Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
LỜI KHAI THỊ CỦA
ẤN QUANG ĐẠI SƯ
QUY TẮC TU HỌC
Bất luận là người tu tại gia hay xuất
gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn
nhục điều người khác khó nhẫn được,
làm những việc mà người khác khó
làm được; thay người làm những việc
cực nhọc, thành toàn việc tốt đẹp cho
người. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến
điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm
đừng bàn đến điều sai trái của người.
Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ
sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm
Phật hiệu không để gián đoạn; hoặc
niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.
Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy
khởi một niệm nào khác. Nếu khởi
vọng niệm phải tức thời bỏ ngay!.
Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám
hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công
phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng
nên tự kiêu căng, khoa trương. Chỉ
nên chăm sóc việc nhà mình, đừng
nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên
nhìn đến những hình dạng tốt đẹp,
đừng để mắt tới những hình dạng xấu
xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là
Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.
Nếu quả có thể tu hành được như
những điều kể trên thì nhất định được
sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế
Giới.
! Trích ‘Thư trả lời cư sĩ Diệp
Phước Bị’ (Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao Tam Biên):
Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến
nay ở trong lục đạo không nghiệp nào
chẳng tạo. Nếu không có tâm tu hành,
sẽ đâm ra chẳng cảm thấy có những
ác niệm cổ quái, hiếm lạ ấy. Nếu phát
tâm tu hành [sẽ cảm thấy] những thứ
ý niệm ấy càng nhiều hơn thêm (Đây
chính là do chân – vọng soi lẫn nhau
mà hiển hiện, chứ không phải là trước
kia không có, chỉ là do chúng chẳng
hiện rõ mà thôi). Lúc ấy, hãy nên
tưởng A Di Đà Phật ở trước mặt ta,
chẳng dám có một tạp niệm vọng
tưởng, chí thành, khẩn thiết niệm
thánh hiệu Phật (hoặc niệm nhỏ tiếng,
hoặc niệm thầm), ắt phải sao cho từng
câu từng chữ trong tâm niệm rõ ràng
phân minh, miệng niệm rõ ràng phân
minh, tai nghe rõ ràng phân minh.
Thường niệm được như thế thì hết
thảy tạp niệm tự nhiên tiêu diệt.
Khi tạp niệm khởi lên, hãy đặc biệt
đề khởi toàn bộ tinh thần niệm Phật,
chẳng để cho nó tác quái trong tâm ta.
Nếu có thể thường niệm được như thế
thì ý địa tự nhiên thanh tịnh; lúc tạp
niệm vừa mới dấy sẽ giống như một
người chống lại vạn người, tâm
chẳng thể có chút [ý niệm] thong thả,
dễ dã i nào. Nếu không, nó sẽ thành
chủ của ta, ta sẽ bị nó hại. Nếu liều
hết tánh mạng chống lại nó, nó sẽ bị
ta xoay chuyển, đấy gọi là “chuyển
phiền nã o thành Bồ Đề”. Hiện thời
ông có thể thường đem vạn đức hồng
danh của Như Lai để cực lực kháng
cự thì lâu ngày chầy tháng tâm sẽ tự
thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh rồi, vẫn
cứ niệm y như cũ chẳng buông lung,
thì nghiệp chướng tiêu, trí huệ mở
mang.
Chớ nên sanh lòng gấp rút, vọng
động, bất luận ở tại nhà hay ở nơi am
đều phải kính trên, hòa dưới, nhẫn
được những điều người khác chẳng
thể nhẫn, làm được những chuyện
người khác chẳng thể làm, chịu nhọc
nhằn thay cho người khác, thành tựu
sự tốt đẹp cho người ta. Khi tịnh tọa
thường nghĩ đến lỗi mình, lúc chuyện
gẫu chẳng bàn lỗi của kẻ khác, đi,
đứng, nằm, ngồi, mặc áo, ăn cơm, từ
sáng tới tối, từ tối tới sáng, một câu
Phật hiệu chẳng để gián đoạn, hoặc
niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm thầm, trừ
niệm Phật ra, chẳng khởi lên niệm
nào khác.
Nếu lỡ vọng niệm dấy lên, hãy lập
tức làm cho nó tiêu diệt. Thường sanh
lòng hổ thẹn và sanh lòng sám hối.
Dẫu có tu trì, luôn cảm thấy mình
công phu rất cạn, chẳng tự khoe
khoang, kiêu căng, chỉ bận tâm đến
chuyện trong nhà của chính mình,
chẳng dính tới chuyện nhà người khác,
chỉ thấy những gương tốt, chẳng thấy
những gương xấu. Thấy hết thảy mọi
người đều là Bồ Tát, chỉ có mình ta
quả thật là phàm phu. Nếu ông có thể
làm theo những điều tôi đã nói, chắc
chắn sẽ sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
KỆ TU TRÌ
“Giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận
Ngăn dứt lòng tà, giữ gìn lòng
thành
Đừng làm các ác, vâng làm các
thiện
Kiêng giết cứu mạng, ăn chay
niệm Phật
Hồi hướng vãng sanh Thế giới
Cực Lạc
Dùng để tự hành, lại còn dạy
người
Ấy gọi Phật tử
Hành giả hãy nên làm như thế
ấy
Công đức vô lượng! [Sống uổng bảy mươi năm,
tháng ngày chẳng còn mấy
Như Tù dẫn ra chợ, mỗi bước
gần cái chết
Tạ tuyệt hết thảy sự, để chuyên
tu Tịnh Độ
Nếu hiểu lòng ngu thành, mới
là chân Liên Hữu]
Niệm Phật mới hòng tiêu túc
nghiệp
Kiệt thành sẽ tự chuyển phàm
tâm
Đạo nghiệp chưa thành, há dám
để tâm này tán loạn
Kỳ chết sắp đến, tận lực tạ từ
mọi thù tạc
Hãy nên phát nguyện, nguyện
vãng sanh
Núi khe, nẻo khách từ nay thôi
quyến luyến
Tự mình chẳng về, về liền được
Gió trăng, quê cũ toàn thể hãy
tự vâng
Đóng cửa chẳng tiếp ai
Xót nghĩ thân này sắp chết
Chuyên tâm tu Tịnh Nghiệp
Thẹn thay đạo nghiệp chưa
thành!”
BÍ QUYẾT TU HỌC
“THÀNH & KÍNH”
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên)
Chánh Biên
Ấn Quang quả thật có bí
quyết người khác không đắc, chỉ
mình tôi đắc, do ông cầu thỉnh bèn
chẳng ngại gì đem bảo khắp các Phật
tử trong thiên hạ. Bí quyết ấy chỉ có
gì? Là Thành, là Cung Kính. Những
chữ ấy cả thế gian đều biết, nhưng
đạo ấy cả thế gian đều lầm. Ấn Quang
do tội nghiệp sâu nặng, mong tiêu trừ
tội chướng để báo ân Phật nên thường
tìm cầu khuôn mẫu tu trì tốt đẹp của
cổ đức, do vậy mới biết Thành và
Cung Kính quả thật là bí quyết cực
diệu để siêu phàm nhập thánh, liễu
sanh thoát tử.
Tam Biên
Muốn được lợi ích thật sự
nơi Phật pháp, phải hướng về cung
kính mà cầu, đấy chính là thường
pháp chẳng thể thay đổi trong suốt
mười phương ba đời vậy! Tiếc cho
người đời nay phần nhiều coi thường
chuyện này; do vậy, chỉ mang cái
danh nghiên cứu xuông, chẳng đích
thân đạt được thực chứng!
Tục Biên
Nếu chẳng trọng lòng kính,
giữ lòng thành, dù có sở ngộ, vẫn
chẳng thể được lợi ích thật sự. Hễ rơi
vào cuồng huệ, chắc chắn khó thể sự
lý viên dung. Thiên chấp lý tánh,
chẳng trọng tu trì, tuy thấy lý chẳng
lầm, cũng chẳng khác gì tà ma, ngoại
đạo cho mấy! Huống chi đã chấp lý
phế sự thì cái lý được ngộ cũng khó
thể thích đáng. Do vậy, nói: “Bất quý
tử kiến địa, chỉ quý tử hành lý”
(Chẳng quý chỗ kiến địa của ông, chỉ
quý chỗ ông thực hiện). Đấy chính là
bẫy sập lớn cho người thông minh
trong cả cõi đời; chẳng mắc phải bệnh
này mới đáng gọi là thông minh. Nếu
không, thông minh lại bị thông minh
làm cho lầm lạc, biến thành hạng
người tự lầm, lầm người.
Tam Biên
Lợi ích thật sự trong Phật
pháp ắt phải dùng chí thành để đạt!
Bất luận niệm Phật hay xem kinh đều
phải chí thành, cung kính. Đừng nên
học theo kẻ viên dung không chấp
trước! Nếu không, sẽ vì phóng túng
không kiêng dè mà trở thành phường
cuồng vọng, ma mị.
Tam Biên
Trì tụng kinh chú quý tại chí
thành. Dẫu trọn chẳng biết nghĩa, mà
nếu có thể hết lòng thành, cạn lòng
kính, kiền thành, khẩn thiết thọ trì thì
lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ
nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, tâm
minh, còn có thể thấu hiểu trực tiếp ý
Phật, huống là những giải thích về
mặt văn tự và ý nghĩa của chúng ư?
Nếu không, dẫu có thấu hiểu thông
suốt, nhưng do chẳng chí thành thì chỉ
trở thành tình kiến phàm phu, dò đoán
suy lường mà thôi; chứ không có cách
nào đạt được lợi ích chân thật và sự
cảm ứng chân thật của kinh! Do hoàn
toàn là thức tâm phân biệt suy lường
thì làm sao có thể ngầm thông Phật trí,
thầm hợp diệu đạo, hễ vừa vượt thoát
liền chứng nhập trực tiếp, mau chóng
đạt lợi ích thù thắng?
Thường thấy ngu phu ngu phụ cắm
cúi tu trì đạt được lợi ích hơn hẳn kẻ
thông minh nhiều lắm. Ấy là vì một
đằng hết lòng Thành, cạn lòng Kính,
chuyên tâm nhất chí, còn một đằng thì
hờ hững, lợt lạt, tán loạn, hư vọng suy
lường mà ra! Xin các độc giả đều biết
ý này, đấy chính là đã hiểu trọn ý
nghĩa của kinh, khi trì tụng sẽ chẳng
còn sanh phân biệt nữa, sẽ như đối
trước thánh dung đích thân lắng nghe
viên âm, trọn không thấy có một niệm
nào để được thì lợi ích ấy chẳng thể
dùng ngòi bút để hình dung được đâu!
Đấy chính là bí quyết trì tụng.
Nguyện khắp các đồng nhân đừng coi
thường lời này thì may mắn lắm thay!
Tam Biên
Kính là gốc của đức; hễ
kính thì sẽ kìm nén được giận dữ,
ngăn chặn lòng dục, chẳng làm các
điều ác.
Tam Biên
Chí thành, cung kính quả
thật là cái gốc để mong thành hiền,
thành thánh, học Phật, học Tổ. Hễ
tâm con người chú trọng nơi cung
kính thì hết thảy những cái tâm phóng
túng, tà vạy, xa xỉ sẽ tự không còn do
đâu dấy lên được nữa!
Tam Biên
Cần nên biết: Bất luận tụng
kinh hay trì chú đều phải lấy cung
kính chí thành làm gốc, đều phải hồi
hướng Tây Phương cho khắp bốn ân
ba cõi pháp giới chúng sanh thì lợi ích
lớn lắm. Như kẻ vô tri trong thế gian
chuyện gì cũng vì mình thì lợi ích sẽ
thuận theo tâm lực mà hèn kém. Ví
như một ngọn đèn đem thắp cho trăm
ngàn ngọn đèn khác, ánh sáng của
ngọn đèn ấy trọn chẳng bị tổn giảm.
Nếu chẳng thắp cho ngọn đèn khác,
ánh sáng của nó cũng chẳng tăng
mạnh hơn và sáng lâu hơn được! Khi
hồi hướng hãy nên biết đến ý này.
Chẳng những vì cha mẹ, ân nhân của
chính mình mà [hồi hướng] như thế,
ngay cả đối với oán gia cũng [hồi
hướng] như thế thì mới có thể trên
khế hợp với tâm Phật, dưới kết các
duyên, giải các oán thù.
Tam Biên
Phàm là người tu hành, ắt
phải có tâm địa tốt. Tâm địa tốt, lại
còn cung kính, chí thành, trọn chẳng
có khi nào không linh! Tâm địa bất
hảo, lại chẳng cung kính, đã không có
cảm thì làm sao ứng được? Sự lý này
là lẽ tất nhiên, xin hãy sáng suốt suy
xét thì may mắn lắm! (Nếu thường
niệm, không cần phải niệm trọn “đại
từ đại bi cứu khổ cứu nạn”, chỉ niệm
“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” là
được rồi! Phàm bị bệnh do oán
nghiệp, thuốc chẳng trị lành được, và
phạm phải quỷ thần, phạm hồ ly,
niệm Quán Âm sẽ có thể giải trừ, tiêu
diệt, xua tan [quỷ thần, hồ ly]. Phàm
gặp những nguy hiểm như nước, lửa,
ác thú, ác nhân v.v… nếu chí thành
niệm sẽ có chuyển biến hoặc giảm trừ
lớn lao. Nếu kẻ nào tâm không chí
thành và có tâm nghi hoặc không tin,
cũng như tâm ôm ác niệm muốn
thành tựu chuyện ác, sẽ không có hiệu
nghiệm. Nếu ông có thể chân thật làm
như thế, giáo hóa hướng dẫn như thế
thì làng ông sẽ có thể trở thành ngôi
làng Phật giáo “nhà nhà Quán Thế
Âm, người người Di Đà Phật”)
Tam Biên
Đại Sĩ tuy ôm lòng tầm
thanh cứu khổ, nhưng chúng sanh
chẳng sanh lòng tin tưởng sẽ chẳng
thể cảm ứng đạo giao! Ví như mặt
trời rạng rỡ giữa hư không, nếu ở
dưới chậu úp sẽ chẳng được chiếu đến.
Tâm cầu Đại Sĩ tức là đã đủ lòng
ngưỡng vọng, lật chậu lên, há chẳng
được chiếu soi? Quỷ thần có tà, có
chánh. Tà quỷ thần là loài yêu ma thật
sự mong được con người kính nể.
Chánh quỷ thần là thiện thần bảo vệ
đất nước, che chở nhân dân. Nếu cầu
Đại Sĩ, cố nhiên chẳng cần phải cầu
quỷ thần, như đã được lòng vua thì
dân tự thuận theo. Hơn nữa, quỷ thần
may ra cứu được tai nạn nhỏ, chứ
không thể cứu được định nghiệp; còn
Đại Sĩ thì [nghiệp] lớn – nhỏ, định
hay bất định đều cứu được hết, chỉ do
người ấy có lòng Thành hay không
mà thôi!
Tục Biên
Phàm là người tu hành tâm
phải có chủ ý, thấy cảnh giới tốt
chẳng sanh hoan hỷ, thấy cảnh giới
chẳng tốt đẹp không sanh lòng kinh
sợ. Làm được như thế thì những cảnh
giới đã thấy đều trở thành duyên trợ
đạo. Nếu không, chúng đều trở thành
duyên chướng đạo. Thêm nữa, phàm
là người tu hành, hãy nên lấy chí
thành, cung kính làm gốc, giữ lòng từ
bi khiêm tốn. Tâm giữ được, thân
hành được, tuy chẳng thể hoàn toàn
tương ứng với Phật, nhưng phải nỗ
lực cố gắng để mong chẳng trái tâm
Phật, hạnh Phật, sẽ đáng gọi là người
tu hành chân thật, là đệ tử thật sự của
đức Phật vậy!
