Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
DƢƠNG THỊ NGỮ
ĐỊA DANH CÓ THÀNH TỐ GỐC TIẾNG DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG
(Trên cứ liệu 4 huyện Chiêm Hóa, Lâm Bình, Nà Hang, Sơn Dƣơng)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 62 22 01 02
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
Công trình đƣợc hoàn thành tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM VĂN HẢO
Phản biện 1:………………………………………………
Phản biện 2:………………………………………………
Phản biện 3:……………………………………………….
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường
họp tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM - ĐẠI HỌC
THÁI NGUYÊN
Vào hồi…giờ…ngày…tháng… năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia;
- Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên;
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Dương Thị Ngữ (2015), "Một số địa danh lịch sử, văn hóa ở xã
Kiên Đài, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang", Tạp chí Ngôn
ngữ và Đời sống, số tháng 7.
2. Dương Thị Ngữ, (2016), Thành tố chung trong địa danh có nguồn
gốc tiếng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, Kỉ yếu Hội thảo
ngữ học trẻ toàn quốc.
3. Dương Thị Ngữ (2016), “Nà Lừa” hay “Nà Nưa”, Tạp chí Ngôn
ngữ và Đời sống, số tháng 4.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ học có nhiều chuyên ngành, trong đó có Địa danh
học (Toponymie), là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về nguồn
gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, phân bố và sử dụng của địa
danh. Nghiên cứu địa danh là tìm hiểu về các mặt của định danh,
đồng thời hiểu được ngôn ngữ, văn hóa của một vùng miền nói riêng
và của một dân tộc nói chung.
1.2. Tuyên Quang là tỉnh có nhiều tộc người sinh sống cộng cư,
trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 50% dân số của
toàn tỉnh. Nghiên cứu địa danh có yếu gốc tiếng dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang là tập trung tìm hiểu địa danh thuộc các nhóm ngôn
ngữ DTTS khác nhau, trong đó nhóm Tày, Nùng chiếm đa số. Địa
danh có thành tố gốc tiếng dân tộc thiểu số là những địa danh bằng
tiếng Việt, được hình thành từ gốc vốn là ngôn ngữ DTTS của cộng
đồng cư dân tại Tuyên Quang.
1.3. Hiện nay, việc nghiên cứu địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS ở tỉnh Tuyên Quang theo hướng ngôn ngữ học còn ít, chưa hệ
thống. Vì những lí do trên nên ch ng tôi chọn đề tài: Địa danh có
thành tố gốc tiếng dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang (trên cứ liệu 4
huyện: Chiêm Hóa, Lâm Bình, Nà Hang, Sơn Dương) để nghiên cứu.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: các địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS ở tỉnh Tuyên Quang.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu là khảo sát,
nghiên cứu các tư liệu địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh
Tuyên Quang.
2
3. Phƣơng pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp điều
tra điền dã và phương pháp miêu tả. Ngoài ra, luận án còn sử dụng
hướng tiếp cận liên ngành và một số thủ pháp khác.
4. Nguồn tƣ liệu của luận án: các tài liệu về kinh tế, văn hóa xã
hội của địa phương và nguồn tư liệu điền dã.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu: thông qua nghiên cứu địa danh có
thành tố gốc tiếng dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang, luận án góp
phần soi sáng vấn đề địa danh của lý luận ngôn ngữ và giải quyết vấn
đề chính tả địa danh trong thực tế.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: tìm hiểu các vấn đề lí luận xung quanh
địa danh học; khảo sát, điều tra điền dã hệ thống địa danh có thành tố
gốc tiếng DTTS ở các loại hình địa lý khác nhau trên địa bàn nghiên
cứu; miêu tả, thống kê, phân tích địa danh để làm rõ đặc điểm cấu tạo
và phương thức định danh địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh
Tuyên Quang; tìm hiểu sự phản ánh ý nghĩa của địa danh có thành tố
gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang; chỉ ra thực trạng cách viết, cách
đọc các địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang và
đề xuất một số giải pháp để sử dụng các địa danh một cách thống nhất
và viết đ ng chính tả trên các văn bản tiếng Việt.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: luận án góp phần vào việc làm giàu cho vốn tri
thức về địa danh học ở Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu địa
danh Việt có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang. Qua một số đặc
trưng của địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang qua
nghiên cứu đặc điểm của địa danh. Đồng thời, kết quả nghiên cứu sẽ là
tư liệu cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa của địa phương.
3
- Ý nghĩa thực tiễn: luận án gi p cho đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang hiểu rõ các đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ qua địa
danh có thành tố gốc tiếng DTTS trên chính quê hương mình. Luận
án góp phần làm phong ph thêm về mặt tư liệu văn hoá của DTTS
trên địa bàn toàn tỉnh. Ngoài ra, luận án góp phần cho việc biên soạn
sách Từ điển Bách khoa tên riêng Tuyên Quang, cho việc viết báo và
làm bản đồ về chuẩn hóa địa danh ở địa phương.
7. Bố cục của luận án
Luận án ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và
Phụ lục, nội dung chính bao gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận, thực
tiễn của đề tài.
Chƣơng 2: Đặc điểm địa danh có thành tố gốc tiếng dân tộc thiểu
số ở tỉnh Tuyên Quang.
Chƣơng 3: Thực trạng chính tả địa danh có thành tố gốc tiếng dân
tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CỞ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan nghiên cứu về địa danh
1.1.1. Trên thế giới
Trên cơ sở tìm hiểu, ch ng tôi trình bày những hướng nghiên cứu
về địa danh học trên thế giới với các tác giả được ghi danh như:
George R. Stewart, Richard Coates (Anh), Oliver Padel, Eilert Ekwall
(Mỹ), G.P.Smolicnaja, M.V.Gorbanevskij, A.V.Superanskaia (Nga)…
4
1.1.2. Ở Việt Nam
Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về địa danh ở Việt Nam như:
nghiên cứu địa danh theo hướng tiếp cận địa lý - lịch sử - văn hóa;
nghiên cứu địa danh theo hướng ngôn ngữ học. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu địa danh có thành tố gốc tiếng dân tộc thiểu số ở khu vực
miền n i Đông Bắc nước ta còn thưa vắng. Việc nghiên cứu địa danh
có thành tố gốc tiếng DTTS trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang thì chưa
có công trình nào.
