57
Bài giảng môn thức ăn tự nhiên

Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Bài giảng môn thức ăn tự nhiên

Page 2: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Mục LụcCHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỨC ĂN TỰ NHIÊN..................................................31.1 VAI TRÒ CỦA THỨC ĂN TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI NUÔI TRỒNG THỦY SẢN......31.2 Kích thước miệng ấu trùng ở pha nuôi dưỡng đầu......................................................5CHƯƠNG 2: VI TẢO............................................................................................................72.1 GIỚI THIỆU....................................................................................................................72.1.1 Các loài tảo nuôi trồng chủ yếu...................................................................................72.1.2 Giá trị dinh dưỡng của vi tảo.......................................................................................82.2.1 Tảo Chlorella...............................................................................................................102.2.2 Tảo Dunaliella.............................................................................................................112.2.3 Tảo Spirulina...............................................................................................................122.2.4 Tảo khuê.......................................................................................................................132.2.4.1 Các giống nuôi trồng chủ yếu:................................................................................132.2.4.2 Đặc điểm tảo khuê....................................................................................................132.2.4.3 Kĩ thuật nuôi tảo Chaetoceros sp và Skeletonema costatum :...............................142.2.4.4 Vai trò của tảo khuê trong nuôi trồng thủy sản:...................................................16CHƯƠNG 3: LUÂN TRÙNG (ROTIFERS).....................................................................173.1 Đặc điểm sinh học của luân trùng................................................................................173.1.1 Vị trí phân loại.............................................................................................................173.1.2 Đặc điểm hình thái......................................................................................................173.1.3 Phân bố và dinh dưỡng của luân trùng.....................................................................173.1.4 Sinh trưởng và dinh dưỡng........................................................................................183.1.5 Đặc điểm sinh sản và vòng đời của luân trùng.........................................................183.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng..................................................................................................193.2.1 Điều kiện nuôi..............................................................................................................193.2.2 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn...........................................................203.2.4 Các hệ thống nuôi luân trùng.....................................................................................213.3 Giá trị dinh dưỡng của rotifer......................................................................................233.4 Rotifer trong nuôi trồng thủy sản.................................................................................24CHƯƠNG 4: ARTEMIA.....................................................................................................244.2 Vòng đời và đặc điểm sinh học Artemia......................................................................244.4 Giá trị dinh dưỡng.........................................................................................................254.5 Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối......................................................................274.5.1 Thời vụ sản xuất Artemia...........................................................................................284.5.2 Xây dựng ao nuôi Artemia:........................................................................................284.5.3 Quá trình thu gom nước mặn để thả Artemia..........................................................284.5.4 Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống................................................284.5.5 Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi:.......................................................294.5.6 Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm.................................................................................30CHƯƠNG 5: CÁC ZOOPLANKTON KHÁC..................................................................325.1 Copepod..........................................................................................................................325.2 Daphnia và Moina..........................................................................................................335.3 Nematode........................................................................................................................355.4 Ấu trùng bánh xe (Trochophora larvae)......................................................................36CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ AO NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN THỨC ĂN TỰ NHIÊN..........366.1 Yếu tố vật lý....................................................................................................................366.2 Yếu tố sinh học...............................................................................................................366.3 Yếu tố hoá học................................................................................................................37TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................38

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên2

Page 3: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên3

Page 4: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỨC ĂN TỰ NHIÊN

1.1 VAI TRÒ CỦA THỨC ĂN TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI NUÔI TRỒNG THỦY SẢNThức ăn tự nhiên hay thức ăn sống (natural food, live food ) là các phiêu sinh

(plankton). Phiêu sinh chính là chuỗi thức ăn sơ cấp và thứ cấp cho hầu hết động vật nước. Phiêu sinh có hai nhóm, đó là phiêu sinh thực vật (phytoplankton) và phiêu sinh động vật (zooplankton). Phytoplankton được coi là sinh vật tự dưỡng, bởi vì chúng có thể sử dụng nguồn cacbon, nitơ đơn giản và ánh sáng mặt trời để sinh trưởng và phát triển; chúng là điểm xuất phát của chuỗi thức ăn. Zooplankton được coi là sinh vật dị dưỡng, chúng ăn những sinh vật tự dưỡng và các sinh vật dị dưỡng khác. Zooplankton là nguồn thức ăn quan trọng của ấu trùng tôm và cá trong tự nhiên hay nuôi trồng.

Thức ăn tự nhiên đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công trong ương nuôi nhiều loài động vật thủy sản, đặc biệt là ở giai đoạn ấu trùng. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, kỹ thuật nuôi một số loại thức ăn tươi sống cho động vật thủy sản từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các đối tượng chủ yếu đang được quan tâm nghiên cứu như: Vi tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia, trùng chỉ.

Nghề nuôi giáp xác, cá biển và nhuyễn thể đang ngày càng phát triển mạnh, vì thế, nhu cầu con giống đang ngày gia tăng và cần được giải quyết. Trong sản xuất giống, thức ăn và kỹ thuật cho ăn khi ương ấu trùng là vấn đề rất quan trọng. Ngày nay, mặc dù có nhiều kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất thức ăn nhân tạo cho ấu trùng, nhưng những thức ăn tươi sống như tảo, luân trùng, giáp xác râu ngành, Artemia.. . vẫn được xem là thức ăn vô cùng quan trọng và có tiềm năng rất lớn trong sản xuất giống. Việc nuôi và sử dụng các sinh vật làm thức ăn này đã có một lịch sử lâu đời ở nhiều nước và ngày nay đang được áp dụng rộng rãi tên toàn thế giới.

Trong những năm 70, sản xuất của các trại cá và tôm hầu như dựa chủ yếu vào việc đánh bắt những cá giống (giai đoạn cá bột) sống trong tự nhiên. Tuy nhiên, từ sau khi kỹ thuật sản xuất ấu trùng từ đàn bố mẹ trở nên phổ biến thì hàng tỷ ấu trùng cá, ấu trùng thân mềm và giáp xác đã được sản xuất trong các trại giống trên toàn thế giới.

Ấu trùng là những sinh vật còn rất nhỏ, yếu đuối và chưa phát triển đầy đủ về mặt sinh lý như kích thước miệng còn nhỏ, giác quan và hệ thống tiêu hoá chưa hoàn thiện. Những yếu tố này hạn chế việc lựa chọn và sử dụng thức ăn thích hợp trong những pha nuôi dưỡng đầu tiên của ấu trùng.

Đối với tảo, hai loài Isochrisys galbana và Pyramimonas grossii đầu tiên được Bruce và ctv báo cáo đã phân lập và nuôi đơn chúng dùng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là dùng cho nuôi ấu trùng trai, hầu. Tiếp theo đó, là kết quả nuôi thành công tảo khuê cho nhiều loài động vật không xương sống khác nhau của Allen và Nelson, 1910 (Ryther và Golman, 1975). Đến năm 1941, khi Matsue tìm ra phương pháp phân lập và nuôi cấy tảo thuần loài Skeletonema costatum thì loài tảo này đã được Hudinaga dùng làm thức ăn cho ấu trùng tôm Penaeus japonicus và đã tăng tỉ lệ sống của ấu trùng ở giai đoạn lên 30%, thay vì 1% so với các kết quả trước đây (Liao, 1983). Phương pháp nuôi tảo khuê cho ấu trùng tôm của Hudinaga được gọi là “phương pháp nuôi cùng bể” và sau đó phương pháp này được Loosanoff áp dụng trong ương nuôi ấu trùng hai mảnh vỏ.

Từ những năm 1940, người ta rất quan tâm đến nuôi sinh khối tảo, không chỉ dùng cho nghề nuôi thủy sản mà còn vì nhiều mục đích khác, như: cải tạo đát, lọc nước thải, nguồn thực phẩm cho con người hay thức ăn tươi sống. Beijerinck đã nghiên cứu nuôi tảo Chlorella vulgaris lần đầu tiên trong ống nghiệm và đĩa petri. Nhiều nghiên cứu tiếp theo được tiến hành và cho đến năm 1948-1950, một công trình đầu tiên chuyển phương pháp nuôi cấy trong phòng thí nghiệm ra qui mô sản xuất lớn đã được thực hiện bởi nhà khoa học Litter, của Cambridge (Soeder, 1986). Tuy nhiên, về sau nuôi đại trà tảo Chlorella phát triển

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên4

Page 5: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

chủ yếu là ở Đông Nam Châu Á, đặc biệt là ở Nhật, Trung Quốc, Đài Loan (Richmon, 1986). Ví dụ: Ở Đài Loan, nuôi sản xuất tảo được hình thành vào năm 1964, đến năm 1977, đã có 30 trại sản xuất với công suất 200 tấn/tháng, sản xuất khoảng 1.000 tấn/năm. Các loài tảo khác như Dunadiella, Scenedesmus, Spirulina.. . cũng được nghiên cứu và phổ biến ra qui mô sản xuất. Số liệu thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng năm của tảo Spirulina trên thế giới là 850 tấn, trong đó, Mexicô đóng góp 300 tấn, Đài Loan: 300 tấn, Hoa Kỳ: 90 tấn, Thái Lan 60 tấn, Nhật Bản :40 tấn và Israel: 30 tấn (Richmon, 1986).

 Để phục vụ cho mục đích nuôi thủy sản, nhiều loài tảo khác cũng được nghiên cứu nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm hoặc ở qui mô sản xuất. Wendy và Kevan, 1991, đã tổng kết: ở Hoa kỳ, các loài Thalasiossira pseudomonas, Skeletonema, Chaetoceros calcitrans, Chaetoceros mulleri, Nannochloropsis ocula, Cchlorella minutissima... được nuôi để làm thức ăn cho luân trùng, ấu trùng hai mảnh vỏ, ấu trùng tôm và cá theo hương pháp từng đợt hoặc bán liên tục trong những bể composite 2.000-25.000 lít. Ở Washington, năng suất tảo loài Thalasiossira pseudomonas có thể đạt 720 kg khô/24.000 tấn/8 tháng ; còn ở Hawaii, năng suất loài Nanochlopsis đạt khoảng 2,2 triệu lít/năm.

 Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu nuôi tảo từ những năm 1940. Nhưng mãi đến 1980, chỉ có hai loài Phaeodactylum triconutum và Tetraselmis subcordiformis là đối tượng nuôi dùng trong ương ấu trùng tôm. Về sau, có nhiều loài đã được phân lập để nuôi cấy. Song, những loài nuôi chính bao gồm Isochrisys galbana, Pavlova viridi, Chaetoceros muelleri, Phaeodactylum triconutum, Tetraselmis dùng cho ấu trùng tôm Penaeus chinensis và Argopecten. Chúng được nuôi bằng phương pháp thu từng đợt. Năng suất nuôi của Isochrisys galbana có thể đạt 4,8 x 1015 tế bào/năm.

 Ở Đài Loan, các đối tượng nuôi chính là Nannochloropsis oculata, Tetraselmis, Chlorella sp., dùng cho ương nuôi ấu trùng họ tôm he (Penaeus), loài Isochrysis galbana trong ương nghêu...Riêng loài Skeletonema costatum, sản lượng nuôi có thể đạt tới 9.000 tấn/năm.

 Nuôi tảo ở Nhật cũng rất quan trọng với nhiều đối tượng nuôi và bằng phương pháp thu từng đợt hoặc bán liên tục: Chaetoceros sp., Penaeus japonicus và Metapenaues ensis, Isochrysis sp. và Pavlova lutheri dùng cho hai mảnh vỏ, Tetraselmis sp., Nanochloropsis oculata, Chlammydomonas sp. cho luân trùng Brachionus plicatilis.

 Nuôi tảo khuê cũng rất phổ biến ở Thái Lan, nhất là loài Skeletonema costatum và Chaetoceros calcitrans dùng cho ấu trùng tôm. Bể nuôi thường là bể composite có thể tích 1.000 lít hay bể ximăng 4.000 lít. Ước đoán năng suất đạt được khoảng 3 x 1012 tế bào/tháng.

 Ở nước ta, hiện nay đã có nhiều cơ quan nghiên cứu đã nhập giống,  phân lập, lưu giữa và nuôi sinh khối các loài tảo thuần cho mục đích nghiên cứu và sản xuất thực nghiệm. Song, thực tế, các trại sản xuất vẫn còn sử dụng chủ yếu là các loại tảo tự nhiên do chưa có điều kiện phòng thí nghiệm  lưu giống thuần tại trại và công việc này cũng khá phức tạo đối với trại sản xuất kinh doanh.

 Bên cạnh tảo phiêu sinh, luân trùng (hay còn gọi là trùng bánh xe), loài Brachinus plicatilis cũng đóng vai trò quan trọng trong nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt chúng là thức ăn cho ấu trùng của cá biển có vây. Ở nhiều nước như Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, nuôi luân trùng đã trở thành nghề nuôi thương phẩm. Quá trình nuôi luân trùng của những nước này mang nết đặc trưng riêng của mỗi quốc gia.

 Ở Nhật, Brachionus plicatilis lần đầu tiên được Katashi (1995) nghiên cứu và phát hiện như một loại thức ăn lý tưởng cho ấu trùng cá biển Ayu (Plecoglossus altivelia). Năm 1964, trại Yashima bắt đầu nuôi sinh khối Brachionus plicatilis, sau đó, năm 1965, chúng được dùng rộng rãi cho loài cá Pagrus major và là thức ăn có giá trị cao. Hiện nay, nuôi sản xuất Brachionus plicatilis dòng S và L là mục tiêu của nghề nuôi cá Pagrus major, Japanese

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên5

Page 6: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

flounder, Japanese sweet fish...Với qui mô sản xuất lớn, nuôi luân trùng ở Trung Tâm Nuôi Cá có thể 4-8 tỷ con/ngày.

 Ở Hoa Kỳ, Theilaccker và McMaster  năm 1971, đã công bố lần đầu tiên kết quả nghiên cứu về Brachionus plicatilis là một thức ăn tuyệt vời cho ấu trùng cá biển (Wendy và Kenvan, 1991). Tuy nhiên, nuôi luân trùng đến nay vẫn ở qui mô thí nghiệm, chủ yếu phục vụ cho ương nuôi các loài cá đối, cá măng. . .  Sản lượng nuôi mỗi ngày thường đạt 100-500 triệu con.

 Tại Trung Quốc, hầu hết các nghiên cứu về luân trùng Brachionus plicatilis làm thức ăn cho ấu trùng cá biển được tiến hành từ năm 1980. Đến nay, nuôi luân trùng với qui mô lớn cho nghề nuôi cá chẽm.

 Nuôi luân trùng ở Đài Loan đã trở thành nghề nuôi thương phẩm phục vụ cho việc sản xuất của 11 loài cá biển. Sản lượng trung bình ước đoán khoảng 1 tỉ cá thể/ngày (Liao, 1991).

 Sản xuất luân trùng ở Thái Lan cũng được Kong Keo báo cáo năm 1991, với sản lượng 166 triệu con/ngày. Luân trùng đực dùng làm thức ăn cho đối tượng nuôi thủy sản chính như: cá chẽm, cá mú, tôm càng xanh.

 Tóm lại, nuôi tảo và luân trùng là một hoạt động rất quan trọng tại các trại sản xuất giống, nhằm cung cấp thức ăn cho ấu trùng của nhiều đối tượng thủy sản khác nhau. Vì vậy, để phục vụ cho sự phát triển của nghề nuôi thủy sản thì việc nghiên cứu và sử dụng hai loại thức ăn này là rất cần thiết.

 Artemia từ lâu đã được con người biết đến, song đến những năm 1930 người ta mới xác định đây là thức ăn tuyệt vời cho ấu trùng tôm cá. Từ đó, Artemia trở thành mặt hàng thương mại rất có giá trị, và đặc biệt phát triển từ những năm 1960-1970 do sự phát triển của nghề nuôi thủy sản. Nghiên cứu cơ bản và ứng dụng Artemia đầu tiên được bắt đầu vào những năm 1968 ở Bỉ. Hiện nay, nghề nuôi Artemia đang phát triển với nhiều nguồn ở nhiều quốc gia như San Francisco Bay (Hoa Kỳ), Macau (Brazil), Shark Bay (Úc), Chaplin Lake (Canada), Buenos Aires (Argentina), Lavaldue (Pháp), Tientsin (Trung Quốc), Margherita di Savoi (Ý), Vĩnh Châu (Việt Nam).  Sản lượng trứng cyst Artemia năm 1997 đạt trên 2000 tấn. Tuy mỗi nguồn Artemia có chất lượng khác nhau, song, Artemia  là loại thức ăn không thể thiếu trong sản xuất giống thủy sản, nhất là thủy sản nước lợ.   

1.2 Kích thước miệng ấu trùng ở pha nuôi dưỡng đầuKích thước miệng của ấu trùng pha đầu giới hạn kích thước của các tiểu phần thức

ăn mà ấu trùng có thể ăn. Nói chung, kích thước miệng có liên quan với kích thước cơ thể và kích thước cơ thể lại bị chi phối bởi đường kính của trứng và thời kỳ nuôi dưỡng nội sinh (tức là thời kỳ tiêu thụ túi lòng đỏ). Ví dụ: trứng cá hồi Atlantic thường lớn hơn trứng Gilhead seabream ít nhất 4 lần (bảng 1). Kết quả là ở lúc nở, ấu trùng cá hồi khá lớn và túi lòng đỏ cũng lớn đủ cung cấp thức ăn nội sinh trong 3 tuần phát triển đầu tiên, còn như ấu trùng cá Gilhead seabream thì rất nhỏ, túi lòng đỏ cũng nhỏ và cung cấp thức ăn nội sinh chỉ đủ trong khoảng 3 ngày. Ở pha đầu, ấu trùng cá hồi có thể ăn được những tiểu phần thức ăn có kích thước 1mm, còn như ấu trùng Gilthead seabream chỉ ăn được những tiểu phần có kích thước 0,1mm.

