Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
5
MỤC LỤC
BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC CÁN BỘ TRẺ CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TOÀN QUỐC LẦN THỨ VIII -
NĂM 2020 ...................................................................................................... 15
BAN KHOA HỌC TỰ NHIÊN
1. ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN EDWARDSIELLA ICTALURI TRÊN
CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) GIAI ĐOẠN CÁ HƢƠNG
20 NGÀY TUỔI BẰNG FLORFENICOL, AMPICILLIN ............................ 20
Trần Thị Phƣơng Dung, Huỳnh Thị Trúc Quân,
Nguyễn Thị Thảo Sƣơng
2. THE UNIFORMLY AVAILABLE APPROXIMATION FOR THE
STATIONARY STATES OF THE TWO-QUBIT QUANTUM RABI
MODEL .......................................................................................................... 30
Nguyen Quang San, Dung Van Lu
3. KHẢO SÁT ẢNH HƢỞNG CỦA NỒNG ĐỘ Ce LÊN CÁC ĐẶC
TRƢNG QUANG HỌC CỦA VẬT LIỆU BaAl2O4: Ce ............................... 37
Lê Vũ Trƣờng Sơn, Phan Liễn, Trịnh Ngọc Đạt, Trần Thị Thanh Nhàn,
Đinh Thanh Khẩn, Lê Văn Thanh Sơn, Đặng Ngọc Toàn
4. XÁC ĐỊNH LƢỢNG VẾT ĐỒNG TRONG LÁ CÂY RAU NGÓT
(Sauropus androgynus) TRỒNG Ở KHU VỰC HUYỆN QUẢNG NINH,
TỈNH QUẢNG BÌNH BẰNG PHƢƠNG PHÁP QUANG PHỔ HẤP
THỤ NGUYÊN TỬ ........................................................................................ 46
NCS. Nguyễn Mậu Thành
5. NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI CÁ TẠI RỪNG DỪA NƢỚC
XÃ BÌNH PHƢỚC, HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI ............... 54
Hoàng Minh Thiện, Nguyễn Văn Khánh
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
7
15. NHÂN VẬT NGƢỜI EM ÚT TRONG TRUYỆN KỂ KÂN TƢI
AKỌ A KỤT CỦA ĐỒNG BÀO PA CÔ A LƢỚI, THỪA THIÊN HUẾ .... 156
Nguyễn Thị Hƣơng
16. HOẠT ĐỘNG GIAO THÔNG VẬN TẢI TRÊN CÁC TUYẾN
ĐƢỜNG BỘ QUỐC GIA VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM THỜI
PHÁP THUỘC (1897-1945) ........................................................................ 165
ThS. NCS. Nguyễn Thị Hòa
17. HOẠT ĐỘNG TRONG PHONG TRÀO DÂN TỘC, DÂN CHỦ
CỦA TƢ SẢN NGƢỜI VIỆT Ở NAM KỲ (1919 - 1929) .......................... 176
Nguyễn Thế Hồng
18. HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ KIÊN ĐỊNH LÝ TƢỞNG ĐỘC LẬP
DÂN TỘC ..................................................................................................... 187
Ngô Bá Khiêm
19. NÉT ĐẶC SẮC CỦA NỀN NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG
THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH - GÓC NHÌN TỪ HAI CUỘC CHIẾN ............ 196
NCS. ThS. Đặng Văn Khoa, Đoàn Thị Dung
20. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH CAI TRỊ
CỦA NỮ HOÀNG ELIZABETH I Ở ANH (1558-1603) ............................ 204
ThS. Nguyễn Trà My
21. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG
VÀ AN NINH GÓP PHẦN GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO
SINH VIÊN HIỆN NAY .............................................................................. 214
Nguyễn Linh Phong
22. CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH TỪ GÓC NHÌN
LIÊN VĂN BẢN: TRƢỜNG HỢP NGUYỄN NHẬT ÁNH....................... 222
Hoàng Hữu Phƣớc
23. GIẢI MÃ SỰ KHÁC BIỆT CỦA CÁC MOTIF TRONG “TẤM
CÁM” (TRUYỆN CỔ VIỆT NAM) VÀ “LỌ LEM” (TRUYỆN CỔ
GRIM) DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA ........................................................ 232
Hoàng Hữu Phƣớc
Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ VIII - năm 2020
222
CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH TỪ GÓC NHÌN
LIÊN VĂN BẢN: TRƢỜNG HỢP NGUYỄN NHẬT ÁNH
HOÀNG HỮU PHƢỚC
Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế
Email: [email protected]
Tóm tắt: Chuyển thể từ văn học sang điện ảnh đã có lịch sử khá lâu
đời, tuy nhiên, giới nghiên cứu vẫn còn đang băn khoăn tìm ra một
hệ lí thuyết để có thể khai thác khoa học và hiệu quả hiện tƣợng này.