1.2. Một số vấn đề về lý thuyết
1.2.1. Khái quát chung về định danh ngôn ngữ
Định danh (nomination) là sự chỉ định cho một đối tượng nào đó
một cái tên bằng từ ngữ, căn cứ để chỉ định là những đặc điểm của
chính đối tượng hay những đặc điểm liên quan đến đối tượng.
1.2.2. Khái niệm địa danh
Địa danh là những từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn
ngữ, được biểu thị bằng những từ riêng và phân ra thành những tiểu
loại là tự nhiên và nhân tạo. Ch ng có tên chung và tên riêng.
1.2.3. Phân loại địa danh
Cho đến hiện nay có 3 cách phân loại địa danh phổ biến là: phân
loại địa danh theo tiêu chí nội dung ý nghĩa của địa danh (đại diện
cho các phân loại này là các tác giả: G.L. Smolisnaja và M.V.
Gorbanevskij, A. V. Superanskaja); phân loại địa danh theo tiêu chí
“tự nhiên, không tự nhiên” (các tác giả có thể xướng danh là Nguyễn
Văn Âu, Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường, Từ Thu Mai, Phan
Xuân Đạm, Trần Văn Sáng); phân loại địa danh theo tiêu chí nguồn
gốc ngôn ngữ (có các tác giả: A. Dauzat, Ch. Rostaing, Lê Trung
5
Hoa, Trần Văn Sáng).
1.2.4. Chức năng của địa danh
Chức năng cá thể hóa các đối tượng và chức năng định danh sự
vật là chức năng quan trọng, thể hiện đ ng bản chất của địa danh.
Ngoài ra, địa danh còn mang giá trị văn hóa khi thực hiện chức năng
phản ánh hiện thực và bảo tồn những giá trị văn hóa.
1.2.5. Vị trí địa danh học trong ngôn ngữ học
Địa danh học thuộc Từ vựng học. Đối tượng nghiên cứu của địa
danh học chính là các từ ngữ được sử dụng để đặt tên, gọi tên đối
tượng địa lí.
1.2.6. Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học với văn hóa quan hệ hữu cơ, gắn
bó khăng khít. Biểu hiện của mối quan hệ này là ngôn ngữ được coi
là biểu hiện, là hiện thân, là biểu trưng của văn hóa.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Khái quát về tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là một tỉnh miền n i, thuộc khu vực Đông Bắc của
Việt Nam. Tuyên Quang là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc, nơi đây
tập trung hơn 22 dân tộc anh em, trong đó có 8 dân tộc có dân số đông
hơn cả là Kinh, Tày, Dao, Cao Lan, Nùng, Hoa, H'Mông, Sán Dìu.
1.3.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
1.3.2.1. Các dân tộc thiểu số
Các DTTS ở Tuyên Quang chủ yếu thuộc nhóm dân tộc nói ngôn
ngữ Tày, Nùng và nhóm ngôn ngữ Mông, Dao, trong đó, dân tộc
Tày, Nùng là dân cư chiếm số đông ở Tỉnh Tuyên Quang.
1.3.3.2. Đặc điểm khái quát các ngôn ngữ các tộc thiểu số
Các ngôn ngữ DTTS ở Tuyên Quang chủ yếu gồm nhóm Tày -
6
Nùng, thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái trong ngữ hệ Thái- Kađai;
tiếng Mông thuộc nhánh Mèo, tiếng Dao thuộc nhánh Dao, cả hai
thuộc họ Mèo - Dao. Cả hai nhóm ngôn ngữ DTTS chủ yếu ở
Tuyên Quang là ngôn ngữ có thanh điệu, đều thuộc loại hình ngôn
ngữ đơn lập, có những đặc điểm riêng về mặt ngữ âm, về từ ngữ và
về mặt chữ viết.
1.4. Tiểu kết
Trong chương này, luận án trình bày về Tổng quan, Cơ sở lý
thuyết và thực tiễn để nghiên cứu địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS ở Tuyên Quang.
Trong phần Tổng quan về vấn đề nghiên cứu, luận án tổng kết và
khái quát lại những hướng nghiên cứu chính về địa danh trên thế giới
và ở Việt Nam. Nghiên cứu về địa danh đã có từ lâu trên thế giới và
đã đạt được nhiều thành tựu. Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên
cứu về địa danh ở cả cấp độ vi mô và vĩ mô. Tuy nhiên, nghiên cứu
về địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang chưa có
công trình nào.
Trong phần cơ sở lý thuyết, luận án trình bày về lý thuyết địa
danh: khái niệm địa danh, phân loại địa danh, cấu tr c địa danh, chức
năng của địa danh, mối quan hệ giữa địa danh học và ngôn ngữ học
và cách tiếp cận, nghiên cứa địa danh dưới góc độ ngôn ngữ. Một số
nội dung được ch ng tôi hệ thống hóa chủ yếu như sau:
Thứ nhất, dựa trên nền tảng lý thuyết địa danh, luận án cho
rằng địa danh là những từ ngữ để gọi tên những đối tượng địa lý tự
nhiên hay không tự nhiên trong không gian. Địa danh có tác dụng
khu biệt, định vị những đối tượng địa lý và những đặc trưng của
7
đối tượng đó.
Thứ hai, địa danh học là một bộ phận của ngôn ngữ học, vì vậy,
nghiên cứu về địa danh cũng là công việc của ngôn ngữ học. Ngôn
ngữ học nghiên cứu địa danh ở mô hình cấu tr c, quá trình tạo dựng,
hình thành và phát triển địa danh; tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh,
sự biến đổi của các địa danh; chuẩn hóa các địa danh trong các văn
bản hành chính và trong tiếng Việt.