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên6

Page 7: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Bảng 1. Kích thước trứng và chiều dài ấu trùng lúc nở của một số loài cá*Loài Đường kính trứng (mm) Chiều dài ấu trùng (mm)

Cá hồi Atlantic (Salmo salar)Cá hồi vân (Onchorhyncus mykiss)Cá chép (Cyprinus caprio)Seabass châu Âu (Dicentrarchus labrax) Gilthead seabream (Sparus aurata)Turbo (Scophthalmus maximus) Sole (Solea solea)Milkfish (Chanos chanos) Grey mullet (Mugil cephalus)Greasy grouper (Epinephelus tauvina) Bream (Acanthopagrus cuvieri)

5,0 - 6,04,00,9 - 1,61,2 - 1,40,9 - 1,20,9 - 1,21,0 - 1,41,1 - 1,250,9 - 1,00,77 - 0,900,78 - 0,84

15,0 - 25,012,0 - 20,04,8 - 6,27,0 - 8,03,5 - 4,02,7 - 3,03,2 - 3,73,2 - 3,41,4 - 2,41,4 - 2,41,8 - 2,0

1.3 Ống tiêu hoáTình trạng phát triển của hệ thống tiêu hoá của ấu trùng pha đầu cũng cho biết cung

tiêu hoá được thức ăn ăn vào hay không. Ví dụ: ấu trùng cá hồi pha đầu đã có ống tiêu hoá phát triển tốt với hệ thống enzyme cho phép tiêu hoá được thức ăn đập vụn (feed crumble). Ngược lại, ấu trùng cá Gilhead seabream (giống như ấu trùng nhiều loài cá khác) không có dạ dày hoàn chỉnh, ống tiêu hoá thì ngắn, chỉ có một số enzyme hoạt động ở đầu pha nuôi dưỡng.

Từ đó, thấy rằng ấu trùng của những cá này chỉ có thể sử dụng được những nguồn thức ăn (i) dễ tiêu hoá (như thức ăn chứa một số lớn axit amin tự do và oligopeptide thay cho những phân tử protein phức hợp), (ii) chứa enzyme cho phép thức ăn tự phân giải, và (iii) cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng quan trọng mà ấu trùng yêu cầu.

Nói chung, thức ăn phối chế không đáp ứng được tất cả các yêu cầu cho ấu trùng các loài cá nhỏ như Gilhead seabream và kết quả là ấu trùng nghèo sinh trưởng và có tỷ lệ chết cao. Trái lại, thức ăn sống thì có thể đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn cần thiết của ấu trùng các loài cá nhỏ. Ngoài ra, thức ăn sống còn có tác dụng kích thích sự phát triển các giác quan của ấu trùng. Các giác quan của ấu trùng như thị giác, khứu giác, vị giác và đường bên rất quan trọng đối với việc phát hiện thức ăn. Tuy vậy, các cơ quan này lại phát triển chưa hoàn thiện khi ấu trùng còn non.VD: võng mạc mắt của ấu trùng cá chỉ chứa tế bào hình nón, khiến cho năng lực thị giác kém, nhưng võng mạc mắt của cá giai đoạn lớn hơn (giai đoạn cá hương), ngoaì tế bào hình nón còn có tế bào hình gậy với nhiều sắc chất thị giác trên võng mạc, nhờ vậy năng lực thị giác tốt hơn.Thức ăn sống thường có độ tương phản tốt hơn thức ăn nhân tạo và nhờ vận động liên tục mà có hiệu quả kích thích, giúp cho giác quan ấu trùng phát triển. Ngoài ra, nhờ khả năng bơi của thức ăn sống mà thức ăn được phân bố đều trong cột nước, giúp cho ấu trùng có nhiều cơ hội gặp được thức ăn.

Khẩu phần tự nhiên của hầu hết các loài cá nuôi gồm những loài phytoplankton (diatoms, flagellates vv..) và zooplankton khác nhau (copepods, cladocerans, ấu trùng decapod, rotifers, cilliates vv..). Sự phong phú và đa dạng của thức ăn sống với những kích thước và thành phần dinh dưỡng khác nhau đã cho ấu trùng cá những cơ may tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển.

Ngày nay, ba nhóm thức ăn sống dùng phổ biến để nuôi ấu trùng ở quy mô công nghiệp (industrial larviculture) là:

+ Những loài vi tảo có kích thước 2 đến 20μm sử dụng cho hai mảnh vỏ (bivalves), tôm he (penaeid shrimp), rotifer, copepods.., cá.

+ Brachionus plicatilis sử dụng cho giáp xác (crustaceans), cá biểnĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên7

Page 8: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

+ Artemia spp. (meta-) nauplii cho giáp xác, cáNgoài các nhóm trên, một số loại thức ăn sống khác cũng được dùng với mức độ hạn

chế hơn, bao gồm Brachionus rubens, Moina spp., daphnids, trứng Artemia khử vỏ cho cá nước ngọt và ấu trùng tôm và sinh khối Artemia cho ấu trùng tôm hùm, postlarrvae tôm và tôm bố mẹ, cá biển giai đoạn cá hương. Trong vài năm gần đây người ta đạt được kết quả rất tốt trong việc nuôi tôm bằng một số sản phẩm bổ sung và thay thế thức ăn sống. Tuy nhiên, đối với việc nuôi cá biển giai đoạn đầu bằng loại thức ăn này thì kết quả còn rất hạn chế.

CHƯƠNG 2: VI TẢO

2.1 GIỚI THIỆUVi tảo là nguồn thức ăn cho tất

cả các giai đoạn sinh trưởng của động vật hai mảnh vỏ, thức ăn cho ấu trùng của một số loài giáp xác và thức ăn cho một số loài cá ở giai đoạn sinh trưởng đầu. Mặt khác tảo lại là nguồn thức ăn của zooplankton và chính zooplankton lại là nguồn thức ăn cho ấu trùng của cá và giáp xác giai đoạn ấu trùng và giai đoạn cá hương. Bên cạnh đó, việc nuôi ấu trùng cá biển theo kỹ thuật nước xanh (green water technique), tảo được dùng trực tiếp trong các tank ấu trùng và chúng đóng vai trò làm ổn định chất lượng nước, cung cấp dinh dưỡng cho ấu trùng và khống chế vi khuẩn (hình 10.1).

2.1.1 Các loài tảo nuôi trồng chủ yếuNgày nay 40 loài vi tảo khác nhau được phân lập từ khắp nơi trên thế giới được

nuôi trồng theo phương thức thâm canh.Bảng 2. Các lớp và giống vi tảo chủ yếu được nuôi trồng (De Pauw và Persoone, 1988)

Lớp Giống Ứng dụng

Bacillariophyceae

SkeletonemaThalassiosiraPhaeodactylumChaetocerosCylindrothecaBellerocheaActinocyclusNitzchiaCyclotella

PL, BL, BPPL, BL, BPPL, BL, BP, ML, BSPL, BL, BP, BSPLBPBPBSBS

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên8

Page 9: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Haptophyceae IsochrysisPseudoisochrysisDicrateria

PL, BL, BP, ML, BSBL, BP, MLBP

Chrysophyceae Monochrysis (Pavlova) BL, BP, BS, MRPrasinophyceae Tetraselmis (Platymonas)

PyramimonasPL, BL, BP, AL, BS, MRBL, BP

Cryptophyceae MicromonasChroomonasCryptomonasRhodomonas

BPBPBPBL, BP

Cryptophyceae ChlamydomonasChlorococcum

BL, BP, FZ, MR, BS BP

Chlorophyceae CarteriaDunaliella

BPBP, BS, MR

Cyanophyceae Spirulina PL, BP, BS, MRGhi chú:PL: ấu trùng tôm heBL: ấu trùng nhuyễn thể hai mảnh vỏML: ấu trùng tôm nước ngọtBP: hậu ấu trùng nhuyễn thể hai mảnh vỏAL: ấu trùng bào ngưMR: rotifers nước mặn (Brachionus)BS: Tôm nước mặn (Artemia)SC: copepods nước mặnFZ: zooplankton nước ngọt

2.1.2 Giá trị dinh dưỡng của vi tảoGiá trị dinh dưỡng của vi tảo phụ thuộc vào kích thước tế bào, tỷ lệ tiêu hoá, chất độc

và thành phần sinh hoá (bảng 3). Điều kiện nuôi trồng cũng ảnh hưởng nhiều đến giá trị dinh dưỡng của vi tảo. Tuy biến động khá rộng tuỳ theo các lớp và các loài, nhưng hàm lượng protein, lipid và carbohydrate biểu thị bằng % chất khô nằm trong phạm vi 12-35, 7,2-23 và 4,6-23, lần lượt.

Các acid béo chưa no HUFA, đặc biệt Eicosapentaenoic acid (EPA, 20:5n-3), arachidonic acid (ARA, 20:4n-6) và Docosahexaenoic acid (DHA, 22:6n-3) giữ vai trò quan trọng trong việc đánh giá giá trị dinh dưỡng đối với với một loài tảo dùng để nuôi động vật biển. EPA có nhiều trong các loài diatom (Chaetoceros calcitrans, C. gracilis, S. costatum, T. pseudomonas) và prymnesiophyte Platymonas lutheri, còn DHA thì có nhiều trong prymnesiophytes (P. lutheri, Isochrysis sp.) và Chroomonas salina.

Thành phần acid béo của 10 loài vi tảo phát triển dưới những điều kiện xác định và thu hoạch ở pha log được trình bày ở đồ thị 10.3.

Vi tảo cũng là một nguồn giầu vitamin C (0,11 - 1,62 %/chất khô).Bảng 3. Hàm lượng chlorophyl a (Chl a), protein, carbohydrtae (CHO) và lipid của 16 giống vi tảo dùng phổ biến trong nuôi thuỷ sản (% theo chất khô).

Lớp và giống vi tảo Chất khô(pg.cell-1)

Chl a Protein(pg.cell-1)

CHO Lipid

Bacillariophyceae

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên9

Page 10: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Chaetoceros calcitransChaetoceros gracilisNitzchia closteriumPhaeodactylum tricornutumSkeletonema costatumThalassiosira pseudonana

11.374.8

-76.752.2

28

0.340.78

-0.410.630.27

3.89.0

-23.013.19.7

0.682.0-

6.42.42.5

1.85.2

-10.75.05.5

ChlorophyceaeDunaliella tertiolectaNannochloris atomus

99.9 1.73 20.0 12.2 15.021.4 0.080 6.4 5.0 4.5

CryptophyceaeChroomonas salina 122.5 0.98 35.5 11.0 14.5EustigmatophyceaeNannochloropsis oculata 6.1 0.054 2.1 0.48 1.1PrasinophyceaeTetraselmis chuiTetraselmis suecica

269.0 3.83 83.4 32.5 45.7168.2 1.63 52.1 20.2 16.8

PrymnesiophyceaeIsochrysis galbanaIsochrysis aff. Galbana (T-iso)Pavlova lutheriPavlova salina

30.5 0.30 8.8 3.9 7.029.7 0.29 6.8 1.8 5.9

102.3 0.86 29.7 9.1 12.393.1 0.34 24.2 6.9 11.2

% theo vật chất khô

BacillariophyceaeChaetoceros calcitransChaetoceros gracilisNitzchia closteriumPhaeodactylumtricornutumSkeletonema costatumThalassiosira pseudonana

11.374.8

-76.752.228.4

3.011.04

-0.531.210.95

341226302534

6.04.79.88.44.68.8

167.213141019

ChlorophyceaeDunaliella tertiolectaNannochloris atomus

99.9 1.73 20 12.2 1521.4 0.37 30 23.0 21

CryptophyceaeChroomonas salina 122.5 0.80 29 9.1 12

EustigmatophyceaeNannochloropsis oculata 6.1 0.89 35 7.8 18

PrasinophyceaeTetraselmis chuiTetraselmis suecica

269.0 1.42 31 12.1 17168.2 0.97 31 12.0 10

PrymnesiophyceaeIsochrysis galbanaIsochrysis aff. Galbana

30.5 0.98 29 12.9 2329.7 0.98 23 6.0 20

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên10

Page 11: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

(T-iso)Pavlova lutheriPavlova salina

102.3 0.84 29 9.0 12

93.1 0.98 26 7.4 12

2.2 Vi tảo trong nuôi trồng thủy sản2.2.1 Tảo Chlorella

Chlorella là một loại rong đặc biệt, còn được gọi tên khoa học là Pyrenoidosa (tên cấu trúc pyrenoid trong Chloroplast) thường sống ở vùng nước ngọt và có hàm lượng chlorophyll cao nhất (đạt 28,9 g/kg) so với bất kỳ thực vật quang hợp nào được biết đến trên trái đất.

Mỗi tế bào Chlorella pyrenoidosa có cấu trúc gồm nhân thật, hạt tinh bột, lục lạp và ti thể với vách tế bào chủ yếu là Xellulose. Kích thước của rong chỉ bằng tế bào hồng cầu người. Dưới những tế bào bình thường, một tế bào Chlorella sẽ phân chia thành 4 tế bào con trong thời gian chưa đến 24 giờ. Tuổi thọ của một vòng đời tế bào Chlorella phụ thuộc vào cường độ ánh sáng mặt trời, nhiệt độ và nguồn dinh dưỡng. Quá trình sinh sản nói chung được chia thành nhiều bước: Sinh trưởng - trưởng thành - thành thục - phân chia.

Chlorella rất giàu protein, vitamin và các khoáng chất. Các protein của loài rong này có chứa tất cả các amino acid cần thiết cho nhu cầu dinh dưỡng của người và động vật. Rất nhiều vitamin có trong thành của Chlorella pyrenoidosa như: Vitamin C, tiền vitamin A (b caroten), riboflavin (B2), pyridoxine (B6), niacin (vitamin PP), axit panthothenic (vitamin B3), axit folic (vitamin B9), vitamin B12, biotin (vitamin H), choline, vitamin K, axit lipoic và inositol. Các nguyên tố khoáng ở Chlorella pyrenoidosa gồm có: Photpho, canxi, Kẽm, iod, Magie, sắt và đồng.

Hình 2: Tế bào tảo chlorellaVai trò của tảo chlorella

Chlorella được biết đến nhiều bởi vai trò quan trọng của nó về dinh dưỡng cũng như là nhân tố môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Việc dùng Chlorella vào trong sản xuất đó là phương pháp nước xanh được áp dụng rộng rãi trong sản xuất giống tôm càng, một số loài cá và hai mảnh vỏ.

Trong vùng nhiệt đới, Chlorella nước ngọt đã được sử dụng thành công trong việc nuôi luân trùng bằng cách thuần hoá trước khi cho ăn. Một trong những thuận lợi trong việc sử dụng Chlorella làm thức ăn cho luân trùng là do tảo này phát triển và phân cắt nhanh (chỉ sinh sản vô tính). Chlorella chứa hàm lượng protein 50%, lipid 20%, Carbohydrate 20%, Vitamin B1, B12, chất khoáng… Hơn nữa Chlorella còn sản sinh ra chất kháng sinh Chlorellin kháng lại một số vi khuẩn do đó hạn chế một số mầm bệnh.

Khi ương ấu trùng tôm càng xanh, Cohen (1976) thấy rằng: sự hiện diện của thực vật phiêu sinh có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của ấu trùng tôm thông qua việc loại bỏ NH3 và một số chất độc khác. Hơn nữa, Joshep (1977) cũng ghi nhận: sự bổ sung tảo sẽ làm cho môi trường nước trở nên giàu dinh dưỡng, cung cấp những hợp chất vi lượng mà thức ăn ban đầu và thức ăn bổ sung không có.

Chlorella cũng được chú ý nhiều trong sản xuất giống cua (Scylla serrata). Mặc dù một số công trình nghiên cứu thu được tỉ lệ sống của cua chỉ ở mức giới hạn (như thí nghiệm của Ong Kah Sin (1976) và Heasmen (1983), ương ấu trùng cua chỉ dùng Artemia;

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên11

Page 12: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

hoặc thí nghiệm của Chen và Jeng (1980) có bổ sung Chlorella nhưng không có tác dụng), song, Chlorella vẫn được dùng rộng rãi trong ương ấu trùng cua. Brick (1974) đạt được tỉ lệ sống của cua cao nhất bằng cách thêm Chlorella vào môi trường ương. Hơn nữa, ở Đài Loan, Nhật Bản, ấu trùng cua cũng được ương trong môi trường có bổ sung Chlorella (Cowan, 1983; Chen, 1991).

Liao (1991) báo cáo rằng: Ở Đài Loan khi ương ấu trùng cá măng, người ta bổ sung Chlorella vào bể với mật độ: 50-350 x 104 tế bào/lít để duy trì chất lượng nước và quần thể luân trùng-thức ăn chính của ấu trùng tôm, mặc dù tôm có ăn trực tiếp tảo hay không chưa được chứng minh. Trong ương ấu trùng cá Grey mullet, Chlorella cũng được thêm vào bể ấu trùng trong những ngày đầu tiên với mật độ 500-700 x 103 tế bào/ml.