Nghiên cứu sự chuyển thể giữa văn học và điện ảnh từ góc độ liên
văn bản là một trong những phƣơng án khả thi. Bài báo sẽ: Chỉ ra
các điểm tựa lí thuyết, nghiên cứu quá trình chuyển thể từ trƣớc,
trong, và sau khi tác phẩm chuyển thể ra đời, chỉ ra những điều học
hỏi và sáng tạo của điện ảnh từ văn học. Hi vọng, đây sẽ là tài liệu
hữu ích, mở ra những hƣớng nghiên cứu triển vọng và có tính ứng
dụng trong tƣơng lai.
Từ khóa: Chuyển thể, liên văn bản, văn học, điện ảnh, Nguyễn Nhật Ánh.
1. ĐIỂM TỰA LÍ THUYẾT
- Liên văn bản: J. Kristeva quan niệm “bất cứ sự viết thành một văn bản nào
cũng đều giống nhƣ sự tạo thành một bức tranh nhiều màu sắc, bất cứ một văn bản
nào cũng đều hấp thu và chuyển đổi với các văn bản khác” [4]. Nhƣ vậy, liên văn
bản (intertextuality) chú trọng các ảnh hƣởng giữa văn bản và các văn bản ngoại
tại, tất cả các ngữ cảnh, bất luận là chính trị, lịch sử, xã hội, tâm lí, nghệ thuật đều
có thể thành quan hệ “liên văn bản” với văn học. Mỗi văn bản đều là sự kết nối
của các văn bản khác (nội văn học và ngoại văn học), mỗi văn bản đều là sự hấp
thu và chuyển đổi các văn bản khác. Sự tham chiếu lẫn nhau giữa các văn bản đã
hình thành nên một mạng lƣới kết cấu có tính mở rộng, cấu thành hệ thống cực
lớn bao gồm các văn bản từ quá khứ, đến hiện tại, tƣơng lai, từ nội văn bản đến
ngoại văn bản, từ nội văn học đến ngoại văn học. Chính vì vậy, thuyết liên văn
bản hoàn toàn phù hợp khi nghiên cứu sự chuyển thể giữa văn học với điện ảnh.
- Bản chất vấn đề nghiên cứu vấn đề chuyển thể dƣới góc nhìn liên văn bản:
Thực chất, đây là công việc nghiên cứu tác phẩm văn chƣơng trong mạng lƣới tác
phẩm nguồn và tác phẩm cải biên, bởi vì liên văn bản không chỉ phản ánh bản
chất của các loại văn bản mà còn cho thấy mối tƣơng tác đa dạng, phức tạp giữa
chúng, làm sang tỏ bối cảnh văn hóa mà ở đó, các văn bản không ngừng cộng
hƣởng với nhau, đối thoại với nhau để ngày càng sống động hơn.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
223
Cả văn học và điện ảnh đều là những loại hình nghệ thuật phổ biến, có tác động
lớn đến ý thức xã hội nên đòi hỏi phải đƣợc nghiên cứu đúng đắn dƣới ý thức của
lí thuyết hiện đại.
- Cách khai thác một tác phẩm chuyển thể dƣới góc nhìn liên văn bản: Tác
giả Lê Thị Dƣơng trong công trình “Chuyển thể Văn học - Điện ảnh - nghiên cứu liên
văn bản” đã chỉ ra cách thức nghiên cứu hiện tƣợng một hiện tƣợng chuyển thể trên
hai phƣơng diện: chuyển thể trung thành với nguyên tác và chuyển thể tự do. Đây là
công trình lớn và tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu chuyển thể văn học - điện ảnh.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu phân chia các luận điểm nhƣ thế để khai triển vấn đề
gặp một số khó khăn: 1. Không nêu bật đƣợc bản chất của liên văn bản trong quá
trình nghiên cứu; 2. Rất khó xác định ranh giới giữa một chi tiết đƣợc xem là “trung
thành” hay “tự do” giữa tác phẩm chuyển thể và nguyên tác; 3. Bỏ qua yếu tố ngƣời
đọc kiến tạo nên nghĩa, là “đồng tác giả” của tác phẩm, chỉ chú trọng đến quá trình
sáng tạo của nhà văn/ đạo diễn.
Chúng tôi đề xuất một cách khai triển mới, dựa trên những luận điểm của Linda
Hutcheon (Routledge, Chapman & Hall, Incorporated, 2006) trong công trình A
theory of Adaptation (Lí thuyết về chuyển thể), trên cơ sở những lập luận mang
tính biện chứng, tác giả đã soi chiếu từ cái nhìn kép: chuyển thể với tƣ cách là quá
trình (sự diễn giải đầy sáng tạo/ sự sáng tạo có tính diễn giải của tác giả chuyển
thể); chuyển thể với tƣ cách là sản phẩm (sự chuyển mã đƣợc công bố, bao quát
và cụ thể).
