Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
Tại hội nghị chuyên đề xử lý nợ xấu tuần
qua, NHNN đặt mục tiêu giảm được tỷ lệ nợ
xấu xuống dưới 3% một cách thực chất đến
năm 2020 (từ mức khoảng 6,6% nói trên).
Theo đó, toàn hệ thống chỉ còn 2 năm nữa
để đưa tỷ lệ nợ xấu về mức độ kiểm soát
được một cách thực chất và chuẩn chỉnh. Từ
6,6% xuống dưới 3% trong 2 năm là mục tiêu
thần tốc, trong điều kiện mẫu số tín dụng bắt
đầu hãm đà tăng trưởng. Nhưng nhìn từ mức
độ hơn 17% giảm xuống còn 6,6% trong 6
năm qua, mục tiêu đó có triển vọng, cùng với
tình hình sức khỏe của hệ thống nói chung
đã được cải thiện một bước đáng kể theo các
số liệu thống kê NHNN công bố định kỳ.
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 06/09)
VN - Index 958,19 1,06%
HNX - Index 110,48 0,01%
D.JONES CK Mỹ 25.995,87 0,08%
STOXX CK C.Âu 3.295,95 0,59%
CSI 300 CK TQ 3.262,88 1,07%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 07/09)
SJC Ng.đ/L 36.770 - 0,00%
Quốc tế USD/Oz 1197,9 0,25%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.686 0,01%
EUR/USD 1,1623 0,21%
Dầu
WTI USD/th 67,89 0,88%
6
Tin nổi bật
Mục tiêu thần tốc xử lý nợ xấu 2 năm tới
NHNN đề xuất đặt room ngoại với các
trung gian thanh toán phi ngân hàng
VDSC kỳ vọng LS tăng nhẹ trong 2019
Không tính dầu thô, đất đai, thu ngân sách
8th đạt thấp nhất 4 năm
Ba thách thức lớn của công nghiệp VN
Vốn FDI vào Myanmar giảm trong năm tài
chính 2017-2018
Thứ Sáu, ngày 07/09/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Mục tiêu thần tốc xử lý nợ xấu 2
năm tới
Về tổng thể, nợ xấu VN những năm qua và hiện nay cũng có những đặc
thù lớn, có cách xử lý mà thế giới chưa có. Đặc thù lớn nhất của nợ xấu
tại VN nằm ở cơ chế, từng tạm để sang một bên lượng lớn mà nay đã
và đang lần lượt trở về. Tháng 9/2012, lần đầu tiên nợ xấu được công
bố thực chất ở mức hơn 17%. Để ghi nhận mức độ khủng khiếp này,
nhà quản lý đã phải họp bàn hàng chục cuộc, rồi lần lượt có các giải
pháp giãn và hoãn. Trong quá trình đó, chỉ tính riêng lượng nợ xấu bán
sang VAMC và lượng được cơ cấu lại mà không phải chuyển nhóm
cũng đã lên tới khoảng 600.000 tỷ đồng. Tất nhiên, không thể giãn và
hoãn gửi mãi. Sau tháng 9/2015, VAMC giảm tốc độ mua nợ xấu. Cơ
chế cho cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm cũng khép lại, chỉ
còn một phần chuyển tiếp trong Thông tư 09. Thông tư 02 về phân loại
và trích lập dự phòng rồi cũng phải thực hiện. Nợ xấu lần lượt được ghi
nhận thực tế hơn, từ 2016 đến nay là một sự trở về gần hơn với thực
chất. Sau giãn và hoãn, đến nay sức khỏe hệ thống các TCTD đã tốt
hơn để đối diện và đón nhận sự trở về đó. Từ năm 2012 - 06/2018, toàn
hệ thống đã xử lý được 785.930 tỷ đồng nợ xấu; riêng 6th/2018 xử lý ước
đạt 58.800 tỷ đồng, chủ yếu do các TCTD tự xử lý với 56.740 tỷ đồng.
