Upload
hung-ngo-ba
View
221
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
gfgf
Citation preview
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ________________________
Hà Nội, ngày 27 tháng 03 năm 2013
ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN
TIẾN BỘ KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ MỚI
Kính gửi: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
1. Tên đơn vị đăng ký công nhận: Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Tên đơn vị thực hiện: Viện Thủy điện và năng lượng tái tạo
Địa chỉ: Số 8 Ngõ 95 Chùa Bộc - Đống Đa - Hà Nội
Điện thoại: 04.38521298 Fax: 04.35637900
E-mail: [email protected]
2. Tên tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới đề nghị công nhận: Thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời.
3. Nguồn gốc, danh sách nhóm tác giả của TBKT:
Thiết bị tạo nước ngọt từ nguồn nước không uống được (nước biển, nước lợ, nước nhiễm phèn, nước sông hồ…) bằng năng lượng mặt trời do Viện Thủy điện và năng lượng tái tạo thực hiện là kết quả nghiên cứu của đề tài NCKH cấp Bộ “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo, lắp đặt và vận hành thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời dùng cho sinh hoạt của quân và dân trên đảo” thực hiện năm 2010-2011 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiệm thu đạt loại khá.
Nhóm tác giả:
Họ và tên Cơ quan công tác Ghi chú
1 ThS. Đỗ Anh Tuấn Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo Chủ nhiệm đề tài
2 PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
3 ThS. Nguyễn Minh Việt Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo
4 TS. Phạm Phúc Yên nt
5 TS. Phùng Hồng Tuấn nt
6 ThS. Ngô Thị Thanh Nga
nt
4. Tóm tắt nội dung, kết quả, quy trình kỹ thuật, công nghệ, điều kiện áp dụng, hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường khi áp dụng TBKT,CN vào sản xuất:
Thiết bị được cấp nước biển, nước lợ, nước ao hồ sông suối... vào đầu mỗi ngày (lúc 6h-7h) hoặc cuối mỗi ngày (lúc 19h-20h) bằng bơm hoặc tự chảy vào từ bể chứa đặt cao hơn hoặc độ trực tiếp thủ công bằng tay vào khay chưa. Khi mặt trời lên, bức xạ mặt trời chiếu xuyên qua tấm kính hứng nắng xuống khay chứa nước màu đen và khay này sẽ hấp thụ năng lượng mặt trời chuyển hoá thành nhiệt năng làm nóng nước trong khay chứa. Nước nóng lên đến một nhiệt độ nhất định sẽ bay hơi và sau đó được ngưng tụ trên bề mặt trong của tấm kính và chảy về bể chứa. Nước thu được sẽ là nước ngọt, sạch để dùng để ăn uống.
Với năng suất trung bình đạt 6 lít/m2/ngày, ngày nắng tốt đạt hơn 7 lít/m2/ngày (phụ thuộc vào cường độ bức xạ mặt trời từng ngày ở tại địa điểm lắp đặt thiết bị), thiết bị có kết cấu đơn giản, có khả năng tận thu được nước mưa trên mặt kính của thiết bị khi trời có mưa, được chế tạo từ composite nên có độ bền cao, có khả năng tháo lắp linh hoạt và lắp ghép thành hệ thống lớn từ các mô đun đơn lẻ tùy theo nhu cầu sử dụng cho phù hợp với mọi quy mô dân cư; địa điểm lắp đặt đa dạng: mặt đất, trên mái nhà, sân thượng… những nơi hứng được ánh nắng nên thiết bị là giải pháp hữu hiệu cho việc cung cấp nước ngọt cho vùng ven biển và hải đảo.
Về hiệu quả kinh tế, môi trường:
Chi phí đầu tư thiết bị ban đầu không quá cao, với chi phí ban đầu khoảng 3 triệu/m2, mỗi ngày trung bình thu được 5 lít, giá mỗi lít nước là 500đ, một ngày thu được 2.500đ, như vậy chỉ hơn 3 năm là hoà vốn đầu tư ban đầu trong khi thiết bị có thể đạt tuổi thọ trên 15 năm nếu được vận hành, bảo dưỡng đúng cách.