Với tƣ cách là một quá trình, tức là ngƣời nghiên cứu sử dụng liên văn bản để lí
giải mối quan hệ giữa một văn bản này với văn bản khác, đặc biệt là với những
văn bản đƣợc trích dẫn, bắt chƣớc, ám chỉ, viết lại... trong khi lí giải một văn bản
cụ thể, chú trọng nghiên cứu những yếu tố cấu trúc mang tính cố định. Nghiên cứu
phƣơng diện này gắn với ngƣời tạo sinh sản phẩm (nhà văn/ biên kịch - đạo diễn).
Với tƣ cách là sản phẩm, tức là khảo sát tác phẩm văn học và tác phẩm phim trong
mối quan hệ với lịch sử xã hội (văn bản lịch sử xã hội), nhƣ vậy nghiên cứu văn
học đƣợc triển hạn thành nghiên cứu văn hóa, coi mọi văn bản đều là liên văn bản,
có mối liên hệ với ngữ cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội - môi sinh tồn tại của văn
bản. Nghiên cứu phƣơng diện này gắn với ngƣời tiếp nhận sản phẩm (độc giả -
khán giả).
- Phong cách và tƣ duy nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh: Văn phong Nguyễn
Nhật Ánh có đặc điểm: là tác phẩm văn học ngƣời lớn viết cho thiếu nhi, chiêm
nghiệm về quá khứ chứ không cố hóa thân thành trẻ em để miêu tả. Vì vậy, nó
đƣợc kể lại bằng các hồi ức thật, ông từng nói: “Các tác phẩm hƣ cấu, chúng sẽ
rất đẹp, nhƣng cũng rất giả tạo, không chạm đến trái tim ngƣời đọc. Tôi viết bằng
những kỉ niệm thật chạy qua trong đầu tôi nhƣ những thƣớc phim chiếu lại cảnh
ngày thơ ấu, mà chắc không chỉ riêng tôi, ai cũng sẽ có những lúc nhƣ vậy, chẳng
qua là họ không có điều kiện viết thành văn mà thôi” [6]. Những sự kiện là những
Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ VIII - năm 2020
224
mảnh vụn của hình ảnh, sự kiện rời rạc trong kí ức đƣợc lắp ghép lại để trở thành
một tác phẩm nghệ thuật, nói cách khác, xét về bản chất, trong tâm thức sáng tác
Nguyễn Nhật Ánh khi tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn tƣơng đồng với phƣơng
pháp làm phim. Nhà văn cũng đã từng viết kịch bản cho phim “Kính vạn hoa”,
nên chắc chắn có am tƣờng về điện ảnh. Và lẽ dĩ nhiên, ảnh hƣởng của các thủ
pháp điện ảnh cũng tác động ít nhiều đến sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh.
2. NGHIÊN CỨU CÁC TÁC PHẨM CHUYỂN THỂ NGUYỄN NHẬT ÁNH
DƢỚI GÓC NHÌN LIÊN VĂN BẢN
2.1. Các tác phẩm đã đƣợc chuyển thể của Nguyễn Nhật Ánh
Bảng 2.1. Danh sách thông kê các tác phẩm đã và đang đƣợc chuyển thể
của Nguyễn Nhật Ánh
STT TÁC PHẨM ĐẠO DIỄN GHI CHÚ
1 Áo trắng sân trƣờng Lê Dân Chuyển thể từ truyện
cùng tên
2 Nữ sinh Xuân Phƣớc
Chuyển thể từ: Nữ sinh,
Buổi chiều windows và
Bồ câu không đƣa thƣ
3 Bong bóng lên trời Trọng Trinh Chuyển thể từ truyện
cùng tên
4 Chú bé rắc rối Cao Thụy nt
5 Kính vạn hoa Minh Chung
Đỗ Phú Hải
nt
6 Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh Victor Vũ nt
7 Cô gái đến từ hôm qua Nhật Linh nt
8 Mắt biếc Victor Vũ nt
Với “hệ thống” tác phẩm đƣợc chuyển thể đồ sộ này, Nguyễn Nhật Ánh đã trở thành
“Nhà văn có nhiều tác phẩm văn học đƣợc chuyển thể thành phim nhất Việt Nam”.
