Upload
bhik-samadhipunno
View
218
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Chỗ tỳ kheo nên cư trú trọn đời (dù đấy là khu rừng, làng mạc, thị trấn, quốc gia, hay gần một người nào) phải hội đủ hai điều kiện, tinh thần và vật chất. Về tinh thần, phải tăng trưởng niệm, định, tuệ (niệm chưa an trú được an trú; tâm chưa định tĩnh được định tĩnh; lậu hoặc chưa đoạn trừ được đoạn trừ khiến tỳ kheo được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách - tức chứng quả A la hán). Về vật chất, dễ kiếm bốn nhu yếu về ăn mặc ở bệnh. Nếu được cả hai, nên nương ở trọn đời. Nếu chỉ được điều kiện tinh thần, đời sống vật chất khó khăn, tỳ kheo cũng nên ở với ý niệm rằng mình xuất gia không phải để mưu cầu vật chất.Nếu ở nơi nào (khu rừng, làng mạc, ... hay gần người nào) mà tinh thần thiếu - không tăng trưởng niệm định tuệ - mặc dù vật chất đầy đủ, tỳ kheo nên bỏ đi chỗ khác sau khi nghĩ rằng xuất gia không để mưu cầu vật chất. Nếu ở nơi nào thiếu cả hai điều kiện, tỳ kheo nên bỏ đi ngay lập tức.
Citation preview
Phương tiện và cứu
cánh giải thoát là hai
mối liên hệ mật thiết với
nhau. Cứu cánh chỉ có
một nhưng phương tiện
thì vô số. Chúng ta phải
lựa chọn thế nào, áp
dụng ra sao trên con
đường đi tìm cứu cánh
cho chính mình.
Một bài giảng về những điều kiện nào
một tỳ-kheo nên tiếp tục sống tại một
khu rừng, trú xứ, quốc độ hay gần gũi
một người nào đó, và điều kiện nào nên
bỏ đi chỗ khác nơi khác để tu tập.
• Lậu hoặc (āsava). Chữ āsava theo nghĩa ban sơ là một loại nước say do ủ lâu ngày mà thành.
- Nước say lấy từ bông như bông thốt nốt, gọi là pupphāsava.
- Nước say lấy từ quả trái cây như nho... gọi là phalāsava.
- Chất say lấy từ mật ong, gọi là madhuvāsava.\
- Chất say lấy từ mía, gọi là guḷāsava.
• Lậu hoặc (āsava). Chữ āsava ở đây
có hai nghĩa là cặn bã hay sự rò rỉ.
Đức Phật dùng từ này để gọi tên
những thứ phiền não căn bản tạo nên
cuộc luân hồi.
• Ví như nước từ trong lòng núi “thấm rịn” qua kẻ nứt của đá, hay “chảy rịn ra” từ kẻ nứt.
• Cũng vậy, những chất độc của tâm linh sẽ “thấm rịn” hoặc “chảy ra” từ “kẻ nứt” của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý khi tiếp xúc với các cảnh trần.
• Chữ āsava còn được dịch là “trầm luân”, hay “ngâm tẩm”.
• Tức là pháp này làm chúng sinh “chìm đắm trong luân hồi” (trầm luân), hay chúng sinh phải chịu “ngâm mình trong giòng nước luân hồi” (ngâm tẩm).
• Ách phược (yogakkhema).
Yoga ở đây có nghĩa là sự
ràng buộc hay trói cột.
Vaṭṭasmiṃ satte yojentīti = yoga.
Pháp nào sẽ đem chúng sanh ràng buộc trong luân
hồi, gọi là ách phược.
Ví như con bò phải mang cái ách vào cổ, nó
không được tự do đi đâu cũng được, nó phải đi
theo sự dẫn dắt của người chủ. Cũng vậy,
chúng sanh cứ mãi chịu luân hồi, không thể giải
thoát được cũng vì sự ràng buộc này.