Thứ ba, về phân loại địa danh, tiêu chí “tự nhiên - không tự nhiên”
địa danh được phân chia thành địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa
danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành chính và địa danh chỉ
vùng. Về tiêu chí nguồn gốc ngôn ngữ, địa danh phân loại theo
những nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau, nhưng chủ yếu là nhóm ngôn
ngữ Tày - Nùng.
Trong phần giới thiệu địa bàn nghiên cứu, luận án trình bày những
nội dung cơ bản về địa bàn tỉnh Tuyên Quang ở những nét khái quát
nhất, trong đó tập trung vào những vấn đề về dân tộc, ngôn ngữ và
văn hóa của các DTTS làm cơ sở cho việc khai thác địa danh có
thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang. Địa bàn nghiên cứu
của luận án là 4 huyện: Chiêm Hoá, Lâm Bình, Nà Hang, Sơn
Dương, là các huyện thuộc vùng cao của tỉnh, nơi có đồng bào DTTS
sinh sống tập trung nhất. Luận án chủ yếu nghiên cứu địa danh có
thành tố gốc Tày - Nùng vì đây là ngôn ngữ của đồng bào DTTS
chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng các DTTS của tỉnh. Đồng
thời, trong các ngôn ngữ DTTS của tỉnh Tuyên Quang chỉ có tiếng
Tày- Nùng được sử dụng trong việc gọi tên địa danh DTTS trên các
tài liệu, tư liệu về kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh.
8
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA DANH CÓ THÀNH TỐ GỐC TIẾNG
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH TUYÊN QUANG
2.1. Dẫn nhập
2.2. Kết quả thu thập và phân loại địa danh có thành tố gốc dân
tộc thiểu số ở Tuyên Quang
2.2.1. Kết quả thu thập địa danh
Trong hệ thống địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên
Quang, các địa danh địa hình thiên nhiên có 481 địa danh, chiếm
40,9%; địa danh đơn vị dân cư có 449 địa danh, chiếm 38,18%; địa
danh chỉ công trình nhân tạo có 246 địa danh, chiếm 20,92%.
2.2.2. Phân loại địa danh
2.2.2.1. Phân loại địa danh dựa theo tiêu chí “tự nhiên - không tự nhiên”
Địa danh tự nhiên là những địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên,
gồm tên các địa hình n i, đèo, rừng, suối, khe. Địa danh không tự
nhiên là những địa danh chỉ các đơn vị dân cư như tên bản làng, xã,
huyện; địa danh chỉ các công trình xây dựng như di tích, hồ, đập,..;
địa danh chỉ công trình giao thông như cầu, bến.
2.2.2.2. Phân loại địa danh dựa theo tiêu chí ngôn ngữ
Trong 1176 địa danh luận án tìm hiểu, địa danh ghi bằng tiếng
Tày - Nùng có tỷ lệ lớn nhất, chiếm 95,32%; địa danh bằng tiếng
Mông có 11 địa danh, chiếm 0,94%; địa danh bằng tiếng Dao có 4
địa danh, chiếm 0,34%; bộ phận địa danh chưa xác định rõ nguồn gốc
có 40 địa danh, chiếm 3,4%.
2.3. Cấu trúc phức thể địa danh
Phức thể là thuật ngữ chỉ sự kết hợp từ hai hay nhiều thành phần
9
của sự vật, hiện tượng. Phức thể địa danh là sự kết hợp của những bộ
phận từ ngữ cấu tạo nên địa danh. Phức thể địa danh gồm hai bộ phận
là: thành tố chung (TTC) và thành tố riêng (TTR).
2.3.1. Cấu trúc của thành tố chung
2.3.1.1. Số lượng các thành tố chung
Luận án tập hợp và thống kê được 53 thành tố chung trong phức
thể địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang.
2.3.1.2. Đặc điểm cấu tạo của các thành tố chung
Trong số TTC chỉ loại hình đối tượng địa lí được định danh có 40
thành tố chung có cấu tạo một yếu tố. Các TTC có cấu tạo từ hai yếu
tố trở lên có 14 đơn vị, trong đó thành tố chung được cấu tạo bởi 2
yếu tố có 7 đơn vị; có 4 thành tố chung được cấu tạo gồm ba yếu tố;
có 2 thành tố chung được cấu tạo gồm năm yếu tố. Các thành tố
chung gồm nhiều yếu tố là địa danh các công trình nhân tạo và là
những từ tiếng Việt.
2.3.1.3. Nguồn gốc của các yếu tố trong thành tố chung
Trong tổng số 53 TTC đã thống kê, có 33 TTC gồm 1 yếu tố có
gốc là ngôn ngữ DTTS và chủ yếu là tiếng Tày, Nùng.
2.3.1.4. Chức năng của thành tố chung
a, Chức năng hạn định cho thành tố riêng
Trong phức thể địa danh, TTC là cái được hạn định và TTR là cái
hạn định. Nhờ có TTC mà các TTR được xác định rõ ràng và phân
biệt với các địa danh khác.
b, Chức năng chuyển hóa của thành tố chung
Ở vị trí thứ nhất của TTR, sự chuyển hóa ở nhóm địa danh địa
hình thiên nhiên xảy ra với mức độ cao với 238/391 lượt chuyển hóa
(chiếm 60,68%), nhóm địa danh đơn vị dân cư có mức độ thấp nhất
10
với 30/391 lượt chuyển hóa (chiếm 7,68%). Ở vị trí thứ hai của TTR,
nhóm địa danh địa hình thiên nhiên và địa danh công trình nhân tạo
có số lượt chuyển hóa bằng nhau 7/18 lượt (đều chiếm 38,98%), sự
chuyển hóa xảy ra ít hơn ở địa danh đơn vị dân cư với 4/18 lượt
chuyển hóa.
c. Khả năng kết hợp của các thành tố chung
Khả năng kết hợp của 53 TTC nhằm phản ánh không gian địa lý
đa dạng của địa bàn được thể hiện khá đa dạng. Trong đó, khả năng
kết hợp của TTC với TTR trong địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS
cao nhất ở loại hình địa danh địa hình thiên nhiên với 481 địa danh,
xảy ra thấp nhất ở địa danh công trình nhân tạo với 246 địa danh.