2.2. Xem xét các tác phẩm chuyển thể của Nguyễn Nhật Ánh nhƣ là một quá
trình tạo lập liên văn bản
2.2.1. Sự ám ảnh của điện ảnh khi nhà văn cầm bút
- Lí thuyết “cảnh quay” (scene) điện ảnh trong tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh: "Cảnh
quay" là một phần cấu tạo nên một bộ film hoàn chỉnh, là không gian chứa đựng
hành động, sự kiện của diễn viên. Qua một không gian khác, "cảnh quay" cũng thay
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
225
đổi dẫn đến hành động, sự kiện của diễn viên cũng thay đổi”. [5, tr. 38]. Khảo sát
trong tất cả các chƣơng của “Chú bé rắc rối”, mỗi chƣơng đều ứng với một khoảng
không gian duy nhất, ứng với các hoạt động nhất định của các nhân vật. Đối chiếu
với bộ phim cùng tên của đạo diễn Cao Thụy, từng “cảnh quay” từ lúc “mở cảnh”
đến lúc “cắt cảnh” đều theo đúng cách mở đầu và kết thúc của từng chƣơng trong
nguyên tác văn học, chính vì vậy, tần suất “chia” chƣơng khá dày: 90 trang có đến
12 chƣơng, trung bình cứ 7,5 trang/ 1 chƣơng.
- Yếu tố “chỉ dẫn điện ảnh” (cinematic instrution) trong mỗi chƣơng: Khi phân
tích bố cục của tất cả các chƣơng trong “Kính vạn hoa”, ngƣời viết nhận thấy
Nguyễn Nhật Ánh đã rất khôn khéo lồng vào các đoạn mở đầu của mỗi chƣơng
tên một địa danh/không gian xác định, đƣợc miêu tả hết sức tỉ mỉ; 52/54 chƣơng
xác định đƣợc các nhân vật chính ngay từ những đoạn văn đầu tiên. Ví nhƣ
chƣơng 2 của tác phẩm:
Nhà Tiểu Long rất nghèo. Ba nó là thợ hồ. Mẹ nó bán những thứ linh tinh nhƣ
thuốc lá, nƣớc ngọt, mì gói và những mặt hàng lặt vặt khác, toàn bộ "gia tài" chất
trên một chiếc xe đẩy nhỏ. Tiểu Long có hai ông anh sinh đôi là anh Tuấn với
anh Tú. Tiểu Long còn một đứa em gái là nhỏ Oanh [2,tr. 13]
Ở chƣơng này, ta thấy Nguyễn Nhật Ánh đã xác định không gian rất cụ thể: “nhà
Tiểu Long” làm cho chúng ta hình dung đƣợc không gian "cảnh quay" rất rõ ràng,
nhƣ sự bố trí sẵn theo lời chỉ dẫn kịch bản trong điện ảnh. Các nhân vật trong chƣơng
45 đƣợc giới thiệu ngay từ đoạn đầu tiên gồm có Ba, mẹ, anh Tuấn, anh Tú, nhỏ
Oanh, Tiểu Long; và trong suốt chƣơng 2, không hề xuất hiện các nhân vật khác.
Tóm lại, ngay từ đoạn đầu tiên, Nguyễn Nhật Ánh đã cho chúng ta hình dung đƣợc
phần [Cảnh] và phần [Diễn viên] nhƣ trong phần chỉ dẫn trong một kịch bản.
- Về không gian: Trong cách miêu tả không gian, tác giả rất chú trọng miêu tả “độ
rộng” của khung cảnh mà trong điện ảnh, ngƣời ta gọi là “góc quay” (angle of view).
Góc quay là điểm tập trung của một cảnh đã thay đổi. [5, tr. 76]. Trong tất cả các tác
phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đều có đủ các loại “góc quay” điện ảnh: cận cảnh (close
up - CU) - trung cảnh (Medium shot -MS) - toàn cảnh (Long shot -LS) các chiều: trên
- dƣới (Till Up), dƣới - trên (Till Down), lia (Panning shot),... Tác giả cũng đã sử
dụng rất đúng ý đồ của từng loại góc quay theo dụng ý điện ảnh. Một vài ví dụ:
Loại góc
quay
Định
nghĩa Tác dụng Dẫn chứng
Trên -
Dƣới
(Till Up)
Là hƣớng
quay đi từ
trên
xuống
dƣới.
Mang ý nghĩa
về lực đè nén,
sức nặng, sự
nguy hiểm.
Tôi nhìn xuống vành lồng, cô đã rớt
khỏi yên xe và cùng với con Nhi [...].
Trong khi đó, chiếc mô tô không ngƣời
lái vẫn tiếp tục lao đi thêm gần một
vòng rồi văng ra khỏi vành lồng, rơi
xuống theo. [1, tr. 302]
Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ VIII - năm 2020
226
Dƣới -
Trên
(Till
Down)
Là hƣớng
quay đi từ
dƣới lên
trên.
Gợi cảm giác
vƣơn lên, gợi
ƣớc muốn, sự
ngƣỡng vọng,
hạnh phúc.
Chúng tôi ra ngồi ngoài cột cờ xem
các anh chị lớp lớn thi thả diều .
Những cánh diều đủ kiểu, màu sắc sặc
sỡ với những chiếc đuôi dài thậm
thƣợt đang đua nhau uốn éo, chao
liệng trên nền trời xanh khiến tôi và
Hà Lan ngồi ngắm mê mẩn hàng giờ.