Theo tính toán của các chuyên gia dinh dưỡng, trung bình một người cần bổ sung 1,5-2,5 lít/ngày, một gia đình khoảng 4 đến 6 người thì cần 6 đến 15 lít nước uống/ngày. Vậy chỉ cần lắp đặt 2 đến 3m2 thiết bị là đủ cấp nước uống cho cả gia đình.
Thiết bị hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời, không tốn chi phí năng lượng, không phát thải khí nhà kính, không sử dụng hóa chất, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa thấp nên rất hiệu quả kinh tế và không làm ảnh hưởng đến môi trường.
Về hiệu quả xã hội: khi người dân và quân sinh sống trên đảo hoặc ở những nơi nguồn nước sạch dùng để ăn uống trong đất liền bị ô nhiễm, việc ứng dụng thiết bị này sẽ tạo ra nguồn nước sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh y tế sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm bệnh tật gây ra do sử dụng nguồn nước không sạch để ăn uống. Mặt khác, giúp cho người dân và quân sinh sống trên đảo – nơi thiếu thốn nước ngọt sẽ yên tâm, ổn định hơn, thu hút, khuyến khích được nhiều người dân ra sinh sống trên đảo và góp phần ổn định an ninh quốc phòng.
5. Đề xuất địa bàn và thời gian áp dụng:
Thiết bị là giải pháp hữu hiệu để cung cấp nước ngọt cho vùng ven biển và hải đảo mà ở đó có năng lượng mặt trời tốt, cụ thể là vùng ven biển, hải đảo, đất liền từ Đà Nẵng trở vào Cà Mau. Ngoài ra, ở khu vực phía Bắc, về mùa hè thường có nhiều nắng và cũng là mùa khô hạn nên cũng có thể sử dụng thiết bị tạo nước ngọt này để cấp nước ăn uống.
Thời gian áp dụng: có thể áp dụng ngay trong năm 2013.
Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm các thủ tục công nhận TBKT,CN cho “Thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời” để thiết bị có thể được ứng dụng vào sản xuất và đời sống./.
Đơn vị thực hiện Đơn vị đăng ký công nhận
Viện Thủy điện và năng lượng tái tạo Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
BÁO CÁO
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, SẢN XUẤT THỬ NGHIỆM TIẾN BỘ KỸ THUẬT, CÔNG NGHỆ MỚI ĐĂNG KÝ CÔNG NHẬN
1. Tên tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới đề nghị công nhận: Thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời
2. Tên đơn vị đề nghị đăng ký: Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Tên đơn vị thực hiện: Viện Thủy điện và năng lượng tái tạo
Địa chỉ liên hệ : Số 8/95 Chùa Bộc – Đống Đa – Hà Nội.Ðiện thoại: (84-4) 38521298. Fax: (84-4) 35637900. Email: [email protected]óm tác giả TBKT,CN:
Họ và tên Cơ quan công tác Ghi chú
1 ThS. Đỗ Anh Tuấn Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo Chủ nhiệm đề tài
2 PGS.TS. Nguyễn Vũ Việt Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
3 ThS. Nguyễn Minh Việt Viện Thủy điện và Năng lượng tái tạo
4 TS. Phạm Phúc Yên nt
5 TS. Phùng Hồng Tuấn nt
6 ThS. Ngô Thị Thanh Nga
nt
3. Phương pháp, nguồn gốc của tiến bộ kỹ thuật, công nghệ:
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Cao Đức Phát tại thông báo số 16/TB-BNN-VP
ngày 08/4/2009 về việc “Giao Viện KH Thủy lợi Việt Nam nghiên cứu, chế tạo thiết bị lọc nước
biển thành nước ngọt không sử dụng năng lượng”; Qua khảo sát và tìm hiểu thực tế ở một vài
địa điểm: đảo Hòn Một, Vũng Áng - Nha Trang, Lữ đoàn 146 - Cam Ranh - Khánh Hòa; đảo Lý
Sơn - Quảng Ngãi và các thông tin trên báo đài thấy rằng việc nghiên cứu thiết bị tạo nước ngọt
uống được từ nguồn nước nước biển, nước lợ, phèn, nước nhiễm bẩn là rất cần thiết. Từ đó ra
đời tiến bộ kỹ thuật, công nghệ này.
