26
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG VŨ THỊ HƢƠNG HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 - 1965 Chuyên ngành: Văn học Vit Nam Mã số: 60 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng, Năm 2015

HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

VŨ THỊ HƢƠNG

HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG

THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 - 1965

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2015

Page 2: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

Công trình được hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU

Phản biện 1: TS. BÙI BÍCH HẠNH

Phản biện 2: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn

tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại

học Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 12 năm 2015

Có thể tìm luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng

Page 3: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu thơ từ lâu đời.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa ra đời đã mở ra một thời đại mới cho lịch sử

dân tộc và lịch sử văn học nước nhà.

Nhìn lại tiến trình phát triển của nền văn học hiện đại

Việt Nam, thơ ca luôn là dòng chảy lưu giữ ký ức về cuộc sống và

tâm hồn dân tộc qua từng chặng đường lịch sử. Nối tiếp truyền

thống thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946-1954), thơ ca Việt

Nam giai đoạn 1955 - 1975 đã ra đời và phát triển trong một hoàn

cảnh lịch sử đặc biệt mà chặng đường 1955-1965 là giai đoạn

chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca thời kỳ chống Pháp và

cao trào thơ ca thời chống Mĩ, cứu nước trên cả hai miền Nam

Bắc (1965-1975) trong công cuộc dựng xây và ra trận giành thống

nhất nước nhà.

Đặc trưng của thế giới nghệ thuật thi ca là sự thể hiện

hình tượng nhân vật cái tôi trữ tình. Tìm hiểu hình tượng cái tôi

trữ tình trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1955-1965 không chỉ để

hiểu về bản chất của thơ ca mà còn để hiểu thêm một chặng

đường lịch sử tâm hồn của dân tộc. Vì cho đến ngày nay, sau 40

năm đất nước thống nhất, thời gian hơn nửa đời người, quá khứ có

thể phôi pha, chúng ta có thể quên lãng nhiều điều nhưng không

thể quên một thời kỳ đau thương mà vô cùng cao cả - thời kì đấu

tranh để non sông nối liền một dải, Bắc - Nam sum họp một nhà.

Page 4: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

2

Những trang thơ ấy, mỗi lần đọc lại vẫn gợi bao xúc động, với

những tình cảm thiêng liêng và sâu lắng.

Do đó, việc đi sâu nghiên cứu đề tài này cũng là một dịp

để hiểu thêm vẻ đẹp đau thương mà hào hùng của đời sống dân

tộc trong những năm tháng không thể nào quên ấy. Đồng thời,

tiếp cận đề tài này còn có ý nghĩa thiết thực giúp ích cho việc dạy

học thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường hiện nay.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Những bài viết nổi bật có liên quan gián tiếp đến

đề tài

Trước hết là bộ sách “Nhà văn Việt Nam (1945-1975)”,

gồm hai tập, của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức do Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1979. GS Hà Minh Đức

đã nêu nhận xét về thơ Việt ở chặng đường 1954-1964 như sau:

“Cảm hứng về đất nước anh hùng, tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu

đẹp vẫn là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca suốt một giai đoạn

mới. Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ thương về tình cảnh

đất nước còn bị chia cắt hai miền.”[9, tr.117].

Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu

Tá, trong giáo trình Văn học Việt Nam (1945-1975), Tập I, Nxb

Giáo dục, 1983, khi nhìn lại chặng đường văn học 1954-1964

cũng đã có những trang đề cập đến thành tựu và đặc điểm của thơ

ca. [34, tr 79;93].

Công trình Nhà thơ Việt Nam hiện đại của Viện Văn học,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984 đã tuyển chọn và giới thiệu

32 gương mặt nhà thơ Việt Nam hiện đại. Qua đó cũng có thể

giúp cho người đọc nhận diện gương mặt cái tôi trữ tình qua từng

Page 5: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

3

chặng đường thơ Việt Nam hiện đại trong đó có nhắc đến chặng

đường 1955-1965.

Khi tìm hiểu Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam

1945-1975 (Nxb Giáo dục, 2000) của tác giả Vũ Duy Thông đã

khảo sát thơ qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế

quốc Mĩ. Qua cách tiếp cận của tác giả và nhất là qua phần tuyển

thơ, người đọc cũng có thể cảm nhận được phần nào về cái tôi trữ

tình ở chặng đường thơ giai đoạn 1955-1965.

Công trình Nhìn lại một chặng đường văn học của tác

giả Trần Hữu Tá, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,2000, giúp thêm

cách tiếp cận với cái tôi trữ tình của các nhà thơ trong phong trào

yêu nước của trí thức và thanh niên, học sinh, sinh viên ở đô thị

miền Nam nước ta giai đoạn 1955-1975.

Năm 2001, trong cuốn Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội, Mã Giang Lân đã có một chương viết

riêng về đặc điểm chung của thơ Việt Nam hiện đại ở giai đoạn

1954-1964.

Những thế giới nghệ thuật thơ là một công trình

nghiên cứu có giá trị của Trần Đình Sử (Nxb Giáo dục - Hà

Nội, 1997). Khi viết về thơ 1955 - 1975, tác giả đã có những

nhận xét rất xác đáng về nghệ thuật thơ cách mạng: Về mặt nghệ

thuật, thơ cách mạng đã sáng tạo ra một thế giới sử thi độc

đáo [42, tr.100].