Để có ngoại duyên hỗ trợ thuận duyên
cho công phu giải thoát, hành giả cần
có quyết định đúng đắn về trú xứ và
người thân cận, đồng hành.
Và đức Phật đưa ra bốn trường hợp để
các vị đệ tử quyết định cho mình nên ở
nơi như thế nào và thân cận người ra
sao.
Ở bất cứ trú xứ nào kể cả
một khu rừng hoang vắng
yên tĩnh nhưng nếu xét
thấy nơi đó tam học không
được phát triển và đời
sống vật chất khó khăn thì
vị ấy nên lập tức bỏ đi nơi
khác.
Tu không tiến + tứ sự
hiếm bỏ đi
Tuy nhiên, ở những trú xứ nào, chẳng hạn như
một khu rừng mà sự tu tập tam học được thành
tựu dễ dàng, dù cho ở đó vật dụng có khó khăn
đến mấy đi nữa, vị Tỳ-khưu phải tự quán xét
như sau để có thể tiếp tục ở lại: “Ta sống đời sống phạm hạnh chỉ vì cứu cánh giải thoát vô thượng chứ không phải vì tài vật”.
Tu tiến + tứ sự hiếm ở lại
Đối với các vị đồng trú,
dầu là bạn bè hay thầy
tổ, cho dù sự chung
sống với họ có đem lại
cho vị Tỳ-khưu một
niềm vui nào đó về tinh
thần hay sự giải thoát
về vật chất nhưng
không thể giúp nhau
phát triển về tam học
thì sự cộng trú này xem
ra vẫn là một lỗi lầm, vị
Tỳ-khưu cần phải ra đi
nơi khác.
Tu không tiến + tứ
dễ dàng bỏ đi
Tu tiến + tứ sự dễ dàng ở lại
Ngược lại, khi sống với vị đồng trú nào đó mà
tam học bản thân được phát triển thì dù sự
chung sống này có gặp phải bao nhiêu thử
thách đi nữa, kể như một sự xua đuổi, vị Tỳ-
khưu cũng phải tìm cách ở lại.
• Ba pháp cần tăng trưởng
• Bốn món vật dụng
• Ra đi và ở lại
• Phương tiện và cứu cánh
Ba pháp cần tăng trưởng
1. Tăng thượng giới (Adhisīlasikkhā), sự học tập trau giồi giới hạnh chân chánh, làm nền tảng tăng tiến tâm định.
2. Tăng thượng tâm (Adhicittasikkhā), sự tu tập về tâm thiền kiên cố, làm nền tảng tăng tiến tuệ minh sát.
3. Tăng thượng tuệ (Adhipaññāsikkhā), sự tu tập phát triển trí tuệ thẩm sát thực tướng danh sắc để đạt đến tri kiến thanh tịnh, giác ngộ giải thoát.
Ba học pháp này gọi tóm tắt là Giới, Định, Tuệ, tức là Tam học.
GIỚI
SĪLA
CHÁNH NGỮ
SAMMĀVĀCĀ
nói chân thật, nói hòa hợp, nói dịu ngọt, nói lợi ích
CHÁNH NGHIỆP
SAMMĀKAMMANTO
không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm
CHÁNH MẠNG
SAMMĀ-ĀJĪVO
nuôi mạng chân chánh, không dùng
sở hành tà vạy để tạo sinh kế
ĐỊNH
SAMĀDHI
CHÁNH TINH TẤN
SAMMĀVĀYĀMO
gắng sức dẹp bỏ ác pháp và trau dồi thiện pháp
CHÁNH NIỆM
SAMMĀSATI
ghi nhận biến động của danh
sắc
CHÁNH ĐỊNH
SAMMĀSAMĀDHI
tập trung vào đề mục thiền
TUỆ
PAÑÑĀ
CHÁNH KIẾN
SAMMĀDIṬṬHI
trí tuệ thấy rõ tứ đế, hoặc thấy tam tướng
đối với ngũ uẩn
CHÁNH TƯ DUY
SAMMĀSAṄKAPPO
suy nghĩ ly dục, vô sân, bất hại
Bốn món vật dụng
1. Y phục (Cīvara), gồm y ca-sa (Kāsāva), vải
mặc che thân.