4. Tóm tắt nội dung, kết quả, điều kiện, quy trình chuyển giao của tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ
- Nội dung của TBKT, CN:
Như được thể hiện trên Hình 1, thiết bị tạo nước ngọt bằng năng lượng mặt trời gồm khung
trên 1, khay chứa nước không uống được 2 và khung dưới 3. Khung trên và khung dưới được
lắp ghép bằng bản lề để có thể mở khung trên khi cần vệ sinh khay chữa nước không uống được.
Các ống cấp nước mặn, tháo nước thải cặn được lắp với khay chứa nước không uống được, ống
thu nước ngọt được lắp với khung trên. Thiết bị được thiết kế dưới dạng mô đun 1,2m2.
Hình 1: Hình phối cảnh các bộ phận được tháo rời thể hiện kết cấu của thiết bị.
Khung trên 1 như trên Hình 2 gồm có tấm đáy 5, ống thu nước ngọt 6, vách cao 7, vách
thấp 8, máng thu nước ngọt 9, tấm kính 10, và gờ hứng nước mưa 11. Vách cao 7, vách thấp 8
và tấm đáy 5 được đúc liền từ composite, tấm kính 10 là loại kính thủy tinh vô cơ trong suốt để
ánh nắng mặt trời xuyên qua tốt nhất. Tấm kính 10 được đỡ bởi vách thấp 8 và vách cao 7, mặt
dưới của tấm kính 10 được làm sạch, đặc biệt khi chế tạo, lắp ráp và làm kín không để dính keo
trên bề mặt tấm kính để tránh làm giảm hiệu suất của thiết bị. Vách thấp 8 và vách cao 7 có kích
thước phù hợp để tạo nên gờ hứng nước mưa 11 bao xung quanh tấm kính 10. Khi trời có mưa,
nước mưa rơi trên bề mặt tấm kính 10 được các gờ hứng nước mưa 11 ngăn lại và nước mưa sẽ
chảy vào ống thu nước ngọt 6 chảy vào bể chứa nước ngọt. Máng thu nước ngọt 9 được gắn chặt
trên vách thấp 8 ở phía đầu thấp của khung 1 ở mặt dưới của tấm kính 10 và đảm bảo kín nước.
Khi nước trong khay chứa nước không uống được 2 bốc hơi và ngưng tụ trên mặt tấm kính 10,
do thiết bị được đặt nghiêng góc từ 150 đến 220 so với phương ngang, nên nước ngọt ngưng tụ sẽ
chảy xuống máng thu nước ngọt 9 rồi chảy vào bình chứa nước ngọt qua ống thu nước ngọt 6.
Tấm đáy 5 được chế tạo đảm bảo độ phẳng nhất định để khi khung trên 1 lắp ghép với khung
dưới 3 được kín khít để giảm tổn thất nhiệt trong khay chứa nước không uống được 2.
Hình 2: Hình vẽ chi tiết minh họa khung trên.