2.3.2. Cấu trúc của thành tố riêng
2.3.2.1. Cấu tạo của thành tố riêng
a, Số lượng các yếu tố của thành tố riêng
TTR trong địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS phổ biến nhất là
loại có hai yếu tố có 933/1176 địa danh, chiếm 77,63%, TTR một yếu
tố với 159/1176 địa danh chiếm 13,52%, TTR ba yếu tố với 84 địa
danh chiếm 7,1%.
b, Đặc điểm cấu tạo của thành tố riêng
b1, Thành tố riêng có cấu tạo đơn
TTR đơn tiết gồm có 159 địa danh, chiếm 14,39%, trong đó, tập
trung nhất ở nhóm địa danh địa hình thiên nhiên với 122 đơn vị
(chiếm 76,73%); địa danh đơn vị dân cư có 25 đơn vị (chiếm
15,72%); địa danh các công trình nhân tạo có 12 đơn vị (chiếm
7,55%).
b2, Thành tố riêng có cấu tạo phức
Các TTR có cấu tạo phức được xem xét ở mặt từ loại và quan hệ
11
ngữ pháp giữa các yếu tố.
2.4. Phƣơng thức định danh trong địa danh có nguồn gốc tiếng
DTTS ở tỉnh Tuyên Quang
2.4.1. Phương thức tự tạo
a) Định danh theo đặc điểm của đối tượng địa lý có 551 địa danh
(chiếm 46,85%). Các tiểu nhóm là: định danh theo đặc điểm về địa
hình của đối tượng; định danh được đặt theo đặc điểm về hình dáng
của đối tượng; định danh được đặt theo đặc điểm về kích thước của đối
tượng; định danh được đặt theo đặc điểm về màu sắc của đối tượng...
b) Định danh theo đặc điểm liên quan đến đối tượng địa lý có 295
địa danh (chiếm 25,08%). Các tiểu nhóm là: định danh dựa vào các
loài động thực vật; định danh theo đặc trưng vị trí, không gian của
đối tượng địa lý; định danh theo các loại khoáng sản có ở đối tượng;
định danh theo tín ngưỡng hoặc truyện cổ dân gian; định danh theo
tên riêng có liên quan trực tiếp đến đối tượng...
2.4.2. Phương thức chuyển hóa
2.4.2.1. Chuyển hóa trong nội bộ loại địa danh
+ Trong tổng số 246 địa danh chỉ công trình xây dựng có 130 địa
danh là kết quả của sự chuyển hóa, trong đó, chuyển hóa trong cùng
loại địa danh là 58 trường hợp, chiếm 23,58%.
+ Trong tổng số 449 địa danh hành chính có 34 lượt thành tố
chung chuyển hóa thành thành tố riêng, chiếm 7,57%, trong đó có 17
trường hợp chuyển hóa cùng loại hình địa danh, chiếm 1,44%.
2.4.2.2. Chuyển hóa giữa các loại địa danh
a. Nhóm địa danh địa hình thiên nhiên chuyển hóa sang các loại
hình địa danh khác
Có 245 trường hợp chuyển hóa, trong đó, chuyển hóa vào yếu tố
thứ nhất thành tố riêng có 238 trường hợp, chuyển hóa vào yếu tố
12
thứ hai trong thành tố riêng có 7 trường hợp. Thành tố chung
chuyển hóa thành thành tố riêng trong cùng loại địa danh chỉ địa
hình thiên nhiên có 36 trường hợp, chiếm 7,48% trong tổng số địa
danh địa hình thiên nhiên.
b. Nhóm địa danh đơn vị dân cư chuyển hóa sang các loại hình
địa danh khác
Địa danh đơn vị dân cư chuyển sang địa danh chỉ công trình xây
dựng có 12 trường hợp, chiếm 2,67%.
2.4.3. Đặc điểm định danh xét theo các kiểu ngữ nghĩa trong định
danh ngôn ngữ
Phương thức định danh xét các kiểu ngữ nghĩa trong định danh
ngôn ngữ có hai lối định danh là trong cùng loại địa danh sẽ chuyển
hóa một địa danh đã có sẵn theo lối ẩn dụ về hình thức và chuyển hóa
giữa các địa danh theo lối hoán dụ, tức là định danh một cách gián
tiếp. Trong tổng số 1176 địa danh DTTS ở Tuyên Quang có 201 địa
danh được định danh theo cách gián tiếp, chiếm 17,09%. Có 953 địa
danh (chiếm tới 81,37%) thuộc kiểu định danh theo lối trực tiếp.
2.5. Đặc trƣng văn hóa trong địa danh đƣợc thể hiện qua các
thành tố cấu tạo của địa danh
2.5.1. Đặc trưng văn hóa được thể hiện qua các thành tố chung
TTC chỉ các loại hình đối tượng địa lí tự nhiên khác nhau cho thấy
sự phong ph của địa hình thiên, cung cấp thông tin về đặc điểm cư
tr và nguồn gốc của cư dân bản địa và đặc điểm văn hóa sinh hoạt
của cộng đồng các dân tộc thiểu số.
2.5.2. Đặc trưng văn hóa được thể hiện qua thành tố riêng
2.5.2.1. Văn hóa sinh hoạt được thể hiện qua các TTR của địa danh
phản ánh đặc điểm nơi cư trú, sinh sống
Đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông, Cao Lan… sinh sống
13
khá gần gũi, xen kẽ với nhau, vì thế, họ đều mang những nét văn hoá
khá tương đồng trong việc lựa chọn nơi cư tr , sản xuất, khai thác
rừng và sinh sống. Điều đó phần nào được thể hiện qua các TTR
trong địa danh.