Riêng kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42 của Quốc
hội, sau 1 năm thực hiện, đã đạt 138.290 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu theo báo
cáo của các TCTD chỉ còn nhỉnh hơn 2%, rất thấp. Nhưng nếu tính nợ
ngoại bảng (gồm nợ tại VAMC, nợ tiềm ẩn có thể trở thành nợ xấu...) hiện
vẫn ở mức cao, #6,6% tổng dư nợ. Tại hội nghị chuyên đề xử lý nợ xấu
tuần qua, NHNN đặt mục tiêu giảm được tỷ lệ nợ xấu xuống <3% một
cách thực chất đến năm 2020 (từ mức khoảng 6,6% nói trên). Theo đó,
toàn hệ thống chỉ còn 2 năm nữa để đưa tỷ lệ nợ xấu về mức độ kiểm
soát được một cách thực chất và chuẩn chỉnh. Từ 6,6% xuống dưới 3%
trong 2 năm là mục tiêu thần tốc, trong điều kiện mẫu số tín dụng bắt
đầu hãm đà tăng trưởng. Nhưng nhìn từ mức độ hơn 17% giảm xuống
còn 6,6% trong 6 năm qua, mục tiêu đó có triển vọng, cùng với tình hình
sức khỏe của hệ thống nói chung đã được cải thiện một bước đáng kể
theo các số liệu thống kê NHNN công bố định kỳ.
Tài chính – Ngân hàng
3
NHNN đề xuất đặt room ngoại
với các trung gian thanh toán phi
ngân hàng
Khung pháp lý với lĩnh vực trung gian thanh toán nói chung và các tổ
chức không phải NH cung ứng dịch vụ này nói riêng hiện đang được
quy định trong Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng
tiền mặt và Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 101. Dự kiến
sẽ tiếp tục có một Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP. Do
một nội dung trong đề cương Nghị định có liên quan đến Luật đầu tư
nên kế hoạch trình Chính phủ dự thảo này được xác định là ngay sau
khi dự thảo Luật Đầu tư được thông qua (dự kiến vào kỳ họp Quốc hội
khóa 7 - tháng 5/2019). Đề cương Nghị định Quy định về thanh toán
không dùng tiền mặt hiện đã lấy ý kiến xong gồm 29 điều trong Quy
định chung. Trong đó, giới hạn sở hữu nước ngoài sẽ được quy định
trong điều 28. Một trong các chính sách được đề nghị tại dự thảo Nghị
định sửa đổi xem xét là quy định cho NĐTNN vào lĩnh vực cung ứng
dịch vụ trung gian thanh toán. NHNN cho rằng cần xem xét thêm điều
kiện góp vốn của NĐTNN vì trung gian thanh toán là hoạt động có liên
quan đến hoạt động NH, tác động trực tiếp đến quyền lợi của người
tham gia dịch vụ và ảnh hưởng đến an ninh, an toàn CSTT quốc gia.
Dẫn kinh nghiệm Indonesia hiện quy định tỷ lệ sở hữu NĐTNN ≤20%
vốn sở hữu. Tại VN, các lĩnh vực liên quan đến TC-NH đều có quy định
về room ngoại như tỷ lệ sở hữu tại NHCP ≤30%, TCTD phi NH thực
hiện theo quy định của công ty đại chúng ≤49%... Với vấn đề này, 2
phương án được NHNN đưa ra. (i) Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của NĐTNN
tại tổ chức trung gian thanh toán không hạn chế mà tùy tiềm lực KD của
từng DN để tự quyết định. (ii) Giải pháp được NHNN đề xuất thực hiện
là chấp thuận tham gia góp vốn của NĐTNN nhưng có quy định cụ thể
về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ. Một mức room ngoại cụ thể chưa được
NHNN đưa ra trong đề cương Hồ sơ lần này. Ở thời điểm hiện tại, vốn
ngoại ở một số tổ chức được NHNN cấp phép cung ứng dịch vụ thanh
toán đã vượt mức chi phối (51%). Điển hình như tại VNPT EPAY, ngoài
phần vốn do Tập đoàn VNPT sở hữu, 65% vốn thuộc về hai NĐT Hàn
Quốc là Global Payment Service (64,99%) và UTC Investment Co., Ltd
(0,83%); 90% vốn của 1Pay cũng đang do True Money nắm giữ. Việc
quyết định giới hạn nào cho sở hữu nước ngoài bên cạnh mục tiêu tạo
sự minh bạch và lành mạnh trong hoạt động thanh toán, góp phần
phòng, chống rửa tiền cũng cần tạo điều kiện để các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các thương vụ thu
4
hút vốn đầu tư nước ngoài vào các DN khởi nghiệp nói chung hay
fintech nói riêng ngoài hỗ trợ về tài chính, các tổ chức này còn có thể
tận dụng công nghệ, học hỏi từ các quốc gia đi trước trong lĩnh vực này.
