Upload
others
View
10
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
3
MỞ ĐẦU
Kết cấu là một phạm trù phổ quát cả trong đời sống xã hội lẫn trong
văn học. ở đâu có sự chế tác sản phẩm mới từ những vật liệu, chất liệu khác
nhau, ở đó người ta thấy vai trò của kết cấu. Trong xây dựng, kiến trúc, vai
trò của kết cấu càng nổi bật và dễ nhận ra. Không phải ngẫu nhiên mà thuật
ngữ kết cấu xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực hoạt động này của con người.
Sáng tác văn học, xét theo một phương diện nào đó cũng chính là kết cấu.
Trong một tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự dung hợp, quyện hoà giữa
những yếu tố khác loại như tinh thần và vật chất, chủ quan và khách quan,
tĩnh tại và vận động, vô hạn và hữu hạn... ở đó, chúng ta tìm thấy mối liên
hệ giữa các không gian khác nhau và điểm gặp gỡ của những thời gian
khác nhau. Chính kết cấu chứ không phải cái gì khác là phương tiện đảm
bảo cho những mối quan hệ và liên hệ đó trở thành hiện thực- những mối
quan hệ và liên hệ có thể giúp nhà văn phát biểu được cách cảm thụ, cách
nhìn cuộc sống, con người của mình một cách sáng rõ nhất theo kiểu của
nghệ thuật. Do tầm quan trọng của nó, vấn đề kết cấu của tác phẩm văn học
đã từ lâu dành được sự quan tâm chú ý đặc biệt của giới nghiên cứu. Người
ta đã nghiên cứu nó từ góc độ lý luận chung cũng như đã đi sâu nghiên cứu
kết cấu của từng thể loại. Tuy nhiên, trong khi đã có những khám phá rất
quan trọng về kết cấu của kịch, của tự sự (đặc biệt là của tiểu thuyết hiện
đại), việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình vẫn còn dừng bước trước không ít
vấn đề cơ bản. Còn ít những công trình thể hiện một cái nhìn toàn diện về
kết cấu của thơ trữ tình mà ở đó có sự phối hợp nghiên cứu kết cấu thơ trữ
tình cả về mặt hình tượng lẫn mặt tổ chức văn bản, cũng như còn thiếu
những công trình khái quát về sự phát triển tiếp nối của các loại hình kết
cấu thơ trữ tình xuất hiện trong lịch sử văn học. Bởi vậy, nghiên cứu kết
cấu thơ trữ tình vẫn còn là một công việc nhiều ý nghĩa, hứa hẹn nhiều
khám phá mới.
Nói một cách khái quát, kết cấu tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức
độc đáo, sinh động gợi cảm của tác phẩm dưới sự chi phối của một quan
4
niệm nghệ thuật nhất định. Đề cập vấn đề kết cấu, lẽ dĩ nhiên là phải đề cập
hàng loạt yếu tố kết cấu từ nhỏ đến lớn như câu, đoạn, mở đầu, kết thúc,
hình tượng, cốt truyện... và các nguyên tắc, các quy luật liên kết những yếu
tố đó. Nói cách khác, khi nghiên cứu kết cấu, ta phải nghiên cứu hệ thống
toàn bộ phương diện hình thức của tác phẩm văn học (tất nhiên là trong
mối liên hệ với nội dung). Lâu nay, ở nước ta, các nghiên cứu còn nghiêng
về phía khám phá phương diện nội dung của văn học, còn phương diện
hình thức được đề cập tương đối ít . Thêm nữa, đôi khi sự nghiên cứu về
hình thức vẫn chưa thoát khỏi sự khống chế của quan niệm cho rằng nó chỉ
là cái bình chứa, là chiếc áo khoác ngoài của nội dung, có thể ngay chính
lúc người ta không ngớt nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù
này. Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình ở đây chính là nhằm mục
đích góp phần vào việc khắc phục những bất cập vừa nói, tiến tới xây dựng
một cách nhìn hiện đại hơn về hình thức văn học, phá bỏ quan niệm nhị
phân hình thức và nội dung tồn tại quá lâu dài của thi pháp học truyền
thống. Rõ ràng, đã đến lúc những nghiên cứu về hình thức thơ trữ tình theo
quan niệm của thi pháp học hiện đại cần phải được đẩy mạnh, song song
với những nghiên cứu thơ trữ tình trên bình diện tư tưởng, bình diện ý thức
hệ, và trong khi nghiên cứu hình thức thơ trữ tình, khái niệm kết cấu thơ trữ
tình lẽ dĩ nhiên phải được xem là một khái niệm trung tâm, một khái niệm
có khả năng lý giải được tính độc đáo và ý nghĩa cách tân thi pháp của
nhiều hiện tượng thơ trong lịch sử văn học.
Hiện nay, văn học Việt Nam nói chung và thơ trữ tình Việt Nam nói
riêng đang đứng trước một thời kỳ phát triển mới. Yêu cầu đổi mới cái
nhìn, cách cảm xúc và hình thức thể hiện được đặt ra một cách riết róng.
Những tìm tòi được mở ra nhiều hướng, nhưng vì có lẽ chưa có điều kiện
đẩy tới độ cần thiết mà thành quả xem ra có vẻ dở dang, bừa bộn. Từ đây,
người sáng tác và người nghiên cứu có nhu cầu soi ngắm lại các thành tựu
văn học đã có, đánh giá chúng một cách toàn diện, mong rút ra những bài
học có ý nghĩa cho sự phát triển, đổi mới . Đặt vấn đề nghiên cứu kết cấu
5
thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình và gắn liền với việc đánh giá cuộc
cách tân về hình thức nghệ thuật của phong trào Thơ mới 1932 - 1945) vào
lúc này là một việc làm không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn. ít nhất nó cho thấy những thể nghiệm mới về thơ bây giờ đang
xuất phát từ truyền thống nào. Nó cũng chỉ rõ con đường phát triển của thơ
là con đường của sự phủ định biện chứng đối với những hệ thống thi pháp
cũ đã từng đóng một vai trò tích cực trong lịch sử văn học. Bao trùm hơn,
nó có ý nghĩa nêu thêm những tiêu chí đánh giá mới đối với các loại hình
thơ: dù thế nào cũng không thể bỏ qua tiêu chí kết cấu (với toàn bộ tính
chất sâu sắc và phức tạp của nó).
Trong các công trình nghiên cứu lý luận hiện đại về thơ ca, vấn đề
kết cấu thơ trữ tình rất được chú ý đề cập. Có sự chú ý đó bởi theo một cái
nhìn chung thông thường, một trong những yếu tố cơ bản quy định tính đặc
thù của một thể loại văn học là đặc điểm kết cấu của nó. Không nghiên cứu
kết cấu thể loại thì cũng gần như là chưa bắt đầu nghiên cứu bản thân thể
loại đó. Nhưng kết cấu là một phạm trù rất rộng, có khi được nhìn nhận như
là toàn bộ đặc điểm hình thức của một thể loại, có khi lại được đánh đồng
với một số thủ pháp tổ chức tác phẩm, lại có khi được nghiên cứu như một
cấu trúc ổn định, bất biến của một thể loại hay loại hình sáng tác nào
đó. Những kết quả nghiên cứu khác nhau về kết cấu có mối quan hệ hữu cơ
với những quan niệm không hẳn giống nhau về văn học, về thơ ca. Nhiều
khi chúng là những điều được rút ra từ việc khẳng định, đề cao một mẫu
hình sáng tác nhất định xuất hiện trong lịch sử tiến hoá không ngừng của
hình thức nghệ thuật.
Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa khó tìm thấy một công
trình nào tập trung bàn về kết cấu thơ trữ tình. Nhưng nếu tổng hợp các ý
kiến được phát biểu rải rác đây đó (nhiều nhất là trong các thi thoại), có thể
thấy, người xưa đã tìm hiểu khá kỹ các nguyên tắc tổ chức một tác phẩm thơ
trữ tình, đặc biệt là chương pháp thơ Đường luật. Các khái niệm khai, thừa,
chuyển, hợp hay tiền giải, hậu giải trở thành những khái niệm công cụ rất có
6
ý nghĩa đối với việc phân tích, thưởng thức thơ luật. Thậm chí, người xưa
còn đi sâu tìm hiểu cách tổ chức thơ Đường luật ở các biến thể của nó như
hồi văn, điệp tự, bằng trắc lưỡng vận, thủ vĩ ngâm, bình đầu… Họ cũng đã
có ý thức nhận diện cách tổ chức riêng biệt của một số bài thơ trữ tình thuộc
những đề tài như vịnh sử, vịnh vật, nghĩ tác, đại tác… Ngoài ra, người xưa
còn rất chú ý tìm hiểu những vấn đề khác thuộc phạm trù kết cấu như vần,
đối ngẫu, thanh điệu, mối quan hệ giữa câu với câu, giữa câu với cả bài, vai
trò của câu mở đầu và câu kết thúc… Tuy nhiên, có thể nói những kết quả
nghiên cứu nêu trên vẫn chỉ mới dừng lại ở kết cấu bề mặt, dừng lại ở những
kiểu tổ chức thơ trữ tình có tính chất kỹ thuật thuần tuý hoặc quy phạm. Đặc
biệt, vấn đề loại hình lịch sử của kết cấu hoàn toàn chưa được người xưa
nghĩ tới.
Những nhà nghiên cứu ngữ văn học thuộc trường phái hình thức Nga
vào đầu thế kỷ XX đã có những khám phá quan trọng về kết cấu của thơ trữ
tình. Toàn bộ những hiện tượng xác định tính đặc thù của thơ trong sự phân
biệt với văn xuôi như âm luật, vần, những hình thức cố định (như sonnet,
triolet, rondeau...) đã được khảo sát, toàn bộ những đơn vị cấu thành một bài
thơ như câu thơ, đoạn thơ đã được mổ xẻ tường tận, tường tận tới mức để
bàn về câu thơ chẳng hạn, R. Jakobson đã đưa ra bốn thuật ngữ khác nhau
nhưng có quan hệ tương liên: mô hình thơ, ví dụ về câu thơ, mô hình thực
hiện, ví dụ thực hiện 1. Đặc biệt, các nhà Hình thức chủ nghĩa Nga đã rất chú
ý nghiên cứu các mối quan hệ trong bài thơ, đã đi sâu vào nghiên cứu nhịp
điệu như là cái cơ sở có tính chất xây dựng của thơ,và từ đó mở rộng khái
niệm nhịp điệu đến một loạt yếu tố ngôn ngữ tham dự vào việc cấu tạo câu
thơ, đoạn thơ, bài thơ 2. Trong công trình Kết cấu những tác phẩm thơ trữ
tình (1921), V. Zhirmunski đi sâu khảo sát các thủ pháp kết cấu đã trở thành
điển phạm trong nghệ thuật trữ tình và đề xuất cách phân loại chúng theo các
tiêu chí như đề tài, hình thức kết cấu, phương thức biểu đạt, truyền đạt. Ông
1 O. Ducrot, T. Todorov, Từ điển bách khoa về các khoa học ngôn ngữ, Viện Thông tin KHXH dịch và phát hành, HN, 1977. 2 B. Eikhenbaum, Lý luận về “phương pháp hình thức”, V.C. dịch, TCVH 4/1997, 64 – 73.
7
cho rằng sự xuất hiện của một loạt thủ pháp kết cấu ít nhiều xác định kia là
kết quả của những nỗ lực muốn đạt tới sự hoàn thiện hình thức của tác
phẩm1. Nhìn chung, những nghiên cứu về kết cấu thơ trữ tình của trường
phái hình thức Nga còn nghiêng về phía ngôn ngữ học, và ở đây, ta vẫn thấy
thiếu những công trình bao quát, trong khi số lượng công trình nghiên cứu
từng mặt, từng cấp độ của kết cấu thì rất phong phú. Sự thiếu bao quát đó,
xét cho cùng, có lẽ là hệ quả của định hướng nghiên cứu gạt ra bên ngoài
những sự kiện thuộc về lịch sử văn hoá hoặc đời sống xã hội và tâm lý, chỉ
coi trọng tính độc lập, tự chủ của văn bản. Hiển nhiên, một quan điểm
nghiên cứu như thế là cực đoan và phiến diện, bởi trên vấn đề được bàn ở
đây, thơ không phải là một hiện tượng thuần tuý ngôn ngữ mà chủ yếu là
một phát ngôn, một mặt mang những thông điệp hướng ra bên ngoài và kêu
gọi sự đối thoại, mặt khác, bao giờ cũng xuất hiện trên nền một bối cảnh,
một truyền thống nào đó.
Trong số những công trình nghiên cứu về thơ theo quan niệm ( của
chủ nghĩa cấu trúc hay quan điểm cấu trúc luân?-ái) cấu trúc chủ nghĩa, bài
viết "Những con mèo" của Ch. Baudelaire của hai tác giả R. Jakobson và L.
Strauss (1962) có một vị trí đặc biệt. Có thể xem đây là một ví dụ điển hình
của việc phân tích chức năng thơ (fonction poétique) của ngôn ngữ và
làm sáng tỏ cấu trúc hình thức của thơ ca. Các mô hình âm luật, cú pháp, các
quan hệ song hành, đối chọi của bài thơ đã được hai nhà nghiên cứu mổ xẻ
một cách tỉ mỉ 2. Tuy nhiên, theo cảm nhận của nhiều người (trong đó có các
nhà cấu trúc chủ nghĩa) một sự phân tích như thế còn chứa đựng không ít
điều khiên cưỡng (như sự mặc nhiên thừa nhận nhân tố thi pháp giống đực
trong thi luật học lại có một hàm nghĩa tính dục nào đó ...), đặc biệt là chưa
chú ý đúng mức tới ý nghĩa của bài thơ 3. Từ ví dụ cụ thể về việc phân tích
kết cấu một bài thơ trữ tình như thế, có thể nhận diện được phần nào khuynh
1 Theo lược thuật của V. Ivanisenko trong Thơ ca, cuộc sống và con người, NXB Nhà văn Xô viết, M., 1962 (tiếng Nga). 2 R. Jakobson – Lévi Strauss, “Những con mèo” của Charles Baudelaire, MH và TBĐ dịch, TCVH 7/1997, 69- 75. 3 Chủ nghĩa cấu trúc: “ủng hộ” và “phản đối”, NXB Tiến bộ, M., 1975 (tiếng Nga).
8
hướng nghiên cứu thơ (cũng như văn học nói chung) của trường phái cấu
trúc là đánh đồng những quy luật của thơ ca, của văn học với những quy luật
của ngôn ngữ, để trên cơ sở đó áp dụng những phương pháp chính xác vào
nghiên cứu hình tượng và dường như có tham vọng "đo lường hình tượng
bằng con số". ở đây cách nghiên cứu đồng đại đã đóng vai trò chủ chốt, một
mặt cho phép đi rất sâu vào những cắt đoạn của một hệ thống, nhưng mặt
khác, đã hạn chế những khám phá về chức năng của hệ thống, do vậy, chưa
thể xem là một cách phân tích tác phẩm thơ (một kết cấu, một hệ thống)
hoàn toàn hữu hiệu.
Năm 1973, nhà ngữ văn học thuộc trường phái cấu trúc ký hiệu học
Xô viết là Ju. Lotman cho ra đời cuốn Phân tích văn bản thơ. Trong tác
phẩm này, Ju. Lotman quán triệt quan điểm nghiên cứu văn bản thơ như
một kết cấu, một ký hiệu văn hoá hoàn chỉnh có tính chất đa mã. Theo đó,
một sự phân tích tĩnh tại, cô lập các thành tố của hệ thống và sự bỏ qua
những hình thái trước đây của chúng là không có triển vọng, không dẫn tới
sự khám phá ra ý nghĩa nghĩa đích thực của bản thân từng thành tố.
Ju. Lotman cũng dành những chương mục riêng cho việc nghiên cứu các
thành tố tổ chức của văn bản thơ như từ, dòng thơ, đoạn thơ, "từ xa lạ"...
nhưng với ý thức thường xuyên đưa chúng vào trạng thái đối lập, chẳng
hạn đối lập nghĩa của từ trong từ điển với nghĩa của từ trong thơ, đối lập
nghĩa của dòng thơ trong tư cách một tập hợp của nhiều từ hướng tới chức
năng thông tin bình thường với nghĩa của dòng thơ trong tư cách siêu nghĩa
(như là nghĩa của một từ được cấu tạo đặc biệt) hướng tới chức năng thông
tin thẩm mỹ... Thao tác đối lập này sẽ giúp cho nhà nghiên cứu một mặt
khảo sát được kỹ lưỡng từng thành tố mang nghĩa cơ bản nhất của một kết
cấu (với những dấu hiệu riêng biệt của nó), mặt khác phát hiện ra được
nguyên tắc kết hợp của chúng vào những thành tố mang nghĩa phức tạp,
toàn diện hơn, từ đó nhìn ra cách mô hình thế giới (cách hay các? Nếu cách
thì phải là cách mô hình hoá?-ái) của tác giả 1. Rõ ràng, bằng công trình
1 Iu. Lotman, Phân tich văn bản thơ ca, NXB Giáo dục, 1972 (tiếng Nga).
9
này, Ju. Lotman đã phác ra một quan niệm mới về kết cấu văn bản văn học
nói chung và kết cấu văn bản thơ nói riêng trên cơ sở chú ý mối quan hệ
giữa chủ quan và khách quan trong sáng tạo nghệ thuật cũng như sự chuyển
hoá tác phẩm của nhà văn trong ý thức độc giả với các hình thức và quy
luật của nó.
ở nước ta, trong mấy chục năm qua, đã có một số chuyên luận về thơ
ca ít nhiều đề cập vấn đề kết cấu thơ trữ tình của các tác giả Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức, Bùi Công Hùng, Nguyễn Phan Cảnh, Trần Đình Sử,
Hữu Đạt... Do các tác giả không nhằm nghiên cứu riêng về kết cấu nên các
kết luận khoa học về vấn đề này còn tản mạn, chưa nổi bật. ở Thơ ca Việt
Nam (hình thức và thể loại) (1965), kế thừa những kết quả nghiên cứu rất
đáng quý về hình thức thơ ca dân tộc trong những tác phẩm như Việt Hán
văn khảo (1918) của Phan Kế Bính, Quốc văn cụ thể (1932) của Bùi Kỷ,
Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm..., Bùi Văn Nguyên
và Hà Minh Đức đã nghiên cứu khá toàn diện hình thức thơ ca trong văn
học Việt Nam cùng đặc trưng hình thức của các thể thơ tiếng Việt. Tuy
nhiên trong cuốn sách này, khái niệm kết cấu vẫn chưa được xem như một
khái niệm trung tâm của việc nghiên cứu hình thức thơ ca. Vẫn còn thấy
thiếu những ý kiến khái quát về các loại hình kết cấu (một hiện tượng bao
trùm, rộng hơn hiện tượng kết cấu của một thể thơ cụ thể), trong khi bức
tranh thể loại của từng thời kỳ văn học, cũng như kết cấu bề mặt của các thể
thơ (nhất là các thể thơ cổ) đã được miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết 1.
Trong Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (1974), Hà
Minh Đức đã bắt đầu đặt vấn đề tìm hiểu kết cấu thơ trữ tình một cách toàn
diện hơn. Trong chương IV và VI của cuốn sách, tác giả đã cố gắng chỉ ra
những mạch ngầm chi phối cách tổ chức tác phẩm thơ do liên tưởng, do
mạch cảm xúc, do tứ thơ tạo nên. Đặc biệt ở chương VII là chương bàn về
Hình thức của thơ, tác giả đã có một phần viết riêng về Kết cấu trong thơ trữ
tình. ở đó tác giả đã có những nhận xét khái quát rất cơ bản về vai trò của kết
1 Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, NXB KHXH, HN, 1971.
10
cấu trong thơ trữ tình cũng như đã phác qua mấy nét về vị trí của tứ thơ, của
điểm sáng thẩm mỹ (tâm điểm của cảm xúc) của cách mở đầu và kết thúc bài
thơ trong kết cấu. Tuy nhiên, một quan niệm thực sự toàn diện và có hệ
thống về kết cấu thơ trữ tình vẫn chưa được xây dựng 1.
Năm 1983, với cuốn Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, tác giả
Bùi Công Hùng có mong muốn tìm hiểu toàn bộ vấn đề kết cấu thơ (dựa
vào tư liệu thơ Việt Nam hiện đại) trên cơ sở áp dụng lý thuyết hệ thống và
phương pháp tổng hợp. Nhưng trên thực tế , kết quả nghiên cứu còn chênh
so với nhiệm vụ đề ra. Quả là tác giả đã liệt kê khá đầy đủ các thành tố cấu
trúc của tác phẩm thơ, đã bước đầu phân loại chúng và mô tả khá chi tiết
đặc điểm của chúng, nhưng sự thực ông chưa làm rõ được sự tương tác
giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, chẳng hạn chưa làm rõ được hệ thống tư
tưởng chủ đề đã chi phối hệ thống hình tượng, hệ thống cấu tạo, hệ thống
ngôn ngữ như thế nào. ở chương III và IV dù tác giả thu hẹp diện khảo sát
vào Các thành phần của câu thơ và Câu thơ trong bài thơ, các mối liên hệ
giữa từ ngữ với nhịp điệu, vần, ngữ điệu vẫn chưa được làm rõ và chức
năng của câu thơ, đoạn thơ trong chỉnh thể của tác phẩm vẫn còn bị lướt
qua. Tuy vậy, khi đề cập những đặc trưng của nhịp điệu, vần, ngữ điệu, tác
giả đã nêu được một số luận điểm về sự liên kết các yếu tố cấu tạo trong
bài thơ nhờ vào nhịp điệu, vần và ngữ điệu ấy 2.
Dựa vào lý thuyết của R. Jakobson về chức năng thi ca của ngôn
ngữ, Nguyễn Phan Cảnh trong Ngôn ngữ thơ (1987) đã triển khai nghiên
cứu về thơ một cách khá toàn diện dưới góc độ ngôn ngữ. Khi quan sát
cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa, sự lắp ghép, nhạc thơ, nét dư trong
ngôn ngữ thơ, vận động tạo vần v.v..., tác giả đã đưa ra một số ý kiến đáng
chú ý liên quan đến vấn đề kết cấu tác phẩm thơ: các phương tiện ngôn ngữ
phải được tổ chức theo cách nào để ngôn ngữ thơ có được chất thơ, để
“ngôn ngữ thành nghệ thuật" 3.
1 Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, HN, 1974. 2 Bùi Công Hùng, Góp phần tìm hiểu nghệ tuật thơ ca, NXB KHXH,HN, 1983. 3 Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH và GDCN, HN, 1987.
11
Trần Đình Sử trong một số chuyên luận như Thi pháp thơ Tố Hữu
(1987), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995) đã khảo sát khá công phu đặc
điểm của các loại hình thơ xuất hiện trong lịch sử văn học. Tuy chưa đặt
vấn đề nghiên cứu riêng về kết cấu thơ trữ tình nhưng nhiều kết luận về các
loại hình thơ trong đó có khả năng gợi mở một cái nhìn mới về vấn đề kết
cấu, đặt kết cấu thành một phạm trù của thi pháp học lịch sử, gắn việc tìm
hiểu kết cấu thơ với việc tìm hiểu loại hình thơ 1.
Nhìn chung, chung quanh việc nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình còn có
một số vấn đề sau:
Khái niệm kết cấu và tiếp đó là khái niệm kết cấu thơ trữ tình chưa
có được sự phân biệt đúng mức với các khái niệm kề cận như cấu trúc, bố
cục, thủ pháp liên kết... Trong một số công trình nghiên cứu, nhiều khi các
khái niệm này được dùng như nhau. Chính sự thiếu phân hoá đó tạo nên sự
nhùng nhằng nhất định trong một số kết quả nghiên cứu, chưa cho phép
người ta thực sự đi sâu vào vấn đề.
Kết cấu thơ trữ tình chưa được xem là một khái niệm trung tâm của
việc nghiên cứu hình thức thơ ca. Điều này ở mức độ nhất định dẫn đến
việc nhìn nhận không đúng mức vai trò của kết cấu, chưa làm rõ được các
thành tố, các cấp độ của kết cấu cùng những mối liên hệ giữa chúng. Sự
thực là việc khảo sát riêng biệt các thành tố, các cấp độ của kết cấu thơ trữ
tình như tứ thơ, nhịp, vần, câu thơ, khổ thơ... sẽ khó đi vào bề sâu, sẽ khó
vượt qua được giới hạn của sự phân tích ngôn ngữ học nếu tư duy người
nghiên cứu chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò phối thuộc của chúng
trong một phạm trù bao quát hơn - phạm trù kết cấu thơ trữ tình .
Việc nghiên cứu loại hình kết cấu thơ trữ tình còn chưa được chú ý
đúng mức. Kết cấu thơ trữ tình không chỉ là vấn đề của từng bài hay từng
thể loại cụ thể. Vả chăng, để nhận ra đặc sắc của kết cấu một bài, cần phải
đặt nó vào trong bối cảnh kết cấu của cả một loại hình thơ vốn là sản phẩm
1 Ttần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, HN, 1987 và Những thế giới nghệ thật thơ, NXB GD, HN,1995.
12
của một giai đoạn văn học, một trình độ tư duy văn học. Rõ ràng, ở đây,
phương pháp nghiên cứu của thi pháp học lịch sử vẫn còn ít được vận
dụng.
Do có những vấn đề bị để ngỏ như trên, việc nghiên cứu kết cấu thơ
trữ tình vẫn cần phải được tiếp tục trên một quy mô lớn hơn và theo một
góc nhìn mới hơn.
13
Chương 1
Các Khái niệm cơ sở của nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình 1.1 . Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học
Khái niệm kết cấu tác phẩm văn học là một khái niệm cơ bản của
nghiên cứu văn học nói chung và của lý luận văn học nói riêng. Nó phản
ánh quy luật chỉnh thể của tác phẩm - đơn vị trung tâm của đời sống văn
học và là đối tượng nghiên cứu hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của các bộ
môn thuộc khoa nghiên cứu văn học. Chính vì vậy, hầu như trong tất cả các
bộ sách lý luận văn học và các cuốn từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm
kết cấu tác phẩm văn học đã được luận giải khá kỹ lưỡng. Sau đây, xin đơn
cử một số giới thuyết mang tính chất giáo khoa thuộc loại tiêu biểu về khái
niệm này.
Từ điển bách khoa văn học của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, xuất
bản năm 1987 viết: "Kết cấu (từ tiếng Latinh compositio có nghĩa là sự sắp
xếp, sự liên kết), là sự xếp đặt và phân bố các yếu tố của hình thức tác
phẩm nghệ thuật, nói đúng hơn, là sự tổ chức tác phẩm trong một nội dung
và thể loại xác định (...). Kết cấu cố kết các yếu tố hình thức và chi phối ý
nghĩa của chúng. Các quy tắc kết cấu - đó là tổng số những tri thức mỹ học
phản ánh những mối liên hệ bên trong của thực tại. Kết cấu có một nội
dung ý nghĩa tự thân. Các phương thức và phương tiện kết cấu làm cải biến
và đào sâu ý nghĩa của sự mô tả (...). Kết cấu đưa lại cho tác phẩm sự hoàn
chỉnh, nhất quán và "sự hoàn mỹ của cái trật tự" (Horacius)"1. Trong đoạn
giới thuyết trên, có thể thấy rõ các vấn đề như những thành tố tham gia vào
kết cấu, chức năng và vai trò của kết cấu, các quy tắc kết cấu đã được đồng
thời đề cập.
Tiếp thu quan niệm về kết cấu được thể hiện trong các bộ sách như
Lý luận văn học của L.I. Timofeev, Dẫn luận nghiên cứu văn học của G.N.
1 Từ điển bách khoa văn học, “Bách khoa toàn thư xô viết”, M., 1987, tr.164 (tiếng Nga).
14
Pospelov (chủ biên) v.v..., trong Lý luận văn học (giáo trình dành cho các
trường ĐHSP), Trần Đình Sử đã trình bày về kết cấu tác phẩm văn học qua
các tiểu mục như sau: 1) Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động
của tác phẩm; 2) Kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật; 3) Các bình
diện và cấp độ kết cấu. Trong mục 3 này, tác giả đã chỉ rõ: "Khái niệm kết
cấu được mở rộng theo chiều ngang - được xem xét ở bình diện quy luật tổ
chức thể loại: kết cấu tự sự, kết cấu kịch, kết cấu trữ tình (...). Kết cấu còn
được xem xét ở chiều dọc, tức là nghiên cứu mối quan hệ quy định và tùy
thuộc của các cấp độ tác phẩm như một chỉnh thể. Kết cấu tồn tại ở hai cấp
độ cơ bản: cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật" 1.
Để đi tới một nhận thức đầy đủ về kết cấu tác phẩm văn học, chúng
tôi nghĩ ngoài những điều đã được các sách trên nói tới, vẫn cần phải lưu ý
thêm vấn đề loại hình kết cấu. Trong các loại hình văn học khác nhau, việc
tổ chức tác phẩm được thực hiện theo những cách, những nguyên tắc khác
nhau. Nói cách khác, vấn đề kết cấu tuy phải xét trên đơn vị tác phẩm nhưng
nó không đơn giản chỉ là vấn đề của riêng tác phẩm, vấn đề của thể loại mà
còn là vấn đề của những loại hình sáng tác. Nếu không có ý thức rõ về điều
vừa nói, nhiều khi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu kết cấu của một tác phẩm cụ
thể nào đó, ta sẽ không chỉ ra được những cách tân có thể có của nó trên
phương diện này, mà những cách tân như thế đôi khi có ý nghĩa báo hiệu cả
một thời đại văn học mới.
Khi tiến hành xác định khái niệm kết cấu tác phẩm văn học, thì theo
một logic tự nhiên, ta phải chú ý phân biệt khái niệm này với một số khái
niệm gần gũi, tương liên như bố cục, cấu trúc - những khái niệm đôi khi đã
được dùng để thay thế cho khái niệm kết cấu và ngược lại. Nhiều bộ sách
lý luận văn học và từ điển thuật ngữ văn học cũng đã ít nhiều chú ý vấn đề
này, ở đây xin được tổng hợp lại và làm rõ thêm một số điểm.
Bố cục thực ra chỉ là một biểu hiện của kết cấu trên bề mặt của tác
phẩm. Ta có thể dễ dàng nhận ra bố cục của tác phẩm căn cứ vào sự phân 1 Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập II, NXB GD, HN, 1987, tr.95.
15
chia chương, đoạn, phần, sự phân chia các khổ (đối với bài thơ) của tác giả.
Sự phân chia đó thường được thể hiện bằng những dấu hiệu có thể nhận
biết được bằng trực quan như số (chữ số La mã hoặc ả rập), dấu hoa thị,
những dòng để trống v.v... Những nghiên cứu về chương pháp trong lý
luận văn học cổ điển Trung Hoa và Việt Nam đã rất chú ý làm sáng rõ
phương diện này của kết cấu, tức bố cục. Trong Văn bản với tư cách đối
tượng nghiên cứu ngôn ngữ học, I.R. Galperin, khi nói tới cơ sở của tính
khả phân trong văn bản có nêu 4 điểm: 1) Quy mô các phần; 2) Thông tin
nội dung sự việc; 3) Mục đích thực tế của người tạo dựng văn bản; 4) Khả
năng chú ý đến đối tượng của con người trong một đơn vị thời gian1. Vận
dụng vào đây, có thể xem 4 điểm đó cũng chính là cơ sở của bố cục và là
những thông tin tối đa (đối với 3 điểm đầu) mà người đọc, người nghiên
cứu có thể tiếp nhận được thông qua bố cục của tác phẩm (tất nhiên, thông
tin về "mục đích thực tế của người tạo dựng văn bản" lúc này chỉ mới đạt
tới mức độ rất hạn chế). Như vậy, không thể đồng nhất bố cục với kết cấu.
Cấu trúc (structure) là khái niệm hay bị đồng nhất với khái niệm kết
cấu hơn cả. Thực ra, từ khi Chủ nghĩa cấu trúc kéo vấn đề kết cấu vào tầm
nhìn của mình thì khái niệm cấu trúc đã được cấp cho một nội hàm khá xác
định. Người ta dùng nó để chỉ những yếu tố và quan hệ hữu hạn, những liên
kết quen thuộc, phi cá tính trong tác phẩm văn học. Nó trở thành công cụ
hữu hiệu giúp các nhà nghiên cứu tìm ra cái bất biến trong những mối liên hệ
phức tạp giữa các yếu tố thuộc tác phẩm. Đặc biệt, nó có ý nghĩa đối với việc
tìm hiểu những sáng tác văn học dân gian và văn học trung đại (tức là những
sáng tác mà ở đó tính công thức và tính quy phạm nổi lên như một đặc trưng
thẩm mỹ quan trọng). Những công trình nghiên cứu có tiếng vang lớn của
V.Ja. Propp về hình thái học truyện cổ tích, của C. Lévi- Strauss về huyền
thoại đã chứng tỏ điều này. Thực tế vừa nêu cho thấy hiện nay việc phân biệt
hai khái niệm cấu trúc và kết cấu rất có ý nghĩa, rất cần thiết. Khái niệm kết
cấu rộng hơn khái niệm cấu trúc. Cấu trúc chỉ là phần ổn định, bất biến, 1 I.R. Galperin, Văn bản với tư cách là đối tượng của ngôn ngữ học, Hoàng Lộc dịch, NXB KHXH, HN, 1987, tr. 103.
16
vững bền của mối quan hệ giữa các yếu tố tham gia vào tổ chức tác phẩm.
Việc đánh đồng kết cấu với cấu trúc sẽ hạn chế khám phá của người nghiên
cứu về tính nghệ thuật sinh động của hình thức tác phẩm, không cho phép ta
cảm nhận được đầy đủ về tính toàn vẹn, đa dạng của nó. Sự thật thì ngay cả
khi sáng tác văn học chịu sự ràng buộc của những quy phạm thì giá trị của
sáng tác đó vẫn không thể bị đánh đồng vào một cấu trúc bất biến mang tính
phổ quát. Ví dụ, khi đi vào một bài thơ luật Đường tuyệt tác như bài Đăng
cao của Đỗ Phủ chẳng hạn, sự thẩm định giá trị của nó không thể chỉ dừng
lại ở việc ghi nhận về tính nhất khí, về cách khai, thừa, chuyển, kết, về đối
ngẫu... rất đúng phép theo đòi hỏi ngặt nghèo của thể thơ này. Dù sao, đó
mới chỉ là một phần (dù là phần khá quan trọng) làm nên cái hay của bài thơ
chứ chưa phải là tất cả bài thơ. Theo cái nhìn này, dễ dàng nhận thấy khám
phá của R. Ingarden về tính hai chiều, bốn tầng lớp của kết cấu tác phẩm văn
học thực ra mới chỉ hướng vào phương diện cấu trúc chung của tác phẩm mà
thôi.
Tóm lại, khái niệm kết cấu là một khái niệm thuộc phạm trù hình
thức của tác phẩm văn học. Toàn bộ các yếu tố thuộc về hình thức (tức là
các yếu tố biểu hiện nội dung có thể chỉ ra và phân tích được) nằm trong
hai nhóm gọi ước lệ là hình tượng và văn bản như hệ thống nhân vật, sự
kiện, không gian, thời gian, câu, đoạn, hệ thống điểm nhìn, mở đầu, kết
thúc v.v... đều tham gia vào kết cấu. Kết cấu đảm nhiệm vai trò tổ chức các
yếu tố trên thành một chỉnh thể theo phương thức: dùng một chuỗi phương
tiện ngôn từ kế tiếp nhau theo thời gian làm sống dậy thế giới hình tượng
trong mọi chiều kích và thiết lập một trật tự nghệ thuật cho nó. Cơ sở của
kết cấu là những khả năng to lớn, tiềm tàng của các phương tiện ngôn từ, là
quy luật thể loại và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Mục đích của kết cấu là
xây dựng nên một thế giới nghệ thuật bộc lộ rõ cảm quan của nhà văn về
đời sống, đồng thời vạch ra con đường giúp độc giả có thể theo đó mà nhận
ra ý nghĩa của thế giới nghệ thuật vừa được tạo nên và tự xác lập được một
cách nhìn đời mới theo gợi ý của tác giả. Trong kết cấu của mỗi một tác
17
phẩm văn học cụ thể có hai mặt gắn bó với nhau và chuyển hoá lẫn nhau.
Mặt thứ nhất là tính độc đáo, không lặp lại của những mối quan hệ và liên
kết giữa các yếu tố, bộc lộ tài năng sáng tạo của tác giả khi nhắm tới một
mục tiêu nghệ thuật nhất định. Mặt này sẽ tạo nên tính đơn nhất của tác
phẩm văn học. Mặt thứ hai là tính phổ biến của một kiểu tổ chức tác phẩm,
phản ánh đặc trưng thể loại, loại hình và phẩm chất dân tộc của chính tác
phẩm đó. Chính sự tồn tại của mặt thứ hai này trong kết cấu cho phép ta nói
tới các vấn đề như kết cấu thể loại, kết cấu của một loại hình sáng tác.
Khái niệm kết cấu được xác định như trên sẽ đặt cơ sở cho việc tìm
hiểu về khái niệm kết cấu thơ trữ tình - khái niệm cho phép ta tiến xa hơn
trong việc nắm bắt kiểu tổ chức nghệ thuật đặc thù của một thể loại văn học
quan trọng: thơ trữ tình.
1.2. Thơ trữ tình và kết cấu thơ trữ tình
1.2.1. Thơ trữ tình
Để tạo cơ sở cho việc xây dựng một khái niệm về thơ trữ tình và kết
cấu thơ trữ tình phù hợp với góc nhìn của chuyên luận này, trước hết xin đi
vào xác định một số yếu tố cơ bản tạo nên đặc trưng thể loại của thơ trữ
tình mà những nghiên cứu về thơ lâu nay không thể bỏ qua.
Cách nay khoảng 1.500 năm, trong Văn tâm điêu long, ở thiên Tình
thái, Lưu Hiệp đã đề xuất ba khái niệm quan trọng là hình văn, thanh văn và
tình văn có khả năng khái quát được ba phương diện cơ bản cấu thành nên
một bài thơ. Đến đời Đường, Bạch Cư Dị, trong Thư gửi Nguyên Chẩn đã đề
ra thuyết "cây thơ" nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại
của thơ: "Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm,
chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì
sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là
âm thanh, quả là ý nghĩa. Trên thì bậc thánh hiền, dưới là kẻ ngu si, nhỏ bé
như lợn cá, thần bí như quỷ thần, chủng loại bất đồng nhưng tinh thần tương
tự, hình trạng khác biệt nhưng tình cảm tương thông, không một thứ gì nghe
18
được âm thanh mà không đáp ứng, không một thứ gì tiếp nhận được tình
cảm mà không rung động "1. Lý thuyết của Bạch Cư Dị có phần kế thừa
quan niệm của Lưu Hiệp. Nếu theo cái nhìn hiện đại thì có thể xem các yếu
tố tình (tình cảm), nghĩa (ý nghĩa) (cũng là yếu tố tình văn) tương đương với
phương diện nội dung của tác phẩm thơ, còn các yếu tố ngôn (ngôn ngữ)
(cũng là yếu tố tạo nên cái gọi là hình văn), thanh (âm thanh) (cũng là yếu tố
thanh văn) lại tương đương với phương diện hình thức. Nhưng điều đáng
chú ý là Bạch Cư Dị không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành
tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ,
mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một "cây thơ" hoàn chỉnh và sống
động.
Nhà nghiên cứu người Hoa Lương Xuân Phương trong Cựu thi lược
luận đã giải thích cặn kẽ về lý thuyết thơ của Bạch Cư Dị như sau: "Cái gọi
là "Căn tình" đó chính là cái "nhân tâm" trong câu "Nhân tâm chi cảm vật"
của Chu Hy (bài tựa Kinh Thi), cũng là, vẫn theo Chu Hy cái "dục" do
nhân tâm cảm ứng với vật giới mà sinh ra, đó là nói chung tất cả những cái
tư tưởng, cảm tình, tưởng tượng trong đời sống nội giới con người. Mà cái
đối tượng làm cho con người cảm ứng ấy chẳng phải chỉ giới hạn ở hiện
tượng chính trị, luân lý, mà còn toàn thể những gì tự nhiên hay nhân vi bao
quanh con người, tạo ra cái hoàn cảnh, đủ khiến cho nhà thơ rung cảm khởi
hứng. Cái gọi là "Miêu ngôn"đó tức cũng như bài tựa Kinh Thi nói: "Tại
tâm vi chí, phát ngôn vi thi". Cái gọi là "Hoa thanh" đó cũng tức như bài
tựa Kinh Thi nói: "Tình phát ư thanh, thanh thành văn", hoặc thêm nữa:
"Tất hữu tự nhiên chi âm hưởng tiết tấu". Sau hết, cái gọi là "Thực nghĩa"
đó cũng tựa như nay ta nói cái nội dung, mà nội dung đó không nhất định
chỉ là những ý khuyên răn, giáo huấn về chính trị, luân lý"2. Trong lời giải
thích trên, một mặt Lương Xuân Phương đã chỉ ra được nguồn mạch quan
niệm của Bạch Cư Dị, mặt khác, đã nói lên được tính chất toàn diện và cởi
mở của quan niệm này, nhưng ở một mức độ nào đó, nhà nghiên cứu đã hơi 1 Bạch Cư Dị, Thư gửi Nguyên Chẩn, Nguyễn Khắc Phi dịch, TCVH 5/1998, 71 – 80. 2 Lương Xuân Phương, Cựu thi lược luận, Phạm Thế Ngũ dịch và xuất bản, Sài Gòn, 1968.
19
hiện đại hoá hoặc đã mở rộng ý kiến của cổ nhân. Thực ra, cái mà Bạch Cư
Dị gọi là thực nghĩa trong thơ vẫn còn nằm trong vòng khống chế của quan
niệm Nho gia là thơ phải có chức năng giáo hoá. Cũng như thế, cái gọi là
căn tình trong quan niệm của Bạch Cư Dị chưa phản ánh được hết khả
năng nội cảm hoá thế giới to lớn của cái tôi trữ tình, một khi như chính
Bạch Cư Dị đã nói rõ: "Chí của tôi là ở chỗ kiêm tế, hành của tôi là ở nơi
độc thiện. Giữ chí nguyện và hành động đó đến cùng là đạo, dùng lời để
nói rõ ra là thơ"1.
Dù sao, trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, quan niệm về
thơ nói trên của Bạch Cư Dị thuộc loại toàn diện và sâu sắc nhất, đã cho ta
thấy những nỗ lực nhằm khái quát lại tất cả những gì tạo nên chất thơ của
một bài thơ.
Trong các công trình nghiên cứu của nhiều nhà Cấu trúc chủ nghĩa,
câu hỏi trực diện thơ là gì đã được thay thế bằng một câu hỏi khác: tính thơ
(poéticité) là gì và nó được thể hiện ra như thế nào? Để trả lời được câu hỏi
mới này, tức cũng để xác định được đâu là "yếu tố xác định chủng loại" của
thơ, các nhà nghiên cứu hầu hết hướng sự tìm tòi vào đặc trưng cấu trúc
của ngôn ngữ thơ. Thao tác phổ biến của họ là phân biệt, đối lập ngôn ngữ
thông thường với ngôn ngữ mang tính thơ. R. Jakobson viết: "Nhưng tính
thơ được thể hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như
là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ
định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình
thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn
của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng của chúng"2. Quan
niệm này của R. Jakobson cũng gần như trùng hợp với quan niệm của một
số nhà thơ, nhà văn khác như P. Valéry, A. Breton, J. P. Sartre khi họ đối
sánh ngôn ngữ văn xuôi (hay là văn xuôi) với ngôn ngữ thơ (hay là thơ)...
Tiếp tục triển khai lý thuyết về tính tự quy chiếu của ngôn ngữ thơ nói trên,
trong tiểu luận Ngôn ngữ và thi ca, R. Jakobson, sau khi nhắc lại về hai 1 Bạch Cư Dị, Thư gửi Nguyên Chẩn, Nguyễn Khắc Phi dịch, TCVH 5/1998, 71 – 80. 2 R. Jakobson, Thơ là gì?, Trịnh Bá Đĩnh dịch, TCVH 12/1996, 70 – 74.
20
kiểu sắp xếp (hay là thao tác) cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn
và kết hợp (điều đã được F.de Saussure phát hiện từ trước), đã có một kết
luận rất trọng yếu: "Chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục
tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp". Hoạt động của nguyên lý tương đương
này (le principe d' équivalence đôi khi được dịch là "nguyên tắc đồng đẳng"
hoặc "nguyên tắc tương đồng") chủ yếu được R. Jakobson quan sát từ
phương diện âm vận. Ông viết: "Tính tương đương được đề lên hàng biện
pháp cấu thành của mỗi chuỗi ngữ ngôn. Trong thơ mỗi âm tiết đều được
xác lập một quan hệ tương đương với tất cả các âm tiết khác nhau trong
chuỗi: mọi trọng âm từ đều được coi như bình đẳng với mọi trọng âm từ
khác; và cũng vậy, không có trọng âm thì ngang với không có trọng âm; dài
(về phương diện điệu tính) thì ngang với dài, ngắn thì ngang với
ngắn;
biên giới từ thì ngang với biên giới từ; không có biên giới từ thì ngang với
không có biên giới từ; chỗ ngừng cú pháp thì ngang với chỗ ngừng cú
pháp, không có chỗ ngừng thì ngang với không có chỗ ngừng. Các âm tiết
được biến thành những đơn vị đo lường, và đối với các more và các trọng
âm cũng vậy"1. Tuy nhiên, R. Jakobson cũng đã có chú ý ít nhiều tới
nguyên lý tương đương về phương diện ý nghĩa: "Đương nhiên câu thơ bao
giờ trước hết vẫn là một hình tượng âm thanh được láy lại; nhưng nó không
phải chỉ là thế. Nếu quy những ước lệ thi ca như khổ thơ, sự điệp âm, vần
thơ vào mỗi một bình diện âm thanh thì sẽ rơi vào tình trạng suy lý tư biện
một cách không hề có căn cứ kinh nghiệm. Việc chiếu nguyên lý tương
đương lên chuỗi kế tiếp có ý nghĩa rộng và sâu hơn nhiều. Cái công thức
của P. Valéry -"Bài thơ là một sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý
nghĩa" có cơ sở thực tế hơn nhiều và có tính khoa học hơn nhiều so với mọi
hình thái của chủ nghĩa biệt lập ngữ âm học"2. Mặc dù đã có lưu ý tới hoạt
động của nguyên lý tương đương về mặt ý nghĩa, nhưng trong tư duy
nghiên cứu của R. Jakobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa đối tượng gọi 1 R. Jakobson, Ngôn ngữ và thi ca, Cao Xuân Hạo dịch (tài liệu riêng của dịch giả, chưa in). 2 Tldd.
21
tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố
cấu trúc có tính chất khép kín của văn bản (texte), điều đó cũng có nghĩa là
khái niệm ý nghĩa đã được hiểu một cách hạn hẹp. Trong khi đó, như ta
thấy trong thực tế, để thực sự hiểu được hoạt động của nguyên lý tương
đương trong thơ trữ tình, nhiều khi người nghiên cứu phải vượt qua giới
hạn của văn bản hay tiến đến một cách đọc "liên văn bản" (intertextualité),
cách đọc đặt văn bản trong một truyền thống nhất định. Rõ ràng, trước
những hiện tượng phổ biến của thơ ca như điển cố hay ẩn dụ (trong trường
hợp giữa cái dụ thể và cái dụ chỉ chỉ có quan hệ hàm ẩn) thì dứt khoát sự
nghiên cứu phương diện ý nghĩa của nguyên lý tương đương phải được mở
rộng ra ngoài văn bản. Những điểm bất cập này trong lý thuyết về thơ của
R. Jakobson, cụ thể là lý thuyết về nguyên lý tương đương như nguyên tắc
tổ chức cơ bản của thơ đã được phân tích một cách khá thuyết phục bởi
Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân trong cuốn Sức hấp dẫn của thơ Đường 1.
Trong tiểu luận Thơ là gì?, nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã viết: "Thơ
là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải
nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này"2.
Nhìn chung, định nghĩa mang tính hình thức hoá này đã giúp người ta nhận
diện được ngay thơ, đồng thời đã chú ý thích đáng tới những mối liên hệ rất
cơ bản giữa thơ với đời sống, giữa thơ với độc giả (tức là những mối liên
hệ vẫn thường bị các nhà cấu trúc chủ nghĩa bỏ qua), trong khi vẫn xem
văn bản là điểm xuất phát của mọi nghiên cứu về thơ. Với định nghĩa này,
tác giả đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà
nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau ở Tây Âu trong mấy chục năm
qua (Chủ nghĩa hình thức Nga, Cấu trúc luận, Phê bình mới...), đặc biệt đã
gợi ra một trường nghiên cứu thơ rộng rãi: thơ không chỉ là một hiện tượng
ngôn ngữ học thuần tuý, biệt lập, tĩnh tại, mà chủ yếu là một hiện tượng
giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.
1 Xem: Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (biên soạn, dịch thuật), Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 493 – 495. 2 Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TP HCM, 1995, tr. 23.
22
Những nghiên cứu đã có về bản chất, cấu trúc của thơ là hết sức
phong phú. Chúng tôi mới chỉ điểm qua một ít quan niệm vào loại tiêu
biểu. Qua chúng, ta đã có thể có được một ý niệm khá đúng đắn và toàn
diện về thơ trữ tình. Tuy vậy, để vượt qua cái nhìn tĩnh tại và siêu hình về
đối tượng này, thiết tưởng phải chú ý nhiều hơn đến vai trò của thơ trữ tình
trong việc bộc lộ cái nhìn độc đáo mang tính lịch sử về chính bản thân
mình của chủ thể sáng tạo. Đây chính là điều chúng tôi muốn nhấn mạnh
khi đi vào tìm hiểu khái niệm thơ trữ tình.
Thơ trữ tình là một "loại hình" thơ mà tuyệt đại bộ phận là những tác
phẩm có dung lượng nhỏ, những bài có số câu không nhiều lắm mà các yếu
tố cấu tạo của nó được tổ chức một cách chặt chẽ dựa trên hoạt động của
nguyên lý tương đương. Do được tổ chức một cách chặt chẽ như vậy, từng
yếu tố cấu tạo dù nhỏ nhất như nguyên âm, phụ âm, thanh, vần, ngắt câu,
ngắt đoạn v.v.. cũng có một đặc thù khác với chính nó trong các tổ chức lời
nói của hoạt động giao tiếp bình thường và của văn xuôi, có thể trở thành
một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt với đầy đủ hai mặt nội dung và hình
thức của mình.
Kiểu tổ chức hình thức như trên của thơ trữ tình không mang tính
ngẫu nhiên. Đó là một sự lựa chọn hình thức tuyệt đối phù hợp giúp thơ trữ
tình bộc lộ tốt nhất dưới dạng trực tiếp những xúc cảm, cảm nhận của nhân
vật trữ tình trước mọi hiện tượng đời sống, đặc biệt là những xúc cảm nồng
cháy đang ở giai đoạn cao trào - những xúc cảm mà cách biểu đạt bình
thường của văn xuôi không đáp ứng được cũng như một sự diễn tả thiếu cô
đọng sẽ xuyên tạc độ căng hay bản chất, tính chất của nó. Khi nói đến tính
chủ quan của thơ trữ tình, khái niệm cái tôi trữ tình cần được xem là khái
niệm trung tâm, có khả năng cắt nghĩa được chiều sâu quan niệm của chủ
thể về chính mình, tức là cái có ý nghĩa chi phối tính đặc thù của nội dung
và hình thức thơ trữ tình cùng các hình thái phát triển của nó trong lịch sử.
Đến với thơ trữ tình, người đọc có một tâm thế tiếp nhận đặc biệt:
xem tiếng nói trữ tình trong thơ cũng là tiếng nói trữ tình của mình. Khi sự
23
đồng nhất giữa nhân vật trữ tình và người đọc thơ đã được thực hiện, thế
giới thơ trữ tình bỗng thành một thế giới mở, hiểu theo nghĩa thời gian,
không gian được nhắc tới trong đó bỗng trở thành biểu trưng mà ý nghĩa
của chúng không còn bị đóng khuôn trong những hình thái quá cá biệt, cụ
thể nữa. Chính sự lạ lùng này trong hoạt động tiếp nhận thơ trữ tình đã
cung cấp bằng chứng cho ta khẳng định trở lại cái áp lực mạnh mẽ mà mô
hình tổ chức ngôn ngữ thơ đã gây cho người đọc, khi nó biểu hiện những
cảm nhận của cái tôi trữ tình trong trạng thái đang diễn tiến.
Từ những sự xác định về khái niệm kết cấu tác phẩm văn học và khái
niệm thơ trữ tình như trên, ta đã có những điều kiện tối thiếu để đi vào nhận
diện những đặc thù của kết cấu một bài thơ trữ tình.
1.2.2. Kết cấu thơ trữ tình
L.I. Timofeev, trong Nguyên lý lý luận văn học, khi bàn về kết cấu
của tác phẩm văn học đã rất chú ý vai trò thể hiện nội dung của nó. Ông
viết: "Bất cứ một tác phẩm nào cũng đều có một kết cấu nhất định, tức nó
được tổ chức một cách nhất định, dựa trên cơ sở tính chất phức tạp của
hoàn cảnh sống được phản ánh trong đó và của sự nhận thức những mối
quan hệ, những nguyên nhân và kết quả của cuộc sống, sự nhận thức này
thuộc riêng nhà văn đó và nó quyết định những những nguyên tắc kết cấu
của nhà văn đó1. Nhưng đơn vị cơ bản nói lên "tính chất phức tạp của hoàn
cảnh sống" đó là gì? L.I. Timofeev xác định đó là tính cách: "Trong thơ trữ
tình (cũng như nói chung trong văn học) cái được thể hiện trước hết là các
tính cách; điều đó giải thích tính chất bền vững của nó"2. Như vậy theo nhà
nghiên cứu, việc thể hiện tính cách vừa là một nhiệm vụ vừa là một phương
tiện phản ánh đời sống của mọi tác phẩm văn học, không chỉ gắn với những
tác phẩm tự sự, cụ thể là những tác phẩm có cốt truyện mà còn gắn với cả
thơ trữ tình. Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình, khái
niệm tính cách cần được xác định một cách cụ thể hơn nữa. Chúng ta hoàn
1 Timôphêep, Nguyên lý lý luận văn học, tập I, NXB Văn hóa, Viện văn học, HN, 1962, tr. 269. 2 Timôphêep, Nguyên lý lý luận văn học, tập II, NXB Văn hoá, Viện Văn học, HN, 1962, tr. 167.
24
toàn có thể thay khái niệm tính cách bằng khái niệm cái tôi trữ tình bởi
khái niệm sau vừa có mặt tương đồng với khái niệm trước lại vừa phản ánh
được đặc trưng nội dung của loại thơ trữ tình là tính chủ quan cũng như
chiều sâu quan niệm của chủ thể trữ tình về bản thân được thể hiện trong
đó. Như vậy, nhìn bao quát, sự hình thành của kết cấu thơ trữ tình cũng
như bề rộng và chiều sâu của nó gắn liền với sự biểu hiện cái tôi trữ tình,
gắn liền với quá trình cái tôi trữ tình tự đào sâu vào mình, soi ngắm, quan
sát và tự thể nghiệm mình thông qua các trạng huống cụ thể, cá biệt, cũng
có nghĩa là thông qua một cách nhìn, tư thế, tâm thế, ứng xử riêng trước
khách thể bao quanh và đối diện với mình. Nói cách khác, kết cấu thơ trữ
tình là sự tổ chức bài thơ nương theo quá trình tự biểu hiện và bộc lộ của
cái tôi trữ tình. Khi nào quá trình nhận thức của cái tôi trữ tình (trong một
điều kiện xác định) đã hoàn tất, khi đó bài thơ dừng lại. Chính ở đây ta thấy
vai trò của kết cấu trong việc bộc lộ bản chất của chủ thể sáng tạo.
Thơ trữ tình là một "loại hình" sáng tác gắn liền với sự rung động,
với cảm xúc tươi mới, trực tiếp của cái tôi trữ tình trước mọi biểu hiện đa
dạng phức tạp của cuộc đời. Hơn thế, trong rất nhiều trường hợp, thơ trữ
tình là nơi gặp gỡ, trùng phùng của những cảm xúc đã lắng thành kỷ niệm
với những cảm xúc vừa mới nảy sinh trên nền kỷ niệm đó, đúng như W.
Wordsworth đã nói: "Tôi đã nói rằng thơ là sự tuôn trào bột phát những
tình cảm mãnh liệt: nó bắt nguồn từ trong cảm xúc được nhớ lại trong sự
bình tâm; cảm xúc được chiêm nghiệm cho tới lúc, do một thứ phản ứng
đặc biệt, sự bình tâm dần dần bị biến mất, và một cảm xúc khác thân thuộc
với cái trước đó là đối tượng của sự chiêm nghiệm lần lần nảy sinh và nó
thực sự tồn tại trong tâm tưởng"1. Trước một phức thể cảm xúc mang tính
chất khá mơ hồ và bất định như thế, kết cấu có vai trò to lớn trong việc
định hình nó lại, cấp cho nó một hình thể xác định làm tiền đề cho mối giao
cảm giữa cái tôi trữ tình của nhà thơ và độc giả, trong khi vẫn cố gắng bảo
toàn đặc tính "khói sương" của nó. Một khi kết cấu đã thực hiện được 1 S. Barnet, M. Berman, W. Burto, Nhập môn văn học, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, HN, 1992, tr. 36.
25
nhiệm vụ khó khăn phức tạp này thì điều đó cũng có nghĩa là nó đã phát
hiện ra trong đám
hỗn mang cái logic hay phép biện chứng của tình cảm, tức những cái cho
phép từ đó cái tôi trữ tình nhìn rõ mình hơn. Như vậy, kết cấu trong thơ trữ
tình không phải chỉ là phương tiện thể hiện nội dung mà bản thân nó còn là
cái đích đi đến của nhà thơ nếu quả đúng anh ta là kẻ luôn có khát vọng
khám phá mình và qua mình khám phá ra bản chất người tiềm tại trong đó.
Không ngẫu nhiên chút nào khi các nhà thơ đích thực luôn đau khổ, vất vả
tìm tòi, thể nghiệm những cách nói mới. Đó không phải là một câu chuyện
hình thức chủ nghĩa, vô bổ, vô ích.
Rõ ràng thơ trữ tình với kết cấu đặc thù của nó là hình thức không
thể thay thế giúp con người nhận chân ra bản chất phong phú của mình và
giúp nhà thơ tìm thấy được sự đồng tình, xẻ chia trọn vẹn ở độc giả. Chính
chức năng này đã khẳng định vị trí cũng như ưu thế riêng của thơ trữ tình
bên cạnh văn xuôi (khái niệm mà các nhà cấu trúc chủ nghĩa hay đem đối
lập với thơ) hay nói chính xác hơn là bên cạnh các sáng tác văn học thuộc
loại tự sự. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta bắt gặp hoặc trải qua biết
bao kiểu, dạng, hình thái rung động phong phú. Nhưng không phải bất cứ
rung động nào cũng có thể trở thành rung động thơ và được biểu hiện thành
thơ, nếu rung động đó không đạt tới một chiều sâu nhất định trong việc thể
hiện bản chất của chủ thể và đặc biệt là không được hoá thân trong một tổ
chức ngôn từ phù hợp, hoàn mỹ, để có thể từ đó làm lây lan đến hay thức
dậy trong lòng người đọc một trạng thái rung động tương ứng. Chính tại
điểm này, vai trò của kết cấu trong việc bộc lộ bản chất nghệ thuật của
sáng tác, cụ thể là bản chất nghệ thuật của thơ trữ tình đã được khẳng định.
Kết cấu không đơn giản chỉ thể hiện cái nhìn mà còn sáng tạo ra một cái
nhìn mới chưa hề có trước đó, và đó là một cái nhìn "thơ".
Để có thể gánh vác được những nhiệm vụ quan trọng như thế, kết
cấu tự nó phải trở thành một hệ thống tổ chức riêng của hình thức tác
phẩm. Như kết cấu của mọi tác phẩm văn học khác, kết cấu thơ trữ tình
26
cũng bao hàm hai cấp độ: kết cấu hình tượng và kết cấu văn bản ngôn từ.
Hai cấp độ này gắn bó chặt chẽ với nhau, xâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau.
Muốn tìm hiểu kết cấu hình tượng, không thể không đi qua sự phân tích kết
cấu văn bản ngôn từ, và ngược lại, một sự phân tích kết cấu văn bản ngôn
từ nếu muốn trở thành hoạt động có ý nghĩa là phát hiện ra những giá trị
thẩm mỹ đích thực của tác phẩm thì không thể không gắn liền với việc làm
sáng tỏ những đặc điểm của hình tượng được thể hiện qua nó, nhờ nó. Các
nhà Hình thức chủ nghĩa Nga và các nhà Cấu trúc luận Pháp, trong các
công trình nghiên cứu của mình, đã gạt vấn đề ý nghĩa ra ngoài, chỉ quan
tâm tới tính văn học hơn là văn học hoặc chỉ quan tâm tới điều kiện nảy
sinh ý nghĩa hơn là chính bản thân ý nghĩa đó. Vì điều này, họ đã bị phản
đối. Dĩ nhiên, nhà nghiên cứu có quyền chỉ khảo sát mỗi một cấp độ nào đó
của kết cấu, thậm chí chỉ một yếu tố nhỏ trong hệ thống cấu tạo của tác
phẩm (với thao tác quen thuộc là trừu tượng hoá đối tượng nghiên cứu khỏi
các mối quan hệ) nhưng sâu trong tư duy, anh ta không được quên sự gắn
bó khăng khít giữa các yếu tố, các cấp độ trong một hệ thống.
1.3. Kết cấu hình tượng của thơ trữ tình
1.3.1. Tứ thơ - hạt nhân kết cấu của hình tượng thơ trữ tình
Theo một cái nhìn khái quát nhất, kết cấu hình tượng của một tác
phẩm văn học là sự tổ chức, liên kết các chi tiết, các hình ảnh mang tính
chất cá biệt cụ thể của hiện thực khách quan đã được nhận thức, nội cảm
hoá, thành một bức tranh hoàn chỉnh, sinh động thể hiện rõ cái nhìn nghệ
thuật về cuộc đời cũng như thế giới tinh thần phong phú của nhà văn thông
qua một kiểu tổ chức văn bản nhất định.
Đi vào tìm hiểu bản chất từng thể loại khác nhau, khái niệm kết cấu
hình tượng cần được cụ thể hoá thêm một bước. Chính ở điểm này, chúng
ta nhận thấy có sự thiên lệch rõ ràng giữa việc nghiên cứu kết cấu hình
tượng tự sự với kết cấu hình tượng thơ trữ tình. ở nhiều bộ sách lý luận văn
học, trong khi kết cấu hình tượng tự sự được trình bày rất kỹ thông qua việc
27
khảo sát hệ thống hình tượng nhân vật, hệ thống sự kiện, thì kết cấu hình
tượng thơ trữ tình chỉ được nhắc tới với đôi nét hết sức sơ lược.
Trong thơ trữ tình cũng có nhân vật cùng các sự kiện và biến cố.
Thậm chí, nếu quan sát toàn bộ sáng tác của một nhà thơ trữ tình nào đó, ta
có thể bắt gặp cả một hệ thống nhân vật đông đảo với sự tham gia của họ
vào những sự kiện lớn của đời sống. Chẳng hạn trong thế giới nghệ thuật
thơ của Tố Hữu ta thấy hiện lên hình ảnh của một khối quần chúng to lớn
với các bà bủ, bà bầm, anh vệ quốc, em liên lạc, chị dân công đang hăng
hái, vui vẻ, tự nguyện gánh vác nhiệm vụ cứu nước và xây dựng một xã hội
mới. Nhưng dù sao hệ thống nhân vật, sự kiện này cũng có một đặc điểm
riêng biệt khác với hệ thống nhân vật, sự kiện trong tự sự. Các nhân vật đã
không được khắc họa đầy đủ trên mọi mặt và trong các quan hệ ứng xử.
Thậm chí trong đa số các trường hợp, họ không có cả một cái tên riêng.
Như vậy, nhân vật ở đây chỉ là nhân vật trữ tình hay là đối tượng được
nhắc tới trong lời bộc bạch cảm xúc của một chủ thể nào đó. Điều này cũng
có nghĩa là trong thơ trữ tình, chỉ có nội dung trữ tình là quan trọng, còn
các chi tiết quá cụ thể về kẻ phát ngôn, về hoàn cảnh phát ngôn và đối
tượng mà phát ngôn hướng tới có thể có, có thể không và không đóng một
vai trò gì thật đặc biệt, thật thiết yếu. Nếu trong thơ trữ tình, mọi điều diễn
ra ngược lại thì lập tức sự giao cảm nghệ thuật giữa nhà thơ và độc giả sẽ bị
ngăn trở hay phá hoại. Các câu thơ được viết ra sẽ không còn được "nội
cảm hoá" bởi người đọc và thế giới thơ sẽ trượt ra ngoài sự đón nhận của
họ để thành một thế giới xa cách, xa lạ.
Vì những lẽ trên, có một điều hiển nhiên mà ai cũng nhận thấy là
không thể phân tích kết cấu hình tượng thơ trữ tình như phân tích kết cấu
hình tượng tự sự. Các khái niệm như nhân vật chính, nhân vật phụ, tâm lý
nhân vật, lời nói nhân vật, cốt truyện, xung đột v.v... khó có thể trở thành
công cụ hữu hiệu để phân tích kết cấu hình tượng thơ trữ tình dẫu ta có thể
vận dụng chúng trong một số điều kiện và ngữ cảnh nhất định. Vậy có thể
có một khái niệm cơ bản, có giá trị thao tác cho việc nghiên cứu cấp độ này
28
của kết cấu thơ trữ tình hay không? Các tác giả cuốn sách Dẫn luận nghiên
cứu văn học (G. N. Pospelov chủ biên) đã sử dụng khái niệm trầm tư (tiếng
Latinh - meditatio - nghĩa là trầm mặc, suy tưởng) để khám phá thế giới
hình tượng của thơ trữ tình 1. Có một số nhà nghiên cứu khác lại dùng khái
niệm hình tượng tâm tư trong sự đối lập với khái niệm hình tượng tính cách
hay dùng khái niệm hình tượng cảm xúc. Nhìn chung các khái niệm vừa kể
về cơ bản có nội hàm giống nhau và đều đã phản ánh được tính chủ quan
trong giọng điệu, trong hình tượng thơ trữ tình. Nhưng như Hà Minh Đức
đã nói: "Nếu xem hình tượng thơ chỉ là hình tượng cảm xúc thì chưa đủ vì
rõ ràng trong cấu tạo của hình tượng thơ ca có nhiều yếu tố quan trọng
khác. Hình tượng thơ không chỉ được tạo thành từ những nhân tố chủ quan,
mà phải thể hiện sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan tuy nhân tố
chủ quan là chủ yếu"2. Theo chúng tôi, để có thể đi sâu phân tích kết cấu
hình tượng thơ trữ tình, cần phải xem khái niệm tứ (hay cấu tứ) vốn rất
quen thuộc trong thi học truyền thống là một khái niệm then chốt. Điều
đáng suy nghĩ là trong một số chuyên khảo về thơ, khái niệm hình tượng
thơ và khái niệm tứ thơ đã được đồng thời đề cập nhưng mối quan hệ giữa
chúng chưa được làm sáng tỏ đúng mức. Kết quả là ở một số trang viết, ta
thấy người nghiên cứu đã nói về hình tượng thơ như nói về tứ thơ hoặc
ngược lại, đã nói về tứ thơ như nói về hình tượng thơ, trong lúc vẫn cố
khẳng định sự khác biệt giữa hai khái niệm này – khẳng định mà không
luận chứng được.