2. Vật thực (Piṇḍapāta), gồm thức ăn và thức
uống nuôi sống thân mạng.
3. Sàng tọa (Senāsana), gồm chỗ nằm, chỗ
ngồi, luôn cả trú xứ, chỗ ngụ tránh mưa nắng.
4. Thuốc trị bệnh (Gilānapaccayabhesajja),
gồm các thứ thuốc uống, thuốc thoa.
Y phục Ta thọ dụng y phục Để ngăn ngừa nóng lạnh
Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng
Cùng rắn rít côn trùng Và chỉ để che thân
Tránh những điều hổ thẹn.
Cīvara:Từ gọi chung chín loại y trang của tăng
ni Phật giáo theo Luật Tạng.
Chín loại y đó là: Tăng-già-lê (saṅghāṭi), thượng y hay y vai trái (uttarasanga), hạ y hay
y nội (antaravāsaka), y tắm mưa
(vassikasāṭika), y rịt ghẻ (kaṇḍupaticchādi), tọa cụ (nisīdana), khăn trải giường hay bọc
ghế (paccattharana), khăn lau gồm khăn tay
và khăn tắm nói chung (mukhapuñchana),
khăn lọc nước (parikkhāracoḷaka).
Vật thực
Ta thọ dụng vật thực Không phải để vui đùa Không ham mê vô độ Không phải để trang sức Không tự làm đẹp mình Mà chỉ để thân này Được bảo trì mạnh khỏe Để tránh sự tổn thương Để trợ duyên phạm hạnh Cảm thọ cũ được trừ Thọ mới không sinh khởi Và sẽ không lầm lỗi Ta sống được an lành.
Vật dùng đến hết ngọ: Yāvakālika, cơm, vật thực, bánh trái…
Vật dùng đến hết đêm: Yāmakālika, tám thứ nước dùng để giải khát trong buổi chiều tối như là: nước trái trâm, trái xoài, trái chuối, thanh trà…
Vật dùng trong bảy ngày: Sattāhakālika, năm thứ như bơ đặt, bơ tươi, đường, mật ong…
Vật dùng suốt đời: Yāvajīvika, rễ cây, củ, lá, bông, trái, vỏ thuộc loại dùng làm thuốc hoặc muối hay là một thứ thuốc nào theo cách cần dùng.
Sàng tọa Ta thọ dụng liêu thất
Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng
Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Để giải trừ nguy hiểm
Do phong thổ tứ thời Và chỉ với mục đích Sống độc cư an tịnh
Senāsana: Hán dịch là sàng tọa, nghĩa
đen là chỗ nằm ngồi nói chung. Nhưng
thuật ngữ này phải được hiểu là gồm
luôn cả nơi cư ngụ. Bởi tỳ-khưu xưa
phần lớn đều thường xuyên sống ngoài
rừng núi, vườn cây, nói chung là bên
ngoài phòng ốc, nên chỗ ngồi và chỗ
nằm thường chỉ là một. Và chỗ có thể
nằm ngồi cũng chính là trú xứ của vị đó
vậy.
Thuốc trị bệnh Ta thọ dụng y dược
Dành cho người bệnh dùng
Để ngăn ngừa cảm thọ
Tàn hại đã phát sanh
Được hoàn toàn bình phục.
Bhesajja: Thuốc trị bệnh nói chung. Ngoại
trừ các thứ được xem là dược phẩm đắt tiền
như (Luật kể rõ là mật ong, mật mía, bơ,
dầu), các thứ thuốc khác được làm từ rễ, vỏ
cây, lá cây đều có thể cất giữ lâu hơn bảy
ngày, thậm chí đến khi xài hết thì thôi.
Pāna: Chữ gọi chung một số loại nước uống
tỳ-khưu có thể dùng buổi chiều, như nước
cốt trái cây ép tươi.