Ngoài ra, Chlorella còn là thức ăn rất quan trọng trong ương nuôi luân trùng và động vật phiêu sinh khác. Bên cạnh những loài Chlorella biển, loài Chlorella nước ngọt, Chlorella vulgairs, cũng được thử nghiệm thành công làm thức ăn cho luân trùng (Hirayama và ctv., 1988). Yamasaki và ctv. (1989) cũng chỉ ra rằng: hai dạng đông lạnh của tảo Nannochloropsis sp. (loài tảo Chlorella biển) đều cho kết quả tương tự nhau về tốc độ tăng trưởng của quần thể luân trùng khi cho ăn hai dạng tảo trên. Theo báo cáo, tốc độ tăng trưởng và sức sinh sản trung bình của luân trùng cao nhất khi cho ăn Chlorella, tiếp theo là loài Isochrysis galbana (Nagata và Whyte, 1992). Mật độ quần thể, sản lượng và tốc độ sinh trưởng của luân trùng cũng tăng lên theo sự gia tăng mật độ tảo ban đầu, đạt đến 40 x 106 tế bào /ml (James và ctv., 1986). Với hàm lượng HUFA cao, Chlorella không chỉ là thức ăn quan trọng của luân trùng mà còn được dùng để làm giàu acid béo cho luân trùng và một số động vật phù du khác trước khi dùng chúng làm thức ăn cho cá và các loài nuôi thủy sản khác. 2.2.2 Tảo Dunaliella

Tảo Dunaliella có chứa hàm lượng glycerol và β-caroten cao nên được xem là đối tượng nuôi đầy triển vọng, dùng làm thức ăn không chỉ trong nghề nuôi thủy sản mà còn nhiều lĩnh vực khác. Trong các loài thuộc giống Dunaliella, loài D. salina có hàm lượng β-caroten cao nhất (Borowithzka, 1990), chiếm 20% trọng lượng khô (Kranzfelder, 1991). Trong nuôi thủy sản, Dunaliella đóng vai trò trong chế độ dinh dưỡng của nhuyễn thể nhưng với mức độ khác nhau tùy theo loài nhuyễn thể.

Quan sát quá trình tiêu hóa của ấu trùng Strombus gigas với 8 loại tảo khác nhau (Isochrysis galbana, Tetraselmis chuii, T. seucica, Dunaliella tertiolecta, Chlamidomonas cocoides, Thalassiosira fluviatilis, Chlorella sp., và Chaetoceros sp.), Aranda (1994) thấy rằng quá trình tiêu hóa tảo Tetraselmis chuii, Chaetoceros sp. và Chlorella sp. nhanh hơn so với 5 loài tảo còn lại. Sự tiêu hóa tảo Chaetoceros sp. và Chlorella sp. nhanh hơn so với tảo D. tertiolecta...Khi ương ấu trùng Mytilus galloprovincialis với các loài tảo Dunaliella tertiolecta, T. seucica, I. Galbana, P. tricornutum, dạng đơn lẻ hay hỗn hợp, kết quả cho thấy tỉ lệ sống và sức tăng trưởng của ấu trùng thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn hỗn hợp T. seucica và I. Galbana (Moskera và ctv., 1989). Dunaliella không chỉ có vai trò quan trọng trong ương nuôi nhuyễn thể mà chúng còn dùng làm thức ăn cho một số loài cá biển, cho Artemia và động vật phiêu sinh khác.

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên12

Page 13: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Đồ thị 10.3. Thành phần acid béo của 10 loài vi tảo (Volkman et al., 1989).2.2.3 Tảo Spirulina

Cùng với Chlorella và Dunaliella, Spirulina cũng là loài tảo rất giàu protein, acid amin thiết yếu, acid béo, khoáng, vitamin và các hợp chất carotenoid nên chúng được xem là nguồn dinh dưỡng rất tốt trong nuôi thủy sản. Mustafa và ctv. (1994) thông báo Spirulina được thêm vào làm thức ăn bổ sung cho Pagrus major với tỉ lệ 5% đã làm tăng tốc độ tăng trưởng của cá, hiệu quả chuyển đổi thức ăn và hiệu suất sử dụng protein; thành phần protein có trong thịt cá không bị ảnh hưởng xấu. So với những loại tảo có kích thước lớn được thí nghiệm trước đó thì loài Spirulina ảnh hưởng tốt nhất đến sự tăng trưởng và sử dụng thức ăn của cá Red sea beam. El (1994) cũng cho biết tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá Silver sea beam khác nhau không có ý nghĩa giữa nghiệm thức có bổ sung 50% Spirulina trong khẩu phần ăn với nghiệm thức đối chứng 100% bột cá.

Tuy nhiên, thay 75% Spirulina thì có ảnh hưởng bất lợi. Spirulina cũng được đề nghị thay thế một phần bột cá trong chế độ ăn của cá rô phi O. mossambicus.

Boonyarapalin và ctv (1989) nghiên cứu về sự thay đổi màu sắc của cá rô phi đỏ Oreoromic niloticus với các nguồn bổ sung sắc tố khác nhau, gồm: Spirulina

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên13

Page 14: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

marigold, Pepal meal, bột đầu tôm, bột nghệ và thức ăn đối chứng. Ông thấy rằng tương ứng với các loại thức ăn trên, màu sắc của cá rô phi thay đổi theo thứ tự nâu đỏ, vàng lam, lam, cam và hơi cam.

Một nghiên cứu khác cũng cho biết sắc tố của cá chép trở nên đậm hơn khi cho cá ăn khẩu phần có bổ sung 10% Spirulina. Nguồn cung cấp sắc tố khác là Marigold petal chỉ cho sự biến đổi màu nhẹ (Wutiporn-Phromkunthong, 1984). Sự biến đổi màu sắc của tôm sú nuôi cũng được Okada và ctv nghiên cứu. Các tác giả nghiên cứu sử dụng các nguồn bổ sung carotenoid khác nhau trong khẩu phần ăn của tôm từ β-caroten, Spirulina, Phaffia và krill oil. họ nhận thấy Spirulina cho kết quả tốt nhất về sự gia tăng hàm lượng caroten trong vỏ của tôm. Nên cho tôm ăn với khẩu phần chứa 3% Spirulina trong 1 tháng trước khi thu hoạch.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của các nguồn protein khác nhau trong khẩu phần ăn của tôm thẻ (Penaeus indicus), Ali (1992) phát hiện Spirulina và đậu phụng cho sức tăng trưởng của tôm tốt hơn so với bánh dầu dừa; hiệu quả sử dụng protein thô và giá trị sinh học của Spirulina cao hơn so với đậu phụng. Khi ương ấu trùng tôm he (Penaeus) từ gia đoạn Zoea 1 đến Mysis 2, Gu và ctv (1989) thấy rằng ấu trùng được cho ăn Spirulina apletensis và S. platensis cộng với bột đậu nành, đạt kích cỡ 663-757 dài hơn có ý nghĩa so với thức ăn đối chứng chỉ dùng bột đậu nành. Tỉ lệ tôm sống của nghiệm thức trên đạt 48-53%, cao hơn rất nhiều so với đối chứng (11%).2.2.4 Tảo khuê2.2.4.1 Các giống nuôi trồng chủ yếu:

Giống Đối tượng cho ăn

Skeletonema Thalassiosira Phaeodactylum Chaetoceros Cyclindrotheca Bellerochea Actinocysclus Nitzchia Cyclotella.

PL, BL, BPPL, BL, BP

PL, BL, BP, ML, BS PL, BL, BP, BS

PL BP BPBS

BL: Ấu trùng nhuyễn thểBP: Hậu ấu trùng nhuyễn thểBS: ArtemiaML: Ấu trùng tôm nước ngọtPL: Ấu trùng tôm biển

Tảo khuê là một trong những loài tảo phù hợp về kích thước và chất lượng dinh dưỡng cho ấu trùng tôm sú. Tảo có tốc độ tăng trưởng nhanh, có thể nuôi trong điều kiện nhân tạo, trong các trại sản xuất giống. Qua thực tế sản xuất và nghiên cứu người ta đã tìm ra được hai loại tảo Silic (Baciliariophyta) để nuôi sinh khối và làm thức ăn cho ấu trùng tôm: Chaetoceros sp và Skeletonema costatum.2.2.4.2 Đặc điểm tảo khuê

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên14

Page 15: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Dạng chuỗi, kích thước tế bào 4-6 μm, Chaetoceros sp: 10-20 tb/chuỗi, Skeletonema costatum : 20-50 tb/chuỗi

- Bề mặt tế bào hình chữ nhật hoặc vuông.

- Gốc tế bào có các gai hoặc lông-> kết hợp tạo chuỗi

- Là tảo phù du sống ở thủy vực nước lợ, mặn nồng độ muối 0-50‰

- Rộng nhiệt, thích hợp ở 25-30o C- Chiếu sáng trên 12 h, sau 20-24 h đạt

mật độ 500.000-600.000 tb/ml.- Phát triển tốt làm cho nước có màu

vàng xanh đến nâu.- Phát triển qua 3 pha:• “Lag” : pha thích nghi• “Exponential”: Pha tăng sinh• “Stationary”: Pha bão hòa

2.2.4.3 Kĩ thuật nuôi tảo Chaetoceros sp và Skeletonema costatum :Trang thiết bị:- Vợt các loại (vợt thu, vợt lọc)- Lưới thu- Dây thu Ø 21 hoặc 27- Dây khí, đá bọt- Bể gây giữ giống (bình thủy tinh, hoặc hình tam giác)- Bể sinh khối (từ 1-3m3/bể)- Hóa chất các loạiMôi trường nuôi cấyDùng môi trường Walne để cấy giữ và nuôi sinh khối tảo khuêCác dung dịch theo thứ tự sau:Dung dịch 1 (tăng trưởng)

- KNO3 (hoặc NaNO3) 116gr (100 gr)- EDTA 45,0 gr- H3BO3 33,6 gr-  NaH2PO4.2H2O 20 gr- FeCL3 1,3gr- MnCL2.4H2O 0,36gr- Dung dịch 2 (khoáng vi lượng) 2,1gr-ZnCL2 1ml- CoCL2. 6H2O 2,0gr- Hòa tan trong 100ml nước ngọt

Dung dịch 2 (vitamin)- B1 200mg- B12 100mg- Hòa tan trong 100 ml nước ngọt

Dung dịch 3 (dung dịch tăng thêm)- KNO3 100gr- Hòa tan trong 1 lít nước ngọt t

Dung dịch 4 (môi trường silicat)

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên15

Page 16: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

- Na2SiO3.5H2O        20gr (hoặc 67ml)- Hòa tan trong 1 lít nước ngọt

Các môi trường trên khi dùng trong nuôi cấy thì dùng mỗi loại dung dịch (1,3,4,5) theo tỷ lệ 1/1000 (1ml dung dịch mỗi loại cho 1 lít nước). Khi dùng để nuôi sinh khối thì bón các dung dịch trên theo tỷ lệ 1/10.000.Nguồn nước:

Nguồn nước nuôi giữ và nuôi sinh khối tảo cần phải được xử lý (xem phần kỹ thuật xử lý nước)Kỹ thuật thu giống:

Giống được vớt ở những vùng ven bờ biển vào lúc triều cao, dùng lưới phiêu sinh có kích thước mắt lưới 15-18μm, vớt theo hình số 8. Để có loài cần nuôi ta phải  thu mẫu nhiều lần. Dưới kính hiển vi ta kiểm tra được tảo Chaetoceros sp  và  Skeletonema có dạng chuỗi.Thuần giống:

Tảo vớt tự nhiên thường lẫn nhiều tạp mùn bả hữu cơ và động vật phù du. Do vậy ta phải phân lập tảo bằng lưới có kích thước mắt lưới lớn hơn lượt qua nhiều lần và cuối cùng chỉ giữ lại phần nước có tảo trong đó.

Có thể thực hiện việc thuần giống tảo theo 2 phương pháp sau:Dùng ưu thế môi trường để thuần giống một cách tương đối. Nghĩa là trong điều kiện

môi trường dinh dưỡng đưa vào phù hợp với sinh học phát triển của 2 giống tảo này sẽ giúp cho chúng ưu tiên phát triển hơn. Nên trải qua một thời gian 2 giống tảo này sẽ chiếm ưu thế để phát triển quần thể, chúng sẽ trở nên thuần chủng.

- Dùng phương pháp phân lập để tách 2 giống tảo này ra để nuôi riêng với môi trường dinh dưỡng thích hợp. Sau nhiều lần phần lập chúng sẽ trở nên thuần chủng.

- Khi tảo giống đã thuần chủng thì được nuôi giữ và đưa ra nuôi sinh khối.Giữ giống

Để chủ động cung cấp tảo cho sản xuất, chúng ta cần phải có phương pháp lưu giữ tảo. Việc lưu giữ tảo được thực hiện trong phòng nuôi cấy tảo hoặc ở khu phân bố riêng cho vùng nuôi tảo hoặc trong trại sản xuất tôm giống. Giống được giữ trong bình thủy tinh hay bình tam giác và được nuôi trong môi trường Walne ở nồng độ muối từ 25-30 ‰ . Thời gian nuôi tùy thuộc vào mật độ tảo đưa ra ban đầu và sự tăng trưởng của tảo nuôi. Thông thường thời gian nuôi giữ tảo từ 16-24h. Cách lưu giữ này có thể đảm bảo chất lượng tảo giống trước khi đưa vào nuôi sinh khối.Kỹ thuật nuôi sinh khối:

Trong các trại sản xuất tôm giống, người ta thường bắt đầu nuôi sinh khối tảo khi ấu trùng Nauplius (N) ở giai đoạn N3 hoặc N4. Việc nuôi  sinh khối được tiến hành theo các bước sau:

- Vệ sinh kỹ bể nuôi bằng xà phòng sau đó rửa lại bằng nước biển đã xử lý- Bơm nước biển đã xử lý  vào bể- Cấp khí (24h/24h)- Cấp tảo giống (giống đang lưu giữ) đang ở pha tăng trưởng với mất độ 50.000 -

70.000tb/ml.- Cấp các muôi dinh dưỡng (bón phân) theo thứ tự các dung dịch đã pha sẵn (chú ý

dung dịch 5 thường hay kết tủa với nước mặn vì vậy đối với dung dịch này ta cần phải pha thêm nước ngọt). Vào những ngày nắng nhẹ trời râm có thể tăng dung dịch  5 lên gấp nhiều lần.

- Khi tảo trong bể nuôi sinh khối đạt đến mật độ khoảng 500.000 - 600.000tb/ml hoặc bằng mắt thường ta thấy tảo có màu nâu đậm là có thể tiến hành thu sinh khối.

* Cách thu: Dùng dây nhựa # 21 hoặc lớn hơn tùy theo dòng chảy, một đầu được buộc bằng túi lưới thu (kích thước mắt lưới 15 - 20μm ) đầu kia cho vào bể hút nhẹ, nước

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên16

Page 17: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

tảo sẽ chảy liên tục trong khoảng thời gian 15-30 phút, các tế bào tảo được giữ lại, sau đó tháo túi ra và chuyển sinh khối tảo này vào xô, cứ thế lại tiếp tục thu cho đến khi nước trong bể nuôi tảo còn khoảng 1/4-1/5 thì có thể kết thúc. 2.2.4.4 Vai trò của tảo khuê trong nuôi trồng thủy sản:Làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản

Trong lớp tảo khuê, loài Skeletonema costatum được phân lập lần đầu tiên bởi Masue (1941) đã được dùng rộng rãi và là thức ăn rất quan trọng của âu trùng tôm biển. Hudinaga đã đạt được thành công đầu tiên trong việc sử dụng tảo này làm thức ăn cho ấu trùng tôm, tỉ lệ sống ở giai đoạn Mysis đạt 30%, cao hơn rất nhiều so với các kết quả trước đây, chỉ đạt 1% (Liao, 1983). Từ kết quả đó, nhiều loài tảo khuê khác như Chaetoceros sp., Thlasiosira, Isochrysis,... cũng được nghiên cứu làm nguồn thức ăn cho ấu trùng tôm. Tùy theo từng loài tảo và đặc điểm của chúng mà mỗi loài đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng đối với ấu trùng tôm.

Trong quá trình phát triển của lĩnh vực sản xuất tôm giống, người ta đã chế biến ra nhiều loại thức ăn nhân tạo để thay thế một phần hoặc toàn bộ tảo khuê. Tuy nhiên, đến nay tảo khuê vẫn được xem là thức ăn tươi sống rất quan trọng của ấu trùng tôm. Trong thí nghiệm so sánh về sự ảnh hưởng của 9 loại thức ăn nhân tạo dùng thay cho tảo khuê (Chaetoceros) làm thức ăn cho ấu trùng tôm, Utama và ctv (1992) nhận thấy giảm mật độ tảo từ 50.000 xuống còn 5.000 tế bào/ml do việc thay thế tảo bằng thức ăn nhân tạo vẫn cho kết quả tốt, tỉ lệ sống của ấu trùng tôm giữa các nghiệm thức vẫn không khác nhau, nhưng mật độ tảo không thể thấp hơn 5.000 tế bào/ml. Hơn nữa, Chu (1991) cũng nhận thấy ấu trùng tôm Metapenaeus ensis và Penaeus chinese cho ăn thức ăn nhân tạo bị chậm lớn và tỉ lệ sống luôn thấp hơn so với tôm cho ăn Chaetoceros garcilis và Artemia. Kết quả thí nghiệm của Chu (1989) cho thấy chỉ dùng một loài tảo Chaetoceros gracilis có thể cung cấp chế độ ăn đầy đủ dinh dưỡng cho ấu trùng tôm Metapenaeus ensis từ giai đoạn Zoea đến PL6 với tỉ lệ sống đạt 35-63%. Việc bổ sung Artemia không làm cải thiện được tỉ lệ sống của ấu trùng tôm.