Trong chuyên luận Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt

Nam (1945-1995), Nxb Khoa học xã hội (1999), tác giả Vũ Văn

Sĩ đã nhận định Thơ trữ tình Cách mạng Việt Nam là linh hồn của

thơ Việt Nam thế kỷ XX … Nhu cầu bộc lộ mình trong sự kiện,

Page 6: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

4

nhu cầu nhận thức sứ mệnh lịch sử của con người trong biến cố

đã in dấu ấn vào hình thức nghệ thuật cái bóng dáng tinh thần

của nhà thơ, làm thay đổi diện mạo và cấu trúc thơ trữ tình.

[40, tr7,8]

Và gần đây nhất năm 2015, Bùi Bích Hạnh đã công trình

nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam 1965-1975 khuôn mặt cái tôi trữ

tình, Nxb Văn học. Trong bộ sách, tác giả đã xác định những

dạng thức cái tôi trữ tình để khái quát hệ thống quan điểm thẩm

mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh hiện thực của người nghệ sĩ;

trên cơ sở đó khẳng định thuộc tính thơ trẻ giai đoạn này [20,

tr8]. Theo tác giả, việc khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong

thơ trẻ để hướng tới luận giải một cách thỏa đáng hơn đặc điểm

thơ 1965-1975; khôi phục khuôn mặt vốn đa diện của thơ Việt

Nam 1945-1975.

..v.v…

2.2. Một số bài viết và công trình nghiên cứu liên quan

trực tiếp đến đề tài

Đó là những bài viết của Hoài Giang, Hà Xuân Trường,

Bảo Định Giang, Lê Đình Kỵ viết về tập Gió Lộng (1961) của Tố

Hữu. Các bài của Xuân Diệu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức viết về

tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960) của Chế Lan Viên. Các bài

của Phan Cự Đệ, Lê Nhuệ Giang,Vũ Đức Phúc viết về các tập thơ

Mũi Cà Mau, Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964) của

Xuân Diệu. Các bài của Vũ Tuấn Anh, Lê Đình Kỵ, Đỗ Hữu

Tấn, Nguyễn Đình, Hoàng Minh Châu, Thiếu Mai viết về các tập

thơ Lòng miền Nam (1955), Gửi miền Bắc (1958), Tiếng sóng

(1960), Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh…

Page 7: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

5

Tuy nhiên những bài viết của các nhà nghiên cứu về các

tập thơ thường hướng theo phân tích tác phẩm, nghiêng về khẳng

định những thành công và đóng góp của tập thơ, khẳng định vị trí

của tập thơ trong quá trình sáng tác của tác giả mà chưa đi sâu vào

tìm hiểu về hình tượng cái tôi trữ tình. Từ đó họ khẳng định

phong cách sáng tác của nhà thơ. Do đó, phần lớn các bài viết chỉ

mang tính chất nhận xét, đánh giá đơn lẻ chưa tập trung làm nổi

bật hình tượng cái tôi trữ tình của thơ giai đoạn 1955 - 1965 ở cả

hai miền Nam - Bắc.

Cũng có một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học, khóa

luận tốt nghiệp đại học đã làm về thơ hiện đại Việt Nam qua từng

chặng đường, qua từng tác giả, tác phẩm cụ thể; nhưng qua chúng

tôi tìm hiểu chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu đề

tài này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:

Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn

1955 - 1965

3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu khảo sát các

tập thơ, bài thơ nổi bật của các tác giả tiêu biểu trong giai đoạn

1955-1965. Bên cạnh đó để làm rõ đặc điểm hình tượng cái tôi trữ

tình trong thơ Việt Nam 1955-1965, chúng tôi chọn lọc những tác

phẩm thơ tiêu biểu ở các giai đoạn khác để so sánh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp hệ thống - phân loại

Phương pháp so sánh - lịch sử

Page 8: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

6

Phương pháp phân tích - tổng hợp

5. Những đóng góp của luận văn

Tìm hiểu về Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ 1955 -

1965, luận văn giúp nắm bắt và hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình

biến hóa đa dạng làm nên bản sắc riêng cho thơ ca một giai đoạn;

góp phần thấy được tiến trình phát triển của thơ Việt Nam

hiện đại.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung tài liệu

tham khảo thiết thực cho dạy học phần thơ ca Việt Nam hiện đại ở

trong nhà trường.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Về cái tôi trữ tình và bối cảnh xuất hiện cái tôi

trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn 1955-1965.

Chương 2: Những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ

Việt Nam giai đoạn 1955-1965.

Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ

Việt Nam giai đoạn 1955-1965.

Page 9: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

7

CHƢƠNG 1

VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CÁI

TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1955-1965

1.1. LOẠI HÌNH TRỮ TÌNH VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ

1.1.1. Loại hình trữ tình

Khái niệm trữ tình được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, trữ

tình là một trong ba phương thức miêu tả trong văn học; thứ hai,

trữ tình là một loại hình văn học bên cạnh các loại hình tự sự,

kịch. Ở nghĩa thứ nhất khái niệm trữ tình để chỉ phương thức

miêu tả của văn học, đó là phương thức thiên về diễn tả, bộc lộ

cảm xúc. Ở nghĩa thứ hai khái niệm trữ tình để chỉ một loại tác

phẩm văn học mà ở những tác phẩm này chủ yếu dùng phương

thức trữ tình để miêu tả, các tác phẩm loại này được gọi là tác

phẩm trữ tình.