Ra đi và ở lại
Có thể tóm gọn bốn trường hợp, hai đi
và hai ở như sau:
• Tu không tiến, tứ sự hiếm đi;
• Tu không tiến, tứ sự dồi dào đi;
• Tu tiến, tứ sự hiếm ở;
• Tu tiến, tứ sự dồi dào ở.
Tu không tiến, tứ sự hiếm đi
Tu không tiến, tứ sự dồi dào đi
Tu tiến, tứ sự dồi dào ở
Phương tiện và cứu cánh
Cứu cánh - Giải thoát là mục đích tối
thượng.
Phương tiện là các học pháp Phật là
không thể không có để đạt cứu cánh.
Các học pháp Phật này có thể thay
bằng các học pháp Phật khác nhưng
phải phù hợp.
Trong kinh, với ví dụ của Như Lai, cứu cánh là gì ? Đó là:
- Các niệm chưa được an trú phải được an trú (tâm từ rối loạn phải được thành không rối loạn);
- Tâm tư chưa được định tĩnh được định tĩnh (tâm từ chưa định phải được định) ;
- Các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ (phiền não chưa được đoạn trừ phải được đoạn trừ).
Trong kinh, với ví dụ của Như Lai,
phương tiện là gì ?
Đó là: Khu rừng và bốn món vật dụng
như là: y phục, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh.
Để có được sự yên ả, tĩnh mịch –
không bị khuấy động bởi những
chuyện, những âm thanh náo động
của đời thường.
Những nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống.
Với trường hợp một và hai: cứu cánh (mục
đích tối thượng) không đạt. Một khi cứu cánh
không đạt thì lập tức phải rời bỏ ngay
phương tiện đang sử dụng – cho dù với bất
cứ lý do gì.
Với trường hợp ba và bốn: cứu cánh (mục
đích tối thượng) đạt. Một khi cứu cánh đạt
thì phải giữ chặt phương tiện đang sử dụng
– cho dù với bất cứ trở ngại, khó khăn gì.
Thật khó cho người học trò – khi không thể
có những tiến bộ gì hơn nếu như tiếp tục học
với người thầy của mình. Xử lý thế nào đây ?
Nếu ở lại, cả một đời thanh xuân, với trí tuệ
minh mẫn, tinh thần tinh anh, sức học mạnh
mẽ nhất … sẽ phải trôi đi … Những cơ hội tu
dưỡng khác rồi cũng sẽ phải bị lãng phí bỏ
qua …
Nếu bỏ đi … sao tránh khỏi sự thị phi …
Như vậy, kinh Khu
Rừng trong bộ Kinh
Trung Bộ đề cập đến
hai khái niệm thiết
yếu và quan trọng, đó
là: Phương tiện và
cứu cánh.
Ngoài ra, một ý nữa, đó là: Pháp Phật vốn dĩ là
muôn vàn pháp học Phật. Pháp Phật như cánh
rừng bạt ngàn, bao la – mỗi cây là một học
pháp Phật. Làm sao có thể nắm bắt được cả
một rừng cây? Để làm gì – trong khi chỉ cần
vài cây là đủ ?
Cho nên, sau khi “dạo quanh, thăm quan” khu
rừng, hãy chọn lấy một chốn nhỏ bé phù hợp
để mà bắt đầu cuộc hành trình tu tập của
mình. Giả như đã có một chốn thanh tịnh, hà
có gì lại cứ phải (nghe lời ra, tán vào) nhảy
loăng quăng, hết chỗ này, đến chỗ nọ ?
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…
Pháp môn tu, hay con đường, là yếu tố
quyết định sự thành tựu của công phu
tu tập phạm hạnh. Bên cạnh đó, trú xứ
tu hành và người bạn đồng tu cũng là
một trợ duyên quan trọng cho cuộc tu.
Vị hành giả phải lựa cho mình nơi tu tập
thích hợp, người bạn thân cận trợ giúp
cho mình tiến triển cho quá trình công
phu của mình.