Bên cạnh đó, tảo khuê còn đóng vai trò quan trọng trong nuôi nhuyễn thể. Okauchi (1990) thí nghiệm tìm hiểu về vai trò của tảo đối với spat của trai (Pintctada fucata) và thấy sức tăng trưởng của spat cho ăn chỉ có tảo Isochrysis aff galbana thấp hơn so với spat cho ăn kết hợp Isochrysis galbana và Chaetoceros garcilis. Laing và ctv (1990) nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng của tảo khô loài Nannochloris sp. và Tetraselmis seucica so với lô đối chứng gồm hỗn hợp tảo Chaetoceros calcitral và T-ISO dùng làm thức ăn cho ấu trùng nghêu Manila (Tapes philipinarum), thấy rằng ấu trùng nghêu cho ăn tảo khô có sức tăng trưởng bằng hoặc cao hơn so với cho ăn dạng tươi sống, nhưng thấp hơn so với lô đối chứng.Gây màu nước

Trong nuôi trồng thủy sản nói chung, nuôi tôm - cá nói riêng, màu nước có vai trò rất quan trọng trong việc tham gia hình thành chuỗi thức ăn tự nhiên, hệ lọc sinh học, ổn định các thông số môi trường… Nói cách khác, nuôi thủy sản muốn thành công, trước tiên cần phải nuôi và giữ màu nước ổn định, bền vững.

Thực chất, màu nước trong ao - hồ nuôi thủy sản được hình thành chủ yếu do các hệ phiêu sinh thực vật (Phytoplankton), phiêu sinh động vật (Zooplankton), các loài tảo, ấu trùng các loài giáp xác… Đối với ngành thủy sản, màu nước được xem là lý tưởng để nuôi tôm - cá tốt nhất đó là màu xanh lá chuối non và màu vàng vỏ đậu xanh. Trong đó, màu xanh lá chuối non thể hiện sự hiện diện mật độ cao của loài tảo lục (Chlorella), màu vàng vỏ đậu xanh, thể hiện sự hiện diện mật độ cao của tảo khuê (Chaetoceros), tảo Silic (Skeletonema). Sự hiện diện 3 loài tảo này trong các ao - hồ nuôi thủy sản, thể hiện môi trường rất nhiều

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên17

Page 18: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

thức ăn tự nhiên, phong phú về chủng loại thức ăn tự nhiên, cân bằng các yếu tố môi trường và các phương trình sinh hóa - sinh lý, ít các loài tảo độc - rong độc, giàu dưỡng chất.

CHƯƠNG 3: LUÂN TRÙNG (ROTIFERS)3.1 Đặc điểm sinh học của luân trùng3.1.1 Vị trí phân loại Theo Pechenik (2000), hệ thống phân loại của luân trùng như sau: Ngành      : RotiferaLớp          : MonogonontaBộ            : PloimaHọ            : BrachionidaeGiống      : BrachionusLoài         : Brachionus plicatilis (Muller)3.1.2 Đặc điểm hình thái

Cơ thể luân trùng được phân biệt thành 3 phần khác nhau: đầu, thân và chân.- Phần đầu: mang bộ máy tiêm mao, là cơ quan giúp cho sự vận động và tạo dòng nước đưa thức ăn vào miệng. Phần trên cùng của đầu là cơ quan cảm giác.- Phần thân: có lớp vỏ cuticul không thấm nước, chỉ bị phân huỷ khi luân trùng chết.- Phần chân có dạng vòng, có khả năng co rút, phần tận cùng không phân đốt với hai mấu chân tiết chất dính giúp cơ thể dính vào giá thể (Fukúho, 1981 trích bởi Cái Ngọc Bảo Anh, 1999).

Luân trùng có kích thước cơ thể nhỏ dao động từ 100-360 μm, cơ thể có dạng hình trứng dài và hơi dẹp. Bờ bụng trước của vỏ có 4 gai và có dạng u lồi, giữa có khe hình chữ V. Bờ lưng trước có 6 gai hình tam giác và đỉnh nhọn . Cơ quan đặc trưng của luân trùng là mề nghiền, có tác dụng trong việc nghiền các hạt được ăn.

Luân trùng thuộc về lớp động vật đa bào nhỏ nhất. Trong số hơn 1000 loài đã được nhận biết, có tới 90% loài sống ở môi trường nước ngọt. Chiều dài cơ thể của rotifer khoảng 2mm, con đực nhỏ hơn và kém phát triển hơn con cái. Cơ thể của tất cả các loài gồm một số tế bào cố định (ví dụ các loài Brachionus chứa khoảng 1000 tế bào (xem hình 10.6 mô tả sơ lược một số loài rotifer nước mặn và nước ngọt).3.1.3 Phân bố và dinh dưỡng của luân trùng

Luân trùng phân bố rộng nhiều nơi trên thế giới, ở nước ta phân bố ở ao, đầm… với mật độ cao. Brachionus plicatilis là động vật ăn lọc nên thức ăn chủ yếu là vi tảo, vi khuẩn, mùn xác hữu cơ, vật thể lơ lửng trong nước.

3.1.4 Sinh trưởng và dinh dưỡngDựa vào các đặc điểm hình thái khác nhau, người ta phân loại ra 2 dòng Brachionus là

dòng nhỏ (dòng S) và dòng lớn (dòng L)

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên18

Page 19: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

- Luân trùng dòng S là Brachionus rotundiformis, có chiều dài vỏ giáp từ 100-210 μm (trung bình là 160 μm). Trên vỏ giáp có gai nhọn.

- Luân trùng dòng L là Brachionus plicatilis, có chiều dài vỏ giáp từ 130-340 μm (trung bình là 239 μm). Trên vỏ giáp có các gai góc tù.

Theo James và Abu-Rezeq (1989b), trọng lượng khô của luân trùng dòng S là 0,22μg và luân trùng dòng L là 0,33μg.

Luân trùng dòng S và L sinh trưởng với tốc độ khác nhau, có khả năng chịu đựng nhiệt độ khác nhau và có nhiệt độ sinh trưởng tối ưu khác nhau (Fushuko, 1989). Dòng S sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 28-35oC.  Dòng L đạt sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ từ 18-25oC.

Luân trùng B. plicatilis là loài ăn lọc không chọn lọc, thức ăn có kích thước 20-25 μm mang đến miệng nhờ sự chuyển động của vòng tiêm mao (Dhert, 1996) thông qua hoạt động bơi lội. Trong tự nhiên, các loại thức ăn thường được luân trùng sử dụng là tảo, vi khuẩn, nấm men, chất hữu cơ lơ lững trong nước.

Brachionus plicatilis with resting egg Brachionus rotundiformis with parthenogenesis egg       (photograph by Jung Min-Min) (photograph by Jung Min-Min)

3.1.5 Đặc điểm sinh sản và vòng đời của luân trùng

Luân trùng có tuổi thọ ngắn, trung bình 3.4 - 4.4 ngày ở điều kiện nhiệt độ 25°C. Chúng có thể đạt đến giai đoạn trưởng thành chỉ 0.5 - 1.5 ngày sau khi nở hay đẻ. Sau đó, con cái có thể đẻ liên tục, mỗi lần cách nhau khoảng 4 giờ. Suốt đời sống, con cái có thể tham gia đẻ 10 lứa. Tuy nhiên, khả năng sinh sản của con cái còn tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường, đặc biệt là nhiệt độ.

Vòng đời của luân trùng có sự luân phiên giữa 2 hình thức sinh sản (hình 10.5):

Sinh sản vô tính: con cái vô tính sẽ sinh ra trứng lưỡng bội (2n) và sẽ phát triển thành con cái vô tính. Con cái này sinh sản với tốc độ

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên19

Page 20: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

nhanh, nhịp sinh sản khoảng 4 giờ dưới điều kiện thuận lợi. Tốc độ sinh sản phụ thuộc vào điều kiện nuôi và tuổi của luân trùng. Đây là hình thức sinh sản nhanh nhất để tăng quần thể luân trùng và là hình thức quan trọng trong hệ thống nuôi luân trùng.

Sinh sản hữu tính: Trong vòng đời của luân trùng, khi có sự biến động đột ngột của điều kiện môi trường như nhiệt độ nồng độ muối… luân trùng sẽ chuyển sang hình thức sinh sản hữu tính. Trong quá trình này xuất hiện cả con cái vô tính và con cái hữu tính, chúng đều có hình thái giống nhau, khó phân biệt tuy nhiên con cái hữu tính sẽ sinh ra trứng đơn bội (1n). Con cái hữu tính có 3 kiểu sinh sản:

- Con non sinh ra từ những trứng đơn bội không thụ tinh sẽ phát triển thành con đực. Con đực có kích thước bằng 1/3 kích thước con cái. Chúng không có ống tiêu hoá và bàng quang nhưng có tinh hoàn đơn với nhiều tinh trùng thành thục.

- Trứng nghỉ: là trứng đơn bội đã thụ tinh. Trứng nghỉ có vách tế bào dày giúp nó chịu đựng qua điều kiện khắt nghiệt và khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ nở thành con cái vô tính3.2 Kỹ thuật nuôi luân trùng3.2.1 Điều kiện nuôi

 Nhiệt độ Nhiệt độ thích hợp cho luân trùng phụ thuộc vào hình thái của chúng. Luân trùng dòng

lớn (dòng L) sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ 18-25°C trong khi luân trùng dòng nhỏ (dòng S) thích hợp với nhiệt độ là 28-35°C, nhưng nhìn chung dao động nhiệt độ thích hợp cho luân trùng là 20-30°C (Fulks và Main, 1991). Nhiệt độ ảnh hưởng đến thành phần sinh hoá và khả năng tiêu thụ thức ăn của luân trùng. Ở nhiệt độ cao sẽ tăng khả năng tiêu thụ thức ăn đồng thời tăng chi phí thức ăn. Ở nhiệt độ cao, luân trùng sẽ tiêu thụ rất nhanh nguồn carbohydrate vầ chất béo dự trữ (Dhert, 1996).Bảng 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt động sinh sản của Brachionus plicatlis (Theo Ruttner-Kolisko, 1972)Nhiệt độ (0C) 15 20 25Thời gian để phát triển phôi (ngày) 1,3 1,3 0,6Thởi gian đẻ các con cái non đẻ lần đầu (ngày) 3,0 1,9 1,3Khoảng thời gian giữa hai lần đẻ (giờ) 7,0 5,3 4,0Tuổi thọ (ngày) 15 10 7Số trứng do 1 con cái đẻ trong cuộc đời của nó 23 23 20

pH: Trong tự nhiên luân trùng có thể sống ở pH từ 5-10, thích hợp nhất ở 7,5-8,5 (Hoff và Snell, 2004). Hoạt động bơi lội và hô hấp của luân trùng hầu như không thay đổi khi pH trong khoảng 6,5-8,5 và suy giảm khi pH dưới 5,6 hoặc trên 8,7 (Nogrady 1993). Hoạt động bơi lội của luân trùng trong môi trường kiềm giảm nhanh hơn trong môi trường axit.

Độ mặn: Độ mặn thích hợp nuôi luân trùng được xác định nằm trong khoảng 4 – 35 ppt (Lubzens, 1987), tốt nhất là 25 ppt ( Spektorova, 1998 trích Như Văn Cẩn, 1999). Mặc dù, luân trùng có thể tồn tại ở độ mặn 1-97 ppt, nhưng nó chỉ phát triển tốt ở độ mặn tối ưu, sự biến đổi đột ngột về độ mặn có thể làm luân trùng ngừng hoạt động, gây chết hoặc làm giảm chất lượng luân trùng, điều này có ý nghĩa khi ta sử dụng luân trùng để làm thức ăn cho ấu trùng động vật biển trước khi cho ấu trùng ăn ta cần phải làm thuần đến độ mặn thích hợp.

Oxy hòa tan: Ngoài hai yếu tố chính là nhiệt độ và độ mặn thì các yếu tố như oxy hoà tan, NH3 … cũng có những ảnh hưởng theo các mức độ khác nhau. Trong nuôi sinh khối với mật độ cao cần quan tâm tới việc bổ sung ôxy, nhưng cũng không nên sục khí quá mạnh bởi có thể làm tổn thương tới luân trùng. Luân trùng có thể tồn tại trong nước với hàm lượng ôxy thấp tới 2 mg/l.

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên20

Page 21: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Ánh sáng : Khi so sánh hệ thống nuôi ngoài trời với ánh sáng mặt trời đầy đủ và nuôi trong điều kiện tối, Fukusho (1989) nhận thấy luân trùng B. plicatilis phát triển tốt trong điều kiện ánh sáng đầy đủ. Theo Fulks và Main (1991), ánh sáng kích thích sự phát triển của luân trùng nhờ vào sự gia tăng phát triển của vi khuẩn quang hợp và tảo trong bể nuôi.

NH3 : NH3 gây độc đối với động vật thủy sinh. Hàm lượng N-NH3 trong hàm lượng tổng cộng N-NH4

+ (TAN) có phụ thuộc vào pH và nhiệt độ. Fulks và Main (1991) đã nêu ra mối quan hệ giữa hàm lượng NH3 và mật độ luân trùng thấp trong bể nuôi luân trùng. Họ cũng đã điều tra về ảnh hưởng tức thời và lâu dài của NH3 đến tốc độ phát triển và sinh sản của luân trùng và đi đến kết luận “NH3 là một trong những yếu tố hạn chế sự phát triển quần thể trong hệ thống nuôi luân trùng”. Hoff và Snell (2004) đề nghị hàm lượng NH3 trong bể nuôi luân trùng không nên vượt quá 1 ppm. NH3 ở nồng độ 8-13 ppm sẽ làm giảm 50% sức sinh sản và tốc độ tăng trưởng của quần thể  (Fulks và Main, 1991).

N-NO2- : Theo Groeneweg and Schluter (1981), hàm lượng N-NO2

- đạt từ 10-20ppm không gây độc đối với luân trùng Brachionus rubens. Lubzens (1987) cho rằng ở nồng độ 90-140 ppm N-NO2

- gây độc đối với luân trùng. 3.2.2 Các loại thức ăn nuôi luân trùng và cách cho ăn

Luân trùng thuộc nhóm ăn lọc không chọn lọc nên việc có thể sử dụng nhiều loại thức ăn để nuôi chúng. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của thức ăn sẽ quyết định giá trị dinh dưỡng cũng như năng suất nuôi luân trùng. Do đó, việc chọn lựa nguồn thức ăn thích hợp để nuôi luân trùng sẽ quyết định đến năng suất và giá trị của luân trùng. Thức ăn sử dụng cho nuôi luân trùng chủ yếu là tảo, men bánh mì (yeast) và thức ăn nhân tạo. Sử dụng tảo làm thức ăn cho luân trùng

Theo James và ctv. (1983), cho luân trùng ăn bằng vi tảo sẽ tăng năng suất nuôi, trong đó luân trùng phát triển tốt khi sử dụng các loài tảo Chlorella, Nannochloropsis oculata, Isochrysis, Tetraselmis…

Tảo biển được coi là thức ăn tốt nhất nuôi luân trùng vì có giá trị dinh dưỡng cao, giàu vitamin, phân tán tốt trong nước và đặc biệt không làm ô nhiễm nước. Tuy nhiên trong thực tế các trại sản xuất khó có k năng cung cấp đủ tảo cho nuôi luân trùng. Bởi vì, luân trùng có sức tiêu thụ thức ăn khá lớn, một con cái có thể tiêu thụ một lượng tảo tương đương 5-10 lần thể tích cơ thể chúng (Banabe, 1991 trích bởi Như Văn Cần, 1999). Trong khi đó, việc sản xuất tảo với số lượng lớn lại đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn cơ sở vật chất và nhiều nhân công. Ngoài ra, những rủi ro do bị nhiễm bẩn và những biến đổi theo thời gian trong giá trị thức ăn của tảo vẫn còn là vấn đề tồn tại với bất kỳ trại sản xuất giống cá biển nào. Để hạn chế vấn đề này các nhà nghiên cứu cố gắng tìm cách thay thế tảo bằng các thức ăn nhân tạo làm thức ăn bổ sung hoặc thay thế hoàn toàn tảo. Sử dụng men bánh mì làm thức ăn cho luân trùng

Men bánh mì là những tế bào nấm men có kích thước 5-7 μm có hàm lượng protein cao (45-52%) và rẻ tiền được sử dụng làm thức ăn cho luân trùng. Tuy nhiên, nếu chỉ cho luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh mì thì năng suất không ổn định và quần thể luân trùng mau tàn (Hirayama, 1987; Komis, 1992). Nguyên nhân chủ yếu là do khó quản lý chất lượng nước nuôi, men bánh mì khó tiêu cần trợ giúp thêm vi khuẩn tiêu hóa. Hơn nữa, bản thân men bánh mì có giá trị dinh dưỡng kém (chỉ giàu protein, thiếu các thành phần khác). Mặt khác, luân trùng chỉ ăn men bánh mì có tốc độ sinh trưởng và sinh sản thấp, điều này dẫn đến phải kéo dài chu kỳ nuôi mới đạt được mật độ mong muốn. Cho ăn bằng men tươi thì tốt hơn men khô nhưng khó quản lý chất lượng nước và sự phát triển của vi khuẩn trong hệ thống nuôi. Khi cho ăn bằng men bánh mì rất khó giải quyết việc dư thừa thức ăn, điều này dễ nhận biết do thành bể nuôi có độ nhớt cao, nước có mùi hôi và thức ăn dư đóng thành cục trôi nổi trong nước (Hoff và Snell, 2004).