1.1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ

Cái tôi trữ tình là hình tượng trung tâm bộc lộ tâm hồn,

tình cảm của tác giả trong thơ trữ tình. Cái tôi trữ tình là sự thể

hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người

thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra

một thế giới tinh thần độc đáo mang tính thẩm mỹ nhằm truyền

đạt tinh thần đến người đọc.

Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ với nhiều dạng thức:

- Có khi cái tôi trữ tình thể hiện trực tiếp trong thơ bằng

chữ tôi hoặc ta.

- Cái tôi trữ tình bộc lộ gián tiếp qua cảnh ngộ, sự việc

Page 10: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

8

trong thơ.

- Tác giả phân thân để nhập vai vào từng số phận, đối

tượng để triết luận, bình luận hoặc ngợi ca, nhằm sẻ chia, bộc lộ

cảm xúc, tâm trạng.

1.2. BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG

NỀN THƠ VIỆT NAM 1955 - 1965

1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất nƣớc

Sau hiệp định Giơnevơ 1954, Việt Nam bị chia cắt thành

hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc hòa bình, bắt tay vào xây dựng

chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời chịu sự quản lí của Mĩ và

chính quyền Sài Gòn. Những năm dưới thời Ngô Đình Diệm, cả

miền Nam khi ấy quằn quại, đau thương trong sự đàn áp, khủng

bố cực kì dã man của quân thù.

Toàn dân tộc Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, tinh

thần vào cuộc đấu tranh chống Mĩ, giải phóng miền Nam, thống

nhất đất nước. Từ trong phong trào Đồng khởi, Mặt trận dân tộc

và giải phóng miền Nam ra đời ngày 20-12-1960 là một thắng

lợi chính trị to lớn. Từ 1961-1965 phát huy sức mạnh đoàn kết

của dân tộc, miền Nam đã đánh thắng Chiến tranh đặc biệt, một

hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Ta đã

đánh bại được âm mưu thâm độc dùng người Việt đánh người

Việt của kẻ thù... Những thành quả ấy ngày một tiếp thêm sức

mạnh, niềm tin cho toàn dân vững bước đấu tranh giành độc lập

tự do, thống nhất đất nước.

Page 11: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

9

1.2.2. Thơ 1955-1965 trong tiến trình thơ hiện đại Việt

Nam

Thơ là tiếng nói của cái tôi trữ tình. Trong thơ Việt Nam,

hình tượng cái tôi trữ tình đã không ngừng vận động tạo nên

những dấu ấn riêng qua từng thời kì, từng giai đoạn.

Trong văn học trung đại, thơ trữ tình Việt Nam bị ràng buộc

bởi lễ giáo phong kiến. Các nhà thơ khi sáng tác luôn mang nặng

quan niệm văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí…

Thoát ra khỏi những quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ

dày đặc của thơ trung đại, cái tôi Thơ mới được giải phóng về tình

cảm, cảm xúc. Thơ mới là tiếng thơ của ý thức cá nhân - cá thể của

con người được thức tỉnh.

Thơ kháng chiến (1946-1954) tập trung biểu hiện những tình

cảm của cộng đồng và tinh thần công dân mà bao trùm là tình yêu

nước với những biểu hiện phong phú. Nhiều sáng tác có giá trị đều

thể hiện quan niệm thẩm mĩ của thời đại, đó là tính dân tộc và đại

chúng. Con người kháng chiến sống với những biến cố dữ dội,

những sự kiện lịch sử, những rung động mạnh mẽ, mới lạ; họ chỉ

thực sự thấy được sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội

ngũ đông đảo của tập thể, của giai cấp và dân tộc. Đó chính là cái tôi

trữ tình hòa trong cái ta.

Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn 1955-1965 nền

tảng tư tưởng của nó là sự thống nhất riêng - chung. Một

trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của sự phát triển và mở

rộng ấy là sự hiện diện trở lại của cái tôi riêng tư.

Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện của người

nghệ sĩ, một sự thôi thúc tự bên trong nhiều khi mãnh liệt, dồn

Page 12: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

10

dập bởi sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách

quan gây nên. Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái tôi trữ tình là nhân tố vận động

chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và bối cảnh đời

sống văn học. Thơ 1955 – 1965 đã nắm bắt một cách sâu sát yêu

cầu của thời đại; một mặt tiếp nối dòng chảy dạt dào của cái tôi

trữ tình thơ ca trước đó, mặt khác đã tạo nên được sắc diện riêng

khó lẫn, khó phai nhòa trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.