VDSC kỳ vọng lãi suất tăng nhẹ
trong 2019
Theo Báo cáo mới công bố của CTCK Rồng Việt (VDSC), thị trường
TPCP sơ cấp khá trầm lắng, trong khi thị trường thứ cấp có diễn biến
bán ròng. Lợi tức TPCP các kỳ hạn đồng loạt tăng mạnh. Tính tới cuối
tháng 8/2018, tổng lượng phát hành TPCP thành công đạt 106.000 tỷ
đồng, #53% kế hoạch năm. Tỷ lệ đặt thầu khá thấp. Thanh khoản trên
thị trường sơ cấp giảm trong các tháng gần đây. Trái phiếu kỳ hạn 10 và
15 năm tỏ ra hấp dẫn hơn đối với NĐT nhờ mức lợi tức cao tương đối
trong khi việc phát hành các trái phiếu kỳ hạn dài hơn không mấy khả
quan. Điều này hoàn toàn trái ngược với diễn biến trong 2017 khi kết
quả trái phiếu kỳ hạn 20 và 30 năm vượt kế hoạch đề ra. Diễn biến LS
trên thị trường LNH cũng gây sức ép thúc đẩy lợi tức trái phiếu các kỳ
hạn ngắn. Dữ liệu lịch sử cho thấy mối tương quan dương giữa hai biến
số trên. Bên cạnh mặt bằng lợi tức kỳ hạn ngắn cao hơn, rủi ro lạm phát
và tỷ giá tăng nhanh cũng góp phần đẩy lợi tức trái phiếu các kỳ hạn dài
lên cao. Diễn biến lợi tức trái phiếu đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định LS huy động và cho vay trong hệ thống NH. Điều này ngày
càng tạo ra nhiều áp lực hơn đối với hoạt động điều hành CSTT của
NHNN. Thêm vào đó, LS toàn cầu tăng cao theo sau quyết định của
Fed chính là rủi ro lớn nhất hiện nay. Trong thời gian còn lại của năm,
khả năng cao Fed sẽ tăng LS 2 lần vào tháng 9 và tháng 12. Do đó,
VDSC kỳ vọng LS tại VN có thể sẽ tăng nhẹ vào trong 2019.
5
Ngân sách Nhà nước: Nỗi lo từ
số liệu không thống nhất
Theo PGS. TS.Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính, đã có một số dấu
hiệu tích cực trong thời gian gần đây, thu ngân sách đã có xu hướng
tăng. Tính riêng trong 2017, ông Cường nhận xét tốc độ tăng chi bắt
đầu có xu hướng giảm thấp hơn tăng thu. Điều này được xem là điểm
tích cực, cho thấy cải cách ngân sách bắt đầu có hiệu quả, đảm bảm
sự bền vững cho nền tài chính công. Dù vậy, nếu nhìn tổng thể cả quá
trình thu, chi trong nhiều năm, có điều đặc biệt là khoảng cách giữa thu
và chi luôn ở một mức nhất định. Nghĩa là, việc thu hẹp bội chi ngân
sách, dù đã có nhiều cải cách, nhưng vẫn cần xem xét thêm. Một điểm
đáng lưu ý trong cải cách tài chính công của VN, theo TS.Cường, nằm
ở vấn đề số liệu. "VN có 2 hệ thống báo cáo thống kê cực kỳ khó hiểu",
một bảng sẽ được dùng báo cáo Quốc hội và một bảng lại theo hệ
thống quốc tế. Sự không thống nhất này khiến cho công tác tính toán từ
số liệu của Nhà nước được Bộ Tài chính công khai là không dễ dàng.