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên21

Page 22: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Thức ăn nhân tạo cho luân trùngHiện có nhiều loại thức ăn nhân tạo đặc chế cho luân trùng được bán trên thị trường.

Các thức ăn này có thành phần chủ yếu là men bánh bì được bổ sung dinh dưỡng như các amino acid và các acid béo thiết yếu, các vitamin và khoáng, nhằm cân bằng dinh dưỡng và nâng cao sinh trưởng của luân trùng. Các thành phần bổ sung trong thức ăn nhân tạo này đều nhằm mục đích là nâng cao hoạt tính của men (Hoff và Snell, 2004).Cách cho luân trùng ăn

Do luân trùng có đặc tính ăn lọc và liên tục nên khi cho ăn phải cung cấp thức ăn với lượng vừa phải với khoảng cách cho ăn ngắn nhằm hạn chế tình trạng trong bể luân trùng thừa thức ăn (làm giảm chất lượng nước) nhưng luân trùng vẫn bị đói (do không cung cấp thức ăn mới kịp thời). Như vậy, tần suất cho ăn là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và tốc độ phát triển của luân trùng. Luân trùng phải được cho ăn thường xuyên với lượng nhỏ nhằm duy trì chất lượng nước và tránh trường hợp cho ăn thừa hoặc bỏ đói luân trùng. Ngoài ra, nếu luân trùng bị đói trước khi thu hoạch thì giá trị dinh dưỡng của chúng sẽ rất thấp. Đây cũng là một nguyên nhân làm tăng tỉ lệ hao hụt của ấu trùng tôm cá khi sử dụng luân trùng làm thức ăn.

Ngoài ra, để tăng giá trị dinh dưỡng và giảm giá thành sản xuất luân trùng, người ta thường sử dụng kết hợp các loại thức ăn với nhau mà phổ biến nhất là kết hợp giữa men bánh mì và tảo. Lượng tảo cho vào càng nhiều càng tốt bởi vì nó không chỉ làm thức ăn cho luân trùng mà còn có tác dụng cải thiện chất lượng môi trường nước nuôi và là nhân tố khống chế vi khuẩn gây bệnh (Dhert, 1996).3.2.4 Các hệ thống nuôi luân trùng

Theo Lubzens (1987), hệ thống nuôi luân trùng rất đa dạng, nhưng cơ bản là các dạng sau: nuôi theo mẻ, nuôi bán liên tục, và nuôi liên tục. Nuôi theo mẻ

Người ta còn xem phương pháp này là "phương pháp thả lặp lại" hay là "phương pháp thu hoạch toàn bộ", theo đó luân trùng được thu hoạch toàn bộ khi đạt đến mức mật độ nhất định. Mật độ thu hoạch của luân trùng nuôi theo phương pháp này thường là 300-500 ct/ml (Morizane, 1991).

Đây là phương pháp nuôi quảng canh, cần nhiều bể nuôi để có thể có đủ luân trùng cho ấu trùng tôm cá ăn hàng ngày vì mỗi bể nuôi phải mất nhiều ngày nuôi trước khi thu hoạch. Khi thu hoạch luân trùng, nước nuôi được loại bỏ, dụng cụ nuôi được tiệt trùng và sau đó luân trùng được thả lặp lại để tiếp tục một đợt nuôi mới. So với các phương pháp khác thì đây là phương pháp ít rủi ro, bởi vì kỹ thuật nuôi đơn giản nhưng không có hiệu quả cao, hao phí nhân công, thời gian, dụng cụ và phương tiện lao động (Trotta, 1980;  Fushimi, 1989).

Yoshimura và ctv. (1997) đã cải tiến nâng cao mật độ luân trùng đến 1.000-10.000 ct/ml qua việc cung cấp khí oxy, điều chỉnh pH và cung cấp thức ăn đầy đủ bằng Chlorella cô đặc.Nuôi theo phương pháp bán liên tục

Theo Lubzens (1987), hệ thống nuôi luân trùng bán liên tục gồm các bể có thể tích nhỏ từ vài chục lít đến 200 m3 nhưng nuôi với mật độ luân trùng cao. Khi mật độ luân trùng vượt qua mật độ nhất định (còn gọi là mật độ duy trì) thì một phần sinh khối luân trùng sẽ được thu hoạch để làm thức ăn cho ấu trùng tôm cá và quá trình thu hoạch này được lặp lại định kỳ cho đến khi bể nuôi bị tàn. Fu và ctv (1997) đã phát triển một hệ thống nuôi luân trùng trong bể 100 lít bằng tảo Chlorella cô đặc với mật độ ban đầu là 3.800 ct/ml và khi mật độ vượt quá 5.000 ct/ml sẽ tiến hành thu hoạch một phần nhằm duy trì mật độ ổn định là 5.000 ct/ml và chu kỳ nuôi kéo dài trong 38 ngày. Trong hệ thống nuôi bán liên tục, các sản phẩm thải, thức ăn dư thừa tích tụ làm chất lượng môi trường nước nuôi kém, nó là

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên22

Page 23: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

nguyên nhân làm cho hệ thống nuôi này không an toàn bằng phương pháp nuôi theo mẻ. Cần phải lọc nước nhằm loại bỏ các chất cặn bả này để nâng cao chất lượng nước nuôi và làm giảm lượng vi khuẩn trong nước (Fushimi, 1989). Do đó, người ta lắp đặt các bộ lọc vào hệ thống nuôi nhằm cải thiện chất lượng nước nuôi.

Nhiều bộ lọc chất cặn bã đã được thiết kế cho luân trùng như bộ lọc bằng đá (Mori, 1970),  bể lọc bằng plastic nhám (Kureha và ctv, 1977), bộ lọc bằng sỏi mịn (Hirata và ctv, 1979), bộ lọc rời (Yoneta và ctv,1973) hay lọc sinh học tuần hoàn (Suantika và ctv, 2000). Theo Fushimi (1989), rất khó lấy chất bẩn ra khỏi những bể lớn nuôi luân trùng theo kiểu bán liên tục, tuy có nhiều kiểu thiết kế khác nhau nhưng có thể chia thành hai kiểu thiết bị lọc chủ yếu ở hệ thống nuôi luân trùng bán liên tục là kiểu lọc cho trực tiếp vào bể nuôi và kiểu lọc rời nối với bể nuôi luân trùng.Nuôi theo phương pháp liên tục

Nuôi sinh khối luân trùng theo phương pháp liên tục có qui mô nhỏ hơn nuôi theo mẻ nhưng quản lý thâm canh hơn. Ðây là phương pháp có hiệu quả nhất để sản xuất ra luân trùng có chất lượng cao. Vì vậy máy móc trong mô hình nuôi được duy trì ở những điều kiện xác định hết sức nghiêm ngặt. Mô hình này luôn luôn khép kín và thực hiện trong phòng, nên dẫn đến hạn chế là qui mô nhỏ và chi phí cao.

Mô hình nuôi liên tục tiến bộ nhất là mô hình kết hợp với chemostat (James và Abu-Rezeq, 1989a). Chemostat hoạt động trên nguyên tắc giới hạn hàm lượng thức ăn và tỉ lệ cho ăn. Hàm lượng thức ăn cho vào và lượng luân trùng thu hoạch sẽ được tính toán trước và duy trì ổn định. Một lượng cố định luân trùng sẽ được đem ra và bù vào bằng một lượng cố định thức ăn cần thiết. Như vậy, chemostat duy trì tốc độ sinh trưởng của luân trùng ổn định (bằng cách cung cấp đều đặn thức ăn) chứ không duy trì mật độ cá thể (Droop, 1975).

Thuận lợi cơ bản của phương pháp này là kiểm soát chặt chẽ chất vẩn và chất lượng nước, kiểm soát sức sản xuất của luân trùng hằng ngày, tốn ít nước, ít tảo và tiết kiệm nhân công. Trong phương pháp này luân trùng được cho ăn tảo và men bánh mì, chúng được cung cấp liên tục theo một tỉ lệ xác định trước. Bể nuôi được pha loãng mỗi ngày bằng một thể tích nước nhất định, và đồng thời thu hoạch luân trùng theo thể tích nước này mỗi ngày (James và Abu-Rezeq, 1989b).

James và Abu-Rezeq (1989a và 1989b) mô tả hệ thống chemostat có thể tích chuẩn là 1m3. Chế độ cho ăn gồm 20 triệu tế bào tảo Nanochloropsis/ml và 0,3-0,4 g men bánh mì/1 triệu luân trùng/ngày. Tảo được nuôi trong chemostat riêng biệt và duy trì ở mật độ 50 triệu tb/ml sau đó pha loãng và trộn đều bằng máy để đạt mật độ thích hợp trước khi đưa vào bể cho luân trùng ăn. Tỉ lệ thu hoạch là 500 lít/1m3 mỗi ngày cho luân trùng dòng L. Sức sản xuất trung bình từ hệ thống này là 187 triệu luân trùng/ngày (James và Abu-Rezeq, 1989a).Nuôi luân trùng mật độ cao

Vào những năm 1980, các trại giống cá biển ở Nhật Bản nuôi luân trùng ở mật độ 100-300 ct/ml trong bể 100-1000m3 để sản xuất 1-2 tỉ luân trùng/ngày (Yoshimura và ctv, 1997). Để nuôi tảo cho luân trùng ăn, thể tích bể cần gấp 2-3 lần, cho nên 70-80% tổng số bể của trại phải dùng vào việc sản xuất ra thức ăn tươi sống và chỉ còn 20-30% bể là dùng để ương cá.

Vào đầu những năm 1990, người ta khám phá ra việc cô đặc tảo Chlorella và đông lạnh để cho luân trùng ăn trong nhiều ngày (Hagiwara và ctv, 2001). Tảo Chlorella cô đặc được xem là thức ăn kinh tế thay thế cho tảo Nanochloropsis. Khi nhu cầu nuôi tảo ở các trại cá giảm đi, thì nhu cầu về bể trong trại giống cũng giảm xuống rất nhiều. Tảo Chlorella cô đặc cho phép sản xuất ra luân trùng ở mật độ rất cao 10.000-25.000 ct/ml, làm giảm 2/3 công lao động, giảm 1/3 giá thành và giảm 75% nhu cầu bể chứa (Yoshimura  và ctv, 1997).

Yoshimura và ctv (1997) đã mô tả hệ thống nuôi luân trùng mật độ cao gồm một bể 1 m3 nuôi theo chế độ bán liên tục, thu hoạch 2 ngày/lần. Luân trùng B. rotundiformis được

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên23

Page 24: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

thả ở mật độ 10.000 ct/ml và nuôi thành 25.000 ct/ml trong 2 ngày ở nhiệt độ 25oC và nồng độ muối 25-30 ppt. Việc nuôi ở mật độ quá cao này có thể thực hiện được bởi vì tảo Chlorella cô đặc có thể cung cấp đầy đủ thức ăn cho luân trùng nhưng ít làm suy giảm chất lượng nước nuôi. Tảo Chlorella được cô đặc ở mật độ cao khoảng 15 tỉ tb/ml và được bơm liên tục để cung cấp thức ăn cho luân trùng.

Bên cạnh kỹ thuật nuôi luân trùng mật độ cao dựa trên tảo cô đặc (Abu-Rezq và ctv, 1997; Fu và ctv, 1997; Yoshimura và ctv, 1997), Suantika và ctv (2000) đã phát triển hệ thống nuôi luân trùng mật độ cao sử dụng thức ăn nhân tạo (Culture Selco® - INVE N.V., Bỉ). Một hệ thống lọc sinh học thích hợp được thiết kế để duy trì chất lượng nước trong bể nuôi luân trùng và nâng mật độ luân trùng từ 250 ct/ml lên đến 8.000 ct/ml sau 8 ngày nuôi. Khi duy trì mật độ nuôi ở 3.000 ct/ml (thu hoạch hàng ngày khi mật độ vượt trên 3000 ct/ml), hệ thống đã hoạt động liên tục trong 32 ngày và đã sản xuất được tổng cộng 1,7 x 109

cá thể luân trùng/bể 100 lít (tương đương với 605±285 ct/ml/ngày)Nuôi luân trùng trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi

Nghiên cứu thiết lập hệ thống nuôi luân trùng tuần hoàn kết hợp với tảo và cá rô phi bước đầu đã thực hiện tại Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Cần Thơ. Hệ thống nuôi được thiết lập trên cơ sở kết hợp hệ thống nuôi luân trùng tuần hoàn và kỹ thuật sản xuất nước xanh từ cá rô phi. Thử nghiệm bước đầu của Hàn Thanh Phong (2002) cho thấy luân trùng có thể phát triển tốt trong hệ thống tuần hoàn kết hợp với bể nước xanh (tảo Chlorella và cá rô phi) mà không cần cho luân trùng ăn (chỉ sống nhờ tảo Chlorella từ bể nước xanh), với tỉ lệ thể tích bể nước xanh/bể nuôi luân trùng là 15:1, mật độ luân trùng cao nhất đạt đến 1.478±96 ct/ml vào ngày nuôi thứ 7.3.3 Giá trị dinh dưỡng của rotifer

Rotifer rất giàu protein (52-59% CP) và chất béo (13% EE), đặc biệt là các HUAF (3,1% n-3 HUFA). Rotifer là thức ăn lý tưởng của ấu trùng tôm và cá vì chúng có kích thước nhỏ, bơi chậm, sinh trưởng với mật độ cao và sinh sản nhanh. Giá trị dinh dưỡng của rotifer phụ thuộc vào môi trường. Người ta có thể tăng giá trị dinh dưỡng của rotifer bằng cách nuôi rotifer trong các môi trường được làm giầu các chất dinh dưỡng như acid béo omega-3, vitamin C, protein ...

Ví dụ, hàm lượng HUFA của rotifer nuôi trong môi trường tảo Chlorella sp., men bánh mì hay các môi trường nhân tạo khác của hãng Selco đã thay đổi rất nhiều theo với các môi truờng khác nhau, HUFA của rotifer nuôi trong môi trường của hãng Selco có thể tăng 5-10 lần so với môi trường tảo chlorella hay tảo kết hợp men bánh mì (đồ thị 10.4).

Đồ thị 10.4. Hàm lượng HUFA của rotifer nuôi trong các môi trường khác nhau (CHL: Chlorella sp., Men bánh mì: BY, Protein Selco: PS, môi trường Selco: CS và Super Selco: SS)

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên24

Page 25: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

3.4 Rotifer trong nuôi trồng thủy sảnLuân trùng giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hoá và hấp thụ. Trong thành phần axit béo không

no có chứa EPA, DHA, hai loại này được coi là axit béo thiêt yếu có tác động đến tỷ lệ sống và sự phát triển của cá biển (Sargent, 1989; Olsen và ctv, 1993; Kanazawa, 1993; Dhert và Sorgeloos, 1995 trích bởi Như Văn Cẩn, 1999). Mặc dầu, khả năng tổng hợp HUFA n-3 của luân trùng rất kém, nhưng bù lại luân trùng lại dễ hấp thu và tích luỹ các loại axit này. Điều này rất có ý nghĩa khi ta áp dụng các biện pháp làm giàu luân trùng trước khi cho ấu trùng cá biển ăn, nhằm năng cao tỷ lệ sống, sức sinh trưởng của các đối tượng nuôi.

Wendy (1991) từ kết quả nghiên cứu của Nagata (1989) cho biết Brachionus plicatilis được sử dụng rất rộng rãi trên thế giới trong ương nuôi ấu trùng của trên 60 loài cá biển và 18 loài giáp xác. Zheng và ctv. (1994) nghiên cứu sử dụng rotifer cho tôm he cũng khẳng định Brachionus plicatilis là một trong những loại thức ăn thích hợp nhất cho ấu trùng tôm he ở giai đoạn Mysis 3. Brachionus plicatilis còn là nguồn thức ăn tốt cho ương ấu trùng tôm Penaeus monodon, P. indicus và P. Merguiensis

Cruz và ctv (1989) báo cáo cá bột rô phi cho ăn kết hợp thức ăn chế biến với rotifer đạt được trọng lượng cuối, tốc độ tăng trưởng hàng ngày và năng suất cao hơn so với cá bột chỉ cho ăn một loại thức ăn, hoặc rotifer hoặc thức ăn chế biến. Việc sử dụng rotifer làm thức ăn cho cá bột mặc dù không làm tăng tỉ lệ sống của cá, nhưng lại làm tăng tốc độ tăng trưởng và năng suất cá bột.

CHƯƠNG 4: ARTEMIA4.1 Hệ thống phân loại Artemia

Ngành: ArthropodaLớp: Crustacea

Lớp phụ: BranchiopodaBộ: Anostraca

Họ: ArtemiidaeGiống: Artemia Leach (1819).

4.2 Vòng đời và đặc điểm sinh học ArtemiaArtemia có vòng đời

ngắn (ở điều kiện tối ưu có thể phát triển thành con trưởng thành sau 7-8 ngày nuôi), sức sinh sản cao (Sorgeloos, 1980b; Jumalon, et al., 1982) và quần thể Artemia luôn luôn có hai phương thức sinh sản là đẻ trứng và đẻ con (Browne et al., 1984).