Trong Văn tâm điêu long, ở thiên Thần tứ, Lưu Hiệp đã bàn rất sâu
và rất kỹ về tứ. Trước hết, ông nói tới bản chất phi thường của tứ như một
cái
gì giúp ta lĩnh hội được tính toàn vẹn của thế giới, khi ta đắm mình trong
mặc tưởng (khái niệm trầm tư đã nêu ở trên chính được dùng để chỉ trạng
thái này): "Cái tứ của văn chương, cái thần của nó xa lắm. Cho nên khi ta
1 G. N. Pôxpêlôp (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, NXB GD,HN, 1998, tr. 332 – 338. 2 Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, HN, 1974, tr. 68.
29
lặng lẽ ngừng suy nghĩ lại một chỗ thì cái tứ tiếp với ngàn năm. Ta trầm
lặng thay đổi sắc mặt một chút thì cái nhìn của ta đã thông suốt đến vạn
dặm". Tiếp đó, Lưu Hiệp đề cập tác dụng kỳ diệu của việc cấu tứ và nêu
những điều kiện giúp tứ được triển khai một cách trọn vẹn:"Ta thấy cái tác
dụng kỳ diệu của việc cấu tứ [nó có thể khiến] cho cái tinh thần của nhà
văn hoà mình với cái tồn tại khách quan bên ngoài (...). Ngoại vật do giác
quan mà vào; những lời nói, câu văn là cái cai quản cái máy hoạt động của
nó. Hễ cái then máy mà thông suốt thì mọi hình tượng của sự vật không có
cái gì bị che dấu nữa. Nếu cái cửa, cái khoá tắc lại thì tinh thần sẽ trốn cái
tâm. Vì vậy cho nên việc vắt nặn ra tứ văn cốt ở chỗ hư và tĩnh. Muốn cho
có được cái đó phải xoi thông ngũ tạng, phải tắm gội tinh thần, phải tích
luỹ kiến thức để giữ lấy của báu, khảo sát sự lý để làm cho cái tài của mình
phong phú lên. Rồi lại phải suy xét những điều mình đã trải qua để soi sáng
một cách triệt để, rồi [cuối cùng mới ] tập dượt cái tình cảm của mình để
rút ra cái lời. Sau đó mới khiến cái ông chủ (cái tâm) là người hiểu sâu mọi
đạo lý, tìm đến âm thanh, luật lệ mà đặt lời văn. Người thợ mà có cái kiến
giải độc đáo, thì căn cứ vào cái ý mình quan niệm mà vận dụng bút. Đó là
cái phương pháp chủ yếu để viết văn, cái điểm nút lớn phải nắm lấy khi
viết một thiên"1.
Nhìn chung Lưu Hiệp đã có một quan niệm rất toàn diện về tứ, đặc
biệt đã chú ý tới mối giao hoà, thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố khách
quan và chủ quan, biến đổi và định hình, nội lực thâm hậu và linh hứng
xuất thần (inspiration), suy nghĩ và cảm xúc trong quá trình nhà văn cấu tứ.
Mặc
dù khái niệm tứ của Lưu Hiệp mang một hàm nghĩa khá rộng nhằm làm
sáng tỏ bản chất sáng tạo không cùng của văn chương nói chung, nhưng
quan niệm nói trên đã thường xuyên được vận dụng vào tìm hiểu thơ trữ
tình với kiểu kết cấu hình tượng đặc thù của nó, và những sự vận dụng đó
tỏ ra hợp lý, có hiệu quả.
1 Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB VH, HN, 1997, tr. 64 – 67.
30
Tuy nhiên, trong một số sách khảo luận về thơ, vẫn thường thấy có sự
thiếu phân định hay nhập nhằng giữa các khái niệm ý và tứ, hay lập ý và cấu
tứ. Tác giả Lương Xuân Phương đã viết về lập ý như sau trong Cựu thi lược
luận: "Từ lúc chọn định đề tài đến khi tả ra được thành thiên chương, trung
gian, nên hiểu thấu cái cung cách ý thức giới tác giả phản ảnh ra hoặc vui vẻ,
hoặc phẫn nộ, hoặc bi ai, hoặc ưu cụ... thành những ý cảnh bất đồng, mà lại
làm sao bảo trì được cái ấn tượng đặc biệt rõ ràng, tất cả cái lịch trình tâm lý
ấy thường gọi là "lập ý"1. ở đây, tác giả dường như đã hoàn toàn đồng nhất
khái niệm lập ý với khái niệm cấu tứ theo cách hiểu quen thuộc phổ biến bây
giờ. Điều này cũng dễ hiểu: trong cuốn sách của mình, tác giả không dùng
khái niệm tứ hay cấu tứ. Đoạn vừa trích dẫn trên nằm trong chương sách có
tên là Bình về ý thú, mà lập ý theo tác giả là một phương tiện thể hiện ý thú
của thơ (khái niệm ý thú ở đây có một nội hàm phong phú: vừa chỉ khuynh
hướng cảm xúc lại vừa chỉ đặc điểm phong cách).
Ngược lại với Lương Xuân Phương, hai học giả người Việt là Phan
Kế Bính (trong Việt Hán văn khảo) và Bùi Kỷ (trong Quốc văn cụ thể) khi
trình bày về cấu tứ lại hiểu cấu tứ hoàn toàn như là lập ý (lập ý theo quan
niệm của các sách giáo khoa làm văn hiện nay), trong khi khái niệm lập ý
được dùng để chỉ sự xác lập chủ đề (hay chủ ý), mà chủ đề thì được thể hiện
rõ ngay từ tên gọi của tác phẩm. Phan Kế Bính viết: "Lập được chủ ý rồi thì
cấu tứ. Cấu
tứ là dùng cái tứ làm văn, nghĩa là nghĩ xem trong đầu bài có những tình tứ
gì, hoặc có những tình tứ gì liên can đến đầu bài. Thí dụ như đầu bài là "mặt
trăng", thì thử xem mặt trăng có những tình tứ gì. Mặt trăng thì có ánh sáng,
có vẻ trong trẻo, khi thì tròn, khi thì khuyết, khi thì ngậm nửa vành ở trong
núi, khi thì luồn qua đám mây bay, đó là cái tình tứ của mặt trăng; có mặt
trăng thì có ánh sáng rọi xuống, làm cho sông núi ra cảnh đẹp, cây cối có
bóng về đêm, làm cho người ta sinh ra lòng vui vẻ hoặc nỗi buồn rầu, đó là
cái tình tứ ở ngoài mà liên can đến mặt trăng. Nói đại khái như vậy, chứ
1 Lương Xuân Phương, Cựu thi lược luận, Phạm Thế Ngũ dịch và xuất bản, Sài Gòn, 1968.
31
càng nghĩ thì càng nhiều tứ; mà văn có nhiều tứ thì văn mới hay, văn mới dồi
dào không đến nỗi khô khan mà thành ra văn cùn"1. Bùi Kỷ cũng có một
luận giải gần đúng như vậy2. Có thể thấy quan niệm về cấu tứ của hai ông
chịu ảnh hưởng sâu của quan niệm cấu tứ trong văn cử tử và chỉ mới nói lên
được riêng một phương diện nào đó của tứ mà thôi.
Cũng về điểm đang bàn, nhà thơ Quách Tấn có sự nhìn nhận tương
đối khác. Ông đã rất chú ý phân biệt các khái niệm ý với tứ, lập ý với cấu
tứ. Theo ông " ý gồm có Tình, Lý, Cảnh, Sự, người xưa gọi là bốn tiêu
chuẩn chính. Do đó có thơ biểu tình, thơ thuyết lý, thơ tả cảnh, thơ tức sự...
ý có khi đơn thuần, có khi phức hợp. Đơn thuần là tình riêng tình, lý riêng
lý, cảnh riêng cảnh, sự riêng sự. Phức hợp là trong cảnh có tình, trong lý có
sự, trong sự có lý, có tình, trong tình có cảnh, hoặc có lý, hoặc có sự, hoặc
có hai, hoặc có tất cả ba. Mà ý đó mới là ý trừu tượng, khái quát". Còn tứ?
"Tứ cũng là sản phẩm, là chi tiết, do ý sanh ra và làm cho ý thêm sắc thái,
thêm âm vị, cũng như hoa lá từ cành cội sanh ra và làm cho cành cội thêm
tươi thắm. Cũng có thể nói: Tứ là sắc thái, là hương vị, là âm thanh của ý.
ý, ai cũng có thể có, và nghìn xưa đã có rồi. Nhưng ý người này khác người
kia, ý người xưa khác người nay là nhờ có Tứ"3. Từ chỗ phân biệt ý và tứ
như trên, Quách Tấn đi vào chỉ ra cái khác nhau giữa lập ý và cấu tứ. Về
lập ý, ông hiểu như Phan Kế Bính, Bùi Kỷ đã hiểu về cấu tứ, cho đó là quá
trình nhà thơ xác định đề mục, chủ đề và tìm tòi, phân phối các ý lớn nhỏ
phù hợp với đề mục ấy. Còn về cấu tứ, ông xác định: "Nhưng ý chúng ta
sưu tập đó mới là nguyên liệu để làm thơ (...). Cho nên muốn cho bài thơ
được tán thưởng, thì những ý chúng ta đã tuyển thủ phải được tu sức kỹ
càng, phân phối hợp lý, trước khi đem ra sử dụng, nghĩa là chúng ta phải
luyện những ý ấy cho có một sắc thái, một hương vị, một âm vị đặc biệt và
đặt để chúng vào những địa vị thích đáng, xứng hợp. Đó là Cấu Tứ"4.
1 Phan Kế Bính, Việt Hán văn khảo, NXB Trung Bắc tân văn, HN, 1930, tr. 87. 2 Ưu Thiên Bùi Kỷ, Quốc văn cụ thể, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1950, tr. 152. 3 Quách Tấn, Thi pháp thơ Đường, NXB Trẻ, TP HCM, 1998, tr. 22 – 23. 4 Quách Tấn, Thi pháp thơ Đường, NXB Trẻ, TP HCM, 1998, tr. 27.
32
Những phân tích của Quách Tấn đã cho thấy nét tinh tế của từng khái
niệm, giúp ta qua đó nắm bắt được thực chất của sự vật, hiện tượng. Tuy
không trực tiếp nói rõ sự khác nhau giữa tứ và cấu tứ nhưng hiển nhiên
Quách Tấn đã nhận thức đây là hai khái niệm khác nhau. Chúng tôi nghĩ sự
phân biệt này là có ý nghĩa. Trong một số sách nghiên cứu văn học, tứ và
cấu tứ vẫn được xem là một. Dĩ nhiên cách hiểu này cũng có cơ sở của nó,
nhưng một khi người ta vẫn thường xác định nội hàm của khái niệm tứ (cấu
tứ) bằng cách đối lập nó với khái niệm ý thì việc tách bạch tứ và cấu tứ lại là
việc nên làm. Lúc đó sự đối lập sẽ được tiến hành trong từng cặp khái niệm:
ý và tứ, lập ý và cấu tứ - một sự đối lập xem ra có tính khoa học hơn, chặt
chẽ hơn. Như vậy, theo chúng tôi, cấu tứ nên được hiểu như một từ có kết
cấu động - tân phản ánh quá trình tư duy tìm tứ để sáng tạo ra hình tượng
thơ ca, để định hình cảm xúc và những ấn tượng phong phú về hiện thực;
còn tứ nên được hiểu như một danh từ phản ánh thành quả sáng tạo của quá
trình cấu tứ, là hạt nhân của hình tượng thơ ca. Ngay cả khi các khái niệm tứ
và cấu tứ được vận dụng sang nghiên cứu hình tượng tự sự thì sự phân biệt
đó vẫn hoàn toàn có căn cứ, có ý nghĩa.
Trở lại với quan niệm của Quách Tấn, sau hết, chúng tôi muốn lưu ý:
nếu có thể xem tứ và cấu tứ như một phạm trù phổ quát của thơ trữ tình thì
dù sao cũng không thể dừng lại ở cách hiểu tứ như phần hoa lá trên cây và
cấu tứ chỉ như việc "tu sức" cho những ý được xác định sẵn. Trên thực tế,
vai trò của tứ còn lớn hơn nhiều.
Ngoài các tác giả vừa nêu, trong khoảng vài ba chục năm nay, còn có
nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu nữa cũng đã tham gia bàn luận về tứ thơ: Xuân
Diệu, Hà Minh Đức, Nguyễn Xuân Nam, Bùi Công Hùng, Mã Giang Lân,
Nguyễn Viết Lãm v.v... Các bài nghiên cứu của họ, mỗi bài có một điểm
“nhấn” riêng nhưng về cơ bản đều quan tâm tới việc phân biệt khái niệm tứ
với khái niệm ý. Ai cũng khẳng định rằng từ cái ý trừu tượng, khái quát và
phần nào phi cá tính đến cái tứ thơ mang đậm bản sắc sáng tạo cá nhân và có
sự hoà quyện máu thịt giữa suy nghĩ với cảm xúc, giữa yếu tố chủ quan với
33
yếu tố khách quan… là cả một bước nhảy vọt trong hành động sáng tạo một
bài thơ cụ thể. Tuy vậy, không thể cho rằng về tứ thơ không còn có gì phải nói
thêm nữa. Hướng tới mục đích nghiên cứu kết cấu thơ trữ tình từ góc độ loại
hình, chúng tôi xin trình bày sau đây sự nhận diện của mình về tứ thơ trên các
khía cạnh: vai trò của tứ, trạng thái tồn tại của tứ, cấu trúc của tứ, các cấp độ
của tứ, loại hình tứ, tính phổ quát của hiện tượng tứ.
Tứ thơ chính là hạt nhân kết cấu hình tượng thơ trữ tình. Nó đứng ở
vị trí trung tâm của quá trình sáng tạo thơ ca, chi phối sự liên kết tất cả các
yếu tố của bài thơ lại thành một chỉnh thể thống nhất. Nó cấp cho cái "hỗn
mang" của những rung động hay những "nỗi niềm tinh vân" (chữ dùng của
Huy Cận) một trật tự, khiến chúng hoàn toàn có thể được phô bày bằng các
phương tiện ngôn từ diễn ra trong thời gian, để thực sự trở thành những
rung động thơ, nỗi niềm thơ. Tứ thơ quy định tính sáng tạo của hình tượng
thơ, phân biệt hình tượng thơ mang tính cô đọng, khái quát, thấm đẫm cảm
xúc và dồn nén suy nghĩ với những hình ảnh rời rạc, cá biệt của hiện thực
khách quan. Trong sáng tác, người ta thường nói đến sự "loé sáng" của tứ
thơ. Đúng hơn phải nói là sự "loé sáng" của tư duy nghệ thuật khi tứ thơ
vụt đến. Quả là xét trên tổng thể, tứ thơ mang tính chất "khải thị", giúp cho
nhà thơ ngay lập tức trong một giây lát ngắn ngủi nào đó, nhận ra tính chất
toàn vẹn của vấn đề, của sự vật, hiện tượng đang đối diện với mình và
thách thức cảm xúc, suy nghĩ của mình. Sự "loé sáng" của tứ cũng đồng
nghĩa với việc nhà thơ trong phút chốc tìm được con đường giải phóng
những ý niệm của mình thoát khỏi tính trừu tượng để nó được hoá thân vào
những hình ảnh tươi mới của hiện thực, và chính sự giải phóng này cũng
tạo ra tiền đề quan trọng cho phép nhà thơ thực sự khám phá được mình -
một sự khám phá được đặt ở trung tâm của mối liên hệ, tương tác giữa chủ
quan và khách quan. Nói khái quát lại, tứ thơ chính là một sự phát hiện -
phát hiện của nhà thơ về bản thân và về thế giới.
Do tính chất phát hiện đó, tứ thơ hiển nhiên đóng vai trò quy định âm
hưởng, “màu sắc” cụ thể, độ dài của bài thơ và đôi khi cả thể thơ được tác
34
giả lựa chọn nữa. Xin được dẫn giải thêm về điều này. Tuy có những điểm
chung với mọi sự phát hiện khác trong hoạt động nhận thức của con người
(đều dẫn tới kết quả là tìm ra cái mới) nhưng sự phát hiện trong thơ, của
thơ lại có những nét đặc thù. Cái mà thơ hướng tới không phải là tìm ra
những con số chính xác, những quan hệ tất yếu, những quy luật khách quan
lạnh lùng làm thoả mãn óc nhận thức khoa học. Sự phát hiện của tứ thơ,
của thơ bao giờ cũng nảy sinh trên một nền tảng cảm xúc nhất định và nó
có chức năng làm sáng tỏ trở lại nền tảng cảm xúc ấy, do vậy nó mang đầy
tính chủ quan, có khi quy về trong một mối những hình ảnh, sự vật không
có liên hệ tất yếu với nhau. Chẳng hạn giữa hình ảnh rặng liễu vào thu với
hình ảnh cô gái xoã mái tóc buồn chẳng có một mối liên hệ tất yếu nào.
Nhưng trong bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, với tứ thơ về sự chuyển
vần đáng giật mình của thời gian qua bước chân mùa thu đẹp, mối liên hệ
ấy lại trở nên tất yếu, và chính nó làm cho âm hưởng của bài thơ trở nên
xôn xao buồn bã, hay là buồn bã trong nỗi xôn xao. Rõ ràng lúc này tứ thơ
đã quy định chiều hướng cảm xúc, âm hưởng, “màu sắc” của bài thơ.
Tứ thơ cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến độ dài của bài
thơ. Như đã nói, tứ thơ là một sự phát hiện, và sự phát hiện đó cần được
trình bày bằng phương tiện ngôn từ. Các phương tiện ngôn từ ấy là điều
kiện tồn tại vật chất của tứ thơ, có chức năng làm sáng tỏ tứ thơ, nó được
mở ra tương ứng, đồng thời với sự triển khai của tứ thơ cả chiều sâu lẫn bề
rộng. Khi sự triển khai đó hoàn tất thì bài thơ dừng lại, nếu không bài thơ
sẽ rơi vào tình trạng rườm rà, vu khoát, có lời mà không có ý hoặc sẽ có
một kết cấu lỏng lẻo. Bên cạnh những ưu điểm rất lớn của mình, bài thơ
Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm) còn có một nhược điểm là quá dài dòng.
Nhận xét này đưa ra không phải căn cứ vào một tiêu chuẩn tiên thiên nào
đó về độ dài của một bài thơ, mà căn cứ vào tương quan chưa hợp lý giữa
tứ thơ với dòng ngôn từ dùng để vật chất hóa nó. Đã đành, ở ngoài đời, khi
quá xúc động và khi đang an ủi, vỗ về nhau, người ta có thể nói hơi nhiều
(và thường là nói lặp), nhưng ở trong thơ, sự kể lể phải rất có mức độ,
35
không thể vượt ngưỡng. Đôi khi tác giả đã không cất nổi mình khỏi vòng
vây của kỷ niệm, hồi ức để làm công việc sáng tạo thơ khiến cho tứ thơ độc
đáo nói tới lời ước hẹn đưa nhau về "bên kia sông Đuống" giữa những ngày
quê hương chìm trong cảnh điêu tàn có lúc bị khuất lấp đi giữa một "bể"
chi tiết cụ thể . Có một điều khá thú vị là trong khi nhà thơ - nhân vật trữ
tình có vẻ vẫn thổ lộ một cách trung thành những điều mình cảm xúc, thì
độc giả có cảm tưởng rất rõ mạch cảm xúc trong bài thơ có lúc bị quẩn lại,
thiếu tự nhiên (ở đoạn Tiếng em cắt cỏ trại tù ...). Đây chính là một nghịch
lý giúp ta nhìn rõ trở lại sự phân biệt giữa cảm xúc bình thường với cảm
xúc thơ và vai trò của tứ thơ trong việc khơi dòng và định hình dòng chảy
của cảm xúc trong một bài thơ cụ thể. Ta cũng thấy thêm: tứ không đơn
giản là ý được "tu sức"mà là ý được hoá thân vào một hình tượng độc đáo –
thứ hình tượng đòi hỏi người đọc phải cảm nhận vừa bằng cảm giác vừa
bằng siêu cảm giác, và cái ý được hoá thân đó (tứ) lúc này mới là đối tượng
của sự "tu sức", của sự gia công nghệ thuật đầy sáng tạo, thậm chí là rất
nặng nhọc.
Về mối quan hệ giữa tứ thơ với thể thơ, dựa và kinh nghiệm sáng tác
phong phú của bản thân, nhà thơ Huy Cận đã có ý kiến: "Không phải tứ thơ
nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể loại nào. Trong đời làm
thơ của tôi, tôi phải mấy lần thay áo cho thơ, phải đổi thể loại thì tứ thơ
mới bật ra được. Ví dụ: Bài Đẹp xưa trong tập Lửa thiêng lúc đầu làm theo
thơ Đường luật (...). Đọc nhẩm mãi thấy còn nhẹ quá, có cái gì hẫng, không
đạt được cái tứ đẹp mà xưa, đẹp xưa trong cảnh sắc tâm hồn và tạo vật. ý
thì không có gì thay đổi nhưng điệu thơ, âm hưởng của câu thơ thì thử phổ
lục bát xem sao ... Rõ ràng là trong trường hợp này, lần đầu thai sau đúng
chỗ hơn. Bài lục bát thơ đọng hơn bài Đường luật"1. Như vậy, rõ ràng "tính
chất phát hiện" của tứ thơ nhiều lúc quy định sự lựa chọn thể thơ của tác
giả, bởi thể thơ tuy là một cái gì thuộc về hình thức nhưng bản thân nó
cũng có một quy luật tổ chức riêng, có "tiếng nói" riêng của mình mà nhà
1 Huy Cận, Suy nghĩ về nghệ thuật, Báo Văn nghệ số 48/1979.
36
thơ phải tôn trọng khi sử dụng. Nếu tứ thơ được đầu thai đúng chỗ thì "tính
chất phát hiện" của nó được tô đậm, nếu không, tứ thơ sẽ bị bào gọt đi
những nét sắc sảo một cách uổng phí.
Khi đã thừa nhận tứ thơ thể hiện sự khám phá mới của nhà thơ về
bản thân, về thế giới thì chúng ta cũng đồng thời rút ra được một hệ luận:
tứ thơ là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá cường độ cảm
xúc, chiều sâu nhận thức, chiều sâu cái nhìn và cả phong cách nghệ thuật
của tác giả, thậm chí cả phong cách nghệ thuật một thời đại, một dân tộc.
Thẩm Nhân Khang và Hoàng Bội Ngọc (hai tác giả người Trung Quốc)
trong Cấu
tứ trong thơ trữ tình, khi phân tích nét khác biệt trong cách cấu tứ của ba
bài thơ trên cùng một chủ đề (chúng tôi muốn hiểu là: trên cùng một cái tứ
có tính đặc trưng của thơ Đường) là Bài hát đêm thu (Lý Bạch), Xuân oán
(Kim Xương Tự), Bài hát Lũng Tây (Trần Đào), đã cung cấp một ví dụ có
sức thuyết phục giúp ta củng cố nhận định nói trên1. Xin phân tích thêm hai
bài thơ của thời Thơ mới để tiếp tục làm rõ vấn đề: bài Xuân rụng (Xuân
Diệu - Gửi hương cho gió) và bài Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử - Thơ
Điên). Mới đọc qua, ta nhận thấy hai bài có tứ thơ giống nhau, có thể nói là
có chung một tứ thơ mang tính chất thời đại, thể hiện rõ cảm quan của cái
tôi cá nhân thời Thơ mới trước thời gian, trước số phận con người, số phận
cái đẹp. Cảm xúc thơ trong hai bài đều được đánh thức từ niềm linh cảm về
một sự phôi pha, tàn rụng mang tính tất yếu của sự vật, của số phận ngay
lúc cái bề ngoài của chúng dễ đánh lừa ta, dễ đưa đến ý niệm về một thời
thanh xuân vĩnh viễn. Tứ thơ - niềm linh cảm đó chính là sản phẩm đặc thù
của thời Thơ mới (xét ở mức độ phổ biến và độ đậm đặc của nó), mặc dù ta
vẫn có thể thấy mối liên hệ giữa nó với một tứ thơ cổ điển từng được thể
hiện trong một bài tuyệt cú đặc sắc của Âu Dương Tu (đời Tống): bài
Phong Lạc đình du xuân. Tuy nhiên, đi vào phân tích cụ thể, ta vẫn thấy cái
tứ thơ chung ấy được triển khai một cách khác nhau, cũng có nghĩa là mỗi 1 Thẩm Nhân Khang, Hoàng Bội Ngọc, Cấu tứ trong thơ trữ tình, Vũ Ngọc Quỳnh, Lê Sơn Hinh dịch, NXB Văn học, HN, 1961.
37
bài thơ có một đặc điểm riêng về cấu tứ. ở bài thơ Xuân rụng, tứ thơ dường
như kết đọng ở câu Hồn ơi, phong cảnh cũng là ngươi! Đó là một tiếng
than đồng thời là một lời tự nhắc nhở, cảnh báo. Chứng kiến hoặc mới dự
cảm thấy cảnh "Những mặt hồng chia rã hết cười", "hương nhạt", "sắc tàn",
"đài xiêu", nhị rớt, nhà thơ thảng thốt nhận ra hình ảnh của mình trong vẻ
héo úa của vạn vật, và ông vội vã "cứu vớt tình thế" bằng những động tác
"bay theo", "nưng", "đỡ". Mỗi một thay đổi nhỏ của phong cảnh đều
được con
mắt nhà thơ rõi theo với bao nhiêu là lo âu, phấp phỏng, khắc khoải,
bồn chồn. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ đi vào miêu tả chi li như
thế từng bước đi "thướt tha", yểu điệu mà nguy hiểm của thời gian - thần
chết. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ ra sức chọn những từ
thanh nhã nhất, đài các nhất như "mỏng", "xinh", "nhẹ", "êm", "thơm" v.v...
để nói về cái phong - cảnh - tâm - hồn dễ bị tổn thương ấy, như thể muốn
đối trọng với cái tàn nhẫn, lạnh lùng của thời gian, của quy luật. Như vậy,
cái tứ của bài thơ đã thể hiện rõ chiều hướng cảm thụ của nhà thơ về thế
giới, đồng thời cũng thể hiện rõ phong cách sáng tạo của Xuân Diệu - một
phong cách "hướng ngoại" luôn muốn kêu to lên nỗi niềm của mình và
luôn muốn dành thế chủ động cả trong tình huống tiêu cực, luôn "đọc" thấy
cái tôi của mình trong từng sắc thái (nuance) chuyển động tinh vi của tự
nhiên, vạn vật. Bài Mùa xuân chín lại có một kiểu cấu tứ khác mà qua đó ta
có thể nhìn ra phong cách "hướng nội" của thơ Hàn Mặc Tử. Cái tứ thơ của
bài dường như nảy sinh đồng thời cùng với một sáng tạo bất ngờ về từ ngữ:
mùa - xuân - chín. Có phải Hàn Mặc Tử đã được Hồ Xuân Hương gợi ý
cho từ chín này (Một trái trăng thu chín mõm mòm)? Bằng một sự nhạy
cảm lạ lùng với những gì mang tính bản chất nhất, có thể ngay lúc cụm từ
mùa xuân chín vừa thoáng vụt qua trí não, tâm trạng hay toàn bộ con người
nhà thơ đã lập tức rơi vào thế lưỡng cực: nửa hân hoan cùng lời mời gọi
của mùa xuân viên mãn, nửa bồn chồn trước tiếng nhắn gọi âm thầm của
cõi hư vô. Bởi thế, từng nét miêu tả trong bài thơ cũng có một cái gì đó thật
38
khác lạ. Tất cả hiện lên với một vẻ đẹp não nùng, trong sáng tuyệt đối, thơ
ngây tuyệt đối, khiến trong ta bỗng nảy sinh cảm giác e sợ, lo âu. Sự xuất
hiện dày đặc của những phụ âm vang cùng những thanh điệu có âm vực cao
trong bài thơ gợi nghĩ đến một cái gì tựa pha lê, trong vắt, nhưng giòn, dễ
vỡ. Cả màu nắng cuối bài nữa: chói gắt như muốn xói vào tâm trí, gây một
cảm giác bất ổn mơ hồ dù theo cái nhìn bề ngoài, đó là màu nắng sáng tươi
của kỷ niệm. Rõ ràng, đi vào cái tứ thơ của bài thơ này, ta đã bắt gặp một
cái nhìn rất có chiều sâu của Hàn Mặc Tử về cuộc đời. Cuộc đời, theo ông,
không phải chỉ là những cái gì tồn tại trước mắt mà còn có những chiều
kích khác, đặc biệt là chiều kích của tâm linh con người, và để hiểu hơn giá
trị của cuộc đời này, cần phải biết đặt nó vào trong tương quan với cái hư
vô...
Ta đã nói tới vai trò quan trọng của tứ thơ trong bài thơ, trong việc
cấu tạo nên hình tượng thơ trung tâm. Chính vì vai trò quan trọng đó của nó
mà nhiều nhà thơ, như Xuân Diệu, đã xác nhận: "Ngôn từ, lời, chữ, vần rất
là quan trọng, bởi thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên, đó là cái
quan trọng thứ hai, mà cái quan trọng thứ nhất, làm rường cột cho tất cả, là
cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài. Làm thơ, khó nhất là tìm tứ"1. Đó là nói về
phía người sáng tạo. Còn đối với độc giả, với người nghiên cứu, khi đi vào
một bài thơ, điều quan trọng đầu tiên là phải xác định cho đúng cái tứ của
nó. Nếu không làm được điều này, ta sẽ khó chiếm lĩnh được bài thơ trong
tính chỉnh thể toàn vẹn của nó, và ở trường hợp tiêu cực nhất, những lý giải
của ta sẽ bị những "sự kiện" trong chính bài thơ bác bỏ. Những tranh cãi về
Đây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử, Tống biệt hành của Thâm Tâm, Vãn
cảnh của Hồ Chí Minh, Thơ duyên của Xuân Diệu v.v... đều có gốc nguồn
ở sự xác định khác nhau đối với cái tứ của chúng. Nhưng việc miêu tả tứ,
trình bày có ngọn ngành về tứ trong khi phân tích thơ chẳng dễ một chút
nào vì tứ luôn tồn tại trong trạng thái động hay nói cách khác là tồn tại như
một phương thức chiếm lĩnh đối tượng của chủ thể. Nếu không chú ý chọn
1 Xuân Diệu, Công việc làm thơ, NXB Văn học, HN, 1984, 117.
39
một cách diễn đạt thích hợp, ta rất dễ nói sai lạc về cái tứ sâu sắc mà bản
thân mình cảm nhận rất rõ,"thấy" rất rõ.
ở trên đã nói tới tính chất "khải thị" của tứ thơ. Nhưng một điều cần
được tiếp tục làm rõ: vì sao tứ thơ lại có được tính chất ấy? Sự xuất hiện
của
tứ thơ thường bất ngờ, khó đoán định trước, nhưng không phải là một cái gì
ngẫu nhiên, thần bí. Tứ thơ không bao giờ nảy sinh trên một nền cảm xúc
bằng phẳng, tẻ nhạt, cũng khó hình thành trên cơ sở một óc tưởng tượng
nghèo nàn, một năng lực liên tưởng hạn chế. Điều kiện hình thành của tứ
thơ là độ chín của cảm xúc và khả năng hoạt động phong phú của liên
tưởng. Có thể nói thêm: nó còn là kết quả của một quá trình nhà thơ không
ngừng phân tích, suy tư về bản thân và về tồn tại. Hà Minh Đức đã
khái
quát về điều này như sau: "Tứ thơ không phải chỉ được tạo nên bằng một
cảm xúc, một tưởng tượng chân thực mà có sự đóng góp trực tiếp của năng
lực phân tích, suy luận"1. Cả ba mặt cảm xúc, liên tưởng, suy luận là nền
tảng của tứ thơ, thống nhất với nhau làm một trong tứ thơ, để đến lượt nó,
tứ thơ trở thành một động lực lớn bên trong, thôi thúc nhà thơ sáng tạo hình
tượng thơ - tức là cái mà người đọc có thể tri giác được thông qua các
phương tiện ngôn từ. ở đây chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò
của liên tưởng vì thực ra trong liên tưởng đã bao hàm cả hai mặt cảm xúc
và suy luận. Nhờ có liên tưởng trong cấu trúc của mình, tứ thơ mới giúp
nhà thơ nhìn ra những mối liên hệ bề sâu (có thể rất bất ngờ) giữa các sự
vật, hiện tượng, phăn lần ra đầu mối của "cuộn tơ vò" những rung động,
cảm giác, từ đó, gieo được cái "hạt sống" đầu tiên cho bài thơ tương lai.
Vai trò của liên tưởng trong cấu trúc của tứ thơ dễ được cảm nhận khi trước
mắt ta là một bài thơ mà ở đó có sự nối kết lạ lùng giữa những hình ảnh,
chi tiết mang tính chất khác biệt nhất. Bài thơ Trăng của Chế Lan Viên là
một ví dụ. Cái tứ của bài thơ được bật lên nhờ liên tưởng so sánh giữa bóng 1 Hà Minh Đức, Vấn đề sáng tạo tứ thơ, Báo Văn nghệ số 37/1977.
40
hình đậm nét của "em" trong tâm tưởng với hình ảnh vầng trăng trong
một đêm
tình rạo rực, bồn chồn. "Anh" đi đâu cũng mường tượng thấy mặt "em",
"em" theo "anh" như vầng trăng luôn theo đuổi từng bước anh đi. Có phải
trăng chính là hiện thân của khuôn mặt "em" rạng rỡ đó chăng: Giữa hai
cây lại đôi mắt em nhìn/ Anh đến suối mặt em cười dưới suối/ Lòng anh
chạy cho lòng em theo đuổi/ Đêm ái tình đâu cũng mặt trăng em. Nhưng
ngay cả trong những bài thơ dung dị nhất, vai trò của liên tưởng vẫn không
bao giờ vắng mặt. Khi viết bài thơ Ông đồ, sự thật trước mắt nhà thơ Vũ
Đình Liên là một khoảng trống: Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ
xưa. Nếu không có liên tưởng, khoảng trống đó chỉ là sự trống rỗng, chẳng
gây được cảm xúc gì. Ngược lại, do hoạt động của liên tưởng, do sự sống
dậy của ký ức, khoảng trống kia bỗng có một lịch sử, bỗng trở thành hiện
thân của một giá trị đã phôi pha. Quá khứ, hiện tại, tương lai phút chốc
bỗng tụ về trong một hình ảnh "tiều tụy", đánh thức trong lòng ta bao mối
cảm hoài. Bài thơ chính được ra đời từ đó, dẫu trong bài, tác giả đã chọn
cách "kể việc" theo trình tự thời gian trước sau.
Kết cấu hình tượng thơ trữ tình là một hệ thống bao hàm nhiều cấp
độ. Điều này đặc biệt thấy rõ ở những bài thơ tương đối dài chứa đựng
trong đó tầng tầng suy nghĩ, cảm xúc, bình luận về nhiều vấn đề phức tạp
của cuộc sống. Có hình tượng lớn (trung tâm) trùm lên cả bài thơ, có hình
tượng bộ phận xây dựng lên hình tượng lớn đó và dưới nữa là có các hình
ảnh cụ thể mang tính chất miêu tả giữ vai trò là các yếu tố vật liệu tạo nên
những hình tượng trong bài. Chính tính khả phân của văn bản hay tính độc
lập tương đối của các đoạn, các khổ, các liên (đối với thơ Đường luật),
thậm chí các câu trong bài đã cho ta bằng chứng khẳng định vấn đề này. Là
hạt nhân kết cấu của hình tượng thơ trữ tình, tứ thơ cũng tồn tại ở nhiều cấp
độ, tương ứng với các cấp độ hình tượng. ở trên chúng tôi mới chủ yếu nói
tới cái tứ lớn toàn bài, kỳ thực bên cạnh tứ toàn bài còn có tứ cục bộ của
từng đoạn, từng khổ. Thậm chí ở từng câu cũng có thể có tứ riêng (điều này
41
đặc biệt thấy rõ trong thơ hiện đại – một loại hình thơ có cái nhìn khá “dân
chủ” về bố cục và rất coi trọng việc diễn tả những kinh nghiệm trực tiếp
của chủ thể trữ tình qua từng câu thơ một). Việc dùng khái niệm tứ trong
khi phân tích một đoạn, một khổ, một câu nào đó của tác phẩm từ lâu đã trở
thành thói quen và thói quen ấy hoàn toàn có thể chấp nhận được. Tứ của
cả bài thơ có khi được thể hiện khá trọn vẹn, thần tình ở một câu nào đó,
như câu Núi vẫn đôi mà anh mất em! trong bài Núi Đôi của Vũ Cao hoặc
câu Người ta đôi khi bị giết/ bằng những bó hoa trong bài Những bó hoa
của Văn Cao. Nhưng không phải bao giờ tứ của một câu, một đoạn cũng
đồng thời là tứ của cả bài. Tứ thơ lạnh người chứa đựng ở mấy câu dưới
đây trong bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan dù sao cũng chỉ là cái tứ cục
bộ: Nhưng không chết/ Người trai khói lửa/ Mà chết/ Người gái nhỏ hậu
phương. Tương tự như vậy là trường hợp tứ thơ ở hai câu sau trong bài
Trăng của Nguyễn Trọng Oánh: Em ơi tình có một/ Mà mùa trăng có
nhiều. Qua những điều vừa phân tích, ta thực sự hiểu rằng: sự tồn tại ở
nhiều cấp độ của tứ chính là một lý do nữa (ngoài các lý do mà trên có đề
cập) đã khiến cho việc xác định về cái tứ bao quát toàn bài ở một tác phẩm
thơ nào đó luôn gặp khó khăn. Sự nhầm lẫn tứ cục bộ với tứ toàn bài vẫn
thường xảy ra khi ta đi vào phân tích, bình giảng thơ và sự nhầm lẫn đó đã
hạn chế những khám phá của ta về kết cấu tổng thể của tác phẩm hay ghìm
ta lại ở những phát hiện chỉ có “tính tiểu tiết”.
Ngoài phạm vi của một bài thơ cụ thể, có thể sử dụng khái niệm tứ
khi nói tới một đặc điểm bao quát nào đó trong sáng tác của một tác giả,
trong thơ của một thời đại hay không? Chẳng hạn có thể nói tới một tứ thơ
chung, một tứ thơ phổ biến hay không? Chúng tôi nghĩ là được, bởi thực tế
cho thấy dưới áp lực của một kiểu tư duy mang tính thời đại, nhiều khi các
nhà thơ đã có những phát hiện giống nhau về sự vật, từ đó, đã xây dựng
nên những tứ thơ rất gần nhau. Đó là chưa kể tới tính phổ biến của hiện
tượng học tập, bắt chước theo một model chuẩn vốn được tạo nên bởi
những uy tín lớn, những cá tính sáng tạo độc đáo xuất hiện trước đó.
42
Tứ có một vai trò rất quan trọng trong sáng tạo thơ, nhưng nó không
phải là tất cả bài thơ. Từ nhận định này nảy sinh một vấn đề: phải chăng tứ
không phải là một điều kiện bắt buộc của mọi bài thơ? Chúng tôi nghĩ rằng:
trong biển thơ bao la kia, dù không phải bài nào cũng có tứ, nhất là có tứ
hay, sâu sắc, nhưng việc tìm tứ vẫn là một hiện tượng phổ quát trong lao
động thơ, vì hơn ở đâu hết, việc tìm tứ cho thấy rõ nhất mức độ ý thức của
nhà thơ về vấn đề kết cấu – một vấn đề cốt tử của sáng tạo nghệ thuật.
Trường hợp đặc biệt nhất là những bài thơ liên ngâm. Sự nảy sinh của nó,
thoạt đầu có vẻ không phải nhờ tứ, mà nhờ ngẫu hứng của người xướng
xuất ra câu đầu tiên. Nhưng từ khi câu thơ đầu tiên ấy ra đời, rồi câu thứ
hai, thứ ba, những người "nối điêu" không còn được hoàn toàn tự do "ghép
vần" nữa. Anh ta đã phải suy tính, chọn lựa để gieo tiếp những câu mới,
sao cho tương hợp với những câu có trước. Thế là cái tứ bài thơ dần hình
thành, nhờ sự nhạy cảm, hiểu nhau giữa những "đồng tác giả". Tuy nhiên,
trong tình huống "sáng tạo" này, những bài thực sự thành thơ không phải là
nhiều. Cũng có thể nói thêm về trường hợp thơ trữ tình dân gian. Phải nhận
rằng ở đây (nhất là trong loại đồng dao) có những bài (lời) chưa có tứ –
những bài (lời) chỉ như tiếng hát hồn nhiên, phát ra thiếu chủ định rõ rệt
(kiểu như: Tay cầm con dao/ Làm sao cho sắc/ Để mà dễ cắt/ Để mà dễ
chặt/ Chặt củi chặt cành…). Nhưng dù sao số lượng những bài (lời) có tứ
vẫn rất lớn. Trước hết đó là những bài sử dụng công thức truyền thống –
một loại tứ đã mòn dấu vết cá thể. Đôi khi nghệ thuật cấu tứ ở một số bài
(lời) đã đạt đến trình độ khá cao, khá gần với lối cấu tứ trong thơ của
những tác giả hữu danh. Ta có thể kiểm chứng điều này khi đọc các bài
(lời) như Hôm qua tát nước đầu đình, Mình nói dối ta rằng mình hãy còn
son, Mười hai cái trứng… Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà các nhà
folklore học đã nhiều lần nói tới nghệ thuật cấu tứ trong ca dao trữ tình.
Như ta đã nói, tứ thơ (ở cấp độ lớn nhất) là điều kiện thiết yếu tạo
nên tính chỉnh thể của bài thơ. Nhưng phải chăng có khi không cần nhờ tứ
mà bài thơ vẫn thành chỉnh thể, như trường hợp thơ Đường luật vốn đòi hỏi
43
niêm luật chặt chẽ mà ở đó niêm đã dán bài thơ lại thành một khối? Thực
ra, niêm chỉ là một yếu tố phụ trợ, mang tính chất kỹ thuật của riêng thể
loại. Nó có thể bị vi phạm và thậm chí trong sáng tác của các nhà thơ lớn,
sự vi phạm ấy đôi khi có ý nghĩa nghệ thuật đặc biệt. Một bài có thể tuân
thủ quy tắc niêm đối nghiêm chỉnh nhưng nếu thiếu cái gọi là nhất khí thì
vẫn có thể chẳng thành thơ như thường. ở đây, chính khái niệm nhất khí đã
phản ánh được cái công năng to lớn của tứ thơ trong một bài thơ.
Tóm lại, tứ là một hiện tượng kết cấu có tính chất phổ quát của thơ
trữ tình. Sự tồn tại của tứ là rất cụ thể ở từng bài thơ và đôi khi là ở từng
đơn vị chỉnh thể nhỏ của bài thơ ấy, nhưng việc chấp nhận thực tế này vẫn
không hề ngăn cản ta đi tới tìm hiểu những loại hình tứ khác nhau hay biến
thể của một cái tứ phổ biến nào đó trong thơ của từng thời đại.
1.3.2. Ý cảnh
Trong lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, bên cạnh khái niệm tứ,
khái niệm ý cảnh cũng thường xuyên được sử dụng, có ý nghĩa công cụ
quan trọng giúp người ta đi sâu khám phá bản chất của hình tượng thơ trữ
tình. Những người sáng tác thơ và làm thi thoại xưa ít khi luận giải tường
minh về nó. Tuy nhiên, căn cứ vào các văn cảnh mà ở đó khái niệm này
xuất hiện, ta có thể nhận ra quan niệm nhất quán của cổ nhân về ý cảnh.
Theo Tư Không Đồ (đời Đường) trong Dữ Cực Phố đàm thi thư và Dữ
Vương Giá bình thi thư, cảnh trong ý cảnh khó mà bàn được, vì nó không
đơn thuần là cảnh vật, phong cảnh cụ thể gợi hứng cho nhà thơ, mà là
"cảnh ngoại chi cảnh", tức thứ cảnh hài hoà với tứ (tứ dữ cảnh hài), diễn ra
theo ngôn ngữ lý luận hiện đại thì đó là một thực tại thấm nhuần ý thức
thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ của nhà thơ. Sau này trong Chương Dân thi
thoại (Nam âm thi thoại), Phan Khôi - một học giả Việt Nam - đã giải thích
tương đối chi tiết về khái niệm ý cảnh: "Trong thi trọng nhất là ý cảnh. Chữ
cảnh này không phải là phong cảnh mà là cảnh giới. ý cảnh nghĩa là cái
cảnh giới do cái ý của tác giả sắp đặt ra hay là gây dựng nên. Mọi sự vật
bày ra trước mắt ta vốn lộn xộn, mà ta làm cho nó có thứ tự trong một bài
44
thi của ta, ấy là sắp đặt cảnh giới. Mọi sự ngầm ngấm ở đâu, con mắt nạc
không thấy được, mà ta làm cho nó phô bày ra trong một bài thi của ta, ấy
là gây dựng cảnh giới. Mà sắp đặt hay gây dựng, cũng đều do ở ý của ta cả.
Cái chỗ trọng yếu nhất trong thi tức là ý cảnh đó thuộc về phương diện tinh
thần, chỉ có học lâu, làm nhiều, thì tự nhiên hiểu được, chứ không có thể
lấy phương pháp mà cai trị nó"1.
Khái niệm ý cảnh xuất hiện trên nền một quan niệm tổng quát có
màu sắc triết học về con đường hình thành của thơ, con đường nảy sinh
cảm xúc thơ - con đường mà Lưu Hiệp trong thiên Thuyên phú đã miêu tả
rõ: "các ý vươn lên cao, nhìn thấy sự vật nảy ra tình cảm, tình cảm do sự
vật làm cảm hứng (tình dĩ vật hứng), cho nên nghĩa của nó rõ và trang nhã.
Sự vật được biểu hiện qua tình cảm (vật dĩ tình quan) nên lời tươi đẹp"2.
Hiển nhiên, để phân tích ý cảnh của một bài thơ, nhất thiết người ta phải
xét tới nhiều mối quan hệ bao hàm trong đó: tình và cảnh, tình và sự, tình
và lý...
Khái niệm ý cảnh trên thực tế đã đưa tới một cái nhìn bao quát về
bản chất nghệ thuật của hình tượng thơ. Khi người ta nói tới những điểm
thú vị trong thơ như cao, hùng, thâm, viễn, chân, tân, kỳ chính là khi người
ta nói tới tính chất của sự khám phá nghệ thuật, tính chất của ý cảnh ở từng
bài thơ cụ thể. Sự cao hay thấp, mới lạ hay tầm thường của ý cảnh từ lâu đã
được xem là tiêu chí cơ bản để đánh giá mức độ thành công của bài thơ.
Tính chất bất khả phân của mối quan hệ giữa tình và cảnh, ý và cảnh cũng
từ lâu được xem là chuẩn mực của ý cảnh và rộng ra là chuẩn mực của thơ.
Vương Quốc Duy (đời Thanh) trong Nhân gian từ thoại đã viết: “Thơ từ
lấy cảnh giới làm trên hết. Có cảnh giới tự khắc trở thành cao cách, tự khắc
có câu hay. Thơ từ đời Ngũ Đại, Bắc Tống sở dĩ độc đáo tuyệt vời là do
như vậy”3. Đỗ Phủ là tác giả có thật nhiều giai cú có thể được đưa ra để
minh họa cho một quan niệm về cái chuẩn của ý cảnh. Lương Xuân 1 Phan Khôi, Chương Dân thi thoại, NXB Đà Nẵng, 1996, tr. 74 – 75. 2 Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học, HN, 1997, tr. 44. 3 Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (100 điều), Mai Xuân Hải dịch, NXB GD, 1994, tr.207.
45
Phương đã bình về hai câu Cẩm giang xuân sắc lai thiên địa / Ngọc lũy phù
vân biến cổ kim của vị "thi thánh" này như sau:"... nguyên tả cảnh nhỡn
tiền nhưng hạ một chữ "lai" thì xuân sắc không đợi vời mà tự lại, hạ một
chữ "biến " thì thấy phù vân không rình ý người mà nhất thiết theo thời
gian suy di, thành ra tình do cảnh trung sinh xuất, mà tình với cảnh dung
hợp làm một phiến"1.
Xin có một lưu ý nhỏ: những điều phân tích, dẫn giải ở trên không
nhằm đưa tới một kết luận đơn giản rằng ý cảnh chẳng qua chỉ là những
hình ảnh thấm đẫm cảm xúc trong bài thơ. Nếu kết luận như thế thì cũng
không sai nhưng rõ ràng là chưa trúng, chưa toàn diện. Ta có thể phân tích
ý cảnh của một bài thơ thông qua các hình ảnh, các ý tượng, nhưng không
thể đánh đồng hình ảnh, ý tượng mang tính chất đơn lẻ với ý cảnh là cái có
ý nghĩa bao quát, phản ánh được bản chất nghệ thuật đích thực của hình
tượng thơ trữ tình. Sự sáng tạo ý cảnh trong thơ trữ tình có liên quan trực
tiếp đến quá trình cấu tứ. Tứ chi phối việc tạo ý cảnh thích hợp sao cho
trong ý cảnh có được sự tương dung, giao hòa giữa thần với hình, tình với
cảnh, đặc biệt bao hàm được sự phát hiện mới của nhà thơ về bản thân, về
cuộc đời. Ngược lại, ý cảnh là điều kiện tồn tại của tứ, nó biến tứ từ chỗ là
một mô hình về hiện thực cuộc sống trở thành một thực thể sinh động có
thể quan sát được. Một tứ thơ sâu sắc, mới lạ, độc đáo chính là cơ sở của
một ý cảnh cũng sâu sắc, mới lạ, độc đáo.
Ta từng nói tới vai trò của tứ thơ trong việc cấp cho cái "hỗn mang"
của những rung động một trật tự, thì ở đây ta còn thấy thêm ý nghĩa của tứ
thơ trong việc tạo thế cho ý cảnh. Thế là thuật ngữ được dùng phổ biến cả
trong lý luận về thơ lẫn trong thư pháp và lý luận hội họa cổ điển Trung
Hoa. Nó biểu thị mối tương quan động giữa các sự vật, các hình, các nét
trong một tác phẩm. Tác phẩm không tạo được thế sẽ không có linh hồn,
không khơi dậy được cảm xúc, không thúc đẩy được suy nghĩ, không kích
thích được thị giác. Những sự đối lập chủ - thứ, động - tĩnh, hư - thực, nùng
1 Lương Xuân Phương, Cựu thi lược luận, Phạm Thế Ngũ dịch và xuất bản, Sài Gòn, 1968.
46
- đạm, cận - viễn, cao - thâm... trong một tác phẩm chính là cơ sở của thế.
Nhờ tứ thơ với tính chất đặc thù của nó là xác lập mối quan hệ mới có khi
rất bất ngờ, đột ngột giữa các sự vật mà ý cảnh có những thế khác nhau. ý
cảnh mang cái thế vươn toả cao rộng khi tứ thơ nảy sinh cùng với sức
tưởng tượng mạnh mẽ biểu hiện một khí phách mạnh mẽ: Phi lưu trực há
tam thiên xích/ Nghi thị Ngân hà lạc cửu thiên (Vọng Lư sơn bộc bố - Lý
Bạch); Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh/ Trường khiếu nhất thanh hàn
thái hư (Ngôn hoài - Không Lộ). ý cảnh mang thế viễn vọng xa xăm khi tứ
thơ hình thành từ những chiêm nghiệm sâu xa về tồn tại: Khuyến quân
cánh tận nhất bôi tửu/ Tây xuất Dương Quan vô cố nhân (Tống Nguyên
Nhị sứ An Tây - Vương Duy); Tá vấn tửu gia hà xứ hữu/ Mục đồng dao chỉ
Hạnh Hoa thôn (Thanh minh - Đỗ Mục). ý cảnh cũng có khi mang cái thế
thu lại trong dáng vẻ chân phương gần gũi khi tứ thơ xuất hiện trên một
mặt nền tình cảm đằm thắm, nồng nàn, bình dị: Cây rợp tán che am mát/
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn/ Rùa nằm, hạc lẩn nên bầu bạn/ ủ ấp cùng
ta làm cái con (Ngôn chí, bài 20 - Nguyễn Trãi); Tầng mây lơ lửng trời
xanh ngắt/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo (Thu vịnh - Nguyễn
Khuyến). Có thể nói, cứ tương ứng với tính chất của một loại tứ hay với
một kiểu kết cấu nhất định thì ý cảnh lại có một cái thế riêng, rất mực đa
dạng.
ý cảnh là một khái niệm của thi học cổ điển, không thấy được dùng
trong các công trình nghiên cứu về thơ hiện đại. Điều này chứng tỏ thơ hiện
đại có nhiều nét khác biệt với thơ trung đại. Nói về vật liệu thực tế tạo nên ý
cảnh trong thơ trung đại, dĩ nhiên ta không chỉ thấy, không chỉ biết tới cảnh
vật thiên nhiên. Chính Vương Quốc Duy trong Nhân gian từ thoại đã nói:
“Vui buồn giận dữ, đó cũng là một loại cảnh giới trong lòng người”. Nhưng
dù sao, do chú trọng nhiều tới lối diễn tả ước lệ, gián tiếp, kiểu như “tả cảnh
ngụ tình” mà cảnh vật thiên nhiên luôn chiếm vị trí ưu thắng trong thơ trung
đại. Từ đây ta thấy rõ: việc vận dụng khái niệm ý cảnh để nghiên cứu thơ
trung đại là chuyện không chỉ hợp lý mà còn rất cần thiết. Còn đối với thơ
47
hiện đại - một loại hình thơ luôn có nhu cầu đập vỡ mọi quy phạm, không
phải bao giờ cũng chấp nhận tiêu chuẩn hài hoà cổ điển và đã sản sinh ra
những bài có khi chỉ nhắm tới việc tạo nên một dòng âm nhạc bất định, mơ
hồ, đầy sức ám gợi…, phải chăng khái niệm ý cảnh đã trở thành một chiếc
áo quá chật?
1.3.3. Một số dạng kết cấu hình tượng thơ trữ tình
Việc nghiên cứu kết cấu hình tượng thơ trữ tình có tính chất khác với
việc miêu tả đặc điểm nội dung hình tượng thơ trữ tình. Điều cần thiết là
với mỗi loại hình tượng như hình tượng thiên nhiên, hình tượng cảm xúc,
hình tượng "tự sự" (khác với hình tượng của loại tự sự) v.v... ta phải tìm ra
các kiểu cấu tạo riêng của chúng. Ta có thể nói tới một lối kết cấu mang
tính chất không gian khi bài thơ nghiêng về phía tả cảnh, tả người, tả vật;
lại có thể nói tới một lối kết cấu mang tính chất thời gian khi bài thơ
nghiêng về phía thuật sự hay miêu tả dòng cảm xúc một cách trực tiếp.
Cũng cần nói tới kiểu tổ chức hình tượng theo lối tương phản đối chiếu,
theo mối quan hệ nhân quả, theo hình thức đối đáp v.v... Các kiểu kết cấu
hình tượng này có khi tồn tại ở dạng thuần nhất, nhưng rất nhiều khi tồn tại
ở dạng pha trộn vào nhau, tương ứng với tính chất tổng hợp phong phú của
hình tượng. Nhưng thường thì trong mỗi bài thơ vẫn có một kiểu kết cấu
được xem là chủ đạo, có ý nghĩa chi phối các kiểu kết cấu khác.
Kiểu "kết cấu không gian" chủ yếu gắn liền với những hình tượng
không gian, những phong cảnh và chân dung. Mặc dù vẫn chịu sự trói buộc
có tính chất "định mệnh" của nghệ thuật thời gian, nhưng kiểu kết cấu này
một khi được vận dụng vẫn có khả năng tạo được một ấn tượng toàn khối
về cái không gian mà nhà thơ muốn miêu tả, với ảo giác về sự xuất hiện
đồng thời của các hình ảnh, sự vật nằm trong đó. Để tạo được ảo giác này,
nhà thơ phải khéo xác lập được một hệ thống điểm nhìn để sau đó liên tiếp
hướng "con mắt" của người đọc chú ý tới những đối tượng cụ thể theo một
trình tự tự nhiên, khiến người đọc có thể quên đi một sự thật là các đối
tượng quan sát không hiện ra ngay tức khắc trong cùng một khoảng thời
48
gian xác định. Thông thường với một phong cảnh người ta thường chọn lối
miêu tả từ xa đến gần hoặc từ gần đến xa, từ bao quát đến cụ thể hoặc từ cụ
thể đến bao quát. Mọi sự miêu tả lộn xộn không theo trình tự đó rất dễ phá
vỡ cấu trúc hoàn chỉnh của hình tượng với mối tương quan gắn bó giữa các
hình ảnh, các ý tượng cấu thành. Tuy vậy, logic miêu tả trong thơ không hề
có tính cứng nhắc chỉ đi theo mỗi một chiều nào đó. Bài Đèo Ba Dội của
Hồ Xuân Hương, nhìn trên toàn cục là được triển khai dựa vào lối miêu tả
từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể. Nó mở đầu với một ghi nhận chung
về đặc điểm "cheo leo", hiểm trở của con đèo: Một đèo, một đèo, lại một
đèo/ Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Tiếp theo là hai câu thơ đặc tả một
cửa hang thấy gần trước mặt: Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì
lún phún rêu. Nhưng liền sau đó, sự quan sát được mở rộng ra: Lắt lẻo
cành thông cơn gió thốc/ Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo. Chính sự miêu tả
luân phiên nhịp nhàng cái xa với cái gần, cái hẹp với cái rộng một mặt đưa
lại cho độc giả cái cảm giác được tiếp xúc với cảnh vật một cách tự do, trực
tiếp, không gặp phải bất cứ sự gò bó nào, mặt khác cũng có ý nghĩa tạo nên
vẻ đẹp chân thực và sống động của cảnh được nói tới trong thơ. Nhưng điều
quan trọng hơn hết là nó được triển khai phù hợp với nhịp cảm xúc của nhà
thơ, nó phản ánh trung thành trường nhìn cũng như những rung động của
anh ta trước đối tượng.
Trên nét lớn, bài Chiều thu tức cảnh của Bà huyện Thanh Quan có
trình tự miêu tả ngược với bài thơ trên, tức là đi từ cụ thể đến bao quát, từ
gần đến xa. Đầu tiên nó dừng lại ở một hình ảnh cận kề là những giọt mưa
rơi thánh thót trên tàu lá chuối. Tiếp đó, sự miêu tả hướng về bối cảnh cao,
rộng và có vẻ "hoành tráng" hơn với sự có mặt của cổ thụ, của tràng giang
"trắng xoá". Nhưng đi vào chi tiết ta vẫn nhận ra có sự miêu tả đan cài xen
kẽ giữa cảnh thấy gần với cảnh thấy xa. Câu 1: Thánh thót tàu tiêu mấy hạt
mưa là cảnh thấy gần. Câu 2: Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ thể hiện một ý
hướng đánh giá khái quát. Câu 3: Xanh om cổ thụ tròn xoe tán lại là cảnh
tương đối gần, khá cụ thể. Câu 4: Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ đã là
49
một khung cảnh mở ra bát ngát, nhuốm sắc thái chiêm nghiệm của nhân vật
trữ tình.
Từ những phân tích trên ta nhận thấy khi đi vào tìm hiểu kết cấu hình
tượng phong cảnh ở một bài thơ, không thể nhất mực cho rằng cảnh trong
bài chỉ được miêu tả theo cái nhìn từ trên cao hay từ dưới thấp, theo cái
nhìn gần, cục bộ hay theo cái nhìn xa, bao quát. Sự thực thì đầu tiên cảnh
có thể được quan sát từ một góc độ nào đó, nhưng khi cảnh thật đã trở
thành một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh trong bài thì nó đã là kết quả
của một sự miêu tả được tham chiếu từ nhiều góc nhìn, vừa vật lý, vừa tâm
lý, vừa là của hôm nay lại vừa có thể là của những ngày qua. Có hiểu như
thế, ta mới thấy hết chiều sâu trữ tình của hình tượng phong cảnh, bởi
không bao giờ có một sự miêu tả tự nhiên chủ nghĩa, thản nhiên, cơ giới.
Ngay với hội họa – một thứ nghệ thuật không gian, ngoài lối vẽ duy trì
điểm nhìn cố định trên đường chân trời theo luật thấu thị (dựa vào giả thiết
nhìn bằng một con mắt, do L. B. Alberti phát minh vào thời Phục hưng), từ
lâu, trong phép mô tả của các họa gia Trung Hoa cổ, sự phối hợp các thủ
pháp biểu hiện không gian theo ba cách nhìn xa (tam viễn): bình viễn, cao
viễn, thâm viễn (dựa trên cơ sở sinh lý tự nhiên của mắt nhìn) đã được vận
dụng hết sức đắc ý và có hiệu quả. Với thơ trữ tình, sự gò bó trên phương
diện này hẳn nhiên là ít hơn nhiều. Vấn đề sau hết chúng tôi muốn nói tới
là kiểu “kết cấu không gian” này có những “gương mặt” khác nhau trong
từng loại hình thơ. Cũng “thi trung hữu họa” cả, nhưng họa trong thơ trung
đại không giống họa trong thơ hiện đại. Thử đọc mấy câu thơ sau trong bài
Lựa tiếng đàn của Thế Lữ: Sáng hôm nay, sương biếc tỏa mờ mờ/ Như
hương khói đượm đầu cau, mái rạ/ ánh hồng tía rắc ngọc châu trên lá/
Trời trong xanh chân trời đỏ hây hây… Ta nhận ra ngay ở đây một kiểu kết
cấu khá đặc thù của thơ lãng mạn. Lối liệt kê tỉ mỉ đậm tính chất tả thực
cùng nỗ lực muốn thi tài pha màu với thiên nhiên của Thế Lữ thật khác với
lối tả điểm xuyết tạo nhiều khoảng trống cốt gợi ý ở thơ trung đại!
50
Kiểu "kết cấu thời gian" gắn liền với những hình tượng có sự phát
triển trong thời gian (và dĩ nhiên cả trong không gian nữa) như một câu
chuyện, một dòng cảm xúc nào đó v.v... Thơ trữ tình vẫn thường vận dụng
hình thức kể chuyện, trần thuật. Tất nhiên, trần thuật trong thơ trữ tình rất
khác với trần thuật trong các thể loại tự sự. Câu chuyện được đưa vào đây
không bao gồm đầy đủ các chi tiết, biến cố. Nó chỉ được tái hiện một cách
cô đọng, vừa đủ làm cơ sở cho việc bộc lộ và triển khai theo cả chiều rộng
lẫn chiều sâu cảm xúc của nhân vật trữ tình trước một vấn đề đời sống nào
đó. Câu chuyện được kể tới có thể mang một tính chất hoàn chỉnh và một
vẻ đẹp tự thân, nhưng nhà thơ thường chưa muốn dừng ở đây. Nhiều khi
câu chuyện chỉ còn là một cái cớ giúp nhà thơ - nhân vật trữ tình thể hiện
quá trình tự nhận thức bản thân và chỉ còn là một phương tiện gợi dẫn, có
tác dụng dồn đẩy cảm xúc của nhà thơ phát triển tới đỉnh điểm.
Quan sát nhiều bài thơ trữ tình giàu tính tự sự trong văn học Việt
Nam hiện đại như Bà má Hậu Giang của Tố Hữu, Người đi tìm hình của
Nước của Chế Lan Viên, Quê hương của Giang Nam, Gửi em, cô thanh
niên xung phong của Phạm Tiến Duật v.v..., ta nhận thấy tiến trình câu
chuyện thường khi vẫn bị "phá ngang" bởi những lời bộc bạch cảm xúc
trực tiếp của người kể, tức cũng là nhân vật trữ tình. Và như vậy, bài thơ
trải qua nhiều lần chuyển kênh, chuyển cảnh rất mực linh hoạt mà mục đích
chỉ là làm sao cho người đọc đo được chấn động của sự kiện, của câu
chuyện trong tim nhân vật trữ tình và biến toàn bộ trạng thái tâm hồn anh ta
trở thành đối tượng quan sát chính. Đang kể chuyện bà má Hậu Giang, đến
tình huống bi tráng Một dòng máu đỏ lên trời, nhà thơ - nhân vật trữ tình
không nén nổi phải kêu lên: Má ơi! Con đã nghe lời má kêu! Sau tiếng kêu
này, cảm xúc trong bài thơ đã đạt tới độ căng giới hạn, và bài thơ đã có thể
kết thúc với một cặp lục bát, mà không cần phải nối dài thêm nữa bằng sự
kể lể rườm rà. Với bài Người đi tìm hình của Nước, ta cũng được chứng
kiến sự can thiệp mạnh mẽ của cái tôi nhà thơ vào câu chuyện vốn được bắt
đầu có vẻ rất khách quan. Chỉ ngay sau lời kể Đất nước đẹp vô cùng.
51
Nhưng Bác phải ra đi như muốn tái hiện lại một sự kiện quá khứ, nhà thơ
đã tức khắc xáo trộn thời gian bằng một thỉnh nguyện hầu như vô lý: Cho
tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác. Từ đây, ta nhận thấy rõ động cơ
sáng tạo của tác giả: thông qua việc tái hiện hình ảnh Bác và các chặng
đường hoạt động cách mạng của Người, tác giả đã tiến hành một sự kiểm
điểm bản thân rất nghiêm túc, chân thành.