Tam Biên
Nhận được thư, ông cho biết
“quyết ý muốn vãng sanh trong năm
nay”. Chớ nên chấp trước ý kiến ấy!
Hễ chấp sẽ thành bệnh, hoặc đến nỗi
có ma sự! Người niệm Phật hãy nên
giữ tấm lòng “được vãng sanh ngay
trong đời này”. Nếu báo thân chưa
mãn thì cũng chỉ tùy duyên. Nếu định
kỳ hạn mong muốn vãng sanh mà
công phu đã thành thục, cố nhiên
chẳng trở ngại gì. Nếu không, chỉ
riêng cái tâm mong cầu ấy đã là cái
gốc để thành ma rồi! Nếu vọng niệm
ấy kết thành một khối chẳng tháo gỡ
được, sẽ nguy hiểm chẳng thể nào nói
nổi!
“Cho đến hết tuổi thọ, gieo tấm
lòng Thành” chính là đạo chúng ta
nên tuân giữ. “Diệt thọ thủ chứng”
(diệt trừ thọ mạng để mong chứng đắc)
quả thật là lời lẽ bị Giới kinh quở
trách sâu xa (Bài kệ cuối kinh Phạm
Võng có đoạn: “Kế ngã chấp trước
giả, bất năng sanh thị pháp, diệt thọ
thủ chứng giả, diệc phi hạ chủng xứ”
(kẻ chấp trước nơi Ngã, chẳng sanh
được pháp này; diệt thọ mong chứng
đắc, cũng không gieo giống được)).
Chỉ nên trọn hết lòng kính, lòng thành
để cầu mau được vãng sanh; chớ nên
mong muốn được vãng sanh đúng
như kỳ hạn [theo ý ta] đã định.
Người học đạo tâm chớ nên thiên
chấp. Hễ thiên chấp sẽ đến nỗi mất trí
điên cuồng; chẳng những vô ích mà
còn bị hại! Nếu tịnh nghiệp chín muồi,
vãng sanh ngay bữa nay càng tốt. Nếu
chưa chín muồi mà cứ muốn được
vãng sanh ngay, sẽ trở thành “nhổ mạ
để giúp cho nó mau lớn!” Thật sợ
rằng hễ ma sự dấy lên, chẳng những
chính mình không thể vãng sanh được,
mà còn khiến cho kẻ vô tri đều lui sụt
tín tâm, bảo là: “Niệm Phật tổn hại vô
ích!” Như ông X… nọ là tấm gương
tầy đình, mối hại ấy quả thật chẳng
nông cạn vậy! Xin hãy đem cái tâm
quyết định [mong được vãng sanh]
đúng kỳ hạn ấy đổi thành cái tâm “chỉ
mong mau được vãng sanh’. Dẫu
không được vãng sanh [mau chóng],
cũng chẳng áy náy gì, chỉ chí thành
chí kính để mong khi hết báo thân sẽ
được vãng sanh thì không bị vọng
niệm bộp chộp vón cục lại [trong tâm]
đến nỗi mắc họa chuốc lấy ma sự!
Tam Biên
Người đời nay thể chất phần
nhiều yếu đuối, chớ nên lầm lạc bắt
chước cổ nhân. Con người thường do
ham danh mà khổ hạnh quá mức, đâm
ra đối với đạo lẫn thân đều chẳng có
ích gì! Lợi ích thật sự trong Phật pháp
phải do chí thành mà đạt được, chứ
không phải do phô trương bày vẽ mà
được việc.
ĐỪNG ĐỂ MA DỰA
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên) Tam Biên
Con người ở trong thế gian
chẳng thể siêu phàm nhập thánh, liễu
sanh thoát tử đều là do vọng niệm gây
nên. Nay trong lúc niệm Phật, liền
nghĩ như chính mình đã chết, chưa
được vãng sanh, trong mỗi một niệm
đều gác bỏ tất cả hết thảy tình niệm
thế gian ra ngoài. Trừ một câu Phật
hiệu ra, không có một niệm nào để
được! Làm thế nào để niệm được như
thế? Là vì ta đã chết rồi, tất cả hết
thảy vọng niệm đều chẳng vướng mắc
nữa. Niệm được như thế ắt sẽ có lợi
ích lớn lao. Những kẻ tri kiến nhỏ
nhoi hiện thời hễ hơi có một chút
cảnh giới tốt đẹp bèn tự mãn, tự cho
là đủ, tưởng mình đã đắc tam-muội
rồi! Hạng người ấy mười người hết
chín kẻ đều bị ma dựa phát cuồng vì
tâm niệm cách ngăn với Phật, phù
hợp với ma, cho nên thành ra như vậy.
Tam Biên
Đừng nên mù quáng dấy lên
vọng tưởng, mong đắc thần thông,
đắc duyên pháp, được tiếng tăm,
mong xây chùa dựng miếu. Nếu có
những thứ ý niệm ấy, lâu ngày chầy
tháng ắt sẽ bị ma dựa. Nếu chẳng nói
toạc những điều này với ông, sợ rằng
ông sẽ tưởng những ý niệm ấy là tốt,
vọng tưởng ngày ngày tăng trưởng,
chắc chắn sẽ bị ma dựa không còn
ngờ chi! Dẫu cho tâm đã tịnh, vọng bị
khuất phục, cũng chớ nên sanh lòng
hoan hỷ, tự khoe khoang với người
khác, có một phần bèn nói tới mười
phần, đấy cũng là cái gốc để bị ma
dựa!
Tam Biên
Kẻ chẳng biết tốt – xấu
tưởng [những hiện tượng rung động,
đốm sáng xẹt ra] là công phu [đắc
lực], sẽ bị ma dựa phát cuồng. Nhưng
đối với cảnh giới tốt cũng chẳng sanh
lòng vui mừng, đối với cảnh giới xấu
cũng không sanh lòng kinh sợ. Hễ
kinh sợ thì tà ma bèn thừa dịp, hễ vui
mừng ắt trước hết sẽ bị mất chánh
niệm.
Tam Biên
Chung Anh túc căn sâu xa,
nhưng tri thức chưa mở mang! Nửa
đêm niệm Phật, thấy một vị thần mặc
kim giáp, sợ bị ma thử thách, nên
chẳng dám niệm. Sao mà vô trí quá
mức như thế? Phàm người niệm Phật
chỉ nên chí thành, khẩn thiết, nhất tâm
chánh niệm, trọn chẳng chuyên chú
vọng tưởng thấy Phật hoặc thấy cảnh
giới. Bởi lẽ, nếu tâm quy nhất, thấy
Phật hay thấy cảnh giới đều chẳng
đến nỗi lầm lẫn sanh hoan hỷ, rồi đến
mức “được chút ít đã cho là đủ”, trở
thành lui sụt. Không thấy Phật, không
thấy cảnh giới, cũng trọn chẳng thiếu
sót gì! Tâm chưa quy nhất mà muốn
gấp thấy Phật, thấy cảnh giới, đừng
nói thấy cảnh ma, dẫu thật sự thấy
cảnh Phật mà tâm lầm lẫn sanh hoan
hỷ thì cũng bị tổn hại (nghĩa là “do
sanh hoan hỷ bèn lui sụt”), chẳng
được hưởng lợi ích. Hãy nên chú
trọng chí thành niệm Phật, đừng ôm
lòng [mong tưởng] thấy Phật hay thấy
cảnh giới.
Nếu khi đang niệm Phật, chợt có
tượng Phật và tượng Bồ Tát, tượng
chư thiên hiện ra, tâm chỉ giữ chánh
niệm, đừng sanh chấp trước. Biết
tượng hiện ra ấy chỉ do tâm hiện, tuy
hiển hiện vằng vặc phân minh, thật sự
chẳng phải là một vật nào! Do tâm
tịnh nên hiện ra cảnh tượng ấy, như
nước thanh tịnh, trăng liền hiện bóng,
chẳng có mảy may kỳ lạ, đặc biệt nào
cả! Trọn chẳng sanh lòng khoe
khoang, vui sướng, tâm càng thêm
chuyên nhất, sốt sắng niệm Phật.
Người làm được như thế thì đừng nói
là “cảnh giới Phật hiện ra sẽ được lợi
ích”, dẫu ma hiện ra vẫn có lợi ích. Vì
sao vậy? Do chẳng chấp trước, tâm có
thể quy nhất. Phật hiện thì tâm càng
thanh tịnh. Ma hiện thì do tâm thanh
tịnh chẳng chấp trước nên ma không
thể quấy nhiễu được, tâm càng thêm
thanh tịnh, đạo nghiệp tự tiến.
Nay ngẫu nhiên có chuyện biến
hiện bèn sanh hoảng sợ, chẳng dám
niệm Phật, tâm đã mất chánh niệm rồi!
May mà chẳng phải là ma hiện! Nếu
là ma hiện, vì không dám niệm Phật
nên ma liền có thể nhập vào tâm
khiếu, bị ma dựa phát cuồng, chôn vùi
chánh niệm. Sao chẳng biết tốt – xấu
đến mức như thế? Sợ là ma hiện thì
càng phải nên sốt sắng khẩn thiết
niệm Phật, con ma ấy sẽ tự chẳng có
chỗ dung thân! Như ánh sáng chiếu
đến, tối tăm tự nhiên chẳng còn,
chánh đến tà tự tiêu diệt. Sao lại sợ
ma hiện bèn chẳng dám niệm Phật?
May chẳng phải là ma, nếu quả thật là
ma thì đã trao toàn quyền cho nó rồi.
Pháp để tự mình đối trị hoàn toàn
chẳng dùng tới, bỏ mặc cho ma khuấy,
buồn thay, xót thay!
Niệm Phật ngẫu nhiên sanh lòng bi
cảm, cũng là điều hay, nhưng chớ nên
chuyên muốn dấy lên cảm tưởng ấy.
Nếu tâm thường muốn dấy lên cảm
tưởng ấy, chắc sẽ đến nỗi bị ma dựa,
chẳng thể cứu được. Hãy nên giữ tâm
như hư không, trọn chẳng có một vật
gì trong tâm. Dùng tâm thanh tịnh ấy
để niệm Phật thì sẽ tự chẳng có hết
thảy cảnh giới. Dẫu có ma cảnh,
nhưng do tâm ta như hư không, chẳng
sanh kinh sợ, cứ niệm Phật, ma ắt tự
tiêu! Nay sợ là ma, chẳng dám niệm
Phật thì ví như sợ cường đạo kéo đến
bèn trước hết tự mình đem những lính
hộ vệ trong nhà chuyển đi phương xa,
chẳng cho họ ở trong nhà. Đấy chính
là đã trao quyền bảo hộ cho cường
đạo khiến chúng trọn chẳng sợ hãi gì,
mặc sức cướp đoạt sạch sành sanh!
Sao mà ngu si đến tột bậc như thế?
Tam Biên
Niệm Phật mà thấy các cảnh
tượng thì đối với cảnh ác chớ nên sợ
hãi, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, cảnh
ấy liền tiêu. Với thiện cảnh chớ nên
hoan hỷ, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, ắt
sẽ có sở đắc, tức là nghiệp tiêu, trí
rạng. Nhưng [sở đắc] có cạn, có sâu,
chớ nên sanh ý tưởng thỏa mãn, cho
là đã đầy đủ rồi, [không tu tập nữa].
Nhiếp tâm chánh niệm thì thiện cảnh
càng rõ rệt hơn hoặc liền biến mất,
đừng quan tâm đến nó. Chỉ cốt sao
niệm chẳng lìa Phật, Phật chẳng lìa
niệm là được rồi. Thấy thiện cảnh tâm
địa thanh lương, trọn chẳng có tâm
vọng động, bộp chộp, chấp trước,
cũng chẳng đoan chắc là đã nhập định.
Biết rõ đấy chỉ là duy tâm sở hiện,
chẳng phải là đối cảnh vô tâm.
“Chẳng nhờ đến phương tiện mà
tâm tự được mở mang” nghĩa là niệm
như con nhớ mẹ, đấy chính là phương
tiện tối thượng, chẳng phải nhờ cậy
vào các phương tiện khác! Ông hiểu
lầm “không chấp trước” là “quét sạch”
nên mới có [nhận định] tương phản
với pháp được tạo lập ấy. “Như con
nhớ mẹ” sao lại bảo là “quét sạch”?
Nếu thánh cảnh hiện, biết cảnh ấy chỉ
là duy tâm; hễ chấp trước thì không
phải là duy tâm. Do kẻ sơ tâm hễ thấy
thánh cảnh, phần nhiều chẳng biết là
duy tâm, nên sanh lòng chấp trước.
Hễ chấp trước thì nếu không phải là
hạng “được chút ít đã cho là đủ” thì
cũng là “bị ma dựa phát cuồng!” Do
đó, kinh dạy: “Nếu tâm chẳng cho đó
là thánh cảnh, bảo là mình đã chứng
thì gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu
tưởng là thánh cảnh, liền bị vướng
trong lũ ma, bị ma dựa phát cuồng”.
Tam Biên
Ông vọng tưởng tơi bời mà
vẫn gấp muốn được nhất tâm bất loạn,
tâm ấy chính là cái gốc cho ma dựa.
Vì thế, Quang nói: “Pháp môn Tịnh
Độ trọng tại tín – nguyện”. Nếu tín –
nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa
đắc nhất tâm vẫn có thể vãng sanh.
Nếu không có tín – nguyện, dẫu đắc
nhất tâm, vẫn chẳng thể cậy vào tự
lực để liễu sanh thoát tử! Vì thế,
chẳng khuyên ông miệt mài cầu nhất
tâm. Do ông vọng tưởng tơi bời, hễ
cầu nhất tâm, nhất định sẽ bị ma dựa!
Ông chẳng xét hiểu ý Quang, bèn
nghĩ là “mặc kệ, miễn sao thuận tiện
thì thôi”. Những kẻ đối với chuyện
trước mắt bèn tùy tiện, chắc chắn
chẳng phải là người tín – nguyện chân
thiết! Nếu tín – nguyện chân thiết,
quyết chẳng đến nỗi hờ hững, tùy tiện,
để rồi đều chẳng được vãng sanh. Lý
vốn chẳng chướng, do ông coi vô lý
là hợp lý nên tự sanh chướng ngại thì
còn oán trách ai?
Tam Biên
Thư trả lời cư sĩ Từ Tử
Hỗn
Đọc thư của các hạ, biết các hạ là
một vị quân tử đức dầy. Điều đáng
tiếc là chẳng phân tà – chánh! Thoạt
đầu, lầm lẫn tưởng pháp được truyền
bởi Đồng Thiện Xã là Phật pháp,
chẳng biết đấy là pháp luyện đan vận
khí để dưỡng thân thể nhằm mong
sống lâu, tăng tuổi thọ, lầm lạc mong
mỏi thành tiên! Họ nói đến “tịnh tọa,
dụng công” đều là dùng công phu vận
khí, trọn chẳng có hơi hướng Phật
pháp, xằng bậy bảo đấy là Phật pháp!
Ví như đem mắt cá coi là trân châu để
rồi quý trọng, cho là kỳ trân (hiếm lạ,
quý báu)! Đến khi các hạ đọc Văn
Sao, tuy đã thật thà niệm Phật, rốt
cuộc vẫn chẳng chịu bỏ cách luyện
đan vận khí, vẫn tưởng đấy là Phật
pháp! [Như vậy là] miệng tuy niệm
Phật, trong tâm vẫn chú trọng ngoại
đạo!