Hình 2.1:Vòng đời phát triển của Artemia (Jumalon et al., 1982)

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên25

Page 26: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Artemia trưởng thành có kích thước trên dưới 1cm, có hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng, có râu anten và 11 cặp đốt ngực. Con đực có cơ quan giao cấu (penis) ở phần sau của vùng thân. Con cái có tử cung ngay sau cặp đốt ngực số 11. Trứng phát triển trong hai buồng trứng ở xoang bụng. Khi chín trứng trở nên tròn và đi vào tử cung theo ống dẫn trứng (hình 10.7).

Trong môi trường tự nhiên, Artemia sản sinh cyst, các cyst này nổi trên mặt nước. Cyst có một lớp vỏ cứng, màu nâu đậm, bảo vệ rất hiệu quả phôi sống ở bên trong và chống lại được các điều kiện bất lợi như khô, nhiệt độ chênh lệch

từ 0 - 100oC, bức xạ năng lượng cao và một số dung môi hữu cơ. Cyst khô có thể dự trữ hàng tháng hay hàng năm mà không ảnh hưởng đến độ nở.

Khi ngâm vào nước biển, từ hình tròn lõm hai mặt, cyst biến thành hình cầu bên trong chứa phôi. Sau 20 giờ vỏ ngoài của cyst vỡ ra, phôi xuất hiện với màng bọc bên ngoài, đó là nauplii. Nauplii phát triển qua nhiều giai đoạn, khi bước vào giai đoạn bung dù (phôi treo dưới vỏ rỗng) thì có nghĩa là nauplii đã phát triển hoàn toàn. Sau khi màng ngoài của nauplii vỡ ra, nauplii bước vào giai đoạn bơi tự do (hình 10.8).

Thực ra phôi phát triển qua nhiều giai đoạn, giai đoạn đầu gọi là instar I (kích thước 400-500 microns, instar I chỉ sống bằng chất dự trữ trong túi lòng đỏ), sau 8 giờ thì vào giai đoạn instar II, ở giai đoạn này nhận được thức ăn có kích thước 1-50µ như tảo đơn bào, vi khuẩn... Sau 15 lần lột xác (từ instar I đến instar XV), ấu trùng trở thành Artemia thành thục. Bình thường, 200.000-300.000 nauplii nở ra từ 1 g cyst chất lượng cao.

Điều kiện tối ưu cho cyst nở: nhiệt độ > 250C (tốt nhất 28oC), độ mặn 5-35 ppt, nước sục khí và tuần hoàn tốt, ánh sáng đầy đủ, pH = 8, mật độ không quá 5 g cyst/lit nước.

4.3 Tính ăn của ArtemiaArtemia là loài ăn uống

không kén chọn, chúng ăn từ bã hữu cơ, vi tảo đến vi khuẩn. Thức ăn không được tiêu thụ trực tiếp mà được đưa vào miệng thành từng gói. Nếp gấp giữa những cái chân mở rộng khi chúng khua về phía trước. Nước được hút vào vùng này từ phía dưới và những cái lông mao lọc lấy thức ăn từ dòng nước. Khi những cái chân khua về phía sau, nước bị đẩy ra khỏi vùng này và thức ăn được giữ lại trong một rãnh ở giữa mỗi chân. Rãnh này tiết ra chất keo dính để gắn kết thức ăn thành từng viên. Một khi những viên thức ăn đã sẵn sàng, các lông mao sẽ di chuyển chúng đến miệng. Kích thước tối đa của các viên thức ăn là 50 µm với ấu trùng và 60 µm với artemia trưởng thành.

4.4 Giá trị dinh dưỡngCăn cứ thành phần axit béo, Artemia được chia làm hai nhóm: nhóm chứa

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên26

Page 27: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

nhiều EFA, phù hợp với ấu trùng cá nước ngọt (có ở Nam Mỹ); nhóm chứa nhiều PUFA (20: 5ω3) và DHA (22: 6ω3), phù hợp với ấu trùng cá nước mặn (có ở hồ Saskachewan Canada, Greatlake, Mỹ và Tien-tsin, Trung quốc).

Cyst của Artemia giầu protein (50%), chất béo (14%), nauplii có hàm lượng protein thấp hơn một chút nhưng hàm lượng chất béo lại cao hơn (bảng 10.4). Tỷ lệ acid amin tự do so với protein tổng số của nauplii cao hơn cyst; hàm lượng acid amin của nauplii khác nhau nhiều theo vùng địa lý (bảng 10.5). Phổ acid béo của cyst và nauplii giống nhau nhưng khác nhau về mức Viatmin C trong cyst ở dạng ascorbic acid 2-sulfate (AAS), là dạng rất bền nhưng có độ lợi dụng sinh học kém. Trong quá trình cyst nở thành nauplii, vitamin C được thủy phân thành dạng tự do, có độ bền thấp nhưng có độ lợi dụng sinh học cao đối với ấu trùng tôm cá.Bảng 10.4. Thành phần dinh dưỡng của cyst Artemia bỏ vỏ và nauplii instar I (% chất khô)

Hồ Nước Lớn Vịnh San Francisco

cysts nauplii Cysts naupliiProtein ± 50 41-47 ± 57 47-59Lipid ± 14 21-23 ± 13 16-27Carbohydrate - 11 - 11Tro ± 9 10 ± 5 6-14

Bảng 10.5. Thành phần acid amin của nauplii Artemia (mg.g-1 protein) (Seidel et al., 1980).

Macau, Brazil Great Salt Lake, UT-USA San Pablo Bay, CA-USA

Aspartic acid 110 113 141

Threonine 52 48 60

Serine 45 54 77

Glutamic acid 131 135 102

Proline 57 59 49

Glycine 60 60 74

Alanine 46 49 42

Valine 53 52 55

Methionine 22 37 26

Isoleucine 56 68 54

Leucine 89 100 84

Tyrosine 105 66 77

Phenylalanine 51 85 104

Pistidine 49 27 35

Lysine 117 93 87

Arginine 115 97 98

Bảng 10.6. Hàm lượng axit béo của cyst Artemia (vùng Hồ lớn, San Francisco)

C18:0 Stearic 9.0 mg/gC18:1 Oleic 27.2

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên27

Page 28: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

C18: Linoleic 9.1

C18:4 Octadecatetra 11.2

C20:0 Arachidic 1.1

C20:4 Arachidonic 4.5

C20:3 Eicosatrienoic 2.7

C20:5 Eicosapentaenoic (EPA) 4.1

C22:6 Docosahexaenoic (DHA) 0.1

Tổng Omega-3 Fatty Acids 4.0

Artemia được dùng để nuôi ấu trùng tôm penaeid giai đoạn ấu trùng sau và postlarval; nauplii mới nở thường cung cấp cho tôm ở lúc khởi phát giai đoạn mysis đầu. Tuy nhiên, penaeid thường ăn tảo trước khi ăn Artemia, thêm Artemia quá sớm trong chu kỳ sống của tôm sẽ xẩy ra hiện tượng cạnh tranh tảo giữa Artemia (Artemia không được tôm ăn) với tôm. Giải pháp thuận tiện là dùng nauplii đã làm chết

(bằng cách ngâm nhanh nauplii vào nước nóng 80oC hay làm lạnh ở -100C) hay sử dụng cyst Artemia khử vỏ. Tuy nhiên ấu trùng tôm nước ngọt lại có thể sử dụng tốt nauplii của Artemia, ấu trùng Macrobrachium có thể cho ăn nauplii mới nở ngay từ giai đoạn đầu.

Ấu trùng của nhiều loài cá biển như cá bơn (turbot), cá mú (grouper) chỉ có thể sử dụng Artemia sau thời kỳ ăn những mồi nhỏ như rotifer. Tuy vậy, thời kỳ ăn Artemia của ấu trùng cá biển tương đối dài (20-40 ngày) cho nên cyst Artemia vẫn là loại thức ăn sống được tiêu thụ nhiều nhất của ấu trùng cá biển (để sản xuất 1000 fry cần 200-500 g cyst Artemia).

Artemia làm thức ăn cho tôm biển: Artemia là thức ăn rất quan trọng trong ương nuôi ấu trùng và hậu ấu trùng tôm biển. Artemia bắt đầu cho ăn khi ấu trùng đạt đến giai đoaün Mysis1 hay ngay cả Zoae 2-3. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng, thành phần dinh dưỡng của những nguồn Artemia khác nhau và ngay cả ở những đợt sản xuất khác nhau là khác nhau. Amat nghiên cứu ảnh hưởng của các nguồn Artemia khác nhau lên ấu trùng một số loài tôm biển đã cho thấy rằng kết quả tốt nhất ở tôm ăn Artemia có thành phần HUFA cao nhất.

Việc sản xuất giống tôm càng xanh cũng phụ thuộc căn bản vào nguồn Artemia. Không như tôm biển, ấu tôm càng xanh có thể bắt đầu cho ăn từ giai đoạn đầu với Artemia mới nở. Tuy nhiên, cũng giống như tôm biển, trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh, ngoài Artremia cần bổ sung thêm các nguồn thức ăn nhân tạo khác để tăng cường dinh dưỡng và nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng.

Đối với cá biển, trong sản xuất giống, Artemia thường được bắt đầu cho ăn một tuần sau khi cho ăn bằng rotifer với kích cỡ nhỏ. Lượng Artemia cần cho sản xuất giống cá thường tốn hao nhiều hơn so với sản xuất giống tôm biển và tôm càng xanh. Kết quả sản xuất giống cá biển được nâng cao rất có ý nghĩa khi Artemia được làm giàu hóa HUFA.

Đối với cá nước ngọt, rất nhiều loài cá được ương nuôi trực tiếp ở ao sau khi hết giai đoạn noãn hoàng. Ấu trùng cá sẽ sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên trong ao như tảo, động vật phù du được gây nuôi bằng cách bón phân. Tuy nhiên, cũng có nhiều loài cá cần được ương nuôi trên bể như cá Basa, cá tra, cá lăng .., và vì thế Artemia là thức ăn rất quan trọng cho sản xuất giống những loài cá này.

Ngoài ra, trong nghề nuôi nuôi cá cảnh, cả ấu trùng Artemia và Artemia trưởng thành đều được sử dụng cho mục đích sản xuất giống hay nuôi.

Mặc dù Artemia có giá trị dinh dưỡng rất cao và có một số loài có thể dựa vào nguồn thức ăn là Atermia đơn độc, song, trong sản xuất giống, việc bổ sung các nguồn thức ăn nhân tạo hay làm giàu Artemia là điều rất cần thiết và rất phổ biến.ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên28

Page 29: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

4.5 Kỹ thuật nuôi Artemia trên ruộng muối4.5.1 Thời vụ sản xuất Artemia

Trùng hợp với thời vụ sản xuất muối khác nhau ở từng địa phương, chẳng hạng ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu mùa vụ sản xuất Artemia bắt đầu từ cuối tháng 11 và kết thúc vào đầu tháng 6 dương lịch hàng năm, trong khi quá trình này kéo dài từ đầu tháng 1 và kết thúc vào cuối tháng 8 ở khu vực Cam ranh.

Tuy nhiên, mùa vụ có thể kéo dài nếu nước mặn được chuẩn bị sớm và độ mặn trong ao được duy trì ở các tháng đầu của mùa mưa. 4.5.2 Xây dựng ao nuôi Artemia:

- Chọn điểm: Ngoài các yêu cầu về kỹ thuật trong lựa chọn địa điểm cấy thả, trước khi xây dựng kế hoạch cần lưu ý các điểm sau:

+ Gần nguồn nước biển (khắc phục tình trạng thiếu nước nhất là trong mùa khô)+ Thuận lợi trong giao thông (để vận chuyển nguyên liệu, phân bón...)+ An ninh (tránh trộm cắp, mất mát)- Diện tích: Để dể quản lý, diện tích ao nuôi khoảng 0.5 đến 1 ha là thích hợp nhất.

Ao thường có dạng hình chử nhật với chiều dài gấp 3 đến 4 lần chiều rộng. - Hướng ao: Trục dài hoặc đường chéo của ao nằm xuôi theo hướng gió chính của địa bàn, để giúp cho việc thu trứng sau này được thuận lợi, vì trứng nổi trên mặt nước sẻ được gió thổi tấp vào bờ cuối gió.

- Kỹ thuật xây dựng công trình: Ao nuôi thường được xây dựng theo hai dạng: riêng rẽ họăc trong cùng một hệ thống, ở ao riêng rẽ thường tốn kém hơn vì bờ ao cần được xây dựng chắc chắn và có hệ thống cấp tháo nước riêng biệt, ở hệ thống kết hợp chỉ cần chú ý tu sửa đê bao của toàn hệ thống còn kênh cấp tháo thì được phân bổ chung cho các ao nên giảm được chi phí.

- Công trình phụ: Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý, ao nuôi cần được lắp đặt các công trình phụ sau:

+ Lưới lọc cá: Dùng lưới nylon (cở mắc lưới từ 1-1.5 µm) để làm khung lọc nước hoặc may theo dạng vèo để hứng nguồn nước cấp vào ao.

+ Đập tràn: đập đất hoặc phai gổ lắp ở cống cho phép lớp nước nhạt tầng mặt (mùa mưa) được tháo bỏ nhằm duy trì độ mặn cho ao nuôi.

+ Nơi bón phân: được bố trí ngay nguồn nước cấp vào ao nuôi, thường được rào lại bằng tre hoặc lá dừa nước để tránh phân bị trôi dạt.

+ Rào phá sóng: được lắp đặt ở bờ cuối gió bằng các vật liệu rẻ tiền (tre, lá dừa nước...), nhằm phá sóng để trứng dể tập trung nơi thu hoạch.

+ Vách ngăn trứng: thường dùng nylon để lót bờ nơi thu hoạch nhằm tránh trứng thất thoát vào bờ đất, tuy nhiên cách này khá đắt tiền nên người dân thường dùng bùn nhão để tô láng góc bờ chỗ thu hoạch. 4.5.3 Quá trình thu gom nước mặn để thả Artemia

Nước mặn được chuẩn bị theo kỹ thuật làm muối, theo nguyên tắc bốc hơi nước biển để tăng độ mặn, để rút ngắn thời gian này nhiều biện pháp đã được sữ dụng như: nuôi nước mỏng, bừa trục, sang ao... để có đủ lượng nước và độ mặn theo yêu cầu, thường phải mất từ 2 đến 3 tuần ở khu vực Vĩnh châu Bạc liêu.4.5.4 Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống

Lượng nước và độ mặn: Lúc đầu vụ do nhiệt độ môi trường còn thấp, chỉ cần mực nước ngập trảng (đáy ao) vài phân (một đến hai lóng tai) là có thể xuống giống, tuy nhiên cũng cần tính toán sao cho lúc cá thể đạt cở trưởng thành mực nước phải đủ sâu để Artemia lẩn tránh sự săn bắt của chim.

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên29

Page 30: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Mặc dù Artemia có thể sống ở độ muối thấp, ta không nên cấy thả Artemia ở độ muối dưới 80 phần ngàn, vì lúc này còn hiện diện rất nhiều: Fabrea, copepod, tảo độc...hoặc tôm cá dữ làm hạn chế tăng trưởng hoặc tiêu diệt hoàn toàn số Artemia mới thả.

Địch hại Cách phòng ngừa+ Ao chưa thả giống  .Cá các loại Rút cạn nước ao, dùng vôi hoặc thuốc cá.Lab-lab, rong tạp các loại Dọn ao, bừa trục, phơi nền đáy+ Ao đã xuống giống  .Fabrea,copepod, tảo độc Cấp nước có độ muối cao hơn 80ppt .Cá các loại Dùng lưới chài để giăng bắt hoặc sang ao để gạn cá tạp.Lab-lab, rong tạp các loại Bừa trục, dọn đáy ao thường xuyên nếu cần thì tháo cạn cải tạo lại.Chim Dùng lưới gió, bù nhìn, pháo hoặc có người canh giữ trực tiếp Chuẩn bị thức ăn cho ao nuôi Artemia:

Bước này chỉ cần thiết cho những ao nghèo tảo thức ăn (nước ao không màu hoặc màu nhạt), để gây màu thường dùng các loại phân vô cơ (urea, lân...) hoặc hữu cơ (phân heo, phân gà, phân bò, phân dê, phân cút...) với liều lượng

+ Phân hữu cơ: 500 đến 1000 kg/ha+ Phân vô cơ : 50 đến 100 kg/haNhững điểm cần lưu ý trong thao tác thả giống:+ Cở giống thả: Cấy thả bằng giống mới nở (Naupli): hình thức này rất phổ biến, đặc

biệt ở những nơi mới bắt đầu thử nghiệm nuôi Artemia. Cấy giống cở nhỏ (Naupli giai đoạn I) có trở ngại là rất khó quan sát cá thể ở những ngày đầu, nhưng chúng có thể chịu đựng sự sai khác lớn về nhiệt độ và độ muối giữa nơi ấp nở và nơi cấy thả; do đó nếu kéo dài thời gian ấp nở ấu thể sẻ phát triển đến giai đoạn lớn hơn (Naupli giai đoạn II; tuỳ điều kiện nhiệt độ trong bể ấp, thường thời gian để chuyển từ Naupli giai đoạn I sang giai đoạn II mất khoảng 5 đến 8 giờ), khả năng trên sẻ giãm đi làm gia tăng tỉ lệ tử vong lúc cấy thả.

Cấy thả bằng giống lớn: khi cấy thả theo phương pháp này cần lưu ý là phải thuần hoá giống thả (cho một phần nước ao định thả vào thùng giống vừa chuyển đến) để chúng thích nghi dần với nhiệt độ và độ muối trước khi cấy thả vào ao.