Khay chứa nước không uống được 2 như trên Hình 3 bao gồm ống xả cặn 12 được lắp ở
phía đầu thấp, khóa 13, ống cấp nước không uống được 14 được lắp ở phía đầu cao và các khay
nhỏ 15 để chứa nước không uống được. Ống cấp nước không uống được 14 và ống xả cặn 12
được gắn kín chặt với khay nhỏ 15 bằng composite, các phương tiện gắn chặt khác như ép dính,
bu lông, vv… cũng có thể được sử dụng. Khóa 13 dùng để điều tiết lượng nước không uống
được cấp cho thiết bị hoạt động. Khi vận hành, vào đầu buổi sáng (khi mặt trời chưa mọc) ta mở
khóa 13 để nước không uống được chảy nạp đầy các khay nhỏ 15, nước chảy vào khay lần lượt
từ trên xuống dưới và sẽ làm muối, cặn còn lại trong các khay nhỏ 15 của ngày hoạt động hôm
trước sẽ được hòa tan và tháo ra ngoài qua ống xả cặn 12, quá trình cấp nước không uống được
vào các khay nhỏ 15 đồng thời cũng là quá trình thau rửa muối, cặn. Khay chứa nước không
uống được 2 như trên Hình 3 được làm từ vật liệu composite màu đen được đúc lẫn với hợp chất
hấp thụ năng lượng mặt trời. Như quan sát trên Hình 4 ta thấy rằng các khay nhỏ 15 có đáy nằm
ngang nên chiều dày lớp nước 16 trong khay là đều nhau, theo các kết quả thử nghiệm cho thấy
chiều dày lớp nước nằm trong khoảng 5 đến 15mm và tốt nhất là 10mm, do chiều dày lớp nước
là đều nhau nên diện tích mặt nước bốc hơi là không đổi khi thiết bị làm việc vì khi nước đã
được bốc hơi lên thì chỉ làm giảm chiều dày lớp nước 16 chứ không làm giảm diện tích mặt
nước bốc hơi như kiểu khay chứa nước không uống được dạng hình nêm có đáy không nằm
ngang, hơn nữa với kết cấu như vậy thì khoảng cách từ mặt nước bốc hơi đến mặt ngưng tụ (mặt
dưới của tấm kính 10) cũng đều nhau hơn, do vậy làm cho hiệu suất của thiết bị tăng lên. Ống
cấp nước không uống được 14 được nối với bể chứa nước không uống được, ống xả cặn 12
được dẫn tới nơi xả để thải, các loại ống này và khóa 13 được làm từ ống nhựa PVC hoặc bằng
inox đảm bảo không bị rỉ sét trong quá trình làm việc.
Hình 3: Hình vẽ chi tiết minh họa khay chứa nước biển.
Hình 4: Hình vẽ mặt cắt ngang khay chứa nước biển.
Khung dưới 3 như trên Hình 5 gồm có khung 17 được đúc bằng composite, các tấm xốp cách nhiệt 18 bọc xung quanh khung 17 và chân giá đỡ 19. Khung 17 được đúc liền khối và được gắn với chân giá đỡ 19 bằng các bu lông. Chân giá đỡ 19 được gắn cố định với nền bằng bu lông hoặc là gạch xây để đảm bảo thiết bị không bị lật đổ khi mưa bão. Các tấm xốp 16 được gắn với khung 17 bởi keo dính để giữ nhiệt cho khay chứa nước không uống được 2. Trên khung 17 có tạo 2 lỗ thủng để luồn ống cấp nước không uống được 14 và ống xả cặn 12. Các chân giá đỡ 19 và các bu lông được làm từ vật liệu inox, composite, thép nhưng được sơn kín bằng sơn chịu nước không uống được hoặc theo cách khác miễn là có thể chịu được trong điều kiện làm việc ngoài trời, môi trường dễ bị ăn mòn (hải đảo).
Hình 5: Hình vẽ chi tiết minh họa khung dưới.
Việc lắp ráp thiết bị tạo nước ngọt rất đơn giản và dễ dàng, do chỉ lắp ráp hoàn chỉnh cụm
khung trên 1, cụm khay chứa nước không uống được 2, cụm khung dưới 3 và sau đó lắp khay
chứa nước không uống được 2 vào khung dưới 3 rồi lắp khung trên 1 với khung dưới 3 bằng bản
lề như được mô tả trên đây. Việc bảo trì, làm vệ sinh khay nước không uống được 2 được thực
hiện dễ dàng bằng cách mở khung trên 1, dùng rẻ lau từng bậc 11 trong khay nước không uống
được 2 khi khay bị bám bẩn. Rêu, nước thải, cặn được thải ra ngoài qua ống xả cặn 12.