Ngoại đạo đều lấy những thứ cảnh
giới thần kỳ quỷ quái để mê hoặc
người khác! Nếu các hạ đã biết Phật
pháp, tận tình vứt bỏ pháp luyện đan
đã tu thì chánh niệm trong tâm sẽ
rạng ngời như mặt trời rực rỡ giữa hư
không; nào còn có chuyện lỵ – mị –
võng – lượng giở trò tác quái nữa!
Tâm địa các hạ chánh đại quang minh
thì bọn yêu ma quỷ quái kia sẽ tự
chẳng còn chỗ đứng! Do các hạ coi tà
là chánh, luôn lầm lạc muốn đắc thần
thông, mong có khả năng tiên tri, nên
chiêu khởi ma quỷ hiện xằng tướng
yêu ma nơi thân ông. Tuy ông tà –
chánh chẳng phân, nhưng vẫn chưa
hoàn toàn nghĩ những tướng yêu mị
của ma quỷ là đúng cho nên vẫn còn
cứu được! Nếu tưởng đấy là đắc đạo,
đắc thần thông thì muốn chẳng bị chết
vì ma cũng chẳng thể được! Nguy
hiểm đến cùng cực!
Ông đã hỏi Quang thì hãy nghe
theo lời Quang. Từ nay trở đi, những
công phu đã tập tành từ trước đều
hoàn toàn vứt bỏ, tâm chẳng còn có
một tơ tóc trân quý [những pháp ấy
nữa]! Hãy chí thành, khẩn thiết sanh
lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, thân – khẩu – ý ba
nghiệp hãy nên chuyên chú vào tu trì
Tịnh nghiệp. Trong tâm ông đã không
có tà kiến, lại còn có oai đức thần lực
của danh hiệu Phật thì lũ ma quỷ kia
sẽ trốn chạy còn không kịp, nào dám
lưu lại giây lát để gây chướng ngại
cho ông ư?
Chúng nó gây chướng ngại là do tà
tâm của ông cảm vời! Ví như chủ
nhân dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh
đổ ham muốn xằng bậy của chính
mình để khôi phục lễ nghĩa, lời lẽ lẫn
hành vi đều hợp với đạo Thành –
Minh thì những gã ám muội tiểu nhân
có hành vi phóng túng, tà vạy, xa xỉ,
buông lung, không kiêng sợ làm sao
dám lên điện đường của người ấy,
dám vào trong nhà của người ấy cho
được? Như dưới ánh sáng lớn lao,
trọn chẳng có tối tăm; trong khi nắng
gắt, trọn chẳng có băng, sương!
Ông đã hoàn toàn nương theo Tịnh
Độ để tu tập thì chẳng cần phải coi
những điều mong mỏi [như đã nêu]
trong phần trước là đúng, sẽ như vị
chủ nhân sáng suốt, tỉnh ngộ, biết
chúng là giặc thì chúng sẽ tự tránh xa.
Nếu tưởng chúng nó là người trong
nhà của chính mình thì chúng nó sẽ
thành chủ nhân, nhập vào tâm khiếu
của ông, khiến cho ông bị ma dựa
phát cuồng đến nỗi táng thân mất
mạng! Bất luận chúng nó là hồ ly, là
ma, hay là oán gia đời trước, chỉ nên
phát Bồ Đề tâm, trì danh hiệu Phật,
chúng sẽ bị tiêu diệt. Nếu như chẳng
tiêu thì trời đất sẽ đổi ngôi, mặt trời,
mặt trăng sẽ xoay ngược!
Điều đáng lo là tâm ông chẳng
nương theo chánh lý, vẫn giữ những
tà tri tà kiến trước kia; đừng bảo lời
Ấn Quang nói chẳng linh, dẫu là lời
chư Phật nói cũng chẳng thể linh
được! Bởi căn bản đã là tà thì chánh
không có cách nào thi thố được! Viết
ra những điều này, mong ông hãy
thấu hiểu rõ ràng thì may mắn lắm
thay!
Tam Biên
Thư trả lời cư sĩ Duy Phật
Ông đã phát nguyện chân thật, thiết
tha, nhưng cần phải “dè dặt, kinh sợ
như vào vực sâu, bước trên băng
mỏng” giống như Tăng Tử. Chưa đến
lúc sắp về Tây, quyết chẳng dám
buông tâm lỏng ý thì mới được! Năm
sáu năm trước, ông X… đã thư từ qua
lại và gởi bài văn phát nguyện hết sức
chân thành, thiết tha. Quang nghĩ ông
ta ở ẩn khuất trong vùng núi non, lại
còn nghèo hèn, bèn gởi rất nhiều kinh
sách cho ông ta. Những người trong
vùng ấy do được ông ta khuyên dạy
mà niệm Phật khá đông, nhưng một
hai năm gần đây, ông ta đúng là kém
hèn chẳng thể kham nổi: Hút thuốc
phiện, phạm tà dâm! Quang đã cảnh
tỉnh, khuyên răn ông ta suốt nửa năm
nhưng vẫn không thay đổi, hối hận.
Đúng là hạng chuyên đợi vào địa
ngục!
Ông nói: “Tùy thời, tùy chốn, hễ
chết được liền chết”. [Câu nói ấy] vừa
là căn bản để cầu vãng sanh mà cũng
là cội rễ để chiêu cảm ma! Cố nhiên,
ai nấy đều phải chết, nhưng chớ nên
có cái tâm chấp trước cầu chết, cầu
mau vãng sanh, chỉ nên nhất tâm
niệm Phật! Nếu chẳng nhất tâm niệm
Phật, chỉ cầu mau chết, ắt sẽ chiêu
khởi oán gia từ vô lượng kiếp kéo đến,
khiến cho ông bị chết ngang trái.
Chẳng những không được vãng sanh
mà đến khi sắp chết, sức [thần thông
do] ma [gia trì sẽ] rời đi, [khi ấy] sẽ
khổ sở chẳng thể kể xiết, sẽ sanh tà
kiến, ắt đến nỗi đọa lạc. Chớ nên có
cái tâm chấp trước ấy! Hễ có thì chính
là bệnh, chớ nên không biết!
Nói đến chuyện sư Bảo Nhất và cư
sĩ Vô Sanh thì trong tâm mỗi người
ấy đều có một phần ham danh. Nếu
không, quyết chẳng chịu đem những
cảnh giới ấy viết ra để khoe với mọi
người! Huống chi [sư Bảo Nhất] còn
phê [vào đầu cuốn Tự Tri Lục] đề cao
[nội dung cuốn sách] đến tột cùng ư?
Do vậy, có thể suy ra biết họ là hạng
người như thế nào rồi! Nếu cuốn sách
ấy được lưu hành rộng rãi thì kẻ
chẳng hiểu tự tâm, chẳng thông giáo
lý ắt sẽ phần nhiều bị ma dựa phát
cuồng. Đinh Quế Tiều gởi đến, tôi
xem qua liền gởi trả lại, chẳng giữ
một cuốn nào. Do tôi thiết thực bảo
ban điều họa hại nên ông ta không tái
bản. Ông Vương Mưu Phụng ở Hàng
Châu cũng muốn xin Quang nói lời
quyết đoán; Quang cũng đem những
lời đã bảo Quế Tiều để nói [với Mưu
Phụng].
Những cảnh giới do người phụ nữ
ấy kể đương nhiên có đôi phần,
nhưng phô trương quá lố, rốt cuộc trở
thành đem phàm lạm thánh! Nếu chân
thật đạt được [cảnh giới] như vậy, há
lẽ nào chẳng biết lời lẽ ấy sẽ khiến
cho người khác bị lầm lạc ư? Bà ta đã
không có kiến địa ấy thì chỗ tương
ứng như bà ta đã khoe [trong sách]
chắc chắn chỉ là “vừa được chút phần
đã khoe toáng thành nhiều” mà thôi!
Nếu không, đã đạt đến Phật cảnh, há
có chuyện chẳng hiểu rõ tri kiến
phàm tình ư? Chúng ta chỉ nên thật
thà niệm Phật, chỉ cầu lâm chung
được vãng sanh là được rồi; còn trong
đời hiện tại như thế nào thì cứ để như
thế đấy, mặc cho “nước chảy thành
suối, xuân đến hoa nở”. Nếu cứ mong
tưởng sẵn, sẽ trở thành chướng ngại
đấy! [Bởi lẽ, mong tưởng sẵn] sẽ
giống như cắt đứt nguồn nước mà
muốn [nước chảy] thành suối, đang
trong lúc tiết Đông rét căm căm lại
mong hoa nở. Nếu được như vậy sẽ là
chuyện quái đản!
Tam Biên
Ông đừng chăm chú nơi
“niệm mà chẳng niệm, không niệm
mà niệm”! Cảnh ấy chính là chỗ thực
hiện của bậc đã đạt đến cảnh giới
cùng cực. Nếu chưa đạt đến cảnh giới
cùng cực [mà cứ bám vào “niệm mà
chẳng niệm, không niệm mà niệm”],
ắt sẽ trở thành lười nhác! Tham cứu
câu “niệm Phật là ai” vừa có lợi ích
mà cũng có khuyết điểm! Chỗ hãy
nên dốc sức chính là thành thật,
chuyên nhất, dốc lòng.
Nếu xen tạp Thiền cơ, hễ hơi có
kiến xứ thì do căn cơ nông cạn, chúng
sanh sẽ coi pháp [Tịnh Độ] này là hèn
kém nhất, coi pháp kia (Thiền) là tối
thắng. Mùa Xuân năm Dân Quốc 13
(1924), vợ ông Địch Sở Thanh mắc
phải thói tệ này. Mãi cho đến ngày
nay, Sở Thanh vẫn giữ thuyết ấy,
chẳng chịu sửa đổi chút nào. Một đệ
tử ở Giang Tây là Long Tùng Sanh
đối với Thiền có chỗ hơi hiểu, ngộ
[rồi cũng miệt thị Tịnh Độ], Quang
cực lực quở trách, nhưng ông ta vẫn
chẳng chịu nghe. Xem sắc diện chừng
như ông ta bị ma dựa. Nghe lời ông ta
nói, đúng là “muốn nối tiếp huệ mạng
của chư Tổ”.
Ông ở nhằm nơi ngoại đạo lừng lẫy;
nếu chẳng dựa theo sự thật để tu tập,
chắc cũng sẽ trở thành cái cớ cho bọn
tà ma, ngoại đạo bêu riếu. Ông muốn
khai ngộ, há cần phải dùng đến công
phu tham cứu? Chỉ cần niệm đến chỗ
“niệm cực, tình vong”, sẽ tự được
khai ngộ. Nếu không ngộ, cũng chẳng
trở ngại gì. Cần biết rằng: Hễ có tín
nguyện thì chẳng ngộ vẫn được vãng
sanh. Đắc ngộ mà không có tín
nguyện thì vẫn luân hồi trong lục đạo!
Ông muốn bỏ con đường bằng phẳng
để đi theo đường hiểm trở mà vẫn
mong được gọi “người hiểu biết pháp
môn Tịnh Độ” ư?
Tam Biên Hãy nên y theo chương trình
của phàm phu để tu trì, đừng mong
vượt trỗi người khác thì sẽ có lợi ích
thật sự. Nếu không, sau này nhất định
sẽ có ngày nổi cơn điên cuồng lớn lao
đấy! Do vậy sẽ đâm ra khiến cho kẻ
vô tri lui sụt lòng tin! Xin hãy đọc kỹ
Văn Sao và các trước thuật Tịnh Độ
của cổ đức ngõ hầu trừ khử được tập
khí ấy, chẳng đến nỗi bị ma dựa. Nếu
không, khó bảo đảm chẳng bị ma dựa.
Tam Biên
Pháp Niệm Phật tùy theo cơ
nghi, chớ nên chấp chặt. Nhưng trong
hết thảy pháp, chọn lấy một pháp
quan trọng nhất thì không chi bằng
“lắng tai nghe kỹ”: Niệm từ tâm khởi,
tiếng từ miệng phát ra, âm thanh lọt
vào tai; đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm
như thế, nghe như thế. Niệm lớn tiếng,
nhỏ tiếng, niệm thầm trong tâm, đều
nghe như thế. Khi niệm thầm, trong
tâm vẫn có tướng của tiếng, chứ
không phải là không có tiếng. Đại
Thế Chí Niệm Phật Viên Thông
Chương có câu: “Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, ấy
là bậc nhất”. Khi niệm Phật có thể
lắng tai nghe kỹ chính là cách nhiếp
trọn sáu căn. Bởi lẽ, tâm niệm thuộc
về Ý Căn, miệng niệm thuộc về Thiệt
Căn, tai nghe thì mắt chẳng nhìn chi
khác, mũi chẳng ngửi gì khác, thân
chẳng buông lung, biếng nhác. Vì thế
gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Nhiếp
trọn sáu căn để niệm thì tạp niệm dần
dần dứt, cho đến không còn, vì thế
gọi là “tịnh niệm”.
Thường giữ cho tịnh niệm liên tục
chẳng gián đoạn sẽ đạt được Niệm
Phật tam-muội. Tam Ma Địa chính là
tên khác của tam-muội. Chúng ta tùy
phần tùy sức niệm, tuy chưa thể đạt
ngay được tam-muội, nhưng sẽ gần
với tam-muội. Chớ nên nghĩ là dễ
dàng rồi muốn mau đạt, kẻo sẽ dấy
lên các ma sự! Người đắc Niệm Phật
tam-muội thì trong đời này đã dự vào
địa vị thánh nhân. Vì thế, hãy nên tự
lượng!
Tam Biên
Đạo lý của Mật Tông chẳng
thể nghĩ bàn, nhưng người truyền Mật
Tông, kẻ học Mật Tông hiện thời ai
nấy đều coi trọng thần thông, chẳng
khỏi đánh mất ý chỉ căn bản! Người
truyền còn chưa có thần thông thật sự,
kẻ học có ai thật sự đắc thần thông?
Nặc Na đến chùa Thái Bình ở Thượng
Hải giảng Mật Tông cũng chú trọng
vãng sanh Tây Phương, nhưng trì A
Di Đà Trường Thọ Đà La Ni, hễ mở
được đỉnh thóp bèn có thể tùy ý
trường thọ hoặc vãng sanh ngay. Lời
lẽ ấy há nên nhất loạt [áp dụng cho
mọi người được]. Đừng nói là ông với
tôi chẳng thể, ngay cả Nặc Na cũng
chẳng thể tùy ý vãng sanh! Một đệ tử
đem chuyện này hỏi Quang, Quang
đáp: “Sự lý này đích xác là có, nhưng
chẳng thể nói là ai cũng đều có thể
[tùy ý] vãng sanh được! Cần biết rằng
tông chỉ trọng yếu của Mật Tông là
Tam Nghiệp Tương Ứng!” Nếu tam
nghiệp tương ứng đã lâu, sẽ có thể
thuận theo lòng mong muốn. Kẻ chưa
đạt đến mức tâm không, mà lại lầm
lạc mong muốn đạt được [cảnh giới
ấy], chắc sẽ bị ma dựa! Trong Mật
Tông, điều này rất quan trọng!
Tam Biên
Nói đến giấc mộng thì vẫn
là do lòng Thành của các hạ cảm nên,
những khai thị [ông nghe Quang dạy
trong giấc mộng ấy] chính là những
điều hay biết trong tự tâm [tỏ lộ ra].