[3, tr.14]
- Về thời gian: lý luận điện ảnh chỉ ra rất rõ quy luật “tâm lí thời gian” (rule of
psychological time): “một cảnh trong film chỉ có thể diễn ra trong một khoảng thời
gian nhất định, và luôn đƣợc chen ngang bởi một cảnh khác, khi tâm lí thời gian của
khán giả nhận thức đƣợc mức độ “đủ” của một cảnh quay” [5, tr. 57]. Điều đó tránh
đƣợc sự nhàm chán của khán giả khi theo dõi tác phẩm. Vậy nên, khi ta ứng mỗi
chƣơng của “Chú bé rắc rối” là một “cảnh quay” (nhƣ chứng minh ở phần 2.2.1), ta
nhận thấy rằng Nguyễn Nhật Ánh có dụng ý không kéo dài một “mạch truyện” quá 3
chƣơng (quá 20 trang); rất ít khi sắp xếp 2-3 chƣơng liên tiếp chỉ để kể về diễn biến
trong một “cảnh quay”. Sự sắp xếp này khiến cho mạch truyện của tác phẩm luôn
đƣợc “cắt ngang” đúng lúc, tạo nên sự lôi cuốn hấp dẫn, đánh vào tâm lí “chờ đợi kết
quả” của độc giả.
- Ngôn ngữ điện ảnh trong “Các tác phẩm cua Nguyễn Nhật Ánh”: Trong Chú
bé rắc rối, lời "đối thoại" xuất hiện với tần suất dày đặc, chiếm 1.144/1.873 câu, tức
là 61,1%. Lời “đối thoại” đƣợc chú trọng phát triển những chức năng đặc trƣng của
đối thoại điện ảnh: là một trong hai biện pháp để miêu tả nội tâm của nhân vật (đối
thoại và hành động của nhân vật) và góp phần phát triển mạch truyện.
+ Ở tác dụng thứ nhất: Xây dựng tính cách, nội tâm nhân vật.
+ Ở tác dụng thứ hai: phát triển câu chuyện
Ví dụ nhƣ: trong Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh,, nhiệm vụ chủ yếu để phát
triển câu chuyện là hành động nhân vật. Đối thoại đƣợc xem là những phụ họa
khéo léo cho hành động. Vì vậy, đối thoại luôn đƣợc đƣa ra đúng lúc nhằm đẩy
câu chuyện tiến lên, ví dụ:
Tƣờng chạy ra sân trƣớc chỗ tôi đang vờ ngồi chơi bi một mình, níu vai tôi, mếu
máo hỏi
- Anh có thấy con Cu Cậu đâu không, anh Hai
- Con cóc của mày hả? - Tôi giƣơng mắt, giọng thật nhƣ đếm - Lúc nãy tao vẫn
thấy nó đây mà.
- Nhƣng bây giờ nó đi đâu rồi. - Giọng Tƣờng nhƣ khóc.
Tôi ngó lơ chỗ khác: - Tao nghĩ chắc nó chui dƣới gầm giƣờng! [1, tr.203]
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
227
Ở đoạn hội thoại trên, ta thấy rằng mỗi câu nói ngắn, nhanh, dứt khóat, nói trúng
vào bản chất vấn đề, phát triển tự nhiên, sinh động nhƣ những lời nói trong thực
tế. Sự kết hợp giữa lời nói - động tác làm cho nhân vật của Nguyễn Nhật Ánh luôn
có “diễn xuất”, luôn sống động chứ không “chết cứng” trong trang văn.
2.2.2. Sự học hỏi của nhà làm phim từ văn học
- Nhan đề: Điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là 8 bộ phim đã và đang đƣợc
chuyển thể từ tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh đều tôn trọng nhan đề gốc. Sử dụng
lại nhan đề của văn bản nguồn, theo chúng tôi, đƣợc lí giải bằng nhiều lí do: có
thể xuất phát từ sự tôn trọng đối với văn bản đƣợc trích dẫn, có thể là một sự nhại
lại, cũng có thể đó là tên gọi đảm bảo chuyển tải đƣợc tinh thần của cả tác phẩm
văn học và tác phẩm chuyển thể, thậm chí có thể xuất phát từ mục đích thƣơng
mại. Nhƣng dù là lí do gì thì một sự ràng buộc liên văn bản nhất định cũng hiển lộ
qua việc lặp lại một cách có chủ ý nhan đề của tác phẩm. Thậm chí, trong một bộ
phim, những tập phim lẻ đều có tên tƣơng ứng với từng chƣơng trong bộ truyện.
Ví dụ: “Những con gấu bông” (truyện: chƣơng 2; phim: tập 2); “Ông thầy nóng
tính” (truyện: chƣơng 4, phim: tập 1).