Khi nhu cầu nhiều (cho nhiều hộ gia đình, cụm dân cư…) ta có thể lắp ghép nhiều thiết bị
tạo nước ngọt lại với nhau thành một hệ thống.
Hoạt động của thiết bị như sau:
Vào đầu mỗi ngày (khoảng 6h - 7h) hoặc cuối mỗi ngày (khoảng 18h – 19h) nước không
uống được được cấp vào thiết bị qua ống cấp nước không uống được 14 và được điều chỉnh bởi
khóa 13. Nước sẽ chảy nạp đầy vào các bậc 11 của khay chứa nước không uống được 2 từ trên
xuống dưới. Khi cấp đủ nước ta đóng khóa 13 lại. Khi mặt trời mọc, ánh nắng mặt trời xuyên
qua tấm kính 10 chiếu vào khay chứa nước không uống được 2, phần lớn bức xạ mặt trời có
bước sóng <0,7µm có khả năng xuyên qua tấm kính 10, còn bức xạ có bước sóng > 0,7µm thì
bị tấm kính 10 ngăn lại. Tia bức xạ mặt trời sau khi xuyên qua tấm kính 10 đập lên bề mặt của
khay chứa nước không uống được 2, khay chứa nước không uống được 2 sẽ hấp thụ năng lượng
mặt trời và chuyển hóa thành nhiệt năng làm nước không uống được trong khay 2 nóng lên và
bốc hơi. Đồng thời khi khay 2 được nung nóng nó sẽ phát ra các tia bức xạ nhiệt thứ cấp (có
bước sóng > 0,7µm) hướng về mọi phía. Nhờ mặt trời liên tục chiếu bức xạ xuống nên khay
chứa nước không uống được 2 được nung nóng liên tục và bức xạ nhiệt cũng phát ra liên tục.
Những bức xạ nhiệt hướng lên phía trên bị tấm kính 10 ngăn lại (vì kính chỉ cho bức xạ có bước
sóng ngắn < 0,7µm đi qua). Các tia bức xạ nhiệt bị phản xạ trở về khay chứa nước không uống
được 2 và làm cho nó ngày càng nóng hơn. Cứ như vậy nước trong khay 2 được nung nóng và
bốc hơi liên tục. Nhờ có sự chênh lệch nhiệt độ ở phía trong thiết bị (mặt dưới tấm kính 10) và
phía ngoài trời nên hơi nước ngưng tụ trên mặt dưới của tấm kính 10, nước ngưng tụ là nước
ngọt. Do thiết bị được đặt nghiêng một góc (200 - Hình 2) nên nước ngọt ngưng tụ trên mặt kính
9 sẽ chảy xuống, rơi vào Máng thu nước ngọt 9 và chảy về bình chứa nước ngọt qua ống thu
nước ngọt 6.
Quá trình này diễn ra liên tục cho tới khi mặt trời lặn và chỉ dùng năng lượng mặt trời mà
không cần sử dụng bất kỳ nguồn năng lượng ngoài khác như điện, chất đốt, v.v…
Như được mô tả ở trên, thiết bị tạo nước ngọt bằng năng lượng mặt trời có kết cấu đơn giản
nhưng cho hiệu suất chưng cất cao, có khả năng tận thu nước mưa và có thể lắp ghép linh hoạt
các thiết bị dạng mô đun thành hệ thống lớn đáp ứng nhu cầu sử dụng của cụm dân cư.