2.5.2.2. Văn hóa sản xuất thể hiện qua TTR
Các địa danh không chỉ hàm chứa ý nghĩa và hiện thực về địa bàn
cư tr mà còn cho biết về nghề nghiệp của cư dân bản địa. Với những
đặc điểm định danh, nghề nghiệp của đồng bào dân tộc thiểu số được
thể hiện khá rõ nét. TTR cho thấy Tuyên Quang là địa phương có nền
sản xuất nông, lâm nghiệp có từ lâu đời.
2.5.2.3.Văn hóa sinh hoạt gắn với tín ngưỡng của các tộc người
Tín ngưỡng là sự tín mộ của con người với một đối tượng siêu
nhiên nào đó với niềm tin đối tượng đó sẽ mang lại lợi ích về vật chất
hay tinh thần cho bản thân hay cho cả tộc người. Địa danh có thành
tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang với 9/134 địa danh di tích
lịch sử văn hóa (chiếm 6,71%) đã phản ánh tín ngưỡng của đồng bào
DTTS với đối tượng là những lực lượng siêu nhiên, một cá nhân có
công trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm hay những người có
công khai khẩn vùng đất và dạy nghề cho cư dân của bản làng
2.5.2.4. Sự thể hiện của phương diện văn hóa lịch sử trong TTR của
địa danh
Ở từng giai đoạn lịch sử, mỗi tên đất, tên làng ở Tuyên Quang,
đều mang trong mình những ý nghĩa văn hóa lịch sử nhất định.
2.5.2.5. Một số địa danh gắn với truyền thuyết dân gian thể hiện qua
TTR của địa danh
Từ xa xưa, sự hình thành nên từng ngọn n i con sông ở vùng đất
14
Tuyên Quang đã được giải thích trong những truyền thuyết dân gian.
Đây là những cách giải thích còn sơ khai, dễ hiểu của người xưa về
các địa danh, và qua truyền thuyết, ước mơ của con người được gửi
gắm vào các địa danh. Đằng sau những câu chuyện về các địa danh
này ta có thể thấy được tư duy, tâm lí, tín ngưỡng của con người đã
tạo ra truyền thuyết để lí giải địa danh. Đây cũng chính là một biểu
hiện của mối quan hệ giữa địa danh với văn hóa.
2.6.Tiểu kết
Luận án thu thập được 1176 địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS,
phân thành 3 loại hình địa danh: địa danh địa hình tự nhiên (481 địa
danh), địa danh đơn vị dân cư (449 địa danh), địa danh công trình
nhân tạo (246 địa danh).
Cấu tr c của địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên
Quang là một cấu tr c phức thể gồm có TTC và TTR.
Địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang có hai
phương thức định danh là phương thức tự tạo và phương thức chuyển
hóa. Định danh theo phương thức tự tạo có 953 địa danh, chiếm tới
81,37%. Phương thức chuyển hóa giữa các loại địa danh tạo nên một
cấu tr c địa danh tầng bậc, lồng ghép trong địa danh có thành tố gốc
tiếng DTTS (có 409 lượt chuyển hóa của các địa danh, trong đó, chủ
yếu là TTC chuyển hóa thành TTR ở vị trí thứ nhất (391 lượt) hoặc vị
trí thứ hai (18 lượt) trong địa danh.
Nghiên cứu địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên
Quang ở góc độ ngôn ngữ - văn hóa đã cho thấy được các đặc trưng
của văn hóa được thể hiện qua các yếu tố trong địa danh có thành tố
gốc tiếng DTTS.
15
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG CHÍNH TẢ ĐỊA DANH CÓ THÀNH TỐ GỐC
TIẾNG DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TUYÊN QUANG
3.1. Dẫn nhập
3.2. Thực trạng sử dụng địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở
tỉnh Tuyên Quang
3.2.1. Tình hình chung về sử dụng địa danh
Trong tổng số 1176 địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS có 794
địa danh dùng thống nhất trong các văn bản, bản đồ khảo sát (chiếm
67,52%), trong đó, sự thống nhất tập trung cao nhất khu vực văn bản
tiếng Việt với 458 địa danh, chiếm 38.95% trong tổng số địa danh.
Số còn lại là các địa danh được sử dụng chưa thống nhất.
3.2.2.Các địa danh sử dụng thống nhất
Loại hình địa danh được sử dụng thống nhất chiếm số lượng lớn
nhất là nhóm địa danh địa hình thiên nhiên với 389 địa danh, chiếm
49,0%. Nhóm địa danh đơn vị dân cư có số lượng địa danh sử dụng
thống nhất ít nhất trong ba loại hình với 176 địa danh, chiếm 22,16
%. Nhóm địa danh công trình nhân tạo ở vị trí thứ hai với 229 địa
danh, chiếm 28,84%.
3.2.3.Các địa danh sử dụng không thống nhất
3.2.3.1. Không thống nhất về ngữ âm
a. Ghi âm đầu không thống nhất: luận án khảo sát các trường hợp:
viết không thống nhất chữ “b” với một số chữ khác; nhầm lẫn phụ âm
đầu do lỗi chính tả; không thống nhất giữa “ch” với “tr”; không thống
nhất giữa chữ “p” với chữ “ph”.
b. Ghi các âm chính không thống nhất: luận án khảo sát các
trường hợp viết không thống nhất: chữ “a” với chữ “ă”; chữ “a”
16
không thống nhất với “â”; chữ “ă” với “â” không thống nhất chữ
“o” và “oo”; nhầm lẫn giữa “oo” hay “o” và “ô”; không thống nhất
nguyên âm đôi “uô” và “u”.
c. Ghi âm cuối không thống nhất: luận án khảo sát các trường hợp
viết không thống nhất: “t -c”; “o” và “u”.
d. Ghi thanh điệu không thống nhất: luận án kháo sát sự không
thông nhất trong cách viết thanh ngã, thanh hỏi với một số thanh điệu
khác.
3.2.3.2. Không thống nhất về từ vựng
Quá trình quốc ngữ hóa các địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS
đã chuyển tự dạng của địa danh gốc DTTS sang tiếng Việt. Như đã
biết, giữa tiếng DTTS và tiếng Việt có những sự khác biệt nhất định.