- Không gian và thời gian: Không gian là “tổng hòa của các hiện tƣợng cùng loại”
(Iu. Lotman). Có thể nói, điện ảnh là ngữ cảnh bộc lộ đầy đủ nhất tính chất liên văn
bản, xem phim thực chất là hành vi “đọc” liên văn bản. Với kỹ thuật dựng/ lắp ghép
(Montage), các khung hình riêng lẻ đƣợc xếp đặt, kết nối lại theo một quy tắc nghệ
thuật nhất định. Sự ghép nối cũng chính là yếu tố làm nên đặc tính liên văn bản của
văn bản điện ảnh. Bởi nó tổng hợp cả hai mặt nghệ thuật và kỹ thuật; ranh giới giữa
các yếu tố âm nhạc - văn chƣơng - hội họa - tạo hình lúc này không còn đậm nét,
chúng hòa vào nhau để tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Chính vì vậy, thƣờng
những đoạn miêu tả về không gian trong văn học chỉ tác động đến yếu tố thị giác,
thì trong điện ảnh thƣờng kèm theo các kí hiệu về thính giác. Không gian và thời
gian trong truyện có thể tách bạch, miêu tả riêng rẽ, nhƣng không gian trong phim
nhất định phải gắn với một khoảng thời gian nào đó (vì phụ thuộc vào yếu tố ánh
sáng, hình ảnh - một chất liệu tất yếu của một bộ phim).
Thể
loại
Yếu tố
đƣợc
kí hiệu
Kí hiệu Kí hiệu biểu thị Vị trí
Truyện Chiều cuối ngày Cuối ngày, tôi thấy
mây tụ lại từng bầy
Trang
145
Phim
Trong nhà
- buổi
chiều
Trời xế, mây đen kéo
đến, tiếng sấm chớp
của cơn mƣa rào
Cảnh Mận và Thiều
ngồi trông nhà 37p40
- Cốt truyện, tình tiết/ sự kiện: Trong điện ảnh, “Mặc dầu mọi thành phần kịch bản
đều quan trọng và tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, song quan trọng nhất là không
nghi ngờ gì nữa, thành phần khó nhất của kịch bản chính là cốt truyện”. Sự lấy lại
Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ VIII - năm 2020
228
cốt truyện chuyển thể chính là liên văn bản. Tuy nhiên, trong sự lấy lại đó, nhất
định có sự “cắt gọt” lại của biên kịch. Ví dụ nhƣ: phim “Tôi đã thấy hoa vàng trên
cỏ xanh” đã cắt bớt các tình tiết liên quan đến hồi ức tản mạn của Thiều và Tƣờng,
những hồi ức về con Vện, về ông Ba Xung, về con Xin,... Nhƣng lại thêm tình tiết:
ngƣời lái moto trong rạp xiếc chính là mẹ của “công chúa” Nhi, Nhi nhòai ngƣời ra,
đƣa cho mẹ một bông hoa vàng, nên cả hai đều bị gặp tai nạn. Bởi lẽ, một bộ phim
bao giờ cũng phải có một trục chính, kể về ít nhất một câu chuyện, một nhân vật
nào đó, bởi ít có khán giả nào đủ kiên nhẫn để nghe một “câu chuyện nhạt nhẽo”
và xem một “bộ phim không thành câu chuyện”.
- Liên văn bản nhân vật: Xét về mặt lí thuyết, sự cách tân, thậm chí “viết lại” đối
với nguyên tắc cũng là một phƣơng diện quan trọng của liên văn bản. Tác giả
trong quá trình sáng tác luôn phải đối diện với truyền thống và buộc phải xâm
nhập vào những văn bản xuất hiện trƣớc, từ đó tiến hành thay đổi, chuyển dịch,
điều chỉnh, để mang lại cho chính mình không gian tƣởng tƣợng rộng mở. Ví dụ
nhƣ trong phim “Nữ sinh”, các nhân vật: Xuyến, Thục và Cúc Hƣơng đƣợc đạo
diễn xây dựng với tính cách mạnh mẽ hơn, cá tính hơn trong truyện rất nhiều,...
Hay nhân vật Nhi trong phim “Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đƣợc xây
dựng với các tình tiết logic hơn trong truyện, nhân vật Tƣờng thể hiện cá tình: đa
cảm, thông minh hơn trong truyện.
2.3. Xem xét các tác phẩm chuyển thể của Nguyễn Nhật Ánh nhƣ là sản
phẩm trong mối quan hệ liên văn bản
2.3.1. Người tiếp nhận với tư cách là cá nhân
Từ quá trình tìm hiểu phƣơng thức chuyển thể, chúng tôi nhận thấy rõ nét hơn vai
trò của ngƣời đọc với tƣ cách là nhân tố phát hiện và xác lập tính liên văn bản
giữa các tác phẩm chuyển thể, giữa tác phẩm điện ảnh với tác phẩm điện ảnh. Nhƣ
vậy, với liên văn bản, chuyển thể đã chuyển dịch trọng tâm phát nghĩa từ văn
bản chuyển thể sang ngƣời đọc/ xem, khiến anh ta trở thành đồng sáng tạo.