Page 13: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

11

CHƢƠNG 2

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 - 1965

2.1. CÁI TÔI TRỮ TÌNH GIÀU CẢM HỨNG NGỢI CA

2.1.1. Tự hào với niềm vui kháng chiến thắng lợi

Chín năm làm một Điện Biên/ Nên vành hoa đỏ nên thiên

sử vàng (Tố Hữu). Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết

thúc thắng lợi. Những kì tích của cuộc kháng chiến đã tạo nên

những âm hưởng vang dội, lớn lao, con đường trước mắt dân tộc

thật là thênh thang, rộng lớn. Từ rừng núi, đồng bằng, trung du,

duyên hải, đến các hải đảo xa xôi như bừng dậy trước một nguồn

sinh khí mới:Ôi hai tiếng đồng bào Tổ quốc/ Đến hôm nay mới

thuộc về ta/ Trăm năm mất nước mất nhà/Hôm nay mới cất lời ca

tiếng cười. (Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Từ sự kiện Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu chúng

ta lại khẳng định niềm tự hào mang tính chất toàn dân, đang làm

chủ đất nước, làm chủ lịch sử, làm chủ số phận.

2.1.2. Ngợi ca công cuộc dựng xây Chủ nghĩa xã hội ở

Miền Bắc

Sau hiệp định Giơnevơ đất nước tạm thời bị chia cắt

thành hai miền. Cả dân tộc lại tiếp tục đấu tranh giành thống nhất

trọn vẹn non sông Tổ quốc. Miền Bắc hòa bình bắt đầu cuộc

sống lao động khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh,

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên nền hiện thực sôi động ấy,

thơ đã nhập cuộc kịp thời và phát triển mạnh mẽ với cảm hứng

trung tâm là yêu nước và chủ nghĩa xã hội.

Page 14: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

12

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu lại

được biểu hiện trong khí thế lao động quên mình trên mọi miền

đất nước: Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp

làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê/ Sớm trưa tiếng trống đi về

trong thôn (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu).

Trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội chồng

chất những gian khổ, khó khăn nhưng bằng đôi cánh lãng

mạn, bằng cái nhìn thi vị, bằng sức mạnh của mình, thơ ca

1955 - 1965 đã thổi bùng lên ngọn lửa của niềm tin yêu, của

ước mơ, của lòng lạc quan, yêu đời trong mỗi người Việt Nam.

2.1.3. Ngợi ca Tổ quốc tƣơi đẹp.

Các nhà thơ đã có rất nhiều cách thể hiện tình yêu đất

nước trong thơ: đi đến với thiên nhiên, chiêm ngưỡng, ca ngợi;

trở về với lịch sử, tự hào trước những truyền thống đấu tranh oai

hùng, bất khuất của dân tộc; khai thác tâm hồn, tính cách con

người; trình bày những đổi thay những khát vọng đang hiện hình

trước mặt… Tất cả đều cần thiết và thơ đã làm nhiệm vụ của nó

như chính cuộc sống yêu cầu. Nghĩa là đất nước được nhìn nhận,

thấu hiểu ở nhiều bình diện, nhiều khả năng rung động của các

nhà thơ. Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh,

Hoàng Trung Thông… mỗi người mỗi vẻ đã làm phong phú thêm

cho dáng hình đất nước.

2.1.4. Ngợi ca Đảng và lãnh tụ

Ở giai đoạn này dường như mỗi nhà thơ ai cũng có những

vần thơ tặng Đảng. Tố Hữu đã có cả bản trường ca Ba mươi năm

đời ta có Đảng, tổng kết một chặng đường dài 30 năm sinh thành,

hoạt động của Đảng. Chế Lan Viên xúc động chân thành khi

Page 15: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

13

được Kết nạp Đảng trên quê mẹ. Xuân Diệu thì thổn thức khi tìm

được hình ảnh rất đẹp để nói lên cái vĩ đại, lạ lùng của Đảng qua

thi phẩm Gánh. Tế Hanh thì bộc bạch, Tâm sự từ khi có Đảng là

“Một cuộc đời từ ấy mới trong tôi”. Với Huy Cận thì trân trọng,

biết ơn Tặng Đảng vì Đảng là người kế thừa truyền thống dựng

nước và giữ nước. Hoàng Trung Thông cũng có Bài thơ tặng

Đảng…

Mỗi nhà thơ có những cách ngợi ca Đảng khác nhau nhưng

cảm hứng chung là thể hiện tấm lòng biết ơn sâu nặng, lời ca ngợi nồng

nhiệt nhất đối với Đảng: Ta sống thênh thang giữa nhiệt tình/ Bạn bè

thế giới hát vây quanh/ Ví không có Đảng làm sao nhỉ/ Mình vẫn lầm

than nuốt lệ mình (Xuân Miễn)

Cùng với Đảng, tình cảm dành cho Bác Hồ kính yêu là

tình cảm lớn, thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Thơ đã hướng

về tình cảm ấy trong nguồn cảm hứng dạt dào, vô tận. Trong

muôn vàn những người Việt Nam anh hùng cao đẹp, Hồ Chí

Minh là Người Việt Nam đẹp nhất..