Nhiều trường hợp dẫn đến so sánh của các chuyên gia không tương
ứng với nhau. Về thu – chi ngân sách, phần lớn các nghiên cứu đã dùng
nhiều nguồn số liệu, tức không sử dụng một con số thống nhất. Việc
dựa trên nền dữ liệu khác nhau theo ông Vũ Đình Ánh sẽ khiến cho các
lập luận, tranh luận, thậm chí bằng chứng từ việc chạy mô hình KT trở
nên triền miên, không đi đến được một kết luận chung. "Số liệu NSNN,
tổng thu khác nhau, tổng chi khác nhau, cấu phần trong đó khác hẳn
nhau thì lấy gì phân tích", TS.Ánh nhận xét. "Nguy hiểm hơn, không chỉ
mặt số liệu vênh thôi mà xu hướng cũng bị vênh. Quan sát một dãy số
này thì thấy tăng thu ngân sách/GDP, một dãy khác thì thấy là giảm".
Không tính dầu thô, đất đai, thu
ngân sách 8th đạt thấp nhất 4
năm
Tổng cục Thuế cho biết, tiến độ thu ngân sách 8th/2018 (không tính thu từ
dầu thô và đất đai) đạt thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. Trong 8th/2018,
tổng thu NSNN do ngành thuế thực hiện ước đạt 724.553 tỷ đồng, bằng
67,7% dự toán, 15,7% so với cùng kỳ. Trong đó, thu từ dầu thô ước
đạt 40.876 tỷ đồng, 35,1% so với cùng kỳ; thu nội địa ước đạt
683.676 tỷ đồng, 14,7% so với cùng kỳ. Số thu không kể tiền sử dụng
đất, cổ tức, lợi nhuận còn lại và thu từ xổ số kiến thiết ước đạt 546.146
Kinh tế Việt Nam
6
tỷ đồng, 15,7% so với cùng kỳ 2017. Xét về các khoản thu, sắc thuế,
nếu so với dự toán thì có 11/17 khoản đạt khá (>66%), trong đó một số
khoản thu lớn như thuế thu nhập cá nhân ước đạt 69,4%; tiền sử dụng
đất 93,2%; thu tiền thuê đất 88,4%; thu cấp quyền khai thác khoáng
sản, tài nguyên nước 105%; thu cổ tức và lợi nhuận còn lại 67,2%...
Còn nếu so với cùng kỳ năm 2017 thì có 15/17 khoản thu ghi nhận tốc
độ tăng trưởng là thu từ KV DNNN 9,3%; KV DN FDI 7,6%; KV
ngoài quốc doanh 20,2%; thuế TNCN 21,5%; lệ phí trước bạ
9,7%; tiền thuê đất 27,7%; tiền sử dụng đất 17,6%... Cũng trong
8th, toàn ngành thuế đã thực hiện 50.178 cuộc thanh tra, kiểm tra, đạt
56,25% kế hoạch với tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là
8.998,97 tỷ đồng, giảm khấu trừ 814,92 tỷ đồng; giảm lỗ 13.685,55 tỷ
đồng. Tổng số tiền thuế đã nộp vào ngân sách là 4.599,38 tỷ đồng,
#51,11% số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra. Với kết quả này, số
thu NSTW luỹ kế 8th ước đạt 322.000 tỷ đồng, 15,7% so với cùng kỳ,
cao hơn mức thu của 8th những năm gần đây (năm 2017 đạt 60,4%; năm
2016 đạt 58,1%; năm 2015 đạt 63,1%). Trong khi thu ngân sách địa
phương cũng ước đạt 402.553 tỷ đồng, 15,7% so với cùng kỳ 2017.
Mặc dù đạt kết quả khả quan, tuy nhiên nếu loại trừ các khoản thu từ
dầu thô, đất đai, theo Tổng cục Thuế, ước thu 8th đang đạt thấp so dự
toán, chủ yếu do thu từ hoạt động SXKD đạt thấp. Thậm chí tiến độ 8th
năm nay còn đạt thấp nhất trong 4 năm trở lại đây. Chính vì vậy, để
đảm bảo hoàn thành dự toán thu NSNN được giao, trong giai đoạn 4th
cuối năm, Tổng cục Thuế yêu cầu các đơn vị trong ngành tiếp tục tăng
tốc triển khai quyết liệt các biện pháp quản lý thuế; tập trung vào những
nhiệm vụ, giải pháp chỉ đạo, điều hành tháo gỡ khó khăn, giải tỏa ách
tắc để khai thác tăng thu, nuôi dưỡng nguồn thu, tăng cường hiệu quả
chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế.