+ Thời gian thả thích hợp: Thích hợp nhất là thời gian lúc sáng sớm (6 đến 7 giờ) hoặc chiều tối (17 đến 19 giờ), điều này cần nắm để tính toán kế hoạch ấp nở cho hợp lý.

+ Mật độ thả: Thường mật độ thả ở ao đất được đề nghị là 50 cá thể cho mỗi lít, tuy nhiên theo quan sát thực tế nếu ao nuôi được cấy thả ở mật độ lớn hơn 100 cá thể trên lít thì sau 2 tuần ao nuôi bắt đầu cho trứng, trong khi ở ao có mật độ thưa, quần thể phải trải qua giai đoạn tăng gia mật độ trước khi tham gia cho trứng.

+ Vận chuyển giống: Nếu nơi cấy thả khá xa (thời gian vận chuyển từ một giờ trở lên) nơi ấp nở hoặc ao cung cấp giống, giống nở cần được xan thưa, đóng oxy và hạ nhiệt độ của môi trường vận chuyển để giãm thấp tỉ lệ hao hụt.

+ Nơi thả giống: Thích hợp nhất là bờ ao phía trên hướng gió, hoặc đầu nguồn nước cấp nhằm đãm bảo cho giống được phân bố đều trong ao.4.5.5 Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi:

Cấp - tháo nước: Nhằm bù đắp sự thất thoát cột nước do thẩm lậu hoặc bốc hơi, mặt khác để cung cấp tảo thức ăn (nước xanh), lượng nước cấp vào ao phải thoả mãn việc duy trì độ muối (80 đến 120 phần ngàn) và độ đục (25 đến 35 cm) trong phạm vi tối hảo.

Tương tự, để đãm bảo chất lượng nước trong ao, thường thì sau một tháng rưỡi đến hai tháng tính từ lúc xuống giống, nên tiến hành thay từ 30% đến 50% lượng nước trong ao.

+ Bón phân - cho ăn: Bón phân (phân gà) từ 500 đến 1000 kg/ha/tháng

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên30

Page 31: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Urêa 50 đến 100 kg/ha/tháng Phân gà (hữu cơ) được bón trực tiếp vào ao Artemia (chúng lọc các chất dinh dưỡng

hoặc vi khuẩn có trong phân) hoặc ao bón phân để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi; đối với Uréa (vô cơ) chỉ nên bón ở ao bón phân. Để đơn giản trong việc đánh giá cơ ở thức ăn tự nhiên của ao bón phân và ao nuôi, ngoài độ đục cần thiết như đã nêu trên, thang màu đề nghị dưới đây dùng để đánh giá thành phần tảo trong ao:

Màu nước Thành phần tảo

Vàng nâu Khuê tảo (Diatom) thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao cho Artemia

Xanh lá cây nhạtTảo lục (Chlorophyta) đặc biệt là Chlamydomonas, không tốt cho Artemia

Xanh lá cây đậmTảo lam (Cyanophyta), nhiều độc tố lại kích thước lớn nên Artemia không thể sử dụng được

Cho ăn: thỉnh thoảng cám gạo được bổ xung (từ 10 đến 20 kg/ha/ngày) khi ao nuôi thiếu thức ăn, tuy nhiên hiệu quả sử dụng cám gạo của Artemia rất thấp (từ 10 đến 20%), nên phần lớn cám gạo kết lắng xuống đáy gây ô nhiễm môi trường (có thể khắc phục bằng cách sàng lọc kỹ trước khi đưa xuống ao), vì giá đắt nên việc dùng cám gạo không kinh tế lắm. 4.5.6 Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm

Tuỳ theo yêu cầu mà sản phẩm thu hoạch từ ao Artemia có thể là trứng bào xác hoặc sinh khối.

+ Trứng bào xác (cyst): Tuỳ theo cách quản lý ao và tình hình phát triển của quần thể, thường sau 2 tuần hoặc hơn tính từ lúc xuống giống, con cái bắt đầu mang trứng: trứng trắng (đẻ con), hoặc trứng nâu (trứng bào xác). Sau vài ngày ở ao có con cái mang trứng bào xác, ta có thể quan sát trứng nổi trên mặt của góc ao cuối gió có màu vàng sậm đến vàng nâu.

Dùng vợt lưới mịn hoặc ca để vớt trứng, do trứng có lẩn rác bẩn nên cần tách trứng bằng các lưới có các cở khác nhau:

- Lưới I: 1000 µm (1mm)- Lưới II: 400 µm (0.4mm)- Lưới III: 100 - 150 µm (0.1-0.15mm) Sau đó rữa sạch lại nhiều lần bằng nước trong ao, đoạn ngâm trứng trong nước muối

bảo hoà (300 ppt = 25 đến 30 chữ), hàng ngày nên đảo trộn trứng và rút bỏ cặn dưới đáy vật chứa. Định kỳ hàng tuần nên chuyển trứng cho sấy khô và bảo quản.

+ Sinh khối (biomass): Được dùng làm thức ăn phổ biến trong các trại giống và trại ương tôm cá. Để duy trì quần thể Artemia, một phần sinh khối trong ao nuôi được thu hoạch theo định kỳ (hàng tuần hoặc hàng tháng).

Sinh khối được thu bằng cách kéo lưới trực tiếp trong ao nuôi hoặc tháo một phần nước trong ao nuôi và dùng lưới để chặn sinh khối lại. Trong sử dụng có thể dùng sinh khối tươi trực tiếp hoặc chế biến hay đông lạnh để dùng dần về sau.Phương pháp sử dụng trứng bào xác:Sự phát triển của trứng bào xác:

Sau khi ấp trứng từ 1-2 giờ, trứng sẽ hút nước. Sau 12-15 giờ vỏ trứng vỡ ra, xuất hiện tiền ấu trùng nằm trong màng nở. Khi màng nở vỡ ra. Ấu trùng sẽ bơi tự do trong nước.Các thông số môi trường về điều kiện nở trứng Artemia:

- Nhiệt độ: thích hợp là 25 - 300C. Dưới 250C trứng chậm nở. Trên 350C trứng ngừng trao đổi chất. Tốt nhất nên giữ nhiệt độ ổn định trong thời gian cho nở.ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên31

Page 32: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

- Độ mặn: Độ mặn 5-35 ‰ sẽ cho tỉ lệ nở và hiệu xuất cao hơn. Ấu trùng cũng chứa nhiều năng lượng hơn.

- pH: Thích hợp 8-8,5. Nên bổ xung thêm NaHCO3 vào môi trường để đảm bảo pH không dưới 8.

- Oxy: Hàm lượng Oxy 2mg/l. Do đó nên điều chỉnh tốc độ sục khí cho thích hợp.- Mật độ trứng ấp: Mật độ trứng ấp không nên quá 5gr/l- Ánh sáng: Cường độ chiếu sáng trên mặt nước 2000 lux thì thích hợp nhất.

3.3 Phương pháp ấp trứngDụng cụ:

- Bể ấp có đáy hình chóp trong suốt hoặc mờ. thể tích 200 - 1000 lít.- Hệ thống khí đèn chiếu sáng- Sàng lưới 125 μ- Xô, chậu ca...- Hóa chất Chlorine (thuốc tẩy)- Tính lượng trứng bào xác cần thiết.- Khối lượng cần ấp = [Số lượng AT tôm x Số lượng AT Artemia cần cho 1 At tôm]/

[Số At Artemia đã nở/ 1gr trứng bào xác khô]- Khử trùng vỏ trứng: Khử trùng là biện pháp quan trọng làm giảm mầm bệnh (nấm,

vi khuẩn) cho ấu trùng tôm , làm tăng tỷ lệ nở của trứng bào xác.Các bước tiến hành như sau: - Ngâm lượng trứng cần ấp trong nước ngọt khoảng 1 giờ để trứng hút nước. - Ngâm lượng trứng cần ấp vào dung dịch thuốc tẩy (Chlorine), nồng độ 200ppm từ 20 -30.

- Rửa sạch nhiều lần bằng nước ngọt hoặc bằng nước biển để lọc (trứng được chứa trong lưới 125μ ).

- Trứng bào xác đã xử lý cho vào dung dịch Thiosuphat 0,05% trong 2-5 phút, rồi rửa lại bằng nước sạch.

- Trứng sau khi khử trùng đã sẵn sàng để cho nở.Cho trứng nở

- Cho lượng trứng đã khử trùng vào bể ấp hình chóp có nước biển đã lọc sạch độ mặn từ 5-35‰

- Sục khí mạnh liên tục từ đáy bể.- Giữ nhiệt độ từ 25 - 280C- Chiếu sáng liên tục bằng đèn neon- Thời gian ấp trứng từ 24-36 giờ- 1 giờ trước thu hoạch, cho vào bể 50ppm formol

Thu hoạch- Khi ấu trùng Artemia đã nở hoàn toàn (sau khi ấp 24-36 giờ). Che phần trên bể,

ngưng sục khí, dùng đèn chiếu sáng phần chóp bể khoảng 3-5 phút. - Mở nhỏ van ở đáy bể cho nước và ấu trùng chảy từ từ vào vợt (lưới 125μ) - Đóng van trước khi nước cạn

- Rửa sạch ấu trùng Artemia thu được trong vợt bằng nước biển đã lọcSử dụng

- Cho ăn trực tiếp: có thể sử dụng ấu trùng Artemia ngay hoặc dùng dần trước 24 giờ sau khi trứng nở, tùy theo sự phù hợp kích cỡ từng giai đoạn ấu trùng tôm. Vì vậy sau 24 giờ ấu trùng Artemia sẽ tiêu thụ hết khoảng 25-30% năng lượng dự trữ, làm giảm chất lượng dinh dưỡng.

- Trữ lạnh: Có thể dự trữ lạnh ấu trùng Artemia ở nhiệt độ lạnh (100C ) để dùng dần với mật độ 8.000.000 con/lít và có sục khí nhẹ

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên32

Page 33: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Phương pháp tách vỏ trứngCông đoạn ngâm nước: Trứng được ngâm trong nước muối (<y100 mg/l) và xục khí

ở 25 độ C.Công đoạn tách vỏ: Vớt trứng bằng lưới có kích cỡ 125 µm, đem sàng rồi bỏ vào

dung dịch tách hypochlorite. Dung dịch tách có thể được chuẩn bị trước bằng cách trộn dung dịch NaOCl (độ hoạt tính thường 11-13%) hay bột tách Ca(OCl)2 (độ hoạt tính thường 70%) theo tỷ lệ như sau:

- 0.5 g hypochlorite hoạt tính/1 g trứng. - NaOH: 0,33ml dung dịch NaOH 40% (0.15 g NaOH dạng tinh thể) cho 1g/cyst- Nước biển với tỷ lệ 14 ml/1 g trứng. Làm lạnh dung dịch xuống còn 15-20 độ C (tức đem bồn lọc bỏ vào hồ nước đá lạnh).

Cho trứng đã ngâm vào và xục khí mạnh từ 5-15 phút. Kiểm tra nhiệt độ thường xuyên vì phản ứng tỏa nhiệt: không để vượt quá 40 độ C (nếu cần có thể cho thêm nước đá vào dung dịch tách vỏ). Có thể dùng kính lúp hay kính hiển vi để kiểm tra kết quả của công đoạn tách vỏ.

Công đoạn rửa: Khi trứng có màu xám (dùng với dung dịch tách) hay vàng (dùng với bột tách) hay khi quan sát dưới kính hiển vi thấy trứng đã tách hết vỏ (sau 3-15 phút) thì có thể đem sàng bằng lưới 125 µm cho đến khi không còn mùi hypochlorite bốc lên. Điều quan trọng là không được để phôi thai trong dung dịch tách quá lâu vì phôi thai có thể bị ảnh hưởng.

Công đoạn làm sạch: Làm sạch mọi dấu vết của hypochlorite bằng cách ngâm chúng vào dung dịch 0.1% NHCl hay 0.1% Na2S2O3 và trộn lần nữa với nước. Dấu vết của hypochlorite được phát hiện bằng cách bỏ trứng đã tách vỏ vào bột thử iod (gồm KI, H2SO4

và nước). Nếu chúng có màu xanh thì vẫn phải tiếp tục công đoạn này. Còn cách khác là sử dụng phương pháp thử DPD chlorine.

Công đoạn sử dụng: Phôi thai có thể đem trữ trong tủ lạnh (0-4 độ C) vài ngày trước khi đep ấp. Để trữ lâu hơn, phôi thai cần được làm mất nước bằng dung dịch muối đậm đặc (1 g phôi thai/10 ml nước/300 g NaCl). Thay dung dịch sau mỗi 24 giờ.Phương pháp làm giàu Artemia

Artemia mặc dầu đã được xác định là loài có hàm lượng acid béo không no nhiều nối đôi (PUFA) cao (acid béo thiết yếu), là nguồn cung cấp thiết yếu cho ấu trùng cá nước ngọt. Tuy nhiên khi sử dụng làm thức ăn cho các loài ấu trùng nước lợ và mặn thì hàm lượng acid béo này có trong Artemia không đủ cho sự phát triển của ấu trùng. Trong một vài báo cáo gần đây người ta đã sử dụng Artemia như là vật trung chuyển hàm lượng acid béo thiết yếu tới các đối tượng ương nuôi thông qua việc giàu hoá Artemia với các acid béo thiết yếu trong thức ăn. Hàm lượng acid béo thiết yếu trong Artemia cũng có thể tăng lên bằng cách chọn lựa các loài tảo thích hợp làm thức ăn cho Artemia.

CHƯƠNG 5: CÁC ZOOPLANKTON KHÁC

5.1 CopepodCopepod có hai nhóm, một là calcanoid

(Acartia tonsa, Eurytemora affinis, Calcanus finmarchius & C. helgolandicus, Pseudocalcanus elongatus) và hai là harpacticoid (Tsibe holothuriae, Tigriopus japonicus, Tisbenta elongata, Schizopera

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên33

Page 34: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

elatensis). Calcanoid có râu anten thứ nhất rất dài (khoảng 16-26 đốt), còn harpacticoid thì râu anten ngắn hơn (khoảng 10 đốt).

Hầu hết copepod trưởng thành có chiều dài trong khoảng 1-5mm, có kích cỡ 200–500 μm cơ thể hình ống, phần trước phình to hơn phần sau. Thân gồm hai phần rõ rệt, đó là ngực và bụng, đầu lẫn vào đốt thứ nhất của phần ngực có. Đầu có mắt và râu anten khá dài. Con đực nhỏ hơn con cái, khi giao phối con đực ôm lấy con cái bằng râu anten rồi phóng tinh vào cửa của lỗ tiếp nhận tinh của con cái, sau đó cửa được bịt lại bởi một loại chất gắn đặc biệt. Trứng thường được bao bằng một túi trứng và gắn vào đốt bụng đầu tiên của con cái.

Calcanoid đẻ trứng vào nước, trứng nở thành nauplii rồi sau 5-6 lần lột xác ấu trùng trở thành copepodite. Sau 5 lần lột xác nữa copepodite bước vào giai đoạn trưởng thành. Sự phát triển từ trứng đến khi trưởng thành có thể kéo dài một tuần đến một năm. Tuổi thọ của copepod kéo dài từ 6 tháng đến một năm. Dưới những điều kiện không thuận lợi, copepode có thể sản sinh trứng nghỉ (cyst).

Kích thước của copepod phụ thuộc vàp loài và sự phát triển của cá thể. Nhờ kích thước khác nhau mà đảm bảo được thức ăn cho ấu trùng tôm cá trong tất cả các giai đoạn phát triển.

Harpacticoid Tsibe holothuriae ở giai đoạn nauplii chỉ có kích thước 55 micron đến khi trưởng thành thì có kích thước 180 micron. Schizopera elatensis có kích thước 50-500 micron, Tisbenta elongata có kích thước từ 150 đến hơn 750 micron.

Trong nuôi trồng copepod, người ta thấy harpacticoid ít nhạy cảm và dung nạp tốt đối với điều kiện môi trường hơn calcanoid (độ mặn: 15-70 ppt nhiệt độ 17-30oC) và như vậy harpacticoid dễ nuôi thâm canh hơn.

Nhiều loài copepod ôn đới có thể sản sinh cyst giống như Artemia. Cyst có thể dung nạp được điều kiện làm khô ở 25oC và đông lạnh ở -25oC, chúng có thể chịu được nhiệt độ thấp (3- 5oC) dài tới 9-15 tháng.

Về mặt thức ăn và chất lượng dinh dưỡng, copepod có một số ưu điểm trong nuôi ấu trùng cá biển như sau:

- Copepod có thể đem nuôi ấu trùng cá ở các giai đoạn khác nhau như nauplii, copepodite…

- Chuyển động zic-zac của copepod có tác dụng kích thích thị giác của nhiều loài cá.- Chất lượng dinh dưỡng của Copepode được cho là cao hơn Artemia, protein

trong phạm vi 44-52%, tỷ lệ acid amin cân đối trừ methionine và histidine. Thành phần acid béo khác nhau nhiều theo điều kiện nuôi trồng. Ví dụ: (n-3) HUFA của Tisbe trưởng thành nuôi bằng tảo Dunaliella (thấp HUFA) hay tảo Rhodomonas (cao HUFA) là 0,8% và 1,3% tính theo chất khô, lần lượt. Hàm lượng EPA và DHA lần lượt là 6% và 17% của Tisbe trưởng thành cho ăn tảo Dunaliella và lần lượt là 18% và 32% khi nuôi bằng tảo Rhodomonas. (n-3) HUFA của nauplii thì cao hơn Tisbe trưởng thành.