Hơn nữa, trong giao tiếp, người ta sử dụng đồng thời địa danh DTTS
và địa danh đã được dịch nghĩa sang tiếng Việt. Vì thế, việc chuyển
tự các địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang đã khiến
cho ch ng được viết không thống nhất về từ vựng.
3.3. Một số nguyên nhân và giải pháp
3.3.1. Nguyên nhân của cách viết không thống nhất
3.3.1.1. Nguyên nhân ngữ âm
Ngữ âm địa phương là một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến cách viết địa danh không thống nhất. Thứ nhất, do
phiên âm địa anh DTTS nên xảy ra hiện tượng phổ thông hóa những
địa danh này cho dễ đọc theo khuôn âm tiếng phổ thông nên có một
số địa danh có độ chệch âm nhất định. Ví dụ: lán Nà Lừa và lán Nà
Nưa, rừng Nà Loáng và rừng Nà Loóng,v,v. Thứ hai, do một số địa
danh có thành tố gốc tiếng DTTS gây khó khăn cho người Việt trong
cách phát âm, vì vậy, mượn âm được thực hiện để dựa vào một từ có
17
ngữ âm tiếng Việt nghe gần giống với địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS để gọi tên địa danh đó. Ví dụ: đèo Gà và kéo Khà, đèo Cổ
Yểng và khuổi Diểng, v,v.
3.3.1.2. Nguyên nhân về mặt từ vựng, ngữ nghĩa
a. Sự trùng lặp về nghĩa
Khi phiên âm và chuyển tự các địa danh có thành gốc tiếng
DTTS sang tiếng Việt xảy ra hiện tượng trùng lặp về nghĩa. Ví dụ:
một số địa danh đã được dịch thừa yếu tố như “kéo” (đèo), pù/khau
(n i, rừng), nậm (sông, suối), tát (thác).... tham gia cấu tr c địa danh
cùng với các thành tố chung tương ứng trong tiếng Việt, ch ng trở
nên bị dư thừa, ví dụ: núi Pù Kéo Liêng (n i, n i, đèo, diều), núi
Khau Cuôm (n i, n i, đội), đèo Kéo Mác (đèo, đèo quả), v,v… Việc
dịch nghĩa địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS sang tiếng Việt cho
dễ sử dụng đã làm cho một số địa danh có sự sai khác, thậm chí khác
xa so với tên ban đầu, địa danh thôn Đồng Vàng hiện nay được dịch
nghĩa từ bản Lình Vèng trước kia).
b. Thói quen rút gọn từ
Thói quen tiết kiệm ngôn ngữ là nguyên nhân của hiện tượng
r t gọn địa danh. Đó là việc r t gọn ở những địa danh có thành tố gốc
tiếng DTTS đã được người Việt dịch ra tiếng Việt. Đồng thời, r t gọn
xảy ra với những địa danh gồm có hai từ (trở lên) đứng cạnh nhau, từ
nhấn mạnh tính chất, đặc điểm của đối tượng thì được giữa lại, từ
chung thì thường bị r t gọn. Thứ nhất, r t gọn ở những địa danh có
thành tố gốc tiếng DTTS đã được người Việt dịch ra tiếng Việt. Đồng
bào DTTS vẫn sử dụng cách gọi của mình để gọi những địa danh
18
thân thuộc, tức là chỉ gọi địa danh theo đ ng từ ngữ DTTS, bỏ qua
phần dịch nghĩa (do sự “dịch thừa”). Ví dụ: núi Pù Tát (CH) (n i,
n i, thác) r t gọn thành pù Tát (n i thác), đèo Kéo Bụt (CH) → đèo
Bụt, thôn Bản Khe (NH) (thôn, thôn, chài) → bản Khe (thôn chài),
v,v. Thứ hai, r t gọn xảy ra với những địa danh gồm có hai từ (trở
lên) đứng cạnh nhau, từ nhấn mạnh tính chất, đặc điểm của đối tượng
thì được giữa lại, từ chung thì thường bị r t gọn. Ví dụ: thôn Nà Nhoi
(NH) (thôn, ruộng, con ve rừng ) bị r t gọn thành thôn Nhoi, thôn
Đồng Luộc (CH) (thôn, rừng, khe heo h t)→ bản Luộc (thôn, heo
hút),
3.3.2. Một số giải pháp
3.3.2.1. Một số nguyên tắc
a. Đảm bảo đúng về mặt ngữ nghĩa của địa danh
b. Bám sát cách ghi của chữ Quốc ngữ
c. Đảm bảo thói quen của cộng đồng ngôn ngữ
3.3.3.2. Các giải pháp cụ thể
a.Cách ghi âm đầu: các phụ âm “mj”, “bj”, “phj”, “pj” trong tiếng
Tày, Nùng khi sau ch ng có âm “i” (mềm hoá) được chuyển sang
tiếng Việt là “b”, “m”, “p”, “ph”, là những chữ ghi âm tương ứng;
Dùng các chữ cái “ph” trong tiếng Việt ghi lại âm “f” trong tiếng
Tày; Đối với tổ hợp phụ âm “sl” trong tiếng Tày, Nùng, dùng chữ
“s” để thể hiện ch ng; Trong ngôn ngữ Tày - Nùng, không có chữ ghi
âm quặt lưỡi như trong tiếng Việt, vì thế, ch ng tôi đề nghị dùng
“ch” thay cho “tr” trong tiếng Tày, Nùng.
b. Cách ghi âm đệm: Trong tiếng Tày, âm đệm /w/ được viết là
con chữ “o” hoặc “u”, giống trong tiếng Việt.
19
c. Cách ghi âm chính: ở nguyên âm có sự khác biệt trong cách
viết địa danh, việc chuẩn hóa địa danh cần sử dụng chữ cái hoặc tổ
hợp các chữ cái của bộ chữ tiếng Việt để ghi nguyên âm tương ứng
hoặc nguyên âm có cách đọc gần đ ng với địa danh nguyên ngữ.
d. Cách ghi âm cuối: âm cuối “ư” trong tiếng Tày cần thay bằng
âm cuối tương ứng “u”. Ngoài ra, trong tiếng Tày, Nùng, phụ âm /j/
được viết là “i” ở vị trí âm cuối mà trước nó là các nguyên âm dài;
viết là “y” ở vị trí âm cuối mà trước nó là nguyên âm ngắn â, a, ă, o.