- Các kết quả từ nghiên cứu đến sản xuất thử nghiệm (nếu có); phân tích hiệu quả kinh tế,
xã hội, môi trường khi áp dụng TBKT,CN vào sản xuất...):
Tại bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa: từ ngày 14/1/2011 đến ngày 14/2/2011 do cường độ
bức xạ yếu nên lượng nước trung bình thu được là 2,8l/ngày/mô đun. Từ ngày 15/2/2011 đến
14/3/2011 cường độ bức xạ và số giờ nắng nhiều hơn nên lượng nước thu được trung bình là
6,9l/ngày/mô đun. Từ ngày 15/3 đến ngày 13/4 lượng nước trung bình thu được là 5,77
l/ngày/mô đun, thực tế có nhiều ngày đạt > 8 lít/ngày/mô đun, không kể lượng nước mưa thu
được. Kết quả thử nghiệm chi tiết tại bán đảo Cam Ranh – Khánh Hoà như sau:
STT
Ngày
Lượng
nước thu
được (lít)
STT
Ngày
Lượng
nước thu
được (lít)
STT
Ngày
Lượng
nước thu
được (lít)
1 14/01/20 110 34 14/02/20 410 62 14/03/20 428
11 11 11
215/01/20
1124 35
15/02/2011
280 6315/03/20
11218
316/01/20
1126 36
16/02/2011
342 6416/03/20
11242
417/01/20
1172 37
17/02/2011
370 6517/03/20
11324
518/01/20
11126 38
18/02/2011
325 6618/03/20
11270
619/01/20
1160 39
19/02/2011
215 6719/03/20
11313
720/01/20
11138 40
20/02/2011
328 6820/03/20
11240
821/01/20
1172 41
21/02/2011
430 6921/03/20
11118
922/01/20
11279 42
22/02/2011
370 7022/03/20
11221
1023/01/20
1130 43
23/02/2011
350 7123/03/20
11250
1124/01/20
1139 44
24/02/2011
318 7224/03/20
11295
1225/01/20
11128 45
25/02/2011
420 7325/03/20
11320
1326/01/20
1180 46
26/02/2011
275 7426/03/20
11275
1427/01/20
11215 47
27/02/2011
350 7527/03/20
11270
1528/01/20
11228 48
28/02/2011
300 7628/03/20
11232
1629/01/20
11178 49
01/03/2011
310 7729/03/20
11210
1730/01/20
11115 50
02/03/2011
428 7830/03/20
11175
1831/01/20
1160 51
03/03/2011
190 7931/03/20
11240
1901/02/20
11170 52
04/03/2011
230 8001/04/20
11320
2002/02/20
11180 53
05/03/2011
327 8102/04/20
11382
2103/02/20
1172 54
06/03/2011
355 8203/04/20
11420
2204/02/20
11120 55
07/03/2011
360 8304/04/20
11300
2305/02/20
11180 56
08/03/2011
435 8405/04/20
11228
2406/02/20
1192 57
09/03/2011
300 8506/04/20
11320
2507/02/20
1195 58
10/03/2011
420 8607/04/20
11372
2608/02/20
11150 59
11/03/2011
315 8708/04/20
11340
2709/02/20
11170 60
12/03/2011
242 8809/04/20
11282
2810/02/20
11130 61
13/03/2011
372 8910/04/20
11310
2911/02/20
11170 90
11/04/2011
282
3012/02/20
11270 91
12/04/2011
240
3113/02/20
11320 92
13/04/2011
340
Tại Đồ Sơn – Hải Phòng: thời gian thử nghiệm từ ngày 1/5/2011 đến ngày 30/5/2011 lượng
nước thu được tại thời điểm này là 4.93 l/ngày/mô đun. Sở dĩ tại đây số giờ nắng không cao,
nhưng trong khoảng thời gian thử nghiệm trời nhiều mây và mưa nên lượng nước thu được là
đáng kể.
Qua hai địa điểm lắp đặt trên chúng tôi nhận thấy rằng thiết bị vận hành tốt, lượng nước thu
được trung bình trong điều kiện thời tiết có nắng tốt, ít bị mây che có thể đạt 5,5 lít/m2/ngày, so
với kết quả tính toán lý thuyết là 7,55 lít/m2/ngày, qua kết quả phất tích cho thấy chất lượng
nước sau khi chưng cất là tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, không có mùi, không bị lợ
mặn, nước rất trong và sạch.