2.2. CÁI TÔI TRỮ TÌNH KHÔNG NGUÔI DAY DỨT VỀ

MỘT NỬA ĐẤT NƢỚC CHƢA ĐƢỢC GIẢI PHÓNG

2.2.1. Nỗi đau trƣớc tình cảnh đất nƣớc bị chia cắt

Đấu tranh cho nước nhà thống nhất là một vấn đề chính trị

trọng đại và là một vấn đề tình cảm lớn. Tình cảm quê hương đất

nước vẫn là nguồn mạch dồi dào tạo cảm hứng cho thơ ca. Trước

cảnh ngộ ngang trái, đau thương - đất nước chia li, tình cảm ấy lại

càng trào dâng mãnh liệt. Nỗi đau, niềm xót xa về cảnh đất nước

chia cắt luôn thường trực trong tâm hồn các nhà thơ. Miền Nam

chính là miền sâu thẳm, là nỗi niềm nhức nhối tim gan: Có thể

Page 16: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

14

nào yên? Miền Nam ơi máu chảy/ Tám năm rồi sáng dậy giữa

bình minh/ Tim lại đau, nhức nhối nửa thân mình. (Có thể nào

yên - Tố Hữu)

Đặc biệt, ở giai đoạn này tiếng thơ của quần chúng yêu

nước, của các nhà thơ cách mạng ở miền Nam vẫn luôn ngân

vang trong gian khổ, mất mát, hi sinh. Đồng bào miền Nam luôn

vững niềm tin vào Đảng và Bác, vẫn hướng về hậu phương lớn -

miền Bắc, hướng về một ngày mai thống nhất, để luôn vững vàng

trên bước đường tranh đấu

2.2.2. Tâm trạng “ngày Bắc đêm Nam” của những

ngƣời con miền Nam trên đất Bắc

Sau 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt, theo sự chỉ đạo

của trung ương Đảng, những cán bộ, thanh niên ưu tú của miền

Nam tập kết ra Bắc công tác, học tập để đáp ứng những nhiệm vụ

chính trị của Cách mạng Việt Nam. Bao người gạt nỗi niềm riêng,

tấm lòng hướng về Tổ quốc: Tôi hôm nay sống trong lòng miền

Bắc/ Sờ lên ngực nghe tiếng tim thầm nhắc/ Hai tiếng thiêng

liêng, hai tiếng miền Nam (Nhớ con sông quê hương - Tế

Hanh)…

Tâm trạng khắc khoải, tình yêu quê hương, nỗi nhớ

thương da diết trào lên trong từng câu chữ. Nghe sao mà xúc

động, yêu thương! Đó không còn là tâm trạng của riêng Tế

Hanh của Tố Hữu, của Nguyễn Bính mà là tâm trạng, nỗi

niềm chung của người con miền Nam tập kết trên đất Bắc.

2.2.3. Cổ vũ tinh thần đấu tranh bất khuất và niềm tin

tất thắng

Ở miền Nam, những năm 1956 -1959 đế quốc Mĩ đã

Page 17: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

15

dựng lên một chế độ bù nhìn tay sai chống cộng, ra mặt thù địch

với nhân dân, trả thù điên cuồng những người đã tham gia

kháng chiến, những người yêu nước, bãi bỏ mọi tự do dân chủ,

đàn áp, hãm hại những ai không vừa ý chúng. Cả miền Nam khi

ấy quằn quại đau thương trong sự khủng bố cực kì dã man của

quân xâm lược.

Sự chuyển biến của tình hình đất nước đã chuyển đổi

nhận thức, cảm hứng sáng tác của giới văn nghệ sĩ. Thơ ca giai

đoạn này đã có một sắc diện mới: Thơ không còn như ngày nào

cứ xót xa, day dứt hình ảnh một nhịp cầu, một dòng sông ngăn

cách, thơ đã bừng bừng khí thế, là tiếng thét căm hờn của dân tộc

ta trước bè lũ cướp nước và bán nước, phơi bày và tố cáo những

tội ác của bọn chúng; thơ tập trung thể hiện tinh thần quật khởi

của dân tộc.

Khắp miền Nam đâu đâu cũng là quân trường, tua tủa dây

thép gai những đồn bốt đầy vũ khí tối tân hiện đại. Kẻ thù giày

xéo, tàn phá làng mạc, xóm thôn: … Rầm rập dấu giày đinh/ Thiết

giáp, tàu bay, đại bác/ Lũ xâm lăng đang xéo nát quê mình…

Không ở được khi làng ta giặc đóng.

Ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh qui luật này là tất yếu.

Trước hoàn cảnh thực tiễn ấy, nhân dân ta không có con đường

nào khác - đứng lên đánh Mĩ: Trước mặt ta, chỉ có một con

đường/ Một con đường! Không kém, không hơn/ Anh dũng tiến

lên hay âm thầm gục chết. (Lớn lên không ngừng - Trần

Quang Long).

Page 18: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

16

Đòn thù môi mặn máu tanh/Nuốt đau thương nguyện giữ

lành lòng son (Võ Quê).Nhân dân Việt Nam quyết không thể

sống đời nô lệ, không cam tâm để bè lũ cướp nước, bán nước

gieo rắc tội ác với dân tộc mình, giày xéo quê hương mình. Toàn

dân kiên cường đứng lên chiến đấu:Tất cả nói một lời giải phóng!

Cứu miền Nam! Cứu miền Nam! Ôi cửa Phật, cũng dầu sôi lửa

bỏng/ Dẫu thiêu mình làm đuốc, vẫn cam! (Miền Nam).