Cần phiên chuyển những địa danh này theo đ ng quy tắc chính tả
tiếng Việt.
e. Cách ghi thanh điệu: khi phiên chuyển địa danh Tày sang tiếng
Việt, hệ thống dấu thanh của chữ Quốc ngữ được sử dụng sao cho có
thể mô phỏng một cách tương đối thanh điệu các âm tiết trong các
ngôn ngữ Tày.
f. Nhận xét địa danh trong danh sách đề nghị phiên chuyển
Ch ng tôi đã đề nghị ghi chép nhất quán trong tiếng Việt khoảng
382 trường hợp có cách viết chưa thống nhất. Nhìn chung, nếu giải
quyết được như vậy, cách ghi địa danh Tày, Nùng sẽ dần đi vào
thống nhất về chính tả.
3.4. Tiểu kết
Qua nghiên cứu 1176 địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh
Tuyên Quang, luận án đã thống kê được 382 trường hợp các địa danh
dùng không thống nhất (chiếm 32,48%), từ đó đề xuất những biện
pháp cụ thể để những địa danh này có thể được dùng hợp lý và thống
nhất. Dưới đây là một vài nhận xét:
Cách viết địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên
Quang không thống nhất ở cả hai mặt: mặt ngữ âm và mặt từ vựng.
20
Trước thực trạng trên, vấn đề xử lý những địa danh có thành tố gốc
tiếng DTTS trở nên cấp bách. Vì vậy, các nguyên tắc phiên chuyển
địa danh như: đảm bảo đ ng về mặt ngữ nghĩa của địa danh, bám sát
cách ghi của chữ Quốc ngữ, đảm bảo thói quen của cộng đồng ngôn
ngữ nhằm chuẩn hóa địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS, đồng thời
tạo những thuận lợi trong giao tiếp.
Với những nguyên tắc trên, việc lựa chọn các giải pháp để phiên
chuyển các địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS sang tiếng Việt
được áp dụng với những trường hợp cụ thể theo nguyên tắc chuẩn
hóa chính tả tiếng Việt.
Tuy vậy, cần bảo lưu những địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS
có từ lâu đời, có giá trị lịch sử văn hóa gắn liền với tộc người DTTS
ở Tuyên Quang hay gắn bó với tiến trình lịch sử dân tộc, hoặc những
địa danh không chuẩn so với tiếng phổ thông nhưng do thói quen sử
dụng của cộng đồng người bản ngữ. Những địa danh này chính là
những “tấm bia” bằng ngôn ngữ phản ánh lịch sử, văn hóa của dân
tộc, nó tồn tại theo quy luật riêng.
KẾT LUẬN
1. Trong tổng số 1176 địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở
Tuyên Quang luận án nghiên cứu, chiếm số lượng lớn nhất là địa
danh chỉ địa hình thiên nhiên với 481 địa danh, chiếm 40,9%,
những địa danh này ít xuất hiện trên bản đồ mà tồn tại nhiều trong
giao tiếp phi chính thức của đồng bào DTTS; nhóm địa danh đứng
vị trí thứ hai là tên địa danh xã thôn với 449 địa danh, chiếm
38,18%, nhóm địa danh nhân tạo chiếm số lượng ít nhất vố 246 địa
danh, chiếm 20,92%.
2. Về đặc điểm cấu tạo, địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở
21
tỉnh Tuyên Quang cũng như các địa phương khác có cấu tạo là một
phức thể. Mô hình cấu tr c địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở
tỉnh Tuyên Quang gồm có thành tố chung và thành tố riêng. Yếu tố
DTTS có ở cả hai thành tố này. Thành tố chung đứng trước thành tố
riêng và là cái được hạn định cho đối tượng địa lí. Thành tố chung có
sự hoạt động linh hoạt trong phức thể địa danh bởi nó còn có khả
năng chuyển hóa vào địa danh với những vị trí khác nhau. Khi địa
danh chứa thành tố chung chuyển hóa thì ch ng tạo thành một địa
danh mới, khiến địa danh có kết cấu tầng bậc, lồng ghép.
Địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang có 53
thành tố chung, trong đó, địa danh địa hình thiên nhiên chiếm đa số
(với 30 thành tố chung) và chủ yếu là thành tố có cấu tạo đơn. Vì thế,
thành tố chung có thể chuyển hóa vào thành thành tố riêng, chủ yếu
chuyển hóa vào vị trí thứ nhất của thành tố riêng. Ở các loại hình địa
danh đơn vị dân cư và công trình nhân tạo, số lượng các thành tố
chung ít (15 thành tố chung). Thành tố chung là tiếng DTTS có 33
đơn vị và chủ yếu là một yếu tố, vì thế, ch ng chuyển hóa thành các
thành tố riêng trong phức thể địa danh là phổ biến.
Thành tố riêng trong địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh
Tuyên Quang có hai kiểu cấu tạo là cấu tạo đơn và cấu tạo phức,
trong đó cấu tạo phức, tình trạng song tiết chiếm đại đa số. Xét về
quan hệ ngữ pháp thì các thành tố riêng có cấu tạo phức có quan hệ
đẳng lập, chính phụ, trong đó kiểu quan hệ chính phụ chiếm ưu thế
(84,37%). Các yếu tố chính trong thành tố riêng thường là danh từ,
một số bản thân ch ng là thành tố riêng, một số do sự chuyển hóa từ
thành tố chung. Mô hình phổ biến nhất là “nà +x” (162 trường hợp),
tiếp đó là mô hình “pù + x”, “khau + x”.