Quang là một gã phàm phu sát đất
làm sao có thần thông đạo lực như thế
ấy? Chỉ nên y theo những gì Quang
đã nói, quyết chẳng đến nỗi hiểu lầm,
ấy chính là tự tin vậy. Quản Tử nói:
“Tư chi, tư chi, hựu trùng tư chi. Tư
chi bất đắc, quỷ thần tương thông chi”
(Suy nghĩ, suy nghĩ, lại suy nghĩ thêm
nữa. Hễ suy nghĩ không ra, quỷ thần
sẽ cảm thông). Chẳng phải là quỷ
thần cảm thông mà chính là do lòng
tinh thành đến tột bậc. Nên biết rằng:
Tâm thông pháp giới. Nếu có thể
chuyên tinh dốc chí thì chẳng những
sự hay biết trong tự tâm có thể mở
mang, phát khởi mà Phật, Bồ Tát, tri
thức trong pháp giới cũng có thể thị
hiện khơi gợi. Chứ kẻ hời hợt hờ
hững chớ nên khởi lên những thứ
tưởng niệm ấy, sợ rằng sẽ do vậy mà
chiêu cảm ma sự, hết sức mong mỏi
[ông hãy tự xét].
Tam Biên
Niệm Phật mà hết sức mong
mỏi [được ở nơi nào] vắng lặng thì
chẳng hợp lẽ cho lắm. Có căn bệnh sợ
ồn ấy, nay đã phát hiện tướng bệnh
rồi. Nếu vẫn cứ như thế, lâu ngày về
sau sẽ không có thuốc nào chữa được!
Hãy nên đối với ồn ào hay lặng lẽ đều
[cảm thấy] như nhau, đang tịnh cũng
chẳng sợ náo nhiệt xảy tới, trong lúc
náo nhiệt tâm ta vẫn yên tịnh, chẳng
sanh chán ghét, sẽ chẳng phát sanh
ma sự “kinh sợ, nhàm chán”. Nếu
chẳng gấp sửa đổi, sau này sẽ phát
cuồng. Niệm Phật mà sanh lòng đau
thương thì cũng là tướng lành, nhưng
chớ để thường xuyên như thế. Nếu
thường để như thế ắt sẽ bị ma đau
buồn dựa vào. Ma đau buồn đã dựa
vào thì sẽ suốt ngày đau buồn, hoặc
đến nỗi chết đau đớn. Những tình
huống này đều là do chẳng khéo dụng
tâm mà ra.
Tam Biên Cô ta niệm Phật [thấy] ánh
sáng tỏa ra, đấy vẫn thuộc về ma cảnh.
Hãy viết thư gấp, bảo cô ta đừng
tưởng chuyện ấy là thật, lâu sau [hiện
tượng ấy] sẽ mất đi. Nếu tưởng đó là
thánh cảnh hiện tiền, sợ rằng tương
lai sẽ đến nỗi bị ma quỷ dựa thân, bị
ma nhập phát cuồng, hết thuốc chữa!
Ấy là vì chúng ta từ vô lượng kiếp
đến nay đã kết oán nghiệp vô lượng
vô biên. Bọn chúng muốn đến báo
oán, nhưng vì cô ta có sức tu trì niệm
Phật, chẳng thể báo oán trực tiếp
được. Do cô ta mong tưởng cảnh giới
tốt đẹp, những kẻ oán nghiệp ấy bèn
hiện ra cảnh giới đó khiến cho cô ta
dấy lòng hoan hỷ, tưởng công phu tu
hành của mình đã đạt mức rồi, hoặc
tưởng mình đã thành thánh đạo. Do
vọng niệm cứng chắc ấy sẽ bị mất
chánh niệm, ma quỷ bèn nhập thân
khiến phát điên phát cuồng, Phật cũng
chẳng thể cứu được! Cõi đời lắm kẻ
dụng công tu hành rồi phát điên phát
cuồng đều do chính mình chẳng biết
dứt trừ vọng tưởng, nhiếp tâm, chánh
niệm dụng công, thường đều là “chưa
dụng công đã mong thành thánh!” Do
suốt ngày chỉ chăm chú mong ngóng
thánh cảnh giống như uống thuốc độc,
hôn mê, loạn trí, vô tri, bảo là “trời
đất lăn chiêng, thần kỳ quỷ quái!”
Chứ thật ra đều là do vọng tâm của
chính mình chiêu cảm ma quỷ gây tác
dụng.
Hãy nên dạy cô ta nhất tâm niệm
Phật. Trừ danh hiệu Nam Mô A Di
Đà Phật ra, nhất loạt chẳng để cho
tâm nẩy sanh các niệm thì tự nhiên sẽ
như hư không tan sương mù, mặt trời
chiếu rạng. Lợi ích của nhất tâm niệm
Phật và họa hại vì tâm vọng tưởng sôi
động mong thấy cảnh giới trong Văn
Sao đều đã nói tới nhiều lần. Xin hãy
sao lại thư này gởi cho [cô ta]. Lại
nên khuyên cô ta hãy tận lực y theo
lời tôi nói, chớ tưởng cảnh ấy là thật.
Dẫu nó có xuất hiện cũng chẳng sanh
vui mừng, cũng không sanh lòng sợ
sệt, cảnh ấy sẽ tự tiêu. Như kẻ giặc
vào nhà người ta, [người ấy] tưởng nó
là người trong nhà của họ thì cũng bị
hại. Biết nó là giặc nhưng lầm lẫn
sanh lòng sợ hãi thì cũng sẽ bị hại.
Nếu chẳng vui, chẳng sợ, nhất loạt
chẳng thèm đoái hoài tới nó, nó sẽ
chẳng có chỗ nào để đặt chân!
Tam Biên
Điều chúng ta nên dốc sức
chính là sanh lòng tin chân thật, phát
nguyện thiết tha, dùng lòng chí thành
khẩn thiết để trì danh hiệu Phật, cầu
sanh Tây Phương. Kỳ hạn vãng sanh
mặc cho duyên trễ hay sớm, chớ nên
khởi tâm mong ngóng được vãng
sanh ngay! [Bởi lẽ], sợ rằng do tâm
[mong ngóng] ấy cố kết nhưng tâm
[hành nhân] chưa thật sự tương ứng
với Phật, các ma sự ắt sẽ dấy lên.
Tam Biên
Ông hãy nên nhất tâm trì
giới niệm Phật, mặc cho ma vương
ngoại đạo hiển hiện bất cứ bản lãnh
ma mãnh gì cũng đều chẳng quan tâm
đến thì sẽ chẳng bị lũ ma lôi vào ma
đảng!
Tam Biên
Ông nói đến bóng đen thì
đấy chẳng phải là ảnh của Phật, Bồ
Tát, cũng chẳng phải là hình ảnh của
oán thân đối đầu hiện ra. Do Phật, Bồ
Tát đã hiện thì ắt phải có diện mục
v.v… rõ ràng có thể thấy được, còn
oán thân sẽ hiện ra tướng đáng sợ.
Hình ảnh ấy chính là những cô hồn có
duyên với ông trong đời trước, mong
được nhờ vào sức niệm Phật tụng
kinh để được siêu sanh vào đường
lành. Sau khi hồi hướng cho họ trong
khóa tụng, ông lại chuyên hồi hướng
cho họ, khiến họ tiêu trừ ác nghiệp,
tăng trưởng thiện căn, cậy vào Phật từ
lực vãng sanh Tây Phương thì sẽ hữu
ích cho họ, ngõ hầu chẳng phụ một
phen khổ tâm hiện bóng ấy.
Hơn nữa, phàm là người tu hành
tâm phải có chủ ý, thấy cảnh giới tốt
chẳng sanh hoan hỷ, thấy cảnh giới
chẳng tốt đẹp không sanh lòng kinh
sợ. Làm được như thế thì những cảnh
giới đã thấy đều trở thành duyên trợ
đạo. Nếu không, chúng đều trở thành
duyên chướng đạo. Thêm nữa, phàm
là người tu hành, hãy nên lấy chí
thành, cung kính làm gốc, giữ lòng từ
bi khiêm tốn. Tâm giữ được, thân
hành được, tuy chẳng thể hoàn toàn
tương ứng với Phật, nhưng phải nỗ
lực cố gắng để mong chẳng trái tâm
Phật, hạnh Phật, sẽ đáng gọi là người
tu hành chân thật, là đệ tử thật sự của
đức Phật vậy!
Tam Biên Đời Minh, ông Ngu Thuần
Hy bế tử quan nơi chỗ ngài Cao
Phong trên núi Thiên Mục, tịnh tu đã
lâu, liền có tài tiên tri. Có thể đoán
trước trời âm u hay trong sáng, họa –
phước của người khác. Ông ta quy y
với Liên Trì đại sư; đại sư nghe
chuyện liền gởi thư tận lực quở trách,
bảo ông ta đã lọt lưới ma. Về sau ông
ta không biết nữa!
Cần biết rằng: Người học đạo phải
biết lẽ lớn lao. Nếu không, sẽ do được
lợi ích nhỏ nhặt mà bị tổn hại to lớn.
Đừng nói những thứ cảnh giới ấy,
ngay như thật sự đắc Ngũ Thông cũng
chẳng bận tâm đến thì mới hòng đắc
Lậu Tận Thông! Nếu tham đắm, chắc
sẽ khó tấn tu, hoặc bị thoái đọa, chẳng
thể không biết [điều này]!
Hai câu kinh văn như ông đã nhớ
trong giấc mộng vào điện Phật cố
nhiên thuộc thiện cảnh. Hai câu ấy
ngụ ý thật rõ ràng: “Phản hư y giác lộ,
quy chân ngộ thường không” (Quay
lưng với sự hư huyễn, đi theo con
đường giác. Theo về với lẽ chân sẽ
ngộ lẽ thường không), nghĩa là con
người lầm tưởng các pháp thế gian là
thật, nên mê muội vào trong sanh tử.
Nếu có thể quán ngược lại, [hướng
theo] bản thể của các pháp vốn không
thì sẽ nương theo đường giác, thoát
mê nhập ngộ, quy Chân Đế, ngộ Chân
Không Thật Tướng chân thường.
Cảnh ma và cảnh thù thắng được
phân biệt ở chỗ nó có hợp với kinh
giáo hay không? Nếu là thánh cảnh,
cảnh ấy sẽ làm cho tâm địa của người
trông thấy liền được thanh tịnh, trọn
không có tâm vọng động, bộp chộp,
chấp trước. Nếu là cảnh ma thì hễ
trông thấy [cảnh ấy] tâm liền chẳng
thanh tịnh, liền sanh lòng chấp trước,
vọng động, bộp chộp v.v….
Hơn nữa, Phật quang tuy cực sáng
ngời, nhưng chẳng lóa mắt. Nếu ánh
sáng chói mắt tức là không phải
[quang minh của] đức Phật thật sự.
Khi Phật hiện mà dùng lý “phàm
những gì có tướng đều là hư vọng” để
khám nghiệm thì càng rõ rệt; nếu ma
hiện mà dùng lý ấy để khám nghiệm
nó sẽ ẩn mất. Cách khám ấy là lò
luyện lớn để nghiệm chân – ngụy vậy.
Tam Biên
Hơn nữa, người học đạo hễ
gặp những chuyện chẳng như ý chỉ
nên coi chúng như những cơ hội để
hướng đến đạo. Cảnh nghịch xảy tới
bèn thuận chịu, dẫu có gặp chuyện
nguy hiểm gì đi nữa thì trong lúc ấy
sẽ chẳng đến nỗi kinh hãi tới mức
hoảng loạn, quýnh quíu! Chuyện gì
đã qua thì lòng cũng chẳng bận tâm
tới nữa, coi như giấc mộng đêm qua;
há nên thường giữ mãi trong tâm đến
nỗi tạo thành căn bệnh ngực đập như
trống làng? Ông đã muốn tu hành hãy
nên biết hết thảy cảnh duyên đều do
túc nghiệp cảm thành. Lại càng phải
nên chí thành niệm Phật thì sẽ chuyển
được nghiệp. Chúng ta chẳng làm
chuyện nghịch trời tổn đức thì đâu có
sợ gì? Người niệm Phật được thiện
thần che chở, gia hộ, ác quỷ tránh xa,
còn sợ chi nữa?
Nếu ông thường sợ hãi, sẽ bị ma
“sợ hãi” dựa vào, ắt sẽ có oán gia từ
vô lượng kiếp thừa dịp lòng ông sợ
hãi kéo đến dọa dẫm khiến cho ông
mất trí điên cuồng để báo oán xưa.
Đừng nói: “Ta vẫn niệm Phật, đâu sợ
đến nỗi như thế!” Chẳng biết rằng:
Toàn thể chánh niệm của ông đã quy
vào lòng sợ hãi, khí phận đã cách
ngăn với Phật, đã thông với ma! Đâu
phải là Phật chẳng linh mà là do ông
đã đánh mất chánh niệm, đến nỗi
niệm Phật chẳng được lợi ích trọn vẹn.
Xin ông xem thư Quang, hãy thống
thiết sửa đổi tâm trước. Nếu túc
nghiệp hiện tiền, dẫu sợ hãi há có tiêu
diệt được chăng? Chỉ nên chẳng sợ,
hễ giữ được chánh niệm thì cư xử sẽ
thích đáng, thần thái chân thật đã yên
định thì tà quỷ chẳng thể xâm phạm
được! Nếu không, sẽ do tà chiêu tà,
kẻ oán trong đời trước đều kéo tới,
gặp chuyện không quyết định được,
hoàn toàn bó tay! Chẳng đáng buồn ư?
Đang trong tình thế nguy hiểm này,
hãy nên mở rộng tấm lòng, tầm mắt,
nỗ lực tu trì Tịnh nghiệp. Tất cả cát –
hung, họa – phước đều chẳng bận tâm
đến, cứ tùy duyên ứng biến. Dẫu cho
đại họa đối đầu, vẫn nghĩ tới những
người cùng mắc họa này chẳng biết
có mấy ngàn vạn ức. Trong lúc không
thể làm gì được, vẫn còn có A Di Đà
Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát để nương
tựa được, nào còn sợ hãi chi! Lấy
niệm Phật, niệm Quán Âm để làm căn
cứ không sợ hãi. Mở rộng tâm lượng,
đừng sợ hãi trước thì bệnh tự lành,
thân tự yên vui. Nếu chẳng biết nghĩa
này, chưa gặp cảnh nguy mà chính đã
tự hãm vào trong cảnh nguy ngập
trước, dẫu Phật, Bồ Tát cũng chẳng
thể cứu được đâu! Do vậy, quân tử
gặp cảnh hoạn nạn bèn hành xử theo
cảnh hoạn nạn, cho nên trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng được yên vui!
Tam Biên
Thư trả lời cư sĩ Lý Thiếu
Viên (thư thứ hai)
Nhận được thư và Tự Tri Lục, biết
tâm mộ đạo của cư sĩ và các vị hết
sức chân thật, thiết tha, tiếc là chưa
biết gương mẫu tu hành tốt đẹp, bèn
coi những lời nói nhăng nói càn, đơm
đặt bịa chuyện là quý báu nhất (chỉ
Tự Tri Lục) rồi muốn lưu thông
[những lời do kẻ khác bịa đặt], ngõ
hầu ai nấy đều đạt được cảnh ấy,
chẳng biết đấy chính là lời lẽ ma mị
đáng ghét bậc nhất, dẫn dắt người
khác lọt vào cảnh ma!
Đầu mùa Hạ năm ngoái, cư sĩ La
Tế Đồng ở Thượng Hải có được cuốn
sách ấy liền cho in thạch bản một
ngàn cuốn để biếu tặng người khác.
Cư sĩ Đinh Quế Tiều muốn lưu truyền
rộng rãi bèn bảo Tế Đồng gởi cho
Quang một gói; còn Quế Tiều tự viết
thư cho Quang, xin Quang đọc để “hễ
sách chẳng đến nỗi làm cho người
khác bị lầm lạc thì sẽ viết lời phê bình
tường tận”, còn cậy Quang viết lời
tựa để mong được lưu truyền rộng rãi.