Với năng suất trung bình đạt 4-6 lít/m2/ngày, có ngày nắng tốt đạt hơn 7 lít/m2/ngày (phụ
thuộc vào cường độ bức xạ mặt trời từng ngày ở tại địa điểm lắp đặt thiết bị), có kết cấu đơn
giản, có khả năng tận thu được nước mưa trên mặt kính của thiết bị khi trời có mưa, được chế
tạo từ composite nên có độ bền cao, có khả năng tháo lắp linh hoạt và lắp ghép thành hệ thống
lớn từ các mô đun đơn lẻ tùy theo nhu cầu sử dụng cho phù hợp với mọi quy mô dân cư, địa
điểm lắp đặt đa dạng: mặt đất, trên mái nhà, sân thượng… những nơi hứng được ánh nắng nên
thiết bị là giải pháp hữu hiệu nhất cho việc cung cấp nước ngọt cho vùng ven biển và hải đảo.
So sánh với các sản phẩm tương tự về nguyên lý:
Hiện nay thiết bị của hãng Carocell (F-Cube) – Austraylia có sản phẩm và nguyên lý lọc
nước biển thành nước ngọt cũng dùng năng lượng mặt dùng để ngưng tụ. Sản phẩm của hãng
bắt đầu vào Việt nam năm 2011, đang thử nghiệm trong nước (hãng có các mô đun ở Việt nam:
3m2 và 6m2, gần đây là 2m2).
So sánh về công suất trên đơn vị lít/ m2/ngày: Theo tài liệu của hãng, loại mô đun 3m2 năng
suất là 16-20 lít/ngày, trung bình sẽ là 5,33 – 6,67 lít/ngày/m2 (chi tiết như Báo giá nhà phân
phối của hãng ở Việt Nam như Phụ lục kèm theo). Như vậy về công súât đơn vị, thiết bị tạo
nước ngọt trong nước này có năng suất tương đương với sản phẩm cùng loại.
So sánh về kết cấu, tính thương mại của sản phẩm: thiết bị tạo nước ngọt bằng năng lượng
mặt trời trong nước cồng kềnh hơn, nặng hơn. Do vậy tính thương mại của sản phẩm chưa bằng
được sản phẩm của hãng Carocell. Để có tính cạnh tranh về kiểu dáng công nghiệp, đơn vị đăng
kí TBKT-CN mới sẽ tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện sản phẩm, cho ra đời các mẫu khắc phục các
vấn đề trên.
So sánh về giá bán: Theo tính toán kinh tế của thiết bị, giá bán sẽ là 3triệu đồng/m2. Như
vậy giá bán thiết bị trong nước rẻ hơn của hãng chào bán (theo báo giá của hãng). Thiết bị trong
nước trong tương lai gần có khả năng cạnh tranh được.
Về hiệu quả kinh tế, môi trường:
Chi phí đầu tư thiết bị ban đầu không quá cao, với chi phí ban đầu khoảng 3 triệu/m2, mỗi
ngày trung bình thu được 5 lít, giá mỗi lít nước là 500đ, một ngày thu được 2.500đ, như vậy chỉ
hơn 3 năm là hoà vốn đầu tư ban đầu trong khi thiết bị có thể đạt tuổi thọ trên 15 năm nếu được
vận hành, bảo dưỡng đúng cách.
Thiết bị hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời, không tốn chi phí năng lượng,
không phát thải khí nhà kính, không sử dụng hóa chất, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa thấp nên rất
hiệu quả kinh tế và không làm ảnh hưởng đến môi trường.
Về chất lượng nước ngọt thiết bị tạo ra:
Về chất lượng nước, nước ngọt tạo ra không mặn, lợ, trong suốt và không có mùi gì. Kết
quả phân tích nước về hóa học và phiếu xét nghiệm vi sinh (có phụ lục kèm theo) cho thấy rằng
chất lượng nước đạt tiêu chuẩn theo Quy chuẩn QCVN 01:2009/BYT và tiêu chuẩn
1329/2002/BYT/QĐ.