Hai ví dụ vừa nêu cho thấy nếu như yếu tố chủ quan là một hiện
tượng quy luật của mọi sáng tác văn học nghệ thuật, thì trong thơ trữ tình
nó còn có một ý nghĩa sâu hơn, rộng hơn, đến mức trở thành bản chất của
thể loại. Tình rất cần sự để có được một điểm neo đậu và để được triển khai
ỏ nhiều cấp độ phong phú nhưng sự lại bị chi phối bởi tình và được phát
triển theo định hướng làm rõ thế giới nội tâm của người thuật sự. Nhận
định này cũng hoàn toàn phù hợp với những bài thơ trữ tình mà ở đó tác giả
như chỉ đơn thuần làm cái việc ghi âm, ghi hình trung thành hiện thực
khách quan để hiến cho độc giả mà không kèm lời bình luận, như bài Anh
em là phi công của B. Brecht, Em bé Hirosima của N. Hikmet, Cháu bé
trong nhà lao Tân Dương của Hồ Chí Minh v.v... Thực ra, ở những bài thơ
này, ngay sự im lặng của nhà thơ đã bao hàm một thái độ đánh giá, một xúc
cảm. Và chính thái độ, xúc cảm được dấu kín đó là nhân tố quy định cách
kể việc trong thơ trữ tình chứ không phải cái gì khác. Sự tiết chế cảm xúc
tối đa ở những bài thơ trữ tình thuật sự nhiều khi đưa đến những hiệu quả
nghệ thuật to lớn. Chính nó sẽ tạo nên sự bùng nổ của nhận thức và tình
cảm ở người đọc, khiến cho câu chuyện cụ thể có thể trở thành một ám ảnh
muôn đời. Đọc một bài thơ như bài Thạch Hào lại của Đỗ Phủ, ta sẽ có dịp
chứng nghiệm điều đó.
Có vô số bài thơ trữ tình mà ở đó tâm hồn nhà thơ được phơi mở
bằng một thứ ngôn ngữ thẳng thắn, trực tiếp. Hình tượng ở đây chính là
hình tượng xúc cảm, có tầng có lớp gối lên nhau như những đợt sóng xô,
trạng thái cảm xúc này xui gọi những trạng thái cảm xúc khác cận kề vốn
"trầm tích trong bề sâu của nhớ" (chữ dùng của Chế LanViên). Mỗi lần
52
cảm xúc được phô bày là một lần nhà thơ phải "đào hang mạch đáy lòng"
(Chế Lan Viên), tự lay thức toàn bộ con người mình như một kết tinh của
đời sống và lịch sử. Tiếp xúc với những hình tượng thơ loại này chúng ta
thường thấy quá trình phô bày cảm xúc đi song song với quá trình nhà thơ
tự nhận thức về dòng cảm xúc đang được phô bày đó. Đọc những bài thơ
như Tự tình của Hồ Xuân Hương, Đêm hè của Tú Xương, Tương tư, chiều
của Xuân Diệu, Nhớ của Nguyễn Đình Thi, Tự hát của Xuân Quỳnh... ta
nhận ra rất rõ điều này. Đến với Tự tình, ta đọc thấy nhiều cung bậc cảm
xúc của Xuân Hương nữ sĩ: oán hận, thảm, sầu, rầu rĩ, giận, và sau cùng
là sự thách thức: Tài tử văn nhân ai đó tá?/ Thân này đâu đã chịu già tom!
Những cung bậc cảm xúc đó đã được bộc lộ một cách tự nhiên, chân thực
và xúc động, nhưng sự bộc lộ ở đây hoàn toàn không theo kiểu tự nhiên
chủ nghĩa, có thế nào nói tuột ra thế ấy, mà nó đi liền với sự chiêm nghiệm
sâu sắc, sự lắng nghe tinh tế của nhà thơ về những gì đang diễn ra trong
lòng mình. Ngay việc nhà thơ gọi đúng tên trạng thái cảm xúc của mình đã
đủ chứng tỏ sự tồn tại song song của hai "hành động" bộc lộ mình và nhận
thức về mình ấy.
Như đã nhắc tới ở phần trên, hình tượng thơ trữ tình còn có thể được
xây dựng nhờ lối kết cấu tương phản, đối chiếu. Với lối kết cấu này, bài thơ
được chia thành các phần chiếu ứng với nhau, mà mỗi phần có riêng một
"hình tượng bộ phận" mang những đặc điểm khác biệt minh giải cho sự tồn
tại của những hình tượng kia. Bài Thề non nước của Tản Đà đã dựng lên rất
sinh động hai hình tượng Nước và Non trông ngóng, đợi chờ, an ủi nhau
trên cơ sở một lời thề sâu nặng trong quá khứ. Cái võ vàng, tiều tụy của
Non được đặc tả công phu có tác dụng làm nổi bật vừa nỗi đau khổ vì đợi
trông mòn mỏi của kẻ ở lại, vừa sự "mê mải sông hồ" của Nước. Ngược lại,
việc nhắc tới lời an ủi của Nước vừa cho thấy được cái chí tình của kẻ ra đi
vừa có ý nghĩa tô đậm thêm niềm thao thức trăn trở khôn nguôi của Non về
lời "giao ước kết đôi" nghìn năm cũ. Chính lối kết cấu tương phản đã làm
cho dòng suy tư trữ tình của tác giả về cuộc đời trong thế đối lập còn - mất,
53
sum họp - phân ly, thủy chung - bội bạc, bảo trì - vứt bỏ v.v... càng trở nên
có sức ám ảnh lớn đối với người đọc.
Kiểu kết cấu hình tượng theo lối tương phản đối chiếu rất hay thấy ở
những bài thơ mang tính chất triết lý - trữ tình hay chính luận - trữ tình, tức
là những bài thơ mà ở đó hình tượng thấm nhuần lý lẽ hay nói cách khác là
lý lẽ đã kết nối các "hình tượng bộ phận" lại với nhau thành một chỉnh thể,
như Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi, Tổ quốc bao giờ đẹp thế
này chăng của Chế Lan Viên, Lửa đèn, Tiếng bom ở Seng Phan của Phạm
Tiến Duật, Sức bền của đất của Hữu Thỉnh v.v... Sẽ sai lầm nếu bỏ qua cái
nền triết lý hay chính luận đằng sau những hình tượng xuất hiện ở bề nổi và
có thể tri giác được. ở bài Tình yêu và báo động của Bằng Việt, người đọc
bắt gặp rất nhiều chi tiết sinh động, gợi cảm về một tình yêu đẹp như Anh
nghe thời gian trong mạch đập tay em trong bối cảnh Vườn vàng phơi lá
thu, hay như: Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất/ Nhưng thuỷ chung như
một sắc mai già/ Đôi mắt mở to dịu dàng thấm mát/ Sau rất nhiều gian khổ
đi qua... Nhưng những hình tượng nói trên chỉ bộc lộ hết vẻ đẹp và chiều
sâu ý nghĩa một khi ta biết đọc chúng như một biểu tượng của sức sống
Việt Nam - cái sức sống được bộc lộ mạnh mẽ trong những tình thế thử
thách ngặt nghèo. ở đây, bản chất của tình yêu đã thực sự được nhận thức
trong thế liên hệ đối lập với bộ mặt hung bạo, đen tối của kẻ thù, của chiến
tranh với những "cơn báo động", "những lời "dậm dọa", với hình ảnh cầu
Long Biên "nhô hai nhịp gãy"...
Nhìn chung, kết cấu hình tượng thơ trữ tình có nhiều kiểu dạng khác
nhau. Mỗi kiểu dạng như thế tương ứng với một tứ thơ, một loại ý cảnh
nhất định. Có những kiểu dạng kết cấu tồn tại xuyên suốt qua mọi thời,
nhưng ở mỗi thời, nó lại có thêm một biến thể mới nữa. Tất cả những kiểu
dạng kết cấu hình tượng này sẽ được nhận biết thông qua nhiều lối kết cấu
văn bản ngôn từ phù hợp.
1.4. Kết cấu văn bản ngôn từ thơ trữ tình
1.4.1. Khái niệm bài thơ
54
Bài thơ là đơn vị chỉnh thể lớn nhất của kết cấu văn bản ngôn từ, là
sản phẩm hoàn chỉnh của sự sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ tuân theo sự
chi phối của một cái tứ chủ đạo, quán xuyến và chịu sự ràng buộc của
“thiên pháp” (tức là kiểu tổ chức bài thơ) từng thời đại. Không kể những
trường hợp bình thường, một bài thơ dù chỉ gồm một câu hoặc hai câu cũng
vẫn là một chỉnh thể toàn vẹn, có quyền tồn tại bình đẳng với những bài thơ
có dung lượng lớn hơn. Thậm chí đối với những bài thơ có dung lượng bé
như những bài thuộc thể thơ haiku (Nhật), tuyệt cú (Trung Quốc, Việt
Nam...), quy luật chỉnh thể lại càng phát huy hiệu lực mạnh mẽ. Trong
nghiên cứu về thơ, dù khi nhắm tới đối tượng chính là tập thơ, người ta
cũng không thoát khỏi việc đụng tới từng bài cụ thể. Trong trường hợp
khác, dù khi chỉ nhắm tới việc khen chê một câu thơ hoặc liên thơ (điều
thường thấy trong các thi thoại Trung Hoa xưa), thì người ta cũng phải xuất
phát từ cái nền cảm nhận chung về cả bài thơ.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghiên cứu thơ là tìm hiểu
tứ (của bài), mà để hiểu chiều sâu của tứ cũng như sự đầy đặn của hình
tượng thơ, nhất thiết phải khảo sát toàn bộ bài thơ. Ngay cả khi ta chỉ định
chú ý tới riêng một cấp độ nào đó của tứ gắn liền với câu thơ, khổ thơ... thì
cũng thế. Việc mở rộng cái nhìn ra cả bài thơ không phải bao giờ cũng vì
chính bản thân bài thơ mà có khi chỉ vì một chữ, một câu, một đoạn mà ta
muốn nói tới. áp lực của bài thơ như một hệ thống lên từng yếu tố cấu tạo là
rất lớn. Một nhãn tự chỉ là nhãn tự của bài chứ đứng riêng ra nó không nói
lên được bất cứ điều gì cả. Nếu không có 27 chữ khác trước đó đứng làm đối
trọng, chữ hồng cuối bài Chiều tối (Hồ Chí Minh) cũng sẽ chỉ là một chữ
bình thường nhẹ bỗng mà thôi. Thử đọc bài haiku sau đây của Bashò thiền
sư (Nhật):
Những trái ớt son đôi cánh chắp tung toé lũ chuồn chuồn. (Lê Thiện Dũng dịch)
55
Nhìn trong thế tách rời, từng câu chẳng có gì đặc biệt, thậm chí tầm
thường, khô khan. Nhưng nhìn chúng trong mối liên hệ chỉnh thể, ta bỗng
thấy từ chúng toả ra một vẻ đẹp khó tả, một vẻ đẹp ấm áp nhân tình và
thấm đẫm ý vị thiền. Cái tứ về sự sinh hoá bất tận của thiên nhiên, về sự
nhất thể của vạn vật chỉ được thể hiện trọn vẹn qua toàn bộ bài thơ. Cũng
cần lưu ý thêm rằng: nếu ta biết bài thơ này được làm lại từ mấy câu “viết
hỏng”của Kikaku (một môn đệ của Bashò): Chuồn chuồn đỏ/ đôi cánh rứt/
ồ những trái ớt, ta càng có dịp hiểu rõ tính nghiêm ngặt về mặt kết cấu của
đơn vị bài thơ - một sự nghiêm ngặt biểu thị mức độ sáng tạo ở nghệ sĩ!
Dĩ nhiên, để đánh giá được chính xác về phẩm chất tư tưởng cũng
như nghệ thuật của bất cứ một tác phẩm thuộc bất cứ loại nào ta cũng phải
dựa vào sự tồn tại toàn vẹn của tác phẩm đó. Nhưng đối với bài thơ trữ
tình, điều này càng có ý nghĩa quan trọng, vì như đã nói, bài thơ vốn có
một đặc điểm nổi bật là sự ngắn gọn, súc tích mà đã ngắn gọn, súc tích thì
tính tổ chức của nó đặc biệt cao, khiến ta phải luôn luôn chú ý tới đơn vị
bài. Đặc điểm ngắn gọn của bài thơ được nhìn nhận thống nhất cả trong lý
luận văn học phương Đông lẫn trong lý luận văn học phương Tây. Vương
Phu Chi (đời Minh) trong Khương Trai thi thoại từng nhận xét: "một bài
thơ chỉ hạn định ở một lúc, một việc". V.G. Belinski cũng khẳng định một
điều tương tự: một bài thơ riêng lẻ "không thể ôm trọn toàn bộ cuộc đời,
bởi vì chủ thể không bộc lộ tất cả trong một chốc lát"1. Dù không có điều
luật nào quy định, bắt buộc, nhưng những người sáng tác thơ trữ tình, hầu
như ai cũng thế, đều không kéo dài quá mức bài thơ của mình. Tất nhiên,
cái gọi là quá mức hay không quá mức ở đây không thể được xác định căn
cứ vào một số lượng dòng thơ tối đa nào đó, mà phải được xác định căn cứ
vào nội dung cảm xúc. Nhìn chung, ngắn gọn không chỉ là vấn đề của hình
thức mà chủ yếu là vấn đề nội dung. Chính nó hé lộ cho ta thấy lẽ tồn tại
cũng như những đặc trưng cơ bản khác của thơ trữ tình. Các tác giả cuốn
sách Sức hấp dẫn của thơ Đường đã nhận xét về vấn đề này như sau:"Ngắn 1 Dẫn theo: G.N. Pôxpêlôp (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, NXB GD, HN, 1998, tr. 337.
56
gọn là đặc trưng hình thức của thơ trữ tình. Lý luận cơ sở đầu tiên của nó là
thuyết "lời không nói hết ý"(...). Nó tin chắc: chỉ cần là "lời", bất luận ít
hay nhiều, đều không cách gì nói được hết ý. Nói cô đọng ít ra có được cái
đẹp trau luyện"1. Nhận xét trên vốn được dành cho thơ cận thể đời Đường,
nhưng thực ra, nó đúng cả với thơ trữ tình nói chung. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng lại với lời giải thích rằng cái ngắn gọn và cô đọng của bài thơ trữ tình
chỉ là sản phẩm của một sự lựa chọn trong tình thế khó khăn "ngôn bất tận
ý" nhằm "vớt vát" cho được "cái đẹp trau luyện" thì chưa đủ. ý nghĩa của
hình thức ngắn gọn không dừng ở đó. Không đi sâu thêm vào vấn đề,
chúng tôi chỉ xin nhắc lại một ý đã từng được nói tới ở phần trên rằng: thơ
trữ tình là tiếng nói của những tình cảm sống động, đang dâng cao và phát
triển trong thì hiện tại, vậy thì hơn cái gì hết, ngắn gọn là cách xử lý nghệ
thuật hợp lý nhất, tự nhiên nhất giúp bài thơ bảo tồn được tính sống động
và dạng thức kết tinh cao độ ấy của tình cảm. Ngoài ra sự ngắn gọn còn có
ưu thế rất lớn trong việc tạo nên sự đồng cảm. Thử tưởng tượng tất cả thơ
trữ tình xưa nay đều có hình thức dài như các loại sáng tác văn học khác,
hẳn nó đã không được đọc, nhớ, ngâm nga, yêu thích nhiều như thực tế vốn
có.
Khi đã lưu ý đúng mức tới đặc điểm ngắn gọn của bài thơ trữ tình, ta
sẽ lý giải được nhiều vấn đề khác về kết cấu văn bản ngôn từ. Để đạt tới sự
hàm súc cao độ trong hình thức ngắn gọn, người xưa đã rất chú ý đến cách
bố cục bài thơ. Việc chia một bài thơ luật ra bốn phần và lấy bốn chữ khởi,
thừa, chuyển, hợp (hay phá, thừa, tỉ, kết) để gọi tên cho từng phần phản
ánh những nỗ lực nhằm tăng cường sức chứa, sức biểu đạt, biểu cảm cho
một lượng ngôn từ hạn chế, tiết kiệm. Việc vận dụng kết cấu song hành
(parallélisme) rất phổ biến trong thơ ca phương Đông lẫn phương Tây cũng
cần được xem là một phương án tích cực giải quyết nghịch lý "lời không
nói hết ý", chuyển thế bị động sang thế chủ động. Việc các hình thái tu từ
như ẩn dụ, tỉ dụ, ám dụ, hoán dụ, nhân hoá, những tượng trưng, ước lệ, 1 Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (biên soạn, dịch thuật), Về thi pháp thơ Đường, NXB Đà Nẵng, 1997, tr. 452 – 454.
57
những cách nói mỉa, nói ngược v.v.... xuất hiện với mật độ cao trong thơ
trữ tình cũng chứng tỏ một cố gắng đầy ý thức của các nhà thơ nhằm uốn
vặn ngôn ngữ thông thường, tạo nên hiện tượng lệch chuẩn có giá trị,
hướng tới việc biểu đạt những rung động thơ đầy phong phú, phức tạp
trong một hình thức súc tích, kiệm lời và mang tính gián tiếp. Nhìn bao
quát hơn, sự hoạt động của nguyên lý tương đương diễn ra trên mọi cấp độ
ngôn từ đều có liên quan tới tính ngắn gọn của bài thơ, dù ý nghĩa của
nguyên lý này không chỉ giới hạn ở đó, vì như ta đã biết, việc vận dụng
nguyên lý này như còn chịu sự chi phối của một niềm khao khát lớn mong
được trở về cái thế giới lý tưởng trong đó mọi vật đều hợp nhất. Như vậy,
ngắn gọn là một hình thức "chọn lọc tự nhiên" của thơ trữ tình. Nó vừa là
nguyên nhân, vừa là kết quả của những cách tổ chức ngôn ngữ đặc thù mà
ta đã trình bày sơ lược ở trên. Nếu muốn đi vào tìm hiểu những yếu tố,
những quan hệ tạo nên chất thơ mà "trừu tượng hoá" đơn vị bài thơ thì hẳn
những kết luận rút ra sẽ thiếu chiều sâu và sức thuyết phục.
1.4.2. Mở đầu và kết thúc
Nói tới bài thơ, dĩ nhiên không thể không đặc biệt chú ý tới mở đầu
và kết thúc, tức là chú ý tới hai điểm đánh dấu giới hạn tồn tại của nó xét
thuần túy trên văn bản.
So với những tác phẩm tự sự, nhìn trên đại thể, việc mở đầu ở một
bài thơ trữ tình có tầm quan trọng đặc biệt. Đối với nhà thơ, đã mở đầu
được tức là đã gần như có được một thành phẩm sáng tạo trong tầm với, đã
tìm thấy lối thoát (hay là con đường giải tỏa) cho những năng lượng tích tụ,
những cảm xúc dồn nén, vật vã. Đối với người đọc, tiếp xúc với mở đầu
chính là "cú" tiếp xúc, đụng chạm trước tiên với một không khí lạ, một
trạng thái cảm xúc lạ mang tính chất nghệ thuật. "Cú" tiếp xúc đó làm nảy
sinh phản ứng tức thì theo hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực và
buộc người đọc phải nhanh chóng "sửa soạn" một tâm thế tiếp nhận phù
hợp ngay trước lúc bị nhịp điệu của cả bài thơ cuốn đi khó cưỡng nổi.
Thông thường các câu mở đầu đến với thi sĩ theo một nẻo lối bất ngờ,
58
chẳng hẹn mà nên, không cố mà thành, cùng với sự phát khởi của niềm
hưng phấn sáng tạo, khiến cho nhiều lúc nhà thơ có cảm tưởng mình được
thần nhân trợ hứng. Chẳng hạn Hoàng Cầm từng viết rõ ràng rằng ba câu
đầu của bài Bên kia sông Đuống là ba câu do một thần linh giọng nữ cao
nào đó đọc bên tai và ông chỉ việc ghi lại. Tuy nhiên không phải câu đầu cứ
tự nhiên đến là tự nhiên thành. Có khi bài thơ đã có mở đầu mà sự tuôn
chảy của cảm xúc vẫn chưa bắt đầu do tứ thơ chưa tìm thấy được một hình
thức thể hiện thích hợp. Lúc này quả là mới có sự hiện diện của lời mà
chưa có sự hiện diện của giọng, và nhà thơ có thể phải có một sự mở đầu
lại, mở đầu khác.
Ta đã vừa thử xét sự mở đầu bài thơ dưới góc độ tâm lý học sáng tạo
và tâm lý học tiếp nhận nhằm thấy rõ hơn vai trò của nó trong một bài thơ
trữ tình. Nếu như trong sáng tác một bản nhạc có việc xác lập âm hình cơ
sở ngay từ đầu và trong sáng tác một bức tranh (nhất là tranh thuỷ mặc theo
phong cách cổ điển Trung Hoa đòi hỏi vẽ một hơi để đảm bảo sự chuyển
lưu thanh thoát của khí - khí vận sinh động) có sự nghiền ngẫm kỹ càng về
điểm hạ bút, thì trong sáng tác thơ trữ tình cũng có những yêu cầu cao đối
với mở đầu.
Trong nhiều thi thoại Trung Hoa xưa, cổ nhân rất tán thưởng những
câu mở đầu thuộc loại cao xướng, đột ngột, gây ấn tượng mạnh, đập thẳng
vào tri giác độc giả hoặc những câu mở ra cảnh tượng mênh mông làm nền
cho suy ngẫm cảm xúc. Đúng là qua những câu mở đầu kiểu ấy, hay nói
bao quát hơn là qua những câu mở đầu giàu sáng tạo, người đọc đã có thể
nhận ra chiều hướng phát triển cảm xúc cũng như không khí nghệ thuật
chung của bài thơ. Chẳng hạn với câu Cô đơn thay là cảnh thân tù! mở đầu
Tâm tư trong tù (Tố Hữu), ta dường như đã thấy trước ở trong bài từng cơn
vật vã của nỗi cô đơn thúc động không ngưng nghỉ trong lòng thi sĩ cộng
sản trẻ tuổi. Hay khi đọc câu đầu tiên của bài Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn
Mỹ): Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ, người đọc hiểu ngay bài thơ rồi
sẽ đầy ắp những ấn tượng choáng ngợp và hào hứng về một chia tay khác
59
thường đậm sắc anh hùng lãng mạn. Ngược lại, mới chỉ "chạm" vào câu
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo khởi đầu cho bài Quán Khánh (Hồ
Xuân Hương), ta đã nghe văng vẳng phía trước tiếng cười khúc khích tinh
nghịch pha chút kiêu bạc của nữ sĩ cũng như đã mường tượng thấy thế kết
hợp chênh vênh đầy thách thức của các hình ảnh như kết quả logic của một
kiểu đứng tréo dị thường, nghịch mắt đã được tuyên bố ngay từ đầu...
Nhịp điệu của câu mở đầu cũng cho phép hình dung được phần nào
nhịp điệu của cả bài thơ. Không đợi đọc cả bài, chỉ mới qua câu Mau lên
chứ! Vội vàng lên với chứ người đọc đã có thể đoán nhận không sai về nhịp
điệu sôi trào, mạnh mẽ và thúc dục bao trùm bài Giục giã của Xuân Diệu.
Còn với câu kể vào bài Đò Lèn của Nguyễn Duy (Thuở nhỏ tôi ta cống Na
câu cá) ta dường như đã sẵn sàng một tâm thế lắng nghe nhịp trần thuật
chậm rãi, từng trải của tác giả về một thời thơ ấu xa xôi...
Số tiếng trong câu mở đầu cũng có một ý nghĩa nhất định trong việc
chi phối sự lựa chọn thể thơ của nhà thơ (trừ trường hợp anh ta tự xác định
trước mình sẽ sáng tác theo thể nào). Điều này nếu thực xảy ra cũng hoàn
toàn dễ hiểu bởi các câu trong bài thơ ngoài việc liên kết với nhau nhờ vào
nội dung ý nghĩa còn liên kết với nhau theo các quy luật về sự cân xứng, sự
hài hoà âm thanh, nhịp điệu vốn được mã hoá trong những thể thơ cố định.
Lúc này, câu mở đầu rất dễ hút nhà thơ rơi vào những điệu thơ quen thuộc.
Điều đó tuỳ trường hợp có thể mang tính chất tích cực hoặc tiêu cực. Đi
vào tìm hiểu một bài thơ trữ tình, việc lưu ý đến vấn đề này ở câu mở đầu
nhiều khi có tác dụng giúp ta phán đoán được chính xác về sự tương hợp
hay không tương hợp giữa tứ thơ với hình thức thể loại mà tác giả đã lựa
chọn.
Với câu mở đầu, những ấn tượng mông lung của nhà thơ về cuộc sống
đã bước đầu được cấu trúc hoá, và theo logic tự nhiên, hàng loạt tương quan
cũng xuất hiện đòi hỏi được "phổ" vào thơ khiến tác giả đôi khi không ngăn
nổi những đợt sóng cảm xúc đang dạt dào kéo tới theo những tương quan đó.
Vì mở đầu trong một bài thơ trữ tình có quan hệ rất lớn tới việc hiện thực
60
hoá tứ thơ và tới nội dung, chiều hướng cảm xúc, nên lẽ dĩ nhiên, qua mở
đầu, ta có thể nhìn thấy được phần nào phong cách của từng tác giả và đặc
biệt loại hình kết cấu văn bản ngôn từ của một thời đại thơ. Nói cách khác
mở đầu của bài thơ chính là một cánh cửa cho phép người ta đi vào khám
phá những nét riêng biệt trong phong cách thơ của một tác giả hoặc của một
thời đại. Thơ trữ tình dân gian, thơ trữ tình trung đại và thơ trữ tình hiện đại
đều có những cách mở đầu đặc thù dưới một cái nhìn khái quát nhất. Điều
này sẽ được trình bày kỹ hơn ở những phần sau của cuốn sách.
Ta đã nói tới đặc điểm ngắn gọn của một bài thơ trữ tình. Đã là ngắn
gọn thì kết thúc của bài thơ phải hàm chứa một ý vị đặc biệt. Nếu nhà thơ
không đầu tư thích đáng vào cách kết thúc thì sự ngắn gọn của bài thơ sẽ
không được nhận thức như một sự ngắn - gọn - hoàn - chỉnh, mà chỉ được
nhìn nhận như một sự ngắn gọn gò ép, mang tính chất cưỡng chế dòng chảy
tự nhiên của cảm xúc. Lời dạy trong một số sách nói về phép làm thơ luật
rằng làm thơ phải bắt đầu từ câu kết tuy mang tính chất hơi cường điệu
nhưng có một hạt nhân hết sức đúng đắn, xuất phát từ chỗ nhận thức được
vai trò trọng yếu của câu kết, của kết thúc trong một bài thơ. Có rất nhiều
ví dụ cho thấy nếu không có một kết thúc xứng đáng thì bài thơ sẽ không
còn gì cả. Câu kết là điểm đọng bao nhiêu tình ý của bài, là chỗ đi đến cao
nhất của cảm xúc, là cái có tác dụng nâng bài thơ lên một tầm độ tư tưởng
rất cao, tạo cho bài thơ có được một cấu trúc vững chắc. Bài Đăng Quán
Tước lâu của Vương Chi Hoán có hai câu cuối: Dục cùng thiên lý mục/
Cánh thướng nhất tằng lâu. Câu thứ tư dĩ nhiên gắn chặt với câu thứ ba
(câu chuyển) để tạo nên tính trọn vẹn của cú pháp suy luận, nhưng chính nó
cũng có tác dụng quy tụ những ghi nhận được thể hiện ở hai câu đầu vào
một mối, khiến cho cái tứ của bài thơ lộ rõ. Đó là cái tứ về sự thống nhất
của vũ trụ trong niềm khao khát của con người, sau lúc ta đã nhận ra những
sự phân ly, phân cực đáng não lòng của cuộc đời, mà hình ảnh mang tính
chất biểu trưng của sự phân li, phân cực đó là vận động ngược chiều giữa
một bên là ánh mặt trời tắt bên sườn núi phía tây (Bạch nhật y sơn tận) với
61
một bên là dòng trôi thao thiết của sông Hoàng Hà hướng về phía đông
(Hoàng Hà nhập hải lưu). Một ví dụ khác từ bài Triêu phát Bạch Đế thành
của Lý Bạch. Câu kết Khinh chu dĩ quá vạn trùng san đã thâu gộp được
trong mình vừa cái ý nói về độ cao của thành Bạch Đế là nơi xuất phát cuộc
du hành ở câu khởi (Triêu từ Bạch Đế thái vân gian), vừa cái ý nói về sự xa
xôi của dặm đường và sự vận hành mau lẹ của con thuyền ở câu thừa (Vạn
lý Giang Lăng nhất nhật hoàn), lại thừa tiếp bổ sung hoàn chỉnh tân cảnh
được gợi ra ở câu chuyển (Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận), để rồi đưa
người đọc tới miền của những liên tưởng miên man vô tận theo lá thuyền
bay nhẹ như cánh chim qua muôn trùng núi lô nhô hiểm trở.
Hơn đâu hết, điểm kết chính là điểm quan trọng nhất tạo nên dư ba
cho tác phẩm, tạo nên cái gọi là "ngôn hữu tận, ý vô cùng" hay "cam dư chi
vị" cho tác phẩm. Một kết thúc hay là kết thúc có khả năng tiếp tục làm dậy
sóng trong lòng người đọc ngay khi người ta đã đọc bài thơ đến câu cuối
cùng. Có lẽ chính vì ý thức được điều này mà sau khi đã làm chật căng các
bài thơ của mình bằng những chi tiết tạo hình sinh động và bằng những
màu sắc sáng tươi, rộn rã, Đoàn Văn Cừ đã tìm cho chúng những câu kết có
nhịp điệu buông lơi rất mực tình tứ và gợi cảm: ánh dương vàng trên cỏ
kéo lê thê/ Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ (Chợ tết); Chỉ còn nghe văng
vẳng tiếng chim xuân/ Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng (Đám cưới mùa
xuân). Phải nói rằng nếu không có những kết thúc kiểu thế này, các bài thơ
của Đoàn Văn Cừ có lẽ sẽ thiếu đi một điều rất cơ bản của thơ, đó là sức
gợi, là sự cân bằng, hài hoà mà các nhà thơ đều mong đạt tới.
Cũng như với mở đầu, kết thúc của bài thơ có muôn kiểu dạng phong
phú. Những định lệ đặt ra cho chúng trong các sách bàn về thi pháp sáng
tác (nhất là thi pháp sáng tác thơ Đường luật) chỉ có ý nghĩa định hướng
bao quát, còn cái có ý nghĩa quyết định hình thức cụ thể của chúng vẫn là
nội dung xúc cảm của bài thơ. Các nhà thơ vẫn thường nói tới hiện tượng
bài thơ "tự dừng lại" hay tự tìm cho mình một kết thúc thích hợp. Điều này
cho thấy thời điểm kết thúc của bài thơ là thời điểm mà tứ thơ đã được thể
62
hiện một cách trọn vẹn, trạng thái cảm xúc ứ đầy, căng nhức đã thực sự
được giải tỏa và vấn đề mà nhà thơ đề cập đã được nhận thức. Một sự kéo
dài thiếu cân nhắc sẽ trở nên thừa và bị chính logic nội tại của bài thơ "khai
trừ". Tuy nhiên, đối với những thi nhân sành sỏi trong nghề thơ, hiện tượng
"tự đến" của câu kết chỉ là phần biểu hiện bề ngoài. Sự thực, họ đã chuẩn bị
kỹ lưỡng để sự xuất hiện của nó có khả năng làm cho cả bài thơ ngời sáng
lên. Trong bài Tống biệt, ở đoạn cuối, khi lần lượt gieo xuống những câu
ngắn, Tản Đà một mặt muốn diễn tả hình ảnh bàn chân hai chàng Lưu,
Nguyễn chậm chạp, thẫn thờ bước xuống núi theo từng bậc, từng bậc đá
một, trong khi đầu luôn ngoái lại chốn tiên giờ đây mỗi lúc một lùi xa, mặt
khác ông như muốn bắt độc giả ghìm nén nhịp thở để có được cảm giác bất
ngờ khi chạm vào câu kết - một câu kết oà đến cùng niềm tiếc nhớ và nỗi
bâng khuâng vô hạn:
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…
Kiểu chuẩn bị cho câu kết của Tản Đà vừa nói ở trên chỉ là một trong
các kiểu có thể vận dụng. Nhiều nhà thơ xưa đã có cách xử lý vấn đề khác
hơn: không quan tâm đẽo gọt như nhau đối với mọi câu thơ mà chỉ dồn nội
lực vào câu kết. Vương Phu Chi đã từng nói rất có lý rằng "Làm thơ mà chỉ
muốn cho hay từng câu là đã rơi vào hạng bét"... Đôi khi, xét trong tính
chỉnh thể của bài thơ, những cái non, cái vụng có thể có ở các câu khác lại
mang một ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc: chính chúng sẽ làm cho câu kết trở nên
nổi bật hơn bao giờ hết. Bài Không đề của Hồ Chí Minh (Đã lâu không làm
bài thơ nào/ Nay lại thử làm xem sao/ Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy/
63
Bỗng nghe vần thắng vút lên cao) là một ví dụ minh họa rất tốt cho vấn đề
này.
1.4.3. Những đơn vị chỉnh thể trong bố cục của một bài thơ trữ tình
Mặc dù mở đầu và kết thúc có vai trò rất quan trọng nhưng chúng
không phải là tất cả bài thơ. Những phân tích ở trên cũng đã phần nào cho
thấy điều này. Ta chỉ có thể nhận ra giá trị đích thực của một sự mở đầu
hay một sự kết thúc khi liên hệ với toàn bài, với những đơn vị, những bộ
phận được dàn ra giữa hai điểm giới hạn đó, hay nói khái quát hơn là khi
biết đặt chúng vào trong bố cục chung của bài thơ. ở những hình thức thơ
cố định như thơ luật Đường (Trung Quốc, Việt Nam), sonnet, rondeau,
triolet (châu Âu)... ta thấy có sự phân nhiệm khá rạch ròi cho từng câu,
từng đoạn, đến nỗi có thể định tên cho chúng, cho dù bài thơ có nói về vấn
đề gì đi nữa. Qui định gắt gao về bố cục trong những hình thức cố định của
thơ ca cổ điển chính phản ánh cách mô hình thế giới của người xưa. Ta
hoàn toàn có thể nói tới tính triết lý hay tính nội dung, quan niệm của một
số thể thơ phát triển cực thịnh trong thời Trung đại.
Dĩ nhiên, khi các nhà thơ không vận dụng các hình thức cố định nói
trên của thơ ca vào sáng tác thì bố cục của bài thơ cũng mang những hình
thức khác, hết sức đa dạng. Nhưng dù sao vẫn có một điều bất biến trong
mọi hình thức bố cục, đó là bố cục phải phù hợp với nội dung, với vấn đề
được đề cập, phù hợp với quy luật phát triển của cảm xúc và với quy luật
tác động. Hơn nữa, cách bố cục thường bao hàm trong đó một quan niệm,
một cách thế nhìn đời, khiến cho người nghiên cứu có thể qua nó nhận ra
đặc điểm sáng tạo của từng nhà thơ, và rộng hơn, nhận ra đặc điểm kết cấu
của một loại hình thơ nào đó trong lịch sử. Kết quả là ta có thể nói tới sự
tồn tại của những kiểu thức hay mô hình bố cục nhất định dựa trên một sự
nghiên cứu loại hình.
Bố cục chính là sự sắp xếp trên bề mặt của văn bản ngôn từ những
đơn vị hình thức chứ bản thân nó không phải là một đơn vị hình thức. Ta
nhận ra bố cục của một bài thơ trữ tình chủ yếu thông qua mối tương quan
64
giữa các câu, các liên, các khổ, các đoạn, các phần. Do vậy, để hiểu một bố
cục, trước hết phải nắm bắt được đặc trưng của những đơn vị chỉnh thể ấy,
từ nhỏ đến lớn.
Trước hết cần phải dừng lại ở câu thơ - đơn vị cấu thành cơ bản của
tác phẩm thơ và không bao giờ vắng mặt trong bất cứ hình thức hay thể thơ
ca nào. Từ điển bách khoa về các khoa học ngôn ngữ đã nhận diện về câu
thơ như sau: "Một dãy âm tiết kế tiếp nhau theo âm luật thì tạo thành một
câu thơ. Khi một mô hình âm luật kết thúc, biểu thị bằng một chỗ ngắt âm
luật, thì đó là chỗ kết câu thơ. Cũng có khi, nhờ vần mà biết được câu thơ
từ đâu đến đâu. Trên mặt chữ (của Pháp), người ta đánh dấu câu thơ bằng
cách chừa một khoảng trống ở lề phải trang giấy, nhưng nếu xác định câu
thơ là một thực thể âm luật (entité métrique) thì người ta không thể không
nhận thấy rằng một câu thơ trên mặt chữ (vers graphique) có khi gồm hai
hoặc nhiều câu thơ âm luật (vers métrique) và ngược lại "1. Trong sự nhận
diện về câu thơ như trên, các tác giả đã vừa chú ý tới sự tổ chức nội tại các
câu thơ theo mô hình âm luật (câu thơ tự do thật ra cũng được tổ chức theo
mô hình âm luật riêng của nó, có điều mô hình này khó được khuôn vào
những cái tên quen thuộc), vừa chú ý tới hình thức trình bày của câu thơ
trên trang giấy. Đặc biệt, nó cũng đã lưu ý tới những "yếu tố thơ" tham gia
vào việc xác định sự tồn tại của câu thơ như chỗ ngắt âm luật (hàm chứa
yếu tố nhịp điệu), vần v.v..., cũng như đã có sự phân biệt cần thiết giữa câu
thơ trên mặt chữ và câu thơ âm luật (tức là giữa câu thơ và dòng thơ).
Như ta đã thấy, do câu thơ thông thường là một đơn vị khá hoàn
chỉnh về mặt ý nghĩa và cấu trúc, nó hoàn toàn có thể trở thành đối tượng
của một sự nghiên cứu loại hình. Nếu căn cứ vào tính ổn định về số tiếng
của dòng thơ trong trong bài thơ, ta có thể nói tới loại hình câu thơ 4 tiếng,
5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng và đặc biệt là loại hình câu thơ tự do (tất
nhiên với giả định lúc này câu thơ trùng với dòng thơ). Sự phân chia loại
1 O.Ducrot, T.Todorov, Từ điển bách khoa về các khoa học ngôn ngữ, Viện Thông tin KHXH dịch và phát hành, HN, 1977 (tài liệu đánh máy, không đánh số trang).
65
hình theo tiêu chí này dứt khoát phải gắn liền với việc đặt câu thơ vào một
trường chú ý rộng hơn với những hiểu biết về thể thơ.
Nếu căn cứ vào cú pháp câu thơ, ta có thể nói tới loại hình câu thơ
mang cú pháp độc lập và loại hình câu thơ mang cú pháp suy luận. Ví dụ
về câu thơ mang cú pháp độc lập: Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên/
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên (Phong Kiều dạ bạc - Trương Kế); Chu
môn tửu nhục xú/ Lộ hữu đống tử cốt (Tự kinh phó Phụng Tiên huyện...
- Đỗ Phủ). Câu thơ mang cú pháp độc lập là câu mà ở đó mối liên hệ giữa
các bộ phận câu (gắn liền với sự tồn tại của những ý tượng độc lập) ít mang
tính xác định. Các từ ngữ kề nhau cấu tạo thành một quan hệ độc lập,
không ảnh hưởng gì tới nhau (xét theo hình thức bề ngoài). Ví dụ về câu
thơ mang cú pháp suy luận: Hà xứ dao vọng quân?/ Giang biên minh
nguyệt lâu (Tống Hồ Đại - Vương Xương Linh); Ơ hay cảnh cũng ưa
người nhỉ/ Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ! (Chiều thu tức cảnh - Bà huyện
Thanh Quan). Trong những câu thơ trích trên, ta thấy rõ quan hệ phân tích
hàm chứa trong từng câu, khiến nó có khả năng liên kết với những câu khác
bằng hình thức suy luận logic.
Khi sự nghiên cứu hướng vào đặc trưng thơ của từng thời đại, ta có
thể nói tới loại hình câu thơ trung đại, loại hình câu thơ hiện đại. Lúc này,
để đối lập, ta phải vừa chú ý tới số tiếng trong câu, vừa chú ý tới cú pháp
của câu lại vừa phải chú ý tới mức độ đồng nhất giữa dòng thơ và câu thơ
cũng như khả năng diễn tả tâm tình thời đại của chúng.
Đơn vị chỉnh thể thứ hai trong bố cục cần phải nói tới là liên thơ.
Thực ra đơn vị này chỉ tồn tại trong luật thi (hình thành từ đời Đường) và là
đơn vị cơ bản của bài thơ. Một bài luật thi gồm có 4 liên, hai liên giữa có
những câu đối nhau theo từng cặp một và trong liên đầu, liên cuối, các câu
không bắt buộc phải đối. Giữa các câu trong một liên có mối liên hệ với
nhau cực kỳ chặt chẽ - liên hệ không chỉ bằng ý nghĩa bổ sung - tiếp nối
hay đối lập - bổ sung mà còn bằng sự hài hoà âm thanh, sự tương xứng, cân
đối về các mặt từ pháp, cú pháp... Khi phân tích luật thi, đơn vị được trích
66
ra để quan sát thường là liên thơ, điều này càng khẳng định cấu trúc bền
vững có tính hoàn chỉnh của liên, đặc biệt là liên có đối.
Cũng nói về luật thi, ta có thể chú ý thêm sự tồn tại của đơn vị giải.
Bốn câu đầu của bài thơ hợp thành tiền giải (thượng bán tiệt) và bốn câu
sau hợp thành hậu giải (hạ bán tiệt). Khi bình về thơ Đường, Kim Thánh
Thán đã xem hai khái niệm này như những công cụ phân tích hết sức hữu
hiệu. Nhưng cần thấy rằng sự phân chia bài thơ thành hai giải là sự phân
chia chủ yếu căn cứ vào nội dung. Tính chất hoàn chỉnh về hình thức của
giải không bộc lộ một cách rõ ràng. Vả chăng, khi phân tích một giải thơ
nào đó, sự quan sát vẫn chủ yếu căn cứ vào liên thơ và mối quan hệ giữa
các liên thơ.
Hiện tượng một bài thơ dài được phân ra thành nhiều khổ là hết sức
phổ biến, nhất là trong thơ hiện đại. Dung lượng lớn, nhỏ của một khổ có
thể tuỳ thuộc vào từng bài, không có hạn định cứng nhắc (trừ những bài thơ
được sáng tác theo một hình thức cố định như sonnet. Sonnet gồm 14 câu,
chia khổ hoặc 4 + 4 + 3 + 3 hoặc 4 + 4 + 4 + 2 với một mô hình vần tương
đối ổn định). Thông thường, một khổ thơ có 4 câu (đúng hơn là dòng)
nhưng cũng có khi 2 câu, 3 câu, 5 câu và có thể hơn nữa. Tuy nhiên nếu sự
tập hợp các dòng đạt tới một khối lượng lớn thì lúc đó thuật ngữ khổ thơ có
thể được thay thế bằng thuật ngữ khác là đoạn thơ. Xét riêng ở từng bài, số
dòng thơ trong mỗi khổ thơ thường bằng nhau, thậm chí số tiếng trong từng
dòng (thuộc một khổ nào đó) cũng có thể bằng nhau, nếu có so le cũng là
không đáng kể, không làm ảnh hưởng mấy đến tính nhịp nhàng trong nội
bộ khổ thơ và trong mối liên kết các khổ với nhau. Ta hay nói đến khổ thơ
4 tiếng, 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng là vì thế. Điều kiện để các dòng
(câu) tập hợp lại thành một khổ, có giới hạn phân biệt với các khổ khác
thông thường bằng một khoảng trắng trên trang giấy nhìn từ trên xuống, đó
là các dòng thơ đều biểu đạt những ý thơ xoay quanh một tiêu điểm ý, tứ
nào đó. Mặt khác, chúng có thể liên kết với nhau bằng một chuỗi vần cố
định hoặc bị chi phối bởi một mô hình cú pháp và nhịp điệu nhất định. Như
67
vậy, khổ thơ cũng là một đơn vị hình thức mang tính hoàn chỉnh cấu thành
bài thơ và là đối tượng của bố cục. Nhờ có sự phân khổ đều đặn mà sức
chứa hay khả năng thể hiện nội dung của bài thơ có thể tăng lên. Những
mối liên kết (nhất là về mặt ý nghĩa) trong bài cũng trở nên bớt phần gò bó,
và lúc này từng khổ thơ xét theo góc độ nào đó giống như một bài thơ nhỏ
trong một bài thơ lớn. Nhìn từ góc độ tâm lý tiếp nhận, sự phân chia bài thơ
ra thành nhiều khổ có thể làm giảm bớt sự căng thẳng ở độc giả do phải tập
trung chú ý vào quá nhiều dòng thơ trải ra theo thời gian. Hơn nữa, nó tạo
cho độc giả những quãng nghỉ ngắn để kịp thấm vào mình ý nghĩa của
những lời thơ. Phải nói rằng, với sự xuất hiện của khổ thơ, thơ trữ tình đã
có một sự điều chỉnh thông minh nhằm xử lý mối quan hệ giữa độ dài của
bài thơ với khả năng tập trung chú ý có giới hạn của độc giả trong một đơn
vị thời gian. Hầu như không thấy hiện tượng chia khổ trong bài thơ trữ tình
trung đại Trung Quốc và Việt Nam, nhưng dấu hiệu đầu tiên của sự chia
khổ thì có thể bắt gặp nhiều. ở không ít bài thơ bài luật hay cổ phong
trường thiên, các nhà thơ vẫn thường chú ý phân bố nhiều vần thơ ăn theo
một số dòng cố định. Bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư
(đời Đường) là một ví dụ. Cứ đều đặn bốn câu ăn theo một vần, và mỗi lần
bài thơ thay vần là một lần nó chuyển ý. Không phải ngẫu nhiên mà khi
dịch bài thơ này ra tiếng Việt, Khương Hữu Dụng đã sắp xếp bài thơ thành
nhiều khổ 4 câu trên trang in1. Riêng đối với các bài thơ song thất lục bát
của Việt Nam, do đặc điểm của thể loại là cứ sau một câu lục bát (gồm hai
dòng) lại đến một câu song thất (cũng hai dòng) cứ thế luân phiên không
ngừng mà bài thơ tự phân đều đặn ra các khổ 4 câu, thường biểu đạt khá
trọn vẹn một ý thơ nào đó. Từ đây, chúng ta có thể nói rằng chia một bài
dài thành nhiều khổ là một hiện tượng có quy luật của thơ trữ tình, dù hình
thức tồn tại của đơn vị khổ thơ hết sức đa dạng và dù mức độ tự giác chia
bài thơ thành nhiều khổ có thể khác nhau ở từng thời đại. Nhưng cũng cần
phải nói thêm rằng chính mức độ tự giác của các nhà thơ trên vấn đề này
1 Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, HN, 1987, tr. 45 – 46.
68
cũng là một điều hết sức có ý nghĩa. Nó là dấu hiệu của một sự chuyển đổi
thi pháp, một sự đổi mới trong tư duy thơ.
Khi đọc một bài thơ có chia khổ, cứ sau mỗi khổ, độc giả lại có một
quãng nghỉ hơi dài. Kết quả là với cấu trúc đó, bài thơ đã thực hiện một sự
điều tiết có nghệ thuật nhịp thở và nhịp điệu đọc của độc giả. Tính nhạc của
bài thơ, do vậy được cảm nhận một cách rõ rệt hơn.
Trong một số công trình nghiên cứu về hình thức thơ, người ta đã
không đặt ra vấn đề phân biệt khổ thơ với đoạn thơ. Điều này có lẽ có lý do
ở tính chất cấu trúc hình thức không chặt chẽ của đoạn thơ. Việc phân chia
bài thơ thành các đoạn chủ yếu căn cứ vào tiêu chí nội dung, tiêu chí biểu
đạt ý nghĩa. Một khổ thơ cũng có thể là một đoạn, nhưng có khi nhiều khổ
hay nhiều dòng liên kết lại xoay quanh một chủ đề nào đó mới hợp thành
đoạn thơ. Không kể tới trường hợp nhà thơ tự phân đoạn cho bài thơ của
mình (mà khoảng cách giữa các đoạn được đánh dấu bằng một khoảng
trắng hoặc bằng một dấu hoa thị), gặp trường hợp cả bài thơ dài được trình
bày liền một khối, muốn phân đoạn nó để dễ phân tích, người nghiên cứu
phải lưu ý tới tính hoàn chỉnh về ý nghĩa của một tập hợp dòng thơ nào
đấy. Sự phân đoạn có thể khác nhau ở từng người nghiên cứu và điều đó đã
phản ánh những mức độ thâm nhập nông sâu khác nhau vào bài thơ.
Ta vừa điểm qua những đơn vị chỉnh thể cơ bản trong một bài thơ trữ
tình (tức là trong một chỉnh thể lớn nhất, bao trùm lên tất cả). Giữa chúng,
câu thơ (dòng thơ) và khổ thơ là hai đơn vị có ý nghĩa quan trọng hơn cả
(có thể kể thêm đơn vị liên thơ trong luật thi Trung Quốc và Việt Nam). Sự
khác nhau giữa các đơn vị là hiển nhiên do ở chúng khả năng diễn tả ý
nghĩa, dung lượng và quy mô hoạt động của nguyên lý tương đương rất
khác nhau. Tuy vậy giữa chúng vẫn có những điểm tương đồng. Sự tương
đồng này đã được Iu. Lotman nói tới như sau trong cuốn Phân tích văn
bản thơ: "Nếu thoạt tiên chúng ta có thể nói rằng mỗi một âm vị trong câu
thơ đòi xem nó như một từ, thì tiếp theo, chúng ta cũng có thể xem một câu
thơ, thậm chí một khổ thơ, và dĩ nhiên cả toàn bộ văn bản thơ như một từ
69
được cấu tạo một cách đặc biệt. Trong ý nghĩa này, câu thơ - tức là một từ
mang tính chất tạm thời đặc biệt, có một nội dung thống nhất và không thể
chia cắt. Quan hệ giữa câu thơ với những câu thơ khác - đó là quan hệ ngữ
đoạn xét theo cấu trúc miêu tả và là qua hệ biến hoá xét trong mọi trường
hợp kết cấu song hành"1, "Trong một văn bản có sự phân chia thành khổ
thơ, khổ thơ có liên hệ với câu thơ cũng như câu thơ có liên hệ với từ.
Trong ý nghĩa này có thể nói rằng những khổ thơ tạo thành những đơn vị
ngữ nghĩa cũng giống như "các từ"2. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy
những nhà nghiên cứu văn học theo Chủ nghĩa cấu trúc hẳn có cái lý nhất
định của mình khi quy kết cấu của một tác phẩm thơ ca vào cấu trúc ngữ
pháp. Trong trường hợp vận dụng đắc địa, quan niệm này có thể đưa đến
những khám phá thú vị về cấu trúc của tác phẩm thơ. Những sự phân tích
sâu sắc về một bài thơ
chỉ xoay chung quanh một "chữ mắt" (nhãn tự), "câu thần" (thần cú) phải
chăng cũng đã có một chỗ dựa lý luận về sự tương đồng cấu trúc của những
đơn vị chỉnh thể cấu thành bài thơ?
1.4.4. Những yếu tố đảm bảo sự liên kết trong kết cấu văn bản ngôn từ
của một bài thơ trữ tình
Từ xưa đến nay, trong sáng tác cũng như trong nghiên cứu lý luận,
người ta vẫn luôn khẳng định vị trí quan trọng của vần trong thơ. Hiện
tượng trước đây thơ được xem là đồng nghĩa với văn vần đã mặc nhiên xác
nhận vần như một yếu tố đặc trưng khó bề gạt bỏ của thơ. Xét tới tính quan
niệm của vần, G. Hegel cho rằng vần đáp ứng nhu cầu "tâm hồn cần nhìn
thấy mình được bộc lộ nhiều hơn", khi "cái tinh thần tập trung vào bản thân
nó". Nhìn theo góc độ ngôn ngữ học, chúng tôi hoàn toàn tán đồng định
nghĩa sau đây về vần của Mai Ngọc Chừ: "Vần là sự hòa âm, sự cộng
hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm
tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất định như
1 Iu. Lotman, Phân tích văn bản thơ, NXB Giáo dục, 1972 (tiếng Nga), tr. 92. 2 Tlđd, tr. 96.
70
liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp"1. Định nghĩa trên
đã được quán triệt trong toàn bộ chuyên luận của tác giả - một chuyên luận
đưa ta tới với những khái quát chủ yếu sau đây về vần (chúng tôi lược thuật
dựa vào phần kết luận của cuốn sách):
- Nói đến vần trước hết nói đến sự hòa âm giữa hai đơn vị hiệp vần.
- Vần có chức năng liên kết văn bản thơ ca.
- ở vần thơ có sự tồn tại của hai mặt đối lập: mặt đồng nhất và mặt
khác biệt. Hai mặt này song song tồn tại đảm bảo cho vần vừa giữ được
tính chất hòa âm lại vừa không lâm vào tình trạng lặp vần.
- Đối với việc thực hiện hai chức năng là vừa tạo ra sự đồng nhất,
vừa tạo ra sự khác biệt cho vần, các yếu tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt giữ
những vai trò khác nhau.
- Trong những thể thơ truyền thống như Đường luật, lục bát, song
thất lục bát, vần luôn luôn có vị trí cố định và được phân bố theo những
nguyên tắc nhất định.
- Trong việc phân loại vần thơ, ngoài cách chia thành các vần bằng -
trắc, chân - lưng, còn có một cách phân loại khác là dựa vào mức độ hòa
âm. Dựa vào mức độ đồng nhất âm tố và đặc biệt là mức độ đồng nhất các
đặc trưng ngữ âm, có thể phân biệt ba loại vần: chính, thông và ép.
- Sự phát triển của vần thơ Việt Nam bị quy định chặt chẽ bởi cấu
trúc âm tiết tiếng Việt. Vần thơ Việt Nam phát triển theo hướng luôn tạo ra
sự thay đổi trong giới hạn nhất định của tổ chức âm tiết bằng cách tăng
cường phối hợp các khả năng kết hợp có thể có của thành phần cấu tạo âm
tiết. Theo hướng tự do hơn nữa, vần thơ hiện đại còn có thể vượt ra ngoài
quy luật phân bố của các thành phần cấu tạo âm tiết ở trong vần thơ truyền
thống. Tình hình này làm cho tỷ lệ xuất hiện hai loại vần thông và vần ép ở
1 Mai Ngọc Chừ, Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, NXB ĐH & GDCN, HN, 1991, tr. 12.
71
một số nhà thơ, ở một số bài thơ tự do có chiều hướng tăng lên so với thơ
ca truyền thống1.
Nói chung, những kết luận vừa nêu đã cho ta một cái nhìn khá toàn
diện về vần thơ (cụ thể là vần thơ Việt Nam). Nhưng theo định hướng
nghiên cứu của mình, điều chúng tôi quan tâm nhiều hơn là sự phát triển
của vần trong thơ từng thời đại khác nhau. Kết luận sau cùng của Vần thơ
Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học đã khẳng định quả có sự phát triển
đó. Thật thú vị là ngay yếu tố có vẻ mang tính kỹ thuật thuần tuý trong thơ
cũng có những biến đổi khi được cấu trúc hóa vào một chỉnh thể lớn hơn:
loại hình thơ; và đến lượt nó, vần lại góp phần vào việc nhận diện thơ của
thời đại này với thời đại khác (tất nhiên là ở mức độ tương đối và phải phối
hợp với nhiều "yếu tố thơ" khác nữa).
Vần tuy là một yếu tố quan trọng nhưng không bắt buộc phải có
trong mọi bài thơ, nhất là thơ tự do. Trong khi đó, sự tồn tại của nhịp - một
yếu tố có mối liên hệ khăng khít với vần - lại mang tính tất yếu, phổ quát.
Là nghệ thuật thời gian, cũng như âm nhạc, văn học nói chung và thơ trữ
tình nói riêng bao giờ cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu. Nếu không có
nhịp điệu, người ta không thể nào nhận thức nổi, nhận thức đúng về nội
dung của chuỗi âm thanh, chuỗi ngôn từ phát ra tưởng chừng vô tận theo
thời gian. Nhờ nhịp điệu gắn liền với những điểm ngắt, ngừng được phân
bố hợp lý căn cứ vào quy luật tổ chức nội dung ý nghĩa của ngôn từ và khả
năng chú ý, theo dõi cũng như nhịp thở tùy trạng thái cảm xúc của độc giả
mà chuỗi ngôn từ bất định kia được cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ
thuật, có khả năng gây xúc động và đưa lại những nhận thức mới về cuộc
sống. Nhưng mặc dù có những điểm chung với nhịp điệu trong văn xuôi,
trong những tác phẩm tự sự, nhịp điệu trong thơ, đặc biệt là thơ trữ tình
vẫn có nhiều nét riêng. Iu. N. Tynianov đã phân tích: “Trong văn xuôi (nhờ
sự đồng thời của lời nói), thời gian được cảm thấy rất rõ; hiển nhiên đó
không phải là những tương quan về thời gian có thực giữa các sự kiện, mà
1 Tlđd.
72
chỉ là những tương quan có tính chất ước lệ... Trong thơ thì thời gian hoàn
toàn không thể cảm giác được. Các tiểu tiết của chủ đề và những đơn vị lớn
của chủ đề đều được cân bằng nhau bởi cấu trúc chung của thơ"1. Nhìn
chung, so với nhịp điệu của văn xuôi, nhịp điệu của thơ trữ tình có tính tổ
chức cao hơn hẳn đến mức trở thành yếu tố đặc trưng nhất của thơ, bởi thơ
về cơ bản đã được giải phóng khỏi chức năng tạo hình, thuật sự để tập
trung vào
việc biểu hiện, bộc lộ cảm xúc, mà cảm xúc, như ta biết, là một cái gì rất
khó định hình, khó nắm bắt. Xuất phát từ tình thế này, nhịp điệu trong thơ
phải đảm trách nhiệm vụ vừa phân định lớp lang của dòng cảm xúc được
diễn tả bằng những âm thanh mang nghĩa, vừa đóng vai người thuyết minh
tích cực, tận tụy cho chính dòng cảm xúc ấy, khi lượng ngôn từ dùng để
dẫn giải, rào đón, mô tả đã được rút lại gần ở mức tối thiểu. Hãy đọc hai
câu thơ sau trong bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu:
Thu lạnh /càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước /lạnh/ trời ơi.
Nhờ tổ chức nhịp điệu có tính cách tân của chúng so với mô hình âm
luật ổn định của câu thơ 7 chữ cổ điển, độc giả cảm nhận được thấu đáo
hơn nỗi rợn ngợp và cảm giác rùng mình ớn lạnh của nhân vật trữ tình
trước không gian đầy trăng, đầy nhạc đang vây riết lấy một sinh linh bé
nhỏ, cô đơn. Trong câu sau, việc bố trí cho từ lạnh lọt thỏm giữa hai chỗ
ngắt đã gây một ấn tượng sâu đậm về cái lạnh đang thấm dần, thấm tận
vào xương tủy người thơ, khiến anh ta dường như không còn chịu nổi nữa.
Từ đó, hai tiếng trời ơi xuất hiện ở nhịp sau tự nhiên được nghe như một
tiếng kêu não nùng, lịm tắt nửa vời. Phải nói rằng giữa những yếu tố (hay
điều kiện) tạo nên tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, nhịp điệu đã đóng một
vai trò hết sức cơ bản.
1 Chuyển dẫn theo: Bùi Công Hùng, Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB KHXH, HN, 1983, tr. 154 –155.
73
Cũng từ ví dụ trên, ta nhận thấy khó bề khuôn ý nghĩa của nhịp điệu
vào một mô hình âm luật đơn giản, dù thực ra ban đầu những mô hình âm
luật ấy cũng được xây dựng nên từ việc chế định hoá một kiểu dạng nhịp
điệu nào đó. Các nhà Hình thức chủ nghĩa Nga từ những năm 20 của thế kỷ
đã rất chú ý đến vấn đề này mà việc đầu tiên của họ là phân định rạch ròi
hai khái niệm âm luật và nhịp điệu. V. Zhirmunski từng lý giải: "Trong thơ
ca không tồn tại cái nhịp điệu thuần tuý, cũng như trong hội họa không tồn
tại sự đối xứng thuần túy. Chỉ tồn tại nhịp điệu như là sự tác động lẫn nhau
giữa các thuộc tính tự nhiên ở chất liệu ngôn từ và quy luật bố cục về sự
luân phiên được thực hiện một cách không đầy đủ, do có sự kháng cự của
chất liệu"1. Triển khai tư tưởng này vào tâm lý học nghệ thuật, L.S.
Vygotski đã phát hiện ra một chức năng khác của nhịp điệu là chức năng
giải quyết catharsis trong thơ. Nói cụ thể hơn đó là chức năng khơi dậy
mâu thuẫn đối nghịch trong tâm lý cảm thụ để sửa soạn cho một sự "thanh
lọc" trọn vẹn, mà tâm lý cảm thụ nguyên là một phản ứng thẩm mỹ tự
nhiên trước sự "bất hòa" giữa thuộc tính ngữ âm vốn có của một chất liệu
ngôn từ cụ thể nhất định với khuôn âm luật trong tư cách một quy luật lý
tưởng điều khiển sự luân phiên các âm thanh mạnh và yếu trong một câu
thơ. Ông viết: "Nền tảng của nhịp điệu được hợp thành bởi cái cảm giác về
sự đấu tranh giữa âm luật của thể thơ với ngôn từ, về sự bất hòa, sự không
ăn khớp, sự mâu thuẫn giữa chúng với nhau"2.
Đến đây, thiết tưởng phải có một ghi chú. Những phân tích ở trên
không nhằm đi tới kết luận cực đoan cho rằng những mô hình âm luật khá
ổn định của các thể thơ vốn bao hàm trong đó cơ cấu nhịp điệu (hiểu theo
nghĩa hẹp) đã được tiêu chuẩn hoá là một cái gì chỉ mang tính hình thức và
ít có ý nghĩa. Sự thực, những mô hình âm luật đó vốn là sự kết tinh thành
quả lao động nghệ thuật của bao nhà thơ trong một thời gian dài. Khi đã có
một hình thức tương đối xác định, nó có tác dụng tạo nên một cái "chuẩn"
1 Chuyển dẫn theo: L. X. Vưgôtxki, Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam, Kiên Giang dịch, NXB KHXH, Trường viết văn Nguyễn Du, HN, 1995, tr. 409. 2 Tlđd, tr. 409.
74
tối thiểu về mặt hoà âm (không tách rời ý nghĩa) hay một cái nền nhịp điệu
chung để trên đó các nhà thơ tạo dựng nên nhịp điệu riêng cho thơ mình tùy
thuộc vào nội dung, tính chất và cường độ của những cảm xúc cụ thể trong
những hoàn cảnh cụ thể. Vấn đề muốn nói thực ra là cần có một quan niệm
cởi mở, sát thực tế về nhịp điệu và chưa thể bằng lòng với những tri thức
mà các sách mô tả về thể thơ mang tính chất tĩnh tại đưa đến.
Xin trở lại tìm hiểu điều kiện tồn tại của nhịp điệu trong thơ trữ tình.
Có thể nói một cách khái quát: nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua hệ
thống những điểm ngắt (césure), điểm ngừng (pause) được tổ chức một
cách chặt chẽ trong bài thơ hướng tới mục đích thẩm mỹ. Những điểm
ngắt, điểm ngừng đó đã phân chia chuỗi ngôn từ thơ ra thành từng nhóm
âm tiết và đặc biệt là thành câu, thành khổ, thành đoạn, tức là những đơn
vị chỉnh thể của văn bản thơ mà ở trên ta đã khảo sát. Nếu những điểm
ngắt, điểm ngừng được phân bố vào các vị trí cố định và xuất hiện đều đặn
theo chu kỳ thì ta có thể sẽ có những câu thơ, khổ thơ cách luật và hơn nữa
là có bài thơ cách luật. Nếu những điểm ngắt, điểm ngừng được phân bố
linh hoạt, phóng túng, không theo cái khung cố định nào thì rất có thể ta sẽ
có câu thơ tự do và bài thơ tự do (Chúng tôi dùng từ “có thể” nhằm lưu ý
rằng: riêng hệ thống điểm ngắt, điểm ngừng tự nó chưa làm nên diện mạo
riêng của một thể thơ và trong thơ cách luật, không phải bao giờ sự ngắt,
ngừng cũng nhất nhất tuân theo một mô hình cứng nhắc). Khi ta tiếp xúc
với một bài thơ bằng “kênh hình”, cái trước tiên đập vào mắt là sự xuất
hiện của các đơn vị như âm tiết, nhóm âm tiết, câu thơ, khổ thơ… Ta dễ
nghĩ rằng chính sự lặp lại có quy luật của các đơn vị giống nhau đó tạo nên
nhịp thơ và nó là cái có tính thứ nhất. Kỳ thực thì phải nói ngược lại, nếu ta
quan niệm nhịp điệu thực chất là một sự sáng tạo, một hành động tổ chức
thể hiện rõ bản chất chủ quan của thơ trữ tình. Tất nhiên, khi nói điều này,
ta không quên tác động tích cực trở lại của các đơn vị chỉnh thể như câu
thơ, khổ thơ đối với quá trình tạo nhịp.
75
Những điểm ngắt, điểm ngừng có thể liên quan hoặc không liên quan
tới sự tồn tại của vần mà liên quan tới những quy định khác trong mô hình
âm luật, nhưng phải nhận rằng những điểm ngắt, ngừng nhờ vần bao giờ
cũng có một vị trí nổi bật. Điều này đã được nhiều tài liệu nghiên cứu về
thơ chỉ ra. Nhờ vần, những điểm ngắt, ngừng trở nên sắc nét hơn (những
điểm ngắt, ngừng hoặc mang tính chất hiển nhiên theo một mô hình âm
luật ổn định, hoặc mang tính chất tạm thời tùy vào sự nhạy cảm của người
đọc khi diễn xuất bài thơ). Ta hãy dừng lại ở một ví dụ. Trong bài Mẹ Tơm,
Tố Hữu có viết: Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa/ Một buổi trưa nắng dài bãi
cát... Câu thứ hai có thể được ngắt nhịp sau âm tiết trưa - một âm tiết mang
vần (của khổ thơ). Nhờ vần ưa được gieo vào một vị trí đột ngột như thế,
khi ta đọc, sự ngắt nhịp tự nhiên được thực hiện và điều này có thể đem lại
cho ta ấn tượng rõ rệt về một sắc nắng vừa chói chang vừa dịu dàng (cái vẻ
dịu dàng được gợi lên do âm sắc trung hoà của vần ưa). Tiếp theo, nhờ
điểm ngắt này, từ dài nằm trong nhịp sau cũng bỗng nhiên mang đầy cảm
giác do nó được phát âm kéo dài ra để cân bằng lại thời gian ngừng hơi
phía trước. Và thế là theo liên tưởng tự nhiên, trước mắt độc giả bỗng hiện
lên một bãi cát đang trải dài, rất dài, lấp lánh theo chân sóng. Để kiểm tra
lại điều vừa phân tích, ta chỉ cần thay từ trưa bằng từ chiều tức là từ không
mang vần (Một buổi chiều/ nắng dài bãi cát), là tức khắc nhận ra mối
tương quan gắn bó giữa vần và nhịp.