Quang đọc xong, khôn ngăn kinh dị,
bèn để nguyên gói sách gởi trả lại cho
Quế Tiều, cực lực thuật rõ những cái
họa của cuốn sách ấy.
Bởi lẽ, [sách ấy sẽ] lôi kéo những
kẻ sơ tâm chẳng dụng công nơi nhất
tâm chí thành nghĩ nhớ, mà chỉ
thường muốn thấy cảnh giới tốt đẹp.
Nếu họ vừa thấy cuốn sách này sẽ
liền chẳng học theo bà Hồ chân thật
dụng công mà cứ chuyên muốn đạt
được cảnh giới tốt đẹp giống như bà
Hồ. Do cái tâm cuồng vọng, gấp rút,
thiết tha, thường khởi ý niệm như thế
ấy, ắt sẽ đến nỗi dẫn khởi oán gia
trong đời trước biến hiện những cảnh
kẻ ấy hâm mộ và khi vừa được thấy
cảnh ấy liền sanh lòng hoan hỷ lớn
lao, oán gia sẽ liền dựa vào thân. Kẻ
ấy liền mất trí điên cuồng, Phật cũng
chẳng thể làm sao [cứu giúp người ấy]
được! Quang cũng chẳng thể bảo “lời
bà Hồ kể toàn là bịa chuyện”, nhưng
cũng chẳng dám bảo là chân thật
không dối trá. Vì sao vậy? Nếu bà ta
thật sự đạt đến loại cảnh giới ấy, há lẽ
nào chẳng biết những lời lẽ ấy sẽ
khiến cho người khác bị lầm lẫn. Xin
hãy nói với ông La Tế Đồng, từ nay
đừng gởi tặng cho người khác nữa!
Những sách còn lại hãy nên giao cho
ngọn lửa để diệt mầm họa.
Chưa đầy một tháng sau, ông
Vương Mưu Phụng ở Hàng Châu lại
nhận được cuốn sách ấy, khôn ngăn
hoan hỷ, cũng cho in thạch bản một
ngàn cuốn. Có người bảo hãy gởi cho
Quang xin chứng minh, giám định.
Do vậy ông ta viết thư và gởi sách
đến, Quang liền lấy đại ý những lời
đã nói với ông Đinh Quế Tiều để
phúc đáp. Vương Mưu Phụng mới
ngưng in, đem thư Quang đăng trên tờ
Phật Học Châu San, sao các vị vẫn
chưa đọc? Mùa Thu năm ngoái tôi
sang đất Hỗ, hỏi Tế Đồng đã phân
phát hết hay chưa? [Ông ta] nói hãy
còn hai ba trăm cuốn, chẳng dám
phân phát, tính đốt đi. Quang khen
ngợi: “Ông thiêu đi sẽ có công đức vô
lượng vô biên!”
Mùa Hạ năm nay tôi đến đất Hỗ,
Tế Đồng từ kinh đô trở về, hỏi dò
thực chất của bà Hồ mới biết con
người ấy rất thông minh nhưng phiền
não rất nặng! [Bà ta] sống trong Cực
Lạc Am, hễ có chuyện nào hơi chẳng
vừa ý bèn chửi bới người khác. Về
sau bị bệnh thổ huyết, chẳng lâu sau
đã chết. Lúc chết chẳng biết có phải
là vì thổ huyết hay không? Cũng
chẳng biết cảnh tượng lúc mất ra sao?
Mà văn tự của bà ta cũng không được
lưu loát như thế đâu; đấy là do một cư
sĩ ở Tứ Xuyên soạn ra, Quang biết
người ấy, nhưng chẳng muốn nêu tên!
Đến tháng Sáu, có một cư sĩ người
Hồ Nam từng sống tại Cực Lạc Am,
kể [về bà Hồ] chẳng khác gì lời Tế
Đồng đã thuật! Đủ thấy bọn họ chỉ
muốn dối đời trộm danh, chẳng đoái
hoài đã dẫn dắt người khác vào cái
họa ma mị! Than ôi, đau đớn thay!
Chư vị muốn được lợi ích thật sự,
hãy nên dựa theo lời Phật, Bồ Tát, Tổ
Sư để tu, quyết sẽ được lợi ích chân
thật. Cổ đức dạy người, chỉ giảng cho
người khác cách dụng công, ai lại lôi
hết cảnh giới của chính mình đã thấy
để bảo ban người khác! Viễn công đại
sư là Sơ Tổ Liên Tông đến lúc lâm
chung thấy Phật mới nói với môn
nhân: “Ta đã thấy thánh tượng ba lần,
nay lại được thấy, ta vãng sanh đây!”
Nếu luận về thân phận của Viễn Công
thì cao hơn bà Hồ đâu phải chỉ như sự
cách biệt giữa trời với vực! Há phải
Ngài chỉ ba lần thấy thánh tượng,
chẳng có một tí cảnh giới tốt đẹp nào
khác ư? Nếu đạt đến lúc “tâm không,
cảnh tịch” thì còn có cảnh giới chi
nữa! Ấy gọi là “tâm và Phật tương
ứng, tâm lẫn Phật cùng mất, bốn
tướng chẳng còn, ba tâm há được?”
“Vô niệm mà thường niệm” chính là
niệm mà trọn chẳng có cái tâm để
niệm và [chẳng thấy có] đức Phật
được niệm. Nơi ấy nào có cảnh giới?
Nếu niệm đến mức như thế thì chẳng
ngại gì tịnh cảnh Tây Phương sẽ phô
bày trọn vẹn triệt để. Nhưng do “niệm
tịch, tình vong” nên lại càng được lợi
ích nơi đấy, quyết chẳng đến nỗi sanh
lòng hoan hỷ lớn lao, hiểu lầm tin tức
đến nỗi ma dựa phát cuồng.
Nếu lúc chưa đạt đến nhất tâm mà
trong tâm cứ niệm niệm mong tưởng
cảnh giới thì khi cảnh giới ấy hiện,
chắc chắn sẽ gặp họa. Kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Chẳng nghĩ là thánh
cảnh thì gọi là cảnh giới tốt lành; nếu
coi là thánh cảnh thì sẽ lạc vào các
loài tà”. Đấy tuy vẫn chưa phải là
cảnh ma được cảm vời bởi cái tâm
bộp chộp, vọng động, nhưng hễ sanh
lòng hoan hỷ cho là “đã chứng thánh
quả” thì sẽ trở thành gã ma con!
Huống chi ngay từ lúc ban đầu tâm đã
như vậy, tâm ma chiêu cảm cảnh ma,
cứ tưởng là cảnh thánh ư? Xin hãy
đọc kỹ Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục thì sẽ có cái để noi
theo, không cách chi bị ma dựa được!
CHẤP LÝ PHẾ SỰ
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên)
Tam Biên
Lý tức là Lý Tánh, tức là
Phật Tánh mà Phật và chúng sanh đều
sẵn có. Tánh ấy có đủ hết thảy công
đức. Sự chính là tu trì và đoạn Hoặc
chứng Chân v.v… Do trong tự tánh
{ … } chú thích
sẵn đủ những công đức ấy nên tu đến
mức cùng cực sẽ xứng tánh hiển hiện.
Do vậy, gọi là “lý sự viên dung”. Nếu
chỉ biết bản tánh sẵn đủ, chẳng tu trì
thêm thì đến tột cùng đời vị lai cũng
chẳng thể đích thân chứng được lý
“tánh sẵn đủ” ấy. Đó gọi là “chấp Lý
phế Sự, Lý cũng chẳng viên”. Vì thế,
người tu hành hễ đã ngộ được lý
“tánh sẵn đủ”, ắt phải thiết thực tu trì.
Phương pháp tu trì chỉ có trì danh
niệm Phật thật là bậc nhất. Vì thế, hãy
nên chuyên chú nơi tín nguyện trì
danh. Lại còn lấy “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành” làm Trợ
Hạnh, lợi ích sẽ lớn lao.
Tam Biên
Pháp môn Tịnh Độ chính là
pháp môn đặc biệt trong Phật pháp.
Những kẻ ham cao chuộng xa thường
lầm lạc chuyên chú cầu khai ngộ
trong nhà Thiền, nghĩ rằng “duy tâm
Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, chẳng coi
Tây Phương Cực Lạc thế giới là đúng.
Thứ ý chỉ ấy tưởng như sâu xa, huyền
áo, nhưng thật ra quá nửa đều biến
thành thói hèn kém “kể chuyện ăn,
đếm của báu”, chớ nên bắt chước thói
ác ấy. Hãy nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối mà niệm sẽ tự có thể
quyết định vãng sanh Tây Phương.
Những kẻ chỉ trọng lý tánh chẳng chú
trọng sự tu chính là phường biến khéo
thành vụng, cầu thăng lên đâm ra đọa
xuống. Nếu nhiễm phải thói ấy thì
liễu sanh tử chắc phải đợi đến năm
nảo năm nao!
Tam Biên Tuy đọc kinh điển Đại Thừa,
vẫn phải lấy Niệm Phật làm chánh
hạnh. Nếu một dạ nghiên cứu ý nghĩa
của kinh, vứt niệm Phật ra sau ót thì
có thể trở thành gần giống như một
bậc đại thông gia, chứ siêu phàm
nhập thánh ngay trong đời này e rằng
sẽ nhường cho ngu phu ngu phụ, còn
chính mình trọn chẳng có phần đâu!
Cần biết rằng: Pháp môn Niệm Phật
là pháp môn đặc biệt trong Giáo; trừ
pháp này ra, đừng nói phàm phu
chẳng thể liễu [sanh tử] ngay trong
đời này, ngay cả bậc thánh nhân đã
chứng Sơ Quả, Nhị Quả cũng chẳng
thể liễu trong đời này được! Tâm
đừng chuộng cao, cho rằng “hiểu rõ ý
nghĩa kinh Phật sẽ được đại lợi ích”.
Nếu nghĩ như vậy, sẽ chẳng khác gì
kẻ giữ sổ sách nơi tiệm buôn! Tuy nói
có mấy ngàn, mấy vạn, mấy chục vạn
qua tay ta lo liệu, nhưng rốt cuộc đâu
phải của chính mình, tới khi xong
chuyện, chính mình chỉ được chút
phần tiền lương mà thôi!
Tam Biên
Học thuyết gây lầm lạc cho
người thì thoạt đầu chỉ ít ỏi, nhưng
kết quả về sau không cách gì thâu
thập được nữa. Tống Nho ăn trộm đạo
lý Lý Tánh trong Phật giáo, nhưng
chẳng biết Lý Tánh lấy Sự Tu làm
căn cứ để thành tựu từ lúc ban đầu
cho đến lúc cuối cùng. Vì thế, họ bài
bác “không nhân quả, báo ứng và
sanh tử, luân hồi”, đến nỗi trở thành
tình thế diệt tuyệt luân lý ngày nay.
Ông hiểu biết Phật học kha khá,
nhưng đối với sơ cơ mà trước hết
chẳng coi trọng Sự Tu, lại dùng Đệ
Nhất Nghĩa Đế để giáo huấn thì cũng
là sai lầm không chi sánh ví được!
[Chủ nhân trong quá khứ của núi]
Bách Trượng trả lời sai một câu
“chẳng rớt vào nhân quả”, nếu xét
theo Thật Lý thì cũng chẳng phải là
sai lầm, nhưng do dạy người khác
không phù hợp căn cơ khiến cho
người ấy hiểu lầm, bèn đọa làm thân
chồn hoang năm trăm đời! Vì thế cổ
nhân nói: “Ninh khả trước hữu như
Tu Di, bất khả trước không như giới
tử” (Thà chấp Có như núi Tu Di,
chẳng thể chấp Không chừng bằng
hạt cải). “Thượng Đế thường hiện
diện quanh ngươi, không đối xử sai
khác với ai, kẻ bầy tôi thân cận của
vua là người hiểu rõ lòng vua” v.v…
Hãy nên cực lực nói với họ về lý sự
tướng tột cùng, khiến cho bọn họ đều
cung kính nghiêm túc, kính sợ,
thường khăng khăng giữ lòng Thành
chẳng dám trái vượt. Nếu ông chẳng
nêu tỏ ngay lý sâu Đệ Nhất Nghĩa Đế,
nhất quyết họ cũng sẽ chẳng đến nỗi
trái nghịch, lầm lạc. Nếu hoàn toàn
chẳng dựa theo mặt Sự để nói, chuyên
nói theo Đệ Nhất Nghĩa Đế sẽ khiến
cho kẻ thượng căn tuy ngộ lý sâu
nhưng chẳng chú trọng thật tu, kẻ hạ
căn trở thành lũ ngông cuồng, buông
lung, không kiêng dè, chẳng đáng
buồn ư? Ông muốn lợi người, chẳng
những chớ nên học theo cung cách
của Tống Nho, ngay cả kiểu cách của
tiên sinh Phụng Trì cũng chớ nên học
theo vì ông ta chú trọng Lý Tánh,
chẳng chú trọng Sự Tu. Hãy nên theo
gót tiên sinh Châu An Sĩ thì lợi ích
cũng lớn lắm.
Người đời nay thường bị bệnh chấp
Lý phế Sự làm hại, ông lại noi theo
đó để hướng dẫn thì họa hại há có
cùng cực; nếu chẳng cho lời Quang
nói là sai thì đấy chính là chỗ hết sức
hơn người của ông vậy! Rất nhiều kẻ
biết rõ mình sai lầm vẫn cực lực biện
hộ, nào phải chỉ một hai ba bốn năm
sáu bảy tám kẻ mà thôi! Cái học của
Dương Tử đúng là cái học chẳng
đáng để nhắc tới {Dương Tử (chỉ biết
tên là Dương Châu) là một người chủ
trương thuyết Vị Ngã cực đoan.
Trong thiên Tận Tâm của sách Mạnh
Tử, Mạnh Tử đã phê phán như sau:
“Dương Tử thủ vị ngã , bạt nhất mao
nhi lợi thiên hạ, bất vi dã . Mặc Tử
kiêm ái, ma đảnh phóng chủng nhi lợi
thiên hạ, vi chi. Tử mạc chấp trung,
chấp trung vi cận chi, chấp trung vô
quyền, do chấp nhất dã” (Dương Tử
chấp vào ích kỷ, dù nhổ một sợi lông
để làm lợi cho thiên hạ cũng không
làm. Mặc Tử yêu thương trọn khắp,
sói đầu mòn gót mà có lợi cho thiên
hạ vẫn làm. Ông đừng chấp vào đó, vì
chấp nhất vào một bên chính là nông
cạn. Chấp nhất vào một bên sẽ không
thể quyền biến được, vì vẫn còn chấp
nhất). Tức là Mạnh Tử đề xướng
đường lối Trung Dung, không ích kỷ
thái quá mà cũng không hy sinh thái
quá, quên mất bản thân, gia đình,
thân quyến}. Trong thuở ấy, Mạnh Tử
vẫn bàn đến, tuy là chê trách ông ta,
nhưng cũng vì đó mà tiếng tăm, giá trị
của ông ta được nâng cao. Nếu Mạnh
Tử chẳng thèm nhắc tới, người đời
sau ai biết có gã Dương Tử ấy? Dạy
người, trước hết phải biết căn cơ của
người đến học. Nếu không, phải chú
trọng nơi Sự Tu, ắt sẽ là pháp tắc ổn
thỏa nhất. [Học thuyết của] Dương
Tử cũng chẳng thể coi là triết học.