Về lượng nước ngọt thiết bị tạo ra và quy mô lắp đặt cho hộ gia đình:
Theo tính toán của các chuyên gia dinh dưỡng, trung bình một người cần bổ sung 1,5-2,5
lít/ngày, một gia đình khoảng 4 đến 6 người thì cần 6 đến 15 lít nước uống/ngày. Vậy chỉ cần
lắp đặt 2 đến 3m2 thiết bị là đủ cấp nước uống cho cả gia đình.
Về hiệu quả, ý nghĩa xã hội:
Khi người dân và quân sinh sống trên đảo hoặc ở những nơi nguồn nước sạch để ăn uống trong đất liền bị ô nhiễm, việc ứng dụng thiết bị này sẽ tạo ra nguồn nước sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh y tế sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm bệnh tật gây ra do sử dụng nguồn nước không sạch để ăn uống. Mặt khác, giúp cho người dân và quân sinh sống trên đảo – nơi thiếu thốn nước ngọt sẽ yên tâm, ổn định hơn, thu hút, khuyến khích được nhiều người dân ra sinh sống trên đảo và góp phần ổn định an ninh quốc phòng- Địa điểm, thời gian và quy mô đã áp dụng; tổng hợp ý kiến nhận xét của các tổ chức, cá nhân áp dụng TBKT,CN; nhận xét của các địa phương (có phụ lục kèm theo);
Stt Tên cơ sở sản xuất sử dụng CN/TB/QTNgày chuyển
giao CN/TB/QT
Số mô đun đã lắp đặt thử nghiệm
1 Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân - Cam Ranh – Khánh Hòa
2011 50
2 Nhà khách Quân đoàn II – Bộ Quốc Phòng 2011 50
- Điều kiện áp dụng;
Thiết bị hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời nên điều kiện áp dụng là những nơi có nguồn năng lượng mặt trời tốt, gần nguồn nước biển, ao hồ, sông suối, gần khu dân cư.
5. Đề xuất địa bàn áp dụng: Thiết bị là giải pháp hữu hiệu để cung cấp nước ngọt cho vùng ven biển và hải đảo mà ở đó có năng lượng mặt trời tốt, cụ thể là vùng ven biển, hải đảo, đất liền từ Đà Nẵng trở vào Cà Mau. Ngoài ra, ở khu vực phía Bắc, về mùa hè thường có nhiều nắng và cũng là mùa khô hạn nên cũng có thể sử dụng thiết bị tạo nước ngọt này để cấp nước ăn uống.
6. Kết luận và đề nghị: Thiết bị qua quá trình nghiên cứu và thử nghiệm hoạt động tốt, hiệu quả, đặc biệt là những nơi nước ngọt khan hiếm. Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm các thủ tục công nhận TBKT,CN cho “Thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời” là TBKT,CN để thiết bị có thể được ứng dụng vào sản xuất và đời sống./.
Chủ nhiệm đề tài
Đỗ Anh Tuấn
Tổ chức, cá nhân báo cáo(Ký tên và đóng dấu)
Phần phụ lục: Một số hình ảnh liên quan:
Hình 1: thiết bị đước lắp thử nghiệm tại Cam Ranh – Khánh Hòa
Hình 2: thiết bị đang lắp đặt tại Đồ Sơn - Hải Phòng.
Hình 3: Đoàn cán bộ đại diện Bộ Nông nghiệp và PTNT và Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam kiểm tra thực tế tại Đồ Sơn - Hải Phòng.
Hình 3: 2 mô đun thiết bị tạo nước ngọt được ghép nối với nhau.
Biên bản họp Hội đồng KHCN cơ sở (có phụ lục gửi kèm theo).Nhận xét của địa phương (có phụ lục gửi kèm theo).