Hoàn cảnh mới của đất nước đã có sự tác động lớn đến

đời sống tâm hồn dân tộc. Với hai nguồn cảm hứng chủ đạo là

yêu nước là yêu nước và chủ nghĩa xã hội thơ ca đã mở rộng đề

tài, chủ đề phát triển theo hướng đa dạng và thống nhất của cái

tôi trữ tình. Có thể nói, những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong

thơ ca giai đoạn 1955 – 1965 rất đa dạng. Thơ thời kì này đã tạo

nên cái tôi trữ tình riêng biệt độc đáo – cái tôi trong sự thống nhất

riêng – chung.

Page 19: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

17

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH

TRONG THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 – 1965

3.1. SỰ ĐA DẠNG, PHONG PHÚ VỀ NGÔN NGỮ, HÌNH

TƢỢNG THƠ VÀ THỂ LOẠI.

3.1.1. Ngôn ngữ thơ

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, ngôn ngữ chính

là phương tiện chuyên chở biểu đạt mọi tư tưởng của người

nghệ sĩ.

Giai đoạn 1955-1965, ngôn ngữ thơ thật sự là tiếng nói

đời sống khỏe khoắn, sinh động: Thơ của Tố Hữu gần gũi, chân

tình; Thơ Chế Lan Viên sắc sảo trong cách vận dụng liên tưởng so

sánh; Huy Cận sâu lắng đậm đà; Xuân Diệu sống động nhiều biến

hóa; Thơ Nguyễn Đình Thi tự nhiên gần với tiếng nói hằng ngày.

Các nhà thơ trẻ có ngôn ngữ thơ góc cạnh hơn với nhiều màu sắc

và khả năng tạo hình, liên tưởng phóng túng. Trên cơ sở truyền

thống thơ trẻ luôn có ý thức tìm tòi, hiện đại hóa ngôn ngữ thơ.

Tính đa dạng của ngôn ngữ thơ đủ sức để tâm tình, trò chuyện, sôi

nổi chính luận hay trầm tư triết lý.

3.1.2. Hình tƣợng thơ

Hình tượng nổi bật trong thơ Việt nam giai đoạn 1955-

1965 là hình ảnh những con người đại diện cho tinh hoa và khí

phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân tộc. Đó là những con

người có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc và thời đại,

nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc.

3.1.3. Thể loại

Các thể thơ dân tộc được sử dụng và có những đổi mới,

Page 20: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

18

cách thức biểu hiện trong thơ cũng biến hoá đi ít nhiều, nhất là

trong cách ngắt câu, ngắt nhịp, gây không khí cho phù hợp với nội

dung phản ánh.

Thơ năm chữ có thể trải dài theo mạch cảm xúc, nghiêng về

kể chuyện, giải bày tâm sự điển hình như các tác phẩm: Trên miền

bắc mùa xuân (Tố Hữu), Quả sấu non trên cao (Xuân Diệu), Nam

Bắc, Tiếng ca không giới tuyến (Tế Hanh)…

Thơ lục bát vẫn nhịp nhàng, uyển chuyển, vẫn mộc mạc,

gần gũi, nhưng cảm hứng, cảm xúc được nâng lên mức độ cao

hơn. Thơ bảy chữ phong phú, dồi dào. Đặt biệt ở thể thơ tám chữ

đã có bước phát triển vượt bậc. Với khả năng ôm chứa, biểu hiện

được nhiều vấn đề, kết hợp được nhiều sắc thái cảm xúc và suy

nghĩ, nhịp điệu linh hoạt, uyển chuyển… thơ tám chữ được các

nhà thơ lựa chọn, vận dụng rất nhiều. Tố Hữu, Chế Lan Viên,

Tế Hanh, Xuân Diệu là những nhà thơ rất thành công ở thể thơ

tám chữ.

Thơ tự do phát triển mạnh tiến đến thơ văn xuôi. Và thơ

dài, đều được nhiều nhà thơ sử dụng: Tố Hữu với Ba mươi năm

đời ta có Đảng (1960), Huy Cận với Người thợ ảnh (1962), Tế

Hanh, Câu chuyện quê hương (1963)…

Thơ tự do lại tiếp tục phá cách để chứa đựng được nhiều

chi tiết, ôm sát thực tại hơn và nhờ vậy thơ cũng thực hơn.

3.2. GIỌNG ĐIỆU VÀ NHỮNG PHONG CÁCH THƠ

NỔI BẬT

3.2.1. Giọng điệu

Giọng điệu trong thơ góp phần bộc lộ rõ cá tính sáng tạo

của người nghệ sĩ. Giọng điệu là âm hưởng chung trong cách

Page 21: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

19

cảm, cách nghĩ, thái độ, tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ, thể

hiện qua lời văn, lời thơ tạo nên giọng nói riêng mang tính phong

cách.“Giọng điệu có vai trò lớn tạo dựng phong cách tác giả và

tác dụng truyền cảm đến người đọc”.

Thơ ca 1955-1965 đã có sự kết hợp nhuần nhị của nhiều

giọng điệu, đó là tiếng nói trữ tình quen thuộc kết hợp một cách tự

nhiên với chất tự sự được thể hiện qua nhiều cung bậc cảm xúc,

điển hình.