Cơ cấu FDI đầu tư tại Việt Nam
30 năm qua
Theo Tổng cục Thống kê, lũy kế đến tháng 8/2018, nhà đầu tư nước
ngoài đã rót vốn vào 19 ngành, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo
là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài
với 19,05 tỷ USD, chiếm 57% tổng vốn đăng ký. Hoạt động kinh doanh
bất động sản đứng thứ 2 với 5,68 tỷ USD, chiếm 17%. Đứng thứ ba là
lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa với 2,27 tỷ USD,
chiếm 7% tổng vốn đăng ký.
7
Ba thách thức lớn của công
nghiệp Việt Nam
Công nghiệp là nhóm ngành KT thực lớn nhất, là động lực và đầu tàu
tăng trưởng KT của cả nước, đang đứng trước những thách thức và cơ
hội mới. Thách thức xuất phát từ 3 yếu tố. (i) Xuất phát từ chính vai trò
của ngành công nghiệp đối với việc thực hiện mục tiêu của của toàn bộ
nền KT trong cả năm 2018, cũng như mục tiêu chuyển từ nước nông
nghiệp sang nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong nền KT thị
trường, công nghiệp cùng với xây dựng là nhóm ngành KT thực lớn
nhất. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính và KT toàn cầu xuất
hiện từ cuối 2008 cho thấy, những nước có nền KT thực lớn bị ảnh
hưởng ít hơn, ít nhất là không bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng, không bị suy thoái, có chăng tốc độ tăng trưởng KT bị suy giảm.
(ii) Xuất phát từ thực tế đang diễn ra. Sau mấy năm, tăng trưởng công
nghiệp đã cao trở lại, trở thành động lực và đầu tầu tăng trưởng của
toàn bộ nền KT, góp phần giúp cho tăng trưởng của toàn bộ nền KT
(năm 2017 đạt kết quả kép: vừa cao hơn năm trước, vừa vượt mục tiêu theo
Nghị quyết của Quốc hội). Tăng trưởng cao của công nghiệp trong Q.I nói
riêng và trong 6th/2018 đã góp phần làm cho tăng trưởng KT trong Q.I
và 6th/2018 đạt cao nhất so với cùng kỳ trong hàng chục năm qua. Tuy
nhiên, thách thức bắt đầu xuất hiện khi tăng trưởng chỉ số SX công
nghiệp (IIP) đã bị chậm lại. Toàn ngành công nghiệp nếu Q.I 12,9%,
thì Q.II chỉ còn 8,4%; 8th tăng thấp hơn Q.I (11,2% so với 12,9%). Trong
đó, công nghiệp chế biến, chế tạo – ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
toàn ngành công nghiệp – Q.I 15,7%, thì Q.II 10,1%, 8th tăng thấp
hơn Q.I (13,3% so với 15,7%). (iii) Xuất phát từ XNK. Tốc độ tăng tổng
kim ngạch XK hàng hoá đã chậm lại nhanh qua các kỳ. Nhiều mặt hàng
công nghiệp có kim ngạch tăng chậm lại, hoặc thấp hơn như dầu thô,
túi xách, ví, vali, mũ, ô dù... Do chiến tranh thương mại giữa 2 nền KT
lớn nhất TG đã xảy ra, có thể mở rộng về quy mô, lan rộng ra nhiều
nước và tiếp nối là cuộc chiến tranh tiền tệ với đồng CNY của TQ (mất
giá tới 9% tính từ đầu năm), sẽ dẫn đến hậu quả là XK của VN sang TQ
không tăng cao như trước, trong khi NK từ thị trường này sẽ rất cao. Giá
NK tăng cao hơn giá XK, làm tỷ giá thương mại của VN chuyển từ dấu
dương trong 3 năm trước sang dấu âm trong 6th/2018, tác động tiêu cực
đến XK... Thực tế tổng mức xuất siêu nếu 3th đã đạt 3,89 tỷ USD, thì 8th
chỉ còn 2,85 tỷ USD. Thách thức không nhỏ là nguy cơ "tiêu dùng
giùm", "XK hộ", "bãi thải" công nghệ,... cũng cần được quan tâm.