Ví dụ nhƣ nhan đề và nội dung truyện/ phim: “Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh”,
trong tác phẩm truyện, không hề có dòng nào nhắc đến hình ảnh “hoa vàng” và cỏ
xanh” ngoại trừ nhan đề; trong phim, “hoa vàng” xuất hiện khi công chủa rải trên
đƣờng đánh dấu “lâu đài” của mình cho Tƣờng tới, và là bông hoa khiến cho “công
chúa” phải gặp tai nạn trong rạp xiếc. Những yếu tố “thêm thắt” vào trong phim
giúp độc giả có thể “định nghĩa” rõ hơn ý đồ của đạo diễn, còn trong truyện là một
khoảng trời của sự sáng tạo, suy diễn của độc giả. Nhƣ vậy, Liên văn bản trong
trƣờng hợp này đều đẩy trọng tâm phát nghĩa về phía độc giả, tuy nhiên, khác nhau
ở phạm vi rộng - hẹp, tùy ý đồ của đạo diễn. Đây chỉ là một sợi chỉ nhỏ trong trăm
ngàn “sợ chỉ” của “bức thảm” (chữ dùng của J.Kristiva), giúp minh chứng yếu tố
liên văn bản trong quá trình chuyển thể.
Một số trƣờng hợp khác, khi độc giả xem phim, bảo phim hay hơn truyện, và
ngƣợc lại; hay có nhận xét: nhân vật này diễn chƣa tới tầm/ diễn quá xuất sắc so
với bản truyện, khung cảnh trong truyện hình dung không nhƣ khi lên hình, cốt
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
229
phim cắt bớt tình tiết này/ thêm thắt tình tiết khác so với truyện,... trong đầu độc
giả luôn có sự so sánh, đối chiếu giữa hai loại hình nghệ thuật. Đó là yếu tố liên
văn bản đang hiện hữu. Sự hiểu của độc giả đối với tác phẩm chuyển thể có thể
đƣợc quy định bởi những trải nghiệm khi họ đọc tác phẩm văn học, cũng nhƣ
những đón đợi tạo ra bởi việc đọc các tác phẩm hoặc các vấn đề có liên quan đến
nội dung của phim chuyển thể. Tác phẩm chuyển thể sẽ tƣơng tác với những đón
đợi ấy, dẫn đến những lớp nghĩa mới bên cạnh mối liên hệ với các yếu tố của văn
bản văn học. Đó cũng chính là quá trình đối thoại liên tục mà Bakhtin đã nói tới.
2.3.2. Độc giả với tư cách là dư luận, đại chúng
Thực chất, đây là quá trình xem xét tác phẩm phim và văn học trong mối quan hệ
cộng sinh với các loại văn bản khác, với môi sinh văn hóa - xã hội Sự hình thành
và sự đón nhận nhiệt tình đối với hai tác phẩm này không tách rời bối cảnh văn
hóa xã hội: trƣớc tiên, chúng là sản phẩm kích thích/ thúc đẩy của chủ nghĩa tiêu
dùng. Đóng góp của nó rõ ràng đã bổ sung những nét mới trong việc nghiên cứu
quá trình phát triển của văn học, mặt khác, nó là công cụ công bằng và rõ ràng
nhất khi đánh giá thị trƣờng của một tác phẩm văn học: trƣớc, trong và sau khi bộ
phim chuyển thể của tác phẩm đó đƣợc ra đời. Văn học là “suối nguồn” của điện
ảnh, là kho tàng các ý tƣởng cho nhà làm phim chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh.
Một tác phẩm văn học thành công sẽ đảm bảo đƣợc thành công cho bộ phim sắp
đƣợc chuyển thể và ngƣợc lại. Bởi vì văn học đã đi bƣớc chân ban đầu để “thăm dò
thị hiếu xã hội”, và nó luôn có sẵn một lƣợng độc giả ủng hộ nhất dịnh, bởi trong
đầu họ đã có một “văn bản” hoàn chỉnh của một thể loại hoàn chỉnh và đang muốn/
tò mò xem nó đƣợc chuyển dịch nhƣ thế nào. Để xét tính đón đợi của dƣ luận, đánh
giá của độc giả, công cụ công bằng và tiện lợi nhất là doanh thu.