Khéo dùng triết học thì còn có ích cho
đời, chứ cái học của Dương Tử tợ hồ
phó mặc cho [bẩm tánh] tự nhiên, quả
thật là kẻ giặc gây hại cho đạo làm
người. Bởi lẽ ai nấy đều chẳng làm gì
cả thì nước còn không có cách nào để
uống, huống là mặc áo, ăn cơm ư?
Người trong cõi đời không gì chẳng
cậy vào sức của người khác thì mới
sống sót được. Trên từ hoàng đế, dưới
đến kẻ ăn mày, không ai đều chẳng
như vậy. Hắn ta dù nhổ một sợi lông
để làm lợi cho thiên hạ cũng chẳng
chịu làm, chẳng biết hắn mặc áo, ăn
cơm hoàn toàn đều phải nhờ vào sức
của người khác mà được thành tựu.
Hắn ta đã không làm lợi cho người
khác chừng một sợi lông, lẽ ra cũng
không nên nhận mối lợi chừng bằng
sợi lông của người khác [ban cho
mình]. Thứ tà thuyết ấy còn có người
xem là một trường phái học thuyết,
đúng là coi con giòi trong hầm xí và
thần long giống hệt như nhau!
Tam Biên Nên biết rằng “dẫu thấy Lý
ngang với chư Phật thì tu trì vẫn phải
noi theo sự tướng phổ biến” ngõ hầu
chẳng đến nỗi chấp Lý phế Sự, rớt
vào hầm sâu “bác không nhân quả”
không đáy, mênh mông như hư không.
Tam Biên
Người học Phật trước hết
phải biết thực hiện cẩn thận, dè dặt
nơi nhân quả. Đã có thể thận trọng, dè
dặt thì tà niệm tự trong lặng, đâu đến
nỗi có những chuyện chẳng đúng
pháp! Nếu có, hãy nên dốc sức đoạn
diệt thì mới là chân thật tu hành. Nếu
không, học một đằng, hành một nẻo,
tri kiến càng cao, hành vi càng tệ.
Đấy chính là vết thương thấu xương
của những kẻ học Phật tự xưng là
thông gia hiện thời! Nếu chẳng vướng
vào hai khuyết điểm ấy thì học một
phần sẽ được một phần lợi ích thật sự.
Tam Biên
Niệm Phật nếu chẳng hôn
trầm sẽ tán loạn, đấy chính là hiện
tượng chứng tỏ cái tâm [niệm Phật]
hời hợt, hờ hững cho xong việc! Nếu
niệm Phật với cái tâm như bị té vào
lửa nước, như đang gặp phải giặc
cướp mong gấp được cứu giúp thì sẽ
tự chẳng có căn bệnh ấy. Hãy nên sắp
xếp thời gian, lúc nào sẽ nghiên cứu,
lúc nào sẽ trì tụng. Khi nghiên cứu thì
chẳng được vượt quá thời gian hạn
định; vì nếu không, sẽ cảm thấy
nghiên cứu thú vị, sẽ trở thành nghiên
cứu suốt ngày, chẳng những gây trở
ngại cho niệm Phật, mà còn sợ rằng
do dụng tâm quá độ sẽ bị thương tổn.
Đấy gọi là: “Ngược ngạo ghét dễ
dàng, đơn giản, tìm cầu khó khăn,
khéo quá hóa vụng”, thật đáng xót
thương! Trong hiện thời, lòng người
bại hoại đến cùng cực, đi lại bên
ngoài dẫu không mắc họa cũng rất
nguy hiểm. Nếu ông biết được ý này
thì tâm niệm Phật sẽ tự thiết tha, tâm
nghiên cứu giáo nghĩa sẽ tự nhạt bớt!
Vì sao vậy? Vì trong khi hoạn nạn,
chẳng thể nào gởi lòng nơi phương
diện tri kiến, hiểu nghĩa được!
Tam Biên
Người đời nay hễ hiểu kinh
giáo đôi chút bèn chú trọng nơi
nghiên cứu, hễ hơi hiểu Thiền ý bèn
chú trọng nơi tham cứu. Nguyên nhân
nói chung là do họ không biết chính
mình là nghiệp lực phàm phu chẳng
thể tự chứng giải thoát được! Cái cực
thâm diệu nằm ở chỗ cực bình thường!
Ví như một câu Phật hiệu vốn cực
bình thường, nhưng niệm tới cùng tột
thì trăm ngàn pháp môn, vô lượng
diệu nghĩa đều có thể hiểu được! Lại
như gốc cây, vốn cực bình thường,
nhưng sanh rễ, nẩy mộng, đâm cành,
trổ nhánh, nẩy lá, đơm hoa, kết quả,
thật mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn!
Vì thế, kẻ biết nhìn vào, biết thực
hiện cái bình thường thì chính mình
mới thật sự có sở đắc. Nếu chỉ biết
thâm diệu thì phần nhiều khó thể tận
tụy thực hiện được, trở thành kẻ chỉ
biết nói những lời lẽ thâm diệu mà
thôi!
Chánh Biên Phải biết người đã ngộ rồi
và người chưa ngộ tu trì vẫn giống
nhau, nhưng tâm niệm lại khác.
Người chưa ngộ Vô Sanh thì cảnh
chưa xảy đến bèn săn đón, cảnh hiện
tiền bèn nắm níu, cảnh qua rồi bèn
nghĩ nhớ (Hai chữ “phan lãm”攀攬
(tạm dịch là “nắm níu”) chỉ chung
những ý niệm yêu ghét, ưa nhàm,
đừng nói là yêu mến mới là nắm níu,
còn ghét nhàm không phải là nắm
níu). Người ngộ Vô Sanh thì cảnh tuy
sanh diệt nhưng tâm không sanh diệt,
giống như gương sáng, đến không
dính, đi không lưu dấu. Tâm đối cảnh
như gương hiện hình, trọn chẳng có
mảy may tư tưởng chấp trước đam
luyến (đam mê, tham luyến). Tuy là
đối cảnh vô tâm, nhưng sóng trào
biển Hạnh, mây phủ cửa Từ, phàm
mọi cương thường luân lý thế gian và
những chuyện thượng hoằng hạ hóa
mỗi mỗi đều nỗ lực thực hành. Dẫu
mất thân mạng, cũng chẳng trái vượt.
Lại đừng tưởng “đối cảnh vô tâm” là
đối với những chuyện tu trì tự lợi, lợi
tha, thượng hoằng hạ hóa đều bỏ sạch;
nếu hiểu vậy là dính sâu vào Không
Ma, đọa vào Ngoan Không. Do vậy,
bác không nhân quả, mặc tình làm
điều tối tăm, trở thành đem phàm lạm
thánh, hoại loạn Phật pháp, gây nghi
ngờ, lầm lạc, là chủng tử A Tỳ địa
ngục. Chuyện này quan hệ rất sâu, do
vậy Quang chẳng thể không trình bày
đại lược sự lợi – hại vậy!
HỌC THEO HẠNH
NGU PHU NGU PHỤ
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên) Tam Biên
Một pháp Niệm Phật chỉ
những ai chết được cái tri kiến cuồng
vọng mới có thể được lợi ích. Dẫu
cho cái trí ngang bằng thánh nhân
cũng mặc kệ, cứ lấy một câu Phật
hiệu này làm bổn mạng nguyên thần,
thề cầu vãng sanh. Dẫu đem cái chết
bức bách, ép thay đổi đường lối cũng
chẳng thể [thay đổi chí hướng]! Như
thế mới được coi là người thông minh,
mới có thể đạt được lợi ích thật sự.
Nếu không, do lắm tri nhiều kiến,
[tâm] chẳng thể đoạn nghi, đâm ra
chẳng bằng kẻ chất phác niệm Phật
chẳng có chút hiểu biết nào lại dễ
được lợi ích hơn!
Tam Biên
Đấy chính là như cổ nhân đã
bảo: “Ngu phu, ngu phụ cắm đầu
hùng hục niệm Phật, liền có thể ngầm
thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo”
vậy!
Tam Biên
Người tu Tịnh nghiệp chớ
nên dính vào chút điểm xảo thuật nào.
Nếu vẫn thích những chuyện kỳ lạ,
không ưa chuyện bình thường, ắt sẽ
biến khéo thành vụng. Do điều này,
người thông Tông thông Giáo thường
chẳng bằng ngu phu ngu phụ thật thà
niệm Phật lại được ích lợi thật sự.
Nếu chịu giữ nề nếp bình thường,
đạm bạc, chất phác, thật thà thì sanh
về Cực Lạc sẽ là điều có thể dự đoán
chắc chắn được! Nếu không, chẳng
sanh về Cực Lạc cũng là điều có thể
đoán chắc được! Xin hãy thiết thực
khuyên xã hữu tin tưởng như thế,
hành như thế thì lợi ích lớn lao thay!
Tam Biên
Người niệm Phật cũng đừng
ỷ mình thông minh, trí huệ, mà cần
phải vứt bỏ [những điều ấy] ra tận
ngoài biển Ð ông. Nếu không, e rằng
sẽ bị chúng gây lầm lạc, tự chuốc
buồn khổ. Bởi lẽ, do thấy biết nhiều
nhưng không chuyên nhất, đâm ra
chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ
niệm Phật, chánh tâm, thành ý được
hưởng ích lợi rất nhiều. Vì thế, một
pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học
theo ngu phu, ngu phụ, [lấy việc] thật
thà tu trì làm chánh yếu. Tục ngữ có
câu: “Thông minh phản bị thông minh
ngộ” (Thông minh đâm ra lại bị lầm
lạc vì thông minh), chẳng đáng sợ sao?
Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần,
một đệ tử quy y của tôi ở huyện Bảo
Sơn, tỉnh Vân Nam, ăn chay trường
niệm Phật nhiều năm. Người con
trưởng tên Huệ Hồng đã chết vào năm
trước. Bà mẹ do thương con quá nên
uống thuốc độc, trọn không có tướng
trạng khổ sở, ngồi ngay ngắn niệm
Phật qua đời. Hơn nữa, chết rồi sắc
mặt sáng nhuận, kinh động cả một
phương. Ông Bá Thuần là bậc lão nho
đề xướng [niệm Phật], người tin theo
rất ít, nhưng do cái chết của vợ con
ông, mười người đã hết tám, chín
người tin theo. Phàm ngồi ngay ngắn
niệm Phật qua đời, dẫu không bịnh
mà thác cũng đã khó có; huống chi
uống thuốc độc chết mà còn hiện
được tướng đó, nếu chẳng phải là đã
đắc Tam Muội nên chất độc chẳng thể
làm hại được thì làm sao hiện được
tướng như vậy?
Ông Dương Kiệt đời Tống, tự là
Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học
với thiền sư Thiên Y [Nghĩa] Hoài,
đại ngộ. Sau do cư tang mẹ, đọc Ð ại
Tạng, hiểu sâu xa sự thù thắng của
pháp môn Tịnh Ð ộ nên tận lực tự
hành, dạy người hành. Lâm chung nói
kệ rằng:
Sanh diệc vô khả luyến
Tử diệc vô khả xả,
Thái hư không trung chi hồ giả dã ,
Tương thác tựu thác: Tây Phương
Cực Lạc.
(Sanh thì cũng chẳng tiếc gì,
Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào,
Hư không hư huyễn sá chi,
Ð em lầm đáp lẫn để về Tây
Phương)
Ông Dương Kiệt sau khi đại ngộ,
quy tâm Tịnh Ð ộ, cực lực đề xướng;
đến lúc lâm chung nói: Trong chân
tánh thì sanh tử như hoa đốm trong hư
không, nhưng do chưa chứng được
chân tánh thì chẳng thể không chú
trọng cầu vãng sanh Tây Phương.
“Ðem lầm đáp lẫn” nghĩa là nếu đã
triệt chứng chân tánh thì chẳng cần
phải cầu sanh Tây Phương nữa vì cầu
được vãng sanh vẫn còn là lầm lạc!
Chưa chứng ngộ chân tánh thì phải
nên cầu vãng sanh Tây Phương, cho
nên mới nói: “Ðem lầm đáp lẫn để về
Tây Phương”. Trong tác phẩm Vãng
Sanh Tập, cuối truyện ông Dương
Kiệt, Liên Trì Ð ại Sư đã viết bài tán
như sau: “Tôi mong những kẻ thông
minh tài trí trong thiên hạ đều có thể
thành tựu loại lầm lạc này. Ð ấy có thể
bảo là thực sự đại thông minh mà
chẳng bị thông minh làm lầm lạc vậy”.
Như ông Tô Ðông Pha đời Tống,
tuy là hậu thân của thiền sư Ngũ Tổ
Giới, luôn mang một bức tranh A Di
Ð à Phật theo bên mình, bảo: “Ðây là
công cứ Tây Phương của cả đời ta”.
Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão
Duy Lâm ở Kính Sơn khuyên nhủ
đừng quên Tây Phương, Ðông Pha
nói: “Dù Tây Phương chẳng phải là
không có, nhưng chẳng thể dốc sức
vào đấy được!” Môn nhân là Tiền
Thế Hùng thưa: “Ðấy chính là chỗ
tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc
sức”. Ðông Pha đáp: “Hễ dốc sức vào
thì là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ð ấy
chính là bằng chứng hùng hồn của
chuyện tự lầm lạc bởi thông minh vậy.
Mong quý vị ai nấy đều chú ý.
Pháp môn Tịnh Ð ộ khế lý, khế cơ,
dùng sức ít mà thành công dễ dàng,
như đã căng buồm thuận gió lại còn
thuận nước vì nhờ vào Phật lực. Các
tông khác dùng sức nhiều mà thành
công khó khăn giống như con kiến bò
lên núi cao vì hoàn toàn cậy vào tự
lực. Ð ẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên
mãn Phật Quả còn phải cầu vãng sanh
Tây Phương, huống hồ là bọn phàm
phu chúng ta nghiệp căn sâu nặng,
sao chẳng dốc sức vào pháp này? Ð ấy
là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc cùng cực
thay!
Chánh Biên
Con người xử thế, nhất
nhất nên án theo bổn phận, chẳng
được lầm lạc lo lắng vượt ngoài bổn
phận. Đấy là như câu nói: “Quân tử
chẳng nghĩ ra ngoài địa vị”. Lại nói:
“Quân tử chỉ thuận theo địa vị mà
hành”. Tuy ông đã hơi sanh tín tâm
đối với pháp môn Tịnh Độ, nhưng
vẫn còn có ý niệm ham cao chuộng lạ
chưa buông xuống được, chưa chịu tu
tập như hàng ngu phu, ngu phụ. Phải
biết liễu sanh tử đối với ngu phu, ngu
phụ thì dễ, bởi tâm họ chẳng có dị
kiến; còn nếu là bậc thông Tông,
thông Giáo mà khắp thân buông
xuống được, thực hành công phu của
kẻ ngu phu, ngu phụ thì cũng dễ. Nếu
không, bậc cao nhân thông Tông,
thông Giáo lại chẳng bằng kẻ ngu phu,
ngu phụ đới nghiệp vãng sanh! Pháp
môn Tịnh Độ lấy vãng sanh làm
chánh yếu, tùy duyên, tùy phận,
chuyên tinh chí hướng; chắc chắn
Phật chẳng dối người! Nếu không,
cầu thăng hóa ra bị đọa, đấy chính là
tự mình tạo lỗi, nào phải lỗi Phật đâu!