Giọng chính luận, suy tƣởng triết lý

Sự hàm súc và chiều sâu luôn là yêu cầu cao đối với thơ,

mà điều đó chỉ có thể đạt được bằng cách huy động sức mạnh của

lí trí, thông qua suy tưởng, triết lý, tăng cường tính chính luận.

Hơn nữa, sự ra đời của giọng triết lý, suy tưởng, đậm chất chính

luận một phần cũng do xuất phát từ đòi hỏi của yếu tố thời đại.

Giọng điệu triết lý, suy tưởng giàu tính chính luận thường

được thể hiện bằng thể thơ tự do, ít gieo vần, chủ yếu là thơ điệu

nói, cấu trúc câu thơ thường theo hướng mở rộng. Nhờ tăng số

lượng âm tiết trong câu thơ mà nhà thơ có khả năng diễn tả nhiều

cảm nhận, nhiều ý tưởng của mình về cuộc sống.

Giọng tự hào, ngợi ca cũng là một biểu hiện nổi bật

trong thơ giai đoạn 1955-1965. Để khẳng định vẻ đẹp huy

hoàng, diễm lệ của Tổ quốc trong những ngày đánh Mỹ

ác liệt.

Thơ ca 1955 - 1965 viết về những con người là đại diện

cho tinh hoa, khí phách, cho ý chí và sức mạnh của dân tộc

Việt Nam với giọng thơ thấm đẫm chất anh hùng ca.

Giọng tâm tình, hoài niệm là giọng điệu nổi bật trong

Page 22: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

20

thơ 1955- 1965. Thơ ca là tiếng nói khởi nguồn từ nhu cầu giải

bày của tâm hồn nghệ sĩ. Cảm xúc là cái gốc, là cốt lõi trong

thơ. “Nguồn cảm xúc chân thành chính là đầu mối của sự sáng

tác thơ văn… Thơ văn không thể nào, mãi mãi không thể nào là

địa hạt của những tình cảm giả tạo hời hợt mà phải bắt nguồn

từ sự cảm thông, thấm thía với cuộc sống”[19, tr. 270,271].

Giai đoạn 1955-1965 với nhiều với vấn đề lớn của dân

tộc, thơ đã thể hiện rõ sự đa dạng và phong phú về điểm nhìn

của chủ thể trữ tình. Một nửa đất nước chưa thống nhất; nỗi

đau, niềm nhớ bao trùm bởi hiện thực chia ly ấy. Trong hoàn

cảnh thử thách, đau thương, mất mát, con người cũng có nhu

cầu bộc bạch, giải bày tâm sự… Bao vần thơ với giọng điệu

tâm tình, hoài niệm đã để lại ấn tượng sâu đậm không

phai nhòa.

3.2.2. Phong cách thơ nổi bật

Thơ ca giai đoạn 1955 -1965 có lực lượng sáng tác dồi

dào và hiện tượng đáng chú ý nhất về đội ngũ tác giả là sự khẳng

định trở lại của các nhà thơ tiền chiến, đặc biệt là các nhà thơ lãng

mạn thuộc thế hệ Thơ mới. Qua mười năm đến với cách mạng,

với nhân dân và kinh qua cuộc kháng chiến đầy gian khổ, thử

thách, nhiều nhà thơ này đã thực sự đổi mới tư tưởng, cảm xúc,

xác định được con đường nghệ thuật mới và tìm được tiếng nói

nghệ thuật của mình, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Phong

cách của họ được định hình, họ không chỉ là nhà thơ mà còn là

nhà văn hóa tiêu biểu. Họ mở ra những khuynh hướng thơ, có tác

động, ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ trẻ. Điển hình qua các tác

giả:Tố Hữu - nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi; Xuân

Page 23: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

21

Diệu tiêu biểu cho khuynh hướng mở rộng cánh cửa thơ cho hiện

thực ùa vào;Với Chế Lan Viên thì sức mạnh trí tuệ trong những

suy tưởng, triết lí đã tạo nên sức hấp dẫn riêng cho thơ ông; Trữ

tình hoài niệm điển hình cho phong cách thơ của Tế Hanh.

Ở các nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến như Nguyễn Đình

Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, phong cách nghệ thuật của

mỗi người cũng được định hình rõ nét. Với một số cây bút trẻ mới

xuất hiện ở đầu những năm 60 (Ca Lê Hiến, Xuân Quỳnh, Lưu

Quang Vũ, Bằng Việt), ta cũng có thể nhận ra nét riêng của họ,

hứa hẹn có thể trở thành những phong cách nghệ thuật góp vào sự

đa dạng của nền thơ.

Page 24: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

22

KẾT LUẬN

Thơ ca là một loại hình nghệ thuật phong phú và đa dạng,

có một vị trí vô cùng đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân

tộc. Cái tôi trữ tình trong thơ 1955 -1965 là sự tiếp nối trang thơ

của cái tôi trữ tình 1945 - 1955 trong tiến trình phát triển của thơ

Việt Nam hiện đại. Là giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề”

giữa thơ ca thời kỳ chống Pháp và cao trào thơ ca thời chống Mĩ,

thơ Việt Nam 1955-1965 khẳng định được vị trí của mình, gặt hái

được những thành quả đáng ghi nhận. Một chặng đường đã kịp

ghi lại bao nhiêu dấu ấn trong lòng nhân dân.