- Copepod được cho là có hàm lượng enzyme tiêu hóa cao hơn Artemia (Pedeson, 1984, khảo sát trên ấu trùng cá herring đã thấy rằng copepod được tiêu hóa tốt hơn Artemia).5.2 Daphnia và Moina

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên34

Page 35: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Daphnia là loài giáp xác nước ngọt nhỏ gọi là “rận nước”. Tên này không những ám chỉ đến kích thước bé nhỏ mà còn ở chuyển động giật cục của chúng trong nước. Các chi rận nước (Daphnia) và bo bo (Moina) có quan hệ họ hàng gần với nhau. Chúng xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới và thường được gọi dưới tên chung là daphnia. Cấu tạo cơ thể của Moina gồm đầu và thân. Râu là phương tiện di chuyển chính. Đôi mắt lớn nằm dưới lớp da ở hai bên đầu. Một trong những đặc điểm chính đó là cơ thể chúng được bao phủ bởi một khung xương. Chúng tự lột lớp vỏ này một cách định kỳ. Túi ấp nơi trứng và ấu trùng phát triển nằm trên lưng của con cái. Ở rận nước túi này đóng kín nhưng ở Moina nó lại mở.

DaphniaDaphnia thuộc về phân bộ Cladocera

sống hầu như duy nhất ở nước ngọt. Vỏ giáp bọc toàn thân, trừ đầu và gai đuôi (apical spine) (hình 10.9).

Hiện tại có 50 loài được báo cáo trên toàn thế giới, trong đó chỉ có 6 loài có ở vùng đất thấp nhiệt đới. Kích thước của Daphnia trưởng thành khác nhau nhiều tùy thuộc vào thức ăn; khi thức ăn phong phú, con trưởng thành có vỏ giáp (carapace) dài gấp hai lần các cá thể mới thành thục. Không những vậy, kích thước của đầu cũng biến đổi từ tròn chuyển sang bầu dục vào mùa xuân và giữa hè, nhưng từ giữa hè trở đi thì đầu lại trở về hình tròn. Sự biến dạng này được gọi là biến hình theo chu kỳ (cyclomorph), có thể xẩy ra do những yếu tố nội tại hay do mối tương tác giữa các yếu tố di truyền và môi trường.

Bình thường, Daphnia sinh trưởng từ nauplii tới khi thành thục phải trải qua 4- 5 lần lột xác, thời gian lột xác của mỗi thời kỳ phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ (11 ngày ở 10oC hay 2 ngày ở 25oC) và vào thức ăn. Các loài Daphnia sinh sản đơn tính hầu như chỉ sinh ra con đực. Trứng được sản sinh trong túi trứng với 200 tới vài trăm trứng. Một con cái có thể sản xuất vài ổ trứng. Trứng đơn tính nếu được sản sinh theo kiểu không giảm phân thì kết quả cho ra những con cái, nhưng đôi khi cũng xuất hiện con đực. Sự phát triển của phôi cladoceran xẩy ra trong túi ấp (broodpouch) và ấu trùng là phiên bản nhỏ của con trưởng thành. Trong điều kiện không thuận lợi trứng đã thụ tinh hình thành lớp vỏ bảo vệ phôi bên trong, đó là các trứng nghỉ (cyst).

- Giá trị dinh dưỡng của Daphnia phụ thuộc nhiều vào thành phần hóa học của nguồn thức ăn. Daphnia là loài sống ở nước ngọt nên không thích hợp đối với các sinh vật biển, hàm lượng thấp các acid béo thiết yếu đặt biệt là (n-3) HUFA. Tuy nhiên Daphnia chứa một phổ rộng enzyme tiêu hóa như protease, peptidase, lipase và cellulase là nguồn enzyme ngoại sinh tốt trong ruột của ấu trùng cá.

MoinaMoina cũng thuộc phân bộ Cladocera, nhiều đặc điểm sinh học giống như

Daphnia. Moina xuất hiện với mật độ cao ở các ao, hồ, vũng nước, dòng chảy chậm và đầm lầy nơi có nhiều chất hữu cơ. Chúng đặc biệt tập trung ở những vùng nước ấm nơi có đầy đủ điều kiện để chúng phát triển. Moina hoàn toàn thích nghi với nguồn nước kém chất lượng. Chúng có thể sống nơi nồng độ ô-xy hoà tan từ 0 cho đến bão hoà.

Moina có thể sinh sản theo cách vô tính và hữu tính. Thông thường, Moina gồm toàn con cái sinh sản theo cách vô tính. Ở điều kiện tối ưu, Moina cái từ 4-7 ngày tuổi bắt đầu sinh sản với số lượng từ 4-22 con. Mỗi lứa cách nhau từ 1.5 đến 2 ngày, mỗi con cái đẻ từ

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên35

Page 36: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

2-6 lần trong đời. Ở điều kiện môi trường bất lợi, con đực xuất hiện và sinh sản hữu tính bắt đầu, tạo ra trứng tiềm sinh tương tự như trứng artemia. Điều kiện chuyển đổi từ sinh sản vô tính sang hữu tính ở Moina là việc cắt giảm nguồn thức ăn, kéo theo nhiều trứng được tạo ra. Như vậy, việc cung cấp đầy đủ thức ăn là cần thiết vì nó kích thích Moina sinh sản theo cách vô tính, nhờ đó có rất ít số lượng trứng tiềm sinh được tạo ra. Mật độ cao ở rận nước có thể làm sự sinh sản sụt giảm một cách đáng kể nhưng điều này không xảy ra ở Moina. Số lượng trứng sinh ra ở rận nước Dapnia magna sụt giảm mạnh khi mật độ từ 95-115 cá thể trưởng thành trên 25-30 lít. Mật độ nuôi thích hợp ở rận nước được ghi nhận là 500 con/lít. Tuy nhiên, mật độ nuôi thích hợp ở Moina là 5000 con/lít và do đó chúng thích hợp trong chăn nuôi thâm canh.

Moina nhỏ hơn Daphnia (bằng một nữa Daphnia) nhưng có hàm lượng protein cao hơn. Moina mới mở có kích thước rất nhỏ (nhỏ hơn 400 µm) gần bằng hay hơi lớn hơn trùng bánh xe trưởng thành và nhỏ hơn ấu trùng artemia. Sinh khối của moina thường dùng để nuôi ấu trùng cá hồi vân, cá hồi và các ấu trùng cá nước ngọt hay nước mặn khác. Moina micrura cũng được báo cáo là có tác dụng tốt khi thay thế một phần Artemia trong nuôi ấu trùng tôm Macrobrachium rosenbergii.

Moina ăn các loại vi khuẩn, men bia, vi tảo và mùn bã hữu cơ (thối rữa). Vi khuẩn và nấm men có giá trị dinh dưỡng cao. Số lượng Moina phát triển nhanh nhất khi lượng vi khuẩn, men bia và vi tảo dồi dào. Moina là một trong những sinh vật phù du có thể tiêu thụ tảo xanh Microcystis aeruginosa. Cả bã hữu cơ động lẫn thực vật đều cung cấp năng lượng cho sự tăng trưởng của Moina. Chất lượng của mùn bã hữu cơ phụ thuộc vào nguồn gốc và độ tuổi của chúng.

Giá trị dinh dưỡng của Moina phụ thuộc vào độ tuổi và loại thức ăn mà chúng được nuôi. Dù vậy, lượng protein ở Moina chiếm 50% khối lượng khô. Moina trưởng thành chứa nhiều chất béo hơn Moina non. Lượng chất béo chiếm 20-27% khối lượng khô ở Moina cái trưởng thành và 4-6% ở Moina non.5.3 Nematode

Nematode, Panagrellus redivivus được chứng minh là thức ăn tốt để nuôi thành công ấu trùng cá chép, cá silver carp và tôm Penaeus blebejus.

Panagrellus redivivus là loại thức ăn sống tốt vì nó có kích thước nhỏ (đuờng kính 50µ), thành phần acid amin tương tự như của Artemia (bảng 10.7), nhưng EPA DHA thì cao hơn của Artmia. Mặt khác P. redivivus lại có thể nuôi trồng rất đơn giản trong các khay chứa 70 g bột mì (loại 10,8% protein)/100cm2, sau đó giữ ẩm bằng cách phun nước. Môi trường nuôi cấy hàng tuần được bổ sung 0,5 g men/100cm2. Khay nuôi cần giữ nơi thoáng khí có nhiệt độ 20-23oC, khay cần che đậy bằng vải mỏng để tránh côn trùng. Nematode có thể thu họach hàng ngày trong khoảng 53 ngày trên cùng một môi trường. Sản lượng tối đa có thể đạt 75-100 mg/100cm2 sau 3 tuần nuôi.

Bảng 10.7. So sánh hàm lượng protein và amino acid của P. redivivus and Artemia (% tổng số amino acid) (Watanabe & Kiron, 1994)

P. redivivus Artemia P. redivivus Artemia

Proteinn

48.3 61.6

Amino acids Amino acids

ILE 5.1 3.8 ARG 6.6 7.3

LEU

7.7 8.9 HIS 2.9 1.9

MET 2.2 1.3 ALA 8.8 6.0

PHE

4.7 4.9 ASP 11.0 11.2

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên36

Page 37: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

TYR

3.2 5.4 GLU 12.8 12.9

THR

4.7 2.5 GLY 6.4 5.0

TRY

1.5 PRO 5.4 6.9

VAL 6.4 4.7 SER 3.7 6.7

LYS

7.9 8.9

5.4 Ấu trùng bánh xe (Trochophora larvae)Một số loài cá biển như cá bơn, cá hanh… thì

rotifer thì quá lớn cho pha nuôi dưỡng đầu của ấu trùng, ấu trùng bánh xe có thể thay thế rotifer. Ấu trùng bánh xe có kích thước khoảng 50 micron (xem H. 10.10), bơi chậm và có giá trị dinh dưỡng cao đối với ấu trùng cá biển (ấu trùng trocophora chứa 15% EPA và DHA so với tổng acid béo.

CHƯƠNG 6: QUẢN LÝ AO NUÔI ĐỂ PHÁT TRIỂN THỨC ĂN TỰ NHIÊN6.1 Yếu tố vật lý

Khác nhau theo các vùng trong ao nuôi (hình 10.11). Ở tầng mặt (littoral zone), cây thuỷ sinh ảnh hưởng đến lượng oxy hoà tan (DO) của nước trong ao. Ở tầng đáy (benthic zone), tính chất đất có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nước. Ở tầng giữa (limnetic zone), sinh vật nước sống ở vùng này và các số đo về chất lượng nước thực hiện tại đây.

Hình 10.11. Sơ đồ lát cắt các vùng ao nuôi6.2 Yếu tố sinh học

Yếu tố sinh học liên quan đến các sinh vật sống trong ao thông qua chu trình sau:

Vi khuẩn → Phytoplankton → Zooplankton → Cá & Tôm→ Chất hữu cơ lắng cặn → Vi khuẩn →

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên37

Page 38: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

Phytoplankton …Các pha phát triển sinh vật như ở sơ đồ cho thấy, pha trước có ảnh hưởng đến

pha sau. Phân vô cơ và hữu cơ và chất lượng nước ao nuôi có ảnh hưởng đến chu trình phát triển hệ sinh vật trong ao (hình 10.12).

Hình 10.12. Sơ đồ Chu trình phát triển hệ vi sinh vật trong ao nuôi (Boyd, 1998)

Giải pháp phát triển zooplankton bằng việc bón phân hữu cơ, phân vô cơ hoặc phân hữu cơ kết hợp với phân vô cơ. Ưu điểm của phân vô cơ đó là thúc đẩy sinh vật tự dưỡng (P là nguồn thức ăn rất cơ bản của phytoplankton), thành phần tương đối ổn định, sẵn có, dễ mua, và tốn ít công và dễ dự trữ. Trong khi, phân hữu cơ (phân gia súc, khô dầu bông, khô đỗ tương, bột cỏ alfalfa..) làm thúc đẩy phát triển sinh vật tự dưỡng (autotrophic organism) và dị dưỡng (heterotrophic organism), giải phóng CO2 cung cấp cho thực vật, giúp làm giảm độ đục, và có ảnh hưởng lâu bền.

Ngoài ra, việc bón vôi cho môi trường ao nuôi cũng có các tác dụng như: khử chua, tăng pH, tăng độ hoà tan của phosphor, và thúc đẩy sự phân giải của chất hữu cơ.6.3 Yếu tố hoá học

Các yếu tố hoá học là: oxy hoà tan, nhiệt độ, pH, độ mặn, độ đục, độ kiềm và độ cứng, amoniac, chất dinh dưỡng.. đều ảnh hưởng đến phát triển của hệ sinh vật trong ao nuôi.

Boyd, 1998 đưa ra hàm lượng các chất vô cơ hoà tan thích hợp trong ao nuôi được trình bày ở bảng 10.8.

Bảng 10.8. Hàm lượng các chất vô cơ hoà tan thích hợp trong ao nuôi

Nguyên tố Dạng tồn tạitrong nước

Hàm lượngthích hợp

Nguyên tố Dạng tồn tạitrong nước

Hàm lượng

Ox O 5-15 mg/l Hydro H pH 7-Nitơ

N2

Bảo hòa Nitơ

NH 0,2-2 mg/lNit NH <0,1 mg/l Nit NO 0,2-10

Nit NO <0,3 mg/l Sulfur H2S; SO4 5-100 Carbon CO 1-10 mg/l C

aCa2 5-100

mg/lM Mg 5-100 mg/l

Quản lý ao nuôi trước và sau khi thả cá có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát triển nguồn thức ăn tự nhiên, từ đó có ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả nuôi cá. Sau đây là một điểm cần chú ý:

- Dọn tẩy ao trước khi thả cá. Nếu là ao mới đào thì phải dẫn nước vào ra vài lần

để rửa ao. Tẩy vôi với 10-12kg/100m2 đáy ao. Cày bừa đáy ao và phơi nắng 5-7 ngày. Bón

lót phân chuồng (50kg/100m2 đáy ao). Nếu là ao cũ đã nuôi cá, phải tháo cạn để bắt hết cá, vét bớt bùn thối, phát quang bụi rậm quanh ao, lấp kín các hang hốc, đắp bờ, sửa cống

cấp thoát nước. Tẩy vôi với 8-10kg/100m2 đáy ao và phơi nắng 5-7 ngày. Bón lót bằng

phân chuồng và phân xanh mỗi thứ 30-40 kg/100m2. Bừa san phẳng đáy ao 1-2 lượt.- Sau khi bón lót, cho nước vào ao, lọc nước qua đăng chắn. Mức nước lấy vào chỉ

cần 0,5-0,7 m, ngâm ao 2-3 ngày, nước ao sẽ có mầu xanh nõn chuối. Trước khi thả cá phải lấy đủ nước, đảm bảo mức nước sâu từ 1 – 1,5m.

- Sau khi thả cá phải chú ý đến việc bón phân cho ao, có thể dùng phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh và phân vô cơ như đạm, lân, vôi... Nuôi cá kết hợp với chăn nuôi (hệ thông VAC) vừa có nguồn phân hữu cơ cho cá, vừa kiểm soát được ô nhiễm môi trường do chăn nuôi.

- Thêm nước mới vào ao nuôi cá mỗi tuần một lần (dâng cao khoảng 0,3m nước), sau ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên38

Page 39: Ki Thuyat Nuoi Luan Trung

2 tuần tháo nước đáy và thêm nước mới vào tầng mặt. Những ngày có mưa giông phải kiểm tra bờ ao, cống ...Những ngày trời oi bức, thời tiết thay đổi phải theo dõi hiện tượng cá nổi đầu, nếu cá bị thiếu oxy thì phải xử lý kịp thời.

- Sau khi thu hoạch cá lại thực hiện việc xử lý ao như trình bày ở trên: vét bùn, dọn tẩy ao, bón phân... để bước vào một vụ nuôi cá mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Nguyễn Văn Hòa, 2005. Nâng cao hiệu quả của việc nuôi sinh khối Artemia trên

ruộng muối. Báo cáo khoa học. Đại học Cần Thơ2. Lê Đức Ngoãn, Vũ Duy Giãng, Ngô Hữu Toàn, Giáo trình Dinh dưỡng và thức ăn

thủy sản, 2008. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội3. Trần Thị Thanh Hiền. Giáo trình Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản, 2004. 4. Nguyễn Thị Kim Liên, Trần Tấn Huy, Nguyễn Thanh Phương, 2008. Nuôi luân trùng

siêu nhỏ bằng tảo chlorella và men bánh mì. Tạp chí Khoa học 2008(1):67-74. Trường Đại học Cần Thơ

5. Nguyễn Văn Hòa, Huỳnh Thanh Tới, Nguyễn Thị Hồng Vân và Trần Hữu Lễ, 2006. Nuôi tảo chaetoceros sp làm nguồn thức ăn cho hệ thống ao nuôi Artemia. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 52-61. Trường Đại học Cần Thơ

6. Nguyen Van Hoa. 2002. Seasonal farming of the brine shrimp Artemia franciscana in artisanal ponds in Vietnam: Effects of temperature and salinity. PhD thesis. University of Ghent. Belgium. 184 pp

7. Manual on the production and use of live food for aquaculture. 1996. Patrick Lavens and Patrick Sorgeloos

8. Artemia biology. 1991. Robert A. Browne, P. Sorgeloos and C.N.A. Trotman.

ĐH Bạc Liêu Nuôi thức ăn tự nhiên39