8
“Việt Nam sẽ là điểm đến hấp
dẫn để đầu tư kinh doanh bất
động sản”
Ông Nguyễn Văn Sinh - Thứ trưởng Bộ Xây dựng cho biết, tuy mới hình
thành nhưng thị trường BĐS VN đã có bước phát triển tích cực, làm
thay đổi bộ mặt đô thị, nâng cao mức sống của nhân dân. Riêng lĩnh
vực nhà ở, từ năm 1999 đến nay, mỗi năm VN đã phát triển mới được
trung bình khoảng >70 triệu m2 sàn. Hiện cả nước có khoảng 2,1 tỷ m2
nhà ở, nâng diện tích nhà ở BQ/người từ 9,7 m2/người năm 1999 lên
23,7 m2 vào tháng 6/2018… Theo nhận định của ông Sinh, trong trung
và dài hạn, VN sẽ là một điểm đến hấp dẫn để đầu tư KD BĐS, do nhu
cầu về BĐS như: nhà ở, hạ tầng khu công nghiệp, trung tâm thương
mại, BĐS nghỉ dưỡng... của VN vẫn còn rất lớn. “VN đặt mục tiêu đến
năm 2030 hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cùng với mục tiêu đó,
quá trình đô thị hóa cũng sẽ diễn ra với tốc độ cao (#1%/năm), dân số đô
thị sẽ tăng nhanh, nhất là tại các đô thị lớn; thu nhập BQ/người đã vượt
ngưỡng 1.000 USD/người… sẽ là những yếu tố để thị trường BĐS VN
phát triển mạnh trong thời gian tới”, ông Sinh nhấn mạnh.
9
JPMorgan, BlackRock cảnh báo
về nguy cơ lan truyền từ các thị
trường mới nổi
Theo các chiến lược gia JPMorgan Chase & Co., BlackRock: “Chúng ta
đang chứng kiến một cuộc khủng hoảng niềm tin ở các thị trường mới
nổi, trong đó hiện rõ mức độ lan truyền rủi ro… Với những diễn biến
trong ngắn hạn thì thật khó để nhảy vào thị trường”… Tiền tệ các quốc
gia đang phát triển trượt xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5/2017, trong
đó Peso (Argentina), Lira (Thổ Nhĩ Kỳ) và Rupee (Ấn Độ) là những đồng
tiền rơi xuống mức thấp kỷ lục trong thời gian gần đây, qua đó củng cố
cho quan điểm đây không còn là tình trạng diễn ra riêng biệt cho từng
quốc gia nữa. Đáng chú ý là Rupiah (Indonesia) rơi xuống mức thấp nhất
kể từ khủng hoảng tài chính châu Á từ 2 thập kỷ trước. Căng thẳng
thương mại toàn cầu, đà tăng của USD và triển vọng nâng LS nhiều
hơn tại Mỹ khiến dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi chậm lại ở
mức 2,2 tỷ USD trong tháng 8, thấp hơn nhiều sv mức 13,7 tỷ USD hồi
tháng 7. “Đây không phải là câu chuyện tích cực cho các thị trường mới
nổi… Khi chiến tranh thương mại vẫn còn là tâm điểm chú ý và FED
nâng LS, tôi nghĩ chúng ta đang trong một môi trường thúc đẩy USD
tăng mạnh hơn”… Áp lực lên các thị trường mới nổi có lẽ sẽ tiếp diễn ở
thời điểm hiện tại, trong đó Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Nam Phi, Pakistan,
Brazil và Ấn Độ nằm trong những quốc gia có liên kết yếu nhất.