Do hoàn cảnh lịch sử và đời sống của đất nước, cái tôi trữ

tình trong thơ giai đoạn 1955-1965 vừa có sự nối tiếp truyền

thống, đồng thời vừa biểu hiện những nguồn cảm xúc mới đáp

ứng yêu cầu của con người trong cuộc sống hòa bình, hướng tới

mục tiêu mới của cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa ở miền Bắc và

đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Nhân vật trữ tình trong thơ ca thời kì 1955-1965 thường là

những con người trẻ trung, cởi mở, khao khát hiến dâng, đóng

góp. Đó là con người luôn sống với những sự kiện lớn lao của đất

nước, mang lẽ sống, niềm vui và ân tình cách mạng với thế đi tới,

dáng bay lên; một con người cá nhân đang lớn lên, đổi mới theo

cuộc sống chung của đất nước. Thực tế sáng tác, số lượng và chất

lượng thơ thời kỳ 1955-1965 đã tạo nên phẩm chất mới cho thơ:

cảm xúc thơ phong phú, nhuần nhị, nghệ thuật thơ có nhiều tìm

tòi, sáng tạo… đã tạo nên mùa gặt bội thu cho thơ

Page 25: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

23

Sự chuyển biến của tình hình đất nước đã chuyển đổi nhận

thức, cảm hứng sáng tác của giới văn nghệ sĩ “Khi bom đạn gầm

thì tiếng họa mi im bặt” nhưng thơ vẫn vút cao cho thấy sức sống

của dân tộc vô cùng mạnh mẽ. Nguồn cảm hứng chủ đạo của các

nhà thơ trong giai đoạn này là tình yêu quê hương, đất nước. Từ

nhiều góc độ, nhiều cung bậc tình cảm, những giọng điệu và

phương thức khác nhau, các nhà thơ đã tập trung thể hiện: niềm

vui kháng chiến thắng lợi, đất nước hòa bình; ngợi ca thành quả

lao động dựng xây chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc; tình cảm ruột

thịt Bắc - Nam gắn bó, nỗi niềm xót xa, day dứt trước tình cảnh

đất nước chia ly và hướng về miền Nam nêu cao tinh thần đấu

tranh bất khuất, niềm tin tất thắng… Thơ ca giai đoạn này đã ôm

trùm, phản ánh được một cách sinh động, nhiều mặt hiện thực của

đất nước, của đời sống tâm hồn dân tộc.

Cùng với những chuyển đổi nội dung, các nhà thơ đã thật

sự quan tâm tìm đến một hướng tìm tòi đổi mới hình thức. Trên

con đường lớn đi sâu vào cuộc sống, thơ ca thời kì này trở nên

giản dị tự nhiên hơn, giàu chất hiện thực. Đối diện trước thực tế

phong phú, có mặt ở những nơi tiêu biểu nhất, các nhà thơ nhanh

chóng nắm bắt được nhiều hình ảnh, chi tiết, sự việc sinh động, từ

đó lên tiếng mở rộng cánh cửa cho thực tế vào thơ, tạo nên cái

nền thực cho cảm xúc và không khí thời đại cho thơ. Cũng trên

con đường lớn đi sâu vào hiện thực, các nhà thơ trăn trở đi tìm

khuynh hướng đổi mới về hình thức cho thơ. Về mặt thể tài, trên

nền đã định hình, thơ luôn có sự tìm tòi. Ngay ở những bài thơ sử

dụng thể thơ dân tộc cũng biến hoá đi ít nhiều, nhất là trong cách

ngắt câu, ngắt nhịp, gây không khí cho phù hợp với nội dung phản

Page 26: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM …tailieuso.udn.vn/bitstream/TTHL_125/6185/1/VuThiHương.TT.pdfCách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước

24

ánh. Thơ tự do tiến thêm một bước mới: nhuần nhị, dạt dào, diễn

tả được tình cảm một cách tinh tế; thơ dài đã bộc lộ khả năng ôm

chứa được nhiều mặt của cuộc sống.

Chặng đường 1955 - 1965 đã đánh dấu sự định hình,

phát triển và trưởng thành của thơ. Đó là kết quả của một quá

trình tích lũy, chuyển biến gắn liền với những năm tháng cách

mạng và biến đổi kì diệu trước cuộc sống mới. Sự trưởng

thành ấy chứng tỏ các nhà thơ đã có sự thay đổi về chất, có trình

độ tư tưởng cao, có bản lĩnh nghệ thuật vững vàng. Một đội ngũ

sáng tác đông đảo, tài năng bao gồm các nhà thơ từ trước cách

mạng tháng Tám 1945, các nhà thơ ra đời và lớn lên trong kháng

chiến chống Pháp, các nhà thơ trẻ xuất hiện trong những năm

miền Bắc hòa bình. Lớp nhà thơ trẻ này thật sự đã nổi lên và

có đóng góp tích cực khi đất nước bước vào thời kỳ mới: cả

nước ra trận chống đế quốc Mỹ.