PHƯƠNG PHÁP NIỆM PHẬT
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên)
Tam Biên Niệm Phật lấy chí thành làm
chủ. Nếu chí thành sẽ chẳng bị tán
loạn cho lắm; hãy nên dùng phương
pháp vừa niệm vừa nghe. Lần chuỗi
chẳng qua để ngừa giải đãi, nếu lần
chuỗi gây trở ngại thì chẳng cần phải
lần. Vừa niệm vừa nghe so ra tốt hơn
niệm theo hơi thở. Hãy nên nói là Tùy
Tức (niệm theo hơi thở), chớ nên gọi
là Sổ Tức (đếm hơi thở). Cách vừa
niệm vừa nghe trong Văn Sao của
Quang sợ ông chẳng khéo dùng được,
vậy thì chỉ niệm cho rõ ràng, rành
mạch, nghe cho rõ ràng, rành mạch là
được rồi! Chỉ y theo lời tôi, quyết
chẳng bị lầm lẫn. Nếu y theo ngu kiến
của chính mình, tôi sẽ tuyệt giao,
chẳng cần phải gọi Quang là thầy nữa!
Tam Biên Pháp Thập Niệm Ký Số
được viết trong “Thư trả lời cư sĩ Cao
Thiệu Lân” (thư thứ tư) trong Ấn
Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh
Biên, quyển một: “Trong lúc niệm
Phật, từ một câu đến mười câu phải
niệm cho phân minh, lại phải nhớ
phân minh, đến mười câu là thôi. Lại
phải niệm từ một câu đến mười câu,
chẳng được niệm hai mươi, ba mươi.
Niệm đâu nhớ đấy, không được lần
chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu
nhớ thẳng vào mười câu thấy khó thì
chia thành hai hơi, tức là từ câu thứ
nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ
sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn thấy
mệt, nên từ câu một đến câu ba, từ
câu bốn đến câu sáu, từ câu bảy đến
câu mười, chia làm ba hơi để niệm.
Niệm cho rõ ràng, nhớ cho rõ ràng,
nghe cho rõ ràng, vọng niệm không
chỗ chen chân, nhất tâm bất loạn,
niệm lâu ngày sẽ tự được”.
Tam Biên
Lúc niệm trong tâm phải
niệm cho rõ ràng, miệng niệm cho rõ
ràng, tai nghe cho rõ ràng. Dẫu chẳng
mở miệng, niệm thầm trong tâm thì
vẫn phải từng câu từng chữ nghe cho
thật rõ ràng, vì tâm vừa khởi niệm
liền có tướng của tiếng! Tai chính
mình nghe tiếng trong tâm của chính
mình vẫn rành rẽ, rõ ràng. Nếu
thường nghe được rõ ràng thì tâm sẽ
quy về một chỗ, tinh thần chẳng rong
ruổi bên ngoài. Vì thế, mắt cũng
chẳng nhìn chi khác, mũi không ngửi
gì khác, thân cũng chẳng buông lung,
cho nên gọi là “nhiếp trọn sáu căn”.
Niệm Phật như thế gọi là “tịnh niệm”.
Do nhiếp tâm nơi Phật hiệu thì tuy
chưa thể hoàn toàn không có tạp niệm,
nhưng đã giảm nhẹ nhiều lắm! Nếu có
thể thường xuyên giữ cho liên tục thì
ở mức độ nông cạn là đắc nhất tâm
bất loạn, mức độ sâu là đắc Niệm
Phật tam-muội. Đây chính là ý nghĩa
trọng yếu để lúc thường ngày gắng
chuyên tâm dốc chí.
Tam Biên
Niệm ra tiếng hay niệm
thầm đôi đằng đều có ích; nhưng
niệm rõ tiếng chẳng thể niệm lâu
được, hãy nên phần nhiều chủ yếu là
niệm thầm thì chẳng đến nỗi bị tổn
thương thành bệnh.
Tam Biên Ví như đứa trẻ nhớ mẹ,
trong suốt một ngày, không lúc nào
chẳng nghĩ nhớ đến mẹ. Dẫu khi ngủ
nghỉ, tắm rửa, tiêu tiểu, há để cho
trong tâm hoàn toàn quên mất chuyện
niệm Phật! Đã nhớ được vô ngại thì
niệm thầm trong tâm cũng vô ngại.
Tam Biên
Chuyện niệm Phật đi – đứng
– nằm – ngồi đều niệm được. Nếu gặp
chuyện phải dùng tâm để làm thì
chẳng tiện niệm. Còn việc không
dùng đến trí óc thì một mặt làm việc,
một mực niệm Phật, hai đằng chẳng
trở ngại nhau. Lẽ đâu chăm sóc con
cái chẳng thể niệm Phật được ư? Chỉ
có niệm Phật một lúc lâu trước [bàn
thờ] Phật là bất tiện mà thôi! Chỉ cần
giữ sao cho trong tâm niệm [Phật] lâu
dài, chẳng cần phải nhất định niệm
trước [bàn thờ] Phật. Sáng – tối hãy
nên lễ Phật, niệm theo cách Thập
Niệm. Ngoài ra, tùy phần tùy sức đều
có thể niệm được! Cũng nên dạy trẻ
nhỏ thường niệm, bởi lẽ trẻ nhỏ
không có chuyện gì, chơi giỡn suốt
ngày. Nếu dạy nó niệm Phật, sẽ tiêu
trừ được ác nghiệp, tăng trưởng thiện
căn mà không hay không biết. Đấy là
chuyện hữu ích nhất cho thân tâm,
tánh mạng.
Tam Biên
Điều quan trọng trong Niệm
Phật là nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối. Muốn nhiếp trọn sáu căn, chỉ
lắng nghe tiếng niệm Phật của chính
mình trong một thời gian dài thì sẽ tự
đạt được.
Tam Biên
Cách niệm Phật thì không gì
trọng yếu hơn là Nghe. Nghe thì tâm
sẽ lặng vào một chỗ, đấy gọi là
“nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối”.
Tam Biên
Niệm Phật nhằm đối trị
phiền não, tập khí. Phiền não tập khí
giảm được một phần thì công phu
niệm Phật tiến được một phần. Trong
khi ấy (tức trong khi niệm Phật) hãy
thường tự niệm tự nghe. [Bí quyết]
“nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”
của Đại Thế Chí Bồ Tát chính là pháp
chú trọng nơi Nghe.
Tam Biên
Nói đến chuyện niệm Phật
có lắm vọng tưởng thì hãy nên nhất
tâm niệm, lắng tai nghe kỹ từng chữ
từng câu, đừng để luống qua, lâu ngày
chầy tháng, tâm tự quy nhất. Đấy là
pháp niệm Phật tuyệt diệu nhất.
Chương Đại Thế Chí [Niệm Phật]
Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm
dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối, đắc Tam-ma-địa, ấy là bậc
nhất”. “Nghe” chính là pháp “nhiếp
trọn sáu căn”. Pháp này bất luận
người thượng trung hạ căn sử dụng
đều có lợi, không có điều tệ. Phàm
với hết thảy mọi người đều nên lấy
chuyện “lắng nghe” để bảo ban. Tam-
ma-địa (Samadhi) chính là tên khác
của tam-muội, cõi này (Trung Hoa)
dịch là Chánh Định hay Chánh Thọ; ý
nói nhất tâm niệm Phật, chẳng bị
ngoại cảnh lay động, chẳng bị tạp
niệm xâm lấn. Vì thế, gọi là Chánh
Định, Chánh Thọ.
Tam Biên
Người bận bịu chắc chắn
phải dùng đến cách Thập Niệm vào
buổi sáng, nhưng ngay cả người nhàn
tản có thể tụng niệm công khóa, cũng
vẫn có thể dùng phép Thập Niệm vào
buổi sáng được, chứ không phải là đã
tụng công khóa thì không được dùng!
Cổ nhân có nhiều vị suốt đời dùng
phép Thập Niệm buổi sáng rồi mới
tụng khóa lễ chánh, nào có trở ngại
chi!
Tam Biên
Niệm Phật nên niệm sáu
chữ, niệm bốn chữ cũng được. Như
lúc đầu thì niệm sáu chữ, niệm đến
nửa chừng hoặc lúc sắp ngưng bèn
niệm bốn chữ. Nếu từ đầu đến cuối
chẳng niệm Nam Mô sẽ thành ngạo
mạn, coi thường! Trong kinh, phàm
chỗ nào xưng danh hiệu Phật, không
đâu chẳng đều có chữ Nam Mô, há
nên tự lập chương trình?
Tam Biên
Nếu niệm Phật có vọng
tưởng thì nên vận tâm lắng nghe.
Từng câu, từng chữ đều phải nghe
cho rõ ràng, bất luận niệm lớn tiếng
hay nhỏ tiếng hoặc niệm thầm trong
tâm đều phải nghe cho rõ ràng. Lâu
ngày chầy tháng, tâm tự quy nhất.
Chương Đại Thế Chí Viên Thông
trong kinh Lăng Nghiêm có câu:
“Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối, đắc Tam Ma Địa, ấy là bậc nhất”,
đấy chính là pháp lắng tai nghe kỹ
vậy. Hãy nên y theo đó mà niệm sẽ
chẳng đến nỗi vọng tưởng tơi bời y
như cũ!
Tam Biên
Lúc vọng tưởng dấy lên chỉ
mặc kệ nó thì sẽ chẳng đến nỗi “trên
vọng lại sanh thêm vọng”. Ví như đứa
nhỏ làm mình làm mẩy, nếu người
lớn không ngó ngàng tới, nó chẳng
cậy vào đâu [để tiếp tục giở chứng]
được. Nếu dùng biện pháp cứng rắn
để trấn áp, nó cũng dùng cách cứng
rắn để đối phó. Nếu dùng biện pháp
mềm mỏng để vỗ về nó, ắt nó sẽ
tưởng người lớn sợ nó, lại càng quyết
liệt hơn. Cả hai đằng đều tổn nhiều
ích ít, chỉ bỏ mặc [vờ như] không
thấy, không nghe. Nó đã không có đà
làm tới chỉ đành tần ngần bỏ đi.
Tam Biên
Lời dạy của Giang Công
Vọng chính là nói về pháp Phản Văn
(xoay tánh Nghe lại để nghe nơi tự
tánh). Khéo áp dụng sẽ có ích; không
khéo áp dụng sẽ trở thành một môn
chuyên cậy vào tự lực trong nhà
Thiền. Phàm là người tu hành hãy nên
giữ chánh niệm. Ngoại trừ Phật hiệu
ra, tất cả các niệm đều chẳng để nẩy
sanh, đó gọi là “nhất tâm”. Vì thế
kinh Kim Cang dạy: “Phàm những gì
có tướng đều là hư vọng”.
Ông chỉ nhất tâm niệm Phật mà
thôi, há nên lầm lạc muốn vói cao
pháp Nhĩ Căn Viên Thông của [Quán
Thế Âm] Đại Sĩ. Ông phải biết: Pháp
Phản Văn của Đại Sĩ hoàn toàn chẳng
phải là nghe âm thanh mà là nghe nơi
tánh Nghe! Vì thế nói: “Phản văn, văn
tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”
(Xoay cái Nghe để nghe nơi tự tánh,
tánh thành vô thượng đạo). Có âm
thanh hay không đều nghe được cả.
Nếu theo như ông nói thì ắt phải có
âm thanh mới nghe được! Chúng ta
niệm Phật, [lắng] nghe theo âm thanh
niệm Phật ấy, cũng là mang hơi
hướng Phản Văn, đừng tự giữ lấy
pháp Viên Thông mà hãy chuyên nhất
lấy vãng sanh làm điều mong mỏi của
chính mình thì sẽ có ích, không bị tổn
hại. Nếu không, do hướng theo [sự
xoay lại nghe nơi tánh Nghe], tâm bị
chia chẻ bởi thói phân biệt pháp môn
cao – thấp thì vô lượng vô biên lợi ích
chân thật sẽ bị đoạn hết bởi thói “biết
nhiều, bàn lắm” ấy.
Tam Biên
Pháp Niệm Phật Lý cực cao
sâu, Sự thật bình thường, muốn cầu
tâm tương ứng với Phật thì điều thứ
nhất là phải chí thành khẩn thiết, điều
thứ hai là [lắng] nghe. Quay trở lại
nghe nơi tiếng niệm Phật, cùng giữ
được lòng thành và lắng nghe thì sẽ tự
trừ được hôn mê tán loạn!
Tục Biên
Trong kinh Lăng Nghiêm,
Đại Thế Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam
Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Khi niệm
Phật trong tâm (ý căn) phải niệm cho
rõ ràng, rành rẽ, nơi miệng (thiệt căn)
phải niệm cho rõ ràng, rành rẽ, nơi tai
(nhĩ căn) phải nghe cho rõ ràng, rành
rẽ. Ý, thiệt, nhĩ ba căn mỗi mỗi đều
nhiếp thủ Phật hiệu thì mắt cũng
chẳng ngó Đông, dòm Tây, mũi cũng
chẳng ngửi những thứ khí vị khác,
thân cũng chẳng lười trễ, biếng nhác,
đó gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. Nhiếp
trọn sáu căn để niệm tuy chẳng thể
hoàn toàn không có vọng niệm,
nhưng so với kẻ chẳng nhiếp [sáu căn
để niệm] thì trong tâm thanh tịnh hơn
nhiều lắm, vì thế gọi là “tịnh niệm”.
Nếu thường giữ được tịnh niệm cho
liên tục chẳng bị gián đoạn, tâm sẽ tự
được quy về một chỗ. Ở mức cạn là
đắc nhất tâm, mức sâu là đắc tam-
muội. Tam Ma Địa cũng là tên gọi
khác của Tam Muội, ở đây (Trung
Hoa) dịch là Chánh Định, hay còn
dịch là Chánh Thọ. Chánh Định nghĩa
là tâm an trụ nơi Phật hiệu, chẳng còn
rong ruổi theo bên ngoài nữa. Chánh
Thọ ngụ ý những gì được nạp thọ
(thâu nhận) trong tâm chỉ là cảnh
duyên công đức của Phật hiệu, hết
thảy cảnh duyên đều chẳng thể được!
Có thể thật sự nhiếp cả sáu căn để
niệm, chắc chắn nghiệp chướng tiêu
trừ, thiện căn tăng trưởng. Chẳng cần
phải quán tâm mà tâm tự thanh tịnh,
sáng tỏ, sao lại đến nỗi mắc bệnh tâm
hỏa bốc lên nữa ư? Do ông là phàm
phu nghiệp lực cực nặng, lầm lạc
dùng pháp quán tâm nên mới đến nỗi
như thế. Pháp quán tâm chính là pháp
tu Quán bên Giáo, chẳng thích hợp
lắm với người niệm Phật! Nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mới là vô
thượng diệu pháp thích hợp khắp hết
thảy căn cơ thượng, trung, hạ, cả
phàm lẫn thánh.
Nên biết “nhiếp trọn” chú trọng tại
Nghe. Dẫu niệm thầm trong tâm cũng
vẫn phải nghe, bởi lẽ trong tâm khởi
niệm liền có tướng của tiếng. Tai
chính mình nghe tiếng trong tâm của
chính mình, vẫn rành rẽ rõ ràng. Nếu
có thể nghe được từng câu, từng chữ
rõ ràng thì sáu căn đều quy về một, so
với tu những pháp Quán khác là ổn
thỏa, thích đáng nhất, ít tốn sức nhất,
khế lý, khế cơ nhất.