Bảng 1: Doanh thu theo tuần của các tác phẩm phim/ tiểu thuyết
Thời gian
Tác phẩm
Tiểu thuyết
"TĐT
HVTCX"
Phim
"TĐT
HVTCX”
Tuần đầu tiểu thuyết phát hành 0.12 (100%) 0
Trung bình 1 tuần trong tháng đầu tiểu thuyết phát hành 0.19 (158%) 0
Trung bình 1 tuần trong 1 năm tiểu thuyết phát hành 0.14 (116%) 0
Tuần đầu kể từ khi bộ phim chuyển thể ra đời 0.15 (125%) 9 (100%)
Trung bình 1 tuần trong tháng đầu bộ phim phát hành 0.32 (267%) 13 (140%)
Trung bình 1 tuần trong 6 tháng bộ phim phát hành 0.31 (258%) 13.5 (150%)
Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ VIII - năm 2020
230
Hình 1: Doanh thu theo tuần của các tác phẩm phim/ tiểu thuyết
Ta thấy, “Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh” thành công trên cả hai lĩnh vực truyện
- phim. Tác phẩm ngay khi vừa ra đời đã là một tác phẩm “hot” đƣợc săn đón. Sau
khi chuyển thể thành phim, đã tạo nên một “cơn sốt” điện ảnh, khiến một lƣợng độc
giả đã đọc tác phẩm háo hức muốn xem phim, và ngƣợc lại, khiến một lƣợng khán
giả đã xem phim nhƣng chƣa đọc tác tò mò muốn sở hữu một cuốn sách của
Nguyễn Nhật Ánh.
Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, văn hóa cũng thƣơng mại hóa nhanh
chóng. Việc chuyển thể các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh với số lƣợng kỉ lục
chính là kết quả của sự đón đợi từ độc giả, sự xuất hiện của nó phản ánh thị hiếu
của công chúng. Tác động theo chiều ngƣợc lại, từ những bộ phim thành công,
Nguyễn Nhật Ánh cũng có những tƣơng tác nhất định trong lối viết, để từ đó các
tác phẩm văn học đến gần hơn với phim, với khán giả, xét theo một tiến trình,
phong cách Nguyễn Nhật Ánh dần dần chuyển từ miêu tả tâm trạng theo dòng kí
ức sang miêu tả hồi ức cụ thể, từ thiên về cảm giác sang thiên về xúc giác, đặc
biệt, từ những tình tiết mang tính cá nhân, riêng có, sang những tình tiết mang tính
phổ thông, thứ giúp tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh không còn là những mẩu truyện
độc đáo của riêng ông, mà là những mẩu truyện mà bất cứ dộc giả nào cũng soi
thấy mình ở trong đó.
3. KẾT LUẬN
So với những đƣờng hƣớng nghiên cứu chuyển thể khác, lí luận liên văn bản cung
cấp những sự gợi ý quan trọng sau: Mở rộng lĩnh vực nghiên cứu, Thúc đẩy chiều
sâu nghiên cứu, Thay đổi trật tự nghiên cứu (Lí luận liên văn bản đã phá vỡ trật tự
cố định: văn học trƣớc - điện ảnh sau, đặt các văn bản trong một mạng lƣới cấu
trúc biến hóa linh hoạt). Nếu sử dụng quan điểm của liên văn bản trong phân tích
phê bình điện ảnh một cách hợp lí, mà cụ thể là những tác phẩm của Nguyễn Nhật
Ánh, thì sẽ mở rộng đƣợc bề rộng và chiều sâu của bộ phim, giúp khán giả thƣởng
thức hết đƣợc những giá trị chứa đựng trong đó.
0
50
100
150
200
250
300
TT "TĐTHVTCX" Phim "TĐTHVTCX"
Thời điểm
Kỷ yếu Hội thảo khoa học
231
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Nhật Ánh, (2010), Tôi đã thấy hoa vàng trên cỏ xanh, NXB Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
[2] Nguyễn Nhật Ánh, (2012), Kính vạn hoa, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[3] Nguyễn Nhật Ánh, (2013), Mắt biếc, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[4] Julia Kristeva, 2003, Kí hiệu học - dẫn từ Nghiên cứu liên văn bản, Thiệu Vĩ
dịch, tr 4. NXB Nhân dân Thiên Tân, Trung Quốc.
[5] Nguyễn Nhân, 2001, Nghệ thuật điện ảnh, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[6] http://laodong.com.vn/van-hoa/nha-van-nguyen-nhat-anh-viet-van-bang-su-
trai-nghiem-quan-sat-va-long-yeu-nghe-404842.bld
Title: ADAPTING FROM LITERARY TEXTS TO CINEMATIC FILMS
UNDER THE INTERTEXTUALITY VIEWPOINT: A CASE STUDY OF
NGUYEN NHAT ANH
Abstract: Adapting from literature to cinema has had a long history. However,
researchers are still unsure about a theoretical system able to allow them to study
scientifically and effectively this process. Studying the adaptation between
literature and cinema from an intertextual perspective is one of the possible options.
The article will point out the theoretical fulcrums, studies the adaption process, and
points out what cinema learned and changed from literature. Hopefully, this will be
a useful document that opens up promising research directions.
Keywords: Adaptation, intertextuality, literature, cinema, Nguyen Nhat Anh.