22
3. Về phương thức định danh, địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS ở tỉnh Tuyên Quang có hai phương thức định danh là phương
thức tự tạo và phương thức chuyển hóa. Phương thức định danh theo
lối tự tạo định danh dựa trên hai cơ sở chính là đặc điểm của đối
tượng địa lý và đặc điểm liên quan đến đối tượng địa lý. Phương thức
định danh bằng cách chuyển hóa đã khiến cho nhiều thành tố chung
trong địa danh được chuyển thành thành tố riêng trong địa danh. Điều
này xảy ra khá phổ biến trong địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở
tỉnh Tuyên Quang bởi khi quốc ngữ hóa tiếng DTTS có nhiều yếu tố
bị “dịch thừa” như: n i + pù/khau/pja (n i) + thành tố riêng; suối
+khuổi (suối) + thành tố riêng... Các địa danh l c này là một ngữ.
Điều đó cũng liên quan đến hiện tượng một địa danh chỉ nhiều loại
hình khác nhau. Cùng một địa danh, nhưng vừa được cấu tạo cho tên
n i (pù), vừa được cấu tạo cho tên suối (khuổi), lại vừa được cấu tạo
cho tên thôn (bản) và cho cả những địa danh liên quan như cầu, đập,
v,v. Đây vừa là sự chuyển hóa trong nội bộ địa danh, vừa là sự
chuyển hóa giữa các loại địa danh. Cách chuyển hóa này phù hợp với
việc tiết kiệm ngôn ngữ và quy luật dễ nhận biết trong các địa danh
có thành tố gốc tiếng DTTS ở tỉnh Tuyên Quang. Điều này cũng
giống như các địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS tại các vùng khác
ở Việt Nam.
4. Về đặc điểm ngữ nghĩa, địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS
có ý nghĩa như từ, tuy nhiên, ý nghĩa của địa danh luôn có tính lí do.
Tính lý do có thể do chủ thể định danh quy định theo cách võ đoán,
cũng có thể do đặc điểm dễ nhận biết, đặc điểm nổi trội liên quan đến
đối tượng định danh. Ý nghĩa của địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS ở Tuyên Quang thường rõ ràng với những địa danh có tính lý
23
do. Với những địa danh chưa rõ ràng về nghĩa, việc tìm hiểu sự bị
biến đổi của địa danh gi p cho việc xác định nghĩa dễ dàng hơn. Tuy
nhiên, đây là công việc phức tạp và công phu. Ý nghĩa của các địa
danh có thành tố gốc tiếng DTTS cho biết về nguồn gốc địa danh để
hiểu sâu về địa danh với những đặc điểm địa lí, lịch sử, văn hóa, tộc
người có liên quan.
5. Về mối quan hệ giữa địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS với
văn hóa: địa danh là một bộ phận của ngôn ngữ, vì thế, có mối quan
hệ hữu cơ với văn hóa. Địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS cũng
chịu sự chi phối của yếu tố văn hóa. Điều đó được thể hiện ở các địa
danh hàm những ý nghĩa văn hóa, mang dấu ấn tộc người đặt ra nó
trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định. Giữa các nhóm ý nghĩa mà địa
danh phản ánh và các đặc điểm văn hóa được thể hiện trong địa danh
luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Qua đó thấy được đặc điểm địa
lí, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, nguyện vọng, tâm lí ứng xử của con
người được phản ánh qua địa danh.
Địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang còn phản
ánh sự tiếp x c ngôn ngữ - văn hóa của những tộc người khác nhau
trên địa bàn. Điều đó thể hiện ở sự vay mượn hoặc ảnh hưởng giữa
các ngôn ngữ trong định danh. Địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS
được tri nhận qua những lớp ngôn ngữ của tộc người bản ngữ, của
tộc người DTTS khác, của người Kinh. Vì thế, những địa danh này
có thể bị ”Kinh hóa” (một phần hay hoàn toàn) về mặt ngữ âm (trệch
âm) hay ngữ nghĩa (dịch nghĩa) và khiến cho nhiều địa danh DTTS
được dùng không thống nhất về tên gọi.
6. Việc Quốc ngữ hóa địa danh có thành tố gốc tiếng DTTS có từ
những năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945, đặc biệt là những
24
năm sáu mươi của thế kỉ XX, nhưng hiện nay, các địa danh có thành
tố gốc tiếng DTTS chưa thực sự thống nhất. Thực trạng sử dụng địa
danh có thành tố gốc tiếng DTTS ở Tuyên Quang không thống nhất
là 382 trường hợp (chiếm 34,48%), xuất hiện ở cả mặt từ vựng (109
trường hợp, chiếm 28,53%) và mặt ngữ âm (273 trường hợp, chiếm
71,47%). Sự thiếu nhất quán trong cách viết, các đọc địa danh có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân ngôn ngữ và những
nguyên nhân xã hội, lịch sử. Nguyên nhân chủ yếu là do sự khác biệt
về ngữ âm, từ vựng giữa ngôn ngữ DTTS với tiếng Việt. Để góp
phần cho việc các địa danh được sử dụng thống nhất, luận án đưa ra
một số nguyên tắc phiên chuyển và một số giải pháp mang tính chất
đề xuất, trong đó, cần đảm bảo ngữ nghĩa của địa danh có thành tố
gốc tiếng DTTS hoặc sát với cách ghi của chữ Quốc ngữ và phù hợp
với thói quen sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng. Khi phiên chuyển địa
danh DTTS sang tiếng Việt phải phù hợp với bộ chữ và cách đọc của
tiếng Việt. Đối với các các tổ hợp phụ âm đầu, nguyên âm, phụ âm
cuối, dấu thanh không có trong chính tả tiếng Việt thì chọn cách ghi
các âm gần đ ng tương ứng để viết địa danh có thành tố gốc tiếng
DTTS. Kết quả này sẽ góp phần cho việc sử dụng địa danh được
thống nhất nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin chính xác, nhanh chóng
và phù hợp với tập quán định danh của người bản địa, hợp lý trong
cách ghi tiếng Việt. Đây sẽ là những đóng góp cho những nghiên cứu
về địa danh, về ngôn ngữ, văn hóa của địa bàn.