Trung Quốc cảnh báo sẽ phải
đáp trả nếu Mỹ áp thuế mới
Bộ Thương mại TQ cho biết, TQ đang theo dõi sát tác động của bất kỳ
mức thuế mới nào và đưa ra các biện pháp mạnh để bù đắp những tác
động tiêu cực. Cảnh báo trên được đưa ra trong bối cảnh Tổng thống
Mỹ đe dọa sẽ áp thuế bổ sung 25% đối với lượng hàng hóa trị giá 200 tỷ
USD NK từ TQ, được cho là có thể có hiệu lực trong tuần này… Căng
thẳng thương mại Mỹ-Trung chưa tìm được lối thoát đang tác động
nặng nề không chỉ đối với nền KT 2 nước mà cả thế giới. Các chuyên
gia KT ước tính mỗi 100 tỷ USD hàng hóa NK bị đánh thuế có thể khiến
thương mại toàn cầu sụt 0,5%.
Vốn FDI vào Myanmar giảm
trong năm tài chính 2017-2018
Dù có sự gia tăng về khối lượng dự án đầu tư tại Myanmar nhưng tổng
giá trị vốn FDI vào nước này 900 triệu USD trong năm tài chính 2017-
2018 sv năm tài chính liền trước. Theo đó, năm tài chính 2017-2018,
Kinh tế Quốc tế
10
Myanmar đã phê duyệt tổng cộng 222 dự án với tổng giá trị đầu tư đạt
5,7 tỷ USD. Trong số đó, khoảng 1 tỷ USD là vốn đầu tư mở rộng từ các
dự án đang hoạt động (năm tài chính 2016-2017, Myanmar thu hút được 6,6
tỷ USD vốn FDI từ tổng cộng 135 dự án). Bên cạnh đó, tổng số các quốc
gia thực hiện đầu tư vào Myanmar năm tài chính 2017-2018 cũng tăng
sv năm trước. Tổng cộng đã có 28 quốc gia được phê duyệt đầu tư sv
25 quốc gia hồi 2016-2017. Được biết, khoảng 1/3 vốn đầu tư đã được
thực hiện vào lĩnh vực công nghiệp trong khi BĐS và XD, mỗi lĩnh vực
đã thu hút khoảng 22% vốn FDI. Tổng giá trị đầu tư trong nước là 3.500
tỷ Kyat, rót vào 119 DN mới trong năm tài chính 2017-2018. Khoảng
400 tỷ Kyat đã được rót vào các dự án đang hoạt động.
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://ndh.vn/nhnn-de-xuat-dat-room-ngoai-voi-cac-trung-gian-thanh-toan-phi-ngan-hang-
20180905122136748p4c149.news
http://ndh.vn/vdsc-ky-vong-lai-suat-tang-nhe-trong-2019-2018090611016131p4c149.news
http://ndh.vn/muc-tieu-than-toc-xu-ly-no-xau-hai-nam-toi-20180906100432786p149c165.news
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/ngan-sach-nha-nuoc-noi-lo-tu-so-lieu-khong-thong-nhat-20180906104037618.chn
http://cafef.vn/khong-tinh-dau-tho-dat-dai-thu-ngan-sach-8-thang-dat-thap-nhat-4-nam-
20180906205351034.chn
https://vietstock.vn/2018/09/ba-thach-thuc-lon-cua-cong-nghiep-viet-nam-768-627654.htm
https://www.stockbiz.vn/News/2018/9/6/843256/viet-nam-se-la-diem-den-hap-dan-de-dau-tu-kinh-
doanh-bat-dong-san.aspx
https://vietstock.vn/2018/09/co-cau-fdi-dau-tu-tai-viet-nam-30-nam-qua-761-627694.htm
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/09/jpmorgan-blackrock-canh-bao-ve-nguy-co-lan-truyen-tu-cac-thi-truong-
moi-noi-773-627571.htm
https://vietnambiz.vn/trung-quoc-canh-bao-se-phai-dap-tra-neu-my-ap-thue-moi-81724.html
https://vietstock.vn/2018/09/von-fdi-vao-myanmar-giam-khoang-900-trieu-usd-trong-nam-tai-chinh-
2017-2018-1326-627607.htm
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng trung ương NHTW
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Xuất khẩu XK
Kinh doanh KD Xuất nhập khẩu XNK
Nhà đầu tư NĐT Sản xuất kinh doanh SXKD
Nhà đầu tư nước ngoài NĐTNN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Việt Nam VN
Khách hàng cá nhân KHCN Trung Quốc TQ
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế KT Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Xã hội XH Thị trường chứng khoán TTCK
Khu vực KV Chứng khoán CK
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO