột là cơ sở của kịch" (Pha đê ép). Hiểu theo

nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của

hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể

được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác

nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén, giằng co, chống đối giữa các lực lượng,

có xung đột được biểu hiện qua sự đấu tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là

sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do tính

chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc

phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi

hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là

đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằng " tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu

tiên cảu nghệ thuật kịch".

Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và thời

đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ơí những thời đại khác nhau có

những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế giới quan thần

linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của

con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những người nô lệ muốn đấu tranh

giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong kiến, đó là xung đột giữa một bên

là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp bức và đòi được giải phóng.

Trong thời kì hiện đại, các xung đột thưòng xoay quanh những vấn đề cách mạng và

phản cách mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...

Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung

đột làm cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở

chỗ nhà văn phải phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn

nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác của kịch phải góp phần tô đậm

xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề

của cuộc sống

3. Hành động kịch. TOP

255

Page 256: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở

của tác phẩm kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái

độ, quan hệ...của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch, hành động

được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn ngữ của họ.

Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi là

hành động xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Trong Roméo và

Juliette của Shakespeare tất cả những động tác, cử chỉ, lời nói của hai nhân vật

luôn gắn liền với ý thức bảo vệ và hy sinh cho tình yêu. Qua hàng

loạt các hành động của các tính cách, các xung đột của vở kịch

được bộc lộ.

4. Nhân vật kịch. TOP

Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt

động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật,

con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của

nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có thể nói trên sân khấu chỉ có

nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc đều được bộc lộ thông qua nhân vật.

Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự và kí là kịch

không có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng : "Kịch, bi kịch, hài kịch

là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi mỗi nhân vật trong

vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động không có lời mách bảo, gợi

ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ

do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội

thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả".

Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế bởi

không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như trong các tác

phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều măt. Do đó, tính cách nhân vật

trong kịch tập trung, nổi bật và xác định nhằm gây ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho

256

Page 257: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó không có nghĩa là đơn giản, một chiều.

Xoay quanh một nét tính cách khác, vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương măt

của nhân vật sinh động và đa dạng.

Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội

tâm. Do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những

xung đột đó, con người bắt buộc phải hành động và vì vậy, con

người không thể không đắn đo, suy nghĩ, cân nhắc, băn khoăn, dằn

vặt...Dĩ nhiên đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại văn

học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất

trong kịch. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện

pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm

của chính nhân vật đó.

5. Ngôn ngữ kịch. TOP

Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong

kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện.

Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng

ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.

Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Ðây là

dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh

động và có tác dung hỗ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính.

Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội

tâm và những ý nghĩa thầm kín. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện

nội tâm nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên

cạnh độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng,

tiếng đế...

257

Page 258: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bàng thoại là nói với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật

khác, bỗng dưng nhân vật tiến gần đến và hướng về khán giả nói vài câu để phân

trần, giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng cần được chia xẽ, một điều bí mật: loại

này chiếm tỉ lệ thấp trong ngôn ngữ kịch.

Các dạng ngôn ngữ của kịch đòi hỏi phải mang tính khấu ngữ, động tác hóa và

tính cách hóa. Trước hết, đó là những lời đối thoại thông thường trong cuộc ssống,

phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ văn hóa...của

nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tình cách, do từ miệng nhân vật nói ra, chứ

không phải do tác giả. Ngôn ngữ trong kịch đòi hỏi phải gắn liền mật thiết với động

tác, điều này íup người xem hiểu được những suy nghĩ, tâm tư nhân vật. Ngay trong

trường hợp chỉ nghe kịch trong radio, người nghe cũng cảm được sắc mặt, họat động

và trạng thái tâm lí của nhân vật.

Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu

biết phong phú và sâu rộng về quàn chúng, nắm được cách nói đa

dạng cảu quần chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói

chung nhưng đặc biệt là đối với người viết kịch.

6. Phân loại kịch. TOP

Có nhiều cách phân loại kịch khác nhau. dựa trên phương thức biểu diễn, có thể phân

ra các loại: ca kịch, vũ kịch, kịch nói, kịch câm...Dựa trên dung lượng, ta có kịch

ngắn, kịch dài..Cách phân loại phổ biến nhất là dựa trên đặc điểm và nội dung của

xung đột kịch. Theo cách phân loại này, ta có bi kịch, hài kịch và chính kịch (kịch

drame).

Bi kịch là một thể loại kịch mà xung đột chủ yếu nằm ở giữa "yêu sách tất

yếu về mặt lịch sử và tình trạng không tài nào thực hiện được điều đó trong thực tế"

(Enghel). Bi kịch đưa lên sân khấu những con người lương thiện, dũng cảm, có

những ham muốn mãnh liệt với những cuộc đáu tranh căng thẳng, khốc liệt đối với

cái ác, cái xấu nhưng do điều kiện lịch sử,họ phải chịu thất bai. Thất bại của họ gợi

258

Page 259: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

lên ở khán giả "sự xót thương và sự sợ hãi để thanh lọc tình cảm" (Aristote) hoặc "để

ca ngợi, biểu dương ý chí luôn luôn vươn lên của con người trước những sức mạnh

mù quáng của các thế lực hắc ám" (Biêlinxki).

Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột

giữa các thế lực xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng, giả

tạo bên ngoài. Tính hài kịchtạo ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật. Trong

một số hài kịch, có những nhân vật tích cực thể hiện lí tưởng tiến bộ, nhưng nhìn

chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực có nhiều thói hư tật xấu. Tiếng

cười trong hài kịch có tác dụng giải thóat cho con người khỏi những thói xấu, có tác

dung trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.

Chính kịch còn gọi là kịch drame, đề cập đến mọi mặt của đời sống con

người, đó là con người toàn vẹn, không bị cắt xén hoặc chỉ tô đậm ở nét bi hoặc hài.

Shakespeare là người đầu tiên đã thể hiện thành công cho loại kịch có sự pha trộn

giữa bi và hài này. Dần dần chính kịch phát triển mạnh vì thích hợp hơn với cuộc

sống và con người hiện đại. 

Chương 4

HỒ XUÂN HƯƠNG  

I. CON NGƯỜI VÀTHƠ 1. Con người 2. Thơ Hồ Xuân Hương.

II. XUÂN HƯƠNG THI TẬP 1. Những vần thơ viết về người phụ nữ.   2. Những vần thơ trữ tình yêu đời.   3. Những vần thơ trào phúng.   4. Một số vấn đề về nghệ thuật.

III. K ẾT LUẬN

Chương 4

259

Page 260: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

HỒ XUÂN HƯƠNG

I. CON NGƯỜI VÀTHƠ

1. Con người TOP

Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, dưạ vào những bài thơ được khẳng định là cuả Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ như sau:

-Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn- thân sinh của bà thì dòng họ này đã suy tàn.

-Bà sống vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX). Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chưúng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.

-Thành phần xuất thân: Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiệnì sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.

-Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.

-Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn-các nhà nho.Nữ sĩ còn làì người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.

-Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc

*Tóm lại: Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đã sống một cuộc đời không âm thầm lặng lẽ như bao người đàn bà trong xã hội cũ mà bà đã sống một cuộc đời đầy sóng gió trong một hoàn cảnh xã hội cũng đầy sóng gió.

2.Thơ Hồ Xuân Hương. TOP

-Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.

-Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm mươi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi tập)

260

Page 261: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lưu Hương kýï mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai.

-Ðọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và Lưu Hương ký, chủ yếu là về phong cách biểu hiện.. Trong Lưu Hương Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong Lưu Hương Ký nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trongLưu Hưong Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lưu Hương Ký được coi là một tập thơ để tham khảo.

II.XUÂN HƯƠNG THI TẬP

1.Những vần thơ viết về người phụ nữ. TOP

Vấn đề người phụ nữ là vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Dường như trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ không viết về người phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ đã viết rất nhiều về người phụ nữ.

2.1.1.Ðối tượng người phụ nữ mà thơ Hồ Xuân Hương hướng tới.

Viết về người phụ nữ, bà đã viết về người phụ nữ lao động, người phụ nữ bình dân với nhiều bất hạnh. Bà viết về họ một cách trực tiếp với một thái độ dũng cảm.

2.1.2.Nỗi đau của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.

Tiếp tục tiếng nói của truyền thống văn học dân tộc, viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương cũng đã viết về nỗi đau của họ. Có thể nói hình ảnh người phụ nữ với cảm xúc khổ đau gần như thấm khắp các thi phẩm viết về mình, viết về người phụ nữ của Xuân Hương. Người phụ nữ trong thơ bà dường như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc. Nỗi đau của người phụ nữ hiện lên trong thơ bà cũng rất tập trung, rất nổi bật.

2.1.2.1.Nỗi đau của tình duyên không toại nguyện.

Bài thơ tiêu biểu cho nỗi đau này là bài Mời trầu. Bài thơ cùng với chùm thơ tự tình I, II, III làm nên mảng thơ đặc biệt cuả Xuân Hương thi tập- mảng thơ tâm sự, thơ thân phận. Ðây là những bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi lòng, suy nghĩ và khát vọng của tác giả về cuộc đời và thân phận mình.

261

Page 262: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bài thơ có thể được sáng tác thời còn trẻ vì lời thơ chưa đến nỗi chua chát.

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.

-Hai câu đầu nhân vật trữ tình giới thiệu miếng trầu và mời trầu

         +Miếng trầu bao gồm những sự vật nhỏ mọn, nếu không muốn nói là tầm thường.

+Ở đây miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xưng và phong cách khẩu ngữ Này, mới quệt rồi, tất cả đã có ý nghĩa biểu hiện một người con gái có ý thức về bản thân, có bản lĩnh nhưng cũng có tấm lòng bình dị, chân chất cũng có những tình cảm rất chân thành. 

-Hai câu cuối: Nhân vật trữ tình bộc bạch nguyện vọng trong quan hệ tình cảm lứa đôi.

-Bài thơ có một kết cấu đặc biệt: câu ba là khát vọng, câu bốn là cảm nhận về hiện thực cay đắng trong cuộc sống tình duyên của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến. Phải chăng với kết cấu này, tác giả muốn nói rằng trong cuộc đời cũ đối với người phụ nữ hạnh phúc chỉ là điều có trong mơ ước, còn khổ đau luôn là hiện thực.

-Về phương diện bút pháp, hai câu thơ nhắn nhủ, kêu gọi, răn đe này lại có tính chất đảo ngược vị trí của quá trình chuyển hóa: Xanh+bạc=thắm(thắm,bạc,xanh. Bài thơ là lời kêu gọi về một tình yêu chân thành, say đắm, thủy chung nhưng khép lại thì dư âm, ấn tượng về một hiện thực cay đắng xanh như lá, bạc như vôi vẫn cứ nặng trĩu trong tâm hồn người đọc.

Bài tự tinh số I:

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mõ thảm không khua mà cũng cốc

Chuông sầu không đánh cớ sao om

Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ

Sau giận vì duyên để mõm mòm

262

Page 263: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tài tử văn nhân ai đó tá

Thân này đâu đã chịu già tom.

-Hai câu đề: Bài thơ được mở đầu bằng tiếng gà gáy trên bom, qua tiếng gà văng vẳng là cả một không gian vắng lặng.

-Hai câu thực: Hai câu thực nói rõ nỗi oán hận và gọi nó là sầu, là thảm.

-Hai câu luận: Vẫn phô bày tiếp nỗi buồn, nỗi giận do những tiếng mõ thảm, những tiếng chuông sầu kia gợi nên.

-Hai câu kết: Kết thúc bài thơ là tiếng gọi vừa có tính chất nghi vấn (hỏi), vừa có tính chất than- gọi Tài tử văn nhân ai đó tá. Ðó là cách gọi suông vì không có ai đáp lại và không được đáp lại thì người gọi đã buồn càng buồn hơn. Song câu kết thúc vẫn là một lời thách đố với số phận, với duyên kia. Duyên kia dù đã mõm mòm nhưng thân này đâu đã chịu già tom. Câu thơ như nói lên cái bản lĩnh cứng cỏi, cái sức sống khỏe khoắn mang màu sắc bướng bỉnh của người con gái đầy oán hận đối với cuộc đời-Hồ Xuân Hương.

Qua bài thơ, chúng ta như nhận ra Hồ Xuân Hương là nhà thơ đau hết chỗ đau, buồn hết độ buồn nhưng vẫn bướng, vẫn ngang, vẫn không chịu đầu hàng, buông xuôi số phận. Vì lẽ đó mà bài thơ có giá trị nhân bản cao.

Ở bài tự tình số II, tác giả lại viết:

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con

Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên.

Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc.

2.1.2.2.Nỗi đau không được làm chủ cuộc đời.

Nỗi đau này được tác tác giả tập trung khắc hoạ trong bài Bánh trôi nước và Tự tình III.

Bài Bánh trôi nước:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non.

263

Page 264: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

-Hai câu khai thừa:

+Câu1: Câu thơ như là sự bằng lòng, sự vừa ý của người phụ nữ ý thức được vẻ đẹp của mình. Ðó là vẻ đẹp của nước da trắng nõn nà, thân hình gọn gàng, xinh xắn.

+Câu 2: Con người với vẻ đẹp ấy đáng lí phải được sống trong hạnh phúc nhưng không, người con gái ấy đã phải sống một cuộc đời bảy nổi ba chìm với nước non .

-Hai câu chuyển hợp:

+Câu 3: Rắn nát (cứng mềm), hạnh phúc hay đau khổ, đời minh ra sao, may mắn, rủi ro đến mức nào là hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Người khác đó là cha, là chồng, bởi xã hội phong kiến vốn là xã hội nam quyền.

Mặc dầu, liên từ vừa nói sự phụ thuộc vừa hàm nghĩa đối lập, ta như nhận ra một thái độ bất chấp, bất cần cuã nhân vật trữ tình. Giọng thơ như thách thức.

+Câu 4: Liên từ mà cũng hàm nghĩa đối lập (có nghĩa là nhưng). Từ này được đặt ở vị trí đầu câu thơ nên ý nghĩa đối lập càng mạnh. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch, trắng trong của mình. Giọng thơ quả quyết, tự tin, tự hào. Người phụ nữ ý thức được một cách đầy đủ nỗi đau và vẻ đẹp-vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của minh.

2.1.2.3.Nỗi đau của thân phận làm lẽ. 

-Bài thơ có giá trị nhất trong chùm thơ nói về nỗi đau khổ của người phụ nữ là bài Làm lẽ.

+ Hai câu đề:

Câu phá đề: Nhà thơ nói thẳng ngay vào vấn đề một cách cụ thể bằng

cách dựng lên cảnh:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Câu thơ được ngắt làm hai theo biện pháp đối ngẫu của thơ Ðường luật, nhằm đối lập hai cảnh sống trái ngược nhau, một bên thì ấm áp, một bên thì lạnh lẽo.

264

Page 265: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Câu thừa đề: Tiếp tục ý của câu phá đề, mặt khác tác giả ném ngay cái bực bội, cái căm uất của mình lên cảnh sống bất công đó:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Lời, ý của câu thơ rất mạnh bởi độüng từ chém mang thanh trắc rất gọn, sắc. Ðây là một lời chửi trong khẩu ngữ của quần chúng.

-Hai câu thực:

Từ thái độ căm giận, Xuân Hương đã chuyển sang miêu tả mối quan hệ vợ chồng của cảnh làm lẽ. Cũng tiếp tục ý của hai câu đề, tác giả trình bày sự thiệt thòi của người vợ lẽ một cách cụ thể hơn. Quan hệ ái ân giữa người chồng và người vợ diễn ra trong tình trạng:

Năm thì mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

-Hai câu luận:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

+Xuân Hương đã vận dụng hai thành ngữ chịu đấm ăn xôi và làm mướn

không công để nói lên thân phận người vợ lẽ. Sự láy lại xôi lại hẩm, mướn không công cùng với nghệ thuật tiểu đối đã cực tả được cảnh khổ nhục của người vợ lẽ.

-Hai câu kết:

Thân này ví biết nhường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Ðây là lời tâm sự của người vợ lẽ, tự lòng mình nói với mình. Hai tiếng thân này cùng với những từ biểu thị ý hối hận buông xuôi đi liền nhau:Ví biết, thà, thôi đành, vậy xong nghe như một tiếng thở dài não ruột, nhưng tiếng thở dài này lại chứa đựng một sự phản ứng, một lời tố cáo đối với chế độ đa thê.

Tóm lại bài thơ đã nói lên nỗi xót xa, tủi nhục của kiếp lấy lẽ và thái độ của tác giả trước thực trạng đó.

2.1.2.4.Nỗi đau của sự dở dang.

Bài thơ Sự dở dang.

265

Page 266: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

 

Ở bài thơ này tác giả không trực tiếp phản ánh nỗi đau khổ, tủi nhục mà các cô gái lỡ làng phải chịu đựng nhưng qua bài thơ người đọc cũng có thể hình dung ra được sự tàn bạo, sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến đối với họ.

Tóm lại viết về nỗi khổ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã viết được những điều mà không mấy ai viết được. Nhà thơ chưa nói đến toàn bộ nỗi khổ của họ mà chủ yếu bà đi sâu vào những nỗi đau có tính chất giới tính nhưng không kém phần bi kịch. Nhưng những bài thơ trên của Hồ Xuân Hương đã hòa vào tiếng nói chung của văn học đương thời để nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của người phụ nữ.  

2.1.3.Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.

Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp tâm hồn; vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ; vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.

2.1 3.1.Vẻ đẹp tâm hồn.

-Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng của ho:ü

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình

Chị cũng xinh mà em cũng xinh

Ðôi lứa như in tờ giấy trắng

Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh

-Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son.

-Trong bài Làm lẽ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sức chịu đựng, sức phản kháng cuả người phụ nữ.

-Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.

-Bài Sự dở dang lại là vẻ đẹp của đức hi sinh, của sức phản kháng.

2.1.3.2.Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ.

266

Page 267: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

-Trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện đượcsự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được.

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.

2.1.3.3.Vẻ đẹp thân thể.

-Hồ Xuân Hương còn công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.

-Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời dại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:

Ðôi gò Bồng đảo hương còn ngậm

Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông

Tất cả còn phong nhụy, trinh nguyên.

Tóm lại viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã biểu thị một thái độ xót thương, thông cảm, tin yêu và đấu tranh bênh vực cho quyền sống của họ. Cũng vì thế mà thơ bà có giá trị nhân đạo sâu sắc.

2.Những vần thơ trữ tình yêu đời. TOP

Hồ Xuân Hương không phải chỉ là một con người nguyền rủa, đập phá mà bà còn là một con người chứa chan tình cảm, giàu khát vọng và thiết tha với đời. Con người trong thơ Hồ Xuân Hương luôn luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng của mình đễ chào đón tất cả những gì trẻ trung, tươi tắn. Ðiều này thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn cảnh vật thiên nhiên của tác giả.

267

Page 268: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Là một nhà thơ yêu đời Xuân Hương thường nhắc đến mùa xuân một cách trực tiếp hay gián tiếp với một tình cảm đằm thắm, lạc quan. Và bao giờ bà cũng tìm thấy ở mùa xuân một hứng thú mới để gắn bó hơn với cuộc sống.

3.Những vần thơ trào phúng. TOP

2.3.1.Ðối tượng trào phúng.

Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa, nhà sư, quan thị, những gương mặt nam nhi không xứng mặt nam nhi. So với các tác khác cùng thời, so với văn học dân gian, đối tượng phê phán trong thơ Hồ Xuân Hương phong phú hơn.

2.3.2.Nội dung trào phúng.

-Hồ Xuân Hưỡng lên án, châm biếm thói đạo đức giả .

-Hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa là những người theo đòi giáo lý của Khổng- Mạnh, là những người luôn rêu rao tinh thần khắc kỷ để phục lễ, luôn đề cao khẩu hiệu nam nữ thụ thụ bất thân, tự cho mình là người không lưu tâm đến sắc dục. Vậy mà trong thơ Xuân Hương, những hạng người cao quý này lại hiện lên với những ham muốn sắc dục mãnh liệt và duy nhất chỉ có ham muốn ấy mà thôi. Viết điều ấy, đúng là nữ sĩ đã hạ bệ đối tượng chóp bu này không chút thương tiếc.

Tóm lại: Chùm thơ đả kích trào lộng này tuy chưa đề cập đến đời sống vật chất của xã hội nhưng ngòi bút trào lộng sắc sảo của Xuân Hương cũng đã có những đóng góp đáng quý. Cùng với thơ ca dân gian thời kỳ này, chùm thơ phê phán hiện thực trên chắc chắn đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng bấy giờ.

4.Một số vấn đề về nghệ thuật. TOP

2.4.1.Vấn đề tục và dâm trong thơ bà.

Ðây là vấn đề từng gây nhiều tranh cãi và nói chung ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có những ý kiến khác nhau.

*Trước Cách mạng tháng tám:

-Giai cấp phong kiến cho thơ bà không đứng đắn, tà dâm.

-Giai cấp tư sản tán thành cái tình trong thơ bà nhưng lại cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ.

*Sau Cách mạng tháng tám:

-Nhờ có quan niệm mĩ học Mác-Lênin soi rọi các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Xuân Hương chứa chan tinh thần nhân đạo và giá trị phê phán xã hội nhưng vấn đề dâm và tục vẫn chưa nhất trí, tựu trung có ba loại ý kiến:

268

Page 269: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

-Tư tưởng chi phối tập thơ là tư tưởng dâm. (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ông văn tânVăn Tần).

-Thơ Xuân Hương có bài dâm có bài không dâm mà chỉ là tục (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ôngTrần Thanh Mại).

-Thơ Xuân Hương có những hình ảnh tục nên một số bài có bị hạn chế nhưng nhìn chung là tốt cả ( tiêu biêu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả nhà thơXuân Diệu).

*Chúng ta cần hiểu cơ sở để xác định một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm văn chương có yếu tố dâm hay không là xác định cho được mục đích phản ánh của cái tục là gì? Tác phẩm văn học là dâm khi nó lấy cái tục làm mục đích và lúc đó cái tục sẽ trở thành nội dung của nghệ thuật. Nếu cái tục chỉ là phương tiện nghệ thuật để nhà văn biểu hiện cảm xúc, tình cảm lành mạnh nào đó thì không thể kết luận tác phẩm ấy có yếu tố dâm.

Tóm lại: Tục và dâm khác nhau ở mục đích phản ánh của từng yếu tố ấy.

Thực tế trong sáng, Xuân Hương đã sử dụng cái tục làm phương tiện nghệ thuật để phê phán, đả kích, trào lộng, để bộc lộ cảm xúc nhân đạo của mình.

2.4.2.Ngôn ngữ thơ ca.

-Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó.

-Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Ví dụ vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

-Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đường bệ, nội dung cũng đường bệ. Hồ Xuân Hương đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục.

III.KẾT LUẬN

Xuân Hương thi tập cũng là một tập thơ của thời đại, thời đại cuối Lê- đầu Nguyễn, thời đại đấu tranh sôi nổi để đẩy lùi lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, đấu tranh để đòi hỏi được xác nhận thân phận, đòi hỏi để được xác nhận quyền sống tự do và hạnh phúc. Xuân Hương thi tập đã thể hiện được phần nào những khát vọng đó của con người thời đại.

269

Page 270: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chương 3NGUYỄN KHUYẾN

(1835-1909)  

I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC 1. Cuộc đời: 2. Sự nghiệp: 3. Thời đại:

II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN: 1. T ấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng: 2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong

kiến 3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương:

III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN: 1. Ngôn ngữ: 2. Hình ảnh:

IV. KẾT LUẬN:

Chương 3NGUYỄN KHUYẾN

(1835-1909) 

I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

1.      Cuộc đời: TOP

  Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh.

Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909.

Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.   Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ giải nguyên ở trường Nam

Ðịnh. Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông

từng thi đỗ Tam nguyên nên người ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Ðỗ và làm quan dưới riều Tự Ðức.

  Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng

nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.  

270

Page 271: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

  2. Sự nghiệp: TOP

  Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ

Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.  

Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Còn trong thơ chữ Hán thì hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói trên hai lĩnh vưcï Nguyễn Khuyến đều thành công.

  3.      Thời đại: TOP

  Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như

sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.  

Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.  

Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.

  II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN: 1.Tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng: TOP1.1. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến:  

Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn kiền với tư tưởng trung quân. Ðây là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:

  Khi đưa Thầy con rước đầu tiên

Cờ biển vua ban ngày trứơc  

271

Page 272: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao ý định chua xót về quyết định này:

  Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,

Quy gia vị tất tử tôn hiền? (Cảm tác)

Dịch nghĩa: Bỏ chức há không bạn bè ở lại

Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?  

Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái :

  Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,

Vị ưng nhất chức tẫn phi tài Bách niên tứ hà vi giả,

Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai! (Vũ hậu xuân túy cảm thành)

  Dịch nghĩa:

Ðáng mừng các bạn mạnh dạn dám lui về, Ðâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi

Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì, Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm

(Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa )  

Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Ông thường làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình.

  Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con người nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. Ông quan niệm:  

Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc Tâm trung thường thủ tự kiên kim

  Lời ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng thương trong bài thơ Mẹ mốc của

Nguyễn khuyến có cái gì giống như sự quyết tâm của nhà thơ:

272

Page 273: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

  Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết. Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.

  Nguyễn Khuyến là người coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ

từng trăn trở về vấn đề này:  

Thế đồ kim hựu đa kha khảm, Lợi cục nan năng quả oán vưu. Vị ngã phất tu chung hữu khích,

Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu. (Tiểu thán)

  Dịch nghĩa:

Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bứơc gập gềnh, Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách.

Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích, Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo.

(Vài lời than)  

Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vườn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán...

  1.2. Sự quan tâm lo lắngcho đất nước:  

Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thường đượm buồn, đầy nước mắt khi nói về đất nước:

  Ðời loạn người về như hạt độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi. (Cảm tác)

  Sách vở ích gì cho buổi ấy

Aùo xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân dặn các con)

  Hình ảnh quê hương đất nước xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhưng đều dưới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ:  

Cố quốc sơn hà chân thảm đạm

273

Page 274: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

(Hung niên)  

Nhất độ giang sơn nhất bạc đầu (Thu tứ)

  Nhà thơ từng mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết,

khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc kêu c ảm hứng như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.

  Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn.

Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái:  

Xuân về ngày loạn còn lơ láo Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ,

 

2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến TOP

2.1.Ðối với thực dân Pháp:  

Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức người, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn ma thiêng nước độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e(*)â… đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc:

  Hỡi ôi!

Ông ở bê Tây, Ông qua bảo hộ. Cái tóc ông quăn, Cái mũi ông lõ,

Ðít ông cưỡi lừa, Miệng ông húyt chó,

Lưng ông đeo súng lục liên, Chân ông đi giày có mỏ,

Ông dẹp cờ đen Ðể yên con đỏ.

Ai ngờ: Nó bắt được ông, Nó chặt mất sỏ.

Cái đầu ông đâu?Cái đít ông đó.

Khốn khổ thân ông Ðéo mẹ cha nó

 

274

Page 275: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

2.2.           Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm:  

Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại.

  Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất

tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa của dân.

  Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể.

Bằng lối nói mát chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xương, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.

  Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,

Tiên là ý chú muốn vòi xu Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc Không khéo mà roi nó phết cho

(Bồ tiên thi)  

Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ người hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Ðốc học Hà Nam  đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc.

  Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ

khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ:

  Công tại, tứ thời tập quan đới,

Ðắc dự giả hỉ, bất dự bi. Công khứ, quan đới bất phục tập,

Hương hỏa tịch tịch hoà ly ly. Dản kiến đệ nhị vô danh công, Triêu tịch huề trượng lai vu ty.

Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự, Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy?

  Dịch nghĩa:

Khi ông còn thì áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập, Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn, Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,

275

Page 276: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà. Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên

Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy. Ở đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường,

Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai? (Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Ðộ)

  Nhưng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang

hàng Vợ bợm chồng quan danh phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì.

  Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhượng khi viết về

bọn me Tây, gái điếm. Trong một vế câu đối Mừng cô Tư Hồng ông viết: Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh.  

Ở một câu đối khác: Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt  

Có thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tượng cụ thể để đả kích. Từng con người, từng hiện tượng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.   2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:  

Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hương , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.

  Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì.

Có danh nhưng không thực. Mặc dù: Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai

Cũng gọi ông Nghè có kém ai  

Nhưng ông lại tiếc rẻ: Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ Cái giá khoa danh thế mới hời

  Ấy thế còn ra dáng đường bệ:

276

Page 277: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi

  Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở

thời kỳ nước mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.

  Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ siõ bị đánh mất trước tiền

tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu: Ở góa thế gian nào mấy mụ

Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.

 

3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương: TOP

3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:  

Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.

  - Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa

thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu … được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.

  - Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân

(Ngày xuân) rất độc đáo.   - Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều

trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nước.   Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng

tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng  qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.

  3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:

277

Page 278: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

3.2.1 Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:  

Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:

  Lão làm ái táo, miên tương khởi,

Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì (Hạ nhật tân tình)

  Dịch nghĩa:

Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy, Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra.

(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)  

Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.

Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông: Năm nay cày cấy vẫn chân thua.

Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa (Chốn quê)

  Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác

như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết được mùa được ông ghi nhận:

   

Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt

  Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:

Dở trời mưa bụi còn hơn rét, Nếm rượu tượng đình được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xao xác, Nợ nần năm trước hỏi lung tung.

(Chợ đồng)  

3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:  

278

Page 279: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.  

-         Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.

-           Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy

quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc. Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá

toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm  

- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:

  Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,

Tố nghiệp thư tha nhất thúc thư.  Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,

Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ. (Xuân nhật thị chư nhi (I) )

  Dịch nghĩa:

Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất, Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách

Các con nối chí cha nên biết Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà

(Ngày xuân dặn các con (I) )  

- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn...  Bài nào cũng chân tình giản dị.

- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:

  Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác vài ngày. Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời! Ai chả biết chán đời là phải,

279

Page 280: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Sao vội vàng đã mãi lên tiên? Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua, không phải không tiền, không mua (Khóc Dương Khuê)

  III.NGHỆ THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:

1. Ngôn ngữ: TOP

1.1.           Ðặc điểm chung:  

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.

  Nguyễn Khuyến còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép rất độc

đáo:Thấp le te, đóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe… Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

(Thu ẩm)  

Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ được dùng ở nông thôn được ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em làng xóm,văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài.

  Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian Nhất vợ nhì trời để

lý giải vì sao như vậy: Trời dẫu yêu nhưng vì có phận

Vợ mà vụng dại đếch ăn ai. Cớ sao vợ lại hơn trời nhỉ? Vợ chỉ hơn trời có cái chai!

  Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các

thế kỷ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.   Ca dao có câu Gái có chồng như gông đeo cổ thì nhà thơ làm bài thơ Muốn lấy

chồng phát triển cái tứ ngược lại: Mới biết có chồng như có cánh

Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.  

1.2. Ngôn ngữ trào phúng:  

Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương là đánh một cái cho biết. Cái cười của ông đối với kẻ thù tuy có cay

280

Page 281: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nhưng không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nữ:

Ba vuông phất phới cờ bay dọc Một bức tung hoành váy xắn ngang

(Lấy Tây)  

Ông có biệt tài, cường điệu và chơi chữ rất tài tình: Văn hay chữ tốt ra tuồng

Văn dai như chão chữ vuông như hòm Vẽ thầy như vẽ con tôm

Vẽ tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương. (Ðùa chế ông Ðồ Cự Lộc)

  Hoặc cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm người hàng thịt:

Tứ thời bát tiết canh chung thủy Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

  Các bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà, Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ

lại gnười cho hoa trà, Lấy tây, Ðùa chế ông đồ Cự Lộc, Câu đối tết… đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.

  1.2.           Ngôn ngữ tả cảnh:  

Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.

  Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ , dùng từ thích hợp, từ ngữ

thường lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao.   Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hóa,

cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.  

2. Hình ảnh: TOP

  Hình ảnh sử dụng thường đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật

bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe… đầy sức sống.

  Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa

xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Ðường.  

281

Page 282: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Aâm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả được đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lý:

Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà

(Vịnh lụt)  

Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước, màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm, lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây ấn tượng thị giác.

  Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh nhất là

trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thường thành thơ. 

  IV.KẾT LUẬN:

Nguyễn Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự nhiên, tươi tắn tạo nên những nụ cười nhẹ nhàng, thanh nhã, ý vị; Thơ tả cảnh tả tình có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ý tứ gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc sống nông thôn.

  Nguyễn Khuyến đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, trong

việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Chương 2

NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU (1822-1888) 

*** I. GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

1. Cu ộc đời 2. Sự nghiệp văn chương:

II. NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU: 1. T ác phẩm Luc Vân Tiên: 2. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu:

III. KẾT LUẬN:

Chương 2NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU

(1822-1888) I.GIỚI THIỆU VỀ CUỘC ÐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC

282

Page 283: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.Cuộc đời:  TOP

Nguyễn Ðình Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi ông là tượng trưng cho lòng yêu nước của nhân dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta.(*)

  Nguyễn Ðình Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương

phủ Tân Bình, Gia Ðịnh và mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.   Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc

biến hải hùng đã tác động đến nhận thức của ông.   Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con

quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia đình giàu có bội ước, công danh dang dở. Mặc dù cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng gắn bó với nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù lòa nhưng Nguyễn Ðình Chiểu đã tiến thân thành danh bằng con đường hành đạo của mình. Ông đã mở lớp dạy học, viết văn và hốt thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm lo lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng một lúc ba nhiệm vụ của ba người tri thức để cứu dân, giúp đời.

  Nguyễn Ðình Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm chất, phải có nghị lực phi

thường và khí phách cứng cỏi thì Nguyễn Ðình Chiểu mới vượt qua những bất hạnh của cá nhân và thời cuộc để đứng vững trước cơn binh lửa hãi hùng của lịch sử mà không sờn lòng, nản chí. Nguyễn Ðình Chiểu là hiện thân của nhiều phẩm chất cao đẹp làm người. Trong ứng xử cà nhân, Ðồ Chiểu là tấm gương sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

  2.Sự nghiệp văn chương: TOP

2.1.Quá trình sáng tác:  

Văn chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Ðùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông còn lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là nhà giáo, người thầy thuốc và là một nhà tư tưởng. Nhưng văn chương của ông đồ sộ đủ đứng thành sự nghiệp riêng.

  Nguyễn Ðình Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết

bằng chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành hai thời kỳ sáng tác:   -Trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu

tay, có tính chất tự truyện.

283

Page 284: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

  -Pháp xâm lược Nam Kỳ:   + Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ý kiến cho rằng tác phẩm được viết trước khi Pháp xâm lược cũng có ý kiến ngược lại, mục đích của tác giả là dạy đạo Khổng cho học trò và sau này được sửa lại cho phù hợp với tình hình.  

+ Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ yếu nói về các phương thuốc và nghề làm thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.

  + Các bài thơ Ðường luật, các bài hịch, văn tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh(1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột chưa xác định thời điểm sáng tác.

  Với những tác phẩm nổi tiếng của mình, Nguyễn Ðình Chiểu trở thành người

có uy tín lớn. Bọn thực dân nhiều lần tìm cách mua chuộc ông nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ bất hợp tác của Nguyễn Ðình Chiểu với kẻ thù).

  Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ mù Nam Bộ là một bài học lớn về lòng yêu nước, về việc sử dụng ngòi bút như một vũ khí đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Ðình Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.   2.2.Quan điểm văn chương:  

Nguyễn Ðình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm văn dĩ tải đạo của ông khác với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm Ðạo là đạo của trời, còn Ðồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng có khác:

  Ðạo trời nào phải ở đâu xa

Gẫm ở lòng người mới thấy ra  

Trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Ðó là quan niệm bao trùm văn chương Ðồ Chiểu.

  Quan điểm văn chương Ðồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là

quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái.   II.NỘI DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÐÌNH CHIỂU:

284

Page 285: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1.Tác phẩm Luc Vân Tiên: TOP

  1.1.Tóm tắt cốt truyện:

Ðây là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt truyện được tóm tắt như sau: -Lục Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186) -Lục Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và được cứu giúp (Câu 187-1264) -Kiều Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664) -Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng (câu 1665-2082)  

1.2. Lục Vân Tiên thể hiện Ðạo làm người trong cuộc đời thường: 1.Ðạo đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên  

Khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Ðình Chiểu bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca ngợi đạo nho Theo đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.

  Viết tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên những tấm gương về luân lý,

đạo đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm mục đích giáo huấn, cải tạo xã hội: Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.  

Quan niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật (Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu Ðồng…) dễ làm ta nghĩ đến những quan niệm phong kiến Nam nữ thụ thụ bất thân, về lòng trung thành, về chữ trung, chữ tiết phong kiến.

  Nhưng trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu đã nhào

nặn lại tư tưởng của đạo nho, đã tiếp thu một cách sáng tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa nhưng không còn theo lý thuyết nho giáo gò bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan theo kiểu phong kiến mà được khúc xạ đến mức khó nhận ra.

  Các nhân vật không thấy mình bị gò bó bởi một nguyên lý đạo đức nào. Vân

Tiên nghe theo lệnh vua đi chống giặc Ô Qua là để cứu dân. Ðó là hành động trung quân hay ái quốc cũng được. Tư tưởng trung quân của Nguyễn Ðình Chiểu là trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải, trung với nước. Nhưng đối với những ông vua xấu, vua ác thì ông phê phán:

  Quán rằng: ghét việc tầm phào

Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm.

Ðể dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

285

Page 286: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ghét đời U, Lệ đa đoan, Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

Ghét đời Ngũ bá phân vân, Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời Thúc quý phân băng, Sớm đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…

  Hành động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái độ phản kháng đối với chữ

trung. Nghĩa tình nặng cả hai bên.

Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu.  

Nguyễn Ðình Chiểu là một nhà nho sống dưới thời nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo được đề cao. Nhưng có được một quan niệm đạo đức như thế rõ ràng là tiến bộ. Như vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung , hiếu tiết, hạnh nhưng không phải hoàn toàn thuộc quan niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.

  Ðứng trên lập trường nhân dân, ông ca ngợi những người hành động vì nhân

nghĩa và họ xem đó là một nhu cầu mà không hề nghĩ đến lợi danh, không cần báo đáp.

  -Ðó là những người rất hào hiệp, nghĩa khí Giữa đường thấy chuyện bất bằng

chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu đột đánh cướp cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ giò con quan tri huyện để cứu người bị ức hiếp thế cô.

  -Họ còn là những người tốt, giàu lòng thương người, sẵn sàng giúp đỡ người

khác không nghĩ đến thân, quên mình vì nghĩa. Ông Ngư hết lòng chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:

  Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày. Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn Nước trong rửa ruột sạch trơn

Một câu nhân nghĩa chi sờn lòng đây.  

Tất cả việc làm vì nghĩa của các nhân vật chính diện trong tác phẩm Lục Vân Tiên đều thể hiện được một quan điểm nhất quán của Ðồ Chiểu về cuộc sống, cũng như về đạo đức.

  Ðể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, một mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê phán cái phi nghĩa. Các nhân vật trong tác phẩm được sắp xếp thành hai

286

Page 287: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

tuyến nhân vật rất rõ. Một bên là những con người chính nghĩa và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa như gia đình họ Võ ăn ở hai lòng, như Trịnh Hâm tính tình đố kỵ nhỏ nhen; như Bùi Kiệm dâm ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép, bối toán nhiễu đời, hại dân cùng với những tên sâu dân mọt nước như tên Vua Sở, tên Thái Sư trong truyện. Tất cả những nhân vật phản diện này đều tiêu biểu cho cái xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng trị thích đáng.  

Cách xử lý của tác giả rất gần với quan niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Ðó cũng chính là đạo lý, là ước mơ của nhân dân.   2.Lục Vân Tiên thể hiện bản chất đạo lý nhân dân:  

Vấn đề đạo lý còn được thể hiện qua các quan hệ khác trong tác phẩm: Cha con, chồng vợ, thầy trò, bạn bè… Nguyễn Ðình Chiểu đã đặt ra những tình huống xử thế trong các mối quan hệ đời thường, gia đình và xã hội. Nó rất gần gũi và cần thiết với cuộc sống hàng ngày và bao trùm hơn cả là mối quan hệ giữa con người với con người.

  Mối tình Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được vun đắp từ vấn đề ân nghĩa.

Khi nghe tin Vân Tiên mất, nàng kiên quyết thủ tiết thờ chồng. Nỗi đau buồn của nàng khi được lệnh cống Ô qua: Trong dạ như bào, canh chày chẳng ngủ, những thao thức hoài… và lấy cái chết để giữ tình phu phụ. Vân Tiên cảm phục tấm lòng sắt son chung thủy của người yêu nên đã không ngần ngại Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn. Vân Tiên đã làm một việc mà đạo đức phong kiến không cho phép. Cũng giống như Nguyệt Nga, nàng đã vượt qua lễ giáo phong kiến tự ý đính ước với Vân Tiên.

  Các nhân vật chính diện trong tác phẩm sống rất hồn nhiên, cởi mở. Họ sống

có tình, có nghĩa, giản dị, chân chất. Tình thầy trò giữa Tôn Sư và Vân Tiên, tình cảm bạn bè giữa Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; Tình nghĩa chủ tớ giữa Vân Tiên với Tiểu Ðồng; giữa Nguyệt Nga và Kim Liên được miêu tả giống với cuộc sống và quan niệm của nhân dân.  Ðoạn Vân Tiên bày tiệc tế Tiểu Ðồng rất cảm động, nhưng Tiểu Ðồng còn sống, gặp lại nhau tớ thầy vui mừng không xiết:  

Trạng nguyên khi ấy mừng vui Tớ thầy sum hiệp tại nơi Ðại đề

Ðoạn thôi xe trở ra về… Vân Tiên cùng các bạn là Hớn Minh, Tử Trực vẫn thân thiết như ngày trước:

  Hai người gặp lại hai người

Ðều vào một quán vui cười ngả nghiêng.  

Bản chất nhân dân còn thể hiện qua đặc điểm tính cách của nhân vật. Quan điểm thương ghét của Ông Quán rất rõ ràng, dứt khoát tiêu biểu cho tính cách của

287

Page 288: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

người dân Nam bộ, quan điểm này cũng xuất phát từ tấm lòng thương yêu trìu mến Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Hớn Minh là người nghĩa khí, hành động bẻ giò con quan tri huyện ỷ thế giàu sang làm càng là tiêu biểu cho hào khí của người dân lục tỉnh. Cũng như Tử Trực được miêu tả là một người trực tính, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa, rất mực yêu quý bạn, nghe tin Vân Tiên mất chàng than khóc:

  Nghe qua Tử Trực chạnh lòng

Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.  

Nhưng tiêu biểu nhất là nhân vật Lục Vân Tiên, chàng là mẫu ngưỡi lý tưởng nên hội đủ các điều kiện mà nhân dân mơ ước: trọng nghĩa khinh tài, phò đời giúp nước, đối nhân xử thế đều theo quan điểm nhân dân.   1.3.Lục Vân Tiên từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ đến lý tưởng xã hội: 1.Từ dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ:  

Lục Vân Tiên là một câu chuyện mang tính chất tự truyện. Tính chất tự truyện thể hiện qua những chi tiết có tính chất bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội dung tự thuật này đã bao quát toàn bộ cốt truyện và thể hiện suốt chiều dài tác phẩm.

  Lục Vân Tiên thể hiện giấc mơ Ðồ Chiểu Người thanh niên bị phụ tình đã ước

mơ một mối tình chung thủy. Chàng ước mơ những cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước non và tâm sự ấy chàng đã gửi vào Tử Trực, vào Hớn Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng mắt ra. Vân Tiên sẽ thực hiện cái chí bình sanh của Nguyễn Ðình Chiểu(*)

  Ngoài giấc mơ riêng tư còn là giấc mơ chung về cuộc đời rộng lớn mà tự nó đã

thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc.   2.Ðến một lý tưởng xã hội:  

-Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để gửi gấm lý tưởng xã hội của mình.

-Nhà thơ đã xây dựng những mẫu người lý tưởng, qua những nhân vật lý tưởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.

  -Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và

kết cục của số phận nhân vật phản diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn

288

Page 289: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác.

Cách xử lý này tuy có phần ảo tưởng và thỏa hiệp nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tưởng hơn, thể hiện được tư tưởng lạc quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được người tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.

  -Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo

bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.   1.4.Vài đặc điểm về nghệ thuật: 1.Kết cấu:  

Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên sự đối lập được thể hiện trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình.  2.Sự chuyển ý:  

Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái. Từng chương, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chương, mục là một nội dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngư, ông Tiều về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn tượng mạnh mẽ:

Pháp rằng: Aán đã cao tay Lại thêm phù chú xưa nay ai bì

Qua sông cá thấy xếp vi Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa

… Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:

Có ba lạng bạc trao sang Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.

  3.Ngôn ngữ:  

Tác phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền miệng trong dân gian.

289

Page 290: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

  4.Sử dụng thành ngữ, ca dao:  

Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ như đoạn đối đáp của ông quán với Trịnh Hâm…   5.Ðiển cố:  

Ðiển cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…   6.Xây dựng tính cách nhân vật:  

Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ chưa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó, gượng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.

  Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm

đã kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc.   2.Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu: TOP

2.1.Ðặc điểm về thơ văn yêu nước chống Pháp:  

- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu thể hienä tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Ðình Chiểu đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của cha ông trong kháng chiến chống ngoại xâm. Tiêu biểu là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:

  Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.  

- Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa được mở rộng thành lời kêu gọi động viên kêu gọi cứu nước:  

Mến nghĩa bao đành làm phản nước Có nhân nào nỡ phụ tình nhà

(Dương Tử-Hà Mậu) Ông đã từng tâm niệm:

  Hễ làm người chớ ở hai lòng

290

Page 291: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ðã vì nước phải theo một phía  

Và sử dụng thơ văn yêu nước làm vũ khí đấu tranh sắc bén:  

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Ðâm mấy thằng gian bút chẳng tà

  - Nguyễn Ðình Chiểu đã xác định vị trí chiến đấu của mình, vị trí vinh quang

gắn liền với truyền thống của người trí thưc Việt Nam. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu giữ vị trí tiên phong của thời đại, cả mở đầu lẫn dẫn đầu, cả về chiều sâu lẫn độ cao, độ chín. Ðó là bước phát triển vượt bậc nhưng vẫn nhất quán và liền mạch.

  2.2.Các nhân vật chính trong thơ văn yêu nước chống Pháp: 1.Nhân vật là người nông dân đánh Tây: 1.1.Vị trí của người dân trong văn chương:  

Trước đây vai trò của người dân chưa được đề cao trong văn chương. Trong giai đoạn trước Nguyễn Ðình Chiểu, người dân cũng giữ vai trò quan trọng nhưng chua quyết định như giai đoạn này. Nhân dân chỉ là lực lượng phục tùng. Số phận của họ được định đoạt dựa vào nhà nước phong kiến.

  Trong thơ văn yêu nước, vai trò người dân nổi bật hơn trước. Họ trở thành

người dân mộ nghĩa, thành trang dẹp loạn. Trong số ấy có người là Dân ấp, dân lân, những người nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ trở thành nhân vật chính mà sử sách gọi là người nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Ðình Chiểu đã viết về họ như những người anh hùng của thời đại.   1.2.Cái nhìn mới mẻ về người nông dân trong cuộc đấu tranh chống Pháp:  

Từ Chạy Tây đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, người dân Nam bộ đã đi những bước thật dài và cái nhìn của Ðồ Chiểu cũng tiến những bước thật dài. Ở Chạy Tây là nhân dân và ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là người nông dân.

  Nguyễn Ðình Chiểu đã khái quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể về cuộc đời nhân vật là người nông dân nghèo khổ, chưa quen với việc cung kiếm binh đao bỗng chốc trở thành người nông dân đánh Tây. Họ yêu nước, tự ý thức được nghĩa vụ của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cường và lập nên những chiến công hiển hách:

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

  Khá khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh,

291

Page 292: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Mười tám ban võ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô của xông vào liều mình như chẳng

có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;

Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu đồng, súng nổ. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

  Ngòi bút Nguyễn Ðình Chiểu đã ca ngợi họ và khắc sâu vào tâm trí hình ảnh

bất tử của nghĩa quân, nhắc lại quá trình chiến đấu gian khổ mà người nông dân Cần Giuộc đã trải qua. Ðó là con đường của dân tộc đã đi từ bấy đến giờ, rất thực và cũng rất thơ.   1.3.Tấm lòng của nhà thơ:  

Tình cảm của nhà thơ đối với người đã mất cũng như đối với người còn sống là rất nhân hậu và thành thực. Nhà thơ đau xót trước sự hy sinh của nghĩa quân và trút trách nhiệm ấy lên bọn vua quan bán nước.

  Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồng.

Biết thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái  

Tác giả thương người còn sống, thương mẹ già, vợ góa, con côi… tình cảm đó được diễn đạt bằng những câu thơ rất não nùng.  

Ðau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét ở trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ

  Nhà thơ còn nghĩa đến quê hương, đến đồng bào trong cơn lửa loạn và nhỏ lệ khóc thương  

Binh tướng nó hãy đóng ở sông Bến Nghé làm cho bốn phía mây đen. Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ

  2.Nhân vật là người sĩ phu kháng Pháp:  

292

Page 293: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Là những lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp như Trương Ðịnh, Phan Tòng… Nhà thơ đã ca ngợi, nhắc nhở, ghi công trạng của họ.

Ca ngợi Trương Ðịnh, Phan Tòng Vì nước, giúp đời, xem thường cái chết Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây. Hình ảnh của họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào lịch sử và mang đậm nét bi hùng:

  Làm người trung người đáng bia son

Ðứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn Cơm áo đền bồi ơn đất nước

Râu mày giữ vẹn phận tôi con Tinh thần hai chữ phau sương tuyết

Khí phách nghìn thu rỡ núi non (Ðiếu Phan Tòng)

  Có thể nói, qua nguyên mẫu một Trương Ðịnh, Phan Tòng, Nguyễn Ðình

Chiểu đã dựng lên hình tượng người sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ưu tú nhất của thời đại lúc bấy giờ.   3.Nhân vật là người trí thức bất hợp tác với kẻ thù:  

Hình ảnh Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp là tiêu biểu cho người tri thức bất hợp tác với kẻ thù. Nhân Sư đã tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ liêu, làm thái y cho giặc (Thà đui mà giữ đạo nhà). Ðây là hành động tự hủy để giữ thân, giữ đạo:

  Sự đời thà khuất đôi tròng thịt

Lòng đạo xin tròn một tấm gương.  

Nhưng Nhân Sư không hề bỏ rơi trách nhiệm của mình, luôn làm điều thiện để thực hiện thiên chức cao cả: Làm thuốc, dạy thuốc chữa bệnh cho dân, tập hợp và giác ngộ những người dân yêu nước, đợi thời cơ ra cứu nước:

  Hỡi bạn y lâm ai có hỏi Ðò xưa bến cũ có ta đây

  Từ thái độ của Nhân Sư có thể thấy được thái độ của Nguyễn Ðình Chiểu: Yêu nuớc nhưng bất lực đến dày vò tâm hồn:  

Ðã cam chút phận dở dang Trí quân hai chữ mơ màng năm canh

 

293

Page 294: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Mặc dù bất lực nhưng tác phẩm vẫn thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai dân tộc:

  Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng

Bốn bể câu ca hiệp một nhà Và điều cảm động là tấm lòng của nhà thơ trước sau cũng đều thuộc về dân, về nước, thủy chung, son sắt:  

Mắt nhìn trong tiết thanh minh, U Yên đất cũ cảnh tình trêu ngươi.

Trăm hoa nửa khóc nửa cười, Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.

Cỏ cây đưa nhánh đón đường, Như tuồng nếu hỏi: Ðông hoàng ở đâu?

Bên non đá cụm cuối đầu, Như tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh.

Líu lo chim nói trên cành, Như tuồng kẻ mách tình hình dân đau.

Ngày xuân mà cảnh chẳng xuân, Mưa sầu, gió tủi biết chừng nào thanh!

  Có thể thấy ba nhân vật chính đã trở thành văn chương. Ba nhân vật nhưng

cùng mộ tấm lòng, một thái độ. Tấm lòng đối với dân và thái độ đối với kẻ thù. Ðó cũng là mẫu người và cách sống cao đẹp nhất mà khuôn khổ lúc bấy giờ quy định và cho phép.

  III. KẾT LUẬN:  

Lục Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên của nhân dân Nam bộ có tiếng vang và được đón nhận mang tầm cả nước và đến thơ văn yêu nước, Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ đứng đầu và mở đầu của v ăn chương yêu nước mà còn đưa ông lên hàng tác gia lớn của văn chương cả nước trong dòng chủ lưu này.

  Nguyễn Ðình Chiểu xứng đáng là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội miền

Nam nửa sau thế kỷ XIX và trong thực tế ông là lá cờ đầu trong của dòng văn học yêu nước Nguyễn Ðình Chiểu là người trí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta và sự nghiệp của Nguyễn Ðình Chiểu là tấm gương sáng nêu cao địa vị và tác dụng của văn học nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng (Phạm Văn Ðồng)

294

Page 295: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

CHƯƠNG 2 :   VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 - 1945

I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG

I.     NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TOP

1.      Khái niệm lãng mạn:

Theo chiết tự  lãng : sóng; mạn: phóng túng), lãng mạn tức là phóng túng không chịu một sự ràng buộc nào, không theo đường lối nào.

Khái niệm lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, lí luận như ở Nga, ở Pháp, ở Việt Nam... Vì vậy, để xác định được nội dung chính xác của khái niệm lãng mạn là một điều khó khăn và phức tạp.

+ Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận: Những tranh cãi nóng hổi về chủ nghĩa lãng mạn, tranh cãi thì nhiều mà làm sáng tỏ vấn đề chẳng được bao nhiêu. Hay trong một bức thư gửi bạn 25/3/1825 Puskin viết: Tôi nhận thấy rằng tất cả chúng ta( và cả bạn nữa đều quan niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn)

Hai mươi năm sau cũng ở Nga, nhà phê bình Biêlinxki cũng đi đến kết luận: Về tất cả vấn đề này chưa có gì là sáng tỏ và chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn là một đối tượng bí ẩn và đầy ước đóan

+ Ở Pháp: cuộc tranh cãi còn náo động hơn khi vở kịch Hernani của Victor Huygi, các phái ủng hộ và chống đối cũng đấu khẩu và đấu đá, đóng góp vào lịch sử văn học Pháp thuật ngữ trận chiến Hernani.

+ Ở Việt Nam: tranh cãi về thơ cũ, thơ mới vào những năm 1932_1935 rất sôi nổi. Tranh cãi về văn xuôi lãng mãn và hiện thực cũng rất hăng hái.

Trong một tác phẩm văn học có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Cuộc sống hàng ngày nảy sinh ra vấn đề hiện thực và vấn đề lãng mạn.

Bộ văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945, gồm 8 tập, gần 100 tác phẩm, khoảng 3.000 trang, có truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Gọi là văn xuôi lãng mạn nhưng tỷ lệ tác phẩm lãng mạn thấp hơn so với tác phẩm khác còn lại. Có thể những người xuất bản lấy tên lãng mạn cho dễ xuất bản, tiêu thụ. Nhưng nó cũng có nguyên nhân: Vấn đề lãng mạn và hiện thực ở văn chương là rất phức tạp, dễ dẫn đến sự sắp xếp tùy tiện . Ngay giáo sư Nguyễn Hoành Khung chủ biên bộ sách cũng phải thừa nhận rằng: Trước hết là cái tên lãng mạn không phù hợp với nhiều tác giả, tác phẩm mà nó định thu gom... Sự phân biệt đối lập giữa văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán trong khu vực hợp pháp không phải luôn luôn rõ rệt nên việc vạch ra đường ranh giới rõ rệt giữa hai dòng hiện thực và lãng mạn là không thể làm được

295

Page 296: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

và thực tế không có một ranh giới như vậy.( Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945, tập VIII, NXB khoa học xã hội trang 548, 549.)

Trong lời bạt cho bộ sách Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945 nhà thơ Huy Cận cũng tỏ ra hoài nghi với cách phân loại như vậy: lanîg mạn hay hiện thực cũng đành theo một cách phân loại đã quen dùng. Nhưng chúng ta không quen tính ước lệ nhiều trong cách phân loại ấy. Ông viết tiếp: cho hay những tác phẩm cao đẹp thì bất chấp sự chia ô hoặc nói đúng hơn là cái đẹp cái hay đó nó tràn ngập các ô mà chúng ta đã ngăn sẵn

Nhà thơ Chế Lan Viên không phản đối việc chia ô nào là hiện thực, ô nào là lãng mạn mà cốt phê phán cách xử lý máy móc, đem đối lập chúng với nhau, hạ thấp cái này đề cao cái kia: Về văn học trước cách mạng chia ra nào lãng mạn nào hiện thực thì cũng đúng và cũng nên nhưng chia ra để làm gì ? Nếu chỉ nói là chúng không chống nhau, nam nữ thọ thọ bất thân, nội bất đắc xuất, ngoại bất đắc nhập thì nguy khiếp lắm. Cho dù đồng sàng dị mộng thì cũng có lúc gác chân lên nhau qua lại chứ _ Sao không nghĩ chúng cùng thời với nhau, chúng chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có khi chống đối, có khi bổ sung, có lúc thỏa hiệp chứ đâu chỉ có quan hệ lườm nguýt mới là quan hệ (Bài ca thôn Vĩ Dạ, trang 10-11)

Ở Việt Nam văn xuôi 1930_1945 rất khó phân biệt giữa hiện thực và lãng mạn. Những truyện ngắn của Thạch Lam, Trần Tiêu, yếu tố hiện thực lại nổi lên rất rõ. Có người cho rằng truyện ngắn Nhà mẹ Lê còn hiện thực hơn Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố

Chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ. Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để thể hiện

Tóm lại tác phẩm văn chương ít nhiều có chứa đựng yếu tố hiện thực và lãng mạn

2.      Phân biệt giữa lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực

Trong bài Tôi đã học viết như thế nào ? Goocki đã gặp tư tưởng Lênin, thấy cần thiết phải phân biệt trong văn học lãng mạn có hai loại: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực

Lãng mạn tiêu cực hoặc đưa con người thỏa hiệp với thực tại hoặc tô vẻ thực tại , hoặc tách con người ra khỏi thực tại đi vào thế giới nội tâm với những ý tưởng về những bí ẩn thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái Tôi

296

Page 297: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ðặc điểm của xu hướng lãng mạn là chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa thần bí, thái độ đối địch với lý trí, sự thoát li thực tại và quay về quá khứ ( trung cổ), dựa vào tôn giáo dựa vào trí tưởng tượng môt cách bệnh hoạn, thích thú với cái hoang đường kỳ ảo. Xu hướng này gọi là lãng mạn tiêu cực( hay lãng mạn bảo thủ phản động) . Vì nó chống lại mọi sự tiến bộ của xã hội, quay lưng lại phong trào đấu tranh của nhân dân

Lãng mạn tích cực: tìm thấy vào những năm 1810_1830 ở Châu Âu lúc mâu thuận sâu sắc giữa giai cấp Tư sản với chế độ phong kiến. Khi cách mạng Tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu là muốn giải phóng nhân dân khỏi ách phong kiến nhưng cuộc sống của nhân dân vẫn phải sống ách nô lệ và sự kiểm soát của một chế độ mới.

Các nhà lãng mạn tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của nhân dân

Cả hai xu hướng này có điểm gặp nhau. Ðặc điểm chính của thế giới quan lãng mạn sự lí giải thường là chủ quan về các hiện tượng đời sống, gán cho đời sống cái mà chủ thể nghệ sĩ mơ ước được thấy. Do đó các nhà lãng mạn không có nhận thức chính xác, mà có khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách quan về sự phát triển của thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử. Bất bình với thực tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội. Nhưng không nhận thức đúng đắn qui luật lịch sử cụ thể nên chương trình của họ thường xuất phát từ ý tưởng trừu tượng thường có tính chất không tưởng. Như Victohuygo tuy có cảm tình sâu đậm với những Người khốn khổ nhưng lại đi tìm giải pháp cứu khổ bằng giải pháp tình thương

Việc phân chia chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ nghĩa lãng mạn tích cực lại nảy sinh ra vấn đề: sự đối lập về hệ tư tưởng sao lại có thể nằm chung trong cùng một phương pháp sáng tác lãng mạn. Theo quan điểm của Lênin về hai dong văn hóa trong một nền văn học dân tộc. Có thể hai dòng văn hóa đối lập nhau về hệ tư tưởng. Nhưng không phải vì thế mà tính thống nhất của nền văn hóa dân tộc bị phá vỡ. Phải chăng các nền văn văn hóa dù lãng mạn tiêu cực hay tích cực vẫn có những nét chung về tư duy nghệ thuật làm nền khuynh hướng lãng mạn.

II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG TOP

1.      Văn chương cổ :

Văn chương trung đại có đề cập tới cái Tôi nhưng cái Tôi ấy chỉ một số nhà thơ nhắc tới. Trong Quốc âm thi tập, cái Tôi của Nguyễn Trãi đã hóa thân vào thơ:

Ngoài cửa mận đào là khách đỗ

Trong nhà cam quýt ấy tôi mình

297

Page 298: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Ai hay, ai chẳng hay thì chớ

Bui một ta khen ta hữu tình

Cái Tôi trong thơ Nguyễn Trãi Một ta khen ta, một Tôi phải đối diện với Tôi, đối thoại với Tôi

Cái Tôi trong thơ bà Huyện Thanh Quan mang một tâm sự u hoài:

...Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân nghoảnh lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

Cái Tôi trong thơ Hồ Xuân Hương là khát vọng chân chính về tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ vốn bị xã hội phong kiến vùi dập khinh rẽ. Thơ của bà khẳng định được vẻ đẹp thể lực và vẻ đẹp tâm linh của người phụ nữ. Ðó là bài thơ Bánh trôi nước

Cái Tôi trong thơ Nguyễn Công Trứ vừa thách thức vừa thề bồi:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Những câu thơ trên của các nhà thơ đầy tính bản ngã. Tính bản ngã là một trong những nguyên nhân sinh ra tính nhân bản của nền văn học dân tộc

Văn chương cổ chứa đựng tâm sự cái Tôi trữ tình, cái Tôi tiềm ẩn mà thời đại hầu như không chứa nổi, khiến Nguyễn Du phải quay hỏi hậu thế :

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

Có lúc cái Tôi trong thơ Nguyễn Du cũng muốn cựa quậy, phá phách

Chọc trời khuấy nước mặc dầu

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ...

( Truyện Kiều)

298

Page 299: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Văn chương bày tỏ khát vọng, ước mơ, phẫn nộ và dự cảm về số phận con người muốn vượt thóat khỏi giới hạn của thời đại. Thế nhưng tư tưởng chính thống của phong kiến là trung quân ái quốc, vua là tuyệt đối, vua không nhìn thấy số phận cá nhân. Nhưng cái nhìn của văn chương không phải là cái nhìn của vua mà là tiếng nói tình cảm khát vọng của nhân dân, từ cá nhân với cá nhân. Chế độ phong kiến không chấp nhận cá nhân, do đó nhà thơ cổ có đề cập đến cá nhân nhưng lại bị tư tưởng phong kiến coi thường khước từ. Các nhà thơ cổ người thì bị coi là nghịch sĩ, người bị coi là nghịch tử và nghịch thần.

Văn học cổ không hiếm sự tích về ý thức cá nhân, về tri âm, tri kỷ, tri ngộ.

Tri: hiểu

Kỷ: là cá tính, cái riêng, chân trời riêng có nhu cầu được hiểu biết và thông cảm

Tri kỷ là hiểu được cá tính của nhau

Tri âm : hiểu được tấm lòng

Tri ngộ: là hiểu được cái ơn

Trong thực tế đời sống và trong văn chương có nhiều cặp quan hệ là bạn tri âm, tri kỷ như Chung Tử Kỳ-Bá Nha, Lưu Bình-Dương Lễ; Nguyễn Khuyến-Dương Khuê; Nam Cao- Tô Hoài

Con người ta thấy đời sống có ý nghĩa chừng nào cái kỷ của mình được người biết đến và được thừa nhận. Chung Tử Kỳ ngồi nghe đàn mà biết được tâm hồn của bạn:

Nga Nga hồ chí tại cao sơn

Dương Dương hồ chí tại lưu thủy

( Tiếng đàn lên cao hồn người đang hướng về non

Tiếng đàn khoan nhặt hồn người gửi nơi dòng nước chảy)

Con người ta sẵn sàng chết khi người khác hiểu mình Sĩ vi tri kỷ giả tử (kẻ sĩ sẵn sàng chết cho người biết mình). Vì vậy có nhiều người chết vì tình yêu, vì kẻ khác không hiểu mình

Quản Trọng coi Bảo Thúc Nha còn hơn cả cha mẹ mình: Thuở thiếu thời ta thường đi buôn với Bảo Thúc Nha, khi chia tiền của ta thường lấy phần nhiều, vậy mà Bảo Thúc Nha không cho ta là tham, vì biết ta nghèo lắm. Ta đã ba lần cầm quân đánh giặc và cả ba lần đều thua chạy, thế mà Bảo Thúc Nha không cho ta là hèn vì biết ta còn có mẹ già. Ta đã ba lần làm quan và cả ba lần đều bị cách chức, Bảo Thúc

299

Page 300: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nha không coi ta là kẻ bất tài, vì biết thời thế có lúc lợi có lúc không lợi. Than ôi sinh ra ta là cha mẹ ta, mà biết ta chỉ có Bảo Thúc Nha . Ðó chính là nhu cầu muốn khẳng định cái Tôi

2.      Văn chương Tư sản:

Chủ nghĩa lãng mạn ra đời như là phản ứng lại chủ nghĩa cổ điển trước nó. Nếu văn học cổ điển đề cao lí trí thì văn học lãng mạn thiên về cảm xúc trữ tình. Văn học cổ coi cái Tôi là cái đáng ghét thì văn học lãng mạn suy tôn cái tôi, đề cao bản ngã. Văn học cổ điển đề cao cổ đại thì văn học lãng mạn hướng về lịch sử dân tộc, lấy cảm hướng nhiều ở văn học dân gian cũng như thời đại mà nhà văn sống. Văn học cổ điển đề ra đủ thứ quy tắc phải tuân theo, còn chủ nghĩa lãng mạn không bị gò bó bất cứ nguyên tắc nào ngoài quy tắc bên trong của bản thân nghệ thuật.

Nhìn chung đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn nó thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân, ở nguyên tắc chủ quan, ở sự thể hiện, ở xu hướng thiên về mơ mộng.

Văn học phong kiến coi thường ý thức cá nhân, cái Tôi cần phải dấu đi, mới là người có văn hóa, còn đem khoe cái Tôi thì là kẻ vô học: Kẻ ngu này trộm nghĩ ; Ngu huynh hiền đệnói theo kiểu này là người gia giáo có giáo dục

Văn học cổ không phát triển cái Tôi- cá nhân nên không trực tiếp tả nội tâm con người- mà nội tâm con người vô cùng phong phú và phức tạp. Văn học cổ phải dùng hành vi bên ngoài mới miêu tả được bên trong, không đi vào trực tiếp nội tâm bên trong.

Văn học phong kiến không có văn học thiếu nhi, xem trọng người già: Cụ cố Hồng mới có 50 tuổi thích gọi bằng cụ. Nguyễn Du phải để cho Vương quan nói giọng người lớn mặc dù lúc đó Vương Quan mới chỉ 13 tuổi. Thiếu nhi trong văn học phong kiến là người lớn bé. Ðó chính là mỹ học của văn học phong kiến. Ðứng trước ý thức hệ phong kến quá ư là là trói buộc, lạc hậu, do đó vào những năm 1930 phải có một giai cấp mới ra đời đó là giai cấp Tư sản . Giai cấp tư sản ra đời là Tư sản hóa của ý thức và sự Âu hóa của thẩm mỹ.

Cái Tôi đã được văn chương lãng mạn khai sinh ngay giai đoạn đầu là một bước ngoặc có ý nghĩa nhân văn. Nó đánh dấu sự tự ý thức về mình của con người khi muốn vượt ra ngoài Ðêm trường Trung cổ với những ràng buộc nghiệt ngã của thiết chế phong kiến. Cái Tôi trong văn chương lãng mạn được biểu hiện ở ba dạng thức

Cái Tôi thứ nhất là cái Tôi bản thể của con người. Cái Tôi thứ nhất vốn có từ khi con người xuất hiện như một thực thể, một sinh thể thóat ra khỏi thế giới động vật. Nhưng dưới chế độ xã hội nô lệ và phong kiến, cái Tôi ấy bị chà đạp và tỏa chiết. Con người đã đánh rơi cái Tôi của mình ngay từ đầu, cái Tôi bị trói buộc hay chìm đắm trong một mớ giáo lí kinh viện.

300

Page 301: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cái Tôi thứ hai gắn liền với nhu cầu giải phóng cá tính khi giai cấp Tư sản hình thành và phát triển, nó đánh thức cái Tôi bản thể

Cái Tôi thứ ba là cái tôi của cá tính sáng tạo của nhà văn với tư cách là một nghệ sĩ

Nói đến cái Tôi là nói đến lịch sử và cuộc hành trình của nó từ Vương quốc tất yếu đến Vương quốc tự do

Cái Tôi nghệ sĩ cũng chính là cá tính sáng tạo, là bản lĩnh của nhà văn, nhà thơ. Vai trò của nó là quyết định sự hình thành của phong cách nghệ thuật. Nó được thể hiện ở sự tìm tòi, khám phá, phát hiện riêng của từng nhà văn, nhà thơ trong việc chọn đề tài, nêu vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình tượng, tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm vv

Tóm lại, cái Tôi của văn chương lãng mạn chỉ tiến bộ tích cực và mang ý nghĩa nhân văn ở giai đoạn đầu. Ðến giai đoạn sau, nó trở nên cực đoan, hẹp hòi- biến thành một thứ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, đối lập với xã hội

XUÂN DIỆU

( 1916 – 1985)    

1 – Vài nét về tiểu sử và con người :

2 – Xuân Diệu với thơ :

3 – Xuân Diệu với văn xuôi, tiểu luận, phê bình :  

4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu:

5 – Kết luận chung :

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP  

VĂN HỌC VIỆT NAM 1955 -1975   

XUÂN DIỆU

( 1916 – 1985)  

1 – Vài nét về tiểu sử và con người :   Top

301

Page 302: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02 - 2 - 1916 tại Tùng Giản - Tuy Phước - Bình Định.

Quê quán: Đại Lộc - Can Lộc – Hà Tĩnh.

Xuân Diệu học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học trung học ở Hà Nội và Huế.

Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận.

Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm 1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.

Xuân Diệu để lại một di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại:

- Trước Cách mạng tháng Tám:

+ Thơ : Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945).

+ Văn xuôi : Phấn thông vàng (1939)

- Sau Cách mạng tháng Tám:

+ Thơ : Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay ( 1962), Khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thanh ca (1982).

+ Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959), Phê bình giới thiệu thơ (1960), Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977), Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( hai tập; 1981& 1982).

+ Dịch và giới thiệu thơ nước ngoài của các nhà thơ như : Targo, Puskin, Maiacốpxki, Đimitrôva,...  

Một số điểm cần lưu ý :

302

Page 303: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

+ Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác.

+ Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ.

+ Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời.  

2 – Xuân Diệu với thơ :   Top

2.1 – Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám :

Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu có hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Ông là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng định: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”.

Khác với các nhà thơ cùng thời kì, Xuân Diệu gắn bó thiết tha với cuộc sống, “Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Khát vọng mãnh liệt đến với cuộc đời, giao cảm với đời là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ Xuân Diệu.

Cảm hứng về tình yêu là cảm hứng nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Với ông, tình yêu đã trở thành lẽ sống, “làm sao sống được mà không yêu”, mặc dầu ông cảm nhận :“ Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu”. Bởi thế, ông luôn có tâm trạng Vội vàng, Giục giã . Ông sợ thời gian, ông muốn vũ trụ ngưng đọng :

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt nắng

Tôi muốn buộc nắng lại

Cho hương đừng bay đi.

(Vội vàng)

303

Page 304: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hay là:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em em ơi, tình non sắp già rồi

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

(Giục giã)

Tình yêu được Xuân Diệu diễn tả với nhiều cung bậc, từ Gặp gỡ rồi Yêu, cho đến khi Xa cách , Biệt li êm ái và với những tâm trạng và hành động khác nhau: Có khi là sự “dại khờ”, “mời yêu” hay “ngẩn ngơ”, “nhớ mông lung”,“sầu”, … Cũng có khi “ rạo rực” khát vọng :

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm .

Xuân Diệu đã thể hiện được một tình yêu đích thực, không e ấp ngượng ngùng khi bày tỏ tình yêu. Ông muốn tạo nên một không gian thấm đẫm tình yêu để gửi gắm niềm khao khát về tình yêu vô biên và tuyệt đích :

Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ

Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần

Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân

Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.

(Phải nói)

Dẫu tình yêu có nồng cháy, mãnh liệt nhưng nó vẫn không được cuộc đời đón nhận, khiến “cái tôi” phải cầu xin:

Mở miệng vàng.. và hãy nói yêu tôi

Dầu chỉ là trong một phút mà thôi!...

(Mời yêu)

Càng yêu cuộc đời bao nhiêu, Xuân Diệu càng tự đày ải trái tim của mình và càng thất vọng bấy nhiêu… Điều đó đã tạo nên sự “cô đơn muôn lần muôn thuở cô

304

Page 305: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

đơn” cho nhà thơ. Đặc biệt, có khi “ cái tôi” đã lên đến đỉnh cao của sự cô đơn, nhỏ nhen, tầm thường:

Ta là Một, là Riêng là thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta !

(

“Cái tôi” gục xuống, sợ hãi, thốt lên lời rên rỉ trước cuộc đời thờ ơ, lạnh nhạt, hay đau đớn van xin : “Chớ đạp hồn em”, “Chớ để riêng em phải gặp lòng em” và rơi vào tâm trạng tuyệt vọng :

Xao xác tiếng gà, trăng ngà lạnh buốt

Mắt run mờ, kỉ nữ thấy trăng trôi

Du khách đi, du khách đã đi rồi .

(Lời kĩ nữ)

Cũng vì thế, tình yêu trong thơ Xuân Diệu gắn liền với nỗi cô đơn và sự hoài nghi. Ngay cả khi “ được yêu” nhưng “ cái tôi” vẫn lo sợ vì cảm nhận sự biệt li, tan vỡ đang dần đến. Cho dù cùng người yêu dạo bước dưới ánh trăng “cái tôi” vẫn cảm thấy:

Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá

Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.

hay là:

Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ

Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt

Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài…”

( Giục giã)

Có thể nói, tình yêu trong thơ Xuân Diệu thời kì này rất nồng cháy, “vô biên” để rồi rơi vào bi kịch của một trái tim hiến dâng nhầm chỗ và “say khướt đau thương”.

305

Page 306: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Về nghệ thuật: Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan mà đặc biệt là cảm giác ( Thơ duyên, Vội vàng, Nhị hồ,… ). Ông sử dụng ngôn ngữ thơ rất sáng tạo, và luôn có sự tìm tòi mới mẻ, độc đáo nhằm tạo nên sức gợi tả, truyền cảm mạnh mẽ cho thơ (Đây mùa thu tới, Khi chiều giăng lưới, Vội vàng). Xuân Diệu đã sử dụng thành công sự tương quan giữa các màu sắc, âm thanh nhịp điệu để tạo nên âm hưởng trong thơ ( Nguyệt cầm, Thơ duyên,… ).

Tóm lại: Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám biểu hiện rõ tấm lòng của một con người nặng tình với đời song bế tắc. Tình yêu nam nữ trong thơ Xuân Diệu thời kì này được diễn tả với tất cả cung bậc của nó qua những vần thơ uyển chuyển giàu âm thanh, màu sắc, hình ảnh…, để lại âm vang mạnh mẽ trong lòng người đọc.

 2..2 – Thơ Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám:

2.2.1 - Thời kì đầu sau Cách mạng tháng Tám:

Xuân Diệu hướng về cuộc sống cách mạng của dân tộc , tự hào, phấn khởi trước sự thành công của Cách mạng tháng Tám. Ông bộc lộ khát vọng “Mở lòng ra ôm đón lấy sao vàng” và “Đi theo tiếng gọi nước non thiêng”.

Thơ ông ở thời điểm này thể hiện cảm xúc mạnh mẽ trước hiện thực cuộc sống cách mạng với ý thức, trách nhiệm của một công dân đối với Tổ quốc. Lần đầu tiên viết về cách mạng, Xuân Diệu đã có được những vần thơ trong sáng, yêu đời. Điều đó được biểu hiện rõ ở Ngọn quốc kì (1945) và Hội nghị non sông (1946). Ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ đỏ sao vàng được nhà thơ cảm nhận :

Cờ như mắt mở thức thâu canh

Như lửa đốt hòai trên chót đỉnh.

Cờ như nắng mãi ấm luôn luôn,

Sưởi khắp lòng ai nghe vắng lạnh.

Sớm hôm canh giữ lấy hồn thiêng,

Bay mãi trên trời, treo sứ mệnh.

(Ngọn Quốc kì)

Có thể nói, so với nhiều nhà thơ khác, thơ Xuân Diệu ra đời kịp thời, mang tính thời sự nhưng cũng giàu chất lãng mạn. Âm hưởng hùng tráng, đằm thắm thiếr tha toát lên từ tác phẩm của ông đã góp phần tạo nên sức cuốn hút, cổ vũ mạnh mẽ bạn đọc nhanh chóng vững lòng tin đến với đời sống cách mạng.

2.2.2 - Thời kì kháng chiến chống Pháp

306

Page 307: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Xuân Diệu hăng hái tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó với cuộc sống nhân dân. Càng ngày ông càng hiểu hơn về những con người giản dị mà vĩ đại. Đó chính là điều kiện thuận lợi giúp ông có được vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tạo để viết nên các tập thơ: Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954).

Cảm hứng chủ đạo ở các tập thơ trên là niềm tin yêu, niềm lạc quan trước hiện thực đời sống cách mạng. Ông cảm nhận cuộc đời như :

Một sớm mai hồng, một bình minh

Xanh mắt trẻ con,

Hồng môi thiếu nữ.

( Trở về)

Cuộc đời hiện tại dù còn bao gian truân thử thách nhưng đối với nhà thơ “Bà mẹ đời du dương tay mở rộng” và Hương đời luôn thấm đượm. Nhà thơ cho rằng:

Đời đáng yêu – nhiều lúc có gì đâu…

Như đôi lứa mình lặng lẽ nhìn nhau…

Một cái nắm tay, một đầu thuốc dở,

Một tiếng vang trong một mái đầu.

(Hương đời)

Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc cuộc sống cao đẹp của quần chúng và cảm thông với nỗi khổ đau của họ. Hình ảnh quần chúng lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Xuân Diệu chính là một nét mới về đối tượng phản ảnh, nó đánh dấu cho bước chuyển quan trọng về tình cảm nhận thức trên con đường thơ của ông (Tặng làng Còng, Bà cụ mù lòa…). Trên cơ sở đó, nhà thơ đã viết nên nhiều vần thơ giản dị mà thấm nặng nghĩa tình:

Hạt cơm ăn của bà con

Là tình, là nghĩa, là ơn thấm nhuần.

( Tặng làng Còng)

Vẻ đẹp của hình ảnh của bà mẹ nghèo trong kháng chiến đã được nhà thơ thể hiện sinh động qua nhiều bài thơ và rõ nét nhất là tình yêu thương của mẹ. Cũng vì thế, khi giã từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội nhà thơ không thể nào quên được hình ảnh của mẹ vào những tháng năm đó:

307

Page 308: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Mẹ nghèo vẫn cố nuôi con:

Khi bùi măng nứa, khi ngon củ mài.

Sẻ từng hạt muối cắn đôi

Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.

(Ta chào Việt Bắc, về xuôi)

Bên cạnh đó, Xuân Diệu cũng bày tỏ được một cách chân thành nỗi trăn trở và sự kính yêu của mình khi viết về Bác. Ông đã tìm được cách thể hiện riêng và rất thấm thía:

Trên đầu tóc Bác sương ghi

Chắc đôi sợi bạc đã vì chúng con.

( Sáng)

Dù còn có hạn chế song các tập thơ trên đã thể hiện được bao nỗi niềm, tình cảm của Xuân Diệu trước hiện thực đời sống cách mạng. Thơ Xuân Diệu thời kì này đánh dấu một bước chuyển biến lớn về tư tưởng, tình cảm, giọng điệu… , trên con đường thơ của ông.

2.2.3 - Thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mĩ

- Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hiện thực sôi động đó, với sự nhạy cảm, lòng tin yêu cuộc đời mới, thơ Xuân Diệu có sự vươn lên mạnh mẽ, đề cập đến nhiều vấn đề trong cuộc đời mới, biểu hiện rõ ở ba tập thơ: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay (1962), Khối hồng (1964).

Xuân Diệu say sưa ngợi ca cuộc đời mới với những đổi thay mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống của dân tộc, và rồi ông trăn trở nghĩ về mình, bày tỏ chân thành niềm vui hạnh phúc qua nhiều bài thơ như : Ngói mới, Lệ, Chào Hạ Long... Ông nguyện nhìn đời bằng Đôi mắt xanh non, bởi vì, ở khắp mọi nơi, từ các làng quê vùng đồng bằng đến vùng núi Mã Pí-Lèng, hay hải đảo Chòm Cô Tô mười bảy đảo xanh, cuộc sống bao giờ cũng “xanh non”, và“mãi mãi tươi dòn”. Với Xuân Diệu, cuộc sống giờ đây chính là những trang đời đẹp nhất, “những trang tốt lành”, để rồi ông khao khát :

Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh,

Có lẽ lòng tôi cũng hóa thành

Ngói mới.

308

Page 309: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

(Ngói mới)

Không chỉ vui say mà nhà thơ còn tự hào khi đã qua rồi nỗi đau tê tái, “vị buồn ghê mặn chát”, “mực mài nước mắt gửi người thương”, “vũ trụ tưởng tàn, thế gian tưởng hết”…, và giờ đây hạnh phúc đến với mọi người. Vì lẽ đó, ở bài thơ Lệ nhà thơ có được cách nhìn, cách nghĩ rất thấm thía về quá khứ và hiện tại:

Xưa lệ ta sa oán hận đất trời,

Nay lệ òa, ta lại thấy đời tươi!

- Giọt nước mắt ta

Chan chứa tình người.

Trong cảnh đất nước chia cắt ông Nhớ quê Nam, với “vườn xoài trưa nắng”, “gió biển Quy Nhơn”, “mảnh vườn Sa Đéc, con kênh Tháp Mười”, nhớ “bà má Năm Căn bỏm bẻm nhai trầu”, nhớ “trăng lam Đèo Cả, mây hồng Hải Vân”; nhớ điệu bổng trầm “… qua nhớ thương em bậu”, nhớ sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Hương, và Gửi sông Hiền Lương bao nghĩa tình sâu nặng :

Gửi ngàn mến với muôn thương trong ấy

Gửi lời về xin bớt nhớ, khoan thương

Gửi kiên trinh một tấm lòng vàng.

Càng đến với cuộc sống, tình đất nước, tình người trong thơ Xuân Diệu càng đằm thắm thiết tha, càng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc.

Khi cả nước có chiến tranh, Xuân Diệu nhanh chóng hòa nhịp với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, ông không ngại khó khăn gian khổ đến với nhiều vùng đất nóng bỏng, ác liệt nhất với tâm nguyện :

Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao.

(Những đêm hành quân)

Rất dễ nhận thấy, thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của Xuân Diệu xuất hiện đều đặn trên báo chí vàcó khả năng ứng chiến nhạy bén trước những

309

Page 310: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

sự kiện của đời sống kháng chiến. Điều đó được phản ánh rõ nét qua ba tập thơ: Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976).

Hơn lúc nào hết, nhà thơ nhận thức rõ hơn về sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam trong chiến tranh. Ông khẳng định Sự sống chẳng bao giờ chán nản, và “chúng ta yêu sự sống bền dai, vĩnh viễn, bao la!”.

Xuân Diệu có ý thức mở rộng thi đề để phản ảnh mọi mặt của đời sống. Có những cảnh như : Các cháu đi sơ tán, hay cảnh Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng đi vào hỏa tuyến đã gợi lên cho người đọc biết bao niềm xúc động mạnh mẽ.

Nét mới của thơ Xuân Diệu ở thời kì này là vừa giàu chất trữ tình vừa chứa đựng tính triết lý biểu hiện rõ trong bài Quả sấu non trên cao và Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Mặt khác, thơ ông còn có thêm chất trào phúng (Con chim và xác chiếc tàu bay Mĩ) .

2.2.4 - Từ sau 1975 đến khi qua đời

Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Xuân Diệu viết về Miền Nam quê ngoại, lòng dạt dào vui sướng khi Đi giữa Sài Gòn trong ngày chiến thắng và ông bồi hồi nhớ về quê ngoại sau bao năm xa cách.

Ông có khát vọng: Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam, Nghe nhạc Nam để “thức mãi cùng thương nhớ”, đến Phan Thiết “thăm kinh đô cá mắm”, hay Tâm sự với Quy Nhơn sau hơn ba mươi năm trở lại với quê ngọai, nơi chan chứa kỉ niệm của tuổi thơ và tự hào hơn về vẻ đẹp của miền đất này:

Ôi! Biển Quy Nhơn, biển đậm đà

Thuyền đi rẽ sóng, sóng viền hoa.

Cảm ơn quê má muôn yêu dấu

Vẫn ấp iu hoài tuổi nhỏ ta.

Nhiều vần thơ của ông ở thời kì này thể hiện sự đằm thắm nghĩa tình đối với miền Nam. Có thể nói: “Viết về miền Nam là Xuân Diệu đã khơi dậy những tình cảm, những kỉ niệm sâu sắc của mình, những hình ảnh được chắt lọc qua nhiều năm tháng để chỉ còn lại những gì thực sự là máu thịt, là rung động cho thơ”( Mã Giang Lân ).

2.2.5 - Thơ tình của Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám

Với thơ tình, Xuân Diệu đã đạt được những thành công rất đặc sắc. Ở mảng thơ này bản lĩnh nghệ thuật của Xuân Diệu bộc lộ rõ nét nhất.

310

Page 311: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ tình Xuân Diệu giãi bày niềm khao khát được ban phát tình yêu, hiến dâng, vồ vập nhưng rồi như Nước đổ lá khoai, và kết cục rơi vào bi kịch của một trái tim hiến dâng nhầm chỗ. Còn sau Cách mạng tháng Tám, thơ tình của ông có được một nguồn mạch mới, đó là tình yêu bền chặt, gắn bó không thể gì chia cắt nổi bời tình yêu của lứa đôi bao giờ cũng nồng nàn, đến “ngàn năm không thỏa”. Dù “anh không xứng là biển xanh / nhưng anh muốn em làm bờ cát trắng” để có thể :

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ, thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi.

( Biển )

Còn nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của tình yêu được nhà thơ cảm nhận :

Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình của ta

( Uống xong lại khát)

Xuân Diệu cảm nhận sự xa cách của tình yêu “một khắc là thế kỉ”. Bởi vậy, càng yêu nhau họ càng mong muốn gần nhau, gắn bó với nhau để rồi hiểu nhau hơn. Họ khao khát mãi bên nhau để san sẻ cả niềm vui hạnh phúc, cũng như nỗi buồn. Nhà thơ cảm nhận cho rằng :

Vai anh khi để đầu em tựa

Cân cả buồn vui của một đời

(Tình yêu san sẻ)

Ông cũng nói đến nỗi đau trong tình yêu, nỗi đau đó nhức nhối vò xé tấm lòng ho, nó là Cái dằm, là“vết thương trong cõi tinh thần” của lứa đôi. Nhưng nỗi đau rồi sẽ qua đi, họ nhanh chóng “ làm lành” với nhau vì “ em là nhân của hồn anh”. Có thể nào anh lại thiếu vắng em giữa cuộc đời, khi anh hiểu rằng :

Mang em trong dạ như mầm

Ngày đi suy nghĩ đêm nằm nhớ thương

( Quả trứng và lòng đỏ)

311

Page 312: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tình yêu trong thơ Xuân Diệu càng trở nên cao đẹp hơn khi lứa đôi hiểu rõ giữa họ với cuộc đời có mối quan hệ thắm thiết. Hạnh phúc lứa đôi gắn liền với hạnh phúc của dân tộc, nhà thơ cho rằng:

Của đời ta nhận ấm êm

Hồn trao âu yếm ta thêm tặng đời

( Tình yêu muốn hóa vô biên).

Khác với trước Cách mạng tháng Tám, giờ đây tình yêu ít có nỗi buồn mà thấm đượm niềm vui. Tình yêu đã làm trỗi dậy niềm vui, giúp lứa đôi “cởi hết ưu phiền gửi gió mây”, và khi đó giọng nói của em dù chỉ là “giọng nói thường” nhưng “anh vẫn nghe hay tựa tiếng đàn”, vẫn ngập tràn hạnh phúc trong cảnh :

Em cười ríu rít ở sau xe

Em nói lòng anh mãi lắng nghe

Thỉnh thoảng tiếng cừi em lại điểm

Đời vui khi được có em kề.

( Giọng nói )

Ngoài ra, thơ tình Xuân Diệu thời kì này bên cạnh tình yêu còn có thêm tình vợ chồng. Tuy viết về tình vợ chồng nhưng vẫn quyện hòa, chan chứa tình yêu, vẫn là thơ tình yêu. Điều này biểu hiện rõ qua các bài thơ như : Anh thương em khi ngủ, Đứa con của tình yêu, Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng vào hỏa tuyến, Dấu nằm, Đứng chờ em,...

Có thể nói, đến với thơ tình của Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhận thấy: tóc Xuân Diệu dù đã hoa râm nhưng ông vẫn giữ được chất thanh xuân của tâm hồn để cùng tuổi trẻ nói chuyện tri âm, chuyện tình yêu, hẹn thề, nói chuyện say đắm … Bởi thế, nhà thơ Trần Lê Văn đã viết :

“ Bởi quá yêu đời nên nặng lòng ấp ủ

Bởi không muốn già, nên bền chí thanh xuân”

( Dây đàn bỗng đứt).

Mảng thơ tình của Xuân Diệu, chính là món quà tặng người đời mãi mãi, như ở bài thơ Đề tặng ông đã viết :

Tặng lòng con trai

312

Page 313: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tặng lòng con gái

Tặng hoa tặng trời

Tặng tình mãi mãi

……….

Tặng hương - tặng Đời”.

 

3 – Xuân Diệu với văn xuôi, tiểu luận, phê bình :   Top

(Sinh viên đọc tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo viên).

Cần lưu ý các điểm sau :

- Sự quan tâm của Xuân Diệu đối với các nhà thơ lớp kế cận và lớp trẻ. Không ít nhà thơ trẻ đã đạt được sự thành công trong sáng tạo phần nào có sự giúp đỡ, quan tâm của Xuân Diệu.

- Xuân Diệu giới thiệu thơ quần chúng. Ông chịu khó tìm kiếm, chắt lọc cái hay, cái đẹp trong những sáng tác của họ để giới thiệu một cách trân trọng.

- Xuân Diệu khám phá, phát hiện cái hay, cái đẹp trong thơ của các nhà thơ hiện đại ưu tú như : Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên …

- Giới thiệu thành tựu của các nhà thơ lớn trong thơ ca dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương …

- Xuân Diệu dịch và giới thiệu một số nhà thơ lớn ở nước ngoài đối với người đọc Việt Nam và đồng thời giới thiệu một số bài thơ Việt Nam tiêu biểu sang các nước khác.

4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu:

Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống. Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống. Thơ ông bám lấy thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi tiết hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn phong phú.

Xuân Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương diện (cách xây dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ … ). Đây cũng

313

Page 314: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

chính là một trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung bình ở mỗi tập thơ của ông.

Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững trong thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở ban đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đã tạo cho thơ ông thêm giàu hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với nhận thức của người đọc.

Thơ Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài dòng trong nhạc điệu, từ ngữ . Điều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.  

5 – Kết luận chung :  

Xuân Diệu là một nhà thơ cần mẫn,sung sức trong sáng tạo nghệ thuật và đã có những cống hiến to lớn cho văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị đặc sắc, mà đặc sắc nhất là thơ tình yêu nam nữ.

Nghĩ về Xuân Diệu là chúng ta nghĩ về một tài năng, một tấm gương lao động nghệ thuật giàu sức sáng tạo, xứng đáng để các nghệ sĩ noi theo.

*

* *  

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP  

Câu hỏi ôn tập:

1 - Vì sao nói Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong phong trào Thơ mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”?

2 - Anh, chị có cảm nhận gì về khả năng nhạy bén của tâm hồn thơ Xuân Diệu trước hiện thực cuộc sống từ sau Cách mạng tháng Tám?

3 - Xuân Diệu có những đóng góp gì ở phương diện phê bình thơ ?

4 - Những yếu tố cơ bản nào giúp Xuân Diệu luôn có được sức sáng tạo mãnh liệt?

Đề tài nghiên cứu và hội thảo:

314

Page 315: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1 - Sự giống nhau, khác nhau của thơ tình Xuân Diệu trước và sau Cách mạng tháng Tám.

2 - So sánh thơ Xuân Diệu với thơ Tố Hữu và Chế Lan Viên khi viết về miền Nam, về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3 - Biểu hiện của đặc điểm phong cách nghệ thuật Xuân Diệu qua các bài thơ được chọn giảng trong chương trình phổ thông trung học.

4 - Những đóng góp của Xuân Diệu ở phương diện sử dụng ngôn ngữ thơ.

5 - Quan niệm thơ của Xuân Diệu.

Chương 3

NGUYỄN TUÂN  

I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT   II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC :  

III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT :   IV. KẾT LUẬN :  

NGUYỄN TUÂN

(1910 - 1987)

----------------------

Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,

vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.

(Vũ Ngọc Phan) 

Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. "Ông là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. 

I. TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

315

Page 316: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1) Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Gia đình có truyền thống nho học. Nhưng lúc này nho học đã thất thế, nhường chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng dưng trở nên lỗi thời trước xã hội giao thời Tây - Tàu nhố nhăng ; sinh ra tư tưởng bất đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn, thân sinh của Nguyễn Tuân). Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng.

- Năm 1929, bị đuổi học và không được vào làm việc ở bất cứ công sở nào trên toàn cõi Ðông Dương (vì tham gia bãi khóa chống giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam, tại trường trung học Nam Ðịnh). Cùng một nhóm bạn, vượt biên giới sang Lào; bị bắt ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh Hóa. Hơn một năm sau, ra tù. Ði trái phép vào Sài Gòn, đến Vinh thì bị bắt và bị quản thúc ở Thanh Hóa. Kể từ đây, Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "đại bất đắc chí", như một người "hư hỏng hoàn toàn".

- Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng ma", quay tại Hồng Kông.

- Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy sụp ; đã có ý định tự sát. 

* Cách mạng tháng Tám đã cứu sống cuộc đời cũng như trang viết Nguyễn Tuân. Ông hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" và chân thành đứng vào hàng ngũ nhà văn Cách mạng.

- Năm 1950, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương. Từ 1948-1958, là tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

- Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến. Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở tuyến lửa ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất nước và cùng nhân dân đánh giặc. 

* Nguyễn Tuân mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội. 

2) Nguyễn Tuân là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác. Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học, đặc biệt, có lòng say mê thiết tha đối với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú tâm gìn giữ nhân cách nghệ sĩ, nên Nguyễn Tuân căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa.

Ðọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh,... Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân là một tài năng phong phú, có năng lực ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. 

3) Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao

316

Page 317: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa".

- Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối cảnh nước mất, xã hội đảo điên "lộn tùng phèo" mọi thứ quan niệm, mọi giá trị, Nguyễn Tuân đã đứng hẳn về phía dân tộc và truyền thống dũng cảm chống lại sức công phá của lối sống xu thời. Sáng tác của ông thời kỳ này dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các giá trị văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và xã hội. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù điều kiện bấy giờ không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài đối với dân, với nước, người đọc vẫn cảm nhận được một tấm lòng chân thành và rất mực thủy chung. Ông đã ghé vai vào chống chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví trang sách như tấm lá chắn hữu hiệu thì nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn trước 1945 - chính là người cảm tử quân đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ ở thành trì Chân - Thiện - Mỹ.

- Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lòng đón nhận bao nhiêu thanh sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trước kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nước thương dân một cách kín đáo, thì giờ đây con người tài hoa uyên bác ấy như được tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường, cất cao lời ngợi ca đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.

Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của Nguyễn Tuân đậm màu sắc chủ quan, "không bà con gì với luân lý thời đại" thì giờ đây, đã có sự hài hòa cần thiết. Bởi cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà được nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.

II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC :

* Tác phẩm tiêu biểu :

- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943), Nguyễn (1945).

- Sau 1945 : Chùa Ðàn (1946), Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955, tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994). 

1) Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian thử bút ở một số thể loại trước khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút.

317

Page 318: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông, cho đến trước năm 1937, hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu như "Giang hồ hành" (thơ), "Vườn xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn) những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa ; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc ; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.

- Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.

- Nguyễn Tuân chỉ thực sự công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ tùy bút - du ký "Một chuyến đi", năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim "Cánh đồng ma" - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Nét đặc sắc nhất ở "Một chuyến đi" chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo : "Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa" (Nguyễn Ðăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái "tôi" sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.

- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện "Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đã vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ "toàn thiện toàn mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ lại những cái "đẹp xưa" của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ còn chém người bằng đao, người ta còn đi lại trên đường bằng võng, bằng cáng ; vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với con người, bởi nó còn được đo bằng mùa, bằng tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai một. Ðau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. "Vang bóng một thời", vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

318

Page 319: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Từ sau "Vang bóng một thời" đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngõ cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương" (1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái "tôi" vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái "tôi" ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác ngọc lam", "Ðới roi", "Rượu bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này. 

* Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng một thời" trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất. 

2) Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của một trí thức tự "lột xác" để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn Tuân còn có "Chùa Ðàn" - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Ðàn" là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được uống liều thuốc cải lão hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm trong cả quá trình sáng tác của nhà văn thì không thể không công nhận "Chùa Ðàn" là một cố gắng đáng trân trọng.

- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Ðường vui" (1949) và "Tình chiến dịch" (1950) - ghi nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Ðáp lời kêu gọi của Ðảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái "tôi" giờ đây không còn phá phách, ngông nghênh nữa mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba trên hành trình đi tìm cái Ðẹp, cái Thật. Có điều khác là những giá trị ấy giờ đây không phải mất công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình nào mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực đang từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh choáng say sưa trước niềm hạnh phúc vô biên ấy. Ông vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày biện một cách

319

Page 320: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thết đãi cả nhân dân mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy : "Phở", "Cây Hà Nội", "Con rùa thủ đô", "Tìm hiểu Sê Khốp",...

- "Sông Ðà", viết từ 1958 đến 1960, là cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới trong sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm như một dòng thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt con sông Ðà "hung bạo và trữ tình", chảy băng băng qua vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Ðọc "Sông Ðà", thấy trữ lượng cái Ðẹp - chất "vàng mười" của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống mới - quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang ra cho cái Ðẹp ùa vào :

"Ðời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lòng tin tưởng không bờ bến, tin mình tin người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này".

- Từ sau "Sông Ðà", Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở thể tùy bút, được tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu : "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" (1972), "Ký" (1976), "Hương vị và cảnh sắc đất nước" (1978). Nhìn chung, sáng tác thời kỳ này có thể phân thành hai mảng chính : mảng thứ nhất viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ - Ngụy chia cắt đất nước ; mảng thứ hai tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Công cuộc chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao của thời đại mới. Tinh thần quyết thắng từ tầm cao lịch sử ấy là âm hưởng chung của văn học thời kỳ này. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới ngòi bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung dung, sang trọng và đầy tài hoa ; tư thế của một dân tộc không chỉ giành được chính nghĩa trong chiến đấu giữ nước mà còn có bề dày truyền thống văn hóa lâu đời. Nhiều bài ký khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước một sức bút kỳ lạ với vốn sống ngồn ngộn, tinh tế ; vừa đầy ắp liên tưởng bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai như lọt vào đúng tầm ngắm của Nguyễn Tuân. Sự đối lập rõ rệt giữa truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta với dã tâm của kẻ thù tạo nên nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đã nã những phát cực kỳ lợi hại, bóc trần bản chất xảo quyệt của chúng, dù được chúng ngụy trang rất khéo léo ; góp phần động viên và tăng cường nhận thức của quần chúng về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. 

III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT :

1) Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : "Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng

320

Page 321: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”

Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời.

Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra, chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ. Như vậy, từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo đức truyền thống. Sau 1945, Nguyễn Tuân không còn lý do để mà gây sự, mà ném đá vào đời như trước nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách vốn tạo nên nét độc đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới lạ, không giống ai khiến ngòi bút ông luôn tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định : cái ngông tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ; từ đề tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.  

2) Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa ai khơi" nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Ðến với những trang viết của ngòi bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa trước cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ; mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.

Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao thượng thì càng đáng kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường là một tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.

321

Page 322: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Sự chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc sống, phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế giới nhân vật của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà văn đánh mất tính độc đáo, bất biến của phong cách.Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, của văn hóa dân tộc : "Có cái như là Hoa Kỳ vừa đánh Hà Nội, vừa thử tài sức và trí lực Hà Nội. Trong cuộc đọ súng đọ lửa với giặc Hoa Kỳ, quân và dân thủ đô càng đánh càng phát huy truyền thống chống xâm lược của dân tộc mình. Chắc tay súng, đúng tầm đạn, chiều 5 tháng 5 vừa qua, tất cả cỡ súng Hà Nội có nòng và tên lửa không nòng đã quần cho một trận tơi bời (...). Chợ Ngọc Hà không phải vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ tan trên một buổi chợ chiều : mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp nhánh mảnh vụn đuy ra F.105. Cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-dòa sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay súng và theo dõi trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".

Hình ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ không ai khác, là những kỹ sư, nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.  

3) Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tuân. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.

- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc chiết, những triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là giọng kể. Người dẫn chuyện luôn đóng vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân vật khác. Người ấy thường có giọng lịch lãm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn đảm bảo độ mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.

Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung chung, tạo được không khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã bắt đúng giọng thì không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như dòng sông Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha :

322

Page 323: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá".

" Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".

- Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được miêu tả trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ :

"Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ? (...) Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ ? Xanh như lá chuối non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng ? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh ? Ðúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không ? (...) Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng".

Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn đến người đọc chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú do cần cù tích lũy cả đời, với lòng yêu say mê tiếng mẹ đẻ. Không chỉ góp nhặt những từ sẵn có, ông còn luôn có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng khi vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông dùng hai từ "góa bụa" và "lõa lồ" :

"Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi đến những ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa, hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa tất cả. Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".

"Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có thêm một hành khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được".

Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc để trêu ghẹo thiên hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét : "Ngôn ngữ của Nguyễn lủng

323

Page 324: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, không còn cực đoan nữa, Nguyễn Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và giáng những đòn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ thù.  

IV. KẾT LUẬN :

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Không thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh lẽo và tiêu điều tới mức nào nếu đại ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy như nhà văn Nguyễn Tuân.

Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm 1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến cùng, lại như một giá trị, được đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ cùng sức lực để không trở nên nhạt nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc đáo của phong cách nghệ thuật.

Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn nghiệp của ông.

Do đó, vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.

CHƯƠNG 5 :   VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945

I. NGÔ TẤT TỐ (1894 - 1954) II. VŨ TRỌNG PHỤNG (1912 - 1939)

III. NAM CAO (1915-1951) IV. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH (1890 - 1969)

324

Page 325: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Giới thiệu 3 tác giả:Ngô Tất Tố- Vũ Trọng Phụng- Nam Cao.

NGÔ TẤT TỐ ( 1894- 1954) TOP

1. Giới thiệu về tác giả:

_ Gia đình Ngô Tất Tố.

_ Quê hương Ngô Tất Tố

_ Bản thân nhà văn

2. Ngô Tất Tố là nhà báo.

_ Xuất thân là cựu nho có vốn Hán học phong phú nhưng ông không phải là người bảo thủ. Ông phản đối lối chạy theo phong trào phục cổ do thực dân Pháp đề xướng.

_ Ông là người hiếu học luôn đọc sách tìm tòi, sáng tạo

_ Ngô Tất Tố chịu ảnh hưởng sâu sắc phong trào ái quốc thời Ðề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.

_ Lòng yêu nước của Ngô Tất Tố gắn liền với lòng yêu dân- những người nông dân lao động cần cù tốt bụng

_ Ngô Tất Tố nhanh chóng đứng trên lập trường dân chủ tố cáo những áp bức của bọn thực dân phong kiến. Với tư cách là một nhà báo, Ngô Tất Tố hết sức tung hoành trên trường ngôn luận, lên án tội ác của thực dân phong kiến và những thủ đoạn sâu mọt của bọn cường hào quan lại.

3. Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà phóng sự:

_ Phóng sự Việc làng gồm 17 chương: đây là một phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945. Phóng sự Việc làng mang nét đặc trưng của làng quê Ngô Tất Tố đó là nạn xôi thịt chức tước làm bao gia đình phải khánh gia bại sản, điêu đứng,chết chóc, tha thương cầu thực v.v...

_ Nghệ thuật Việc làng có khuynh hướng gần với lối viết truyện ngắn. Lối kể chuyện của tác giả linh hoạt. Có khi tác giả đi từ khái quát đến cụ thể. Có khi tác giả đi từ một hiện tượng, một nguyên nhân và khái quát lên vấn đề. Do vậy mà người đọc không thấy đơn điệu.

4. Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết:

325

Page 326: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

_ Tiểu thuyết Lều chõng: tác phẩm trình bày về chế độ khoa cử một cách tỉ mỉ.

_ Tiểu thuyết Tắt đèn: Tác giả tập trung vào vấn đề thuế má, một tai họa khủng khiếp của nông thôn.

+ Trong Tắt đèn xuất hiện loại thuế thân cực kì dã man. Thuế đánh vào đầu người đàn ông từ 18 tuổi trở lên.

+ Nhân vật chị Dậu xuất hiện lo chạy thuế thân cho chồng và em chồng. Tính cách của chị xuất hiện.

5. Nghệ thuật tiểu thuyết Tắt đèn.

_ Kết cấu tác phẩm: hợp lí chặt chẽ

_ Khắc họa thành công nhân vật điển hình hóa: mỗi hành động của chị Dậu như chạy vạy, khóc lóc, kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều diễn ra tự nhiên phù hợp với sự phát triển tâm lí của nhân vật

_ Nghệ thuật châm biếm thành công: cách húp canh, súc miệng của Nghị Quế, cách đi đứng của lão Chánh Tổng. Bộ râu hắc ín trên mép tên quan phủ Tư Ân v.v...

_ Khả năng phân tích tâm lí nhân vật

_ Văn viết của Ngô Tất Tố nói chung linh hoạt song vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều lối văn biền ngẫu: thằng bếp bưng cơm ra. Thằng nhỏ bê chậu nước vào (Tắt đèn-Ngô Tất Tố).

Tóm lại, Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Ngô Tất Tố không chỉ là nhà viết tiểu thuyết, phóng sự ông còn là một nhà báo cự phách, một nhà khảo cứu dịch thuật có tài. Thành công của Ngô Tất Tố là thành công của quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, của một nhà văn tự thấy phải hoạt động, phải xông pha, phải lăn lộn với dân chúng.

VŨ TRỌNG PHỤNG (1912- 1939) TOP

1. Gia đình và cuộc đời tác giả:

_ Cha mất sớm, nhà nghèo nghèo gia truyền. Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học phải nghỉ, đi làm để đỡ gánh nặng cho mẹ.

_ Vũ Trọng Phụng viết báo lúc 18 tuổi. Từ 1930- 1939 ông viết cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là ông vua phóng sự đất Bắc.

326

Page 327: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

_ Do làm việc quá sức, đời sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất ngày 13/10/1939.

2. Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng

_ Truyện ngắn

_ Tiểu thuyết.

_ Phóng sự.

_ Kí sự.

_ Kịch.

_ Dịch thuật.

3. Bộ mặt xã hội thực dân nửa phong kiến trong tác phẩm của Vũ Trọn Phụng

_ Xã hội nông thôn trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng: Giông tố, Vỡ đê.

_ Xã hội thành thị trong tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ

4. Tính chất trào phúng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng

_ Trào phúng là cái cười, tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa, hàm ý châm biếm, mỉa mai, đôi lúc đả kích sâu cay.

_ Trào phúng bao hàm hai yếu tố: yếu tố phê phán và yếu tố hài hước. Hai yếu tố kết hợp với nhau trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.

_ Tiếng cười được vang lên từ những thủ pháp nghệ thuật được sắp đặt theo chủ đích của tác giả. Sử dụng ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, hoạt động của nhân vật. Tính chất trào phúng đạt đến sự thành công cả về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật

_ Tính chất trào phúng trong Số đỏ; Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần mặt trái tự nhiên.

Tóm lại, Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại những tác phẩm văn học như một di sản văn hóa. Tác phẩm của ông là một kho phong phú các thủ thuật trào phúng hài hước.

NAM CAO (1915-1951) TOP

I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :

327

Page 328: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

1. Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Nam Hà).

Gia đình Nam Cao sống cũng chật vật. Trong số anh em chỉ có Nam Cao được ăn học. Học hết phổ thông trung học vì ốm nên không thi đậu. Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn làm thư ký cho một cửa hiệu may. Sau trận ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng. Ôn tập lại vốn học và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu nên không có việc làm. Sau đó người làng mở trường tư ở Hà Nội, cần một chân dạy có bằng trung học, Nam Cao được mời dạy. Ðược ít lâu trường bị đóng cửa vì Nhật chiếm làm chổ nuôi ngựa. Nam Cao sống vất vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ Cách mạng và tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào Cách mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm Phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian, trước khi được điều lên công tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.

- Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ơí thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được một cái nhìn đúng đắn cuộc sống.

Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức... Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc

Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh

Vương vấn theo ai bốn góc trời

Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh tật, công ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve "Nghệ thuật không thể là ...". Nam Cao tìm đến sự thật với tấm lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau khổ. Với những rung động xót xa đến cháy lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người.

Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ và chính cái làng quê ấy đã đi vào những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận tầng lớp và của riêng mình

Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào Việt minh ở địa

328

Page 329: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được bầu là chủ tịch xã ít lâu sau, Nam Cao được điều lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn báo Tiền phong, cơ quan của hội. Năm 1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung bộ. Trở về, Nam Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Tháng 11-1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt Hoàng đan, Ninh bình Nam Cao ngả xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn chỉnh tác phẩm Làng.

2. Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái tật "hãi người" và "cái mặt không chơi được" (tên một truyện ngắn) của mình. Con người "Mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản khán mãnh liệt".

Trước Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí. Ôúm yếu thất nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là hai cái nghề bạc bẽo khi đó.

Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn trước Cách mạng. Nam Cao hầu như không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà bước vào làng văn lại chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.

Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ "Tài cao phận thấp chí khí uất" (Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng "Phản kháng mãnh liệt" của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù nghét "cả giống người". Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương.

3. Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.

Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu cực. Nhưng cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt khỏi cuôc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.

329

Page 330: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

4. Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam Cao

Ø                       Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui... đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).

Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn "Nghèo", "Ðui mù", "Một bà hào hiệp". Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định ở truyện ngắn "Chí Phèo"

Ø                       Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà văn luôn suy nghĩ "Sống và viết" Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm của thứ văn thơ "thơm tho" đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát li hưởng lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo khổ ruột thịt. Trong "Trăng sáng" Nam Cao đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống lầm than "Chứ không phải là món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy" (Trăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh thép của quan điểm Nghệ thuật vị nhân sinh" cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.

Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết "óc đầm đìa thuốc phiện", "suốt đời nhìn trăng" nhân vật lý tưởng của họ là những cô gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác.

Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta, Nam Cao muốn "vứt cả bút đi để cầm súng", nhà văn cảm thấy "Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về " (Bút ký Ðường Vô Nam -1946). Với Nam Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức. Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.

330

Page 331: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự "bất lương" đến "đê tiện" Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nổ lực để "hiểu biết, khám phá, sáng tạo" 

II. ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN

1. Truyện ngắn

Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về tầng lớp tiểu tư sản nghèo .

Ø                       Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách... ít nhiều họ đều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... họ "phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (Quên điều độ ).

Nhân vật chính trong "Xem bói" đó là một thanh niên thất nghiệp "ăn cháo loãng cầm hơi, tối đến vợ chồng cắn rứt nhau, những ngày vác đơn khúm núm đi xin việc hết công sở này đến công sở khác, đã từng bị những ông chủ hảng đuổi khỏi cửa như đuổi một kẻ ăn mày". Những lo lắng cơm áo hằng ngày đè nặng cuộc đời họ, giày vò tâm trí họ, tạo cho họ cái tâm trí xo ro thảm hại, cái nhịp sống điều độ tội nghiệp.

- Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười vui, có chăng là tiếng cười thiểu não trong truyện "Cười". Tiếng cười đó còn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền trong "Nước mắt" khi anh cảm thấy mình khổ quá "Khổ như một con chó vậy"

Ø                       Nam Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi kịch của họ.

- Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi làhắn và xưng là tôi. Họ thường ôm ấp một hoài bảo về sự nghiệp tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời mình cho nghề văn. Với sự say mê, Hộü không còn giới hạn nào trong mơ ước: trong một phút cao hứng anh tuyên bố, tác phẩm của anh sẽ đoạt giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu.

- Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá trị phải là "tác phẩm chung cho cả loài người. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công bình... nó làm cho con người gần người hơn "

- Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày chuyện áo cơm ghì sát đất . Lẽ ra ngòi bút của họ phải viết về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại thì giờ đây, để kiếm tiền nuôi vợ con đã phải viết toàn những cái vô vị nhạt phèo, gợi tình cảm rất nhẹ, rất nông. Họ đau đớn nhận ra rằng mình là một con người thừa.

331

Page 332: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi văn chương. Nhưng Hộ không thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy sinh sự nghiệp để giữ lấy tình thương. Rồi lại rơi vào sự nuối tiếc, sự cục cằn thô bạo. Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ sống cuối cùng cũng không giữ được. Hộ nói với vợ trong tiếng nức nở : "Anh ... chỉ là... một thằng... khốn nạn"

Ø                       Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại trong cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản.

Ðấu tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc "Quên điều độ " "Nhìn người ta sung sướng", "Trăng sáng", "Truyện tình"

Câu chuyện tội nghiệp của anh chàng Lưu trong "Truyện tình" với cô Kha nhí nhảnh. Ðó là bài học với anh tiểu tư sản nghèo cay đắng. Cái cô gái xinh đẹp, nhí nhảnh, thơm tho đầy quyến rủ kia chẳng phải là của anh, chúng nó chỉ là đứa giả dối, hợm hĩnh, ích kỷ, đểu cáng, chúng chẳng quý trọng gì người nghèo mà chỉ lợi dụng cái ngây ngô khờ dại của anh rồi quẳng anh đi bất cứ lúc nào.

Nam Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh "không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình " (Ðời thừa).

Nam Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ. Muốn hoà giải con người bằng sự cảm thông. Truyện của Nam Cao ghi lại những giằng xé quằn quại của người tiểu tư sản trong cảnh bế tắc, đồng thời cũng ghi lại sự chiến thắng của tư tưởng nhân đạo.

Nhưng nước mắt chỉ là nước mắt. Lý tưởng nhân đạo ấy chỉ xoa dịu và giữ cho Nam Cao trước vực thẳm sa ngã, tuyệt vọng, chứ hoàn toàn không có khả năng cải tạo xã hội. Nam Cao và cá nhân vật của mình vẫn bế tắc. 

2. Tiểu thuyết "Sống mòn"

"Sống mòn" nguyên "Chết mòn" viết xong cuối năm 1944, nhưng bản thảo sau khi bán bản quyền cho nhà xuất bản bị vứt lay lắt không được in mãi năm 1956, "Sống mòn" mới được ra mắt độc giả lần đầu tiên.

a. Bi kịch "Chết mòn" về tinh thần tri thức của người tri thức tiểu tư sản

- Lớp tri thức tiểu tư sản: sống nghèo khổ tủi nhục, bế tắc

Cậu giáo Thứ, giáo San: những thanh niên con nhà có máu mặt một chút ở thôn quê, bằng con đường học hành, họ cố leo lên một chổ đứng tử tế trong xã hội, những mong thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. Nhưng lớp "đồ tây" ấy chẳng may mắn hơn lớp đồ nho trước họ: hoặc học hành giỏi giang hoặc có mảnh bằng đấy mà vẫn thất nghiệp. Họ rơi vào tình cảnh dở sống dở chết. Bị hắt ra ngoài lề xã hội một cách thảm hại.

332

Page 333: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nhân vật Thứ : Thứ đã từng nuôi giấc mộng lớn: "y sẽ vào đại học đường, y sẽ sang Tây... y sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình". Với niềm tin ngây thơ và lòng hăng hái của tuổi trẻ lãng mạn, Thứ đi Sài gòn, tưởng đâu là một cuộc viễn du đẹp đẽ. Nhưng sau 3 năm lặn lội kiếm sống bệnh tật đã trả, quẳng Thứ về quê nhà để nằm dài thất nghiệp và để chứng kiến cái làng quê tiêu điều của mình càng thêm điều hơn.

Thứ phải tìm cái trường tư vô danh ở một xó ngoại ô để dạy học kiếm sống. Nhưng "công việc mỏi mệt quá đi cày " mà đồng lương quá bạc bẻo. Thứ làm việc đến kiệt sức, hà tiện vắt ruột mà cứ túng thiếu không cất đầu lên được.

Cuộc sống khốn khổ ấy cũng không xong: chiến tranh đến, trường đóng cửa. Thứ bị hắt về quê ăn bám vợ, "đời y sẽ mốc lên sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra ở một xó nhà quê...rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả chết mà chưa sống !...". Ðó là bước đường cùng không lối thóat của tầng lớp tri thức tiểu tư sản nghèo, đó là thực trạng đau sót buồn thảm, bế tắc của cả môt xã hội đang rên xiết.

Nhưng giá trị "Sống mòn" không dừng ở đó "Sống mòn" tập trung đi sâu vào bi kịch "Chết mòn" về tâm hồn con người trong cái xã hội không cho con người sống, có ý thức về sự sống mà không được sống. Bị nhấn chìm trong cảnh "chết mòn" mà không cưỡng lại được.

Thứ khao khát một cuộc sống hữu ích, cao cả Anh có quan niệmkhá sâu sắc, đúng đắn về ý nghĩa chân chính cuộc sống: "Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở mình. Phải gom góp sức lực mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân loại". Nhưng "đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất". Cuộc đời khốn nạn bắt Thứ phải sống "cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết đến một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày". Một lối sống mà Thứ hết sức khinh ghét. Thứ khao khát một cuộc sống rộng lớn luôn luôn đổi mới. Nhưng cuộc đời đã giễu cợt giấc mộng giang hồ của Thứ và bắt Thứ kéo lê cuộc sống đơn điệu, mòn mỏi, tù đọng ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê, ngày tháng trôi đi "bình lặng và vô sự... không có hy vọng gì đổi thay".

Thứ mong muốn giữa người với người có sự cảm thông, yêu thương. Anh muốn trân trọng mọi người và có ý thức gần gũi nhân phẩm của mình. Nhưng "chất độc ở ngay trong sự sống" thấm vào máu từng người. Chất độc ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì nhỏ nhen xấu xa trong con người. Thứ cũng không tránh được sự nhỏ nhen xấu xa trong cuộc sống đang xảy ra chung quanh mình với vợ con, với bạn bè đồng nghiệp. Thứ có lúc nghĩ tới sẽ phản bội vợ, vũ phu với vợ, phản bội bạn bè và mong cho bạn chết. Nghe tin Ðích ốm nặng, Thứ thầm mong Ðích chết ngay lúc ấy. Thứ đã khóc "khóc cho cái chết của tâm hồn y". Cả cuốn "Sống mòn" là tiếng khóc lặng lẽ mà đau đớn về "cái chết của tâm hồn".

Với những mẩu chuyện tầm thường trong sinh hoạt hàng ngày. Nam Cao đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao, sâu sắc. "Sống mòn" dõng dạc kết án cái xã hội

333

Page 334: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

thối nát đã bóp nát mọi ước mơ, mọi khả năng tiềm tàng và mọi cái tốt đẹp trong con người, đã tàn phá tâm hồn, giết chết sự sống. Từ chiều sâu tác phẩm vút lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, cứu lấy sự sống.

b. Phê phán lối "Sống mòn" và tư tưởng tiểu tư sản

- Lối "Sống mòn" : ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phơi ra ánh sáng những lối "Sống mòn" đáng thương và đáng sợ.

- Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cô giáo trong "Sống mòn" thật buồn tẻ, thảm hại. Họ sống chen chúc trong một không khí tù đọng, bụi bặm, ẩm mốc. Chỉ mong có miếng ăn và được yên thân.

Nhân vật San : sống buông xuôi, luôn thèm khát thú vui vật chất, chẳng có một ước mơ gì cao xa.

Nhân vật Oanh : lại "Sống mòn" theo kiểu khác. Ở người đàn bà "gầy đét, cứng nhắc và khô" này, tình cảm tâm hồn con người bị vắt kiệt để chỉ còn những tính toán, ích kỷ, nhỏ nhen, keo kiệt đến độc ác.

Xã hội ấy, tình trạng "Sống mòn" là rất phổ biến, ngay trong những người lao động cũng đầy rẫy những lối sống vô lý, những lối sống mòn. Cuộc sống của ông Học, ngày nào cũng như ngày nào, ông dậy sớm, chẻ củi, xay đậu.. "như một cái máy". Cả đời ông chỉ có hai niềm vui gần như say mê: ăn mía lau và thổi kèn tàu. Tâm hồn ông có cái hồn nhiên, đơn giản nhưng quá đơn giản đến nghèo nàn, thô kệch, mù tối. Theo Thứ sống như vậy chưa phải là sống. "Yên thân, nhưng yên thân như vậy để làm gì ? Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết ... cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư ?"

Hình ảnh u em nhà ông Học "lặng lẽ như một con ma ngồi vá bên một ngọn đèn con", "Thứ có cảm tưởng thị vá chỉ vì đêm dài quá, không sao ngủ hết".

Ðó là những hình ảnh có sức gợi rất nhiều về việc sống buồn tẻ, nhẫn nhục, thầm lặng đến phát sợ trong cuộc đời cũ.

Với một tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm với đôi mắt sắc sảo tinh tế, Nam Cao đã phơi bày không che đậy lối "Sống mòn" đang phổ biến. Một mặt Nam Cao lên án nghiêm khắc cái xã hội đẩy con người vào tình trạng giam hãm lâu đời trong cái khổ, trong sự tù túng và dốt nát. Mặt khác, nhà văn đã thức tỉnh trong con người nỗi "ghê sợ " lối sống mòn dung tục và niềm khao khát một cuộc sống đẹp, ý nghĩa.

- Phê phán lối sống tiểu tư sản

Ø                       Nhân vật Thứ hình ảnh bản thân Nam Cao đã bộc lộ khá đầy đủ lối sống tiểu tư sản. Nổi bật là tâm lý bất lực, ươn hèn, cái tính nhút

334

Page 335: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

nhát, tật "hãi người " từ bé, tính do dự, hay nghĩ ngợi quấn quanh, sợ đổi thay, đổ vở, ngại hành động.

Chính bất lực và bất động đó dẫn đến tâm trạng tự ti, buồn tủi rất phổ biến ở người tiểu tư sản nghèo lép vế. Thứ luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩa cay đắng "y xấu, y hèn, y chỉ là anh giáo khổ trường tư nên chỉ dám nghĩ, dám nhìn một người con gái xa xa lặng lẽ... nhìn để buồn... để chua chát .

Thầy thanh niên nghèo khổ này đôi lúc cũng vẫn lên nổi thèm khát ăn chơi hưởng lạc. Dự định đến trọ nhà Hải Nam đã gợi cho Thứ cả một giấc mộng về cảnh sống đàn điếm, lãng mạn. Có điều, Thứ vốn là người có ý thức về nhân phẩm, sống vị tha và có trách nhiệm nên đã tự đấu tranh để vuợt qua được.

Ø                       Những hoài nghi, bi quan về "người đời" tính đa nghi, cái nhìn xoi mói đôi khi tàn nhẫn đối với người đời. Cái tật hay ghen không tin "ở lòng dạ đàn bà " của Thứ là những biểu hiện của tâm lý hoài nghi, vốn có nguồn gốc xã hội sâu xa.

Ø                       Thói sĩ diện hão cũng là một nét nôi bật trong tính cách tiểu tư sản, nhất là ở phần tử tri thức. Kẻ sĩ diện thường dấu giếm cái nghèo hèn và phô trương cái giàu sang "cao quí " của mình. Thứ rất nghèo túng nhưng muốn tỏ ra hào phóng để rồi sau đó hối hận xót xa. Không dám dọn nhà ban ngày vì sợ thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi giống như một cô gái chửa hoang đi đẻ. Người tiểu tư sản trong "Sống mòn" mang tính bi hài kịch.

c. Sức mạnh tố cáo của "Sống mòn" và niềm khao khát đổi thay

Nhân vật phản diện trong "Sống mòn" là cuộc đời là toàn bộ cái xã hội tàn bạo đã gây nên cảnh chết mòn thê thảm của mọi nhân vật. Trên giường bệnh Ðích rít lên trong cơn hấp hối "Ðời ! ... ôi chao đời !" Thứ cũng hằn học: "Cuộc sống... cuộc sống thật là một cái gì nặng nề, trói buộc quá " những tiếng kêu rên xiết toát lên từ chiều sâu bi thảm của mỗi số phận, lặp đi lặp lại như một nét nhạc toàn buồn tạo nên cái âm hưởng chủ đạo của bài ca "Sống mòn".

"Sống mòn" không trực tiếp phản ánh trên bình diện đấu tranh giai cấp nhưng Nam Cao thấy rõ tình trạng bất công phổ biến trong xã hội đương thời: "Bao giờ và ở đâu cũng thế thôi. Thằng nào đã chịu khổ quen rồi thì cứ cố mà chịu mãi đi ! mà thường thường những kẻ ăn nhiều nhất, hưởng nhiều nhất lại là những kẻ không đáng ăn một tí nào, hưởng một tí nào ". Trong "Sống mòn" không có hai chữ chế độ. Nhưng Nam Cao đã đặt ra vấn đề chế độ. Vấn đề không phải tại "người này hay người kia" mà là toàn bộ cái xã hội phải thay đổi. "Sống mòn" toát lên cái yêu cầu cấp bách đòi phá tung trật tự khốn nạn thít chặt lấy số phận con người.

- Niềm khao khát đổi thay

335

Page 336: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Cuối truyện một sự thật "to lớn quá, mạnh mẽ quá, bi thảm quá ". Nhân loại đang lên "cơn sốt rét", đang "quằn quại để đổi thay". Phải thay đổi trong bế tắc cùng đường. Thứ muốn bám vào một niềm tin. Thứ dự cảm thấy một sự đổi thay to lớn: "Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ tự thấy hy vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dể chịu hơn, công bình, đẹp đẽ hơn".

Tác phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như hứa hẹn một bình minh xa xôi sẽ tới.

Nhưng đổi thay bằng cách nào ? Thứ cho rằng phải "nhìn nhận rõ ràng cái khổ để tìm cách diệt khổ ". Anh phản đối thái độ sống nhẫn nhục đầu hàng. Xã hội tương lai mà Thứ mơ ước: "Ai cũng phải làm, ai cũng phải được no đủ, tự do mà chỉ ai làm mới được no đủ tự do"

Tuy vậy, "Sống mòn" chưa vương tới tư tưởng Cách mạng. Nam Cao, về căn bản cũng chưa vượt khỏi nhãn quan và lập trường tiểu tư sản. Thứ vẫn cứ là nạn nhân bất lực, chỉ suy nghĩ suông mà chưa hành động. Ðó là hạn chế căn bản của nhân vật Thứ cũng là hạn chế của tác giả.

"Sống mòn"vẫn chưa vượt khỏi khuôn khổ của văn học hiện thực phê phán. Nhưng trong khuôn khổ ấy nó xứng đáng được coi là thành công xuất sắc cuối cùng của trào lưu hiện thực phê phán trước Cách mạng tháng Tám. 

III. ÐỀ TÀI NÔNG DÂN

1. Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao

Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông dân.

Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm họa khủng khiếp 1945.

- Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.

Anh Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đôi mắt "dại đi vì quá đói " của hai đức con (Ðiếu văn).

Bà cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa no).

Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong cảnh nghèo, không đón đưa, không may mặc, không cỗ bàn, một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà trai: : "cả bọn đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ ".

336

Page 337: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Còn biết bao nhiêu truyện thương tâm về người nông dân bị đày đọa nhục nhằn xung quanh cái đói (trẻ em không biết ăn thịt chó). Nghèo từ ngày mẹ chết, Ðòn chồng.

- Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhiều nhất, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu. Những kẻ cố cùng như Bình Chức "làm thì cật lực mà quanh năm vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà cũng không giữ được mà ăn, đứa nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng chịu". Như Chí Phèo bị cả xã hội bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng, sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người xa lánh. Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người không được loài người coi là người. Ðó là thân phận trâu ngựa của những đứa ở cho nhà giàu, những cái Tí, cái Dần, anh Cu Phúc ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà công việc và những lời chửi rủa thì thừa bửa tứa tát.

- Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; đó là dì Hảo (Dì Hảo), Nhu (Ở hiền) những cô gái hiền như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương, nhường nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay đắng phủ phàng. Ðó là Mụ Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn lận đận về chuyện chồng con, chỉ vì nghèo quá suốt đời đi ở "kể người ta nuôi mụ chỉ biết nuôi, nuôi để mụ hầu hạ người ta, còn cái sự mụ có chồng hay không có chồng thì mặc mụ ".

Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn bị chà đạp thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó )

Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: "tại sao trên đời này nhiều sự bất công đến thế ?". câu hỏi không lời giải đáp đó trongỞí hiền" một truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn, cái "đạo lí ở hiền gặp lành " cũng là vấn đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình.

- Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu xí, thô lỗ, độc ác, nhục nhã trong cuộc sống của họ. Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân đạo của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng không như những nhà văn chủ nghĩa nhìn quần chúng như một lũ vật - người ngu dốt đầy thú tính.

Trái lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước đoạt.

"Một bữa no" là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục nhã của một bà lão khốn nạn

337

Page 338: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

"Ðòn chồng" là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ nhục, bêu riếu hành hạ dã man.

"Lang Rận" là một câu chuyện cực nhục thê thảm nhất. Lang Rận con người nghèo khổ, bẩn thỉu bị mọi người hắt hủi đã tìm đến với Mụ Lợi - một người đàn bà xấu xí bị hắt hủi như mình. Nhưng mối tình chính đáng tội nghiệp của họ trở thành trò bêu riếu trò chơi thú vị kích thích tính tò mò của hai đưá đàn bà nhà giàu "nồng nộng chơi, không suốt ngày tơ tuốt ", "cười hy hý và phát lưng nhau đồm độp ... ". Cuối cùng chúng đã đặt Lang Rận vào một tình thế vô cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ còn một cách thắt cổ tự tử.

Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo.

Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ ngay trong khi bị nhục mạ một cách độc ác bất công.

Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách sâu kín, những hy sinh thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn nhưng trước hết là ở cái tâm "chữ tâm kia với bằng ba chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ.

Số phận người nông dân có thay đổi được không ? câu hỏi đó, Nam Cao cũng như mọi nhà văn hiện thực phê phán chưa trả lời được. Truyện Nam Cao bao trùm một không khí buồn thảm, u ám. Ðó là cái u ám của hiện thực. Nhưng cũng là u ám trong tâm hồn Nam Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc sống là bế tắc vô vọng, con người vật vã quằng quại, đau khổ nhưng chẳng đi đến đâu. Người nông dân thì chỉ biết cúi đầu chịu đựng, đến khi không chịu đựng được nữa thì điên lên, liều mạng vát dao giật lấy miếng ăn. Nam Cao không đồng tình đối với thái độ nhẫn nhục cam chịu: "cái nghề đờii hiền quá hóa ngu, đã nhịn thì chúng ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được" (Chí Phèo).

- Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mỏng manh.

- Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào khủng hoảng, khi ấy nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh, ma quái: "Nửa đêm" những nhân vật chính đều là những con vật người, điên loạn trong một không khí ghê rợn.

2. Truyện ngắn "Chí Phèo"

a. Chí Phèo lương thiện

338

Page 339: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Trong làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, không cha mẹ, không người thân thích, không nhà cửa không có miếng đất cắm dùi.

Tuổi thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên làm canh điền cho Bá Kiến.

Sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh, hiền lành, chất phác.

Có những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn vợ dệt vải. Trong xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, còn đau xót khổ cực mới là hiện thực.

Chí Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu - ghét, khinh - trọng rất rõ. Anh đã phân biệt tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân, đùi cho bà ba anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì.

Khi tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người "thèm lương thiện muốn làm hòa với mọi người biết bao".

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc. Sự săn sóc giải dị ở Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh, thức bản chất lương thiện của người cố nông Chí Phèo.

Lần đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi cá. Ðây là tiếng gọi tha thiết của sự sống đang níu kéo anh trở về với lương thiện. 

b. Chí Phèo lưu manh

Quãng đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi bị Bá Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù : Sau bảy tám năm biền biệt, khi trở về Chí hoàn toàn thay đổi.

Hắn không còn là người nông dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài xã hội.

Nhà tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung dữ, nhà tù giết cái phần "người " của Chí, chỉ còn lại cái phần "con". Hiện tượng bi thảm ấy có tính chất qui luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người. Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần của Chí Phèo như Trạch Văn Ðoành, Lê Văn Rự (Ông thiên lôi) "Nửa đêm", Cu Lộ Tư cách mỏ ", Tư Lăng, Binh Chức, Năm Thọ những tiền bối gần xa của Chí Phèo.

Những cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả : say ( chửi; say (cướp giật; say ( chém giết.

339

Page 340: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chí Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người bạn say của Chí "lúc nào cũng nghĩ tới màu xanh của một chai rượu văn điển và màu vàng của một đùi thịt chó nướng".

Chí Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí Phèo gây tội ác một cách vô ý thức.

Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người không được làm người, muốn làm lại cuộc đời không được chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí vác dao đi trả thù.

Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là một hành động trả thù có tính chất bản năng mù quáng. Chí Phèo truy tìm nguyên nhân, phù hợp với trạng thái như chập chờn say tỉnh của Chí Phèo.

Chí Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến bà cô Thị Nở. Phải chăng theo thói quen của bước chân, Chí đến thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng không hẳn là quen chân mà sâu xa hơn là một nhân tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nông dân.

Hai chữ "lương thiện" thốt lên ở cửa miệng con người khốn khổ vừa là một lời cầu mong, một niềm phẩn uất đồng thời là một điều tuyệt vọng.

Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của vấn đề. Chí Phèo hiểu rỏ Bá Kiến đãtước đi cái quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại một người lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại người lương thiện mang nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng là giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những năm tháng dài bi tha hóa.

Hạn chế về mặt nội dung

"Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác". Nhà văn không hề thấy khả năng thay đổi vươn lên làm chủ vận mệnh của người nông dân. Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn đến hành động khủng hoảng bi thảm. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không phải kẻ mặt mày dữ tợn, những con ác thú, thì cũng là những con sâu cái kiến, sống trong sợ hãi nhẫn nhục đến tê liệt.

Ngay cả đến Chí Phèo trước khi đi tù, tuy là canh điền khỏe mạnh nhưng vừa bóp chân cho bà Ba vừa run. Binh Thức thì hèn đến nổi "ai quát một tiếng thì đái ra cả quần". Trong cái làng Vũ Ðại không có lấy một bộ mặt sáng sủa, có sinh khí. Chỉ có một bộ mặt vằn ngang vằn dọc của Chí Phèo, bộ mặt xấu xí "không được như mặt lợn" của Thị Nở. Bộ mặt vô nghĩa lí của lão Tư Lãng thầy cúng kiêm hoạn lợn, của mụ hàng rượu, của bà cô Thị Nở. Trong cái nhìn tri âm của Nam Cao đối với nông dân vẫn đôi lúc xen vào con mặt khinh bạc, cố ý trút tất cả những nét "mỉa mai của

340

Page 341: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

hóa công" vào nhân vật Thị Nở một chân dung biếm họa quá ghê tởm và lạc lõng. Nam Cao cũng như hầu hết các nhà văn hiện thực phê phán, chưa thể vưỏn tới nhận thức cách mạng cũng chưa có một quan điểm giai câp chính xác. Khi triết lý một cách bi quan: những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Nhà văn đã xóa nhòa ranh giới giai cấp và vô tình biên hộ cho thống trị đầy tội ác mà nhà văn vừa lên án đanh thép .

IV. VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT

Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới mẻ độc đáo.

1. Phản ánh những khía cạnh chân thực

Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân thực trong nội dung và trong hình thức nghệ thuật.

Một đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất mực tầm thường quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày đã đặt vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn.

Ðọc Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân thực cụ thể vừa vương vấn những suy nghĩ triết lý mà tác giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện.

Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết theo dòng suy nghĩ của nhân vật.

Truyện của Nam Cao thường đậm đà ý vị triết lý, mang nặng suy nghĩ. Ðó là những suy nghĩ được vắt ra từ cuộc sống vất vả, lầm than, từ những giằng xé của một tâm hồn trung thực cố bám sát vào cuộc sống và vươn tới chân lý.

2. Chất trử tình

"Trong văn xuôi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc, soi mói như của Nam Cao" (Lê Ðình Kị văn nghệ số 54, 8-5-1964)

Ngòi bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh lùng trước số phận quần chúng của các "tác giả tả chân tư sản". Ngôn ngữ của Nam Cao dùng cho "ông Chánh ", "bà phó " và dửng dưng khi nói đến con người nghèo khổ thường gọi là "hắn ", "y", "thị ", "mụ ". chính giọng bình thản lạnh lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho sự phẩn uất xót thương càng tăng lên.

Ở nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê, vô tâm trước một bộ mặt xấu xí, một tình huống khôi hài của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc thấy sót xa rùng mình về số phận thê thảm của con người bị đè nén, bóc lột, bị sỉ nhục thậm tệ.

341

Page 342: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tác phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện Nam Cao thường là truyện ít tình nhiều. Nhiều truyện có tính chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả. Nhà văn thường xen lẫn tự sự và trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu chuyện. Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp đứng ra kể chuyện và phát biểu cảm nghĩ của mình.

Số phận bi thảm của dì Hảo

Câu chuyệnvề anh Cu Phúc là những lời "điếu văn" cảm động trước cái chết (Ðiếu văn).

Giữa một câu văn tự sự bỗng vút lên tiếng kêu thương cảm thán: "Lão hạc ơi ! Lão hãy yên lòng nhắm mắt ", "Dì Hảo ơi ! tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng. Ðó là một buổi chiều cỏ sương bay". Một đám cưới "lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chổ ngủ " (Một đám cưới)

3. Miêu tả tâm lí nhân vật

Viết về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ. Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao phát hiện ra bi kịch tâm hồn.

Thế giới nhân vật của Nam Cao đông đảo mỗi nhân vật có một diện mạo tâm lý riêng. Tính cách, tâm lý nhân vật được khắc họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn là bằng miêu tả ngoại hình và hành động bên ngoài.

Nhân vật Bá Kiến có giọng quát "rất sang " và tiếng cười "Tào Tháo" bá Kiến là một con hổ biết cười.

Nhân vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo ro, thể hiện một cuộc sống mờ nhạt thiểu não nhỏ nhen. Có những nhân vật không miêu tả ngoại hình mà vẫn sống vì được soi sáng từ bên trong.

Ngòi bút Nam Cao sinh động khi miêu tả diển biến tâm lý nhân vật, Bá Kiến, Chí Phèo.

- Truyện Nam Cao kết cấu không theo trình tự thời gian: phần kết thúc đưa lên trước, thường là bắt đầu từ giữa câu chuyện rồi mới ngược trở về trước và tiếp tục về sau (Chí Phèo, Một đám cưới, Ðời thức, Sống mòn)

- Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân vật. Cũng có trăng, trăng của anh văn sĩ lãng mạn là "liềm vàng", "đĩa bạc là cái vú mộng tràn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man" (Trăng sáng). Còn trăng trong "Chí Phèo" thì "nhễ nhại", "rời rợi như là ướt nước ...giẫy lên đành đạch như là hứng tình"

342

Page 343: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

- Ngôn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong phú chắc chắn mà uyển chuyển, có khi xù xì dài dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục ngữ. 

V. KẾT LUẬN

Nam Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng

Một quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm là tấm lòng yêu thương ưu ái với tầng lớp người biết áp bức. Văn chương của Nam Cao là "tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than"

Nghệ thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tòi, sáng tạo "Biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi nhữngnguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có ".

NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH (1890- 1969) TOP

I. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ CÁCH MẠNG:

Bác thời niên thiếu tên là Nguyễn Tất Thành, những năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.

Bác xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước. Lúc nhỏ học chữ Hán, lớn lên học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp ở trường quốc học Huế. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc dạy học ở Dục Thanh Phan Thiết, sau đó đi ra nước ngoài, tìm đường cứu nước, từng hoạt động ở nhiều nước như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, chủ yếu ở Pháp. Năm 1919 thay mặt người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới hội nghị hòa bình ở Vecxây bản yêu sách quyền các dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Ðảng cộng sản Pháp. Ngày 3/2/1930 Người chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Ðảng cộng sản Ðông Dương ở Hương Cảng. Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước thành lập Mặt Trận Việt Minh. Từ khi về nước Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh: đọc bản tuyên ngôn độc lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đến thắng lợi.

II. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH VIẾT VĂN VÀ LÀM THƠ VÌ CÁCH MẠNG:

1. Hồ Chủ Tịch không có ý định trở thành một nhà văn nhà thơ: vì trách nhiệm của một người dân mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương lai của mình không phải là con đường khoa cử văn chương.

2. Sinh thời không nhận mình là nhà văn nhà thơ. Trong Nhật kí trong tù Người viết: Lão phu nguyên bất ái ngâm thi.

343

Page 344: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

3. Thơ văn của người viết ra đều mang đặc tính. Trước hết về cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên truyền phục vụ cách mạng.

III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH:

_ Những tác phẩm kí tên Nguyễn Ái Quốc:

+ Truyện ngắn Vi Hành 1920

+ Tiểu thuyết: Bản án chế độ thực dân Pháp 1925.

+ Kịch: Con rồng tre 1922

+ Kí: Nhật kí chìm tàu 1935.

_ Những tác phẩm kí tên Hồ Chí Minh:

+ Thơ: Ngục trung nhật kí 1942- 1943.

+ Truyện: Giấc ngủ 10 năm 1949.

+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một số bài viết: chữ quốc ngữ và chữ Hán từ 1941 đến 1969. Ngoài ra còn nhiều bút kí, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái lan, Trung Quốc. Bác còn dịch cuốn Tỉnh ủy bí mật của Phê-đô-rôp. Năm 1974 nhà xuất bản đã cho in 6 truyện ngắn và bút kí của Hồ Chủ Tịch viết thời kì ở Pháp.

IV. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NHẬT KÍ TRONG TÙ.

1. Hoàn cảnh ra đời

Tháng 1- 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo cách mạng trong nước. Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó dưới sự chủ tọa của Người, quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng minh tức là mặt trận Việt minh để đoàn kết đông đảo nhân dân đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần ta nhất là Trung Quốc. Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử Người đi Trùng Khánh nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan hệ với Ðảng Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là Hồ Chí Minh.

Ði suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của Tưởng cho là Bác sang phá tổ chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội của Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu. Cũng bởi thế cho nên những bức điện của Bác gởi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều không được trả lời.

344

Page 345: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Chúng giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi nắng, trèo núi , vượt truông. Hơn một năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in trong cuốn Nhật lý trong tù trong đó có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra khỏi tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập Nhật ký trong tù, xuất bản 1960.

Tháng 5- 1990, kỷ niệm ngày sinh 100 của Bác, người ta đã tìm được 20 bài thơ chữ hán viết trong thời kỳ bác bị giam giữ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Như vậy, Nhật lý trong tù sẽ có 134 bài thơ bằng chữ Hán.

Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 được trả tự do ngày 10-9-1943, một năm sau nữa, tháng 9-1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn cảnh ấy. Ơí đây thơ bật ra ngoài ý muốn của Người.

Nhật ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác bị giam giữ. Nhật ký trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về một vấn đề, thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt.

Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng Xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo cổ của Phu Xích và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.

2. Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù

a. Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch

Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942-43 mục ruỗng từ lâu đời. Nhật ký trong tù đã ghi lại sự việc Bác đã phải sống, đã chứng kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối. Chuyện cái cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây là đặc trưng của bút pháp tả thực, đứng ở một góc độ nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác... Bác đã đứng ở góc độ người tù nhân đã tường tận nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.

Trước hết hãy nói tới sự bất công vô lí trong nhà tù. Vị lãnh tụ của Cách mạng Việt Nam vừa sang khỏi biên giới đã bị bắt và đưa ngay vào nhà tù bọn Tàu tưởng

Ta là đại biểu dân Việt Nam

Tìm đến Trung Hoa để hội đàm

Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió

345

Page 346: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Phải làm khách quí tại nhà giam.

(Ðường đời khó khăn)

Cái gì đang chờ Bác ở đó ? Nhất là khi chúng biết Bác là người Cộng sản. Mà đường lối xử thế đối với Ðảng viên cộng sản hồi bấy giờ Thà giết oan một trăm, còn hơn là để một tên chạy thoát.

Ðăt chân lên đất Trung Quốc, bác bị bắt ngay ở phố Túc vinh Túc Vinh khước sử dư mông nhục . Lối chơi chữ Vinh - Nhục nhưng quan trọng nhất đối với con người là vấn đề danh dự. Nhà tù Quốc dân đảng đã chà đạp lên danh dự của con người chà đạp lên nhân quyền của con người. Bọn quân phiệt khắp nơi trên thế giới là một lũ vô pháp, vô thiên.

Chế độ xã hội trung Quốc thời Tưởng mục nát từ bao đời thì nhà tù đâu còn là nơi giáo dục cải tạo mà ngược lại tội ác tha hồ mà phát triển. Một điều vô lý hết sức, ở ngoài đánh bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc. Bởi vì đánh bạc ở ngoài làm rối ren trật tự, đẻ ra trộm cắp, phạm đến quyền bóc lột và quyền tư hữu của bọn quan liêu. Cho nên vào đây có tiền thì mua cơm mà ăn, không có tiền thì chết đói

Tù cứng ngày ngày no rượu thịt

Từ nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn

(Tù cờ bạc)

Vào tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc

Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này.

(Cờ bạc)

Bọn chúng không hề đếm xỉa gì đến công lí, pháp luật Nhật ký trong tù có hai bài thơ Bác nhắc tới việc trốn lính, vợ phải tù thay chồng. Mà đi lính để làm gì? Không phải là để kháng Nhật, mặc dù Nhật đánh chiếm khắp nơi, mà để tấn công Hồng quân Liên xô, Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều để kiếm viện trợ ở Mỹ.

Trong tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù thay chồng. Ðã là công lí thì ai làm nấy chịu. Thế nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả, chà đạp tất cả. Hơn thế nữa chúng còn bắt cả trẻ em vào tù.

346

Page 347: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Sở dĩ ngã niên tài bán tuế

Cháu bé trong nhà lao Tân Dương

Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp tiền giam, phải mua chỗ ngủ ở quán trọ, nếu không phải nằm cạnh chuồng xí, thổi cơm, đun nước đều phải trả tiền cả:

Thổi một nồi cơm trả sáu hào

Nước sôi mỗi chậu,một đồng trao

Một đồng, của đáng sáu hào chỉí

Giá cả trong tù định rõ sao !.

(Tiền công )

Những nét miêu tả trên đâu phải là những nét cá biệt, 18 nhà tù, Bác đã miêu tả nhiều hay ít đến như thế. Nếu ngoài xã hội mà liêm chính, không có cảnh hối lộ công khai, phổ biến thì làm thế nào những chuyện quái gở ấy thành lệ, thành chế độ trong nhà lao.

Nhật ký trong tù phải đâu chỉ tố cáo xã hội gián tiếp qua cảnh tượng nhà lao, nó vươn ra ngoài diễn tả cái xã hội Thái bình của từng Ban trưởng suốt ngày đánh bạc, cao hơn một bậc cảnh trưởng chạy quanh làm tiền, trên một bậc nữa huyện trường chong đèn hút thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói lên cái vô lí, cái lố lăng, cái tàn nhẫn đang ngự trị hồi bấy giờ :

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất lai tân vẫn thái bình.

(Ở Lai tân)

Tóm lại, toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ trong Nhật ký như là một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép của Nhật ký trong tù là ở đó.

b. Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người

347

Page 348: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Nói tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới tình yêu thương con người của Bác. Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt ra những vấn đề mà tác giả không hề nghỉ tới như truyện Kiều của Nguyễn Du. Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa nói được hết những điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng trong thơ. Ðồng chí Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng...tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm.

Aïnh sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân đạo , tình thương đồng bào đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch .

Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người đứng trong cửa sắt, người đứng ngoài cửa sắt mà cách biệt như mộtđại dương. Có lần trong tù bổng nổi lên tiếng sáo. Qua tiếng sáo không những Bác đoán được nổi lòng của người thổi sáo mà còn nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng như cũng đang bồi hồi vì tiếng sáo:

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu

(Người bạn tù thổi sáo)

Cùng vất vả cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu cũng như Bác, trằn trọc ngủ không yên. Thương người tù cờ bạc nghèo không có cái gì ăn trước cái cảnh Ngày ngày no rượu thịt của kẻ khác, đành chịu Nước mắt bọt mồm tuôn. Thương người bạn tù đêm qua còn ngồi dựa lưng vào Bác, sáng ngày đã chết cứng. Tuy chỉ là một người tù cờ bạc nhưng Bác thương sót như thương sót một người thân, câu thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt

Thân anh da bọc lấy xương

Khổ đau đói rét hết phương sống rồi...

(Một người tù cờ bạc vừa chết)

Thương những người lao động dầm mưa, dải gió mà công lao chẳng được bao nhiêu. Tâm trí Bác đã âu yếm ghi lại một cái quán nhỏ bên đường, chỉ có cháo hoa và muối trắng nhưng khách qua đường vẫn lấy đó làm chỗ tạm dừng chân.

Thương tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội tình chi cũng phải theo mẹ vào tù. Bài thơ Cháu bé trong nhà lao Tân dương là lời của một em bé, đọc lên nghe như một tiếng khóc:oa...! oa...!ooa...!

Bác thương mọi số phận, tha thiết với sự biểu hiện của sự sống và của tâm linh dù đó chỉ là các run khẽ của hương hoa bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó chỉ

348

Page 349: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

là chuyện cái răng, chuyện chiếc gậy bị Lính ngục đánh cắp. Chẳng phải Bác cao siêu gì trong quan niệm về con người. Người xưa nói: Nhân chi sơ tính bản thiện (Mạnh Tử), Tính tương cận, tập tương viễn (Khổng Tử) Bác có thơ:

Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền

Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên

(Nửa đêm)

Dạ bán - nửa đêm khi những tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật, những "nạn hữu" nơi tù ngục của người ngủ thì chỉ mình Người thức. Thức trắng đêm. Một mình ngắm ngía những kẻ tội lỗi kia và bổng từ khuôn mặt của những kẻ xấu đó gợi dậy trong Người một xót xa cay đắng, cao hơn một hy vọng, một quyết tâm cứu vớt chúng sinh. Bác gần gũi Giê su - Thích ca trong cái mênh mông vô biên đó và chất nhân loại cũng chính là ở đó. Xuân Diệu nói:" Người bạn tù, người tù là đề tài nhân loại đối với Bác". Ðặng Thanh Lê từ việc khảo sát "Hình tượng bằng hữu" trong "Ngục trung nhật ký" nhận xét chính xác "Bác là một nhân cách văn hóa mang tâm hồn nhân loại". Ðề tài nào Bác cũng viết, hình tượng nào Bác xây dựng, nhân vật nào Bác hướng tới nên rất nhân loại. Chế Lan Viên đã phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân tộc và nhân loại trong Bác. Ơí Bác cái nhân loại trước tiên là nhân loại - nhân bản, nhân loại - văn hóa. Lòng thương người ở Bác chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm thía ở đây là mạch nhân đạo của nhân loại chìm sâu trong Hồ Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ diệu. Mạch nhân đạo đó giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập tự do, hạnh phúc cứ như là một điệp khúc vang mãi trong tâm tưởng của Người.

Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói tới lòng yêu người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên ở Bác cũng chính là lòng yêu đời. Cái mạch nhân đạo trong thơ Bác giúp ta hiểu rõ cảm hứng thiên nhiên ở Người.

Chúng ta thừa nhận một sự thực phổ biến ngày nay là sự khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng trong quan hệ con người với thiên nhiên, khủng hoảng này có tác hại không nhỏ đến sự suy thoái về đạo đức, ứng xử con người với thiên nhiên bị phá vở Thiên nhiên sinh ra con người. Con người khai thác thiên nhiên để sống, nhưng lại chống phá thiên nhiên bởi khai thác vô kế hoạch, con người vẫn chưa cảm nhận đầy đủ sự phản ứng dữ dội của thiên nhiên đối với mình do mình không công bằng, chỉ biết vơ vét, chứ không lo bù đắp trở lại.

Trong sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên nhiên trong cách ăn mặc, ở, trong cách giao hòa cảm xúc với cây cỏ., trăng sao, một cánh chim, một ánh mây chiều... của Bác là bài học nhân đạo lớn lao biết nhường nào đối với

349

Page 350: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

mỗi người và cả thời đại. Với Bác thiên nhiên đã làm tốt vai trò sinh thái cảm hóa con người "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trò người hóa: "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ". C.Mác nói: "Con người do hoàn cảnh tạo ra, bởi vậyphải làm cho hoàn cảnh mang tính người". Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó :

"Mặc dù bị trói chân tay

Chim ca rộn, núi hương bay ngát rừng

Vui say ai cấm ta đừng

Ðường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu"

(Trên đường đi)

Thiên nhiên như muốn chia sẻ nổi vất vả với Bác, thiên nhiên muốn sưởi ấm thêm tâm hồn Bác. Bởi Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến thiên nhiên. Có được tình cảm ấy chính là lòng yêu đời ở Bác.

Giữa bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm hồn thương người và yêu đời vô hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui tràn đầy trong cuộc sống. Cái vui với trời đất theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sông

Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta, nhưng thường nó vẫn trôi qua đi không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được.

Không phải cuộc sống ngoài nhà tù Bác nói vui mà ngay trong nhà tù, kẻ thù cũng không sao cướp hết cái vui hồn nhiên trong cuộc sống được. Quý làm sao cái vui trên nét mặt những người đang sống cảnh tù tội:

"Nắng sớm mặt trời soi cả ngục

Sương mù khói đặc sẽ tan hơi

Tràn đầy sinh khí trong trời đất

Tất cả tù nhân mặt nở tươi"

(Nắng sớm)

Sáng sớm vui, trưa cũng rất vui. Cái vui của một con người làm chủ được mọi hoàn cảnh và biến hiện thực đen tối thành ánh sáng.

"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm

350

Page 351: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Vang tiếng đàn ca rộn tiếng ngân

Nhà ngục Tĩnh tây mờ mịt tối

Bổng thành nhạc quán viện hàm lâm"

(Xế chiều)

Sống là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy. Nhưng chúng ta còn nhớ biết bao nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết đã vút lên trong văn thơ ngày trước. Trong lòng phải có sẵn một tâm hồn lớn, một niềm tin tưởng vô biên mới nhìn ra được cái sự thật đơn giản và hiển nhiên ấy.

Trong hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đầy và giữa biết bao công việc lớn đang chờ đợi thực không dễ gì mà vui. Cũng có lúc Bác thấy buồn vô hạn:

"Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ

Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay

Ơí tù năm trọng thân vô tội

Hòa lệ thành thơ tả nổi này"

(Ðêm thu)

Tóm lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình thương người và lòng yêu đời chính là lòng yêu nước. Nhật ký trong tù canh cánh trong lòng nỗi nhớ nước thương dân. Chân bước đi trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh lầm than. Bác nhớ tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến bên sông, nhớ lá cờ nghĩa tung bay phất phới, nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.

"Một canh ...hai canh... lại ba canh

Trằn trọc bâng khoân giấc chẳng thành

Canh bốn canh năm vừa chợp mắt

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh"

(Không ngủ được)

c. Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường

Tình thương người lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục truyền thống thơ xưa, nhưng mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của

351

Page 352: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

một người Cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:

"Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong"

(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)

Ý chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững qua muôn vàn khổ cực và cũng đã từng nói lên được trong những hình ảnh nên thơ:

"Gạo đem vào giã bao đao đớn

Gạo giã xong rồi trắng tựa bông"

(Nghe tiếng giã gạo)

Cuộc đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng tạo. Nhật ký trong tù không thể nào sánh được với toàn bộ bài thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời nhiều hơn văn thơ. Trong sự nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.

Trong cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một trăm bài thơ. Cơ hồ như đối với Bác chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành thơ. Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác nói trong thơ nên có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng."Không phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép". Trong thơ văn cũng như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người Nhật ký trong tù ít có những lời hô to nói lớn:

"Giọng của người không phải sấm trên cao

Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước"

(Sáng tháng năm)

Bác cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép, tinh thần của một anh hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.

Sống trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình tĩnh, phảng phất thơ văn của nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có khi là cái ung dung của người quay lưng lại với cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn không phải như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói:"Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không

352

Page 353: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

khiếp sợ, không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch sử. Chính Bác cũng đã nói :

"Sự vật vẫn xoay đà định sẳn

Hết mưa là nắng ửng lên thôi"

(Trời hửng)

Nhật ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh liệt ở Bác. Nhà tù đã đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi thuyền thì bị treo giò

"Bốn tháng cơm không no

Bốn tháng đêm không ngủ

Bốn tháng không giặt giũ

Bốn tháng không thay quần áo"

Bị giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc băng núi rừng về nước. Ðó là cái gương cương nghị ở Bác.

Bài thơ "Bốn tháng rồi" đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc liệt của Bác ơ trong tù. Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể Bác chúng ta cảm thấy hết sức đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng ta cũng vô cùng sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh thần Bác, tinh thần của một chiến sỹ công sản vĩ đại đã bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:

"Vật chất tuy đau khổ

Không nao núng tinh thần "

(Bốn tháng rồi)

Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có tinh thần thép mà mọi thiếu thồn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách dân tộc, và tâm hồn thời đại.

3. Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "

a. Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị

353

Page 354: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Theo ý Xuân Diệu: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễî là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó". Xuân Diệu viết tiếp:"Nếu ai đọc cứ quen theo thị hiếu thông thường, thích lời thơ phải hoa mỹ như cô gái đeo nhiều nữ trang, thích vị thơ phải chua cay, ngọt...thì người ấy sẽ thấy thơ này bình thường quá. Phải ở trong cái không khí cao sáng của trí tuệ này, phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới nhận hết được cái chất thơ cao quý này. Người xưa nói:" Ðối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau". Ðọc Nhật ký trong tù cũng phải tế nhị như vậy. Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc của Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường...

Nếu nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngòi bút của một phóng viên ghi nhanh và sắc. Các nét dù là nhỏ nhất trong đời thường cũng không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong một ngày:

"Sớm dậy người người đua bắt rận "

"Hai giờ ngục mở thông hơi"

"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm"

Ðến cảnh đun nấu, mỗi người tù tự tìm cách cải thiện: "Hỏa lò ai cũng có riêng nồi"

Từ những lệ tục hủ lậu:

"Lệ thường tù mới đến

Phải nằm cạnh cầu tiêu"

(Quá trưa)

Ðến những thói ăn người trắn trợn.

"Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao"

(Cấm hút thuốc lá)

Gặp những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ thiên về "vĩ đại", "cao siêu" thì sẽ bỏ đi hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký thì chùm thơ cũng mất đi cái đặc tính của nó, cái hương vị của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ khác.

354

Page 355: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

b. Nghệ thuật trào phúng

Nhật ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng lúc thì đau đớn lúc thì chua xót "cái cùm" và sự đới nhiều khi đến kỳ lạ:

"Ðược cùm chân mới yên bề ngủ

Không được cùm chân biết ngủ đâu"

Có khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài "cờ bạc" mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh

"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai"

Ðột nhiên ngòi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát mẻ:

"Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sau trước không vô quách chốn này"

Bác bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt hỏi tội bọn chúng:

"Phạm tội cái gì ? ta thử hỏi

Tội trung với nước, với dân à ?"

Giọng thơ trào phúng không đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của ý thơ. Mỗi bài thơ mỗi vẻ. Có bài đanh thép như một cái tát vào mặt quân thù như bài kể chuyện "Nộp tiền đèn" có bài lời thơ tựa hồ dửng dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận như bài "Ở Lai Tân". Có bài xót xa chua chát:

"Biền biệt anh đi không trở lại

Buồng the, trơ trọi, thiếp ôm sầu

Quan trên sót nỗi em cô quạnh

Nên lại mời em tạm ở tù"

(Gia quyến người bị bắt lính)

Có bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở "Ði Nam Ninh ", "Dây trói", mỗi bài là một tiếng cười như để lấy thêm sức mạnh.

355

Page 356: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Tóm lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ trong Nhật ký trong tù đã nêu lên được nỗi cơ cực của người tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân loại của Tưởng Giới Thạch.

c. Nghệ thuật triết lý

Nghệ thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như bài "Nửa đêm"

"Ngủ thì ai cũng như lương thiện

Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền

Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên"

Hay bài "Nghe tiếng giã gạo", bài "Học đánh cờ". Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống, hay sự nhìn nhận đúng, hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu ra.

Chúng ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà Cách mạng vĩ đại. Thơ Bác không phải biểu hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ đạo cuộc sống. Ðó là tính Ðảng cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép của thời đại.

Nói đến thơ Bác không thể không nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là thơ của tâm hồn, thơ của tình cảm, thơ của tư tưởng, thơ của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu phương tiện biểu hiện thật hết sức phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng như trái ngược nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là sự bình dị tuyệt vời không có ai có thể bắt chước được.

Trong những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao cả, Bác có thể nói đến những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày mà ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ được bên cạnh câu thơ mang ý nghĩa lớn:

"Ðau khổ chi bằng mất tự do"

Lại một câu khác :

"Ðến buồn đi ỉa cũng không cho "

Thế mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn ác, làm cho việc mất tự do, cái tự do tối thiểu của con người cũng không có, càng được nhấn mạnh.

356

Page 357: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

Bác không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào không dùng miễn là từ ấy dùng đúng chỗ, dùng đắt. Bác đem rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ mà những từ ấy không làm cho thơ Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của Bác càng sinh động, càng thực, càng xúc động lòng người.

Bác không từ chối cách nói từ ẩn dụ. tùì cứng" Ngày ngày no rượu thịt"

Tù mềm "Nước mắt bọt mồm tuôn"

Lối chơi chữ của Bác trong bài "Ðêm ngủ ở Long tuyền"

"Ðôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân

Ðêm "gà năm vị lại thường ăn"

"Ðôi ngựa" hai chân đi; "Gà năm vị" khi ngủ hai chân phải bắt chéo lại như chéo chân gà trong mâm cỗ tiệc.

Hay là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách nói trực tiếp, cách nói hiện thực: rất thực, rất thẳng, rất sâu

Trong thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và trữ tình, lãng mạng và hiện thực, cổ động và giáo dục, phản ánh và triết lý... đã kết hợp với nhau một cách chặt chẽ một cách nghệ thuật.

Trong Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối lập, tạo nên một sự châm biếm có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.

"Ta thì người dắt, lợn người khiên"

"Uốn để pha trà đừng rửa mặt"

"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội"

"Trong tù đánh bạc được công khai"

Sự đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc thơ Bác chúng ta luôn luôn gặp một nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một nụ cười riêng của Bác.

Chúng ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị tuyệt diệu đó bắt nguồn từ con người của Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà không tầm thường, giản dị mà không đơn giản. Bác nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối lập của nó, nhìn hiện tại mà hướng về tương lai, coi trọng tư tưởng mà rất chú trọng đến nghệ thuật.

357

Page 358: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

V. KẾT LUẬN:

Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt nội dung và cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà tính dân tộc. "một tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phầm chất đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay".(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật ký trong tù của Viện văn học ). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc, những suy nghĩ , những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta có cái may mắn được nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế tấm gương đạo đức cao cả của Người đối với ta vô cùng gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ của Hoàng Trung Thông trong bài "đọc thơ Bác"

"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp

Anh đèn tỏa rạng mái đầu xanh

Vần thơ của Bác vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình "

4- Phong cách chính luận : TOP

a- Khái niệm:

PC chính luận là PC được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp ở PC này thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội. Ðây là khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống và việc phân giới giữa PC này với PC khoa học, PC thông tấn vẫn còn một số quan niệm chưa thống nhất. [4], [8],[14],[15]. 

b- Chức năng và đặc trưng :

1- Chức năng : PC chính luận có ba chức năng: thông báo, tác động và chứng minh. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy PC chính luận có sự thể hiện đặc trưng và đặc điểm ngôn ngữ có nét giống với PC thông tấn, PC khoa học và cả PC văn chương.

2- Ðặc trưng: PC chính luận có ba đặc trưng:

2.1- Tính bình giá công khai: Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm, thái độ của mình đối với sự kiện. Ðây là đặc trưng khu biệt PC chính luận với PC khoa học và PC văn chương. Nếu văn

358

Page 359: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

chương là bình giá gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì ngôn ngữ của PC chính luận bao giờ cũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó.

  2.2- Tính lập luận chặt chẽ: Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở PC này đòi hỏi có tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ sở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên. Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức ngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưá đựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt. 

2.3- Tính truyền cảm: PC chính luận cóï tính truyền cảm mạnh mẽ , tức sự diễn đạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằng tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa PC chính luận với PC khoa học, thông tấn và khiến PC này gần với PC văn chương. Trong văn bản chính luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa. 

c- Ðặc điểm :

1- Ngữ âm: Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trong mit tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe. 

2- Từ ngữ:- Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, công cụ riêng của PC chính luận. PC chính luận đòi hỏi khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm và tình cảm cách mạng của mình. Ví dụ:

Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc đảo chính? Ðảo chính là hai bọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ mới, nhưng căn bản chế độ cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phóng giành chính quyền, sao gọi là đảo chính? (TC) 

- Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở PC chính luận là những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người ta phải dùng tất cả các lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.

- Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các vấn đề nêu ra, người ta coön chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi vì đây là lớp từ giàu sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm. Ví dụ:

Ai nói mà không làm, ai chỉ nghị quyết suông, ai theo đuôi quần chúng, ai ỳ ra như xe bò lên dốc, ai nhút nhát như bị quân thù bắt mất hồn, ai không dám hi sinh

359

Page 360: Giáo án ngữ văn lớp 11truonghocso.com

việc nhà cho việc Ðảng, phải kíp sửa đổi mà tiến lên (T.Tr) [15,157] 

3- Cú pháp:

-Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong cách chính luận dùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán.

- Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác định chặt chẽ.

- Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, PC chính luận sử dụng nhiều lối nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản để tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán xét. Ví dụ:

- Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. (Hồ Chí Minh)

- Ðổi mới là con đường duy nhất đúng đắn của Ðảng ta, của nhân dân ta, để vượt qua mọi khó khăn to lớn, đi đến ổn định và phát triển. Ðổi mới tạo nên thế mới và sức lực mới, như muà xuân làm bật dậy sức sinh sôi huyền diệu của thiên nhiên, đúng theo quy luật của sự phát triển. (Báo Nhân dân) 

360