Tiếp tục tìm hiểu mối tương quan này, ta có thể nhận ra thêm được
nhiều điều rất có ý nghĩa, chẳng hạn: "Do ở thơ tự do, số lượng âm tiết
trong từng dòng thường không cố định, đơn vị nhịp điệu có thể dài ngắn
khác nhau, người ta không thể ngừng nhịp theo mô hình sẵn có, khi ấy,
trong nhiều trường hợp, vần trở thành một tiêu chí rất quan trọng giúp
người ta ngừng nhịp đúng chỗ"1.
Nói cho thật sát thực tế, nhịp điệu trong thơ là cái không chỉ được
cảm nhận qua những điểm ngắt, ngừng mà còn qua những điểm nhấn do
1 Mai Ngọc Chừ, Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, NXB ĐH & GDCN,HN, 1991, tr. 30.
76
trọng âm của từ quy định (đối với thơ trọng âm như thơ Nga) hay do thanh
điệu, do âm sắc nổi bật của một âm tiết (hay nhóm âm tiết) trong mối tương
quan với những âm tiết (hay nhóm âm tiết khác) đòi hỏi. Có thể dễ dàng
tìm ví dụ minh họa cho điều này, chẳng hạn trong thơ Hàn Mặc Tử: Bóng
nguyệt leo song sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn (Thức khuya);
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi.../ Hổn hển như lời của nước mây.../
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý vị và thơ ngây... (Mùa xuân
chín). Những từ in đậm ở trên là những từ mà bất giác khi đọc độc giả phải
nhấn mạnh do chính đặc trưng âm thanh và ý nghĩa của chúng. Việc nhấn
mạnh này hiển nhiên tham gia vào việc tạo nên ấn tượng về một thứ nhịp
điệu phong phú của bài thơ. Dĩ nhiên, cái gọi là điểm nhấn không chỉ liên
quan tới một vài từ cá biệt trong câu thơ như từ láy, từ địa phương, từ diễn
tả các âm thanh, màu sắc và các động tác mạnh… mà còn gắn rất chặt với
hình thức điệp từ, điệp ngữ lan từ nội bộ câu thơ (dòng thơ) sang đoạn thơ
nữa.
Để khảo sát hình thức nhịp điệu của một bài thơ trữ tình trung đại, ta
có thể dựa vào nhiều đơn vị tổ chức văn bản như câu thơ, liên thơ, đoạn
thơ, nhưng thực tế cho thấy rằng giữa chúng, câu thơ vẫn là đơn vị cơ bản
nhất. Điều này có nguyên nhân ở chỗ: trong thơ trữ tình trung đại, mức độ
đồng nhất giữa câu thơ (tức là câu ngữ pháp - dĩ nhiên là ngữ pháp của thơ)
với dòng thơ rất cao (sự đồng nhất cao đến nỗi nhiều khi ta hầu như không
có nhu cầu dùng thuật ngữ dòng thơ nữa), do đó những yếu tố tạo nhịp điệu
cũng tập trung ở đây với mật độ khá dày. Xin chứng minh qua một câu
trong bài Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương: Lắt lẻo cành thông cơn gió
thốc... Câu thơ này đã được viết ra theo đúng mô hình âm luật của thơ luật
Đường và trong đó có mặt phần lớn những yếu tố tạo nhịp điệu. Nhịp điệu
đa dạng của câu thơ được cảm nhận qua hình thức ngắt 4/3 mang tính quy
phạm, qua việc tôn trọng đòn cân thanh điệu (âm tiết thứ 4 khác thanh với
âm tiết thứ 2 và thứ 6, có nghĩa là âm tiết thứ 2 và thứ 6 cùng thanh), qua
cú pháp đảo trang mạnh mẽ (bình thường người ta nói Cơn gió thốc cành
77
thông lắt lẻo), qua âm điệu nổi bật của từ láy lắt lẻo, qua chỗ nhấn ở phụ
âm đầu của hai âm tiết thông và thốc (do chúng điệp âm với nhau). Hơn
thế, các yếu tố tạo nhịp điệu ở đây không hoạt động riêng rẽ mà chúng hỗ
trợ cho nhau vì một nhịp điệu chung. Chẳng hạn nhờ cú pháp đảo trang mà
âm điệu vốn đã nổi bật của từ láy lắt lẻo càng thêm nổi bật. Đó là ta chưa
kể tới những âm vang tiềm tàng trong câu thơ mà chúng chỉ phát lộ ra trong
mối quan hệ với những câu thơ khác cùng liên hoặc khác liên.
Ví dụ vừa rồi có thể đưa đến hai kết luận chính không chỉ liên quan
tới việc nghiên cứu thơ trữ tình trung đại. Kết luận thứ nhất: khi đi vào tìm
hiểu bất cứ một "yếu tố thơ" nào trong bài thơ, ta cũng không tránh khỏi
việc động đến những yếu tố khác vốn cùng nằm trong một mạng lưới quan
hệ chằng chịt. Mạng lưới quan hệ ấy tạo nên cái mà người ta có thể gọi
bằng những tên khác nhau tùy thuộc vào góc độ nhìn nhận. Nếu quan tâm
chủ yếu tới tốc độ lưu chuyển của chuỗi ngôn từ do mạng lưới quan hệ ấy
tạo nên, có thể gọi chính nó là nhịp điệu. Nếu nghiêng về chú ý âm vực cao
thấp của các đơn vị phát âm trong chuỗi ngữ lưu, có thể gọi mạng lưới
quan hệ ấy là ngữ điệu. Còn nếu muốn nhấn mạnh vào khả năng dẫn dụ,
thôi miên tựa âm nhạc tiềm tàng trong mạng lưới quan hệ ấy, có thể gọi nó
là nhạc điệu. Dĩ nhiên, không nên đồng nhất ba khái niệm nhịp điệu, ngữ
điệu và nhạc điệu, nhưng phải thấy rằng chúng thực sự bao hàm lẫn nhau vì
đều hướng tới định danh cùng một khách thể.
Kết luận thứ hai: câu thơ là đơn vị nhịp điệu cơ sở của thơ trữ tình
trung đại và cũng là đơn vị khảo sát không thể bỏ qua khi ta nghiên cứu
nhịp điệu trong một bài thơ trữ tình hiện đại. Điều khẳng định này tiếp tục
đưa đến một hệ luận: có sự tồn tại của những loại hình nhịp điệu khác nhau
trong thơ của từng thời đại khác nhau, bởi ta đã từng nói tới sự tồn tại thực
tế của nhiều loại hình câu thơ.
Để tiếp tục triển khai luận điểm vừa nêu trên, xin được nói rõ hơn
một chút về nhịp điệu của thơ trữ tình hiện đại. Trong vô số bài thơ thuộc
loại hình thơ này, nhất là thơ tự do, đơn vị cấu tạo cơ sở không phải câu
78
(khái niệm câu trong văn cảnh này cần được hiểu là dòng), mà là đoạn
(đoạn thơ), vì vậy, sự khảo sát về nhịp điệu nhiều khi phải dựa trước hết
vào các đoạn đó. Điều này không có gì khó hiểu khi trong thơ trữ tình hiện
đại, sự không trùng khớp giữa câu thơ và dòng thơ đã trở thành một hiện
tượng phổ biến. Khái niệm câu thơ vốn quen thuộc trong thi pháp học
truyền thống lúc này trở nên khó dùng đại trà, mà nếu có được dùng thì
cũng dùng với nhiều rào đón để tránh hiểu nhầm. Tính trọn vẹn (tương đối)
về mặt ý nghĩa (và do đó, về mặt ngữ pháp) của dòng thơ không bị xem là
chuyện bắt buộc. Điều này đã làm thay đổi cách sáng tạo nhịp điệu của nhà
thơ, cho phép anh ta phân bố lại các yếu tố tạo nhịp trong một “không
gian” rộng thoáng hơn dòng thơ, là đoạn thơ. Xin trích một phần bài thơ
Nhớ máu của Trần Mai Ninh để nhìn nhận vấn đề rõ hơn:
Ơ cái gió Tuy Hoà…
Cái gió chuyên cần
Và phóng túng.
Gió đi ngang, đi dọc
Gió trẻ lại – lưng chừng
Gió nghĩ,
Gió cười,
Gió reo lên lồng lộn.
Tôi đã thấy lòng tôi dậy
Rồi đây
- Còn mấy bước tới Nha Trang
- A, gần lắm!
Ta gần máu,
Ta gần người,
Ta gần quyết liệt.
Ơ hỡi, Nha Trang!
Cái đô thành vĩ đại.
Biết bao người niệm đọc tên mi,
79
Và Khánh Hoà vĩ đại!
Mắt ta căng lên
Cả mặt
Cả người,
Cả hồn ta sát tới
Nhìn mi!
Ta có nhớ
Những con người
Đã bước vào bất tử!
Ơ, những người!
Đen như mực, đặc thành keo
Tròn một củ
Hay những người gầy sắt lại
Mặt rẹt một đường gươm
Lạnh gáy…
Trong đoạn thơ này, phần lớn các dòng được tạo nên chỉ bằng một
bước thơ (bước thơ, theo Võ Bình1, là một bộ phận nhịp điệu của dòng thơ,
làm thành bởi một nhóm gồm vài ba âm tiết, được đánh dấu giới hạn bằng
các điểm ngắt), do vậy, nếu không mở rộng sự quan sát ra ngoài phạm
vi
dòng, ta sẽ không thực sự hiểu được tổ chức nhịp điệu của tác phẩm – một
kiểu tổ chức dòng âm thanh phản ánh sự vận động của thế giới tâm hồn.
Chúng tôi đã trình bày đặc điểm kết cấu văn bản ngôn từ của thơ trữ
tình - một vấn đề tuy không còn mới nhưng nhìn chung vẫn ít được nghiên
cứu dưới cái nhìn tổng thể. Do yêu cầu đã đặt ra cho cuốn sách, chúng tôi
đành phải bỏ qua việc mô tả các thể thơ với những mô hình âm luật của
chúng, bỏ qua việc phân tích những dạng kết cấu thường gặp như vòng
tròn, lượn trôn ốc, xâu chuỗi, lặp - điệp khúc.... và càng chưa thể nói gì về
lối thơ thị giác khá đặc biệt mà một số người (như Guillaume Apolillnaire
với tập Calligrammes – Thơ hình chữ xếp) đã say sưa thể nghiệm. 1 Võ Bình, Bước thơ, Tạp chí Ngôn ngữ (số phụ) 2/1984, tr.12.
80
Nhìn chung, trong Chương 1, nhiệm vụ trung tâm của chúng tôi là
xác định cho được một khái niệm kết cấu thơ trữ tình có khả năng vận
dụng. Kết cấu thơ trữ tình không phải là một cái gì mang tính chất thuần
túy kỹ xảo. Sự thực, nó gắn liền với hành động tự bộc lộ của chủ thể, gắn
liền với bản chất sáng tạo của thơ mà biểu hiện cao nhất là sáng tạo ra một
cái nhìn mới về cuộc đời. Chúng tôi đã đi vào phân tích kỹ hai cấp độ của
kết cấu thơ trữ tình là kết cấu hình tượng và kết cấu văn bản ngôn từ để
khẳng định phương hướng nghiên cứu luôn tôn trọng mối quan hệ tự nhiên,
tất yếu giữa hai cấp độ này - một phương hướng nghiên cứu mà theo chúng
tôi có khả năng tiếp cận đúng bản chất thơ trữ tình như là "vương quốc của
cái chủ quan". Bên cạnh đó, nội dung các khái niệm tứ thơ, bài thơ, nhịp
điệu... cũng đã được làm rõ, tạo cơ sở thuận lợi cho những nghiên cứu chi
tiết về các loại hình kết cấu thơ trữ tình ở phần sau.
81
Chương 2
Loại hình kết cấu thơ trữ tình
2.1. Khái niệm loại hình kết cấu thơ trữ tình
2.1.1. Phương pháp loại hình và việc phân chia loại hình văn học
Hiện nay, trong khoa học văn học, danh sách các phương pháp
nghiên cứu mà người ta đã biết tới và sử dụng là một danh sách khá dài. Có
thể thấy ở đây tên gọi của những phương pháp như thực chứng, so sánh,
cấu trúc, ký hiệu học, hệ thống, xã hội học, tâm lý học, loại hình... Những
phương pháp này có giá trị bình đẳng với nhau trong hệ phương pháp của
một lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt nào đó và tính hiệu quả của chúng bị
quy định bởi cách vận dụng, tức là cách xử lý mối quan hệ giữa yêu cầu
của đối tượng và mục tiêu của công trình nghiên cứu. Trong số những
phương pháp này, phương pháp loại hình có một ý nghĩa quan trọng khi
người ta đối diện với vấn đề tương quan giữa cái chung và cái cá biệt, giữa
cái chung và cái riêng xuất hiện khi nghiên cứu quá trình văn học. Trong
Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, M.B. Khrapchenko
đã xác định mục đích của phương pháp loại hình là "nó tìm hiểu những
nguyên tắc và những cơ sở cho phép nói tới tính cộng đồng nhất định về
văn học - thẩm mỹ, tới việc một hiện tượng nhất định thuộc về một kiểu,
một loại hình nhất định"1. Nhìn chung phương pháp loại hình đã phát huy
hiệu quả tích cực trong việc phân loại văn học nghệ thuật - một công việc
hướng về nhiều đối tượng nghiên cứu đa dạng: khuynh hướng văn học, thể
loại, phong cách, đặc điểm phát triển của các nền văn học khác nhau thuộc
những thời đại lịch sử khác nhau và ở những dân tộc khác nhau... Chính
phương pháp loại
1M.B. Khrapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, HN, 1978, tr. 338.
82
hình khi được vận dụng vào thực tế đã đẻ ra một khái niệm công cụ quan
trọng là loại hình - một khái niệm được dùng để chỉ một loạt hiện tượng
cùng có chung một số đặc điểm nhất định.
Để có thể nghiên cứu sâu sắc lịch sử phát triển của thơ ca cũng như
phát hiện và định giá được một cách chuẩn xác những đặc trưng nghệ thuật
của thơ ca từng thời đại hay thơ ca thuộc các bộ phận sáng tác khác nhau,
từ lâu, phương pháp loại hình đã được vận dụng. Tuy nhiên, phụ thuộc vào
những tiêu chuẩn phân loại khác nhau mà sự nghiên cứu loại hình đối với
thơ cũng đạt được những kết quả khác nhau. Hơn nữa, chưa bao giờ việc
nghiên cứu các loại hình thơ lại tách rời việc nghiên cứu các loại hình sáng
tác nói chung.
G. Hegel trong cuốn Mỹ học của mình là người đầu tiên đã chia lịch
sử phát triển của nghệ thuật thành các loại hình: nghệ thuật tượng trưng,
nghệ thuật cổ điển và nghệ thuật lãng mạn. Sự xuất hiện kế tiếp của các
loại hình nghệ thuật này ứng với sự đối tượng hoá Tinh thần tuyệt đối ở
những mức độ và trong các hình thức khác nhau: kiến trúc, điêu khắc, âm
nhạc, hội họa, thơ ca. Được gợi ý bởi cách phân loại nói trên, V.
Zhirmunski cũng đã chia thơ ca ra hai loại: thơ ca cổ điển và thơ ca lãng
mạn, tất nhiên với sự xác định các khái niệm cổ điển, lãng mạn không hoàn
toàn giống của G. Hegel, cùng với sự đánh dấu khác về cái mốc phát triển
của các loại hình thơ ca đó. Từ chỗ nhận thấy tính đặc thù của văn học thời
Trung cổ, nhiều nhà nghiên cứu khác, đã theo một logic tự nhiên, tìm cách
khu biệt nó với các thời kỳ văn học phát triển trước và sau nó. Và thế là
trong tư duy nghiên cứu của họ, cái ý thức về sự phân chia loại hình lịch sử
đối với văn học cũng xuất hiện. Lúc này lịch sử văn học được hình dung
qua sự tồn tại nối theo nhau của các loại hình: văn học cổ đại, văn học
trung đại (trung cổ), văn học cận đại và văn học hiện đại. Riêng văn học
dân gian thì người ta đã mặc nhiên xem là một thực tế nghệ thuật biệt lập
"hoàn toàn nằm ngoài hệ thống văn học trung cổ" (B.L. Riftin). Theo quan
điểm phổ biến ở ta (và cả ở Trung Quốc), văn học dân gian là sản phẩm
83
của một kiểu tư duy nghệ thuật thời tiền chữ viết nhưng nó phát triển mãi
tới sau này thành một "dòng" riêng bên cạnh những sáng tác thường được
gọi là văn học viết. Còn ở phương Tây, người ta thường đem đối lập khái
niệm văn học dân gian với khái niệm văn học cao cấp và cho rằng loại
hình sáng tác "vốn nhằm phục vụ cho quảng đại độc giả lớp dưới" này ra
đời vào những năm đầu Công nguyên1.
Cũng trong phạm vi của một sự nghiên cứu loại hình đối với văn
học, khi vận dụng tiêu chí về mối quan hệ giữa văn học với hiện thực,
L.I. Timofeev đã chia thực tiễn văn học ra hai kiểu sáng tác: kiểu sáng tác
hiện thực và kiểu sáng tác lãng mạn. Theo ông, hai kiểu sáng tác cơ bản
này vượt ra ngoài những quy định của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, của lập
trường quan điểm nhà văn và của nội dung tư tưởng tác phẩm. Hai kiểu này
gắn liền với những tính chất, những đặc điểm cơ bản của quá trình văn học
và tìm thấy biểu hiện cụ thể lịch sử của mình trong các phương pháp nghệ
thuật khác nhau nhất. Do không phụ thuộc vào lập trường tư tưởng, trình
độ nhận thức hay tầm vóc của tài năng mà chỉ biểu hiện thiên hướng, cách
thức tiếp cận cuộc sống và phương thức xây dựng hình tượng (khách quan,
thiên về tái tạo hay chủ quan, thiên về biểu hiện) nên kiểu sáng tác không
phải là dấu hiệu của giá trị. Các kiểu sáng tác không loại trừ nhau mà mỗi
kiểu có lý do tồn tại và có sức hấp dẫn riêng. Thậm chí, trong những sáng
tác cụ thể, hai kiểu này có sự giao thoa, kết hợp với nhau. Việc phân chia
loại hình sáng tác ra hai kiểu như trên của L.I. Timofeev chính là sự kế
thừa quan niệm của F. Schiller về hai loại thơ ca: thơ ca hồn nhiên và thơ
ca tình cảm - một quan niệm đã được V.G. Belinski tiếp thu và khẳng
định. Nó có căn
cứ lý luận và thực tiễn, rất cần thiết cho sáng tác và nghiên cứu văn học.
Tuy nhiên, theo M.B. Khrapchenko, cách phân chia loại hình này còn mang
tính chất "hẹp hòi", không bao quát hết được thực tế văn học phong phú, đó
là chưa kể quá trình văn học được hình dung qua hai kiểu sáng tác này xem 1 Xem thêm: B.L. Riptin, Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ của phương Đông theo phương pháp loại hình, TCVH 2/1974, 107 – 123.
84
ra giống như một "cái vòng luẩn quẩn". Từ nhận định này, Khrapchenko đã
nêu một vấn đề có ý nghĩa định hướng cho việc vận dụng phương pháp loại
hình: "Không nhất thiết chỉ xem kiểu (type) sáng tác như là một hiện tượng
được lặp lại nhiều lần trong lịch sử văn học và nghệ thuật. Những nét giống
nhau trong việc chiếm lĩnh thẩm mỹ thế giới, trong việc khái quát hiện thực
thường nảy sinh trong một thời đại nhất định nói lên con đường đặc biệt
của sự sáng tạo"1.
Qua ý kiến trên của M.B. Khrapchenko, ta thấy toát lên một tư
tưởng: nghiên cứu loại hình có triển vọng hơn cả là nghiên cứu loại hình
lịch sử, tức là hướng nghiên cứu quan tâm tìm hiểu sự phát triển nối tiếp
nhau của các kiểu văn học trong lịch sử. Theo hướng nghiên cứu này,
chẳng những ta có thể có được cái nhìn xuyên suốt về lịch sử phát triển của
văn học mà còn có cơ hội đi sâu khám phá vẻ đẹp riêng của từng loại hình
cùng những cái chuẩn thẩm mỹ mang tính thời đại mà chúng vừa phụ thuộc
vào lại vừa góp phần xây dựng nên. Cũng cần nói thêm là cái tư tưởng "toát
lên" đó vốn đã được quán triệt từ lâu trong các công trình nghiên cứu của
những nhân vật nổi tiếng như M.M. Bakhtin, B.L. Riftin, Ju. Lotman v.v...
ở đây, tác giả Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học chỉ là
người khái quát lại về mặt lý luận.
Tiếp nhận tư tưởng nghiên cứu loại hình lịch sử nói trên (vốn rất phổ
biến trong giới nghiên cứu văn học Xô viết), ở ta, trong những năm gần
đây, các nhà lý luận cũng đã bắt đầu nói nhiều đến khái niệm kiểu sáng tác.
Trong sách giáo khoa Văn 12 - Phần văn học nước ngoài và lý luận văn
học2, Trần Đình Sử đã đề cập các kiểu văn học như thần thoại, truyền
thống và hiện đại. Đây là cách phân chia loại hình ở cấp độ khái quát nhất.
Nó đã quán triệt được quan điểm lịch sử về sự phát triển của văn học.
Tham khảo nó, Nguyễn Văn Hạnh đã nêu một phương án phân loại và gọi
tên khác: "Nhìn sự phát triển của văn học một cách tổng quát, theo ý chúng
1 M.B. Khrapchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, HN, 1978, tr. 405. 2 NXB GD, 1992, tr. 144.
85
tôi, có căn cứ để phân biệt ba "kiểu loại" văn học bao trùm: văn học dân
gian, văn học cổ điển và văn học hiện đại. Đằng sau những "kiểu loại" văn
học này là những cái mốc lớn, những thời đại lớn trong sự phát triển của
văn học. Đây là những "kiểu loại" văn học có quan điểm riêng về lý luận
văn học, có thi pháp riêng, có cách khai thác riêng về thể loại, ngôn ngữ,
thủ pháp nghệ thuật. Các "kiểu loại" này kế tục nhau, nghĩa là kế thừa
nhau, tiếp tục nhau trong lịch sử văn học. Nhưng phát triển ở đây, theo quy
luật đặc thù của văn học là tương ứng với cuộc sống, tương ứng với thời
đại, nên vừa có sự khác biệt về trình độ, tiến từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, lại vừa có tính chất không lặp lại, có vẻ đẹp riêng, chất thơ
riêng"1. Thoạt nhìn, tên gọi của các loại hình văn học mà Nguyễn Văn
Hạnh đề nghị có vẻ quen thuộc hơn và dễ vận dụng hơn trong công việc
nghiên cứu. Nhưng vấn đề không chỉ khuôn vào mỗi việc gọi tên mà chủ
yếu nằm ở chỗ người nghiên cứu phải làm sao thấm nhuần được ý thức lịch
sử. Rõ ràng là không ổn khi ta hình dung rằng khi “kiểu loại” văn học dân
gian chấm dứt sự tồn tại của mình thì “kiểu loại” văn học cổ điển mới ra
đời để tiếp nối. Sự thực, như chúng tôi đã nói, trong thời trung đại, văn học
dân gian và văn học bác học (mà ngày nay có thể được gọi là văn học cổ
điển) vẫn tồn tại và phát triển song song đó thôi. Thậm chí, cho đến tận bây
giờ, ca dao – một bộ phận của văn học dân gian – vẫn còn chưa đi đến tận
cùng con đường phát triển của nó. Một vấn đề mới đặt ra: phải chăng với
bộ phận văn học dân gian ra đời và phát triển ở thời trung đại, ta không nên
đưa chúng vào hệ thống phân loại theo những tiêu chí mà phương pháp loại
hình lịch sử đòi hỏi? Nếu chấp nhận nó, một công trình lý luận theo quan
điểm của thi pháp học lịch sử không còn mang tính “thuần khiết” nữa.
2.1.2. Các loại hình thơ trữ tình và những bình diện nghiên cứu về
chúng
Việc phân chia loại hình lịch sử thơ trữ tình không tách rời việc phân
chia loại hình lịch sử đối với văn học nói chung. Đã nói đến văn học trung 1 Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo dục, 1995, tr. 67.
86
đại và văn học hiện đại thì dĩ nhiên cũng có thể nói tới thơ trữ tình trung đại
và thơ trữ tình hiện đại (trong cuốn sách này chúng tôi không dùng thuật
ngữ thơ trữ tình trung đại mà dùng thuật ngữ thơ trữ tình cổ điển thuận theo
thói quen đã được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận; dù sao, đây cũng chỉ là
cách gọi tên có tính quy ước). Từ cổ điển (hay trung đại/ truyền thống) đến
hiện đại, thơ trữ tình đã có một lịch sử phát triển lâu dài, liên tục theo quy
luật đặc thù của nghệ thuật. Trong quá trình phát triển nối tiếp nhau của
mình, hai loại hình thơ này luôn duy trì mối liên hệ sống động với loại hình
thơ dân gian – một loại hình thơ có con đường vận động riêng xuyên qua cả
thời trung đại lẫn thời hiện đại. Đây là một lý do khiến trong cuốn sách của
mình chúng tôi thấy khó mà bỏ qua được việc trình bày về thơ trữ tình dân
gian, mặc dù đã thấy trước những khó khăn sẽ nảy sinh khi phải xử lý vấn
đề theo logic lịch sử. Lý do thứ hai: dẫu sao cũng cần có sự so sánh đồng
đại để nhận ra được nét đặc trưng của từng loại hình. Có lẽ việc kết hợp
một cách có điều kiện cái nhìn đồng đại với cái nhìn lịch sử trong trường
hợp này là điều có thể chấp nhận.
Thơ trữ tình dân gian là thứ thơ trữ tình do nhân dân lao động sáng
tác trong trường kỳ lịch sử. Trong môi trường tồn tại đích thực và sống
động của mình, nó bao gồm vừa thành phần nghệ thuật ngôn từ vừa các
thành phần nghệ thuật khác mang tính chất biểu diễn như nhạc, vũ... Khi lọt
vào trong các sách sưu tầm, ghi chép, thường chỉ có thành phần nghệ thuật
ngôn từ của nó là được lưu giữ lại. Mặc dầu vậy, phần được lưu giữ này
vẫn có những mối liên hệ ngầm với những thành phần khác không phải văn
học đã bị tước bỏ bớt đi trong khi ghi chép và cấu trúc riêng của nó vẫn
mang đậm dấu ấn của một cấu trúc tổng thể lớn hơn. Là một bộ phận của
văn học dân gian, thơ trữ tình dân gian cũng mang đầy đủ những đặc điểm
hay thuộc tính quan trọng của văn học dân gian như tính truyền miệng, tính
nguyên hợp, tính tập thể, tính vô danh, tính dị bản, tính truyền thống, tính
địa phương, tính quốc tế..., trong đó tính truyền miệng thường được coi là
thuộc tính đặc trưng cơ bản nhất.
87
Thơ trữ tình nói chung vốn có đặc điểm ngắn gọn. Đặc điểm này nổi
bật hơn nữa đối với thơ trữ tình dân gian. Một tác phẩm thơ trữ tình dân
gian rất nhiều khi chỉ có vẻn vẹn một câu lục bát gồm hai dòng. Do đặc
điểm này mà nhiều khi người ta dùng thuật ngữ câu để chỉ một đơn vị tác
phẩm hoàn chỉnh. Chẳng hạn hai dòng thơ sau đây xét về mặt nội dung ý
nghĩa và tư cách tồn tại là một tác phẩm hoàn chỉnh, là một bài theo nghĩa
ta vẫn gọi đối với những tác phẩm thơ trữ tình của văn học viết, nhưng do
quá ngắn, nó vẫn thường được gọi là câu, câu ca dao:
Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Chính để khắc phục hiện tượng gọi tên thiếu thống nhất này đối với
ca dao người Việt, có người đã đề xuất thuật ngữ lời với sự xác định đó là
"một cơ cấu nghệ thuật hoàn chỉnh, có mặt nội dung và mặt hình thức văn
học". "Nội dung của lời diễn đạt một tình cảm, thông báo một vấn đề, một
điều cụ thể. Hình thức của lời bao gồm ngôn ngữ, nhịp điệu, thể thơ ..."
[80, 59]. Theo đó, cái mà ta gọi là câu trên kia chính là một lời, nó tồn tại
bình đẳng với những lời khác có dung lượng lớn hơn, chẳng hạn lời gồm
tám cặp lục bát (mười sáu dòng thơ) vốn rất quen thuộc có mở đầu là
Hôm qua tát nước đầu đình ... (lời này vẫn thường được gọi là bài).
Về nội dung, thơ trữ tình dân gian là tấm gương trung thực phản ánh
tâm tình, ước vọng, cái nhìn của nhân dân lao động trước mọi vấn đề của đời
sống. Tâm hồn giản dị, cởi mở, thuần phác của người bình dân cùng môi
trường sống quen thuộc của họ đã được bộc lộ một cách vừa ý nhị, vừa trực
tiếp qua các lời ca dao. Nhưng thông thường, do dung lượng quá nhỏ (ngắn)
nên nội dung cảm xúc chứa đựng trong từng lời ca dao thường không phong
phú, ít có sự vận động, phát triển qua nhiều cung bậc, giai đoạn.
Đặc biệt nhất đối với thơ trữ tình dân gian là vấn đề hoàn cảnh sáng
tác và vấn đề tác giả của nó. Những phân tích của D.S. Likhachev trong Thi
88
pháp của nền văn học Nga cổ1 cho phép ta hiểu rằng giữa hoàn cảnh sáng
tác với hoàn cảnh diễn xướng một bài thơ trữ tình dân gian có sự đồng
nhất. Chính vì vậy, thời gian nghệ thuật của thơ trữ tình dân gian luôn là
thời gian hiện tại – diễn xướng. Tác giả với tư cách là một cá thể, một cái
tôi trữ tình (như trong thơ trữ tình bác học) hoàn toàn vắng mặt trong thơ
trữ tình dân gian. Người sáng tác – diễn xướng đầu tiên (có thể tạm gọi như
thế) không hề có ý thức về "tác quyền" đối với tác phẩm đã được mình tạo
ra một cách ngẫu hứng theo những mô thức có sẵn và những người nhớ,
vận dụng, diễn xướng nó lần sau cũng vậy. Người diễn xướng lần sau
chiếm vị trí của tác giả - người diễn xướng đầu tiên một cách rất tự nhiên
và không ai, không một dữ kiện nào trong tác phẩm gây trở ngại cho anh ta
(nếu có, nó đã được anh ta uốn nắn cho phù hợp với hoàn cảnh diễn xướng
cụ thể của mình). Cứ như thế, qua mỗi lần diễn xướng (cũng là qua sự lưu
truyền), lời ca ban đầu có thêm nhiều dị bản. Cuối cùng, nó trở thành một
sáng tác vô danh, của tập thể và mang tính tập thể.
Nói về thi pháp của thơ trữ tình dân gian, cụ thể là của ca dao, Hoàng
Trinh lưu ý bốn điểm chính sau (chúng tôi lược thuật):
- Có tính mô thức, tính biến thể và tính liên văn bản.
- Về mặt hệ thống tạo nghĩa, các từ, cụm từ, ngữ đoạn đều là những
hình thể từ ngữ kiêm những phép chuyển nghĩa đạt được tính thơ cao.
- Tư duy so sánh rất phổ biến dẫn đến những hình thể so sánh rất
tương hợp. Điều này biểu hiện một trạng thái tinh thần thăng bằng và thói
quen quy chiếu thường xuyên trong tư duy thẩm mỹ của ca dao.
- Có hứng thú với lối chơi chữ biểu hiện một khả năng liên tưởng về
ý, về từ rất thông minh, nhanh trí2.
Dĩ nhiên bốn điểm nói trên chưa phản ánh hết được đặc trưng thi
pháp của ca dao trữ tình, của thơ trữ tình dân gian, nhưng chí ít, chúng đã
1 D.S. Likhachev, Thi pháp của nền văn học Nga cổ, tập II, Phan Ngọc dịch, Tài liệu đánh máy của khoa Ngữ văn Trường ĐHTH, HN, 1970, tr. 43 – 49. 2 Hoàng Trinh, Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB KHXH, HN, 1992, tr. 161 – 171.
89
giúp ta bước đầu nhận diện được sự khác biệt về loại hình giữa thơ trữ tình
dân gian với các loại hình thơ trữ tình khác.
Thơ trữ tình cổ điển là một trong những bộ phận quan trọng nhất của
văn học cổ điển. Xét về mốc hình thành, loại hình thơ này xuất hiện sau
loại hình thơ trữ tình dân gian nhưng cả hai lại có sự phát triển song song,
ảnh hưởng lẫn nhau một cách tốt đẹp trong thời trung đại. ở châu Âu, sự
tồn tại của loại hình thơ cổ điển nói riêng và văn học cổ điển nói chung về
cơ bản chấm dứt vào đầu thế kỷ XVIII. ở Trung Quốc và ở Việt Nam, sự
tồn tại đó kéo dài đến tận cuối thế kỷ XIX. Tuy mốc kết thúc khác nhau
nhưng văn học cổ điển (bao hàm trong đó thơ trữ tình cổ điển) cả phương
Tây lẫn phương Đông đều giống nhau ở chỗ vẫn chưa tách riêng thành một
lĩnh vực hoạt động chuyên ngành, độc lập, mà tồn tại trong thế phụ thuộc
vào các lĩnh vực khác như chính trị, triết học, tôn giáo..., nghĩa là tồn tại
trong dạng
“văn sử triết bất phân". Nói khác đi, sự vận động của văn học cổ điển gắn
liền với những nỗ lực nhằm tách mình khỏi hình thức tư duy nguyên hợp cổ
đại vốn là ngôi đền trí tuệ chung của nhân loại để xây dựng cho mình một
lãnh địa riêng biệt. Xét riêng về mặt thuật ngữ thì nguyên việc theo dõi sự
phát triển nội hàm chữ thi của lý luận văn học cổ điển Trung Quốc ta cũng
đủ thấy điều đó. I.S. Lishevich từng lưu ý: "Mặc dù chúng ta dịch chữ thi là
thơ ca, nhưng nó vốn là một thuật ngữ nguyên hợp. Dịch nó theo lối đơn
nghĩa sẽ thu hẹp ý nghĩa của nó..."1. Nhà Trung Quốc học người Mỹ Chu
Trạch Tôn khẳng định từ thi đã có từ đời nhà Ân (thế kỷ XV trước Công
nguyên) và khái niệm thi gắn liền với nghi thức tế các thần linh và trời có
kèm theo những động tác, âm nhạc và điệu múa nhất định.Vào thế kỷ thứ
nhất trước Công nguyên "phổ biến lối cắt nghĩa thơ (thi) xuyên qua chí,
nhìn thấy trong thơ một rung động tinh thần nảy sinh trong tim nhà thơ và
sau đó được thể hiện ra lời"2. Sau đó nữa, suốt hai nghìn năm trở lại đây,
1 I.S. Lisevich, Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trần Đình Sử dịch, Trường ĐHSP TPHCM xuất bản, 1993, tr. 211. 2 Tlđd, tr. 213.
90
thuật ngữ thi tiếp tục được giải thích khác nhau theo sự phát triển của bản
thân hiện tượng được xác định bằng thuật ngữ đó.
Theo Ju.Lotman, nguyên lý sáng tác của văn học trung đại (văn học
cổ điển) là nguyên lý dựa trên sự đồng nhất hoàn toàn các hiện tượng của
cuộc sống được miêu tả với các mô hình, điển cố đã biết vì được đưa vào
hệ thống quy phạm. Bản chất nhận thức luận của mỹ học đồng nhất này là
các hiện tượng cuộc sống được nhận thức bằng cách sánh với các mô hình
logic đã có trước. Mặt khác bên cạnh các quy tắc được quy định chặt chẽ
có tính chất ràng buộc, văn học trung đại cho phép sự tuỳ hứng, biến dạng
(theo lược thuật của Trần Đình Sử) 1. Một số nhà nghiên cứu ở ta khi tìm
hiểu về đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam cũng đã rất chú ý đến
vấn đề này.
Lê Trí Viễn đã nêu ba đặc trưng: 1) Cao nhã; 2) Vô ngã và hữu ngã; 3) Quy
phạm và bất quy phạm2. Nguyễn Đăng Mạnh thì cho ước lệ của văn học
trung đại phân biệt với ước lệ của văn học hiện đại ở ba tính chất:1) Tính
uyên bác và cách điệu hoá; 2) Tính sùng cổ; 3) Tính chất phi ngã
(impersonnel) hay phi cá nhân cá thể3. Triển khai phân tích những đặc
trưng hay tính chất trên, chúng ta sẽ có được một ý niệm khá trọn vẹn về
văn học cổ điển.
Nghiên cứu riêng về thơ trữ tình cổ điển, tiếp thu gợi ý của
V. Zhirmunski trong Bàn về thơ ca cổ điển và thơ lãng mạn..., Trần Đình
Sử đã nêu hai đặc điểm loại hình của thơ trữ tình cổ điển phương Đông như
sau: "1) Miêu tả một thế giới tinh thần lý tưởng, thống nhất hài hoà khách
quan và chủ quan. Thơ ca cổ điển không nghiêng về biểu hiện cảm xúc chủ
quan như thơ ca lãng mạn. Các nhà thơ cổ điển chưa có ý thức đối lập tách
bạch chủ thể và khách thể để chỉ nhìn từ một trong hai phía. 2) Xây dựng
những quy tắc tổ chức tác phẩm trên cơ sở đặc tính chất liệu với mô hình
1 Để dạy tốt Văn 12 CCGD – Phần văn học nước ngoài và lý luận văn học, Trường ĐHSP HN I xuất bản, 1992, tr. 167. 2 Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB KHXH, HN, 1996. 3 Nguyễn Đăng Mạnh, Quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, TCVH 5/1997, 16 – 24.
91
tác phẩm thơ lấy sự hài hoà, cân đối, chặt chẽ làm nền tảng"1. Dĩ nhiên, để
thực sự hiểu sâu về loại hình thơ trữ tình cổ điển, chúng ta còn phải tiếp tục
nghiên cứu hàng loạt vấn đề cụ thể khác, chẳng hạn vấn đề con đường nảy
sinh, hình thành xúc cảm, sự lựa chọn đối tượng và hình thức mô tả, khuôn
mặt của chủ thể, cái nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật ...
Nhưng ở đây, theo định hướng của chuyên luận, chúng tôi xin không đi sâu
thêm.
So với các khái niệm loại hình thơ trữ tình dân gian và loại hình thơ
trữ tình cổ điển, khái niệm loại hình thơ trữ tình hiện đại (khác khái niệm
thơ hiện đại chủ nghĩa) có phần thiếu tính xác định hơn. Điều này thực ra
khá dễ hiểu bởi thơ trữ tình hiện đại nói riêng và văn học hiện đại nói
chung không có được sự thuần nhất như các loại hình thơ, loại hình văn
học khác. ở phương Tây, từ thế kỷ XVIII, văn học bắt đầu tồn tại trong
hình thức hiện đại, trong bối cảnh mà K.Marx đã nhận định là "Tính chất
chật hẹp và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ
những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy
nở ra một nền văn học toàn thế giới" (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản -
1848). Nói gần gũi hơn, văn học hiện đại hình thành trong mối quan hệ
tương tác hết sức phức tạp giữa các trào lưu khuynh hướng và phong cách
nghệ thuật khác nhau. Từ thực tế này, khái quát về thi pháp của văn học
hiện đại là một việc làm cực kỳ khó khăn. Bởi vậy có nhà nghiên cứu cho
rằng đối với văn học hiện đại, chỉ có cách đi vào tìm hiểu thi pháp riêng
của từng khuynh hướng, từng nhà văn mà thôi. Nguyễn Đăng Mạnh đã phát
biểu về vấn đề này đúng trên tinh thần ấy: "Như vậy thì liệu có thể có được
một ý niệm tổng quát nhất, chung nhất về thi pháp văn học hiện đại không?
Tôi cho rằng chỉ có thể phát biểu thế này: đó là sự thoát khỏi hệ thống thi
pháp văn học trung đại"2. Chúng tôi nghĩ một đề xuất về hướng nghiên cứu
như trên là rất thiết thực. Vận dụng đề xuất này vào tìm hiểu loại hình thơ
1 Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, HN, 1995, tr. 12. 2 Nguyễn Đăng Mạnh, Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, TCVH 5/1997, 16 – 24.
92
trữ tình hiện đại, nhất thiết phải tiến hành sự đối chiếu thường xuyên giữa
nó với loại hình thơ cổ điển vốn có một hệ thống thi pháp tương đối thống
nhất, thuần nhất. Hơn nữa, chỉ có thể nhận diện được về loại hình thơ trữ
tình hiện đại qua khuôn mặt của các loại hình thơ cụ thể phát triển trong
giai đoạn hiện đại của lịch sử xã hội, như loại hình thơ lãng mạn, loại hình
thơ tượng trưng, loại hình thơ cách mạng. Đây cũng chính là cách mà tác
giả Những thế giới nghệ thuật thơ đã làm và là cách mà chúng tôi sẽ tiếp
thu khi đi sâu tìm hiểu loại hình kết cấu của Thơ mới 1932 - 1945 để từ đó
khẳng định thêm về ý nghĩa cách mạng của phong trào này đối với nền thi
ca dân tộc.
Tuy vậy, thiết tưởng vẫn cần phải nêu lên cơ sở lịch sử xã hội và
nhận thức tư tưởng - thẩm mỹ của hệ thống thi pháp văn học hiện đại. Thơ
hiện đại nói riêng và văn học hiện đại nói chung hình thành và phát triển
trong thời đại tư bản chủ nghĩa, thời đại mà tính chất khép kín của từng dân
tộc bị phá vỡ nhường chỗ cho sự giao lưu quốc tế, sự cọ xát thường xuyên
giữa các nền văn minh, thời đại của nền kinh tế hàng hoá, của những cuộc
xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, của những cuộc cách mạng thế
giới. ý thức cá nhân được thức tỉnh, người ta đã có được một cái nhìn tỉnh
táo về cuộc sống, thoát khỏi sự ràng buộc của tư duy thần bí siêu hình khi
xưa. Lúc này, hoạt động văn học đã trở thành một hoạt động nghề nghiệp.
Công chúng văn học được mở rộng và thị hiếu của nó tác động mạnh mẽ
vào sáng tác. Lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn lúc này không phải đặt vào sự
thống hợp của thế giới mà đặt vào cá nhân, vào sự phát triển tự do của cá
tính, vào cái thường nhật, cái hiện tại... Tất cả những điều trên đã có tác
dụng giải phóng thơ trữ tình hiện đại (cũng như văn học hiện đại nói
chung) thoát khỏi những khuôn thức sáng tạo cứng nhắc, thoát khỏi sự phụ
thuộc định mệnh vào chính trị, triết học, tôn giáo (nhằm xác lập mối quan
hệ mới đối với chúng chứ không phải để cắt đứt những liên hệ - mà cắt đứt
cũng không thể được). Hệ thống thi pháp của thơ trữ tình hiện đại là một hệ
thống mở, thu nạp rất nhiều tiếng nói, nhiều tìm tòi của nhiều cá tính sáng
93
tạo khác nhau. Thậm chí trong lòng hệ thống này chứa đựng không ít yếu
tố đối lập, tranh đấu, phản bác nhau thể hiện những cuộc bứt phá liên tiếp,
không ngừng, vô tận, tương ứng với tính chất của thời đại là luôn xáo động,
đổi mới và phát triển.
Loại hình thơ là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp. Người ta có thể
nghiên cứu nó trên nhiều bình diện khác nhau. Nếu thừa nhận cái tôi trữ tình
là một hiện tượng phổ quát của thơ trữ tình và có những hình thái phát triển
khác nhau trên cơ sở những mô hình quan hệ thẩm mỹ khác nhau đối với đời
sống, thì hiển nhiên một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của nghiên
cứu loại hình thơ trữ tình là vấn đề loại hình cái tôi trữ tình hay vấn đề kiểu
nhà thơ (một khái niệm bao quát hơn). Đi sâu vào tìm hiểu các kiểu nhà thơ,
ta sẽ có điều kiện nhìn thấu suốt những đặc trưng nội dung và hình thức của
từng loại hình thơ như một thế giới nghệ thuật riêng biệt có tổ chức và có
quy ước riêng. Đây không phải là lời nói phóng đại bởi kiểu nhà thơ là một
hiện tượng kết tinh - kết tinh của một trình độ nhận thức thẩm mỹ, một lối
giao tiếp thẩm mỹ đối với cuộc đời, một khả năng làm chủ chất liệu ngôn
ngữ và các phương tiện nghệ thuật, một ý thức về cá nhân, cá tính, tự do
v.v... Cứ mỗi loại hình thơ lại có một kiểu nhà thơ tương ứng. Nếu hình
dung các thời đại thơ ca qua ba loại hình như trên đã trình bày, ta sẽ có các
kiểu nhà thơ dân gian, cổ điển và hiện đại. ở ta, cuốn sách khởi đầu cho việc
nghiên cứu vấn đề này là Thi pháp thơ Tố Hữu (1987) của Trần Đình Sử.
Một bình diện quan trọng khác của việc nghiên cứu về loại hình thơ
trữ tình là bình diện ngôn ngữ. Đúng là ở mỗi loại hình thơ khác nhau có
một kiểu sử dụng ngôn ngữ khác nhau, tức là một kiểu ứng xử riêng với
chất liệu và công cụ sáng tác. Đối với nhà thơ dân gian, lời nói là thứ
"chẳng mất tiền mua", là "của kho vô tận" cứ mặc nhiên "lựa lời" mà sử
dụng. Bởi vậy, ngôn ngữ của ca dao là thứ ngôn ngữ hồn nhiên, tự nhiên,
dễ dàng, rất gần với khẩu ngữ. Đối với nhà thơ cổ điển, ngôn ngữ có một
vẻ đẹp thiêng liêng đòi hỏi anh ta phải đối xử với nó theo một cách khác.
Theo V. Zhirmunski, "Nhà thơ cổ điển là nhà kiến trúc biết sử dụng các
94
thuộc tính của chất liệu, xây dựng công trình theo đặc điểm chất liệu (...)
anh ta yêu phương diện kỹ thuật của nghề nghiệp, anh ta nắm vững chất
liệu và các quy luật, quy tắc như là những điều kiện để sáng tạo ra một vẻ
đẹp hoàn thiện"1. Chính vì thế, ngôn ngữ thơ cổ điển mang vẻ đẹp của một
công trình chế tác công phu. Người ta đã cố sức làm cho ngôn ngữ toát lên
một vẻ đẹp khách quan. Các yếu tố ngôn ngữ như từ ngữ, âm thanh, nhịp
điệu đều đòi hỏi những đặc tính vốn có của mình được bảo tồn trong quá
trình sáng tạo của nghệ sĩ. Đến nhà thơ hiện đại, nhãn quan về ngôn ngữ
không còn hoàn toàn giống trước. Thay thế cho câu thơ điệu ngâm trước
đây là câu thơ điệu nói (hai thuật ngữ này do Trần Đình Sử đề xuất). Với
câu thơ điệu nói, giọng điệu cá thể của người sáng tạo được giải phóng để
trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của thơ. Từ ngữ, âm
thanh, nhịp điệu lúc này ở vào vị trí phối thuộc. Vẻ mặt của nó như thế nào
hoàn toàn do đặc điểm dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình chi phối.
Giữa các bình diện nghiên cứu quan trọng về loại hình thơ trữ tình,
bình diện kết cấu có một vai trò hết sức nổi bật. Rất tiếc đến nay việc
nghiên cứu về loại hình kết cấu còn ít được đặt ra. Vì vậy, đây chính là một
trong những điểm mà chuyên luận chúng tôi muốn đi sâu.
2.1.3. Loại hình kết cấu - một bình diện nghiên cứu cơ bản về loại hình
thơ
Nói một cách đơn giản, loại hình kết cấu là dạng thức, mô hình kết
cấu riêng của một loại hình thơ, là cái góp phần làm nên nét đặc trưng của
loại hình thơ đó. ở trên từng lưu ý mỗi bài thơ trữ tình nói riêng và mỗi tác
phẩm văn học nói chung là một sáng tạo độc đáo, đơn nhất, không lặp lại.
Mỗi bài thơ, mỗi tác phẩm có một kết cấu riêng của nó. Nhưng thừa nhận
điều này không có nghĩa là phải phủ nhận thực tế: kết cấu của từng bài thơ
riêng lẻ thường xuyên chịu sự chi phối của một mô hình kết cấu chung
mang tính chất loại hình. Loại hình kết cấu không phải là sự bịa đặt mà là
một hiện tượng có tính quy luật. Một cá tính sáng tạo dù độc đáo đến đâu 1 Chuyển dẫn theo Trần Đình Sử trong Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, HN, 1995, tr. 12.
95
cũng không thể thoát khỏi những ràng buộc của thời đại, của môi trường
văn hoá - thẩm mỹ, của truyền thống sáng tạo. Trong Giảng văn Chinh phụ
ngâm, Đặng Thai Mai đã từng đề cập đến vấn đề này: ..."khi nhà nghệ sĩ
ngồi tổ chức cơ cấu và sinh mệnh cho một tác phẩm độc đáo thì khuynh
hướng tình cảm, xu thế tư tưởng và trình độ tri thức khoa học của thời đại
vẫn gián tiếp hoặc trực tiếp ảnh hưởng tới công việc sáng tạo. Xưa nay các
phái hệ văn học chia rẽ khác biệt với nhau, một phần cũng là tự lập trường
kỹ xảo (khái niệm này có thể được hiểu như khái niệm cấu tứ, hoặc như
khái niệm nguyên tắc kết cấu - PHD). Sự khác nhau về quan điểm kỹ xảo
đó lại cũng chỉ là kết quả của đời sống tập đoàn biểu hiện vào trong học
thuật, tư tưởng, thời thượng và luôn luôn phát triển, biến chuyển không bao
giờ ngừng bước"1.
Đã tồn tại kiểu tác giả, kiểu nhà thơ như một hiện tượng kết tinh thì
cũng tồn tại phạm trù loại hình kết cấu như một hiện tượng kết tinh, phản
ánh đầy đủ bản chất của chủ thể đã sáng tạo ra nó cũng như bản chất nghệ
thuật của loại hình sáng tác, loại hình thơ ra đời bởi chủ thể kia. Mỗi kiểu
nhà thơ sẽ sáng tạo ra một kiểu kết cấu riêng và ngược lại, mỗi kiểu kết cấu
riêng đó sẽ khẳng định trở lại khuôn diện của kiểu nhà thơ nói trên. Vì vậy,
trong mỗi hiện tượng kết cấu ta đều thấy những mối quan hệ tương hỗ giữa
hai phạm trù này. Ta hãy đọc hai lời ca dao:
- Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa sờn Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
- Rủ nhau lên núi đốt than Anh đi Tam Điệp, em mang nón trình
Củi than nhem nhuốc với tình Ghi lời vàng đá, xin mình chớ quên!
1 Đặng Thai Mai, Tác phẩm, tập I, NXB Văn học, HN, 1978, tr. 392.
96
Hai lời ca dao có nội dung khác nhau nhưng lại có một hình thức kết
cấu khá giống nhau. ở dòng mở đầu của từng lời ta thấy xuất hiện một cụm
từ cố định có tính chất công thức: rủ nhau. Cả hai lời đều được tổ chức dựa
trên sự đối lập - tiếp nối giữa xa với gần, xưa với nay, quá khứ với hiện tại
và đều kết thúc ở điểm gần (điểm "đứng" của chủ thể phát ngôn) và ở thì
hiện tại. Hình thức kết cấu này đã phản ánh khá rõ (tuy chưa đầy đủ) gương
mặt của kiểu nhà thơ trữ tình dân gian với các đặc điểm phi cá thể hoá, luôn
hoà đồng với chung quanh và hoàn toàn tin rằng lời nói mình phát ra sẽ tìm
được sự chia sẻ dễ dàng, tự nhiên của mọi người. Đặc biệt, nội dung phát
ngôn của anh ta luôn hướng về"cái bây giờ" sống động và gần gũi, hầu như
không mấy khi cao xa, viển vông. Quả thực đọc hai lời ca dao, ta rất khó
xác định được chủ thể phát ngôn là ai, là đàn ông hay đàn bà. Khi nói, có lẽ
"nó" đã không hề băn khoăn về tính chất công thức của lời. Công thức ấy
đã trở thành tài sản chung, ai dùng cũng được.
Ta đã phân tích ví dụ theo chiều từ một kiểu kết cấu nhận diện ra
kiểu nhà thơ. ở chiều ngược lại, nếu đã có một nhận thức đầy đủ về kiểu
nhà thơ trữ tình dân gian, hẳn ta sẽ thấy sự gần gũi về hình thức kết cấu
giữa hai lời ca dao có nội dung khác nhau kia là một hiện tượng không hề
có tính chất ngẫu nhiên. Chúng giống nhau không đơn giản vì chúng là hai
dẫn chứng được chọn lựa cho khớp với kết luận có sẵn. Chỉ cần quan sát
thêm dẫn chứng sau đây là hoàn toàn có thể tin vào điều đó:
Rủ nhau xuống bể mò cua Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Đây vốn là sáng tác của một nhà thơ có tên tuổi: á Nam Trần Tuấn
Khải, nhưng nó đã được chấp nhận như một lời ca dao do mang đầy đủ đặc
trưng thi pháp, đặc điểm kết cấu của ca dao. Rõ ràng, sự tồn tại của loại
hình kết cấu là một thực tế hiển nhiên và thực sự có ý nghĩa như một tiêu
chí phân loại cơ bản.
97
Nói đến loại hình kết cấu, không thể không nói tới những nguyên tắc
kết cấu như một yếu tố cấu trúc cơ sở của nó có tầm chi phối rất rộng đối với
thơ của cả một thời đại. Những nguyên tắc này có khi tồn tại dưới dạng quy
ước ngầm (như đối với thơ trữ tình dân gian) nhưng cũng có khi hiện diện
trong những chỉ dẫn, đòi hỏi được quy thành điển phạm (như đối với thơ trữ
tình cổ điển). Dù tồn tại dưới dạng nào thì những nguyên tắc kết cấu cũng
gây một áp lực lớn lên sáng tạo của mỗi nhà thơ, hướng anh ta tới một chất
thơ chung được mọi người trong cộng đồng hay được thời đại chấp nhận.
Trước hết, sự tồn tại của nguyên tắc kết cấu có ý nghĩa tích cực. Chí
ít, nó đảm bảo cho sản phẩm sáng tạo của nhà thơ được gọi là thơ, phân
biệt với những thể loại văn học khác. Dù gần gũi với phú và từ nhưng thơ
vẫn khác với hai thể loại này chính là nhờ khi sáng tác, nhà thơ đã chấp
nhận và tuân thủ những nguyên tắc kết cấu đó. Quan trọng hơn, nguyên tắc
kết cấu mang tính quan niệm sâu sắc. Chẳng hạn những yêu cầu nghiêm
ngặt về niêm trong luật thi phản ánh một phần quan niệm về sự thống nhất
của thế giới. Câu 1 niêm với câu 8 nói lên chiều hướng vận động tuần hoàn
của sự vật (chu nhi phục thuỷ). Những đòi hỏi về vị trí ngắt nhịp trong câu
thơ luật hướng người ta tới chỗ tôn trọng sự hài hoà âm dương: cứ một nhịp
chẵn lại đến một nhịp lẻ, rồi lại một nhịp chẵn... Còn đối? Đối biểu đạt ý
niệm về một sự mâu thuẫn thống nhất. Nhìn chung, cả bài luật thi là một
tổng thể hoà đối, sản phẩm của một lý tưởng thẩm mỹ hướng về cái hài
hoà, cao cả, vĩnh hằng.
Những phân tích vừa rồi mới chỉ nói tới những nguyên tắc kết cấu
văn bản trong nội bộ một thể thơ cách luật. Thực ra, nguyên tắc kết cấu
không phải chỉ rút lại trong những nhân tố kỹ thuật mà chủ yếu gắn liền với
việc tổ chức trục vận động của cảm xúc, gắn liền với việc làm rõ vị thế của
cái tôi trữ tình giữa thế giới. Nguyên tắc kết cấu của thơ trữ tình cổ điển đòi
hỏi nhà thơ phải luôn chú ý tới sự giao hoà tâm vật, và do vậy bài thơ
thường "bắt đầu từ cảnh, vật đến tâm cảnh, đến chí thì kết thúc", hoặc
ngược lại "bắt đầu từ tình, chí, qua tâm cảnh, tới cảnh vật trước mắt thì kết
98
thúc"1. Nguyên tắc kết cấu của thơ lãng mạn được hình thành trên một
quan niệm mới về con người với thái độ tôn trọng cá tính, tôn trọng xúc
cảm cá nhân, vì vậy nó chấp nhận một hình thức tổ chức tác phẩm bất tuân
quy luật đối xứng, mở đầu có thể rất đường đột và kết thúc có thể rất chơi
vơi ... ở loại thơ siêu thực, nguyên tắc kết cấu "đồng nghĩa" với sự tôn
trọng "tính tự động của tâm lý thuần tuý", đặt lòng tin vào "thực tại siêu
đẳng của những hình thái liên tưởng sơ lậu, ở giấc mơ vạn năng, ở tư duy
không vụ lợi" (Bản tuyên ngôn siêu thực thứ nhất - André Breton). Chính
vì vậy, kết cấu của những bài thơ siêu thực là một kết cấu xa lạ với logic
thông thường, những hình ảnh xa nhau nhất vẫn có thể đứng bên nhau nhờ
các mối liên tưởng có phần kỳ quặc. Rồi những sự "chuyển làn" cảm xúc
có phần bất ngờ, đột ngột, khó hiểu nữa...
Nguyên tắc kết cấu về cơ bản đóng vai trò tích cực đối với sáng tạo
của nhà thơ. Nhưng không phải không có lúc nó trở thành một sợi dây trói
buộc, kìm hãm những tìm tòi của anh ta nhằm vượt lên mình, vượt lên
trước thời đại. Điều này đặc biệt dễ nhận ra lúc vận mệnh lịch sử của một
loại hình thơ sắp kết thúc. Trên một hướng nhìn khác, nếu tạm quy nguyên
tắc kết cấu vào những đòi hỏi mang tính chất kỹ thuật của một thể thơ cách
luật, ta cũng sẽ có dịp chứng kiến điều đó. Chẳng hạn, dù trong quy tắc của
luật thi đời Đường có "phần cứng" (phân minh), "phần mềm" (bất luận) và
có sẵn các "phương tiện dự phòng" nhằm cứu những sự phạm luật nho nhỏ,
nhưng đối với nhiều nhà thơ, luật lệ của nó vẫn là một cái gì gò bó, và họ
đã không ít lần bước chân ra ngoài khuôn khổ quy định (Thôi Hiệu với bài
Hoàng Hạc lâu nổi tiếng là một ví dụ).
Ta đã nói loại hình kết cấu là dạng thức, mô hình kết cấu riêng của
một loại hình thơ. Mô hình này vừa có tính chất ổn định, vừa có tính chất
biến đổi. Nó không phải là một cái gì hoàn toàn khép kín và tĩnh tại. Điều
này phản ánh quy luật phát triển vừa kế thừa vừa tiếp nối của các loại hình
thơ trong lịch sử. Đặc biệt trong các loại hình kết cấu của thơ trữ tình hiện
1 Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, HN, 1995, tr. 16.
99
đại ta thấy có sự dung chứa nhiều yếu tố của các loại hình kết cấu khác, cả
dân gian lẫn cổ điển. Chẳng hạn kiểu kết cấu đối đáp rất đặc trưng của ca
dao trữ tình đã được làm sống lại trong bài Việt Bắc của Tố Hữu, kiểu "kết
cấu luận đề" phổ biến trong thơ Tống, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể tìm
thấy bóng dáng mình trong những bài thơ trình bày một quan niệm, một tư
tưởng của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... Nhìn chung, các loại hình kết
cấu phân biệt với nhau không hẳn bằng những kiểu dạng kết cấu thật đặc
biệt chỉ thuộc quyền sở hữu của một loại hình thơ nào đó, mà bằng phức
hợp những biến thể khác nhau của một số dạng kết cấu phổ biến. Tất nhiên,
nếu tuyệt đối hoá một trong hai điều này đều có thể dẫn tới sai lầm. Vấn đề
là khi vận dụng khái niệm loại hình kết cấu vào nghiên cứu một đối tượng
cụ thể nào đó, cần phải có cái nhìn và những thao tác linh hoạt, không thể
cứng nhắc. Đây chính là một trong những điểm tựa về nhận thức và phương
pháp của công việc mà chúng tôi sẽ tiến hành ở chương sau.
Trong suốt hai phần viết về Kết cấu hình tượng thơ trữ tình và Kết cấu
văn bản thơ trữ tình chúng tôi đã luôn luôn lưu ý: tất cả các yếu tố tham gia
vào kết cấu của một bài thơ như tứ, ý cảnh, mở đầu, kết thúc, câu thơ, vần,
nhịp ... đều có thể trở thành đối tượng của một sự nghiên cứu loại hình. Điều
này càng chứng tỏ vấn đề loại hình kết cấu là một vấn đề lớn của loại hình
thơ liên quan đến toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật thơ. Thông qua tìm
hiểu về loại hình kết cấu, ta có thêm cơ sở quan trọng để đánh giá sự đổi mới
thi pháp trong một loại hình, một thời đại thơ ca, đưa sự nghiên cứu thâm
nhập vào bản chất của những sáng tạo hình thức vốn là một yếu tố cốt tử quy
định những diện mạo thơ ca khác nhau. Đi vào loại hình kết cấu, những bình
diện nghiên cứu khác về loại hình thơ như kiểu tác giả, kiểu ngôn ngữ, giọng
điệu v.v... cũng sẽ được soi sáng thêm, bởi giữa các bình diện này có sự
tương thông, nói cái này không khỏi đụng tới cái kia cũng như không khỏi
đụng tới toàn bộ tổ chức chỉnh thể của loại hình thơ ấy.
2.2. Loại hình kết cấu thơ trữ tình dân gian
100
Đây là một vấn đề lớn mà muốn nói cho thấu đáo phải cần đến cả
một công trình chuyên biệt. Không có tham vọng bàn sâu, bàn kỹ, chúng
tôi xin chỉ nêu lên một số nhận xét khái quát, làm rõ hơn vài điều đã được
đề cập thoáng qua ở phần trên. Cũng cần lưu ý thêm là xét theo góc độ nào
đó, nói tới thơ trữ tình dân gian Việt Nam nghĩa là nói tới ca dao trữ tình,
bởi vậy chúng tôi tạm đồng nhất hai khái niệm này và tuỳ lúc mà dùng một
trong hai khái niệm.
ở cấp độ kết cấu hình tượng, thơ trữ tình dân gian có những dạng kết
cấu phổ biến sau đây vốn đã được các nhà nghiên cứu văn học dân gian chú
ý nhận diện, phân tích.
Do quy định của môi trường sáng tác và hoàn cảnh diễn xướng, đối
đáp trở thành hình thức kết cấu quen thuộc của rất nhiều lời ca dao trữ tình.
Người ta cũng có thể xem đối đáp là một dạng kết cấu văn bản ngôn từ.
Nhưng đúng hơn có lẽ nên xem nó là một dạng kết cấu hình tượng, bởi đối
đáp liên quan trực tiếp với việc xây dựng một hình ảnh về chủ thể. Những
lời ca dao mang hình thức đối đáp thường được chia thành hai vế cân hoặc
không cân nhau về số dòng nhưng nội dung hô ứng, tương hợp (bao hàm cả
sự đối chọi) với nhau và chủ thể phát ngôn của từng vế không phải là một
(ít nhất là theo sự quan sát trên bề mặt phát ngôn). Nếu vế trên chủ thể phát
ngôn là nam thì vế dưới chủ thể phát ngôn thường là nữ và ngược lại. Cũng
có khi chủ thể phát ngôn của từng vế không phải là một cá nhân mà là một
tập thể, một phường, một họ, một cánh. Tuy được chia làm hai vế nhưng
những lời ca dao loại này vẫn là một đơn vị hoàn chỉnh, có cấu trúc chặt
chẽ. Sự hoàn chỉnh này không phải chỉ toát lên từ nội dung mà còn từ các
phương tiện ngôn từ, từ sự lặp lại của một số tiếng hay hình ảnh nào đó,
đặc biệt từ việc tôn trọng cái mã giao tiếp chung vừa mới hình thành. Ví
dụ:
- Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
101
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. - Gặp đây anh hỏi thực nàng
Tre non đủ lá đan sàng được chưa? Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Tre non đủ lá đan chưa được sàng Ngoài chợ có thiếu gì giang
Mà chàng lại nỡ đan sàng tre non Đan sàng có gốc tre già
Tre non đủ lá được là bao nhiêu!
Hai lời ca dao này đủ để minh hoạ những khái quát vừa nêu. Xin lưu
ý: khác với lời thứ nhất, ở lời thứ hai, hai vế không cân nhau về số dòng.
Ngoài những lời ca dao có hình thức đối đáp rõ rệt như trên, chúng
tôi nghĩ cũng có thể xếp vào dạng kết cấu đang bàn những lời ca dao chỉ
thực sự có một vế, nhưng qua nội dung của nó ta hình dung được rất rõ đối
tượng thụ ngôn và sự đối thoại ngầm của "hắn". Sự đối thoại ngầm này tuy
vô hình (một điều hiển nhiên!) nhưng hiệu lực lại rất thực tế, in dấu rành
rành trên mạch lạc (thuật ngữ của ngôn ngữ học văn bản) của lời nói mà ta
cứ ngỡ là độc thoại thuần tuý. Lời ca dao Hôm qua tát nước đầu đình chính
là ví dụ tiêu biểu minh chứng cho luận điểm này.
Nếu mở rộng quan niệm về đối đáp hay hội thoại, ta sẽ dễ dàng đồng
ý rằng kết cấu đối đáp là một hiện tượng phổ quát của ca dao trữ tình. Hầu
như mọi lời chỉ gồm một vế đơn giản đều sẵn sàng chờ đợi một sự hồi ứng
để tự bản thân mình biến thành nửa nào đó của một lời khác hoàn chỉnh
hơn gồm đầy đủ cả hai vế. Chẳng hạn trong một sách ghi chép (Hương hoa
đất nước do Trọng Toàn biên soạn, 1949) ta bắt gặp hai dòng sau đây như
một lời ca dao hoàn chỉnh:
Con vua thì lại làm vua Con sãi ở chùa lại quét lá đa
102
Nhưng trong một sách ghi chép khác (Tục ngữ ca dao dân ca do Vũ
Ngọc Phan biên soạn, 1956) lời ca dao nói trên đã biến thành bộ phận của
một lời khác dài hơn dường như gồm đủ hai vế đối chọi - tiếp nối nhau:
Con vua thì lại làm vua Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Không loại trừ khả năng sách Hương hoa đất nước đã chép lại không
đầy đủ lời ca dao được lưu hành. Nhưng cũng có một khả năng khác, rất
hiện thực: hai dòng đó chính là một lời đầy đủ. Nó không ngần ngại chấp
nhận một sự nối dài để tự biến thành một lời khác mang một nội dung khác.
Những ví dụ loại này có không ít, cho phép ta tin rằng: kết cấu đối đáp
chính là dạng kết cấu đặc trưng của ca dao trữ tình, góp phần xây dựng đặc
trưng loại hình của bộ phận sáng tác này trong lịch sử phát triển của thơ ca.
Cao Huy Đỉnh trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam đã
phân tích: “ Phần lớn thơ ca trữ tình dân gian là những lời hát giao duyên
nam nữ, trong đó ngoài tình cảm luyến ái, người ta còn thổ lộ cho nhau mọi
niềm vui nỗi khổ ở đời. Hình thức là hát đối đáp. ấn dấu của lối đối đáp còn
rõ rệt trên kết cấu, trong nội dung cụ thể của lời ca. Những câu ca sau này
nảy sinh ở môi trường khác, ngoài hát đối đáp, cũng thường theo cú pháp
của khẩu ngữ và kết cấu truyền thống của lối hát đối đáp cho đến khi có
phong cách mới của thơ ca trữ tình hiện đại”1. Điều đáng chú ý là trong
nhận định này, Cao Huy Đỉnh đã nhìn thấy kết cấu đối đáp như một hiện
tượng kết tinh quá trình phát triển của thơ trữ tình dân gian. Như vậy, ngay
khi xét riêng đặc điểm loại hình kết cấu của một bộ phận sáng tác nào đó,
việc chú ý tới lịch sử phát triển riêng của nó luôn là điều hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, sự xuất hiện khá muộn màng của những cuốn sách sưu tầm, ghi
chép về ca dao Việt Nam cùng mức độ bao quát tư liệu khá hạn chế và kiểu
xử lý ngôn ngữ theo hướng chuẩn hoá của chúng đã khiến ta không có đủ
1 Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, NXB KHXH, HN, 1974, tr. 188.
103
cơ sở để xác định thời điểm ra đời trước sau (hiểu theo nghĩa tương đối)
của các bài ca dao. Vì vậy, nhiều kết luận về tiến trình của thơ trữ tình dân
gian chỉ mang tính chất những giả thuyết, cần phải được luận chứng, phân
tích thêm trên cơ sở một sự nghiên cứu liên ngành.
Đi vào tìm hiểu kết cấu của một loại hình thơ, nhiệm vụ hàng đầu là
phải tìm ra những dạng kết cấu đặc trưng chỉ loại hình thơ ấy mới có.
Nhưng đó chưa phải là toàn bộ công việc phải làm. Rất cần phải chỉ ra
thêm những dạng kết cấu khác có thể không phải là sản phẩm riêng của
một loại hình thơ nào, nhưng lại xuất hiện với tần số cao trong loại hình thơ
chúng ta đang nghiên cứu. Nguyên sự xuất hiện liên tục này đã là một điều
có ý nghĩa. Tính chất "đặc trưng" hay không "đặc trưng" của một dạng kết
cấu không chỉ phụ thuộc vào bản thân nó, mà còn phụ thuộc vào sự cấu
trúc hoá nó trong chỉnh thể, trong hệ thi pháp của loại hình thơ. Nếu thừa
nhận quan điểm này, ta có thể kể thêm một dạng kết cấu hình tượng khác
của ca dao trữ tình vẫn thường bị một số nhà folklore học nghi ngờ không
muốn tính đến, mặc dù nó đã từng được nêu lên một cách rất có cơ sở.
Nhà nghiên cứu người Nga B.M. Sokolov đã khái quát cấu trúc của
thơ trữ tình dân gian bằng mô hình thu hẹp dần các bậc hình tượng. ở mô
hình này, các hình ảnh bài ca liên kết bên trong với nhau theo trình tự từ
chung đến riêng, từ xa tới gần, từ rộng tới hẹp. Chúng tôi nghĩ dạng kết cấu
này dù tồn tại phổ biến trong các loại hình thơ khác thuộc bộ phận văn học
viết thì ở đây, nó vẫn là của ca dao, phù hợp với bản chất nghệ thuật của ca
dao trữ tình, phù hợp với lối nghĩ bình dị mà thiết thực của người bình dân,
phù hợp với yêu cầu của lối hát đối đáp vốn đòi hỏi các lời phải xoáy vào
một tiêu điểm nào đó để người tham thoại có thể "nối điêu", hưởng ứng dễ
dàng. Đó là chưa kể dạng kết cấu này có thể giúp chủ thể trữ tình bộc lộ
mình tốt hơn: dù có lúc mơ mộng cao xa thì rốt cùng bao giờ họ cũng muốn
hoàn nguyên bản tính chân mộc của mình. Lời ca dao mở đầu bằng Sáng
ngày em đi hái dâu là một ví dụ tiêu biểu cho mô hình kết cấu này. Khởi sự,
câu chuyện có vẻ chẳng đâu vào đâu với các chi tiết "sáng ngày đi hái dâu",
104
"gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn", rồi chuyện "hai anh đứng dậy hỏi han"
và nội dung lời hỏi han "cô ấy vội vàng đi đâu" nữa. Nhưng bỗng nhiên câu
chuyện trở nên nghiêm trọng, xoáy vào thực chất với cử chỉ đáng ngờ của
hai anh ấy: Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn. Vẫn chưa hết, "các bậc hình
tượng" vẫn tiếp tục được thu hẹp cho tới giới hạn cuối cùng với lời từ chối
của cô gái: Thưa rằng bác mẹ em răn/ Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Lời ca dao kết thúc, cái đọng lại trong ta là đức tính nết na, khuôn phép rất
dễ thương của cô gái, tức nhân vật trữ tình.
Dạng kết cấu "thu hẹp dần các bậc hình tượng" không chỉ được vận
dụng ở những lời ca dao có dung lượng lớn mà cả những lời ca dao có dung
lượng nhỏ vẻn vẹn hai dòng:
- Em ôm bó mạ xuống đồng Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai?
- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều Bâng khuâng chớ mẹ chín chiều ruột đau.
- Đêm nằm ở dưới bóng trăng Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em.
Theo chúng tôi, do dạng kết cấu này rất tiêu biểu cho ca dao trữ tình
mà ba biện pháp tu từ quen thuộc của ca dao là phú, tỉ, hứng đều cần thiết
cho nó và được nó chấp nhận. Các ví dụ trên đã cho thấy sự hiện diện của
phú và hứng trong dạng kết cấu "thu hẹp dần các bậc hình tượng". Xin dẫn
mấy ví dụ khác nói lên sự tham gia vào dạng kết cấu này của "thể" tỉ:
- Em như cây quế giữa rừng Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay. - Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. - Đôi ta như rắn liu điu Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau.
Ngoài hai dạng kết cấu hình tượng rất nổi bật đã nêu trên, ta còn thấy
trong ca dao trữ tình dạng kết cấu theo nguyên tắc song hành tâm lý (phát
hiện của A.N. Veselovski trong Thi pháp học lịch sử), dạng kết cấu xâu
105
chuỗi (phát hiện của S.G. Lazutin trong Thi pháp folklore Nga), dạng kết
cấu vòng tròn (phát hiện của V.M. Zhirmunski trong Lý luận thơ) v.v...
Theo chúng tôi, hai dạng kết cấu kể sau ít phổ biến trong ca dao trữ tình
Việt Nam, và do vậy, không bao quát được nhiều tư liệu thực tế. Riêng
dạng kết cấu theo nguyên tắc song hành tâm lý đúng là tồn tại một cách
phổ biến, nhưng phải chăng nó cũng chính là dạng "thu hẹp dần các bậc
hình tượng" được mô tả theo một cách hơi khác?
Xét loại hình kết cấu của thơ trữ tình dân gian ở cấp độ ngôn từ hay
văn bản, chúng tôi tán đồng hướng nghiên cứu của Bùi Mạnh Nhị khi ông
tập trung sự chú ý vào công thức truyền thống, xem nó như một "chìa khoá
mở bí mật đặc trưng cấu trúc" của loại hình thơ này. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng việc đi sâu tìm hiểu công thức truyền thống vẫn không thể tự
mình nó gánh hết được nhiệm vụ nghiên cứu loại hình thơ, vẫn không thay
thế được các khái quát về các dạng kết cấu phổ biến như ở trên đã làm.
Thực chất, những nghiên cứu này có thể bổ sung cho nhau, vì chúng được
tiến hành trên hai cấp độ khác nhau của kết cấu: cấp độ hình tượng và cấp
độ văn bản ngôn từ.
Kế thừa, tiếp nối nghiên cứu của nhiều nhà folklore học trên thế giới
về công thức truyền thống như một "đơn vị tế bào cơ bản phản ánh tập
trung bản chất, đặc trưng folklore, mỹ học folklore trong bài ca trữ tình dân
gian", Bùi Mạnh Nhị đã phân tích cụ thể "chức năng thiết kế các văn bản"
của công thức, đã nhìn thấy tính hai mặt của công thức ở chỗ: nó vừa là
một bộ phận, một "nhân tố cấu trúc" của bài ca lại vừa là "yếu tố của truyền
thống, vượt ra ngoài phạm vi văn bản cụ thể". Nhà nghiên cứu cũng đã chỉ
rõ: "Trong hệ thống công thức truyền thống thì các công thức mẫu đề đóng
vai trò quan trọng hàng đầu. Mỗi công thức mẫu đề có một tập hợp các
công thức chi tiết thuộc các kiểu loại khác nhau về dung lượng, nội dung
và hình thức". Nhà nghiên cứu lưu ý tiếp: "Các công thức chi tiết có thể
không được sử dụng tất cả trong một bài ca và đứng ở các vị trí khác nhau
trong các bài ca khác nhau trong cùng một mẫu đề". Và nữa: "các mẫu đề
106
khác nhau có thể có chung một số (chứ không phải tất cả) công thức chi
tiết" vì nhìn chung "các mẫu đề khác nhau có những công thức khác
nhau"1. Qua những đoạn trích dẫn vừa rồi, có thể thấy rõ quan niệm của
nhà nghiên cứu về cơ chế tổ chức của ca dao trữ tình. Cơ chế đó được nhận
thức qua sự vận dụng, chọn lựa, phối hợp các công thức theo những cách
đa dạng trên cơ sở quyết định của mẫu đề. Phải nói rằng cùng với sự thống
kê, miêu tả cặn kẽ các mẫu đề truyền thống cũng như các công thức chi tiết
của từng mẫu đề, quan
niệm này đã soi sáng được nhiều điều về bí mật cấu trúc của ca dao trữ
tình, đã bao quát được nhiều tư liệu phân tích phong phú của một số người
đi trước về đặc điểm của các câu mở đầu, về sự trùng lặp, về các biểu trưng
quen thuộc trong ca dao v.v... Đặc biệt, nó đã nêu bật được ý nghĩa của
phương pháp liên văn bản trong lĩnh vực nghiên cứu thơ trữ tình dân gian
dựa trên một căn cứ khoa học vững chắc (có nhà nghiên cứu gọi đây là
cách “tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu
trúc”2). Mặc dù vậy, chúng tôi thấy cần thiết phải khẳng định lại rằng
không thể tuyệt đối hoá ý nghĩa của việc nghiên cứu công thức truyền
thống trong bối cảnh nghiên cứu loại hình kết cấu thơ trữ tình dân gian.
Việc làm này về cơ bản mới chỉ giúp ta nhìn thấy được những cái chung
của mỹ học folklore (bao hàm cả hai mặt sáng tác và tiếp nhận), những thao
tác kiến thiết bài ca mới theo khuôn mẫu. Trong khi đó, như ta biết, dù là
con đẻ của một hoàn cảnh sáng tạo, diễn xướng, lưu truyền, phổ biến đặc
thù,ca dao trữ tình vẫn có cái chung với mọi bài thơ trữ tình khác (và nói
rộng ra: với mọi tác phẩm văn học khác) ở tính độc đáo. Ta từng lưu ý tới
tính tự phát, ngẫu hứng của hàng động sáng tác ca dao. Cứ cho là ngẫu
hứng trên một nền tảng truyền thống vững chắc thì nó vẫn cứ là ngẫu hứng,
và kết quả là nó sẽ cho ra đời một cái gì đó mới mẻ, chưa hề có. Để được
nhớ, hiển nhiên một lời ca dao phải duy trì được mối liên hệ với cái kho
1 Bùi Mạnh Nhị, Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao – dân ca trữ tình, TCVH 1/1997, 21 – 26. 2 Triều Nguyên, Bình giải ca dao, NXB Thuận Hoá, Huế, 2001.
107
công thức truyền thống sẵn có. Nhưng để gây được xúc động (và cũng là để
được nhớ sâu hơn), lời ca dao ấy phải có thêm phần chưa được mã hoá
thành công thức. Xuân Diệu đã từng rất tán thưởng lời ca dao:
Xuềnh xoàng đánh bạn xuềnh xoàng Trẻ vui bạn trẻ, già choang bạn già.
Cái mà ông nức nở khen chính là từ choang với sự xuất hiện bất ngờ,
đột ngột không đoán định trước được của nó1.
Đến đây, xin nên một ý kiến rất đáng chú ý của O. Paz. Sau khi phân
biệt kỹ thuật nói chung với "kỹ thuật thơ", ông viết: "Mỗi bài thơ là một vật
độc đáo, sáng tạo bằng một kỹ thuật chết đi ngay thời khoảng sáng tạo. Cái
gọi là "kỹ thuật thơ" không thể truyền được, vì nó không làm bằng công
thức mà bằng những phát minh chỉ phục vụ cho kẻ sáng tạo"2.
Nêu thêm một số ý kiến như trên về cách nhìn nhận kết cấu thơ trữ
tình dân gian, chúng tôi không nghĩ rằng mình đã đánh đồng thơ trữ tình
dân gian với thơ trữ tình nói chung hay đã phớt lờ đặc trưng mỹ học
folklore của loại hình thơ này. Vấn đề muốn nói chẳng qua là: cần phải
nhìn loại hình kết cấu không phải như một hệ thống khép kín, biệt lập, bởi
như phần trên đã trình bày, nó là một hiện tượng vừa có tính ổn định, vừa
có tính biến đổi. Nếu như ta đã thấy sự hiện diện của một số đặc điểm kết
cấu ca dao trong thơ cổ điển và hiện đại, thì ta cũng không thể không nhận
ra những đặc điểm kết cấu của thơ trữ tình bác học ẩn hiện trong một số lời
ca dao, nhất là những lời có thể đã được sáng tác bởi các nho sĩ bình dân
(dù nó đã biến đổi theo "luật" nhập gia tuỳ tục).
2.3. Loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển
Xin nói ngay rằng các nhận xét, khái quát trong mục này chỉ dựa trên
những cứ liệu của thơ cổ điển Trung Quốc và Việt Nam, đặc biệt là thơ luật
Đường do tính chất tiêu biểu của nó. Thêm nữa, chúng tôi cũng sẽ không
nói về nhiều vấn đề để chỉ tập trung tìm hiểu nghệ thuật cấu tứ trong thơ cổ 1 Xuân Diệu, Các nhà thơ học tập những gì ở ca dao? TCVH 1/1967, 49 – 59. 2 Octavio Paz, Thơ văn và tiểu luận, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1998, tr. 252.
108
điển. Còn các vấn đề quan trọng khác như cách tổ chức bài thơ, đặc điểm
câu thơ trong thơ cổ điển... chúng tôi xin được đề cập ở chương sau, khi
tiến hành đối chiếu loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển với loại hình kết
cấu của Thơ mới 1932 - 1945.
Thơ trữ tình cổ điển là sản phẩm văn học tinh túy của thời trung đại
- thời thống trị của ý thức về tính bất biến của vũ trụ, về sự thống hợp của
thế giới, sự đồng nhất giữa ba yếu tố của tam tài là Thiên, Địa, Nhân; thời
mà người ta nhìn nhận mọi sự thay đổi trong xã hội chỉ là một vòng luân
chuyển tuần hoàn khép kín; thời tồn tại của những "khuôn vàng thước
ngọc" áp đặt lên mọi ứng xử, hoạt động của con người, kể cả hoạt động
sáng tạo nghệ thuật. Như một hệ quả tất yếu của thế giới quan nói trên, một
trong những tứ thơ lớn của thơ trữ tình cổ điển nói chung và thơ Đường nói
riêng là tứ thơ về "tính đồng nhất của những hiện tượng mà giác quan cho
là đối lập nhau". Tứ thơ này đã được Phan Ngọc phát hiện và phân tích rất
kỹ lưỡng trong Cái hay của thơ Đường1. Chúng tôi xin không nhắc lại
những kết luận sâu sắc có thể rút ra từ tiểu luận đó mà chỉ đi vào mô tả một
số dạng cấu tứ (cách thể hiện tứ thơ) quen thuộc ở một số chủ đề cũng rất
quen thuộc của thơ xưa. Sở dĩ vẫn thường có hiện tượng đồng nhất tứ thơ
với chủ đề là do chỗ mối quan hệ giữa chúng trong thơ cổ điển hết sức
khăng khít: mỗi chủ đề làm nảy sinh một tứ thơ "riêng", và tứ thơ "riêng"
ấy sẽ được cá biệt hoá thêm nữa trong từng sáng tác cụ thể của những nhà
thơ cụ thể. Nhưng do yêu cầu khái quát, chúng tôi sẽ chỉ nói tới cái "riêng"
của tứ ở cấp độ đầu mà thôi.
Người ta vẫn thường nói thơ trữ tình cổ điển là thơ nói chí, tỏ chí. Dù
viết về đề tài gì, các thi nhân cũng không quên nói lên cái chí của mình.
Nhưng theo một cái nhìn phân loại tỉ mỉ, vẫn có thể nói tới một loại thơ tỏ
chí riêng trong đại dương thơ ấy, mà đặc điểm nổi bật của nó là trong đó, các
nhà thơ trực tiếp tỏ bày hoài bão, chí khí, ý nguyện của mình. Loại thơ này
hay gắn liền với những nhan đề như ngôn hoài, thuật hoài, ngôn chí... Cái tứ
1 Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Trẻ, TP HCM, 1995.
109
phổ biến của loại thơ này được triển khai dựa trên sự đối lập nhưng đồng
nhất giữa nhân vật trữ tình với các đại lượng lớn của vũ trụ như trời, đất,
sông, núi, nhật, nguyệt, xưa, sau... Trong tương quan ấy, kích thước con
người như được phóng to lên và khả năng giao cảm của con người đối với
thiên địa chung quanh gần như là vô giới hạn. Dĩ nhiên, con người ở đây
phải là con người siêu cá thể mới có được những năng lực dị thường như thế.
Trường hợp Trần Tử Ngang trong bài Đăng U Châu đài ca với lời than thở:
Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến lai giả vẫn không hề phủ định kết luận
vừa rồi. Nhà thơ nói thế chẳng qua là để làm rõ hơn nỗi buồn của mình
trước thiên địa chi du du, chứ nếu không có nhận thức sâu sắc về sự khả kiến
có tính chất tiên thiên thì làm gì có chuyện đặt ra vấn đề bất kiến ở đây!
Với tứ thơ ta đang bàn, nhà thơ có thể bắt đầu bằng những câu nói về
đất trời, vũ trụ, nói về bối cảnh chung rồi sau đó mới trực tiếp vẽ lên hình
ảnh của mình (xem các bài Độc toạ Kính Đình sơn của Lý Bạch, Thuật
hoài của Phạm Ngũ Lão, Cảm hoài của Đặng Dung...). Cũng có khi, như
Nguyễn Trãi, nhà thơ khẳng định ngay cái chí của mình lúc vào bài thơ rồi
mới vẽ tiếp cái nền đằng sau là một bối cảnh vô cùng khoáng đạt:
Khó khăn thì mặc, có màng bao Càng khó bao nhiêu chí mới hào Đại địa dày, Nam nhạc khỏe Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao...
(Thuật hứng, bài 21)
Ta cũng gặp trường hợp nhà thơ trình bày cùng một lúc vừa hình ảnh
bản thân vừa hình ảnh vũ trụ trong một câu thơ được sáng tạo bằng những
liên tưởng xuất thần hết sức thú vị. Bài Dục Bàn thạch kính sau đây của
Cao Bá Quát là một ví dụ:
Triêu đăng Hoành sơn lập
Mộ há Bàn kính dục
Huề thủ lưỡng phiến thạch
Giang sơn bất dinh cúc.
110
Do những hạn chế tất yếu của nghệ thuật ngôn từ - một thứ nghệ
thuật thời gian - các nhà thơ thường không tránh khỏi cách trình bày đối
tượng theo thứ lớp trước sau, nhưng dù sao, nhìn bao quát cả bài, ta cảm
nhận được rất rõ rằng hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ đã được dựng lên như
một cái khung, một cái nền để ôm vào giữa hình ảnh con người với các
phẩm chất "tự tôn", "tự trọng", "tự túc", "tự lạc", "tự tại" của nó. Một điều
đáng nói khác là trong các bài thơ tỏ chí, những quan hệ xã hội xác thực
của thời đại đã được thiên nhiên hoá, vũ trụ hoá bằng việc nhà thơ quy
những sự kiện cụ thể vào các phạm trù phổ quát như thời, thế, vận, mệnh,
v.v..., quy những sắc thái tình cảm phong phú vào những khái niệm chung
nhất như sầu, hận, bi, phẫn, tu, v.v..., quy những phản ứng có thể rất đa
dạng của những nhân vật trữ tình vào các hành động mang tính công thức
rất dễ nhận ra như nhỏ lệ, cúi đầu xuống đất, ngửa mặt lên trời, mài kiếm,
xắn tay, v.v.... Ta hãy đọc toàn bộ bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung để
kiểm nghiệm điều vừa nói:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
Cận kề với loại thơ tỏ chí dưới hình thức trực tiếp như vừa mới trình
bày là loại thơ vịnh vật nói chí. Loại này cũng có một hình thức kết cấu khá
riêng, khá nổi bật. Trước hết, cần nói tới danh mục những "vật" được chọn
lựa. Xuất hiện nhiều nhất trong danh mục này là những loài thảo mộc như
tùng, cúc, trúc, mai, lan, sen..., những loài cầm thú như chim ưng, chim
sáo, chó, mèo, ngựa... Cũng có khi, ít hơn, người ta còn nhắc tới những sự
vật do bàn tay con người chế tác như cái quạt, cái chổi... Về cơ bản, có thể
111
nói hình tượng trung tâm của những bài thơ loại này là hình tượng của các
"vật" được miêu tả. Người ta chỉ tập trung làm nổi bật lên các phẩm chất
đặc trưng mang tính chất chủng loại của chúng mà bỏ qua sự tồn tại của
chúng trong những hình thức cá biệt. Khóm trúc chỉ là khóm trúc nói chung
chứ không phải là khóm trúc này mọc bên cửa sổ. Cây mai cũng chỉ là một
cây mai trừu tượng chứ không phải cây mai này được trồng trước sân nhà.
Mỗi nét miêu tả về chúng bao giờ cũng đi kèm một ý hướng khái quát và
những phẩm chất của chúng luôn luôn được quy đồng vào những đức tính
cao đẹp của người quân tử hay những đặc tính đáng khinh bỉ của kẻ tiểu
nhân (tuỳ theo đối tượng vịnh thuộc loại "đẹp" hay "xấu"). Điều này cũng
có nghĩa là dù có vẻ chưa bao giờ nhà thơ bỏ rơi đối tượng miêu tả nhưng
sự thực thì đối tượng đó đã bị hy sinh cho một cái chí trừu tượng. Hay nói
cách khác, nhà thơ tuy có nhìn vào đối tượng mình vịnh nhưng anh ta
chẳng thấy cái gì thực sự là của riêng nó mà chỉ thấy một cái bản chất
chung bao hàm trong đó mà thôi. Tri thức tiên nghiệm đã hoàn toàn phá tan
sự thụ cảm mang tính trực giác và thực sự nhiều lúc đã đẩy các bài thơ vịnh
vật tỏ chí rơi vào tình trạng thuyết lý khô khan. Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài
thơ Kê noãn như sau:
Viên bất viên hề, phương bất phương Khước tương thiên địa tận bao tàng Ngoại trang thái tố song tằng bạch Nội trữ đan biêm nhất điểm hoàng Thái cực vị phân do hỗn độn Lưỡng nghi tương hợp thuỷ khôi trương Phô thành vũ dực xung tiêu hán Hoá tác Kim kê phụ thái dương.
Theo con mắt của chúng ta bây giờ, vịnh một quả trứng gà mà dùng
tới những chữ to tát như thiên địa, thái cực, lưỡng nghi, tiêu hán, Kim kê,
thái dương thì quả là quá "quan trọng hoá vấn đề". Nhưng đối với những
nhà thơ xưa, sự liên hệ ấy, dùng chữ ấy xảy ra hết sức tự nhiên bởi không ở
đâu nhà thơ không thấy hình ảnh của đạo. Vịnh vật lúc này chỉ được xác
112
định hoàn toàn như một cái cớ để người ta phát biểu quan niệm triết lý -
nhân sinh của mình.
Gặp trường hợp chí không đồng nghĩa với khẩu khí chung của người
quân tử, của kẻ sĩ mà đồng nghĩa với một tâm trạng cá biệt thì những bài
thơ vịnh vật đỡ khô khan hơn nhiều. Lúc này, tính tượng trưng của hình
tượng mờ đi để tính ẩn dụ nổi lên, và mỗi nét tả về sự vật đều hàm chứa
trong đó một nỗi niềm. Bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi chính thuộc loại này.
Nhìn bề ngoài, nó cũng giống nhiều bài thơ vịnh về cây tùng khác trong thơ
cổ điển. Nhưng thực ra, tùng ở đây là tùng của Nguyễn Trãi, chở nặng tâm
tư của một kẻ có lòng ưu ái "đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông". Trên
nền mô hình kết cấu khá ổn định của loại thơ vịnh vật tỏ chí (như chỉ chú ý
tới đặc tính chủng loại của "vật" và thường quy các đặc tính đó vào các
phạm trù đạo đức quen thuộc, phổ biến...), nhà thơ thêm vào vài điểm nhấn
khác lạ với câu hỏi Lâm tuyền ai rặng già làm khách?, câu trần thuật Tuyết
sương thấy đã đặng nhiều ngày, câu khẳng định Dành còn để trợ dân
này..., thế là cả bài thơ thoắt bỗng sinh động lên, đượm đầy cảm xúc. Ví dụ
này cho thấy tính hai mặt của những mô hình kết cấu ổn định. ở phía này,
nó là sự gò bó, cưỡng ép một thực tế sinh động vào công thức, và ở phía
kia, nó là sự thúc dục người ta vượt thoát công thức bằng những cải biến
mạnh bạo và tự nó biến mình thành vật đối chứng giúp độc giả nhận ra
được nét mới của bài thơ đang được đặt trước mình. Cái hay của những bài
thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hương như Bánh trôi nước, Quả mít, ốc nhồi,
Cái quạt... chính là cái hay được tạo nên bởi xung lực giữa lệ thuộc và ly
khai đối với mô hình kết cấu ổn định đó.
Hoài cổ là một chủ đề lớn của thơ trữ tình cổ điển. Dẫu rằng tưởng
vọng dĩ vãng là một cảm xúc phổ biến của con người ở mọi thời nhưng
phải nhận rằng chỉ trong thời trung đại, với quan niệm bi quan về lịch sử
cho rằng mỗi sự biến đổi đều dẫn tới suy đồi, thì hoài cổ mới thực sự nổi
lên như một mạch cảm hứng lớn, mang tính đặc trưng rõ nét. Rất nhiều bài
thuộc chủ đề hoài cổ có cái tứ được xây dựng dựa trên sự đối lập mất - còn,
113
hữu hạn - vô hạn, nhất thời - nhất biến... ở những bài này, các nhà thơ có
thể bắt đầu bằng những chi tiết mô tả về một thời tươi đẹp, về sự hưng
thịnh của một triều đại rồi sau mới vẽ cảnh hoang phế, tàn phai của thời
hiện tại. Các bài Đằng Vương các của Vương Bột, Dịch thuỷ tống biệt của
Lạc Tân Vương, Việt trung lãm cổ của Lý Bạch v.v... chính được cấu tứ
theo dạng đó. Cũng nhiều khi, mạch thơ được triển khai theo chiều ngược
lại: bắt đầu bằng một cảnh tang thương rồi sau mới gợi nhắc về buổi vàng
son trong dĩ vãng, nhưng thông thường, cuối cùng các nhà thơ đều quay về
với cảnh thấy trước mắt. Các bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Thăng
Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc của Bà huyện Thanh Quan v.v... là những ví
dụ minh hoạ cho dạng cấu tứ thứ hai này. Dù hình thức bố cục có khác
nhau chút ít nhưng cái tứ nhấn mạnh vào sự đối lập thì không đổi. Qua
những bài thơ loại này, rất dễ thấy ý niệm về cái còn, cái bất biến, cái vô
hạn luôn gắn liền với các hình tượng thiên nhiên: trăng, sao, mây, sông
dài..., còn ý niệm về cái mất, cái nhất thời, cái hữu hạn thì luôn gắn liền với
các hình ảnh về con người với ngựa xe, đền đài, áo quần, châu ngọc... Sự
đối lập ở đây hiển nhiên mang đậm tính triết lý và hầu hết đều đưa tới một
cảm nhận chung về cái phù du, biến ảo của cuộc đời. Nổi lên trên nền sự
đối lập đó bao giờ ta cũng thấy hình ảnh một cái tôi trữ tình đang quan sát,
tìm tòi, chiêm nghiệm, tự đặt ra câu hỏi và tự trả lời, và qua các câu hỏi,
câu trả lời đó, ta không đọc thấy những lời than thở não nề, những nỗi đau
quặn thắt mà chỉ thấy một nỗi bâng khuâng về tồn tại. Xin điểm qua vài ví
dụ:
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
(Đằng Vương các - Vương Bột)
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu)
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?
114
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
(Chùa Trấn Bắc - Bà huyện Thanh Quan)
Cũng thuộc vào chủ đề hoài cổ những bài sau trong thơ trữ tình cổ
điển Việt Nam mà ở đó việc gợi nhắc lại chuyện xưa không đưa lại niềm
đau cho nhân vật trữ tình: Bạch Đằng giang của Trần Minh Tông, Quá
Hàm Tử quan của Trần Lâu, Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi v.v...
Cảm hứng lịch sử ở những bài này trội hơn cảm hứng triết lý và cái tôi trữ
tình mang tính chất vũ trụ được thay thế bằng cái tôi trữ tình nhân danh cho
cả một dân tộc. Hình ảnh thiên nhiên được miêu tả không đưa tới ý niệm về
sự bất biến, vô hạn nói chung của cũ trụ mà cụ thể hơn, đưa tới ý niệm về
sự vững bền muôn thuở của non sông đất nước, đưa tới những cảm xúc
sảng khoái, tự hào:
Giang thuỷ đình hàm tàn nhật ảnh
Thác nghi chiến huyết vị tằng can
(Bạch Đằng Giang - Trần Minh Tông)
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ?
Thuỷ lục sơn thanh nhập vọng xa.
(Quá Hàm tử quan - Trần Lâu)
Vãng sự hồi đầu, ta, dĩ hĩ
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng.
(Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi)
Trong loại thơ hoài cổ, có một loạt bài mà cái tứ của nó dường như
đã được nêu lên bằng một thành ngữ: cảnh đó, người đâu? Đó là những bài
như Sơn phòng xuân sự của Sầm Tham, Đề Đô thành nam trang của Thôi
Hộ, Giang lâu thư hoài của Triệu Hỗ, Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên Thai...
của Tào Đường v.v... ở đây cũng xuất hiện sự đối lập giữa xưa với nay,
giữa cái còn với cái mất nhưng cái xưa chưa xưa hẳn, chưa khuất biệt vào
cái tuyệt mù của thời gian mà như vẫn còn lưu lại một chút hương khiến
người tìm dấu hôm nay phải bồi hồi, rưng rưng, và muốn bằng cái nhìn
xuyên vượt thời gian vĩnh cửu hoá một phút giây hạnh phúc vốn đã thành
kỷ niệm. Cái gây ấn tượng mạnh nhất ở những bài thơ này thường là hình
115
ảnh của một sự vật nào đó như tồn tại nhởn nhơ ngoài vòng kiềm toả của
thời gian. Sự có mặt của chúng đưa đến hai thông điệp trái ngược: cái xưa
đã mất và cái xưa vẫn còn. "Đọc" thấy hai thông điệp đó, thốt nhiên trong
lòng người cũng dấy lên những "cảm xúc đối nghịch": nửa buồn bã u hoài,
nửa tin tưởng, hy vọng, và sau hết khi đã vượt qua được trạng thái lưỡng
phân đó của tình cảm, ta sẽ có được một cái nhìn sâu hơn về thời gian, về
cuộc đời. Ta hãy đọc mấy câu rất gần nhau về ý tứ sau đây:
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa
(Sơn phòng xuân sự - Sầm Tham)
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Đề Đô thành nam trang - Thôi Hộ)
Đồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại?
Phong cảnh y hi tự tích niên.
(Giang lâu thư hoài - Triệu Hỗ)
Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại
Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân
(Lưu, Nguyễn tái đáo Thiên Thai... - Tào Đường)
Trong thơ trữ tình cổ điển, thiên nhiên luôn chiếm một "địa vị danh
dự" (chữ dùng của Đặng Thai Mai). Những phần viết ở trên đã từng chứng
tỏ điều này. ở đâu ta cũng thấy hình ảnh thiên nhiên, dù nhà thơ xưa có viết
về đề tài, chủ đề gì đi chăng nữa: tỏ chí, vịnh vật, hoài cổ v.v... Điều này
thực ra không có gì lạ khi quan niệm về sự nhất thể của thế giới bao trùm
đời sống tinh thần của người xưa, khi những mệnh đề như "thiên nhân
tương dữ", "thiên nhân tương đồng" luôn luôn được người ta nhắc đến. Đã
thực sự tồn tại một loại thơ mà ở đó hình ảnh thiên nhiên trở thành đối
tượng nhận thức và miêu tả chính của nhà thơ, là loại thơ ứng khớp trước
hết với lời biểu dương "thi trung hữu hoạ". Sau đây, chúng tôi xin nói qua
về nghệ thuật cấu tứ ở những bài thơ loại này.
116
Điều cần nói trước tiên là trong thơ trữ tình cổ điển, thiên nhiên
không được nhìn nhận như một khách thể có đời sống riêng, tồn tại biệt lập
và phân cách với con người. Thiên nhiên với con người là một thể thống
nhất hữu cơ. Nhìn vào thiên nhiên, con người thấy hình bóng mình trong
đó, rõ mồn một. Nhiều khi ta không thể tách bạch được đâu là tình cảm con
người gán cho thiên nhiên và đâu là "tình cảm" thiên nhiên "tự có". Hai câu
thơ trong bài Xuân vọng của Đỗ Phủ nói lên rất rõ điều này: Cảm thời hoa
tiễn lệ/Hận biệt điểu kinh tâm. Có thể lấy một ví dụ khác trong thơ Bà
huyện Thanh Quan:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
(Qua đèo Ngang)
Theo cách biểu đạt của bài thơ, ta không thể quả đoán rằng "nhớ
nước" và "thương nhà" chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình chứ không
phải là "tâm trạng" của "con quốc quốc", "cái gia gia". Phải nói rằng cả hai
(con người và thiên nhiên) đã cộng cảm với nhau, hoà chung một tiếng nói,
khó bề phân chia rạch ròi. Giữa con người và thiên nhiên là một cánh cửa
để ngỏ để cả hai có thể ra vào với nhau, trong nhau một cách dễ dàng.
Không đợi khi đọc đến câu Song thưa để mặc bóng trăng vào (Thu vịnh) ta
mới nhận ra thái độ "cởi mở" của Nguyễn Khuyến trước thiên nhiên. Sự
thực thì trước đó, ông đã hoà lẫn vào đó, đã trở nên hư hư thực thực cùng
với nó: Nước biếc trông như từng khói phủ...
Trong phạm vi những bài thơ nặng về tả cảnh thiên nhiên, ta thấy nổi
bật lên cái tứ thiên nhiên hữu tình. Tứ thơ này không phải chỉ tồn tại dưới
dạng một ý niệm mà rất nhiều khi lộ rõ trong các câu thơ, khiến ta tưởng có
thể "sờ" thấy được:
Thâm lâm nhân bất trí
Minh nguyệt lai tương chiếu.
(Trúc Lý quán - Vương Duy)
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi?
117
(Xuân tứ - Lý Bạch)
Mộ tòng bích sơn há
Sơn nguyệt tuỳ nhân quy
(Há Chung Nam sơn... - Lý Bạch)
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu? Gượng mở xem.
(Ba tiêu - Nguyễn Trãi)
Có thể nhìn nhận rằng các nhà thơ xưa đã sử dụng biện pháp nhân
hoá khi viết những câu thơ trên. Nhưng nhân hoá ở đây mang nặng tính
chất của một kiểu tư duy, một quan niệm về sự nhất thể giữa con người và
thế giới hơn là tính chất của một biện pháp tu từ thuần tuý nhằm tạo nên sự
sinh động trong diễn đạt. Nó có sự khác biệt rất lớn với lối nhân hoá trong
thơ trữ tình hiện đại, kiểu: Tỉ tê gọi gió lên đường/ Nghe trăng âu yếm dỗ
hương trên cành (Đợi chờ - Lưu Kỳ Linh); Em hỡi! vô tri hoa biết tủi;/
Đầm đìa châu lệ hạt sương mai (Hoa tủi - Đỗ Huy Nhiệm) v.v... Trong thơ
trữ tình cổ điển, sự hữu tình của thiên nhiên được mặc nhiên thừa nhận như
một cái gì có thật, chẳng thể nghi ngờ, vì vậy ta không thấy những dấu hiệu
ngôn từ chứng tỏ có cái nhìn phân biệt chủ - khách ở đây. Còn ở thơ hiện
đại, những dấu hiệu ngôn từ như thế luôn luôn xuất hiện. Với từ "nghe"
trong câu thơ của Lưu Kỳ Linh và với hai tiếng "Em hỡi" trong câu thơ của
Đỗ Huy Nhiệm, ta hiểu rằng cái hữu tình của thiên nhiên đã được nói ra kia
chẳng qua chỉ là kết quả của một sự suy đoán và gán ghép có ý thức của
các nhà thơ mà thôi.
2.4. Loại hình kết cấu thơ trữ tình hiện đại
Thơ trữ tình hiện đại hình thành và phát triển trong mối quan hệ
tương tác hết sức phức tạp giữa các trào lưu, khuynh hướng và phong cách
nghệ thuật khác nhau. Khái quát về đặc điểm loại hình kết cấu của nó, như
trên đã nói, là một việc làm cực kỳ khó khăn. Phương án thực tế được
chúng tôi lựa chọn ở đây là xây dựng một ý niệm chung về loại hình kết cấu
thơ trữ tình hiện đại thông qua việc nhận diện đặc điểm kết cấu của từng
118
loại hình thơ cụ thể như lãng mạn, tượng trưng, siêu thực. Cũng cần nói
thêm là mặc dù không đánh đồng trường phái thơ với loại hình thơ nhưng
đôi lúc sự phân tích của chúng tôi phải dựa vào một trường phái cụ thể,
nhất là những trường phái đã thúc đẩy sự ra đời của một loại hình thơ mới.
Thơ lãng mạn Pháp đánh dấu mốc phát triển đầu tiên của mình với
tập Trầm tư của A. de Lamartine (ra đời năm 1820) và chiếm lĩnh thi đàn
trong khoảng 30 năm. Ngoài Lamartine, nó còn có những đại diện tiêu biểu
như A. de Vigny, V. Hugo, A. de Musset... Cảm hứng lớn của thơ lãng mạn
là cảm hứng phủ định xã hội hiện thời hay nói khác hơn là cảm hứng bày tỏ
sự bất mãn với thực tế tầm thường không giống chút nào với những điều
mà giai cấp tư sản đã hứa hẹn trước cuộc cách mạng 1789. Từ chỗ bất mãn,
các nhà thơ tự lựa chọn cho mình những nẻo lối thoát ly khác nhau: hoặc
hướng về quá khứ, hoặc đắm mình trong cảm xúc yêu đương, hoặc mơ
mộng về một miền đất lạ... Tất cả các nhà thơ lãng mạn đều ý thức sâu sắc
về cái tôi cá nhân của mình. Họ đòi hỏi tự do, đòi hỏi được giải thoát khỏi
những ràng buộc xuất phát từ bất kỳ thế lực nào, cả trong cuộc đời lẫn
trong nghệ thuật. Vì tất cả những điều này, thơ lãng mạn đã làm nên một
cuộc cách tân quan trọng về thi pháp, đưa thơ trữ tình hiện đại phát triển
lên một bước mới và kéo nó ra khỏi vòng chi phối của chủ nghĩa Cổ điển.
Những tứ thơ của thơ lãng mạn thường được xây dựng trên sự đối
lập gay gắt giữa hiện thực với lý tưởng, giữa hiện tại với quá khứ, giữa cá
nhân với xã hội , giữa đô thị ồn ào với thiên nhiên hiền hoà, thanh sạch...
Trừ một số nhà thơ có tư tưởng "nhập thế" tích cực, phần lớn các nhà thơ
lãng mạn đều có một cái nhìn bi quan về cuộc đời, về lịch sử. Dưới con mắt
của họ, những sự đối lập nêu trên đều thuộc về bản chất của xã hội tư sản,
như một định mệnh khó bề khắc phục, cải thiện. Vì vậy, đọc thơ lãng mạn,
ta luôn bắt gặp cuộc "đối thoại" giữa những trạng thái cảm xúc trái ngược
nhau: một bên là phủ định, khước từ, một bên là khẩn cầu, níu kéo. Nhân
vật trữ tình thường kéo căng mình giữa hai cực cảm xúc đó. Sự an bằng nội
tâm thường thấy trong thơ cổ điển lúc này đã bị triệt tiêu, kể cả khi các thi
119
nhân chuyện trò với những "người bạn" tâm đắc của mình. A. de Musset
Hỏi sao Hôm:
Sao tìm chi đấy đêm chơi vơi?
Bãi sậy bờ hoang giấc ngủ vùi?
Hay muốn, sao ơi, giờ tĩnh lặng
Ngọc chìm lấp lánh nước sâu rơi?
Nếu phải chết đi sao đẹp ơi!
Tóc vàng phải nhúng biển xa xôi,
Trước giờ giã biệt, nghe ta nói:
- Sao của tình yêu, chớ bỏ trời!
(Trần Mai Châu dịch)
Cả bài thơ chứa đựng một thứ tình cảm âu yếm gượng nhẹ rất đặc
biệt của nhà thơ đối với vị sứ giả bí ẩn từng đêm, từng đêm thoắt hiện,
thoắt biến, để lại cho con người bao nỗi băn khoăn về số phận. Sự xuất hiện
của hàng loạt câu hỏi ở đây trước hết ứng khớp với cái tứ cụ thể mà nhà thơ
đã xác định cho bài này, sau nữa, nó biểu hiện một tâm trạng bất an phổ
quát của các nhà thơ lãng mạn trước cuộc đời.
Thơ lãng mạn (trước hết là của Pháp và sau đó là của Việt Nam -
Thơ mới) có nhiều mô típ đặc thù: mô típ cô đơn, lạc loài (Ta như chiếc lá
rã rời/ Cuốn ta theo lá, ngợp trời phong ba! - Lamartine; Lòng chàng xưa
chốn nọ với nơi này/ Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc - Huy Cận; Lũ
chúng ta, lạc loài, dăm bảy đứa,/ Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh -
Vũ Hoàng Chương...), mô típ tàn phai, tan vỡ (Hy vọng tan tành bọt nước/
Tháng ngày chẳng nguội thương đau... - M.D. Valmore; Biển đời ngàn
thuở phôi pha/ Bỏ neo sao chẳng chờ ta một ngày - Lamartine; Đã héo lắm
nụ cười trong mộng/ Đã mờ mờ lắm bóng thân yêu/ Đã lam tím cả cảnh
chiều/ Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn - Lưu Trọng Lư...), mô típ đề
cao sự cô độc kiêu hãnh của cái tôi cá nhân (Ôi con người sao ta thấy nhục/
Danh cao sang, bạc nhược trăm đường/ Từ trần chẳng chút tiếc thương/
Sói luôn sớm biết, người thường u mê - Vigny; Ta là Một, là Riêng, là Thứ
120
Nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta - Xuân Diệu...), mô típ thiên nhiên
hoá giải phiền muộn ( ở đây mây núi cây rừng/ Nước non thanh sạch cách
chừng phồn hoa/ Chim đèo nhắn gió đèo ca/ Du hồn mơ một giấc mơ
không cùng – Thế Lữ) v.v... Tất cả những mô típ kể trên vừa cho thấy bản
chất phong phú của cái tôi lãng mạn vừa cho thấy phần vào nguyên tắc tổ
chức hình tượng của loại hình thơ này. Nói thơ lãng mạn đề cao cái tôi cá
nhân, điều đó không chỉ có ý nghĩa ghi nhận về một chủ đề nổi bật trong
thơ lãng mạn, mà quan trọng hơn nó còn có ý nghĩa khái quát về ý hướng
xem cái tôi cá nhân như một chỗ dựa căn bản để tổ chức lại thế giới nghệ
thuật thơ. G. Duhamel đã nhận xét về vị trí của cái tôi cá nhân trong hoạt
động sáng tạo của các nhà thơ lãng mạn như sau: "phát xuất từ tâm hồn cá
nhân, thơ trữ tình toả ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ
tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ; đối với tính nhạy cảm của con
người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca"1. Trần
Đình Sử cũng có ý kiến: "Thơ lãng mạn đem lại một nguyên tắc miêu tả
mới: "tả chân" sự vật bằng trực cảm mang nội dung tâm lý và tưởng
tượng"2. Quả vậy, mọi hình ảnh thơ trong thơ lãng mạn đều thấm đượm
một cảm xúc cá nhân, cá thể hết sức rõ nét. Các nhà thơ không mấy quan
tâm tới việc đi tìm một chân lý phổ quát mà chỉ say sưa mô tả những trải
nghiệm cụ thể của mình. Vì vậy, cũng sử dụng ẩn dụ như thi nhân muôn
đời vẫn làm, thế mà các nhà thơ lãng mạn đã đưa lại một quan niệm mới
hẳn về hình thức tu từ này. Trong thơ của họ, ẩn dụ gắn liền với từng tâm
trạng cá biệt. Nếu không hiểu cái nền tâm trạng đã quy định ẩn dụ thì ta sẽ
không hiểu hết giá trị của chính ẩn dụ đó. Trong thơ trữ tình dân gian, ẩn
dụ "thuyền - bến" có thể được sử dụng nhiều lần nhưng trong thơ lãng mạn,
ẩn dụ Con cò trên ruộng cánh phân vân có lẽ chỉ đúng với một khoảnh
khắc duy nhất của tâm trạng Xuân Diệu mà thôi. Nó không thể được dùng
lại một lần nữa để chỉ một tâm trạng, đúng hơn là một sắc thái tâm trạng
khác.
1 Chuyển dẫn theo Trần Mai Châu trong Thơ Pháp thế kỷ IX, NXB Trẻ, TP HCM, 1996, tr.348. 2 Trần Điình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, HN,1995, tr.52.
121
Trên phương diện kết cấu văn bản ngôn từ, trước hết, thơ lãng mạn
đã cất tiếng hô "đả đảo" đối với bất kỳ một khuôn mẫu gò bó, trái tự nhiên
nào về hình thức nghệ thuật. Trong quan niệm của các nhà thơ lãng mạn,
không có "thi loại lớn" với "thi loại nhỏ" và không thể quy định trước cho
người sáng tạo về thể thơ, về mô hình vần, về hệ thống từ ngữ... Tất cả
những điều (nêu trên) mà nhà thơ cổ điển xem trọng bỗng trở nên có một vị
trí thứ yếu, bị phối thuộc hoàn toàn vào dòng cảm xúc chân thực sắp sửa
được phô bày. Trên con đường đi tìm một hình thức thơ mới mang tính
chất dân chủ hơn, phù hợp hơn, V. Hugo đã tuyên bố trong bài Trả lời một
bản cáo trạng (1834) như sau:
Tôi bấy giờ như tên bợm đến thét be be:
Sao nhóm này mãi mãi đi sau, nhóm kia luôn trước?
Trên viện hàn lâm, những nữ tổ tiên, những bà quý tộc
Dấu những phép chuyển nghĩa "run" dưới váy lót của mình
Và qua các tiểu đoàn vuông vức Alexandrin
Tôi thổi lồng lộng mãi lên những làn gió cách mạng
Tôi đội trên đầu từ điển cổ một bonne đỏ lựng...
(Nguyễn Văn Quảng dịch)
Không chỉ dừng ở tuyên ngôn, V. Hugo đã thực sự làm một cuộc cải
cách về cả từ vựng lẫn cú pháp cho dòng thơ mới. Ông là người đòi quyền
"tự do ngôn luận" của ngôn ngữ trò chuyện. Nghiên cứu về thơ ông,
R. Balibar nhận xét: "Hugo không tuân thủ "luật" thơ. Ông thực hiện từ câu
alexandrin này sang câu alexandrin khác cái cần phải gọi là sự xâm lấn hơn
là sự bắc cầu, bởi vì câu thơ của ông, đáng lẽ vượt qua khoảng trống thì lại
ào lên tự nhiên, đáng lẽ buộc câu tiếng Pháp phải phục tùng luật hiệp vận
thì lại bất chấp vần điệu, cứ tung ra câu tiếng Pháp cơ bản, nhân tiện "lấn
sân" sang những câu thơ tiếp theo. Sự lật đổ uy quyền tế nhị này diễn ra
song song một kiểu chấm ngắt câu mới..."1. Dĩ nhiên, không phải nhà thơ
lãng mạn nào cũng có được một cá tính "nổi loạn" mạnh mẽ và khả năng tự
mình làm nên cả một cuộc cách mạng ngôn từ như V. Hugo, nhưng phải 1 Reneé Balibar, Lịch sử văn học Pháp, Nguyễn Văn Quảng dịch, NXB Thế giới, HN, 1998, tr. 138.
122
nhận rằng hầu như ai cũng nuôi trong mình một ước nguyện phải viết khác
đi so với những mẫu mực đã lỗi thời. Từ khi nhóm Thi sơn và trường phái
Tượng trưng nổi lên thay dần vị trí của trường phái Lãng mạn, thơ
A. de Lamartine thường bị chê là kể lể dài dòng, dễ dãi, gieo vần cẩu thả...
Tuy vậy, nếu có cái nhìn lịch sử, hẳn ta thấy rằng Lamartine đã có đóng
góp ngay cả ở điểm "bất cập" này. ít nhất, ông đã đưa đến một cái nhìn mới
về câu thơ: câu thơ phải thấm đẫm giọng điệu cá thể, và chất nhạc của nó
gắn bó hữu cơ với giọng điệu cá thể ấy. Điều vừa nói về thơ Pháp thiết
tưởng cũng không xa lạ gì với thơ lãng mạn - Thơ mới Việt Nam. Chúng
tôi sẽ nói kỹ hơn về vấn đề này ở chương 3.
Loại hình thơ tượng trưng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
trường phái Tượng trưng Pháp, sau đó lan rộng ra khắp thế giới với nhiều
chiều hướng tìm tòi phong phú. Về nguyên nhân ra đời trực tiếp của thơ
tượng trưng, Phạm Văn Sĩ đã khái quát: "Thi phái tượng trưng chủ nghĩa
phản ứng với thi phái Thi sơn (Parnasse) cho rằng nhà thơ Thi sơn quá nệ
vào sự chạm trổ câu thơ, chải chuốt lời thơ mà bỏ mất cái rung cảm, cái
nhịp điệu tâm hồn của người làm thơ. Thi phái tượng trưng chủ nghĩa cũng
phản ứng với thi phái lãng mạn, nó cho rằng thơ lãng mạn dễ dãi như một
kỹ nữ, ai ve vãn cũng được. Thi phái tượng trưng chủ nghĩa chủ trương một
lối thơ chứa đựng những rung cảm sâu xa của con người, phát ra từ "đáy
tâm linh", từ trong vô thức của người làm thơ"1. Từ nhận định trên nhìn
rộng ra ta có thể nói rằng thơ tượng trưng đánh dấu một bước chuyển mới
về thi pháp so với thơ lãng mạn. Nó thể hiện một quan niệm hiện đại về
mối tương quan bí ẩn, sâu xa giữa vũ trụ và con người, đồng thời phát biểu
một quan niệm mới về cái tôi - đó là cái tôi để mất lòng tin vào chính mình,
hiểu theo nghĩa nó vứt đi thái độ tự thị (dù là tự thị trong nỗi cô đơn) của
cái tôi lãng mạn. Các nhà thơ tượng trưng xem thi ca như một công cụ, một
phương pháp giúp con người khám phá ra một siêu hiện thực ẩn đằng sau
những hiện tượng biểu kiến của cuộc đời, vũ trụ, và bằng cách đó, họ
1 Phạm Văn Sĩ, Các trào lưu tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, NXB ĐH và THCN, HN, 1986, tr. 56 – 57.
123
khẳng định sức mạnh của tinh thần có thể xuyên vượt cái bề ngoài của sự
vật để đạt tới chân lý. Tất nhiên, để trở thành một "công cụ" kiểu như thế,
thơ tượng trưng phải tự xác lập được cho mình một nguyên tắc tổ chức
riêng. Ta có thể nói tới sự bao trùm của phép loại suy xác định quan hệ
tương đồng giữa các sự vật. Cùng vận dụng nguyên tắc đó, mỗi nhà thơ
tượng trưng lại tự lựa chọn cho mình một thủ pháp kết cấu riêng. Nói đến
Ch. Baudelaire, người ta nghĩ đến một nhà thơ đã sáng tạo ra rất nhiều biểu
tượng lạ: chim hải âu, Sắc đẹp, người hành khất, đồ nữ trang, dòi bọ, rắn
rết... Tuy nhiên, điều cần nói là biểu tượng trong thơ Baudelaire nói riêng
và thơ tượng trưng nói chung thường không được xem như là phương tiện
mà là một cái gì mang mục đích tự thân, mang ý nghĩa khải thị và có tác
dụng giải phóng các giác quan của con người, giúp chúng vượt qua được
những đường biên định mệnh mà hoà nhập vào nhau. Bài Tương ứng
không chỉ đề xướng thuyết "tương ứng" mà bản thân các biểu tượng được
dùng trong đó cũng có khả năng khêu lên những cảm nhận khác thường về
thế giới, sau khi đã đánh thức sự giao hoà các giác quan nơi người đọc:
Kìa Tạo vật, ngôi đền với hàng hàng cột sống
Thoáng lọt ra những tiếng nói u huyền
Người qua đó giữa rừng cây biểu tượng
Luôn nhìn người với ánh mắt thân quen.
Như bao tiếng vang dài từ xa cộng hưởng
Thành một nỗi niềm chung nhất thâm sâu
Rộng như bóng đêm, hoà như ánh sáng
Hương, sắc, thanh cùng lặng lẽ tương giao...
(Trần Mai Châu dịch)
Trong bài Nghệ thuật thơ, một trong những bài đánh dấu thời điểm
ra đời của trường phái Tượng trưng, P. Verlaine đã đề cao yếu tố âm nhạc
trong thơ, kêu gọi sự chú ý đối với nhịp lẻ và sự quan tâm tới những sắc
thái vi diệu có khả năng xe duyên mộng với mơ và sáo với kèn. Đó cũng là
một phương cách hữu hiệu giúp thơ đạt tới sự ám thị mà các nhà tượng
124
trưng chủ nghĩa mong muốn. Bài Khúc hát mùa thu là một trường hợp điển
hình chứng tỏ P. Verlaine đã đạt được tất cả những điều mà ông muốn
hướng tới:
Những tiếng ngân dài nức nở
Của những cây đàn vĩ cầm
Mùa thu
Làm đau trái tim tôi
Bằng một đơn điệu u buồn...
(Đông Hoài dịch)
Có thể thấy rằng dù cố gắng đến mấy người dịch cũng khó lòng
truyền tải được nhạc điệu du dương quyến rũ, trầm trầm dằng dặc của
nguyên tác, nếu chạy theo việc dịch sát ý và cố gắng trung thành (dù ở
mức rất tương đối) với việc sắp đặt câu thơ của tác giả. Còn nếu muốn
diễn tả nhạc điệu vốn có của tác phẩm bằng một thể thơ quen thuộc trong
tiếng Việt (như lục bát chẳng hạn), hẳn dịch giả đã không cho người đọc
thấy hết dụng công của nhà thơ khi sử dụng chân lẻ và gieo vần ở những
vị trí rất gần nhau (Nguyên tác: Les sanglots longs/ Des vilolons / De
l'automne / Blessent mon coeur / D'une langueur / Monotone...). Qua ví
dụ này, ta còn nhận ra mối quan hệ khăng khít giữa nhạc thơ với hình thức
tự do của thể thơ. Từ chỗ nhấn mạnh tương quan bí ẩn giữa con người với
vũ trụ và đề cao yếu tố nhạc đến chỗ sáng tạo ra thể thơ tự do, đó sự thực
là những bước phát triển rất logic của thơ tượng trưng trong khoảng thời
gian cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Nhà thơ S. Mallarmé, với nỗ lực vươn tới một nền thơ ca thuần
khiết, đã tổ chức bài thơ trên cơ sở sự "biến mất về mặt diễn đạt của nhà
thơ" và "sự ngự trị thuần túy của ngôn từ". Ông từng kêu gọi xoá bỏ những
ý nghĩa quá rành mạch, rõ ràng trong tác phẩm. O. Paz nhận xét: "Thi pháp
của Mallarmé, theo như ông diễn giải vài lần, là sự chuyển vị trí và chốt lại
ở sự thay thế thực tại được cảm nhận bằng một tấm dệt những tưởng tượng
ngôn từ, nó vốn thay thế cho thực tại khác tương tự và song song mà không
125
cần phải gọi tên một cách rõ ràng. Nhà thơ không gọi tên con thiên nga
hoặc nữ vận động viên bơi lội màu trắng: ông giới thiệu, hay đúng hơn, ông
gợi ra ý tưởng về một sự trinh trắng vốn hoà trộn cơ thể phụ nữ, nước và
những chiếc lông chim bằng cách làm mờ chúng đi"1. Rõ ràng, với thơ S.
Mallarmé và thơ những người đi theo con đường của ông, nhiều khi ta khó
mà nói ra được một cách minh bạch (dù hiểu theo nghĩa tương đối) đâu là
cái thường được gọi là hình tượng và đâu là cái thường được gọi là ngôn từ
dùng để xây dựng nên hình tượng ấy. Xin dẫn ra một đoạn thơ tiếng Việt
(của Dương Tường) có thể xem là được viết theo "thi pháp Mallarmé" để
dễ hình dung hơn về điều vừa nói.
Em về phố lặng
lòng đổ chuông
llềnh llềnh nước
lli
lluâng
lloang llưng
lliêng llinh lluông buông boong
ad lllibitom...
(Noel I)
Loại hình thơ siêu thực là một sự phát triển nối tiếp của loại hình thơ
tượng trưng ở trong thế kỷ XX. Mặc dù mãi tới khoảng năm 1920 trường
phái siêu thực mới ra đời và tới năm 1924 Tuyên ngôn siêu thực thứ nhất
mới được công bố (bởi A. Breton) nhưng những tìm tòi theo hướng siêu
thực đã có mầm mống từ lâu trong sáng tác của những nhà thơ như
Ch. Baudelaire, A. Rimbaud, G. Apollinaire... (thuật ngữ surréalisme vốn
được đề xuất bởi G. Apollinaire). Các nhà thơ siêu thực đã thực hiện những
thử nghiệm, khám phá nghệ thuật của mình trên cơ sở một nhận thức mới
về vũ trụ, về không gian và thời gian, về đời sống xã hội và con người
(những nhận thức mới này được gợi ý và bảo chứng bởi nhiều phát minh
lớn như thuyết tương đối của A. Einstein, phân tâm học của S. Freud, 1 Octavio Paz, Thơ văn và tiểu luận, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1998, tr. 318.
126
thuyết trực giác của H. Bergson...). Con người, trong quan niệm của các
nhà thơ siêu thực, là con người toàn nguyên, không chỉ có phần hoạt động
bề ngoài, phần chịu sự chi phối của ý thức sáng tỏ mà còn có phần đang
ngủ trong vô thức, hay nói cách khác là đang hoạt động trong môi trường
của những giấc chiêm bao. Cái siêu thực mà các nhà thơ hướng tới không
đơn giản là những hiện tượng khác lạ ở trên hiện thực mà là một cái toàn
vẹn siêu duy lý bao gồm vừa hiện thực, vừa mơ tưởng, vừa thế giới, vừa
tinh thần, không thể phân cách, đối lập. Để đạt được cái siêu thực ấy giữa
một thế giới bị chia cắt bởi lý trí, các nhà thơ siêu thực đã đề xuất một lối
viết tự động mà theo góc độ nghiên cứu của chuyên luận có thể xem như là
một nguyên tắc kết cấu. Lối viết tự động này đã tiếp tục tinh thần phá bỏ
luận lý, phá bỏ công thức của chủ nghĩa đa đa, cho phép các nhà thơ ghi lại
được những dữ kiện trực tiếp của tâm linh (biến bài thơ thành một bài
"chính tả" của tư duy không vụ lợi), không phụ thuộc vào sự giám sát của
lý trí và đứng ngoài mọi thiên kiến thẩm mỹ hay đạo đức. Lối viết tự động
gắn với trực giác, với trạng thái mập mờ bất phân định giữa mơ và thức. Nó
đưa nhà thơ tới chỗ nắm bắt được cái thoáng chốc kỳ diệu có khả năng làm
vụt ngời lên những ảo ảnh khác thường, xa lạ với hiện thực nhàm tẻ đã biết
mà trong đó mọi thứ bị phân rã ra thành từng mảng biệt lập, rời rạc.
Tuân thủ nguyên tắc "viết tự động", trong sáng tác của mình, các nhà
thơ siêu thực đã tạo nên sự ngẫu kết đầy tính phi lý giữa những thực tế rất
khác nhau để đưa tới cho độc giả một hình ảnh độc đáo. Bài Tự do kết hôn
của A. Breton là một ví dụ:
Vợ tôi có mớ tóc của lửa gỗ
Có tư duy ánh chớp của nhiệt
Có vóc hình của đồng hồ cát
Vợ tôi có vóc hình con rái cá trong hàm răng con hổ
Vợ tôi có cái miệng như đoá hoa bằng lụa và chùm sao
cực sáng
Có hàm răng dấu tích của chuột bạch trên đất trắng
Có lưỡi bằng hổ phách và thuỷ tinh đánh bóng ...
127
(Quỳnh Thư Nhiên dịch)
Bài thơ này rất dài và đầy ắp những "quan sát" về "vợ tôi" trong từng
chi tiết nhân thân. Nếu chỉ đọc một vài câu, ta dễ cho rằng chẳng qua ở đây
tác giả chỉ dùng phép so sánh thông thường. Nhưng sự thực không hoàn
toàn như vậy. Tác giả có lẽ không có ý định tạo hình "vợ tôi" (ít nhất nhan
đề bài thơ cho thấy rõ điều này) với toàn bộ tính khách thể của nàng. Nhìn
"vợ tôi", ông nhìn ra một sự "tự do kết hôn" giữa những hiện tượng khác
loại trong thế giới. Chính sự liệt kê dài dòng của ông cuối cùng đã đưa tới
hiệu quả trùm lên độc giả một cảm giác, một cái nhìn mới về hiện thực -
một cái nhìn không bị đóng cứng trong định kiến mà biểu hiện sâu sắc bản
năng sống phổ quát của con người là luôn muốn hướng tới sự hoà hợp toàn
vẹn với thế giới.
Ví dụ vừa nêu đã cho ta thấy rõ một bí quyết tạo hình của thơ siêu
thực và phần nào thủ pháp "cắt dán" của nó. Đối với một người mở đường
và quan tâm nhiều tới việc "tuyên ngôn" như A. Breton, nhiều khi thủ pháp
trên bị phơi ra trên bề mặt của bài thơ, khiến đôi lúc độc giả có cảm tưởng
cái siêu thực mà nhà thơ đạt được mang nặng tính nhân tạo. Điều này hẳn
có cái lý của nó. Nhưng đối với nhiều nhà thơ khác, họ đi tới đích bằng
cách tái hiện trung thành những phút mê sảng của tâm hồn chính ngay lúc
nó phát sinh. Kết quả là sự ghép nối lạ lùng giữa các hình ảnh, sự xuất hiện
của những từ ngữ kỳ dị, sự chuyển kênh đột ngột của cảm giác trở nên ít
tính nhân tạo hơn, ít vẻ cố tình hơn, cũng có nghĩa là tự nhiên hơn. Lúc đó,
giả sử có ai hỏi tại sao lại thế này, tại sao lại thế kia hẳn nhà thơ sẽ rất khó
trả lời, hoặc hoàn toàn không trả lời được. Lá diêu bông của Hoàng Cầm là
một dẫn chứng. Trước đó, nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử có thể được đưa
ra để minh họa cho luận điểm vừa trình bày. Hãy đọc một đoạn trong bài
Một miệng trăng của Hàn Mặc Tử:
Cả miệng ta trăng là trăng!
Cả lòng ta vô số gái hồng nhan;
Ta nhả ra đây một nàng,
128
Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây,
Cho vì sao rụng xuống mái rừng say.
Gió thổi rào rào như lá đổ,
Suối gì trong trắng vẫn đồng trinh.
Bóng ai theo dõi bóng mình,
Bóng nàng yêu tinh,
Dịp cười như tiếng vỡ pha lê...
Quả đúng là một bài thơ đã tiếp cận được cái siêu thực. Logic bài thơ
là logic của chiêm bao, bởi thế các hình ảnh múa nhảy một cách tự do, cái
này xuất hiện đâm ngang vào cái kia tạo nên những sự biến hoá kỳ dị. Sống
trong tình trạng bị chi phối bởi hoạt động của vô thức, nhà thơ thấy tất cả
trong mình và ngược lại cũng thấy mình trong tất cả. Vì thế mới có chuyện
trong miệng có trăng, trong lòng có "vô số gái hồng nhan" và mới có
chuyện nhà thơ nghe tiếng cười đâu đó mà ngỡ là nghe tiếng rạn vỡ trong
tâm hồn, thấy "rụng trăng đầu hạ" mà tưởng như mộng của mình đang rơi
chìm vào đáy hư vô.
Chúng tôi vừa phác qua mấy nét về kiểu thức kết cấu của một số loại hình thơ phát triển trong giai đoạn hiện đại của tiến trình văn học. Không thể hy vọng ở đây một sự trình bày toàn diện, đầy đủ về kết cấu thơ trữ tình hiện đại. Chúng tôi đã từng phát biểu về điều này trên cơ sở ý thức được rằng thơ trữ tình hiện đại không chỉ có lãng mạn, tượng trưng và siêu thực. Chúng tôi sở dĩ nhắc nhiều tới chúng vì quan niệm rằng đó là ba loại hình thơ cho đến nay đã đưa tới những thay đổi quan trọng nhất về phương diện kết cấu cho thơ trữ tình hiện đại, khiến cho kết cấu thơ trữ tình hiện đại mang tính đặc thù, phân biệt rất rõ với kết cấu thơ trữ tình dân gian và kết cấu thơ trữ tình cổ điển. Chúng ta thường nói đến thơ cách mạng như một loại hình thơ đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của loại hình thơ hiện đại nói chung. Điều này là hoàn toàn đúng và không thể nghi ngờ. Tuy nhiên, ngoài lý tưởng cách mạng, ngoài vấn đề thế giới quan, thơ cách mạng vẫn tìm thấy tiếng nói chung với các loại hình thơ khác trong những thể nghiệm hình thức. Nhiều kinh nghiệm nghệ thuật quý báu của thơ lãng mạn, tượng trưng, siêu thực ở phương diện kết cấu đã được các nhà thơ cách mạng tiếp nhận
129
một cách hết sức tự nhiên. Một thực tế là người ta vẫn gọi P. Eluard, L. Aragon là những nhà thơ siêu thực lớn ngay cả khi các ông đã gia nhập Đảng Cộng sản. P. Neruda cũng thế: thơ ông đầy rẫy những yếu tố siêu thực. Còn với trường hợp Tố Hữu, kiểu kết cấu của thơ ông căn bản là kiểu kết cấu của thơ lãng mạn... Như vậy, không nhất thiết khi làm thơ phục vụ quần chúng cách mạng các nhà thơ phải sáng tạo ra một kiểu kết cấu hoàn toàn mới. Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày, vấn đề kết cấu không phải là vấn đề hình thức, kỹ thuật thuần tuý theo một cách hiểu hạn hẹp, vì vậy nếu nội dung cách mạng đã thấm đượm trong cái nhìn nghệ thuật thì chắc chắn kết cấu của tác phẩm phải có những thay đổi nhất định, cần thiết. Nhưng đây đã là một vấn đề lớn khác mà do yêu cầu nghiên cứu lý thuyết mà chuyên luận đặt ra, chúng tôi không có điều kiện đi sâu, bàn kỹ. Tóm lại, mong muốn của người viết chỉ là nêu lên một số cứ liệu tối thiểu, vừa đủ để làm sáng tỏ vấn đề: thơ trữ tình hiện đại quả đã mang lại một loại hình kết cấu mới so với thơ trữ tình cổ điển.
Vận dụng phương pháp loại hình, trong Chương 2, chúng tôi đã bước
đầu xây dựng khái niệm loại hình kết cấu thơ trữ tình. Theo chúng tôi, khái
niệm này rất hữu dụng, nó cho phép ta đi vào nghiên cứu bình diện kết cấu
của các loại hình thơ một cách sâu sắc. Không chỉ thế, nó còn giúp ta nhận
ra đặc trưng của các kiểu nhà thơ khác nhau cùng quá trình các kiểu nhà
thơ ấy "hiện thực hoá" mình trong sáng tác. Chúng tôi cũng đã tiến hành
xác định khái niệm nguyên tắc kết cấu, xem nguyên tắc kết cấu như một
yếu tố cấu trúc cơ bản của loại hình kết cấu thơ trữ tình có sức mạnh chi
phối mọi sáng tác thuộc một loại hình thơ nhất định nào đó, khiến cho mỗi
loại hình thơ có được một hệ thống thi pháp riêng, thống nhất. Để tạo tiền
đề cho sự phân tích những cách tân trên bình diện kết cấu của Thơ mới ở
chương sau (có thể xem như việc vận dụng lý thuyết đã xây dựng vào
nghiên cứu một vấn đề của lịch sử văn học), các đặc điểm của loại hình kết
cấu thơ trữ tình dân gian, loại hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển và loại hình
kết cấu thơ trữ tình hiện đại đã bước đầu được nhận diện. Có thể nói rằng:
lịch sử phát triển của thơ ca, theo một góc nhìn nào đó, chính là lịch sử phát
triển tiếp nối nhau của các loại hình kết cấu.
130
Chương 3
Loại hình kết cấu của Thơ mới 1932 - 1945
3.1. Những nguyên tắc kết cấu của Thơ mới 1932- 1945
Chương trên đã đề cập vấn đề: nói tới loại hình kết cấu, không thể
không nói tới những nguyên tắc kết cấu như một yếu tố cấu trúc cơ sở của
nó. Bên cạnh việc liệt kê những dấu hiệu riêng biệt của một loại hình kết
cấu, việc đi sâu tìm hiểu các nguyên tắc kết cấu sẽ giúp ta có được cái nhìn
bao quát hơn về đối tượng, nhận ra được những quan niệm bề sâu chi phối
các "thao tác làm thơ"cụ thể và cũng chính là cái tạo nên "tính cộng đồng"
của những sáng tác thuộc các phong cách và các khuynh hướng sáng tạo có
vẻ khác nhau nhất.
Xác định cho được những nguyên tắc kết cấu của Thơ mới (hiểu theo
nghĩa: những nguyên tắc kết cấu của thơ trữ tình của Thơ mới 1932 - 1945)
không phải là việc dễ dàng. Thoạt nhìn, nó có vẻ trái khoáy và không phù
hợp với thực tế, bởi như ta đã biết, Thơ mới trước kết là một cuộc nổi loạn,
một sự phá phách để đoạn tuyệt với những khuôn phép gò bó của "thơ cũ".
Nhưng sự "nổi loạn" và "phá phách" đó là một hiện tượng có quy luật, và
cũng theo quy luật, nó sẽ đưa tới cho thơ những nguyên tắc kết cấu mới
phù hợp hơn, rộng rãi hơn. Dĩ nhiên, phải qua một quá trình thể nghiệm,
tìm tòi, cái gọi là nguyên tắc kết cấu đó mới định hình rõ nét. Hoài Thanh -
nhà phê bình theo dõi sát từng bước phát triển của phong trào Thơ mới - đã
chứng thực điều này trên các trang viết của mình từ 1934 đến 1941 [148,
10], [149, 49 - 51]. Sau đây, xin nêu một số điểm có thể xem là nguyên tắc
kết cấu mà các nhà Thơ mới đã nhất quán tuân thủ trong khi sáng tác.
3.1.1. Tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá
thể
131
Nói tới việc làm thơ, xưa cũng như nay, người ta vẫn nhất trí đề cao
cái chân, cái gốc tình cảm, cảm xúc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những lời
phát biểu đôi khi vẫn na ná như nhau mà sự thực hành lại khác nhau xa.
Như đã nói, thơ trữ tình cổ điển là thứ thơ hướng tới cái trật tự, cái ổn định,
hài hoà. Hơn nữa, nó thường đề lên rất cao yêu cầu tỏ chí, truyền bá đạo
đức. Trên cơ sở một quan niệm như thế về cái đẹp và về chức năng giáo
hoá của thơ ca, hiển nhiên thơ trữ tình cổ điển không xem việc phải tôn
trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc như một nguyên tắc tổ
chức bài thơ, thậm chí người ta có thể đánh giá một sự "phóng khoáng"
theo kiểu này là thiếu nghiêm túc, đứng đắn. Nhận xét này cũng đúng cả
với sáng tác của các nhà nho tài tử trong văn học trung đại Việt Nam, ngay
khi họ phô khoe cái "ngông", cái "ngất ngưởng" của mình một cách đường
hoàng không cần giấu giếm, che đậy. Một bài thơ ca trù như Bài ca ngất
ngưởng của Nguyễn Công Trứ thực chất mới chỉ nghiêng về thuật kể hay
miêu tả cái "ngông" của nhân vật trữ tình - nhà thơ, chứ chưa thực sự bộc
lộ dòng cảm xúc tự nhiên của kẻ mang cốt cách ngông ngạo. Có lẽ chính từ
những hiện tượng tương tự như thế mà Đặng Thai Mai trong Giảng văn
Chinh phụ ngâm nhận xét thơ cổ điển chưa phải là thơ trữ tình mà là thơ tự
tình, tức là loại thơ chỉ chú trọng vào việc kể ra cái tình, cái hoàn cảnh đã
làm nảy sinh ra cái tình đó của nhà thơ. Trong buổi đầu của Thơ mới, hẳn
các nhà thơ đã rất tán đồng với nhận định đây của Phạm Quỳnh khi ông
bàn tới "tâm lý lối thơ" thất ngôn luật: "Người ta thường nói thơ là tiếng
kêu tự nhiên của con tâm. Người Tầu định luật nghiêm cho nghề làm thơ
thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy làm cho nó hay hơn, trúng vần,
trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi
vậy" (dẫn theo Hoài Thanh, Hoài Chân [149, 21]). Và hẳn các thi nhân mới
cũng hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Khôi khi nhà học giả này kêu gọi
"đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà
không bó buộc bởi niêm luật gì hết" (theo Hoài Thanh, Hoài Chân [149,
23]).
132
Những điều vừa trình bày đã cho thấy rõ việc tôn trọng dòng chảy tự
nhiên, sống động của cảm xúc quả là một hiện tượng mới trong thơ, liên
quan tới sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, của khát vọng được "thành thực",
được nói rõ "những điều kín nhiệm u uất", được công khai xem cái tôi cá
nhân như một cách thế nhìn đời hợp pháp. Nhưng điều cần được làm rõ là
vì đâu ta có thể xem nó như một nguyên tắc kết cấu của Thơ mới?
Hiển nhiên, việc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm
xúc đã đóng vai trò lớn trong việc giải phóng nội dung thơ khỏi nhiều mối
buộc ràng và cũng do vậy mà nó làm cho hình thức thơ, kết cấu bài thơ
thay đổi. Điều dễ thấy nhất là nó đã làm cho khuôn khổ từng bài thơ co
giãn linh hoạt, nhà thơ có thể kéo dài, thu ngắn bài thơ mặc ý tuỳ theo yêu
cầu thể hiện những nội dung cảm xúc cụ thể. Lúc này, số tiếng trong dòng,
số dòng trong khổ (nếu có chia khổ) cách gieo vần, ngắt nhịp biến hoá khác
nhau ở từng bài thơ. Những đổi thay này lâu dần trở nên tự nhiên, quen
thuộc nhưng ở vào thời điểm mà giữa hai phái thơ cũ và thơ mới đang có sự
"giao tranh" quyết liệt, người ta thấy nó rất mới, đến nỗi có người nhận lầm
rằng thơ tự do là toàn bộ cái mà Thơ mới hướng đến, khiến Hoài Thanh,
Hoài Chân phải biện chính nhân đi vào định nghĩa Thơ mới khi viết cuốn
Thi nhân Việt Nam. Vấn đề đang bàn trước hết có thể tìm thấy một ví dụ
minh họa nổi bật ở thơ Thế Lữ (chủ tướng đầu tiên của phong trào Thơ mới):
"Làm thơ, Thế Lữ đã luôn luôn theo một quy tắc, một quy tắc mà buổi đầu
các nhà thơ mới đều cho là chí lý, là tìm cho mỗi cảm hứng, mỗi đề tài một
cái điệu riêng, cái điệu ở đây phần chính cốt ở số chữ câu thơ đã đành mà
còn ở cách ngắt trong câu, ở vần thơ, giọng đọc, âm chữ, tất cả sao cho diễn
đạt được đúng, được hay cái ý đặc biệt của đề tài" [113, 578]. Nhận xét này
của Phạm Thế Ngũ về thực chất có thể xem như sự xác nhận việc tôn trọng
dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc là một nguyên tắc kết cấu của
Thơ mới.
Hiệu lực của nguyên tắc kết cấu nói trên đặc biệt được nhận rõ trong
việc sáng tạo tứ thơ của các nhà Thơ mới. Có cảm tưởng các nhà Thơ mới
133
đã tìm kiếm tứ thơ một cách dễ dàng, không phải kỳ khu khó nhọc, miễn
trong lòng có sẵn rung động. Sáng tác của Lưu Trọng Lư là một ví dụ tiêu
biểu. Chỉ theo dõi nhan đề của các bài thơ trong tập Tiếng thu là đủ thấy
dường như thi nhân không khó tính đòi hỏi phải tìm ra được kỳ tứ mới hạ
bút. Những nhan đề như Hôm qua, Bao la sầu, Mưa ... mưa mãi, Còn chi
nữa, Xin rước cô em ..., Đã khuya rồi, Khi yêu, Lại uống, Bâng khuâng,
Trăng lên, Lại nhớ .v.v... nhìn bề ngoài xem ra có vẻ cẩu thả nhưng kỳ thực
chúng đã phản ánh rõ ý hướng quan tâm nắm bắt những khoảng khắc tâm
trạng và nặng về coi trọng cách diễn tả riêng hơn là chú ý tìm kiếm một ý
nghĩa gì thật đặc biệt có giá trị ổn định, vững bền trong sự vật, sự việc. Hãy
đọc bài Bao la sầu, một bài thơ không có "ý nghĩa" gì khác ngoài việc ghi
lại một niềm rung động mơ hồ vừa chợt dấy lên:
Nhớ em trong ánh trăng mờ, Sóng cây gió gợn giời bao la sầu,
Chim chi gọi mãi bên cầu: Phải chòm sao rụng trước lầu hở em?
Lắng nghe trăng giãi bên thềm, Lắng nghe trăng giãi bên thềm ... ái ân.
Trong bài thơ cũng có những thắc mắc, những câu hỏi, những sự
lắng nghe có vẻ rất chăm chú như muốn tìm hiểu một điều chi (cụm từ lắng
nghe được lặp lại hai lần), kỳ thực, đó chỉ là một lối nói mang tính chất làm
duyên, và đến lượt mình, toàn bộ sự làm duyên đó đã đem lại ý vị cho cả
bài thơ và quy định sắc thái riêng biệt của một loại tứ thơ hình thành trên
cơ sở thi nhân diễn ra thành thực những mối cảm xúc đang dào dạt trong
lòng mình. Với loại tứ thơ này, cả bài thơ được tổ chức dựa vào diễn biến
có thật của cảm xúc với những cung bậc, biến thái tinh tế của nó. Rất nhiều
trường hợp loại tứ thơ này đã phá vỡ mô hình cấu trúc chặt chẽ của những
thể thơ cách luật truyền thống như tuyệt cú, luật thi, một khi thi nhân đã
chọn những thể thơ đó để hiện thực hoá tứ thơ của mình. Trong số 28 bài
tuyệt cú và luật thi được Hoài Thanh, Hoài Chân chọn đưa vào Thi nhân
Việt Nam, có lẽ chỉ có mấy bài của Quách Tấn và một vài bài khác như
134
Cảnh đó, người đâu của Thái Can, Cành hoa thu muộn của Lưu Kỳ Linh là
còn giữ được ít nhiều đặc trưng thi pháp của thơ Đường luật cổ điển, còn
thì chúng chỉ giống thơ xưa ở số câu, số tiếng trong câu chứ cách cấu tứ
xem ra rất khác, do chỗ các nhà thơ nghiêng về diễn tả theo thời gian trình
tự thật của cảm xúc, của sự quan sát, chứ ít chú ý tổ chức bài thơ theo kiểu
nhấn mạnh sự thống nhất của những sự vật, hiện tượng nhìn bề ngoài có vẻ
mâu thuẫn như thơ Đường chẳng hạn.
Dĩ nhiên, trong số các nhà Thơ mới, không phải ai cũng dễ tính như
Lưu Trọng Lư khi tìm tứ cho bài thơ của mình, nhưng hiện tượng cố sức
nắm bắt và tái hiện trung thành những dòng tâm trạng cùng với nhận thức
rằng chỉ riêng việc ấy đã có đầy đủ ý nghĩa, là một hiện tượng phổ biến
trong sáng tác của hầu hết nhà thơ. Do sự xuất hiện của loại tứ đặc biệt này,
có thể xem Thơ mới như một dàn đồng ca của muôn ngàn tâm trạng cá biệt,
cụ thể. Đúng là theo một góc nhìn nào đó, đề tài mà các nhà Thơ mới khai
thác khá đơn điệu, phần nhiều chỉ xoay quanh những nỗi sầu, mộng riêng tư,
nhưng đi vào tìm hiểu cụ thể, ta phải thừa nhận rằng cách thể hiện những nỗi
sầu mộng ấy hết sức đa dạng ở từng nhà thơ khác nhau. Chưa bao giờ trong
thơ trữ tình Việt Nam, những kinh nghiệm đặc biệt và cụ thể của từng cá
nhân được chú ý khai thác như vậy. Đối với các nhà Thơ mới, đây là một
niềm hứng thú lớn lao làm động lực cho sáng tạo, thay thế cho niềm hứng
thú trước kia của các nhà thơ cổ điển chỉ chuyên hướng tới những chân lý
phổ biến và trừu tượng. Lúc này, hẳn không chỉ mình Xuân Diệu mới quan
niệm rằng cả những nỗi sầu vô cớ kiểu "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn"
cũng chứa chan thi vị và hoàn toàn có thể được phô bày trong một sáng tác
thơ đích thực! Nếu như trước đây, "vô cớ" đã rất có thể là vô nghĩa, không
được kể đến.
Một khi đã chi phối mạnh mẽ việc sáng tạo tứ thơ, nguyên tắc kết
cấu tôn trọng dòng chảy tự nhiên sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể
cũng đem tới nhiều cách mở đầu và kết thúc bài thơ rất phóng túng mà thơ
trữ tình cổ điển chưa biết đến. Điều này sẽ được phân tích kỹ ở những trang
135
sau, nhưng ở đây chúng tôi muốn nói ngay tới một quan niệm mới về sự hài
hoà mà những cách mở đầu và kết thúc đặc thù của Thơ mới đã mang lại.
Người ta thường nói tới vẻ đẹp hài hoà của một tác phẩm thơ đích thực,
xem đó như là một phẩm chất giá trị có tính vĩnh hằng. Nhưng thực tế thì
cái hài hoà trong thơ cổ điển rất khác với cái hài hoà trong thơ hiện đại.
Trong thơ cổ điển, giữa con người với vũ trụ, giữa lý trí và cảm xúc, giữa
nội dung cảm xúc và hình thức biểu hiện có mối quan hệ tương ứng, thống
nhất. Những sự khủng hoảng, phân ly có thể được đề cập nhưng thường thì
sau cùng bằng toàn bộ nhận thức và bằng toàn bộ kỹ xảo làm thơ, các nhà
thơ cổ điển đã nỗ lực khắc phục được những sự khủng hoảng, phân ly đó.
Chỉ một vài bài thơ trữ tình cổ điển được nhắc tới tình cờ như Độc Tiểu
Thanh ký của Nguyễn Du, Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, Thu
vịnh của Nguyễn Khuyến cũng có thể giúp chúng ta thấy rõ điều trên. ở
Thơ mới, cái vẻ đẹp hài hoà có cội nguồn trong quan niệm triết học về sự
thống nhất của thế giới bây giờ dường như chỉ còn rút lại ở sự ăn khớp nhịp
nhàng giữa nội dung cảm xúc với những phương tiện nghệ thuật dùng để
diễn tả nó, giữa thơ với họa và nhạc. Còn trong kết cấu hình tượng, ta luôn
chứng kiến thế tồn tại chênh vênh của cái tôi cá nhân và sự cố tình khoét
sâu vào trạng thái thất vọng, đau buồn trầm trệ. Được đắm mình trong nỗi
đau của mình hẳn cũng là một cái thú của các nhà thơ thời Thơ mới. Chẳng
thế mà Hàn Mặc Tử từng viết Không rên xiết là thơ vô nghĩa lý. Đằng sau
nghịch lý này là toàn bộ ý thức của các nhà thơ về sức mạnh cái tôi cá nhân
- hoá ra cái tôi của họ cũng có bao nhiêu chuyện để nói, nó không "nhỏ bé"
và vô nghĩa như người ta có thể tưởng.
Theo một logic tự nhiên, việc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống
động của cảm xúc đòi hỏi các nhà Thơ mới phải tìm đến một thứ ngôn ngữ
thơ hiện đại. Nếu câu thơ cổ điển về căn bản là câu thơ điệu ngâm thì câu
thơ của Thơ mới về căn bản là câu thơ điệu nói. Đặc điểm nổi bật của câu
thơ điệu nói nói riêng và thơ điệu nói nói chung đã được Trần Đình Sử
136
phân tích trong các bài viết về Thơ mới và thơ Tố Hữu. ở đây, chúng tôi
xin lược thuật lại:
-Với các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu nói có thể cho
phép nhà thơ biểu hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng, tình cảm của
cá nhân trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể, nó có ngữ khí từ, câu hỏi,
câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người đọc, theo
kiểu tự bộc bạch, tâm sự với bạn bè.
-Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra
trênbề mặt, đồng thời cải tạo lại chất nhạc của thơ - không phải nhạc trầm
bổng réo rắt do phối hợp bằng trắc tạo nên mà do tiếng lòng, do hơi thở,
nhịp tình cảm tạo nên. Nhạc trong thơ điệu nói là tiếng người, ngữ điệu
người, giọng điệu người.
-Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất đa dạng. Có các hư từ,
các cách lập luận, các khẩu hiệu, có tiếng hô, lời chào, lời chêm, câu hỏi,
đối đáp, có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là một câu.
-Thơ điệu nói đứng trước nhiều viễn cảnh phát triển khác nhau. Nó
mở cửa cho những tiếng lòng gần gũi, mang cái hổn hển, dào dạt của đời
vào thơ. Nó mở cửa cho tiếng nói hàng ngày, chất văn xuôi đủ các cung
bậc, lĩnh vực có thể vào thơ. Nó mở thông cửa sang truyền thống dân gian,
vì thơ ca dân gian căn bản là thơ điệu nói. Nó mở ra cho các hình thức tư
duy mới mẻ, cho phép sử dụng các ẩn dụ, liên tưởng đầy nghịch lý bất ngờ.
Và dĩ nhiên, nó cho phép cá tính nhà thơ bộc lộ sắc nét hơn bao giờ hết,
ngay trong hình thức thơ [136], [138].
Có thể thấy rõ mối quan hệ nhân quả và tương hỗ giữa cơ chế sáng
tạo tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc với câu thơ điệu
nói. Nói đến câu thơ điệu nói, dĩ nhiên ta không chỉ nói tới khuôn khổ của
câu, số tiếng trong câu, mà nghĩ tới toàn bộ quan niệm hậu thuẫn cho nó,
nghĩ tới một phương diện cơ bản trong hình thức thơ, phân biệt thơ trữ tình
của Thơ mới với thơ trữ tình cổ điển.
137
3.1.2. Đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình
Thực ra nguyên tắc kết cấu này không tồn tại biệt lập với nguyên tắc
kết cấu thứ nhất đã nêu vì nói chung các nguyên tắc kết cấu vẫn luôn bao
hàm lẫn nhau. Tuy vậy, chúng tôi vẫn muốn nhấn mạnh nó như một nguyên
tắc kết cấu cơ bản của Thơ mới khi hướng cái nhìn vào mối tương quan giữa
các bộ phận hình tượng cấu thành hình tượng thống nhất của bài thơ: tình,
cảnh, sự. Trong thơ trữ tình cổ điển, tâm trạng nhà thơ, cảm xúc của nhà thơ
thường không được phô bày trực tiếp mà thường náu mình sau những cảnh,
những sự. Điều này không có gì mâu thuẫn với quan niệm lấy tình làm gốc
(Bạch Cư Dị: "Thi giả, căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa"), có
điều, cơ chế biểu hiện cái tình đó là "cảm ở mắt, hiểu ở lòng, biểu hiện ở
tượng", "lấy vật để tả lòng" .v.v.. Khi giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ
đã có một mối quan hệ thống nhất thì nhà thơ hẳn thấy không cần thiết phải
phô ra lời nói mang cảm xúc hoặc nhận định trực tiếp của mình.
Trong thơ cận thể đời Đường, nếu giọng điệu chủ quan có lộ ra thì
thường là lộ ra ở liên thơ cuối . Tác giả cuốn Sức quyến rũ của thơ Đường
từng khái quát: "Nhìn từ một ý nghĩa nào đó, những điều nêu ra dưới đây
đều là nguyên tắc cấu trúc của thơ cận thể: hai liên giữa của thơ luật, xét về
mặt ngôn ngữ là ý tượng, về mặt tiết tấu là không liên tục, còn liên cuối thì
dùng ngôn ngữ suy luận và tiết tấu liên tục. Câu cuối hoặc liên cuối của thơ
cận thể thường thường không phải là giọng điệu trần thuật giản đơn mà là
giọng điệu nghi vấn, giả thiết, cảm thán hay cầu khiến. Chức năng của
những giọng điệu này là biểu đạt tiếng lòng của nhà thơ và khiến cho lời
thơ tuy hết mà ý không cùng" [124, 251]. Như vậy, ta có thể nói trong thơ
cận thể đời Đường và phần nào trong thơ trữ tình cổ điển, do cú pháp độc
lập chiếm ưu thế mà trung tâm sáng tạo của nhà thơ đặt ở ý tượng - những
ý tượng độc lập được biểu đạt bởi những danh từ, cụm danh từ xếp đặt
song song bên nhau trong các câu thơ, liên thơ, nhờ quan hệ cơ chất (tức là
quan hệ được hình thành do ảnh hưởng qua lại cục bộ giữa các từ ngữ) mà
thành những ý tượng phức tạp hơn. Hiển nhiên, cú pháp suy luận không hề
138
vắng mặt trong thơ trữ tình cổ điển, nhưng điều quan trọng là nó xuất hiện
với một tỷ lệ thấp, khiến khả năng biểu hiện trực tiếp cảm xúc của nhân vật
trữ tình bị yếu đi.
Do Thơ mới chủ yếu là thơ lãng mạn với đặc trưng về nội dung là đề
cao cá tính, đề cao sự cảm thụ cá nhân đối với thế giới hữu hình vây quanh
mà nhu cầu đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình
trở thành thiết yếu. Liều lượng của những lời bộc lộ trực tiếp hết sức đậm
trong hầu khắp các bài thơ và giọng điệu chủ quan giữ vai trò áp đảo.
Không kể thơ của những nhà thơ lãng mạnh khá thuần tuý như Thế Lữ,
Xuân Diệu hay thứ thơ ít nhiều có yếu tố siêu thực như của Hàn Mặc Tử
mà ở đó toàn bộ trạng thái tâm hồn và tâm thần của nhà thơ được tái tạo hết
sức sinh động và hồn nhiên, ngay trong nhiều bài thơ phảng phất điệu
ngâm mang vẻ đẹp khá cổ điển của Huy Cận như Đẹp xưa, Tràng giang,
Thu rừng v.v...ta cũng nhận thấy rõ điều này. Cái tứ của bài thơ Đẹp xưa
được nói ra ngay ở đầu đề: nhà thơ dựng lại một vẻ đẹp xưa, một vẻ đẹp đã
thuộc về dĩ vãng. Với một cái tứ như thế, hiển nhiên nhà thơ phải có ý thức
làm sống lại những thi liệu cũ với "ngựa non cao", với "dặm xa" cùng hình
bóng người "lữ thứ" ... Và cũng tất yếu việc nhà thơ tự nguyện lẩn mình đi
đằng sau cảnh, để cảnh tự kể với người đọc về nỗi "tịch liêu", về nỗi " xa
vắng tự muôn đời " của nó. Nhìn chung, bài thơ nổi bật ở vẻ đẹp "thi trung
hữu họa", vẻ đẹp thoát ra từ sự tĩnh tại, ngưng đọng. Nhưng nếu xét kỹ hơn,
ta dễ nhận thấy xúc cảm của nhân vật trữ tình đã lộ diện ngay ở từ thứ nhất.
"Ngập ngừng" là từ vừa khắc họa nét không bằng phẳng của con đường
viền mép núi hoặc vẻ uốn lượn chập chùng của bản thân ngọn núi, lại vừa
diễn tả những khuất khúc trong lòng người. ở những câu tiếp theo, những
từ "hút", "nao" cũng song song gợi lên vừa đặc tính của sự vật khách quan
vừa niềm rung động chủ quan của nhân vật trữ tình. Càng về cuối, nỗi niềm
chủ quan càng phát lộ mạnh mẽ qua một loạt trạng từ dường như chỉ dùng
để xác định đặc điểm của tâm trạng: "héo hon", "tịch liêu", "buồn" ... Rõ
ràng, cái gọi là "đẹp xưa" trong bài đã không phải được nhìn từ con mắt
139
của một cái tôi siêu cá thể thời trung đại mà chủ yếu được chiêm ngắm từ
con mắt của cái tôi cá nhân thời Thơ mới. Với cái tôi cá nhân này, việc che
dấu những cảm xúc trực tiếp trở thành một cái gì đó như là trái tự nhiên và
vẻ đẹp của hình tượng thơ phải luôn luôn phải gắn liền với sự vận động, mà
cụ thể là gắn liền với những ấn tượng trực tiếp về sự vật trên nền một trạng
thái cảm xúc rất cá biệt, rất xác định nào đó.
Khi đề cập tới nguyên tắc kết cấu thứ hai này trong Thơ mới, ta phải
đối diện với một loạt dữ kiện "bất trị" lấy từ những bài "tả chân " trong thơ
của các tác giả như Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ ... Các tác giả này
đều có chung một điểm là khi làm thơ thường đặt trọng tâm vào việc mô tả
khách thể bên ngoài [149, 175,179, 187]. Với đặc điểm sáng tạo này, phải
chăng nguyên tắc kết cấu đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực tiếp của
nhân vật trữ tình không phát huy hiệu lực? Sự thực thì sức mạnh của
nguyên tắc kết cấu này vẫn tồn tại, nhưng vớí một hình thức hơi khác. Hoài
Thanh, Hoài Chân, khi nói về Nam Trân, đã nhận định: "Về âm điệu, thơ
Nam Trân thực dồi dào. Thi nhân không theo điệu nào nhất định. Trước
mỗi cảnh, mỗi tình, người lại cố tạo ra một điệu thơ cho thích hợp"
[149,180]. Nói đến điệu thơ, hẳn nhiên ta phải nói tới sự phụ thuộc của nó
vào điệu tâm hồn, vào trạng thái cảm xúc. Khi nhà thơ ra sức tìm cho mỗi
bài mỗi điệu ấy là khi anh ta tỏ ra tôn trọng trước hết đến niềm rung động
thật của mình trước cảnh. Thơ Anh Thơ không thật phong phú về âm điệu
(một biểu hiện: tất cả các bài trong tập Bức tranh quê đều được viết bằng
thể 8 chữ với một giọng liệt kê khá đơn giản), nhưng nếu bảo rằng thơ Anh
Thơ chỉ đơn điệu một vế tả cảnh mà thiếu vế tả tình thì sự thực người ta
mới chỉ "bắt lỗi" nhà thơ ở những bài không thật xuất sắc lắm . Trong
những bài tiêu biểu của nhà thơ (như những bài được Hoài Thanh, Hoài
Chân tuyển vào Thi nhân Việt Nam) ta nhận thấy cái tình của thi nhân cũng
khá đậm đà, thấm đượm vào trong từng nét miêu tả. Vả chăng, khi đi vào
cảnh, thi nhân đã thể hiện một hứng thú, một niềm say mê quan sát dường
như không bao giờ vơi. Lối tả cảnh rất riêng của AnhThơ chung quy vẫn là
140
biểu hiện đích thực của một ý thức sáng tạo xem trọng sự biểu hiện của
những cảm xúc trực tiếp. Ta hãy thử đọc những câu tràn đầy cảm giác như:
Mây đi vắng, trời xanh buồn rộng rãi ... Sông im dòng đọng nắng đứng không trôi
(Bến đò trưa hè)
Hoa mướp rụng từng đoá vàng rải rác; Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.
(Sang thu)
Trong mấy dòng thơ vừa dẫn, sự can thiệp của cái chủ quan vào
khách thể miêu tả thật rõ nét. So với những ý tượng độc lập trong thơ cổ,
những hình ảnh được vẽ ra ở đây mang một đặc tính khác. Vẻ thừa thãi của
ngôn ngữ miêu tả (chính là yếu tố "ngôn" - lời nói) đã gây ấn tượng rệt về
sự cảm nhận sống động của nhà thơ đối với cảnh vật. Giả sử hai câu thơ
đầu vắng những từ như "đi", "buồn", "đứng không trôi", chúng sẽ không
phải là những câu thơ của Thơ mới nữa. Hay ở hai câu sau, nếu không có
các cụm từ, các từ như "từng đoá vàng rải rác", "nhớ nắng", "ngẩn ngơ",
chắc hẳn nỗi "xôn xao" đặc thù của Thơ mới sẽ biến mất. Cũng với một
cách nhìn tương tự, ta sẽ thấy thơ Đoàn Văn Cừ, như thơ của Anh Thơ, trên
nét lớn, vẫn luôn tuân thủ nguyên tắc kết cấu đang được đề cập.
Đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình thực
ra trước hết là nguyên tắc kết cấu của loại hình thơ lãng mạn nói chung.
Xem chúng là một trong những nguyên tắc kết cấu của Thơ mới, ở phương
diện nào đó, gần như đồng nghĩa với việc nhìn nhận Thơ mới về căn bản là
thơ lãng mạn (điều đã đôi lần được nói tới ở trên). Chúng tôi nghĩ nhận xét
này là sát thực tế, vì khi nhìn vào những hiện tượng thơ thỉnh thoảng được
coi là đã đi vào "quỹ đạo thơ tượng trưng của Âu, Mỹ" như Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Bích Khê, Xuân Thu Nhã tập, ta vẫn thấy sức mạnh hiện
thực của nguyên tắc kết cấu đang bàn (trừ sáng tác của nhóm Xuân Thu
Nhã tập). Thơ tượng trưng không vụ vào sự miêu tả thế giới hữu hình cũng
như chủ trương gạt bỏ những lời giải thích, những sự biểu lộ trực tiếp ý
141
nghĩ và tình cảm. S.Mallarmé từng nói: "Tôi nghĩ là chỉ nên có ám chỉ, gợi
ý. Gọi hẳn tên một sự vật là huỷ bỏ ba phần tư sức cảm thụ bài thơ, cảm thụ
chính là nỗi sung sướng được suy đoán dần dần" (Chuyển dẫn theo [18,
401]). Chiếu định hướng sáng tạo này (hay thủ pháp sáng tạo đặc thù) này
của thơ tượng trưng vào Thơ mới, ta có thể nhận ra trong Thơ mới khá
hiếm những bài "tượng trưng" thuần tuý. Nếu phải kể tới thì phải chăng đó
là Đồ mi hoa, Nàng bước tới của Bích Khê, Trưa đơn giản của Chế Lan
Viên, Buồn xưa, Hồn ngàn mùa của Nguyễn Xuân Sanh, Màu thời gian của
Đoàn Phú Tứ v.v...? Tuy nhiên, vấn đề cần nói là những bài thơ "tượng
trưng" loại này chiếm tỷ lệ không cao trong Thơ mới và ngay trong thơ của
Bích Khê - người muốn kiếm tìm một thứ thơ tượng trưng đích thực -
người ta vẫn thấy rõ dấu vết của một cái tôi lãng mạn ham giãi bày, hay nói
ra những cảm nhận trực tiếp của mình. Điều này đã được nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử [138, 82 - 87] và nhà thơ Hoàng Hưng [15, 57] phân tích kỹ,
ở đây chúng tôi xin không nhắc đến nữa.
3.1.3. Nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả
Như các nguyên tắc kết cấu khác đã nêu ở trên, nguyên tắc nhấn
mạnh sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả (trong luận án, đôi khi chúng
tôi gọi nguyên tắc này một cách ngắn gọn là nguyên tắc "khách thể hoá")
phản ánh rõ điều mà các nhà nghiên cứu đã nhất trí nhận định là Thơ mới là
thơ của cái tôi cá nhân, cá thể. Trong thơ siêu cá thể thời trung đại, giữa
ngoại giới và nội giới có sự thống nhất tiên thiên nên việc phân biệt chủ thể
và khách thể không được đặt ra. Các nhà thơ thường thích phát biểu về
những chân lý vĩnh cửu, về cái đạo, cái đức lớn bao trùm vũ trụ. Nói cách
khác, qua thơ trữ tình cổ điển, cái đạo, cái đức ấy đã tìm được lối thể hiện
mình trong những hình sắc, tâm trạng cụ thể và luôn luôn quy định tính
tương đối của những hình sắc, tâm trạng ấy. Bởi vậy, nhiều khi nhà thơ cổ
điển không hề e ngại hình thức đối xứng quá ngăn nắp trong thơ luật có thể
làm hại sự mô tả xác thực một đối tượng khách quan nào đó. Đối với họ,
cái quan trọng chưa phải là hình thái cá biệt của sự vật mà là sự cảm nhận
142
duy lý về sự vật. Điều này đúng cả với những bài thơ dường như được viết
ra chỉ để vịnh một cảnh, một người, một sự vật có thật trong đời. Hoàng
Hạc lâu của Thôi Hiệu, Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài cuả Lý Bạch,
Vân Đồn của Nguyễn Trãi, Qua Đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ của Bà
huyện Thanh Quan v.v... là những ví dụ.
ở Thơ mới, đồng thời với việc khẳng định mình và tuyên bố quyền
sống của mình, cái tôi đã tiến hành một loạt phân biệt và đối lập với mọi
cái chung quanh không phải là nó. Như người ta vẫn nói, ý thức về mình đã
dẫn tới ý niệm về kẻ khác. Từ đây sự thống nhất tiên thiên giữa chủ thể và
khách thể đã bị phá vỡ. Khoảng cách giữa chúng rõ dần và dĩ nhiên ý thức
về sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả trở nên thường trực trong tư duy
sáng tạo của nhà thơ, khiến cho nó đóng vai trò như một nguyên tắc kết
cấu, nguyên tắc xây dựng hình tượng thơ.
Trước hết hãy kiểm nghiệm vấn đề này với những bài thơ mang
nội dung trình bày một dòng cảm xúc nào đó. Từ Thơ mới trở về trước,
có lẽ chưa bao giờ người ta lại biểu hiện tâm trạng và miêu tả cảm xúc
của mình một cách tỉ mỉ và đôi khi thiếu hàm súc như thế - như trong
một số bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu. Cảm xúc, tâm trạng vốn là một
cái gì mang đậm tính chủ quan, nhưng với các nhà Thơ mới, tự thân cái
chủ quan đó có một giá trị hiển nhiên cần được tôn trọng, cần được "tạo
hình", miêu tả như một khách thể tồn tại độc lập, nhằm thoả mãn nhu
cầu tự ngắm, tự quan sát mình của cái tôi cá nhân. Trong bài Tiếng sáo
Thiên Thai, Thế Lữ đã viết:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng, Buồn ơi! xa vắng, mênh mông là buồn ...
Khi nhà thơ cất tiếng gọi "Buồn ơi!" và xác định tính chất của nó
bằng hai từ "xa vắng", "mênh mông", ta hiểu rằng cái buồn đã được đối
tượng hoá. Nhà thơ không chỉ đơn thuần sống trong trạng thái buồn để rồi
phủ vẻ hắt hiu lên cảnh vật theo nguyên tắc chủ quan hoá đối tượng mà biết
vượt ra, đối lập với nỗi buồn của chính mình để miêu tả nó như một hiện
143
tượng khách quan. Những câu thơ này quả thực đã được viết ra nhờ tinh
thần duy lý và sự tự ý thức cao độ của cái tôi cá nhân. Nó khác về bản chất
với hiện tượng đồng nhất mình với ngoại giới để rồi nói về mình như nói về
một hiện tượng khách quan (và ngược lại) trong thơ cổ điển:
Nước biếc, non xanh, thuyền gối bãi Đêm thanh, nguyệt bạch, khách lên lầu.
( Bảo kính cảnh giới 26 – Nguyễn Trãi)
"Khách" ở đây không phải ai khác mà chính là nhà thơ - nhân vật trữ
tình. Thật là một kiểu xoá nhoà ranh giới giữa chủ thể và khách thể rất hồn
nhiên!
Xin phân tích thêm một ví dụ nữa lấy từ thơ Huy Cận - bài Đi giữa
đường thơm. Khi nói tới bài này, có nhà nghiên cứu đã chú ý hiện tượng
"chủ thể trữ tình rơi vào trạngthái mơ mộng cao" và anh ta muốn bằng mơ
mộng đạt tới sự hợp nhất với không gian vĩnh hằng của nghỉ ngơi yên tĩnh
[161, 84]. ở đây, chúng tôi chỉ muốn lưu ý rằng ngay ở tình trạng tưởng là
"nhòe mình", rơi vào ranh giới giữa thực và hư, nhân vật trữ tình vẫn chỉ
nhắm một mắt, còn một mắt cứ mở to để tự quan sát mình với sự tỉnh táo
đến kinh ngạc. Nếu không phải, làm sao anh ta thấu tỏ lòng mình, thấu tỏ
những gắng gỏi nội tâm của mình đến vậy: Lòng giắt sẵn ít hương hoa
tưởng tượng và Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều. Trong bài thơ
những từ, những cụm từ mang tính chất định lượng đối với sự vật (kể cả
định lượng cảm xúc) xuất hiện khá dày: "ít", "thoáng", "nhiều", "có chút
gì"... thêm vào đó là giọng kể chậm rãi cùng ít nhiều lời mang tính chất chú
thích hoặc giải thích: Lên bề cao hay đi xuống bề sâu? / Không biết nữa. -
Có chút gì làm ngợp; Buổi trưa này xưa kia ta đã đi ... Cũng cần kể tới dấu
ngoặc kép đóng khung câu "Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu" chứng
tỏ tác giả đang tự quan sát nỗi buồn của mình. Tất cả những điều vừa nói
đã đưa ta tới kết luận: ngay khi nhà thơ giãi bày một tâm trạng, nguyên tắc
kết cấu "khách thể hoá" vẫn được áp dụng. Chính điều này đã làm cho tâm
trạng trở nên cụ thể, sống động hơn rất nhiều. Có thể nói ngược lại: cứ khi
144
nào nhận ra vẻ cá biệt của tâm trạng là khi đó, muốn hay không muốn, ta
cũng khó mà không thừa nhận rằng nguyên tắc kết cấu "khách thể hoá" đã
thực sự chi phối việc tổ chức hình tượng thơ.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, nguyên tắc kết cấu nhấn mạnh sự tồn tại độc
lập của khách thể miêu tả đưa tới một kết quả đặc biệt: toàn bộ những cái
vốn vô hình trừu tượng đã được vật thể hoá để trở nên có hình khối, có sức
nặng. Thế giới mộng, thế giới của ảo giác và tâm linh trong thơ ông vì thế
không mù mờ nhạt nhoà mà hình như cũng có tổ chức, có trật tự riêng với
sự va chạm, tương tác giữa nhiều vật thể, và chính nhờ những sự va chạm,
tương tác đó mà kịch tính của tâm trạng mộng mơ đặc thù nơi ông rõ nét
hơn bao giờ hết. Xin lẩy tình cờ ít câu thơ mà ở đó ông vật thể hoá những
gì mơ hồ khó nắm bắt nhất:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi... (Mùa xuân chín)
Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tợ si?
(Những giọt lệ) Bắt! Bắt! Thơ bay trong gió loạn, Để xem tình tứ nặng bao cân.
(ước ao) Nhưng đáng nói hơn cả trong thơ Hàn Mặc Tử là hiện tượng nhà thơ
biến hồn mình thành một nhân vật, vừa đồng nhất lại vừa khác biệt với
chính con người của ông. Vì thế thơ ông luôn luôn là một cuộc tự vấn da
diết với lương tâm là một chuỗi liên tục những gắng gỏi tìm về với con
người toàn nguyên (des hommes entiers) - con người không chỉ có phần ý
thức, phần hoạt động bên ngoài mà còn có cả phần đang ngủ chìm trong
tiềm thức, vô thức. Những bài thơ Hồn là ai, Biển hồn ta, Rướm máu, Trút
linh hồn, Hồn lìa khỏi xác v.v... đều được tổ chức dựa trên sự "đối thoại",
sự ứng xử của nhà thơ với chính hồn mình, cũng có nghĩa là dựa trên sự
khách thể hoá nó.
145
Nói các nhà Thơ mới luôn có ý thức khách thể hoá chính tâm trạng
và cảm xúc chủ quan của mình, điều này ở một mức độ nào đó có thể gây
ngỡ ngàng. Nhưng hẳn người ta sẽ thấy sự tồn tại của nguyên tắc kết cấu
"khách thể hoá" là hiển nhiên hơn nhiều ở loại thơ có nội dung miêu tả
cảnh vật thiên nhiên. Khảo sát toàn bộ những bài thơ nói về thiên nhiên
trong Thơ mới, chúng tôi nhận thấy thiên nhiên ở đây ngoài việc xuất hiện
với đủ mọi tư cách từng có trong thơ cổ (tín hiệu báo mùa, sự ghi dấu thời
gian, ẩn dụ triết lý...) còn xuất hiện với một tư cách mới mà thơ xưa chưa
biết đến: tư cách một khách thể, một đối tượng có đầy đủ giá trị, phân cách
với chủ thể và thử thách khả năng chiếm lĩnh của chủ thể. Xuân Diệu viết:
Không gian như có dây tơ Bước đi sẽ đứt, đụng hờ sẽ tiêu
(Chiều)
Nếu không nhận thấy thiên nhiên là cái gì độc lập với mình và có
cuộc sống riêng của nó, làm sao nhà thơ phải khẽ khàng, dè dặt như thế!
Còn Huy Cận, trong Buồn đêm mưa đã nghe thấy cùng lúc hai thứ "tiếng":
Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
Thông thường, chỉ mỗi chi tiết "nghe trời nặng nặng" đã đủ dựng
một tâm trạng, theo kiểu ngoại cảnh được chuyển hoá thành tâm cảnh, dựa
trên nguyên tắc "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nhưng với giác
quan của một nhà thơ kiểu mới, Huy Cận đã phân biệt được âm sắc riêng
của từng thứ "tiếng". Chúng không đồng nhất mà "hoạ điệu" với nhau.
Nguyên tắc kết cấu nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả chi
phối việc tổ chức những bài thơ viết về thiên nhiên như thế nào, chúng tôi
sẽ nói cụ thể hơn ở phần sau. Còn ở đây, xin chỉ điểm qua đủ để thấy
"khách thể hoá" là một nguyên tắc kết cấu cơ bản, phổ quát của Thơ mới
mà thôi.
Trong Thơ mới, rất phổ biến những bài thơ giàu yếu tố truyện hay
nói cách khác là chứa đựng bên trong cả một câu chuyện (dù vẫn là thơ trữ
146
tình đích thực). Trên nét lớn có thể nói sự nở rộ của những bài thơ loại này
phản ánh sự chi phối sâu sắc của nguyên tắc kết cấu "khách thể hoá" đối
với sáng tác của các nhà Thơ mới. Thơ Nguyễn Bính là thứ thơ đầy
chuyện: chuyện một cô em để phai nhạt màu quê khi đi tỉnh về, chuyện một
anh lái đò thất tình dạm bán chiếc thuyền đã được buộc vào số phận,
chuyện một người chị "lỡ bước sang ngang" trong nước mắt, chuyện một
người con gái ngây thơ từ chỗ nao nức tới nơi hò hẹn đến chỗ "lầm lụi trên
đường về" cùng bao thất vọng v.v... Thơ Nguyễn Nhược Pháp cũng thế:
toàn bộ tập Ngày xưa là những câu chuyện ngồ ngộ, vui vui hoặc tình tứ
của quá vãng được kể bằng thơ. Bên cạnh hai tác giả trên, còn cần phải kể
tới Thế Lữ, Phạm Huy Thông, J.Leiba, Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm,
Trần Huyền Trân, T.T.Kh., Nguyễn Xuân Huy v.v...là những tác giả đã viết
nhiều bài thơ có chuyện. Quả là các nhà thơ đã có hứng thú rõ rệt đối với
việc quan sát chính nội tâm mình khi nó được khoác thử bộ áo khách quan,
cũng như rất ưa nhập vai vào những đối tượng khác mình để hiểu nó và
cũng là để hiểu ngay bản thân mình. Để viết những bài thơ có chuyện này,
họ đã học tập nhiều kinh nghiệm của thơ trữ tình dân gian (như với Nguyễn
Bính) của thơ cổ điển (như với Phan Văn Dật), tất nhiên đã nhào nặn nó
trên một tinh thần mới. ở đây cũng cần phải kể tới sự tiếp thu những kinh
nghiệm nghệ thuật của lối thơ ballade châu Âu nữa.
Nói về nguyên tắc kết cấu thứ ba của Thơ mới, thiết tưởng cần phải
đề cập loại thơ trữ tình mang hình thức kịch gắn với tên của một vài tác giả
như Phạm Huy Thông, Hàn Mặc Tử. Đây là một hình thức mới của thơ trữ
tình, hoàn toàn là sản phẩm của Thơ mới. Xin lưu ý: chúng tôi có phân biệt
loại thơ trữ tình mang hình thức kịch với loại kịch thơ (hay là loại kịch có
hình thức thơ - cũng là một đóng góp mới của Thơ mới cho nền thi ca dân
tộc). Những tác phẩm như Trần Can, Lý Chiêu Hoàng, Phạm Thái,
Nguyễn Hoàng của Phan Khắc Khoan, Yêu Ly, Lê Lai đổi áo của Lưu
Quang Thuận, Kiều Loan của Hoàng Cầm... thực sự là những vở kịch bằng
thơ. Còn những tác phẩm như Anh Nga, Huyền Trân công chúa của Phạm
147
Huy Thông, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội của Hàn Mặc Tử chỉ là những bài
thơ trữ tình dài có hình thức kịch. Sự khác biệt giữa chúng khá dễ thấy:
trong những tác phẩm thuộc loại thứ nhất, các đặc trưng cơ bản của loại
hình kịch gắn liền với các khái niệm xung đột kịch, hành động kịch, cốt
truyện kịch, nhân vật kịch, ngôn ngữ kịch vẫn còn hằn rõ; còn trong những
tác phẩm thuộc loại sau, các vai kịch chỉ tuyền nói cùng một giọng và ở
đây dường như vắng hẳn xung đột kịch, hành động kịch. Thiết tưởng có thể
nhập lời các nhân vật lại một, và lúc đó ta sẽ có một bài thơ trữ tình khá
thuần nhất thể hiện một tâm trạng mơ màng, nuối tiếc, u hoài nào đó. Khi
chọn đưa Anh Nga vào tuyển tập của mình, các tác giả Thi nhân Việt Nam
đã thắc mắc: "Không hiểu sao Huy Thông lại viết thành một bản kịch, có
nhiều câu - mà lại là những câu hay - cần phải là lời nói của tác giả không
thể là lời các nhân vật"[149, 94]. Xét về mặt khách quan, thắc mắc này đã
ngầm xác nhận Anh Nga đúng là một bài thơ trữ tình, có điều đây là bài thơ
trữ tình mang tính chất kịch. Tuy nhiên đã có thắc mắc thì cần có lời giải
đáp. Phải chăng có thể kể tới các lý do thần tuý "kỹ thuật" như tác giả
muốn tránh sự đơn điệu của "động tác" trữ tình, muốn đưa vào một tác
phẩm thơ dài nhiều chỗ ngừng nghỉ hơn để độc giả có thể dễ dàng theo dõi
mạch lạc của cảm xúc và để tổ chức nhịp điệu của tác phẩm thêm đa dạng,
cuốn hút? Các lý do này hẳn là tồn tại thực nhưng theo chúng tôi, "tính
quan niệm" của hình thức "thơ" trên chủ yếu phải được giải thích bằng nhu
cầu tự nhận thức của cái tôi cá nhân. Cái tôi đó muốn được thấy thế tồn tại
độc lập của mình giữa cuộc đời, giữa thiên nhiên vũ trụ. Khi nhà thơ tự
biến mình thành nhân vật thì anh ta được giải thoát khỏi tư cách của một kẻ
phát ngôn cho những chân lý vĩnh cửu. Lúc này anh ta chỉ có trách nhiệm
nói lên tiếng nói thật và những rung động trực tiếp, tức thời của mình trước
một khách thể nào đó mà thôi.
Trong Thơ mới, số lượng những bài thơ trữ tình mang hình thức kịch
như Anh Nga, Huyền Trân Công chúa, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội...
không nhiều. Tuy vậy, có lẽ vẫn không nên xem chúng như những sáng tác
148
ngẫu nhiên, đột xuất. Gần với chúng là những bài mà ở đó nhà thơ dường
như đã "kịch hoá tiếng nói trữ tình" nhằm giúp độc giả cảm nhận được sâu
sắc hơn về độ căng cũng như sắc thái cá biệt của cảm xúc. Những bài thơ
như Giây phút chạnh lòng của Thế Lữ, Mòn mỏi của Thanh Tịnh, Lời kỹ
nữ, Xa cách, Hẹn hò, Đơn sơ của Xuân Diệu, Hãy nhập hồn em của Hàn
Mặc Tử, Những cánh thơ vàng của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành của
Thâm Tâm v.v... có thể xem là những bài thơ thuộc loại này. ở đó, tiếng
nói của nhân vật trữ tình được đặt vào trong một không khí đối thoại (hiểu
theo nghĩa rộng), vừa phân cách, vừa thống nhất với những tiếng nói khác
(có khi chỉ là biểu hiện trá hình của tiếng nói chủ thể, có tác dụng giúp chủ
thể đào sâu hơn vào những khuất khúc của lòng mình).
Qua hai câu hỏi được nêu lên ở khổ đầu bài thơ Tống biệt hành (Thâm
Tâm), ta hiểu ra rằng nhân vật trữ tình đang cố khách thể hoá lòng mình để
nhận thức về nó một cách thấu triệt, và chính vì vậy mà đã khẳng định được
mình như một chủ thể phi cổ điển, không bị nhất thể hoá với ngoại cảnh.
Không cần đưa bạn qua sông (như "động tác" trữ tình quen thuộc của nhiều
nhà thơ xưa) mà cảm xúc vẫn dạt dào. Và nỗi buồn của anh đã tràn ngập
trong lòng, không phải vay thêm bóng chiều từng nhuộm vàng bao cuộc chia
ly thời trước. Trong những dòng thơ tiếp theo, nhân vật trữ tình đã dựng lên
sinh động hình ảnh người bạn (ly khách) như một chủ thể độc lập khác, có
khả năng tham gia vào cuộc "đối thoại" với anh. Dù biết rằng giữa kẻ được
gọi là "ly khách" kia với kẻ xưng "ta" này về thực chất có sự tương đồng, ta
vẫn phải nhận rằng sự đối lập ở đây là cần thiết. Nhờ đối lập, nhân vật trữ
tình có cơ hội nhìn thấu suốt bản thể mình trong sự phức tạp, đa diện của nó.
ở trên là một số nguyên tắc kết cấu cơ bản của Thơ mới. Chúng được
rút ra không phải căn cứ vào những lời tuyên bố hoặc vào những định lệ
nào đó được tất cả mọi người xem là "khuôn vàng thước ngọc", mà dựa vào
sự khảo sát thực tế sáng tác của đa số các nhà Thơ mới. Chúng thực sự tồn
tại sâu trong ý thức sáng tạo của các nhà thơ và chi phối mạnh mẽ các thao
tác làm thơ, thao tác kết cấu của họ. Để nhìn nhận về chúng một cách sáng
149
rõ, chúng tôi đã nói riêng rẽ về từng nguyên tắc một. Kỳ thực các nguyên
tắc này gắn kết với nhau thành một thể thống nhất và trong từng hành động
sáng tạo cụ thể của nhà thơ, chúng đã đồng thời phát huy hiệu lực. Nguyên
tắc kết cấu nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của khách thể miêu tả không mâu
thuẫn gì với hai nguyên tắc còn lại là tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống
động của cảm xúc và đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực tiếp của nhân
vật trữ tình. Chính nhờ ý thức phân biệt ranh giới giữa chủ thể và khách thể
trong miêu tả và biểu hiện mà các nhà thơ đã giúp cho độc giả thấy được rõ
rệt hơn cái tôi cá nhân và sức mạnh nội cảm hoá thế giới của nó. Một ví dụ:
càng gắng sức vẽ ra nét đẹp tự thân của khách thể thiên nhiên, tư cách tồn
tại độc lập của chủ thể cùng thế giới cảm tính của nó càng được bộc lộ một
cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
3.2. Kết cấu hình tượng của Thơ mới
Trong phần viết này, chúng tôi không có tham vọng bàn hết về mọi
đặc điểm kết cấu hình tượng của Thơ mới. Đó là một công việc lớn đòi hỏi
sự phối hợp nghiên cứu của nhiều người. Xin chọn cách đi vào mô tả đặc
điểm kết cấu hình tượng của một số mảng thơ nổi bật trong Thơ mới như
mảng "luận đề", mảng trữ tình thông qua một câu chuyện, mảng tả cảnh
thiên nhiên, tức những mảng thơ mà đặc điểm kết cấu của chúng chưa được
nói kỹ trong phần viết về các nguyên tắc kết cấu của Thơ mới ở trên.
3.2.1. Đặc điểm kết cấu của mảng thơ trực tiếp trình bày một quan niệm,
một tư tưởng
Thơ mới có rất nhiều bài mà ở đó cảm hứng chủ đạo là cảm hứng
phô bày trực tiếp một quan niệm, một tư tưởng nào đó. Chúng đã tạo thành
một mảng rất đậm mang đầy đủ phong cách thời đại và ảnh hưởng không
nhỏ đến cả phong trào, với sự góp mặt của nhiều kiện tướng hàng đầu của
Thơ mới như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương v.v... Sự
xuất hiện của mảng thơ này đã đáp ứng được yêu cầu "chính danh" đối với
cuộc cách mạng về thơ mà Thơ mới đã phát động. Nó đã đứng ra đỡ lấy
một phần gánh nặng tư tưởng mà Thơ mới phải mang theo do có liên hệ
150
mật thiết với phong trào Duy Tân đầu thế kỷ. Tất nhiên, ở đây chúng tôi sẽ
không đi vào đánh giá thực chất, chiều sâu các quan niệm, các tư tưởng đã
được đưa vào thơ một cách trực tiếp và đầy ý thức, mà chỉ quan tâm xem
chúng đã được đưa vào theo cách nào và cách đưa đó có hiệu quả hay
không mà thôi.
Đầu tiên, hãy đi vào một trường hợp tiêu biểu: Xuân Diệu. Trong hai
tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945), có rất nhiều bài mà các
vấn đề nhận thức - tư tưởng tác giả muốn đề cập đã thể hiện rõ ngay từ
nhan đề: Cảm xúc, Yêu, Thời gian, Đẹp, Thanh niên ... Có khi, vấn đề
được ẩn dưới một hình tượng: Đi thuyền, Giờ tàn, Cặp hài vạn dặm, Sắt,
Núi xa, Chiếc lá, Gửi hương cho gió, Nước đổ lá khoai, Xuân không mùa,
Hy Mã Lạp Sơn ... Lại có khi, vấn đề được báo hiệu từ một thái độ ứng xử:
Phải nói, Vội vàng, Giục giã, Ca tụng ... Gần như tương ứng với từng kiểu
đặt nhan đề, mỗi cụm bài lại có một kiểu kết cấu riêng. ở những bài mà tên
tác phẩm đã chỉ rõ vấn đề nhà thơ muốn nói, ngay từ đầu ta đã thấy xuất
hiện những định nghĩa - định nghĩa vấn đề được nêu lên, hoặc theo cách
trực tiếp, hoặc bằng những phản đề:
Là thi sĩ, nghĩa là ru với gió Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
(Cảm xúc)
Yêu là chết ở trong lòng một ít Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
(Yêu)
Mai yếu đuối, sao bằng thông mạnh mẽ? Dáng yêu kiều, sao bằng vẻ hùng anh ... (Đẹp)
Cứ thế, bài thơ được triển khai, được mở rộng dần theo từng khía
cạnh của định nghĩa để cuối cùng đưa đến cho người đọc một nhận thức
đầy đủ về vấn đề tác giả muốn nói. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy
trong Thơ mới có nhiều câu thơ định nghĩa (Nguyễn Phan Cảnh, Đỗ Lai
151
Thuý, Lê Đình Kỵ...). Có thể nói thêm: những câu thơ định nghĩa này xuất
hiện trước hết và nhiều nhất trong những bài thơ ưu tiên cho việc trình bày
một dòng tư tưởng, sau đó, nó được áp dụng rộng rãi, xem như một thí
nghiệm đã thành công và hoàn toàn có lý do tồn tại để tăng cường tính duy
lý trong thơ, để giúp nhà thơ ở những điều kiện nhất định có khả năng làm
nổi bật được bản chất của sự vật, hiện tượng. Khi định nghĩa đã được thực
hiện một cách trọn vẹn, nhà thơ kết thúc bằng cách láy lại ý mở đầu như để
khẳng định vấn đề thêm một lần nữa. Chẳng hạn ở bài Cảm xúc, tương ứng
với câu mở đầu đã nêu trên là một chất vấn ngược:
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm,
Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
Hay ở bài Yêu, câu kết thúc chính là câu đầu được lặp lại (Yêu, là
chết ở trong lòng một ít) làm cho bài thơ có tính khép kín - sự khép kín của
một vấn đề đã đã được nhận thức thấu triệt và xong xuôi.
Nhìn chung, kiểu kết cấu vừa mô tả ở trên là một sản phẩm đích thực
của thời Thơ mới với ảnh hưởng rõ nét của lối tư duy phân tích phương
Tây ưa chẻ ngọn ngành và nói hết các khía cạnh của sự vật.
Bên cạnh những bài thơ có kiểu kết cấu như trên là những bài mà ở
đó thủ pháp hình tượng hoá luận đề có vị trí nổi bật. Thơ cổ điển cũng đã
sử dụng lối hình tượng hoá một nhận thức, một suy nghiệm, kiểu như hai
câu sau trong bài Thói đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thớt có tanh tao, ruồi đổ đến Gang không mật mỡ, kiến bò chi
Nhưng dù sao sự hình tượng hoá đó cũng chỉ mới diễn ra ở cấp độ
câu chứ chưa diễn ra ở cấp độ bài vì các tác giả cổ điển chưa chú ý xây
dựng một hình tượng thống nhất mà mỗi đặc tính của hình tượng lại tương
ứng với một khía cạnh cụ thể trong tư tưởng mà nhà thơ muốn tỏ bày. Đến
thơ Xuân Diệu, ta đã thấy có nhiều hình tượng mang đặc điểm mới vừa nói.
152
Bài Thời gian đã hình tượng hoá triết lý thời gian của Xuân Diệu bằng hai
hình tượng song đôi, gắn bó chặt chẽ với nhau là nước và thuyền:
Dưới thuyền nước trôi; Trên nước thuyền chuồi Và nước, và thuyền Xuôi dòng đi xuôi
Sự trôi chảy của dòng nước diễn ý sự trôi chảy của thời gian. Sự
trôi xuôi của thuyền lại diễn ý sự trôi chảy của một đời người. Mối quan hệ
giữa nước và thuyền biểu đạt mối quan hệ giữa đời người với thời gian - tất
cả cùng trôi và đều làm rõ những đặc điểm của nhau. Sau khi đã chọn được
một hình tượng thích hợp khả dĩ nói hết được quan niệm của mình, nhà thơ
đi vào miêu tả từng đặc điểm một của hình tượng để từ đó làm sáng tỏ từng
khía cạnh của một tư tưởng. Nước không vội vàng; Thuyền không chậm
chạp - đó là đặc tính thứ nhất của nước và thuyền, ứng với ý niệm về sự
trôi chảy lạnh lùng của thời gian ngoài tầm kiểm soát của con người. Nước
trôi, vô tri; Vô tình, thuyền đi là đặc tính thứ hai của nước và thuyền, ứng
với ý niệm về sự vận hành song song nhưng không đồng nhất giữa thời
gian nói chung và thời gian đời người. Nước cũng mất luôn .../ Nhưng nước
còn nguồn; Thuyền chìm, trong lúc/ Đêm ngày nước tuôn lại là một đặc
tính khác của hình tượng cặp đôi nước - thuyền, ứng với ý niệm về sự hữu
hạn của đời người và sự vận hành mải miết, vô tận của thời gian. Như vậy,
logic kết cấu của bài thơ này là từng đoạn, từng khổ kế tiếp nhau theo yêu
cầu làm nổi bật tuần tự từng đặc điểm một của hình tượng (vốn được chọn
lựa công phu để tác giả có thể yên tâm uỷ thác cho nó sứ mệnh trình bày tư
tưởng). Bài thơ kết thúc khi những đặc điểm chính của hình tượng được
miêu tả hết, cũng có nghĩa là khi tư tưởng đã được triển khai đầy đủ. Đây
cũng chính là kết cấu chung của những bài thơ như Núi xa, Gửi hương cho
gió, Hy Mã Lạp Sơn ... - một kiểu kết cấu không tìm thấy trong thơ cổ điển,
mà học được ở thơ ca phương Tây, cụ thể là ở thơ Pháp thế kỷ XIX với
những bài thơ như Cái chết của con sói (Vigny), Chim hải âu (Baudelaire),
Bình vỡ, Những con mắt (Prudhomme) v.v... ở đây, cần lưu ý là những
153
hình ảnh nói trên trong thơ Xuân Diệu chưa đạt tới chất tượng trưng thuần
tuý như những hình ảnh - biểu tượng trong thơ Baudelaire chẳng hạn, bởi
nó vạch ra sự tương ứng quá rõ nét và dễ thấy giữa một đặc điểm của hình
ảnh được mượn với các ý tưởng, và do đó đã "xoá mất bí ẩn", "tước bỏ cái
niềm vui lớn nhất của tâm hồn người đọc, tức là tin vào những gì họ sáng
tạo" (S.Mallarmé).
Xin nói sang dạng kết cấu thứ ba của những "bài thơ tư tưởng".
Những bài thơ Phải nói, Vội vàng, Giục giã có chung một logic trình bày
như sau: đầu tiên, nhà thơ nêu lên một hành động, một ứng xử có nhiều nét
khác lạ, bất ngờ, sau đó lý giải nguyên nhân (đồng thời thể hiện điều cốt lõi
nhất trong tư tưởng) và cuối cùng khẳng định lại ứng xử cần có kia trên một
cơ sở mới. Ta hãy đi vào bài thơ Vội vàng để thấy rõ hơn dạng kết cấu này.
Bài thơ mở đầu bằng bốn câu năm chữ thể hiện nhu cầu hành động rất khác
thường:
Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất, Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.
Đúng là một khao khát lạ lùng, mạnh mẽ, chưa từng có, vì nó có vẻ
hoang đường, vô lý. Nhưng ở những đoạn thơ tiếp sau, cái vô lý kia được
giải thích, mà giải thích một cách cặn kẽ, có sức thuyết phục. Dường như ta
nghe được lời tác giả nói: sở dĩ "tôi muốn" như vậy là vì cuộc đời này đẹp
quá , nó luôn bày ra mời mọc, nhưng đời người thì ngắn mà thời gian thì
trôi nhanh, tất cả mọi thanh sắc cuộc đời đang phôi pha không đếm xỉa gì
đến lòng người khao khát. Trong phần cuối của bài thơ, tác giả tuyên bố lại
niềm khao khát của cái tôi, nhưng giờ đây, lời tuyên bố kia có một sắc thái
hiển nhiên, hoàn toàn thuận lý, không thể nghi ngờ:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, ...
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
154
Nhìn theo cách khác, có thể hình dung kết cấu bề mặt của những bài
thơ như Vội vàng, Phải nói, Giục giã gồm có ba phần: Nêu giả thuyết -
Chứng minh - Khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết. Dĩ nhiên, cái
khung được dựng lên ở đây chưa phải là tất cả bài thơ nhưng rõ ràng nó
chính là một yếu tố rất cơ bản quy định màu sắc riêng của bài thơ - màu sắc
luận lý. Bài thơ Phải nói mở đầu bằng một nỗi ham hố được nhận thức
trong nghi vấn: Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ? Kết bài thơ, câu thơ đầu
được lặp lại nhưng dấu hỏi đã mất đi: Yêu tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ.
Dấu hỏi mất vì vấn đề đã được chứng minh, thắc mắc đã được giải toả và
nhu cầu nhận thức đã được thoả mãn.
Nhìn chung, kiểu kết cấu vừa được trình bày ở trên là rất mới, không
thấy trong thơ cổ điển, nhất là thơ cổ điển Việt Nam, bởi người Việt có thói
quen thích đặt nguyên nhân trước kết quả, điều kiện trước hành động (điều
này thể hiện rõ trong ngữ pháp tiếng Việt trước khi xảy ra cuộc tiếp xúc
ngôn ngữ Việt - Pháp). Trước đây, hiếm có hiện tượng nhà thơ vào bài
bằng một thúc dục đường đột, ầm ĩ kiểu như Mau lên chứ vội vàng lên với
chứ rồi sau đó mới giải thích dần tại sao lại phải "mau", phải "vội vàng".
Ba dạng kết cấu nói trên tuy có những nét khác biệt nhưng lại thống
nhất với nhau ở dáng vẻ "nghị luận" của nó. Chất nghị luận này càng được
làm rõ thêm bởi các hư từ trỏ quan hệ được sử dụng khá thừa thãi - một
điều mà thơ cổ điển rất kiêng kỵ, mặc dù có dùng trong một số trường hợp
đặc biệt: nghĩa là, mà, nhưng, dù, cho ... Mặc dù tất cả những điều trên, các
"bài thơ tư tưởng" kia vẫn giữ được phẩm chất trữ tình là phẩm chất chính
của mình, bởi nguyên tắc trình bày logic, sáng sủa một tư tưởng còn được
phối hợp với nguyên tắc thể hiện sao cho đúng những cảm nhận trực tiếp
của nhân vật trữ tình. Trở lại với bài Vội vàng, chúng ta thấy rõ khi sáng tác
bài này, Xuân Diệu nhằm tới hai "mục tiêu". "Mục tiêu" thứ nhất là làm sao
làm nổi bật được triết lý của mình về thời gian, về tuổi trẻ, tình yêu, và
"mục tiêu" thứ hai là làm sao thể hiện được đầy đủ những xúc cảm đắm
đuối của mình về vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời. Nhìn trên bề mặt
155
bài thơ, có vẻ như "mục tiêu" thứ nhất là "mục tiêu" chủ yếu, được ý thức
đầy đủ hơn, và kết quả là bài thơ được cấu tạo theo một cái khung luận lý
khá vững chắc. Người đọc có cảm tưởng bao nhiêu đoạn thơ là bấy nhiêu
luận điểm khẳng định cơ sở của hành động "vội vàng". Giữa chúng, tưởng
có thể đặt thêm những quan hệ từ như "bởi lẽ" (sau 4 câu đầu), "nhưng"
(sau 9 câu tiếp đó), "vì vậy" (trước câu "Mau đi thôi!"). Cảm tưởng này của
người đọc hoàn toàn có cơ sở bởi chính trong bài thơ, nếu không có những
quan hệ từ vừa kể thì các dạng câu và lớp từ rất đặc trưng của một văn bản
đòi hỏi phải có sự lập luận logic đã xuất hiện khá dày (các câu: "Muốn ...
cho ...", "Nói làm chi ... nếu ...", các từ "nghĩa là","nên", "phải chăng",
"cho" ...). Nhưng bài thơ nếu chỉ có thế thì không còn là thơ nữa, bởi vậy
cái khung luận lý kia phải được phá đi một cách có điều kiện bằng một loạt
thao tác. Chính ở đây, "mục tiêu" sáng tạo thứ hai (có thể chưa được nhà
thơ ý thức đầy đủ) đã nổi lên đóng vai trò chủ đạo trong những tình huống
cụ thể, đưa lại cho bài thơ một vẻ đẹp tươi tắn với rất nhiều chi tiết sống
động đập mạnh vào giác quan của người đọc, khiến cho ta, từng lúc một,
tưởng như quên đi mục tiêu triết lý mà nhà thơ nhắm tới cũng như muốn
người đọc lĩnh hội một cách đủ đầy. Thoạt đầu, sự xuất hiện của hai "nhân
vật" chính của bài thơ là "tôi" và "cuộc đời" (hay thời gian) có vẻ giống
như sự hình tượng hoá của luận đề mà nhà thơ muốn đề cập. Nhưng Xuân
Diệu đã không bằng lòng với sự xuất hiện nhợt nhạt của "nhân vật", và ông
đã tìm mọi cách cho nó sống dậy với rất nhiều đặc điểm riêng. Cuối cùng
các "nhân vật" này thoát khỏi vòng kiềm toả của luận đề để đến với người
đọc trong một vẻ đẹp đầy cảm giác và có giá trị tự thân. Chất thơ và giọng
điệu trữ tình nồng nàn của tác phẩm có được là nhờ vào tính độc lập tương
đối của hình tượng mà nhà thơ đã mượn để cho ý tưởng, cho luận đề hoá
thân, cũng như nhờ vào niềm xúc động thật của tác giả - nhân vật trữ tình
trước hình tượng đó. Rõ ràng, Vội vàng là một bài thơ rất tiêu biểu mà ở đó
ta nhận thấy có sự giao thoa, phối hợp của hai dạng kết cấu (tạm gọi là "kết
cấu luận đề" và "kết cấu trữ tình") để tạo nên một dạng kết cấu mới có nét
đặc thù. Đây chính thực là một dạng kết cấu mới sản phẩm của một thời mà
156
óc duy lý phương Tây chi phối cách nhìn nhận, cảm xúc của nhà thơ và
thời của cái tôi đang mở mắt nhìn đời theo một cách nhìn không tiên
nghiệm, không định kiến. ở trường hợp thành công nhất, tư tưởng, luận đề
đã được "trung tính hoá" theo cách nói của V.Shklovsky, đã trở thành "vật
liệu" để sáp nhập vào một kết cấu thơ đích thực, hài hoà.
Chúng tôi đã đi sâu phân tích những bài thơ trực tiếp trình bày quan
niệm, tư tưởng trong sáng tác của Xuân Diệu với mục đích chỉ ra một cái gì
có tính ổn định ở kết cấu hình tượng của mảng thơ này trong Thơ mới. Sở
dĩ Xuân Diệu được chọn làm điểm nghiên cứu bởi vì cái tôi cá nhân thời
Thơ mới dường như đã tìm được một định nghĩa khá đầy đủ về mình ở thơ
của vị "hoàng tử thi ca" này và những phát ngôn của Xuân Diệu hẳn có một
giá trị đại diện cao. Điều này càng được khẳng định khi ta nhìn rộng ra
sáng tác của một số nhà thơ khác như Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương ... Trước
Xuân Diệu, Thế Lữ là người thường quan tâm giãi bày các quan niệm (đặc
biệt là quan niệm sáng tác) trong thơ. Điều này khá dễ hiểu vì Thế Lữ đã
được lịch sử văn học giao nhiệm vụ làm người tiên phong mở đường cho
phong trào Thơ mới và xác lập nền tảng vững vàng cho nó. Với những bài
thơ như Lựa tiếng đàn, Cây đàn muôn điệu, ác mộng, Lời mỉa mai, Tự trào
v.v... , Thế Lữ đã tuyên bố sự ra đời của một kiểu thi nhân mới cùng sứ
mệnh và tôn chỉ của nó. Những kiểu tổ chức bài thơ xoay quanh một luận
đề, một quan niệm mà ta đã thấy ở trên trong thơ Xuân Diệu thực ra đã
được định hình khá rõ nét từ thơ Thế Lữ. Chẳng hạn kiểu kết cấu thể hiện ở
Cây đàn muôn điệu sau này được khẳng định lại ở các bài Cảm xúc, Yêu
của Xuân Diệu. Kiểu kết cấu thể hiện ở Lựa tiếng đàn, ác mộng, Lời mỉa
mai, Tự trào lại khá gần gũi với kiểu kết cấu được vận dụng vào các bài
Phải nói, Vội vàng, Giục giã mà chúng tôi đã phân tích, chỉ khác ít nhiều ở
chỗ: phần đầu bài thơ, Thế Lữ nghiêng về tạo hình cái diện mạo bên ngoài
"kỳ khôi", khác đời của mình làm tiền đề cho những lời biện luận, lý giải
về sau, còn Xuân Diệu thì nghiêng về "gây choáng" cho độc giả bằng
những xúc cảm sôi sục (và sau đó cũng đi vào chứng minh tính "thuận lý"
157
của chúng). Sự khác nhau ở đây có thể lý giải được: cái tôi cá nhân buổi
ban đầu ("thời" của Thế Lữ) chưa dám thực là mình như ở những giai đoạn
phát triển về sau ("thời" của Xuân Diệu). Tuy nhiên, ở Thế Lữ, lối phát
biểu tư tưởng thông qua một hình ảnh tượng trưng như ở Xuân Diệu là ít
thấy. Phải chăng điều này có nguyên nhân ở sự khác nhau của các đối
tượng mà nhà thơ đã tiếp thu ảnh hưởng trong văn học Pháp (Thế Lữ chịu
ảnh hưởng của tản văn Chateaubriand, của các nhà thơ trước Baudelaire,
còn Xuân Diệu thì chịu ảnh hưởng của Baudelaire và một số nhà thơ sau
đó)?
Khi trong Thơ mới có thêm các tập Thơ Say (1940), Mây (1943) của
Vũ Hoàng Chương, cái tôi cá nhân đã đi được một quãng đường khá dài.
Những hăm hở, sôi nổi ban đầu đã dần lui, những chỗ cho cái chán chường,
uể oải. Lần này, nó dường như lại có nhu cầu tuyên ngôn về những trải
nghiệm đã qua. Có lẽ đây chính là một trong những lý do khiến cho những
bài trực tiếp phát biểu quan niệm lại xuất hiện nhiều trong thơ Vũ Hoàng
Chương. Ta có thể kể tới: Lý tưởng, Chân hứng, Tối tân hôn, Phương xa,
Tuý hậu cuồng ngâm .v.v... Tứ thơ lớn xuyên suốt những bài thơ trên được
xây dựng dựa trên sự đối lập triệt để giữa Mơ và Thực, giữa Lý Tưởng và
Thực Tế, Say và Tỉnh ... Tên của các phạm trù đối lập ở đây đều được nhà
thơ viết hoa, xem như một sự nhấn mạnh và sự thực chúng đã biểu hiện
nhận thức thấu triệt của nhà thơ về bản chất vấn đề. Ta vẫn nhận thấy ở đây
sự có mặt của những dạng kết cấu vốn đã khá định hình trong thơ Xuân
Diệu, đặc biệt là dạng kết cấu thứ ba, nhưng chúng mang tính biến hoá
nhiều hơn. Chính sự tự tin trong cách phát biểu quan niệm của Xuân Diệu
đã đưa tới tính khuôn thức ít nhiều cho kết cấu của các bài thơ. Trong khi
đó, sự chán nản não nùng của Vũ Hoàng Chương đã làm biến dạng kiểu
kết cấu dựa trên mối liên kết của những mảng thơ, đoạn thơ, khổ thơ "thuần
nhất" (tính thuần nhất được cảm nhận căn cứ vào sự phân nhiệm rạch ròi
cho từng mảng, đoạn, khổ thơ nhằm tạo nên cái logic sáng sủa của lập
luận). Để thể hiện cái tứ lớn về những sự đối lập đã nói ở trên, Vũ Hoàng
158
Chương tiến hành miêu tả sự xung đột giữa Mơ và Thực, Lý Tưởng và
Thực Tế ... ngay trong từng khổ thơ, thậm chí từng câu thơ. Quả thực, phải
duy lý đến độ "tàn nhẫn" (chữ dùng của Đỗ Lai Thuý) thì Vũ Hoàng
Chương mới bất cứ lúc nào cũng nhắc ta phải nhớ tới những điều đau lòng
đến như thế. Rõ ràng triết lý trong thơ Vũ Hoàng Chương không phải là
triết lý về nỗi chán chường mà là triết lý của nỗi chán chường, hay nói cách
khác: nỗi chán chường đã lên tiếng triết lý. Chính kiểu kết cấu của các bài
thơ đã là một trong những điều kiện giúp ta nhận ra điều đó.
Nhìn chung, qua việc nghiên cứu đặc điểm kết cấu của mảng thơ trực
tiếp trình bày một quan niệm, một tư tưởng, ta nhận ra rất rõ cái tôi duy lý
(một yếu tố cấu thành cái tôi trữ tình) của Thơ mới. Nhờ có nó, cái tôi trữ tình
của Thơ mới có điều kiện thực hiện sự "chính danh" và khẳng định quyền tồn
tại của mình vừa trên bình diện tư tưởng vừa trên bình diện nghệ thuật.
3.2.2. Đặc điểm kết cấu của mảng thơ thể hiện trữ tình thông qua một
câu chuyện
Cần nói ngay rằng hình thức trữ tình thông qua một câu chuyện kể
không phải là sáng tạo riêng của Thơ mới. Các nhà thơ cổ điển đã rất nhiều
lần sử dụng nó, đặc biệt trong những bài bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc
nhằm vạch trần bản chất xã hội hay chỉ ra những bi kịch lớn của một dân
tộc. Trong trường hợp này, "con người xã hội" đã thế chân cho "con người
vũ trụ" và có nhu cầu kể lại cụ thể những điều xảy ra trong cuộc sống. Hình
thức thơ được chọn thường là cổ thể (phải chăng vì khuôn khổ không bó
buộc của nó về một phương diện nào đó là thích hợp với việc kể chuyện?).
Xin nêu ít bài thuộc loại này: chùm thơ Tam lại, Tạm biệt của Đỗ Phủ, Mại
thán ông, Thôn cư khổ hàn của Bạch Cư Dị, Sở kiến hành, Long thành cầm
giả ca, Thái Bình mại ca giả của Nguyễn Du, Đạo phùng ngã phu, Phúc
Lâm lão của Cao Bá Quát v.v...
Trước khi đi vào mô tả đặc điểm kết cấu của mảng thơ trữ - tình -
thông - qua - một - câu - chuyện trong Thơ mới, xin nói qua đặc điểm kết
cấu của mảng thơ gần như có cùng hình thức trữ tình này trong thơ cổ điển.
159
Điều dễ nhận thấy là các thi nhân xưa đều lấy một câu chuyện, một tình
huống có thật trong cuộc sống làm cốt lõi cho bài thơ của mình. Tính chất
ký sự do vậy nổi lên rất đậm (dĩ nhiên cũng không thoát ra ngoài sự chi
phối của tính trữ tình). Các tình tiết, các sự kiện làm nên câu chuyện, tình
huống đó được "thuật kể" tuần tự theo sự quan sát của nhà thơ và bài thơ
theo đó mà mở ra. Tuy nhiên, sự "thuật kể" ở đây thường hết sức súc tích.
Các chi tiết được đưa vào trong hình thức cô quánh và đảm bảo được một
vẻ khách quan nhất định. Hầu như chỉ có sự việc, sự kiện, nhân vật được
nêu lên, còn cảm tình, suy luận, nhận xét của tác giả ẩn rất kín, ít khi lộ
diện ra trong riêng một câu chứ chưa nói trong riêng một phần (tất nhiên điều
này không mang tính tuyệt đối). Đối với các nhân vật được kể tới, nội tâm họ
ra sao độc giả chỉ có thể nhận biết qua các hành động bên ngoài và ngôn ngữ
của họ, bởi nhà thơ không đi sâu, không dành sự chú ý cho việc miêu tả
những diễn biến bên trong (trừ trường hợp nhà thơ thuật lại lời thổ lộ tâm
trạng của họ).
Nhìn một cách thật bao quát, có thể nhận thấy khi đưa "chuyện" vào
thơ của mình, các nhà Thơ mới ít học cách kể súc tích của các nhà thơ cổ
điển ở những bài cổ thể như đã nói ở trên (ngoại trừ một ít bài như Bi xuân
nương của Phan Văn Dật). Mặt khác, nội dung các câu chuyện thường cũng
ít tính hiện thực (những bài như Bi xuân nương vừa nhắc và Cảnh đoạn
trường của Thái Can là rất hiếm). Quả là đọc một bài thơ như Mai rụng của
Leiba, người ta có thể nghĩ đến bài Phiếu hữu mai trong Kinh Thi, đọc bài
Giận nhau của Nguyễn Xuân Huy, có thể liên hệ tới bài Trường can hành
của Lý Bạch, nhưng cách kể chuyện và điều được gửi gắm khác nhau rất
xa. Cái khác đó là kết quả của lối "tiểu thuyết hoá" những câu chuyện giản
dị, đơn sơ. Dường như các nhà Thơ mới đã không bỏ lỡ cơ hội khai thác
cho hết thi vị của từng chi tiết, để nhân đó mở thêm cả một khung trời mơ
mộng trước mắt ta. Thật khó thấy trong thơ trữ tình cổ điển một câu chuyện
đầy ắp những chi tiết "không đâu" thế này:
Em nhớ năm em lên mười hai
160
Một mình em lấy trộm gương soi. Đường ngôi đương kẻ thì anh đến, Anh đến bên em mỉm miệng cười Em thẹn, quăng gương chạy xuống nhà ...
(Năm qua - Leiba)
Tuy nhiên, chính nhờ những chi tiết "ướt át" và"vụn vặt" ấy, nhà thơ
mới có thể miêu tả được một cách tỏ tường những biến thái tinh vi trong
cảm xúc của con người thời hiện đại để tiếp đó có thể mời độc giả cùng thể
nghiệm, tạo nên một chất lượng mới trong mối quan hệ giữa nhà thơ và bạn
đọc. Một khi đã có tâm thế tiếp nhận mới, độc giả sẵn sàng cùng nhà thơ
phiêu du cùng câu chuyện, nhẩn nha cảm thụ từng chi tiết và sống với nó.
Lúc này, câu chuyện có dáng dấp tự nhiên hơn, "thật" hơn so với những
câu chuyện được kể tới trong thơ trữ tình cổ điển, mặc dầu xét trong mối
quan hệ với thực tế, nó không hiện thực bằng. Trong bài Trường can hành,
Lý Bạch đã chọn được những chi tiết rất hiện thực: Thiếp phát sơ phú
ngạch,/Chiết hoa môn tiền kịch/ Lang kỵ trúc mã lai/ Nhiễu sàng lộng
thanh mai. Nhưng khi đặt vào trong cả bài thơ, những chi tiết này đã được
cấu trúc hoá một cách chặt chẽ, mang tính biểu trưng cao để nhằm khắc sâu
vào tâm trí độc giả cái ý niệm về một thứ hạnh phúc tuổi thơ. Không phải
ngẫu nhiên mà hai từ "thanh mai"và "trúc mã" đã được ghép vào nhau
thành một thành ngữ để chỉ khái niệm bạn thời thơ ấu (giữa một bé trai và
một bé gái). Trong khi đó, ở bài Giận nhau của Nguyễn Xuân Huy, một bài
có nói tới mối tình mới nhóm trong lòng những đứa trẻ ngây thơ, những chi
tiết cụ thể được kể tới trong bài khó có thể "khô" thành ý niệm:
Hôm nọ em biếng học Khiến cho anh bất bình, Khẽ đánh em cái thước Vào bàn tay xinh xinh.
Người đọc có ấn tượng rõ rệt rằng câu chuyện đang diễn ra trong thì
hiện tại, rằng nó chưa kết thúc. Cái cách triển khai bài thơ nhẩn nha đã tạo
không gian sống cho các chi tiết ấy, mặc dù nó cũng gây ra "tác dụng phụ"
161
là khiến bài thơ trở nên duễnh doãng, thiếu hàm súc - một điều mà thơ cổ
điển rất kỵ.
Mỗi lối thơ vốn chuyên chở theo nó một nội dung đặc thù. Không phải
ngẫu nhiên mà để thể hiện những cảm xúc ngọt ngào với tình cảm yêu
đương tự do, thơ châu Âu đã sáng tạo ra hình thức ballade (kể chuyện).
Cũng gần như thế, việc cái tôi lãng mạn thời Thơ mới tìm đến với hình thức
trữ tình thông qua một câu chuyện kể là có tính tất yếu. Dĩ nhiên, có thể
không cần đến hình thức này, tâm tình lãng mạn của các nhà thơ vẫn được
giãi bày một cách chân thực. Đặc biệt những lúc họ muốn thể hiện phút bùng
nổ của cảm xúc thì hình thức kể chuyện tỏ ra không thích hợp. Trong thơ của
một người cứ muốn kêu to "nỗi yêu trùm không giới hạn" là Xuân Diệu, ta ít
thấy những bài mang hình thức kể chuyện. Còn nhìn vào trường hợp Nguyễn
Bính ta nhận thấy: khi muốn tỏ nỗi bi phẫn cao độ, ông đã không dùng đến
lối thơ kể chuyện sở trường mà chường cái tôi của mình ra ở bình diện thứ
nhất với bao dằn dữ. Phân tích như trên cốt để thấy nhiều mặt của vấn đề,
còn trở lại với lối thơ kể chuyện, ta không thể phủ nhận ưu thế của nó trong
việc ghi nhận và thâu tóm vào trong các bài thơ "chân dung" của con người
thời đại mới với bao điều cụ thể trong hành xử, nói năng, xúc cảm ... Nói
mấy
chữ "con người thời đại mới" dễ khiến người ta nghĩ tới một đối tượng
khách quan nào. Kỳ thực, nó cũng chính là các thi nhân lãng mạn với
cái tôi cảm xúc định mệnh của họ đó thôi. Vì lẽ này, trong các bài thơ kể
chuyện, các nhà thơ rất cố gắng đi sâu vào tâm trạng của nhân vật, không
phải để cá tính hoá nó theo kiểu của tiểu thuyết hiện thực mà chỉ để tự khai
thác nội tâm mình. Các nhân vật Vân Sinh hay Văn Sinh trong hai bài thơ
Hoa thuỷ tiên và Bóng mây chiều thực chất chỉ là một dạng hoá thân của
cái tôi Thế Lữ. Cái cõi lòng đắm trong niềm mơ mộng, nuối tiếc của Vân
Sinh (bài Hoa thủy tiên) hoàn toàn đồng nhất với tâm trạng hướng về Bồng
Lai thanh sạch của nhà thơ được thể hiện trong nhiều bài thơ khác không có
hình thức kể chuyện. Có điều, ở Hoa thuỷ tiên, nhờ hình thức kể chuyện,
162
tâm trạng ấy được "khắc họa" sâu hơn bằng vô số chi tiết cụ thể và mang
đậm tính văn xuôi. Còn ở bài Bóng mây chiều, tác giả đã dựng lên hai nhân
vật: Tôi và Văn Sinh. Nhân vật Tôi chỉ đóng vai trò là đối tượng lắng nghe
những lời tâm sự, kể lể miên man của Văn Sinh. Khi lời tâm sự chấm dứt
thì cũng là khi bài thơ kết thúc, nhân vật Tôi không cần nhảy ra để trữ tình
hay triết lý, vì chính Văn Sinh đã nói hết tâm sự của Tôi rồi. Tuy nhiên, sự
có mặt của nhân vật Tôi vẫn có ý nghĩa nghệ thuật. Nó có tác dụng cắt
dòng tâm sự tưởng chừng vô tận của Văn Sinh thành từng khúc đoạn nhỏ
bằng những câu miêu tả sự vật bên ngoài. Nghịch lý giữa nhu cầu thổ lộ
đến cạn kiệt những suy nghĩ cảm xúc của mình và sự ý thức sâu sắc rằng
việc làm ấy có thể gây nên tình trạng "quá tải" trong tiếp nhận của người
đọc chính đã được giải quyết bằng nhân vật Tôi ấy. Từ trường hợp sáng tác
cụ thể này, ta có thể nhìn ra một trong nhiều yếu tố làm nên cái gọi là "sở
dĩ nhiên" của hình thức kể chuyện trong Thơ mới: nhờ những câu chuyện,
các nhà thơ đã không làm người đọc chán khi họ nuôi ý định làm một "liên
khúc trữ tình" của nhiều tâm trạng thống nhất nhưng không đồng nhất trong
một đơn vị bài thơ. Nương theo một "cốt truyện" giản dị, cái tôi thi sĩ, cái
tôi cảm xúc của nhà thơ dần lộ ra dưới hình thức gián tiếp, khó gây "dị
ứng" cho độc giả (điều mà một số bài thơ làm theo lối chường "cái tôi đáng
ghét"của mình ra đôi khi vẫn mắc phải). Cũng cần nói thêm: những bài thơ
thể hiện trữ tình thông qua một câu chuyện thường rất dễ tạo ra một không
khí thoải mái, dân chủ trong tiếp nhận nghệ thuật, bởi ở đây ta không thấy
những cảm xúc, những tư tưởng hiện ra trong dáng vẻ uy quyền, áp đặt,
chiếm lĩnh và thống ngự con người độc giả ngay từ phút đầu (bởi đặc trưng
của thơ trữ tình vốn là thế). Không phải ngẫu nhiên mà trong sáng tác của
một nhà thơ được mệnh danh là "quê mùa" hay "chân quê" như Nguyễn
Bính, những bài thơ có chuyện lại chiếm một vị trí nổi bật như vậy. Ta hãy
đi vào đặc điểm kết cấu của mảng thơ này trong sáng tác của ông.
Có thể chia những bài thơ mượn hình thức kể chuyện để phát trữ tình
cảm trong thơ Nguyễn Bính vào ba nhóm chính: 1. Thác lời, làm lời người
163
khác để kể chuyện của chính họ; 2. Kể chuyện chính mình (đôi khi với ít
nhiều tô vẽ); 3. Kể một câu chuyện của đời từ góc nhìn "khách quan".
Ngoài ra ta cũng nhận thấy có bài thơ nằm trung gian giữa nhóm 1 và nhóm
3. Tương ứng với những nhóm này (chia theo tiêu chí nội dung) là những
dạng kết cấu khác nhau có tính ổn định khá cao.
Nhóm thứ nhất gồm có những bài tiêu biểu như Chân quê, Đêm cuối
cùng, Qua nhà, Chờ nhau, Tương tư, Thời trước... Phải nói rằng trong thơ
Nguyễn Bính, giọng quê ở những bài này thuần nhất hơn cả. Tác giả đã
nhập vai người khác một cách hoàn hảo và nói giọng của họ rất chuẩn. Họ
là những chàng trai, cô gái thôn quê chất phác, là những bà mẹ chịu
thương, chịu khó và yêu con vô hạn. Họ kể lại chuyện mình bằng một
giọng "quê đặc", nghĩa là bằng những lời giản dị trong suốt, bằng những ví
von ý nhị. Câu chuyện được kể tới chả có gì gay cấn và bao giờ cũng diễn
ra trong một bối cảnh hiền hoà, thuần tuý của nông thôn với những "thôn
Đoài", "thôn Đông", "giàn trầu", "hàng cau", "vườn chè", "ao bèo", "giếng
thơi" ... Những lời tự xưng ở đây mang sắc thái khiêm nhường rõ nét:
"anh", "em", "chúng mình" ... Ngay khi nhân vật trữ tình có xưng "tôi" thì
lời tự xưng ấy cũng mang vẻ hiền lành, tự nhiên, không giống gì với các
kiểu xưng tôi tự tin và tự thị khác. Logic của các câu chuyện thường cũng
là một logic đơn giản, kiểu: Hoa chanh nở giữa vườn chanh; Đôi ta cùng ở
một làng,/ Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh; Lối này lắm bưởi nhiều hoa
.../ (Đi vòng để được qua nhà đấy thôi); Vì tằm tôi phải chạy dâu, / Vì
chồng tôi phải qua cầu đắng cay ... Nếu trong các bài có xuất hiện những
lời phản vấn nhằm tạo nên chút kịch tính cho câu chuyện thì những lời ấy
thường được cất lên trên cái nền suy luận theo triết lý tự nhiên của dân
gian: Bảo rằng cách trở đò giang,/ Không sang là chẳng đường sang đã
đành./ Nhưng đây cách một đầu đình,/ Có xa xôi mấy mà tình xa xôi ...
(Tương tư). Nhìn chung, những bài thơ thuộc nhóm này trong sáng tác của
Nguyễn Bính rất gần với những bài thơ trữ tình dân gian mang hình thức kể
chuyện như Tát nước đầu đình, Sáng ngày em đi hái dâu, có điều sự chuyển
164
cảnh ở thơ Nguyễn Bính linh hoạt hơn, sự hô ứng buông bắt giữa các phần,
các đoạn phóng túng hơn, và do vậy mà mang tính hiện đại rõ nét, dù tác giả
đã hoá thân một cách khá triệt để vào người khác để chỉ nói ra bằng giọng
của họ. Nguyên nhân của sự khác biệt này nằm ở chỗ: các tác giả dân gian
nghiêng về trần thuật trình tự thật của câu chuyện, còn Nguyễn Bính thì kể
chuyện theo sự chi phối của một cái tứ in đậm bản sắc sáng tạo của cá nhân,
và do vậy, dù muốn hay không thì vẻ quê mùa của giọng kể ở đây cũng chỉ
mang tính chất tương đối.
Bộ phận thứ hai trong mảng thơ "trữ tình thông qua một câu
chuyện" ở sáng tác của Nguyễn Bính cũng có những bài hết sức đặc sắc:
Người hàng xóm, Dòng dư lệ (tặng T.T.Kh.), Một con sông lạnh, Hoa với
rượu, Chuyện cổ tích, Nhà tôi, Tết của mẹ tôi ... ở những bài này, nhân vật
trữ tình thường là chính nhà thơ hay là một kẻ nào đó gần như đồng nhất
với ông. Chất tự truyện nổi lên khá đậm, được thể hiện qua nhiều chi tiết
xác thực giàu tính tạo hình khách quan hoặc với những tình tiết éo le.
Những đối lập giữa quá khứ với hiện tại, hạnh phúc với đắng cay, mơ
mộng và sự thực luôn luôn được nhấn mạnh, khiến cho các câu chuyện
được kể tới có hai mảng sáng tối rõ ràng, khi tách bạch, khi xâm nhập vào
nhau. Nhà thơ có thể bắt đầu bài thơ bằng những kỷ niệm êm đềm, tươi
sáng, ngọt ngào rồi sau mới kể tới những gió sương phũ phàng của cuộc
đời (Người hàng xóm, Hoa với rượu ...). Cũng có khi ông vào bài với
những dòng kể tâm sự u uất sau đó mới nói tới việc lần giở từng trang đời
hạnh phúc (Dòng dư lệ ...). Tuy nhiên, bao giờ tác giả cũng kết thúc bài
bằng những chi tiết nói về mất mát, thất vọng, cay đắng, về tình trạng đau
khổ vô phương cứu chữa. Khi kể chuyện, tác giả vẫn có ý thức tìm lời giải
thích cho những đổ vỡ của cuộc đời, nhưng những lời giải thích đó chịu sự
chi phối sâu sắc của chủ nghĩa định mệnh: Bởi sinh làm kiếp giang hồ/
Dám đâu toan tính se tơ giữa đàng (Dòng dư lệ); ấy thế mà rồi cách biệt
nhau,/ Nhà Nhi không biết dọn đi đâu./ Mình tôi giời bắt làm thi sĩ,/ Mẹ
mất khi chưa kịp bạc đầu (Hoa với rượu). Vô hình trung, theo Nguyễn
165
Bính, đổ vỡ là một logic phát triển tất yếu của cuộc đời này. Bởi vậy nổi
lên trong các bài thơ là một giọng thở than não nuột và thái độ "đành lòng
vậy, cầm lòng vậy".
Quan trạng, Giấc mơ anh lái đò, Lỡ bước sang ngang, Viếng hồn
trinh nữ, Cô lái đò, Mưa xuân, Mười hai bến nước v.v... là những bài thơ
kể một câu chuyện khách quan ngoài đời. Kết cấu của chúng gần giống với
kết cấu của những bài thuộc nhóm vừa phân tích. ở đây cũng có sự đối lập
giữa ước mơ và thực tế, giữa cái đáng lẽ và cái đã xảy ra. Nhân vật trữ tình
thường khi vẫn nhập thân vào nhân vật được anh kể tới để đọc thấy tâm
trạng của mình trong tâm trạng của họ, để được sống lại nỗi khắc khoải
giữa hai bờ thực - ảo, nhưng do vị thế của một kẻ trần thuật khách quan,
anh đã có dịp lùi ra để suy nghĩ sâu sắc hơn về những nghịch lý của cuộc
đời.
Như vậy, không phải cứ đi sâu vào tâm trạng của nhân vật trong câu
chuyện là nhà thơ bỏ quên cái tôi của mình. Ngược lại, cái tôi của ông bộc
lộ rõ hơn ở khả năng quan sát chung quanh và đồng cảm với người khác,
đặc biệt với những người cùng chung cảnh ngộ. Chung quy thì kể chuyện
là một cách nhà thơ phóng chiếu cái tôi của mình ra thế giới để trên cơ sở
đó mà chiêm nghiệm về nó. Khẳng định bản ngã của mình có nhiều cách
và đây là cách dễ được công chúng rộng rãi tiếp nhận. Chính thái độ của
độc giả đối với thơ Nguyễn Bính đã chứng thực điều này. Trong những
bài thơ thuộc loại đang bàn, Nguyễn Bính thường vẫn dành những trường
đoạn mô tả lời của nhân vật, hay nói cách khác là dành một không gian
rộng rãi cho những lời tự bộc lộ của họ. Bài thơ Lỡ bước sang ngang là
một ví dụ tiêu biểu. Những đoạn được đặt trong ngoặc kép là những đoạn
chứa đầy tâm sự của nhân vật do tự họ nói ra. Chúng được đặt xen kẽ với
những đoạn miêu tả của một kẻ đứng nhìn khách quan. Toàn bộ câu
chuyện vì thế trở nên thật hơn, lâm ly, não nùng hơn. Và xét riêng ở khía
cạnh tài nghệ của người làm thơ, ta thấy Nguyễn Bính đã vào, ra tâm
trạng của người khác một cách dễ dàng, thoải mái. Những đoạn thơ được
166
đặt trong ngoặc kép ấy, nếu cho tách ra thành bài thơ độc lập thì chúng sẽ
giống như những bài thơ thuộc loại thác lời ta đã từng nói. Rõ ràng, từ
điểm này, cần phải nhìn nhận rằng Nguyễn Bính đã có một cá tính sáng
tạo mạnh mẽ và cái tôi trữ tình của ông có khả năng chuyển di vị trí cũng
như thích ứng rất cao. Chẳng ôm khư khư một chỗ đứng cố định- đó là
một ví dụ sinh động về sức mạnh của cá tính, của cái tôi cá nhân đã được
giải phóng. Mưa xuân là bài thơ được làm nửa như thác lời một cô gái
quê, nửa như đứng ngoài kể lại một câu chuyện khách quan. "Em" ở đây
có thể được hiểu như lời tự xưng mà cũng có thể được hiểu là cách gọi
đối tượng của nhà thơ. Đặt giả thiết đây là bài thơ do chính một cô gái quê
làm, và trong bài, cô hoàn toàn thuật lại câu chuyện của mình thì cùng
lắm ta cũng chỉ thấy Mưa xuân là bài thơ dễ thương, chân thật. Nhưng sự
thật không phải thế, vì vậy, ta buộc phải hiểu rằng toàn bộ câu chuyện của
cô gái "lòng như cây lụa trắng" kia đã được đặt trước một sự suy nghiệm
sâu sắc của nhà thơ về cuộc đời, và tự nhiên, toàn bộ những chi tiết được
miêu tả sinh động trong bài bỗng biến thành những biểu trưng triết lý.
Nhà thơ quả đã ký gửi giấc mơ hạnh phúc của cái tôi cá nhân nói riêng và
giấc mơ hạnh phúc của con người nói chung vào những câu thơ này:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay, Hoa xuân lớp lớp rụng vơi đầy. Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ, Mẹ bảo: thôn Đoài hát tối nay.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà khi dẫn mấy câu trên, Tô Hoài đã phải
thốt lên: "Tầm vóc, thật tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính!". Cũng như
vậy, qua mấy câu Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay,/ Hoa xoan đã nát dưới
chân giày ..., ta đọc thấy một nỗi đau lớn của con người trước sự sụp đổ
của niềm hy vọng. Chuyện của một cô gái quê phút chốc đã biến thành câu
chuyện của thời đại.
Xin nói qua một chút về những bài thơ kể chuyện của Nguyễn
Nhược Pháp. Toàn bộ tập Ngày xưa bao gồm những huyền thoại có sẵn
167
được kể bằng giọng của con người đời nay (Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Mỵ Châu,
Giếng Trọng Thuỷ, Mỵ Ê) và các câu chuyện hư cấu về những con người
của thời dĩ vãng (Tay ngà, Một buổi chiều xuân, Chùa Hương...). Nhờ hình
thức kể chuyện, tác giả đã làm sống lại cuộc sống ngày xưa với những con
người, những phong tục, sinh hoạt của nó. Sở trường của lối thơ kể chuyện
đã được phát huy cao độ. Bài thơ nào cũng ngồn ngộn chi tiết miêu tả, tạo
hình làm cho thế giới khách quan thực sự có được sinh khí. Bởi thế, đi sâu
vào các bài thơ, người đọc dễ có tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, nhất là
khi ta bắt gặp những lời diễu chơi của nhà thơ đối với nhân vật của mình và
đối với độc giả. Nguyễn Nhược Pháp không hề có ý muốn phục nguyên
cuộc sống ngày xưa. Chẳng qua thi nhân chỉ mượn các câu chuyện để thể
hiện hứng thú quan sát và cái khiếu hài hước của mình. Những lời tưởng
chừng "chẳng đâu vào đâu" chêm vào giữa mạch chuyện kiểu Mê nàng,
bao nhiêu người làm thơ (buông theo đoạn tả nhan sắc Mỵ Nương) hay
Nhưng có một nàng mà hai rể,/ Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều (đặt sau
đoạn kể về sự ra mắt của Sơn Tinh và Thuỷ Tinh) chính đã bộc lộ nét đặc
sắc riêng không ai có của Nguyễn Nhược Pháp. Rõ ràng, hình thức kể
chuyện đã tạo thêm được những điều kiện thuận lợi giúp cái tôi cá nhân
thời Thơ mới được dịp bộc lộ mình đầy đủ hơn với bản chất phong phú đa
dạng vốn có của nó. Có thể nói rằng: nếu không có hình thức trữ tình bằng
một câu chuyện như thế này, hẳn Thơ mới đã mất đi một nụ cười "hiền
lành và thanh tao" (chữ dùng của Hoài Thanh, Hoài Chân), tức là cái đã
làm nên một cá tính sáng tạo Nguyễn Nhược Pháp.
ở trên đã từng nói: từ lâu, các nhà thơ cổ điển đã sử dụng hình thức
trữ tình thông qua một câu chuyện kể. Đây không phải là "phát minh" của
riêng Thơ mới. Nhưng Thơ mới quả đã có công đưa hình thức này vào thơ
trữ tình tiếng Việt và thu xếp cho nó một chỗ đứng vững vàng (trước đây,
thơ trữ tình tiếng Việt thuộc dòng văn học viết không có hình thức này).
Thêm nữa, Thơ mới đã không bê nguyên xi hình thức kết cấu của loại thơ
này trong thơ trữ tình viết bằng chữ Hán vào thơ tiếng Việt. Thơ kể chuyện
168
của Thơ mới gần gũi với ballade phương Tây hơn là với những Thạch Hào
lại, Long Thành cầm giả ca... Hình thức này chủ yếu gắn với những câu
chuyện tình hay nói bao quát hơn là gắn với nhu cầu giãi bày tâm tình lãng
mạn của cái tôi cá nhân. Nó có thể hơi dài dòng và không súc tích bằng thơ
xưa, nhưng cái dài dòng ở đây có lý do tồn tại riêng. Với nó, các nhà thơ có
thêm điều kiện đối tượng hoá lòng mình và kể cho ta nghe nhiều chuyện
xảy ra trong thời đại họ sống, có thêm điều kiện thử thách khả năng của câu
thơ điệu nói và tiến thêm một bước trong việc phá bỏ những rào chắn cách
ngăn tuyệt đối thơ trữ tình với các thể loại văn học thuộc loại tự sự vốn
đang phát triển mạnh mẽ trong nền văn học mới. Cũng nhờ nó, thơ trữ tình
được kéo gần với cuộc sống hơn, mang tính chất dân chủ hơn, phù hợp với
tầm đón nhận của độc giả hơn. Đây gần như là một hình thức đối trọng với
những tìm tòi mang tính chất "trí thức hóa" ở những sáng tác kiểu Xuân
Thu Nhã tập. Các hình thức này đều cần thiết cho thơ và đều làm phong
phú thêm cho một nền thơ phát triển.
3.2.3. Đặc điểm kết cấu của mảng thơ tả cảnh thiên nhiên
Cần nói ngay rằng "thơ tả cảnh thiên nhiên" chỉ là một cách gọi tên
ước lệ. ở đây chúng tôi muốn nói đến những bài thơ mà trong đó hình
tượng thiên nhiên chiếm một vị trí nổi bật.
Khi đã nhìn thiên nhiên như một khách thể, hiển nhiên các nhà Thơ
mới phải chọn một hình thức kết cấu mới cho những bài thơ viết về đối
tượng này. Đầu tiên, ta nhận thấy họ thường vạch rõ ranh giới phân cách
giữa cảnh và người. Việc làm này có thể không tự giác nhưng chẳng hề
ngẫu nhiên, vì nó tuân theo sự chi phối của cái nhìn nghệ thuật, tuy vô
hình, nhưng lại có sức mạnh rất hiện thực. Thủ pháp kết cấu thường đa
dạng nhưng mô hình kết cấu này thì khá ổn định. ở các bài Nắng mai, Xuân
về của Chế Lan Viên, ta bắt gặp một sự đối lập đơn giản: nắng mai rất tươi
vui và xuân về rất rộn rã nhưng lòng người thì không thế: nó u ám, day dứt.
Các bài thơ vì thế có hai mảng sáng- tối tách bạch rõ ràng. Mảng sáng được
vẽ lên đầu tiên trên bức tranh nhằm tả một đẹp có tính chất tự nhiên, hoàn
169
tất của thiên nhiên không phụ thuộc vào tâm trạng con người: Cả vũ trụ
biến dần ra ánh sáng,/ Nước sông Linh hoà lẫn nắng trời tươi; Pháo đã nổ
đưa xuân về vang động,/ Vườn đầy hoa ríu rít tiếng chim trong... Mảng tối
được vẽ sau, biểu thị một sự tương phản gay gắt giữa chủ thể và khách thể:
Nhưng, than ôi, xuân về trong nắng sớm / Mà lòng ta, đóng lạnh giá băng
thôi. Trong thơ Huy Cận không có những đối lập kiểu này nhưng không
phải vì thế mà ranh giới giữa chủ thể và khách thể bị xoá nhoà. Thiên nhiên
được cảm nhận như là người bạn, và tuy là bạn, nó vẫn khác mình. Vì vậy
mới có những tiếng gọi kiểu như: Chiều ơi! Hãy xuống thăm ta với!/ Thiên
hạ lìa xa, đời trống không (Tâm sự); Hỡi mây trắng phất phơ màu gió cũ!/
Nước buồn ôi! Còn lại bến sơ xưa,/ Cho ta gởi vọng xuôi về quá khứ/ Đôi
chút sầu tư nước đẩy, mây đưa (Bi ca). Và cũng vì vậy mà thơ Huy Cận
(trong những bài có xây dựng hình tượng thiên nhiên) xuất hiện rất nhiều
những dòng thơ, câu thơ có hai vế đối xứng phân cách nhau bởi một lớp từ
biểu thị mối quan hệ qua lại giữa hai đối tượng: nương, giăng, vướng, ghé,
thấm, gặp (Tai nương nước giọt mái nhà; Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn
tai; Lạnh của không gian thấm xuống nguời...). Khi những động từ kia
vắng mặt, các liên từ và, với, nên... lại xuất hiện thế chỗ để đóng vai trò vừa
chia tách vừa gắn nối (Trời mênh mông nên rất đỗi nhớ nhung; Sầu thu lên
vút, song song/ Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu...). Điều rất đáng nói
là ở thơ Hàn Mặc Tử - một người hay trộn lẫn hư thực một cách bất ngờ
(Hư thực làm sao phân biệt được) - ta cũng luôn nhận ra những thủ pháp
miêu tả thiên nhiên có chung tính chất với những thủ pháp mà các nhà thơ
khác đã sử dụng. Không ít lần ông đã tự vẽ mình trong tâm thế của một kẻ
đang ngắm, đợi, hưởng thụ một cái gì đến từ bên ngoài. Với tâm thế ấy,
nhà thơ - nhân vật trữ tình đã tự nhắc mình "hãy làm thinh" Để nghe dưới
đáy nước hồ reo (Đà Lạt trăng mờ), hãy chỉ "ngấm ngầm trao đổi" Để bóng
trời khuya bớt giật mình (Huyền ảo), giống hệt như Xuân Diệu "chân tiếc
dậm lên vàng" vì "sợ đường trăng tiếng dậy vang", sợ "làm sai lỡ nhịp
trăng" (Trăng). Sự gặp gỡ nhau trong tứ thơ, trong thủ pháp miêu tả thiên
170
nhiên này ở hai nhà thơ mang phong cách khác hẳn nhau là Xuân Diệu và
Hàn Mặc Tử quả thật có nhiều ý nghĩa.
Ta vừa nói tới một số thủ pháp kết cấu thường được vận dụng ở những
bài thơ có sự cân bằng hai vế tả cảnh và tả tình. Cảnh, tình thường quyện hoà
đến mức người ta có thể nghĩ rằng những bài thơ này không khác bao nhiêu
với những bài tả thiên nhiên trong thơ cổ điển. Thực chất vấn đề ở đây thế
nào, chúng tôi đã đề cập. Còn ở những bài trong đó vế tả cảnh dường như
lấn át hẳn vế tả tình (nhiều bài thơ của Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ,
Bàng Bá Lân...), các thủ pháp kết cấu được vận dụng cũng có những đặc
thù riêng. Có cảm tưởng cách làm thơ của Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ gần
giống cách làm một bài luận của học sinh, nghĩa là bám chắc vào đầu đề đã
cho sẵn để triển khai ý, tứ, ít khi nói cái gì vượt quá điều người ta có thể
hình dung một cách đại khái từ đầu đề. Chính vì vậy, tên gọi của các bài
thơ mang tính cụ thể, xác định rất cao. Thử điểm qua tên các bài trong tập
Thôn ca (Đoàn Văn Cừ): Nhà tranh, Đồng làng, Ngày mùa, Sáng, Trưa,
Chiều, Tối, Đêm trăng xanh, Bình minh, Nắng xuân, Hè, Trăng hè, Thu,
Cuối đông, Đêm đông, Chợ Tết... Và đây là tên của các bài trong tập Bức
tranh quê (Anh Thơ): Chiều xuân, Đêm xuân, Ngày xuân, Đêm trăng xuân,
Đêm rằm tháng giêng, Chợ ngày xuân, Vào hè, Sáng hè, Trưa hè, Chiều hè,
Đêm hè, Cơn giông, Mưa, Bến đò trưa hè, Sang thu, Chiều thu, Đêm thu,
Bến đò đêm trăng, Bến đò ngày mưa, Nắng hanh, Đêm trăng đông... Tên
các bài thơ của Nam Trân cũng khá cụ thể: Huế ngày hè, Huế đêm hè, Mùa
đông, Nắng thu... Có thể thấy một điều tương tự ở tên các bài thơ của Bàng
Bá Lân: Trưa hè, Cổng làng... Chúng tôi phải kê, dẫn dài dòng như trên để
bước đầu thấy được ý hướng tạo hình khách thể, miêu tả theo quan điểm
khách quan nổi bật như thế nào ở những bài thuộc mảng thơ này. Thật thú
vị khi nhận ra nét gần gũi giữa Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ với một hoạ sĩ
thuộc trường phái ấn tượng Pháp cuối thế kỷ XIX là C.Monet ở niềm say
mê sáng tác hàng loạt tác phẩm về cùng một đối tượng, một phong cảnh
trong những thời điểm khác nhau của nó. Rõ ràng, với các nhà thơ này, "tri
171
thức tiên nghiệm" về đối tượng hoàn toàn không quấy rầy họ. Cũng như
các hoạ sĩ ấn tượng đề cao trực họa và thực hiện các bức tranh không phải
trong ánh sáng vô sắc của xưởng vẽ mà trong thiên nhiên, giữa ánh sáng
chói chang của mặt trời, giữa cái rung rinh của làn không khí, các nhà thơ
của chúng ta đã ghi lại tuần tự những cảnh sắc có thật mà họ đã quan sát
thấy. Như vậy, sự khác biệt giữa chủ thể và khách thể luôn luôn được ý
thức một cách sâu sắc. Tất nhiên không phải vì thế mà cảm xúc chủ quan
của nhà thơ bị triệt tiêu. Nó vẫn tồn tại dưới dạng khác mà ở phần viết
trước chúng tôi đã lý giải. Chưa bao giờ người ta thấy thơ trữ tình tiếng
Việt lại có lắm chi tiết tạo hình như thế, như trong những "bài thơ thiên
nhiên" thuộc loại này (trừ những bài trữ tình thông qua một câu chuyện. Vả
chăng, chi tiết trong các "bài thơ kể chuyện" vẫn mang một tính chất khác).
Cứ gần như với mỗi câu thơ ta lại bắt gặp một hình ảnh mới. Nét câu (thuật
ngữ của họa luận Trung Hoa cổ điển) hay đường viền quanh các hình ảnh
này là rất rõ ràng, dứt khoát, khiến cho các hình ảnh nhỏ trong khi liên kết
với nhau tạo thành một bức tranh lớn, hoàn chỉnh, vẫn cứ giữ được thế tồn
tại độc lập của mình. Qua nhiều bài thơ của Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, ta còn
nhận ra sự hiện diện liên tục của những tính từ chỉ màu sắc. Chúng được
tung ra một cách hả hê, ngon lành, thoải mái, làm cho cả bài thơ tươi rói và
sống động hẳn lên. Nếu như Xuân Diệu, Huy Cận trong những đoạn thơ tả
thiên nhiên của mình hay chú ý đến sắc độ chuyển tiếp giữa các màu thì
Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ lại nghiêng về làm nổi bật tính thuần nhất của
màu, nghĩa là họ ưa thích cái couleur hơn cái nuance. Thơ của họ vì thế ít
tính chất huyền hồ sương khói, nhưng bù lại, có khả năng kích thích sự cảm
nhận trực tiếp hơn và tính tạo hình cao hơn.
Trong những bài thơ chú ý xây dựng một hình ảnh thiên nhiên giàu
mà sắc tượng trưng như Đây thôn Vĩ Giạ, Mùa xuân chín, Cuối thu của
Hàn Mặc Tử, Tỳ bà, Hoàng hoa, Cuối thu, Ngũ Hành Sơn, Tiếng đàn mưa
của Bích Khê, Thu, Trưa đơn giản của Chế Lan Viên, Buồn xưa, Hồn ngàn
mùa, Bình tàn thu của Nguyễn Xuân Sanh v.v..., cảnh sắc của thực tại
172
nhiều khi chỉ còn tồn tại như những cái bóng, như những phương tiện gợi
dẫn, đưa người ta đi sâu vào một thế giới vô hình - thế giới của những giấc
mơ, của sự giao hoà, tương ứng các giác quan, của sự mập mờ, bất phân
định giữa chủ thể và khách thể. Dĩ nhiên, sự "bất phân định" ở đây khác xa
với hiện tượng đồng nhất chủ thể với khách thể trong thơ trữ tình cổ điển.
Xưa, sự đồng nhất đó là tiên thiên, mang tính tất yếu, còn nay, đồng nhất là
một phương pháp giúp con người cá nhân khẳng định sức mạnh của mình
trong công việc "đục thủng những cửa bằng ngà và bằng vàng phân cách
con người với thế giới vô hình" (Gerard de Nerval). Đọc những bài thơ vừa
dẫn trên, ta khó mà phủ định một thực tế: các hình ảnh đã được biến đổi
thành biểu tượng nhờ vào nhiều thủ pháp khác nhau. ở thơ Xuân Diệu, tức
là thứ thơ bộc lộ mạnh mẽ khuynh hướng xây dựng một thế giới cảm tính,
ta từng gặp một số thí nghiệm theo hướng này. Chẳng hạn, bên cạnh những
chi tiết tạo hình khách thể, ông thường ghép vào một vài từ mang nghĩa
đánh giá khái quát và có tính chất trừu tượng, kiểu: Hư vô bóng khói trên
đầu hạnh (Thu); Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ; Khí trời u uất hận
chia ly (Đây mùa thu tới); Gió thơm phơ phất bay vô ý; Tóc liễu buông
xanh quá mỹ miều (Nụ cười xuân) v.v... Mặc dù vậy, khách thể vẫn còn
lưu giữ được những đường viền xác thực và các hình ảnh vẫn còn chưa bị
biến dạng để trở thành một cái gì khác hơn. Trong khi đó, ở Hàn Mặc Tử,
tính chất xác thực của địa danh Vĩ Giạ không thể níu giữ nổi sự hút trôi của
hình ảnh đi về phía biểu tượng. Khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Giạ tả cảnh
một khu vườn có "nắng mới lên", có "hàng cau", có "lá trúc", có "mặt chữ
điền", tưởng rất thực mà hoá ra rất hư, vì tất cả chỉ là những hình bóng
trong tưởng tượng, trong sự hồi nhớ khắc khoải, mơ màng. Sự chuyển cảnh
quá đột ngột từ khổ đầu sang các khổ tiếp sau càng chứng thực tính chất
biểu tượng của những điều được nhà thơ miêu tả. Khi đọc đến những câu ở
đây sương khói mờ nhân ảnh, áo em trắng quá nhìn không ra gần cuối bài,
ta càng nhận rõ: thôn Vĩ có dáng dấp của một ký hiệu tượng trưng, nó gợi
nhớ tới vườn Địa đàng trong Kinh thánh vốn là thế giới của ước mơ, của
một thời hạnh phúc xa xăm, giờ đây đã phân ly với chúng ta bằng cả một
173
trời cách biệt. Rất khó gọi tên cái thủ pháp biến hình ảnh thành biểu tượng
của Hàn Mặc Tử trong các bài Đây thôn Vỹ Giạ và Mùa xuân chín. Chỉ biết
rằng chính sự phá vỡ logíc liên kết thông thông thường giữa các khổ thơ
nhờ đẩy xa liên tưởng và chính nhờ ý thức sáng tạo luôn đặt toàn bộ thế
giới hữu hình vào trong thế đối diện với cái Vô cùng đã tạo nên sự biến đổi
đó. Với Bích Khê, thủ pháp được ông ưa dùng lại là dìm những nét miêu tả
vào trong một thứ âm nhạc lâng lâng, du dương, bất tận của những thanh
bằng được đặt liên tiếp nhau trong câu thơ, trong khổ thơ, thậm chí trong
toàn bài thơ. Đọc thơ ông, độc giả thường được tiếp xúc với một cách phối
hợp bằng trắc quá bất bình thường khiến họ sau phút ngỡ ngàng ban đầu
buộc phải chấp nhận nó như một qui ước. Khi thôi thắc mắc là khi tự nhiên
họ biết nhìn những điều được miêu tả bằng một con mắt khác, không tìm
cách đối chiếu nó với thực tế nữa. Đây chính là lúc biểu tượng hiện hình,
kéo độc giả phiêu du vào một cõi khác của thơ và do thơ xây dựng nên.
Xin nói thêm một thủ pháp mà Chế Lan Viên đã vận dụng trong các
bài như Thu (không phải bài cùng tên trong tập Điêu tàn), Trưa đơn giản ...
Nếu như ở bài Thu trong tập Điêu tàn, nhân vật trữ tình hiện diện trong tư
cách một cái tôi có vị trí riêng trong thế giới và đối thoại với nó, thì ở bài
Thu sau, nhân vật trữ tình dường như không còn tồn tại ở vị thế độc lập
nữa, mà bản chất của nó bị hoà tan trong bản chất chung của thế giới. Với
kiểu tồn tại này của nhân vật trữ tình, sự xuất hiện của các câu thơ giống
như sự tự biểu hiện của thế giới và mọi sự vật trong thế giới này bỗng
nhiên có linh hồn, chúng lao xao trò chuyện, quan hệ với nhau, rồi từ đó cất
lên tiếng nói riêng của mình mà trước đây ta cứ ngỡ chúng không có. Ta
hãy so sánh: bài Thu trước:
Chao ôi! thu đã tới rồi sao? Thu trước vừa qua mới độ nào! Mới độ nào đây hoa rạn vỡ Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.
Và bài Thu sau :
Thu sang chơi! vườn nghe có thu sang
174
Với cũ hoa phai , với cũ lá vàng Ngày chừng buồn! Đêm chừng lên vội lắm Cửa một lần - hơn ngàn phương lẳng lặng.
Trước, thực sự có một chủ thể đón thu sang với cái giật mình buồn tê
tái. Ta có thể hiểu chủ thể đó là nhà thơ. Trong con mắt anh ta, thu có một
hình ảnh rõ ràng in đậm trong trí nhớ, do vậy, "thu trước " đã qua mà anh
vẫn còn hình dung được rõ ràng. ở bốn câu sau, rất khó xác định đâu là
khách thể, đâu là chủ thể. Theo cú pháp câu thơ thì chủ thể " nghe " và đón
thu sang chính là vườn. Nhưng trong quan niệm thông thường, vườn chỉ là
một khách thể thôi, cũng như thu vậy. Nhân vật trữ tình thì đã lẩn đi, không
hề phô bày lời của mình, do vậy các câu thơ tự dưng có một vẻ mập mờ, hư
thực lẫn lộn. Những hình ảnh ban đầu phút chốc biến thành biểu tượng ám
gợi, giúp độc giả tiến vào thế giới vô hình và nhìn mọi vật bằng con mắt
của nó để nhận ra "màu sắc" của "đàn tơ", vẻ "gầy rạc" của điệu "cống",
tức là nhận ra những điều mà giác quan thông thường không giúp họ thấy
nổi.
Nói rằng trong các bài như Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu,
Nguyễn Xuân Sanh đã xây dựng một hình ảnh thiên nhiên đậm màu sắc
tượng trưng e không thật đúng. Chúng tôi tạm xếp chúng vào mảng thơ viết
về thiên nhiên chẳng qua chỉ căn cứ vào một vài từ nằm trong nhan đề hoặc
trong bài có nhắc tới những "mùa", "thu", những "tràng giang", "rừng xa",
những "trái", "quả", những "vườn tươi", "mưa hoa" v.v... mà thôi. Sự thực
thì rất khó bảo các bài thơ này viết về đề tài, chủ đề gì, bởi ở đây cả chủ thể
và khách thể đều không có một khuôn mặt riêng, chúng đã hoà tan vào
trong nhau một cách triệt để. Sự hoà tan đó được thể hiện rõ trong cấu trúc
ngôn từ, hay nói đúng hơn, cấu trúc ngôn từ đặc biệt phi logic, phi ngữ
pháp là cái có tính thứ nhất làm nên sự hoà tan mà ta nhận thức được qua
các bài. Dù sao, theo định hướng nghiên cứu của chúng tôi ở phần viết này,
có thể xem sự phối hợp lạ lùng giữa các từ chỉ những đối tượng khác xa
nhau về bản chất chính là một thủ pháp mà Nguyễn Xuân Sanh đã sử dụng
175
để biến một hình ảnh thành biểu tượng tượng trưng. Xin trích một đoạn
trong bài Hồn ngàn mùa để thấy rõ cách phối hợp từ ngữ đặc biệt của nhà
thơ:
Hy-mã-lạp-sơn buồn thu đây Thu Tóc xuân bưng đỉnh chiều đầy Quỳ dâng Hình Nhạc nẻo nghìn mây
Trầm ngàn mùa nghe tóc buông xây. Cái thực sự hiện diện trong đoạn thơ chỉ là nhạc - một thứ nhạc mơ
hồ dậy lên từ sự điều hoà âm hưởng của các từ mà vai trò biểu đạt ý nghĩa
của chúng đã không được xem như một cái gì có tầm quan trọng thiết yếu.
Ngoài ra, tất cả đều nhoà nhạt, mung lung. Nhà thơ muốn ám gợi một Hy-
mã-lạp-sơn với chóp tuyết thiên thu của nó chăng? Hay muốn nói về một
sự giải thoát cho tâm hồn theo lối đưa nó hoà nhập vào nhịp điệu miên viễn
của tự nhiên, vũ trụ? Tất cả những ý đồ này có thể đã tồn tại thực, nhưng
chúng được che dấu bằng một cách diễn tả cố ý không rõ ràng, minh bạch.
Chúng tôi đã đi vào mô tả đặc điểm kết cấu của những bài thơ nói về
thiên nhiên trong Thơ mới thuộc ba nhóm khác nhau: nhóm cân bằng hai vế
tả cảnh và tả tình, nhóm chỉ đặt trọng tâm vào vế tả cảnh và cuối cùng là
nhóm muốn nhìn thiên nhiên như một ký hiệu tượng trưng. Mỗi nhóm
quả đã có một hình thức kết cấu riêng và nhìn bao quát hết thảy, ta nhận thấy
từng cái riêng cá biệt ấy đã chứng thực sự tồn tại của một cái riêng mang
tính chất loại hình của kết cấu các bài thơ nói về thiên nhiên trong Thơ
mới.
Như đã nói, vấn đề kết cấu hình tượng của Thơ mới là một vấn đề
lớn và phức tạp. Đi vào xác định đặc điểm loại hình có tính phổ quát của
chúng, chúng tôi đã chọn hình thức luận chứng về vấn đề thông qua khảo
sát đặc điểm kết cấu của riêng từng mảng thơ một (mà mỗi mảng thơ như
thế gắn với một chủ đề, đề tài hoặc một loại hình thức trữ tình riêng). Các
mảng thơ được đem khảo sát ở đây chưa nhiều, nhưng chúng đều là những
176
đối tượng được lựa chọn, mang tính tiêu biểu. Thiết nghĩ từ chúng đã có thể
có một ý niệm khá đúng đắn về Thơ mới nói chung. Vả chăng, việc chia
Thơ mới ra thành mảng này mảng nọ chỉ có một ý nghĩa tương đối và chỉ
để tiện làm việc. Kỳ thực, lắm lúc trong từng đơn vị bài thơ cụ thể ta thấy
hội đủ các yếu tố miêu tả, kể chuyện, trữ tình, triết lý..., và các yếu tố đó
hòa lẫn vào nhau rất khó chia tách. Vì vậy những kết luận về đặc điểm kết
cấu hình tượng của riêng một mảng thơ nào bao giờ cũng nhằm tới một
khái quát về kết cấu hình tượng của Thơ mới nói chung, và xa hơn nữa,
nhằm tới một khái quát về loại hình kết cấu của Thơ mới
3.3. Kết cấu văn bản ngôn từ của Thơ mới
3.3.1. Quan niệm mới về bài thơ
Trong Chương 1 chúng tôi đã nói tới một quan niệm chung nhất về
bài thơ mang tính trừu tượng, thoát ly khỏi tính đặc thù của những kiểu tư
duy nghệ thuật khác nhau. Nhiệm vụ đặt ra ở đây khác hơn: phải tìm ra
quan niệm ngầm ẩn về bài thơ của các nhà Thơ mới đã chi phối cách tổ
chức văn bản của họ, giúp nó phân biệt với cách tổ chức văn bản trong thơ
trữ tình cổ điển. Thực hiện nhiệm vụ này, dĩ nhiên không thể quên sự phụ
thuộc của quan niệm về bài thơ vào một phạm trù bao quát hơn là quan
niệm về nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con người.
Bài thơ, trong cách nhìn của các nhà thơ cổ điển là một cấu trúc khép
kín, có lớp lang rõ ràng, dễ nhận biết và nói khác hơn là có tính hoàn chỉnh
tự thân. Các tác giả gần như ý thức được hoàn toàn những điều mình nói,
và khi cho tác phẩm "hành thế", họ muốn độc giả hiểu bài thơ đúng như ý
mình, rút ra được cái nghĩa của bài thơ đúng như mình dự kiến. Dĩ nhiên
không ai có thể kiểm soát nổi sự tiếp nhận của người đọc, nhất là người đọc
thuộc về những thời đại khác và sống trong những không gian văn hoá
khác. Nhưng dù sao nhu cầu kiểm soát kia vẫn tồn tại thực, ngay trong cách
tổ chức bài thơ rập theo mô hình thế giới Trung đại vốn đòi hỏi mọi cái
phải được đặt đúng chỗ, đúng "tôn ti trật tự".
177
Tính có giới hạn của bài thơ về mặt hình thức đã được các nhà thơ
xưa tiếp nhận như một cái gì thuộc về bản chất của cấu tạo thế giới với đặc
điểm hoàn kết và ngưng đọng của nó (nếu có vận động thì cũng chỉ là vận
động tuần hoàn). Mặc dù họ đã nêu yêu cầu rất cao về sức gợi mở của bài
thơ (ý tại ngôn ngoại; ngôn hữu tận, ý vô cùng...), nhưng việc bài thơ gợi ra
cái gì và gợi đến đâu, họ dường như đã tiên lượng được. Như vậy, vô hình
trung các nhà thơ cổ điển đã xem bài thơ như là một sản phẩm của tạo hoá
và vai trò của các tác giả chỉ là sắp xếp vật liệu ngôn từ theo quy luật,
hướng về một sự hài hoà đã được ấn định từ trước. Trong mối quan hệ với
độc giả, bài thơ hiện ra với dáng vẻ uy quyền, hiểu theo nghĩa nó đòi được
tiếp nhận như một cái gì đã hoàn chỉnh, không thể bị giải thích hay sử dụng
một cách tự do, tùy tiện. Trong thời đại lãng mạn, thời đại của sự bùng nổ ý
thức cá nhân, quan niệm về bài thơ đã đổi khác. Với các nhà Thơ mới, cái
giới hạn về hình thức kia chỉ mang một ý nghĩa tương đối, hoàn toàn không
thể ngăn trở việc họ biến bài thơ thành một cấu trúc vận động bao gồm
những đơn vị cấu trúc chưa thật định hình hoặc chưa hoàn thiện về mặt vật
chất. Bài thơ, do vậy đến với độc giả trong một không khí "đối thoại" dân
chủ. Nó không áp đặt một cách nhìn mà gợi mở những cách nhìn.
Xin chứng minh sự hiện hữu của quan niệm này về bài thơ của các
nhà Thơ mới. Trong phần viết về Kết cấu văn bản ngôn từ ở Chương 1,
chúng tôi đã lưu ý: hầu như không thấy hiện tượng chia khổ bài thơ trong
thơ trữ tình cổ điển Trung Quốc và Việt Nam, mặc dù dấu hiệu đầu tiên của
sự chia khổ đã xuất hiện rải rác đó đây. Trong khi đó, ở Thơ mới, hiện
tượng chia một bài thơ thành nhiều khổ là hết sức phổ biến. Chính từ đây
khái niệm về khổ thơ hình thành, ghi nhận một cách tân của Thơ mới đối
với thơ trữ tình Việt Nam. Theo Nguyễn Hưng Quốc, cách tân này đã "giải
phóng bài thơ ra khỏi khuôn khổ chật chội và cứng nhắc của thơ Đường
luật chỉ giới hạn trong bốn câu hoặc tám câu với những đề, thực, luận và
kết; bài thơ thường dài hơn, cách cấu tứ đa dạng hơn, nhạc điệu phong phú
và biến hoá hơn, một phần nhờ sự thay đổi trong cách ngắt nhịp, phần khác,
178
nhờ hệ thống vần được thay đổi trong mỗi khổ thơ" [130,24]. Nhận xét trên
theo chúng tôi cần được bổ sung thêm, nếu muốn nhìn hiện tượng chia bài
thơ làm nhiều khổ như một trong các biểu hiện của tư duy mới về bài thơ.
Trong thơ trữ tình cổ điển, đặc biệt là trong luật thi, các thành tố tham gia
vào bố cục một bài thơ không có giá trị ngang nhau. Trong bố cục bao giờ
cũng có một thành tố trung tâm, chi phối các thành tố khác. Nguyên nhân
nằm ở chỗ người xưa cho rằng giá trị cơ bản của bài thơ phải gắn liền với
việc biểu đạt những chân lý vĩnh cửu hay nói khác hơn là biểu đạt một khái
niệm về bản chất của thế giới, mà "khái niệm" này không chỉ đòi được nói
ra bằng ý nghĩa các câu thơ mà còn đòi được "nói ra" bằng tôn ti giữa các
câu thơ nữa. Chúng tôi nghĩ những điều vừa nêu là có cơ sở, vì chỉ cần dịch
chuyển cái nhìn sang hội họa - nghệ thuật của thị giác - vốn cùng nằm
trong trường chi phối của một quan niệm thống nhất về thế giới là ta có thể
nhận ra ngay điều đó. Một ví dụ: trong bức tranh Dương Quý Phi tắm của
Chu Phỏng đời Đường, chúng ta thấy người hầu của Quí Phi được vẽ nhỏ
hơn nhiều so với nhân vật chính, dù cả hai đều được đặt trên cùng một bình
độ. Trở lại với Thơ mới, xét ở bề sâu, việc chia bài thơ thành nhiều khổ
phản ánh quan niệm xem bài thơ như một cấu trúc bao gồm nhiều bộ phận
cấu thành có giá trị ngang nhau và bài thơ nào cũng phải bộc lộ được ý
hướng xoáy vào mô tả những kinh nghiệm trực tiếp không ngừng đổi mới
của con người đối với cuộc sống. Mỗi khổ thơ trong khi bị hút vào một cái
tứ lớn chi phối toàn bài thì tự nó cũng chứa đựng một cái tứ nhỏ, có một
thế tồn tại độc lập nhất định và chứa đựng một kinh nghiệm trực tiếp nhất
định. Đặc điểm này của khổ thơ đã trở thành một trong những điều kiện
quan trọng cho phép các nhà Thơ mới phá vỡ cấu trúc khép kín của bài thơ
trữ tình cổ điển để xây dựng một cấu trúc mở cho bài thơ của mình và để
thiết lập một quan hệ mới giữa thơ và độc giả.
Đi vào tìm hiểu câu thơ của Thơ mới, ta cũng nhận thấy trong đặc
điểm của nó có dấu ấn của quan niệm về bài thơ đã được nói khái quát ở
179
trên. Đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích cách tân của Thơ mới ở
phương diện câu thơ và sau đây là một số điều đã được khẳng định:
- Sự đồng nhất giữa khái niệm câu thơ và dòng thơ bị phá vỡ. Về cơ
bản, câu thơ của Thơ mới cũng trùng với dòng thơ, nhưng lại có nhiều
trường hợp, một dòng thơ bao gồm nhiều câu thơ. hoặc ngược lại, nhiều
dòng thơ chuyên chở một câu thơ [112,123 - 124], [161,36], [130,24] v.v...
- Diện tích câu (dòng) thơ được mở rộng (loại câu (dòng) thơ 8 tiếng
được dùng hết sức phổ biến và có nhiều khi số tiếng trong một câu (dòng)
có thể lên tới 9, 10,11, 12 hoặc hơn nữa), số lượng các hư từ và những từ
có chức năng tạo nhạc tăng lên, nhịp ngắt cũng linh hoạt hơn [149,142],
[112,371-385], [161,37], [29], [130,24] v.v...
Những kết luận vừa nêu cho thấy rõ hơn điều đã được gọi là tính
chưa định hình của các đơn vị cấu trúc thuộc bài thơ. Chính nó đã làm cho
bài thơ của Thơ mới trở nên nhạy cảm với những gì vận động và thích hợp
với yêu cầu mô tả tính chất vận động của thế giới. Không phải ngẫu nhiên
mà khi đọc Thơ mới, hầu như ở bài nào ta cũng bắt gặp một cách cảm thụ
về thời gian rất khác xưa, cho dù bài thơ viết về chủ đề nào.
Đã nhiều lần trong luận án chúng tôi nhắc tới thuật ngữ câu thơ điệu
nói. Theo logic trình bày vấn đề ở phần viết này, chúng tôi thấy cần phải
lưu ý thêm rằng thuật ngữ câu thơ điệu nói không nghiêng về phía mô tả
hình thức bên ngoài của câu thơ trong Thơ mới, mà nghiêng về phản ánh
một cách tổ chức lời thơ (và sau đó là cách tổ chức bài thơ) sao cho nó thể
hiện rõ sự cảm nhận thế giới của con người hiện đại. Đúng là rất nhiều khi
ta bắt gặp hiện tượng nhà thơ đưa lời nói thường ngày vào thơ, kiểu: Tôi
ngoảnh trông lại quãng đường đời./ Sống với người ta chừng hăm sáu năm
thôi,/ Mà tôi thấy mình đã nhiều tuổi lắm (Lời mỉa mai - Thế Lữ); Thời thế
bây giờ vẫn thấy khó,/ Nhà văn An Nam khổ như chó! (Gửi Trương Tửu -
Nguyễn Vỹ); Gái lớn ai không phải lấy chồng!/ Can gì mà khóc, nín đi
không!/ Nín đi! Mặc áo ra chào họ,/ Rõ quý con tôi! Các chị trông! (Người
mẹ - Nguyễn Bính) v.v..., nhưng không thể từ đó mà cho rằng ý nghĩa của
180
thuật ngữ câu thơ điệu nói chỉ gói gọn trong việc ghi lại những hiện tượng
nêu trên. Sự thực câu thơ điệu nói vẫn là câu thơ, không phải lời nói
thường, cũng không phải câu văn xuôi. Nó là một loại hình câu thơ hiện đại
nằm trong một kiểu tổ chức bài thơ hiện đại, phù hợp với tính chất của một
nhãn quan mới về cuộc đời, về chủ thể. Những câu thơ vừa dẫn của Thế
Lữ, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Bính xét theo góc độ nào đó thì giống hệt lời nói
thường ngày, nhưng đây là một lời nói thường đã được nhận thức, đã được
đưa vào thơ và đã được hoán cải thành câu thơ một cách có nghệ thuật. Chủ
yếu vì điều này mà chúng có thể trở thành ví dụ của câu thơ điệu nói, còn
cái gọi là giống mà ai cũng nhận thấy kia lại chỉ có một ý nghĩa ít cơ bản
hơn. Nếu hiểu như thế, thậm chí ta có thể tìm thấy mẫu số chung giữa các
câu thơ sau đây của Thế Lữ: Anh đi đường anh, tôi đường tôi,/ Tình nghĩa
đôi ta có thế thôi (Giây phút chạnh lòng) với các câu thơ sau đây của Xuân
Diệu: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối tân hôn;/
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,/Â m điệu, thần tiên, thấm tận hồn
(Huyền diệu). Dù một bên có vẻ nôm na, sống sít và một bên có vẻ trau
luyện, đài các, những câu thơ đó vẫn cứ gần gũi nhau ở một điểm: chúng
đều là những câu thơ thuộc loại hình câu thơ điệu nói.
Do là hai điểm đánh dấu giới hạn của bài thơ trên phương diện hình
thức, mở đầu và kết thúc luôn có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa tới cho
bài thơ một sắc thái thẩm mỹ riêng biệt. Ta từng biết đến một số đòi hỏi
của người xưa về mở đầu và kết thúc đã được đưa lên gần như thành những
công thức. Dù các bài thơ trữ tình cổ điển có thể hiện những nội dung cảm
xúc khác nhau thế nào thì trong mở đầu và kết thúc của chúng vẫn có
những yếu tố ổn định. Thông thường câu mở đầu phải gắn liền với việc tái
hiện bối cảnh nền tảng mà trên đó cảm xúc nảy sinh. Cái "lõi" của cảm xúc,
của tâm trạng thường được bộc lộ sau đó theo logic cái gì cũng phải có gốc
nguồn, không tự nhiên mà có. ở phần kết thúc, với sự xuất hiện của cú
pháp suy luận, vấn đề nhà thơ muốn thể hiện được khẳng định lại, và cấu
trúc bài thơ trở nên vững chãi, thống nhất. Như vậy, mới chỉ qua cách mở
181
đầu và kết thúc, ta đã thấy thơ cổ điển có lối kết cấu khá duy lý, ưa trình tự
mạch lạc, có dự liệu đầy đủ về nơi khởi phát cũng như nơi kết thúc của cảm
xúc, kể cả những cảm xúc đạt đến độ giằng xé bi kịch muốn "cốc" lên,
"om" lên như trong thơ Hồ Xuân Hương (Nhân đây, xin được lưu ý: tính
duy lý trong kết cấu thơ trữ tình cổ điển không phản ánh cái tôi duy lý của
nhà thơ như trong Thơ mới mà chủ yếu phản ánh mối quan tâm của nhà thơ
đối với việc biểu đạt những chân lý vĩnh cửu). Đối chiếu thơ trữ tình cổ
điển với Thơ mới trên phương diện này, ta nhận thấy Thơ mới dĩ nhiên
không thiếu những bài đầu đuôi rành rẽ, nhưng nhiều hơn cả vẫn là những
bài không quan tâm lắm tới việc trình bày đầy đủ "lịch sử" của những mối
cảm xúc, suy nghĩ, và tất cả những điều này được chúng ta nhận biết trước
hết lại vẫn thông qua những cách mở đầu, kết thúc (và tất nhiên còn thông
qua nhiều cái khác thuộc phạm vi kết cấu nữa). Rất phổ biến trong Thơ mới
là những câu mở đầu đường đột khiến độc giả bất ngờ, thoạt tiên chưa hiểu
ra sao cả:
Em ơi, nhẹ cuốn bức rèm tơ ...
(Mòn mỏi - Thanh Tịnh)
Đã hẹn với em rồi, không tưởng tiếc Quãng đời xưa, không than khóc gì đâu! ... (Quên - Vũ Hoàng Chương)
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế! (Nhạc sầu - Huy Cận)
Bằng việc "bất chấp" nguyên tắc giao tiếp thông thường đòi mọi thứ
phải được nói ra có ngành, có ngọn, những câu mở đầu như trên đã đưa lại
một hiệu quả "thôi miên" rất rõ ràng đối với người đọc. Chúng đã áp đặt cái
chủ quan của nhà thơ lên người đọc một cách không khoan nhượng để từ
đó có cơ hội đồng hoá họ trong một nhịp điệu thơ mạnh mẽ, sôi nổi - nhịp
điệu của con tim được tự do đập theo cảm xúc của mình. Không phải ngẫu
nhiên mà trong sáng tác của một hồn thơ ham hố như Xuân Diệu, điên
cuồng như Hàn Mặc Tử, kiểu mở đầu này chiếm ưu thế. 15 bài thơ của
182
Xuân Diệu được tuyển vào Thi nhân Việt Nam, hầu như tất cả, cứ mở bài là
vào chuyện ngay. Tất nhiên, để phá bỏ một thói quen, một quán tính tiếp
nhận có lịch sử hành trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm (đinh ninh rằng
qua nhiều hành lang dích dắc mới tới chính điện, mới tới chỗ ngự trị của
cảm xúc), Xuân Diệu phải sử dụng nhiều thủ thuật. Trước hết nhà thơ dùng
những kiểu câu mang sắc thái mệnh lệnh, cầu khiến, đẩy bánh xe cảm xúc
tức thì lăn nhanh:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
(Huyền diệu)
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
(Lời kỹ nữ)
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!
(Giục giã)
Nhiều khi, nhà thơ lạ hoá một hình ảnh hay dùng một cách nói lạ
(Tây) để kích thích tính năng động tiếp nhận nơi người đọc:
Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá (Trăng) Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
(Đây mùa thu tới) Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ (Buồn trăng) Và cũng có khi Xuân Diệu ném cái tôi đầy kiêu hãnh của mình ra
ngay từ chữ thứ nhất để thách thức cảm xúc của độc giả:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
(Tình trai)
Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất
(Vội vàng)
183
Rõ ràng đó là những cách mở đầu hết sức khác lạ thể hiện một quan
niệm mới về bài thơ cùng cách nhìn mới về những vấn đề sâu xa khác. Xin
quan sát tiếp những dẫn chứng lấy từ thơ Hàn Mặc Tử. Trong tập Thơ Điên
(Đau thương) có rất nhiều câu mở đầu như - không - phải - mở - đầu, như
một câu nào thuộc đoạn giữa của bài thơ:
Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
(Trăng vàng trăng ngọc)
Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ Của hương hoa trong trăng lờn lợt bẩy ... (Trường tương tư)
Là sợi dường tơ dịu quá trăng Là bao nhiêu ngọc cũng chưa bằng (Tối tân hôn)
Với những cách mở đầu như thế, ta nhận ra một định hướng sáng tạo
rất nổi bật của các nhà Thơ mới là quan tâm trước hết đến việc trình bày
khoảnh khắc hiện tại của cảm xúc và rất tin vào sự cộng cảm của độc giả.
Điều này không giống với thơ cổ điển. Do một mặt ít chú ý thể hiện các
trạng thái cảm xúc bằng một lớp ngôn từ tương ứng và mặt khác thường
quan tâm vẽ bối cảnh trước khi bày tỏ cảm xúc, các nhà thơ cổ điển đã
phần nào vĩnh viễn hoá và phi cá thể hoá dòng cảm xúc được trình bày.
Thật là một kết quả tự nhiên khi các bài Thơ mới có những câu kết
rất mực chơi vơi, những câu kết khó dự đoán trước, ngay cả đối với bản
thân người sáng tạo. Khi làm thơ, các nhà Thơ mới vẫn thường theo đuổi
cảm xúc hơn là đuổi theo ý tưởng (điều này đã được nói kỹ ở phần đầu của
Chương 3). Nồng độ của cảm xúc được phô bày càng đậm thì người ra
càng không dễ gì tìm thấy một cái "kết" thăng bằng, hài hoà, bởi đi đến
cùng cái tôi, bao giờ các nhà Thơ mới cũng bắt gặp một cảm giác bất an,
chống chếnh, đôi khi hãi hùng. Tất cả các bài thơ có những câu mở đầu
được trích trên đều có những kết thúc bất ngờ, tô đậm trạng thái hoặc hụt
184
hẫng, hoặc bâng khuâng vơ vẩn, hoặc điên cuồng sầu não. Xin nêu những
ví dụ lấy từ các bài thơ khác để thấy tính phổ biến của hiện tượng mới mẻ
này:
Rút cục chỉ còn mộng với mơ.
(Gửi Trương Tửu - Nguyễn Vĩ)
Ai bảo giùm: Ta có có Ta không?
(Ta - Chế Lan Viên)
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.
(Lòng ta là những hàng thành quách cũ - Vũ Đình Liên)
Trên thực tế, sự xuất hiện của những câu kết này nằm trong nỗ lực
chung của các nhà thơ muốn độc giả cảm nhận rõ rệt hơn tính chất sống
động, chân thực, chưa hoàn kết của cảm xúc được phô diễn trong đó. Ngoài
ra, đây cũng là biểu hiện của một cách tạo phẩm chất "ý tại ngôn ngoại"
cho thơ trong điều kiện mới, khi nhiều cơ sở tồn tại của phẩm chất này gắn
liền với cú pháp độc lập và hình thức đối ngẫu đã bị câu thơ điệu nói phá
vỡ. Như vậy, cái gọi là "ý tại ngôn ngoại" đã được hiểu khác đi và đã được
tạo nên bằng nhiều phương thức mới. Từ góc nhìn này, ta thấy Thế Lữ thật
có lý khi ông dành cho thơ Xuân Diệu những lời nhận xét như "những câu
thơ nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu tinh hoa" (Tựa Thơ thơ), mặc
dù trong cảm nhận chung, ai cũng hiểu thơ Xuân Diệu không phải nổi bật ở
sự ... ít lời.
Khi tính nghệ thuật và sự hữu lý của những cách kết thúc "mở ngỏ" đã
được thừa nhận, không ít nhà thơ đã nỗ lực biến điều có thể là tự nhiên, ngẫu
nhiên đó thành một cái gì có ý nghĩa như là nguyên tắc. Từ đây, độc giả
được chứng kiến nhiều thí nghiệm độc đáo làm "chơi vơi hoá" kết thúc hay
"phi kết thúc hoá" những sự kết thúc đích thực. Một trường hợp dễ thấy là
Thanh Tịnh với các bài Mòn mỏi, Rồi một hôm. Mòn mỏi được triển khai
185
dựa theo một câu chuyện cổ tích ở Tây Âu, nhưng cái kết lửng lơ lại không
còn là của cổ tích nữa:
-Ngựa hồng đã đến bên yên Chị ơi, trên ngựa chiếc yên ... vắng người.
Cũng cần thấy thêm: kiểu kết thúc này rất gần với kiểu kết thúc ở bài
Một mai chàng trở lại của M.Maeterlinck, nghĩa là một kiểu kết thúc có
màu sắc Tây phương. Nó mới mẻ so với truyền thống.
Có một điều khá đặc biệt là ở nhiều bài Thơ mới, trước dòng thơ
cuối cùng thấy xuất hiện thình lình một gạch đầu dòng (xem các bài Tiếng
trúc tuyệt vời của Thế Lữ, Lời kỹ nữ của Xuân Diệu, Đi giữa đường thơm,
Thu rừng của Huy Cận, Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, Tay ngà của
Nguyễn Nhược Pháp v.v... ). Tất nhiên không nên tuyệt đối hoá ý nghĩa của
cái gạch đầu dòng ở câu thơ kết, nhưng riêng việc nó nhiều lần xuất hiện ở
thơ của nhiều nhà thơ khác nhau đã chứng tỏ đây không phải là một yếu tố
ngẫu nhiên, hình thức thuần tuý. ít nhất, trong ý thức sáng tạo của các nhà
thơ, nó có giá trị như một sự khu biệt, cũng như trước đó nó đánh dấu sự
vụt sáng của một tứ thơ mới, giúp cho bài thơ đi đến điểm kết thúc mà
không hụt hơi, không rơi vào sự bằng phẳng, tầm tầm đoán trước được.
Trong nhiều trường hợp, gạch đầu dòng ấy là dấu hiệu của sự khởi phát
một đợt sóng cảm xúc mới mà khả năng dồn đẩy của nói tới đâu chính tác
giả nhiều khi cũng chưa ý thức được một cách rõ rệt.
Chúng tôi đã đi vào làm sáng tỏ quan niệm mới về bài thơ của các
nhà Thơ mới được thể hiện qua những dấu hiệu hiện đại nằm trong một số
thành tố cấu trúc của bài thơ như khổ thơ, câu thơ, mở đầu, kết thúc. Lẽ ra
còn phải phân tích thêm về tổ chức nhịp điệu, về mô hình vần trong bài thơ
của Thơ mới nữa. Nhưng do khuôn khổ bó buộc của phần viết này trong
luận án, chúng tôi xin không đi vào khảo chứng kỹ hơn. Điều cuối cùng
muốn lưu ý là quan niệm mới về bài thơ đã nêu được xây dựng trong cả
một quá trình và tồn tại dưới dạng "vô ngôn" phía sau những sáng tác cụ
186
thể. Chỉ đến khi xuất hiện tiểu luận Thơ của Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn
Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh thuộc nhóm Xuân Thu Nhã tập (1942), ta mới
thấy khái niệm bài thơ lần đầu được đề cập một cách trực tiếp. Với sự nhấn
mạnh vào tính chất mở, tính chất gợi ý của thơ theo hướng tượng trưng chủ
nghĩa, quan niệm về bài thơ của các nhà Thơ mới hầu như được đổi mới
thêm một lần nữa.
3.3.2. Tổ chức bài thơ theo sự dắt dẫn của âm nhạc
Cần phải nói ngay rằng tên gọi của hiện tượng kết cấu được gọi là "tổ
chức bài thơ theo sự dắt dẫn của âm nhạc" chỉ mang tính chất ước lệ. Từ "âm
nhạc" đã được sử dụng theo quan niệm của các nhà thơ tượng trưng chủ
nghĩa Pháp trong một số tuyên ngôn nghệ thuật của họ. Sử dụng nó, chúng
tôi muốn nhấn mạnh trước hết đến thế tồn tại tương đối độc lập của nhạc thơ
trong Thơ mới, đến vai trò của nhạc thơ trong việc chi phối logic kết cấu của
tác phẩm, giúp tác phẩm khi hoàn thành có thể đạt tới một sự khám phá mới
về hiện thực và một cách tân nhất định ở phương diện hình thức.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những thể nghiệm tổ chức bài thơ
theo hướng này, mà nguyên nhân bao trùm nhất nằm ở sự tương tác, ảnh
hưởng lẫn nhau mang tính qui luật giữa các loại hình nghệ thuật cùng tồn
tại và phát triển trong một thời đại. Thơ mới là thơ của thời đại lãng mạn -
thời đại mà trong bức tranh nghệ thuật tổng thể, vai trò chủ âm thuộc về
âm nhạc (theo nhận xét của R.Jakobson). Thật tự nhiên khi ta thấy thơ ca
hướng tới âm nhạc, học tập những thủ pháp thể hiện rất đặc trưng của âm
nhạc để tự làm mới mình, mong đạt được một sự tổng hợp nghệ thuật mới
so với trước. Tuy nhiên, cần phải nói thêm điều này: trong thời Thơ mới,
nền tân nhạc Việt Nam cũng đang ở bước hình thành, vậy thì có thể nói đến
một sự "hướng tới âm nhạc "như yêu cầu bức bách để đổi mới thơ Việt hay
không ? Chúng tôi nghĩ, nếu xét Thơ mới chỉ như hiện tượng thơ biệt lập
của riêng dân tộc thì có thể nói cái logic vận động hướng tới âm nhạc của
nó là mờ nhạt. Nhưng nếu xét Thơ mới như là hiện tượng phổ quát thể hiện
cuộc gặp gỡ, giao lưu văn hóa Đông-Tây mang tính đặc trưng của thời đại
187
chúng ta thì con đường phát triển này lại có tính tất yếu. Thơ mới đã học
tập rất nhiều kinh nghiệm nghệ thuật của thơ ca Pháp nửa cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, mà trong giai đoạn phát triển này, những ngôi sao sáng
của thi đàn Pháp luôn kêu gọi thơ phải "tìm đến" với âm nhạc. Những lời
kêu gọi ấy dĩ nhiên đã ảnh hưởng tới các nhà thơ của chúng ta. Dù sao, đây
chính là một trong nhiều con đường đem tới cái mới cho thơ, mà cái nhu
cầu đổi mới thơ một cách toàn diện thì ở nước ta lúc đó tự thân nó đã có
tính chất rất bức thiết.
Trong thơ cổ điển, yếu tố nhạc vẫn luôn được xem trọng. Khái niệm
thanh văn có tầm quan trọng ngang hàng với các khái niệm khác như hình
văn, tình văn. Thẩm Ước, một người đứng đầu văn đàn Trung Quốc thời
Nam Bắc triều, bậc thầy về âm vận học từng nói: "Cung Vũ biến khác, cao
thấp đổi thay, nếu trước có phù thanh, sau phải có thiết hưởng, trong một
bài thơ âm vận tất khác nhau, giữa hai câu thơ khinh trọng tất khác nhau,
khéo đạt tới tôn chỉ ấy, mới gọi là làm được thơ hay" (dẫn theo [127]).
Cũng vì tầm quan trọng của "thanh văn" mà thơ luật Đường có những yêu
cầu rất chặt chẽ về thanh vận. Tất cả những sách dạy phép làm thơ luật đều
nói kỹ về điều này. Như vậy, nếu như tiến hành so sánh thơ cổ điển với
Thơ mới trên phương diện này thì vấn đề không phải ở chỗ có hay không
có yếu tố nhạc, mà là ở chỗ yếu tố nhạc đó đã được tổ chức như thế nào và
có tính chất gì trong thơ.
Tuy rất chú ý đến nhạc thơ nhưng nhạc thơ cổ điển (qua ví dụ tiêu
biểu là luật thi đời Đường) mang một đặc điểm khác với nhạc thơ trong
Thơ mới và vấn đề tổ chức bài thơ theo sự dắt dẫn của âm nhạc chưa hề
được đặt ra. Phan Ngọc nhận xét: "Người ta thường nói thơ Đường hay nhờ
nhạc điệu hay ở âm điệu. Thực ra âm điệu thơ Đường hết sức nghèo nàn
(...). Cái quy tắc vận luật trứ danh của nó chỉ là để vừa đủ cho bài thơ nghe
được, không phải bài văn xuôi" [108, 134]. Hoàng Ngọc Hiến cũng có một
ý kiến gần gũi: "... tính nhạc của thơ được tạo ra bằng âm thanh những từ
được lựa chọn, sắp đặt cốt sao khuôn theo những thi điệu có sẵn (miễn là
188
đúng niêm luật), thành ra trong thơ cũ âm thanh và ý nghĩa bị tách ra, mỗi
thứ đi một đường.Vì từ được sử dụng với ý nghĩa thông thường, có sẵn nên
nội dung thơ "tầm thường", vì âm thanh của từ được khuôn vào thi điệu có
sẵn nên nhạc điệu thơ trống rỗng [15, 152].
Trong ý kiến vừa nêu, Hoàng Ngọc Hiến muốn nói tới bản chất của
nhạc điệu trong thứ "cặn bã một lối thơ đến lúc tàn" (Hoài Thanh, Hoài
Chân) nhưng ở mức độ nhất định, có thể xem đó cũng là đặc điểm của nhạc
thơ cổ điển nói chung. Nói một cách giản dị, nhạc điệu thơ cổ điển là thứ
nhạc điệu được kiểm soát một cách chặt chẽ, nó chỉ có một ngân vang hạn
chế trong khuôn khổ quy định, mang chức năng của yếu tố phụ trợ, giúp
cho việc cảm hoá lòng người được tốt hơn, bởi nói như Bạch Cư Dị là
"chẳng gì gần gũi bằng âm thanh" (Thư gửi Nguyên Chẩn). Trong khi đó
nhạc điệu Thơ mới lại giữ được tính độc lập nhất định và nhiều khi đóng
vai trò là một yếu tố quan trọng chi phối việc tổ chức nên bài thơ, một yếu
tố năng động của kết cấu, bởi nó đi liền với sự phát triển tự nhiên của tình
cảm, cảm xúc. Trong thơ cổ điển ta chứng kiến không ít lần các nhà thơ vi
phạm những cách luật chính yếu về thanh vận, nhưng hiện tượng họ để bị
cuốn theo nhạc thơ khi sáng tác là tương đối hiếm thấy. Nếu có, nó cũng
chỉ mang tính chất của một sự dỡn chơi có điều kiện với cách luật. Trường
hợp Đỗ Phủ khi viết câu Lê hoa mai hoa sâm si khai gồm 7 chữ toàn thanh
bằng hay Lý Bạch khi viết câu Hữu khách hữu khách tự Tử Mỹ gồm 7 chữ
toàn thanh trắc là thuộc hiện tượng đó. Ngược lại, Thơ mới có nhiều dẫn
chứng cho thấy chất nhạc của một tổ chức nhịp điệu đa dạng đã quyến rũ
nhà thơ như thế nào, mà đáng chú ý đầu tiên là những bài có nội dung đề
cập chuyện âm nhạc như Tiếng trúc tuyệt vời của Thế Lữ, Nhị hồ, Nguyệt
cầm của Xuân Diệu, Say đi em của Vũ Hoàng Chương, Tỳ bà của Bích Khê
v.v... ở các bài thơ vừa nêu, ta có thể nhận ra nhiều "động cơ" chi phối cách
tổ chức tác phẩm, chẳng hạn: phải tái hiện tượng được bối cảnh mà từ đó
âm nhạc lên tiếng; phải làm nổi bật được chính bản thân hình tượng âm
nhạc được phô diễn bởi nhạc cụ và dĩ nhiên cuối cùng phải làm rõ được
189
"dòng" ấn tượng, cảm giác của nhân vật trữ tình khi đắm mình trong môi
trường âm nhạc ấy. Nhưng đó mới là những "động cơ" bề nổi dễ thấy. Còn
một "động cơ" khác, khó nhận thấy hơn, nhưng có lẽ chính nó mới cho thấy
hết được bề sâu kết cấu của tác phẩm, đó là phải làm sao tạo ra được một
cái tương đương âm nhạc trong thơ, nhằm mê hoặc người đọc như trước đó
âm nhạc đã mê hoặc nhân vật trữ tình. Bài thơ Tiếng trúc tuyệt vời của Thế
Lữ mở đầu bằng hai câu ngũ ngôn:
Tiếng địch thổi đâu đây Cớ sao mà réo rắt?
Câu thơ ngũ ngôn ngắn, không ngắt nhịp ở giữa, bởi vậy người đọc
phải giữ hơi cho đến tận chỗ ngừng cuối câu. Nhưng kết thúc câu lại là
những âm tiết mang thanh điệu có âm vực cao. Kiểu bố trí nhịp điệu và
thanh điệu đó vừa có khả năng kìm giữ tốc độ đọc lại vừa thúc đẩy việc đọc
tiếp, nghĩa là có khả năng tạo nên một dạng cảm xúc đối nghịch đòi hỏi
được giải toả. Câu thứ ba kéo dài đến chín tiếng tạo nên một sự giải toả
mang tính cục bộ để rồi sau đó khuôn khổ câu thơ, nhịp thơ được buông
lỏng hoàn toàn cho ứng khớp với nhịp thở, nhịp cảm xúc tự nhiên đang khi
nó điều hoà trở lại sau những kích thích bất thường ban đầu (có thể như
trong âm nhạc là nhằm xác lập một âm hình cơ sở):
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt, Mây bay ... gió quyến mây bay ... Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt, Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
ánh chiều thu Lướt mặt hồ thu Sương hồng lam nhẹ lan trên sóng biếc Rặng lau già xao xác tiếng reo khô, Như khua động nỗi nhớ nhung thương tiếc Trong lòng người đứng bên hồ.
190
Trong đoạn thơ trích trên, các thuộc tính âm thanh của từ, của lời nói
như cao độ, cường độ, trường độ được tổ chức chặt chẽ không kém gì trong
âm nhạc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc về sự tiếp xúc với một bản
nhạc - thơ hoàn chỉnh. Cao độ của bản nhạc - thơ ấy được tạo nên do sự
luân phiên của những thanh điệu có âm vực cao với những thanh điệu có
âm vực thấp. Cường độ của bản nhạc - thơ ấy được nhận ra qua phép lặp từ
và qua cách ngắt nhịp ngắn liên tục sau một nhịp dài. Trường độ cũng được
cảm nhận thông qua việc kéo dài hoặc rút ngắn nhịp thơ, câu thơ. Thử so
sánh với bài Tỳ bà hành - một kiệt tác thơ của Bạch Cư Dị, ta sẽ thấy rõ sự
khác nhau trong cách tạo nhạc cho thơ. Trong Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị đã
thể hiện rõ một khả năng thẩm âm tuyệt vời. Ông ghi nhận tinh tế hình
tượng âm thanh của bản đàn với những lần chuyển gam, giảm tốc độ, chỗ
ngừng lặng và giai đoạn cao trào của nó. Nhưng người đọc chấp nhận cái
hay của bản đàn và sau đó biểu dương tính nhạc của thơ hoàn toàn chỉ
thông qua nhận xét của tác giả và một phần qua lối dùng song thanh, điệp
vận trong bài thơ. Nhạc của nhạc đã không được làm sống lại thông qua
một tổ chức tương ứng của nhạc thơ bởi khuôn khổ câu thơ vẫn không thay
đổi và nhịp thơ vẫn rơi đều vào chữ thứ tư của câu bảy chữ.
Trở lại với bài Tiếng trúc tuyệt vời của Thế Lữ, chính sự biến đổi
linh hoạt của nhịp thơ, chính sự luân phiên bằng trắc được mở rộng từ
phạm vi nội bộ câu thơ lan ra các câu thơ, lên toàn bộ bài thơ đã tạo nên sự
nhất thể hoá giữa cái "tuyệt vời" của "tiếng trúc" được nói tới với người
đọc. Vai trò trung gian của nhà thơ bị mờ đi, và ngay cả khi nhà thơ thôi
trực tiếp mô tả âm nhạc bằng những từ láy như "lơ lửng", "vi vút", "dìu
dặt", "hắt hiu" ... thì dòng nhạc vẫn không ngừng chảy, vẫn không thôi làm
thổn thức trái tim độc giả và điều tiết nhịp thở của độc giả một cách đầy
hiệu quả.
Trong bài Nghệ thuật thơ, P.Verlaine, một trong những người mở
đường của trường phái thơ Tượng trưng (Pháp) viết: Â m nhạc trước hết
mọi điều / Vì thế nên chọn Chân lẻ. P.Verlaine muốn ưu tiên dùng câu thơ
191
chân lẻ, không dùng câu thơ 12 chân truyền thống (alexandrin) có tính chất
cân đối chia ra hai nhịp bằng nhau, và trong câu thơ chân lẻ, việc ngắt hơi
không nhất thiết phải thực hiện ở âm tiết thứ 6 mà có thể ở âm tiết khác.
Thực chất đây là đòi hỏi tạo câu thơ tự do để bài thơ giàu nhạc tính hơn.
Nói ngược trở lại, khi nhà thơ đã tìm được một hình thức thơ tự do khả dĩ
giúp cho việc biểu đạt tốt nhất dòng tình cảm của mình cũng chính là khi
anh ta đã đưa lại được một tư duy mới về nhạc thơ, và có thể nói bài thơ
của anh ta được tổ chức, kết cấu theo sự dắt dẫn của âm nhạc. Bên cạnh bài
Tiếng trúc tuyệt vời của Thế Lữ đã phân tích ở trên, bài Say đi em của Vũ
Hoàng Chương cũng chính là một minh chứng tiêu biểu cho vấn đề này.
Chính Hoài Thanh, Hoài Chân khi bình bài thơ đã viết: "Tôi yêu những vần
thơ chếnh choáng, lảo đảo mà nhịp nhàng theo điệu kèn khiêu vũ"
[149,351]. Đông Hoài cũng tán đồng ý kiến đó và phát triển tiếp: "chính là
"âm nhạc hiện đại" trong các điệu kèn khiêu vũ tạo thành thể "thơ tự do"
[61, 115].
Nhưng không thể quy cái gọi là tổ chức, kết cấu bài thơ theo sự dắt
dẫn của âm nhạc vào mỗi việc nhà thơ để bài thơ tự trôi chảy thuận theo
mạch cảm xúc tự nhiên và để mạch cảm xúc ấy tự chọn lấy cho mình nhịp
điệu thích hợp, không gò bó của thơ tự do. ở đây còn cần phải nói tới một
lối kết cấu cụ thể nhằm hiện thực hoá cái ý đồ của một số nhà thơ muốn đặt
trọng tâm vào việc khai thác năng lực phù chú tiềm ẩn của con chữ về
phương diện ngữ âm và khai thác sức mạnh riêng của những biểu tượng
tượng trưng. Ta vốn biết thực chất của việc các nhà thơ tượng trưng chủ
nghĩa đề cao âm nhạc lên trên hết (qua những lời phát biểu, tuyên ngôn của
P.Verlaine, S.Mallarmé, P.Valéry ...) là ở chỗ theo họ âm nhạc có khả năng
thâm nhập vào bản chất của sự vật, đạt tới cái siêu việt tốt hơn tất cả các
loại hình nghệ thuật khác vốn không thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật
khi phản ánh nó, và với phẩm chất này, âm nhạc có thể trở thành cứu cánh
của thơ, giúp thơ đạt tới cái bản chất huyền bí của sự vật, của thực tại,
không phải bằng những mô tả mang tính trực quan mà bằng sự ám thị.
192
Trong thơ của một nhà thơ mang đầy đủ phẩm chất lãng mạn là Xuân
Diệu, ta tìm thấy những câu đi liền nhau gồm toàn thanh bằng như:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên khơi vơi
(Nhị hồ)
Cái khiến hai câu thơ trên đập ngay vào sự chú ý của độc giả chính là
nhạc điệu lâng lâng của nó do lối điều hoà thanh điệu và lối điệp vận mẫu
khác thường đưa lại, chứ chưa hẳn là hình ảnh và nội dung cảm xúc. Cái
gọi là "ý nghĩa" theo cách hiểu truyền thống lúc này chỉ đóng vai trò quan
trọng hàng hai bởi âm thanh ở đây cũng có ý nghĩa của nó, hay nói đúng
hơn, nó có khả năng mở rộng trường nghĩa của bài thơ. Kết cấu thanh điệu
của hai câu thơ này khá đặc biệt, nhưng không phải là hiện tượng ngẫu
nhiên. Đặt vào trong cả bài Nhị hồ, ta sẽ thấy rõ chúng là kết quả của một
thí nghiệm tổ chức bài thơ dựa trên khả năng diễn tả tiềm tàng của thanh
huyền và thanh không dấu và nói bao quát hơn là dựa trên những biến hoá
phức tạp về cao độ của ngữ âm. Những tên người như Lộng Ngọc, Tiêu
Lang, Bao Tự, Ly Cơ, Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi, những địa
danh hay tên các công trình kiến trúc nổi tiếng như Cô Tô, A Phòng, những
tên gọi của các khúc nhạc như Lạc âm thiều, Mạnh Lệ Quân được nhắc tới
trong bài thơ một cách đầy ngẫu hứng và có khi khá lộn xộn chứng tỏ mục
tiêu tác giả nhắm tới không phải là giúp cho độc giả được sống lại với một
câu chuyện nào đó. Chúng mang chức năng của yếu tố điều tiết những thí
nghiệm tạo nhạc thơ đang được tiến hành, không cho thí nghiệm đi quá cái
ngưỡng giữa có nghĩa và vô nghĩa, giữa ý vị và trống rỗng. Và điều thú vị
là ngay những tên gọi nói trên xét về phương diện âm thanh thuần tuý cũng
chứa đựng một nhạc tính hoàn toàn phù hợp với nhạc tính của cả bài thơ
mà tác giả công phu tạo tác. Như vậy, trong Nhị hồ, âm nhạc đã trở thành
kẻ hướng đạo cho việc tổ chức bài thơ, đã thống nhất vào mình những chi
tiết về lịch sử và nghệ thuật vốn được nhắc tới theo lối lược giản tối đa và
nhào nặn lại chúng, bắt chúng ngoan ngoãn phục tùng cái nhạc tính cho
193
phép nhà thơ tiến xa trên con đường nắm bắt những cái Mơ hồ, cái Sắc thái
tinh vi, những lo âu, những phiền muộn trăn trở, những mơ ước, tức tất cả
những gì là phẩm chất đích thực của thơ hiện đại theo như quan niệm của
P.Verlaine - người mà Xuân Diệu có chịu ảnh hưởng.
Nhưng dù sao việc học tập lối diễn tả của thơ tượng trưng Pháp ở
Xuân Diệu trên vấn đề này cũng hãy còn "dè dặt". Đến Bích Khê, người mà
tác giả Thi nhân Việt Nam nhận định là cùng với Xuân Sanh, "muốn đi đến
chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ tượng trưng: Mallarmé,
Valéry" [149, 37] thì những thí nghiệm kiểu Xuân Diệu ở trên được triển
khai táo bạo hơn. Trong thơ Bích Khê có nhiều bài chỉ có độc thanh bằng
hay chủ yếu là thanh bằng như Mộng Cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị, Hoàng
hoa, Nghê thường, Tiếng đàn mư a ... Hãy đọc một đoạn trong bài Tỳ bà:
Nàng ơi! Tay đêm đương giăng mền Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời Sương lam phơi màu thu muôn nơi
ở đây tuyệt nhiên không có một thanh trắc nào. Phải chăng tác giả
đang tự buộc mình vào chỗ khó, bởi nếu chỉ nhằm tới việc diễn tả một cảm
xúc nhớ nhung đê mê thì lối biểu đạt thông thường với sự điều hoà bằng
trắc tự nhiên nếu được lựa chọn vẫn rất đắc địa kia mà? Sự thực, nhà thơ
không muốn dừng lại với nội dung ấy hay đúng hơn là không muốn chịu sự
trói buộc của nó. Ông bị mê hoặc bởi nhạc tính của những câu thơ không
được tổ chức theo lối luân phiên thanh điệu thông thường bao gồm những
chữ "lúc trong ngâm" sẽ biến ra "hình ảnh mới". Chính sự xuất hiện của
chúng đã áp đặt lên độc giả một cái nhìn mới về sự vật, về ngôn từ, đã có
tác dụng tích cực chống lại sự tự động hoá trong nhận thức nghệ thuật mà
đặc điểm của nó là độc giả trượt nhanh qua hình thức diễn tả để nhắm tới
"nội dung" và hình thức chỉ được xem là yếu tố có tính chất thuần tuý
phương tiện. Trong thứ "âm nhạc" mới được tạo nên, những hình ảnh của
thế giới bên ngoài như trăng vàng, mây nhung, sương lam ... bỗng nhoà đi,
194
nhập vào nhau để trí năng người đọc thôi bị vướng víu bởi vỏ ngoài của sự
vật và để họ được hoà tan mình trong không khí huyền diệu bao trùm. Điều
đó cũng có nghĩa là lúc này chỉ có âm nhạc là sự hiện hữu đáng kể nhất và
có uy lực nhất. Nó không ngừng vây bọc, thôi miên dẫn dụ độc giả, khiến
độc giả bỗng chốc mất liên hệ với một thực tại quen thuộc để chỉ còn biết
tới thơ và nhìn mọi thứ hoàn toàn thông qua lăng kính của thơ.
Nhưng một khi không còn đặt sự chú ý vào việc miêu tả vẻ bề ngoài
của sự vật cũng như sự phát triển tự nhiên của cảm xúc thì bài thơ sẽ được
triển khai theo logic nào? ở trường hợp bài Tỳ bà của Bích Khê, có khi câu
sau được nối tiếp với câu trước chỉ nhờ vào sự liên hệ gần như ngẫu nhiên
về ngữ âm giữa một số từ nào đấy, chẳng hạn cung thương xui nhớ tới yêu
và hai tiếng tình tang lại dẫn ta đến với tình lang.ở một số bài thơ khác như
bài Nhạc, ta cũng bắt gặp cùng một kiểu liên hệ ấy - kiểu liên hệ đã trở
thành một nét phong cách Bích Khê:
Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nhà thơ cứ để chữ gọi chữ, tự động, như trong một trò chơi và không
băn khoăn nhiều về chuyện giữa chữ "ngà" trong "bàn tay ngà" với chữ
"ngà" trong "ngà ngà say" chẳng có một mối liên hệ ý nghĩa nào cả,.
Những khi không dùng thủ pháp trên, Bích Khê lại dựa hẳn vào một
tứ thơ cũ, lấy nó làm điểm tựa dể quy tụ những tiếng toàn thanh bằng lại.
Bài Hoàng hoa là một ví dụ:
Vàng phai nằm im ôm non gầy Chim yên co mình nương xương cây. Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa. Đông nam mây đùn nơi thành xa... Oanh già theo quyên, quên tin chàng Đào theo phù dung: thư không sang!...
Trong đoạn thơ trên, rõ ràng Bích Khê đã lấy lại những tứ thơ của
Kiều và Chinh phụ ngâm. Nhưng giá trị của bài thơ không thể bị đánh đồng
195
vào những tứ thơ cũ ấy. Nhờ nhạc điệu riêng của những từ được bố trí một
cách có nghệ thuật, những tứ thơ cũ được làm mới lại và các sự vật được
nhắc tới mất đi những đường viền xác định để trở nên mơ hồ hơn, mang
tính chất ám gợi hơn, chứ không còn dừng ở mỗi chức năng biểu thị sự vật
nữa. Đây là thao tác làm thơ, thao tác kết cấu dựa trên quy luật "ý nghĩa đòi
âm thanh rồi âm thanh lại đẻ ra ý nghĩa" mà Chế Lan Viên đã nhận xét rất
xác đáng khi nói về thơ Bích Khê [155, 23].
Tuy nhiên trong thể nghiệm "sản xuất đại trà" một thứ thơ "dùng vần
bằng làm chủ lực" (Chế Lan Viên), Bích Khê đôi khi chưa đạt tới được cái
công thức nổi tiếng của P.Valéry: "Bài thơ là một sự phân vân kéo dài giữa
âm thanh và ý nghĩa" do quá tuyệt đối hóa bình diện âm thanh của các yếu
tố tổ chức thi ca như điệp âm, vần thơ. Kết quả là Bích Khê có những bài
kết cấu khá lỏng lẻo thiết tưởng có thể bớt đi hoặc thêm vào một vài khổ
mà cảm giác chỉnh thể của độc giả không vì thế mà bị thay đổi. Bài Tỳ bà
đã phân tích là một trường hợp như vậy. Trong tập Tinh huyết do Trọng
Miên xuất bản tại Hà Nội 1939, nó chỉ gồm bốn khổ. So với bản in bài Tỳ
bà trong Thơ Bích Khê (Nghĩa Bình - 1988), nó thiếu đi khổ 1, khổ 3 và
khổ thứ 6 (nghĩa là nguyên bài thơ có đến 7 khổ), vậy mà độc giả vẫn
không cảm thấy mất mát hoặc hẫng hụt gì.
Các nhà thơ thuộc thi phái Tượng trưng Pháp khi tuyên bố "âm nhạc
trước hết mọi điều" thì theo một logic tự nhiên, đã ra sức xây dựng các biểu
tượng trong thơ, tất nhiên là với một sự nhận thức mới về vai trò của biểu
tượng. Thực ra, biểu tượng là một hiện tượng quy luật của thơ ca và văn
học nghệ thuật nói chung, vì đặc trưng của thơ ca, của văn học nghệ thuật
là phản ánh đời sống bằng hình thức tượng trưng, tức là hình thức dùng cái
có thể cảm giác được (cái vật liệu có sẵn trong thực tế đã được nhào nặn,
được "tinh thần hoá") để biểu đạt một ý niệm, một cái nhìn có tính chất
thuần tuý tinh thần. Nhờ biểu tượng mà nghệ thuật có thể tri giác được và
có thể đạt tới được bản chất của sự vật. Có thể nói biểu tượng là một yếu tố
đứng trung gian giữa tinh thần và hình thức của thực tại. Thơ mới đã bổ
196
sung vào kho biểu tượng phong phú của thơ ca truyền thống thêm nhiều
biểu tượng mới phản ánh được tinh thần thời đại mình như biểu tượng con
hổ (bài Nhớ rừng của Thế Lữ), con nai vàng (bài Tiếng thu của Lưu Trọng
Lư), Hy mã lạp sơn (bài Hy Mã Lạp Sơn của Xuân Diệu) .v.v... Nhưng
những biểu tượng vừa kể đúng như có người nhận xét "đều là những biểu
tượng đơn. Nó nặng về phản ánh cái tôi bên ngoài, cái tôi xã hội" [161,
181], và xét riêng về hình thức cấu tạo, nó chưa thật mới so với những biểu
tượng của thơ truyền thống. Mặt khác do phẩm chất tạo hình quá rõ nét,
chúng chưa giải phóng được giác quan của người đọc thoát khỏi sự ràng
buộc của những yếu tố vật chất, hữu hình để đạt tới trình độ siêu cảm giác -
một trình độ cho phép người ta tự mình khám phá ra được những mối liên
hệ bí ẩn giữa con người và vũ trụ và đi tới được nơi ngự trị của ý niệm
nguyên sơ (theo quan niệm của các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa). Một
biểu tượng được xây dựng theo sự gợi ý hay theo tinh thần của âm nhạc
hiện đại có những đặc tính khác. Ta hãy quan sát một ví dụ. Trong tập Tinh
huyết của Bích Khê có bài Nàng bước tới ... mà nhan đề có vẻ như báo hiệu
sự giãi bày một cảm xúc lãng mạn tràn trề. Nhưng sự thực cái hình ảnh kia
của "Nàng" chỉ là điểm khởi đầu của một cuộc hành trình vào những miền
mông lung của cảm giác. Nhà thơ không đặt trọng tâm vào việc miêu tả
"Nàng" với những đường nét trực quan dễ nắm bắt. Vừa viết "Nàng bước
tới", thi nhân đã vội lái cảm nhận của độc giả sang địa hạt của cái ảo bằng
trùng trùng những gợi nghĩa, biến hình ảnh có thể rất thực của "Nàng"
thành một biểu tượng tượng trưng:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương Là nơi đây đoàn tụ nhạc mười phương ứ thành xuân cho niên hoa bất tuyệt Cho mở rộng muôn cảm hoài tinh khiết
Khi đã nhìn "Nàng" như "sông trăng chảy ngọc", như "nắng thơm" với
"nguồn hương" tràn trề, lẽ dĩ nhiên nhà thơ phải đi tới sự định giá: "nơi đây
đoàn tụ nhạc mười phương". Tiếp theo, trên cơ sở một sự định giá như vậy,
197
nhà thơ tất phải thấy nơi "đoàn tụ" ấy là nơi "mở rộng muôn cảm hoài tinh
khiết", giúp cho giác quan bỗng nhạy cảm lạ lùng, nhìn "bàn tay" mà thấy cả
"thời gian dồn lại", nhìn con mắt mà thấy "lời truyền sóng đánh điện khắp
muôn trời", mà mỗi lời đều "chứa ngầm hơi chất nổ". Nói tới "chất nổ", tự
nhiên nhà thơ liên hệ tới sự bùng nổ, sự "thăng thiên" của cảm xúc, sự giao
hoà, nhất thể của các giác quan, và lúc này, "Nàng" không còn là "Nàng"
nữa mà đã trở thành cái đẹp, cái lý tưởng và là niềm cảm hứng vô biên, du
hồn người vào cõi đê mê khoái lạc, khiến nhà thơ phải ngây ngất kêu lên:
Hỡi không gian! Hãy tan ra tiếng địch
Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao
Hỡi trần gian! Hãy chết ngột trong sao
Cho chân lý ngời ra như lưỡi kiếm;
Cho tình ta xô dồn sang cực điểm
Và hào quang khiêu vũ với hào quang ...
Ví dụ vừa nêu cho thấy logic kết cấu của những bài thơ đặt mục đích
vào việc xây dựng các biểu tượng tượng trưng mang tính chất siêu nghiệm
chính là: "... Xuất phát từ sự vật, những sự vật thấy được, nghe được, cảm
được, sờ được, ôm được, rút ra từ đó những ám thị về bản chất xuyên qua
một quan niệm" (E. Verhaeren - dẫn theo [138, 69]). Ta còn có thể tìm thấy
sự minh hoạ rõ ràng cho nhận định trên ở các bài Sọ người, Đồ Mi Hoa,
Ngũ Hành Sơn (tiền, hậu) cũng của Bích Khê - người luôn có ý thức xây
dựng một loại thơ tượng trưng thuần tuý. Rõ ràng bằng những bài thơ này,
Bích Khê đã phần nào nâng được thơ lên ngang tầm âm nhạc với khả năng
ám thị, mê hoặc của mình.
Để kết thúc phần viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh lại rằng "tổ
chức bài thơ theo sự dẫn dắt của âm nhạc" là tên gọi ước lệ của một hiện
tượng kết cấu văn bản ngôn từ trong Thơ mới. Trong khi dùng tên gọi này,
chúng tôi luôn ý thức được sự khác biệt giữa hai loại hình nghệ thuật là âm
nhạc và thơ. Thơ hướng về âm nhạc (âm nhạc theo nghĩa đã được chúng
tôi xác định) không có nghĩa là thơ đánh mất mình vì chí ít vật liệu xây
198
dựng nên một bản nhạc khác về bản chất với vật liệu xây dựng nên một bài
thơ. Âm thanh của một nốt nhạc vốn không có nghĩa nhưng âm thanh của
một từ trong câu thơ lại không thể không có nghĩa, dù cho nhà thơ đã sử
dụng từ ngữ theo kiểu nào đi nữa (hoặc nghiêng về nhấn mạnh "nghĩa tiêu
dùng" hoặc nghiêng về khai thác phương diện âm thanh thuần tuý). Do vậy,
cái gọi là hướng về âm nhạc ở đây được chúng tôi hiểu như một phương
cách (do âm nhạc gợi ý) mà các nhà Thơ mới đã sử dụng để kéo bài thơ ra
khỏi tính quy phạm ràng buộc nó suốt một thời kỳ dài, giúp nó có khả năng
thể hiện đạt nhất những tâm tình của con người hiện đại. Những ví dụ được
đưa ra làm minh chứng quả thực còn thu hẹp trong phạm vi sáng tác của
một ít nhà thơ, nhưng chính chúng cho phép chúng tôi trình bày được rõ
hơn về một hình thức tổ chức văn bản mới lạ không có trong thơ cổ điển.
Dĩ nhiên trong Thơ mới không có nhiều bài tạm gọi là "kiểu Bích Khê" mà
ở trên chúng tôi đã dẫn ra, nhưng số lượng những bài sử dụng thể thơ tự do,
sử dụng biểu tượng ám gợi thì lại không phải ít. Ta đã biết sự ra đời của thể
thơ ấy, biểu tượng mang tính chất ấy vốn gắn liền với kiểu tổ chức bài thơ
theo sự dắt dẫn của âm nhạc. Bởi vậy, suy cho cùng, kiểu tổ chức bài thơ
này vẫn cần được xem là kiểu đặc trưng của Thơ mới, có tính chất phổ biến
cho toàn bộ thơ trữ tình của phong trào này.
Chúng tôi đã dành toàn bộ Chương 3 để khảo sát đặc điểm loại hình
của kết cấu Thơ mới 1932 - 1945. Những nguyên tắc kết cấu cơ bản của
Thơ mới đã được nêu lên và một số đặc điểm kết cấu hình tượng, kết cấu
văn bản ngôn từ của Thơ mới đã được phân tích. Từ những dẫn liệu đó,
Chương 3 của luận án cho phép khẳng định rằng Thơ mới quả đã đem đến
một sự cách tân lớn về phương diện kết cấu (cũng có nghĩa là phương diện
thi pháp) cho thơ trữ tình Việt Nam. Cách tân này đã dứt khoát xác nhận
phong trào Thơ mới như một giai đoạn mới của tiến trình thơ Việt mà ý
nghĩa quan trọng nhất của nó là đưa thơ Việt từ phạm trù cổ điển sang
phạm trù hiện đại. Những thành quả sáng tạo của Thơ mới hoàn toàn xứng
đáng được xem như dấu hiệu của một trình độ mới mà thơ trữ tình Việt
199
Nam đạt tới, bất chấp sự bó hẹp về đề tài, chủ đề hay sự hạn chế này nọ về
thế giới quan của nó. Thật hoàn toàn tự nhiên khi ta thấy hình thức Thơ
mới (hiểu theo nghĩa khoa học) đã được các nhà thơ thuộc nhiều khuynh
hướng tư tưởng khác nhau sử dụng. Thậm chí cho mãi đến bây giờ, hình
thức đó vẫn còn chưa bị bác bỏ theo quy luật phát triển bình thường của thơ
ca.
200
KẾT LUẬN
1.Kết cấu thơ trữ tình là một trong những khái niệm then chốt của lý
luận về thơ nói chung và lý luận về thơ trữ tình nói riêng. Nó thể hiện rõ bản
chất sáng tạo của thơ trữ tình và cho phép ta nhìn thấy lý do tồn tại đích thực
của thơ trữ tình bên cạnh các thể loại văn học khác. Đối với thơ trữ tình, vấn
đề kết cấu không kém phần quan trọng hơn so với các vấn đề thường thu hút
sự quan tâm trước hết của người nghiên cứu như vần, nhịp, nhạc điệu, đối
ngẫu ... Thậm chí, vấn đề kết cấu bao trùm toàn bộ những vấn đề còn lại. Vì
vậy, nắm vững khái niệm kết cấu thơ trữ tình (có chú ý phân biệt nó với các
khái niệm gần gũi như bố cục, thủ pháp kết cấu, cấu trúc ...) là điều kiện cơ
bản đầu tiên của việc nghiên cứu hình thức thơ trữ tình, đảm bảo cho những
kết quả nghiên cứu có được chiều sâu và tính hệ thống.
2. Cũng như kết cấu của những thể loại tự sự, kết cấu thơ trữ tình tồn tại
trên hai cấp độ: kết cấu hình tượng và kết cấu văn bản ngôn từ. Hai cấp độ này
luôn tồn tại trong thế phối thuộc nhau và tính tất yếu của sự phối thuộc đó nổi
bật hơn hẳn những sự phối thuộc mà ta đã thấy trong các thể loại tự sự. Riêng
từng cấp độ kết cấu lại chứa đựng nhiều yếu tố kết hợp thành một hệ thống
chặt chẽ. Trong việc nghiên cứu kết cấu hình tượng thơ trữ tình, khái niệm tứ
thơ có một ý nghĩa rất quan trọng. Tứ thơ đứng ở vị trí trung tâm của quá trình
sáng tạo thơ ca, chi phối sự liên kết tất cả các yếu tố của bài thơ lại thành một
thể thống nhất, thành bài thơ như một chỉnh thể lớn bao gồm nhiều đơn vị
chỉnh thể nhỏ hơn như câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ ... cùng với những phương
tiện liên kết hết sức đặc thù như vần, nhịp... So với nhịp điệu trong văn xuôi,
nhịp điệu trong thơ trữ tình có tính tổ chức cao hơn hẳn, đến mức nó trở thành
yếu tố đặc trưng nhất của thể loại này. Khi phân tích nhịp điệu thơ trữ tình,
đơn vị cơ bản được dùng để khảo sát thường là câu thơ bởi tại đây các yếu tố
tạo nhịp điệu như chỗ ngắt, chỗ ngừng, cú pháp, âm điệu (âm điệu của từ, âm
điệu của đoạn câu), hoà âm (hoà âm nhờ luân phiên thanh điệu hay sự bố trí
201
xen kẽ âm tiết có trọng âm với âm tiết không có trọng âm) v.v... xuất hiện với
mật độ dày đặc. Cũng có khi đơn vị khảo sát chủ yếu là khổ thơ, đoạn thơ, nếu
bài thơ được viết theo thể tự do. Kết cấu thơ trữ tình gắn liền với sự tự nhận
thức, tự bộc lộc của cái tôi trữ tình cũng như khả năng khám phá đời sống,
sáng tạo ra cái nhìn "thơ", cái nhìn nghệ thuật về thế giới của nó. Nói khác đi,
kết cấu là điều kiện tồn tại của chủ thể trong nghệ thuật. Chính vì vậy, việc bỏ
qua nhiệm vụ xác định khuôn mặt chủ thể trong khi nghiên cứu kết cấu thơ trữ
tình dễ làm thu hẹp ý nghĩa của kết quả nghiên cứu và ngăn cản ta nhìn thấy
"tính quan niệm" sâu sắc của hình thức thơ trữ tình.
3.Kết cấu thơ trữ tình không phải chỉ là vấn đề của từng bài hay từng
thể loại cụ thể mà còn là vấn đề của các loại hình thơ. Loại hình kết cấu thơ
trữ tình là một bình diện nghiên cứu hết sức cơ bản của thi pháp học lịch sử
về loại hình thơ. Nhìn kết cấu thơ trữ tình từ góc độ này, ta sẽ thấy được sự
phát triển có quy luật của các hình thức kết cấu đa dạng vốn thể hiện rõ
những kiểu tư duy nghệ thuật khác nhau, và trên cơ sở đó có điều kiện đánh
giá một cách đúng đắn, khoa học về những cách tân thi pháp của các loại
hình thơ trong lịch sử. Tất cả mọi yếu tố tham gia vào kết cấu bài thơ trữ
tình đều có thể trở thành đối tượng của một sự nghiên cứu loại hình, từ tứ
thơ cho đến bố cục, mở đầu, kết thúc, câu thơ, khổ thơ, vần, nhịp ... Khi nói
tới loại hình kết cấu thơ trữ tình, việc sử dụng khái niệm nguyên tắc kết cấu
thơ trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt. Khái niệm này cho thấy áp lực của
một kiểu tư duy thơ mang tính thời đại trên từng sáng tác cụ thể của nhiều
nhà thơ khác nhau cũng như nó đã chỉ rõ sự thống nhất về phương diện thi
pháp trong thơ của từng loại hình thơ nhất định.
4. Mỗi loại hình thơ có một mô hình, dạng thức kết cấu riêng, vì vậy
hoàn toàn có cơ sở để nói tới loại hình kết cấu thơ trữ tình dân gian, loại
hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển và loại hình kết cấu thơ trữ tình hiện đại
với những đặc điểm khác nhau của chúng. Loại hình kết cấu vừa có tính
chất ổn định, vừa có tính chất biến đổi. Nó không phải là một cái gì hoàn
toàn khép kín và tĩnh tại. Điều này phản ánh quy luật phát triển vừa kế thừa
202
vừa tiếp nối của các loại hình thơ trong lịch sử. Các loại hình kết cấu phân
biệt với nhau không chỉ bằng những kiểu dạng kết cấu thật đặc biệt chỉ
thuộc quyền sở hữu của một loại hình thơ nào đó mà còn bằng "siêu tổng
cộng" những biến thể khác nhau của một số dạng kết cấu phổ biến (Dĩ
nhiên, trong lịch sử phát triển của thơ trữ tình, cũng có một số dạng kết cấu
chỉ xuất hiện một lần rồi mất). Bởi vậy sự vận dụng linh hoạt những thao
tác nghiên cứu trong việc khảo sát kết cấu của một loại hình thơ cụ thể nào
đó trở thành một yêu cầu khoa học thực sự.
5. Loại hình kết cấu của Thơ mới 1932 - 1945 phân biệt với loại hình
kết cấu của thơ trữ tình dân gian và loại hình kết cấu của thơ trữ tình cổ
điển trước hết ở hệ thống nguyên tắc kết cấu của nó. Có ba điểm chính
trong nguyên tắc kết cấu của Thơ mới là tôn trọng dòng chảy tự nhiên sống
động của cảm xúc cá nhân cá thể, đặt ở bình diện thứ nhất cảm xúc trực
tiếp của nhân vật trữ tình và luôn nhấn mạnh sự tồn tại độc lập của khách
thể miêu tả. Ba điểm (hay ba nguyên tắc) này gần như chi phối toàn bộ thơ
trữ tình của Thơ mới, khiến cho Thơ mới dù thể hiện đề tài, chủ đề gì (ngay
cả những đề tài, chủ đề quen thuộc) cũng sáng tạo được một hình thức kết
cấu mới mang tính đặc thù của thời đại và từ đó đã đưa lại một quan niệm
mới mẻ về bài thơ so với truyền thống, đưa lại những cách tân thực sự ở
các đơn vị chỉnh thể cấu thành bài thơ như câu thơ, khổ thơ cùng với một
hệ thống thể thơ và tổ chức nhịp điệu đa dạng.
6. Thơ mới 1932 - 1945 không chỉ tồn tại trong lịch sử văn học với
tư cách một phong trào thơ lớn mang khuynh hướng tư tưởng mới đã sản
sinh ra những phong cách lớn mà còn tồn tại trong tư cách một bước ngoặt
của thơ trữ tình Việt Nam từ phạm trù cổ điển sang phạm trù hiện đại. Tìm
hiểu loại hình kết cấu của Thơ mới là một trong những nhiệm vụ cơ bản
của việc nghiên cứu về Thơ mới nói chung. Thực hiện nó, ta sẽ có điều
kiện cắt nghĩa được đầy đủ về những đóng góp nghệ thuật thực sự của Thơ
mới cho thơ trữ tình Việt Nam và sẽ lý giải được thấu đáo về tầm chi phối
rộng rãi của thứ hình thức mà Thơ mới đã mang lại đối với toàn bộ nền thơ
203
hiện đại Việt Nam, bất chấp những hạn chế mang tính tất yếu của Thơ mới
về mặt thế giới quan, đề tài, chủ đề... Loại hình kết cấu của Thơ mới là sự
phủ định biện chứng đối với loại hình kết cấu thơ trữ tình dân gian, loại
hình kết cấu thơ trữ tình cổ điển đã từng tồn tại trong lịch sử thơ Việt. Tuy
nhiên nó không thể là một loại hình kết cấu mang tính "muôn đời" của thơ
trữ tình. Nó cũng cần phải bị phủ định,và trên thực tế, hiện nay nó đang bị
phủ định. Sự phủ định đó cho thấy thơ Việt Nam là một nền thơ giàu sinh
lực và đang phát triển.