TRỪ KHỬ TƯ DỤC
(Trích Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Chánh Biên – Tam Biên – Tục Biên)
Tam Biên Đã quy y Phật pháp, ắt phải
tận lực thực hiện tám đức “hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” và sáu
sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh
tâm, tu thân, tề gia” để mong đất nước
bình trị, thiên hạ thái bình. Cổ nhân
nói: “Thiên hạ chẳng yên, thất phu có
trách nhiệm”. Trách nhiệm ấy nằm
nơi đâu? Nằm ở chỗ “vật [dục] chẳng
bị trừ khử”. Nếu chịu trừ khử, ắt sẽ trí
tri, ý thành, tâm chánh, thân tu (một
người được như thế thì cũng đã có lợi
ích lớn lao. Ai nấy đều như thế sẽ thái
bình). “Vật” (物 ) là gì? Chính là
những tư dục trong tâm. “Cách” (格)
là “cách trừ” (trừ khử), loại bỏ. Trong
tâm con người không có tư dục thì tri
kiến tự chánh. Ví như kẻ yêu vợ, yêu
con, do trong tâm tình thương yêu lấp
chặt, trọn chẳng thấy được những
điều xấu của vợ con. Nếu không có
tình yêu sẽ thấy ngay vợ con đúng
hay sai như gương soi bóng, một tí ti
cũng chẳng lầm lẫn.
Chớ nên hiểu theo cách họ Châu
chú giải: “Thúc đẩy tri thức của ta
đến cùng cực là trí tri, thấu hiểu cùng
tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ là
cách vật”. Nếu nói như thế thì ngay cả
thánh nhân cũng chẳng làm được!
Chuyện chánh tâm thành ý dẫu là thất
phu, thất phụ không biết một chữ nào,
chỉ cần không có lòng ham muốn
thiên vị, riêng tư đều có thể làm được!
Tám chuyện “cách, trí, thành, chánh,
tu, tề, trị, bình” nếu luận trên mặt gốc
chỉ là một chuyện “cách vật” (格物:
Trừ khử vật dục). Vật dục đã được trừ
khử rồi, sự thấy biết sẽ đạt đến tột
cùng (trí tri: 致知 ), ý thành, tâm
chánh, thân tu. Họ Châu biến cội gốc
cực thân thiết, cực đơn giản, dễ dàng
thành cành nhánh cực xa xôi, cực lợt
lạt, cực khó thể cùng tận, chôn vùi
gốc đạo trị thiên hạ của thánh nhân,
đến nỗi ‘kẻ hậu học’ học theo thánh
nhân mà chẳng hiểu được pháp tắc để
thực hiện một cách thân thiết nhất,
nên hoàn toàn chú trọng chuyện bên
ngoài chứ không tự phản tỉnh bề trong.
Đã thế, lại còn đả phá, bài xích sanh
tử, luân hồi, nhân quả, báo ứng, cho
là không có, đến nỗi hoại loạn Ngũ
Luân {Năm mối quan hệ đạo đức
giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn}, Bát Đức {hiếu, đễ, trung,
tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ}, phá xập phên
giậu đạo đức. Tội ác khiến cho hết
thảy sanh linh lầm than đều phát sanh
bởi đây, chẳng đáng buồn ư? Bệnh di
truyền ấy rất lớn, rất độc, nếu chẳng
phải là bậc đại y vương Đại Giác Thế
Tôn sẽ chẳng thể trị được!
Tam Biên
Gần đây tôi đã soạn lời giải
thích xác đáng về “cách vật trí tri”,
nay trình bày với ông. Giải rằng:
“Cách trừ huyễn vọng tư dục vật, trí
hiển trung dung bỉnh di tri” (Trừ khử
vật huyễn vọng tư dục sẽ đạt đến sự
hiểu biết rõ ràng đạo Trung Dung,
vâng giữ luân thường). Chữ “Vật” (物)
ở đây chính là những tư dục chẳng
hợp với lẽ trời tình người trong tâm.
Hễ có tư dục thì sở tri sở kiến đều
lệch lạc chẳng chánh đáng. Nếu trừ
khử được những tư dục huyễn vọng
không thật ấy thì [sở tri sở kiến] sẽ
chẳng lệch, chẳng khác, tức là chánh
tri sẵn có trong bản tâm sẽ tự hiển
hiện, nhất cử nhất động đều hợp tình
hợp lý, trọn chẳng lệch lạc, tà vạy.
Đấy chính là đại pháp để tu dưỡng
chính mình, trị tâm do thánh nhân lập
ra cho thiên hạ trong đời sau. Tu – tề
– trị – bình {Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ} ở tại đấy, mà siêu
phàm nhập thánh cũng bởi đấy! Dụng
công ở nơi đấy sẽ đỡ tốn sức nhất, tùy
theo công phu sâu hay cạn của mỗi
người mà lợi ích đạt được là thành
hiền, thành thánh, thậm chí thành
Phật đều do đây mà được, huống là
những sự thấp kém hơn ư?
Tiếc cho những nhà Nho đời sau
không suy xét, cứ hiểu “vật” là “sự
vật”, hiểu “tri” là “tri thức”, tức là
xem cội gốc của mọi cội gốc như
cành nhánh của mọi cành nhánh, rồi
lại tưởng cành nhánh của mọi cành
nhánh là cội gốc của mọi cội gốc.
Chẳng những không hiểu được ý
thánh nhân, mà còn làm rối loạn văn
của thánh nhân nữa! Vì sao nói thế?
Do muốn ý được chân thành, trước
hết phải hiểu thấu suốt, [đạt đến] mức
hiểu thấu suốt là nhờ “cách vật” (trừ
khử vật dục). Điều này hết sức đỡ tốn
công, hết sức giản tiện, hễ nghĩ tới
liền hiểu được cách; [thế mà lại] bỏ đi
không nhắc tới, cứ dạy người ta thúc
đẩy tri thức đến cùng cực, thấu hiểu
cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên
hạ để mong thành ý chánh tâm thì
khắp cả cõi đời cũng khó kiếm được
người nào! Do Tống Nho hiểu lầm
“vật” là “vật bên ngoài” nên sau này
nhà Nho chỉ nói “chánh, thành” chứ
chẳng nhắc đến “cách, trí”. Lý này
cực sáng tỏ, rõ ràng, nhưng những kẻ
tự xưng truyền thừa tâm pháp của
thánh nhân lại hiểu sai đến nỗi đạo
“sửa mình, trị tâm” do thánh nhân dạy
cho con người bị lu mờ, úng tắc,
không thể nào tỏa rạng được, chẳng
đáng buồn ư?
Nếu chuyên chú trọng tự sửa đổi,
đối trị chính mình thì một pháp Cách
Vật (trừ khử vật dục) cũng đủ dùng;
vì hễ khử được tư dục thì mọi điều ác
đều trừ, mọi điều thiện đều sanh, nên
nói là “đủ dùng”. Nếu muốn cho
người trong khắp cõi đời đều bỏ được
tư dục để hiển lộ chánh trí mà không
đề xướng nhân quả báo ứng sẽ không
thể được! Bởi lẽ, hễ ai muốn tự lợi sẽ
chẳng rảnh đâu để xem xét coi [những
gì mình làm] có lợi hay gây hại cho
người khác. Nếu biết thiện ác nhân
quả như bóng theo hình, như tiếng
vang ứng theo âm thanh; âm thanh
hòa hoãn thì tiếng vang dễ nghe, hình
ngay ngắn thì bóng đoan chánh! Hiểu
được điều này, chẳng mong [người
khác] cách vật mà [họ sẽ] tự chịu
cách vật.
Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu
Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích
thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích
bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”
(Nhà tích thiện điều vui có thừa, nhà
tích điều bất thiện, tai ương có thừa).
“Tích thiện, tích bất thiện” là nhân;
“dư khánh, dư ương” là quả. Cơ Tử
giảng giải thiên sách Hồng Phạm,
cuối cùng mới nói: “Hưởng dụng ngũ
phước, oai dụng lục cực” (Thuận theo
thì được năm thứ phước, trái nghịch
sẽ bị sáu điều xấu) {Ngũ Phước là
“thọ, phú, khang ninh, du hiếu đức,
khảo chung mạng” (sống lâu, giàu có,
bình yên khỏe mạnh, ham chuộng đức
hạnh, chết tốt lành). Lục Cực là
“hung, đoản chiết, tật, ưu, bần, ác
nhược” (xui xẻo; chết yểu; bệnh tật;
lo lắng; nghèo cùng; xấu xí, yếu
đuối)}. Câu này quả thật nói rõ cái
nhân trong đời trước, cái quả trong
đời này. “Hưởng” (嚮) chính là thuận,
“dụng” (用) là lấy, là được. Chữ “oai”
(威 ) nên hiểu nghĩa là trái nghịch.
“Cực” (極) là cùng quẫn, tai ách. [Vì
vậy, câu “Hưởng dụng ngũ phước, oai
dụng lục cực” nên hiểu là] do những
hành vi trong đời trước trái nghịch
chánh đạo, nên đến nỗi đời này hứng
chịu những quả cùng quẫn, tai ách ấy.
Những nhà Nho đời sau chẳng xét
đến văn lý, một mực quy [Lục Cực]
về sự cai trị của nhà vua, thành ra trái
nghịch thiên lý, vu báng sự cai trị của
nhà vua. Trẻ nhỏ sanh trong nhà phú
quý liền hưởng phước, sanh vào nhà
nghèo hèn liền chịu khổ, há có phải là
do sự cai trị của nhà vua khiến chúng
nó phải sanh [vào những chỗ khác
nhau] như vậy ư? Điều thứ tư trong
Ngũ Phước là Du Hảo Đức (thường
chuộng đức), chính là thói quen tu
đạo tu đức trong đời trước. Điều thứ
nhất là Thọ, điều thứ hai là Phú, điều
thứ ba là Khang Ninh (khỏe mạnh,
bình yên), điều thứ năm Khảo Mạng
Chung (chết tốt lành) chính là quả
báo được cảm vời do đời trước tu đạo
tu đức. Điều thứ nhất trong Lục Cực
là Hung Đoản Chiết (xui xẻo, chết
yểu), điều thứ hai là Tật (bệnh tật),
điều thứ ba là Ưu (lo lắng), điều thứ
tư là Bần (nghèo), điều thứ năm là Ác
(diện mạo xấu xí gọi là Ác), điều thứ
sáu là Nhược (thân yếu đuối gọi là
Nhược) chính là quả báo do đời trước
làm nhiều chuyện chẳng hợp đạo
nghĩa! Há có nên quy hết vào sự cai
trị của nhà vua ư?
Tam Biên Khổng Tử coi “cách vật trí
tri” là cái gốc của thành ý chánh tâm.
Trình – Châu hiểu lầm chữ Vật là sự
vật trong thiên hạ, chẳng biết chữ Vật
ấy vốn chỉ cho những tư dục chẳng
hợp lẽ trong lòng người, chứ không
phải là vật bên ngoài! Do tâm có
những tư dục chẳng hợp lẽ nên tri
kiến chẳng chánh, đúng đúng, sai sai
đều chẳng thích đáng! Như gã yêu vợ
yêu con, dẫu vợ con hắn chẳng tốt,
hắn vẫn luôn cảm thấy là tốt đẹp. Do
chánh trí bị tư dục chướng lấp nên trở
thành lệch lạc, tà vạy. Nếu trừ bỏ
được lòng yêu thương [mù quáng] ấy
thì những điều không tốt đẹp của vợ
con sẽ tự nhiên biết rành thấy rõ.
“Cách vật trí tri” (trừ khử vật dục
trong tâm để sự thấy biết được thông
suốt đến tột cùng) thì mới có thể
thành ý chánh tâm, tuy là kẻ chẳng
biết một chữ nào vẫn có thể làm được.
Nếu hiểu như Trình – Châu, “cách vật”
là thúc đẩy tri thức của ta đến [mức
thấu hiểu] tột cùng trọn hết cái lý của
sự vật trong thiên hạ thì “trí tri” trở
thành cái gốc của “cách vật”; như vậy
thì trong cõi đời hiếm được mấy ai có
thể “cách vật”! Đừng nói kẻ bình
thường chẳng làm được, dẫu là bậc
thánh nhân cũng không thể làm được!
Đã không do “cách vật” thì thành ý
chánh tâm do đâu mà có? Vì thế,
Trình – Châu bình thường chỉ nói
“chánh tâm, thành ý”, chẳng nói tới
“trí tri cách vật”, tức là coi cội gốc là
cành nhánh, lấy cành nhánh làm cội
gốc, đảo lộn cách thực hiện pháp “trị
tâm, trị thân, trị gia, trị quốc, bình
thiên hạ” của thánh nhân, đến nỗi thế
giới loạn lạc, không có cách nào giải
quyết! Nếu kẻ vì đất nước tâm chẳng
có tư dục không hợp lẽ thì cái gốc tàn
sát lẫn nhau đã không có; từ đâu mà
còn có tàn sát chẳng có lúc nào ngơi
nữa đây? Quang nói lời này, chẳng
biết ông có cho là đúng hay không?
Nếu ông vẫn chẳng thể hiểu rõ, xin
hãy chí thành niệm Phật, sau này ắt sẽ
chẳng thấy lời Quang là sai lầm.
Tam Biên
Người học Phật cần phải
chăm chú bỏ cái thấy ta – người, cần
phải tự lập, lập người, tự lợi, lợi
người. Có vậy mới có thể nói là “nhập
đạo”. Tức là như sách Ðại Học chép:
“Cổ chi dục minh Minh Đức ư thiên
hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ
quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia
giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân
giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục chánh kỳ
tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ
ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật”
(Người xưa muốn làm sáng tỏ Minh
Đức trong thiên hạ thì trước hết phải
giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất
nước thì trước hết phải giữ yên gia
đình. Muốn giữ yên gia đình thì trước
hết phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa
đổi thân mình thì trước hết cái tâm
phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ta
ngay thẳng thì trước hết phải giữ cho
cái ý chân thành. Muốn cho cái ý
chân thành thì trước hết phải đạt đến
chỗ hiểu biết. Ð ạt đến chỗ hiểu biết
nằm ở chỗ trừ khử vật dục).
Chữ “vật” được nói ở đây chỉ lòng
tư dục chẳng phù hợp với thiên lý và
tình người. Hễ đã có tư dục ắt tri kiến
sẽ lệch lạc, tà vạy, chẳng còn ngay
thẳng nữa. Chẳng hạn như kẻ đã yêu
vợ, thương con thì dù vợ con có hư
đốn, kẻ đó cũng chẳng thấy là hư
hỏng. Do tư dục yêu thương mê mệt
ngăn lấp lương tri sẵn có, nên trở
thành sự thấy biết xấu ác, lệch lạc, tà
vạy, bất chánh. Nếu có thể trừ khử
sạch tâm niệm yêu thương mù quáng
thì những chuyện vợ con đúng hay sai
sẽ thấy rõ ngay lập tức.
Vì vậy, biết rằng: Phải thống thiết
giảng [rõ ràng khái niệm] “cách vật”
(trừ khử vật dục), chớ có hiểu lầm
“cách vật” nghĩa là thông suốt cùng
tột lý của mọi sự vật trong thiên hạ.
Trừ khử món đồ tư dục trong tự tâm
mới chính là căn bản của việc “làm
sáng tỏ Minh Ð ức”. Thông đạt tận
cùng lý tánh của sự vật trong cõi đời
chỉ là chuyện cành nhánh nhất trong
các chuyện cành nhánh. Lấy chuyện
cành nhánh phụ thuộc nhất làm gốc
thì thiên hạ ắt phải loạn lạc hết thuốc
chữa được! Phật pháp trừ khử tham –
sân – si chính là “cách vật”. Tu Giới –
Ð ịnh – Huệ chính là “trí tri”. Món vật
Tham – Sân – Si chất chứa trong tâm
thì cũng như đeo cặp kính màu để
nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được
màu thật của chúng. Họa hại của vật
[dục] chẳng đáng sợ sao?